Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 15-C Bài 51-100 Người Samaria nhân hậu

Thứ bảy - 13/07/2019 03:11
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 15-C Bài 51-100 Người Samaria nhân hậu
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 15-C Bài 51-100 Người Samaria nhân hậu
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 15-C Bài 51-100 Người Samaria nhân hậu
---------------------------------------
Phúc Âm: Lc 10, 25-37: "Ai là anh em của tôi?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp:
"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy". - Ðó là lời Chúa.
-------------------------------------------

TN 15-C51. THIÊN HẠ VÔ TÂM, NỖI ĐOẠN TRƯỜNG.. 2
TN 15-C52. CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN.. 5
TN 15-C53. BÁC ÁI BẰNG HÀNH ĐỘNG.. 7
TN 15-C54. ĐÓN NHẬN LỜI HẰNG SỐNG.. 9
TN 15-C55. Ai là người Samaria tốt nhất?. 10
TN 15-C56. Người Samaritanô nhân hậu. 12
TN 15-C57. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin. 15
TN 15-C58. Giới luật yêu thương. 17
TN 15-C59. Chú giải của Fiches Dominicales. 21
TN 15-C60. Ai là người thân cận của tôi?. 25
TN 15-C61. YÊU THƯƠNG LÀ QUAN TÂM... 31
TN 15-C62. SỎI ĐÁ VẪN CẦN CÓ NHAU.. 32
TN 15-C63. AI LÀ ANH EM?. 38
TN 15-C64. CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN - NĂM C 2001. 39
TN 15-C65. Yêu thương tha nhân để biến họ thành gần gũi 41
TN 15-C66. TÌNH YÊU KHÔNG BIÊN GIỚI 45
TN 15-C67. AI LÀ ANH EM TÔI ?. 47
TN 15-C68. Chúa Nhật 15 quanh năm, C.. 50
TN 15-C69.  Chúa Nhật 15 Quanh Năm.. 54
TN 15-C70. CHÚA NHẬT 15 QUANH NĂM... 56
TN 15-C71. CHỦ NHẬT XV THƯỜNG NIÊN.. 60
TN 15-C72. Chúa Nhật XV Thường Niên C.. 63
TN 15-C73. ANH EM CỦA MỌI NGƯỜI 67
TN 15-C74. BÊN NGOÀI VÀ BÊN TRONG.. 68
TN 15-C75. LÀM GÌ ĐỂ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI. 70
TN 15-C76. CHÚA NHẬT 15 TN C.. 72
TN 15-C77. CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN.. 74
TN 15-C78. MẢNH ĐẤT TÂM HỒN.. 76
TN 15-C79. SINH LỢI 77
TN 15-C80.  SINH HOA KẾT QUẢ.. 79
TN 15-C81. MẢNH ĐẤT TỐT CHO HẠT GIỐNG LỜI CHÚA.. 81
TN 15-C82. LẮNG NGHE VÀ SỐNG LỜI CHÚA.. 83
TN 15-C83. LÃI BAO NHIÊU HẠT. 85
TN 15-C84. BÀI HỌC VỀ LÒNG THƯƠNG NGƯỜI 86
TN 15-C85. AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN ?. 92
TN 15-C86. YÊU THƯƠNG KHÔNG BIÊN GIỚI 94
TN 15-C87. AI LÀ ANH EM CỦA TÔI 96
TN 15-C88. Chúa Nhật 15 Thường niên, C.. 98
TN 15-C89. Chúa nhẬt XV thưỜng niên năm C.. 99
TN 15-C90: ĐỪNG SỢ! 101
TN 15-C91. Thời điểm CÔ NÀNG POCAHONTAS. 104
TN 15-C92: Tội thờ ơ. 108
TN 15-C93: Hãy yêu thương thì sẽ được sống. 109
TN 15-C94: Phục vụ nâng cao giá trị con người 110
TN 15-C95: Ông hoàng hạnh phúc. 112
TN 15-C96: Chú giải của Noel Quesson. 115
TN 15-C97: TÔI PHẢI LÀM GÌ ĐỂ ĐƯỢC SỐNG ?. 119
TN 15-C98: LUẬT CỦA NƯỚC THIÊN CHÚA.. 124
TN 15-C99: HÃY VỀ VÀ LÀM NHƯ VẬY.. 127
TN 15-C100: KHI CON TIM LÊN TIẾNG.. 130

------------------------------------

 

TN 15-C51. THIÊN HẠ VÔ TÂM, NỖI ĐOẠN TRƯỜNG


 ( Lc 10, 25 – 37 )

 

Ta có gì đâu ngoài trái tim, Đem phơi hệ lụy giữa thanh thiên, Ngờ đâu thiên hạ vô tâm quá: TN 15-C51


Ta có gì đâu ngoài trái tim
Đem phơi hệ lụy giữa thanh thiên
Ngờ đâu thiên hạ vô tâm quá
Mua vui trên những nỗi đoạn trường
( thơ Nguyễn Tất Nhiên )

Thiên hạ vô tâm quá, có ngờ đâu. Đâu ngờ ta vẫn còn trái tim. Có tim, nhưng thiên hạ vẫn cứ ngờ. Vẫn làm ngơ cảnh đoạn trường, giữa thanh thiên bạch nhật. Đoạn trường thanh thiên như truyện Chúa kể dụ ngôn, buổi hôm nay. Buổi vui hôm nay, có truyện kể về người Sa-ma-ri không hề vô tâm trước nỗi đoạn trường của người dưng, bên vệ đường. Rất thương tâm.

          Có lần, cựu thủ tướng nước Anh, bà Margaret Thatcher đã méo mó nghề chính trị khi bình luận chuyện người Sa-ma-ri tốt bụng, theo nhãn giới rất chính trị gia. Bà cho rằng: sở dĩ người Sa-ma-ri làm việc phước đức vì ông vốn người lao động cật lực, năng dành dụm tiền của nên mới có khả năng giúp đỡ người khác, dù ở vệ đường. Và, bà còn bảo: trọng tâm của dụ ngôn Chúa kể là bằng chứng để bà khuyến khích người thất nghiệp ở Anh nên làm việc hăng say cật lực ngõ hầu xã hội mới an sinh.

          Kể ra thì, vị nữ lưu này chỉ nói đúng có một phần. Đúng theo tầm nhìn méo mó của các chính trị gia chuyên nói dối và bẻ quặt sự thật – dù là sự thật của Phúc Âm – với mục đích đạt cho được điều mà cá nhân hoặc đảng của mình muốn. Thực tế, hoàn toàn khác hẳn. Nơi Tin Mừng Thánh Lu-ca, thì người Sa-ma-ri đại diện cho nhóm người ngoài Đạo và ngoài đời, những người hông có thái độ vênh vang, tự hào cho rằng mình chỉ biết có luật lệ, là luật lệ.

          Về việc tốt lành người Sa-ma-ri ngoài Đạo làm, Thánh Tô-ma A-qui-nô giải thích: hành động bác ái chính là mẹ hiền của các nhân đức. Đức bác ái sẽ giải quyết mọi ước nguyện để giúp ta nhìn rõ những điều ta thực sự muốn làm. Người có lòng từ tâm bác ái, thấy được nhu cầu phải yêu thương mọi người. Nhu cầu ra tay giúp đỡ những ai cần mình giúp.

          Truyện kể dụ ngôn hôm nay, cho thấy có bốn loại người trong cuộc dính dự. Trước nhất là vị tư tế chuyên hành thiện, rồi đến đấng bậc Lê-vi tử tế vào bậc thày, người Do Thái bị nạn, và cuối cùng là người Sa-ma-ri, ngoài Đạo đang đi trên đường. Có lẽ ông ta chỉ là nhà buôn đi ngang, thấy chuyện bất bình, nán lại mà giúp đỡ, thế thôi.

Kể chuyện về ông, người nghe tuyệt nhiên không biết gì về tín ngưỡng niềm tin của ông. Ở đây nữa, lý lịch, tôn giáo, chính kiến lập trường hay ý thức hệ, vẫn không là điều hệ trọng. Chuyện hệ trọng ở đời, thật ra luôn là vấn nạn: người người ở thế gian có cón tình người nữa hay không, mà thôi. Và, chuyện quan trọng khác, cũng nên hỏi han thắc mắc, là: bạn này người kia, hay chính ta hôm nay, có còn lòng tốt, lòng Đạo nữa hay không.

Đặc điểm của lòng tốt hay lòng Đạo chính là lòng xót thương công chính khả dĩ giúp ta nhìn thấy mọi chuyện theo chiều hướng yêu thương, tử tế. Mọi chuyện ở đây, là: lề luật dân sự cũng như tôn giáo đều là chuyện cần, nhưng không thể ngăn chặn công chính lẽ phải, để ta có thể xử xự cho tử tế tốt đẹp với người khác. Chí ít, là người bị nạn cần được giúp đỡ.         

Sở dĩ người Sa-ma-ri ngoài Đạo nhưng tốt bụng, không phải vì ông làm việc cật lực mới có của dư của để, hầu mới có khả năng thực hiện được những điều trái mắt ông nhìn thấy, ở dọc đường. Nhưng ông có lòng tốt là vì ông có mắt để thấy và nhìn ra những việc nên làm. Tức, ông có cái nhìn đúng nghĩa của việc nhìn và thấy.

Lòng tốt bác ái theo nhà Đạo, không phải là khoảnh khắc thấy vui trong lòng bì mình tốt bụng. Nhưng là, những kinh nghiệm mình có được, tạo được vì đã có đổi thay trong cuộc sống. Hiểu theo nghĩa này, người Sa-ma-ri tốt bụng sẽ là gương sáng về lòng bác ái, rất tốt bụng. Điều này hoàn toàn trái nghịch với lối diễn nghĩa của vị nữ lưu có thời làm thủ tướng nước Anh.    

Truyền thống trong Đạo vẫn dạy chúng ta, là: lòng tốt bụng xót thương và tạo chính nghĩa vẫn luôn quyện vào nhau. Thánh Tô-ma A-qui-nô còn nói: lòng tốt xót thươg giúp ta biết nghe, biết nhìn. Còn sự công chính phải đạo kêu mời chúng ta làm việc tốt.

Người Sa-ma-ri thấy được những gì ông có thể làm và phải làm nơi hiện trường hình sự. Và, ông đã tạm thời giúp đỡ người bị nạn và đem nạn nhân theo mình đến quán trọ để săn sóc. Ông không chỉ nhìn và thấy sự việc xảy đến mà thôi, nhưng còn biết phán đoán và hành động một cách thức thời.

Người Sa-ma-ri có thể đã không học luật như thầy Lê-vi, Có thể ông cũng không là người hành Đạo như vị Tư Tế, rất hiền lành. Nhưng ông đã phá vỡ được các chấm phết vô tri, vô mộ của luật lệ trong Đạo- ngoài đời, nơi sách vở. Nhưng ông vẫn có lòng xót thương, bác ái bằng hành động. Đặc điểm của lòng thương xót bác ái và sự công chính giúp chúng ta nhìn thấy mọi sự, xấu cũng như tốt, một cách rõ ràng. Thấy được cả những hàng rào cản trở không giúp ta đến với sự công chính của Chúa. Bởi, lề luật không quan trọng. Nhưng, lòng thương xót bác ái mới thế.

Cuối cùng ra, có thể nói: toàn bộ mọi chương sách Tin Mừng theo thánh Lu-ca đều nhắm về việc: chuyển đổi người đọc trong nhà Đạo về việc hệ trọng cần thay đổi quan điểm lập trường, từ niềm tin tưởng cá nhân khi nghĩ rằng ‘chỉ tôi với Chúa là hợp tác chống lại thế giới trần gian’ đổi thành con người mới không chỉ ngồi suy nghĩ nhưng đã có hành động thực tế đầy lòng xót thương. Rất công chính.

Bằng dụ ngôn hôm nay, Đức Ki-tô còn đề nghị với mọi người – chí ít, là người nhà Đạo – bài học thực tế về lòng xót thương, công chính. Thương những người cả trong lẫn bên ngoài nhà Đạo, đang khốn khó. Xót những người đang có nhu cầu. Thực tế giúp đỡ hết mọi người, dù cho điều đó không thấy đề nghị trong các sách luật.

Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt bụng, phải làm sống lại lòng bác ái xót thương, và sự công chính vẫn có nơi người nhà Đạo. Dụ ngôn còn thách thức ta biết nhìn ra những ai đang cần ta cưu mang, đùm bọc trên đường ta đi thực thi rao giảng Tin Mừng, của Chúa. 

          Và thêm một lần nữa, dụ ngôn hôm nay còn giúp ta nhớ rằng: Đức Ki-tô không dạy bài học về tôngiáo cho thiểu số ưu việt được chọn lọc.Nhưng Ngài dạy hết mọi người biết cách sống đúng với tư cách con người. Nói cách khác, Ngài có kêu mời ta nhưng không để ta sống theo mẫu siêu nhân, phản tự nhiên. Nhưng, sống đích thực và trung thực với xác tín sâu xa về bản chất của chính mình. Bản chất dân con nhà Đạo.

          Trong quyết tâm làm được như Lời Ngài dạy, ta cứ hiên ngang tiến về phía trước, miệng nghêu ngao hát lên bài ca của người sĩ trẻ ngày trước, rắng:

“Đừng ngồi yên nghe tiếng khóc quanh mình,
Đừng ngồi yên trên nhung gấm vô tình, hỡi bạn thân,
Đừng vùi lương tri dưới gót chân,
Đừng nhìn tha nhân đang kêu gào trong ngục tù xin công bằng, đòi cơm áo...
Đừng sợ bạn ơi, hãy đứng thẳng lên…
cuộc đời đang dang tay đón ta bằng yêu thương ta đi xóa tan… mọi căm hờn”
( Lê Hựu Hà – Bài Ca Tuổi Trẻ )

          Vâng, bằng tình thương xót, ta không những xóa tan được mọi căm hờn. Nhưng còn làm cho mọi người không còn “mua vui trên những nõi đoạn trường”  ở trần gian. Trần gian hôm nay sẽ còn nhiều Sa-ma-ri, rất tốt bụng. Và, không bao giờ vô tâm. 

Lm. PHAN ĐỖ THỤC LINH, bản dịch của Mai Tá

------------------------------------

 

TN 15-C52. CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN


Lc. 10, 25-37

Anh chị em thân mến.

 

Người Việt Nam thường nêu lên câu:"ách giữa đàng mang vào cổ" để tránh né những việc mà họ: TN 15-C52


Người Việt Nam thường nêu lên câu:"ách giữa đàng mang vào cổ" để tránh né những việc mà họ cho là không mang lại ích lợi gì cho mình mà nhiều khi con mang đến những phiền phức không đâu.

Vừa qua trên một rrang báo, tôi đọc thấy một câu chuyện thương tâm: một cô gái trẻ bị bảy chàng thanh niên hảm hiếp. Vì quá khiếp đảm, thần kinh bị suy sụp nặng. Tôi tự hỏi vì sao có tình trạng như thế. Cô ta đi lạc đường, tìm cách hỏi thăm đường về nhà, nhưng mọi người tưởng cô là người không tốt nên tìm cách xa lánh, không dám tiếp xúc. Trời tối dần, việc gì đến rồi cũng phải đến. Nếu những người khách qua đường quan tâm hơn một chút thì không việc gì xảy đến. Nếu họ dám để ra một chút ít thời giờ để lắng nghe, nếu họ chịu để cho con tim của mình biết run động một chút, để đáp ứng nhu cầu của người khác. Nếu họ biết quên mình một chút mà hướng đến người khác, thì mọi sự sẽ trở nên tốt hơn rất nhiều.

Trong bài phúc âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho người thông luật một thí dụ điển hình để thực hành luật yêu thương. Ông ta thuộc lòng hơn 600 điều luật trong sách, ông ta tuân giữ thật chu đáo. Nhưng chỉ giữ trong lý thuyết, còn thực hành cụ thể thì: "ai là người thân cận của tôi". Ngài cho một câu chuyện và bảo: "ngươi hãy đi và làm như thế". Người thân cận để thực hành yêu thương là tất cả mọi người, không loại trừ ai, khi những người đó có nhu cầu cần thiết đến sự giúp đở, lòng thương xót, sự tha thứ. Yêu thương thì không còn chọn lựa, không còn phân biệt đẳng cấp sang hèn. Đó mới là điều mà Chúa Giêsu bảo: "Ngươi hãy đi và làm như thế".

Mỗi người trong chúng ta, thuộc kinh thánh rất nhiều, thuộc giáo lý cũng rất nhiều, còn kinh đọc thì không biết bao nhiêu mà kể cho cùng. Nhưng để thực hành những gì mình biết, những gì mình gọi là đã giữ từ nhỏ thì thật là rắc rối. Chúng ta cũng không biết ai là người thân cận để thi hành lề luật. Chúng ta thuộc lòng mười điều răn, rồi còn tóm lại hai điều: kính mến Chúa và thương yêu người.

Nhưng thương yêu ai và bằng cách nào thì không bao giờ dám nghĩ đến. Vì chúng ta giữ đạo làm sao không thiệt hại bản thân, không mất mát những gì mình có, không đụng đến quyền lợi cá nhân, chúng ta cũng sợ ách giữa đàng mang vào cổ, nên không thể nào nhìn thấy được nhu cầu của người thân cận để thi hành luật yêu thương được. Nhiều lần chúng ta cũng hỏi như người thông luật trong bài phúc âm: "ai là người thân cận của tôi"? Chúa Giêsu không chỉ cho chúng một câu chuyện, nhưng rật nhiều và rất nhiều, Ngài cũng bảo chúng ta nhiều lần: "hãy đi và làm như thế".

Mỗi người trong chúng ta để ra một phút suy tư, nhìn lại những gì mình đã làm gọi là giữ đạo, để xem mình đã sống đạo như thế nào?

Biết bao lần, chúng ta từ chối những lời van xin thống thiết của người khác khi họ cần đến chúng ta. Rất nhiều lần chúng ta né tránh những việc mà đáng lẽ ra mình phải làm để cho người khác vơi đi phần nào khó khăn. Cũng rất nhiều lần chúng ta từ chối vì nhiều lý do: không phải việc của tôi, hay tôi không có thời gian, không có khả năng. Hay một câu nói hết sức không chút tình người "đừng dại mà vướng vào". Có phải đó là những lúc mà chúng ta sống đạo đó sao? Vậy thì lời Chúa Giêsu bảo chúng ta "hãy đi và làm như thế", chúng ta thực hành như thế nào? Không lẽ lời đó chỉ có giá trị cách đây 2000 còn bây giờ thì không giá trị gì cho chúng ta sao? Như vậy thì vô ích quá.

Nếu chúng ta biết nói một lời dịu dàng khi cần thiết, biết nở một nụ cười an ủi, biết mở rộng vòng tay để đón nhận ai cần đến, biết để cho con tim run động trước những cảnh thương tâm và sẵn sàng hành động, thì lúc đó, Lời của Chúa Giêsu "hãy đi và làm như thế", đã thực sự được thể hiện cách chu đáo nơi bản thân của chúng ta rồi đó.

Xin Chúa cho mội người biết thực hành yêu thương cách sống động trong cuộc sống đời thường.

------------------------------------

 

TN 15-C53. BÁC ÁI BẰNG HÀNH ĐỘNG


Lc. 10, 25-37

 

Thương người như thể thương thân”, hay “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng: TN 15-C53


1. “Thương người như thể thương thân”, hay “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”: những câu ca dao tục ngữ như thế nói lên sự thông cảm chia sẻ với nhau trong cuộc sống cho dù có thể có những khác biệt. Thế nhưng trong cuộc sống không thiếu những người chỉ biết quan tâm đến mình mà chẳng hề biết giúp đỡ người khác, dù trong lúc đó họ rất cần đến sự giúp đỡ của ta. Đó cũng là thái độ vô tâm của thầy tư tế và thầy trợ tế (Lêvi) đối với người bị nạn như trong dụ ngôn mà Chúa dùng để nói với người thông luật, thái độ này đối nghịch với thái độ đầy nhân ái của người bị xem là ngoại đạo Samaria.

2. Thầy tư tế và trợ tế trên lộ trình của mình đã thấy một nạn nhân bị kẻ cướp đánh nhừ tử, nhưng cả hai đều bỏ qua, như thể không hay biết gì! Các ông tránh qua một bên vì sợ những phiền lụy có thể đến với mình, khi dừng chân lại giúp người bị nạn. Bởi biết đâu kẻ cướp còn đang rình rập gần xa đâu đó? Biết đâu nạn nhân nầy không có một xu dính túi, nếu dừng lại giúp đỡ vừa mất thời giờ, công sức và tiền bạc? Biết đâu khi giúp nạn nhân nầy sau đó còn phải mất giờ làm chứng khi nhà chức trách đến làm việc? Còn nếu nạn nhân nầy đã chết rồi, mà đụng chạm như thế thì bị mắc uế…! Có nhiều lý do, nhưng tự trung lại những bậc thầy nầy chỉ biết luật mến Chúa yêu người trên lý thuyết. Còn trong thực tế, các thầy chẳng quan tâm gì đến nỗi khốn khổ của người khác !

3. Ngược lại người Samaria , bị xem là kẻ ngoại lai, vô đạo lại cư xử rất nhân đạo “thương người như thể thương thân”. Đang trên lộ trình, có thể anh rất bận rộn, nhưng khi thấy người bị nạn giờ đây việc hàng đầu của anh là cứu người. Bất chấp người đó có đồng chủng, đồng đạo với mình hay không, điều này không cần thiết ! Tin Mừng cho thấy anh tự tay chăm sóc nạn nhân, anh cũng không sợ hao tốn sức lực, tiền bạc, ô uế…gì cả. Anh hiểu rằng tình người và mạng người là trên hết. Không biết anh biết luật bác ái đến mức độ nào ? Nhưng anh đã thực thi bác ái. Anh đã bén nhạy cảm thông trước nỗi đau của đồng loại. Anh đã giữ luật nội tâm.

Thầy tư tế và trợ tế xem ra không phạm một tội gì, nhưng lại bỏ qua việc phải làm, đó là giúp đỡ người bị nạn. Còn người Samaria thật đáng khen đã làm một điều khi nhận ra điều mình phải làm.

4. Chúa bảo người thông luật đang đối thoại với Chúa, cũng là bảo mọi người chúng ta cứ “làm như vậy” là sẽ được sống. Chúng ta lưu ý cụm từ “làm như vậy” được lập đi lập lại (x. Lc 10,28; 37), tức là muốn có được sự sống đời đời hãy thực thi, hãy làm việc bác ái đối với người khác chứ không chỉ nói suông. Trong Tin Mừng Matthêu chương 25 nói về việc phán xét chung, tiêu chuẩn hàng đầu được Chúa đưa ra đó là chúng ta có thực thi bác ái đối với tha nhân, hiện thân của Thiên Chúa, nhất là những người đau khổ, thiếu thốn đang cần sự giúp đỡ của ta hay không ? Có thể nói, những việc bác ái như là tấm vé thông hành để ta vào NướcTrời. Hãy biến lòng yêu thương thành những hành động cụ thể, bởi nếu chỉ nói suông hay chỉ có lòng yêu thương mà không thể hiện bằng việc làm thì đâu có lợi ích gì cho người mình yêu thương ! Ta vẫn thường nghe nói:“Từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài”. Vì thế Mẹ Têrêsa Calcutta đề nghị mỗi tối trước khi đi ngủ, ta chỉ cần xét mình nhờ nhìn vào 2 bàn tay: hôm nay tôi đã làm gì cho Đức Giêsu và với Đức Giêsu ?

5. Ngay cả về phương diện tự nhiên, sống trên đời này không ai mà không cần đến sự giúp đỡ người khác, không ai là một hòn đảo, chúng ta vẫn thường nghe nói “sỏi đá cũng cần có nhau”, vật vô tri vô giác mà còn phải nương tựa vào nhau. Hôm nay ta chưa gặp hoạn nạn, nhưng biết đâu một ngày rất gần chúng ta lại cần đến sự giúp đỡ của người khác, cho nên hãy tập tinh thần nhạy bén quan tâm, giúp đỡ người khác. Muốn vậy phải bỏ bớt cái tôi ích kỷ, cái vô tâm của mình.

Mỗi người hãy nhìn lại, là thành viên của gia đình, cộng đoàn, nhóm tông đồ… nhưng chúng ta có thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ nổi niềm đau đớn tinh thần cũng như thể xác của người thân trong gia đình, của cộng đoàn, của nhóm mình hay không ? Hay chúng ta vẫn vô tâm trước những đau khổ của người khác? Hay chúng ta thay vì xoa dịu lại còn gây thêm đau khổ cho người khác?

6. Hành động bác ái còn có tác dụng rất lớn trong việc truyền giáo. Tôi biết được nhiều người trở lại đạo vì họ cảm kích việc bác ái của người Công Giáo. Chẳng hạn như ở họ đạo mà tôi đang phục vụ, có nhiều người Công Giáo sống xa nhà thờ, xen lẫn với bà con lương dân, khi các gia đình Công Giáo hay các gia đình lương dân nầy có tang chế, những người giáo dân trong họ đạo không quản ngại xa xôi, hao tốn đến giúp về tinh thần lẫn vật chất… những việc làm như thế rất đánh động bà con lương dân và sau đó thường có những người xin học đạo. Như thế hành vi bác ái không những chứng tỏ chúng ta là môn đệ thật của Đức Giêsu, mà còn có thể qua đó giúp tha nhân đến với Chúa nữa.

7. Mến Chúa và yêu người không thể tách rời nhau. Thật vậy, yêu thương giúp đỡ người khác mà thiếu lòng yêu mến Chúa thì việc làm đó khó bền vững và thường dẫn tới tự cao tự mãn. Yêu thương giúp đỡ người khác như là dấu chỉ của lòng yêu mến Chúa, như thánh Giacôbê đã từng dạy rằng: đức tin không có việc làm là đức tin chết. Hay như mẹ Têrêsa đã nói: hoa trái của đức tin là bác ái, hoa trái của bác ái là phục vụ, hoa trái của phục vụ là bình an.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết quan tâm giúp đỡ nhau, như là giúp cho chính Chúa. Amen.

------------------------------------

 

TN 15-C54. ĐÓN NHẬN LỜI HẰNG SỐNG


Mt 13, 1 – 23

 

Mỗi ngày từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, ta được nghe nhiều lời nói. Có những lời nói được: TN 15-C54


Mỗi ngày từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, ta được nghe nhiều lời nói. Có những lời nói được phát ra từ những chiếc radio. Có những lời nói được phát từ những máy truyền hình. Cũng vậy, có nhiều lời nói ta nhận từ những người mình gặp gỡ. Thậm chí, có những lời nói được truyền đi bằng những cử chỉ hay tín hiệu… Với những lời nói ấy, nếu như ta chỉ cần cố gắng nhớ hết thôi thì có lẽ không bao lâu ta bộ não của ta sẽ bị quá tải. Do đó, ta sẽ đón nhận và ghi nhớ những lời nói nào thật cần thiết và đem lại lợi ích cho mình. Cách riêng, với người Công giáo ta còn được nghe Lời Chúa dạy. Đó là những Lời Hằng Sống. Dưới ánh sáng đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau nhìn lại xem mình đã đón nhận Lời Hằng Sống đó như thế nào.

Chúa Giêsu tự ví lời của Ngài như hạt giống, còn tâm hồn mỗi người chúng ta là những mảnh đất. Vì thế sẽ có nhiều loại mảnh đất. Hạt giống chỉ sống và phát triển được nơi những mảnh đất tốt. Còn hạt giống sẽ khô héo và chết nơi vệ đường, nơi sỏi đá hay nơi có những bụi gai. Mảnh đất tốt là tâm hồn có thiện chí đón nhận và làm theo những lời dạy quý báu của Người. Cho nên, Người nói: “Ai c s được cho thm”. Đó là những tâm hồn biết lắng nghe và thực hành lời dạy của Chúa. Từ những tâm hồn đó sẽ sinh hoa kết quả “c ht được mt trm, ht được su mươi v c ht được ba mươi”.

Ông bà chúng ta có dạy: “Lời ni chng mt tin mua. Lựa lời m ni cho vừa lng nhau”. Ta cũng có thể sửa lại cho thích hợp với đoạn Tin mừng hôm nay: “Lời ni chng mt tin mua. Lựa lời m nghe sao cho được sng”. Chính Lời của Chúa mới đủ sức làm cho ta được sống dồi dào và hạnh phúc thật. Chúng ta nhớ chỉ vì không nghe theo lời Chúa nên tổ tông mình đã đón nhận hậu quả như thế nào. Chúa luôn luôn muốn cho chúng ta được sống nên mới có những lời dạy cặn kẽ và tỉ mỉ. Mỗi người chúng ta hãy làm thế nào để mảnh đất tâm hồn của mình luôn là mảnh đất tốt. Nhờ đó hạt giống Lời Chúa sẽ không uổng phí khi được gieo xuống trên ta.

Đồng thời, như chúng ta biết: “Chim khn ku ting rnh rang. Người khng ni ting dịu dng d nghe” .Chúng ta hãy dùng lời nói của mình để giúp ích cho người khác chứ đừng làm hại nhau.

------------------------------------

 

TN 15-C55. Ai là người Samaria tốt nhất?


 - Charles E. Miller

 

Chúa Giêsu thích kể các dụ ngôn khi Ngài rao giảng, điều đó thì không có gì ngạc nhiên khi: TN 15-C55


Chúa Giêsu thích kể các dụ ngôn khi Ngài rao giảng, điều đó thì không có gì ngạc nhiên khi có người đặt câu hỏi: “Ai là người láng giềng của tôi?”. Chúa Giêsu đã không cho một câu trả lời trực tiếp. Thay vào đó, Ngài đã kể một câu chuyện dụ ngôn.

Dụ ngôn này thì quen thuộc và để lại ấn tượng mạnh mẽ khi được diễn tả trong một ngôn ngữ. Nói với một người nào là Samaria nhân lành có nghĩa là nói rằng ông ta đã giúp đỡ người khi cần. Trong câu chuyện, người Samaria đã dừng lại và giúp đỡ người đàn ông bị bọn trộm cướp đánh đập và tước lột tất cả, minh chứng chính ông là người láng giềng tốt mà Chúa Giêsu muốn nói đến, ngay cả khi người Samaria này đã không biết nạn nhân xấu số và nạn nhân xấu số cũng không hề biết người Samaria.

Trong câu chuyện dụ ngôn của mình, Chúa Giêsu thường đưa ra một đường vòng không ngờ. Và đường vòng cho câu chuyện dụ ngôn này là ý nghĩa mà Chúa Giêsu trao cho từ”láng giềng”. Sự kiện anh hùng là một người Samaria. Hãy nhớ rằng câu chuyện này được nói với người Do Thái, những người khinh bỉ người Samaria. Những người Do Thái nhìn người Samaria như là những kẻ phản bội, những kẻ thờ tà thần. Những thính giả đang nghe Chúa Giêsu phải bị sốc rất nặng. Họ phải giận dữ khi Ngài đề nghị với họ một mẫu gương là một người Samaria anh hùng.

Một số giáo phụ tiên khởi của Giáo Hội đã đặt một đường vòng khác vào câu chuyện. Các Giáo phụ thấy người mà chúng ta gọi là người Samaria nhân lành là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, các giáo phụ nghĩ rằng ít nhất một con người đã được giới thiệu với chúng ta là người luôn giúp đỡ và Chúa Giêsu đã luôn làm điều đó.

Nòi giống con người bị thoái hoá đi bởi tội lỗi. Tội lỗi đã tước bỏ nơi chúng ta mọi giá trị như là con người. Nó đã đánh cặp của chúng ta để lấy đi khỏi chúng ta những ân sủng của Thiên Chúa. Nó đã tấn công chúng ta một cách khốc liệt khiến tất cả chúng ta đều giống như là một người dở sống dở chết. Chúa Giêsu đã nâng chúng ta dậy, không chỉ là trên một con vật, nhưng là trên chính đôi vai của Ngài và mang chúng ta đến với Giáo Hội, để chúng ta có thể được chăm sóc cho đến khi Ngài trở lại trong vinh quang, ngày Phục Sinh của chúng ta.

Nhưng sau đó, Chúa Giêsu đã mang chúng ta vào trong Giáo Hội, Ngài đã không để mặc chúng ta đi trên con đường của Ngài. Ngài ở với Giáo Hội mọi ngày và cho đến tận thế. Qua sứ vụ của Giáo Hội, trong phép rửa Chúa Giêsu đã chữa lành mọi vết thương tội lỗi, phục hồi sự sống của ân sủng và ban cho chúng ta giá trị là con cái của Thiên Chúa. Và trong phép Thêm sức, Chúa đã tăng sức cho đời sống ân sủng bên trong chúng ta, Ngài đã củng cố căn tính của chúng ta như là con cái của Thiên Chúa và thừa tự Nước Trời. Chúa Giêsu đã đến với chúng ta trong Giáo Hội, qua Lời và các bí tích: Lời của Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể là chính Mình và Máu Người nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta.

Từ”láng giềng” theo nghĩa chữ là một người ở gần bên chúng ta. Chúa Giêsu đã minh chứng chính Người còn hơn là một láng giềng nữa, hơn là một người nào đó ở gần chúng ta, Ngài đã làm cho chúng ta trở nên thành phần của thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Trong Ngài chúng ta tiếp tục hiện hữu, như bài đọc II đã dạy chúng ta: “Ngài là Đầu của thân thể là Giáo Hội”.

Khi chúng ta bước đi trong đời sống, tội lỗi vẫn còn tiếp tục tàn phá và làm tổn hại chúng ta, chúng đang chờ đợi một khoảnh khắc bất ngờ, chểnh mảng để chúng có thể tấn công chúng ta vào lúc chúng ta yếu đuối. Nhưng chúng ta không bao giờ đơn độc trong cuộc chiến đấu của mình. Thật sống động khi chúng ta họ bài học của bài Thánh Vịnh ngày hôm nay: “Hãy hướng về Chúa những khi bạn cần và bạn sẽ sống”. Khi chúng ta hướng về Chúa sẽ nhận thấy rằng Ngài không quá mầu nhiệm và xa xôi khỏi chúng ta. Chúa Giêsu không quá đơn giản là một người Samaria nhân lành. Ngài là một người tốt nhất.

------------------------------------

 

TN 15-C56. Người Samaritanô nhân hậu


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Một đạo sĩ Ấn giáo nọ hỏi các đệ tử của ông như sau; -“Làm thế nào để biết được đêm đã tàn: TN 15-C56


Một đạo sĩ Ấn giáo nọ hỏi các đệ tử của ông như sau

-“Làm thế nào để biết được đêm đã tàn và ngày bắt đầu?”

Sau vài phút suy nghĩ, một đệ tử giơ tay xin trả lời:

-“Tôi biết được khi nào là đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta trông thấy một con thú từ xa mà ta phân biệt được nó là con bò hay là con ngựa”,

Câu trả lời đã không làm cho nhà đạo sĩ ưng ý chút nào… một đệ tử khác lên tiếng:

-“Ta biết được khi nào là đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta thấy một cây lớn từ đàng xa mà ta phân biệt được đó là cây xoài hay cây mít”,

Vị đạo sĩ lắc đầu không đồng ý. Khi các đệ tử nhao nhao muốn biết giải đáp, ông mới ôn tồn nói như sau:

-“Khi ta nhìn vào gương mặt bất cứ người nào mà nhận ra người đó là người anh em của ta thì đó là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu. Nếu ta không phân biệt được như thế, thì cho dù đêm có tàn, ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì thay đổi”.

Thưa anh chị em,

Nhân loại đã chìm ngập trong đêm tối của tội lỗi, đêm tối của trốn chạy khỏi Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau giữa người với người. Chúa Giêsu đã đến để xoá tan ĐÊM tối và khai mở NGÀY mới, trong đó người nhận ra người là anh em, người trở về với Thiên Chúa.

Như nhà đạo sĩ đã giải đáp: “khi ta nhìn vào gương mặt của bất cứ người nào mà nhận ra người anh em của ta trong người đó, là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu”. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó chính là nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi mọi người cũng như phẩm giá vô cùng cao quý của người đó. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó là nhìn thấy niềm vui, nỗi khổ, sự bất hạnh và ngay cả lỗi lầm của người đó như của chính mình.

Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó là sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi người đó xúc phạm đến ta và không muốn nhìn mặt ta. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là không thất vọng về khả năng hướng thiện của người đó. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là muốn nói với người đó rằng, cách nầy hay cách khác, ta cần người đó để được sống xứng đáng với ơn gọi làm người hơn.

Trái lại, nếu ta không nhận ra người khác là người anh em của mình thì mình vẫn ở trong bóng tối đêm đen. Chỉ khi nhận ra được người khác là người anh em của mình, thì mình mới bước vào ánh sáng ban ngày. Người khác đó là bất cứ ai, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, ý thức hệ. Tất cả mọi người là anh em của tôi.

Thế nhưng, thưa anh chị em, trong Tin Mừng hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa: “Ai là anh em tôi?”. Để trả lời, Chúa Giêsu đã kể cây chuyện người Samari nhân hậu. Người Samari nầy đã nhận ra nạn nhân đang năm lây lất bên đường là người anh em gần gũi của mình, đang khi thầy Tư tế và thầy Lêvi lại không nhận ra nạn nhân nằm bên vệ đường kia là người anh em, mặc dầu nạn nhân ấy cũng là người Do Thái đồng bào và đồng đạo với mình. Nạn nhân đã trở thành kẻ xa lạ, chỉ vì rơi vào hoàn cảnh bất hạnh.

Câu chuyện muốn làm nổi bật thái độ dễ thương của người Samari nhân hậu. Chúng ta thấy ông xuống ngựa và đến cúi xuống trên con người đang quằn quại ở vệ đường. Ông chẳng để ý xem kẻ bất hạnh là ai? Là người Do Thái hay Samari – hai dân nầy vẫn coi nhau như thù địch- ông chỉ thấy đây là một kẻ bất hạnh, một con người như mình, nhưng lại không được như mình. Thế nên ông đã săn sóc, băng bó vết thương và chở đến quán trọ gần nhất cấp cứu, rồi còn sẵn sàng trang trải mọi phí tổn nữa.

Như vậy, người Samari nhân hậu nầy đã trở nên người anh em thân cận, gần gũi với người bị nạn, mặc dù ông không cùng chủng tộc và tôn giáo, hơn nữa ông còn bị coi như kẻ thù của người Do Thái bị nạn nầy, đang khi hai thầy Tư tế và Lêvi vừa là người Do Thái vừa là bậc thầy dạy đạo, tế lễ, lại coi kẻ đồng đạo, đồng bào xa lạ. Chính những hành động bác ái thương người cụ thể như tế mới làm chứng ai thật là người có đạo, ai thật là người, vì có lòng nhân ái.

Anh chị em thân mến,

Ngày 11 tháng 2 năm 1984, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành một Tông thư mang tựa đề: “Salvifici doloris” nói về “ý nghĩa đau khổ của người theo Kitô giáo” để toàn thể Giáo Hội suy tư trong Năm Thánh Cứu Độ 1984. Đức Giáo Hoàng đã nhắc lại dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, không phải chỉ để gởi tới các bệnh nhân, những người phải chịu đau khổ, mà còn gởi tới mọi người. Bởi vì đau khổ vẫn ở ngay bên đường đi của chúng ta, đến nỗi con người rất dễ bị cám dỗ ‘bỏ đi qua”một cách dửng dưng. Sự dửng dưng nầy là một nét đặc trưng của thời đại chúng ta. Chắc chắn rằng dụ ngôn “Người Samari nhân hậu” đã trở nên yếu tố thiết yếu của nền văn hoá đạo đức cũng như nền văn minh phổ quát của nhân loại. Nhưng “khi đến với đau khổ của người khác, không một tổ chức nào, tự nó, có thể thay thế người”. Và vào ngày phán xét, Chúa sẽ nói với mỗi người chúng ta rằng: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đâu, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x. Tông thư SD. Số 28-30).

Chúa Giêsu đã bảo luật sĩ: “Cả ông nữa, hãy đi và làm như vậy”. Hôm nay, chính với chúng ta, Chúa Giêsu ban huấn lệnh cấp bách nầy: “Hãy đi và làm y như vậy”. Chúng ta hãy đi và làm như người Samari đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samari nhân hậu bên cạnh tất cả những ai chúng ta gặp và chân tình giúp đỡ, băng bó các vết thương của họ, nhưng vết thương, nghèo đói, đau yếu, bệnh tật, cô đơn, chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: “Ai là anh em tôi?”, nhưng hãy đi và tỏ ra “mình là anh em của mọi người”. Đừng dừng lại tìm xem người đó là ai, có đạo hay không có đạo. Nhưng hãy đi và làm như người Samari kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó, nhìn thấy người đau khổ thì cứu giúp. Phải vượt qua quan niệm hẹp hòi của người Do Thái, để đi đến tình huynh đệ phổ quát, đại đồng.

Yêu mến Chúa trong nhà thờ, không đủ, nếu không yêu mến Chúa trên đường đi và trong người anh em đồng bào, đồng loại. Chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ biết luật day mến Chúa yêu người trong sách vở. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Anh em đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thực sự bằng việc làm”. Ngài còn nói: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai yêu thương anh em mình thì sống trong ánh sáng. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối đã làm cho người ấy ra mù quáng” (1Ga 2,9-11).

Hãy nhận ra khuôn mặt của tất cả mọi người là người anh em. Chỉ khi đó chúng ta mới ra khỏi bóng tối đang bao trùm chúng ta và được tràn ngập ánh sáng vinh quang của Chúa.

------------------------------------

 

TN 15-C57. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin


MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI THÂN CẬN

 

Phải làm gì để được sống đời đời? Bản tóm tắt Lề Luật nói rất rõ (cc. 25-28). Với đề tài điều: TN 15-C57


Phải làm gì để được sống đời đời? Bản tóm tắt Lề Luật nói rất rõ (cc. 25-28). Với đề tài điều răn lớn nhất; mà cả hai tác giả Nhất Lãm khác cũng có (x. Mc 12,28-31) có một câu hỏi khác, riêng của Luca, câu hỏi về người thân cận; câu hỏi này được làm sáng tỏ bằng dụ ngôn người Samari tốt lành (cc. 29-37), những tác giả Tin Mừng không ngừng lại giữa đường; đoạn nói về hai chị em Matta và Maria, cho phép ông tiếp tục minh hoạ cho điều răn lớn nhất (cc. 38-42). Dụ ngôn đã giải thích phải hiểu thế nào là yêu người thân cận; câu chuyện về hai chị em cũng làm một công việc tương tự về điều răn yêu mến Chúa. Toàn bộ bản văn dạy phải trao ban có người khác trong khi tiếp nhận từ Chúa.

1. Điều Răn Lớn: 10,25-28

Và này có người thông luật kia đứng lên, một trong những kẻ khôn ngoan và thông thái vắng mặt ở hoạt cảnh trước. Muốn thử thách Chúa Giêsu về kiến thức của Ngài trong vấn đề Luật, ông ta ép buộc Ngài tự tuyên bố về điều Ngài quan tâm, dựa vào truyền thống và suy tư cá nhân của Ngài, đối với cái cốt yếu và quan trọng nhất trong Luật (S. Légasse). Để đạt mục đích này, ông ta đặt ra một câu hỏi, đã được thoả thuận trong Do Thái giáo, về điều răn lớn nhất (x. Mc 12,28) hoặc về những phương thế để đón nhận sự sống của Thiên Chúa (như ở đây và ở Lc 18,18). Lời đáp của Chúa Giêsu thực ra là một câu hỏi ngược lại về luật; như đối thủ của mình, Ngài biết rằng đọc Kinh Thánh chính là giải thích Kinh Thánh. Vì thế Ngài mới hỏi: về vấn đề này: ông đọc thế nào?

Lúc đó Luật sĩ trưng ra điều luật của Đnl 6,4 mà mọi người Do Thái đạo đức đọc hai lần một ngày trong kinh Shema Israel và nó đòi hỏi nơi họ một sự gắn bó hoàn toàn vào Thiên Chúa duy nhất. Rồi ông ta nói thêm điều luật của Lv 19,18 về tình yêu người thân cận. Khi đặt hai câu ấy nối tiếp nhau, ông đã tuân theo truyền thống Do Thái đánh giá tình yêu tha nhân bằng cách đặt nó ngang tầm mức với tình yêu Thiên Chúa. Một cách đọc Kinh Thánh như vậy hoàn toàn ăn khớp với lời giải thích của Chúa Giêsu, chính Người đã đặt ra tình yêu kẻ thù ở trung tâm của ơn gọi Kitô hữu (x. 6,27tt). Trong khi tán thành ý kiến của ông, Chúa Giêsu mời vị luật sĩ đem ra thi hành giới răn yêu thương thương theo hai chiều kích: làm như vậy thì sẽ được hưởng sự sống tròn đầy mà câu hỏi ban đầu đã nói đến. Độc giả cũng được mời gọi nối kết với hoạt cảnh trước (10,21-24): kết quả cuối cùng của tình yêu đối với Thiên Chúa và với người thân cận nảy sinh qua năm tháng, phải chăng không là việc hiểu biết Chúa Cha? Nếu ông luật sĩ thực hành luật mà ông đã phụng tự, ông sẽ trở lại tình trạng của những người bé mọn và sẽ thấy được sự hiện diện hoạt động của Thiên Chúa.

2. Dụ Ngôn Người Samari Tốt Lành: 10,29-37

Hoạt cảnh lại tiếp diễn bởi vì ông luật sĩ đặt một câu hỏi mới, mà ông cho là tuỳ phụ thôi: ông muốn tỏ ra mình có lý khi đặt vấn nạn ban đầu. Ở đây Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi. Đưa ra một định nghĩa về người thân cận có thể sẽ rơi vào cái chi li của luật mà Ngài đã từng trách các Kinh sư và nhóm Pharisêu; Chúa Giêsu sẽ trở thành một luật sĩ mất! Trái lại, Ngài kể một dụ ngôn (cc.30-35) mà Ngài sẽ kết thúc bằng một câu hỏi ngược lại (c.36).

Trong hoạt cảnh, những người ẩn danh được biết qua vai trò xã hội hay tôn giáo của họ: kẻ cướp và chủ quán cư ngụ tại con đường này; thầy tư tế và Lêvi là khách qua đường, người Samari đi đường. Người này là một tên lạc giáo chỉ chấp nhận có Luật thành văn là bộ Ngũ thư và từ chối hoàn toàn luật truyền khẩu. Dưới mắt ông luật sĩ, anh ta hoàn toàn trái ngược với hai vị đáng kính phục vụ Đền Thờ. Còn về con người nửa sống nửa chết thì không hề có một lý lịch xã hội nào; người ta cũng chẳng biết anh ta có phải là Do Thái hay không nữa. Khi dàn dựng các nhân vật như thế, Chúa Giêsu tránh được cái lôgich của câu hỏi mà ông luật sĩ đặt ra, có thể đưa Ngài tới chỗ trình bày người thân cận dưới dáng vẻ một anh chàng Samari nửa sống nửa chết. Thế nhưng, người Samari là một trong những người đi đường ấy.

Cũng như các công chức của Đền Thờ, ông nhìn thấy kẻ bị thương. Nhưng người kia đứng cách xa bởi vì biết chừng đâu đó là một tử thi và sẽ làm họ bị nhiễm uế: họ tuân giữ Luật cấm (Ds 19,11-16). Trái lại, người Samari chạnh lòng thương – cũng chính là thái độ của Chúa khi thấy bà goá ở Nain (7,13). Trong khi các giáo sĩ, vì tôn trọng Luật về sự trong sạch, tách rời tình yêu Chúa khỏi tình yêu người thân cận (xc.27) và”tránh qua bên kia” mà đi, thì người Samari lại săn sóc người bị thương, một hành động được diễn tả bằng sáu động từ ở câu 34 và tiếp tục những biến thái ở câu 35. Thực vậy, ông ta trao tiền cho chủ quán để ông này săn sóc người xa lạ này thay cho ông. Như thế, thay vì phải ở lại do biến cố bất ngờ, ông một mình tiếp tục lên đường. Nếu ông dự trù trở lại để thanh toán tổn phí phải trả thêm, ông không nói đến việc sẽ hỏi tin tức về người ông đã cứu giúp.

Phù hợp với tâm trạng của các nhân vật trong dụ ngôn, câu hỏi ngược lại đầy năng động của Chúa Giêsu đặt ra làm biến đổi câu hỏi của ông luật sĩ (câu 33 so sánh với câu 29). Ông luật sĩ tự đặt mình làm trung tâm thế giới khi hỏi ai là người thân cận của ông. Chúa Giêsu đảo ngược vấn đề:”Ai đã là người thân cận của người bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Người thân cận là người tỏ lòng thương xót chứ không phải kẻ thụ hưởng lòng thương xót.”Người thân cận không còn phải là người khác để yêu thương, nhưng là kẻ đã tỏ ra gần gũi với họ, mà là chủ thể của hành động đã được làm vì anh ta” (J.Delorme). Người thông luật đã trả lời được chính xác khi bảo người thân cận chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót (Cl 37). Chẳng sao cả: chính một kẻ lạc giáo, tức là có một tương quan sai lạc với luật, đã biết giữ luật của Lêvi 19,18 chứ không phải các chuyên viên phụng tự… Lúc đó, Chúa Giêsu chỉ cần kêu mời ông luật sĩ cũng làm những việc giống như vậy.

------------------------------------

 

TN 15-C58. Giới luật yêu thương


 - R. Gutzwiller

1. GIỚI LUẬT

 

Như Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem, người ta cũng lên đường tiến về Giêrusalem trên trời: TN 15-C58


Như Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem, người ta cũng lên đường tiến về Giêrusalem trên trời. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào biết được con đường dẫn đến nơi đó và điều cốt yếu để đạt đích hệ tại điều gì.

Câu hỏi của luật sĩ nói lên 2 chủ đề ấy: ‘Lậy Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?’. Câu trả lời quá rõ. Đức Giêsu để cho luật sĩ tự rút từ sách luật ra câu trả lời: đó là một mệnh lệnh kép về lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.

+ Kính mến Thiên Chúa

Thiên Chúa là cùng đích. Yêu mến Thiên Chúa là con đường. Đây là tâm điểm của Cựu ước và Tân ước, của Lề Luật và Phúc âm, và xét từ bên ngoài, của ngoại giáo và Kitô giáo, qua môi miệng những đại biểu tốt nhất, đều đồng tâm nhất trí như vậy.

Yêu thương là mầu nhiệm thâm sâu nhất của nền đạo đức tự nhiên và của nền luân lý được đặt lên trên nền tảng siêu nhiên. Vì cả 10 giới luật không là gì khác hơn là nhiều phạm vi hoạt động của cùng một giới luật yêu thương. Các nhân đức chỉ là những nhánh phát sinh từ thân cây ấy thôi. Lời cầu nguyện một đàng phát xuất từ tình yêu, đàng khác lại cầu xin tình yêu. Phụng vụ chẳng qua chỉ là thờ kính Thiên Chúa, phát sinh do tinh thần hy sinh và đạo đức, đồng thời cũng là ân huệ Thiên Chúa ban cho con người trong tình yêu thương hợp nhất hay nói cách khác là ‘thông hiệp, hiệp lễ’.

Chính giáo luật cũng nói đến sự liên hệ căn bản với tình yêu. Vì luật là mệnh lệnh của tình yêu, là thân thể mà tình yêu sẽ gán cho một tâm hồn. Bởi vậy, tình yêu là nguyên lý thành lập, là sức mạnh sáng tạo, là thành tố cốt yếu của lòng kính tin, hợp nhất và đơn nhất hoá mọi điều.

+ Yêu thương tha nhân

Nhưng con người không phải là lữ khách độc hành, một mình lên đường đi về với Chúa. Như suốt lịch sử thế giới cho thấy, cuộc đời, theo kế hoạch của Thiên Chúa là một bước đi của các dân tộc đến cùng Thiên Chúa, một đoàn lũ hợp nhau trở về nơi định cư của mình. Đó là lý do tại sao một tu sĩ không nên rút lui vào nơi thanh vắng một mình. Sống cốt yếu là sống cộng đoàn. Thế nên, tình yêu chân thực đối với Thiên Chúa phải thực sự triển nở nơi tình yêu đồng loại.

Những thái độ sẵn lòng đối với Thiên Chúa mà ta có thể sánh như cái đà ‘hàng dọc’ sẽ triển khai thành ‘hàng ngang’ đối với đồng loại. Tôn giáo xét tự nền tảng vốn có tính xã hội, nó không phải là khu vực của một cá nhân mà ở đó có thể quan tâm đến anh em mình hay là không cũng được. Ngay cả một thày tu trong căn phòng nhỏ bé của tu viện, một ẩn sĩ trong sa mạc, tự bản chất vẫn hiện diện một cách ‘xã hội’ trong lời cầu nguyện và thành tâm sám hối.

Không ai có thể và được phép tách biệt khỏi cộng đoàn. Như tình yêu đối với Thiên Chúa nhất thiết phải sinh ra tình yêu đối với đồng loại, thì tình yêu đối với đồng loại cũng vậy phải do từ tình yêu chân thành đối với Thiên Chúa. Người ta có thể coi đó (và thực đã có như vậy) như một tình bằng hữu, một chủ nghĩa nhân đạo, nhưng tình yêu ấy không trợ giúp anh em dựa trên nền tảng chính yếu: cùng nhau bước tiến trên đường về với Chúa. Và vấn đề là ở chỗ đó.

Vậy, sau khi đề cập đến tình yêu kép đôi này, Đức Giêsu nhấn mạnh đến điểm căn bản sâu xa này: ‘hãy làm thế và ông sẽ được sống’. Nói cách khác: ‘anh đã đi đúng đường, đã tiến tới gần đích, ‘là sống trong Chúa’.

2. DỤ NGÔN

Luật sĩ muốn biện bạch. Xét cho cùng, ông chẳng thực tâm trong khi đặt vấn nạn mà cũng chẳng có tinh thần tìm tòi cho bằng ông muốn ‘thử’ Đức Giêsu. Thua cuộc rồi, ông cố tránh né yêu sách gắt gao và hỏi thêm để che đậy sự thất bại và dùng mọi mánh khoé để Chúa phải lúng túng.

Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn giải đáp cho vấn nạn ông nêu ra. Ngài đưa ra một thí dụ, thí dụ về một con đường. Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô bị lũ cướp bóc lột và bị đánh đập dở sống dở chết. Ai trên đường đi về với Chúa ắt có thể cũng chịu chung một số phận như thế. Thực ra qua bao thế kỷ, cho thấy con người luôn gặp phải như thế trong suốt cả hành trình lịch sử của mình. Satan đã cướp phá nhân loại này, cướp mất đời sống siêu nhiên phong phú của nhân loại khi còn ở trong vườn Diệu quang xưa kia, khiến nhân loại phải chịu cảnh dở sống dở chết như bây giờ.

Những khả năng hiểu biết về mặt tôn giáo, hành động theo luân lý, đã bị giảm thiểu thật đáng kể. Những khả năng ấy không chết đi, mất đi mà là bị tổn thương trầm trọng. Có những người cũng bước qua con đường ấy và được coi là những người luôn có tình mến Chúa: các tư tế và Lêvi chẳng phải là những người luôn luôn phụng sự Thiên Chúa đó sao?

Họ từ đền thờ ra đi và vẫn khoác trên mình những dáng vẻ hoa mỹ và oai vệ của lễ nghi. Họ bước qua mà cứ phớt tỉnh chẳng màng chi đến những người không may gặp nạn và họ lại còn đấm ngực tự mãn cho rằng thái độ dửng dưng ấy bằng lòng mến yêu Thiên Chúa của họ. Vị tư tế tự nhủ rằng mình hiện diện chỉ để phục vụ Thiên Chúa chứ không để phục vụ nhân loại. Còn Lêvi lại tự nghĩ rằng mình phải cẩn thủ sự thuần khiết của bậc Lêvi, nhân danh tình yêu đối với Thiên Chúa, không để mất nó khi rờ tới một người có thể chết trong tay mình.

Hai thứ người này tưởng rằng mình yêu Thiên Chúa mà không cần yêu đồng loại. Và những ai cư xử không dựa trên xã hội đang khi vẫn phát huy những việc đạo đức, những nghi tiết những việc phụng thờ, là những người đã muốn tách hẳn tôn giáo khỏi thế tục, muốn hoàn tất thái độ chẳng có chút gì là đạo đức, như các tư tế và Lêvi bỏ qua không màng tới nhân loại đang lâm cảnh đau thương.

Một lữ khách thứ ba xuất hiện, đó là một người ngoại, người xứ Samaria, người này hẳn là phải đi một đoạn đường dài và xa hơn những người kia; có thể là một thương gia, luôn bôn tẩu ngược xuôi. Con người đó hẳn là rất xa lạ với nạn nhân kia, khác quốc tịch, khác cả tôn giáo. Xét mối tương quan nào đi nữa, bên ngoài hay bên trong, dân sự hay tôn giáo, hắn cũng là một kẻ xa lạ hoàn toàn.

Nhưng chợt thấy một người bị lâm nạn nửa sống nửa chết như thế, hắn tiến lại gần ngay. Qua cử chỉ ấy, hắn trở nên một người rất thân cận của nạn nhân. Chính hắn đích thân mang nạn nhân đến quán trọ và vì gấp rút qua hắn đành ra đi; để lại số bạc cần thiết và hứa sẽ trả số còn lại khi trở về. Như thế hắn vẫn tiếp tục quan tâm đến nạn nhân xấu số và trong tâm hồn không thể quên người ấy được, trong khi mong mỏi sớm về gặp lại.

Một người khá xa lạ lại nên người gần gũi, thấy tha nhân lâm nạn, hắn nên bạn thân ngay. Và đó không phải đơn giản là một thứ bác ái cảm tình, màu mè, nhưng thật là một hành vi ra tay trợ giúp. Ta có thể nhận ra tính tốt của hắn qua các chi tiết sau:
‘Lại gần, băng bó thương tích, xức dầu và rượu, đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền ông trao cho chủ quán mà bảo: ông hãy săn sóc người ấy, và phải tiêu pha gì thêm thì khi trở về tôi sẽ trả cho ông’.

Người Samaria được đưa ra làm tiêu biểu ấy chính là Đức Kitô. Nhân loại đang cơn hấp hối, Ngài không bỏ rơi mà còn từ trời cao xuống thế, cất bước lên đường, ân cần săn sóc nhân loại, cúi xuống, đổ tràn dầu và rượu các nhiệm tích trên những vết thương do tội lỗi gây nên. Ngài đã dẫn đưa nhân loại vào Giáo Hội là quán trọ trong cuộc hành trình qua bao thế hệ, Ngài đã uỷ thác cho Giáo Hội việc ân cần chăm sóc chữa trị nhân loại; Ngài đã trả bằng giá máu Ngài và còn hứa thanh toán số còn lại trong ngày sau hết, tức là ngày Ngài Quang Lâm: khi ấy mọi thụ tạo được lành lặn toàn vẹn sẽ tiến về cùng đích của cuộc hành trình.

Để kết thúc dụ ngôn, Ngài khuyên bảo: ‘Hãy đi và làm như thế và ông sẽ được sống’.

Như thế, con đường lại được đặt thành vấn đề. Vì từ lúc này, con người biết: mình phải đi con đường nào và phải bước đi trên con đường ấy bằng tinh thần nào; điều chi sẽ xảy đến cho mình và người lữ khách sẽ nhìn rõ bổn phận nào phải thi hành đây. Bởi đó, câu chuyện này phải là một dấu định hướng thực sự.

------------------------------------

 

TN 15-C59. Chú giải của Fiches Dominicales


THEO CHÂN ĐỨC GIÊSU, TRỞ NÊN NGƯỜI THÂN CẬN VỚI BẤT CỨ AI GẶP NẠN

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Một giới luật yêu thương

 

Đức Giêsu đã lên đường đi Giêrusalem, nơi Người sẽ tự ý dâng hiến mạng sống vì yêu anh em: TN 15-C59


Đức Giêsu đã lên đường đi Giêrusalem, nơi Người sẽ tự ý dâng hiến mạng sống vì yêu anh em mình. Lúc đó có môt người thông luật đặt câu hỏi này để thử Người: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?". Đức Giêsu đáp lại bằng một câu hỏi: "Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào?". Giống như một cậu học sinh trả lời cho người mà ông ta muốn thử tầm hiểu biết và tính chính thống về đạo lý, vị thông luật bắt đầu trích dẫn lệnh truyền của sách Đệ Nhị Luật 6,4, mà mọi người Do Thái đạo đức đọc mỗi ngày hai lần trong kinh Shema: "ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi". Và ông liền đọc tiếp Luật của sách Lêvi 19,l8: "Và người thân cận như chính mình". Trích dẫn câu Kinh Thánh ấy hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Người vừa "khen ngợi câu trả lời, lại vừa khuyên nhủ vị thông luật hãy thực thi giới luật yêu thương theo hai chiều kích ấy. "Làm" như vậy sẽ cho phép ông nhận được "sự sống đời đời" làm gia nghiệp, điều ông đã thắc mắc qua câu hỏi ban đầu.

2. Để đem ra thực hành

Cuộc đối thoại ngay sau đó được chuyển sang một câu hỏi mới của vị thông luật, muốn chứng tỏ mình là người công chính: "Những ai là người thân cận của tôi?". Ta càng hiểu rõ hơn tại sao có câu hỏi đó, nếu ta biết rằng có một vài khoản trong Lề Luật tương phản với nhau; trong một vài trường hợp - như phần tiếp theo của bản văn Tin Mừng sẽ cho thấy lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu người thân cận xem ra loại trừ nhau.

Đức Giêsu tránh trả lời trực tiếp, để khỏi sa vào cái "mớ bòng bong" của khoa giải các nố luật. Người nêu ra cho nhà thông luật ấy một dụ ngôn, mở ra cho giới luật yêu thương tha nhân một lãnh vực không giới hạn.

Sự kiện xảy ra trên quãng đường dốc rất thuận lợi cho đạo tặc phục kích; con đường sa mạc (dài 25 cây số) từ Giêrusalem đến Giêricô là nơi thấp hơn kinh đô đến 1090 mét.

Ngoài tên đạo tặc và người chủ quán, ba nhân vật hết sức điển hình là một "thầy tư tế’, rồi một "thầy Lêvi". Cả hai là khách qua đường, sau cùng là "người Samaria". Cả ba người đều bất ngờ gặp "người bị kẻ cướp trấn lột đánh nhừ tử, rồi bỏ lại nửa sống nữa chết ở bên đường"; ta không biết thân thế trong đạo ngoài đời của người đó ra sao. Lối hành văn theo một khuôn mẫu định sẵn của dụ ngôn càng làm nổi bật nét giống nhau và khác nhau trong cách xử sự của các nhân vật.

- Người đầu tiên đi trên đường này là một "thầy tư tế”, người của phụng tự, người của Đền Thờ. Ông trông thấy kẻ bị thương, nhưng ông cũng nhớ đến lệnh cấm trong sách Dân Số 19, 11-13. 16: "Ai chạm vào xác chết... vào một người bị ám sát… một người chết, sẽ mắc dơ trong cả ngày, ông quên mất lời Chúa trong sách ngôn sứ Ôsê 6,6: "Ta muốn lòng nhân từ chứ không muốn hy lễ". Ông "tránh qua bên kia mà đi".

- Sau đó tình cờ có thầy Lêvi, một nhân vật tượng trưng cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, ông "cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi", chắc hẳn cũng vì những lý do vừa nói.

- Sau cùng, "một người Samaria đi đường" cũng tới chỗ ấy H. Cousin nêu rõ: "Người này là một người lạc giáo, chỉ cộng nhận bộ Luật viết, là Ngũ Kinh, mà phi bác Luật truyền khẩu. Dưới con mắt của vị thông luật, hẳn đó là người hoàn toàn đối chọi với hai vị tôi tớ đáng kính của Đền Thờ." ("L'evangile de Luc", Centurion, tr. 158).

"Vậy trong khi hai vị kia tránh xa người mà họ coi như một xác chết, và có thể khiến họ thành ra dơ, thì người Samaria "chạnh lòng thương" - giống như chính Đức Giêsu chạnh lòng thương trước nỗi đau của bà goá Naim ở 7,13 – khi thấy bà đau khổ. Trong khi hai vị giáo sĩ kia, vì tôn trọng luật về thanh tẩy đã tách rời lòng mến Thiên Chúa với lòng yêu tha nhân, và... đã tránh qua bên kia đường, thì người Samaria lại gần, lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc". Bằng hành động, ông đã chứng tỏ, ông hiểu rõ ý Thiên Chúa mà ngôn sứ Ôsê đã diễn tả, hơn những vị đại diện Do Thái giáo chính thống kia nhiều.

R. Meynet còn lưu ý thêm: "Không ai là người ngoại" trong số ba ứng viên cứu nạn kia, nhưng cả ba đều có đạo và tuân giữ luật. Nhưng thầy tư tế, và thầy Lêvi đứng về phía quân cướp; vì cũng như bọn đó, các ông bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết, các ông còn mang tội không cứu giúp người bị nạn. Còn người Samaria, là quân lạc đạo bị người Do Thái khinh miệt và khai trừ, thì lại yêu người bị thương như chính mình: ông hy sinh bản thân, hy sinh vật cỡi, hy sinh tiền bạc ("L'Evangile de Luc. analyse rhétorique", cuốn 2, trg 126).

3. Trở nên người thân cận với bất cứ ai gặp nạn.

Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đổi ngược lại câu hỏi, mà vị thông luật đã đặt ra hồi nảy: "Vậy ai là người thân cận của tôi?". Đức Giêsu hỏi lại ông ta: "Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? "

Không do dự, vị tiến sĩ luật đáp rất chính xác: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy". Như vậy, theo ông, không cần biết ai là người thân cận của mình nữa, mà điều quan trọng là tìm cách nào để trở nên người thân cận, người gần gũi với bất cứ ai đang cần giúp đỡ. H. Cousin giải thích: "Hỏi ai là người thân cận của mình, vị thông luật tự đặt mình làm trung tâm thế giới, và nhìn mọi người như những vệ tinh quay chung quanh mình. Đức Giêsu đảo ngược vấn đề. Người thân cận là người thực thi lòng thương xót, chứ không phải người hưởng thụ lòng xót thương".

- Đến lúc này, Đức Giêsu chỉ cần kêu mời người đối thoại, hãy chứng tỏ tình thương huynh đệ nhưng-không, vô vị lợi, thực tế, giống như người Samaria lạc đạo "ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy!"

Chúa nhật XIII, chúng ta đã theo chân Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Hôm nay, chúng ta hiểu rằng con đường lên Giêrusalem phải qua tình thương huynh đệ, là luật vượt trên mọi luật.

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Hãy là người thân cận của mọi người.

Mọi người đều biết dụ ngôn người Samaria cho ta chứng kiến một sự đảo ngược. Câu hỏi được đặt ra lúc đầu là: "Ai là người thân cận của tôi?" Cuối cùng lại trở thành "Ai đã là người thân cân với kẻ bị rơi vào tay bọn cướp?".

Sự đảo ngược này mang đầy ý nghĩa và nhiều đòi buộc mới mẻ. Thật vậy, chỉ định trước ai, là đối tượng của lòng xót thương nơi ta, thiết tưởng là thuận tiện hơn đấy. Hãy để ý xem sinh tử sở hữu: "của tôi" (thân cận của tôi) được đặt ở chỗ nào. Người ta đã chỉ trích khá nhiều công việc từ thiện của một vài mệnh phụ, chuyên làm việc từ thiện, các bà ấy có khách hàng của các bà (xin tạm gọi vậy). Người thân cận không phải' một khách hàng, cũng không phải cơ hội để ta thực hành nhân đức. Người thân cận là người cải hoá ta, người bắt ta trở về với mình để kiến tạo ta nên một người thực sự gần gũi.

Trở nên gần gũi không dễ dàng đâu. Cần phải có trái tim, nếu không sẽ trở thành giả tạo. Cũng cần phải có sự sáng suốt và nhất là sự tế nhị cao độ đến nỗi có thể cho đó là một chút nhẹ dạ. Điều đẹp đẽ nhất trong cử chỉ của người Samaria là tính vô-vị-lợi của ông; ông không màng tới một lời cám ơn.

Có những người khiến người khác phải mang nặng quyền lực của họ. Nhưng kẻ đặt trên vai người khác gánh nặng bác ái từ thiện của họ, thiết tưởng còn trầm trọng hơn. Chỉ có bác thật sự khi nó giải thoát, khi nó khiến tôi trở nên người gần gũi, nên người anh em vì vốn chẳng ai mắc nợ ai điều gì. Hoàn toàn nhưng không.

2. Được mời gọi “hãy làm như vậy”, cùng với vị thông luật.

Sao lại trách cứ vị tư tế thánh thiện và vị "phó tế" nhiệt thành này? Họ là những người có trách nhiệm phục vụ để Thiên Chúa được tôn vinh và phụng thờ trên hết mọi sự. Hai người tôi tớ trung thành ấy có lý do chính đáng để giữ sự trong sạch theo luật định, bởi vì "ai chạm vào xác chết (...), hoặc một người bị ám sát, một người chết (....) sẽ mắc dơ trong 7 ngày" (Ds 19, 11-13. 16)... Trong trường hợp đó vị tư tế hoặc thầy Lêvi không được làm việc phượng tự.

Những người giữ luật như vậy lầm rồi. Vì khi giữ luật, họ lại phản bội luật. Khi tưởng rằng tôn kính Thiên Chúa, họ lại xúc phạm đến Người. Thiên Chúa ở đó kìa, Người ẩn mình dưới dạng một người bị thương nửa sống nửa chết trong cái hố bên đường.

Đấy không phải lúc tra ván xem nạn nhân thuộc tôn giáo nào, quốc tịch nào, chủng tộc hoặc ngôn ngữ nào, cũng không phải là lúc nhút nhát ẩn mình sau tấm bình phong truyền thống để được an toàn. Việc đạo đức và lòng sùng kính chỉ là những phương tiện non yếu và tạm thời phải nhường chỗ cho đức bác ái là cái tuyệt đối nhất định. Đức ái bày tỏ ra trong tình yêu thương người thân cận là bằng chứng cụ thể tình yêu chân thành của ta đối với Chúa.

Kết cục có hậu, cái bẫy đã không hoạt động và viên tiến sĩ luật đã hiểu ra bài học thực hành. Ông ấy, và sau ông, cả chúng ta nữa, đều được mời gọi hãy làm như vậy. Không phải Lề Luật có thể cứu độ, cũng không phải các nghi thức và việc tuân hành luật, nhưng chính là việc hoán cải tâm hồn và Tình Yêu được phục vụ trước hết.

Hiểu Luật theo cách của Đức Giêsu, không cần tìm xem ai là người thân cận, nhưng đúng là làm thế nào để "trở nên người thân cận của ai đó?", là biết "chạnh lòng thương" biết gạt bỏ mọi thành kiến về giai cấp và chủng tộc, về địa vị và tôn giáo.
Khi cử hành tiệc Thánh Thể, ta đã nhận biết và tiếp đón Chúa (Lời Chúa và Bánh), thì khi ra về, hãy cố gắng đừng giả bộ không nhận ra hoặc lẩn tránh Chúa khi ta gặp Người bên vệ đường.

------------------------------------

 

 TN 15-C60. Ai là người thân cận của tôi?


- Lm Vũ Phan Long

 

Trong lãnh vực yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi: TN 15-C60


Trong lãnh vực yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi.

1. NGỮ CẢNH

Đức Giêsu vừa mới đặt đối lập các môn đệ như là “những người bé mọn” với “các bậc khôn ngoan thông thái” (10,21); Người tuyên bố rằng các môn đệ có phúc vì được thấy được nghe nhiều điều mà các ngôn sứ và vua chúa không được (10,23-24). Nay tác giả Lc tiếp tục phần tường thuật hành trình lên Giêrusalem bằng cách giới thiệu một trong các vị thông thái để ông này hỏi Đức Giêsu và trắc nghiệm giáo huấn của Người (10,25-28). Mối phúc được công bố trên các môn đệ nay được nối tiếp bằng một đoạn văn mang tính khuyến thiện nói về sự sống đời đời và tình yêu đối với Thiên Chúa và người thân cận. Sau đó, do vị thông luật còn cật vấn, Đức Giêsu đã kể Dụ ngôn người Samari nhân hậu (10,29-37) để minh hoạ đòi hỏi của tình yêu.

2. BỐ CỤC

Bản văn có thể chia thành hai phần chính:

1) Điều kiện để được sống đời đời (10,25-28):

- Người thông luật đặt câu hỏi (c. 25),
- Đức Giêsu trả lời bằng câu hỏi (c.26),
- Người thông luật trả lời bằng cách trích Kinh Thánh (c. 27),
- Đức Giêsu xác nhận (c. 28);

2) Dụ ngôn người Samari nhân hậu (10,29-37):

- Người thông luật cật vấn (c. 29),
- Đức Giêsu kể dụ ngôn để đưa tới câu hỏi (cc. 30-36),
- Người thông luật trả lời (c. 37a),
- Đức Giêsu xác nhận (c. 37b).

3. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

- Thử (25): Động từ ekpeirazein, “test”, để diễn tả một thái độ thù nghịch. Chính câu hỏi về người thân cận mới là cái bẫy giăng ra cho Đức Giêsu.

- Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi (27): Trước tiên, vị thông luật trích Đnl 6,5 theo bản LXX. Đây là phần mở đầu của kinh Shema, tức là lời tuyên xưng đức tin mà người Do-thái đọc mỗi ngày hai lần.

Các phương diện của con người được nói đến ở đây phải được hiểu theo nghĩa Cựu Ước: kardia, “tim, lòng”, là những phản ứng cảm xúc nhanh nhạy của con người; psychê, “linh hồn”, là sinh lực và khả năng nhận thức; ischys, “sức lực”, là chiều hướng bản năng, và dianoia, “trí khôn”, là khả năng trí tuệ và lên kế hoạch. Tổng hợp lại, các phương diện này muốn diễn tả toàn thể con người.

- yêu mến người thân cận như chính mình (27): Câu đáp thứ hai này trích Lv 19,18b (vẫn theo bản LXX), nhưng nối với câu trước như một đơn vị duy nhất. Không có chỗ nào trong Cựu Ước liên kết hai điều này với nhau cả. Chính Đức Giêsu đã xác nhận cách làm này, và như thế Người đã đơn giản hoá mà cũng là đào sâu 613 qui định của Lề Luật.

Trong sách Lêvi, “người thân cận” ở thế song đối với “những con cái của dân ngươi”, nghĩa là người Ít-ra-en. Ở Lv 19,34, tình yêu có mở rộng đến cả “ngoại kiều” (gêr) trong xứ (x. Đnl 19,10), nhưng không mở ra với những người khác, chẳng hạn các gôyým, “các dân [ngoại]”.

- Cứ làm như vậy là sẽ được sống (28): nghĩa là được sống đời đời. Chỉ người nào đưa điều răn yêu thương ra thực hành thì mới đạt được sự sống. Động từ zêsê (“anh sẽ được sống”) rất có thể gợi đến Lv 18,5 là câu có lời hứa ban sự sống cho ai vâng phục các quy tắc và quyết định của Đức Chúa. Như thế, những lời Đức Giêsu nói đã thêm vào một lời khuyên cho lệnh truyền của Lề Luật vì lệnh truyền này vẫn còn có tính lý thuyết. Và đây chính là bài giáo lý tác giả Lc nhắm gửi đến cho độc giả Kitô hữu.

- từ Giêrusalem xuống Giêrikhô (30): Theo sử gia Gioxép (J.W. 4.8,3 § 474), còn đường này dài khoảng 150 stadia (khoảng mười tám dặm, một dặm [stadion] dài khoảng 185m) đi qua vùng “sa mạc và lởm chởm đá”. Giêrikhô, “thành phố chà là” (2 Sb 28,15), nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoặc các sĩ quan, binh lính Rôma. Thành này không phải là Giêrikhô thời Cựu Ước (= Tell es-Sultan), mà là thành được Hêrôđê Cả thiết lập khoảng một dặm rưỡi về phía nam trên bờ tây của cánh đồng Giođan.

- một thầy tư tế (31): Rất có thể thầy đã xong thời gian phục dịch tại Đền Thờ Giêrusalem, nay đang đi về nhà. Truyền thống kinh sư sau này cho biết Giêrikhô là nơi có một số tư tế cư ngụ.

- một thầy Lêvi (32): Tên này lúc đầu chỉ một thành viên của chi họ Lêvi, tức một con cháu của người con thứ ba của Giacóp (St 29,34). Trong Cựu Ước, danh hiệu “thầy Lêvi” thường được dùng để gọi những người không thuộc dòng dõi Aharon, nhưng được giao cho làm những việc lặt vặt liên hệ đến việc phụng tự và các nghi thức ở Đền Thờ.

- người Samari (33; x. 9,52): tức dân cư Samari. Samari là kinh đô của vương quốc phía Bắc do vua Omri sáng lập vào khoảng năm 870 tr CG. Sau này, tên gọi “người Samari” (hl. Samaritês) trở thành một tên gọi mang tính chủng tộc và tôn giáo để chỉ những người cư ngụ trong miền đất giữa Giuđê và Galilê, về phía tây sông Giođan. Sự đoạn tuyệt giữa người Samari và người Do-thái được giải thích khác nhau tuỳ mỗi bên. Thường người ta cho rằng có sự chia lìa đó là do có việc đế quốc Átsua đưa người Do-thái đi lưu đày sau khi chiếm được đất nước năm 722 tr CG và đưa những người không phải là Do-thái vào làm thực dân ở trong miền đó (2 V 17,24). Có lẽ cũng do đó mà sau này những người ở lại quê nhà đả phá những người Do-thái hồi hương khi những người này xây lại thành và Đền Thờ Giêrusalem (x. Er 4,2-24; Nkm 2,19; 4,2-9). Dù thế nào, những người Samari chỉ chấp nhận Bộ Ngũ Thư là Kinh Thánh và đã xây một đền thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs) vào thời Hy-lạp (đền này đã bị phá huỷ dưới thời Gioan Hiếccanô, khoảng năm 128 tr CG).

- chạnh lòng thương (33): Động từ splanchnizesthai có nghĩa là “đau lòng, lòng quặn thắt”.

4. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN

* Điều kiện để được sống đời đời (25-28)

Chuyện xảy ra khi một vị thông luật hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Ông quan tâm đến sự sống đời đời. Ông xác tín rằng ông phải làm điều gì đó để có sự sống này, chứ sự sống đời đời không từ trời rơi xuống. Câu hỏi này đi xa hơn những mối bận tâm và lợi lộc hằng ngày. Câu hỏi này giả thiết là mọi sự không chấm dứt với cái chết, nhưng có một sự sống đời đời, không hề mai một, một sự sống vượt thắng cái chết. Với mối bận tâm có ý thức và với tinh thần trách nhiệm, vị thông luật hỏi: “Tôi phải làm gì để cuộc sống bên kia cái chết không trở thành cho tôi một hoàn cảnh bị phạt, nhưng là một sự sống vĩnh cửu đầy niềm vui?”.

Giống như Đức Giêsu, vị thông luật cũng đi từ tiền giả định là có một sự sống đời đời. Ông hoàn toàn đồng ý là để đạt được sự sống ấy, dứt khoát phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận trong cuộc sống hiện tại. Đức Giêsu đã đánh giá là ông trả lời đúng và đề nghị cứ làm như thế.

* Dụ ngôn người Samari nhân hậu (29-37)

Cảm thấy bị nhục vì phải tự tìm câu trả lời, vị thông luật chuyển sang bình diện suy lý: “Ai là người thân cận của tôi? Ai thuộc về khối những người mà tôi phải yêu thương như chính mình tôi?”. Dường như ông xác tín rằng phải có những giới hạn trong số những người mà ông phải yêu thương. Đối với người Do-thái, chỉ người đồng hương mới được coi như là người thân cận, và người ta mới phải yêu thương và giúp đỡ. Vẫn tỏ ra mình làm chủ cuộc tranh luận, Đức Giêsu coi câu hỏi của vị thông luật là quan trọng, và vì nhắm phục vụ công cuộc cứu độ các linh hồn, Người trả lời bằng dụ ngôn “Người Samari nhân hậu”.

Con đường đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô băng qua sa mạc. Cho đến cuối thế kỷ XX, đây là một con đường không an toàn, thường xuyên bị các đám cướp tấn công. Một người vô danh, không rõ địa vị, nòi giống, quốc tịch và tôn giáo, đã rơi vào tay bọn cướp. Ông bị đánh nhừ tử, rồi bị bỏ mặc bên vệ đường giở sống giở chết: đây là một tình cảnh hết sức quẫn bách. Nói rằng một con người ở trong tình cảnh ấy cần được giúp đỡ, và ai giúp đỡ người ấy là thân cận của người ấy, điều này thật rõ ràng trước mắt mọi người. Thầy tư tế và thầy Lêvi đã thấy con người nằm đó dở sống dở chết, nhưng đã sang bên kia đường mà tiếp tục bước đi. Sự bận tâm đến sự an toàn và sự tiện nghi thì mạnh hơn lòng đồng cảm đối với người bị nạn. Lối xử sự của người Samari khác hẳn. Ông hành động cách gương mẫu, ông đẩy mọi sự khác vào bình diện thứ hai và chỉ còn thấy tình trạng cần kíp của con người đang nằm trên đường dở sống dở chết. Ông đau lòng trước tình cảnh đáng thương, ông tìm mọi cách để kéo anh ta ra khỏi tình trạng nguy kịch càng nhanh càng tốt. Ông đã tận dụng tất cả những gì ông có để cứu giúp người bị nạn (dầu, rượu, con lừa, bạc).

Đức Giêsu đã cố tình chọn một người Samari làm kiểu mẫu. Hạng người lạc đạo ấy, không hề có kiến thức của nhà luật học, cũng không có phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi, lại tỏ ra hết sức nhân ái và đạo đức. Ông đã thực hành hai điều răn lớn của Cựu Ước về đức mến. Do đó, chính ông mới đáng được gọi là người Ít-ra-en chân chính.

Đức Giêsu cho thấy rằng trong vấn đề yêu thương, không thể vạch ra một giới hạn chính xác. Người không nêu ra những tiêu chí, xác định một con số giới hạn gồm những kẻ mà ta phải yêu thương. Như trong những trường hợp khác, Người thay đổi hướng nhìn, mở rộng chân trời. Vị thông luật hỏi: “Ai là người thân cận của tôi, kẻ mà tôi phải yêu thương?”. Đức Giêsu đảo ngược câu hỏi: “Ai đã tỏ ra là [ai đã trở thành] người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Như thế, Người đã thay đổi tầm nhìn. Dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu hoàn toàn trả lời cho câu hỏi đầu tiên của vị thông luật: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (c. 25).

+ Kết luận

Trong lãnh vực yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi. Chỉ khi đó, đời sống ta mới trở thành con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu. Vị thông luật tưởng có thể giữ cuộc tranh luận trên bình diện lý thuyết, nào ngờ Đức Giêsu đã đưa được ông về bình diện những thực tại sống động và đặt ông trước một chọn lựa: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37).

5. GỢI Ý SUY NIỆM

1. Có một thái độ ngược lại với thái độ của vị thông luật: “Tôi chẳng hề quan tâm tìm biết là sau cái chết, sự sống có tiếp tục chăng và chuyện này xảy ra như thế nào. Tôi đang có khá nhiều chuyện bận bịu với cuộc sống hiện tại rồi, nên không muốn nặng lòng với những mối bận tâm về sự sống đời đời. Đàng khác, người ta không biết được gì chắc chắn. Tôi tìm cách thoả mãn các nỗi niềm chờ mong của tôi trong đời sống hiện tại, chứ không quan tâm đến một sự sống đời đời có thể có”. Một thái độ như thế đã bị Đức Giêsu đánh giá là “ngu” (Lc 12,13-21). Người ta không thể giải quyết một câu hỏi bằng cách nhắm mắt lại và không muốn chấp nhận nó. Người ta tránh trả lời một cách có trách nhiệm câu hỏi về sự sống đời đời, bằng cách nói rằng người ta không muốn dính dáng gì đến nó.

Ngược lại đối với Đức Giêsu, sự sống đời đời là một thực tại quyết định. Bởi vì nếu không có sự sống đời đời, nếu không có trách nhiệm trước Thiên Chúa hằng sống, thì rốt cuộc người ta xử sự thế nào trên con đường đưa tới Giêrikhô cũng chẳng quan trọng gì. Chẳng bao lâu người ta sẽ quên đi mọi sự. Sẽ chẳng có ai cật vấn tôi và tôi sẽ chẳng phải trả lẽ với ai cả. Nhưng trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa không phải là chuyện xa lạ với thế giới; trách nhiệm này đưa tới trung tâm của đời sống hiện tại của chúng ta và qui định hình thức của đời sống này. Nó qui định điều gì là đúng và điều gì là sai trên đường đưa tới Giêrikhô. Không có trách nhiệm này, chỉ còn một vấn đề duy nhất là làm thế nào sống càng lâu càng tốt và sống càng thoải mái càng tốt.

2. Ta không thể nói: “Người thân cận của tôi có thể còn là người bà con đời thứ ba; người cư ngụ cùng đường phố với tôi; người cùng làm việc trong một xí nghiệp với tôi; người có thiện cảm với tôi, v.v.”. Đức Giêsu không chấp nhận những giới hạn cho tình yêu thương đối với người khác. Tôi không được suy nghĩ khởi đi từ chính bản thân: “Tôi còn buộc phải làm cho ai điều gì? Tôi [còn] phải giúp đỡ ai? Kể từ điểm đó, chuyện ấy không còn dính dáng đến tôi nữa?”. Không phải là bậc họ hàng hoặc mối thiện cảm sẽ qui định ai là người thân cận của tôi, nhưng là tình trạng cần được giúp đỡ thực sự trong đó người kia đang lâm vào. Bất cứ ai xuất hiện trên đường tôi đi, mà đang ở trong tình trạng quẫn bách, đều là người thân cận mà tôi phải yêu thương và giúp đỡ.

3. Muốn thực sự giúp đỡ người lâm nạn, người ta phải dấn thân vào trọn vẹn. Việc ấy có thể làm cho ta phải mất thì giờ, tốn phí tiền bạc, gây phiền toái, làm xáo trộn sự yên tĩnh cũng như chương trình, thậm chí có thể kèm theo một nguy hiểm cho mình nữa. Nhưng đấy chính là thực sự yêu thương người thân cận, một tình yêu đưa đến sự sống đời đời. Như thế, phải luôn mở mắt và có trái tim sẵn sàng để nhận ra được rằng ai đang thật sự cần được tôi giúp đỡ và tôi phải giúp đỡ người ấy thế nào. Hôm nay trên đường đời, vẫn còn có vô số “kẻ cướp”, nên sẽ còn vô số người rơi vào tay “kẻ cướp”, nằm trên đường ta đi, và chờ đợi ta trợ giúp.
4. Câu hỏi về sự sống đời đời đưa thẳng vào cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về lộ trình chúng ta theo hằng ngày, sao cho lộ trình này trở thành hành trình đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Muốn thế, cần biết không vội vàng lo cho bản thân và lo cho những dự phóng riêng tư, nhưng biết dừng lại để mau mắn giúp đỡ những ai ở bên vệ đường đang cần được cứu giúp.
5. Đức mến phải phát xuất từ lòng của từng con người, phải thiết thực và hữu hiệu. Người Samari đã dừng lại, băng bó vết thương, thanh toán mọi chi phí cho chủ quán. Ông không cần tìm hiểu xem đây phải chăng là một người Do-thái, tức một kẻ thù không đội trời chung. Ông chỉ cần biết đây là một người đáng thương cần được cứu giúp, và ông đã cứu giúp.

------------------------------------

 

TN 15-C61. YÊU THƯƠNG LÀ QUAN TÂM


Lc 10, 25 – 37

 

Trong một gia đình có người con đi học xa nhà, bất chợt ngày kia trở về trong gương mặt méo: TN 15-C61


Trong một gia đình có người con đi học xa nhà, bất chợt ngày kia trở về trong gương mặt méo xẹo. Trông thấy đứa con với bộ dạng như thế, người mẹ biết ngay là con mình đang bị “viêm màng túi ”. Mặc dù, đứa con có thể chưa mở miệng xin nhưng vì tình thương của người mẹ biểu lộ qua sự quan tâm. Với sự quan tâm ấy, bà biết con mình đang cần điều gì. Và cho dù thiếu hụt cách mấy bà cũng phải ráng để đáp ứng lại nhu cầu cần thiết của con mình.

Dụ ngôn mà Chúa Giêsu minh họa cho người thông luật trong đoạn Tin mừng hôm nay cho thấy thầy tư tế và thầy lêvi vì thiếu sự quan tâm nên đã bỏ người bị cướp nằm dở sống dở chết giữa đường. Ngược lại, người Samaria lại là người có sự quan tâm đến người bị nạn này. Anh ta đã hết tình hết mình với người bị nạn này: “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác." (Lc 10, 34 – 35)

Ðiều đáng nói ở đây là người Samaria này chắc chắn chưa bao giờ được học biết về giới răn kính Chúa yêu người. Thế nhưng, chỉ vì xuất phát từ tình người với nhau mà anh đã thực thi sự quan tâm đến người bị nạn thật tuyệt vời.

Cuối đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với người thông luật cũng là nói với mỗi người chúng ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy." ( Lc 10, 37b). Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy thực thi tinh thần của đức mến vượt trên tình người nữa. Bởi lẽ, đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Ngài. Và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người thân cận như chính mình. Vì thế, thực thi đức mến xuất phát từ lòng mến Chúa sẽ vừa có tình người và vừa sống đúng với giới răn của Chúa dạy.

Hằng ngày theo dõi trên các phương tiện truyền thông hay đi đây đi đó chúng ta sẽ thấy còn rất nhiều mãnh đời rất đáng thương. Trong bệnh hoạn tật nguyền mà có khi phải gánh bao nhiêu là nặng nề của đời sống gia đình. Ðang khi đó có nhiều buổi tiệc, nhiều cuộc chơi thâu đêm suốt sáng của bao nhiêu đại gia giàu có tốn tiền như nước. Nếu như những người này biết tiết kiệm chút đỉnh để giúp đỡ những người có hoàn cảnh đáng thương rthì thật là đáng tuyên dương. Mỗi người chúng ta mỗi khi tiêu xài hãy nhớ đừng quá phung phí. Ðó cũng là cách mà chúng ta đang quan tâm đến những anh chị em đang sống xung quanh đang có hoàn cảnh khó khăn.

------------------------------------

 

TN 15-C62. SỎI ĐÁ VẪN CẦN CÓ NHAU


Tác giả: Cố Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, op.

(Lc 10:25-37)

Viết ngày: 15.07.2007

 

Một thời mê nhạc Trịnh. Mãi mãi mê nhạc Trịnh. Trịnh Công Sơn tuyệt vời ! Mưa vẫn hay mưa: TN 15-C62


Một thời mê nhạc Trịnh. Mãi mãi mê nhạc Trịnh. Trịnh Công Sơn tuyệt vời !

Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động
Làm sao em biết bia đá không đau
Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.[1]


Đó là truyện ngày sau của thế giới sỏi đá. Còn truyện ngày nay của thế giới con người thì sao ? Chẳng lẽ con người không bằng sỏi đá ? Câu truyện người Samari hôm nay cho biết ai là sỏi đá và ai là con người ngay trong thế giới hiện tại.

CON NGƯỜI HAY SỎI ÐÁ

Câu truyện hôm nay như đóng khung trong một loạt câu hỏi. Trước hết, người thông luật hỏi: “Tôi phải làm gì ?” Chúa Giêsu vặn lại: “Trong Luật đã viết gì ?” ... Ông tiếp tục thắc mắc: "Nhưng ai là người thân cận của tôi? " Chúa nêu vấn đề: “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ? "

Giữa hàng loạt các câu hỏi này là câu truyện về một nạn nhân đáng thương và một người Samari ... Một cuộc đối thoại lạ lùng giữa ông thông luật và Chúa Giêsu. Ông muốn gài bẫy Chúa. Nhưng Chúa muốn dẫn ông vượt qua trò chơi nhàm chán đó để tìm ra sự thật giải thoát, dù phải nêu một gương sáng về đức bác ái từ người Samari, kẻ thù truyền kiếp của người Do thái. Ðối với Do thái, người Samari hầu như chẳng làm nên trò trống gì cả. Bởi vậy, ông không thể trả lời chính xác đó là người Samari. Ông chỉ nói trổng: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” (Lc 10:37)
Ðứng trước nạn nhân, người thông luật coi đó như một đề tài cần bàn cãi. Kẻ cướp cho đó là một đối tượng phải khai thác. Tư tế coi là một vấn đề phải tránh xa. Thày Lêvi coi như một việc gợi tính tò mò. Chúa Giêsu rất tế nhị khi không cho thêm một nhân vật thông luật vào câu truyện dụ ngôn. Nhưng ông đủ thông minh để rút lấy một bài học để đời . Người Samari coi nạn nhân như một con người cần phải được thương yêu. Ông đã nêu gương sáng tuyệt vời. Còn Kitô hữu chúng ta thì sao?

Cuộc đối thoại lạ kỳ bắt đầu bằng một câu hỏi: “Làm gì ?” và kết thúc với lời mời gọi: “Hãy làm như vậy !” Trong các Tin Mừng, Chúa Giêsu hay giúp người chống đối khám phá lời giải đáp cho vấn nạn do chính họ đặt ra. Bài học trước hết dành cho những ai quay về phía người khác và bắt phải thực hiện công việc đáng lý mình phải làm. Thực sự họ tìm cái gì ? Ðể thử thách người họ đang nói truyện hay chỉ để tự biện minh ? Có những người hay tự tra vấn chính mình và biết phải làm gì, nhưng lại sợ dấn thân.

Trong khi đó, Chúa Giêsu kể một câu truyện về người Samari cứu giúp một người bị lọt vào tay bọn cướp. Vượt qua luật Lêvi “anh hãy yêu thương người thân cận như chính mình,” (Lv 19:18) Chúa Giêsu dạy yêu thương kẻ thù trong Bài Giảng trên núi. Ðể minh họa điều răn mới này, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh Samari đại lượng và bất vụ lợi. Một bài học thấm thía cho ông thông luật ! Một lời mời gọi nồng nhiệt cho mỗi người chúng ta !

Người thông luật hỏi: “Ai là người thân cận của tôi ?” Chúa Giêsu đi vào cụ thể: “Ai là người thân cận của người gặp cảnh khốn cùng này ?” Qua cảnh tượng này, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta hai thực tại liên kết và soi sáng cho nhau: Kinh thánh và cuộc sống hằng ngày. Ước chi Kinh thánh có thể nhập thể vào cuộc sống và hướng dẫn chúng ta sống làm người môn đệ đích thực của Chúa Kitô.

Thay vì hỏi “ai là người thân cận của tôi ?” chúng ta nên tự hỏi: “Tôi là người thân cận của ai ?” Từ đó, chúng ta mới không mất thời giờ biện minh cho những hành động thiếu bác ái của mình. Mặc dù nhiều lúc thấy việc làm sai quấy rõ ràng, nhưng ai cũng có khuynh hướng muốn tìm mọi lý lẽ chống chế. Nếu biết tự vấn, chúng ta sẽ thấy bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của mình. Không còn phân biệt chủng tộc, niềm tin hay địa vị xã hội của những người đang gặp cảnh khốn cùng. Bất cứ đang sống ở đâu, chúng ta vẫn có những người túng thiếu bên cạnh. Không có lý do gì từ chối họ. Nếu có lòng yêu thương thực sự, không thể không hành động cho con người cùng khốn.

Người thông luật giả bộ tìm xem giới luật đó áp dụng cho ai. Nhưng dụ ngôn tìm cách xác định chủ thể, chứ không phải đối tượng tình yêu. Chúa đã chọn người Samari để minh họa một chủ thể không bị giới hạn vào một loại người nào. Như thế mới hay ai cũng có thể đạt tới sự sống (vĩnh cửu) nhờ giới luật tình yêu. Tình yêu phải vô điều kiện, chứ không bao giờ nằm trong những tính toán hay những áp chế miễn cưỡng của bất cứ guồng máy nào. Tuy là một giới răn, nhưng tình yêu không bao giờ ép buộc ai. Một khi bị ép buộc, tình yêu không còn là tình yêu nữa. Chỉ tự do mới làm cho tình yêu có giá trị.

Nhưng tình yêu không dừng lại ở cảm xúc. Nếu chỉ cảm thương mà không ra tay hành động, người Samari có khác gì các thày tư tế, Lêvi ? Cũng như tri thức, cảm xúc không đủ sức mạnh đẩy ta tới anh em. Thiếu gì những viên chức tôn giáo quá trọng luật lệ đến quên cả bổn phận thương yêu và dấn thân. Chưa kể bao người chỉ thích chiều theo xung động mà lên án người khác, không hề biết người mình lên án là ai và đã làm gì. Không bao giờ tìm thấy bất cứ một khích lệ nào, ngay cả khi nói bông đùa với anh em.

TÌNH LIÊN ĐỚI

Tại sao người Samari lại tỏ tình liên đới với nạn nhân ? Chắc chắn không phải vì lý do tôn giáo, chủng tộc, giai cấp. Hoàn toàn vì tình người tự nhiên. Tôn giáo, luật lệ v.v. cũng chẳng giúp lay tỉnh con người, nếu lương tâm đã chết hay con tim đã khô cứng. Dù có đủ lý do để biện minh cho hành động, thày tư tế và Lêvi không thể lấy lề luật khỏa lấp lương tâm. “Một mình công lý không đủ. Thực vậy, công lý còn có thể phản bội chính mình, nếu không mở rộng vòng tay đón nhận quyền lực sâu xa hơn, đó là tình yêu. Quả thế, bên cạnh giá trị công lý, học thuyết xã hội của Giáo hội còn đặt giá trị tình liên đới, vì đó là con đường đặc biệt dẫn tới hòa bình. Nếu hòa bình là hoa quả của công lý, thì ngày nay có thể nói một cách chính xác và theo thần hứng Thánh Kinh: hòa bình là hoa quả của tình liên đới.”[2]

Tình liên đới vượt trên các tính toán khô cứng của đầu óc duy luật và tôn giáo. Thánh Thomas Aquinas từng nói: “Nếu không có lòng từ bi, công lý thật tàn bạo. Nhưng nếu không có công lý, lòng từ bi là mẹ sinh ra sự băng hoại đạo đức .” Người Samari vừa có lòng từ bi, vừa nêu gương công chính. Dù không mắc nợ hay liên hệ gì, nhưng ông cư xử rất “có hậu” với nạn nhân. Bằng chứng, ông đã trả tiền trọ qua đêm và lo lắng thanh toán tất cả phí tổn cho nạn nhân khi trở lại nữa (x. Lc 10:35). Ông không muốn đặt gánh nặng lên vai người khác. Ông thật chu đáo !

Chỉ có lòng từ bi mới giúp con người khám phá thấy mình liên đới với mọi người. Khi có lòng từ bi thực sự, con người không thể ngồi yên nhìn tha nhân quằn quại trên đau khổ hay lẩn tránh nạn nhân. Con người có thể làm ngơ trước những đau khổ tha nhân, nhưng không thể trốn tránh được chính mình, nhất là khi mình nắm giữ vai trò lãnh đạo như các tư tế và thày Lêvi. Có chức vị quan trọng như thế, không thể không liên đới tới người khác. Nhưng chức vị, đạo đức và học vấn cũng không chắc giúp con người nhận ra mối liên đới và nhất là can đảm dấn thân hành động vì lợi ích tha nhân.

Cách đây ít tháng, nữ tu Anne Thole đã chết vì cố gắng cứu bệnh nhân AIDS trong một vụ hoả hoạn tại trung tâm nuôi dưỡng người mắc bệnh AIDS tại giáo phận Dundee bên Nam Phi. Lúc đó chị mới 35 tuổi và đang giữ chức Giám Đốc Nhà Tập. Báo chí tại Johannesburg Nam Phi nhiệt liệt ca ngợi vị nữ tu trẻ đẹp này, và không ngần ngại tôn vinh chị là thánh tử đạo.[3] Nếu không có tấm lòng từ bi và tình liên đới, làm sao chị nữ tu dám liều mạng cứu vớt người khốn cùng như thế ? Người Samari chỉ mất chút thời giờ và tiền bạc. Còn chị nữ tu Anne Thole mất cả mạng sống.

Bình thường ai cũng thích sống theo kiểu “cháy nhà hàng xóm, bằng chân như vại.” Tại sao chị Anne Thole lại không “bảo trọng” đến nỗi mất mạng như vậy ?! Chị có nợ nần hay liên hệ gì với những bệnh nhân bệnh AIDS đó mà phải trả giá quá mắc như thế đâu ! Các bệnh nhân đó bị xã hội xa lánh và chẳng còn giá trị trước mắt người đời, sao chị lại đánh đổi cả một mạng sống quý giá của mình ? Hàng trăm câu hỏi có thể được gợi lên trong những đầu óc “khôn ngoan” như tư tế và thày Lêvi. Rất may trong đầu chị Anne Thole (cũng như người Samari) không có những tính toán như thế, nên mới có những giá trị Tin Mừng đích thực nơi những nhân chứng sống động hôm nay.

KHI THÁNH LINH HOẠT ĐỘNG

Người Samari là một nhân chứng không phải của niềm tin, nhưng của một con người còn có lương tâm. Chúa Giêsu thấy ngay trong lương tâm và cách hành xử tự nhiên đó có một giá trị Tin Mừng rất lớn. Lương tâm dạy cho ông biết mình liên đới với mọi người, nhất là những người đang có nhu cầu cấp thiết phải giải quyết để sống còn. Nếu không phản ứng kịp thời, mạng sống nạn nhân có thể bị đe dọa. Nhờ phản ứng tích cực và thực tế, người Samari đã hoàn thành nghĩa vụ đối với người thân cận ông chưa một lần quen biết.

Với những người xa lạ mà ông Samari còn cảm thấy liên đới và bổn phận cứu giúp như vậy, tại sao với những đối với đồng bào ruột thịt, chúng ta lại có thể phủi tay và làm lơ như chưa hề quen biết ?! Chẳng lẽ sống trên đời chỉ lo thăng quan tiến chức và làm giàu để vinh thân phì da ? Trước tình cảnh đồng bào bị đánh nhừ tử và bị quăng ra ngoài đường, ta có thể “sống chết mặc bay” được không ?

Khắp hang cùng ngõ hẻm, các bóng áo đỏ, áo đen, áo vàng đang lướt qua những nạn nhân chế độ. Họ bưng tai trước những tiếng rên siết của đồng bào, đồng đạo. Họ ngang nhiên bước qua những xác chết để kịp giờ dâng lễ mỗi ngày. Còn đâu những người con của hằng trăm ngàn các anh hùng tử đạo Việt nam ? Còn đâu Ðạo Nhập Thể giữa lòng dân tộc ? Còn đâu những chứng từ cần thiết cho Giáo hội lớn mạnh ?

Người ta đã chính trị hóa mọi thực tại, để bịt miệng và vô hiệu hóa sức mạnh Tin Mừng. Ðó là một âm mưu thâm độc nhằm hạ uy thế Giáo hội. Không phải bất cứ những gì liên quan tới con người và xã hội đều là chính trị. Tin Mừng phục vụ con người, nhưng không theo phương cách và đường hướng chính trị. Nên nhớ Giáo hội không quá mù quáng và bất lực đến nỗi làm thinh trước sự thao túng chân lý và danh dự Giáo hội cho một mục tiêu chính trị. Khi chính GHVN hay HÐGMVN trở thành nạn nhân, không ai cứu nổi GHVN ngoài GHVN. Bởi vậy, Giám Mục Nguyễn Văn Hòa, chủ tịch HÐGMVN, mới can đảm lên tiếng bênh vực sự thật trong lá thư đề ngày 7 tháng 7, năm 2007, gởi thẳng cho chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết. Nguyên văn bức thư có đoạn: “Thay mặt Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, tôi kính gửi lời thăm Cụ và thưa Cụ việc sau đây: Nhân đọc trong báo “ Tuổi Trẻ “, số ra ngày 6 tháng 7 năm 2007, tại trang 3, liên quan đến vụ xét xử Linh mục Nguyễn Văn Lý, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhận định như sau: Câu trả lời của Cụ Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết “ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Tòa Thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi “ là không đúng sự thật.”[4]

Thực ra, câu nói đó đăng trên báo Nhân Dân, cơ quan chính thức của đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt nam.[5] Họ không e ngại đụng tới quyền lực cao nhất của Giáo hội Công Giáo hoàn vũ và đất nước. Tất cả đều bị họ biến phương tiện phục vụ quyền lợi đảng ! Không biết liêm sỉ ở chỗ nào ! Ðáng lẽ địa vị càng cao, càng phải tôn trọng sự thật chứ ! Tất cả danh dự con người và hướng tiến xã hội đều tùy thuộc sự thật !

Phải chăng “việc lên tiếng của Hội đồng Giám Mục Việt Nam là vì danh dự của các ngài,”[6] như linh mục Trần Công Nghị nhận định ? Chẳng lẽ bao giờ người ta đụng đến mình, mình mới lên tiếng sao ? Tuy chưa ai đụng tới mình, người Samari đã tích cực can thiệp để giúp đỡ nạn nhân. Có lẽ nhận định của linh mục Trần Công Nghị chưa sâu sắc đủ để thấy hết vấn đề.

Muốn thấy hết vấn đề, phải mượn nhận định của ÐHY Phạm Minh Mẫn: “Thực tế cho thấy cơ quan truyền thông xã hội nơi nầy nơi khác thông truyền có khi là sự thật thật, có khi là sự thật ảo, có khi là sự thật bị cắt xén, bị bóp mép, thêm râu ria, có khi là sự thật một chiều, một mặt. Phải chăng nguyên nhân là do quan điểm cho rằng sự thật chỉ là những gì có lợi cho mình? Hoặc do cái nhìn bị giới hạn bởi hoàn cảnh? Hoặc do nỗi sợ hãi nào đó thường núp bóng sau lưng những hình thức bạo lực? Và hậu quả trước mắt là dễ tạo ra mâu thuẫn đối kháng, hoặc gây nhiễu và làm biến chất những mối quan hệ xã hội.”[7]

Thế là chỉ ba ngày sau khi Giám Mục Nguyễn văn Hòa gởi lá thư cho ông Triết, tức ngày 10.07.2007, ÐHY Phạm Minh Mẫn đã lên tiếng: “Tôi nghĩ rằng sự thật là một yếu tố nền tảng cho công cuộc phát triển vững bền đất nuớc, xây dựng các mối quan hệ xã hội thành một sức mạnh cho công cuộc phát triển đó.”[8] Ðúng như thế ! Ðất nước còn lạc hậu vì sự thật bị xuyên tạc và che đậy khắp nơi. Chính vì không nắm được sự thật, con người chưa được giải thoát và dân tộc vẫn chưa có tự do.

Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã ban cho các vị lãnh đạo chúng con can đảm lên tiếng nói sự thật. Xin Chúa Thánh Thần hoạt động mạnh mẽ trong GHVN chúng con. Amen.

đỗ lực 15.07.2007


[1] Trịnh Công Sơn, Diễm Xưa.
[2] Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, Ủy Ban Giáo Hoàng về Công Lý và Hòa Bình, 2004:90.
[3] x. VietCatholicNews 06/04/2007, không biết VietCatholic lấy từ nguồn nào.
[4] http://www.honnho.org/
[5] http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/07/070713_vietcatholicviewnhandan.shtml
[6] http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2007/07/12/VnBishopCouncilRetortsPresidentTriet_GMinh/
[7] http://www.honnho.org/
[8] ibid.

------------------------------------

 

TN 15-C63. AI LÀ ANH EM?


Lc. 10, 25-37

“Thưa Thầy, nhưng ai là anh em thật của tôi.” (Lc 10, 29)

 

Trước năm 75, có một bài hát sinh hoạt lời như sau: “kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người: TN 15-C63


Trước năm 75, có một bài hát sinh hoạt lời như sau: “kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?” Đúng, kẻ thù không phải là con người; bài hát kể tiếp: kẻ thù chính là sự gian ác – vô luân – hờn câm… Bởi vì nếu kẻ thù là con người, thì khi ta giết họ, ta sẽ ở với ai đây. Sau năm 75, Có một câu người ta hay lấy làm châm ngôn: “Bạn bè, phải giúp đỡ; kẻ thù, phải tiêu diệt”. Câu này chắc chắn có nhiều người không nhận. đây chình là đề tài ta sẽ suy niệm trong Chúa nhật hôm nay.

a. Một vài ghi chú để hiểu rõ bài dụ ngôn này:

* con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô: lối 20 cs, băng qua sa mạc gồ ghề khúc khủy, đến ngày hôm nay vẫn còn nhiều bọn cướp lộng hành

* Thày Tư tế: theo luật có bổn phận lo việc phụng tự lễ bái. Ông vừa làm phận sự xong và từ Giêrusalem trở về Giêricô. Hiện tại, ông không có gì ngăn trở để giúp đỡ nạn nhân này, nhưng ông né tránh vì nghĩ mình đã đủ bổn phận rồi.

* Thầy Lêvi: tuy Luật có định, ai đụng vào xác chết là bị ô uế trong ngày đó (Lv 11, 24); nhưng người bị cướp này vẫn chưa chết mà! Chúng ta cũng nên biết trong Đệ nhị Luật còn qui định (Đnl 22, 4): khi thấy bò hay lừa bị ngã, thì đỡ nó dậy… Bò hay lừa mà Luật còn định như thế, huống cho con người ta. Vậy mà Thầy Lêvi vẫn bỏ đi; đây là một thiếu sót lớn lắm…

* người Samaritanô: dân Samaria cũng gốc là người Do thái, nhưng tách lìa nhau từ năm 935 vì lý do Do thái bị chia làm hai nước nam và Bắc, thời vua Omri. Dân Samaria sống chung với dân ngoại nên bị lây nhiễm thói tục ngoại bang. Sau thời lưu đày, Nêhêmia đưa dân trở về quê hương và xây lại đền thờ Giêrusalem. Người Do thái khinh bỉ dân Samaria nên đã không cho họ góp phần vào việc xây lại đền thờ; vì thế, họ tức giận nên đã xây đền thờ riêng trên núi Garizim. Dân Samaria cũng tôn thờ một Chúa Giavê, nhưng chỉ tin vào 5 cuốn sách đầu của Cựu Ước mà thôi. Giữa người Do thái và Samaria luôn có sự kỳ thị kình chống nhau rất lớn. Chúa Kitô muốn dùng hình ảnh người Samaritanô nhân hậu không phải để đả kích người do thái, nhưng chắc chắn Chúa muốn nói lên tình yêu chân thật xuất phát từ trái tim, không phải từ nguồn gốc, địa vị hay chủng tộc…

b. Chúng ta hôm nay nghỉ gì đây? Người ta có thể nói: Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu nói lên các hình ảnh khá rõ nét: hình ảnh người Samaritanô chính là Đức Kitô. Con đường Giêricô: là con đường ở trần gian. Quán trọ: là Hội thánh Chúa Kitô. Dầu và rượu: hình ảnh phép Thánh Thể. Người bị cướp: con người, nhân loại chúng ta…

Đây là một trong những dụ ngôn rất đẹp, Luca muốn ghi lại để gởi cho người Do thái; (vì Tin Mừng của Luca viết ra là để dành cho người Do thái đọc) nói lên lòng mến Chúa yêu người đích thực hệ tại ở đâu, phải thể hiện ra sao, để có được sự sống vĩnh cữu. Như trên ta thấy, người Samaritanô nhân hậu, đã sẵn sàng cuối xuống ôm lấy đau thương của anh em mình, dù người đó là ai: Do thái hay Samria, người đó có yêu thương kính trọng mình hay không. Tấm lòng bao dung nhân ái của người Samaritanô cao cả quá! Ngay hôm nay, nhân loại hô hào yêu thương, quảng đại, tha thứ, xóa bỏ hận thù, nhưng thực sự được mấy người. Con người ngày nay không chỉ đói lương thực, mà còn đói cả tình thương nữa!

c. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện chân thành như sau: Lạy Chúa xin dạy cho con biết sống bao dung, quảng đại, tha thứ như người Samritanô nhân lành, để giảm đi cơn đói khát của nhân loại không phải chỉ cơm bánh hàng ngày, mà là những đau thương nước mắt, nhất là cơn đói tình thương. Amen.

------------------------------------

 

TN 15-C64. CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN - NĂM C 2001

 

Câu chuyện người Samaritanô nhân hậu là một trong những câu chuyện đẹp của Tin: TN 15-C64


Câu chuyện người Samaritanô nhân hậu là một trong những câu chuyện đẹp của Tin Mừng: bằng tình yêu con người đã thiết lập được những tương quan tốt đẹp nhất cho bản thân và cho xã hội. Và đấy chính là sứ điệp của tôn giáo, và là nền tảng cho mọi lề luật. Đức Giêsu chắc chắn như còn muốn nói tới một điều gì sâu xa hơn khi kể lại câu chuyện khác thường này:

Giữa bao người, Đức Giêsu đã chọn một người tư tế, một Lêvi, một người Samaritanô vào chuyện. Những con người hết sức cụ thể, và lớn lên trong những truyền thống thật khác biệt, và thường có một cái nhìn hoàn toàn đối nghịch trong đời thường, thậm chí phải nói tới cái thù thâm căn cố đế giữa 2 dân tộc "thân cận" này.

Trên khoảng đường trên dưới 30 km giữa Giêricô và Giêrusalem ấy có muôn vàn chuyện để nhìn, để ngắm, nhưng Đức Giêsu chỉ dừng mắt nhìn vào một sự việc: "một lữ khách bị rơi vào tay kẻ cướp", một sự việc quá tiêu cực tố giác một xã hội đầy mâu thuẫn và đấu tranh khắc nghiệt.

Và trong truyền thống Israel đã từng nhắc tới biết bao tâm hồn lớn lao xả thân vì đồng loại: như Abraham vị tổ phụ giàu đức hiếu khách và quảng đại, như tổ phụ Giuse trong Sáng thế sử, như truyện về Tobia cha... và còn biết bao "số sót" trong Israel thời Đức Giêsu... thế nhưng cái nhìn của Chúa lại chỉ dừng lại nơi người lữ khách Samaritanô...

Tất cả đều thật khác thường.

Sự khác thường trong những lựa chọn ấy bộc lộ một chân dung, một dung mạo, một con người hoàn toàn mới mẻ gây kinh ngạc cho mọi thứ hạng người trong xã hội thời Ngài. Tin Mừng là ở đó. Tin mừng không nằm trong những con người trên đoạn hành trình, dù là tư tế, dù là Lêvi, thậm chí dù là người Samaritanô nhân hậu kia, nhưng là ở Đấng đang đón nhận cuộc sống ấy để cho nó một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ. Người Samaritanô dẫu có một hành vi thật đáng ngợi khen kia vẫn chưa thoát ra khỏi cái giới hạn của một con người. Ông ta vẫn còn những công việc của riêng mình, ông ta phải bỏ lại nạn nhân cho chủ quán. Có thể nạn nhân cảm kích và thấy tấm lòng "cận thân" của người Samaritanô, nhưng chính người Samaritanô lại đã đi xa mãi mãi. Tin Mừng không thể gắn với con người biệt tăm trong cuộc sống. Chính Đức Giêsu chỉ dừng lại trong hành vi "đã thương giúp người ấy" và muốn hành vi ấy trở nên cuộc sống thường hằng, và chính Ngài đã làm cho cuộc sống đơn thuần chỉ là "sự thương giúp" thuần khiết, "Ta đến không phải để hủy diệt mạng người ta, nhưng để cứu chúng". "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em". Tin Mừng là Đấng, bằng tình yêu mãi mãi trở nên người "thân cận" của mọi con người. Và Đức Giêsu dạy chúng ta hãy làm chứng cho Tin Mừng ấy: nghĩa là bản thân cũng nhờ Đức Giêsu mà trở nên người "cận thân" của những kẻ nghèo khó.

Khi hiểu sứ điệp Tin Mừng là thế, chúng ta mới cảm nghiệm được những tâm tình của thánh thi trong thư Thánh Phaolô. Bởi vì đời thường vốn là những mảnh đời thương đau không tìm được sự băng bó, đôi khi có vài người quảng đại đón tiếp, nhưng chỉ là trong một khoảnh khắc thật giới hạn, thì sự sống mới, sự sống chiến thắng mọi nọc độc của thần chết, sự sống ấy chỉ có khởi điểm trong Đức Giêsu. Chỉ nơi thân thể Người là Hội Thánh, mà muôn vật muôn loài được giao hòa với Thiên Chúa và với nhau trong một tình yêu không có gì có thể phân cắt.

Và khi chấp nhận ở trong Thân Thể nhiệm mầu ấy, người Kitô hữu nhận ra không còn giới hạn nào: sắc tộc, giai cấp, địa vị, tín ngưỡng có thể ngăn cản họ nên đồng hình đồng dạng với Đấng "đã ở sát bên, ngay trong miệng, trong lòng" thúc đẩy họ yêu thương và phục vụ cho đến cùng. Và như Ngài, họ không ra đi như người Samaritanô, mà sẽ "ở lại cho đến tận thế" với từng anh chị em khổ đau của mình.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

------------------------------------

 

TN 15-C65. Yêu thương tha nhân để biến họ thành gần gũi


Chúa Nhật thứ 15 Thường Niên

(11-7-2004)

ĐỌC LỜI CHÚA

·        Đnl 30,10-14: (10) Miễn là anh em nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ.

·        Cl 1,15-20: (20) Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời

Điều răn lớn

 (25) Khi ấy, có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: «Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?» (26) Người đáp: «Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?» (27) Ông ấy thưa: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình». (28) Đức Giêsu bảo ông ta: «Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống».

 Dụ ngôn người Samari tốt lành

 (29) Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: «Nhưng ai là người thân cận của tôi?» (30) Đức Giêsu đáp: «Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. (31) Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. (32) Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. (33) Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. (34) Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. (35) Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. (36) Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?» (37) Người thông luật trả lời: «Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy». Đức Giêsu bảo ông ta: «Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy».

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

 

Hai giới luật quan trọng nhất thời Cựu Ước là giới luật nào? 2. Đối với giới luật thứ hai, cụm từ: TN 15-C65


1.      Hai giới luật quan trọng nhất thời Cựu Ước là giới luật nào?
2.      Đối với giới luật thứ hai, cụm từ «người thân cận» nghĩa là gì? Đức Giêsu hiểu cụm từ này như thế nào? Có phải là người hiện đang gần gũi mình không?
3.      Theo quan niệm của Đức Giêsu, ai là người thân cận của chúng ta mà chúng ta phải yêu thương? Chúng ta đã thật sự sống tinh thần của Đức Giêsu là yêu thương mọi người để biến họ thành người gần gũi mình chưa?

Suy tư gợi ý:

1.      Theo Đức Giêsu, phải hiểu từ «người thân cận» thế nào?

Như chúng ta đã biết, hai giới luật quan trọng nhất của Cựu ước là: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (x. Đnl 6,5 và Lv 19,18). Trong Tân ước, hai giới luật đó được diễn tả thành một giới luật duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2). Tại sao? Vì theo Đức Giêsu, tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa, nếu có, tất nhiên phải được thể hiện thành tình yêu đối với tha nhân.

Vấn đề đặt ra trong bài Tin Mừng mà người thông luật đặt ra là phải hiểu hay giải thích thế nào về nhóm từ «người thân cận» trong giới luật căn bản thứ hai của Cựu ước? Chúng ta thấy Đức Giêsu đã giải thích hai chữ «thân cận» theo quan niệm động: nghĩa là thân cận hay không thân cận là do cách đối xử yêu thương hay không yêu thương của ta đối với tha nhân. Nếu ta yêu thương ai, đối xử tốt với ai, thì người ấy tự nhiên sẽ trở thành người thân cận của ta. Điều này quả thật rất phù hợp với tâm lý tự nhiên của con người. Hai người dù xa lạ nhưng yêu thương nhau thì tự nhiên trở nên gần gũi với nhau. Còn anh em, dù là ruột thịt, mà không yêu thương nhau thì tự nhiên trở nên xa cách. Tình yêu làm con người trở nên gần gũi nhau, còn sự lãnh đạm, vô tình tạo nên khoảng cách.

Vì thế, người Kitô hữu cần biến tất cả mọi người mình gặp trên đường đời trở thành người thân cận của mình bằng cách đối xử với họ bằng tình thương chân thật. Đức Giêsu đã minh họa tinh thần trên bằng dụ ngôn người Samari nhân hậu.

2.      Dụ ngôn người Samari nhân hậu

Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu đưa ra 4 nhân vật:

– Một thường dân Do Thái bị cướp đánh nhừ tử dở sống dở chết và bị bỏ rơi dọc đường.

– Một tư tế và một thầy Lêvi người Do Thái: hai người này thuộc giới cao cấp trong tôn giáo Do Thái, vừa đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo tôn giáo, vừa thi hành nhiệm vụ tư tế, vừa đảm nhiệm việc giáo dục tôn giáo cho tín hữu Do Thái. Hai người này gặp cảnh đau thương của người đồng hương và đồng đạo của mình thì bỏ đi, mặc kệ người ấy sống chết ra sao cũng được.

– Một người Samari: cũng là người Do Thái, nhưng ở vùng miền Trung Do Thái. Vào thời dân Do Thái bị ngoại bang đô hộ và bị lưu đày, vùng Samari bị người ngoại bang tới định cư, khiến cho dân vùng này trở nên lai tạp, không chỉ về mặt nòi giống, mà cả về mặt tôn giáo nữa. Vì thế, dân Do Thái thuần chủng ở miền Bắc và Nam Do Thái rất kỳ thị và khinh thường dân Samari, coi họ không khác gì những người tội lỗi. Vì thế, giữa dân Do Thái và dân Samari có một mối hận thù sâu sắc. Nhưng trong dụ ngôn này, Đức Giêsu đã cho thấy người Samari vốn bị coi là tội lỗi này lại sống đúng luật yêu thương của Cựu ước hơn những vị chức sắc tôn giáo, là những người dạy dỗ mọi người về luật yêu thương ấy.

Nếu so sánh theo quan niệm tĩnh và khách quan, thì hai vị chức sắc Do Thái giáo kia gần gũi với người Do Thái bị cướp kia hơn người Samari, vì họ có tính cách đồng hương và đồng đạo với nhau nhiều hơn. Nhưng hành động yêu thương và xả thân của người Samari đã biến người Do Thái bị nạn trở thành gần gũi đối với anh. Theo quan niệm của Đức Giêsu, vấn đề không phải là gần gũi hay không gần gũi, mà là hành động làm sao để tỏ ra gần gũi. Vì thế, Ngài hỏi người thông luật: «Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?» Và người thông luật đã trả lời: «Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy».

3.      Người thông luật không luôn luôn là người giữ luật

Đây chỉ là một dụ ngôn, nghĩa là một chuyện tưởng tượng ra để minh họa một chân lý. Dù là dụ ngôn, nhưng chắc chắn không phải là vô tình mà Đức Giêsu lại gán cho hai vị chức sắc tôn giáo một tâm trạng vô trách nhiệm, vô tình và thiếu hẳn tình thương đối với người đồng hương, đồng đạo và cũng là «con chiên» của mình như thế. Nhất là khi Ngài lại kể dụ ngôn này cho một thầy thông luật, cũng phần nào thuộc giới có chức sắc trong đạo Do Thái. Điều đó chắc hẳn phản ánh một tình trạng có thật trong tôn giáo Do Thái thời ấy.

Những vị chức sắc Do Thái ấy chắc chắn thông thạo lề luật hơn người Samari rất nhiều, và chắc chắn hai vị này cũng đã rao giảng và hô hào mọi người phải yêu thương nhau như luật dạy. Nhưng Đức Giêsu cho thấy việc thông luật và dạy dỗ người khác về lề luật là một chuyện, còn có áp dụng lề luật ấy hay không lại là một chuyện hoàn toàn khác. Không phải cứ giỏi về lề luật là sẽ giữ luật cẩn thận hơn người khác, không phải cứ dạy dỗ người khác về đạo thì sẽ giữ đạo hoàn hảo hơn người khác. Thực tế cho thấy có rất nhiều trường hợp lại ngược lại. Chính vì thế mà thánh Phaolô mới viết: «Bạn mang tên là người Do-thái, ỷ rằng mình có Lề Luật (…) bạn xác tín rằng mình là người dẫn dắt kẻ mù loà, là ánh sáng cho kẻ ở trong bóng tối, là nhà giáo dục kẻ u mê, là thầy dạy người non dại (…) bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa!» (Rm 2,17-22).

Dụ ngôn trên khiến người Kitô hữu phải xét mình lại. Chúng ta tự hào đạo của chúng ta là đạo yêu thương, nhưng nhiều khi chúng ta lại đối xử với tha nhân không có tình yêu thương cho bằng những người ngoại đạo. Nhiều khi chúng ta giảng dạy về yêu thương nhiều và hay hơn ai hết, nhưng lại cư xử thiếu tình thương hơn ai hết. Và như vậy chúng ta trở thành những kẻ phỉ báng đạo của chúng ta.

Thiết tưởng cũng nên nhắc lại lời thách thức của Mahatma Gandhi đối với những Kitô hữu người Anh thời của ông. Thách thức đó cũng là thách thức của con người thời đại đối với chúng ta. Mặc dù rất say mê con người và giáo lý của Đức Giêsu, rất thích tinh thần bát phúc của Ngài, và sống một cuộc đời rất phù hợp với Tin Mừng, nhưng Gandhi không theo Kitô giáo. Ông không chấp nhận Kitô giáo là đúng hơn, tốt hơn tôn giáo của ông chỉ vì lối sống của người Kitô hữu mà ông biết, tức những người Anh đang đô hộ nước ông, không hơn gì những người đồng đạo của ông, cũng tỏ ra độc ác không kém những kẻ đô hộ khác. Theo ông, nếu Kitô giáo mà đúng hơn, tốt hơn các đạo khác, ắt người Kitô hữu phải sống tốt hơn người của các tôn giáo khác. Ông thách thức người Anh là những người vừa đem Kitô giáo đến với dân tộc ông, vừa nô lệ hóa dân tộc ông: «Các anh chỉ cần sống đúng như tôn giáo các anh chỉ dạy, thì chắc chắn toàn dân Ấn Độ sẽ trở thành Kitô hữu hết». Sự thách đố này quả là nhức nhối đối với rất nhiều Kitô hữu, kể cả những người làm tông đồ.

Thời nay, chắc hẳn cũng có rất nhiều người tương tự như Gandhi, rất có cảm tình với Đức Giêsu, cũng bị hấp dẫn bởi giáo thuyết của Ngài, nhưng họ nhất định không theo Kitô giáo. Lý do: vì họ thấy người Kitô hữu, kể cả những người rao giảng Kitô giáo cho họ, chẳng hề sống tinh thần yêu thương của Đức Giêsu, thậm chí còn sống kém hơn cả bản thân họ. Thật mỉa mai khi chúng ta tự hào về đạo của mình là đạo yêu thương nhưng chúng ta lại sống yêu thương không bằng những người đạo khác! Chúng ta đang vô tình phỉ báng Kitô giáo bằng hành động thật sự! Tội phỉ báng này thiết tưởng còn nặng nề và tai hại hơn phỉ báng bằng lời nói!

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin cho con hiểu tinh thần của Đức Giêsu: không phải chỉ là yêu thương những người gần gũi với mình, mà biến mọi người trở thành gần gũi bằng những hành động yêu thương cụ thể. Nhất là những người đang đau khổ, bệnh tật, nghèo nàn, thiếu thốn, bị bỏ rơi, bị áp bức, là những người đang cần đến tình yêu thương của con nhất. Xin đừng để con tin một đằng, nói một đằng, và hành động một đằng khác.

(JK)

------------------------------------

 

TN 15-C66. TÌNH YÊU KHÔNG BIÊN GIỚI


CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN, năm C

Lc 10, 25-37

 

Đạo của Chúa Giêsu thiết lập là đạo tình thương. Cái khác lạ và kỳ diệu đến ngạc nhiên của: TN 15-C66


Đạo của Chúa Giêsu thiết lập là đạo tình thương. Cái khác lạ và kỳ diệu đến ngạc nhiên của mọi người vẫn là đạo do Chúa Giêsu thành lập ở trần gian hoàn toàn dựa trên tình bác ái, yêu thương. Một thứ luật vượt ngoài sự suy nghĩ của con người. Đạo dậy yêu thương người thù địch, kẻ làm hại, người bắt bớ. Đúng là một thứ luật ở ngoài tầm hiểu biết của con người, của mỗi người. Chúa nói đạo của Ngài không chỉ  yêu thương bằng môi miệng nhưng “ yêu bằng việc làm “. Tin Mừng Luca 10, 25-37 và hai bài đọc Chúa Nhật XV thường niên, năm C sẽ minh chứng điều đó.

ĐẠO CỦA CHÚA GIÊSU:” ĐẠO TÌNH THƯƠNG “:

Khi thiết lập đạo tình thương, Chúa Giêsu họa lại chính con người thật của Ngài như thánh Gioan diễn tả:” Thiên Chúa là tình yêu “. Đã sống tình yêu, thờ phượng Thiên Chúa trên hết mọi sự thì cũng phải thương yêu anh em. Tình yêu thương kẻ khác phải trải rộng đến mọi người, không phân biệt mầu da, ngôn ngữ, chính kiến vv…Đạo Do Thái chắc chắn cũng đã qui định tình yêu thương đối với người khác. Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo tôn giáo, những kinh sư, tư tế, biệt phái và pharisiêu vì bầy ra quá nhiều điều luật tỉ mỉ, chi tiết, nên đã tìm cách giới hạn điều luật đó.Do đó, một người thông luật trong Tin Mừng hôm nay đã hỏi Chúa Giêsu:” Ai là người thân cận của tôi ?”. Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn, một câu chuyện để trả lời cho vị thông luật. Để dễ hiểu hơn câu chuyện này, ta hãy trở về bối cảnh của Do Thái Giáo lúc đó. Người Do Thái và người Samaria đã có mối hiềm khích từ lâu đời.

Cho nên, khi Chúa Giêsu có dịp đi ngang qua xứ Samaria đến thành Sichem, Ngài mệt mỏi vì đường sá, nên ngồi phệt xuống bên bờ thành giếng Giacóp. Một người đàn bà xứ Samaria ra múc nước, Chúa liền xin bà nước uống cho đỡ khát, bà liền sửng sốt thưa Chúa:” làm sao ông là người Do Thái lại xin nước uống với tôi là người Samaria, vì người Do Thái và người xứ Samaria không bao giờ được phép giao thiệp với nhau ( Ga 4, 5-9 ). Thế mà, trong câu chuyện này, ta thấy một người Do Thái bị cướp bóc lột và đánh nửa sống nửa chết trên đường đi Giêricô, rồi có một thầy tư tế và một thầy Lêvi cũng là người Do Thái, đi ngang qua, thấy vậy tránh lối mà đi, không hề đoái hoài, thương giúp người bị nạn. Chỉ có người Samaritanô vốn là thù địch với người Do Thái, khi đi qua thấy người đó lại động lòng thương săn sóc họ hết sức tận tình. Chúa Giêsu hỏi người thông luật:” Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp “ ( Lc 10, 36 ). Người thông luật thưa:” Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy “. Đức Giêsu bảo ông ta:” Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy “( Lc 10, 37 ). Đây là tấm gương bác ái thật cao cả, cho nên Chúa dậy ta cũng hãy làm như vậy.

HÃY YÊU BẰNG HÀNH ĐỘNG, BẰNG GƯƠNG SÁNG, BẰNG VIỆC LÀM TỎA SÁNG:

Yêu như Chúa yêu. Yêu như người Samaritanô yêu không chỉ bằng đầu môi chóp lưỡi mà yêu bằng việc làm. Yêu bằng chính con tim. Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “ Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”. Chúa Giêsu đã nói và đã thực hiện tình yêu vô vị lợi, tình yêu phục vụ, tình yêu tự hiến của mình bằng chính mạng sống của mình:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình thương mến”( Ga 15, 13 ). Chúa dậy và làm gương cho ta để ta thực hiện tình thương mến thương. Sở dĩ có khi ta chưa dám thể hiện tình thương là vì ta sợ mất giờ, sợ thiệt thòi, sợ liên lụy, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an tòan, sợ đụng đến tiện nghi, vật chất của mình. Tất cả những nỗi sợ ấy làm ta co cụm lại, làm ta không dám tung ra, không dám phá tan rào cản của ích kỷ, lòng tham vô đáy của ta. Yêu như Chúa yêu là dám hy sinh cho người khác dù phải thiệt thân. Yêu như người Samaritanô nhân hậu là dám phá tan cái rào cản giữa thù hiềm dân tộc, màu da, ngôn ngữ để giúp người anh em mà luật không cho phép. Yêu như người Samaritanô là dám chịu thiệt thòi về thời gian, công sức, tiền của để cứu người anh em xa lạ. Đạo Kitô là đạo tình thương. Người Kitô hữu mang danh Chúa Kitô mà không thực hành bác ái, yêu thương, không sống tình yêu, không viết lên hai chữ yêu thương bằng chính việc làm tỏa sáng của mình trong đời sống thường nhật với những người thân cận, người đó chỉ là người Kitô hữu hữu danh vô thực, giả hiệu, giả danh. Vì yêu chính là trao ban. Yêu người sẽ gặp Chúa và yêu Chúa sẽ gặp được người.

Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin cho chúng con, để chúng con biết sống và biết yêu như Chúa đã yêu ( Ga 15, 12 ). Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi    DCCT

------------------------------------

 

TN 15-C67. AI LÀ ANH EM TÔI ?


Chúa Nhật 15C Thường Niên

 

Giữa một thế giới đầy thù hận hôm nay, làm sao tìm được khuôn mặt người anh em ?  Trong: TN 15-C67


Giữa một thế giới đầy thù hận hôm nay, làm sao tìm được khuôn mặt người anh em ?  Trong số những bạn bè, đồng nghiệp và người thân, ai là anh em tôi ?  Câu trả lời không có sẵn.  Nhưng phải căn cứ vào thực tế và dựa trên tiêu chuẩn Tin Mừng mới có thể khám phá bộ mặt đích thực của người anh em.

NẠN NHÂN THỜI ĐẠI

Tất cả những điều răn căn bản đã gặp một thách đố lớn.  Vấn đề nằm ở câu thắc mắc của người thông luật: “Ai là người thân cận của tôi ?” (Lc 10:29)  Tất cả bộ mặt thật được phơi bày khi một nạn nhân thời đại gặp phải những thái độ thờ ơ của những bậc lãnh đạo.  Đức Giêsu đã đưa hai gương mẫu của quần chúng là thày tư tế và Lê vi.  Người rất tế nhị khi không đưa thêm một nhân vật thứ ba là người thông luật vào câu truyện, vì sợ đụng chạm tới giai cấp của người đang đối thoại.  Có lẽ nhờ thế, người thông luật này mới đủ bình tĩnh thông suốt vấn đề.

Tình trạng người lữ hành bị đánh nhừ tử như thế chắc chắn phải là một lời mời gọi và là một hình ảnh kinh hoàng đập vào mắt người bộ hành.  Một người có lương tâm không thể nhắm mắt làm ngơ.  Thực tế, những người có trách nhiệm đào luyện lương tâm của người khác, lại bưng tai bịt mắt trước tiếng gào thét của lương tâm.  Họ có đủ phương tiện và thời giờ để giúp đỡ người lữ hành đó.  Không phải vì kỳ thị, vì  đó là một người lữ hành vô danh.  Câu truyện không cho biết chắc chắn ông là người Do thái hay dân ngoại.

Chẳng  cần biết nạn nhân là ai, người Samari đã nhào tới chăm sóc tận tình.  Oâng đã “dùng rượu xức vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.” (Lc 10:34)  Thật là ngược hẳn với thái độ của thày tư tế và Lê vi.  Người Samari chỉ biết hành động theo tiếng lương tâm.  Thái độ hoàn toàn  nhân bản.  Oâng vượt qua mọi thứ ranh giới để đến với con người.  Tiếng lương tâm còn thúc đẩy ông tiến xa hơn nữa khi sẵn sàng chi phí mọi thứ cần thiết vì mạng sống đồng loại.

Người Samari nhân hậu là một hình ảnh tuyệt vời trước mắt người thông luật. Oâng chẳng cần lý thuyết dài dòng.  Dụ ngôn đã mạc khải cho ông biết chính “lòng thương xót” (Lc 10:37) sẽ giúp con người vượt qua mọi biên giới đến với anh em đồng loại.  Không phải tiền bạc hay địa vị, cũng không phải mớ lý thuyết hay truyền thống, nhưng chỉ có lòng cảm thương sâu xa mới đem con người xích lại gần nhau.  Lòng thương xót chính là điểm gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người.  Không có lòng thương xót, không có ơn cứu độ.  Thiếu lòng xót thương, con người biến trái đất thành một nơi không thể sống được và đầy nguy hiểm.  Xã hội chỉ dựa trên cơ chế.  Gia đình chỉ là một nơi trao đổi theo đúng tiêu chuẩn khế ước, chứ không dựa trên giao ước hôn nhân nữa.

Nghe đến đây, người thông luật chợt tỉnh ngộ.  Mặc dù không đề cập tới giai cấp của ông, nhưng Đức Giêsu đã mở mắt cho ông và giai cấp của ông thấy rõ cách đối xử với đồng loại.  Giai cấp của ông đã từng đi khắp nơi để thuyết phục người ta giữ luật Môsê, chất những gánh nặng quá sức lên vai thiên hạ, nhưng một ngón tay họ cũng không động đến.  Luật lệ đã làm mờ mắt khiến họ không nhận ra thực tế cần dựa trên tình thương nhiều hơn.   Biết bao con người đã chết vì luật lệ.  Bởi vậy, cần nhận định ra nguyên tắc: “Con người sinh ra không phải vì luật lệ, nhưng luật lệ vì con người.”  Có thế, mới có thể xây dựng một nền văn minh tình thương.

Thay vì hành xử cứng ngắc theo luật lệ, con người cần sống dựa trên Lời Chúa.  Chỉ Lời Chúa mới đem lại sự giải thoát.  Thực vậy, “Lời Chúa là thần khí và là sự sống; Chúa có những lời đem lại sự sống đời đời.” (x 6:63c.68c)  Lời Chúa vô cùng mãnh liệt, vì đã tạo thành vạn vật, hòa giải và đem lại bình an cho muôn vật trên trời dưới đất (x. Cl 1:16.20)  Lời Chúa mạc khải và nối kết con người với Thiên Chúa và với nhau.  Lời Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta (Ga 1:  ).  Bởi thế Lời Chúa không xa lạ và vượt quá tầm trí con người.  Trái lại, Lời Chúa rất gần gũi, ngay trong miệng, trong lòng chúng ta (x.Đnl 30:14).  Lời Chúa đã chia sẻ tận cùng thân phận con người.  Bởi vậy, không còn nơi nào Lời Chúa không đụng chạm tới.  Vấn đề chỉ là con người đã đáp ứng lại Lời Chúa ra sao.  Người Samari đã đáp lại Lời Chúa.  Thày tư  tế và Lê vi đã khước từ.  Hậu quả chỉ còn những lời con người nói với nhau, thiếu hẳn thần khí và sự sống.  Những lời đó không có sức cứu độ mà chỉ chia rẽ và phá hoại con người mà thôi.

VĂN MINH TÌNH THƯƠNG

Trái lại, Lời Chúa liên kết lòng người và xây dựng cộng đoàn nhân loại.  Giáo hội có sứ mệnh rao giảng và làm cho Lời Chúa thấm nhuần vào mọi cơ cấu xã hội và lương tâm con người.  Thế nhưng, Đức Hồng Y George, Tổng giám mục Chicago, nói với Đức Giáo hoàng:  “Từ bên ngoài, sứ mệnh Giáo hội bị đe dọa vì tự do cơ chế đang bị soi mòn.” (Zenit 01/06/2004)  Nhìn chung, tự do của Giáo hội Hoa kỳ “đang bị đe dọa bởi các phong trào bên trong” và “bởi chính quyền cũng nhưng các bè nhóm bên ngoài.” (Zenit 01/06/2004)  Trong tình cảnh đó, làm sao Lời Chúa có thể đến với con người ?  Làm sao nền văn minh tình thương có thể bắt đầu xây dựng cho cộng đồng nhân loại ?

Thực tế xã hội Hoa kỳ hôm nay đang tìm cách bó chân bó tay Giáo hội.  Thực vậy, “việc một số linh mục làm gương mù trong việc lạm dụng tình dục trẻ em và các giám mục không giám sát đầy đủ đã làm cho nhiều người phản đối Giáo hội Công giáo một cách công khai hơn.  Văn hóa Hoa kỳ bao giờ cũng thế.  Trong bối cảnh đó, tòa án và cơ quan lập pháp càng sẵn sàng hạn chế tự do hoạt động công khai của Giáo hội và can thiệp vào việc điều hành nội bộ Giáo hội theo những đường hướng mới lạ đối với nếp sống Hoa kỳ.  Sự tự đo điều hành nội bộ Giáo hội đang bị suy giảm.  Sứ mệnh Giáo hội đang suy yếu hơn vì không thể tạo ra một cuộc hội thảo công khai cho dân chúng hiểu Tin mừng và những nhu cầu làm môn đệ Chúa.

Ở Hoa kỳ họ thường bàn luận công khai về quyền cá nhân ; không  ai có thể nói về công ích nữa.  Những vấn đề vượt ngoài phạm vi luật pháp trong một nền dân chủ hiến định với một chính quyền hạn chế – bản chất đời sống, hôn nhân, và ngay cả đức tin – bây giờ đều được tòa án quyết định để bảo vệ quyền lợi cá nhân.  Trong nền văn hóa này, Tin mừng mời gọi người ta nhận lãnh tự do như một tặng phẩm Thiên Chúa và sống các đòi hỏi của tự do một cách trung tín.  Nhưng tiếng mời gọi đó lại bị coi là áp chế, và khi công khai phát biểu những đòi hỏi đó, Giáo hội bị coi là kẻ thù của tự do cá nhân và nguyên nhân gây bạo động trong xã hội.  Cuộc đàm thoại công khai ở Hoa kỳ thường bị lạm dụng và cũng không bao giờ phù hợp với thực tế quốc gia và thế giới, làm cô lập các mầu nhiệm đức tin.  Cuộc đàm thoại đó chủ yếu làm sai lạc niềm tin Công giáo và các cơ chế khác bị coi là ‘ngoại lai’ đối với đặc tính của cá nhân chủ nghĩa trần tục.  Sứ mệnh Giáo hội bị đe dọa từ bên trong do sự chia rẽ đang làm tê liệt khả năng hành động mạnh mẽ và quyết liệt của Giáo hội.” (ĐHY George: Zenit 01/06/2004)

Nếu Giáo hội không còn tự do hoạt dộng, chắc chắn những giá trị  sẽ bị soi mòn và cuộc sống sẽ bị đe dọa trầm trọng.  Xã hội sẽ mất bình an.  Trật tự đảo lộn.  Đâu là giải pháp đối phó với nguy cơ khủng bố đang đe dọa phá tan mọi giá trị hôm nay ?  Mọi người đều phải tìm cách sống với nhau như anh em.  Phải liên đới mới có thể tạo một sức mạnh thực sự chống khủng  bố.  “Liên đới không phải là một sự cảm thông mơ hồ hay nỗi buồn đau nông cạn trước những bất hạnh của rất nhiều người xa gần.  Trái lại, liên đới là một quyết tâm vững chắc và kiên trì phó thác cho công ích, nghĩa là, cho thiện ích của tất cả và từng người, vì tất cả chúng ta thực sự có trách nhiệm đối với tất cả mọi người.” (Thomas D. Williams: Zenit 15/05/2004)  Không coi nhau như anh em, nhân loại không thể tồn tại và phát triển.

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

------------------------------------

 

TN 15-C68. Chúa Nhật 15 quanh năm, C


(Lu-ca 10:25-37)

 

Không biết thánh sử Lu-ca có đặt câu truyện “người thông luật hỏi Chúa Giê-su ai là người: TN 15-C68


Không biết thánh sử Lu-ca có đặt câu truyện “người thông luật hỏi Chúa Giê-su ai là người thân cận của ông ta” trong mạch văn về việc rao giảng Tin Mừng hay không.  Nếu có thì hẳn câu truyện đã giúp ta hiểu phải rao giảng Tin Mừng cho mọi người và không chỉ rao giảng bằng những bài vở thuộc lòng, mà là bằng việc làm cụ thể và biểu lộ được căn tính bác ái Ki-tô.  Ta thử suy nghĩ xem người Sa-ma-ri trong câu truyện Tin Mừng hôm nay có thực sự là một môn đệ của Chúa Giê-su không.

1)  Động lực rao giảng Tin Mừng là đức mến

          Chúa Giê-su gọi các môn đệ và sai họ đi rao giảng Tin Mừng.  Người huấn luyện họ, căn dặn những điều cần thiết và cho họ đi tập sự để rút kinh nghiệm và học hỏi thêm.  Tuy nhiên trong việc đào tạo ấy, Chúa Giê-su muốn họ phải nhớ kỹ động lực nào thúc giục họ ra đi để mang Tin Mừng đến với mọi người.  Động lực ấy là lòng mến.  Vì yêu thế gian nên Thiên Chúa Cha đã sai Con Một Người đến với gian trần (Ga 3:16).  Giờ đây với cùng động lực ấy, Chúa Giê-su sai các môn đệ ra đi.  “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17:18).

          Trước hết người môn đệ ra đi vì yêu mến.  Vâng lời Thầy để ra đi là cách tốt nhất để môn đệ biểu tỏ lòng mến đối với Người, vì Người đã thương kêu gọi họ làm môn đệ.  Thánh Phao-lô đã cảm nghiệm tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc ngài thi hành sứ vụ Tông Đồ và lên đường truyền giáo (2 Cr 5:14-20).  Lòng yêu mến Chúa Ki-tô có thể hiểu theo hai chiều, hoặc tình yêu của Chúa Ki-tô dành cho môn đệ, hoặc tình yêu của môn đệ đáp lại tình yêu của Chúa Ki-tô.  Rao giảng không đặt căn bản trên lòng yêu mến thì đâu khác gì hành nghề, có khi kỹ thuật hành nghề rất là ấn tượng và thành công, nhưng không cho người nghe thấy được họ đang rao giảng về Đấng yêu mến họ hoặc Đấng họ yêu mến.

          Theo gương Chúa Ki-tô, môn đệ ra đi vì yêu mến anh chị em.  Nếu “Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người” để rao giảng cho họ biết tình Thiên Chúa yêu ta, thì môn đệ cũng phải ra đi dù trong gian truân để làm chứng cho tình yêu của Đức Ki-tô.  Lòng yêu thương anh chị em giúp ta thắng vượt được mọi trở ngại do kỳ thị phân biệt.  Các vị truyền giáo đã từ phương xa tới, nhưng các ngài đã sẵn lòng nhận nơi các ngài đến làm quê hương.  Lòng yêu mến của người Sa-ma-ri là động lực khiến ông dừng lại và chỉ còn thấy người nằm bên đường là một con người, chứ không phải kẻ đó là người Do-thái hay dân ngoại nữa.  Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành được Chúa Giê-su kể là để nói lên “điều răn lớn” mến Chúa yêu người, nhưng cũng để nói lên động lực rao giảng Tin Mừng là lòng mến Chúa yêu người vậy.

2)  Ra đi như một người thân cận

          Trong dụ ngôn, có ba người đã đi qua chỗ người bị nạn đang cần sự giúp đỡ.  Nếu nhìn theo viễn tượng rao giảng Tin Mừng, ta cứ tạm hiểu người bị nạn ấy tượng trưng cho những người đang cần được nghe lời Chúa và ba người kia là những người có bổn phận phải rao giảng Tin Mừng.  Nhưng để đến và giúp đỡ người bị nạn, họ cần phải có lòng yêu mến đích thực, hay nói khác đi, họ phải “tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp”.

          Môn đệ Chúa phải là “người thân cận” với anh chị em.  Người thân cận không dựa trên danh nghĩa họ hàng hay bạn bè thân hữu, nhưng trên tình yêu thương người ấy tỏ ra qua lối sống yêu thương của Chúa Ki-tô.  Tình yêu thương đích thực là tình được biểu lộ bằng việc làm.  Ta cứ nhìn vào những việc làm của người Sa-ma-ri tốt lành là thấy được ông ta yêu thương người khác như thế nào.  Ông không sợ nguy hiểm nơi hoang dã, biết đâu tụi cướp còn ẩn núp đâu đó.  Ông không ngại vấn đề vệ sinh, làm công việc băng bó cho nạn nhân.  Ông không tiếc tiền bạc tốn kém, sẵn sàng bỏ ra để săn sóc nạn nhân.  Tất cả những việc làm đó là bởi đâu?  Bởi yêu thương.  “Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và CHẠNH LÒNG THƯƠNG” (Lc 10:33).  Như thế, ta nhận thấy người môn đệ ra đi thi hành sứ vụ tông đồ trước hết phải là người thân cận, hoặc phải là người biết chạnh lòng thương.  Ta đọc trong Tin Mừng bao nhiêu lần Chúa Giê-su đã chạnh lòng thương đối với đám đông dân chúng đến với Người.  Người chạnh lòng thương đám dân chúng “vì họ như bầy chiên không người chăn dắt” (Mc 6:34).  Hoặc Người chạnh lòng thương đám đông, “vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn.  Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ xỉu dọc đường” (Mt 15:32).  Quả thực, Chúa Giê-su là Người Thân Cận của toàn thể nhân loại đang cần được cứu chữa.  Người được Chúa Cha sai đến trần gian để làm người thân cận của ta.  Bây giờ đến lượt Người sai ta đến với anh chị em để làm người thân cận của họ.

3)  “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”

Lệnh truyền của Chúa Giê-su nói với người thông luật cũng tựa như lệnh truyền cho bảy mươi hai môn đệ đi giảng:  “Anh em hãy ra đi” (Lc 10:3).  Có lẽ chính ở điểm này mà ta thấy câu truyện người thông luật cùng với dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành có liên hệ với việc các môn đệ được Chúa sai đi rao giảng.  Chúa bảo người thông luật hãy ra đi làm người thân cận của mọi người.  Lề luật trói buộc ta trong đủ mọi những giới hạn, trái lại, lòng yêu mến giải phóng ta và mở ra một chân trời mới cho ta đến với mọi người.  Có một phương trình giữa “anh em hay đi rao giảng Tin Mừng” và “ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy”.  Rao giảng Tin Mừng cũng là làm những gì người thân cận Sa-ma-ri đã làm.

          Chung quanh ta có biết bao người đang bị “lột sạch, bị đánh nhừ tử, nửa sống nửa chết” về cả thể xác lẫn tinh thần.  Ta nghe Chúa Giê-su bảo:  Con hãy đi.  Con hãy “lại gần” họ chứ đừng lảng tránh họ như vị tư tế hay thầy Lê-vi.  Con hãy xoa dịu vết thương của họ bằng “dầu và rượu” tình yêu của con.  Con hãy đưa họ về “quán trọ” là Giáo Hội để ở đó họ được chăm sóc.  Con hãy quảng đại thời giờ tiền bạc vì lợi ích của họ.

          Đi rao giảng không nhất thiết là phải nói, phải thuyết phục...  Thánh Phao-lô đã học được bài học này tại A-then sau diễn từ của ngài trước Hội đồng A-rê-ô-pa-gô (Cv 17:16-34).  Nhưng đi rao giảng trước hết phải là “cũng hãy làm như vậy”, tức là biểu lộ những việc làm phản ảnh tình yêu Chúa Ki-tô, hoặc là “thực thi lòng thương xót” đối với anh chị em.

4)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Có khi nào tôi đọc dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành trong mạch văn làm người môn đệ của Chúa Giê-su không?  Tại sao?

          “Chạnh lòng thương” có phải là động lực thúc đẩy tôi đến với anh chị em không?  Tại sao tôi có thể giữ thái độ dửng dưng đối với việc rao giảng Tin Mừng?  Tại tôi không biết chạnh lòng thương?
          Qua kinh nghiệm sống, ai đang là “người thân cận của tôi”?  Hoặc tôi đang là “người thân cận” của người nào?

Cầu nguyện

          “Lạy Chúa,
          những lúc con cảm thấy đói,
          xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn.
          Khi con khát,
          xin gởi đến cho con
một ai đó đang cần nước uống.
          Khi con lạnh lẽo,
xin gởi đến cho con
          một ai đó đang cần được sưởi.
          Khi con bị xúc phạm,
          xin ban cho con một cai đó đang cần ủi an.
          Khi thập giá của con trở nên nặng nề,   
          xin ban cho con
          thập giá của một người khác để cùng chia sẻ.
          Khi con túng nghèo,
          xin dẫn con đến cho con một người thiếu thốn.
          Khi con không có thì giờ,
          xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát.
          Khi con nản chí,
          xin gởi đến cho con một người cần khích lệ.
          Khi con chỉ biết nghĩ đến minh,
          xin xoay chuyển tư tưởng con hướng đến tha nhân.”
- Trích trong PRIER

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 113)

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

------------------------------------

 

TN 15-C69.  Chúa Nhật 15 Quanh Năm


(15-7-01)

Thánh ca và lời nguyện mở đầu

Kinh Thánh:       Cô-lô-xê 1: 15-20

 

Trong những câu trước (1-14), thánh Phao-lô khen ngợi tín hữu Cô-lô-xê có đức tin mạnh mẽ từ: TN 15-C69 


Trong những câu trước (1-14), thánh Phao-lô khen ngợi tín hữu Cô-lô-xê có đức tin mạnh mẽ từ khi họ được ơn trở lại. Ngài vẫn luôn cầu nguyện cho họ, xin Chúa ban cho họ được mỗi ngày nhận biết thánh ý Chúa hơn. Giờ đây ngài tiếp tục trình bày tương quan giữa Chúa Ki-tô với Chúa Cha, với công trình tạo dựng và với kế hoạch cứu chuộc, tức là phần giáo thuyết quan trọng nhất của thư Cô-lô-xê. Chính vì thế, đoạn thư này cũng được sử dụng cho lễ Chúa Ki-tô Vua, bắt đầu từ câu 12.

          Nhiều học giả Kinh Thánh coi Cl 1:15-20 là một bài thánh ca phụng vụ được thánh Phao-lô đưa vào trong thư, nhằm nhắc nhở tín hữu Cô-lô-xê về thế giá siêu việt của Đức Ki-tô. Đoạn Kinh Thánh chia làm hai phần. Phần thứ nhất (1:15-18a) nói về vai trò của Đức Ki-tô trong công việc tạo dựng và phần thứ hai (1:18b-20) bàn đến công việc của Đức Ki-tô trong chương trình cứu chuộc.

          Vai trò của Đức Ki-tô trong việc tạo dựng được diễn tả qua những giới từ trong Người, nhờ Người và cho Người. Muôn loài muôn vật, trên trời dưới đất, hữu hình vô hình, cả đến các thiên sứ mà tín hữu Cô-lô-xê bị cám dỗ thờ phượng, tất cả đều được tạo dựng trong, nhờ và cho một nguyên lý duy nhất là Đức Ki-tô. Tất cả đều có quan hệ với căn tính của Đức Ki-tô vì Người là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" và "trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo." Khi diễn tả Đức Ki-tô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, thánh Phao-lô muốn nói nơi Đức Ki-tô "tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể" (2:9). Còn khi nói Đức Ki-tô là trưởng tử muôn loài thụ tạo, ngài khẳng định vị thế ưu việt của Đức Ki-tô trên mọi thụ tạo, nghĩa là sự hiện hữu của mọi thụ tạo đều hoàn toàn tùy thuộc Người. Thánh Phao-lô kết luận về vai trò của Đức Ki-tô trong việc tạo dựng bằng hình ảnh Người là "đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh." Ý niệm Hội Thánh là "nhiệm thể Chúa Ki-tô" trong thư Ê-phê-xô và Cô-lô-xê hơi khác với ý niệm trong thư Rô-ma 12:3-8 và thư 1 Cô-rin-tô 12:12-31. Hình ảnh nhiệm thể trong Rm và 1Cr nhấn mạnh đến vai trò chức năng, còn trong Ep và Cl chỉ là dùng hình ảnh để mô tả. Do đó, Ep và Cl muốn nói về Hội Thánh toàn cầu trong khi Rm và 1Cr nói đến hội thánh địa phương; như thế Ep và Cl đưa chúng ta tới cái nhìn Ki-tô học mang chiều kích vũ trụ quan.

          Bắt đầu từ câu 18b, thánh Phao-lô chuyển sang vai trò của Đức Ki-tô trong công cuộc cứu chuộc. Cũng giống như phần thứ nhất khi gọi Đức Ki-tô là "trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo," thì trong phần thứ hai, ngài gọi Đức Ki-tô là "trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại." Gọi Đức Ki-tô như thế, ngài muốn nói lên sự ưu việt của Đức Ki-tô trong chương trình cứu chuộc, nghĩa là việc mọi người được cứu chuộc đều hoàn toàn tùy thuộc vào Đức Ki-tô. Tiếp đến, khi giải thích sự viên mãn chỉ được thể hiện trong Đức Ki-tô (có lẽ là việc bản tính nhân loại của Đức Ki-tô đã thể hiện được hình ảnh Thiên Chúa vô hình cách đầy đủ nhất), thánh Phao-lô muốn nói rằng kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa là Người muốn muôn vật phải được hòa giải với Người nhơ# Đức Ki-tô và nhờ Máu Đức Ki-tô đổ ra trên thập giá.

          Như thế chúng ta có thể nhận ra cách trình bày song song giữa vai trò của Đức Ki-tô trong việc tạo dựng với vai trò của Đức Ki-tô trong việc cứu chuộc. Muôn loài trên trời dưới đất được tạo dựng trong, nhờ và cho Đức Ki-tô, thì cũng thế, muôn loài trên trời dưới đất được hòa giải (nghĩa là được cứu chuộc) nhờ Đức Ki-tô và nhờ Máu Người đổ ra trên thập giá.

          Có một nguy hiểm là chúng ta thường tách rời hai việc tạo dựng và cứu chuộc như hai thời điểm riêng biệt. Nếu đọc những dòng trên của thánh Phao-lô, chúng ta sẽ nhận ra tạo dựng và cứu chuộc là hai chiều kích của cùng một tiến trình. Tôi được Thiên Chúa tạo dựng là để cho tôi được trở nên giống Người (St 1:26-27) và tôi được cứu chuộc nghĩa là hình ảnh Thiên Chúa được thể hiện nơi tôi. Đối với tiến trình tạo dựng-cứu chuộc ấy, Đức Ki-tô là nguyên lý, tức là tiến trình ấy chỉ có thể được thực hiện trong Người, nhờ Người và cho Người.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

          Trong Thánh Lễ, tôi nhận ra thế nào về tầm quan trọng của những lời kết thúc phần kinh nguyện Thánh Thể: "Chính nhờ Đức Ki-tô, cùng với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô..."?

          Vai trò của Đức Ki-tô gắn liền với thân phận mỗi người chúng ta và đưa tới kết luận: chúng ta phải kết hiệp với Người (Cl 3:1-3). Vậy tôi có nhận thức vai trò ấy không? Và tôi kết hiệp với Đức Ki-tô như thế nào? Làm sao phát triển quan hệ với Chúa Ki-tô?

          Nếu có dịp đọc hết thư Cô-lô-xê, tôi học hỏi được những gì về mầu nhiệm Chúa Ki-tô và mầu nhiệm Hội Thánh?

          Để hiểu thêm về giáo lý của thư Cô-lô-xê, tôi nên đọc thêm thư Ê-phê-xô là thư khai triển rộng hơn cùng một giáo lý này. Nhóm sẽ làm gì để giúp nhau học hỏi về giáo lý của hai thư quan trọng này?

Cầu nguyện kết thúc

          Sau những lời nguyện bộc phát, nhóm cùng hát "Gặp gỡ Đức Ki-tô, biến đổi cuộc đời mình...", hoặc một bài hát thích hợp.

Lm. Trần Đình Nhi

------------------------------------

 

TN 15-C70. CHÚA NHẬT 15 QUANH NĂM


(Lu-ca 10: 25-37)

 

Làm môn đệ Chúa tức là làm chứng cho những giá trị Tin Mừng.  Việc này đòi hỏi người môn: TN 15-C70


Làm môn đệ Chúa tức là làm chứng cho những giá trị Tin Mừng.  Việc này đòi hỏi người môn đệ phải thay đổi toàn diện con người mình cho đúng với mẫu người Chúa Giê-su đòi hỏi.  Làm sao có thể làm chứng được khi chúng ta nói một đường làm một nẻo?  Do đó, Chúa Giê-su đã nói lên mối quan hệ giữa môn đệ với Người phải như thế nào.  Để sống mối quan hệ ấy, môn đệ phải trả một giá đắt bằng chính bản thân mình, tức là yêu mến Người “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn.”  Cái nhìn về yêu thương cần phải thay đổi, phải trở về nguồn và phải khác với những gì não trạng Do-thái trong Cựu Ước đã chủ trương, theo đó người ta phải yêu mến Chúa cách tuyệt đối, nhưng lại yêu tha nhân một cách tương đối.  Nghĩa là đối với tha nhân, ta yêu thương những ai yêu thương ta và ghét những ai ghét ta.  Câu truyện đối thoại giữa người thông luật với Chúa Giê-su đã nói lên cốt lõi của thay đổi ấy:  ta phải yêu mến Thiên Chúa cách tuyệt đối với tất cả con người ta, thì ta cũng phải yêu mến tha nhân cách tuyệt đôí như yêu mến chính bản thân ta.

a)  Tính cách tuyệt đối của lòng yêu mến

          Yêu mến là phương tiện để có được “sự sống đời đời làm gia nghiệp.”  Người thông luật đã ý thức điều ấy và ý thức này quả là hiếm gặp thấy nơi những người Do-thái khác, nhất là trong giới Pha-ri-sêu và thông luật.  Não trạng Do-thái thời ấy đã bị những người cầm cân nảy mực làm cho biến đổi đi rồi.  Thay vì yêu mến để được sống đời đời thì người ta lại nhấn mạnh đến những hình thức bề ngoài, tuân thủ những lễ nghi rườm rà phô trương mà đánh mất chính động lực hành động, đó là lòng yêu mến.  Trong suốt thời gian rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã đả phá tinh thần vị luật này và cố gắng đưa người ta trở về với tinh thần chân chính của việc giữ luật, tức là giữ luật vì lòng yêu mến.  Vì muốn yêu mến Chúa, ta mới đem tất cả những gì mình có mình là để làm phương tiện giữ luật của Người.  Vì muốn yêu mến tha nhân, ta mới sẵn sàng chấp nhận người là ta và ta là người.

            Để diễn tả tính cách tuyệt đối của lòng yêu mến, Chúa Giê-su muốn trưng dẫn Lề Luật.  Người nhờ nhà thông luật nói lên luật của lòng yêu mến.  Ông ta đọc, trước hết lòng yêu mến Thiên Chúa:  “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi.”  Rồi ông đọc tiếp về lòng yêu mến tha nhân:  “Và (yêu mến) người thân cận như chính mình.”  Chúa Giê-su nhìn thấu tâm can ông.  Người biết ông thực sự hiểu được tính cách tuyệt đối của lòng yêu mến.  Bởi vì lòng, linh hồn, sức lực và trí khôn là tất cả những gì ta có, nên bao lâu ta chưa yêu mến Chúa với tất cả con người của mình, thì ta vẫn chưa có tình yêu tuyệt đối đối với Thiên Chúa.  Cũng thế, bao lâu ta chưa yêu mến tha nhân như chính ta, thì ta chưa đạt tới mức tuyệt đối của tình yêu.

          Chúa Giê-su có cách diễn tả tính cách tuyệt đối của lòng yêu mến tha nhân.  Người dạy:  “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13).  Chúa không chỉ nói suông, nhưng chính Người đã sống điều Người dạy.  Người dành cho ta tình yêu tuyệt đối của Người khi chết trên thập giá để cứu chuộc ta.

 b)  Ai là người thân cận của tôi?  

          Tuy nhà thông luật kia hiểu được tính cách tuyệt đối của lòng yêu mến, nhưng có thể ông không dám thoát ra ngoài cái não trạng đã có tự lâu đời, hoặc ông muốn Chúa Giê-su soi sáng thêm cho ông để ông có thể khởi đầu hành trình làm môn đệ Người.  Muốn làm môn đệ Chúa, ông cần phải vượt qua quan niệm cổ truyền về đối tượng phải yêu mến, phải mang lấy cái nhìn mới của Chúa Giê-su để ý thức rằng tình yêu không thể bị giới hạn do dân tộc, mầu da, ngôn ngữ...  Hoặc nói theo cách nói của Lề Luật:  ta yêu mến tha nhân như ta yêu mến chính ta.  Tha nhân là ta, chứ không phải như Jean Paul Sartre bảo “tha nhân là hỏa ngục.”

          Câu truyện Chúa Giê-su kể về người Sa-ma-ri tốt lành không có ý mỉa mai các tư tế, thầy Lê-vi hay bất cứ ai khác, nhưng cốt để nói lên những định kiến và câu nệ đã giới hạn tình yêu đích thực, không để cho tình yêu phóng tới mức độ tuyệt đối của nó.  Tư tế và thầy Lê-vi đã để cho luật thanh tẩy bóp chết lòng yêu thương đối với người Do-thái gặp nạn.  Trái lại, người Sa-ma-ri thì phá bỏ óc kỳ thị, phân cách người Sa-ma-ri với người Do-thái, để cho tình yêu dành cho người gặp nạn được nảy nở không ngừng, biểu lộ qua từng cử chỉ ưu ái ông ta dành cho nạn nhân.  Mỗi việc làm là một cách biểu lộ lòng yêu mến, không ngại nguy hiểm, thời gian, tiền bạc.  Giá của tình yêu phải là “dù có tốn kém bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”!  Tính cách tuyệt đối của tình yêu nằm ở những điểm ấy.

          Câu truyện đã đủ để làm sáng tỏ vấn đề “ai là người thân cận của tôi?”  Cũng lại nhà thông luật đã trả lời giùm cho Chúa Giê-su:  “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với nạn nhân.”  Vậy người thân cận của tôi không chỉ là người yêu thương tôi, giống tôi, cùng mầu da tiếng nói với tôi...  Nhưng là người “thực thi lòng thương xót”, vượt qua mọi hàng rào ngăn cách của xã hội, của định kiến, để tiến tới tuyệt đỉnh của tình yêu.

 c)  “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”

          Qua lệnh truyền của Chúa, ta có cảm tưởng nhà thông luật kia đã hiểu được sự đổi mới Chúa mang lại cho ông.  Bởi vì ngay khi gặp Chúa, ông đã mong muốn “được sự sống đời đời.”  Sau khi trả lời Chúa về tính cách tuyệt đối của lòng mến Chúa yêu người, ông đã được Chúa khích lệ:  “Ông trả lời đúng lắm.  Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”  Rồi cuối cùng là lệnh truyền ông phải ra đi thực thi điều răn mới.

          Hãy đi, đi ngược lại quan niệm cổ truyền về lòng yêu mến tha nhân.  Không còn là “mắt đền mắt, răng thế răng”, là “yêu kẻ yêu ta và ghét kẻ ghét ta” nữa!  Nhưng là yêu thương cả kẻ thù với ta.  Không còn là đi một dặm với người bức bách mình, mà là đi luôn hai dặm.  Ta có thể đọc lại Mát-thêu 5:20-26,38-48 để xác tín được tính cách tuyệt đối của lòng yêu mến tha nhân.  Hãy đi nói lên một hành trình.  Trên hành trình ấy, ta sẽ luôn gặp những trở ngại muốn cản bước ta tiến đến mức độ tuyệt đối của lòng yêu mến.  Nhưng không phải cứ ra đi là đủ rồi, mà phải làm nữa.  Thực thi đức ái phải biểu lộ qua việc làm cụ thể.  Ta không thể chỉ nói “lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời, mà phải thi hành những điều Chúa dạy.  Cũng thế, ta không thể chỉ nói “I love you” với tha nhân là được sự sống đời đời, mà phải biểu lộ bằng việc làm.

          Lời Chúa thực là một thách đố lớn đối với ta, đòi hỏi ta phải chấp nhận mất mát thiệt thòi.  Đúng như Chúa nói:  “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:27).

 d)  Suy nghĩ và cầu nguyện

          Thông thường tôi vẫn nghe nói về lòng mến Chúa yêu người.  Nhưng tôi đã hiểu điều ấy một cách mơ hồ hay đã hiểu đúng như ý của Chúa Giê-su?  Nhất là tôi có xác tín sống yêu thương là phương thế duy nhất để được sự sống đời đời không?

          Tôi thuộc loại người câu nệ lề luật?

          Đâu là cản trở chính khiến tôi không để cho lòng yêu thương của mình phóng tới điểm tột cùng của nó?  Tôi có thực sự yêu mến Chúa với tất cả con người tôi không?  Tôi đã không yêu tha nhân “như chính mình” ở phương diện nào và tại sao?

          Tôi không phải là “người thân cận” đối với người nào?  Tại sao?  Làm thế nào để tôi trở thành người thân cận của họ?

 Cầu nguyện:

          “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
          có những ngày
          đón nhận những người khác
          là điều vượt quá sức con,
          vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
          Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
          có những ngày
          con không thể nào kính trong kẻ khác được,
          vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
          Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
          có những ngày
          mà yêu mến người khác
          làm cho tim con đau nhói,
          vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
          và những giới hạn của bản thân con.
          Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
          trong những ngày khó khăn đó,
          xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
          tất cả chúng con đều là con cái Chúa
          và đừng để con quên lời Chúa nói:
          “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
          là làm cho chính Ta.”
Trích trong PRIER

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 112)
 Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

------------------------------------

 

TN 15-C71. CHỦ NHẬT XV THƯỜNG NIÊN


15.07.2001

NGHE:

* Đnl 30,10-14:

Thật vậy, Đức Chúa sẽ lấy làm vui vì hạnh phúc của anh em.miễn là anh em giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người.., miễn là anh em trở về với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ.

* Cl 1,15-20:

Thánh tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước môi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành.Người cũng là đầu của thân thể nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ Máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.

* TIN MỪNG: Lc 10,25-37: Điều răn lớn - Dụ ngôn người Sama- ri tốt lành.

Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sứ sống đời đời làm gia nghiệp?" Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? Oâng đọc thế nào?" Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của Ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình." Đức Giêsu bảo ông ta: "Oâng trả lời đúng lắm, cứ làm như vậy là sẽ được sống.

Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ mình là người có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" Đức Giêsu đáp: "Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thầy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương. Oâng ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác." Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giêsu bảo ông ta: "Oâng hãy đi và cũng hãy làm như vậy."

NGẪM

* Câu hỏi gợi ý:

 

Giữa "hiểu biết" về Đạo và "sống" Đạo có một khoảng cách rất lớn. 2. Từ "Ai là người thân cận: TN 15-C71


1. Giữa "hiểu biết" về Đạo và "sống" Đạo có một khoảng cách rất lớn.
2. Từ "Ai là người thân cận của tôi?" đến "Tôi là người thân cận của ai?"

* Suy tư gợi ý:

1. Khoảng cách rất lớn giữa "hiểu biết" về Đạo và "sống" Đạo:

Câu chuyện mà Tin Mừng Luca kể lại cho chúng ta hôm nay khiến chúng ta phải giật mình suy nghĩ khi thấy rằng giữa "nói" và "làm", giữa hiễu biết về Đạo và sống Đạo có một khoảng cách lớn lao. Thời Đức Giêsu cũng đã có tình trạng ấy: thầy tư tế của đền thờ và thầy lê-vi của Do Thái giáo đều biết rất rõ là giới răn quan trọng nhất của Đạo Chúa là giới răn yêu thương. Thế nhưng họ đều tìm cớ để khỏi phải thực hành giới răn ấy, khi trước mắt họ là một con người bị nạn cướp bóc lột và đả thương đang nằm chờ được họ giúp đỡ. Trong khi ấy một người ngoại -người Samari- lại là người thực thi đức yêu thương một cách cụ thể, đúng lúc, đúng cách! Trước mắt người Do Thái thì người Samari chỉ là một kẻ ngoại đạo, đáng khinh khi. Nhưng trên thực tế người ấy lại có những tâm tình mà chính Đức Giêsu đã có, trước nỗi thống khổ của đồng loại: Đó là biết "chạnh lòng thương". Phúc Aâm ghi lại nhiều lần Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, đã xúc động..trước cảnh bất hạnh của con người, trước mồ người bạn thân là Lagiarô#. Người Samari cũng "chạnh lòng thương" trước người bị nạn, nằm bên lề đường.giống như Đức Giêsu đã "chạnh lòng thương" trước đám đông không người chăm lo, săn sóc. Người "ngoại" mà giống Chúa hơn người có đạo, hơn cả các đấng bậc trong Đạo. Ngày nay trong cộng đoàn chúng ta có thấy tình trạng y như thê này không? Thực tế cho thấy là đó đây vẫn xẩy ra tình trạng tương tự. Phải chăng vì thế mà việc truyền giáo của chúng ta ít có kết quả? Phải chăng vì thế mà giới trẻ càng ngày càng xa lánh Giáo hội? Phải chăng vì thế mà nghe nói đến công giáo, người lương vẫn thờ ơ dửng dưng, vì họ không thấy trong công giáo có gì là hấp dẫn, là thu hút cả?

          2. Từ "Ai là người thân cận của tôi?" đến "Tôi là người thân cận của ai?"

Đức Giêsu đã khéo lái vấn đề từ câu hỏi của người thông luật "Ai là người thân cận của tôi?" sang gợi ý tuyệt vời của Ngài: "Tôi là người thân cận của ai?" Thành ra thay vì Đức Giêsu phải trả lời câu hỏi của người thông luật thì ông ấy và chúng ta phải trả lời câu hỏi mà Đức Giêsu đã đặt ra cho ông ấy và cho chúng ta: "Các bạn là người thân cận của ai?" Nói cách khác: trước những người đang cần đến sự giúp đỡ, yêu thương của các bạn thì các bạn đã cư xử như thế nào với những người ấy, để các bạn trở thành người thân cận của những người ấy?

Tôi nhớ lại một kinh nghiệm "độc đáo và khó quên" mà tôi đã có được trong khóa huấn luyện cán bộ giáo dân mà tôi được tham dự vào mùa hè 1995 tại Viện Phát Triển Mục Vụ (Philippin). Tôi xin chia sẻ kinh nghiệm ấy với các anh chị em và với bạn bè thân hữu các nơi:

Trong một buổi học, các học viên chúng tôi được giảng viên yêu cầu mỗi người lấy một tờ giấy và ghi tên tất cả những người thân của mình, những người mà mình yêu thương đến độ có thể hy sinh mạng sống vì những người ấy? Ai nấy chăm chú suy nghĩ và cắm cúi viết. Tôi cũng làm thế. Nhưng rất nhanh, tôi nhận ra rằng danh sách những người thân của tôi, những người mà tôi thương yêu hơn cả bản thân mình đến mức tôi sa#n sàng chấp nhận mọi hy sinh vì những người ấy thì rất ngắn! Vì ngoài mẹ tôi, vợ tôi và hai con tôi và một vài người khác, tôi không dám ghi thêm tên một người nào khác nữa, vì tôi không chắc là mình đã yêu thương những người ấy đến độ có thể hy sinh mạng sống cho một ai trong họ.

Tôi phải thú nhận rằng: dù giảng viên không yêu cầu chúng tôi nộp danh sách, cũng không yêu cầu học viên nói lên số người được ghi trong tờ giấy của mình nhưng riêng tôi, tôi rất xấu hổ: xấu hổ với Chúa và xấu hổ với chính mình. Té ra nhờ bài tập này mà tôi khám phá ra rằng cách sống Đức Aùi của tôi còn rất mông lung, lý thuyết, hời hợt, thiếu đối tượng và giới hạn. Bài học khiêm tốn mà tôi rút ra được từ kinh nghiệm này quả là một hồng ân lớn lao mà suốt đời tôi không bao giờ quên.

Cho phép tôi mời các anh chị và các bạn hãy dành một khoảng thời gian rảnh rỗi để làm "bài tập" độc chiêu này! Tôi tin chắc rằng sau khi làm bài tập này một cách nghiêm túc, các anh chị và các bạn sẽ khiêm tốn hơn trong suy nghĩ và ăn nói. Các anh chị và các bạn cũng sẽ khoan dung hơn đối với những thiếu sót, yếu đuối, thậm chí tội lỗi, của người khác.

NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dậy con rằng: không phải những người cứ kêu: "lạy Chúa, lạy Chúa." là được vào Nước Trời. Nhưng chỉ những ai thi hành Ý muốn của Cha, mới được vào mà thôi (Mt 7,21). Xin cho điều Chúa dậy in sâu vào tâm trí con, để con không bao giờ quên, trái lại luôn cố gắng sống theo lời Chúa dậy!

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dậy con rằng: Chúa chỉ tính sổ với con về những hành động yêu thương, bác ái mà con đã làm hoặc đã không làm cho những người anh em của con mà thôi (xem Mt 25). Xin cho điều Chúa dậy in sâu vào tâm trí con, để con không bao giờ quên; trái lại luôn cố gắng sống theo lời Chúa dậy!

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ban ánh sáng và sức mạnh của Ngài cho con, để con biết sống như người khôn trong Phúc Aâm tức biết lắng nghe và thực thi Thánh Ý Thiên Chúa, biết hy sinh quên mình để yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.

(Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

------------------------------------

 

TN 15-C72. Chúa Nhật XV Thường Niên C


Ai Là Đồng Loại Của Tôi ?

Lc 10:25-37: 25 Và này một luật sĩ đã chỗi dậy, và muốn thử Ngài thì nói: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp?" 26 Nhưng Ngài nói cùng người ấy: "Trong Lề luật đã viết gì? ông đọc làm sao?" 27 Ðáp lại người ấy nói: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi, và hết trí khôn ngươi, và đồng loại ngươi như chính mình". 28 Ngài nói với người ấy: "Ông đã trả lời cách chí lý. Hãy làm thế và sẽ được sống".

29 Người ấy muốn biện chính cho mình thì nói cùng Ðức Yêsu: "Nhưng ai là đồng loại của tôi?" 30 Tiếp lời, Ðức Yêsu nói: "Người kia từ Yerusalem xuống Yêricô, và đã sa vào ổ cướp; chúng lột hết áo xống và đánh nhừ tử người ấy, đoạn chúng bỏ mặc người ấy nữa sống nữa chết mà đi mất. 31 Tình cờ, một tư tế nọ cũng xuống theo con đường ấy, nhưng thấy người kia, ông tránh một bên mà đi qua. 32 Cũng vậy một Lêvit đến nơi, thấy thế cũng tránh một bên mà đi qua. 33 Một người Samari nọ, nhân đi qua đường, cũng đến nơi ấy, thấy thế thì chạnh lòng thương, 34 tiến lại mà ràng buộc thương tích người ấy, sau khi đã đổ dầu và rượu; đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa đến quán trọ, và săn sóc người ấy. 35 Sáng hôm sau, rút hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo: "Ông hãy săn sóc người ấy, và phải tiêu pha gì thêm, thì chính tôi, vòng về, tôi sẽ trả ông". 36 Vậy theo ý ông, thì ai trong ba người ấy đã nên đồng loại của người sa vào ổ cướp?" 37 Ông ấy đáp: "Kẻ đã xử nhân nghĩa với người ấy". Ðức Yêsu nói với ông: "Cả ông nữa, hãy đi và làm như thế!"

 

Ngữ cảnh của đoạn 10:25-37 là hành trình của Chúa Giêsu lên Giêrusalem (9:51-19:27). Dựa: TN 15-C72


Ngữ cảnh của đoạn 10:25-37 là hành trình của Chúa Giêsu lên Giêrusalem (9:51-19:27). Dựa trên ghi nhận “Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem” (9:51; 13:22; 17:11), hành trình nầy có thể chia làm ba phần; như thế, đoạn tin mừng trên nằm trong giai đoạn thứ nhất của hành trình (9:51-13:21). Giai đoạn nầy gồm các giáo huấn, nhấn mạnh đến hành động, cho các môn đệ và cả các cuộc tranh luận với những người đối nghịch. Đoạn 10:25-37 gồm hai phần là bàn về sự sống đời đời (10:25-29) và câu chuyện người Samaritanô (10:26-37). Cấu trúc của hai phần nầy được trình bày cách cân xứng gồm những câu hỏi - trả lời. Phần một (10:25-28), câu hỏi của người thông luật (c. 25), câu hỏi ngược lại của Chúa Giêsu (c. 26), câu trả lời của người thông luật trích dẫn từ Sách Thánh (c. 27); lời khen ngợi và mời gọi hành động (c. 28). Phần hai (10:29-37), câu hỏi của người thông luật (c.29); lần nầy Chúa Giêsu trả lời bằng câu chuyện (c. 30-35) trước khi Người hỏi ngược lại (c. 36); câu trả lời của người thông luật (c. 37a); lời mời gọi hành động (c. 37b). Chủ đề đoạn nầy là bàn về chân dung người lân cận. Dẫn nhập và kết luận của câu chuyện (10:29.36) qui chiếu về lại giới răn yêu thương người thân cận (10:27). Qua câu chuyện Chúa Giêsu trình bày cho người thông luật là Người nghĩ thế nào về “người lân cận”. Một cái nhìn mở rộng hơn quan niệm của lề luật cũ.

Người thông luật đặt câu hỏi về sự sống đời đời (10:25-29).

 Khác với Matthêô và Marcô trong đoạn tương ứng, Luca gọi là “người thông luật” thay vì Sađucêô hay luật sĩ (x. Mt 22:34; Mc 12:28) với hàm ý tiêu cực. Họ là những người biết luật, thầy dạy luật và giải thích luật, nhưng lại là những người không giữ luật (x. 7:30; 11:45.46.52; 14:3). Ông đến thử Chúa Giêsu (c. 25); ma quỉ cũng đã làm (x. 4:7.12). Nhưng theo diễn tiến của trình thuật, chính Chúa Giêsu mới là Người thử ông và làm chủ câu chuyện. Như vị Thầy (c. 25), Người dẫn người thông luật nầy đi như học trò của Người. Người đặt câu hỏi cho ông phải trả lời (c. 27), Người khen ngợi (c. 28a) và ra lệnh cho ông phải hành động (c. 28b.37). Câu hỏi ông đặt ra không giống như trong Matthêô và Marcô: “Tôi phải làm gì để có sự sống đời đời?”. Để trả lời, Người hướng ông về Sách thánh. Từ câu hỏi “được viết gì trong Lề luật?” đến “ông đọc thế nào?” (c. 26), Người muốn nói đến thái độ đọc Sách thánh. Việc nầy phải tương đồng với lời được ghi trong Lề luật. Đó là bước đầu để có sự sống đời đời; khác với câu hỏi “Đâu là giới răn trọng nhất” (x. Mt 22:34; Mc 12:28).

Luca trích dẫn hai câu Sách thánh (cc. 27-28), Đnl 6:5 về yêu mến Thiên Chúa và Lv 19:18 về yêu người thân cận. Ông không gọi đó là “giới răn trên hết” hay “lớn nhất”. Chúng được nói ra bởi miệng người thông luật thay vì bởi Chúa Giêsu. Có thể vì Luca quan tâm hơn đến hành động cụ thể diễn tả lòng mến ấy, nhất là đối với người lân cận, như dụ ngôn người Samaritanô được dùng làm minh họa. Câu trả lời của người thông luật làm thoả mãn Chúa Giêsu. Đòi hỏi đầu tiên là làm như điều đã nói. Như thế, sự sống đời đời gắn liền với việc thực hành, “Hãy làm điều ấy và sẽ sống” (c. 29); Người cũng đòi hỏi hành động tương tự như thế nơi người giàu có (x. 18:22).

Dụ ngôn người Samaritanô (10:29-37)

Lại một câu hỏi nữa của người thông luật dẫn vào phần thứ hai. “Ông biện minh cho mình” (c. 29) nghĩa là ông muốn được công nhận là người xứng đáng và không đáng trách. Ông muốn biết định nghĩa về người lân cận để có thể thực hành đúng mà được sự sống đời đời. Ai là người thân cận? Trong Cựu ước “người thân cận”, tiếng hy lạp “plçsion” có nghĩa là “gần” “bên cạnh”, tiếng do thái “r#á”, chỉ người bạn, người yêu, người cùng chí hướng, người đồng nghiệp; nói tóm, người thân cận là những phần tử trong dòng giống Do thái. Họ là những người cùng chia sẻ một lãnh thổ và một quốc gia (Xh 2:13, 20:16, 20:17, 20:17, 20:17). Người thông luật muốn biết Chúa Giêsu nghĩ gì về “người thân cận”, mà chắn chắn là khác với ông.

Câu chuyện bắt đầu với bối cảnh dẫn nhập là một nạn nhân bị cướp và đánh trọng thương trên đường từ Giêrusalem xuống Giêricô (c. 30). Tiếp theo, mô tả hành động của thầy tư tế và Lêvi (cc. 31-32). Động từ “đi” làm chủ những câu đầu tiên: một người “đi xuống” (c. 30), một thầy tư tế “đi xuống”, thấy và “tránh đi xa ra” (c. 31), một thầy Lêvi “đi” đến chỗ ấy, thấy và “tránh đi xa ra” (c. 32), người Samaritanô đi” (c. 33). Điểm chung của ba người là cùng thấy nạn nhân bên đường. Điểm khác biệt là thầy tư tế và Lêvi “tránh đi xa ra” (antiparerchomai) (cc. 31.32), còn người Samaritanô “đi đến lại gần” (proserchoma) (c. 34), vì người nầy động lòng thương (c. 33). Dù không trình bày lý do vì sao thầy tư tế và Lêvi tránh xa nạn nhân, việc Luca đưa những người lãnh đạo tôn giáo và đại diện luật Môsê nầy vào dụ ngôn cho thấy sự mâu thuẫn giữa việc họ là ai trước mặt Thiên Chúa và dân chúng và cách sống của họ (x. 1:5; 5:14; 6:4; 17:14). Đây cũng là điều Chúa Giêsu muốn lưu ý người thông luật. Rồi, cách cư xử của hai người nầy làm nổi bật hơn hành động của người Samaritanô được mô tả trong những câu tiếp theo.

Người Samaritanô, không là “người thân cận” của người Do thái; thế mà ông tận tình cứu giúp nạn nhân (10: 33-35). Thái độ đầu tiên khi mới thấy nạn nhân là “động lòng thương” (c. 33). Động từ nầy chỉ được dùng ba lần trong Luca: Chúa Giêsu động lòng thương trước bà goá mất người con trai độc nhất (7:13); người Samaritanô trước nạn nhân (10:33) và người cha trước người con thứ trở về (15:20). Trong cả ba trường hợp, lòng trắc ẩn được thể hiện cách cụ thể cho những người trong tình trạng khốn khổ, tinh thần hoặc thể lý. Lòng trắc ẩn, từ tiếng Do thái có nghĩa là “ruột gan lòng phổi…”nơi chứa mọi tình cảm, bao gồm sự rộng lượng, lòng nhân từ, lòng trắc ẩn, lòng tốt và cả tình yêu. Lòng trắc ẩn kéo người Samaritanô về phía nạn nhân, vì người ấy cần được cứu giúp. Một loạt hành động của ông được mô tả: đến lại gần, băng bó, đem về nhà trọ, chăm sóc… Ông làm cho mình trở thành người thân cận của nạn nhân. Như thế, tương quan được thiết lập giữa ông và nạn nhân không là dòng giống, quốc gia hay tôn giáo, mà yêu thương.

Để kết luận, Chúa Giêsu hỏi ngược lại người thông luật, và để ông chọn lựa câu trả lời (cc. 36-37). Câu hỏi của Người không nhắm trên “người thân cận” như một đối tượng xếp loại hay chọn lựa, “Ai là người thân cận của tôi” (c. 29). Ngược lại, Người nhắm trên người thực hành lề luật: khi tỏ lòng thương xót là tự trở nên (gegonenai) người thân cận của kẻ khác.

Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót (1:50.54.58.72.78), và trong Chúa Giêsu Kitô, Người đã trở nên gần gũi với con người

------------------------------------

 

TN 15-C73. ANH EM CỦA MỌI NGƯỜI


Lc 10, 25- 37

Ai là người thân cận của tôi? (Lc 10, 29)

 

Câu hỏi của nhà thông luật này cũng là câu hỏi của nhiều người trên thế giới ngày nay. Câu: TN 15-C73


Câu hỏi của nhà thông luật này cũng là câu hỏi của nhiều người trên thế giới ngày nay. Câu hỏi này nhắm đến quyền lợi của cá nhân người hỏi. Chúng ta có thể hiểu ngầm vế còn lại: những người còn lại là người xa lạ hoặc là thù địch của tôi. Nếu là người thân, không hại đến quyền lợi tôi thì tôi giúp. Còn kẻ thù hại đến quyền lợi tôi thì tôi bất thông giao. Anh em thì không hại tôi, nhưng có lợi cho tôi. Kẻ xa lạ thì phải dè chừng, kẻ thù địch thì phải tiêu diệt. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu trong câu chuyện dường như nhấn mạnh một khía cạnh khác.

Đừng hỏi ai là người thân của tôi, đừng chỉ nghĩ đến bản thân và lợi ích riêng mà phải nghĩ đến người khác: tôi có bổn phận gì đối với người xung quanh? Câu hỏi này giúp chúng ta nghĩ đến quyền lợi của anh em mình trước. Như vậy, Chúa Giêsu muốn mỗi người phải từ bỏ tính ích kỷ, qui về mình nhưng vị tha, nghĩ đến quyền lợi của tha nhân.

Chính Chúa đã thi hành điều này trước để làm gương cho chúng ta.

Khi loài người xúc phạm đến Chúa, Chúa không bỏ mặc con người dưới quyền sự chết mà hứa ban ơn cứu chuộc. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa đã không giữ Ngai Trời của mình mà bỏ trời xuống thế làm người, lo cho loài người. Cho dù loài người phản bội tiếp tục đối xử bất công với Chúa và còn vu cáo, giết Đức Giêsu bởi tay dân ngoại. Chúa biết như vậy nhưng Ngài không nghĩ đến quyền lợi của mình. Chúa cũng không hỏi: ai là anh em, là trung thần của Ngài mà Ngài muốn làm anh em của chúng ta đang lúc chúng ta còn là thù địch của Ngài. Như vậy, Chúa đã lấy ân trả oán. Không những Chúa tha tội ác của chúng ta mà còn thi ân giáng phúc cho cả loài người bằng việc xuống thế, giảng dạy, chữa lành các bệnh nhân và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi nhân gian.

Câu trả lời của Chúa Giêsu đối với nhà thông luật hôm nay cũng là lời nhắn gởi tới mọi người trên trần gian. Nếu chúng ta biết lo cho quyền lợi người khác, muốn làm bạn với mọi người thì thế giới này không còn chiến tranh hận thù, các đảng phái không còn thù hằn tiêu diệt nhau, nhưng biết xây dựng nhau, coi nhau là anh em; mọi đồng bào, mọi người trong gia đình sẽ tự hỏi xem mình có coi mọi người là anh em của mình chưa.

Tuy nhiên, thực tế điều này không phải dễ làm. Con người chỉ có thể coi mọi người là anh em và đối xử với mọi người trong tình yêu thương khi sống giới răn thứ I: yêu mến Đức Chúa, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn. Ngươi. Khi chúng ta tin thờ Chúa, tuyên xưng Thiên Chúa là Cha. Thì từ đó, chúng ta mới nhận ra mọi người là anh em, kể cả kẻ thù. Còn ai từ chối Thiên Chúa là Cha thì không thấy được mọi người là anh em của mình, nhất là những kẻ thù nghịch mình! Đối với những ai từ chối Thiên Chúa thì ngày nào họ còn từ chối Thiên Chúa, họ sẽ không yêu thương được người khác cách chân thành mà chỉ giao tiếp dựa trên lợi danh: Vì tiền, vì chức, vì một lợi lộc nào đó. Họ sẽ đối xử với nhau theo kiểu mạnh được yếu thua. Khá lắm cũng chỉ là thương hại, bố thí chút cho kẻ bần cùng, cho đi phần dư thừa của mình, chứ không tôn trọng tha nhân đúng mức.

Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta đừng chỉ lo cho bản thân, nhưng biết nghĩ đến anh em đồng loại như Chúa đã thương xót chúng ta. Chúng ta cũng hãy thương mến mọi người như anh em của mình. Điều này có thể thực hiện được như bài đọc I trong sách Đệ Nhị Luật nói: hãy trở về cùng Chúa. Thánh chỉ Ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó, cũng không quá sức các ngươi. Lời Chúa ở sát bên các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi (Đnl 30,10-14).

Lời Chúa nói trong lương tâm mỗi người, cho dù người đó tuyên bố mình vô thần nhưng trong lòng vẫn cảm thấy một điều gì đó linh thiêng trong thế giới này và vì vậy họ kiếm tìm một tín ngưỡng để có chỗ dựa tinh thần. Vậy chúng chúng ta hãy cầu xin cho mọi người dù đã biết Chúa hay đang từ chối Chúa biết nhận ra nguồn cội của mình. Xin cho mọi người chúng ta là những người đã tuyên xưng lòng tin vào Chúa biết giữ giới răn Kính Chúa Yêu Người và trở nên dấu chỉ yêu thương giữa lòng thế giới hôm nay.

------------------------------------

 

TN 15-C74. BÊN NGOÀI VÀ BÊN TRONG


Lc 10, 25- 37

 

Căn bản của nền luân lý hay đạo đức Khổng – Mạnh dựa vào luật được gọi là Trung và Thứ: TN 15-C74


Căn bản của nền luân lý hay đạo đức Khổng – Mạnh dựa vào luật được gọi là Trung và Thứ này: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Nghĩa là “điều gì mình muốn kẻ khác làm cho mình thi hãy làm cho người ta”, Hoặc là “Điều gì mình không muốn kẻ khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho người ta”. Đạo đức của người Việt thì tóm gọn trong một mệnh lệnh: “thương người như thể thương thân”. Còn những mệnh lệnh Chúa được ghi trong sách luật xem ra thật nhiều nhưng tóm gọn lại cũng chỉ là hai: “mến Chúa và yêu người”, và cuối cùng thì chỉ có một mệnh lệnh là “yêu tha nhân như chính Chúa yêu mình”

Dụ ngôn người Samariatanô hôm nay là một điển hình, là một sự phê phán đánh thẳng vào lòng tự kiêu tự đại, tính kỳ thị chủng tộc và tôn giáo của người Do Thái, đặc biệt là đối với hàng ngũ những người lãnh đạo. Thật vậy người Do Thái xưa nay vẫn hãnh diện coi mình là dân riêng của Chúa, những người được tuyển chọn tách riêng ra khỏi các dân tộc khác. Họ nại vào tư thế: “tách biệt” đó để khinh ghét những người dân ngoại, coi những người nay như đương nhiên là tội lỗi xấu xa. Qua dụ ngôn này Đức Giêsu đã vạch trần thói vô nhân đạo của họ.

Trong câu chuyện dụ ngôn cả nạn nhân lẫn ông tư tế, thầy Lêvi đều là những người Do Thái, và họ đều từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Nghĩa là họ vừa mới lên Giêrusalem, rất có thể là lên đền thờ cầu nguyện trở về. trông thấy nạn nhân không những không thèm dừng lại cứu giúp, còn tránh qua bên kia đường mà đi. Làm như thể mình không thấy nạn nhân. Hành động này thật không thể tha thứ được vì đã thấy mà còn cố tình trốn tránh làm như không thấy, tội ấy mới thật là nặng gấp đôi. Bởi vì bằng cách tránh qua bên kia đường, làm như không thấy, họ tự bào chữa cho con tim thối nát và lương tâm chai đá của họ: họ muốn vẫn được coi như người công chính “mến Chúa và yêu người”.

Thái độ này trái ngược hẳn với thái độ người Samariô, bản văn không nói rõ là từ Giêrikhô lên Giêrusalem hay ngược lại, nhưng nếu như người ấy từ Giêrikhô đi lên, thì có nghĩa là đang đi bên kia đường, khi trông thấy nạn nhân mà theo bối cảnh ở đây là người Do Thái, mặc dù vậy ông ta vẫn dừng lại băng bó, săn sóc nạn nhân và vực lên lưng lừa của mình. Và điều này có nghĩa là ông ta phải đi bộ, nhường con lừa cho nạn nhân. Ông đưa nạn nhân vào quán trọ, đưa tiền săn sóc nạn nhân, và hứa ngày hôm sau sẽ trở lại thanh toán tiền cho xong nếu còn thiếu.

Ngày hôm nay, có người giải thích dụ ngôn theo nghĩa bóng hay ẩn dụ, coi người Samaria như biểu tượng của chính Đức Kitô, Đấng từ trời cao, xa lạ đối với người phàm, nhưng cố tình yêu thương và săn sóc loài ngưởi bị Satan đánh gục. Giải thích như thế xem ra cũng có lý, nhưng thật là nguy hiểm vì có thể dẫn người ta tránh đi việc thực hành bác ái với anh em. Thật vậy, người ta có thể cho rằng chỉ có Chúa mới có thể yêu thương người ta tới mức như vậy, còn loài người chúng ta bản chất vốn ích kỷ lười biếng đời nào chịu làm như thế….

Nhưng thực tế cho thấy thái độ của người Samari không phải là không có thật. Xưa nay vẫn không thiếu những người “dân ngoại”, những người “vô thần” tỏ ra có lòng bác ái hơn những kẻ “hữu thần’ những kẻ “có đạo”. Trái lại cũng không thiếu những tư tế chẳng những thiếu bác ái mà còn vô nhân đạo. Thật ! “chiếc áo không làm nên thầy tu”, cái nhãn hiệu Kitô giáo không miễn trừ cho chúng ta khỏi sự tham lam ích kỷ và tội lỗi. Không phải cứ hễ là Kitô giáo là chúng ta phải tốt, ngược lại đâu phải vô đạo, ngoại giáo là xấu đâu. Cũng tương tự như thế không phải cái nhãn hiệu mình mang trên mình đương nhiên chúng ta sẽ trở thành anh hùng đâu, hay những con người lý tưởng gương mẫu. Đúng! Cái vỏ không bảo đảm được cho cái ruột bên trong con người, nếu như cái ruột đó đã hư, đã thối…Trái lại cái ruột tốt dù không có bao bì đẹp hay chắc chắn bao bọc, thì vẫn cứ tốt và sử dụng được.

Dụ ngôn này không những dạy chúng ta phải có lòng bác ái với anh em, mà còn dạy chúng ta phải biết học với những người ngoài gia đình, ngoài cộng đồng tôn giáo hay chính trị của chúng ta. Đừng bao giờ có thành kiến về người khác, đừng bao giờ nghĩ rằng chỉ có mình là hay là tốt, trái lại hãy nhận ra cái tốt nơi những người vẫn bị coi là thù địch với chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra mình, để con biết khiêm tốn hạ mình xuống trước mặt người khác, và hơn cho con luôn có lòng thường cảm yêu thương hết tất cả mọi người. Amen

------------------------------------

 

TN 15-C75. LÀM GÌ ĐỂ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI.


Lc 10, 25- 37

 

Xin mời mỗi người nghiêm chỉnh đặt câu hỏi nầy cho chính mình kẻo không kịp. Thường người: TN 15-C75


Xin mời mỗi người nghiêm chỉnh đặt câu hỏi nầy cho chính mình kẻo không kịp.

Thường người ta lo đủ chuyện đời nầy chuyện to chuyện nhỏ đều lo còn chuyện sống đời đời thì chưa lo. Đợi giờ chót. Có khi để ngưòi khác lo cho: rước cha.

Sống thì phải được sống lâu, trăm tuổi. Nhưng sau đó thì đi đâu, ở đâu? Phải sống đời đời. Phải biết làm gì để đựoc sống dời đời.

Một người thông luật đã tỏ vẻ quan tâm nên hỏi Đức Giêsu và Người biết người nầy biết nên hỏi lại: Ông đọc thấy gì trong lề luật ? (ie. có rồi)

Yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa hết lòng hết sức….

Và yêu mến ngưòi thân cận như chính mình. Người thân cận là Do Thái, là dòng đạo có cắt bì. Ông muốn thử xem Đức Giêsu có gì mới không. Để minh hoạ cho cụ thể Đức Giêsu kể một câu chuyện làm ngạc nhiên vì tính mới mẻ.

Một ngưòi từ Giêrusalem xuống Giêricô, là Do Thái….bị cướp, gặp nạn dở sống dở chết nằm giữa đường, ai đi qua cũng phải thấy.

Một thầy tư tế rồi một thầy lê vi từ Giêrusalem về ( mới làm xong nhiệm vụ tế lễ ở đền thờ về). Là chức việc trong đạo. Thấy lạnh lùng tránh qua bên rồi đi thẳng. Không động lòng chút nào hết.

Một người Samaria, người ngoại, kẻ tội lỗi, kẻ thù của người Do Thái, đi ngang qua đó. Thấy, động lòng thương xót, ghé lại đổ dầu và ruợu, băng bó vết thương, đỡ lên lừa đưa đến quán trọ chăm sóc…tốn bao nhiêu khi trở về tôi sẽ thanh toán đủ. Tươm tất từ đầu chí cuối, không chỉ qua loa, nửa chừng. Có lòng thương xót là vậy. Thương thì thương cho trót gọt thì gọt cho trơn. Đây là tính mới mẻ: yêu kẻ thù. Có lòng thương xót mà thương xót cả kẻ thù, không phân biệt đạo ngoại. Ngoại mà có lòng thương xót thì hãy bắt chước còn đạo mà vô cảm vô tâm không có lòng thương xót thì đừng bắt chước kẻo khi phán xét Chúa Giêsu hỏi khi ta bi nạn nằm giữa đường có dộng lòng thương xót không thì trả lời làm sao ?

Không cần biết là Do Thái, Lê vi, tư tế hay Samaria ngoại giáo Chúa chỉ hỏi có lòng thương xót không, có biết động lòng không? Có thì được chúc phúc không thì thôi.

Điều răn quan trọng nhất và cũng là duy nhất có giá trị trước mặt Chúa là đây. Đây cũng là điều mới mẻ của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu cũng sẽ phán xét theo tiêu chuẩn nầy vì Người đã dạy như vậy.
Hãy đi và làm như vậy thì được sống đời. Bảo đảm

------------------------------------

 

TN 15-C76. CHÚA NHẬT 15 TN C


Lc 10, 25 – 37

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay (Lc 10, 25-37) Chúa Giêsu nói về dụ ngôn “người Samari tốt lành” TN 15-C76


Trong bài Phúc Âm hôm nay (Lc 10, 25-37) Chúa Giêsu nói về dụ ngôn “người Samari tốt lành” để trả lời cho chàng luật sư muốn gài bẫy Chúa khi đặt câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi” (Lc 10, 29). Người ta đã thấy Chúa làm niều điều hay lẽ phải, ăn nói khôn ngoan, tinh thông mọi điều. Vì thế, chàng luật sư này liền đến chất vấn Chúa Giêsu. Luật của người Do Thái đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do Thái với những người không phải là DoThái.

Chúa Giêsu thấy chàng luật sư chưa sống đời mình một cách thực tế, còn chờ đợi, xem ai là người anh chị em của mình để yêu thương giúp đỡ. Chúa Giêsu kể câu chuyện một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường chẳng may bị kẻ cướp lấy tất cả đồ dùng quần áo, đánh cho nửa sống nửa chết, vắt nằm lăn lóc bên đường. Một tư tế đi qua rồi một trợ tế đi qua nhìn thấy tránh sang một bên và thản nhiên tiếp tục con đường của mình.

Tư tế và trợ tế là những bậc vị vọng trong một dân tộc mà chính quyền và giáo quyền làm một như dân Do Thái thời bấy giờ và ai cũng muốn làm bạn cùng những người đó. Trái lại sau đó, một người xứ Samaria là một nước thù địch cùng nước Giuđa lúc bấy giờ vì nạn Nam-Bắc phân tranh, người đó đi qua và hết lòng tận tình săn sóc nạn nhân người Giuđa. Kể xong, Chúa Giêsu long trọng hỏi chàng luật sư đó: “Ai là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?”. Dĩ nhiên câu trả lời là người tỏ lòng thương xót giúp đỡ. Và Chúa Giêsu đã kết luận cuộc đối thoại bằng một câu đáng giá ngàn vàng: “Vậy ông hãy đi và làm như thế”. Hãy thực tế, đừng ngồi đó hỏi ai là anh chị em tôi để tôi yêu mến, để tôi lo lắng, để tôi săn sóc. Nhưng trước tiên hãy sống tỏ ra mình là người anh chị em của mọi người trước đã. Khả năng tỏ ra anh chị em của người khác ở trong tay của mình, đừng ngồi đó chờ mà hãy thực hành ngay.

Đối với chàng luật sư, luật cũ dựa trên nhân bản, lấy con người của mình làm tiêu chuẩn để cư xử: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình” (Lc 10, 27). Xét về mặt công bằng xã hội, nếu chúng ta tôn trọng nhân vị của người khác như chính bản thân mình, đó là điều tốt. Sách Giáo Lý Công Giáo cũng dạy: “Mỗi người hãy coi tha nhân, không trừ một ai như chính bản thân mình” (GLCG số1931)

Đối với Chúa Giêsu, dựa trên tinh thần đạo đức siêu nhiên, Ngài đã bổ túc luật cũ, lấy tiêu chuẩn hành động là Thiên Chúa; “Đây là điều răn của Thầy: “ Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12; 13, 34). Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen Gentium đoạn 40 cũng nhắc nhở: “Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người, để từ bên trong Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn cùng hết sức họ (Mc 12,30) và yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương họ” (Ga 15, 12; 13, 34)

Chúa Giêsu đã không những chỉ dạy về sự chạnh lòng thương, mà chính Ngài là lòng thương xót, chính Ngài đã đóng vai trò của người Samari tốt lành. Nhân loại chúng ta là những nạn nhân bị đánh đập, cướp bóc, bị thương tích nửa sống nửa chết, bị bỏ rơi dọc đường trên cuộc hành trình tìm về sự sống vĩnh cửu. Tình yêu thương, sự chạnh lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua việc nhập thể, mang lấy thân phận làm người, cùng chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Chúa Giêsu đã đến gần chúng ta, săn sóc lo lắng cho chúng ta. Ngài từ phía trời cao, xuống thế, và tự đặt mình vào trong hoàn cảnh của chúng ta. Chính Ngài là người hàng xóm đã chạnh lòng thương chúng ta. Mặt khác, Người cũng chính là nạn nhân của nhân loại, đã bị đánh đập tàn nhẫn và chết thê lương trên thập giá mà không có ai cứu chữa (Mc 15, 34). Chúa Giêsu là Người tôi tớ rao giảng sự công chính, như con chiên bị sát tế cách bất công (Cv 8, 32; Is 50, 6). Chúa Giêsu đặt ra một thử thách lớn đối với những người đồng hương Do Thái của Ngài. Trong bối cảnh lịch sử thời ấy, người Do Thái và Samaria là những kẻ thù cay đắng của nhau. Người Do Thái nhìn người Samaria là loại công dân bậc hai hay ba, vì họ không còn mang dòng máu thuần khiết Do Thái nữa. Chúa Giêsu cũng muốn nói với chúng ta ngày nay rằng: “Mỗi người ở một lúc nào đó đều là thân cận, bởi mỗi người sẽ có lúc cần phải được giúp đỡ, ngay cả kẻ thù đáng ghét nhất của bạn. Hãy biểu tỏ lòng thương xót - chạnh lòng thương- qua việc phục vụ cho bất cứ ai đang cần giúp đỡ”.

Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải thực tế, phải sống và tạ ơn vì những gì Chúa đã ban, phải vâng theo những lề luật Chúa ghi khắc trong tâm hồn và dạy phải tuân giữ. Hằng ngày chúng ta gặp những người cô đơn, bị bỏ rơi, thiếu tình thương và chăm sóc, bị ngược đãi, thất vọng, chán nản và mặc cảm tội lỗi. Họ kêu cứu trong bài đáp ca hôm nay “Tôi buồn sầu và đớn đau” chúng ta đừng bỏ qua. Hãy dừng lại và giúp họ. Có rất nhiều cách mà chúng ta có thể thực hiện như: một nụ cười chân thành, một lời chào vui vẻ, sự ân cần thăm hỏi có thể giảm bớt nỗi đau của một tâm hồn sầu muộn, một lời “cảm ơn” nồng nàn có thể khích lệ một người bị quên lãng, bị khinh khi. Tình yêu chân thành sẽ chỉ cho ta biết phải làm sao. Tình yêu có thể cảm hoá lương tâm và thay đổi cách sống của một người. Tình yêu có tác dụng trên tha nhân và làm cho họ trở nên tốt hơn.

Câu chuyện Chúa Giêsu kể hôm nay, chỉ cho chúng ta biết ai là người thân cận mà chúng ta phải yêu thương. Người cho chúng ta sức mạnh, sự khôn ngoan để yêu thương qua tình yêu của Ngài. Trong tuần này, để thực hành Lời Chúa, chúng ta cùng nhau làm những việc cụ thể như thay vì nghĩ xấu, nói xấu tha nhân thì chúng ta hãy nghĩ tốt nói tốt cho tha nhân, tìm cách giúp đỡ tha nhân một cách tận tình và bác ái hơn. Làm cha mẹ, hãy dạy cho con cái sống trong sạch, yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì chính Ngài là suối nguồn yêu thương, dạy cho ác em nhỏ biết kính trọng người lớn và chân thành yêu thương những người kém may mắn. Cuối cùng, mọi người hãy cầu nguyện để xin Chúa cho mình quảng đại yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng ta thành người Samaritanô nhân hậu, biết yêu thương và sẳn sàng giúp đỡ tha nhân bằng tình yêu mà Chúa muốn. Amen.

------------------------------------

 

TN 15-C77. CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN


TRỞ NÊN MẢNH ĐẤT TỐT

Mt. 13, 1 – 23

Anh chị em thân mến.

 

Hiện chúng ta đang sống trong thời buổi khoa học k ỹ thuật hiện đại, người ta phát minh ra: TN 15-C77


Hiện chúng ta đang sống trong thời buổi khoa học k ỹ thuật hiện đại, người ta phát minh ra những điều thiết yếu để phục vụ lợi ích cho con người. Cùng với những lợi ích, nó cũng phát sinh những điều không hay. Với cái nhìn bi quan, thì con người sẽ tiêu diệt trái đất một ngày gần đây: người ta nhìn thấy tầng ozone bị phá huỷ, nhu cầu của thiên nhiên không còn tồn tại được nhiều, thiên tai địch hoạ xảy ra khắp nơi, vì tình trạng khai thác thiên nhiên bừa bãi. Nếu nhìn lạc quan hơn; thì con người ngày hôm nay tiến xa vượt bậc, được phục vụ chu đáo hơn, sức khoẻ được bảo đảm hơn, hiểu biết về thiên nhiên nhiều hơn, có những biện pháp hữu hiệu đối với những thiên tai dịch hoạ. Đời sống con người được bảo đảm an toàn hơn nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ. Với cái nhìn lạc quan nầy, con người tiếp tục những công trình hiện đại phục vụ cho ích chung, đồng thời cũng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, con người cũng tìm cách giảm đi những gì nguy hại. Chính vì nhìn thấy những lợi ích chung thật nhiều, nên mọi sự vẫn diễn tiến theo tiến trình tự nhiên mà không một chút lo âu gì.

Trong dụ ngôn người gieo giống mà Chúa Giêsu nói với những người thời xưa, cũng là nói với những người thời nay về tính cách quảng đại của người gieo giống. Ông không ngần ngại tung gieo những hạt giống đi khắp nơi. Ông biết rằng những hạt giống không phải chỉ rơi vào những nơi để sinh lợi mà thôi; nhưng nó cũng rơi vào những môi trường không thích hợp, nó sẽ không phát triển được. Nhìn thấy sự bất lợi trước mắt, nhưng người chủ cứ tung gieo mà không lo sợ thiệt hại, vì ông nhìn thấy những mảnh đất tốt đang chờ đợi những hạt giống để làm cho sinh lợi. Chính vì những mảnh đất đang chờ đợi nầy mà người chủ săn sàng để tung gieo những hạt giống cách quảng đại. Cũng nhờ có những mảnh đất tốt mà hạt giống được được bảo tồn bền vững với thời gian cùng với sức sống vô tận của nó.

Môi trường thật hữu ích, môi trường tốt phát sinh những ích lợi vô biên không thể nào ngờ được.

Mỗi người là một môi trường sống, là một mảnh đất cho hạt giống Lời Chúa trổ sinh hoa trái. Nhưng môi trường sống đời nguời có là môi trường tốt thật sự, hay là nơi huỷ diệt sự sống. Môi trường con người chúng ta đã được gieo hạt cách quảng đại, những hạt giống đang âm thầm phát triển, hay giờ nầy những hạt giống trong mảnh đất cuộc đời của mỗi người đã bị chết khô.

Chúng ta để một ít phút nhìn lại những hạt giống trên mánh đất cuộc đời riêng tư của mỗi người.

Biết bao lo âu sợ sệt trong cuộc sống, cùng với những tính toán thiệt hơn, đồng thời có những lúc tính ích kỷ sự ganh ghét trong con người trổi dậy, làm cho chúng ta khó chịu, bất mãn với cuộc sống, không chấp nhận được những người chung quanh mình. Những lúc họ kêu cầu giúp đỡ, chúng ta không thể giúp được vì lo sợ mình sẽ mất đi một chút gì đó, tệ hơn nữa, chúng ta còn lo sợ người khác được lợi nhiều hơn mình. Chúng ta cũng lo sợ cho bản thân một mai sẽ gặp khó khăn trong đời sống vật chất, nên cố gắng gom góp thật nhiều, không muốn bỏ ra hay cho đi một chút gì mình có. Những lúc còn muốn chiếm đoạt của người khác làm của riêng mình. Những lúc đó, Lời Chúa làm sao có được mảnh đất tốt để phát triển trong đời sống, trong tâm hồn như thế được. Những gì chúng ta hiểu biết, nó đã chết khô tự bao giờ.

Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm của mình và chu toàn: trách nhiệm một người trong xã hội, để sống xứng đáng là người; trách nhiệm là một người công giáo, để sống xứng đáng là người công giáo tốt, ngưòi môn đệ tốt của Chúa Giêsu; trách nhiệm của một người trong gia đình để biết chu toàn cho xứng đáng với địa vị của mình. Nếu chúng ta lắng nghe những tiếng kêu than của người khác và động lòng, giúp đỡ cho họ, nhìn thấy được những gì để con tim chúng ta mách bảo và hành động để đem niềm vui cho người khác, cho dù phải hao tốn một chút, mệt nhọc một chút. Những lúc đó, hạt giống lời Chúa đang gặp được mảnh đất tốt và sinh hoa kết quả, hạt ba mươi, hạt sáu mươi, hạt một trăm.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe và thi hành Lời Chúa trong cuộc sống đời thường.

------------------------------------

 

TN 15-C78. MẢNH ĐẤT TÂM HỒN


Mt 13, 1 – 23

 

Thân xác con người muốn được khoẻ mạnh thì cần phải được dinh dưỡng cách đầy đủ và hợp lý.: TN 15-C78


Thân xác con người muốn được khoẻ mạnh thì cần phải được dinh dưỡng cách đầy đủ và hợp lý. Tâm hồn người tín hữu cũng vậy, cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Mình Chúa để được lớn lên trong ân sủng là kết hợp với Chúa. Và sống thánh chính là như thế!

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, đâu phải lúc nào chúng ta cũng dễ dàng đón nhận Lời Chúa, để sinh hoa kết trái trong đời sống thiêng liêng, vì theo như dụ ngôn, bốn mảnh đất mà hạt giống Lời Chúa được gieo, thì có đến ba là nhằm vào đất xấu. Tâm hồn chúng ta thuộc mảnh đất nào hay nói cách khác chúng ta có tâm tình nào, thái độ nào trong việc đón nhận và sống Lời Chúa?

- Mảnh đất lề đường khiến hạt giống rơi xuống bị chim chóc đến ăn mất là những kẻ nghe Lời Chúa mà không hiểu tức là những người không có thái độ sẳn sàng như tiên tri Isaia nói: “Vì lng dn ny đã ra chai đá: chng đã bịt tai nhm mt, ko mt chng thy, tai chng nghe, v lng hiu được m hón ci, v ri Ta s chữa chng cho lnh” (Is 6,9-10). Chúng ta đã thấy nhiều dấu chỉ của Thiên Chúa trong đời sống, nghe nhiều lần lời Tin Mừng, nhưng những lời của Chúa như “nước đổ lá môn” chẳng có tác động gì đến chúng ta, ta như người không hiểu. Thái độ dửng dưng làm cho tâm hồn chúng ta xơ cứng không ăn năn hối cải, không thiết tha làm điều lành.

- Mảnh đất sỏi đá khiến hạt giống không thể đâm rễ sâu, phải chết khô héo khi gặp nắng nóng là thái độ hồ hởi nhất thời, là những xúc cảm mau qua, khi nghe Lời Chúa, để rồi những quyết tâm thay đổi, những dự tính tốt lành, đều bị mai một trước khi bắt tay hành động, vì những bận rộn đời thường, vì ánh mắt soi mói của người khác…Chúng ta có thời giờ cho tất cả, nhưng thiếu thờ giờ cho Chúa và phần rỗi linh hồn của mình. Chúng ta chọn cái mau qua mà bỏ qua điều vĩnh cửu là hạnh phúc đời đời!

- Mảnh đất gai góc bóp nghẹt khiến Lời Chúa không sinh hoa kết quả, chính là thái độ thiếu trung tín, thiếu quyết tâm của chúng ta, do những lo lắng trần thế, những yêu sách của cuộc sống thường nhật, đưa chúng ta vào tình cảnh, tuy không bỏ Chúa, nhưng đặt Chúa vào hàng thứ yếu trong cuộc đời và Thiên Chúa dần bị quên lãng khỏi tâm hồn chúng ta!

- Mảnh đất tốt là những ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành; đó chính là những tâm hồn quảng đại, biết đáp trả những lời dạy của Chúa bằng cách sống theo đường lối của Người, bất chấp những trở ngại khó khăn cách nầy hay cách khác, luôn tín thác vào Chúa. Chính mức độ yêu thương, khiến chúng ta bỏ mình, bỏ những quyến rũ trần thế, để sống cho Chúa, mới quyết định chúng ta đang ở trong tình trạng thâm giao với Chúa như thế nào. Niềm vui sâu xa được thuộc về Chúa và anh em mình, chính là ân huệ lớn lao mà Chúa ban cho những ai dấn bước trung kiên theo Ngài và đó cũng chính là điều mà mỗi người chúng ta phải khiêm tốn cầu xin mỗi ngày.

Xin cho tm hn chng con l mnh đất tt, sn sng đáp tr lời mời gi dn thn cho Cha. Amen

------------------------------------

 

TN 15-C79. SINH LỢI


Mt 13, 1-23

 

Nét đặc trưng của người Công giáo là sống niềm hy vọng và sống niềm tin vào một tương lại huy: TN 15-C79


Nét đặc trưng của người Công giáo là sống niềm hy vọng và sống niềm tin vào một tương lại huy hoàng dành cho mình ở cuối cuộc hành trình. Niềm hy vọng mà người Kitô hữu đang mang trong mình hoàn toàn khác với những mơ mộng hão huyền trong một lối sống dễ dãi mà nhiều người vẫn ước mong. Bởi lẽ, niềm hy vọng của người Kitô hữu thôi thúc họ sống trọn vẹn ơn gọi làm người của mình song song với bổn phận làm con Chúa: sống đúng phẩm giá của mình và tôn trọng phẩm giá của người khác. Niềm hy vọng của người tín hữu Chúa Kitô chính là niềm hy vọng của người gieo hạt giống vào mảnh đất tốt mà mình đã ra công dọn dẹp kỹ lưỡng, hết lòng chăm sóc cho hạt giống ấy lớn lên và chờ mùa thu hoạch. Đó là niềm hy vọng rất thực và kết quả hầu như đã rõ ràng.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, Thiên Chúa rất rộng rãi và hào phóng trong việc trao ban Lời hằng sống của Ngài cho con người. Ngài vẫn biết khi ban phát Lời như thế thì sự thất bại rất cao. Nhưng Ngài vẫn hy vọng có những tâm hồn thành tâm thiện chí đón nhận Lời Ngài và hết lòng chăm lo để Lời ấy được lớn mạnh và sinh lợi cho Ngài.

Trong bài đọc một, Tiên tri Isaia cho thấy sức mạnh và công dụng của Lời khi Thiên Chúa sai Lời ấy vào trần gian này. Lời Chúa sẽ hoàn thành sứ mạng ban sự sống cho con người và hoàn tất ý định của Thiên Chúa.

Tâm hồn của mỗi người chúng ta chính là thửa đất mà Thiên Chúa sẽ gieo Lời của Ngài vào đó. Chúng ta tin chắc rằng, không một thửa đất tâm hồn nào của con người hoàn toàn là sỏi đá, hay hoàn toàn gai góc hay hoàn toàn là đất tốt cả.

Nó trở thành sỏi đá là vì chủ của nó không đào xới, không canh tác nó và nhiệt tâm vào việc sử dụng nó cho những mục đích tốt đẹp.

Nó trở thành gai góc cũng tại vì chủ nó không quan tâm đủ và không cương quyết nhổ sạch gai góc khi chúng mới bén rễ vào đó, hoặc đôi khi vì chủ nó đem cỏ và gai góc về trồng.

Nó có trở thành đất tốt thì cũng chính nhờ chủ nó hết lòng cày xới, vun bón và quan tâm đến nó.

Ở trong tội lâu ngày sẽ mất ý thức về tội; để cho dịp tội đến gần ắt sẽ có ngày phạm tội. Không một tội lỗi nào của con người mà không do những lần làm quen với dịp tội. Lương tâm của con người vốn là do Thiên Chúa dựng nên để giúp con người phản tỉnh khi có những sai lầm trong cuộc sống. Nhưng lương tâm ấy sẽ chai lì và lệch lạc nếu không được đào luyện mỗi ngày dưới ánh sáng của Lời Chúa.

Trước đây Giáo hội Việt Nam còn buộc nhặt việc kiêng thịt ngày thứ sáu. Có một ông giáo dân nọ vào quán ăn trưa. Ông biết quán ăn đó có món cá, nhưng ông thích ăn thịt hơn. Vừa kéo ghế ngồi, ông liền gọi một loạt tên các thứ cá mà ông biết chắc là chẳng bao giờ có: “cho tôi một đĩa cơm cá Sấu!”. Chủ quán đáp “không có”. Vậy thì một đãi cơm cá Voi đi. Chủ quá cũng vội đáp lại “không có” Thế rồi ông ta tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết cho con, con đã làm hết sức, đã gọi nhiều thứ cá mà không có. Thôi con đành phải gọi một đĩa cơm thịt bò để ăn trong ngày thứ sáu kiêng thịt vậy”. Cầu nguyện xong, ông ta thi hành liền. Đúng theo sự dàn xếp của lương tâm.

Đời sống đức tin của người tín hữu chỉ có thể tăng trưởng về lòng tin, cậy, mến vào Thiên Chúa khi họ biết nỗ lực đáp trả mỗi ngày với lòng tín thác chân thành và một lương tâm ngay lành. Lẽ tất nhiên là khi hết lòng sống theo Lời Chúa, con người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và bắt bớ. Nhưng như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc 2 hôm nay trong thư thứ 2 gửi tín hữu Côrintô: “ Những đau kh chng ta chịu by giờ snh sao được với vinh quang m Thin Cha s mc khi nơi chng ta” (Rm 8,18). Đó là niềm hy vọng lớn lao nhất của người tín hữu Chúa Kitô. Chúng ta tin tưởng và được khích lệ vì đã có biết bao con người mang trong mình niềm hy vọng để sống niềm tin và họ đã chiến thắng.

Chúng ta đã quá biết về mẫu gương của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, một con người sống niềm hy vọng vào Đức Giêsu trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cuộc sống con người, trong cảnh tù ngục tăm tối và nhơ nhớp. Ngài đã việt: “mỗi cuộc đời là một huyền nhiệm, muôn nghìn nổi gian truân thử thách. Ức triệu lòng dũng cảm kiên cường. Trước gieo trong nước mắt, sau gặt trong hân hoan . . . Ngày ngày con sống và làm cho người khác thích sống như con: sống cầu nguyện, sống thanh bần, sống phó thác, sống dồi dào nội tâm, sống giây phút hiện tại. Có Thánh Thể, có thiên đàng trong con. Tình yêu của Chúa chẳng phai tàn. Ở đâu có Chúa, con không thiếu chi. Ai dũng cảm, hãy bước đi . . . Dưới chân Thánh giá Chúa đang đợi chờ, Chúa trông con ở đó mỗi giờ. Đấy là điểm hẹn dành cho bạn tình”.

Sống trong hy vọng, con người sẽ tìm ra một sức mạnh phi thường để vượt qua cách dễ dàng và tự nguyện trước những khó khăn và đau khổ. Bởi lẽ, họ biết việc mình làm, biết kết quả và cùng đích của những gì mình đã lựa chọn. Niềm hy vọng đó tựa như một bà mẹ mang thai. Bà biết rõ những khó khăn và đau đớn khi sinh con, nhưng sau đó là một mầm sống ra đời: đáng yêu và quí giá. Hy vọng đó làm cho bà vui lòng chấp nhận tất cả.

Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta hãy biết ra sức làm cho mảnh đất tâm hồn của mình được nên thửa đất tốt: không có sỏi đá của sự cứng lòng và khô khan; không có gai góc của sự tự kiêu, ích kỷ, ghen tị . . . để Lời Chúa được bén rễ sâu trong ta và sinh ra được bông hạt trăm nghìn. Xin Chúa giúp chúng ta có được sức mạnh và niềm hy vọng vững vàng để có thể chiến thắng những khó khăn và gian khó trong đời sống đức tin mỗi ngày. Amen.

------------------------------------

 

TN 15-C80.  SINH HOA KẾT QUẢ


Mt 13,1-23

 

Toàn bộ thánh ý và sự trọn lành của Thiên Chúa được chất chứa trong Thánh Kinh, là kho tàng: TN 15-C80 


Toàn bộ thánh ý và sự trọn lành của Thiên Chúa được chất chứa trong Thánh Kinh, là kho tàng thiêng liêng vô tận, là lộ trình rộng mở để dẫn đưa linh hồn đạt đến mức độ thánh thiện cao vời nhất, đến chỗ hoàn toàn và trọn vẹn đồng bộ với thánh ý Thiên Chúa. Lộ trình thiêng liêng này tuỳ vào sự đón nhận của mỗi người, từ đó đưa đến có hạt thì bị cháy bị chết khô, có hạt thì bị chết nghẹt...nhưng cũng có hạt sinh hoa kết quả. Những hạt sinh hoa kết quả này được Đức Giêsu xác định đó là kẻ nghe lời, hiểu và thực hành. Khi đó các hạt sẽ sinh hoa kết quả, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục ...

Nếu xét theo lộ trình thiêng và Lời Chúa hôm nay thì hành vi lắng nghe, đọc, tìm hiểu, và chú giải Thánh Kinh tự chúng vẫn không đủ , mà điểm quan trọng cuối cùng là “Hãy thực thi bằng việc làm’’; bằng việc “sinh hoa kết quả ’’. Để làm được đều này, tồi thiết tưởng hạt giống Lời Chúa. khi đã gieo vào mảnh đất tâm hồn chúng ta cần phải cho nó:

1. Giai đoạn bén rể

Đức Chúa Giêsu tuyên bố mẹ và anh em ta là những người nghe lời Chúa và đem ra thực hành (luca 8,21) nếu chúng ta không “đem lời chúa ra thực hành’’ thì tất cả mãi mãi vẫn là ảo tưởng là xây nhà trên cát. Khi sống như thế chúng ta có khác chi những người biệt phái Pha-ri-sêu thời đức Chúa Giêsu họ lắng nghe hiểu biết Kinh Thánh, nhưng để hạt giống đó trong mảnh đất khô, họ cứ ảo tưởng gom nhiều hạt giống sẽ thu hoạch nhiều. Nhưng họ đã sai lầm vì không biết múc nguồn nước đời sống để tưới lên hạt giống. Cho dù có hàng vạn,hàng tỉ hạt giống mà không có nước, trên mảnh đất khô cằn thì không bén rễ được.

2. Giai đoạn chuyển mình

Có một điều quan trọng khi nghe lời Chúa là phải bắt đầu ngay lập tức,đừng trì hoãn vì hạt giống khi đã vào đất tốt phải chuyển mình ngay. Như thế, lời Chúa sẽ trở thành khí cụ để nâng đỡ đời sống chúng ta và nhờ Lời Chúa, chúng ta được thanh tẩy và có thể sinh hoa kết trái nhiều hơn (Ga 15,2-3). Hiện nay, người tín hữu đang gặp vấn đề cần thiết về việ linh hướng , bởi vì trên thực tế, khó mà tìm nổi một vị linh hướng. Do đó, Khi được hướng dẫn Lời Chúa sẽ đảm cho mọi linh hồn cần thiết một sự hướng dẩn căn bản và không sai lầm. Có thể nói vào những thời điểm đặc biệt, khi phải đưa ra những quyết định nghiêm chỉnh và lựa chọn dứt khoát, chúng ta cần phải có một sự hướng dẫn ngoại thường từ Kinh Thánh. Điều này đã xảy ra nơi thánh AnTôn tu viện trưởnh thánh Phanxicô Assisi… Ngày nay cũng thế , có nhiều tín hữu vẫn cảm nghiệm được Lời Chúa có sức mạnh biến đổi cuộc đời mình .

3. Giai đoạn sinh hoa kết quả

Trong cuộc sống đời thường hay trên phương diện thiêng liêng chúng ta vẫn lớn lên nhờ sự hướng dẫn của Lời Chúa, Sự hướng dẫn này có được lòng khao khát, nhờ suy niệm vào ơn soi sáng của Thánh Thần. Đấng thúc đẩy ta sống lời Chúa một cách thực tiễn. Nhờ lời Chúa thấm vào trong tâm hồn giúp ta biết được thánh ý Chúa và biện phân Thần Khí chì lời Chúa mới có thể giúp “phân biệt tâm tình và ý tưởng của lòng người’’ (Dt 4, 12 ) nghĩa là có thể phân biệt được động lực và ý định. Lời Chúa không phải là một tấm gương phản chiếu sự vật; nhưng một tấm gương xuyên suốt lục tìm được cả nội tâm. Con người có thể bị đánh lừa, nhưng Lời Chúa thì không; nếu chúng ta thực tâm để cho Lời Chúa hoạt động không che giấu điều gì, Lời Chúa sẽ thẳng thắn giãi bài động cơ hoạt động của chúng ta: vì vinh danh Chúa hay vì lợi lộc bản thân. Trong khía cạnh này, Lời Chúa thật sự là một thanh gươm hai lưỡi tách biệt những gì thuộc về Thiên Chúa ra khỏi thói buộc của nhân loại .

Nhời Lời Chúa mà nhiều linh hồn đã được lớn lên và biến đổi, như Thánh TêrêSa Hài Đồng đã viết “trong phúc âm, tôi tìm được sự cần thiết cho linh hồn đáng thương của tôi . Mỗi người KiTô hữu đều được Chúa ban cho mãnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng lời Chúa hết khả mình. Và Lời Chúa sẽ “sinh hoa kết quả ’’ nơi tâm hồn khao khát biết yêu và sống Lời Chúa”.

------------------------------------

 

TN 15-C81. MẢNH ĐẤT TỐT CHO HẠT GIỐNG LỜI CHÚA


Mt 13, 1-23

Anh chị em thân mến,

 

Trong quyển Lửa Thiêng Tây Nguyên của Lm P. Dourisboure (1825-1885), ghi lại bước đường: TN 15-C81


Trong quyển Lửa Thiêng Tây Nguyên của Lm P. Dourisboure (1825-1885), ghi lại bước đường truyền giáo của các cha Thừa sai Paris cho dân tộc Bahnars, có đoạn ghi: “sống giữa rừng thiêng nước độc, chịu đựng mọi thứ hiểm nguy: dã thú, bệnh tật, rình rập bắt bớ của quan quân triều đình, thái độ e dè đố kỵ của kẻ ngoại giáo cuồng tín…các ngài vẫn vững vàng với tác vụ ngôn sứ và tư tế của mình.”… Thực tế các nhà truyền giáo, ngay cả người Việt nữa, không ai chịu đựng nổi ở đây quá 10 năm; có vị chỉ sau mấy tuần lễ đặt chân lên đây, đã mau chóng lìa đời vì không đương cự nổi với hung thần kiết lỵ và sốt rét rừng (chỉ có một mình Cha Dourisboure, được Chúa cho sống đến 35 năm thôi; có lẽ để ngài viết cho xong quyển Lửa thiêng Tây Nguyên) Vậy mà các ngài, lúc đầu từ một nhóm nhỏ lấy cứ điểm là Thị xã Kontum ngày nay, rồi dần lập nên các làng công giáo xung quanh, theo cách thức vết dầu loan. Từ khi mới đến (1848) cho đến năm 1870, đã có mấy làng công giáo với 800 giáo dân. Năm 1927 có 17.700 giáo dân. Ngày 18. 01. 1932, giáo phận Tông tòa Kontum được thiết lập với các tỉnh Kontum, Pleiku, Đaklak và Atâpư (Hạ Lào). Năm 1998, giáo phận Kontum mở Năm Thánh kỷ niệm 150 năm, ngày vị truyền giáo đầu tiên đặt chân lên xứ Thượng . Hiện nay số người công giáo là 203.723 người với 42 linh mục, 194 tu sĩ, 27 chủng sinh và 3.517 giáo lý viên…

Câu chuyện trên cho ta thấy các nhà truyền giáo đã hi sinh biết bao xương máu để gieo Hạt giống tốt trên xứ Thượng. Bù lại, Hạt giống đó không rơi trên đất khô cằn, ngược lại đã rơi trên mảnh đất tốt, đem lại kết quả đáng mơ ước như bài dụ ngôn chúa nhật hôm nay kể.

a/. Chúng ta thử đọc lại bài dụ ngôn với lời cắt nghĩa của Chúa Giêsu:

* Hạt giống rơi bên vệ đường: là kẻ nghe Lời Chúa mà không hiểu, lại bị ma quỉ đến cướp đi hạt giống đã gieo trong lòng anh ta, vì thế hạt giống không sinh kết quả.

* Hạt giống rơi trên đá sỏi – rơi trong bụi gai: Hạt rơi trên sỏi đá: là kẻ khi nghe Lời Chúa, thì vui vẻ đón nhận mà không đâm rễ sâu, nên chỉ nông nỗi nhất thời. Sau này khi gặp chuyện chán nản, sẽ bỏ ngay…Hạt rơi trong bụi gai là kẻ nghe Lời Chúa, nhưng quá bận rộn sự đời, vinh hoa phú quí trần gian vây kín, Hạt giống bị bóp nghẹt nên Lời Chúa không sinh hoa trái được.

* Hạt giống rơi trên đất tốt: là kẻ nghe Lời Chúa và hiểu được, nên sinh hoa kết quả…

b/. Câu chuyện: Thánh nữ Maria Goretti, người Ý, sinh năm 1890, mất năm 1902. Lên 10 tuổi, thánh nữ rước lễ lần đầu với tất cả lòng yêu mến Chúa Giêsu. Ba tháng trước ngày mừng sinh nhật thứ 12, một thanh niên hàng xóm, làm việc trong nhà cô, tên là Alessandro Senerelli đã cố tình hãm hiếp cô. Maria đã từ chối và kháng cự quyết liệt. Chàng thanh niên đã đâm 14 nhát dao vào người thánh nữ. Ngày hôm sau (06. 07. 1902), Maria đã qua đời. Trước khi chết, thánh nữ đã tha thứ cho Alessandro…. Tôi sẵn sàng tha thứ cho anh ta vì tình yêu Chúa Kitô và… tôi muốn hạt giống tình yêu, Chúa muốn tôi gieo nơi anh ta, sẽ đạt kết quả tốt là…anh ta sẽ ở cùng tôi trên Thiên Đàng…

Cũng như thánh nữ Maria Goretti, Hội thánh qua 20 thế kỷ, đã sẵn sàng vâng theo lệnh truyền của Đức Kitô, là đem Hạt giống Lời Chúa gieo rắc khắp mặt đất. Hạt giống đó đã sinh hoa kết quả tốt; hạt được 100; hạt được 80; hạt được 50. Câu chuyện về công cuộc truyền giáo cho người Tây Nguyên Kontum mà chúng ta vừa nghe ở trên, là một bằng chứng hùng hồn về Hạt giống tốt và mảnh đất màu mỡ giúp cho Hạt giống đem lại kết quả đáng mơ ước. Tuy rằng không phải mọi nơi trên trái đất đều được gieo Hạt giống Lời Chúa, nhưng rõ ràng nơi đâu Hạt giống được gieo vãi, thì ở đó Hạt giống đều sinh hoa kết quả. Hơn nữa, nơi đâu Hạt giống được gieo càng khó nhọc, bị bắt bớ, bị âm mưu tiêu diệt, hoặc thấm đẫm máu đào, nơi đó mảnh đất lại mầu mỡ, và dĩ nhiên Hạt giống Lời Chúa càng vươn lên mạnh mẽ, vững vàng hơn…

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Hạt giống Lời Chúa chính là sức sống, nên nếu được gieo vào đất tốt, Hạt giống sẽ lớn lên và phát triển dễ dàng. Có người nói: con người tốt xấu là do số phận, đúng không? Thưa sai. Hạt giống Lời Chúa là sức sống, nhưng lại được gieo vào tâm hồn ta là sỏi đá, là bụi gai, thử hỏi làm sao Hạt giống đó lớn lên và có kết quả được? Là người kitô hữu, ta là mảnh đất loại nào đây? Vệ đường, bụi gai, sỏi đá hay là mảnh đất tốt?

------------------------------------

 

TN 15-C82. LẮNG NGHE VÀ SỐNG LỜI CHÚA


Mt 13, 1 – 23

 

Vũ trụ huyền bí bao la là một tiếng nói, là lời mạc khải về Thiên Chúa quyền năng vô biên: TN 15-C82


Vũ trụ huyền bí bao la là một tiếng nói, là lời mạc khải về Thiên Chúa quyền năng vô biên. Thế nhưng, nhiều người ngày nay khi phải lo đời sống vật chất, phát triển kinh tế đã không để lòng trí mình tìm hiểu vấn đề siêu nhiên. Vì thế người ta dễ mất đi niềm hy vọng khi chỉ bám vào trần thế vốn bất toàn và phù vân này. Trong thế giới bề bộn công việc và đầy những cám dỗ hưởng thụ này, chúng ta cần tập thanh lặng lắng nghe và sống lời Chúa. Chúng ta có thể nhận ra tiếng Chúa nhắc bảo hàng ngày qua Thánh kinh và lương tâm mình.

Hạt giống Lời Chúa được gieo cách rộng rãi. Thời Cựu ước, các tiên tri đã gieo trong lòng mọi người lòng kính sợ Chúa và giáo dục luân lý theo đường lối Chúa chỉ dạy. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã mạc khải tất cả những gì cần thiết cho sự sống và phần rỗi của chúng ta. Để được phần rỗi đời đời, phần quan trọng không thể thiếu là tìm hiểu lời Chúa dạy, đọc lại Kinh thánh trong tinh thần học hỏi chân thành và đáp trả tiếng Chúa. Lời Chúa rất phong phú hữu ích cho mọi tâm hồn. Tuy nhiên, việc gieo vãi có kết quả đối với mỗi người khác xa nhau. Có người nghe rồi bỏ qua, có những người thực hành nửa vời, không triệt để, khi hoàn cảnh khó khăn hoặc những lợi lộc vật chất làm lóa mắt thì buông bỏ lời nhiệm mầu và chạy theo những lợi nhuận trần thế. Do đó, vấn đề là biết để đem ra thi hành như người khôn xây nhà trên đá, luôn kiên vững trước mọi thử thách, gian nan và chứng tỏ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta hãy chú tâm đem lời Chúa ra thực hành để đạt kết quả tốt đẹp vững bền.

Có những lúc chính tôi cũng không nhớ tới lời Chúa mà chỉ sống theo thói quen của chính mình, hoặc theo cách sống của một số người …của hàng xóm. Có khi công việc làm ăn bận rộn làm tôi không để thời gian cho Chúa nhiều nhưng xoay theo vòng xoáy của công việc. Rồi một ngày tôi thấy mình xa Chúa quá. Cuộc sống đạo chỉ còn là hình thức hoặc chỉ giữ đạo tối thiểu. Như vậy, tôi chỉ đón nhận Lời Chúa như hạt rơi trên đá sỏi hoặc trong bụi rậm, bị những cám dỗ vật chất làm yếu dần niềm tin yêu Chúa. Tôi quên rằng tất cả cuộc sống tôi là do Chúa ban, sức khỏe để tôi làm việc là do Chúa ban. Nếu tôi không dâng lại cho Chúa với lòng chân thành thì tôi có lỗi với Chúa biết chừng nào. Mỗi tuần tôi có 1 ngày nghỉ nhưng lại dành ưu tiên cho những giải trí khác thay vì ưu tiên đi nhà thờ cầu nguyện, giữ ngày Chúa nhật ! Khi tôi coi trọng những thứ khác và dành ưu tiên cho chúng là tôi đã đặt việc thờ phượng Chúa xuống hàng thứ yếu. Trong khi Chúa mới là chủ đời tôi, của cải tiền bạc không phải là xấu nhưng nhiều khi tôi đề cao nó quá mức theo kiểu thế gian.

Hôm nay, khi nghe lại dụ ngôn này, tôi thấy bổn phận của mình là hồi tâm, xét mình xem mình là loại đất nào, có sinh hoa quả trước mặt Chúa hay chưa. Dân chúng Cựu ước ước ao nghe lời Chúa mà không được nghe, còn chúng con được diễm phúc nghe biết mạc khải rõ ràng nơi Chúa Giêsu. Chúng con sẽ bị dân thờI Cựu ước trách móc về điều này nếu chúng con không hết lòng theo Chúa.

Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã tin tưởng ở chúng con, đã mạc khải những lời nhiệm mầu cho chúng con. Chúng con hứa sẽ ra sức áp dụng lời vàng ngọc của Chúa trong cuộc sống để mai ngày đơm bông kết quả xứng đáng hầu mai sau được hưởng hạnh phúc đời đời vớI Chúa trên Thiên đàng.

------------------------------------

 

TN 15-C83. LÃI BAO NHIÊU HẠT.


Mt 13, 1 – 23

 

Đã là một người nông dân, ắt hẳn ai trong chúng ta cũng phải biết tính toán thế nào cho công TN 15-C83


Đã là một người nông dân, ắt hẳn ai trong chúng ta cũng phải biết tính toán thế nào cho công việc đồng áng của mình thu hoạch được kết quả nhiều chừng nào tốt chừng ấy và thất thoát càng ít càng hay. Người ta phải tính toán xem một hecta đất phải sử dụng bao nhiêu giống là vừa, bao nhiêu phân là đủ và sẽ thu hoạch được bao nhiêu…. Ai làm nghề nông thì đều phải biết đến việc này.

Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng được nghe hôm nay, Ngài ví mình như một người nông dân gieo giống. Hạt giống của Ngài là hạt giống Lời Chúa. Chắc hẳn Ngài cũng phải tính toán sao cho thu hoạch được nhiều kết quả và lại ít phí tổn. Tiên tri Isaia nói trong bài đọc I nói thay Lời Thiên Chúa như thế này: “Lời Ta, mt khi xut pht từ ming Ta, s khng trở v với Ta nu chưa đạt được kt qủ, chưa thực hin  mun ca Ta, chưa chu tòn sứ mng Ta trao ph”. Nhưng trong việc thực hiện công việc gieo Tin Mừng chúng ta lại thấy một hành động có vẻ như phung phí của người gieo giống. Hạt rơi trên vệ đường, hạt rơi trên đá sỏi, hạt rơi vào bụi gai, hạt rơi trên đất tốt. Cuối cùng chỉ có một phần tư hạt được trổ sinh hoa trái mà hoa trái lại cũng không đều nhau. Nếu là một công việc đồng áng bình thường thì quả thật vụ mùa này không sinh lãi được bao nhiêu.

Nhìn thấy toàn cảnh của người gieo giống trong dụ ngôn của Chúa Giêsu ta mới thấy được sự rộng rãi của người gieo giống Giêsu. Vẫn biết vệ đường, sỏi đá, bụi gai không thể làm cho hạt giống kết quả nhưng người gieo giống vẫn âm thầm mong đợi một hy vọng nào đó mảnh đất sẽ làm cho hạt giống đâm chồi. Chúa Giêsu gieo Lời Thiên Chúa một cách rộng rãi không lựa chọn một nhóm nào hay một cộng đoàn nào mà Ngài đi tới đâu, thi ân giáng phúc tới đó, ban bình an và gieo vãi Lời Ngài để mong con người đón nhận Lời Ngài mà được ơn cứu độ. Chúa vẫn biết những tâm hồn hời hợt, những tâm hồn chai đá, những tâm hồn vướng bận chuyện nhân gian… nhưng Ngài vẫn rộng rãi thi ân Lời Ngài và hy vọng Lời Ngài biến đổi lòng họ. Người Gieo Giống Giêsu đã làm tất cả để hạt giống Lời Chúa được gieo vãi khắp nơi.

Về phía người đón nhận Lời Chúa, ba phần tư không sinh hoa kết quả, một phần tư còn lại thì kết quả không đều nhau. Nhưng ở đây, ta thấy Chúa Giêsu nói về kết quả với một giọng điệu rất vui vì đã có kết quả để thu hoạch. Người gieo giống như quên tất cả sự khổ nhọc của việc gieo giống, như quên đi mọi phí tổn trong việc gieo giống… Qua đó ta thấy được nỗi vui mừng của Thiên Chúa khi con người đón nhận Lời Ngài. Ngài không đòi hỏi ta phải sinh hoa kết quả như một người nào nhưng là kết quả theo khả năng của ta. Có ba mươi ta sinh ba mươi, có sáu mươi ta sinh sáu mươi….bao nhiêu đó thôi đã làm cho người gieo giống vui mừng rồi.

Trong cuộc sống hiện tại, mỗi người Chúa ban cho khả năng khác nhau và Chúa mời gọi hãy cùng Chúa làm cho những khả năng đó được sinh lời. Lời Chúa là Lời hành động, để sống chứ không chỉ để suy niệm. Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận Lời Ngài làm hành trang trong cuộc sống để chúng ta cũng biết trổ sinh những bông hạt trong ngày mùa của Chúa.

------------------------------------

 

TN 15-C84. BÀI HỌC VỀ LÒNG THƯƠNG NGƯỜI


Chúa Nhật 15 Thường Niên Năm C

 (Thứ luật 30,10-14; Thư Côlôsê 1,15-20; Tin Mừng Luca 10,25-37)

 Phúc Âm: Lc 10, 25-37

"Ai là anh em của tôi?"

Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp:

"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".

 Suy Niệm:

 

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục cho chúng ta thấy Ðức Giêsu vẫn đang trên đường truyền giáo: TN 15-C84


Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục cho chúng ta thấy Ðức Giêsu vẫn đang trên đường truyền giáo với các môn đệ. Ðó là hình ảnh diễn tả Người luôn luôn đồng hành với Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian. Người đã nhắc nhở chúng ta muốn đi theo Người phải có tinh thần từ bỏ mọi sự và hiến thân cho Nước Trời. Hôm nay Người dạy chúng ta phải làm gì để được hạnh phúc thật?

Người lợi dụng sự kiện có kẻ muốn hỏi Người điều đó để dạy chúng ta. Và để chúng ta không hiểu lầm giáo huấn của Người, phụng vụ còn đọc cho chúng ta nghe hai bài Kinh Thánh nữa để thấy rằng luôn luôn phải hiểu các lệnh truyền và giới răn của đạo theo ý nghĩa sâu xa và gắn liền với mầu nhiệm Chúa Kitô. Nói cách khác, tuy bài Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta phải coi mọi người là cận thân và phải có lòng thương xót mọi người, nhưng nơi Kitô giáo lòng thương người và hành vi bác ái không chỉ diễn ra bên ngoài nhưng phải bắt nguồn từ bên trong và nằm trong mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúng ta hãy đọc lại các bản Kinh Thánh của Lời Chúa hôm nay.

 1. Bài Tin Mừng Về Lòng Thương Người

Thánh Luca kể rằng hôm ấy có một luật sĩ lên tiếng hỏi thử Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?". Người ấy muốn biết giáo lý của Người có trung thành với luật pháp không, hay thực ra ông ta cũng muốn dạy dỗ thêm về đường lối cứu độ? Thái độ của người ấy trong tất cả câu chuyện này dường như làm chứng ông ta đang muốn tìm hiểu thêm thật. Thế nên khi Ðức Giêsu hỏi lại ông ta: "Luật dạy thế nào? Ông đọc thấy gì?" thì người ấy vội vàng thưa hết những gì ông ta biết. Ông trả lời rằng: "Luật dạy phải mến Chúa hết sức mình và yêu cận thân như chính mình". Ông đã nối kết một câu trong sách Lêvi (19,18) với một câu trong sách Ðệ Nhị Luật (6,5); và việc ấy làm chứng ông là người hiểu luật pháp và biết tổng hợp để có những nguyên tắc sống đạo đầy đủ. Ðức Giêsu bảo ông cứ việc sống như thế...

Nhưng tác giả Luca không muốn dừng lại ở đây. Người biết ai cũng đã hiểu muốn sống đạo thì phải mến Chúa yêu người, nhưng thực tế thì lại ít ai biết thực hành những điều căn bản ấy. Thế nên người đã để cho người luật sĩ kia hỏi thêm, tạo dịp cho Ðức Giêsu giải thích rộng rãi, dạy người ta phải biết thực hành luật mến Chúa yêu người như thế nào. Nói đúng hơn tác giả Luca đã lấy câu chuyện về người Samari nhân ái để trình bày cho mọi người biết phải thi hành lòng thương người làm sao? Tức là câu chuyện người luật sĩ đến chất vấn Ðức Giêsu và câu chuyện người Samari nhân hậu có thể là hai câu chuyện khác nhau đã xảy ra trong cuộc đời của Ðức Giêsu. Nhưng Luca đã ghép hai chuyện lại làm một, để đưa ra cho chúng ta bài học.

Ðó là bài học phải làm gì để được sống đời đời? Và khi đặt câu hỏi như vậy, tác giả Luca đã hàm ý khẳng định: đạo không phải là vấn đề lý thuyết, nhưng là vấn đề thực hành. Theo đạo không phải là biết đạo, nhưng là sống đạo và làm những việc đạo dạy. Những việc này trở đi trở lại cũng vẫn chỉ là những việc bác ái thương người. Nếu trong sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu có đoạn nói rằng trong ngày phán xét Chúa chỉ tra hỏi người ta về những việc đã làm cho tha nhân, thì ở đây thánh Luca cũng quả quyết: muốn được sống đời đời, phải hành động như người Samari nhân ái.

Ông ta cũng đi đường. Nhưng đột nhiên ông đứng lại; xuống ngựa và cúi nhìn xem một thân thể đang nằm xõng xoài bên vệ đường. Trước đó cũng có hai người đi qua: một thầy tư tế và một thầy Lêvi. Cả hai cũng thấy thân thể nằm xõng xoài kia, nhưng họ đã bỏ đi. Vì động đến một thây ma ư, khiến sẽ bị dơ theo luật dạy? Chắc không, vì rõ ràng thân thể nằm dài kia chưa chết, nhưng đang quằn quại đau đớn. Ðó chỉ là một người bị thương, một kẻ bất hạnh đi từ Giêrusalem đến nhưng bị cướp đón đường đánh bị thương nặng rồi lấy của bỏ đi.

Những trường hợp như vậy vẫn thường xảy ra trên quãng đường này. Hai thầy tư tế và Lêvi kia đã không ở lại, có phải vì sợ bọn cướp ư? Chắc cũng không phải như vậy; vì thường kẻ cướp lấy được của rồi bỏ đi chứ không ở lại làm gì. Ðàng khác ai dám động đến tư tế và Lêvi. Hai người này đã bỏ đi không ở lại với nạn nhân một phút, chỉ vì họ không biết và không muốn làm những hành vi thương người. Họ không thấy người nằm ở vệ đường kia là thân cận, gần gũi mình. Ðó là kẻ xa lạ, mặc dầu đó cũng là người đồng đạo và đồng bào với mình. Kẻ ấy đã trở thành người xa lạ vì rơi vào hoàn cảnh bất hạnh nghèo khó.

Ở đời có nhiều người cư xử như hai người tư tế và Lêvi kia. Họ chơi với người khác khi người này đang ở trong tình trạng bình thường. Nhưng chẳng may những kẻ này sa cơ thất thế, thì lập tức họ bị bỏ rơi và bị coi như xa lạ.

Ở đây tác giả Luca không phải chỉ muốn nói như vậy mà thôi. Người nói đến một thầy tư tế và một thầy Lêvi là để chúng ta hình dung những con người đang dâng lễ, và để rồi làm chứng rằng Chúa không thích lễ dâng nhưng Người muốn lòng thương xót.

Quả vậy, tất cả bài Tin Mừng hôm nay chỉ muốn làm nổi bật cái tư cách dễ thương của người Samari nhân hậu. Chúng ta thấy ông ta xuống ngựa và đến cúi xuống trên con người đang nằm quằn quại trên vệ đường. Ông chẳng để ý xem kẻ bất hạnh đây là ai? Là người Giuđa hay Samaria. Hai dân này vẫn coi nhau như cừu địch. Ông chỉ thấy đây là một kẻ bất hạnh, một con người như mình mà lại không được như mình. Và ông thấy bổn phận phải yêu thương người ấy như chính mình. Thế nên ông đổ dầu, đổ rượu vào các vết thương, băng bó mau lẹ, vực người ấy lên ngựa, phóng mau đến quán trọ gần nhất. Sau khi thuốc thang cho người ấy đỡ, ông giao lại cho chủ quán săn sóc và dặn rằng khi trở về ông sẽ trang trải mọi phí tổn.

Như vậy ai là kẻ cận thân, gần gũi với người bị nạn, nếu không phải là người Samaria nhân hậu này, mặc dù ông ta không cùng nòi giống và tôn giáo với người kia? Ðang khi hai thầy tư tế và Lêvi vừa là người Do Thái vừa là bậc dạy đạo đức lại coi kẻ đồng đạo, đồng bào là kẻ xa lạ... Chính những hành vi bác ái làm chứng ai thật là kẻ có lòng nhân? Ai là người nhân hậu? Ai mang bản tính nhân loại trong mình? Ai là người thật vì đã cư xử xứng đáng với nhân phẩm? Thế nên Ðức Giêsu kết luận: hãy đi và làm như vậy. Và tác giả Luca còn ngầm nói rằng: và như vậy rõ ràng Chúa không ưa lễ dâng, nhưng tìm lòng thương xót; và chính tình thương sẽ xóa bỏ được hận thù để làm cho những kẻ trước đây xa lạ trở nên cận thân và gần gũi.

Câu chuyện hôm nay đẹp. Bài học này cần được suy nghĩ. Nhưng cẩn thận, nếu chúng ta chỉ dừng lại trong lãnh vực tư tưởng thì sẽ không đạt được ý của tác giả. Thánh Luca muốn chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ hiểu đạo; phải thi hành lòng thương xót, chứ không phải chỉ biết đạo dạy mến Chúa yêu người.

Nhưng để tránh những thái độ quá khích ngay cả trong việc bác ái yêu thương, phụng vụ hôm nay muốn chúng ta phải để ý đến hai bài đọc kia nữa.

 2. Bài Cựu Ước Nói Về Luật Pháp

Nhiều người không quan tâm đến đoạn sách Thứ Luật hôm nay. Nó là đoạn chót của một cuốn sách dày trên 30 chương. Phân tách văn chương còn có thể cho thấy nó đã được viết thêm vào sau này, chứ chẳng có thể nào đã là những lời đích thực thốt ra từ môi miệng Môsê.

Chắc chắn đây là những quan niệm kết quả của nhiều thế hệ suy tư thần học, có sau cả những thời kỳ suy tư triết học của các tác phẩm khôn ngoan, và đã được thấm nhuần giáo huấn của các tiên tri.

Thực vậy tư tưởng chính ở đây là: luật pháp và các giới răn của Chúa không xa lạ nhưng gần gũi, không rớt từ trên trời xuống cũng không đi từ đại dương lên, nhưng ở ngay trong miệng và trong lòng con người. Quan niệm như vậy gián tiếp muốn sửa chữa những ý tưởng vẫn được trình bày trong các sách khôn ngoan.

Ở những tác phẩm này, và nói đúng hơn, theo quan niệm khôn ngoan của người đời, chân lý càng cao vời càng có giá trị và luật pháp càng thâm sâu càng đáng trọng. Ðúng, khi nghĩ về Thiên Chúa, chúng ta không thể bỏ chiều cao và chiều sâu. Người siêu việt quá mọi suy nghĩ của ta.

Nhưng Thiên Chúa chúng ta không muốn sống xa lạ. Người đã trở thành cận thân với con người. Sự khôn ngoan của Người rất cao vời; nhưng như lời sách Khôn ngoan viết: sự khôn ngoan của Chúa lại đã đến lập cư ở giữa con cái loài người. Tính cách siêu việt của Thiên Chúa không được diễn tả nguyên chiều cao của Người, nhưng đồng thời nhắc nhở Người đã cúi xuống với loài người chúng ta, để tuy vẫn là Thiên Chúa, Người cũng đã làm người, để Người vừa ở xa mà lại vừa ở gần: giống như người Việt Nam chúng ta thường nói: Sen là bông hoa ở gần bùn nhưng chẳng hôi tanh mùi bùn.

Thời Cựu Ước Thiên Chúa chưa ở gần loài người như thời Tân Ước. Nhưng Người cũng đã ở giữa dân bằng Luật pháp. Luật pháp vừa là ý Chúa vừa là chính Chúa. Người ta lầm khi nghĩ rằng luật pháp là hai bia đá và là các sách luật. Nghĩ như vậy, Chúa chẳng bao giờ ở gần người ta. Và quan niệm như thế dễ đi đến chỗ giữ luật và giữ đạo nguyên vì hình thức. Người ta tưởng rằng cứ thi hành y như chữ viết là đẹp lòng Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, người ta lại thường chỉ thi hành những bổn phận tế tự và xao nhãng điều luật dạy về yêu thương. Thầy tư tế và thầy Lêvi trong câu chuyện của Luca là một thí dụ.

Tác giả đoạn sách Thứ Luật hôm nay không chấp nhận quan niệm như thế về luật pháp. Ông đã được hấp thụ giáo huấn của các tiên tri. Ông nhớ Giêrêmia (31,31) và Êzêkien (36,25) đã tuyên bố: Thiên Chúa sẽ viết lại một luật pháp, không phải trên bia đá, như thời Môsê nữa, nhưng trên trái tim con người. Nói đúng hơn, Người sẽ biến đổi trái tim chai đá của con người tội lỗi thành trái tim thịt đầy yêu thương theo thần khí. Con người khi đó sẽ không thi hành luật pháp một cách lạnh lùng cứng nhắc, nhưng sẽ lấy yêu thương mà sống với mọi người.

Tức là tác giả đoạn sách Thứ luật hôm nay đã có một quan niệm rất sâu xa về luật pháp. Ông truyền bá đạo nội tâm, đạo chân thật, đạo không vụ hình thức nhưng căn cứ vào tâm tình thành khẩn.

Nếu ông ở vào thời Cựu Ước còn muốn như vậy, thì huống nữa là chúng ta ở thời Tân Ước. Chúng ta sẽ được Thiên Chúa đổ Thánh Thần xuống trong lòng, nhờ mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Ðức Giêsu Kitô. Lẽ nào chúng ta còn được thỏa mãn với những hành vi bác ái bên ngoài mà không có những tâm tình chân thật kèm theo. Làm những hành vi giúp đỡ người khác, là điều phải và đáng khen. Nhưng Chúa đã đổ Thánh Thần vào lòng chúng ta để có thể có những hành vi kia nên những việc cứu nhân độ thế, khiến mọi người càng ngày càng cảm thấy cận thân gần gũi với nhau nhiều hơn. Và cho được làm như vậy, có lẽ bài thư Phaolô hôm nay sẽ giúp ích nhiều.

 3. Bài Thánh Thư Và Mầu Nhiệm Chúa Kitô

Nói đúng ra, đây là một bài ca và là một bài ca Phụng vụ. Và như vậy tác giả của nó không thuần túy là nguyên thánh Phaolô. Người đã có công đưa nói vào trong một bức thư của người để nó được truyền tụng tới thời ta. Có thể người cũng đã sửa chữa, uốn nắn nó lại ra hình thức hiện nay. Dù sao, nội dung chính yếu của bài ca này cũng là chúc tụng Ðức Giêsu Kitô theo hai đề tài chính: Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình để nhìn vào đó mà mọi loài được tạo dựng; Người là trưởng tử giữa các vong nhân nghĩa là đã sống lại trước hết mọi người để tái tạo mọi loài sa ngã vào đời sống ân sủng.

Như vậy, Ðức Giêsu trong bài ca này được ngợi khen theo hai khía cạnh: tạo dựng và cứu chuộc. Trong cả hai, Người là đầu hết và là cuối hết. Người là khuôn mẫu và là bản chất cho mọi loài được hiện hữu trong sự sống và trong ân sủng. Tức là mọi loài chỉ có thể cận thân gần gũi với nhau ở nơi Người và nhờ Người.

Áp dụng điều này vào bài học bác ái thương người hôm nay chúng ta thấy phụng vụ dường như muốn dạy chúng ta rằng: ai sống đạo thì phải thương người (đó là ý của bài Tin Mừng) nhưng những hành vi bác ái thật phải phát xuất từ trong lòng (và đây là bài học của sách Ðệ Nhị Luật); và lòng con người phải kết hợp mật thiết với Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chịu chết và sống lại để đưa chúng ta trở về lòng bác ái của Thiên Chúa đã dựng nên mọi loài trong hòa hợp yêu thương theo như hình ảnh của Người cũng là chính Ðức Giêsu Kitô (như bài Thánh thư viết).

Có lẽ khi viết bài ca này trong thư gửi cho người Côlôsê, thánh Phaolô khuyên họ đừng tin vào các thiên tòa, thiên chủ, thiên phủ uy linh nào và tưởng rằng có các bậc vô hình ấy và các vị này có thể đem ơn cứu độ đến cho loài người và làm cho chúng ta được hạnh phúc trong hòa hợp. Không, không ai đã giải hòa được chúng ta với Thiên Chúa để chúng ta được cận thân, gần gũi, hòa hợp với nhau trong hạnh phúc trường cửu, ngoại trừ Ðức Giêsu Kitô cứu thế.

Ðiều này là tín điều căn bản xây dựng nên Kitô giáo. Chúng ta không ngừng nhắc đi nhắc lại, nhất là những khi bị lôi cuốn theo một công việc nào mà chúng ta tin vào hiệu năng đến nỗi tưởng đó là hành động cứu thế. Không, chỉ có hành vi cứu độ thật nơi Ðức Giêsu Kitô trong việc Người Tử nạn Phục sinh. Hành vi ấy chúng ta sắp cử hành bây giờ trong phụng vụ Thánh Thể.

Thế thì không những chúng ta phải tham dự thánh lễ này thật ý thức và sốt sắng nhưng chúng ta còn phải thi hành đòi hỏi của việc cử hành Thánh Thể này. Nhìn vào mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại vì ta, chúng ta phải có khả năng đáp trả bằng cách hiến thân hy sinh vì Chúa và Hội Thánh của Người. Chúng ta muốn bắt chước chính Người, chưa được như lúc Người xả thân trên Thập giá thì ít ra cũng phải như khi Người đi trên đường truyền giáo. Người không luôn luôn sẵn sàng cúi mình săn sóc bệnh nhân, các người khổ sở, những kẻ tội lỗi và bé mọn sao?

Chúng ta có thể nghĩ thánh Luca đã nhìn vào Ðức Giêsu để họa ra bức tranh người Samaria nhân ái. Bức họa ấy vừa nói lên vai trò cứu thế của Ðức Giêsu khi chữa lành các vết thương tội lỗi của nhân loại, vừa diễn tả thái độ nhân hậu của Người trong khi tiếp xúc với mọi hạng người.

Thái độ nhân hậu nói lên vai trò cứu thế kia; thế nên chúng ta cũng phải theo gương Người đem tinh thần cứu thế vào các hành vi bác ái thương người.

Chúng ta hãy đem Chúa Giêsu vào lòng để từ lòng chúng ta sẽ xuất ra nhiều sáng kiến dẫn đến phục vụ bác ái. Ðẹp đạo thì phải tốt đời vậy.

 (Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

------------------------------------

 

TN 15-C85. AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN ?


Lc 10, 25-37

 

Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn, hay lấy những hình ảnh, sự vật,: TN 15-C85


  Trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn, hay lấy những hình ảnh, sự vật, những câu chuyện hằng ngày để dạy dỗ dân chúng. Điều đó không có gì lấy làm ngạc nhiên lắm khi người thông luật đặt câu hỏi:” Ai là người thận cận của tôi ? “. Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp, thay vì trả lời, Ngài đã kể dụ ngôn người Samari nhân hậu.

  Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn rất quen thuộc nhưng lại rất ấn tượng khi được Chúa Giêsu kể chuyện: một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột và rồi chúng bỏ người bộ hành nửa sống nửa chết ở bên đường. Thầy tư tế và thầy Lêvi đi ngang qua, hai thầy này đều tránh qua bên kia mà đi, trong khi người Samari ngoại đạo lại xuống ngựa, đứng lại, băng bó vết thương và chở người bị nạn đến nhà trọ, nhờ chủ quán giúp đỡ, tốn phí bao nhiêu Ông sẽ lo lắng hết.

  Đức Giêsu hỏi vị thông luật đặt câu hỏi:” Vậy ai là kẻ thân cận của kẻ bị hại “. Hỏi tức là trả lời. Thực tế ở đây người bị nạn không hề biết người Samari và ngược lại người Samari cũng không biết người bị hại. Đây là nét rất đẹp của Tin Mừng. Người thông luật đáp:” Chính là kẻ thực thi lòng thương xót “. Đức Giêsu liền bảo Ông:” Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy “ ( Lc 10, 37 ). Chúa Giêsu thường đưa chúng ta tới một sự ngạc nhiên, bất ngờ và sự bất ngờ này là “ người lân cận “. Và người anh hùng ở đây là người Samari nhân hậu. Chúng ta phải hiểu rõ: câu chuyện này được Chúa Giêsu nói với người Do Thái.

Những người Do Thái coi người Samari như kẻ phản bội, người đáng bị khinh bỉ và là người thờ tà ma, tà thần. Do đó, những người nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn này bị choáng váng, khó chịu, giận dữ khi Chúa đề nghị với họ noi gương, bắt chước người Samari nhân lành. Chúa nói:” Hãy yêu như Chúa yêu “. “ Yêu rồi làm gì thì làm “. Nói rất dễ nhưng thực hành yêu thương mới khó. Những hành động, những việc làm bác ái, yêu thương cụ thể thường khác với những lời nói hoa mỹ, những lời nói suông. Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hành hơn là chỉ nói:” Hãy đi và làm như vậy “. Thầy tư tế và thầy Lêvi tránh qua một bên mà đi vì họ giữ luật Do Thái, sợ đụng vào nạn nhân sẽ bị ô uế, sợ bọn cướp còn ẩn núp, còn rình mò đâu đây, sơ rắc rối và sợ phiền hà tới mình. Ở đời, sở dĩ, nhiều khi chúng ta không dám làm điều gì đó cho người anh em vì chúng ta sợ tốn phí, sợ mất thời giờ, sợ tốn công sức và sợ đủ thứ. Nên, thái độ của chúng ta thường thích được an thân cho khỏe, cho nhàn. Thầy tư tế và thầy Lêvi sợ lụy vào thân, sợ lỗi luật vv…Còn người Samari đã can đảm bất chấp mọi sự để chỉ biết có một việc trước mắt phải làm là cứu người bị cướp đánh bị thương, bỏ nửa sống nửa chết ở bên đường vắng. Thực tế, Chúa Giêsu đang dạy mọi người, đang dạy nhân loại bài học yêu thương. Yêu thương không có nghĩa là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân của mình.

   Bài học này phải là bài học mỗi người chúng ta thuộc nằm lòng trên môi và trở nên động lực mạnh mẽ khiến chúng ta luôn thực hành bác ái. Hãy bắt chước người Samari nhân hậu vì người Samari nhân lành là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Hãy bắt chước các vị thánh và bao nhiêu người sống tốt lành khác. Mẹ Têrêsa Calcutta để lại mẫu gương bác ái tuyệt vời vv…Yêu rồi làm gì thì làm như thánh Gioan đã rao giảng và mãi mãi rao giảng. Yêu rồi làm sẽ giúp chúng ta có rất nhiều sáng kiến để phục vụ tha nhân, phục vụ mọi người. Yêu thật sự như Chúa yêu sẽ giúp chúng ta quên đi và luôn can đảm vượt qua mọi trở ngại để đến với những người đang cần chúng ta giúp đỡ.

   Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết yêu như Chúa yêu để cái cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương sẽ không làm cho chúng con quên lãng. Amen.

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

------------------------------------

 

TN 15-C86. YÊU THƯƠNG KHÔNG BIÊN GIỚI


CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN

Lc 10, 25-37

 Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

 

Cái làm nên con người là tấm lòng của mình chứ không phải dáng vẻ, bộ mã bên ngoài. Người: TN 15-C86


Cái làm nên con người là tấm lòng của mình chứ không phải dáng vẻ, bộ mã bên ngoài. Người ta cứ tưởng rằng có học, giầu sang là đủ. Có học, có của nhưng chỉ bo bo giữ cho mình, không có lòng nhân ái, vẫn chưa phải là con người tốt, con người biết chia sẻ. Chúa Giêsu khi tới trần gian, Ngài đã thiết lập đạo tình thương. Cốt lõi của đạo mạc khải mà Chúa Giêsu đem tới là tình thương. Đạo của Chúa Giêsu là đạo tình thương. Tin Mừng của thánh Luca 10, 25-37 trích đọc trong Chúa nhật 15 này nói về giới răn quan trọng nhất: tình yêu thương.

 YÊU THƯƠNG LÀ GIỚI RĂN MỚI CỦA CHÚA GIÊSU:

Thường con người yêu thương ai yêu thương, mến, quan tâm đến mình và ghét những ai không thương, không quan tâm, hoặc ghét mình. Ngay trong Cựu ước cũng có đoạn nói:” Mắt thế mắt răng đền răng”. Chúa Giêsu lại dậy khác:” Nếu ai vả má bên phải hãy giơ cả má bên trái…Ai đoạt áo khoác ngoài hãy cởi cả áo trong”. Đây là điều răn rất mới mẻ của Chúa Giêsu. Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu nói lên cái cốt lõi của tình thương hay nói đúng hơn diễn tả rốt ráo điều Chúa Giêsu muốn dậy cho nhân loại, cho mọi người. Chính việc làm mới là điều quan trọng. Lời nói, bề ngoài chưa phải là điều cốt lõi Chúa muốn nói đến. Người luật sĩ thông hiểu Kinh Thánh và hiểu rõ lề luật, Ông ta có thể trả lời vanh vách câu hỏi mà Ông đặt ra cho Chúa Giêsu về giới răn thứ nhất là:” Hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình…”.

Tuy nhiên, đến vế thứ hai của câu trả lời với Chúa Giêsu về người lân cận, một vế xem ra hơi rắc rối một chút và khác với sự hiểu biết của Ông. Luật Môsê và luật Do Thái chỉ ra rõ ràng ai thuộc phe ta và người nào ở ngoài. Như vậy là có sự phân biệt kẻ ở trong và kẻ ở ngoài. Người biệt phái chỉ cần Chúa chỉ điểm cho một chút xíu nữa là Ông đã nhìn ra sự thật và sự suy nghĩ của Ông sẽ trọn vẹn, không thiển cận, không ích kỷ, phân biệt. Thực tế nhất là người bộ hành đi từ Giêrusalem tới Giêrichô, dọc đường bị lột sạch của cải và bị cướp đánh nửa sống nửa chết giữa đường. Tin Mừng của thánh Luca trong trích đoạn 10, 25-37 đã nói lên sự thực thật nực cười, mỉa mai: vị tư tế đi ngang, thầy Lêvi cũng đi ngang qua, tất cả hai vị hiểu Kinh Thánh, làm Thầy dậy yêu thương của dân đều có thái độ xa tránh, không thương giúp người gặp nạn. Còn người Samaritanô, một người bị coi là ở ngoài, đã bắt tay ngay vào việc, đã băng bó vết thương, rồi chở tới nhà trọ nhờ người săn sóc, tốn kém bao nhiêu Ông sẽ trả hết. Đây là cách hành xử rất mới mẻ. Ông đã tự đặt mình là người lân cận. Chính cung cách hành xử, thái độ yêu thương, nhân từ của người Samaritanô nhân hậu đã nói lên cái lõi tủy của đạo Chúa Giêsu Kitô.Cái mới của đạo mạc khải của Chúa Giêsu:” Kính Chúa và yêu người “ là hai giới răn nhưng chỉ là một. Chúa đã nói:” Cứ dấu này, người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Ta là anh em hãy yêu mến nhau”.” Ai nói yêu mến Chúa mà không yêu mến anh em là những kẻ thấy được là kẻ nói láo “.

 CHÚA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI  HÃY HÀNH XỬ NHÂN TỪ:

Trên thế giới có nhiều nơi con người còn thiếu thốn, có nhiều nơi chiến tranh vẫn còn triền miên chết chóc. Liệu con người có biết chia sẻ của cải, vật chất, chia sẻ sự cảm thông và cầu nguyện cho các nơi còn chém giết, còn chết chóc thê lương hay không ? Hình ảnh người Samaritanô nhân hậu phải là hình ảnh cụ thể của mỗi người chúng ta. Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy đặt mình vào chỗ người lân cận, hãy biến mình thành người lân cận, ta mới hiểu rõ những gì ta cần người khác giúp đỡ. Dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, ta đã nghe bao nhiêu lần rồi và câu chuyện này, Chúa đã dậy ta cách đây hơn hai ngàn năm, liệu có bao nhiêu thầy tư tế, bao nhiêu thầy Lêvi đang tồn tại trong thế giới con người ? Chúa kêu mời con người hãy có lòng nhân với người khác. Đạo của Chúa là đạo tình thương. Ta đã sống đạo tình thương như thế nào ?

 CÒN BAO VỊ TƯ TẾ, BAO THẦY LÊVI NHƯ CHÚA GIÊSU KỂ:

Chắc chắn còn và còn rất nhiều vị tư tế, thầy Lêvi như Tin Mừng của thánh Luca 10, 25-37 thuật lại. Người ta cứ tưởng có học, có của là đủ, còn cách hành xử, thái độ, cử chỉ yêu thương là cái vỏ bề ngoài mà thôi. Không, dứt khoát là không vì:” Chiếc áo đâu làm nên thầy tu “. Bề ngoài đạo mạo chưa nói lên tấm lòng. Chúa luôn kêu mời con người hãy sống yêu thương, bác ái, bao dung. Biết bao người xung quanh ta đang gặp thử thách, hoang mang, đói khổ, ta đã bao giờ nghĩ tới họ chưa ? Biết bao người nghèo tới xin ta giúp đỡ, ta có đành lòng làm ngơ không cho họ chút gì chăng ? Dù chỉ chia sẻ cho họ chén gạo, chén cơm cho đỡ đói chăng ? Mỗi con người là hình ảnh của Thiên Chúa.

Ta có nhận ra Chúa trong họ không ? Rõ ràng, Chúa Giêsu mời ta hãy yêu thương mọi người không phân biệt người ở trong và người ở ngoài. Tình yêu của Chúa là tình yêu không biên giới, tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến.

 GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

Hình ảnh người Samaritanô nhân hậu nói gì cho anh chị ?
Thế nào là người lân cận ?
Thái độ của người Samaritanô nhân lành gây ấn tượng gì cho anh chị ?

------------------------------------

 

TN 15-C87. AI LÀ ANH EM CỦA TÔI


(CHÚA NHẬT XV, THƯỜNG NIÊN, NĂM C)

(Linh Mục Anphong Trần Đức Phương)

 

Chúa Nhật hôm nay nói đến luật Bác Ái là kính mến Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân: TN 15-C87


Chúa Nhật hôm nay nói đến luật Bác Ái là kính mến Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân, đặc biệt trong việc giúp đỡ những người lâm cảnh khó khăn.

  Bài Đọc I (Đệ Nhị Luật 30:10-14): Lề luật của Chúa đã được ghi khắc vào lòng chúng ta (Lương Tâm) để hướng dẫn chúng ta sống cho xứng đáng những con người đã được Chúa dựng nên theo hình ảnh Chúa, chúng ta cần đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Bài đọc II (Côlôsê 1:15-20): Chúa Giêsu cũng chính là Thiên Chúa thật , Ngài mặc lấy thân xác con người, đổ máu ra trên Thánh Giá để cứu chuộc nhân loại và trở nên “trưởng tử mọi loài thọ sinh và là Đầu Giáo Hội.” Bài Phúc Âm (Luca 10: 25-37): Chúng ta phải thực hành Đức Bác Ái để được sống đời đời. Đó là yêu mến Chúa hết lòng và yêu thương phục vụ tha nhân. Người Samaritano tốt lành là hình ảnh của những người biết thương cảm và hy sinh giúp đỡ mọi người, nhất là những người gặp  hoạn nạn, dù người đó là ai.

  Mỗi ngày khi chúng ta đọc Kinh ‘Mười Điều Răn Đức Chúa Trời’, chúng ta nên để ý đến lời cuối  cùng “Mười điều răn Chúa tóm về hai điều này:  trước hết kính mến Một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu thương tha nhân như chính mình .” Nếu chúng ta sống được hai điều căn bản này là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật của Chúa và các giới răn của Giáo Hội.

   Luôn biết kính mến Chúa và thương yêu người khác như chính mình, chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn các bổn phận thờ phượng Chúa, chúng ta sẽ xa tránh các dịp tội để không phạm tội làm mất lòng Chúa và xúc phạm đến nhau (những tội như  tham lam tiền bạc, lỗi phép công bằng, làm chứng gian hại người khác, lộng ngôn, nói hành nói xấu,  ham thú vui xác thịt, luyến ái tự do, li dị, phá thai…). Mọi tội lỗi đều xúc phạm đến Thánh Danh Chúa, và làm hoen ố hình ảnh của Chúa mà chúng ta mang trong tâm hồn khi chúng ta đã được thanh luyện qua Bí Tích Thánh Tẩy.

  Hơn nữa, giữ Lề Luật Bác Ái không phải chỉ là lo xa tránh tội lỗi mà tích cực hơn, còn phải lo chu toàn các bổn phận của người tín hữu: ngoài bổn phận thờ phượng Chúa, chúng ta có bổn phận đối với Ông Bà Cha Mẹ, đó là điều răn thứ bốn: Phụng dưỡng các Ngài khi còn sống, nhất là khi các Ngài đã già yêu, bịnh tật. Hằng nhớ đến và cầu nguyện cho các vị  đã qua đời.

  Luật Bác Ái cũng dạy chúng ta phải duy trì tình yêu trong gia đình giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái; điều này  cũng đòi buộc chúng ta phải hy sinh nhiều lắm để có thể chịu đựng lẫn nhau, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.

Ngoài gia đình ruột thịt, chúng ta còn sống trong gia đình nhân loại, mà mọi người đều là con cái Chúa và anh em với nhau “Tứ Hải Giai Huynh Đệ.” “Mọi người đều là  anh em của tôi” trong gia đình nhân loại. Thực hành được đìều đó, chúng ta sẽ không còn xét đoán, kỳ thị chủng tộc, tiếng nói, mầu da…; nhưng biết chấp nhận mọi dị biệt để yêu thương nhau như anh em, để xây dựng hòa bình, thay vì gây chiến tranh, chém giết lẫn nhau. Người Samaritano tốt lành đã tận tâm giúp người bị kẻ cướp hành hung, ông đã không phân biệt, không xem xét người đó là ai, chủng tộc nào; nhưng thấy một người hoạn nạn cần giúp đỡ là ông hết lòng giúp đỡ không sợ bị liên lụy, không sợ mất thời giờ, tiền của. Đó là điều Chúa Giêsu đặc biệt muốn nhấn mạnh trong Dụ Ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay. Chính Chúa Giêsu đã thực hành điều đó, Ngài đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi, đã hy sinh xuống thế làm người, đã chịu chết để cứu chuộc mọi người thuộc mọi ‘chủng tộc và ngôn ngữ’, băng bó mọi vết thương gây ra do tội lỗi và đưa chúng ta vào “Quán Trọ” là gia đình Giáo Hội để chữa lành  và đưa chúng ta về  quê hương thật Nước Trời. 

------------------------------------

 

TN 15-C88. Chúa Nhật 15 Thường niên, C


2010

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Lu-ca 10:25-37)

 

Để trả lời câu hỏi “Ai là người thân cận của tôi”, Chúa Giê-su kể một câu truyện, vì nếu trả lời: TN 15-C88


          Để trả lời câu hỏi “Ai là người thân cận của tôi”, Chúa Giê-su kể một câu truyện, vì nếu trả lời cách bình thường, có lẽ khó trình bày vấn đề một cách sâu sắc mà lại đơn sơ được.  Vậy Chúa kể câu truyện gì? 

Đây là một câu truyện thời sự, có thể đã xảy ra nhiều lần rồi.  Truyện kể về một người bộ hành gặp nạn cướp trên đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô.  Chắc chắn đây là một người Giu-đê, vì ông ta khởi hành từ Giê-ru-sa-lem.  Đoạn đường hai mươi lăm cây số này là nơi làm ăn của bọn cướp.  Không biết bao nhiêu người đã rơi vào tay bọn chúng.  Người bộ hành trong câu truyện hôm nay cũng chung một số phận.  Ông ta bị chúng đánh gần chết và bỏ mặc bên vệ đường.  Người thứ nhất đi ngang qua là một tư tế, nhưng vị tư tế nghĩ bổn phận phục vụ tại Đền Thờ không cho phép ông đụng tới người sắp chết nên ông tránh qua bên kia đường và đi thẳng, mặc cho người gần chết kêu cứu.  Người thứ nhì đi tới cũng là một chức sắc, một thầy Lê-vi.  Nhưng ông ta làm như không thấy nạn nhân và cũng “tránh qua bên kia đường mà đi”.

Nạn nhân may mắn gặp được một người Sa-ma-ri dừng lại và tận tình săn sóc.  Người Sa-ma-ri này gạt bỏ mọi trở ngại để cứu giúp nạn nhân.  Người ấy đã vượt hàng rào ngăn cách chủng tộc mà đến với người Giu-đê.  Ông đã không ngần ngại mất thì giờ để dừng lại, dành thời gian chăm sóc nạn nhân.  Ông đã không quan tâm tới tiền bạc, tốn phí, miễn là tính mạng và sự an toàn của nạn nhân được bảo đảm.  Sau hết ông còn đề ra cả một kế hoạch lâu dài để thực hiện việc chăm sóc cho nạn nhân đến cùng, bằng cách kéo thêm người khác tham gia vào công cuộc bác ái.

Chúa Giê-su đã diễn tả dung mạo người thân cận của chúng ta qua hình ảnh vô cùng sống động người Sa-ma-ri nhân hậu.  Câu truyện này giúp chúng ta khám phá những đặc tính của một người chúng ta gọi là “người thân cận”.  Người thân cận không dựa trên những phân biệt chủng tộc, giai cấp xã hội, nhưng dựa trên mẫu số chung là tương quan giữa những con cái có cùng một Cha trên trời.  Người thân cận là người thực sự sống mối tương quan ấy, không chỉ qua xã giao bề ngoài hay tình cảm, mà qua đời sống bác ái biết chăm sóc cho nhau về mọi phương diện.  Người thông luật trong câu truyện cũng cho chúng ta một định nghĩa cụ thể về người thân cận:  “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót”.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Kết thúc câu truyện Tin Mừng, Chúa Giê-su nói với nhà thông luật:  “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.  Chúa đã giúp chúng ta nhận diện người anh chị em được gọi là “người thân cận”.  Xã hội hôm nay là môi trường của “những người thân cận”.  Những người khác mầu da chủng tộc và ngôn ngữ sống bên cạnh nhau.  Những người có lý lịch và văn hóa khác nhau ở cùng trong một khu phố.  Chính chúng ta cũng đang sống trong môi trường những người thân cận đó.  Vậy mà nhiều khi chúng ta chẳng phải là người thân cận của họ, hay ngược lại họ cũng không phải là những người thân cận của chúng ta!  Vì thế, chúng ta hãy đáp lời Chúa Giê-su dạy:  “Hãy đi và cũng hãy làm như vậy”.  Chúng ta hãy đi băng bó vết thương cho anh chị em, không hẳn vết thương thể xác, nhưng hầu hết là những vết thương tâm lý, những nỗi đau, nỗi buồn, nỗi cô đơn… của họ.  Chúng ta hãy lấy “dầu, rượu” là biểu tượng của tình yêu thương, lòng cảm thông, sự tha thứ để hàn gắn những sứt mẻ, mất mát của anh chị em. Nếu cần, chúng ta cũng phải hy sinh cả tiền bạc, thì giờ để sống như người Sa-ma-ri nhân hậu đã sống.       

Lm. Dominic TTL

------------------------------------

 

TN 15-C89. Chúa nhẬt XV thưỜng niên năm C


(Dt 30,10-14;Cl 1,15-20; Lc 10,25-37)

 

Chúng ta biết rõ thánh Luca có ý viết Tin Mừng cho người Hy Lạp (Lc 1,1-4), nhưng không biế: TN 15-C89


Chúng ta biết rõ thánh Luca có ý viết Tin Mừng cho người Hy Lạp (Lc 1,1-4), nhưng không biết khi ghi lại những đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, ngài có nghĩ tới những người theo Do Thái Giáo hay không? Đặc biệt hơn, ngài có nghĩ tới các chức sắc chức việc trong Giáo hội Công Giáo bấy giờ không? Nếu có, tôi khâm phục ngài là một con người can đảm, can đảm nói lên sự thật, cam đảm khi truyền đạt Tin Mừng Cứu Độ.

Trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay được trình bày qua dụ ngôn gọi là dụ ngôn người Samari tốt lành. Khi truyền đạt sứ điệp của Tin Mừng, thánh Luca mạnh dạn vạch cho chúng ta hiểu lề thói sống đạo của Do Thái Giáo thời đó. Lề thói ấy được cụ thể hóa qua “một nhà thông luật” với những kiểu đặt vấn đề rất cụ thể và xem ra rất hướng thiện: “ Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Cho dù có được nguỵ trang khéo léo đến mấy đi nữa, nhà thông luật vẫn không sao che đậy hết được “ chân tướng” của mình khi ông cứ “muốn chứng tỏ” bản thân qua cách đặt câu hỏi: “ nhưng ai là người thân cận của tôi?”. Với dụ ngôn, Chúa Giêsu không có ý trả lời cho câu hỏi, nhưng Người muốn đưa ra một bí quyết, một chân lý sống. Người muốn con người chúng ta phải sửa ngay cách nhìn, cách nghĩ và cách đặt vấn đề. Nếu chỉ biết mỗi cách đặt vấn đề: ai là người thân cận của tôi, thì sẽ chẳng bao giờ tìm ra câu trả lời đúng đắn. Đạo mãi mãi sẽ chỉ là những chữ chết, giáo lý thần học mãi mãi chỉ là những “trò chơi cho trí khôn”, kinh hạt mãi mãi chỉ có thể đọng lại trên môi trên miệng. Nhà thông luật rất thông thuộc Kinh Thánh: “Ông ấy thưa: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Kinh rất thuộc, luật rất thông (Đnl 6,4 và Lv 19,18), khổ nỗi lại không biết “ai là người thân của mình”!

Khi sứ điệp này được vang lên trong lòng Giáo Hội, Giáo Hội sẽ suy nghĩ gì? Ai sẽ là “ nhà thông luật”? ai sẽ là “thầy tư tế”? ai sẽ là “ thầy Lêvi”? Phải chăng một lần nữa, sứ điệp lại “hỏi tội” tất cả các thành viên trong Giáo Hội, bất kể ở cấp bậc địa vị nào, bao lâu chỉ biết bám vào giáo thuyết, kinh kệ, lề thói, trình độ, bằng cấp, bấy lâu vẫn mắc mớ trong đầu: “ai sẽ là người thân của tôi?”. Người bị thương bên vệ đường dường như không trông chờ một chức sắc, một chức việc, một tiến sĩ, một người thông thái, một người lo làm việc bác ái xã hội, một người có Đạo. Ông nằm đó, con tim hướng tìm “người thân”. Chỉ có Chúa mới thấu hiểu ai là người thân của ông, ai là người mà con tim ông đang cần đến. Con người thường bị cám dỗ đi tìm người thân cho chính mình. Thiên Chúa lại muốn con người mở rộng con tim, luôn luôn thao thức trở thành người thân cho người khác. Hai lần Chúa cất tiếng vừa như một lời mời gọi, vừa như một mệnh lệnh: “ hãy làm như vậy” và “ làm như vậy sẽ được sống”.

LM. Giuse Dương Hữu Tình

------------------------------------

 

TN 15-C90: ĐỪNG SỢ!

 

Nỗi sợ là tên trùm khủng bố kinh khủng nhất vây quanh đời người, luôn rình rập chụp xuống: TN 15-C90


Nỗi sợ là tên trùm khủng bố kinh khủng nhất vây quanh đời người, luôn rình rập chụp xuống tâm não con người. Có những nỗi sợ chính đáng. Nhưng cũng có những nỗi sợ chẳng chính đáng chút nào…

Hôm nay, kể câu chuyện người Samaritanô nhân hậu, Chúa “lật đổ” thái độ vô tâm cách đáng tội của hàng giáo sĩ trong Hội Thánh. Hãy nghe Chúa nói về hàng giáo sĩ của Chúa: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi một thầy Lêvi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua một bên mà đi…” Tư tế là ai? Lêvi là ai? Những người đó tương đương những bậc “chân tu” của thời đại. Họ là tất cả Giám mục, linh mục của Chúa.

Tôi vẫn có thói quen tìm những lý lẽ để biện minh cho người bị “kết tội”, để dù có tội, tội của người ấy cũng sẽ được nhìn ở khía cạnh nhẹ nhất. Cứ coi như Chúa kết tội thái độ vô tâm của hàng giáo sĩ, thì tôi vẫn nhìn thấy bên trong sự vô tâm ấy là một nỗi sợ hãi. Tôi biện minh cho thái độ vô tâm ấy là do sợ hãi. Bởi sợ nên vô tâm. Tư tế và Lêvi vô tâm đối với người bị cướp vì họ sợ bị nhiễm ô uế. Luật Do thái quy định, ai đụng chạm vào xác chết, nhất là đụng chạm hoặc tiếp xúc người ngoại giáo, sẽ bị nhiễm ô uế. Tư tế và Lêvi chắc chắn thông suốt lề luật. Chính vì thế, họ hiểu rõ luật về nhiễm ô uế. Mà đã nhiễm ô uế, sẽ không được phép tham dự mọi nghi thức phụng vụ chung của cộng đoàn... Cứ cho rằng, người bị cướp có thể là người ngoại, lại còn sắp chết nữa. Vì thế, để khỏi nhiễm ô uế, Tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã “tránh qua một bên mà đi”.

Ngày hôm nay, biết đâu vẫn còn những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh sống trong sự nơm nớp lo sợ tương tự như thế. Chẳng hạn như ai đó sợ không được xây nhà thờ chỉ vì cho phép phát tờ bướm bảo vệ sự sống. Tôi đã từng gặp vài anh chị em trong nhóm Bảo vệ sự sống ở Sài Gòn kể rằng, có những linh mục, khi được ngỏ lời để chỉ xin phát những “tờ rơi” quảng bá việc bảo vệ sự sống ở một góc nào đó thật khiêm tốn trong khuôn viên nhà thờ thôi, lại bị từ chối, thậm chí bị đuổi ngay lập tức. Lý do rất… vô lý rằng: “Sợ… không được xây nhà thờ”. Không lẽ việc xây nhà thờ lại quan trọng đến nỗi, công tác bảo vệ sự sống, là một trong những công tác hàng đầu, hơn thế, là nhiệm vụ thuộc thánh chức linh mục, lại phải nhường bước? Nỗi sợ nào chính đáng? Để nỗi sợ không đáng để sợ lên ngôi, trong trường hợp này, linh mục trở thành kẻ vô tâm hết sức, nếu không muốn nói là đã phạm tội.

Vì sao cấm phát tờ bướm nơi nhà thờ của mình lại phạm tội? Hội Thánh là Mẹ và là Thầy. Hơn nữa, Hội Thánh không hề sai lầm và sẽ không bao giờ sai lầm trong vấn đề bảo vệ luân lý, bảo vệ chân lý đức tin. Trong vai trò là Mẹ, là Thầy không thể sai lầm, Hội Thánh dạy nhiều lề luật luân lý và chân lý đức tin. Bảo vệ sự sống là luật luân lý hàng đầu, là vấn đề cấp bách, bởi đang gây sóng gió cho nền luân lý của Hội Thánh, làm nhức nhối lương tâm Hội Thánh, chúng ta không được phép làm ngơ. Hãy trung thành bảo vệ sự sống của mình cũng như của đồng loại. Không dám nói rằng, cấm phát tờ rơi là không bảo vệ sự sống. Vì nói như thế là hàm hồ. Người ta có thể bảo vệ sự sống bằng nhiều cách, chứ không phải chỉ phát tờ rơi. Có khi phát tờ rơi không hiệu quả bằng những sáng kiến khác để bảo vệ sự sống. Tuy nhiên, nếu để len lỏi trong tâm hồn mình một sự sợ hãi đối với luật dân sự, đến nỗi xem nhẹ luật Hội Thánh là Mẹ và là Thầy không sai lầm của mình, thì chúng ta đã thật sự có lỗi. Tô#i là ở điểm này. Nếu đúng như thế, thì sự sợ hãi của ta hôm nay, có khác gì sự sợ hãi của tư tế, Lêvi trong dụ ngôn của Chúa ngày xưa! Sợ một thứ luật thấp hèn để loại trừ luật cao trọng. Sợ một thứ luật của một nền thống trị để loại trừ luật nhân ái đối với con người. Sợ một thứ đụng chạm để loại trừ tình yêu. Sợ bị nghi kỵ mà làm thinh để cho việc giết người trở thành công khai, trở thành hợp thức hóa, được luật pháp không những cho phép mà hình như còn có vẻ khuyến khích. Sợ bị trả thù nơi thân xác mà sẵn sàng làm thinh và thỏa hiệp với tội lỗi. Sợ bị bắt bớ, bị kết tội mà làm thinh để chuốc lấy tội có sức hủy diệt tâm hồn mình… Cuối cùng, nặng hơn: sợ con người mà bỏ qua Thiên Chúa.

Đáng buồn hơn, người bị thế giới của sự sợ hãi giam hãm, thế giới của quyền lực tối tăm “bỏ tù” đến nỗi phải sợ hãi như thế, lại chính là linh mục của Chúa… Nghĩ lại mà hỗ thẹn, mà cảm thấy có lỗi với cha ông. Bởi chúng ta thua xa đức tin của cha ông chúng ta. Dù đức tin còn mới mẻ vô cùng vi# mới được truyền giáo, nhưng suốt ba thế kỷ bắt đạo là ba thế kỷ hằn lên một niềm tin kiên vững, bất khuất, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi.

Cha Ông chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam là một bằng chứng sống động cho lời Chúa Giêsu đã từng dạy: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…” Cha Ông chúng ta đã chẳng sợ bất cứ điều gì. Các ngài bất chấp tất cả mọi nguy hiểm, mọi thế lực, dù những nguy hiểm, những thế lực ấy hung bạo đến đâu, tàn khốc đến đâu, dã man đến đâu đi nữa. Cha Ông chúng ta còn bất chấp cả sự chết, đã quyết một đời trung kiên theo Chúa, thì giây phút cuối cùng của mạng sống, sẽ hiến dâng trọn vẹn một đời cho Chúa. Cha Ông chúng ta đã trung thành cao rao danh Chúa không chỉ bằng lời, không chỉ bằng hành động, không chỉ bằng đời sống, nhưng bằng cả SỰ SỐNG của mình. Là người, như chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam, chắc không khỏi khiếp đãm trước cái chết, không khỏi sợ hãi trước những quyền lực thế gian đen tối, không khỏi sợ hãi trước những thói tàn nhẫn, bạo ngược... Nhưng vì lòng yêu mến Chúa, các tha#nh Tử Đạo Việt Nam đã bỏ lại nỗi sợ hãi phía sau mạng sống đời này của mình, để đi tới trong đời vĩnh cửu. Hiến dâng mạng sống vì lòng tin, các thánh Tử Đạo Việt Nam đã đi đến tận cùng của lòng thần phục Thiên Chúa, “Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”

Hội Thánh của Chúa, Nước Chúa ở trần gian đã được trao lại cho mỗi Kitô hữu hôm nay gìn giữ và bảo vệ. Các Kitô hữu ấy chính là hàng hàng lớp lớp người đang nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa của đời mình. Các Kitô hữu ấy chính là mọi tầng lớp giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân của Chúa. Nước Chúa mà các Kitô hữu ra sức gìn giữ là gia tài, là kho báu vô giá mà họ phải bất chấp tất cả nỗi sợ hãi để ra sức gìn giữ đến cùng. Đúng hơn, đứng trước gia tài vĩnh cửu là Nước Chúa, đứng trước vấn đề của đức tin, các Kitô hữu chỉ giữ lại cho mình một nỗi sợ cuối cùng mà thôi, đó là LÒNG KÍNH SỢ CHÚA, SỢ TỘI LỖI LÀM MẤT LÒNG CHÚA.

Thế giới quanh ta vẫn còn đó, rất nhiều những người bị cướp như người khách bị cướp hại trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Họ là những bào thai không phương thế tự vệ, là những trẻ em ngỗ nghịch, thất học, là những mảnh đời ngụp lặn trong dòng đời nhầy nhụa, đến một cụ già bị bỏ quên trên góc phố… Tất cả những người ấy, đều rất cần chúng ta, những bàn tay của người Samaritanô thời đại. Chúng ta hãy dẹp bỏ thái độ vô tâm của tư tế, Lêvi để cúi xuống trên những anh chị em đau khổ của mình. Hãy nhớ rằng, chỉ khi trở thành người Samaritanô, ta mới thật sự là anh em của những người “bị cướp” ấy.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt lên trên nỗi sợ hãi của bạo quyền thế gian, vượt lên trên nỗi sợ hãi đối với lòng người đen tối, để quyết đi đến cùng con đường cứu chuộc chúng con. Lẽ nào, hôm nay, chúng con vẫn chưa thuộc bài học Chúa dạy “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”. Xin cho chúng con biết nhìn lên Chúa, và nhìn những tấm gương vượt thoát sợ hãi nơi anh chị em mà đi đến cùng con đường theo Chúa, bất chấp tất cả nỗi sợ hãi đe dọa chúng con.

Lạy Chúa, người Samaritanô nhân hậu đã cúi xuống, ôm lấy nỗi đau của anh em mình. Nhân loại hôm nay vẫn còn đầy đau thương và nước mắt. Nhân loại vẫn cay đắng cơ hàn, đói lương thực, đói tinh thần và đói cả tình thương. Xin cho chúng con, những kẻ được thừa hưởng tình yêu thương vô bờ của Chúa, biết vượt lên mọi nỗi sợ hãi của trần thế, chỉ sợ mất lòng Chúa mà thôi. Từ đó giúp con can đảm trở thành người Samaritanô hôm nay, để sống vì và sống cho sự sống của anh chị em chúng con. Amen.

 Lm. VŨ XUÂN HẠNH

------------------------------------

 

TN 15-C91. Thời điểm CÔ NÀNG POCAHONTAS

 

Pocahontas là con gái của tù truởng Powhatan của bộ tộc Algoquian ở vùng Virginia bây giờ: TN 15-C91


Pocahontas là con gái của tù truởng Powhatan của bộ tộc Algoquian ở vùng Virginia bây giờ. Truyện tình của anh chàng thủy thủ Da Trắng với cô nàng người Da Đỏ này đã thành đề tài đóng phim thật ăn khách.

Anh chàng John Smith và đám lính Da Trắng người Anh trong câu truyện Pocahontas đã đổ bộ sang Mỹ vào năm 1607 để chiếm đất của người Da Đỏ vùng Virginia. Họ phá hủy núi rừng đẹp đẽ để đào bới vàng. Người Da Trắng tưởng vàng là nhất, là có thể làm cho mình hạnh phúc. Nhưng có ngờ đâu khi gặp cô bé Pocahontas, thì John Smith nhận ra một giá trị mới, một nhãn quan mới. Một hôm tò mò về thái độ đào bới thật kỳ cục của người Da Trắng với kiểu ăn mặc bó sát chật chội, Pocahontas đã hỏi John Smith:

- Các anh tìm gì vậy?!
- Tụi này đi tìm vàng để làm giầu.
- Vàng là cái gì?


Thực sự Pocahontas chẳng hiểu vàng là cái gì mà người Da Trắng lại có thể ham mê tới cỡ đó. Rồi không biết phải so sánh giá trị làm sao, cô bé bèn cầm lấy trái bắp vàng mà giơ lên hỏi "vàng là cái này á?"

Câu hỏi đơn sơ của cô bé Pocahontas khiến người Da Trắng giật mình nhận ra một điều rất quan trọng: núi rừng kia, thác nước kia, sông hồ kia, trái bắp kia, mới là vàng, mới là giầu có thật, và mới là vườn địa đàng. Còn vàng của người Da Trắng chỉ là một thứ kim khí hiếm, do người ta ước định mà gán cho là quí báu khiến phải chém giết nhau để đạt lấy cái “địa đàng” kiểu ấy mà thôi. Mấy đứa trẻ ở Nam Phi xưa vốn lấy vàng làm đồ chơi, vì nước này đầy vàng, có ai đếm xỉa gì đâu, có ăn được đâu.

Thật vậy, những phim nổi tiếng thu hút rất đông người xem như Forrest Gump, Pocahontas, The Joy Luck Club, The Secret Garden… đều nói lên một điều rất đơn giản: con người đã mệt mỏi, và đang đi tìm một giá trị mới, đi tìm những tiêu chuẩn làm cho con người sống giầu có thảnh thơi đích thực, tìm về thiên nhiên, tìm về những gì thật giản đơn đã có sẵn trong cuộc sống, nguồn phú túc đã được Chúa Trời bày biện như bữa tiệc sẵn sàng. Hạnh phúc là biết mở mắt nhận ra mà lãnh nhận chứ đâu có quá vất vả như con người ngày nay!

Pocahontas có nghĩa là phong lưu hạnh phúc mà. Vào thời điểm này, con người mới giật mình nhận ra đâu là lối tìm hạnh phúc và lối sống giầu có thật.

NHỮNG DẤU CHỈ THỜI ĐẠI

Tần Thủy Hoàng với bằng ấy chém giết tàn bạo cũng chỉ canh giữ được một nhúm xương mục. Đặng Tiểu Bình sau những màn vần vũ kể cả vũng máu Thiên An Môn thì trối cho đàn em đốt xác thành tro bụi thả tan theo gió, không tên không mộ. Đúng như câu nói đùa rất chí lí của một người bạn già: "Ở đời cái gì cũng quan trọng và cũng không quan trọng."

Tuổi của trái đất mới được khoảng bốn tỉ rưỡi năm, và khoảng một tỉ rưỡi năm trước đây trái đất mới có những thực vật và động vật đơn bào sống dưới nước rồi tiến hóa dần thành những động vật sống trên đất. Con người mới xuất hiện hơn một triệu năm cách đây thôi, từ thời còn ăn thịt sống ở trong hang chưa biết dùng lửa, từ thời còn đi lom khom đầu nhô ra phía trước, răng lớn, cằm bạnh, sọ nhỏ, trán thấp. Thế rồi mãi tới cách đây khoảng 6 ngàn năm thì nhân loại mới biết làm nhà, qui tụ thành làng mạc. Đó là thời văn minh Ai Cập-Babylon huy hoàng bên Cận Đông. Hết văn minh Cận Đông thì chuyển qua văn minh Địa Trung Hải của La-Hy. Hệ thống triết lý, kiểu kiến trúc, mô thức tổ chức xã hội quân chủ hình thành văn minh Âu Châu còn ảnh hưởng cho đến thế kỷ 16 thì chuyển sang thời Phục Hưng. Luồng tư tưởng dân chủ bừng bừng kỷ nguyên ánh sáng, tin tưởng khoa học và lý trí vạn năng. Kinh tế tiền tệ thay cho kinh tế hiện vật. Trước kia thì đội gạo ra chợ đổi lấy con cá, bó rau, hạt muối, hay ngon hơn nữa thì đổi lấy cục vàng đeo tai đeo cổ... bây giờ bán lấy tiền theo ước lệ. Bán không hết ở chợ làng thì bán ra quận, ra tỉnh. Bán không hết trong nước thì phải bán ra ngoài, vì thế mà nẩy sinh ngôn ngữ hoa hòe hoa sói là kinh tế thị trường. Trước đây đi chiếm nước khác bằng súng đạn thì bây giờ bằng mánh khóe nhà nghề. Bảo không được thì oánh. Vậy mới có thế chiến một, thế chiến hai, mới có tuyên ngôn nọ tuyên ngôn kia ra chiều giải quyết mọi vấn đề bằng bàn tay con người.

Điều trớ trêu là lịch sử con người lại thường được thành hình do một số tay tham vọng dám vẫy vùng cỡ Hitler, Lenin... Nhưng rồi đâu phải mọi người có quyền rửa tay đổ tội. Không có tâm lý hiếu chiến hiếu thắng một thời của người dân Đức thì Hitler làm sao có thể đi giết người dân khác một cách thành khẩn như vậy được: Vạn tuế Hítler, vạn tuế Đức Quốc Xã! Không có tâm lý trổi vượt của người da trắng làm sao các nước Pháp, Anh, Bỉ,Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan... có thể thản nhiên thấy mình có sứ mạng đi chiếm thuộc địa để đem ánh sáng đến cho những dân mọi rợ tăm tối ở Phi Châu, Á châu và Nam Mỹ, trong đó có cả Việt Nam ta? Hay người Mỹ có thể đi mua dân da đen ở Phi Châu về làm nô lệ trong những đồn điền?

Quanh đi quẩn lại, hết chiến tranh nóng đến chiến tranh lạnh, loài người ít khi có được những lúc thực sự an bình. Tựu trung cũng là tham vọng quyền lực, giành giật miếng ăn: người này hơn người kia kém, dân này cường quốc dân kia nhược tiểu. Thế giới mỗi ngày mỗi phức tạp, lòng dục càng ngày càng không đáy. Sắp sửa chuyển mình vào ngàn năm mới, con người liệu có thể nhìn ra cho mình một điều gì khác hơn không? Ngó lui lịch sử tiến hóa của con người trên mặt đất này, chả lẽ chỉ có thể kết luận rằng loài động vật mang mặt người là đáng tội nghiệp nhất hay sao? Rình mồi mãi mấy ngàn năm cũng vẫn chưa no đủ hơn thời ăn lông ở lỗ sao?!

TIN VUI GỬI NGƯỜI ĐANG HĂM HỞ TÌM GIẦU

Đã đến lúc loài người khai mở một nền văn minh mới bước vào thiên kỷ mới. Nếu đã có những nước được gọi là cường quốc vì sức mạnh đồng tiền vật chất do luồng tư tưởng từ thời Phục Hưng để rớt lại mà vẫn đầu tắt mặt tối, thì cũng phải có một luồng tư tưởng khác mở lối cho nhân loại bước vào nền văn minh của sức mạnh tâm linh, sống cho ra người hơn, có tình người hơn.

Chẳng nói gì xa vời, mỗi người cũng đang tự cảm thấy mình bị cuốn vào cái vòng xích của xã hội tiêu thụ: mỗi ngày mỗi có nhiều nhu cầu thêm, và càng cần tiền thêm. Mà càng cần tiền thêm thì lại càng phải ném mình ra khỏi nhà để kiếm cho ra tiền, thành ra càng chẳng còn nhiều giờ mà hưởng sinh thú trên đời, trong gia đình, cái thú được sống mỗi phút giây một cách giầu có, cái thú được sinh ra, được hiện hữu một cách lạ lùng làm con của Chúa Trời Đất quyền năng. Không biết đủ chừng nào mới đủ?! Không biết sống nhàn, chừng nào mới nhàn?! Một người bạn đã từng nói chơi: không còn giờ tức là đã hết thời!

Đây là lúc người tin đạo khám phá ra và loan báo một tin vui lớn cho thời điểm: vượt lên khỏi mọi kiếm chác sinh sống hay bon chen, con người phải tìm ra cho mình một cõi toàn mãn: "Thầy đến cho chúng con được sống và sống sung túc" (Gioan 10:10).

Tìm ra được Chúa chính là câu trả lời của thời điểm này. Đang khi mấy ông tổng thống Mỹ bảo phải sang Phi sang Á để lo cho quyền lợi nước Mỹ: lo đóng kịch chào hỏi dọc đường đối với nhửng nước vốn thù nghịch chẳng ưa mình chút nào, cũng chỉ để kiếm thêm lợi thêm tiền, thì Chúa Giêsu lại loan báo Tin Vui khá ngược đời tuần này:

"Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này... Nước Thiên Chúa đã ở gần bên rồi." (Luca 10:4, 5, 9)

PHÚT TỊNH TÂM

Không cần mang theo tiền vì chính Chúa đã quá dư tiền rồi, có Chúa thì chẳng còn thiếu thốn chi. Không cần chào hỏi cậy dựa ai vì chính Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Có Chúa là có cõi toàn mãn, nước hạnh phúc ở ngay bên rồi.

Vâng, con xin được nói lên niềm tin này với tâm tình thánh vịnh 23:

Chúa Trời chăn dẫn tôi đi,
Lo chi thiếu thốn sợ gì gian nguy.
Mênh mông đồng cỏ xanh rì,
Tôi no búp mới, tràn trề lộc non.
Mát trong nước sạch suối nguồn,
Cho tôi nằm nghỉ tâm hồn thảnh thơi.
Dắt tôi theo chính lộ Người,
Hoan ca danh thánh Chúa Trời muôn nơi,
Dẫu qua lũng tối chơi vơi,
Sợ chi vướng mắc lưới đời trần gian.
Chúa bên tôi sống thanh nhàn,
Gậy côn Người dẫn bình an tâm hồn.
Bày bàn đầy cỗ thơm nồng,
Trước mặt địch thủ đỏ hồng mắt cay.
Xức dầu thơm Chúa đặt tay,
Chén tôi trào rượu ngọt say ân tình.
Phước ân theo mãi bên mình,
Trọn đời an hưởng phúc vinh Chúa hiền.
Nơi nhà Chúa sống bình yên,
Hồn tôi vui sướng triền miên tháng ngày.
(Hoàng Vũ chuyển thơ)


 Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường

------------------------------------

 

TN 15-C92: Tội thờ ơ.

 

Tôi đã chứng kiến không chỉ một lần cảnh đám đông vây quanh một đánh đánh lộn bên đường: N15-C92


Tôi đã chứng kiến không chỉ một lần cảnh đám đông vây quanh một đánh đánh lộn bên đường phố. Có khi đó là hai thanh niên quyết ăn thua đủ với nhau. Có khi đó là một người đàn ông đánh đập tàn nhận một người đàn bà. Có khi đó là hai cô gái sừng sổ với nhau. Điều đáng nói là mọi người dường như có vẻ dửng dưng, như chứng kiến một cánh đấm đá trên màn ảnh? Phải chăng con người ngày nay đã xơ cứng trước nỗi thống khổ của kẻ khác?

Thực tế có lẽ không đến nỗi quá quắt như vậy. Người ta chỉ thờ ơ để khỏi mang vạ vào thân giữa một xã hội mạnh ai nấy sống. Tuy thế cũng thật đáng buồn và đáng suy nghĩ. Tôi chắc có nhiều người cũng như tôi, không hẳn là mình không muốn can ngăn những cuộc ẩn đả xảy ra ngoài đường phố hay trong khu xóm. Có điều cái thói thờ ơ, để khỏi bị liên luỵ và được yên lòng, đã chiếm lĩnh lối sống ích kỷ, cầu an cá nhân của mình. Sống với tâm trạng như thế, chúng ta đọc sao được câu chuyện người Samaria nhân hậu của Tin Mừng.

Người Samaria là một anh chàng không có đạo, mà không có đạo cũng đồng nghĩa với không thể sống bác ái lương thiện. Quan niệm Do Thái hẹp hòi và thiển cận ấy, như một mẫu mực để những ai muốn có cuộc sống đời đời phải nhìn đó mà noi theo. Người Samaria ngoại đạo đã trổi vượt hơn những người chính thống, đạo đức nhất của xã hội và Giáo Hội lúc bấy giờ là thầy Lêvi và vị tư tế. Trổi vượt trong lãnh vực yêu thương, cứu giúp những người gặp vận nạn hiểm nguy trong cuộc sống. Còn chúng ta thì sao?

Tôi xin thưa chúng ta cũng phải trở nên là những người Samaria nhân lành của thời buổi hôm nay. Có nghĩa là chúng ta không phải chỉ sống cho riêng mình mà còn sống cho người khác. Chúng ta không chỉ lo toan cho cá nhân mà còn quan tâm tới hết mọi người chung quanh. Chúng ta không chỉ nghiêm túc trong giờ phụng vụ mà còn nghiêm túc trong mọi lãnh vực kinh doanh và sản xuất.

Trong xã hội, kẻ thờ ơ với tha nhân cũng nhiều, nhưng những người Samaria hiện đại cũng không thiếu. Họ có khi mang danh hiệu Kitô hữu, có khi mang danh hiệu Phật tử, có khi mang danh hiệu cộng sản và có khi chẳng mang một danh hiệu nào cả. Nhưng họ giống như Đức Kitô đã sống và họ tiếp cận được với Thiên Chúa cũng như với tha nhân. Vậy thì để trở nên những người Samaria thời buổi hôm nay, chúng ta đã thực sự có được một trái tim mở rộng, một thái độ quan tâm đến mọi người, mọi việc kế cận với chúng ta hay chưa?

------------------------------------

 

TN 15-C93: Hãy yêu thương thì sẽ được sống


– André Sève

(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

 

Rõ ràng là từ yêu thương được nói đến nhiều ở đây. Nhưng chúng ta hãy cho hai từ khác đi kèm v: TN 15-C93


Rõ ràng là từ yêu thương được nói đến nhiều ở đây. Nhưng chúng ta hãy cho hai từ khác đi kèm vì nếu không có hai từ này, từ yêu thương sẽ không đứng vững nổi: làm và sống.

Đàng khác, mở đầu câu chuyện diễn ra rất nhanh:

- Tôi phải làm gì để được sống? Luật sĩ hỏi.

- Hãy yêu thương, Chúa Giêsu nói, cứ làm như thế ngươi sẽ được sống

Vào lúc kết thúc, sau câu chuyện đẹp về tình yêu thương, tiếng nói chiến thắng chính là: cứ làm như thế. Để chiến thắng, Chúa Giêsu đã huy động hai nét của khoa sư phạm: cuộc đối thoại đanh thép và câu chuyện không thể quên được.

Cho nên phải làm gì để được sống? Yêu mến Chúa và anh em. Đây là hai tình yêu thương liên kết chặt chẽ với nhau đến nỗi người ta không nói về giới răn thứ nhất và thứ hai. Chúa Giêsu công nhận lời mô tả ngắn ngủi của luật sĩ: “Ngươi hãy yêu mến Chúa và thương yêu anh em”. Đây cũng là một dòng chảy tình yêu. Chắc chắn cần phải dựa vào mối liên kết giữa hai tình yêu bởi vì trong một trong những bản văn cuối cùng của Tân Ước, thánh Gioan vẫn còn lấy lại ý tưởng: “Nếu ai thấy anh em mình cần đến của cải phải giúp đỡ mà đóng cửa lòng mình lại, có lý nào đức ái Thiên Chúa ở cùng người ấy được” (1Ga 3,17). Đây là lời khuyên cho những kẻ tin rằng với chút ít lòng thương xót người ta có thể tự cho phép mình ích kỷ hoặc có tính xấu.

Chúng ta hãy xem xét khẳng định của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống. Đẳng thức yêu thương bằng được sống đối với chúng ta có hoàn toàn rõ ràng hay không? Nếu có, chúng ta hãy cảm tạ Chúa, giòng máu Tin Mừng đang chảy trong huyết quản của chúng ta. Nhưng đây là điều phải kiểm chứng.

Khi Chúa Giêsu nói đến yêu thương ở đây, đây không phải là một trong những niềm đam mê, tình yêu hoặc tình bạn, là những thứ đưa chúng ta lên chín tầng mây, mà là tình yêu thương anh em rất có tính cách bó buộc, cụ thể. “Phải làm điều đó!”. Và đây không luôn luôn là điều làm thích thú.

Trên đường Giêricô, thầy tư tế và thầy Lêvi không tích cực làm việc thiện! Thậm chí nghĩ rằng người kia đã chết, họ sợ bị ô uế “theo tập tục” (theo những luật lệ Do Thái giáo), điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh chính là việc họ thiếu nhiệt tình cứu giúp một kẻ nào đó. Hai người kia dường như không xác tín rằng “yêu thương là được sống”.

Tuy vậy chỉ cần so sánh họ với người Samari hay thương người để thấy đâu là sức sống! Không phải nơi những bản chất nhỏ nhặt này mà một điều không là gì cả làm rầy hay làm hoảng sợ. Than ôi người ta thấy những Kitô hữu khá bị sự khôn ngoan ích kỷ này cám dỗ, với cái giá phải trả là một cuộc sống được sống nhỏ giọt.

Người Samari đã chọn một cuộc sống hao tổn và nồng nhiệt. Trong khi thấy người đàn ông nằm đó, ông có lẽ đã cảm thấy cần phải đi qua cho nhanh, nhưng sức mạnh của cuộc sống của ông chiến thắng những vấn nạn đang đến với ông, Chúa Giêsu nói: ông động lòng thương và ông làm mọi sự cần thiết. Ông không quên gì cả, cho mà không tính toán. Không chờ đợi một lời cảm ơn nào và có lẽ vừa đi vừa hát lâm râm, hạnh phúc vì đã làm một người sẵn sàng phục vụ con người. Hai người kia sẽ tiếp tục sống lay lắt. Còn người Samari, ông đang sống triệt để. Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống”.

------------------------------------

 

TN 15-C94: Phục vụ nâng cao giá trị con người


(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)

 

Trước mắt người Do Thái thì dân Samari thật đáng khinh miệt. Họ bị xem là người lai căng vì đã: TN 15-C94


Trước mắt người Do Thái thì dân Samari thật đáng khinh miệt. Họ bị xem là người lai căng vì đã kết hôn với ngoại kiều, làm vẩn đục dòng máu tinh tuyền của tổ tiên Do Thái. Họ bị khinh miệt vì đã tôn thờ các tà thần ngoại lai. Thế nên người Do Thái xem người Samari như những người hạ cấp đáng bị tẩy chay.

Thế nhưng hình ảnh của người Samari trong Tin Mừng hôm nay lại đẹp tuyệt vời. Giá trị của người đó gia tăng thật cao. Nhờ đâu được như vậy. Chúng ta hãy theo dõi câu chuyện do Chúa Giêsu thuật lại như sau:

Tại một khúc đường vắng từ Giêrusalem đến Giêricô có một khách bộ hành bị bọn cướp xông ra trấn lột hết tiền bạc của cải, lại còn đánh người ấy trọng thương nằm thoi thóp, nửa sống nửa chết giữa quảng đường hoang vắng.

Thế rồi, một tia hy vọng loé lên trong đầu óc nạn nhân khi anh ta thoáng thấy có một khách bộ hành đang từ xa đi tới. Khi người bộ hành gần đến, niềm hy vọng càng dâng cao vì đây là một vị tư tế, chắc chắn ngài sẽ đoái thương cứu chữa anh. Nhưng rồi vị tư tế cố tình rảo bước cho nhanh, lánh qua một bên rồi đi thẳng, để mặc anh nằm thoi thóp giữa đường.

Một lát sau, có một thầy trợ tế đi qua, niềm hy vọng của nạn nhân lại được bùng lên nhưng rồi vụt tắt, vì thầy trợ tế chỉ đảo mắt nhìn nạn nhân rên siết, rồi cũng vội vàng rảo bước cho nhanh. Có lẽ ông ta sợ rằng bọn cướp còn ẩn náu đâu đây, sẽ trấn lột hết những gì ông ta mang trên mình và sẽ đánh đập ông nhừ tử như người khốn khổ kia...

Cuối cùng, có tiếng lừa lộp cộp từ xa vẳng lại. Người thứ ba xuất hiện, một người dân Samari. Ôi thôi! Chẳng hy vọng gì nơi hạng người nầy, hạng người xưa nay vẫn mang tiếng là lai căng và rối đạo!

Thế nhưng thật bất ngờ, người Samari cho lừa dừng lại, bước xuống, cúi mình trên nạn nhân, cảm thương con người xấu số.

Có thể giờ nầy vợ con ông ta đang nóng lòng mong đợi ở nhà, có thể bọn cướp còn đang lai vãng đâu đây lại xông ra để cướp, để giết hại ông như chúng đã gây ra cho người xấu số, lại phải mất công, bỏ việc vì nạn nhân nầy... nhưng thôi, đành phó mặc... Thương người như thể thương thân, phải tìm cách cứu sống anh ta trước đã.
Thế là người Samari vội mở hành trang lấy cồn, lấy rượu rửa sạch vết thương, băng bó những vết thương còn rỉ máu, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím, rồi vực nạn nhân lên lừa của mình, quay ngược đường trở về quán trọ.

Đến nơi, ông ta lo liệu cơm cháo thuốc men, săn sóc nạn nhân như cho người thân yêu của mình suốt đêm. Sáng hôm sau, vì công việc khẩn trương, ông phải vội lên đường. Nhưng trước khi ra đi, ông ta dốc hết túi tiền, trao cho chủ quán với lời căn dặn: "Xin ông vui lòng chăm sóc người nầy giùm tôi cho chu đáo, nếu còn tốn phí thêm bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ hoàn lại cho ông".

Thật là một hy sinh hết sức lớn lao! Một tấm gương hào hiệp và cao đẹp hiếm có. Nét đẹp đó vẫn được Giáo Hội truyền tụng suốt hai mươi thế kỷ qua và cho đến muôn đời. Sáng giá thay con người biết yêu thương, hy sinh và phục vụ!

Thế là đang khi danh giá người Samari lên cao tột đỉnh nhờ giàu lòng nhân ái thì danh giá vị tư tế và thầy Lê-vi bị tụt dốc thảm hại vì đã thiếu lòng thương xót, đã không hy sinh giúp đỡ nạn nhân trong cơn hoạn nạn, ngặt nghèo.

Phục vụ còn là điều kiện để được sống đời đời

Nhưng sự hy sinh phục vụ của người Samari không chỉ nâng cao giá trị của ông ta mà thôi, mà còn là một điều kiện tiên quyết giúp ông được sống đời đời.

Khi người thông luật hỏi Chúa Giêsu phải làm gì để được sống đời đời, Chúa Giêsu giúp ông ta khám phá ra câu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình."

Chúa Giêsu không lý thuyết suông, Ngài cụ thể hoá quy luật mến Chúa yêu người bằng hành động nhân ái của người Samari trên đây với lời kết luận: "Ông hãy đi và làm như vậy". Như thế, những ai muốn được sống đời đời thì hãy quên mình phục vụ như người Samari trên đây.

* * *

Quên mình phục vụ tha nhân, một việc làm với hai hiệu quả lớn: làm gia tăng đáng kể giá trị của mình và được hưởng sự sống đời đời.

Lạy Chúa, biết đến bao giờ con mới có thể trở thành một người Samari mới cho xã hội hôm nay! Biết bao giờ con mới dám hy sinh phục vụ để đạt được sự sống đời đời!

------------------------------------

 

TN 15-C95: Ông hoàng hạnh phúc


 – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

 

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: ở một thành phố nọ, có một Ông Hoàng sống một cuộc đời: TN 15-C95


Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: ở một thành phố nọ, có một Ông Hoàng sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.

Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc. Những giọt nước mắt cứ lăn dài trên đôi má của ông. Chim én ngạc nhiên và hỏi rằng:

- Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!

- Ông hoàng trả lời: Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?

- Không được, tôi phải bay đi cho kịp đàn đang bay về phương bắc.

- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.

- Chim én ngập ngừng giây lát rồi nói: Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?

- Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.

- Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.

- Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.

- Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.

Đôi khi trong cuộc sống chúng ta vẫn vô tâm như vậy. Nhiều người đã được sống hạnh phúc nhưng họ đâu biết rằng hạnh phúc của họ là nhờ sự chắt chiu từng hy sinh âm thầm của biết bao nhiêu người. Có thể đó là sự hy sinh không mệt mỏi của cha, của mẹ từng ngày vất vả trên nương đồng, hay trên công trường. Có thể đó là sự hy sinh nhịn nhục của những người thân chịu thiệt thòi để họ được hạnh phúc. Có thể đó là sự hy sinh nhường nhịn của bạn bè để họ được vui hơn trong cuộc sống. Thế mà, nhiều người vẫn tưởng rằng mình lớn lên không cần ai giúp đỡ. Lối suy nghĩ đó đã dẫn đến một đời sống ích kỷ, hẹp hòi, một lối sống dửng dưng đến xa lạ với đồng loại.

Thực vậy, ở trong cuộc đời này vẫn còn đó biết bao người chắt chiu từng hạt gạo, gom góp từng miếng vải để giúp kẻ cơ hàn. Cuộc đời vẫn còn đó biết bao người hy sinh cả cuộc sống mình để phục vụ các bệnh nhân, nhất là các bệnh nhân nan y. Vẫn còn đó cả hàng triệu người đang đổ mồ hôi vật vã trên công trường, trên nương đồng để làm ra của cải và sản phẩm cho hàng tỉ người trên trái đất hưởng dùng. Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết bao người biết hy sinh vì tha nhân, biết kiến tạo niềm vui trong những giọt mồ hôi lao nhọc để phục vụ tha nhân. Thế nhưng, giòng đời vẫn còn đó những trái tim khô cằn, những tâm hồn lạnh nhạt đến dửng dưng với nỗi đau của đồng loại. Họ đâu biết rằng cuộc đời của họ đang bị cuốn trôi theo một giòng chảy của trần đời. Họ được đón nhận thì cũng phải biết trao ban. Vì chẳng ai có thể giữ mãi cho mình được điều gì mãi mãi. Tất cả những gì mình có rồi một mai cũng bị cuốn trôi theo thời gian.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dừng lại để giúp đỡ những ai đang cần đến chúng ta, hãy biết chia sẻ với những khó khăn của tha nhân. Hình ảnh Thầy Tư tế và Lê vi đã bỏ lại đằng sau tiếng kêu cứu của đồng lại diễn tả một thế giới mà con người luôn hối hả bận rộn với giòng chảy cuộc đời. Họ bị giòng đời cuốn trôi đến nỗi đã quên rằng, cuộc sống đích thực là cuộc sống còn có khả năng chia sẻ với tha nhân. Một cuộc đời có ý nghĩa là cuộc đời biết dùng thời giờ để sống với tha nhân trong yêu thương và phục vụ. Và một cuộc đời đã mất khi không còn khả năng để giúp đỡ anh em. Ông Hoàng hạnh phúc đã không còn hạnh phúc khi ông nhận ra mình không còn khả năng để giúp đỡ đồng loại. Ông cảm thấy bất hạnh khi mình không còn khả năng để xoa dịu nỗi đau của đồng loại. Ngược lại, người Samaria nhân hậu, ông đã tìm được niềm vui của cuộc đời phục vụ. Ông đã dừng lại để xoa dịu nỗi đau của kẻ bất hạnh. Cuộc đời ông hạnh phúc biết bao khi ông băng bó nỗi đau của đồng loại. Khi ánh mắt của kẻ chịu ơn đang nhìn ông một cách trìu mến thân thương. Niềm vui của ông càng được nhân lên khi người mà ông giúp đỡ đã coi ông như anh em. Từ một người xa lạ nay trở thành kẻ thân thích. Ông đã biết dùng của cải đời này để mua bạn hữu đời này và cả đời sau. Đó chính là mẫu người mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy làm theo như vậy.

Ước gì trong năm thánh với chủ đề Giáo hội mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ sẽ là lời nhắc nhở chúng ta về Giáo hội của Chúa, do Chúa sáng lập và hiện diện thì mỗi ky-tô hữu cần phải hiệp nhất với nhau trong Chúa, cần nhìn nhận nhau là anh em và hãy biết sống đời kytô hữu bằng sự dấn thân để phục vụ tha nhân trong yêu thương chân thành. Nguyện xin Chúa là Đấng đã hết lòng yêu thương và phục vụ con người cho đến nỗi bằng lòng chịu chết vì chúng ta, giúp cho chúng ta cũng biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.

------------------------------------

 

TN 15-C96: Chú giải của Noel Quesson

 

Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm: TN 15-C96


Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”

Vào thời Đức Giêsu, câu hỏi này tất nhiên không phải mọi người Do Thái đều đặt ra. Những người Pha-ri-sêu tin có đời sau và sự sống lại của người chết. Nhưng những người Sa-đu-xê-ô không tin chuyện đó.

Ngày nay, những người ở xung quanh chúng ta tiếp tục có những ý kiến trái ngược về vấn đề đó. Vậy, điều này không có gì là mới cả. Dù câu trả lời là khẳng định hay phủ định thì vấn đề đời sống vĩnh cửu là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà con người có thể tự đặt ra, một vấn đề nghiêm túc nhất, mà sự được thua, rất là mạo hiểm. Pascal đã thử đem lại một câu trả lời nổi tiếng cho vấn đề đó với "sự đánh cuộc của Pascal" (Tư tường 343): "Thiên Chúa hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nhưng chúng ta nghiêng về phía nào? Phải đánh cuộc thôi. Điều này không cố ý bạn đã bị lôi kéo vào rồi. Khi chọn "Thiên Chúa hiện hữu”, nếu bạn thắng, bạn được tất cả; nếu bạn thua, bạn không mất gì cả. Vậy bạn hãy đánh cuộc Người hiện hữu không chút ngần ngại... Ở đây bạn được một cuộc sống vô cùng với hạnh phúc vô tận, một khả năng được cuộc đổi lại một con số hữu hạn, những khả năng mất mát, và điều bạn dùng đặt cược cũng hữu hạn. Điều này loại bỏ hết mọi do dự... "

Thực vậy, hai giả thuyết (Thiên Chúa hiện hữu... Thiên Chúa không hiện hữu) không có cùng một trọng lượng. Nếu chúng ta muốn đánh cuộc trên vấn đề này, vậy có một sự chọn lựa giữa "mặt sấp" và "mặt ngửa": một cơ may trên một con số giới hạn các ngẫu nhiên. Nhưng nếu chúng ta nhận định về cái được có thể xảy ra (tất cả... hoặc không gì cả), lúc đó, theo Pascal, không người đánh cuộc nào mà không ngần ngại chọn lựa, "Điều xấu nào xảy đến với bạn khi thực hiện sự chọn lựa ấy? bạn sẽ sống trung tín, khiêm nhường, biết ơn, từ thiện, là một người bạn chân thành, trung thực.

Thực ra, bạn sẽ không sống trong những lạc thú bại hoại, trong vinh quang, trong các thú vui; nhưng bạn sẽ không có những điều vui mừng khác đó sao? Tôi nói với bạn rằng bạn sẽ thu được những điều đó ngay trong cuộc đời này; và ở mỗi bước chân bạn thực hiện trên con đường ấy bạn sẽ thấy rõ sự chắc chắn của sự thắng cuộc và sự hư vô của điều mà bạn dùng để đặt cuộc, rồi bạn sẽ biết rằng bạn đã đánh cược cho một điều chắc chắn, vô cùng, mà bạn đã không cho gì cho sự đánh cược ấy".

Mọi thời đại và trong mọi nền văn minh, con người đều hy vọng vào "một đời sau”. Đức Giêsu thường nói về nó. Người cũng nói rằng "đời sống vĩnh cửu” ấy đã được bắt đầu. Đối với những ai tin, nó đã có mặt nó đã được sống, dù rằng chưa hoàn thành, dĩ nhiên rồi. Nhưng sự sống ấy chủ yếu là gì? Và phải làm gì để có nó? Đó là câu hỏi của người thông luật. Cũng là câu hỏi của chúng ta.

Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn người và người thân cận như chính mình" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống".

Trước hết, người thông Luật đọc lại kinh cầu hằng ngày của những người Do Thái, Kinh Shéma, trích ra từ sách Đệ Nhị Luật 6,5. Đức Giêsu cũng thường đọc kinh ấy mỗi ngày nhiều lần. Nhưng Người thêm vào một đoạn rút ra từ sách Lê vi 19,18.

Để được sự sống đời đời, phải yêu thương! Yêu thương! Câu hỏi và câu trả lời ấy cũng được tìm thấy trong hai Tin Mừng nhất lãm khác (Mát thêu 22, 34-40; Máccô 12, 28-31). Nhưng chính Lu ca không còn phân biệt một giới răn "thứ nhất" và một giới răn "thứ hai" lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu thương người thân cận không thể tách rời nhau. Còn trong cuộc đời tôi, có được như thế không?

Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là người nhân cận của tôi?”

Cho tới lúc này, chúng ta chưa thấy có gì độc đáo.

Giáo huấn của Đức Giêsu không khác Luật của Cựu Ước... và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp của Đức Giêsu nhân bản một cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con người.

Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho câu hỏi: "Ai là người thân của của tôi?" sẽ hướng chúng ta về cái mới mẻ thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một tình yêu phổ quát, yêu thương cả "kẻ thù” mình.

Đức Giêsu đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi...

Một "thầy tư tế", một "thầy Lê vi"! Đức Giêsu dùng cách nói mạnh. Hai chuyên viên về sự thờ phụng, hai nhà phụng vụ của Đền thờ, lo lắng tuân giữ tỉ mỉ Luật và các nghi thức. Đức Giêsu lấy hai hạng người ấy để cho chúng ta ví dụ về việc không nên làm! Hai người này, luôn chăm lo phục vụ Thiên Chúa nhưng có một thái độ hoàn toàn ghê tởm đối với con người. Ngày nay, các toà án dù không phải của Kitô giáo hẳn phải buộc họ vào tội danh "không giúp đỡ người đang gặp nguy hiểm". Tuy nhiên, từ quan điểm riêng, họ có lý: trong tâm thức và Luật Do Thái, họ nghĩ rằng bổn phận của họ là không được "sờ vào máu” để được ở trong tình trạng thanh khiết về nghi thức và để bảo đảm việc phụng vụ tại Đền thờ. Như thế, trong đời sống của chúng ta, một đôi khi chúng ta cáo từ không muốn giúp đỡ bằng cách viện ra những lý do tất cả thiện ý.

Bằng việc cố ý chọn lựa hai ví dụ đó, Đức Giêsu nhắc lại cho chúng ta một chân lý quan trọng của Kinh Thánh (Ô-sê 6,6) mà Người đã dùng hai lần để bào chữa việc Người không tôn trọng Luật phụng tự, vì lợi ích cho một luật khác quan trọng hơn về tình yêu thương huynh đệ (Mát-thêu 9,13- 12,7; 23,23). Sự lặp lại này, sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa. Thiên Chúa gắn cho sự "thực hành" bác ái và phục vụ tha nhân trong đời sống hằng ngày tầm quan trọng to lớn hơn việc thực hành phụng tự và cầu nguyện của chúng ta. Người ta không phục vụ Thiên Chúa trong Đền thờ nếu trước tiên người ta không phục vụ Thiên Chúa trong đường phố!

Tôi có là một Người "hành đạo" chân chính không? Tôi cho từ hành đạo ấy một ý nghĩa nào?

Tôi có "thực hành" bác ái, có quan tâm đến tha nhân, và phục vụ người khác không?

Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác?

Luca là thánh sử duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn kỳ diệu này. Luca là thánh sử của lòng nhân hậu, thương xót, của sự truyền giáo cho dân ngoại và của sự nghèo khó.

Các bạn hãy đọc lại sáu hành động của lòng tốt được mô tả tỉ mỉ ở đây: đây là Triều đại của Thiên Chúa, đây sự thờ phụng mới chân thật, đây là sự trỗi dậy của nhân ái mới sẽ biến đổi lịch sử cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.

Và đó là một "Người Sa-ma-ri"! Một kẻ dị giáo, một người ly giáo, một kẻ thù của những Người Do Thái trung kiên, một người anh em giả hiệu, một người đáng ghét không chịu "thực hành" tôn giáo chân chính, một người ô uế không bao giờ đặt chân vào Đền thánh, một người mà việc mới cùng bàn bị ngăn cấm, một vài ngày, Giacôbê và Gioan muốn làm lửa từ trời trút xuống họ (Lc 9,52-55). Và Đức Giêsu lại lấy một người như thế để làm gương!

“Ông chạnh lòng thương xót... " "esplanchnisthè" Động từ tiếng Hy-lạp này chứa đựng một hình ảnh: "Splanchna" chính là "ruột gan, bộ lòng". Vậy phải dịch là: "ông xúc động đến ruột gan". Và từ ấy trong tiếng Do Thái hay tiếng A-ra-mê-en mà Đức Giêsu đã sử dụng xem ra cũng mang cùng một ý nghĩa: "Rahamim" cũng chỉ "ruột gan", "lòng mẹ", "tấm lòng", “sự dịu dàng", "lòng tốt", "lòng trắc ẩn sâu xa". Vả lại, trong toàn bộ Tân Ước, từ "chạnh lòng thương" chỉ được dùng để chỉ tình cảm của Đức Giêsu trước những đám đông khốn khó, những người bệnh tật, những người sầu khổ đủ loại (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 6,34; 8,2; 9,22; Lc. 7,13; 15,20).

Các Giáo phụ, vốn gắn với những phương thức suy nghĩ cổ xưa, hầu như đều nhất trí chú giải dụ ngôn này bằng cách áp dụng vào Đức Giêsu Kitô. Cả Tin Mừng, và trang này cũng thế, trước tiên không phải là một sách bàn về đạo đức những là sự "công bố", sự "mạc khải" về tình yêu thương của Thiên Chúa: người Sa-ma-ri tốt lành, trước hết chính là Đức Giêsu... người đi đường bị thương gần chết, chính là nhân loại bị sự ác quất ngã... quán trọ, chính là Giáo Hội nơi Đức Giêsu đưa con người đến cứu chữa. Nếu chúng ta chỉ biến trang Tin Mừng tuyệt diệu này thành một bài học đạo đức thì quả là tai hại vì trang Tin Mừng này nói với chúng ta "Thiên Chúa làm điều gì cho con người". Người không ngừng "sinh ra" con người trong cung lòng Người. Đức Giêsu đã là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình", thể hiện lòng trắc ẩn như mẹ hiền của Thiên Chúa, và chúng ta, đối với người "thân cận" của mình chúng ta phải chia sẻ lòng trắc ẩn đến từ Thiên Chúa! Nếu Tin Mừng trước tiên không phải là một "khoa đạo đức” điều đó không có nghĩa là Tin Mừng không chứa đựng những yêu sách đạo đức... vô cùng sâu xa và mạnh mẽ hơn mọi nguyên tắc.

Hãy yêu thương! phải, bạn hãy yêu thương! Bạn hãy đoàn kết, phải! Đó chính là "sự thờ phụng" thật. Tại sao? Bởi vì điều đó chính là Thiên Chúa. "Thiên Chúa là tình yêu, và ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa!" (1 Gioan 4,8). Hỡi thầy tư tế hoặc thầy Lê vi, coi chừng việc thờ phụng của thầy. Thiên Chúa không thích lễ lạy của Thầy. Người chờ đợi thầy bên ngoài, lúc thầy sẽ gặp mặt Người thân cận, lúc thầy sẽ ra khỏi nơi làm lễ tế. "Bạn có yêu không? Bạn có yêu thương tôi không?" Và không chỉ bằng lời chứ?

Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay lũ cướp?" Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".

Đức Giêsu lật ngược hoàn toàn ý niệm về người thân cận. Người thông luật đã hỏi: "Ai là người thân cận của tôi? (theo nghĩa thụ động)... trong ý nghĩa này, chính " những người khác" là Người thân cận của tôi. Đức Giêsu trả lời ông: "Bạn tỏ ra mình là người thân cận của ai?" (theo nghĩa chủ động)... trong nghĩa này, chính chúng ta phải là người thân cận" của những người khác, hoặc là không. Người, “thân cận", nghịch lý siêu phàm của Đức Giêsu, lại chính là “tôi" khi tôi đến gần những người khác với lòng yêu thương Người tạ không c.ăn tự hỏi "ai" là người thân cận của tôi... nhưng "tôi" sẽ là người thân cận của mọi người, không phân biệt như thế nào?..ôi, sự mạc khải này là của Thiên Chúa!

------------------------------------

 

TN 15-C97: TÔI PHẢI LÀM GÌ ĐỂ ĐƯỢC SỐNG ?

 

Bài Tin Mừng hôm nay chia thành hai phần có liên hệ chặt chẽ với nhau: ( 1 ) Thỉnh vấn về điều: TN 15-C97


Bài Tin Mừng hôm nay chia thành hai phần có liên hệ chặt chẽ với nhau: ( 1 ) Thỉnh vấn về điều răn trọng nhất ( Lc 10, 25 – 28 ); và ( 2 ) Dụ ngôn người Samari nhân hậu ( cc. 29 – 37 ).

1. Thỉnh vấn về điều răn trọng nhất ( cc. 25 – 28 )

Câu hỏi của người thông luật là một trong những câu hỏi trung tâm của các tôn giáo: làm thế nào để được sự sống đời đời ? Đây không chỉ là một “nố” được đặt ra để tranh luận, mà thực sự là một nỗi niềm khắc khoải trong tâm tư con người.

Đối diện với lời thỉnh vấn của người Thông Luật, theo kiểu tiến hành thảo luận của các thầy Rabbi, Đức Giêsu đặt một câu hỏi cho người đến thỉnh vấn: “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” Bằng cách làm như thế, Đức Giêsu đặt mình vào vị thế của vị tôn sư, chủ động dẫn dắt cuộc thảo luận. Điều đáng ngạc nhiên ở đây là Người đã không đưa ra một lời kêu gọi người đối thoại hối cải, cũng không công bố rằng Nước Thiên Chúa đã đến gần, nhưng lại hỏi người đến thỉnh vấn về điều đã được viết trong Luật Môsê.

Người Thông Luật trả lời bằng cách trích dẫn Đnl 6, 5 và Lv 19, 18: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” .

Người Thông Luật hiểu điều răn ấy như thế nào ? “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi…”, nghĩa là gì ? Trong thần học Đệ Nhị Luật, lệnh truyền này được đặt trong khung cảnh giao ước giữa Thiên Chúa với dân, và vì thế, được hiểu như là lệnh truyền người ta phải trung thành thực hiện những đòi buộc của giao ước đó. Và như thế, tình yêu mến đối với Thiên Chúa bao hàm lòng tin tưởng và tuân phục hoàn toàn đối với ý muốn của Thiên Chúa. Người yêu mến Thiên Chúa sẽ vâng phục ý muốn của Người “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn” tức là với toàn vẹn con người mình trong hiện hữu, trong ước muốn, trong suy nghĩ và trong hành động. “Và ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”.

Người thân cận trước hết là người ở gần mình, tức là thành viên của Dân được tuyển chọn, người anh em trong lòng tin vào Thiên Chúa. Người thân cận cũng có nghĩa là bạn bè thân hữu. Rồi theo Đnl 10, 19 khái niệm người thân cận được mở rộng bao hàm cả những ngoại kiều cư ngụ trong xứ Palestina. Để được sự sống đời đời làm cơ nghiệp, người ta phải yêu mến tất cả những người thân cận đó như chính mình.

Trong các sách Tin Mừng theo Thánh Mátthêu và Máccô, hai điều răn mến Chúa và yêu người  trước tiên được nêu tách rời nhau, sau đó mới được nối kết với nhau. Trong câu trả lời của người thông luật trong Tin Mừng theo Thánh Luca, hai điều răn quan trọng ấy được nối kết trong một câu duy nhất, cho thấy tính cách không thể tách lìa giữa hai điều răn này. Đàng khác, nếu tình yêu đối với Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể trong tình yêu đối với người thân cận thì có nghĩa là chúng ta đang đứng trước vị Thiên Chúa không quy chiếu về chính mình Người, mà là Đấng tỏ mình ra trong quy chiếu về sự thiện hảo dành cho con người.

Khi hai điều răn quan trọng nhất được nối kết chặt chẽ với nhau như thế, thì tôn giáo của hai điều răn này phải được đưa ra khỏi đền thờ để đi vào cuộc sống thường nhật hàng ngày. Đạo phải là thực tại sống hàng ngày được diễn tiến dưới ánh nhìn của Thiên Chúa, và con người ta không còn được phép dừng lại trên sự phân biệt giả tạo giữa những bổn phận đối với Thiên Chúa và những thái độ của họ trong đời sống cộng đồng và xã hội.

Đức Giêsu không phủ nhận câu trả lời của người Thông Luật. Người nói với ông ta: “Ông trả lời đúng lắm”. Nhưng Người lập tức thêm: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Người đòi hỏi ông phải đi ra khỏi tháp ngà của những hiểu biết cao siêu để nhập thế vào cuộc đời cụ thể, bởi lẽ chỉ trong cái cụ thể của cuộc sống, người ta mới chứng tỏ những điều hiểu biết của mình là xác thực, và chính việc thực hành lòng yêu mến mới đem lại cho người ta sự sống đích thật.

2. Dụ ngôn người Samari nhân hậu ( cc. 29 – 37 )

“Nhưng người thông luật muốn chứng tỏ là mình có lý, nên thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” ( c. 29 ).

Đức Giêsu đã không hề nói rằng người thông luật không có lý. Tại sao ông lại muốn chứng tỏ mình có lý ? Có người nghĩ ông muốn Đức Giêsu hiểu rằng câu hỏi mà ông nêu ra cho Đức Giêsu ở đầu cuộc đối thoại là một đề tài đáng giá và ông chờ đợi một diễn từ sâu sắc về vấn đề đó. Người khác thì nghĩ rằng ông muốn “chữa mình” vì đã từng có ý định thử trình độ Đức Giêsu khi ông đến đặt câu hỏi… Thực ra, lý do khiến người thông luật muốn chứng tỏ mình có lý không quan trọng đối với chúng ta. Nhưng câu hỏi của ông đã là cơ hội để tác giả Luca dẫn vào một dụ ngôn có giá trị đưa ra lời giải thích của Kitô giáo về điều răn được nói trong câu Lv 19, 18.

Vì nhiều lý do, một số người đã cố cất công tìm xem thoạt kỳ thuỷ, khi kể dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh điều gì. Có người nghĩ Người muốn dạy rằng lòng trắc ẩn có giá trị cao hơn nhiều so với việc phụng tự. Người khác nghĩ rằng Đức Giêsu có ý cho thấy những người bị gạt ra bên ngoài các hệ thống tôn giáo vẫn có thể yêu mến và thi hành thánh ý Thiên Chúa cách hoàn hảo, có khi hoàn hảo hơn những người ở trong hệ thống. Có người nói rằng Đức Giêsu muốn chống lại những sự kỳ thị dựa trên yếu tố tôn giáo, xã hội và chủng tộc. Có người bảo đây là dụ ngôn được kể trong không khí tranh luận chống lại tầng lớp tư tế, hoặc không khí phê phán tôn giáo Do Thái vốn luôn tìm cách tách mình khỏi phần còn lại của thế giới loài người, hoặc không khí tranh luận về tương quan giữa những người Do Thái với lương dân…

Trong tình trạng hiện thời, được nối với cuộc thỉnh vấn về điều răn trọng nhất, dụ ngôn này đã được tác giả Luca sử dụng như một câu chuyện minh hoạ, mô tả thái độ gương mẫu mà người nghe được mời gọi thực hiện theo.

Câu chuyện có khung cảnh là đoạn đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dài khoảng 27km, với sự chênh lệch về độ cao vào khoảng 1.000m ( Giêrusalem nằm ở độ cao 750m trên mặt biển, còn Giêrikhô thấp hơn mặt biển 250m ). Đó là đoạn đường rất nguy hiểm với khách bộ hành, thường xuyên xuất hiện những toán cướp hung hãn. Vậy, “có một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết” ( cc. 29 – 30 ).

“Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi” ( cc. 31 – 32 ). Cả hai người này đều thuộc về những nhóm có những vai trò quan trọng trong sinh hoạt tại Đền Thờ. Tại sao họ lại tránh qua một bên mà đi khi thấy nạn nhân nằm bên vệ đường như thế ? Nói chung, câu trả lời thường được đưa ra là vì các lý do liên quan đến sự thanh sạch theo nghi tiết ( x. Lv 21, 1tt; Ds 19, 11 ), theo đó, thầy tư tế và thầy Lêvi không dám đụng đến nạn nhân đang nằm bên vệ đường vì nghĩ rằng anh ta đã chết hoặc sợ rằng anh ta sẽ chết trên đường đem đến nhà trọ. Và họ đã bỏ đi.

Nhân vật thứ ba xuất hiện. Bình thường, người nghe chờ đợi sự xuất hiện một giáo dân Do Thái, nhất là khi hiểu câu chuyện theo hướng bài giáo sĩ. Nhưng, thật thú vị, nhân vật thứ ba lại là một người… Samari: “Một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương” ( c. 33 ). Nhân vật sẽ trở thành mẫu mực trong thực tế không phải là một người thuộc hàng những tín hữu ưu tuyển của Do Thái giáo, mà lại là một anh chàng người Samari, bị ghét bỏ, bị coi là lạc đạo, bị coi là tội lỗi. Đàng khác, khi chọn nhân vật này làm mẫu mực, Đức Giêsu ngầm cho thấy tất cả những lý do tôn giáo và chủng tộc không còn giá trị nữa. Đây là một con người nhìn thấy một con người đang gặp hoạn nạn, vượt khỏi những sự phân biệt chủng tộc, tôn giáo hay quốc gia.

Động từ quan trọng trong câu là động từ “chạnh lòng thương” ( spagchnizesthai ). Trong Kinh Thánh động từ này được sử dụng để nói về lòng chạnh thương của Thiên Chúa đối với những con người nghèo khổ, yếu đuối. Đó cũng chính là thái độ của Đức Giêsu đối với những con người khốn khổ bần cùng cần được giúp đỡ ( xem thí dụ: Mc 1, 41; 6, 34; 8, 2; Lc 7, 13; 15, 20 ). Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà nhiều Giáo Phụ hiểu rằng người Samari nhân hậu này là hình ảnh của chính Chúa Kitô.

 Người Samari “lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt  người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác” ( cc. 34 – 35 ). Hành động của người Samari là một gương mẫu tuyệt vời trả lời cho câu hỏi “Tôi phải làm gì ?” ( c. 25 ). Ông đã hành động không phải vì ý thức mạnh mẽ về những lý do siêu nhiên hoặc về việc phải tuân giữ các giới răn. Nhưng ngay nơi cách hành xử đậm chất người như thế, ông đã làm cho cách hành xử của Thiên Chúa nhập thể vào thế giới và ông đã sống điểm cốt yếu của Luật.

Người Thông Luật đã hỏi rằng “Ai là người thân cận của tôi ?” ( c. 29 ), tức là theo Luật, tôi phải yêu ai ? Nhưng khi kể xong dụ ngôn, Đức Giêsu lại hỏi ông ta: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” ( c. 36 ), tức là ai là người đã thực hành lòng yêu mến ? “Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy. " Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” ( c. 37 ).

Gợi ý suy niệm:

1. Nhiều Giáo Phụ và một số nhà chú giải hiện nay hiểu rằng cách hành xử của người Samari trong dụ ngôn phản ánh cách hành xử của chính Chúa Giêsu, và rằng thoạt kỳ thuỷ dụ ngôn này đã được kể như là một câu trả lời cho những người phê phán sự gần gũi của Chúa Giêsu với những kẻ tội lỗi. Hiểu theo nghĩa này, người bị quân cướp đánh trọng thương và vứt bên đường chính là hình ảnh của những người tội lỗi. Chúng ta thấy mình trong hình ảnh người ấy, và được mời gọi tạ ơn Chúa Giêsu vì đã được trở nên “người thân cận” với Chúa Giêsu.

2. Trong ngữ cảnh cuộc đối thoại với người thông luật về phạm trù “người thân cận”, điểm nhấn ban đầu của dụ ngôn về căn bản được đặt trên sự đối nghịch giữa hai hạng người: một bên là hai thành viên của những lớp người có vai vế trong dân thánh, và do đó, thuộc về số những “người thân cận” theo quan điểm Do Thái; và bên kia là một người Samari bị khinh ghét, bị loại trừ và vì thế, bị coi là không thuộc vào số những kẻ đáng được người ta yêu mến như Luật đòi hỏi. Từ sự đặt đối nghịch hai hạng người đó, Chúa Giêsu lật nhào quan điểm của người Do Thái về “người thân cận”. Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta là Thiên Chúa của lòng trắc ẩn đối với con người tội lỗi. Khi người ta sống theo sự chạnh lòng thương của Người, thì người ta trở nên đáng kính trọng và yêu mến, chứ không phải vì người ta thuộc về một tập hợp được xác định bằng các tiêu chí chủng tộc, xã hội hay văn hoá.

3. Dụ ngôn người Samari nhân hậu đã được lưu truyền trong Hội Thánh tiên khởi như là một lời dạy dành cho các tín hữu trong cộng đoàn: hình ảnh người Samari nhân hậu này được trình bày như một gương mẫu, và dụ ngôn trong bài Tin Mừng trở thành một lời mời gọi các Kitô hữu hãy thực hành lòng yêu mến như người Samari nhân hậu đã làm. Theo nghĩa này, dụ ngôn này trình bày cách hiểu của Hội Thánh Chúa Kitô về luật yêu thương người thân cận được nói trong Lv 19,18.

4. Dụ ngôn người Samari nhân hậu cũng nói với chúng ta về chủ đề ơn cứu độ. Người ta đạt thấu ơn cứu độ không phải nhờ một vài hoạt động sùng kính riêng tư, nhưng là bằng cách thực hiện trong thực tiễn những đòi hỏi cụ thể của tình yêu mến đầy lòng trắc ẩn đối với người khác, nhất là với những người nghèo khổ, bị áp bức và cô thế cô thân. Các Kitô hữu, nhất là các vị thừa sai, phải luôn biết nhạy cảm trước cảnh nghèo của thế giới và các vấn đề xã hội trầm trọng đang làm cho nhân loại phải âu lo. Mọi thứ nghèo khổ ( vật chất, tinh thần, tâm linh ) đều mời gọi lòng nhiệt thành tông đồ của chúng ta. Khát vọng chính đáng của người nghèo cũng sẽ là khát vọng chính đáng của chúng ta. Đó là con đường cứu độ dành cho chúng ta, chứ không phải những cách giữ đạo hình thức và giả trá.

 Lm. NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT

------------------------------------

 

TN 15-C98: LUẬT CỦA NƯỚC THIÊN CHÚA

 

Công dân của một nước thì phải chu toàn luật của đất nước ấy. Bộ luật của đất nước nào chân: TN 15-C98


Công dân của một nước thì phải chu toàn luật của đất nước ấy. Bộ luật của đất nước nào chân thật, nghiêm minh thì bảo đảm được sự bền vững của đất nước ấy. Ngược lại, bộ luật nào trí trá, chắp vá, nhiều khe hở, thì kém bền vững, trước sau cũng sụp đổ là đương nhiên. Biết vậy, nhưng có khi chính những người làm luật lại không muốn cho luật lệ chân thật, nghiêm minh, để chính mình còn đường thoát khỏi lưới luật.

Vì vậy, cũng không thiếu những người nghiên cứu học hỏi cho thông luật để làm những điều luật không cấm, để biết những khe hở thoát thân. Có thể là do khả năng kém cỏi của người làm luật, nhưng phần lớn là do “không có tấm lòng chân thành” cho công cuộc chung, do lòng ích kỷ, tham lam của một phe nhóm, một bè phái. Đất nước nào có bộ luật không nghiêm sẽ luôn ở trong tình trạng bát nháo, hỗn độn, chẳng có gì là bảo đảm một nền độc lập, tự do, hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân và cho sự ổn định trường tồn của đất nước.

Bộ luật của Nước Thiên Chúa do chính Thiên Chúa Toàn Năng, Chí Thánh, Chí Thiện lập ra là bộ luật chân thật, nghiêm minh và bền vững. Bộ luật ấy được gọi là Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, được tóm gọn chỉ một câu “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”.

Tin Mừng hôm nay đề cập đến Luật của Nước Thiên Chúa: Một thầy thông luật đã hỏi Chúa Giêsu “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” Chúa Giêsu hỏi lại ông ta: “Luật đã dạy gì ?” và ông ta đã trả lời đúng như câu tóm gọn bản luật

Bản chất của không ít thầy thông luật, là biết luật không phải để giữ luật, chỉ để dạy người ta giữ, và phê phán, bắt bẻ khi người ta không giữ. Có thể Chúa Giêsu vẫn cho là thầy thông luật có chút thành tâm hỏi về luật để giữ luật cho đặng hưởng được sự sống đời đời, nên Ngài đã trả lời rất chân thành: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Biết mình đã không làm như vậy, nên thầy thông luật lại vặn hỏi: “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?”

Chúa Giêsu biết âm mưu của ông khi nhắc đến hai chữ “thân cận”, may ra có cái khe hở nào để khỏi giữ luật chăng, vì ông muốn hiểu theo người đời là đóng khung hai chữ thân cận chỉ trong những người Do Thái mà thôi, có khá hơn thì cũng chỉ thêm được một vài ngoại kiều thân thích với họ. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu dùng câu chuyện dụ ngôn người “Samari có lòng thương người” mở ra cho nhân loại một định nghĩa chính xác về người thân cận trong bộ luật Nước Trời: đó chính là tất cả mọi người. Đồng thời, Ngài cũng chỉ cho thấy việc thi hành luật: yêu là thương, là hy sinh chính mình để cho người khác được sống.

Đối tượng của tình yêu và lòng thương xót chính là “con người”. Con người là thân cận của con người. Không phân biệt dân tộc, màu da, tiếng nói, tôn giáo, xã hội, chính trị… vì tất cả đều là con cái của Thiên Chúa, đều được sống trong tình huynh đệ của các con cái cùng một Cha trên Trời. Dụ ngôn  cho thấy: công việc đầu tiên của người Samari khi xuống ngựa không phải là xem người bị nạn này là ai, Do Thái hay Samari, người quen hay người lạ, người đẹp hay xấu… nhưng là cấp cứu ngay, và cấp cứu hết sức tận tình.

Một thứ tự rất chu đáo và hợp lý:

- chạnh lòng thương,
- lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó
- đặt người ấy trên lưng lừa của mình
- đưa về quán trọ mà săn sóc
- lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.

Như vậy, việc đầu tiên trong việc giữ luật yêu thương người là “chạnh lòng thương”. Và từ “chạnh lòng lương” dẫn đến các việc tốt khác. Nếu không có trái tim biết “chạnh lòng thương”, thì người Samari này cũng chẳng khác gì thầy Tư Tế, thầy Lêvi kia, sẻ "tránh sang bên kia đường mà đi", bỏ mặc ai sống chết mặc ai !

Khi được hỏi “Theo ông thì ai là người thân cận của người bị nạn ?” hẳn thầy thông luật phải trả lời là chính người Samari kia. Chúa Giêsu đã kết luận dụ ngôn: “Vậy, ông cũng hãy đi và làm như vậy”.

Chúa cũng đang gửi đến mọi người chúng ta thông điệp về việc chu toàn Luật của Nước Thiên Chúa: “hãy đi và làm như vậy”, để được Sự Sống đời đời làm gia nghiệp cho chúng ta.

Tình yêu thương, lòng thương xót trong mỗi con người như quà tặng quí giá Chúa đã ban cho mỗi con người nơi trái tim biết yêu và cảm nhận được yêu. Chúng ta đang sống được, sống vui, sống khỏe là nhờ chúng ta nhận được nhiều tình yêu thương của người khác. Tình thương yêu luôn là nguồn sinh lực quí giá mà con người trao cho nhau để xây dựng một gia đình hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp. Trong Hội Thánh Chúa, tình yêu thương của những người có Đạo dành cho tất cả mọi người, không phận biệt lương giáo, thân sơ, giàu nghèo… còn là một bằng chứng hùng hồn về Thiên Chúa, về Nước Thiên Chúa đang ngự trị giữa trần gian này.

Thực vậy, chúng ta có thể chia nhau Tin Vui này: thời nay, vẫn còn đang có nhiều người Samari nhân hậu giữa chúng ta. Tình yêu thương của họ đã biến thành những liều thuốc đặc biệt đắt tiền, những lượt xạ trị, hóa trị tốn kém cho người bệnh ung thư trầm kha được phép kéo dài những ngày đời chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ Thiên Chúa. Tình yêu thương của họ như trái tim mở ra cho những ca mổ tim để cứu sống biết bao em bé tưởng phải sớm vĩnh biệt cõi đời. Tình yêu thương của họ đã biến thành cơm bánh, thành chăn mền, quần áo cho biết bao người nghèo khổ đói rét. Tình yêu thương ấy biến thành nếp nhăn tàn tạ của cha mẹ, của người bán cả sức lực mình cho gia đình, của cả người chăm sóc bệnh nhân trắng đêm thao thức.

Tin Vui này còn đang mãi nhân lên trong Hội Thánh Chúa để mỗi người ngộ ra điều kỳ diệu này: là khi ta “thực hành đức yêu thương như Chúa dạy” chính là lúc chúng ta đền đáp bao yêu thương đã nhận lãnh, và lại được Chúa yêu thương giữ cho ta phần gia nghiệp Nước Trời.

Nhưng để sống được Đức Yêu Thương ấy, không đơn giản một ngày một bữa, một sớm một chiều mà chúng ta có thể đạt được, và chúng ta cũng không thể tự mình đạt được nếu không có ơn Chúa.

Lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta phải là khẩn thiết xin Chúa loại trừ trong chúng ta lòng kiêu căng, ích kỷ. Bởi vì những thói xấu ấy sẽ làm tắt ngúm lửa tình yêu thương trong chúng ta. Lòng kiêu căng không cho phép mình phục vụ cho ai, nhưng đòi hỏi ai cũng phải phục vụ mình. Lòng ích kỷ khiến mình không quan tâm đến ai, chỉ muốn ai cũng phải quan tâm đến mình, không cho phép mình cúi xuống trên những thân phận người đau khổ, yếu hèn, thấp kém, nhơ uế, để hiểu nỗi đau tận cùng của kiếp nhân sinh…

Thiết tưởng, không chỉ lời cầu nguyện, mà còn phải luyện tập Đức Yêu Thương bắt đầu bằng sự từ bỏ chính mình, để nghĩ đến người khác. Từ bỏ việc được phục vụ để biết phục vụ người khác. Có người không đau bệnh gì, mà quần áo của mình, mình không giặt nổi thì nói gì giặt quần áo cho ai ? Đi đâu cũng có cơm bưng nước rót, kẻ hầu người hạ, thì mình còn chịu phục vụ ai ?

Từ bỏ tính phân biệt, vụ lợi, để lòng ta quảng đại hơn với tất cả mọi người. Đừng như chỗ “nhà thương” là nhà của “những người bị thương”, đáng lý “người phải được thương” cách khẩn cấp nhất, thì ngược lại, cứ từ từ nhẩn nha mà giải quyết, xem “người bị thương” là ai đã, nhân thân thế nào đã, có tiền lót tay hay không đã mới chịu thăm khám, chữa trị cho người ta…

Chu toàn Luật Yêu Thương, Luật của Nước Thiên Chúa với lòng chân thành, chúng ta tin chắc về giá trị bền vững của Luật Yêu Thương đó là phần Sự Sống đời đời làm gia nghiệp mai sau.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con chu toàn Luật của Nước Thiên Chúa, là yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân vì chúng con là công dân của Nước Chúa. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG, 12.7.2013

------------------------------------

 

TN 15-C99: HÃY VỀ VÀ LÀM NHƯ VẬY

 

Trong xã hội hiện thời, chúng ta thấy tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng. Chuyện đâm thuê,: TN 15-C99


 Trong xã hội hiện thời, chúng ta thấy tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng. Chuyện đâm thuê, chém mướn, bóc lột là những tội ác đang hoành hành trong thời đại của chúng ta hôm nay. Đứng trước tình trạng đó, hơn bao giờ hết, tình yêu thương, vị tha, lòng bao dung là điều cần thiết để làm vơi đi những đau thương, mất mát.

Bài Tin Mừng hôm nay khơi gợi cho chúng ta về tình yêu hướng tha, lòng bao dung vô vị lợi đó.

1.      Bối cảnh vấn đề

Câu chuyện được khởi đi bằng việc trao đổi giữa Đức Giêsu và một người thông luật: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Câu hỏi này nếu thoáng nghe, thoạt nghĩ, chúng ta sẽ dễ dàng kết luận rằng nhà thông luật này có vẻ khao khát đi tìm hạnh phúc viên mãn. Nhưng kỳ thực đây chỉ là câu hỏi nhằm thử Đức Giêsu để gài bẫy và hạ thấp uy tín của Ngài mà thôi.

Bởi vì trong luật Cựu Ước có tới 613 điều, trong đó có 365 điều cấm không được làm và có 248 điều buộc phải làm. Một bộ luật khổng lồ đã làm cho dân phải khốn đốn và không ai có thể chu toàn. Họ không biết khởi đầu từ đâu và kết thúc ở điều luật nào ! Và, đâu là điều quan trọng nhất. Ngay trong nội bộ của những nhà thông luật cũng chưa đưa ra được điều luật nào là chính yếu. Đây chính là cơ hội để họ thử Đức Giêsu.

Tuy nhiên, qua câu hỏi của vị Luật Sĩ: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Thay vì trả lời trực tiếp cho ông ta biết phải làm sao, Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ, từ người thụ động sang thế thượng phong khi hỏi lại ông ta: "Trong Lề luật đã chép như thế nào ? Ông đọc thấy gì trong đó ?" Qua câu hỏi mang tính chất vấn như vậy, Đức Giêsu đã tước được vũ khí từ đối phương, và như một mũi tên soáy sâu vào tận căn của ông ta, buộc ông phải nói lên điều mà ông đã biết: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi ( Đnl 6, 5 ), và hãy thương mến anh em như chính mình" ( Lv 19, 8 ). Tuy nhiên, vì biết được lối sống giả hình của giới học giả Do Thái, họ luôn đeo ách nặng nề trên dân và buộc dân phải thi hành, còn chính họ thì lại không giữ ( x. Mt 23, 27 – 28 ). Vì thế, Đức Giêsu đã bảo ông ta: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống".

Qua câu nói đó của Đức Giêsu, Ngài đã tố cáo lối sống cứng ngắc của họ; đồng thời bẻ gãy mưu mô của họ; mặt khác, Ngài cũng khơi gợi lên trong lòng họ hướng chiều về điều thiện và khuyên họ nên làm để được sự sống đời đời.

Khi bị thất thế hoàn toàn, nhà thông như muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi ?" Đức Giêsu dựa trên câu hỏi của ông để kể cho ông dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Kết thúc câu chuyện, lại một lần nữa Đức Giêsu hỏi ông ta: “Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp ?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Đức Giêsu đã nói cho ông ta biết rằng: hãy về và làm như thế thì sẽ được cứu độ, chứ không phải chỉ kêu: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu !

2.      Sứ điệp Lời Chúa cho mỗi chúng ta

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Đây phải là điều răn quan trọng nhất và là thước đo đời sống đạo của mỗi chúng ta. Nếu yêu Chúa mà không yêu người thì chúng ta tự mâu thuẫn với chính mình. Chính thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: tin phải đi đôi với hành động, nếu tin mà không hành động thì đức tin chết. Quả thật, Chúa là Đấng chúng ta không thấy, còn con người thì ai cũng thấy trong cuộc sống. Mến Chúa mà lại không yêu người thì là kẻ nói dối. Quả thực, Thánh Gioan đã nói: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” ( 1 Ga 4, 20 ). Và “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” ( 1 Ga 4, 21 ). 

Nhưng điều quan trọng là ta yêu người như thế nào ? Đây mới là điều quan trọng !

Người Luật Sĩ đã hỏi Đức Giêsu đâu là người thân cận của ông ta, và Ngài đã trả lời cho ông thấy người thân cận chính là anh em của mình, và phải yêu thương họ như chính mình. Qua câu nói đó, Ngài muốn chúng ta đi xa hơn để vượt ra khỏi ranh giới chủng tộc, quốc gia, giai cấp, địa vị để yêu thương bằng một tình yêu vị tha thay thế cho vị ngã. Người Samari đã chạnh lòng thương đến người bị nạn, ông đã coi nỗi đau khổ của người bị nạn chính là nỗi đau của ông, nên ông cảm thấy trách nhiệm và cần phải giúp đỡ người bị nạn. Tình thương đã khiến cho ông gần tha nhân hơn là những rào cản tôn giáo, dân tộc.

Có vị Linh Mục nọ than phiền về lối sống đạo của Giáo Dân một cách xót xa, ngài nói: Giáo Dân ở đây họ thích rước sách linh đình. Cứ rước kiệu nhiều là họ mừng. Họ thích trống to, kèn lớn, ăn mặc đẹp để đi rước… Nếu đội bên kia trống to, kèn lớn hơn thì bên này phải tìm mọi cách để của mình bằng hoặc to hơn bên họ. Nhưng xót xa thay, nhiều người trong Giáo Xứ bỏ Lễ, nhiều năm không xưng tội. Giới trẻ lao vào con đường nghiện ngập, cờ bạc… Họ sẵn sàng đánh chửi lẫn nhau. Họ sống như  những người không biết Chúa. Nếu có mời gọi họ đi học Giáo Lý, Kinh Thánh thì họ bảo không có giờ,  nhưng lại vùi đầu trong các sòng bạc cả ngày lẫn đêm… Đời sống đạo như thế thì làm sao chống chọi được với những trào lưu tục hóa tinh vi trong xã hội hôm nay ! Một thực trạng đáng lo ngại.

Thật vậy, nếu chỉ sống đạo cách hình thức hay hời hợt bên ngoài, chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng như những tư tế, trợ tế trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay.

Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy yêu thương tha nhân với một tình yêu chân thành, quả cảm. Khi yêu thương như vậy, chúng ta đang đi vào và ở trong Tình Yêu của Thiên Chúa, bởi vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”; đồng thời mỗi chúng ta hãy vượt ra khỏi những thứ bề ngoài để sống một cuộc đời có Chúa thực sự. Được như thế, nỗi đau của người anh em cũng là của chính ta. Và khi giúp đỡ người anh em đang đau khổ là chúng ta đang góp phần làm cho thế giới này vơi đi phần nào sự bất công do những trào lưu tục hóa gây nên; mặt khác, qua họ, Thiên Chúa muốn gặp gỡ chính chúng ta và mời chúng ta sống hiệp thông với Ngài.

Ước gì, Lời Chúa nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên Trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ) sẽ là lời cật vấn lương tâm của mỗi chúng ta.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu Chúa trên hết mọi sự; đồng thời cũng biết yêu người anh chị em chúng con cách chân thành và sẵn sàng giúp đỡ họ như Chúa dạy qua bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

Tu Sĩ Jos. Vinc. NGỌC BIỂN

------------------------------------

 

TN 15-C100: KHI CON TIM LÊN TIẾNG

 

Chiều 13.5.2012, một cô gái chạy xe gắn máy theo hướng từ quận Thủ Đức vào quận Bình Thạnh: TN 15-C100


Chiều 13.5.2012, một cô gái chạy xe gắn máy theo hướng từ quận Thủ Đức vào quận Bình Thạnh, đến giữa cầu Bình Triệu, cô dừng xe, cởi áo khoác, bỏ lại đôi dép, leo lên thành cầu nhảy xuống sông Sàigòn.

Nhiều người đi đường tò mò dừng xe lại khiến cầu nhanh chóng bị ùn ứ, nhưng không ai có phản ứng gì để cứu cô gái. Lúc đó, anh Danh Nghĩa chở một người bạn đi ngang qua, thấy sự việc lập tức dừng xe. Lúc này nước sông Sàigòn đang chảy rất mạnh và cô gái đã bị cuốn trôi về giữa khu vực cầu Bình Triệu 2 và 1. ( Ảnh chụp của báo Tiền Phong, anh Danh Nghĩa đang nhảy xuống sông cứu người )

Thấy cô gái chới với dưới dòng nước, anh Nghĩa vội cởi chiếc áo khoác, nhảy bổ xuống sông cứu người. Trong tích tắc, anh Nghĩa tiếp cận, kéo giữ được cô gái nhưng cả hai bị dòng nước cuốn đi qua khỏi cầu Bình Triệu 1. Dòng nước chảy rất mạnh, nhưng anh Nghĩa nhanh trí bám vào trụ chống va của cây cầu. Nhiều người đi đường kêu gọi những chiếc canô, chiếc tàu đi ngang qua vớt hai người lên. Khoảng 10 phút sau, một chiếc ca nô dừng lại, đưa hai người lên bờ. Lúc này cô gái đã ngất nên nhanh chóng được đưa đi cấp cứu.

Anh Danh Nghĩa sinh năm 1989, quê ở xã Định Hòa, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Nghĩa cho biết lâu nay phụ gia đình làm việc ở quê, vừa rồi theo lời vài người bạn cùng đi lên huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xin việc làm.

Anh Nghĩa kể: “Tụi em mới lên Bình Dương hôm trước, hôm sau, ngày 13 tháng 5 thì đến quận 7, Sàigòn để lấy đồ, đi ngang cầu Bình Triệu 2 chứng kiến sự việc liền nhảy xuống sông cứu người. Quả thật, giờ nghĩ lại cũng có chút sợ vì không biết được dưới dòng nước có vật gì nguy hiểm. Nhưng lúc đó em thấy cứu người là quan trọng nên không nghĩ đến chuyện này.” ( Minh Anh, Dũng cảm nhảy cầu Bình Triệu cứu người, báo Thanh Niên, 14.5.2012 ).

Chuyện can đảm cứu người của anh Danh Nghĩa là một lời chứng sống động cho người Kitô hữu chúng ta khi cùng suy niệm bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, với chủ đề “Ai là người thân cận của tôi ?"

Người thân cận không chỉ là thân bằng quyến thuộc, những người chúng ta quen biết, thân tình, hay họ hàng ruột thịt. Nhưng có thể bất kỳ ai đó, gần gũi hay xa lạ, thân thiết hay thù nghịch, mà chúng ta gặp trên đường lữ hành về Quê Trời. Vậy để có thể yêu mến, thương xót tha nhân, những người xa lạ, hoạn nạn, đau khổ, cần có một trái tim xả kỷ vị tha, nhạy cảm và sẵn sàng dâng hiến.

Tâm hồn xả kỷ vị tha

Anh Danh Nghĩa đã quên mình cứu người. Anh không hề bận tâm lo lắng đến sự an toàn cho mình, đến những hiểm nguy dưới dòng nước có thể đe dọa nuốt chửng mình. Anh đã xả kỷ vị tha, trong khi biết bao người đến trước, chỉ lạnh lùng, dửng dưng, tò mò, đứng nhìn cô gái tự vẫn.

Xả kỷ vị tha là từ bỏ chính mình, không lo cho bản thân, từ bỏ quyền lợi, dẹp tự ái mà hy sinh, chăm lo người khác. Khi thoát khỏi cái vỏ ốc ích kỷ, vị kỷ, chỉ biết đến mình, thì mới có thể nhìn đến thiên hạ. Đó là cuộc chiến vô tận giữa lòng thương xót và bản thân. Thông thường, bản thân luôn được coi là trung tâm điểm của sinh hoạt gia đình, xã hội. Tiên chủ hậu khách. Ưu tiên số một dành cho mình, rồi mới đến thân bằng quyến thuộc. Vậy nếu không xả kỷ vị tha, không từ bỏ mình, làm sao có thể quan tâm đến tha nhân, đến những người anh chị em xa lạ ?

Hơn nữa, xả kỷ vị tha chính là điều kiện tiên quyết đi theo Chúa. “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình” ( Lc 16, 24 ).

Trong thư gửi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã mạnh dạn xác quyết chính Chúa Giêsu đã làm gương cho loài người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, trên cây thập tự” ( Pl 2, 6 – 8 ).

Dụ ngôn của Chúa Giêsu cho biết thầy tư tế và thầy Lêvi còn lấn cấn vị kỷ, lo bị trấn lột, lo sợ ô uế, lo lỗi luật, lo bảo vệ cái bản ngã khỏi ố danh, khỏi trách nhiệm với tha nhân. Làm sao các đấng nghe được tiếng rên rỉ đau đớn, nài van của nạn nhân, đang thừa sống thiếu chết ? Bởi lòng dạ họ đã chai đá, vô cảm, vô tâm, vô tình.

Thói vị kỷ, tính vụ lợi đã giết chết lòng nhân từ, lòng thương xót. Chứng “Mackeno” cũng đang phát triển như vũ bão trong xã hội ngày nay. Làm ơn mắc oán, hay dễ bị lừa đảo khiến chúng ta cũng thường hay ngoảnh mặt làm ngơ khi thấy tha nhân lâm nạn. Chúng ta đang bưng tai bịt mắt trước nỗi thống khổ của đồng loại. Vẫn đang tiếp tục nhập vai các đấng bất nhân kể trên. “Tất nhiên chỉ có súc vật mới có thể quay lưng lại nổi khổ đau của đồng loại mà chăm lo riêng cho bộ lông của mình.” ( Trích từ bộ phim “Chuyện Tử Tế” của đạo diễn Trần Văn Thủy ).

Tâm hồn nhạy cảm

Một khi thoát ra khỏi chứng vị kỷ, người ta mới nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tha nhân như thế nào. Con tim, khối óc mới có thể nhạy cảm với tiếng kêu cứu, mới xót xa người bị nạn, mới thương người cơ nhỡ, mới sẵn sàng lăn xả cứu người.

Xả kỷ vị tha, anh Danh Nghĩa mới thấy mạng người thật quý hóa, không mảy may chần chừ, cân nhắc, tính toán, lập tức nhảy xuống sông cứu người, bất chấp những nguy hiểm ẩn giấu dưới lòng sông sâu: “Nhưng lúc đó em thấy cứu người là quan trọng, nên không nghĩ đến chuyện này.”

Nhạy cảm, người Samari mới chạnh lòng xót thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.

Người Samari không sợ thiệt thòi, không e ngại bị cướp bóc hành hạ, không lo lắng an toàn, không tính toán hơn thiệt, không bị cái bản ngã che khuất tầm nhìn ra bên ngoài, mới động lòng với tha nhân.”Phúc cho ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” ( Mt 5, 7 ).

Tâm hồn hiến dâng

Dòng Cát Minh luôn nhấn mạnh đến Vacare Deo, nghĩa là dốc cạn khỏi mình tất cả mọi sự, mọi ham muốn, mọi đam mê, mọi nhân khí, lẫn tà khí, để đón rước tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa. Một khi có Chúa ở cùng, có tràn đầy Thiên Chúa, chúng ta mới có thể nhìn thấy Thiên Chúa nơi tha nhân.

 Không còn lấy mình làm trọng tâm, không coi mình quan trọng, chúng ta mới đặt trọng tâm vào tha nhân. Mới có thể quan tâm lắng nghe, thấu hiểu những người thân cận muốn gì, cần gì, để chúng ta có thể lập tức đáp ứng, yêu thương phục vụ.

Đức Giêsu đã toàn tâm toàn ý đến cứu rỗi con người khi nhập thể thi hành Thánh Ý Chúa Cha: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" ( Mc 10, 45 ).

Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa những kẻ đi theo chân Đức Giêsu: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”. Trao ban không có nghĩa là mất đi, nhưng đó là phương thức tốt nhất để giữ lại những gì mình đã cho đi, để trở nên chính mình hơn. Những gì mình thực sự sở hữu chính là những cái mình đã cho đi, mà sở hữu lớn lao nhất là chính sự sống mình. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” ( Mt 10, 39 ).

Biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa ( Đường Hy Vọng, số 801 )
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có tâm hồn xả kỷ vị tha, nhạy cảm và hiến dâng như người Samari trong Tin Mừng, biết chạnh lòng thương, cúi xuống, ôm lấy chăm sóc tha nhân đang hoạn nạn về cả thể xác lẫn tinh thần.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã tự hạ, khiêm nhường, đón rước Thiên Chúa ngự vào lòng. Mẹ đã nhìn thấy Thiên Chúa trong từng con người bé nhỏ. Mẹ đã thương xót giúp đỡ đôi tân hôn nghèo khó ở Canna. Xin Mẹ đoái thương giúp chúng con mở rộng cõi lòng, xoa dịu những đau thương của tha nhân. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

-------------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây