Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 15-C Bài 1-50 Người Samaria nhân hậu --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 10, 25-37: "Ai là anh em của tôi?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy". - Ðó là lời Chúa. -------------------------------------------
Câu chuyện về người Samaria nhân từ làm cho tôi liên tưởng tới những sự việc vốn xảy ra: TN 15-C1
Câu chuyện về người Samaria nhân từ làm cho tôi liên tưởng tới những sự việc vốn xảy ra thường ngày.
Chẳng hạn một người bất ngờ bị trúng gió, hay bị một tai nạn nào đó, đang nằm quằn quại bên vệ đường. Kẻ qua người lại, xúm đến coi xem rồi bỏ đi và tặc lưỡi:
- Thật tội nghiệp.
Thế nhưng, chỉ có một người đã vội vã đi gọi xe cứu thương và đưa kẻ bất hạnh ấy vào bệnh viện. Thiên hạ hỏi xem anh ta có phải là bà con họ hàng với kẻ gặp nạn hay không, thì anh ta đã trả lời:
- Tôi không có họ hàng bà con chi cả. Thế nhưng, tôi chỉ biết việc cần phải làm ngay bây giờ là lo cấp cứu cho người ấy.
Vậy trong số những người chứng kiến, ai là người công giáo, ai là người đã sống tinh thần của Chúa hơn cả ?
Tôi xin thưa đó là người đã vội vã đi gọi xe cứu thương.
Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu chuyện đớn đau và buồn phiền xảy ra ngoài đường phố cũng như nơi khu xóm. Hằng ngày chúng ta cũng được nghe nói đến những tai ương hoạn nạn xảy ra ở chỗ này hay ở chỗ kia trên thế giới. Tuy nhiên, thái độ của chúng ta vẫn chỉ là thái độ thờ ơ và dửng dưng, thái độ của kẻ mũ ni che tai, hơi đâu mà để ý đến. Đó là chuyện bên tây, bên tàu chứ có phải là chuyện của mình đâu mà lo.
Tác phong của chúng ta vẫn chỉ là tác phong của kẻ “cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”. Chúng ta chỉ biết lo cho bản thân mình, gia đình mình, họ hàng mình, phe nhóm mình mà thôi. Và chúng ta cảm thấy được bình an thư thái, chẳng có tội lỗi chi cả, vì chúng ta không ăn gian, không nói dối, không giận hờn, không thù ghét, không cướp của, không giết người.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: yêu thương không chỉ dừng lại ở những tiếng “không” lạnh lùng ấy, nghĩa là không được bằng lòng với khía cạnh tiêu cực ấy, mà còn phải bước vào khía cạnh tích cực, nghĩa là phải làm gì cho những người mình thương mình mến chứ.
Khi đọc kinh cáo mình, chúng ta đã thú nhận những tội đã phạm nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Vậy những điều thiếu sót ấy là gì ? Tôi xin thưa chính là những điều chúng ta phải làm mà đã không làm.
Nghĩ xấu, nói hành, ăn trộm, giết người…đó là những việc làm tội lỗi ai cũng biết. Thế nhưng, không dạy bảo con cái, không giúp đỡ cha mẹ, không bố thí cho người nghèo, không thăm viếng người đau yếu khi có thể… đó là những việc thiếu sót và cũng là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chúng ta cần phải thành thật thú nhận trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người để xin ơn tha thứ.
Dưới một góc cạnh nào đó, chúng ta có thể định nghĩa người Kitô hữu không phải chỉ là những người có Đức Kitô trong tâm hồn, mang Đức Kitô trong cuộc sống, mà hơn thế nữa, người Kitô hữu còn phải là người nhìn nhận Đức Kitô trong mọi người, coi những vui mừng và những hy vọng, những buồn phiền và những lo lắng của người khác là của chính mình. Chia sẻ những đớn đau và những khát vọng của anh em mình. Coi những vấn đề của người khác là của chính mình và tìm cách giải quyết. Đó mới là yêu người như mình ta vậy.
Vì thế, đừng chỉ sống đạo theo luân lý cá nhân, nhằm cái lợi cho riêng mình, mà còn phải có ý thức xã hội, nhằm cái lợi cho người khác nữa.
Chẳng hạn khi mở máy truyền hình vào ban tối, thì cần nghĩ ngay đến người láng giềng đang cần sự yên tĩnh để nghĩ ngơi.
Khi đổ rác thì đừng đổ xuống dòng sông vì phải nghĩ ngay đến phép vệ sinh công cộng.
Khi rước kiệu, thì đừng giăng hàng chiếm trọn cả mặt đường khiến cho bao nhiêu xe cộ bị kẹt cứng. Trong lúc đi rước, họ lâm râm đọc kinh và hát xướng. Họ tưởng thế là làm sáng danh Chúa cũng như làm sáng danh mình mọi đàng, đang khi ở hai đầu dân tài xế, lơ xe và còn biết bao nhiêu hành khách đang lên tiếng chửi bới họ và rất có thể cũng đang chửi bới đạo.
Hãy biết tế nhị giúp đỡ những người chung quanh, đó là cách thức làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời, bằng không, danh hiệu Kitô hữu của chúng ta cũng sẽ bị mai một với những phiền toái do chính chúng ta gây ra.
Nguyệt san L’amour nổi tiếng bên Hoa Kỳ, trong số phát hành vào tháng mười hai trong mùa: TN 15-C2
Nguyệt san L’amour nổi tiếng bên Hoa Kỳ, trong số phát hành vào tháng mười hai trong mùa Giáng sinh năm 1991, đã đăng nổi bật câu chuyện người đàn bà mặc áo đỏ làm xôn xao dư luận. Lái xe qua cổng, thu tiền vé xa lộ, bà không ngần ngại trao một số tiền cho nhân viên thu lệ phí và nói: Tôi trả tiền luôn cho cả những xe đến sau tôi, cho đến khi trừ hết số tiền này. Thế là những người lái xe đi tiếp theo sau nhận được câu nói bất ngờ: “Có người đàn bà mặc áo đỏ vừa đi qua đã trả lệ phí cho quí vị rồi”.
Thế rồi không phải chỉ có một người đàn bà mặc áo đỏ, mà có thật nhiều người mặc áo đỏ thực hiện những cử chỉ tốt lành như vậy tại nhiều nơi, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, gây nên một cơn sốt mới, nhưng rồi cơn sốt qua đi, vì thật khó kiên trì trong điều tốt.
Hãy thực hiện những việc tốt, dù nhỏ hèn âm thầm không ai biết đến, nhưng chắc chắn việc làm tốt đó sẽ khơi dậy những chuỗi việc làm tốt khác nơi anh chị em xung quanh. Chuyện dụ ngôn kể về người Samaritanô được nhắc lại trong Phúc âm Chúa nhật XV mùa thường niên năm C đáng chúng ta suy nghĩ thêm. Không phải trí thức, cái biết làm nên người và làm cho người đồ đệ của Chúa được sống đời đời, nhưng là việc làm. Nhà luật sĩ biết rõ Kinh thánh và điều răn của Chúa, nên chính ông đã trả lời cho câu hỏi mà ông đã đặt ra cho Chúa Giêsu. Trong cái biết của ông có chút gì chưa trọn vẹn, chỉ cần Chúa chỉ điểm cho một chút là ông có thể trả lời đúng cho câu hỏi thứ hai hơi rắc rối một chút và khác với sự hiểu biết của ông về: “Ai là người lân cận của tôi ?”.
Luật Môisen và truyền thống của người Do thái nói rõ ai là người lân cận và ai không, nghĩa là những người lân cận theo người Do thái có thứ bậc, trật tự và loại ra bên ngoài nhiều người. Chúa chỉ điểm cho nhà luật sĩ để ông ta khám phá ra sự thật, thay vì tìm hiểu xem ai là người lân cận thì hãy cố gắng biến chính mình để trở thành người lân cận của kẻ khác, như kẻ qua đàng trong dụ ngôn nhìn thấy người nửa sống nửa chết bên vệ đường thì không cần biết xem người đó có thuộc vào sổ những kẻ lân cận của mình hay không, nhưng tự bắt buộc mình, tự đặt mình làm người lân cận, làm kẻ phục vụ anh chị em để cho tình thương trong con người mình được thể hiện một cách cụ thể.
Đây là một thái độ sống hết sức mới mẻ. Cách hành xử của người đàn bà mặc áo đỏ phản ảnh phần nào thái độ Chúa muốn cho những người đồ đệ của Ngài thực hiện, nhưng tiếc thay người đàn bà mặc áo đỏ chỉ là một kiểu cách thời trang, mua vui qua lúc. Chúa muốn chúng ta kiên trì hơn, trung thành hơn, sẵn sàng để phục vụ anh chị em. Hãy biến mình trở thành người lân cận của anh chị em.
Sáng nay, khi đọc đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa chia sẻ với nhau trong thánh lễ này, tôi đã: TN 15-C3
Sáng nay, khi đọc đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa chia sẻ với nhau trong thánh lễ này, tôi đã nghĩ đến ngay bài tập viết đầu tiên mà tôi đã phải cố gắng vẽ ngoằn ngoèo trên trang tập đầu tiên mới mua về. Đó là ngày tôi được thầy cho lên lớp bắt đầu tập viết những chữ a, b, c… Trưa về nhà khoe với mẹ, đúng ngay lúc cha tôi đang ngồi tiếp truyện với một ông cụ nhà nho quen biết trong làng.
Nghe tôi khoe, cha tôi cầm lấy cuốn tập, mấy trang đầu đã đề những chữ a, b, c, rồi nói với ông cụ ngồi đối diện: Xin cụ viết giùm vào trong trang thứ hai này bốn chữ “Kính Chúa Yêu Người”. Cụ nhà nho viết xong, cha tôi đưa sang cho tôi đang đứng bên cạnh và nói: “Đây, con đến ngồi trên ghế cạnh kia rồi đồ lại những chữ này”. Thật là khốn khổ cho tôi lúc đó mới học viết được ba chữ a, b, c, mà bây giờ cha tôi lại bắt viết trọn cả bốn chữ “Kính Chúa Yêu Người”.
Tôi còn nhớ rõ hình ảnh những chữ mà tôi cố gắng vẽ theo mà không hiểu gì cả, chỉ biết rằng đây là bốn chữ nói “Kính Chúa Yêu Người”. Biết được bằng lỗ tai, nghe qua miệng cha tôi nói, chứ lúc đó làm gì mà tôi đã đọc được bốn chữ “Kính chúa Yêu Người”. Và biến cố đã in sâu vào tâm trí tôi, đến nỗi mỗi lần nhớ đến cha tôi là mỗi lần tôi nhớ đến bài học đầu tiên này và cũng là bài học mà giờ đây tôi hiểu là cần phải học mãi suốt đời cũng chưa xong: “Kính Chúa Yêu Người”. Nhìn vào những chữ ngoằn ngoèo mà tôi đã phải viết ra hay nói đúng hơn phải đồ lại cho đầy trang giấy rồi mới được đi chơi, và có thể đây là hình phạt cho tật hay khoe của tôi lúc đó. Cha tôi mỉm cười bảo: “Con phải làm sao để sống được bốn chữ này cho đến chết mới thôi”.
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nhà thông luật hôm nay phần nào cũng có thể được ta hiểu theo viễn tượng của kinh nghiệm nhỏ của tuổi thơ tôi ngày xưa. Người luật sĩ đến với Chúa Giêsu để tìm câu trả lời cho thắc mắc quan trọng nhất của cuộc đời: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời ?”. Và đây cũng là thắc mắc của mọi người, không ai có thể dập tắt được câu hỏi này trong tâm hồn họ. Tạm thời, họ có thể dẹp qua một bên câu hỏi này, vì những lo toan cho cuộc sống hoặc vì những mê lợi của lợi danh, của quyền lực… Nhưng rồi vào lúc nào đó con người và mỗi người chúng ta cũng sẽ phải đặt ra cho mình câu hỏi này: “Tôi sống đây để làm gì ? Và tôi phải làm gì để được sống đời đời ?”.
Bản tính con người là như vậy, không thể nào chối bỏ được khát vọng hướng về trời cao, đó là khát vọng căn bản sâu xa nhất của con người, của mọi người chúng ta. Chúa Giêsu đã gợi ý cho nhà thông thái trả lời đúng như Kinh Thánh dạy, mà nội dung theo tôi nghĩ không khác xa gì bốn chữ tôi đã học được từ cha tôi ngay từ khi mới bắt đầu đi học: “Kính Chúa Yêu Người”.
Đây không phải là vấn đề về hiểu biết, một người nông dân bình thường không biết chữ như cha tôi cũng biết tóm gọn luật Chúa trong bốn chữ “Kính Chúa Yêu Người” để truyền lại cho tôi. Vấn đề là nơi thực hành là phải biến đổi tâm hồn của chính mình để nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình.
Chúa Giêsu đã phải dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân lành để soi sáng cho nhà thông thái, để rồi rốt cuộc như thể chính ông cũng khám phá ra được chân lý. Chúa Giêsu không đặt vấn đề như nhà thông thái: “Ai là người thân cận của tôi”, mà Ngài đã đặt lại vấn đề: “Ai đã trở nên người thân cận của người anh em bị nạn kia”, và nhà thông thái đã trả lời đúng: “Thưa là kẻ đã tỏ ra lòng thương đối với người đó”.
Tâm hồn cần có tình thương, nhất là cần được đầy tràn tình thương của Chúa thì mới dễ dàng trở thành tâm hồn thân cận của mọi người, trở thành người anh chị em của mọi người, bất luận người đó là ai. Không phải dễ thực hiện sáu chữ của Chúa Giêsu cho nhà thông thái: “Hãy đi và làm như vậy”.
Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta hôm nay, chúng con, những đồ đệ của Ta. Chúng con phải có tâm hồn đã biến đổi bởi tình yêu Chúa, để rồi có thể trở thành người anh chị em của mọi người mà thực hiện trọn vẹn giới răn: “Kính Chúa Yêu Người”.
Cử hành Bí tích Thánh Thể, nhất là được thông phần vào Mình và Máu Thánh Chúa, được chia sẻ chính sự sống của Chúa, người Kitô có được sức mạnh mới để thực hiện tình thương trong cuộc sống của mình, trong bất cứ môi trường sinh sống nào.
Chúng ta đây, chúng ta có biết quí trọng việc cử hành Bí tích Thánh Thể trong đời sống chúng ta không ? Chúng ta có năng đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể để múc lấy sức mạnh sống tình thương đối với anh chị em hay không ? Không đến với Chúa, chúng ta cũng khó đến với anh chị em xung quanh. Xin Chúa thương nhắc nhở chúng ta, củng cố lòng mến nơi chúng ta và nhất là củng cố đức tin nơi mỗi người chúng ta, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
Về bác ái yêu thương, chúng ta đã nghe hoặc nói nhiều rồi, nhưng chắc chắn không bao giờ nói: TN 15-C4
Về bác ái yêu thương, chúng ta đã nghe hoặc nói nhiều rồi, nhưng chắc chắn không bao giờ nói đủ, nói hết hay nghe đủ, nghe hết, mà còn phải nói nhiều và nghe nhiều nữa. Nhưng nghe nói hay hiểu biết luật yêu thương thôi thì chưa đủ, mà điều quan trọng là phải làm, phải thực hiện, phải hành động yêu thương thật sự. Bởi vì, nếu Kinh Thánh nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”, thì chúng ta có thể nói: tình thương không có việc làm là tình thương dỏm, tình thương đầu môi chót lưỡi, tình thương nước bọt, tình thương chết.
Trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng khẳng định rõ ràng về yêu cầu đó. Chúa công nhận và khen người thông luật đã trả lời rất đúng luật và rất thuộc luật yêu thương. Nhưng còn thi hành thì sao ? Có lẽ ông cũng đã thi hành, nhưng chưa thi hành đúng hoặc chưa thi hành đầy đủ khi ông hỏi Chúa: “Ai là người thân cận của tôi ?”. Chúa không trả lời mà đưa ra một câu chuyện để giải thích.
Qua câu chuyện này, chúng ta đều biết ai là người thân cận của người bị nạn. Đúng, người Samari chứ không phải hai người tư tế và Lêvi, vì người Samari đã biết thể hiện tình thương. Trong khi trên thực tế, hai người tư tế và Lêvi thật sự là người thân cận của người bị nạn, vì cùng là người Do thái, đồng hương, đồng chủng, đồng đạo với người bị nạn, nhưng vì không biết thể hiện tình thương nên không còn là người anh em hay thân cận gì nữa. Trái lại, người Samari có một mối thù truyền kiếp, không đội trời chung với người Do thái, đáng lý ra ông ta phải tránh né nạn nhân, vì không có liên hệ ràng buộc nào, không cùng chủng tộc, không cùng tôn giáo, không cùng nghề nghiệp, xứ sở. Nhưng ông ta đã trở nên anh em, trở nên người thân cận của nạn nhân chỉ vì tình thương. Tình thương xóa bỏ mọi hàng rào ngăn cách. Trước mắt ông, đó là một người cần tình thương để sống và ông đã ra tay cứu giúp.
Như vậy, giới luật yêu thương không những đòi hỏi việc làm cụ thể mà còn đòi hỏi phải thể hiện đối với mọi hạng người: bất cứ ai, bất kể quốc tịch, huyết thống, đảng phái, màu da, cho dù là kẻ thù, mà gặp khó khăn, đều kêu gọi chúng ta giúp đỡ, tỏ tình thương. Nói khác đi, luật yêu thương đòi hỏi bật tung hết mọi thứ ranh giới đã bóp nghẹt nghĩa cử yêu thương, bất cứ hình thức nào cũng phải bật tung hết, để tất cả mọi người đều đối xử với nhau trên một căn bản chung duy nhất là con người mà thôi.
Chúng ta thường có khuynh hướng phân biệt xã hội thành hai loại người: tốt và xấu, bạn và thù. Kẻ xấu là người đáng xa lánh, người thù thì phải oán hận sâu sắc. Chúa Giêsu đã đánh đổ mọi thứ óc phân biệt đó: những kẻ bị xã hội loại ra bên lề đã được Ngài biến thành bạn hữu, những kẻ đồng bàn. Ngài đã không nhìn người bằng những nhãn hiệu có sẵn mà chỉ bằng hình ảnh cao quí của Thiên Chúa. Trong cái nhìn ấy, hàng rào giữa bạn và thù, giữa tốt và xấu sẽ được tháo gỡ giữa mọi người. Trong cái nhìn ấy, tất cả mọi người đều có chung một danh xưng: là anh em của nhau.
Là con cái Chúa, chúng ta phải có cái nhìn đó, chúng ta phải thể hiện tình yêu thương đối với bất cứ ai đang cần được chúng ta giúp đỡ. Họ là anh em của chúng ta, họ là người thân cận của chúng ta. Có người ở ngay sát nhà chúng ta nhưng họ không cần được giúp đỡ, đó chưa phải là người thân cận. Trái lại, có một người đâu đâu xa lạ mà họ cần sự giúp đỡ của chúng ta, và chúng ta có khả năng giúp đỡ, họ chính là người thân cận của chúng ta.
Cách đây ít lâu có người đã đặt vấn đề như sau: những người lái xe trên đường sẽ mau mắn dừng lại để giúp đỡ hạng phụ nữ nào đang gặp khó khăn dọc đường: một phụ nữ mang bầu hay một bà cụ già gầy yếu ? Một cô hippy choai choai, một chị phụ nữ đứng đắn hay một cô gái ăn mặc hở hang ? Câu hỏi này đã được một tạp chí giải đáp bằng cách tiến hành một cuộc thử nghiệm trên con đường số 1 thuộc tiểu bang Florida của Mỹ, với sự cộng tác của cô Sally Mullins, một kịch sĩ 22 tuổi. Cô Sally lần lượt hóa trang thành 5 vai phụ nữ khác nhau bị hư xe dọc đường và đang chờ đợi sự giúp đỡ của người đi đường. Kết quả của cuộc thử nghiệm như sau:
Đầu tiên với bộ y phục màu đen trang nhã, mang dáng dấp của một nữ viên chức nhà nước, cô đứng bên cạnh chiếc xe hơi với cốp xe đã được nhấc lên, dấu hiệu xe cô đang bị hư. Cô đợi đúng một phút rưỡi thì chiếc xe hơi thứ 12 đã dừng lại và sẵn sàng giúp đỡ cô. Người lái xe là một thanh niên khoảng 30 tuổi.
Kế đến, với kiểu hóa trang thành một phụ nữ mang bầu, cô Sally đứng bên cạnh xe và lần này cô phải chờ đến hai phút rưỡi và phải chờ tới chiếc xe thứ 50 mới dừng lại. Chủ xe là một cặp vợ chồng.
Tiếp đến, trong vai một bà cụ gầy yếu, cô Sally phải chờ đến năm phút và phải chờ tới chiếc xe thứ 100, đó là xe của một đôi nam nữ sinh viên dừng lại hỏi thăm và sẵn sàng giúp đỡ.
Sau đó, trong y phục của một cô gái hippy choai choai, quần din bó sát và áo chim cò, thì kết quả thật là tồi tệ: không một ai chịu dừng xe lại giúp cô.
Cuối cùng, khi nữ diễn viên khoác trên người một chiếc áo mi ni bó sát người, cô chỉ vừa bước ra khỏi xe và chưa kịp mở cốp xe lên như những lần trước, thì đã có một thanh niên hào hoa dừng xe lại phía sau và xin được giúp đỡ. Bài báo trên kết luận bằng câu hỏi: nếu bạn gặp một hoàn cảnh tương tự, bạn sẽ tình nguyện giúp hạng người nào trong số năm loại phụ nữ nói trên để xứng đáng là một môn đệ của Chúa ?
Hôm nay chúng ta cũng rất nên đặt câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi”. Chúng ta cần tìm cho được ai là người Chúa muốn chúng ta giúp đỡ ? Chúng ta cần soi mình vào tấm gương lời Chúa hôm nay xem chúng ta đã thể hiện đức ái phổ quát được tới đâu ? Hay ngược lại, chúng ta đã vô tình hoặc cố ý dựng thêm những hàng rào bất công và vô lý để khép kín chính mình hay án ngữ người khác thể hiện tình yêu thương chăng ?
Tôi xin hỏi các bạn: “Ai trong các bạn dám nói rằng: đời tôi không bao giờ yêu thương ai hay: TN 15-C5
Tôi xin hỏi các bạn: “Ai trong các bạn dám nói rằng: đời tôi không bao giờ yêu thương ai hay là không muốn một ai yêu thương tôi cả ?” Chắc chắn là không có ai dám khẳng định như vậy cả. Thật vậy, nhu cầu và khát vọng yêu thương vẫn tồn tại nơi từng con người, nhưng vấn đề được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay là: tôi yêu ai ? Yêu với một thái độ như thế nào ? Và tôi yêu để làm gì ? Những câu hỏi này ắt hẳn mỗi bạn đều đã có câu trả lời cho chính mình, đó là quan niệm riêng của mỗi người.
Hôm nay, qua trang Tin Mừng thánh Luca tường thuật cho chúng ta, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một quan niệm mới về tình yêu. Và đây cũng là điều cốt lõi cho đời sống người Kitô hữu và được đặt làm trung tâm điểm của đạo Kitô giáo chúng ta: Mến Chúa và Yêu Người. Chúa Giêsu đã đặt giới răn yêu thương này trong mối tương quan của người Kitô hữu với Thiên Chúa và với con người. Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nơi người Kitô hữu có một mối quan hệ bổ túc cho nhau để người Kitô hữu ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Thánh Gioan khi nói về mến Chúa và yêu thương anh em cũng đã viết: “Ai nói yêu mến Thiên Chúa mà không yêu anh em mình là kẻ nói dối, vì nếu họ không yêu anh em là người họ trông thấy thì làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy”.
Cũng như người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay: Thiên Chúa thì chỉ có một, nhưng tha nhân thì rất nhiều xét trên mối tương quan, qua mỗi quan điểm… từ đó anh ta bối rối khi xác định cho mình người thân cận để yêu thương. Chúng ta nhiều khi cũng vậy.
Qua dụ ngôn người Samaria tốt lành, Chúa Giêsu đã không định nghĩa thế nào là người thân cận, nhưng Ngài đã giúp ta nhận ra cho mình mẫu người thân cận của chúng ta, đó không chỉ là những người thân quen “cùng hội cùng thuyền”, cũng không chỉ là những người cùng tôn giáo, cùng chủng tộc hay cùng một quốc gia, nhưng là những người đang gặp khốn khó, những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Có thể nói khi đến gần ai – không có bất cứ một sự phân biệt nào – là lúc ta biến người đó thành thân cận của chúng ta. Nhưng thử hỏi có thể đặt một giới hạn cho tình yêu đối với tha nhân không ?
Người Việt chúng ta có câu: “Thương người như thể thương thân”. Hay như một nhạc phẩm đã diễn tả: “Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu”. Vâng, đó là tinh thần của Chúa Giêsu và là lời mời gọi của Chúa Giêsu: yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán, không lý lẽ và không đặt một biên giới nào cho tình yêu ấy. Người Samaria đã không ngần ngại đến với người xấu số kia mà không hề nghĩ đến mình có thể gặp bao điều phiền toái: hành trình bị gián đoạn và trễ hẹn, sẽ phải tốn kém, thậm chí có thể bị thiệt thân nữa vì bọn cướp đang rình rập đâu đây. Ông đã không tính toán: khi dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho tha nhân, ông không ngần ngại nhường lưng lừa để đưa tha nhân đến quán trọ và không ngần ngại dốc những đồng tiền để lo cho người bị nạn.
Yêu tha nhân như chính mình, sứ điệp Tin Mừng mời gọi ta khi đến với tha nhân hãy biết dẹp đi cái tôi của mình, phục vụ tha nhân đến nỗi có thể nói được là phải hao mòn chính bản thân mình, để người thân cận tìm được một niềm vui và an ủi.
Chuyện người Samaria tốt lành ngày xưa có còn là bài học thiết thực cho các bạn và tôi ngày hôm nay nữa không ? Thưa nó vẫn là một bài học cho chúng ta. Như với người thông luật, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta: “Hãy đi và làm như vậy để được sự sống đời đời”. Sống bác ái và dấn thân cho tha nhân vẫn ngày ngày là chứng từ sống động cho đạo tình yêu của Thiên Chúa, nó có sức mạnh cuốn hút người khác đến với Thiên Chúa.
Cha sở giáo xứ Taejou (Nam Hàn) – cha Cluny kể rằng: Khi hay tin có một người ăn xin vừa mới chết ở ngoài chợ, các bạn trẻ trong giáo xứ của ngài đã hy sinh đóng góp tiền mua hòm để lo hậu sự cho người hành khất xấu số kia. Họ đã xin phép cha xứ đem ông ta đến nhà thờ để cầu nguyện (vì ông ta cũng vừa được rửa tội), tổ chức thánh lễ và đưa ông ta đi chôn. Người dân trong giáo xứ hay tin đã đến và tham dự. Mấy ngày sau, cha xứ có việc đến một làng cách giáo xứ của ngài 30 cây số thì có hai ông lão đến gặp và nói: “Sự bác ái và kính trọng của người Công giáo đối với người chết làm chúng tôi hài lòng. Chúng tôi biết được điều Giáo Hội Công giáo đã làm cách nay mấy ngày cho người chết nơi chợ. Vì thế, chúng tôi muốn xin trở lại đạo”. Và cha Cluny kết luận: “Thật tuyệt diệu ! Các bạn trẻ trong xứ đã làm cho Giáo Hội được thiện cảm và hấp dẫn nơi con mắt của người ngoại giáo và ngay cả nơi con mắt của người Công giáo”.
Ngày nay, một xã hội đang có nhiều con người bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị bỏ sống không ra sống chết không ra chết, luôn là một thực trạng không thể phủ nhận. Nhiệt huyết của các bạn đang có, tình yêu của các bạn đang ở thời kỳ sung mãn, các bạn hãy sống làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống bác ái cụ thể và thiết thực.
“Hãy đi và làm như vậy”. Sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc tôi và các bạn nỗ lực mỗi ngày một việc làm cụ thể trong môi trường của chúng ta đang sống nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Các bạn hãy làm với một niềm tin tưởng rằng cho dù một cữ chỉ nhỏ của chúng ta đối với tha nhân là chúng ta góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa và góp phần xây dựng một nền văn minh tình thương cho thế giới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ lời với các bạn qua sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 16 vừa qua rằng: “Vậy đừng sợ đi trên con đường Chúa đi. Với tuổi trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành vốn là đặc trưng của tuổi trẻ chúng con trên ngàn năm thứ ba”. Chúng ta hãy cùng trở nên chứng tá cho tình yêu bằng hai nguyên tắc: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là một ; tình yêu tha nhân bao gồm tất cả mọi người, không loại trừ người ngoại bang hay kẻ thù.
Có nhiều người làm một việc tốt cách hết sức tự nhiên và dễ dàng. Đó là những người mà luật: TN 15-C6
Có nhiều người làm một việc tốt cách hết sức tự nhiên và dễ dàng. Đó là những người mà luật yêu thương đã ăn sâu vào con tim mình, đã trở thành máu thịt và hơi thở của mình.
Người Samaria trong dụ ngôn này là một người như thế: khi gặp một nạn nhân trên đường, anh không cần suy nghĩ gì cả mà tự nhiên xuống lừa, cúi xuống lấy dầu và rượu xoa dịu những vết thương của nạn nhân, rồi chở nạn nhân đến quán trọ, bỏ tiền ra nhờ chủ quán tiếp tục lo cho nạn nhân.
Khác hẳn với thầy tư tế và thầy Lêvi ; hai người này cũng thấy cảnh đó, nhưng đắn đo suy tính thiệt hơn. Và sau khi suy tính, họ chọn giải pháp “đi qua”. Họ thuộc luật rất nhiều đấy, nhưng luật chưa ăn sâu vào tim và chưa trở thành máu thịt và hơi thở của họ.
Làm thế nào để có lòng tốt tự phát như người Samaria ? Việc này không phải muốn là được, không phải chỉ cố gắng tập một lần mà có, mà là kết quả của việc thực thi những việc tốt nho nhỏ cách đều đặn và kiên trì. Một hành động tốt cao cả là thành quả của nhiều hành động tốt nho nhỏ đã quen làm trước đó. Phần thưởng đích thực của một hành động tốt là nó giúp ta có thể làm thêm những hành động tốt khác một cách dễ dàng hơn.
Larry Skutnik là một người có tính nhút nhát làm việc cho một công sở ở Washington. Chiều ngày 13 tháng giêng năm 1982, một trận bão tuyết rất lớn đổ xuống thành phố này. Xe anh đang trên đường về nhà thì bị kẹt trên cầu bắt qua sông Potomac. Lý do là có một chiếc máy bay chở 79 người đã đâm đầu xuống sông. Anh bước khỏi xe để quan sát và thấy có ba người đang bám vào đuôi chiếc máy bay đang chìm dần xuống nước. Một chiếc trực thăng đã đến kịp. Ba người ấy leo lên trực thăng. Nhưng chỉ 2 người bám dính, còn người thứ ba, một phụ nữ, vuột tay rơi trở lại xuống nước.
Không chút ngần ngại, Larry Skutnik nhảy tòm xuống sông, lặn xuống dòng nước lạnh cóng để tìm kiếm nạn nhân. Một lúc sau anh đã tìm được và đưa bà này lên bờ. Tất cả những diễn tiến của cảnh đó đều được thu hình và sau đó được đưa lên truyền hình. Mọi người đều ca ngợi anh là một vị anh hùng. Sáng hôm sau, một phóng viên tới phỏng vấn:
- Do đâu mà anh đã làm được một hành động anh hùng như thế ?
- Quả thực hai chữ “anh hùng” làm tôi xấu hổ quá. Tôi đâu có cố gắng gì đâu, chỉ là phản xạ tự nhiên thôi.
Anh hùng thật là người làm hành động anh hùng một cách tự nhiên như phản xạ. Người tốt thật là người làm việc tốt một cách tự nhiên.
Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước: TN 15-C7
Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo:
- Thầy không biết yêu sao ?
Vị ẩn sĩ trả lời:
- Chưa đến giờ đó thôi ?
Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị
Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:
- Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót !
Người thông luật trong bài Tin mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: “Ai là người thân cận của tôi ?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samaria tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lêvi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samaria ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.
Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật: “Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp ?” Hỏi tức là trả lời. Và người thông luật đáp: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót”. Chúa Giêsu bảo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.
Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samaria nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là “miệng nói tay làm”, làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: “Hãy đi và làm như vậy”. Pascal đã nói: “Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương”.
Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.
Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lêvi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.
Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân ! Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử ?” Trái lại, người Samaria đã đảo ngược câu hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy ?” Người Samaria tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.
Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân: Kahil Gibram có một câu nói chí tình: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”. Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.
Nỗi khát khao hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.
Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thực sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.
Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêxa Calcutta nói: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.
Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám dừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.
Alaska là một xứ sở hoang dã, cô độc, lẻ loi nhưng đẹp lạ lùng. Đó là một thánh địa cho những: TN 15-C8
Alaska là một xứ sở hoang dã, cô độc, lẻ loi nhưng đẹp lạ lùng. Đó là một thánh địa cho những du khách thích phiêu lưu. Tuy nhiên vùng đất ấy không cho phép bạn xuống tinh thần. Các thị trấn ít ỏi và xa nhau. Những người sống ở đó phải đối diện với những thời kỳ cô lập lâu dài. Đặc biệt các chủ nông trại sống một đời sống rất lẻ loi.
Một lần kia, một người Mỹ đi du lịch Alaska trong một cái nhà di động (xe kéo) thì nỗi lo sợ kinh khủng nhất của ông đã ập đến: chiếc xe làm nhà bị gãy trục, và ông rơi vào tình huống khó khăn ở giữa một nơi không rõ là nơi nào. Ông cho gia đình rời khỏi căn nhà di động và quyết định đi bộ với hy vọng tìm được một ai đó có thể giúp đỡ họ. (Thời đó chưa có điện thoại di động).
Sau khi đi được ít dặm, ông đã gặp vận may: ông đến đúng một nông trại. Ông nói với chủ nông trại về tình trạng khó khăn của ông. Chủ nông trại rất thông cảm. May thay, ông này có máy hàn. Ông kéo căn nhà di động về sân nông trại với chiếc máy kéo của ông, và sửa chữa cái trục bị gãy. Khi công việc đã hoàn tất, người du khách lấy ví tiền và nói: “Tôi nợ ông bao nhiêu ? “
“Ông không nợ tôi đồng nào”, người chủ nông trại đáp.
“Nhưng tôi thấy tôi phải trả công cho ông”.
“Ông đã trả công cho tôi rồi”, người chủ nông trại nói.
“Tôi không hiểu”, người du khách nói.
“Ông đã cho tôi niềm vui của gia đình ông trong mấy giờ liền”.
Người du khách ngạc nhiên nhưng vui sướng đã gặp một tấm lòng quảng đại như thế. Những người như thế làm chúng ta lấy lại niềm tin vào sự tốt lành, nhân từ của con người. Lòng nhân từ cũng là một mầu nhiệm như điều xấu. Nhưng ở đâu điều xấu làm đau buồn và chán nản thì lòng nhân từ làm vui mừng và đem lại cho chúng ta cảm hứng.
Tình trạng cao nhất mà chúng ta có thể đạt đến là khi lòng nhân từ trở thành một dòng nước ân sủng một cách dễ dàng, tự nhiên và không tính toán. Khi nó tuôn ra từ chúng ta mà chúng ta không nhận thấy, như một chiếc lá từ cây mọc ra. Trong trường hợp của người nông trại, rõ ràng chúng ta gặp được một hành động của lòng nhân từ tự phát. Cũng giống như trường hợp của người Samari. Rõ ràng lòng nhân từ của người Samari trở thành thói quen, tự phát, một bản tính thứ hai. Điều tốt đẹp mà người ấy làm cho người khác thì người ấy không coi là một việc gì đặc biệt. Đối với một số người, lòng quảng đại nằm trong những hành động lác đác, lẻ loi, đối với những người khác, đó là một cách sống.
Làm thế nào để một người đến được tình trạng hạnh phúc ấy? Nó không thể được hoàn thành một sớm, một chiều. Nó phải được học hỏi bằng sự thực hành lâu dài. Nó không được hoàn thành bởi một ít công việc vĩ đại nhưng bằng nhiều công việc nhỏ bé. Người ta làm những công việc vĩ đại không phải bởi sự bốc đồng nhưng bởi một loạt những công việc nhỏ được liên kết với nhau. Phần thưởng thực sự cho một hành động tốt là để làm cho việc tốt kế tiếp được dễ dàng hơn. Mỗi hành động nhỏ của ngày thường làm nên hoặc không làm nên nhân cách.
Điều gây khó chịu trong câu chuyện của Đức Giêsu không phải ở chỗ một người vô tội bị tấn công, nhưng ở sự kiện hai người mà bạn chờ đợi giúp đỡ người bị thương đi ngang qua không bày tỏ chút thương xót nào với người ấy. Một người Kitô hữu chân chính không dửng dưng trước sự đau khổ của người khác.
“Ai là người lân cận của tôi ?” người thông luật hỏi. Câu trả lời chung của thời ấy sẽ là: Người lân cận của tôi ở trong cùng bộ tộc hoặc cùng phe nhóm, tôn giáo của tôi. Nhưng lời đáp mà Đức Giêsu đưa ra là: “Người lân cận của tôi là bất cứ ai tôi chọn để trở nên người lân cận”. Lời đáp thật sự là tôi không quan niệm ai là người lân cận của tôi nhưng ai là người mà tôi muốn đối xử như một người lân cận ?
Tôi là loại người lân cận nào ? Đây là một câu hỏi mà thỉnh thoảng mỗi người chúng ta phải tự hỏi, nhưng đó là một câu hỏi mà chính chúng ta không thể tự trả lời.
Theo Tolstoy, một bi kịch không nói với chúng ta về toàn bộ đời sống của một con người. Điều đó: TN 15-C9
Theo Tolstoy, một bi kịch không nói với chúng ta về toàn bộ đời sống của một con người. Điều đó gây ra là đặt con người vào một tình huống. Rồi tùy theo cách mà con người xử sự với tình huống ấy, nhân cách của người ấy được bộc lộ cho chúng ta.
Đây đúng là điều mà Đức Giêsu thực hiện trong câu chuyện của Người. Người đặt thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari vào một tình huống. Họ được đặt trước một quyết định: hoặc dừng lại để giúp đỡ người bị thương, hoặc tiếp tục công việc của riêng họ ? Không có lối thoát cho họ, không có chỗ để trốn tránh. Họ phải dấn thân vào con đường này hoặc con đường khác. Thầy tư tế và thầy Lêvi quyết định đi qua ; người Samari quyết định dừng lại và giúp đỡ.
Khủng hoảng không tạo ra nhân cách, nó hầu như làm biểu lộ nhân cách. Trong những thời kỳ khủng hoảng, con người bộc lộ điều đã có sẵn trong tâm hồn họ: con người quảng đại hay con người ích kỷ, anh hùng hay kẻ hèn hạ. Một lúc nào đó hoặc một biến cố nào đó có thể khiến một người bộc lộ bản chất của họ. Gặp một người bị thương tích là một thời điểm cho thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari.
Điều đó đã bộc lộ điều gì về nhân cách của thầy tư tế và thầy Lêvi ? Nó bộc lộ một điều rất đáng lên án, tức là họ là những người vị ngã. Họ không quên mình để giúp đỡ người khác. Khi có sự cố xảy ra, họ đặt lên hàng đầu.
Và điều đó đã bộc lộ điều gì về nhân cách của người Samari ? Một điều rất đáng khâm phục đó là ông là một con người quan tâm chăm sóc cho người khác. Ông thuộc loại người không thể bỏ qua một người khác đang đau khổ và tìm cách làm vơi đi nỗi đau của họ.
Đời sống trắc nghiệm chúng ta liên tục. Mỗi ngày, chúng ta được trắc nghiệm bằng những cách nho nhỏ ; và thỉnh thoảng bởi những cách lớn. Những trắc nghiệm ấy cho biết chúng ta là loại người nào: người có bản chất vị kỷ, hoặc người có bản chất vị tha.
Những cơ hội lớn thường hiếm hoi, mà ít người hoàn thành. Nhưng chúng ta có được nhiều cơ hội nhỏ, những cơ hội khó nhìn thấy hơn để chúng ta bày tỏ sự chăm sóc và mối quan tâm với người khác đang cần được giúp đỡ.
Sự trưởng thành về đức hạnh được xác định không phải bởi những điều chúng ta làm trong những trường hợp phi thường, nhưng bằng thái độ bình thường của chúng ta. Chính các sự việc khiêm tốn mỗi ngày thay vì là những biến cố to lớn bộc lộ tư cách rõ nhất. Mỗi sự việc nhỏ hình thành nhân cách của chúng ta.
Làm sao để được sống đời đời? Đây là câu hỏi nhiều người đã đặt ra và cố gắng tìm câu trả lời: TN 15-C10
Làm sao để được sống đời đời? Đây là câu hỏi nhiều người đã đặt ra và cố gắng tìm câu trả lời. Đức Yêsu cũng đã được người ta đặt cho câu hỏi này, và Ngài đã không chỉ trả lời bằng lời dạy nhưng còn bằng chính cuộc sống của Ngài.
Lời Chúa ngay nơi lòng con người
Thời xưa người ta cũng ao ước được biết Lời Chúa, vì người ta tin rằng Lời Chúa đem lại cho người ta hạnh phúc. Môsê đã nói với dân chúng: Lời Chúa không ở xa con người, không ở trên trời để người ta cho rằng mình không thể lên trời nên không biết được, Lời Chúa không ở bên kia biển để người ta cho rằng xa quá không ai có thể tới để học biết và trở về dạy cho họ, nhưng Lời Chúa ở ngay trong lòng mỗi người, ở nơi miệng con người. Điều quan trọng là thực hành Lời Chúa.
Vấn đề chính yếu không phải là biết, mà là sống Lời Chúa. Mười giới răn của Chúa tóm lại nơi hai điều: yêu Chúa yêu người. Nói cho cùng, luật Chúa tóm mọi nơi giới luật “tình yêu”. Yêu tất cả mọi người, yêu đặc biệt người cần đến mình giúp đỡ như người Samaria yêu thương và giúp đỡ người bị nạn. Có thể người tư tế, luật sĩ, biệt phái biết luật nhiều hơn người Samaria, nhưng họ không sống Lời Chúa.
Ai yêu thương, là biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga.4, 8.16). Cái biết ở đây không là “biết nói” giỏi về Thiên Chúa, nhưng là “biết thực” bằng cuộc sống. Không phải cứ là nhà thần học, không phải cứ rao giảng hay về Thiên Chúa, là những người biết sâu xa về Thiên Chúa; nếu một người nói giỏi về Thiên Chúa mà họ lại sống không yêu thương, thì họ không phải là người biết Thiên Chúa thật.
Tập sống Lời Chúa
Sống Lời Chúa, không dễ. Sống giới răn yêu thương, không dễ. Đức Yêsu nói: “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là các con yêu thương nhau”. Không có dấu chỉ khác để nhận biết người môn đệ Đức Yêsu. Dấu chỉ duy nhất để nhận biết người môn đệ Đức Yêsu: “yêu thương”.
Yêu thương được biểu lộ qua nhiều khía cạnh của cuộc sống. Yêu thương bằng hành động: giúp đỡ; yêu thương bằng lời nói: dịu dàng, nâng đỡ, dứt khoát; yêu thương nơi tư tưởng: nghĩ đúng về người khác. Yêu thương được thể hiện bằng cả ánh mắt, bằng chính thái độ của cả con người. Tình yêu mạnh hơn sự chết, tình yêu có sức biến đổi con người. Tình yêu làm cuộc sống tươi hơn, đẹp hơn, vui hơn. Yêu thương làm cho người khác và làm cho chính mình triển nở và hạnh phúc hơn.
Tập yêu mỗi ngày. Thất bại là mẹ thành công. Mình muốn sống yêu thương, mà dường như con người của mình không muốn tuân theo điều mình muốn. Tình yêu không chỉ hệ tại nơi cảm tính, nhưng chính yếu nơi lý trí và ý chí; và từ đó con người thể xác của chúng ta sẽ được biến đổi. Tập nhìn, tập trả lời ngay cả khi mình không muốn; tập cười, tập lại gần khi mình không thích. Xin Chúa giúp mình, và ý thức: tự sức mình, mình không thể sống yêu thương như Chúa muốn được. Mình cần Chúa để sống yêu thương, để vượt qua chính mình, để thuộc về Chúa trong cuộc sống thường ngày.
Ai sống yêu thương, sẽ được thương yêu. Ai thấy mình không được thương yêu, hãy tự vấn xem mình đã yêu thương người khác chưa. Tập yêu, bằng cách tập chào hỏi trước, ngay cả chào hỏi người dưới mình trước. Tập cười khi họ chưa cười với mình.
Đức Yêsu- Đấng yêu thương
Đức Yêsu, Đấng đã yêu thương con người đến chết. Ngài mong rằng con người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa và đáp trả tình yêu. Ngay khi Ngài sống, tuy dù có những người ghét và tìm cách giết Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu thương và được nhiều người yêu mến. Cho đến hôm nay, Ngài vẫn là người được nhiều người yêu mến. Sở dĩ vậy, vì Ngài chỉ biết yêu thương mà thôi.
Ngài không đòi người ta kính trọng Ngài, Ngài không đòi người ta yêu mến Ngài, Ngài không đòi người ta phục vụ Ngài, nhưng Ngài yêu mến con người, phục vụ con người, tìm cách giúp đỡ con người, cả tinh thần lẫn vật chất. Những người nghèo, những người tội lỗi, những người bị xã hội coi thường và ruồng bỏ, thì Ngài tới với họ, để yêu thương và kính trọng họ.
Thiên Chúa là tình yêu. Đức Yêsu đã yêu thương như Thiên Chúa yêu thương.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có được nhiều người yêu thương không? Tại sao vậy?
2. Câu Lời Chúa nào quan trọng nhất đối với bạn? Tại sao?
3. Có người nói: đạo Công Giáo phải là đạo “tình yêu”. Bạn có đồng ý với người đó không? Tại sao?
Có hai người đàn ông đang chạy bộ ở ngoài bờ biển vào một buổi sáng. Họ bỗng ngừng lại bởi: TN 15-C11
Có hai người đàn ông đang chạy bộ ở ngoài bờ biển vào một buổi sáng. Họ bỗng ngừng lại bởi vì cả hai bắt gặp một cái đèn cổ đẹp đẽ bị chôn vùi trong cát một nửa. Một người đàn ông đã cấm lấy chiếc đèn và lau cho sạch cát. Bỗng dưng, từ trong chiếc đèn xuất hiện một ông thần. Ông thần nói, "Hai ông kia, các ông đã chà vào cái đèn thần này, tôi sẽ toại nguyện cho hai ông mỗi người một ước nguyện." Người đàn ông thứ nhất liền nói, "Tôi mong là người đàn ông thông minh nhất trên thế giới." Thần đáp, "Được, ước nguyện của ông sẽ được toại nguyện." Người đàn ông thứ hai nói, "Tôi mong là người thông minh hơn cả người thông minh nhất thế giới." Rồi thì người đàn ông thứ hai đã được hóa thành một người đàn bà.
Người ta thường nói, "Cuộc sống này đầy những điều ngạc nhiên." Hơn thế nữa, đó cũng là điều mà Phúc Âm thường nhắc đi nhắc lại: cuộc đời của Chúa Giêsu đầy những cái ngạc nhiên. Ngài đã xuất hiện trong một cái thế giới đang chờ đợi một Đấng Thiên Sai theo nghĩa chính trị để giải thoát và làm cho dân tộc được vinh dự. Tuy nhiên, khi Ngài xuất hiện thì Ngài đã nói với họ rằng Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu đau khổ, giết chết. Thật là một điều ngạc nhiên!
Ngài đã xuất hiện trong một thời đại mà con người đầy những triết lý trả thù: mắt đền mắt, răng đền răng... nhưng Ngài lại dạy rằng, hãy đưa luôn má bên kia, hãy đi với người ta thêm một dặm nữa, hãy yêu thương kẻ thù, hãy cầu nguyện cho họ. Thật là một điều ngạc nhiên!
Một thầy thông luật đến và hỏi Chúa Giêsu, "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đoạt được cuộc sống vĩnh cửu?" Chúa Giêsu trả lời ông bằng cách đặt câu hỏi, "Điều gì đã viết trong sách Luật?" "Ngươi hãy yêu thương Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức hết trí khôn ngươi... và người thân cận như chính mình," thầy thông luật trả lời Ngài. "Anh trả lời đúng, hãy làm điều đó và anh sẽ được sống," Chúa Giêsu trả lời anh. Tuy nhiên, người thông luật muốn làm cho Chúa Giêsu bị quê trước đám đông nên anh hỏi tiếp, "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" Chúa Giêsu trả lời anh bằng dụ ngôn người Samarita tốt lành...
Qua dụ ngôn đó, Chúa Giêsu muốn dạy cho thầy thông luật đó một bài học không nên hỏi câu, "Ai là người thân cận của tôi?" Ngược lại, phải hỏi rằng với ai mà tôi phải là người thân cận?" Câu trả lời là với những người đang cần đến tôi mà không kể chi đến thân phận của người đó cho dù là họ thấp kém hay là cao cả, cho dù họ thuộc về tôn giáo nào, cho dù là đến cả kẻ thù của ta nữa. Đọ là một điều ngạc nhiên!
Điều này làm cho nhiều người chúng ta không những phải ngạc nhiên nhưng còn giật mình nữa khi chúng ta phải đối diện với cuộc sống hiện tại.
Tôi phải hy sinh giúp cho kẻ thù của tôi, người mà tôi không ưa chút nào cả, người mà không có một chút gì gọi là biết điều cả? Thật là một điều không thể nào tin nổi!
Chúa Giêsu phán với chúng ta rằng: "Các con tốt hơn hết là hãy tin nếu các con muốn nhận biết ra được khả năng đầy đủ của các con. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con muốn cảm nghiệm được sự sống hoàn hảo. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con chiếm được sự bình an trong tâm trí và tâm hồn. Tốt hơn hết là các con hãy tin nếu các con muốn hưởng nếm được sự sống đời đời ở thế gian này."
Một cha xứ nọ ở nhà thờ Riverside Church tại thành phố New York kể một câu truyện như sau. Trong giáo xứ của ngài có một bà nọ rất ghét ngài. Bà ta đã đi kể tội ngài với nhiều người khác và lôi kéo họ vào hùa với bà.
Một ngày nọ, khi ngài phải đến nhà bà ấy. Ngài đã đi qua đi lại ở trước căn nhà của bà nhiều lần và mong rằng khi lên gõ cửa nhà bà thì bà sẽ không có ở nhà. Sau một hồi lấy hết can đảm, ngài đã đi lên và gõ cửa. Cho đến lần thứ ba cũng không có ai trả lời gì cả mà chỉ có một tiếng kêu nhẹ ở bên trong.
Sau đó, ngài đã quì xuống để nhìn qua lỗ khóa bởi vì ngài cho rằng hay là bà bị bệnh chăng. Ngạc nhiên thay, khi ngài nhìn qua lỗ khóa thì ngài nhìn thấy ánh mắt của bà kia. Người đàn bà đó nói, "Đây là lần đầu tiên chúng ta nhìn nhau trong khi chúng ta phải quì xuống."
Cách đây hai ngàn năm, đã có nhiều người không thèm nhìn thẳng vào con mắt của Chúa Giêsu, và cho tới bây giờ cũng thế, họ không thể nào chấp nhận được giáo huấn của Ngài. Họ nghĩ là họ thông minh hơn Ngài. Đó chính là tội nguyên tổ lại tái phạm lần thứ hai.
Sự thù ghét, khinh khi, phân biệt chủng tộc... là những cái không được tồn tại trong tâm hồn chúng ta. Hãy làm hòa, yêu thương, nhân hậu với những kẻ thân cận của mình để chúng ta có thể đón nhận ơn bình an trong tâm trí và tâm hồn như chính Chúa Giêsu đã dạy. Các bạn hãy tin điều đó.
Bài Tin Mừng hôm nay có bốn động từ làm. Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời (c.25)?: TN 15-C12
Bài Tin Mừng hôm nay có bốn động từ làm.
Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời (c.25)? - Cứ làm như vậy, ông sẽ được sống (c.28). - Kẻ đã thực thi (làm) lòng thương xót... (c.37). - Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy (c.37).
Tình yêu đòi thể hiện bằng việc làm cụ thể.
Người Samari đã chạnh lòng thương trước nạn nhân, nhưng anh không dừng lại ở tình cảm suông. Anh đã thể hiện lòng thương xót qua hành động.
Từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài.
Mẹ Têrêsa Calcutta đề nghị mỗi tối trước khi đi ngủ, ta chỉ cần xét mình nhờ nhìn vào hai bàn tay. Hôm nay tôi đã làm gì cho Giêsu và với Giêsu?
Yêu bằng hành động đòi ta nhiều can đảm.
Người Samari phải vượt qua những nỗi sợ tự nhiên. Sợ bị nhơ uế bởi đụng vào xác chết. Sợ bọn cướp còn quanh quẩn đâu đây. Sợ cuộc hành trình bị chậm trễ. Sợ những phiền lụy phức tạp cho mình. Những nỗi sợ rất khôn ngoan và hợp lý.
Nỗi sợ khiến người ta tránh qua bên kia mà đi, khi nỗi sợ ấy lớn hơn lòng thương người bị nạn.
Chỉ ai thắng được nỗi sợ mới dám ngừng lại, đến gần và cúi xuống.
Chỉ ai không sợ mới thấy thực sự.
Thầy tư tế và thầy lêvi đều thấy nạn nhân. Nhưng nỗi sợ đã khiến họ nhắm mắt làm ngơ và biến họ trở thành người không thấy.
Người không thấy điều đã thấy thì chẳng thể nào là người thân cận.
Người Samari dám đến gần, gần hơn qua cử chỉ săn sóc, và anh đã trở nên người thân cận của kẻ bị nạn.
"Ai là người thân cận của tôi?"
Đó là người đồng bào, đồng đạo, thuộc dân Thiên Chúa. Người Do Thái thời Đức Giêsu dễ trả lời như thế.
Ở cuối dụ ngôn, Đức Giêsu đã lật ngược câu hỏi trên:
"Ai là người thân cận của kẻ bị cướp?"
Chỉ cần đổi lối đặt câu hỏi, tất cả cánh cửa như mở tung, mọi hàng rào bị phá đổ.
Tôi không chỉ phục vụ cho người thân cận của tôi.
Khi tôi đến gần ai mà phục vụ thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy trở thành người thân cận với tôi. Như thế ai cũng có thể thành người thân cận của tôi, miễn là tôi dám yêu họ như chính mình.
Người Samari bị dân Do Thái khinh miệt, nhưng họ có thể sống luật yêu thương cách tuyệt vời.
Hôm nay vẫn có các Kitô hữu đi dự lễ về, nhưng sống xa lạ với đức ái Kitô giáo.
Ước gì chúng ta đơn sơ và hồn nhiên hơn khi yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những dấu hiện cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?
"Yêu người thân cận như chính mình." Yêu chính mình là một điều quan trọng. Theo ý bạn, một người yêu chính mình một cách đúng đắn là người như thế nào? Đâu là những tội phạm đến chính mình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời? Phải yêu, yêu hết mình, yêu Thiên Chúa và yêu người: TN 15-C13
Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?
Phải yêu, yêu hết mình, yêu Thiên Chúa và yêu người thân cận.
Đức Giêsu khen câu trả lời của người luật sĩ và bảo: "Hãy làm như vậy và ông sẽ có sự sống."
Để có sự sống, cần phải yêu, nghĩa là ra khỏi mình và trao hiến.
Ai không yêu là hủy hoại chính mình và người khác.
Con người được dựng nên bởi Đấng là Tình Yêu, được khuôn đúc theo hình ảnh của Tình Yêu đó, nên con người hướng về Tình Yêu như hoa hướng dương quay về phía mặt trời.
Con người chỉ thật là mình khi biết yêu thương.
Hãy yêu người thân cận như chính mình.
Nhưng ai là người thân cận của tôi? Đức Giêsu giúp ta tìm thấy câu trả lời bất ngờ qua dụ ngôn người Samari nhân hậu.
Người thân cận của tôi là mọi người đang cần đến tôi, là người hôm nay tình cờ tôi gặp trên đường.
Người thân cận là người gần tôi vì tôi đã đến gần người ấy, đã cúi xuống và phục vụ.
Không phải vì người đó là thân cận của tôi nên tôi đến gần mà phục vụ. Nhưng khi tôi đến gần bất cứ ai mà phục vụ, tôi biến mình thành người thân cận của họ.
Chẳng ai là người xa lạ với tôi, nếu tôi không tránh họ như hai thầy Lêvi và tư tế.
Người thân cận với tôi không chỉ là người cùng nhà, cùng nhóm, cùng tôn giáo, cùng quê hương, cùng lý tưởng.
Người thân cận với tôi không phải là một ý niệm trừu tượng nhưng là bà mẹ già gần bên, là người bạn chung phòng, là người hàng xóm mà tôi phải chịu đựng, là tất cả những ai đã và đang làm tôi đau khổ.
Tất cả đều có thể được tôi yêu thương và đều có thể trở nên người thân cận của tôi.
Tình yêu là một phép mầu, chỉ cần tôi dám bước tới, xích lại và cúi xuống là người lạ nên quen, người xa nên gần, kẻ thù nên bạn.
Những khoảng cách được lấp đầy, những rào chắn phút chốc sụp đổ.
Nhưng yêu không phải là chuyện dễ dù con người hôm nay cứ tưởng mình đã biết yêu.
Lúc nào cũng có cớ để người ta né tránh yêu thương. Thầy tư tế và Lêvi đều tránh qua một bên mà đi. Phải chăng họ sợ bị ô nhơ nếu đụng nhằm xác chết? Phải chăng họ sợ bọn cướp vẫn còn ở đâu đây? Những nỗi sợ làm người ta bỏ đi.
Chấp nhận là đến gần và cúi xuống là chấp nhận liều lĩnh và trả giá. Cuộc hành trình bị chậm lại, chương trình phải thay đổi. Tiền bạc, thời giờ, công sức là những điều phải trao đi. Tất cả chỉ vì chạnh lòng thương, vì con tim biết nhói đau trước nỗi khổ của người khác.
Tình yêu thực sự bao giờ cũng cụ thể: chấp nhận cả tay và người bị dơ bẩn lấm lem, chấp nhận gặp rắc rối, xáo trộn và nguy hiểm, vì Tình Yêu đòi hiến trọn con người.
Chúng ta cần thành thật nhận mình chưa biết yêu, vì yêu như thế thì vượt quá sức con người. Cần đón lấy nguồn Tình Yêu Thiên Chúa đổ vào tim ta (Rm 5,5) để tim ta trở nên mênh mông và quảng đại, để ta thi hành được điều Chúa nói:
"Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy."
Gợi Ý Chia Sẻ
Muốn có sự sống đời đời, cần phải yêu, nghĩa là mở ra trước Thiên Chúa và tha nhân. Bạn có nghĩ rằng muốn có sự sống ở đời này, cũng cần phải yêu không? Ai không yêu, người ấy đã chết ngay khi còn sống, bạn có cảm nghiệm được điều đó không?
Thế giới còn quá nhiều người lây lất, nửa sống nửa chết. Thế giới vẫn cần những người Samari dám ngừng lại và cúi xuống. Có lần nào trong đời bạn là người Samari không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
(cc.25-28) Luật sĩ là người giảng dạy về luật Do Thái. Thay vì trả lời câu hỏi của người luật sĩ, Đức Giêsu đã hỏi ngược lại để ông ta tự trả lời.
(c.29) Theo sách Lêvi, người thân cận là người cùng thuộc dân Do thái. Trong dụ ngôn này, người thân cận dùng để chỉ thái độ của một người đối với những người khác, chứ không nhất thiết phải là họ hàng, bè bạn, hay hàng xóm lân cận.
(c.30) Đường từ Giêrusalem đến Jericho là một đọan đường gập ghềnh khúc khuỵu và đổ dốc trên 3,000 bộ từ những ngọn đồi xanh chung quanh Giêrusalem xuống tới vùng sa mạc thấp hơn mặt biển ở Jericho. Đoạn đường quanh co này được bao bọc bởi những tảng đá lớn, cộng thêm những hang động gần đó đã là nơi thích hợp để bọn ăn cướp mai phục và tấn công.
(c.32) Người Lêvi phụ giúp thày thượng tế những công việc nơi thờ phượng, như trông coi các đồvật nơi cung thánh, hướng dẫn lễ nhạc, sắp chỗ, và phụ giảng. Khởi đầu họ thuộc chi tộc Lêvi, là một trong những người con trai của Giacóp, và được giao cho việc trông coi nhà thờ tổ.
(c.33) Người Samaritan là dân cư ở Samaria, là vùng nằm giữa Galilê và Giuđêa. Họ không còn là nguyên gốc Do thái nữa vì đã kết hôn với nhiềi giống dân khác. Ngoài ra họ còn có đền thờ riêng trên đồi Gerizim chứ không chịu quy thuận về đền thánh Giêrusalem. Vì những lý do này mà người Do Thái không muốn liên hệ với người Samaritan.
(cc.34-37) Trong khi người luật sĩ muốn biết ai là người thân cận của mình trước rồi mới tuân theo luật mà thương yêu kẻ đó, người Samaritan trong dụ ngôn của Đức Giêsu lại làm ngược lại. Vùng Giuđêa không phải là nơi để người Samaritan lai vãng tới, và ông có thể bị coi là thủ phạm nếu bị bắt quả tang đang ở bên cạnh nạn nhân. Vậy mà ông đã can đảm làm những điều trái với sự suy nghĩ bình thường.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn người Samaritan để lưu lại một sứ điệp hùng hồn: hãy yêu thương: TN 15-C14
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn người Samaritan để lưu lại một sứ điệp hùng hồn: hãy yêu thương tất cả, và phục vụ những ai đang thiếu thốn, ngay cả những người mà bình thường ta không muốn giao tiếp, dù cho có thể bị trái luật hoặc có thể bị bắt lỗi thay vì được ngợi khen.
Suy Niệm
Có nhiều người mà bình thường tôi tránh không tiếp xúc (những người khác với tôi về chính kiến, màu da, hạng hút sách, hạng lãnh dạo kém đức dộ, những người kém thân thiện, v.v...). Có phải vì tôi sợ bị họ khước từ, bị mất thể diện, hay bị họ lợi dụng? Hay tôi sợ bị người khác hiểu lầm và coi thường khi tôi gần gũi nhữngngười này?
Tôi có sẵn sàng can đảm để cố gắng tìm đến với mọi người và săn sóc những người đang cần được giúp đỡ?
Khi người thông luật đặt câu hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia: TN 15-C15
Khi người thông luật đặt câu hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” và tìm được câu trả lời trong Luật: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của người, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”. Chúa Giêsu trả lời: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.
Vì muốn cho người thông luật này hiểu rõ hơn thế nào là “người thân cận”, Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Samari tốt lành.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu giúp người thông luật và giúp chúng ta vượt lên trên cái nhìn hạn hẹp của mình. Người thân cận là tất cả mọi người, dù là người mình không ưa thích, không cùng màu da, không cùng tôn giáo, không cùng lập trường chính trị. Chúng ta đến gặp tha nhân với lòng bác ái và quãng đại. Như vậy, câu hỏi không còn là “ai là người thân cận của tôi?”, mà là “tôi là người thân cận của mọi người như thế nào một cách cụ thể?”
Ngày xưa, trong một làng nhỏ, tại miền Nam Trung quốc, có một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi. Khi biết em bị bệnh hủi, dân chúng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi em ra khỏi làng.
Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch, hòn đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: “ Đồ hủi! Đồ hủi!”
Với những giòng nước mắt chảy dài trên má, những lần nầy là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ buồn tủi, em bé hỏi vị cứu tinh của mình: “Tại sao ông lại lo lắng cho con?” Nhà truyền giáo trả lời:”Vì Ông Trời đã tạo dựng cả hai chúng ta, và cũng vì thế con sẽ là em gái của ta và ta sẽ là anh của con”
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi: “Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cứu giúp của ông?” Nhà truyền giáo mĩm cười đáp: “Con hãy trao tặng lại cho những kẻ khác tình yêu này càng nhiều càng tốt.”
Kể từ đó đến ba năm sau, khi em bé tắt thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương của các bệnh nhân khác trong trại cùi, đút cơm cho những người bị bệnh nặng, và nhất là em tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại. Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới 11 tuổi. Các bệnh nhân khác đã từng chung sống với em nói với nhau: “Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời”.
Tinh thần Kitô giáo được tóm gọn trong hai điểm: yêu Chúa và yêu người. Cả hai luôn đi đôi với nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng yêu mến Chúa thì càng yêu người. Công thức Phúc Âm này không thể tách rời được trong đời sống của Kitô hữu.
Thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Như thế, tình yêu tha nhân là nơi chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
Câu đầu và câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay được nhấn mạnh bởi động từ làm. Câu đầu là câu hỏi của người thông luật: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Câu cuối cùng là câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cứ làm như vậy là sẽ được sống”, nghĩa là thực thi lòng bác ái xót thương không biên giới, không điều kiện với tất cả mọi người, như người Samari trong dụ ngôn đã thực hành. Như thế, đức ái không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một điều rất cụ thể.
Chúng ta thường dễ dàng yêu thích những người hợp với mình. Nhưng Chúa Giêsu dạy chúng tá phải yêu thương mọi người, kể những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt 5:44). Đó chính là tinh thần Kitô giáo, là giới luật mới lạ nhất mà chỉ có Chúa Giêsu truyền dạy cho chúng ta. Nếu chúng ta thực hiện được điều đó, chúng ta đích thực là con cái Chúa, và chúng ta sẽ “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.
Nguyện xin Chúa Nhân lành luôn ban ơn cho chúng ta niềm vui, sức mạnh và can đảm để yêu Chúa và yêu tha nhân trong đời sống thường nhật của chúng ta, nơi Nước Trời đã bắt đầu.
Không có gì quí trọng trong cuộc sống con người bằng tình yêu. Tình yêu thường được nhắc: TN 15-C16
Không có gì quí trọng trong cuộc sống con người bằng tình yêu. Tình yêu thường được nhắc đến trong văn thơ, báo chí và nhiều tác phẩm. Không phim ảnh nào mà không đề cập đến tình yêu. Con người cũng đã dùng nhiều lời lẽ khôn ngoan để định nghĩa tình yêu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cuộc tự vẫn và chém giết xảy ra vì thất bại trong tình yêu. Kinh thánh cũng không thua kém trong việc đề cập đến tình yêu trong ý nghĩa sâu đậm nhất, tình yêu Thiên Chúa.
Các tác giả Tân Ước, nhất là thánh Luca trong Tin mừng hôm nay, luôn nhắc nhở ta rằng tình yêu mến Chúa và tha nhân không thể tách rời. Hơn nữa, thánh Gioan còn nhấn mạnh: “Ai nói mình yêu Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4:21). Tình mến Chúa yêu người có thể biểu lộ qua nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Một trong những khía cạnh đó là dấn thân cho tha nhân.
Chúng ta có thể dấn thân phục vụ tha nhân tại trường học, xưởng làm, trong cộng đồng, xóm đạo hoặc ngay trong gia đình. Nhưng đặt biệt nhất là cần phải dấn thân phục vụ những người bất hạnh đang bị xã hội quên lãnh. Tin mừng hôm nay tả lại một gương dân thân: người Samaritanô, vì dấn thân, đã cứu sống một người bị bọn cướp đả thương nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Thầy Lêvi và Tư tế đã đi qua nạn nhân cách vô ý thức vì họ không muốn dấn thân. Nhìn vào cuộc sống, chắc nhiều lần chúng ta có thái độ như thầy Lêvi và Tư tế. Ông này nên giúp đỡ gia đình nghèo đó. Bà kia nên nâng đỡ những người đang gặp khó khăn trong giáo xứ. Anh nọ nên tìm cách giúp đỡ giới trẻ đang bị hư hỏng trong cộng đồng. Luôn luôn là ông này, bà kia, anh nọ, nhưng không bao giờ là tôi. Tôi không muốn dấn thân. Tôi không muốn mất thời giờ, khả năng, sự tiện nghi và thoải mái của tôi cho người khác.
Chúa Kitô, gương mẫu của mọi Kitô hữu, đã dạy và nhiều lần làm gương dấn thân cho nhân loại. Chúa Kitô đã dấn thân cho nhân loại ngay từ đầu lịch sử cứu độ. Ngài đã hiện diện bên cạnh ta khi ta được dựng nên từ hư vô. Ngài đã hóa thành nhục thể và sống giữa chúng ta. Ngài đã trở nên giống ta mọi sự trừ tội lỗi. Chúa Kitô đã dùng bữa với bọn đàng điếm, thu thuế và nhất là đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Là những Kitô hữu, chúng ta có dám theo gương Chúa Kitô để dấn thân cho kẻ khác không? Dấn thân đòi ta phải hy sinh thời giờ, khả năng, sức lực, sự thoải mái và đôi khi cả đến tánh mạng.
Hãy nhìn vào xã hội ta đang sống. Xã hội ngày nay có rất nhiều nghèo đói và vô gia cư sống rất tất tưởi trên những hè phố. Nhiều người bị những cơn bệnh ác nghiệt hành hạ và nhiều kẻ bị áp bức, quên lãng. Họ là những người đang bị bóc lột về những sự cần thiết tối thiểu, sự tự do và nhân vị. Họ là anh chị em của chúng ta trong Nhiệm thể Chúa Kitô. Là những thành phần trong Nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta cần phải dấn thân. Đừng ngần ngại mở rộng tầm tay để phân phát khả năng, thời giờ và nhất là chính con nguời của ta cho tha nhân.
Nhờ dấn thân, người Samaritanô đã cứu sống nạn nhân bị bóc lột bên lề đường; nhờ dấn thân Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta. Chúng ta có thật sự yêu Chúa? Nếu có, ta cần phải dấn thân để cứu giúp anh chị em bất hạnh trong xã hội vì Thánh Gioan đã dạy: “Ai nói mình yêu Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (1Ga 4:21). Mỗi khi tham dự Tiệc Thánh thể, kỷ niệm việc Chiên Thiên Chúa đã dấn thân chịu chết để cứu chuộc nhân loại, chúng ta hãy suy về ý tưởng này.
Yêu Chúa và yêu người, cái nào quan trọng hơn? Đặt vấn đề như thế có đúng đắn không? Có thể: TN 15-C17
1. Yêu Chúa và yêu người, cái nào quan trọng hơn? Đặt vấn đề như thế có đúng đắn không? Có thể tách hai tình yêu ấy thành biệt lập với nhau không?
2. Tinh thần yêu thương của Đức Giê-su khác với tinh thần của Cựu Ước thế nào? Có gì mới mẻ hơn so với Cựu Ước?
3.Xét câu hỏi của Đức Giê-su: «Trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?», bạn nghĩ gì về về câu hỏi ấy? Tại sao lại «ai tỏ ra là người thân cận», chứ không nói «ai là người thân cận»?
Suy tư gợi ý:
1. Yêu thương là cốt tủy của Luật Thiên Chúa
Lề luật vốn có rất nhiều điều luật, mỗi điều luật lại có một số khoản luật, làm sao giữ luật cho trọn vẹn để trở nên công chính? Muốn thế, phải nắm được cốt tủy của lề luật. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cốt tủy của lề luật là lòng yêu thương. Theo Cựu Ước – được thầy thông luật trưng dẫn trong bài Tin Mừng hôm nay – thì có hai đối tượng của lòng yêu thương: một là Thiên Chúa, hai là người thân cận. Nhưng trong Tân Ước, đặc biệt trong các thư của Phaolô và Gioan, thì hai đối tượng ấy được tổng hợp lại thành một thực tại duy nhất có hai mặt, tương tự như một tờ giấy duy nhất có hai trang gắn liền nhau không thể tách rời. Yêu Chúa và yêu người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Do đó, yêu Chúa đích thực tất nhiên phải yêu người, «ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người là kẻ nói dối» (1 Ga 4, 20). Thánh Phaolô tóm cả lề luật vào một mối duy nhất là yêu người: «Tất cả lề luật được tóm gọn trong một điều này: Hãy yêu người lân cận như chính mình» (Gl 5, 14), vì yêu người đích thực thì đã bao hàm yêu Chúa trong đó rồi. Nói khác đi, yêu người chính là yêu Chúa, miễn sao tình yêu đó là đích thực, nghĩa là vô vị lợi: yêu người, hy sinh cho người không vì một lợi lộc nào cả, thậm chí không phải để được Thiên Chúa thưởng. Nếu yêu người là để được Thiên Chúa thưởng mình, hay vì một lợi lộc khác của mình thì suy cho cùng hóa ra đó là mình tự yêu bản thân mình chứ đâu phải mình yêu người. Yêu kiểu ấy là một hình thức vị kỷ, chứ đâu phải là tình yêu!
2. Yêu thương là giữ trọn lề luật (x. Gl 6,2)
Chúng ta đang sống thời Tân Ước, vì thế chúng ta không nên sống theo tinh thần của Cựu Ước. Thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn sơ khai, thấp kém, nên tiêu chuẩn để nên công chính vào thời đó là sống sao cho đúng với lề luật. Càng giữ đúng luật bao nhiêu thì càng công chính bấy nhiêu. Vì thế, những người Pharisiêu là những người hoàn chỉnh nhất theo tiêu chuẩn này: họ cố giữ luật sao cho đúng từng chi tiết, từng dấu phảy một. Tuy họ giữ đúng lề luật tôn giáo từng ly từng tý, đến nỗi có thể nói rằng khó có ai giữ lề luật chi ly hơn họ, nhưng Đức Giê-su đã nhận ra rằng trong lòng họ không có tình yêu, trái lại chỉ có lòng ích kỷ. Nếu họ có giúp đỡ ai, hy sinh cho ai, thì ý hướng khiến họ làm điều ấy là vì lề luật khuyên hay buộc như vậy, vì họ nghĩ: có làm như vậy thì mới là người công chính, và mới được Thiên Chúa ân thưởng. Họ giúp đỡ, hy sinh cho người khác rất nhiều, mà lòng họ có thể chẳng yêu thương người ấy bao nhiêu. Họ làm mọi sự vì lề luật đòi hỏi, chứ không phải tình yêu đòi hỏi.
Tới thời Đức Giê-su, Ngài thấy Dân Chúa đã sống trong trình độ tâm linh ấy cả ngàn năm rồi, bây giờ Ngài phải nâng trình độ ấy lên. Tiêu chuẩn để nên công chính bây giờ phải được nâng cao hơn: không nên làm vì lề luật buộc, mà vì tình yêu đối với tha nhân đòi buộc và thúc đẩy. Vì thế, Ngài nói: «Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt 5,20). Ý của Ngài không phải muốn chúng ta giữ lề luật nhiệm nhặt hơn người Pharisiêu, vì chẳng mấy ai giữ luật tài hơn họ. Ngài muốn chúng ta công chính hơn họ ở chỗ có tình yêu bên trong, và làm mọi sự vì yêu thương chứ không phải vì lề luật buộc phải làm như thế. Điều đó không có nghĩa là Ngài đả phá lề luật, mà trái lại là làm cho lề luật hay việc giữ luật nên hoàn chỉnh hơn: giữ luật vì tình yêu, đưa tình yêu vào trong lề luật. Một khi đã có tình yêu đích thực, thì như thánh Âu-Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm». Tình yêu sẽ cho ta biết ta phải làm gì. Theo thánh Phaolô thì lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu, mà cho người không có tình yêu: «(9) Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ, sát nhân, (10) dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh» (1 Tm 1,9-10).
Nếu không có tình yêu, thì việc làm theo luật có tốt đẹp đến đâu cũng vô giá trị. Thánh Phaolô nói rất rõ: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1 Cr 13,3). Đem hết gia tài ra bố thí cho người nghèo là một hành động có vẻ đầy yêu thương, nhưng nó vẫn có thể phát xuất từ một động lực hoàn toàn vị kỷ, chẳng có chút tình thương nào: bố thí để mọi người khen, nể phục, để được mang tiếng là thương người, là đạo đức.
3. Hai thái độ giữ luật trong dụ ngôn người Samari tốt lành
Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy có hai thái độ giữ luật:
– Một là của thầy tư tế và thầy Lêvi, tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Theo họ, trong lề luật, không có khoản nào qui định cụ thể phải cứu giúp người trong hoàn cảnh như thế này cả. Trái lại, có những khoản qui định cụ thể về sự sạch sẽ: «(Tư tế lớn nhất trong hàng anh em) thì không được đến gần người chết, và không được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay vì mẹ mình» (Lv 21,11). Như vậy, nếu mình không cứu người ấy thì mình chẳng lỗi luật, còn nếu đụng đến người ấy mà lỡ người ấy chết trên tay mình, thì mình ra ô uế, không được tế lễ hay ăn bánh thánh. Thái độ lãnh đạm của họ đối với người bị nạn quả là có lý vì họ nghĩ: điều quan trọng là làm theo Lề Luật, chứ không phải là làm theo sự đòi hỏi của tình yêu. Vả lại, Lề Luật nói: «Phải yêu người thân cận như chính mình» (Lv 19,18), chứ phải yêu bất cứ người nào đâu! Nếu có tình yêu thì tình yêu ấy chỉ dành cho người lân cận, nghĩa là sống gần mình mà thôi.
– Hai là của người Samari, tượng trưng cho những người không sống theo Lề Luật: trong họ, những người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Do đó, thấy người bị nạn thì người Samari tốt lành này động lòng thương, lương tâm và tình thương đồng loại đã thúc đẩy anh ta cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn, bất chấp nạn nhân là người Do Thái, thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc anh. Cách hành xử đầy yêu thương của anh mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Đức Giê-su đưa ra dụ ngôn này để trả lời cho câu hỏi của anh chàng thông luật: «Nhưng ai là người thân cận của tôi?». Theo câu hỏi mà Đức Giê-su đưa ra sau dụ ngôn: «Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?», thì vấn đề không phải là ai là người thân cận để mình yêu thương, mà là phải tỏ ra mình là người thân cận với mọi người, bằng cung cách xử sự đầy yêu thương với họ. Kinh nghiệm tôi cho thấy: khi có ai tỏ tình yêu thương tôi bằng những hy sinh cụ thể, dù người ấy là người tôi chưa hề quen biết hay ở xa tôi vạn dặm, thì hành động yêu thương ấy làm cho người ấy và tôi trở nên gần gũi nhau, thân mật với nhau. Tình yêu thương và sự hy sinh ấy càng lớn thì sự gần gũi ấy càng tăng lên, thậm chí đi đến chỗ coi nhau như ruột thịt. Trái lại, dù gần gũi, dù là họ hàng, máu mủ, ruột thịt mà không yêu thương nhau, thì lại trở nên như kẻ xa lạ. Như vậy, theo tinh thần của Đức Giê-su, chúng ta phải biến tha nhân thành ruột thịt, thành gần gũi với mình bằng cách cư xử đầy yêu thương với họ, hơn là chọn lấy những người nào là ruột thịt hay gần gũi với mình để yêu thương. Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin cho con một tình yêu đích thực, vị tha, làm động lực thúc đẩy cho mọi hành động của con. Cho con biết thật sự quên mình được thể hiện bằng những hy sinh cụ thể cho tha nhân, vì đó chính là dấu chứng của tình yêu đích thực mà con cần có để nên công chính.
Tôi phải LÀM gì để được sống đời đời?”. Bài Tin Mừng bắt đầu bằng một lời hỏi thử Chúa Giêsu: TN 15-C18
“Tôi phải LÀM gì để được sống đời đời?”. Bài Tin Mừng bắt đầu bằng một lời hỏi thử Chúa Giêsu của một nhà thông luật, với một động từ chủ chốt cho chính lời hỏi ấy: “LÀM”. Cũng với động từ chủ chốt ấy, bài Tin Mừng kết thúc bằng một câu trả lời xác định, và là một lời sai đi, một trách nhiệm cho một sứ mệnh của kẻ muốn sống đời đời: “Ông hãy đi và LÀM như vậy”.
“Làm” là một hoạt động không ngơi nghỉ, gắn kết với ta suốt cả đời. “Làm” có thể đưa ta đến đỉnh cao của danh vọng, của nhân phẩm. Nhưng cũng do “làm”, người ta có thể tự bán đứng chính mình như một thứ hàng xa xí phẩm cho những đổ vỡ lương tâm, cho bao nhiêu thất bại luân lý. Có khi người ta “làm” những điều tồi tệ không thể tưởng tượng, ngay cả thủ đoạn, nặng hơn, độc ác để mua lấy quyền cao chức cả, điều mà bên ngoài nhìn vào ai cũng cho rằng, họ là những người có địa vị, có giá trị cao, thực chất đó là những cọng rác thối không gì bằng. Chính vì vậy, “làm” có thể cho chúng ta cuộc sống đời đời. Nhưng cũng chính do “làm”, ta trở thành kẻ đáng lãnh án chết đời đời.
Vậy, “làm” để đạt sự sống đời đời là làm gì? Hay như một người đã hỏi Chúa Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”. Rất đơn giản, muốn sống đời đời, chỉ có mỗi một việc làm duy nhất: YÊU! Yêu Chúa và yêu người. Nói là đơn giản, nhưng để làm được những gì đã nói, là cả một khoảng cách rất lớn. Nhất là khoảng cách ấy thuộc về lãnh vực đức tin, lãnh vực của giáo huấn đến từ Thiên Chúa. Chỉ có một đời sống chìm trong đức tin mới có thể rút ngắn dần cả một khoảng cách lớn lao ấy. Chính trong ý nghĩa này mà thánh Augustinô mới dạy rằng: “Hãy yêu rồi làm”. Cũng chính vì phải yêu rồi hãy làm, chúng ta cần nhắc nhớ cho nhau rằng: Nếu phải làm, thì hãy làm trong tình yêu.
Yêu và Làm. Nói như thế vẫn chưa là cụ thể. Chúa Giêsu không dừng lại ở một giáo trình nào, dẫu lý thuyết mà Người dạy là điểm trọng tâm đi nữa. Người đã đưa ra một bằng chứng cụ thể để giải quyết thấu đáo cho vấn đề yêu - làm, vấn đề nền tảng của sự sống đời đời. Bài học cụ thể mà Chúa hướng dẫn là: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô...” (Lc 10, 30-37). Bài học ấy, câu chuyện người Samari nhân hậu ấy, là bằng chứng của tình yêu. Nếu hôm nay, bạn và tôi có được những nghĩa cử yêu thương như nghĩa cử lớn lao, thật cảm động của người Samari, bạn và tôi đã là người biết yêu và sống yêu: Yêu Chúa, yêu người. Vì yêu Chúa, đòi ta phải sống cho anh em. Và sống cho anh em là bằng chứng lòng ta yêu mến Chúa.
Sau khi đưa ví dụ về người Samari nhân hậu như một bằng chứng của lòng yêu thương, Chúa Giêsu kết luận bằng một lời ban mệnh lệnh: “Ông hãy đi và làm như vậy”. Có nghĩa là: “Ông hãy bắt chước người Samari nhân hậu sống đời sống bác ái yêu thương, để chính ông sẽ được sống đời đời”.
Nếu động từ “làm” ở câu đầu tiên, người thông luật đặt ra chỉ để hỏi thử Chúa Giêsu, “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”, thì ở câu cuối cùng, Chúa cũng trả lời bằng động từ “làm”: “Ông hãy đi và làm như vậy”, thì câu trả lời này, không chỉ là trả lời thật, nhưng còn là câu trả lời mở ra một sứ mạng cho những ai xưng mình là người Công giáo.
Nếu Chúa nhật tuần rồi, Giáo Hội cho chúng ta suy niệm bài Tin Mừng về việc Chúa chọn bảy mươi hai môn đệ và sai đi rao giảng Lời Chúa, thì sứ mạng sống và làm chứng cho Lời của Người, không thể không có đức bác ái, lòng mến yêu làm nền tảng. Vì không ai có thể hiểu nổi, một người chuyên cao rao Lời Chúa, dạy giáo lý rất hay cho anh chị em, giảng thuyết rất thuyết phục người nghe..., lại là người xơ cứng trước nỗi đau của anh chị em, không có một chút tình yêu nào đối với đồng loại, không bao giờ thực hiện một nghĩa cử yêu thương cho bất cứ anh chị em nào... Nếu lời nói là một trời, còn thái độ sống là một vực như thế, thì tất cả những gì mình nói và sống chỉ là phản chứng của Tin Mừng, chỉ là sự chống đối chính Lời của Thiên Chúa mà thôi.
Như vậy, đức ái chính bằng chứng cho biết một người có sống Tin Mừng của Chúa hay không. Nói cách khác, nhìn từ một góc cạnh nào đó, chính đời sống ba1ca1i là lời rao giảng Tin Mừng hùng hồn nhất, thu hút nhất. Vì rao giảng Lời Chúa, không phải là trao cho người thụ nhận một mớ kiến thức, nhưng là trao cho họ một bằng chứng sống. Nhưng có bằng chứng nào đẹp cho bằng chính đời sống chứng tá của người rao giảng!
Xin cho bạn và tôi là những người Samari của thời đại này, biết “yêu” và biết “làm”, để tất cả chúng ta trở nên dấu chỉ hữu hiệu cho Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Kitô. Vậy chúng ta cùng thành tâm dâng lên Chúa một lời nguyện, ai đó đã từng cầu nguyện thế này: Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng, cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim dược lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng, cần phải nối dòng tay lớn, xuyên qua các đại dương và lục địa, để vòng tay của người được nối với người. Sau hết, tất cả những vòng tay ấy nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá, giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
Càng đồng hành với Chúa Giêsu trên hành trình tiến về Giêrusalem, chúng ta càng hiểu rõ hơn: TN 15-C19
Càng đồng hành với Chúa Giêsu trên hành trình tiến về Giêrusalem, chúng ta càng hiểu rõ hơn ý nghĩa mà Chúa muốn thực hiện khi cương quyết đến nơi mà Người biết chắc sẽ chịu nhiều đau khổ, sỉ nhục và bị giết chết. Tin mừng hôm nay giúp chúng ta khám phá ra rằng con đường tiến về Giêrusalem của Chúa nhất thiết phải là con đường của tình yêu, con đường của cảm thông và chia sẻ với đồng loại. Với dụ ngôn người Samari tốt lành, hẳn Chúa Giêsu muốn mở ra cho chúng ta giới luật yêu thương đồng loại cách nhưng không.
Câu hỏi mà nhà thông luật đưa ra để thử Chúa Giêsu liên quan đến việc “phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Đây chính là thâm ý của viên thông luật. Ông ta muốn làm thầy dạy về đường chân lý cho Chúa Giêsu. Chúng ta biết, lối giáo dục trong xã hội Dothái cũng như Hylạp xưa theo trình tự mô phạm là thầy giáo đặt câu hỏi, trò trả lời và cuối cùng thầy đưa ra nhận định đúng sai của vấn đề. Thấy được như thế, chúng ta mới hiểu ý định thâm độc của nhà thông luật kia. Ông ta tưởng rằng, là thầy, ông có quyền hỏi Chúa Giêsu và dĩ nhiên Chúa Giêsu phải trở thành học trò trả lời điều ông muốn dạy dỗ để rồi sau đó ông sẽ đưa ra nhận định đúng sai cho vấn đề. Trả lời bằng một câu hỏi, Chúa Giêsu đã chuyển đổi vai “thầy - trò” trong cuộc đối thoại với viên thông luật. Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng câu hỏi của Người đặt nhà thông luật vào một nước cờ không thể không trả lời và, thật hài hước làm sao, viên thông luật tưởng sẽ làm thầy Chúa Giêsu thì giờ đây đành cúi đầu làm trò, ngoan ngoãn làm bài thi vấn đáp về môn học luân lý tôn giáo.
Câu hỏi của Chúa Giêsu với nhà thông luật quả là không khó đối với ông. Dựa vào sách Đệ nhị luật và Lêvi, ông đã trả lời vanh vách vấn đề Chúa nêu ra: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình” (x. Đnl 6,4; Lv 19,18). Nhà thông luật quả là một học trò xuất sắc. Câu trả lời của ông được Chúa Giêsu khen ngợi. Đàng sau lời nhận định theo đúng môtíp sư phạm mà Chúa Giêsu đưa ra cho nhà thông luật, chúng ta còn thấy một sự chuyển biến tâm lý đối với nhà thông luật này. Thật thế, câu hỏi tiếp theo của ông “Nhưng ai là người thân cận của tôi” làm cho chúng ta hiểu rằng nhà thông luật giờ đây không còn ý định thử Chúa nữa mà thực tâm muốn tìm hiểu vấn đề - điều không còn nằm trên bình diện lý thuyết như truyền thống đã nêu mà trên bình diện thực hành. Thế nhưng làm sao để hiểu thế nào là người thân cận của mình? Hẳn chúng ta biết, đối với người Dothái, người thân cận chỉ gồm những ai thuộc chủng tộc Dothái mà thôi. Điều này đã được nói đến trong Kinh thánh (x. Lv 19, 11.13.15.18). Dụ ngôn người Samari tốt lành sẽ giúp cho viên thông luật nhận ra cái nhìn hẹp hòi của mình, đồng thời cũng là câu trả lời cho chúng ta về điều mà nhà thông luật thắc mắc.
Đoạn đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô dài khoảng 25 km đi qua nhiều đoạn đèo dốc hiểm trở. Bọn cướp thường lợi dụng địa hình hiểm trở này để ra tay cướp của giết người. Một người chẳng may bị bọn cướp trấn lột, bị đánh đập nhừ tử và đang rất cần sự trợ giúp của người khác.
Cứ theo mạch văn Tin mừng, thì người lâm nạn đúng là một người Dothái. Và, cũng theo quan niệm của Dothái giáo thì con người khốn khổ này hẳn sẽ là ưu tiên hàng đầu đối với bất cứ người Dothái nào gặp phải. Thế nhưng, lạ lùng thay, những bậc vị vọng trong giới thượng tế Dothái giáo là Tư tế và Lêvi lại tỏ ra ghẻ lạnh, thờ ơ đến ngay cả đồng loại của mình! Các ông trong giới thượng tế này không phải không trông thấy đồng loại mình đang quằn quại rên xiết bên vệ đường, nhưng điều gì khiến các ông tỏ ra lạnh lùng đến thế? Đơn giản là vì các ông đã quá chú trọng đến khoản luật cấm được ghi trong sách Dân số khi nói đến việc chạm tay vào xác chết, vào người bị đả thương,… thì sẽ bị ô uế trong 7 ngày (x. Ds 19, 11-13.16). Thế nhưng thưa các ông Tư tế và Lêvi, chẳng lẽ các ông lại không nhớ lời Giavê Thiên Chúa nói qua miệng ngôn sứ Hôsê ư, rằng Người chỉ “muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (x. Hs 6,6)? Các ông đã quên mất điều trọng yếu này trong phần thực hành giới luật của mình.
Ngược lại với các nhà thượng tế, người Samari vốn được xem là kẻ đa nguyên về tôn giáo, lai căng về chủng tộc và được người Dothái xem là kẻ xa lạ, cần tránh xa bao có thể lại trở nên khuôn mẫu về lòng nhân từ. Có một thực tế là, điều mà mọi người cho là thân thuộc lại trở nên xa lạ và, kẻ bị xem là xa lạ lại trở thành thân thuộc. Sở dĩ có sự đảo lộn trật tự này chung quy cũng chỉ ở cách nhìn nhận vấn đề và tấm lòng yêu mến đồng loại.
Gặp người hoạn nạn, người Samari đã không suy nghĩ, không lý luận xem “ai là người thân cận, là anh em tôi” rồi mới hành động. Anh chỉ nhìn ra một con người đang đau khổ, cần được cứu giúp mà không xem xét gốc gác của người ấy có đồng chủng tộc, có đồng quan điểm, chính kiến với mình hay không. Người Samari hành động ngay lập tức là cứu giúp nạn nhân và chính hành động này, anh đã trở nên người thân cận, người anh em của nạn nhân. Đối với Chúa Giêsu, khi gặp người hoạn nạn khốn khổ không phải là lúc ngồi xuống để hỏi xem họ có phải “là người thân cận của tôi” hay không, mà là xắn tay áo lên hành động với một trái tim đầy tình yêu mến. Những động tác thuần thục của người Samari khiến chúng ta thấy dường như anh không phải làm công việc này lần đầu mà là nhiều lần, rất quen thuộc như là thói quen, như là hơi thở của mình vậy. Anh đã yêu thương người bị nạn như chính mình. Anh đã hy sinh tất cả chỉ mong sao mọi điều tốt lành sẽ đến với người kém may mắn.
Giáo huấn của Chúa Giêsu về lòng nhân ái thật rõ ràng, không cầu kỳ khó hiểu nhưng rất thực tế. Thiên Chúa không phải là Đấng ở trên cao để con người ngưỡng mộ tôn kính mà là Đấng đang ẩn mình ngay trong chính những người bị thương, khốn khó, nằm vất vưởng bên vệ đường. Tình yêu chân thành của chúng ta đối với Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện khi và chỉ khi chúng ta yêu thương những con người gặp khốn khó, bệnh hoạn tật nguyền. Đối với Chúa Giêsu, người thân cận là người thực thi lòng nhân ái bao dung chứ không phải người chỉ biết hưởng thụ lòng xót thương.
“Hãy đi và cũng hãy làm như vậy” là lời nhắn gửi của Chúa Giêsu không chỉ cho nhà thông luật mà còn cho chính mỗi người chúng ta đang sống trong một xã hội đang mất dần lòng nhân hậu và sự bao dung. Ước gì mỗi bước chân của người Kytô sẽ vang vọng lời mời gọi của Chúa là thực thi Đức ái giữa lòng nhân loại.
Trong một giờ học giáo lý, có một bạn trẻ đã nói với tôi rằng: “Theo đạo là một gánh nặng,: TN 15-C20
Trong một giờ học giáo lý, có một bạn trẻ đã nói với tôi rằng: “Theo đạo là một gánh nặng, bởi vì phải giữ quá nhiều lề luật”. Vâng, nếu theo đạo chỉ để giữ luật, thì đúng là một gánh nặng mà không ai trong chúng ta có thể chu toàn nổi. Nào là 10 điều răn của Chúa, 6 luật điều Hội Thánh, đó là chưa nói đến 1752 khoản trong cuốn Giáo Luật. Chỉ nguyên một việc nhớ thôi cũng đủ mệt rồi, chứ đừng nói gì đến việc giữ. Tương tự như vậy, vào thời Chúa Giêsu với 613 khoản luật, trong đó có 365 điều cấm và 248 điều truyền phải giữ, rồi mỗi điều lại phân ra các quy luật nặng nhẹ, và với thời gian còn có khuynh hướng tăng thêm với nhiều chi tiết thật rối rắm làm thành một gánh nặng nề trên dân chúng thời bấy giờ (x. Mt 23, 4; Cv 15, 10). Do đó, trong bài Tin mừng hôm nay, một người thông luật đã phải đến để hỏi Chúa, đâu là giới răn trọng nhất.
Đáp lời anh ta, Đức Giêsu đã đưa ra một giới răn duy nhất, với một chữ duy nhất: Yêu. “Yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình ngươi”.
Như thế, bước chân theo Thiên Chúa, theo Đức Giêsu không chỉ là giữ luật, nhưng là một dấn bước đi vào con đường tình yêu. Một tình yêu đến độ sẵn sàng hiến mạng sống cho người mình yêu: Yêu Chúa, yêu mình và yêu người. Hay nói theo cách nói của các chương trình quảng cáo hôm nay, thì đây là một giới răn: “Ba trong một”, “Tất cả trong một”, trong một chữ Yêu. Và với cái nhìn của tình yêu, thì chẳng còn có điều gì là nặng nề, mệt nhọc.
1. YÊU CHÚA:
Trước hết là Yêu Chúa. Đây phải là nền tảng và là điểm xuất phát đầu tiên cho đời sống đạo của mỗi người kitô hữu chúng ta. Chúng ta cần yêu mến Thiên Chúa với một tình yêu không giới hạn, yêu Thiên Chúa với cả con người của chúng ta. Tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa không phải là mối tương quan giữa chủ nhân và đầy tớ, nhưng là một mối tương quan giữa cha mẹ và con cái. Trong mối tương quan đó không có chỗ cho những lề luật, nguyên tắc trên giấy tờ, nhưng tất cả phải phát xuất từ tình yêu. Và để diễn tả điều ấy, Đức Giêsu nói với người thông luật: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi”.
Chúng ta cần ý thức việc chúng ta giữ luật không chỉ là vì sợ tội, nhưng luật lệ được đặt ra là để giúp chúng ta thể hiện lòng yêu mến của mình, như việc giữ ngày Chúa Nhật chẳng hạn. Chúng ta có thể nói mình yêu Chúa hết lòng được không, khi mà suốt cả tuần lễ chẳng đến gặp người yêu của mình bao giờ? Và nếu mỗi lần đến gặp người yêu, chúng ta lại cứ nhấp nhổm mong sao cho chóng hết giờ, thì thiết tưởng đó chưa phải là thái độ của một người đang yêu. Đối với người đang yêu không có luật lệ, và cũng chẳng có lý luận, họ chỉ có những việc làm để minh chứng tình yêu của họ. Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy dùng chính đời sống của mình qua y phục, thái độ, khi tham dự phụng vụ, để minh chứng cho mọi người thấy mức độ yêu mến Thiên Chúa của chúng ta.
2. YÊU MÌNH:
Điểm thứ hai tôi muốn chia sẻ với quý OBACE., đó là việc yêu mình. Nói đến yêu bản thân mình, có lẽ nhiều người trong chúng ta cảm thấy hơi thừa, vì ai mà chẳng yêu mình, không yêu mình thì yêu ai? Tuy nhiên, đây lại là một vấn đề quan trọng, bởi lẽ trong bài Tin mừng, Đức Giêsu mời gọi chúng ta “thương mến anh em như chính mình”. Do đó, chúng ta có biết thương yêu bản thân mình thật sự, chúng ta mới có thể biết cách để yêu mến anh chị em cho đúng.
Chúng ta có thể nói rằng mình đang yêu mình không, khi mà chúng ta đang phung phí sức khoẻ bởi các cuộc nhậu, bởi rượu chè quá độ? Chúng ta có thể nói rằng mình đang yêu mình không khi cứ mãi lười biếng, chẳng chuẩn bị cho mình một hành trang nào để vào đời? Chúng ta có thể nói rằng mình yêu mình không, khi mà chúng ta chẳng có một kế hoạch gì cho tương lai, suốt ngày ngồi trên chiếu bạc, bên ly rượu… cứ mãi sống một cuộc sống của cánh bèo trôi trên dòng chảy của cuộc đời, nay đây mai đó?
3. YÊU NGƯỜI:
Là một kitô hữu, chắc ai trong chúng ta cũng đều biết rằng: yêu người là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu, để thẩm định tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Bởi lẽ nói yêu mến Thiên Chúa là điều thật dễ dàng cho hết thảy chúng ta, vì khi nói như thế, chúng ta không hề mất mát gì, trái lại còn được nhiều người khen là đạo đức sốt sắng. Do đó, nếu lòng yêu mến Thiên Chúa của chúng ta chỉ dừng lại ở một vài việc đạo đức, dâng cúng một số tài sản, thì đó chưa phải là lòng mến Chúa đích thực, nhưng chỉ là lúc chúng ta đang vun vén cho chính bản thân mình, để được mọi người ca tụng và khen ngợi. Lòng yêu mến Thiên Chúa thật phải được thể hiện qua tình yêu mà chúng ta dành cho anh chị em, những người mang hình ảnh Thiên Chúa đang sống xung quanh chúng ta, những người đã được giao hoà với Thiên Chúa “nhờ máu của Đức Kitô đổ ra trên thập giá”.
Đây là một điều khó, rất khó và chúng ta cũng thường tìm mọi cách để biện minh cho những cách sống thiếu yêu thương của chúng ta đối với anh chị em của mình. Chính người thông luật trong bài Tin mừng hôm nay cũng thế. Khi nghe Đức Giêsu nói đến việc “thương mến anh em như chính bản thân mình”, thì cũng lập tức bào chữa rằng: “Nhưng ai là anh em của tôi?”. Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu đã kể một câu chuyện thật cụ thể: có người đi đường rơi vào tay bọn cướp. Bọn chúng đã cướp đi tất cả tài sản của người này, thậm chí còn đánh anh sống dở, chết dở rồi bỏ mặc bên vệ đường. Lúc đó, có hai người đi ngang qua, một thầy tư tế và một trợ tế, nhưng cả hai đã bỏ đi qua. Nhưng tình cờ có một người Samaria đi đường trông thấy đã dừng lại, băng bó và đưa nạn nhân đến quán trọ và tự nguyện chịu mọi phí tổn để chăm sóc cho nạn nhân.
Kết thúc câu chuyện, Đức Giêsu đã hỏi lại người thông luật: “Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?”. Và cũng chẳng phải đắn đo gì nhiều, người thông luật đã đưa ra ngay câu trả lời: “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”. Và Đức Giêsu đã bảo với anh ta: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy”.
“Hãy đi và làm như vậy”, Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta chứng tỏ tình yêu của mình đối với tha nhân cách cụ thể bằng cách sẵn sàng đưa tay giúp đỡ người anh em chúng ta mỗi khi họ cần, chứ đừng lý luận xem thử họ có phải là anh em, là người chúng ta ưa thích hay không. Chính vì thế, thánh Gioan, trong thư thứ nhất của ngài, đã căn dặn chúng ta: “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3, 18). Thánh nhân còn cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa việc yêu người và yêu Thiên Chúa: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4, 20).
Tóm lại, lời Chúa hôm nay mời gọi từng người chúng ta hãy làm mọi sự trên nền tảng của Tình yêu. Đứng trước mỗi việc, mỗi con người chúng ta hãy tự hỏi, nếu đó là người tôi đang yêu, tôi sẽ đối xử như thế nào với họ? Và nếu lề luật của Thiên Chúa chỉ là một chữ Yêu thì thật đúng như lời sách Đệ Nhị Luật: Lời Chúa “không quá sức…Không phải ở đâu trên trời… cũng không phải ở bên kia biển… Nhưng lời ở sát bên các ngươi, nơi miệng các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi”. Chớ gì mỗi người chúng ta luôn cảm nghiệm được như vậy. Amen.
Ai là người thân cận của tôi?". Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng của: TN 15-C21
1. "Ai là người thân cận của tôi?". Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng của ông:
- Ông muốn tìm một câu định nghĩa về "người thân cận". Người Do Thái thời đó hiểu "người thân cận" chỉ là những đồng bào Do Thái với mình.
- Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.
2. Dụ ngôn người Samari phản ảnh chiều hướng của Chúa Giêsu:
- Định nghĩa về "người thân cận" không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)
- Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm...). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này một người là Do Thái một người là Samari.
- Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (câu 36)
B.... nẩy mầm.
1. "Sống ở đời, ai ai cũng có những lúc tối lửa tắt đèn, có lúc lá rách cần lá lành, có lúc chị ngã em nâng. Sống ở đời, ai ai mà không cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực hiện tình yêu. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong một khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp. Cho nên cũng vì vậy mà trần gian mất đi nhiều nguồn vui thật" (Trích "TMCGK ngày trong tuần")
2. "Bác ái là thẻ thông hành có giá trị nhất để vào Nước Trời". "Bác ái đích thực không tra vấn, không đặt câu hỏi" (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. Trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang oằn oại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: "Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy! "Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi chiến hào, tháo chiếc thập giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh (Góp nhặt)
Từ năm 1975 tới nay đã có rất nhiều sách vở và những cuộc khảo cứu về hiện tượng những người: TN 15-C22
Từ năm 1975 tới nay đã có rất nhiều sách vở và những cuộc khảo cứu về hiện tượng những người đã chết đi rồi bỗng sống lại, gọi là "Near Death Experience" (NDE). Hai người nổi tiếng nhất trong lãnh vực này là bác sĩ Raymond Moody với cuốn "Đời Sau" (Life After Life) và mới đây bác sĩ Melvin Morse với cuốn "Được Ánh Sáng Biến Đổi" (Transformed by the Light). Kimberly Clark Sharp với cuốn "Sau Ánh Sáng" (After the Light) và Betty Eadie với cuốn "Được Ánh Sáng Ấp Ủ" (Embraced by the Light) là hai trường hợp kể lại kinh nghiệm của chính mình đã thấy gì ở bên kia cửa tử.
Đã chết thật khác với tình trạng hôn mê bất tỉnh. Vì tình trạng hôn mê vẫn chưa phải là chết thật. Những gì xẩy ra trong thời gian một người đã thực sự chết rồi sống lại? Có người chết 5 phút, có người chết nửa giờ. Cả mấy trăm trường hợp như vậy được khảo sát bằng phương pháp khoa học đàng hoàng. Những gì thuật lại đã được bác sĩ Melvin Morse của trung tâm Seattle chứng nghiệm là có thật, chứ không phải do phản ứng của thuốc hay cơ thể lúc chết do ảo giác vì thiếu dưỡng khí hay vì những thần kinh óc bị hủy hoại. Truyện bà Betty Eadie là một trường hợp điển hình cho tất cả những người đã chết rồi sống lại. Những gì thấy được có thể tóm lược vào 4 điểm chính:
1. Sau khi chết thì hồn ra khỏi xác nhìn thấy chính xác của mình và mọi sinh hoạt chung quanh.
2. Rồi hồn như đi nhanh qua một ống tối dài như Bà Betty Eadie kể lại trong cuốn "Được Ánh Sáng Ấp Ủ" (trang 39) Đây đúng là thung lũng bóng tối sự chết như Kinh Thánh đã từng nói tới. 3. Gặp được Nguồn Sáng: Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Đức Maria như bà Betty Eadie: "thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi" (trang 191). "Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật. Không còn chỉ tin vào một lực vũ trụ, mà tin vào một Đấng đàng sau sức mạnh đó. Tôi thấy Đấng đầy yêu thương đã dựng nên vũ trụ và đặt mọi khôn ngoan vào đó. Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương..." (trang 61). "Tôi cảm nhận tình yêu của Chúa vô điều kiện, vượt trên mọi tình yêu trần thế... Và tôi được ấp ủ trong cánh tay của ánh sáng vĩnh cửu này" (trang 53).
Lúc đó hồn được soi sáng nhìn lại và thấy tất cả cuộc đời của mình hiện lên trong một nháy mắt. Đạo Chúa vẫn gọi là phán xét. "Tôi thấy tôi là chính những người tôi xúc phạm, và cũng là chính những người tôi giúp đỡ". Cũng có những trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối hiện hình thành quỉ dữ trong biển lửa khủng khiếp ghê rợn, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong "Ánh Sáng Muôn Năm" (Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27).
4. Được biến đổi: "Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này... Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết" (Được Ánh Sáng Biến Đổi, trang 6). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa "Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới. Một số người tự nhiên thông minh hơn ra nhiều... biết nhiều nguyên lí toán học ngay cả về nguyên tử... thuyết tương đối của Einstein ...phát triển nhiều khả năng tâm linh..." (trang 9-10).
HÀN MẶC TỬ THẤY ĐƯỢC NHỮNG HUYỀN BÍ
Trong thơ Hàn Mặc Tử, có nhiều ý tưởng và hình ảnh kì lạ khó hiểu. Một vài người vội nghĩ ngay đó chỉ là những tưởng tượng hay bám víu vào niềm tin cho khuây khỏa cơn bệnh, hay chỉ là những kiểu chơi chữ cho bay bướm cao siêu. Nhưng qua những khảo cứu và những khám phá khoa học trên thì chắc chắn ai cũng phải nhận rằng những ý tưởng và hình ảnh này đúng là của một người đã chết, đã thấy nhiều điều huyền bí từ "cõi chết", rồi sống lại trở về kể lại như một lời chứng. Ông Trần Thanh Mại trong cuốn "Hàn Mặc Tử" có nhắc tới việc Hàn Mặc Tử chết đi sống lại trong thời gian bị bệnh cùi hành hạ khủng khiếp ở Qui Hòa: đôi ba lần (trang 55, 80) rồi bốn năm lần (trang 136). Thật lạ lùng, các diễn tiến trong thơ Hàn Mặc Tử cũng giống hệt như 4 điểm chính trong khảo sát của bác sĩ Melvin Morse:
Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt
Để chập chờn trong ánh sáng mông lung.
(Sáng láng)
Nhất là trong "Hồn Lìa Khỏi Xác", Hàn Mặc Tử đã diễn lại y như bác sĩ Melvin Morse đã khảo sát trong giai đoạn sau khi chết bị hút vào ống tối dài, mà Betty Eddie tả là thung lũng bóng tối sự chết:
Há miệng cho hồn văng lên muôn trượng…
Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa.
Thấy ánh sáng muôn năm là yếu tố then chốt trong thiên tài nghệ sĩ sáng tác của Hàn Mặc Tử. Ông thấy và diễn tả lại một cách trung thực. Không phải như một luận đề, suy diễn, hay kết luận của hệ thống giáo lí nào cả, mà là một thực chứng. Vì thế mà thơ ông mang rất nhiều hình ảnh siêu thoát.
Ai tới đó mà chẳng nao thần trí
Tòa châu báu kết bằng hương kì dị
Của Tình Yêu rung động lớp hào quang
TIN VUI TẮM GỘI Ở TRONG NGUỒN ÁNH SÁNG
Tất cả những cái thấy trên đúng là như vẽ ra cảnh thiên đàng trong hình ảnh Kinh Thánh. Thánh Phaolô có lần kể lại chuyện về chính mình bị ném đá chết ngất đi tại Lystra: "Tôi sắp kể về các cuộc thị kiến và khải minh Chúa ban cho tôi. Tôi biết có một người trong Đức Kitô, cách đây mười bốn năm (hồn còn ở trong xác hay đã ra ngoài xác tôi không biết, có Thiên Chúa biết) được bốc lên tầng trời thứ ba; và tôi biết người đó (hồn còn ở trong xác hay đã ra khỏi xác tôi không biết, có Thiên Chúa biết) đã được bốc lên Thiên Đàng và được nghe thấy những tiếng nói mà người thường không có thể cũng không được phép phát ra. Đó là người tôi muốn khoe chứ tôi đây thì khoe làm gì, vì chỉ thấy những điểm kém hèn. Giả tỉ tôi nhất định khoe thì cũng chớ ai cười tôi là khùng, vì tôi nói đúng sự thực; nhưng tôi sẽ không nói nữa, vì những vụ thị kiến kia quả là vĩ đại khác thường, tôi sợ vì đó mà có người đánh giá tôi cao hơn những tư cách họ mắt thấy tai nghe ở nơi tôi" (2Co 12:1-6).
Cũng đúng là thị kiến của Gia-cóp, của các tiên tri, thật lạ lùng vượt qua sức hiểu biết con người, nhưng có thực, giống như cái thấy của thánh Gioan trong Khải Huyền:
"Tôi thấy một trời mới và một đất mới, cảnh trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến dạng, cả biển cũng không thấy đâu. Tôi thấy thành thánh, thành Giêrusalem mới, từ Thiên Chúa trên trời hạ xuống, xinh đẹp như một tân nương trang điểm chờ chồng. Rồi tôi nghe có tiếng lớn phán ra từ bảo tòa: Ngươi có thấy đô thị này chăng? Tại đây Thiên Chúa sống giữa loài người. Người sẽ đặt trú sở của Người giữa chúng; và chúng sẽ lã thần dân của Người, và chính Người sẽ là Thiên Chúa của họ, đúng như mấy chữ Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Người sẽ lau mắt họ cho ráo lệ sầu, sẽ không còn chết chóc, không còn tang chế hay là buồn rầu nữa. Thế giới cũ đã qua" (Khải Huyền 21:1-4).
Tháng 11 trong truyền thống đạo Chúa là tháng dừng chân nhìn về đời sau. Có ai sống mãi được đâu. Nhưng chết chưa phải là hết, mà là ngưỡng cửa bước vào một cuộc sống mới. Hàn Mặc Tử cũng như những người đã chết rồi bỗng sống lại đã làm chứng thấy được những gì bên kia cửa tử: người ta có hồn, ra khỏi xác thì chạm tới thung lũng bóng tối sự chết, có phán xét, có thiên đàng, có hỏa ngục, mọi buồn vui đắng ngọt rời rạc vô nghĩa sẽ "qui tụ thâu về trong một mối", và nhất là có Chúa là Nguồn Ánh Sáng Tình Yêu chứ không phải là một lực vô vi vô vị.
Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền
Không u tối như cõi lòng ma quỉ
Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị
Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp u linh.
Xin cho con được mở con mắt nhìn xa và cao hơn, vượt ra khỏi những gì bầy nhầy giam hãm trong cuộc sống tranh lộn hằng ngày, vượt lên khỏi những ngấn lệ trầm luân trong quãng thời gian ngắn ngủi trên mặt đất này, để thấy được vùng ánh sáng mới như Hàn Mặc Tử:
Tình thơm tho như ngấn lệ còn nguyên
Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên
Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng.
TIN VUI KHÁM PHÁ MỚI NHẤT VỀ ĐIỆN LỰC
Phát minh mới nhất, điều thông thái tiến sĩ bậc nhất của nhân loại trong thời điểm 2000 chưa hẳn là máy vi tính, phi thuyền con thoi, thuốc chữa bệnh ung thư, mà là: "Hãy Yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn, và hãy yêu thương người khác như chính mình vậy".
Để diễn tả phát minh này, Chúa Giêsu đã kể chuyện một dụ ngôn về một người bị ăn cướp dọc đường, bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết vất ra bên đường đi Giêricô. Nhiều người đi ngang qua nhưng ai cũng có lý do trì hoãn, kể cả lý do đạo đức thánh thiện như vị tư tế và trợ tế. Vì theo luật Do Thái, động đến người cùi hay xác chết là đã ra ô uế, tức là có tội rồi, phải đi làm lễ nghi thanh tẩy, như đi xưng tội để được tha thứ rồi mới có thể hành lễ được. Có nghĩa là cả hai người này đã làm đúng.
Sở dĩ đúng là vì họ đặt tiêu chuẩn tình thương ở ngoài mình nên phải có đủ điều kiện mới tiến hành được. Người khác không phải là chính thân mình, người với ta tuy hai mà vẫn hai, nên còn phải qua nhiều bậc thang giá trị. Cho đến khi chết ra trước tòa Chúa, họ mới vỡ lẽ ra rằng: chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất là khi Ta đói (và con cũng đói, vì là một thân thể) con đã cho ăn ...
PHÚT KHAI HUYỆT MỞ HUYỆT LỬA
Nhiều người bị mờ mắt vì quá nhiều lo lắng tìm kiếm ở ngoài mà huyệt lửa bị tắc bên trong. Khai được huyệt lửa tình thương là khám phá mới nhất của thời điểm 2000, tìm lại được nhiệt lực của đời sống. Cũng đơn giản thôi, bắt đầu ngay hôm nay, như Mẹ Têrêsa, như bà Betty Eadie: một nụ cười cho người bên cạnh, một cử chỉ cảm thông, một việc làm bác ái cụ thể ...thành một bông hồng cho tình yêu.
Mấy ngàn năm trước đây, khi biết cách làm ra lửa, loài người đã thoát được chết cóng, khỏi bị diệt chủng hoàn toàn như loài khủng long. Đi vào ngàn năm mới, giữa những tù mù lạnh cóng thiếu chất người, nhân loại đang bắt đầu khám phá ra năng lực phát sinh từ tình thương, theo đúng khoa học, như Teilhard de Chardin, một nhà thần học và cũng là một nhà khoa học, đã khám phá và chứng nghiệm:
"Một ngày kia, sau khi chúng ta đã làm chủ được gió, sóng biển, thủy triều, và trọng lực, chúng ta sẽ khai mở được năng lực của tình yêu; và khi đó, đúng là lần thứ hai con người khám phá ra lửa"
Trẻ em Tây Phương thường được người lớn kể cho câu truyện thần tiên như sau: Ngày xửa ngày: TN 15-C23
Trẻ em Tây Phương thường được người lớn kể cho câu truyện thần tiên như sau:
Ngày xửa ngày xưa, có một gia đình nghèo sống bên cạnh rừng. Người chồng lo việc tiều phu, người vợ lo việc nội trợ. Họ chỉ có ba người con gái, sáng sớm người chồng đi vào rừng kiếm củi, người vợ đi vào làng để mua thức ăn và cô gái nhỏ trông chừng nhà cửa.
Một buổi sáng nọ, đang nô đùa trước nhà, ba cô bé nhỏ thấy một lão bà đang tiến lại gần, người đàn bà mặc áo đen, từ xa ba cô bé nhỏ cũng có thể nhận ra gương mặt xấu xí của bà. Vừa thấy bà lão đến gần, người chị gái thét lên "mụ phù thủy, mụ phù thủy", nghe tiếng báo động của người chị, hai cô bé nhỏ chạy vội vào nhà đóng cửa lại, còn cô lớn chạy ra phía sau nhà để thả chó ra. Lão bà dừng lại trước những tiếng gầm gừ của con chó, bên trong hai đứa nhỏ vẫn còn run cầm cập. Một lát sau, người đàn bà xấu xí đành bước đi về phía rừng.
Hôm sau, người tiều phu vào rừng đốn củi và đem theo con chó, người mẹ lại đem đứa con gái lớn theo phụ giúp mình mua sắm ngoài làng, ở nhà chỉ còn lại hai đứa con gái nhỏ. Vào giữa buổi trưa, khi hai đứa nhỏ dang chi trước nhà thì lão bà lại xuất hiện, vẫn bộ quần áo đen của phù thủy, dáng điệu cúi gập người trên cây gậy. Đứa chị có bổn phận trông coi em, nó lại hét lên "mụ phù thủy, mụ phù thủy và cả hai chạy ù vào nhà rồi đóng cửa kín lại, đứa chị còn kịp nhặt mấy viên đá phòng thân. '
Khi bà lão tiến đến gần sân, bà nhìn vào trong chuồng chó thấy chuồng trống không, lại không có tiếng sủa, vậy là chú chó đã đi vấng. Người đàn bà tiến đến cửa chính của túp lều và tìm then cửa, khi bà chưa kịp mở then cửa thì đứa chị đã ném viên đá vào người bà. Một tay chống gậy, một tay đỡ lấy mặt, bà lão xấu xí lại lầm lũi trở về phía rừng.
Hôm sau, sinh hoạt của gia đình tiều phu vẫn diễn ra bình thuởng; người cha vẫn đưa con chó vào rừng, người mẹ đem đứa con gái lớn và cả đứa kế đi ra chợ, chỉ còn lại đứa bé nhỏ nhất mới lên năm tuổi trông nhà.
Vào giữa buổi trưa, khi đứa nhỏ đang chi trước sân thì bà lão xấu xí lại xuất hiện một lần nữa. Vừa trông thấy, nó thét lên như hai đứa chị "mụ phù thủy, mụ phù thủy " và chạy nhanh vào nhà cài then cửa lại, đứng nhìn người đàn bà.
Qua lỗ nhỏ của khe cửa, bỗng nó nhìn thấy và nhận ra một điều mà nó chưa hề thấy trước đó, người đàn bà không có một vẻ gì là một mụ phù thủy cả, nó chỉ thấy một người đàn bà vẻ đau yếu và mệt lả. Đứa bé năm tuổi tự nhiên cảm thấy thương mến bà vô cùng, nó liền mở cửa và tiến đến bên bà: "Thưa bà, cháu có thể giúp bà cái gì được không ? ".
Quả thật, gương mặt bà lão xấu xí kinh khủng, và khi trông thấy đứa bé kháu khỉnh bà nói. "Lão còn phải đi đường xa, lão mệt lắm, cháu có thể cho bà ly nước được không ? ".
Nó liền chạy ra sau nhà, lấy gáo múc nước đem rồi cho bà cụ uống. Bà cụ cầm lấy chiếc gáo, cám ơn đứa bé rồi uống cạn. Bà rùng mình đứng thẳng, đứng thẳng rồi biến thành một cô công chúa xinh đẹp. Thì ra lão bà là một cô công chúa đã bị một mụ phù thủy nào đó ghen tức, làm công chúa biến thành xấu xí. Cô công chúa ấy trở lại nguyên hình, nguyên trạng khi có ai đó làm một nghĩa cử cho cô.
Nhưng bao nhiêu năm trời không có ai đối xử tử tế với lão bà, vì quá xấu xí, cho đến ngày hôm đó cô bé năm tuổi đã làm một nghĩa cử và hành động ấy đã biến đổi bà , trả lại hình dáng yêu kiều cho cô công chúa.
Trên đây là câu truyện nhân gian kể cho trẻ em nghe, nhưng cũng là chuyện xảy ra hằng ngày cho người lớn. Mỗi ngày qua đi trong cuộc sống, không biết bao nhiêu khuôn mặt mà chúng ta gán cho bao nhiêu là nhãn hiệu để cố tình xa lánh, nhưng chỉ cần một cừ chỉ tử tế rất nhỏ cũng đủ làm cho khuôn mặt ấy trở thành dễ thương. Đó là sức mạnh biến đổi của tình yêu, là cốt lõi của Tin mừng. Đây là điều mà Chúa Giêsu đến trần gian để dạy cho loài người: ôngài dấu những sự đó với những người thông thái và kẻ quyền thế mà chỉ tỏ bày cho trẻ em và những kẻ bé mọn " (x. Mt 11, 25). Thật ra chỉ có trẻ thơ mới nhận ra sức mạnh biến đổi ấy của tình yêu.
Trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, qua cuộc vấn đáp giữa một nhà thông luật và Chúa Giêsu, Mạc Khải Thấn Linh cho chúng ta thấy rõ hai chân lý liên quan đến phần rỗi của chung loài nguòi và của riêng Kitô hữu chúng ta: thứ nhất là chân lý về đường lối để được sự sống đời đời, và chân lý thứ hai về chân dung của thành phần được gọi là tha nhân.
Trước hết, chân lý về đường lối để được sự sống đời đời, khi công nhận câu đối đáp của nhà thông luật “Ông đã trả lời đúng. Hãy làm như vậy thì ông sẽ được sống”, Chúa Giêsu đã cho nhà thông luật thắc mắc: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” biết rằng, đó là “Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng muốn, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, cũng như hãy yêu thương tha nhân như chính bản thân ngươi”. Như thế, yên mến Thiên Chúa hết mình và yêu thương tha nhân như mình chính là đường lối để được sự sống đời đời vậy. Căn cứ vào chân lý này, nói một cách phủ định hơn, nghĩa là, ai không mến Chúa hết mình và yêu người như mình chắc chắn sẽ không được sự sống đời đời, tức bị hư đi đời đời. Tuy nhiên, tới đây, nhà thông luật của chúng ta tỏ ra không có vấn đề gì với Thiên Chúa cho bằng với tha nhân. Bởi thế, ông không hỏi Chúa Giêsu “Thế nhưng Chúa là Thiên Chúa của tôi là Đấng nào?”, mà lại đặt vấn đề “tha nhân của tôi là ai?” hay “ai là tha nhân của tôi?” Do đó mới có chân lý thứ hai, chân lý về chân dung của thành phần được gọi là tha nhân.
Theo quan niệm bình thường, trước hết, “tha nhân” tức là một người không phải là mình, hoàn toàn khác với mình. Sau nữa, đối với liên hệ trong gia đình huyết tộc, “tha nhân” cũng không phải là thành phần thuộc về thân nhân ruột thịt hay họ hàng nghĩa thiết với mình. Sau hết, thành phần “tha nhân” lắm khi còn bị tâm lý giao hữu loại trừ ra khỏi bờ cõi cận nhân nữa, ra khỏi phạm vi thân thiết bạn bè, nghĩa là, trở nên một thành phần hoàn toàn lạ mặt, xa cách với mình, thành phần mình không hề quen biết tí nào. Tuy nhiên, thực tế và tâm lý bình thường cũng cho thấy một sự thật không ai có thể chối cãi được là, có nhũng lúc chính thân nhân và thân hữu của mình lại là những kẻ không thể đội trời chung với mình, bị chúng ta đẩy đi lưu đầy xa khuất khỏi mắt của chúng ta, tức ở ngoài cả biên giới “tha nhân” xa lạ nữa. Trong trường hợp này, “tha nhân” đột nhiên và nghiễm nhiên trở thành gần gũi, thành cận nhân với chúng ta hơn cả thành phần vốn là thân nhân và thân hữu của chúng ta trước kia. Vào những lúc đó, một “tha nhân” nào đó tỏ ra thông cảm với chúng ta và ngả về phía của chúng ta, vị “tha nhân” ấy, dù trước kia có những bất đồng với chúng ta, thậm chí đối nghịch với chúng ta, bấy giờ họ cũng sẽ trở thành thân thiết với chúng ta. Điển hình là trường hợp của quận vương Hêrôđê với tổng trấn Philatô, sau khi Hêrôđê được Philatô cho giải Chúa Giêsu đến để Hêrôđê phân xử, thì hai nhân vật này đã được Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở đoạn 23 câu 12 như sau: “Hêrôđê và Philatô trước kia vốn đối nghịch với nhau từ đó lại trở thành bạn bè”. Nếu cứ theo tâm lý chủ quan của con người chúng ta như thế, thì “tha nhân” phải nói là người bị tha hóa, tức thành phần không còn là họ nữa, mà là những gì chúng ta tạo ra hay biến thành tùy ý.
Nếu xẩy ra tình trạng này thì quả thực, như thực tế đã cho chúng ta thấy, nhiều khi chính những người vốn thân yêu nhất của chúng ta từ trước đột nhiên trở thành những con ma trơi, những con ma ban ngày, những con ma làm cho chúng ta sợ, lúc nào chúng ta cũng muốn tránh mặt, không dám gặp mặt, không dám đối diện và không còn thích gần gũi hay tìm đến như xưa nữa. Tình trạng “tha nhân” trở thành những con ma đối với chúng ta như thế còn chứng tỏ tâm trạng yếu bóng vía của chúng ta, nghĩa là tình trạng chúng ta chưa sống thực, tình trạng chúng ta còn trẻ con, chưa trưởng thành cả về tâm linh lẫn đức tin liên quan đến Thiên Chúa nữa. Đúng thế, nếu “tha nhân” không thực sự là một con người, mà chỉ là một cái gì do chúng ta tạo ra hay biến thành như thế, tùy theo ý nghĩ và ý thích của mình, thì quả thực chúng ta không phải chỉ có vấn đề với “tha nhân” mà còn với cả “Chúa là Thiên Chúa” nữa. Bởi vì, chỉ khi nào chúng ta tôn thờ “ngẫu tượng”, tức tôn thờ vị Thiên Chúa do chúng ta chủ trương, do chúng ta tự tưởng tượng vẽ vời ra, như trường hợp dân Do Thái tôn thờ bò vàng trong sa mạc được Sách Xuất Hành thuật lại ở đoạn 32 câu 4, chứ không phải vị Thiên Chúa đích thực, như Ngài tỏ mình ra cho chúng ta biết như được Thánh Kinh ghi nhận, chúng ta mới có thái độ bóp méo hình ảnh của Ngài là “tha nhân” như thế. Lý do là vì chúng ta chưa biết Ngài thực sự, nên chúng ta cũng không nhận ra những gì thuộc về Ngài. Đó là lý do tại sao Chúa Kitô, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 21 hay đoạn 16 câu 3, đã vạch rõ căn nguyên thế gian bách hại môn đệ của Người như sau: “Họ làm cho các con tất cả những điều ấy là vì họ chẳng nhận biết Cha cũng không nhận biết Thày”. Đó cũng là lý do chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết mình trước rồi mới có thể yêu thương tha nhân như bản thân mình được.
Chính vì “tha nhân” là một con người thực sự, một con người như chính chủ thể yêu và phải được chủ thể yêu yêu như chính bản thân mình mà, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không trực tiếp trả lời cho nhà thông luật “tha nhân của tôi là ai?”, song Người đã lật ngược vấn đề, qua câu hỏi gợi ý: “Ai trong ba người này (vị tư tế, thày Lêvi, và người Samariatanô) là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Thế rồi, sau khi nhà thông luật trả lời: “Chính là người tỏ lòng thương cảm hắn”, Chúa Giêsu liền nói với ông ta: “Vậy thì anh hãy đi mà làm như thế”. Nghĩa là, theo tinh thần Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, một khi yêu thương nhau và trong việc yêu thương nhau, không nên, đúng hơn, không được, đặt vấn đề phân biệt và chọn lựa: “ai là tha nhân của tôi”. Bởi vì, một khi đã phân biệt và chọn lựa, thì theo tâm lý tự nhiên, mình chỉ yêu ai mình thích, thích ai hợp với mình, và mến ai làm vừa lòng mình v.v. Nếu yêu thương theo kiểu này là yêu thương mình hơn là tha nhân, và biến tha nhân thành sở hữu, thành thuộc hạ của mình hơn là coi họ như chính bản thân mình, để có thể yêu họ như chính bản thân mình. Bởi thế, vấn đề yêu thương chân chính hay Đức Ai trọn hảo theo Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay là vấn đề hòa đồng và đại kết, ở chỗ, “tôi cần phải là tha nhân của mọi người, cần phải trở nên như mọi người”: “Ai trong ba người này là tha nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp?”. Chỉ có thế chúng ta mới chẳng những không có ai là kẻ thù, hay không bao giờ gặp kẻ thù, dù thực sự có bị bất cứ ai thù ghét và tác hại, trái lại, chúng ta còn có thể “trở nên mọi sự cho mọi người”, như tinh thần của vị Tông Đồ Dân Ngoại chia sẻ trong thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 9 câu 22.
Phải, chính tinh thần bác ái làm cho con người yêu thương trở thành quốc tế như thế, “trở nên mọi sự cho mọi người” như thế, họ mới thực sự là một nhà truyền giáo và mới có đủ khả năng truyền giáo. Bởi vì, nếu vai trò của nhà thừa sai, như bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV Mùa Thuòng Niên Năm C tuần trước cho thấy họ được sai đi trước đến những nơi Chúa Giêsu sẽ đến, nghĩa là đi mở đường, để qua việc họ làm, hay qua đức ái làm nên bản chất và chân dung của người môn đệ Chúa Kitô nơi họ (xem Jn 13:35), thế gian có thể nhận biết Thày họ là Đấng Thiên Sai đến sau họ. Ý nghĩa bài Phúc Âm Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh Năm C hôm nay, một thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tỏ mình ra qua chứng tá Giáo Hội của Người trên thế gian cho đến tận thế, là ở chỗ này, ở chỗ, Chúa Kitô tỏ mình ra qua thành phần chứng nhân của Người, hay qua tình họ yêu thương trọn lành “trở nên mọi sự cho mọi người”, một tình yêu thương “đi khắp thế gian (và) cho mọi tạo vật” (Mk 16:15) chứ không phải cho riêng một dân nước nào, hay cho riêng một thành phần nào, một tình yêu hoàn toàn phản ảnh Đấng “muốn chứng tỏ lòng yêu thương đến cùng của mình” (Jn 13:1), ở chỗ, Người “đã đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ, để hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mt 20:28; xem 1Tim 2:6).
Tuy nhiên, nếu “tha nhân” trở nên mọi sự như ý nghĩ, ý muốn hay ý thích chủ quan của chúng ta, như trên đã nhận định, họ trở thành một con người bị tha hóa đối với chúng ta là chủ thể yêu thong, vậy thì, ngược lại, nếu chúng ta “trở nên mọi sự cho mọi người” thì bản thân chúng ta có bị họ tha hóa không, có bị trở thành một khối như loài vật không, có mất ngôi vị của mình không, vì chúng ta không còn là chúng ta nữa, mà là bị mọi người đồng hóa, hay bị đồng hóa với mọi người mất rồi?
Câu trả lời được tìm thấy ở đây là một đàng thì bị bắt buộc và một đàng hoàn toàn tự nguyện. Việc ép con người phải bỏ mọi sự làm của chung, ngược với quyền sở hữu của họ, hoàn toàn khác với việc các Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem tự nguyện “bỏ mọi sự làm của chung”, như Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 2 câu 44. Sở dĩ thành phần Kitô hữu tiên khởi của chúng ta có thể thực hiện được việc này là vì họ hoàn toàn hiệp nhất với nhau, như Sách Tông Vụ còn thuật lại ở đoạn 4 câu 32: “Cộng đồng tín hữu đồng tâm nhất trí. Không ai lấy gì làm của riêng mình, mọi sự được lấy làm của chung”, một tình trạng chứng tỏ cá nhân con người đã đạt đến tầm vóc hoàn toàn của mình nơi cộng đồng xã hội, và cộng đồng xã hội cũng đạt đến tầm vóc thiện hảo của mình đúng như ý muốn của Thiên Chúa, một ý muốn được bộc lộ qua Lời Nguyện Tiệc Ly của Chúa Kitô ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 17 câu 22: “Cho tất cả đuọc nên một như chúng ta là một”, một mối hiệp thông có tác dụng truyền thông Thần Linh, như Người còn đề cập đến ở câu 23 ngay sau đó: “Để thế gian nhận biết rằng Cha đã sai Con”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Ai trong chúng ta cũng biết, nếu không có lòng yêu mến Thiên Chúa hết mình, chúng ta không thể nào yêu thương tha nhân như mình. Yêu thương tha nhân như mình chỉ là bản trắc nghiệm xem chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa hết mình chưa hay đã yêu mến Ngài đến đâu? Mà yêu mến Thiên Chúa hết mình, như nhà thông luật trong Phúc Âm hôm nay đã nhắc lại đoạn Sách Nhị Luật, đó là yêu mến hết lòng muốn, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Thế nhưng, thế nào là yêu mến Thiên Chúa hết lòng muốn, rồi đến hết linh hồn, tới hết sức lực, sau hết là hết trí khôn. Không biết tiến sĩ tâm lý Trần Mỹ Duyệt có thể chia sẻ ý nghĩa về bốn tác động yêu mến Thiên Chúa hết mình theo thứ tự này được không?
(Tin Mừng Sự Sống, buổi phát thanh thứ bốn mươi bốn, Chúa Nhật 15/7/2001)
Trường sinh bất tử, muốn được hạnh phúc vĩnh viễn, muốn được sống đời đời, đó là mơ ước: TN 15-C25 FB
Trường sinh bất tử, muốn được hạnh phúc vĩnh viễn, muốn được sống đời đời, đó là mơ ước muôn đời của mọi người. Hôm nay, một thày thông luật nói lên mơ ước đó khi ông hỏi Chúa “làm cách nào để được hưởng sự sống đời đời”.
Để trả lời ông, Chúa Giêsu kể câu chuyện, một câu chuyện bình thường xảy ra hằng ngày: Một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị cướp trấn lột, đánh nhừ tử, dở sống dở chết nằm rên rỉ bên vệ đường. Thày tư tế đi ngang thấy thế tránh qua bên kia đường mà đi. Thày Lêvi cũng thế. Nhưng một người xứ Samaria, một người ngoại đạo, đã chạnh lòng thương, dừng lại băng bó cho nạn nhân. Chưa hết, ông còn chở nạn nhân đến quán trọ. Hơn thế nữa, ông gửi tiền để nhờ chủ quán chăm sóc nạn nhân cho đến khi bình phục.
Qua câu chuyện người xứ Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Đường Giêrikhô tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là con đường gập ghềnh khó đi. Đó là con đường nguy hiểm vì có trộm cướp rình rập. Đó là con đường thử thách. Để vượt qua thử thách, vũ khí duy nhất hữu ích là trái tim. Trái tim chiến thắng có những phẩm chất như sau:
Đó phải là một trái tim nhạy bén.
Người xứ Samaria nhân hậu có một trái tim nhạy bén. Dù đang bận việc riêng, dù vó ngựa phi nhanh, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Trong khi đó, thầy Tư Tế và Thầy Lêvi chỉ đi bộ lại không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn, các thầy có nghe, có thấy nhưng trái tim các thầy đóng kín, nên các thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín vì những cánh cửa lề luật: Sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế không được tới đền thờ dâng lễ vật. Người xứ Samaria không nghe bằng đôi tai, không nhìn bằng đôi mắt, nhưng nghe và nhìn bằng trái tim. Trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng. Có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng. Trái tim nhạy bén có đôi mắt sáng lạ lùng. Có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm trong tâm khảm.
Đó phải là một trái tim quan tâm.
Trái tim quan tâm đưa ta đến gần gũi anh em. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh em. Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm nên khi thấy người bị nạn đã tránh sang bên kia đường mà đi. Người xứ Samaria có một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần nạn nhân. Vì có trái tim quan tâm nên ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân. Vì quan tâm nên ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải. Chẳng học nghề thuốc mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo. Chẳng có kỹ thuật mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa. Ông đã làm tất cả theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim, ông đã làm tất cả với sự chuẩn xác và nhất là với nhiệt tình để cứu nạn nhân.
Đó phải là một trái tim chung thuỷ.
Trái tim chung thuỷ không làm việc nửa vời, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ không mỏi mệt buông xuôi, nhưng theo dõi giúp đỡ cho đến tận cùng. Người xứ Samaria bận rộn công việc, nhưng vẫn lo lắng cho nạn nhân đầy đủ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang. Và khi xong việc ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi khỏi hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy ta hiểu rằng: đường đến sự sống đời đời là con đường mọi người vẫn đang đi. Nhưng chỉ người đi với trái tim mới mong đến đích. Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác vì các thầy không mang theo trái tim. Người xứ Samaria đã đi đến nơi vì ông đi đường với trái tim nhân hậu, trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã yêu người thân cận như chính mình ông. Với trái tim ấy, ông đã mở đường đi đến sự sống đời đời.
Chúa Giêsu dạy tôi bắt chước người xứ Samaria nhân hậu. Hãy lên đường với trái tim. Hãy lắng nghe với trái tim. Hãy hành động với trái tim. Hãy đi trên đường của trái tim. Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ. Hãy mang theo trái tim theo trên khắp mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Theo ý bạn đâu là những dấu hiệu cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin? 2- Mỗi khi gặp một người cần giúp đỡ, bạn có hăng hái ra tay giúp ngay hay còn chần chờ, viện lý do để thoái thác? 3- Sau khi nghe dụ ngôn “Người xứ Samaria nhân hậu”, bạn có quyết tâm gì?
1. Khoảng cách rất lớn giữa “hiểu biết” về Đạo và “sống” Đạo:
Câu chuyện mà Tin Mừng Lu-ca kể lại cho chúng ta hôm nay khiến chúng ta phải giật mình suy nghĩ khi thấy rằng giữa “nói” và “làm”, giữa hiễu biết về Đạo và sống Đạo có một khoảng cách lớn lao. Thời Đức Giê-su cũng đã có tình trạng ấy: thầy tư tế của đền thờ và thầy Lê-vi của Do-thái giáo đều biết rất rõ là giới răn quan trọng nhất của Đạo Chúa là giới răn yêu thương.
Thế nhưng họ đều tìm cớ để khỏi phải thực hành giới răn ấy, khi trước mắt họ là một con người bị nạn cướp bóc lột và đả thương đang nằm chờ được họ giúp đỡ. Trong khi ấy một người ngoại – người Sa-ma-ri – lại là người thực thi đức yêu thương một cách cụ thể, đúng lúc, đúng cách ! Trước mắt người Do Thái thì người Sa-ma-ri chỉ là một kẻ ngoại đạo, đáng khinh khi. Nhưng trên thực tế người ấy lại có những tâm tình mà chính Đức Giê-su đã có, trước nỗi thống khổ của đồng loại: Đó là biết “chạnh lòng thương”.
Phúc Am ghi lại nhiều lần Đức Giê-su đã chạnh lòng thương, đã xúc động….trước cảnh bất hạnh của con người, trước mồ người bạn thân là La-da-rô. Người Sa-ma-ri cũng “chạnh lòng thương” trước người bị nạn, nằm bên lề đường…giống như Đức Giê-su đã “chạnh lòng thương” trước đám đông không người chăm lo, săn sóc. Người “ngoại” mà giống Chúa hơn người có đạo, hơn cả các đấng bậc trong Đạo. Ngày nay trong cộng đoàn chúng ta có thấy tình trạng y như thê này không ? Thực tế cho thấy là đó đây vẫn xẩy ra tình trạng tương tự. Phải chăng vì thế mà việc truyền giáo của chúng ta ít có kết quả ? Phải chăng vì thế mà giới trẻ càng ngày càng xa lánh Giáo Hội ? Phải chăng vì thế mà nghe nói đến công giáo, người lương vẫn thờ ơ dửng dưng, vì họ không thấy trong công giáo có gì là hấp dẫn, là thu hút cả ? 2. Từ “Ai là người thân cận của tôi ?” đến “Tôi là người thân cận của ai ?”
Đức Giê-su đã khéo lái vấn đề từ câu hỏi của người thông luật “Ai là người thân cận của tôi ?” sang gợi ý tuyệt vời của Ngài: “Tôi là người thân cận của ai ?” Thành ra thay vì Đức Giê-su phải trả lời câu hỏi của người thông luật thì ông ấy và chúng ta phải trả lời câu hỏi mà Đức Giê-su đã đặt ra cho ông ấy và cho chúng ta: “Các bạn là người thân cận của ai ?” Nói cách khác: trước những người đang cần đến sự giúp đỡ, yêu thương của các bạn thì các bạn đã cư xử như thế nào với những người ấy, để các bạn trở thành người thân cận của những người ấy ?
Tôi nhớ lại một kinh nghiệm “độc đáo và khó quên” mà tôi đã có được trong khóa huấn luyện cán bộ giáo dân mà tôi được tham dự vào mùa hè 1995 tại Viện Phát Triển Mục Vụ ( Philippines ). Tôi xin chia sẻ kinh nghiệm ấy với các bạn ở đây thật chân thành.
Trong một buổi học, các học viên chúng tôi được giảng viên yêu cầu mỗi người lấy một tờ giấy và ghi tên tất cả những người thân của mình, những người mà mình yêu thương đến độ có thể hy sinh mạng sống vì những người ấy ? Ai nấy chăm chú suy nghĩ và cắm cúi viết. Tôi cũng làm thế. Nhưng rất nhanh, tôi nhận ra rằng danh sách những người thân của tôi, những người mà tôi thương yêu hơn cả bản thân mình đến mức tôi sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh vì những người ấy thì rất ngắn ! Vì ngoài mẹ tôi, vợ tôi và hai con tôi và một vài người khác, tôi không dám ghi thêm tên một người nào khác nữa, vì tôi không chắc là mình đã yêu thương những người ấy đến độ có thể hy sinh mạng sống cho một ai trong họ.
Tôi phải thú nhận rằng: dù giảng viên không yêu cầu chúng tôi nộp danh sách, cũng không yêu cầu học viên nói lên số người được ghi trong tờ giấy của mình nhưng riêng tôi, tôi rất xấu hổ: xấu hổ với Chúa và xấu hổ với chính mình. Té ra nhờ phương pháp này mà tôi khám phá ra rằng cách sống Đức Ai của tôi còn rất mông lung, lý thuyết, hời hợt, thiếu đối tượng và giới hạn. Bài học khiêm tốn mà tôi rút ra được từ kinh nghiệm này quả là một hồng ân lớn lao mà suốt đời tôi không bao giờ quên.
Cho phép tôi mời các anh chị và các bạn hãy dành một khoảng thời gian rảnh rỗi để làm “bài tập độc chiêu này” ! Tôi tin chắc rằng sau khi làm bài tập này một cách nghiêm túc, các anh chị và các bạn sẽ khiêm tốn hơn trong suy nghĩ và ăn nói. Các anh chị và các bạn cũng sẽ khoan dung hơn đối với những thiếu sót, yếu đuối, thậm chí tội lỗi, của người khác.
CẦU NGUYỆN:
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã dạy con rằng: không phải những người cứ kêu: “lạy Chúa, lạy Chúa…” là được vào Nước Trời. Nhưng chỉ những ai thi hành Ý muốn của Cha, mới được vào mà thôi ( Mt 7, 21 ). Xin cho điều Chúa dạy in sâu vào tâm trí con, để con không bao giờ quên, trái lại luôn cố gắng sống theo lời Chúa dạy !
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã dạy con rằng: Chúa chỉ tính sổ với con về những hành động yêu thương, bác ái mà con đã làm hoặc đã không làm cho những người anh em của con mà thôi ( x. Mt 25 ). Xin cho điều Chúa dạy in sâu vào tâm trí con, để con không bao giờ quên; trái lại luôn cố gắng sống theo lời Chúa dạy !
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ban ánh sáng và sức mạnh của Ngài cho con, để con biết sống như người khôn trong Phúc Am tức biết lắng nghe và thực thi Thánh Ý Thiên Chúa, biết hy sinh quên mình để yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen.
Giê-rô-ni-mô NGUYỄN VĂN NỘI
CÂU TRUYỆN:
Trong cuốn sách có tựa đề là "Nhóm 12", tác giả kể lại câu truyện của một thương gia giàu có bước vào quán ăn chợt bắt gặp một em bé nghèo đang run vì đói trước cửa vào. Tỏ lòng thương, người thương gia mời em vào cùng ăn với mình. Nhưng điều lạ lùng xẩy ra là mặc dù đói và đang có trước mặt một dĩa ăn ngon còn đang nóng, em bé nghèo may mắn này không tỏ vẻ gì xúc động và muốn ăn liền cả. Mắt em nhìn ra cửa sổ ngay bên cạnh, vẻ mặt vẫn buồn như trước. Người thương gia hỏi em:
- Tại sao con không ăn? Hay con không thích món ăn này?
Em bé nghèo vội trả lời với giọng đầy sợ hãi:
- Không! con đói lắm, nhưng làm sao con có thể ăn được khi còn đứa em con cũng đói như vậy đang đứng chờ ngoài cửa kia.
Vừa nói em vừa chỉ cho ông thương gia một em bé khác nhỏ tuổi hơn, ăn mặc rách rưới, đang thèm thuồng nhìn vào dĩa đồ ăn của anh mình trong quán.
Câu trả lời thành thật và đơn sơ của em bé "Làm sao con có thể ăn được khi còn em con đang đói đứng chờ ngoài cửa kia?" Câu trả lời này có thể trở thành câu nói của tình liên đới nhân loại giữa người với người. Với ta, một người anh chị em bên cạnh đang thiếu thốn, cần nhờ đến lòng quảng đại trợ giúp của ta, làm sao ta có thể ăn uống được? Làm sao ta có thể sống an vui được, khi còn bao anh chị em bên cạnh lâm vào hoàn cảnh bi đát hơn? Em bé nghèo kia muốn chia sẻ sự may mắn của mình với đứa em, ước chi mỗi người chúng ta cũng có được tâm tình liên đới giống như vậy đối với anh chị em xung quanh. Thiên Chúa rất vui lòng khi thấy những con cái Ngài sống tình liên đới với nhau, biết chia sẻ những hồng ân lãnh nhận từ Ngài. Ngài luôn muốn cho con cái Ngài sống chia sẻ và trợ giúp nhau một cách vui tươi với tâm hồn biết ơn, với ý định thành thật ngay chính không hậu ý lợi dụng. Ngài không muốn các con cái Ngài chia sẻ vì hậu ý đen tối để thỏa mãn cái tôi tự tôn.
Thánh Phaolô tông đồ nơi chương 9 câu 7 của thơ thứ 2 gởi giáo đoàn Côrintô đã khuyên các tín hữu như sau:"Mỗi người trong anh em hãy cho đi, hãy chia sẻ với nhau tùy theo ý định tốt lành của lòng mình, không cau có, không miễn cưỡng, vì khi tôi vui mừng trao ban thì Thiên Chúa mới nhận lời". Tiếp đó thánh Phaolô cũng nhắc nhở các tín hữu cộng đoàn Côrintô là "sở dĩ mỗi người chúng ta được mời gọi chia sẻ là vì trước đó chính Thiên Chúa là Đấng đã ban cho chúng ta những điều đó". Trong tập sách gợi ý suy tư tựa đề là "Những hạt ngọc quí", mục sư Gun-đơn đã kể lại kinh nghiệm sống chia sẻ cách quảng đại như sau:
Sau trận hỏa hoạn lớn xẩy ra tại Chi-ca-gô, ông mục sư Mun-đi đã xin những vị hảo tâm trợ giúp vật chất cho các nạn nhân. Ông được giới thiệu đến một thương gia giàu có. Khi biết được hoàn cảnh cùng cực của các nạn nhân, vị thương gia này đã không ngần ngại ký ngân phiếu dâng cho công tác cứu trợ một khoảng tiền thật to lớn ngoài sự tưởng tượng và sự mong đợi của ông. Không những vị thương gia này cho như vậy, nhưng đồng thời ông còn giới thiệu mục sư với nhiều bạn bè thuơng gia khác nữa để có thêm số tiền trợ giúp nhiều hơn nữa. Vào giây phút bắt tay từ giã trở lại Chi-ca-gô, mục sư Mun-đi cảm động nói với người thương gia kia như sau:
- Khi nào có dịp đến Chi-ca-gô, xin ông vui lòng cho chúng tôi biết, chúng tôi sẽ cố gắng hết sức mình để đáp lại tấm lòng tốt của ông.
Nhưng vị thương gia kia khiêm tốn trả lời:
- Thưa mục sư, tôi không bao giờ có ý định đến Chi-ca-gô để được người ta đáp lễ đâu. Xin mục sư hãy dành ân huệ đó cho bất cứ ai khác và hãy quên tôi đi.
Câu nói thẳng thắn này đã đánh động mục sư Mun-đi suốt đời.
Chúng ta không thể và cũng không mơ ước đóng góp điều gì to lớn cho những anh chị em trong xã hội. Nhưng gần bên chúng ta lúc nào cũng có những người cần đến những trợ giúp nho nhỏ, những nụ cười thông cảm, những lời nói khuyến khích mà không cần phải có của cải vật chất ta mới chia sẻ cho được. Chỉ cần ta có một tâm hồn giàu lòng quảng đại, ta có thể có một niềm vui thanh tao, không phải vì có nhiều hay được nhận lãnh nhiều, nhưng vì biết trao ban chia sẻ cho kẻ khác. Nếu ta không có niềm vui nào khác thì ít ra hãy hưởng lấy niềm vui vì biết chia sẻ với anh chị em xung quanh.
Lạy Chúa, xin dạy con sống quảng đại, biết yêu thương và phục vụ anh chị em con cả trong những việc nhỏ thường ngày.Amen.
Để trả lời câu CGS hỏi: “trong lề luật đã chép như thế nào ?”, người luật sĩ trích dẫn đoạn đầu: TN 15-C27
1. Để trả lời câu CGS hỏi: “trong lề luật đã chép như thế nào ?”, người luật sĩ trích dẫn đoạn đầu kinh Shéma hay lời tuyên xưng đức tin mà người Do thái mỗi ngày phải đọc hai lần: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là TC ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức, và hết trí khôn ngươi” (Đnl 6,5). Và ông thêm: “và yêu thương cận nhân như chính mình” (Lv 19,18), là câu không có trong kinh Shéma cổ truyền. Cách chú giải này chắc chắn không có trái với lề luật, vì CƯ đã minh nhiên dạy phải yêu thương tha nhân, dù họ không phải là người Do thái (Lv 19,34; Đnl 10,9). Tuy nhiên, các thày Rabbi không theo lối chú giải đó, vì họ chỉ thương yêu anh em đồng chủng thôi. Thực ra, trong CƯ không có liên kết hai giới luật này, như người luật sĩ đã làm, và đây là một trong những nét đặc sắc của CGS, người đầu tiên đã liên kết hai giới đó, bằng cách đơn giản hóa khoản luật của CƯ. Vậy phải chăng nhà luật sĩ chất vấn CGS là một trong những người Do thái đạo đức đã trung thành sống tinh thần lề luật, thay vì sống theo lối ích kỷ hạn hẹp của các thày rabbi ? Điều này không chắc vì nhà luât sĩ tra vấn CGS để “thử” Ngài (c.25) và tranh luận với Ngài. Có lẽ nên coi nhà luật sĩ là người đã nhiều lần nghe CGS dạy về tính cách bác ái huynh đệ, nên bây giờ khi trả lời CGS ông đã tạm thời nói theo quan điểm của Ngài. Và khi thấy câu trả lời của mình chấp nhận, ông đã muốn chất vấn và làm CGS lúng túng khi xin Ngài định nghĩa tha nhân là ai. Quả thực, câu hỏi này đã gây nhiều khó khăn và tranh luận trong giới rabbi.
2. Nhiều giáo phụ và các tác giả hiện đại đã hiểu dụ ngôn người Samaritano nhân lành theo hai cách khác nhau. Các giáo phụ xem đây là một dụ ngôn biểu trưng, nghĩa là một mạc khải các bí nhiệm của Nước Trời. Theo lối chú giải này, người Samaritano là hình ảnh Đức Kitô , người bị kẻ cướp bóc lột là biểu trưng cho giáo hội. Đối lại, tất cả các nhà chú giải hiện đại (trừ Hoskyns, Van den Eynde và có lẽ cả Daniélou nữa) đã hiểu dụ ngôn này theo nghĩa tự nguyện, như là một ví dụ cụ thể để giúp hiểu một chân lý tổng quát. Chúng ta đứng trước hai lối chú giải khác nhau, một có tính cách thần bí, một có tính cách luân lý.
Vì thời gian và khuôn khổ hạn hẹp, chúng tôi không thể dứt khoát phê bình 2 lối chú giải này, vì lối nào cũng có nhiều đặc điểm độc đáo riêng. Tuy nhiên chúng tôi theo lối chú giải hiện đại vì hai lý do. Trước hết, theo giáo huấn giáo hội thường dạy, kể từ thông điệp Divine Afflante Spiritu của Đức giáo hoàng Piô XII, các nhà chú giải trước hết phải cố công khám phá và xác định... Nghĩa tự nguyện (le sens littéral) (Ds 2293) của Thánh kinh. Trong trường hợp chúng ta đang gặp, dựa theo mạch văn của dụ ngôn, chắc chắn nghĩa tự nguyện là nghĩa luân lý mà khoa chú giải hiện đại đã khám phá. Thứ hai, dụ ngôn không có nghĩa thần bí, ít nhất là trong nghĩa nguyên thủy của nó. Thực vậy, dụ ngôn không đưa ra một chi tiết nào trích từ CƯ nói lên ý nghĩa biểu trưng cả. Bằng chứng là các giáo phụ đã chú giải rất khác nhau khía cạnh ẩn dụ của dụ ngôn. Tuy nhiên chớ kết luận là khi giảng dạy ta không thỉnh thoảng ẩn dụ hóa dụ ngôn trong một giới hạn nào đó. Nhưng giảng thuyết là một chuyện, chú giải là một chuyện khác: nếu khoa chú giải là cơ sở của giảng thuyết, thì giảng thuyết cũng có thể vượt lên trên khoa chú giải tùy trường hợp đặc biệt, cụ thể của phụng vụ. Mutatis mutandis, những nhận xét vừa nói có thể áp dụng cách tổng quát cho nhiều trang phúc âm, mà không cần xác định từng trường hợp một đâu là mối liên hệ giữa khoa chú giải hiện đại và lối chú giải của các giáo phụ.
3. Dụ ngôn có nhiều điểm đơn giản. Trên đường vắng vẻ, một người vô danh, không ai biết chức vụ địa vị, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo của y, bị rơi vào tay bọn cướp bóc lột và gây trọng thương. Thày tư tế và trợ tế Lêvi lần lượt đi qua nhưng đã không thèm ngó ngàng gì đến y. Tình cờ người Samaritanô đến, trông thấy y và động lòng thương săn sóc giúp đỡ y. CGS kết luận: “Theo ông nghĩ ai trong ba người đó là cận nhân của người bị rơi vào tay bọn cướp ? ” (c.36)
Thoạt nhìn, câu hỏi của CGS không đáp ứng câu người luật sĩ hỏi: “Ai là cận nhân của tôi ?”. Qua đó ông muốn hiểu: “Ai là đối tượng của đức ái mà luật dạy: người đồng hương, đồng đạo, người lương dân, người ngoại kiều cư ngụ tại Israel ? Tôi phải yêu ai mới gọi là giữ lề luật ?” Dù CGS trả lời cách nào, người luật sĩ cũng có thể hoặc nhân danh lề luật hoặc một truyền thống đã có, bắt bẻ Ngài, vì người ta không thể lưu tâm hay giúp đỡ một người ô uế, thờ ngẫu tượng. Phần CGS không những không định nghĩa cận nhân là gì, nhưng dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng đưa ra một vấn nạn mới: phải cư xử thế nào mới gọi là cư xử trong tình anh em ? Ai trong ba người bộ hành đã xự thế trong tình anh em, ai đã thành người cận nhân (gegonenai) của kẻ vô danh.
Nhiều nhà phê bình cho rằng cuộc đối thoại với nhà luật sĩ (cc.25-28) và dụ ngôn (cc.30-37) ngay từ đầu là 2 tài liệu độc lập. Có lẽ Lc đã dùng cuộc đối thoại với nhà luật sĩ như là lời dẫn nhập vào dụ ngôn, nối kết bằng câu 29 “ai là cận nhân của tôi” Nhiều nhà phê bình khác trả lời rằng dụ ngôn đã trả lời câu hỏi cách trung thực: cận nhân là mọi người đang trong cảnh túng thiếu. Nói như thế là đúng nhưng không phải là nghĩa câu hỏi cuối cùng của CGS: ai trong ba người bộ hành đã tỏ ra mình là cận nhân của người xấu số ?
Hình như điều mâu thuẫn ngoại tại này sẽ biến mất, nếu một đàng ta chú ý đến thực tại sống động hơn là mặt chữ, và đàng khác nếu ta bỏ qua lối lý luận khô khan của người Hy lạp và phương tây để hiểu não trạng tình tiết phương đông đầy bí ngữ, dụ ngôn và ngạn ngữ. Do đó, đừng quá chú ý đến ý nghĩa của một chữ hay một câu mà phải nhận ra điều hình ảnh gợi lên, và đoán ngay ra tư tưởng thầm kín của người đối thoại.
Trước tiên cần ưu ý điểm này: “dụ ngôn” người Samatritanô không phải là một so sánh, một lý chứng nhằm giúp xác tín, nhưng là một ví dụ, nghĩa là một trường hợp cụ thể, cá biệt nhằm làm sáng tỏ học thuyết là ví dụ đưa ra làm kiểu mẫu cho đời sống tôn giáo hay luân lý ta phải bắt chước noi theo.
Đúng ra, nhà luật sĩ, với thiện ý hay ác ý - đã đến hỏi điều các ông phải làm để sống đời đời. Mất mặt vì chính ông phải trả lời câu hỏi mình nêu lên, ông muốn tranh luận về lý thuyết, nhưng CGS đã lèo lái câu chuyện theo ý Ngài. Ngài đã chú ý đến câu hỏi của nhà luật sĩ, vì Ngài luôn quan tâm đến việc cứu rỗi các linh hồn. Giống như trường hợp tha tội cho người đàn bà tội lỗi, Ngài đã tìm cách đánh thức tâm hồn ông Simon trước giá trị của lòng biết ơn (7,36-50); ở đây cũng vậy, Ngài ban cho nhà luật sĩ ánh sáng sự sống, chứ không phải một câu định nghĩa chuyên môn. Vì điều cốt yếu không phải là biết ai là cận nhân, nhưng là bác ái hành động giúp kẻ khác, dù họ là ai mặc lòng (2 câu 37 và 36 đều nói đến động từ làm, hành động (pôieô). Vì thế, dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của CGS thực sự đã trả lời câu hỏi đầu tiên của nhà luật sĩ: “Tôi phải làm gì để sống đời đời ?”
Cũng không chắc câu hỏi tis estis mou plêsion (c.29) có nghĩa: “Ai là cận nhân của tôi ?”. Vì plêsion là một trạng từ và không có mạo từ đi trước như ở câu 27. Sự khác biệt về hình thức tạo nên sự khác biệt về ý nghĩa. Nếu hiểu là “Ai là cận nhân của tôi” hoặc “đối với tôi cụ thể mà nói, ai là một cận nhân ?”, phải thú nhận rằng dụ ngôn đã trả lời vấn nạn luân lý trên bình diện thực tiễn: người Samaritanô là người duy nhất đã cảm thấy và tỏ ra mình là cận nhân của kẻ xấu số; do đó, chính tình yêu làm ta thành cận nhân; nhờ tình yêu ta thành anh em của mọi người, dù họ gần hay xa ta, về phương diện máu mủ, quốc tịch, tôn giáo... CGS “không trả lời”, nhưng đã “lèo lái” cuộc đối thoại, theo ý hướng ban đầu: để sự sống đời đời, phải... yêu tha nhân như chính mình (c.27). Trong lúc nhà luật sĩ muốn hiểu rõ từ ngữ “tha nhân”, CGS xác định từ ngữ “yêu”, như Ngài đã làm trong dụ ngôn ở đồng bằng (chương 6). Là tiên tri của giao ước mới, Ngài xác định ý nghĩa âgâpê (tình yêu) mà TC đòi buộc. Chứng cớ cho thấy đó là thực tại đề cập đến, và tha nhân định nghĩa bằng các phạm trù pháp lý, chứng cớ ấy là: nhà luật sĩ đã chấp nhận giáo huấn của CGS (c.37), khi mà ông có thể bắt bẻ Ngài đã không trả lời đúng câu hỏi.
Do đó, phải công nhân không những trình thuật này đồng nhất mà còn là một trong các giáo huấn cô đọng nhất của phúc âm về tình bác ái CGS mời ta suy nghĩ: “Theo ông, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp ?” (c.36). Thực ra trong ba người, chỉ có người Samaritanô là có liên hệ. Thày tư tế và thày trợ tế Lêvi, đại diện hàng giáo phẩm Do thái, nhắc đến để nói lên sự đối nghịch giữa óc vị luật của CƯ với tinh thần của TƯ. Họ có lý do tránh né người bị thương tích và biện minh việc họ từ chối giúp đỡ người vô danh đang gặp hiểm nguy. Là nạn nhân của bọn cướp, người này có thể bị TC phạt, nên phải vui lòng cam chịu (Giop 6,14.21; 7,8; 16,11); đến gần người đó có thể mắc tội ô uế theo lề luật và do đó không thể cử hành các nghi lễ tế tự (x.Ds 19,11.14). Dĩ nhiên, thái độ của hai nhà tư tế là một thái độ hờ hững, nhưng thật ngạc nhiên không thấy CGS chê trách phàn nàn họ gì cả. Chính CGS đã chấp hành tốt luật bác ái trước khi giảng về bác ái.
4. Thật có ý nghĩa, khi CGS chọn người Samaritanô trong dụ ngôn nói về tình bác ái huynh đệ. Dù là người lạc giáo, người ngoại quốc không biết gì về lề luật như nhà luật sĩ, không có phẩm cách tế tự như thày tư tế và trợ tế Lêvi, ông đã tỏ ra là người thật nhân bản và đạo đức. Đã chấp hành tốt hai giới luật lớn của CƯ và của TC sau này nói về tình bác ái. Trong ba khách bộ hành ông là khuôn mặt người Do thái đích thật. Hơn nữa, trong bài giảng ở đồng bằng, CGS đã đòi các môn đệ Ngài đừng hạn hẹp tình yêu của họ trong phạm vi bà con quen biết. Nhưng nhờ yêu thương tất cả mọi người, mà người Kitô hữu khác với “người tội lỗi” (Lc 6,32-34) và trở thành (hay tỏ ra) là Con Đấng tối cao. Và này, người Samaritanô khi giúp một kẻ vô danh trở thành kiểu mẫu của tình bác ái đích thực. Phải chăng ngoài tôn giáo chính thức, cũng có thể có người con đích thực của TC, mà Chúa Cứu thế đến tập họp lại (Gio 11,52) ? Chính với một người nữ xứ Samaria, mà CGS đã mạc khải việc tế tự trong tinh thần và chân lý, gạt bỏ mọi phân biệt chủng tộc và nghi lễ (Gio 4,23-24). Phải chăng tình bác ái đã tạo nên việc thờ phượng đẹp lòng chúa Cha ? Quả thực, văn mạch dụ ngôn dạy rằng chính bác ái mới chiếm hữu sự sống vĩnh cửu (cc.25.28.37), và đó cũng là học thuyết mà thánh Phaolô và thánh Gioan hết sức nhấn mạnh.
KẾT LUẬN
Để thay thế một vấn nạn có thể gây ra nhiều tranh luận về các loại cận nhân khác nhau, CGS đã chất vấn về các thực tại sống động. Nhà luật sĩ không thể chạy trốn bài học trước mắt: ai lâm cảnh thiếu thốn đều có quyền đòi yêu thương, thể hiện bằng hành động. Họ là cận nhân của ta, và ngược lại ta là cận nhân của họ. Cũng như người Samaritanô nhân hậu đã cảm thông yêu thương người không thân thích, không có người đồng bào, đồng đạo; không gì có thể ngăn cản tình yêu của ông đối với tha nhân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Cách cư xử của người Samaritanô nói lên một đức ái hoàn hảo bộc phát và nhanh nhẹn. Dù đã biết luật bác ái huynh đệ, người ký lục cũng hỏi CGS về trương độ của tình yêu. Ông chỉ yêu và vì trong giới hạn luật buộc. Còn người Samaritanô yêu, dù không biết khoản luật đó, cũng như không biết đối tượng tình yêu của mình.
2. Trong bài giảng trên núi, CGS đòi người ta đừng chỉ yêu vì đã yêu. Người Samaritanô, không là người đầu tiên yêu thương mà tình yêu của ông còn là một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu hiến dâng trọn vẹn... Cho nên đừng phân biệt trong nhân loại ai là người ta có thể yêu mến, nhưng hãy bắt đầu yêu, với tình yêu phổ quát.
3. Đối nghịch với sự từ chối dấn thân của người đi trước lòng bác ái của người Samaritanô có tính cách cá vị, tích cực và thiết thực. Ông đã bỏ dở cuộc hành trình, để băng bó người bị thương và trang trải mọi phí tổn. Không những ông đã quảng đại đem tiền bạc ra giúp đỡ, mà chính ông đã dấn thân phục vụ người anh em.
4. Dụ ngôn còn nói lên điều này: đức ái bao hàm lòng cảm thông và thương xót. Người Samaritanô có thể đoán kẻ bị thương trên đường Giêrusalem về Giêricô là một người Do thái, nghĩa là một kẻ thù không đội trời chung. Thế mà này không ông đã giúp đỡ, mà còn cảm động khi thấy anh ta bị ngược đãi như vậy ! Đó là điểm CGS nhấn mạnh hơn cả: liền sau khi thấy người bị thương, ông đã động lòng thương. Đây là tình cảm tinh tuyền, chân thật khiến ông đã “đối xử đẹp”, khác với thày tư tế và trợ tế Lêvi.
5. Yêu mến TC trong nhà thờ chưa đủ (thày tư tế và thày Lêvi trong dụ ngôn vừa rồi rời Giêrusalem, là nơi họ đã chu toàn bổn phận tế tự trong đền thờ, nhưng hình như họ chưa sống đạo), nếu không yêu mến Ngài trên đường đi và trong người anh em (thày tư tế, thày Lêvi, người công giáo ngoan đạo ngày hôm nay, đã làm ngơ tránh xa, trong khi người Samaritanô - người tin lành hay Phật tử - dừng lại chăm sóc người khốn khổ). Tế tự, mà không yêu tha nhân, đối với TC là một điều ghê tởm đáng ghét, như các tiên tri đã dạy.
6. Đức Kitô đã là người Samaritanô tốt lành đối với chúng ta. Ngài đã rời bỏ Giêrusalem thiên quốc để đến băng bó và chữa lành các vết thương mà tội lỗi và sự chết gây ra cho nhân loại. Đoạn Ngài ra đi, để nhân loại trong quán trọ là giáo hội Ngài. Bây giờ đến lượt chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ người Samaritanô nhân lành bên cạnh tất cả ai chúng ta gặp và chân tình giúp đỡ băng bó các vết thương của họ (nghèo nàn, chết chóc, đau yếu, cô đơn...) chính với chúng ta mà CGS ban huấn lệnh cấp bách này: “hãy đi và làm như thế”. Nếu luôn nghe tiếng Ngài, chúng ta “sẽ sự sống đời đời” (c. 25)
Tuần trước đi ngang qua một khu xóm, tôi nghe bài hát có lời ca: Lạy Chúa con là người ngoại: TN 15-C28
Tuần trước đi ngang qua một khu xóm, tôi nghe bài hát có lời ca: Lạy Chúa con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ngự trên cao.
Tôi tự hỏi: Tại sao là người ngoại đạo mà lại tin là có Chúa ngự trên cao ? Đã tin có Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn là ngoại đạo thì chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo đó thôi.
Tôi đã gặp nhiều người có đạo mà không sống đạo. Và tôi cũng đã gặp nhiều người sống đạo mà không có đạo.
Nói về đạo và sống đạo, tôi thấy trong Phúc Am có nhiều câu chuyện tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.
- Khi Chúa Giêsu vác thập giá lên Núi Sọ, đường dài, sức nặng của thập giá, kiệt sức vì bị hành hạ, Chúa Giêsu gục ngã ba lần. Kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa là ông Simon người xứ Kyrênê, một người ngoại đạo.
- Khi Chúa Giêsu đến Caphanaum, Viên Bách Quản, một người ngoại đạo đến gặp và van xin: Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà đau đớn lắm. Chúa nói: Ta phải đến chữa nó. Viên Bách Quản thưa lại: Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, nhưng Ngài hãy phán một lời, đứa hầu nhà tôi sẽ khỏi. Nghe vậy Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: Quả thật Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel.
- Một lần khác Chúa Giêsu vào một làng kia, có mười người phong hủi đến gặp Ngài. Từ đàng xa họ đã lên tiếng thưa: Lạy Thầy Giêsu xin thương xót chúng tôi. Thấy vậy, Chúa bảo họ: Hãy đi trình diện với hàng Tư Tế. Và xảy ra là khi họ đi thì họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành liền quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari, người ngoại đạo. Chúa Giêsu cất tiếng nói: Không phải là cả mười người được sạch cả sao, chín người kia đâu không thấy họ quay trở lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại này?
- Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn: một người ở Giêrusalem xuống Giêricô, giữa đường bị bọn cướp trấn lột, đánh cho nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Thầy Tư Tế đi qua, thấy vậy liền lãng tránh. Thầy Lêvi đi tới cũng chẳng ngó ngàng, bỏ mặc nạn nhân. Một người ngoại đạo Samari đi ngang, thấy người lâm nạn, chạnh lòng thương liền băng bó, đặt lên lưng lừa đưa về quán trọ, nhờ chủ quán săn sóc rồi trả hết mọi phí tổn.
Thầy Tư Tế, Thầy Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn nữa họ còn là kẻ rao giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng không sống đạo. Người Samari,kẻ sống đạo lại là người không có đạo.
Như thế kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa trên con đường dài với những bước chân xiêu té cuối đời là người ngoại đạo. Kẻ tỏ lòng biết ơn khi được Chúa chữa lành là người ngoại đạo. Ke thể hiện lòng bác ái xót thương không phải là Tư Tế, là Lêvi, các chức sắc trong đạo mà là người Samari, người ngoại đạo.
Khi băn khoăn tự hỏi: thế nào là người bên ngoài, thế nào là người bên trong ? Thế nào là có đạo, thế nào ngoại đạo ? Tôi thấy trong Phúc Am có lần Chúa Giêsu nói: Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ từ Phương Đông, Phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Giacop trong Nước Trời, còn chính con dân trong nước lại sẽ bị đuổi ra ngoài tối tăm.
Vậy thì có một khoảng cách rất lớn giữa hiểu biết về đạo và sống đạo. Đạo thì mênh mông vô bờ bến như đất trời, làm sao có thể đem đạo vào một định nghĩa chật hẹp được ? làm sao có thể nhốt đạo vào nhà thờ ? làm sao vẽ chân dung đạo bằng tờ giấy rửa tội được ? bởi lẽ “Đạo khả đạo phi thường Đạo” ( Lão Tử)
Hiểu biết về đạo được thể hiện qua đời sống đạo. Có người nói rằng: tôi tin đạo chứ tôi không tin người có đạo. Đạo thì tốt, nhưng nhiều người có đạo lại xấu. Có nhiều người ngoại đạo lại tốt hơn người có đạo. Họ nói như thế vì họ thấy nhiều người có đạo mà lại không sống đạo của mình. Quả thật, con đường dài nhất là con đường từ cái đầu đến bàn tay. Giữa suy nghĩ, lời nói và việc làm, giữa hiểu biết và cuộc sống có một khoảng cách thật lớn.
Đức Khổng Tử đã nói chí lý: Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo. Nghĩa là: đạo không xa cái bản tính của người ta, nếu theo đạo để cho xa cái bản tính của người ta thì không phải là đạo.
Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Thiên Chúa làm người, rất gần gũi với con người. Vì con người là con đường của Giáo hội ( ĐGH Phaolô II). Người Đông Phương chúng ta lấy chữ nhân mà định nghĩa con người: nhân là người, nhân là nhân ái là lòng thương người. Ai không biết thương người khác là kẻ không xứng danh là người. Nhân bản và nhân ái có quan hệ mật thiết với nhau.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu kể, tôi thấy rằng, cái khác biệt sâu xa giữa Kitô giáo và Do Thái giáo đó là: một bên là đạo của tình yêu, một bên là đạo của lề luật. Tư Tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu. Những người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Thấy người bị nạn, người Samari tốt lành đã động lòng xót thương. Lương tâm và tình thương đồng loại thúc đẩy anh cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn bất chấp nạn nhân là người Do Thái thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc của anh. Cung cách hành xử đầy tình thương này mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã khéo léo lái vấn đề từ câu hỏi người thông luật: ai là người thân cận của tôi ? sang gợi ý tuyệt vời của Ngài: tôi là người thân cận của ai ? Trả lời câu hỏi này có lẽ phải đi từ cuộc sống cụ thể của mình. Khi tôi đến gần ai để phục vụ với tình yêu thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy thành người thân cận với tôi. Ai cũng có thể trở thành người thân cận của tôi nếu tôi yêu thương họ bằng tình yêu mà Chúa đã thương yêu tôi.
Càng hiểu biết về đạo càng phải sống đạo. Chúa Giêsu dạy rằng: “ ai yêu mến Thầy sẽ giữ Lời Thầy”. Đạo của Thầy Giêsu là Đạo tình yêu. Yêu Chúa, yêu người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Yêu Chúa đích thực thì phải yêu người. Thánh Gioan đã viết:ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối. Đối với Thánh Phaolô: yêu thương là giữ trọn lề luật. Lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu mà cho người không có tình yêu. Nếu không có tình yêu thì việc làm theo lề luật có tốt đến đâu cũng vô giá trị: giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Thánh Augustinô khuyên nhủ: cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu sẽ cho biết ta phải làm gì.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con rằng: không phải những người cứ kêu lên “Lạy Chúa, Lạy Chúa..” là được vào Nước Trời. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha mới được vào mà thôi. Xin cho Lời Chúa dạy in vào lòng trí chúng con, và Lời Chúa được thể hiện trong đời sống đạo của chúng con hàng ngày. Amen
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần: Phần thứ nhất: Một người thông luật hỏi Đức Giêsu: TN 15-C29
Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần: Phần thứ nhất: Một người thông luật hỏi Đức Giêsu về điều kiện để được sống đời đời. Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: Một người thông luật hỏi Đức Giêsu về điều kiện để được sống đời đời. Rồi ông kể ra hai điều Luật dạy là mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu mình. Đức Giêsu khen nhà thông luật hiểu đúng và dạy ông ta hãy làm như Luật dạy thì sẽ được sống đời đời.
Phần thứ hai: Nhà thông luật hỏi Đức Giêsu về người thân cận mà ông phải yêu là ai ? Để trả lời, Đức Giêsu kể ra dụ ngôn về người Samari nhân hậu như sau: Có một người Do thái kia bị cướp đánh gần chết nằm thoi thóp bên vệ đường. Thầy tư tế và thầy Lêvi đi tới trông thấy nạn nhân đều tránh sang bên kia đường mà đi. Còn người Samari thì đã chạnh lòng thương người gặp nạn. Ông ta tận tình giúp đỡ mà không suy nghĩ thiệt hơn. Sau cùng Đức Giêsu dạy nhà thông luật kia hãy làm như người Samari.
2) CHÚ THÍCH:
- Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” Người đáp: “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” Ong ấy thưa: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình” Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10,25-28):
+ Người thông luật: Từ này chỉ các kinh sư Do thái, là những nhà thông thái hiểu biết về Luật Môsê và có quyền giải thích Luật cho dân chúng.
+ Đứng lên: Thường khi giảng Đức Giêsu ngồi ở một ghế cao và dân chúng thì ngồi chung quanh. Người thông luật ở đây đứng lên để ra vẻ trịnh trọng và nghiêm túc.
+ Hỏi Đức Giêsu để thử Người: Các người thông luật thường coi mình là giỏi, không cần phải hỏi ai cả. Ở đây họ hỏi Đức Giêsu chỉ để kiểm nghiệm, thử thách, gài bẫy hầu có thể bắt bẻ Người mà thôi.
+ Làm gì để được sống đời đời ?: Người thông luật thuộc phái Pharisêu tin có đời sau và sự kẻ chết sống lại nên ông đã đặt ra câu hỏi này. Còn các người phái Sa-đu-xê-ô thì không tin có chuyện kẻ chết sống lại (x. Cv 23,6-8).
+ Trong Luật đã viết gì ?: Người Do thái gọi năm cuốn đầu trong bộ Thánh Kinh Cựu Ước là các sách Luật của Môsê và do Môsê viết ra. Đó là các sách: Sáng Thế Ký, Xuất Hành, Lêvi, Dân số và Đệ Nhị Luật.
+ Ong đọc thế nào ?: Đức Giêsu trả lời bằng một câu hỏi, buộc người đối thoại phải tỏ rõ lập trường của mình ra trước.
+ Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa…: Người thông luật đọc kinh Shê-ma là lời cầu nguyện hằng ngày của người Do thái. Kinh này gồm hai ý rút ra từ 2 sách Đệ nhị luật (Đnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Điều đó cho thấy Cựu Ước đã có sự chuẩn bị cho Tân Ước.
+ Đức Giêsu bảo ông ta: “Ong trả lời đúng lắm…”: Để được sống đời đời thì phải sống yêu thương. Tin Mừng Mátthêu 22,34-40 và Máccô 12,28-31 cũng có nội dung tương tự. Nhưng Tin Mừng Luca không phân biệt hai giới răn này. Lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận luôn đi đôi với nhau.
- Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” Đức Giêsu đáp: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết (Lc 10,29-30):
+ Ong ấy muốn chứng tỏ là mình có lý: Người thông luật muốn cho thấy mình thực tâm tìm hiểu. Ong ta muốn mở rộng vấn đề bằng một câu hỏi ngoài Luật và khó trả lời hơn so với câu hỏi trước vốn đã có sẵn đáp án trong Luật.
+“Ai là người thân cận của tôi ?”: Câu hỏi này mở đường cho Đức Giêsu dễ dàng bày tỏ quan điểm có tính cách mạng của Người, khác với quan niệm cổ truyền hẹp hòi của người Do thái về đối tượng phải yêu mến. Đức Giêsu dạy phải yêu cả kẻ thù của mình !
+ “Một người kia…”: Câu đáp của Đức Giêsu là một dụ ngôn như ở nhiều chỗ khác. Nhưng đây là một ví dụ từ đó người nghe rút ra một bài học cho mình. Ví dụ này sẽ giúp người thông luật vượt lên trên cái nhìn hạn hẹp trước đây của ông.
+ Con đường từ Giêrusalem xuống Giê-ri-khô: Con đường này dài gần 25 cây số, băng ngang hoang địa Giu-đa, thời bấy giờ có nhiều băng trộm cướp ấn núp hoạt động.
- Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Samari kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương (Lc 10,31-33):
+ Thầy tư tế đi xuống: Tư tế là những người thuộc dòng dõi A-a-ron có nhiệm vụ lo việc thờ phượng, dâng chiên bò sát tế trong cung thánh. Vị này đi xuống Giê-ri-khô vì thành này là một trong các thành dành cho các tư tế ở.
+ Thầy Lêvi: hay thầy trợ tế, thuộc dòng dõi Ghéc-sôn, là một trong ba ngành lớn của dòng họ Lêvi (x. St 46,11). Các thầy trợ tế Lêvi có nhiệm vụ lo về đàn hát nơi đền thờ.
+ Một người Samari kia: Am chỉ những người sống ở miền đất Samaria, nằm giữa hai miền Galilê và Giuđê của nước Do thái. Họ bị người Do thái coi là dân lai căng và khinh thường. Vì trong cuộc lưu đày vào năm 721, một số người Do thái ở miền này đã không bị đi lưu đày. Họ ở lại và dựng vợ gả chồng lẫn lộn với dân Ninivê từ Ba-tư kéo xuống. Dân Samari thờ Chúa trên núi Garidim, và không hành hương lên đền thờ Giêrusalem và có thái độ không sẵn sàng giúp đỡ ai đi hành hương về Giêrusalem (x. Ga 4,20; Lc 9,53).
+ Đi ngang qua đường cũng thấy và chạnh lòng xót thương: Đức Giêsu đưa ra ba nhân vật, hai người là Do thái và một là dân bị coi là lạc giáo. Thầy tư tế và thầy Lêvi tuy phục vụ đền thờ, nhưng lại làm ngơ trước người đồng bào gặp nạn. Họ sợ chạm vào máu người hoặc xác chết thì sẽ bị ô uế theo Luật. Còn người Samari kia khi gặp nạn nhân đã “Chạnh lòng thương” và ra tay giúp đỡ. Nhiều lần Đức Giêsu cũng “chạnh lòng thương” trước đám đông khốn khó, các bệnh nhân, những người đau khổ (x. Mt 9,36; Mc 8,2; Lc 7,13).
- Ong ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy, và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác (Lc 10,34-35):
+ Lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương: Người Samari làm động tác sơ cấp cứu theo y học sơ đẳng thời bấy giờ: dùng dầu để giảm đau và rượu để rửa sạch vết thương.
+ Hai quan tiền: Lương hai ngày công lao động (x. Mt 20,9).
- Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ong hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10,36-37):
+ “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?”: So sánh giữa câu hỏi và câu trả lời, ta thấy: Người thông luật đặt câu hỏi theo nghĩa thụ động: “Ai là người thân cận của tôi ?” Còn Đức Giêsu trả lời theo nghĩa chủ động: “Ai đã tỏ ra là người thân cận với người bị rơi vào tay kẻ cướp ?” Như vậy, chúng ta sẽ là người thân cận của người gặp nạn nếu chúng ta yêu thương giúp đỡ họ.
+ Hãy làm như vậy: Trong ba cách xử thế của vị tư tế, thầy Lêvi và người Samari đối với nạn nhân, Đức Giêsu công nhận lối xử thế của người Samari là hợp với giáo lý của Người. Người đề nghị ông thông luật ra đi và làm theo người Samari. Tình thương Kitô giáo là thứ tình thương không biên giới, không cần biết có cùng chủng tộc, tôn giáo hay không.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.
2) CÂU CHUYỆN: Tôi đã phớt lờ cô bé
Tại một giao lộ, có một phụ nữ tuổi trung niên đang đứng ở chỗ dành cho người đi bộ chờ đèn đỏ. Phía bên kia đường cũng có một cô gái trạc độ 17 tuổi đang chờ để qua đường. Trên mặt cô gái hằn lên vẻ đau đớn và đầy nước mắt. Khi mắt họ gặp nhau thì cô gái vội quay sang chỗ khác. Lúc đèn đỏ, cả hai vội đi qua đường. Khi chạm mặt nhau, bản năng làm mẹ khiến người phụ nữ muốn cầm lấy tay cô gái đáng tuổi con gái của bà để hỏi thăm và an ủi. Thế nhưng thực tế bà đã không làm gì khi hai người giáp mặt nhau.
Mấy giờ sau đó, cặp mắt đầy vẻ đau khổ của cô gái kia vẫn ám ảnh người đàn bà. Bà tự trách mình tại sao không nói với cô gái: “Này em, tại sao em khóc?” Thế nhưng bà đã phớt lờ đi qua cô gái. Có lẽ bà sợ bị cô ta từ chối vì cho rằng bà đã xía vào chuyện riêng của cô ta. Nhưng nếu trường hợp đó xảy ra thì cũng đâu có gì là nghiêm trọng ! Bà chỉ cần bỏ ra vài giây thôi. Nhưng cũng đủ cho cô bé biết rằng trên đời này vẫn còn có người quan tâm đến cô. Thế mà bà đã bỏ qua !
3) SUY NIỆM:
- Ít câu chuyện có thực nào minh họa rõ hơn chủ điểm của bài Tin Mừng hôm nay: Chúng ta đâu phải mất nhiều công sức để biểu lộ tình thương đối với một người đau khổ. Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu nêu ra hình ảnh ba nhân vật khác nhau: thầy tư tế, thầy Lêvi và Samari
+ Trước hết là vị tư tế: ta có thể ví vị này như một linh mục thời nay. Có lẽ ông ta đang trên đường về nhà sau khi thi hành chức vụ trong đền thờ Giêrusalem. Khi gặp nạn nhân kia, có thể ông ta nghĩ rằng người này đã chết, nên không dám đụng vào để khỏi bị ô uế theo luật Môsê, nên tốt hơn là tránh và đi sang đường bên kia để mau về nhà.
+ Tiếp theo là thầy Lêvi: Ta có thể ví thầy như một tu sĩ ngày nay. Thầy cũng mới phục vụ đền thờ và đang trên đường về tu viện. Trông thấy nạn nhân máu me đầy mình, nên đoán chừng anh ta đã chết và sẽ bị ô uế nếu chạm phải. Cũng có thể thầy sợ người đó chỉ giả đò để bất ngờ tấn công khi thầy cúi xuống giúp đỡ. Vì thế thầy chọn giải pháp bỏ đi qua.
+ Cuối cùng là người Samari: Anh ta tích cực giúp đỡ nạn nhân, bất chấp hiểm nguy, không ngại tốn phí tiền bạc và giúp đỡ đến nơi đến chốn. Qua hành động của người này, Đức Giêsu muốn cho đám thính giả Do thái đầy thành kiến và vụ lề luật một bài học về tình yêu không biên giới. Tình yêu tìm đến giúp đỡ những ai đang gặp khó khăn. Tình yêu không phớt lờ bỏ đi, nhưng dừng lại giúp đỡ hết mình, bất kể người đó là ai.
- Bài Tin Mừng mời gọi chúng ta xét mình: “Tôi đã cư xử thế nào đối với những kẻ đang gặp khó khăn ? Tôi có sẵn sàng giúp đỡ hay phớt lờ ? Nhất là tôi có cư xử tốt đối với những người ruột thịt của mình như cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em…khi họ đang cần sự trợ giúp của tôi ? Đức Giêsu chỉ đòi chúng ta dẹp bỏ tự kiêu, sẵn sàng cư xử nhân hậu với tha nhân. Nhưng nếu bị họ từ chối thì sao ? Thì cũng như suy nghĩ của người phụ nữ trong câu chuyện trên: “Đâu có sao ! Ít là cô ấy cũng biết rằng: vẫn có người quan tâm đến cô.
4) CÂU CHUYỆN 2: Nên giúp đỡ hạng người nào ?
Những người lái xe trên đường sẽ mau mắn dừng lại để giúp đỡ hạng phụ nữ nào đang gặp khó khăn dọc đường: Một phụ nữ mang bầu hay một bà cụ già gầy yếu ? Một cô Híp-pi choai choai, một phụ nữ đứng đắn hay một cô gái ăn mặc hở hang ? Câu hỏi này đã được tạp chí Nê-sơn-nô En-quai-ơ (National Enquirer) giải đáp bằng cách tiến hành một cuộc thử nghiệm trên con đường số một thuộc tiểu bang Flo-ri-đa Hoa Kỳ, với sự cộng tác của cô Sally Mullins, một diễn viên 22 tuổi. Cô ta lần lượt hóa trang thành 5 vai phụ nữ khác nhau bị hư xe hơi dọc đường, và đang chờ được sự giúp đỡ của người đi đường. Kết quả của cuộc thử nghiệm như sau:
Đầu tiên với bộ y phục mầu đen trang nhã, mang dáng dấp của một nữ công chức, cô đứng bên chiếc xe hơi với cốp xe được nhắc lên, làm dấu hiệu xe cô đang bị hư. Cô cầm tấm biển báo có chữ “Stop” và chờ được trợ giúp. Cô đợi đúng một phút rưỡi thì chiếc xe thứ 62 trên đường đã dừng lại và sẵn sàng giúp đỡ cô. Người lái xe này là một chàng thanh niên khoảng 30 tuổi. Kế đến, với kiểu hóa trang thành một phụ nữ mang bầu. Mullins đứng bên chiếc xe và lần này cô phải chờ đến 2 phút rưỡi và đã có hơn 100 chiếc xe cứ chạy vụt qua. Sau đó thì một đôi vợ chồng đang đi ngược chiều đã vòng xe lại đề nghị giúp đỡ. Anh chồng cho biết lý do: “Chúng tôi đang đi trên đường về nhà. Tôi nhìn thấy chị và suy tính có nên dừng lại giúp đỡ hay không. Cuối cùng chúng tôi quyết định vòng xe lại để xem rất có thể chị đang cần đến bệnh viện gấp thì sao ?” Tiếp đến, trong vai một bà cụ gầy yếu, cô đã phải đợi đến 5 phút và phải dõi mắt nhìn theo tới 300 chiếc xe lần lượt phóng qua. Rồi sau hết cũng có một đôi nam nữ sinh viên chịu dừng lại hỏi thăm và sẵn sàng giúp đỡ “bà”. Sau đó, trong bộ y phục của một cô gái Híp-pi choai choai. Quần “din” bó sát, áo chim cò. Tóc dài hoang dại, tay phì phèo điếu thuốc…thì kết quả tồi tệ: Không một ai chịu dừng xe lại giúp cô cả ! Chờ đến hơn 15 phút và đếm được tới 500 chiếc xe đủ loại, gồm xe hơi, xe tải, xe buýt, xe gắn máy… đi qua. Thế mà không một ai, thậm chí chỉ đi chậm lại khi ngang qua xe cô ! Cuối cùng, khi nữ diễn viên khoác lên người một chiếc áo mi-ni lượn sát thân mình với những đường cong tuyệt mỹ đầy hấp dẫn. Cô chỉ vừa bước ra khỏi xe và chưa kịp mở cốp xe lên như những lần trước, thì đã có một chàng thanh niên hào hoa dừng xe lại phía sau và xin được giúp đỡ. Chỉ mất không đầy 20 giây đồng hồ, cô đã được sự giúp đỡ tận tình rồi ! Còn các bạn trẻ chúng ta: Để thực hành bác ái theo gương người Samari trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ tận tình giúp đỡ hạng người nào trong 5 người trên ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mắt chúng con nhìn thấy được nỗi đau khổ trong ánh mắt kẻ khác, đặc biệt những người thân trong gia đình chúng con. Xin cho tai chúng con biết lắng nghe tiếng khóc của kẻ khác, đặc biệt của những kẻ cùng chung huyết nhục với chúng con. Xin cho chúng con biết lưu tâm thương xót những người khốn khó, đặc biệt những người thân yêu của chúng con.
Lạy Chúa, Xin cho chúng con đủ khiêm tốn để đừng bao giờ gặp người đau khổ mà phớt lờ bỏ đi vì lười biếng, vì sợ bị từ chối, nhưng cho chúng con can đảm đến gần đề nghị giúp đỡ họ: “Này anh, Tôi có thể giúp gì cho anh ?”
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Thường thì con chỉ quan tâm giúp đỡ bạn bè, những người con thích, những kẻ làm ơn cho con. Còn những kẻ xa lạ, những người con không ưa, những kẻ con ghét…thì họ gặp khó khăn hoạn nạn, con thường mặc kệ họ. Qua bài Tin Mừng hôm nay, con hiểu rằng: Người tỏ ra thân cận với người gặp nạn không phải là thầy tư tế hay thầy Lêvi đạo đức, nhưng chính là người ngoại đạo, không cùng chủng tộc với người xấu số.
Lạy Mẹ Maria, Con thấy người Samari tốt lành ấy chính là Chúa Giêsu. Chỉ vì yêu loài người đang bị dập vùi trong cái chết do tội lỗi mà Chúa đã xuống thế để cứu chúng con và cho chúng con được sống đời đời. Chúa không phân biệt giàu nghèo, nam nữ, chủng tộc hay coi họ có tin thờ Chúa không. Chúa không kỳ thị và tỏ lòng thương xót chúng con bằng việc nhập thể để cứu chuộc chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con biết yêu thương tha nhân như Chúa dạy…Xin Mẹ cho con đừng để trái tim con hóa ra chai đá lạnh lùng. Xin giúp con đổi mới tâm hồn để con xứng đáng được sống đời đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Giữa biết và làm, Chúa Giêsu đã chọn “làm”. Mẩu đối thoại giữa Chúa và người luật sĩ đã cho: TN 15-C30
Giữa biết và làm, Chúa Giêsu đã chọn “làm”. Mẩu đối thoại giữa Chúa và người luật sĩ đã cho biết sự khác biệt giữa biết và hành động rất khác nhau. Cũng như con đường từ khối óc đến quả tim xa bao nhiêu, thì con đường từ khói óc đến bàn tay cũng xa bấy nhiêu. Vì trong thực tế, nhiều người biết mà vẫn không yêu, không mến. Và cũng có rất nhiều người biết mà không bao giờ thực hành cái mình biết.
Theo tâm lý bình thường, một người nghiện, thí dụ nghiện rượu, nghiện xì ke, ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện sắc dục bao giờ cũng chối căn bệnh nghiền của mình. Những người này khi tỉnh táo họ nói rất hay và bàn luận rất chính xác về lý do, và hậu của của việc uống rượu, hút xách, và những hành động tình dục. Họ cũng biết cách thức phải áp dụng như thế nào để chừa, để bỏ những tập quán xấu, những hành vi xấu xa và nguy hiểm ấy, nhưng họ không làm, không chừa, với lý do duy nhất: tôi không phải là những người như thế. Đó là cái khó và cái nghịch lý của trí óc và bàn tay. Của lý thuyết và thực hành. Của biết và làm.
Đối tượng của cái biết
Người luật sỹ trẻ mà thánh ký Luca đã ghi nhận hôm nay cũng vướng vào cái nghịch lý qua câu hỏi mà ông đã hỏi Chúa Giêsu. Ông muốn biết làm cách nào ông có thể chiếm hữu được sự sống đời đời: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để chiếm hữu được sự sống đời đời” (Luca 10:25).
Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của người luật sỹ này, vì biết ông ấy hỏi là để chứng tỏ mình thông thái, chứ không có ý muốn tìm một phương pháp để thực hành sự hiểu biết của ông. Chính ông cũng đã biết câu trả lời như thế nào rồi. Trong trường hợp này, đối tượng sự hiểu biết của ông là thỏa mãn nhu cầu của lý trí. Hãy nghe Chúa Giêsu khen sự hiểu biết ấy của ông sau khi ông đã trả lời ngài những lý do để chiếm hữu được nước trời: "Ông đã trả lời đúng lắm” (Luca 10:28).
Nhưng Chúa Giêsu muốn dẫn ông đén một đối tượng khác. Đối tượng của cái biết thực hành, và vì thế ngài đã nhắc nhở ông cũng bằng một câu hỏi liên quan đến cái biết của ông: “Trong luật đã viết gì? Ông đã đọc thấy gì?” (Luca 10:26). Và quả đúng như Chúa Giêsu đã thấu hiểu, người luật sỹ này cứ thế mà trả bài một cách hết sức “thông thái”. Phần ngài, ngài bảo ông ta: “Ông đã trả lời đúng lắm. Hãy làm như vậy và ông sẽ được sống đời đời” (Luca 10:28). Ở đây, theo Chúa Giêsu thì cái biết thực hành mới là điều quan trọng. Người ta không vào Thiên Đàng bằng những mớ lý thuyết trìu tượng, bằng những bộ óc thông thái kinh điển, nhưng bằng những việc làm đơn sơ, chân thành nhưng bền bỉ.
Đối tượng của hành động
Con đường từ óc đến bàn tay đi qua trái tim. Con đường này xa và dài hơn con đường từ óc đến trái tim và nó rất đúng với trường hợp của người luật sỹ trong trích đoạn Tin Mừng mà Thánh Luca kể lại; dĩ nhiên, cũng rất đúng cho hầu hết về thái độ sống của chúng ta. Theo Thánh Luca, sau khi được Chúa Giêsu khen là trả lời đúng, biết đúng, ông đã không muốn dừng lại ở cái biết ấy bằng hành động, bởi vì cái biết của ông lúc đó chưa chinh phục nổi con tim của ông, và nó cũng chưa đến được với đôi tay của ông. Tóm lại, ông chỉ biết vì thích biết, muốn biết, và vì thế, ông tiếp tục hỏi Chúa Giêsu: “Vậy ai là anh em tôi” (Luca 10:29). Cũng như câu hỏi truớc, ông đã biết câu trả lời là như thế nào rồi.
Phần Chúa Giêsu, để trả lời ông, Chúa Giêsu đã không lý thuyết dài dòng, nhưng ngài đã dùng một hình ảnh thực tế, một thực tế xẩy ra thường ngày trong cuộc sống qua thí dụ về một nạn nhân trong một vụ cướp. Câu truyện được diễn tiến bằng những hình ảnh rất trung thực và sống động gồm việc bị cướp giật, bị đánh trọng thương, bỏ lây lất nửa sống nửa chết. Một vài người đi qua thấy nhưng làm ngơ, và sau cùng cũng có kẻ động lòng trắc ẩn cứu giúp.
Qua câu truyện ấy, Chúa Giêsu đã cho thấy tất cả những người liên hệ đến vụ cướp ấy đều biết mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Họ cũng biết nạn nhân đang ở trong tình trạng nào. Nhưng cuối cùng chỉ có một người mà cái biết đã đi qua con tim để đến được đôi bàn tay, đó là người Samaritanô: “Một người Samaritanô đang đi ngang thấy vậy động lòng thương. Người này đến gần, lấy dầu và rượu băng bó vết thương. Rồi ông ta đưa nạn nhân lên lừa đem về quán trọ, và ở đó ông ta săn sóc cho nạn nhân. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền trao cho chủ quán mà bảo rằng: “Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông” (Luca 10:33-35).
“Hãy đi và làm như thế” (Luca 10:37)
Nhưng làm như thế là làm sao? Trở lại con đường từ óc xuống trái tim. Và từ trái tim đến đôi bàn tay. Thật ra, mọi việc chúng ta làm cũng đều nhận sự chỉ huy và chi phối của khối óc. Khối óc nhận xét, khối óc phân tích, và khối óc ra lệnh cho đôi tay hành động. Nhưng đó là phản ảnh trực tiếp của khối óc với các phần thân thể theo cái nhìn thuần túy sinh vật học. Trong lãnh vực tâm lý và nhất là tâm linh, đôi khi khối óc biết, ra lệnh mà đôi tay vẫn không nghe và không làm. Trong những trường hợp ấy hoặc bởi vì trái tim chưa cảm nhận, và chưa bị rung động từ cái biết của mình, nên đã không chinh phục được đôi tay để thực hiện điều mình biết. Cũng giống như người nghiện rượu và nghiện cờ bạc, tuy biết uống rượu là xấu, là hại cho sức khoẻ nhưng vẫn không chừa. Hoặc như người cờ bạc, biết hành động ấy là không tốt nhưng cũng vẫn không chừa. Biết và làm khác nhau là như thế.
Mỗi ngày có biết bao thai nhi bị giết chết trong bụng mẹ. Có bao nhiêu trẻ em bị đem bán vào những ổ mãi dâm, hoặc bao nhiêu thiếu nữ bị lừa gạt làm nô lệ tình dục cho bọn người vô đạo dưới nhiều hình thức như kết hôn người nước ngoài, hôn nhân với Viêt kiều. Có hàng triệu, triệu nạn nhân, những người vô tội đang bị đối xử bất công, tàn tệ, bị bóc lột cả tinh thần lẫn vật chất dưới sự hà khắc, độc tài, tàn bạo, và ngu dốt của chế độ độc tài đảng trị. Và bao thanh thiếu niên vô tội bị cuốn hút vào cuộc sống sa đọa, nghiện hút. Đây là những cái mà rất nhiều người đã biết, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là những cái biết để mà biết, những cái biết không bao giờ được chứng minh qua những việc làm dù bằng những cố gắng rất nhỏ mọn. Với cái nhìn tâm linh, nhiều người trong chúng ta cũng đang sống, cũng đang hành động không khác gì nguời luật sĩ, vị phó tế và tư tế, là biết mà không làm, hoặc biết mà không sống với điều mình biết.
Biết, yêu mến, và hành động. Đó là cái biết đi qua con tim để đến được đôi bàn tay. Chúa cần chúng ta thực hành và minh chứng tình yêu của ngài qua hành động trong môi trường sống của mỗi người, và qua mỗi người mà chúng ta thường ngày gặp gỡ, giao tiếp.
Ý thức được con người có xác và hồn, cho nên ước muốn của người luật sĩ trong Phúc âm hôm: TN 15-C31
Ý thức được con người có xác và hồn, cho nên ước muốn của người luật sĩ trong Phúc âm hôm nay là làm thế nào để được hưởng sự sống đời sau. Vì thế anh ta bèn hỏi Chúa làm sao để được hưởng sự sống vĩnh cửu? Đọc Phúc âm ta thấy đôi khi Chúa Giêsu trả lời một câu hỏi bằng một câu hỏi, nhất là khi gặp câu hỏi hai ý, hay khi người hỏi không phải muốn biết nhưng hỏi để bắt bẻ. Người luật sĩ hôm nay hỏi thực sự là muốn biết. Tuy vậy Chúa cũng hỏi lại để anh ta ý thức về bổn phận của mình, cho anh ta thức tỉnh và suy nghĩ, khiến anh ta tự tìm ra câu trả lời. Chúa Giêsu hỏi lại viên luật sĩ rằng: Trong lề luật đã chép như thế nào?(Lc 10:26). Người luật sĩ thưa: Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình (Lc 10: 27). Nhưng người luật sĩ không mãn nguyện với câu trả lời trong sách luật mà anh ta coi là quá tổng quát và trừu tượng. Anh ta muốn thấy có gì cụ thể nên mới hỏi lại: Nhưng ai là người thân cận của tôi? (Lc 10:29).
Chúa Giêsu cụ thể hoá cái lề luật yêu thương bằng dụ ngôn ‘người Samaritanô nhân hậu’. Thời bấy giờ người Do thái và người Samaritanô không giao thiệp với nhau. Giữa họ với nhau có cái gì ngăn cách. Đó là mối ác cảm, nghi kỵ và kỳ thị. Vì thế ta nhớ lại tại sao khi Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria bên giếng Giacóp cho nước uống, thì bà ta lên giọng châm biếm: Ông là người Do thái mà lại xin tôi người xứ Samaria cho nước uống sao?(Ga 4:9).
Cái dụ ngôn trong phúc âm hôm nay nói lên cái quan niệm tứ hải gia huynh đệ - bốn bể đều là anh em một nhà. Tình huynh đệ Kitô giáo không hẳn nhắm đến người bà con ruột thịt, hay người bạn bè làng xóm. Tình bác ái Kitô giáo mà ta dành cho người không quen biết cũng nằm trong giới răn yêu thương của Chúa. Người Samaritanô đã áp dụng giới răn yêu thương của Chúa bằng cách chấp nhận mối nguy hiểm để đi đến cứu chữa, băng bó vết thương và săn sóc cho người bị kẻ cướp hành hạ. Anh ta cảm thấy có sợi giây ràng buộc với nạn nhân là người xa lạ. Cái tình huynh đệ bác ái đã thúc đẩy anh ta đưa người bị thương đến quán trọ để được chữa trị và còn trả tiền phí tổn cho nạn nhân nữa.
Sứ điệp phúc âm hôm nay thách đố ta tránh hai thái độ là: hoặc chỉ tuyên xưng đức tin và bày tỏ lòng đạo đức mà không làm việc phục vụ bác ái, hoặc chỉ cổ võ việc bác ái xã hội mà không có đời sống đức tin và cầu nguyện. Có những người công giáo chỉ quan tâm đến cái liên hệ hàng dọc từ trên xuống dưới giữa Chúa và mỗi cá nhân. Tuy nhiên còn có một cái liên hệ nữa trong đạo Kitô giáo, đó là mối liên hệ hàng ngang giữa nguời với người. Thánh kinh dạy ta: loài người đuợc dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1:27) và được máu con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc (Mt 26:28). Việc người công giáo phục vụ tha nhân sẽ không có nền tảng nếu không được xây dựng trên đức tin vào Chúa, tin rằng Chúa hiện diện nơi tha nhân, tha nhân được Thiên Chúa tạo dựng, và phục vụ tha nhân là phục vụ Thiên Chúa. Việc phục vụ tha nhân phải có đức tin và lời cầu nguyện đi kèm. Không có đức tin và lời cầu nguyện, thì việc giúp đỡ phục vụ than nhân chỉ là việc xã hội hay việc nhân bản, chứ không phải là viêc bác ái Kitô giáo.
(25) Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (26) Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" (27) Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi và người thân cận như chính mình". (28) Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống".
(29) Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" (30) Đức Giêsu đáp: "Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. (31) Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. (32) Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. (33) Nhưng một người Samaria kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. (34) Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. (35) Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiều, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác". (36) Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?" (37) Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy". Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Một câu chuyện có thật đã xảy ra tại Thụy Sĩ như sau: Tại một tiệm ăn bình dân, sau khi đã mua: TN 15-C32
Một câu chuyện có thật đã xảy ra tại Thụy Sĩ như sau:
Tại một tiệm ăn bình dân, sau khi đã mua thức ăn, một người đàn bà nọ bưng khay của mình đến một dãy bàn trống. Nhưng vừa ngồi xuống bàn ăn, người đàn bà mới chợt nhận ra rằng mình chưa có muỗng nĩa. Bà liền để chiếc khay xuống bàn và đứng lên đi tìm muỗng nĩa. Nhưng khi trở lại bàn ăn, bà ngạc nhiên vô cùng vì một người da đen đang ngồi ngay trước mâm của bà và đang ăn chính thức ăn mà bà đã mua.
Người đàn bà nghĩ bụng đây hẳn là một tên du thủ du thực, mặt dày mặt dạn. Nhưng nhìn kỹ, người đàn bà nhận thấy kẻ đối diện với mình không hẳn là một kẻ bất lương, trái lại còn có vẻ đàng hoàng và trí thức là khác.
Bà ta ngồi xuống bàn xin phép người đàn ông da đen và chung phần ăn còn lại trong mâm. Người đối diện với bà không lên tiếng, nhưng lại nở một nụ cười rất thân thiện. Ông giúp người đàn bà lấy thức ăn bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, tử tế và đầy tình thân thiện. Thỉnh thoảng ông nhìn người đàn bà rồi mỉm cười. Cứ thế trong thinh lặng bà dùng hết phần ăn trong khay.
Sau đó, người đàn ông da đen đứng lên ra hiệu cho người đàn bà ngồi yên tại chỗ. Một lúc sau ông trở lại với một gói khoai tây chiên và đặt trước mặt người đàn bà. Lần này hai người cùng lặng lẽ chia nhau ăn hết gói khoai tây. Sau đó, người đàn ông đứng lên mỉm cười, ngã đầu chào người đàn bà rồi đi luôn.
Lân cận chưa phải là thân cận
Như bừng tỉnh sau một cơn mê, người đàn bà đứng dậy tìm mãi mà không thấy cái xách tay của bà đâu. "Thì ra cái tên da đen này đã đánh cắp cái xách tay của mình. Bà định hô lên cho người ta chạy đến và chặn bắt kẻ gian. Nhưng quay lại dãy bàn ăn nơi bà vừa đứng dậy, người đàn bà nhận ra một mâm thức ăn còn nguyên vẹn nhưng không có muỗng nĩa và bên cạnh đó có cả túi xách tay của bà nữa.
Người đàn bà bỗng nhận ra bà đã phạm một lầm lẫn lớn. Đó là không phải người đàn ông da đen đã ăn phần ăn của bà và đã đánh cắp xách tay của bà mà chính bà đã lầm bàn ăn và đã ăn phần ăn của ông ta.
Câu chuyện vừa kể có vẻ như chuyện tiếu lâm mà thôi chẳng ăn nhằm gì với bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng nghĩ cho kỹ sẽ thấy nó giúp ta hiểu thêm vấn đề "ai là người thân cận của tôi." (c.29), chính là vấn đề mà bài dụ ngôn người Samari tốt lành có ý trả lời.
Vấn đề này được nêu lên với Thầy Giêsu khi Thầy nhất quyết lên Giêrusalem bởi vì sắp tới ngày Thầy được rước về trời (Lc 9,51). Thầy không lên Giêrusalem một mình. Có rất đông người cùng đi đường với Thầy. Thầy quay lại bảo họ: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được." (Lc 14,25-27).
Ngay ở bước đầu của cuộc hành trình lên Giêrusalem, Thầy đã đòi hỏi các môn đệ phải từ bỏ mọi sự như điều kiện để theo Thầy (Lc 9,57-62). Riêng với bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay, đó là lúc Thầy Giêsu hết lòng ngợi khen "Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" (Lc 10, 21). Chính đó là lúc một nhà thông thái về Luật đạo đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Nhưng Đức Giêsu trả lời bằng một câu hỏi là: "Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" Nhà thông luật buộc phải trích sách ĐNL 6,5 và Lv 19,18 dạy rằng: Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình." Khi Đức Giêsu bình phẩm và nói rằng "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống", nhà thông luật nêu thêm thắc mắc để chứng tỏ câu hỏi ông nêu với Thầy Giêsu là đáng kể. Thắc mắc đó là: "Ai là người thân cận của tôi?" Dụ ngôn người Samari tốt lành mà Thầy Giêsu kể chính là để giải đáp thắc mắc đó.
Vấn đề thiết yếu là lòng thương xót
Dụ ngôn này đặt người nghe trước cảnh một người bị cướp bóc lột và đánh nhừ tử rồi để nửa sống nửa chết trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Đó là một người hoàn toàn vô danh mà người kể không hề cho biết chi tiết nào khác. Một người trong tình trạng đó chẳng thể hứa hẹn gì cho người tới giúp mình ngoài sự phiền hà. Vậy thì ai là người chấp nhận bị phiền hà và chấp nhận vì lý do nào?
Dụ ngôn cho thấy xuất hiện trước hết là một thầy tư tế. Vừa trông thấy nạn nhân, ông liền tránh qua một bên mà đi. Kế đến là một Thầy Lêvi. Ông cũng vậy. Vừa thấy nạn nhân, ông liền bước qua bên kia đường mà đi. Ta không được cho biết lý do tại sao hai người vừa nói lại hành xử giống nhau như vậy đối với nạn nhân đang cần họ giúp đỡ. Có vẻ như hai người ấy có chuyện gì gấp phải lo nên buộc phải sang bên kia đường để đi tiếp cho được việc. Cũng có thể cả hai đều lo việc tế tự nên buộc phải tránh tình trạng nhơ nhớp do tiếp xúc với người ngoại đạo, nhất là với người chết. Dù sao dụ ngôn cho thấy con người được tự do hơn cả để đáp lại tiếng gọi của tình thương, không phải là người có địa vị xã hội như thầy tư tế hoặc thầy Lêvi, nhưng là một người "giáo gian" Samari! Người Do Thái không những tránh giao thiệp với người Samari mà còn khinh dễ họ vì họ vừa lai chủng tộc vừa "lai tôn giáo" theo nghĩa niềm tin của họ có nhiều dị biệt khác hẳn với Do Thái Giáo. Thế mà con người "bé mọn Samari" này lại có khả năng tỏ ra cho nhà thông luật biết thế nào là trở nên thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp (c.36). Dù sao Thầy Giêsu đã có thể nói với nhà thông luật rằng "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (c.37) tức là làm như người Samari đã làm!
Biểu lộ con người bên trong
Trở lại với câu chuyện có thật đã xảy ra bên Thụy Sĩ. Điều nổi bật trong câu chuyện là sự tình cờ. Chính qua sự tình cờ mà hai nhân vật biểu lộ con người bên trong của mình và cho thấy ai là người thân cận với mình.
Là người ai cũng có thể lầm lẫn. Điều quan trọng là khi xảy ra lầm lẫn, đương sự hành xử thế nào, cách hành xử ấy có thể cho thấy tính chất tốt lành của đương sự chăng hay nó cho thấy điều ngược lại. Rất tiếc rằng người đàn bà trong suốt câu chuyện đã hành xử thuần tuý theo quyền sở hữu của mình. Bà đã bỏ tiền ra mua một bữa ăn và giữ toàn quyền trên phần ăn đó. Ai mà vi phạm quyền đó của bà, người ấy sẽ lãnh đủ. Trong chốc lát bà đã nghĩ xấu về người đàn ông da đen, cho đó là tên du thủ du thực, mặt dầy mặt dạn. Thiếu chút nữa là bà đã hô to để chặn bắt ông ta vì nghĩ ông ta đã đánh cắp cái xách tay của bà, lý do cũng vì quyền sở hữu.
Coi trọng con người hơn quyền sở hữu
Ngược lại, người đàn ông da đen trong câu chuyện đã coi trọng bản vị người đàn bà lầm lẫn hơn phần ăn của ông. Ông đã giúp người đàn bà lấy thức ăn nơi phần ăn của ông bằng một cử chỉ tử tế đầy tình thân thiện. Về cuối câu chuyện, ông còn đứng lên mua thêm một gói khoai tây chiên để hai người cùng ăn. Khi từ biệt ông không quên mỉm cười và ngả đầu chào người đàn bà cách lịch sự.
Một cách nào đó, người da đen trong câu chuyện là hình ảnh nho nhỏ về người Samari tốt lành hiện đại. Ông không vội nghĩ xấu về người khác, ngược lại còn tỏ ra tử tế và thân thiện với người lầm lẫn, bỡi lẽ ông coi trọng con người hơn tất cả những điều mình sở hữu.
Một số câu hỏi gợi ý
1. So sánh người Samari trong bài Tin Mừng và người da đen trong câu chuyện xảy ra ở Thụy Sĩ, bạn thấy có những điều gì giống nhau và những điều gì khác nhau? Riêng phần bạn, bạn thấy dễ dàng hay khó khăn trong việc áp dụng Tin Mừng hôm nay trong xã hội bạn đang sống?
2. Riêng về nhân vật tư tế và thầy Lêvi trong bài Tin Mừng cũng như người đàn bà lầm lẫn trong câu chuyện xảy ra ở Thụy Sĩ, bạn có ý kiến gì liên quan tới giới răn yêu thương? Bạn có thể cắt nghĩa về những nhân vật đó như thế nào cho con em muốn hiểu bài Tin Mừng hôm nay?
1. THEO ĐỨC GIÊ-SU, PHẢI HIỂU TỪ “NGƯỜI THÂN CẬN” THẾ NÀO ?
Như chúng ta đã biết, hai giới luật quan trọng nhất của Cựu Ước là: “Ngươi phải yêu mến Đức: TN 15-C33
Như chúng ta đã biết, hai giới luật quan trọng nhất của Cựu Ước là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình” ( x. Đnl 6, 5 và Lv 19, 18 ). Trong Tân ước, hai giới luật đó được diễn tả thành một giới luật duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” ( Rm 13, 8 ); “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” ( Gl 6, 2 ). Tại sao ? Vì theo Đức Giê-su, tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa, nếu có, tất nhiên phải được thể hiện thành tình yêu đối với tha nhân.
Vấn đề đặt ra trong bài Tin Mừng mà người thông luật đặt ra là phải hiểu hay giải thích thế nào về nhóm từ “người thân cận” trong giới luật căn bản thứ hai của Cựu Ước ? Chúng ta thấy Đức Giê-su đã giải thích hai chữ “thân cận” theo quan niệm động: nghĩa là thân cận hay không thân cận là do cách đối xử yêu thương hay không yêu thương của ta đối với tha nhân. Nếu ta yêu thương ai, đối xử tốt với ai, thì người ấy tự nhiên sẽ trở thành người thân cận của ta. Điều này quả thật rất phù hợp với tâm lý tự nhiên của con người. Hai người dù xa lạ nhưng yêu thương nhau thì tự nhiên trở nên gần gũi với nhau. Còn anh em, dù là ruột thịt, mà không yêu thương nhau thì tự nhiên trở nên xa cách. Tình yêu làm con người trở nên gần gũi nhau, còn sự lãnh đạm, vô tình tạo nên khoảng cách.
Vì thế, người Ki-tô hữu cần biến tất cả mọi người mình gặp trên đường đời trở thành người thân cận của mình bằng cách đối xử với họ bằng tình thương chân thật. Đức Giê-su đã minh họa tinh thần trên bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu.
2. DỤ NGÔN NGƯỜI SA-MA-RI NHÂN HẬU
Trong dụ ngôn này, Đức Giê-su đưa ra 4 nhân vật:
– Một thường dân Do Thái bị cướp đánh nhừ tử, dở sống dở chết và bị bỏ rơi dọc đường.
– Một tư tế và một thầy Lê-vi người Do Thái: hai người này thuộc giới cao cấp trong tôn giáo Do Thái, vừa đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo tôn giáo, vừa thi hành nhiệm vụ tư tế, vừa đảm nhiệm việc giáo dục tôn giáo cho tín hữu Do Thái. Hai người này gặp cảnh đau thương của người đồng hương và đồng đạo của mình thì bỏ đi, mặc kệ người ấy sống chết ra sao cũng được.
– Một người Sa-ma-ri: cũng là người Do Thái, nhưng ở vùng miền Trung Do Thái. Vào thời dân Do Thái bị ngoại bang đô hộ và bị lưu đày, vùng Sa-ma-ri bị người ngoại bang tới định cư, khiến cho dân vùng này trở nên lai tạp, không chỉ về mặt nòi giống, mà cả về mặt tôn giáo nữa. Vì thế, dân Do Thái thuần chủng ở miền Bắc và Nam Do Thái rất kỳ thị và khinh thường dân Sa-ma-ri, coi họ không khác gì những người tội lỗi. Vì thế, giữa dân Do Thái và dân Sa-ma-ri có một mối hận thù sâu sắc. Nhưng trong dụ ngôn này, Đức Giê-su đã cho thấy người Sa-ma-ri vốn bị coi là tội lỗi này lại sống đúng luật yêu thương của Cựu ước hơn những vị chức sắc tôn giáo, là những người dạy dỗ mọi người về luật yêu thương ấy.
Nếu so sánh theo quan niệm tĩnh và khách quan, thì hai vị chức sắc Do Thái giáo kia gần gũi với người Do Thái bị cướp kia hơn người Sa-ma-ri, vì họ có tính cách đồng hương và đồng đạo với nhau nhiều hơn. Nhưng hành động yêu thương và xả thân của người Sa-ma-ri đã biến người Do Thái bị nạn trở thành gần gũi đối với anh.
Theo quan niệm của Đức Giê-su, vấn đề không phải là gần gũi hay không gần gũi, mà là hành động làm sao để tỏ ra gần gũi. Vì thế, Ngài hỏi người thông luật: “Theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” Và người thông luật đã trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”.
3. NGƯỜI THÔNG LUẬT KHÔNG LUÔN LUÔN LÀ NGƯỜI GIỮ LUẬT
Đây chỉ là một dụ ngôn, nghĩa là một chuyện tưởng tượng ra để minh họa một chân lý. Dù là dụ ngôn, nhưng chắc chắn không phải là vô tình mà Đức Giê-su lại gán cho hai vị chức sắc tôn giáo một tâm trạng vô trách nhiệm, vô tình và thiếu hẳn tình thương đối với người đồng hương, đồng đạo và cũng là «con chiên» của mình như thế. Nhất là khi Ngài lại kể dụ ngôn này cho một thầy thông luật, cũng phần nào thuộc giới có chức sắc trong đạo Do Thái. Điều đó chắc hẳn phản ánh một tình trạng có thật trong tôn giáo Do Thái thời ấy.
Những vị chức sắc Do Thái ấy chắc chắn thông thạo lề luật hơn người Sa-ma-ri rất nhiều, và chắc chắn hai vị này cũng đã rao giảng và hô hào mọi người phải yêu thương nhau như luật dạy. Nhưng Đức Giê-su cho thấy việc thông luật và dạy dỗ người khác về lề luật là một chuyện, còn có áp dụng lề luật ấy hay không lại là một chuyện hoàn toàn khác. Không phải cứ giỏi về lề luật là sẽ giữ luật cẩn thận hơn người khác, không phải cứ dạy dỗ người khác về đạo thì sẽ giữ đạo hoàn hảo hơn người khác.
Thực tế cho thấy có rất nhiều trường hợp lại ngược lại. Chính vì thế mà Thánh Phao-lô mới viết: “Bạn mang tên là người Do Thái, ỷ rằng mình có Lề Luật ( ... ) bạn xác tín rằng mình là người dẫn dắt kẻ mù loà, là ánh sáng cho kẻ ở trong bóng tối, là nhà giáo dục kẻ u mê, là thầy dạy người non dại ( ... ) bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa !” ( Rm 2, 17 – 22 ).
Dụ ngôn trên khiến người Ki-tô hữu phải xét mình lại. Chúng ta tự hào đạo của chúng ta là đạo yêu thương, nhưng nhiều khi chúng ta lại đối xử với tha nhân không có tình yêu thương cho bằng những người ngoại đạo. Nhiều khi chúng ta giảng dạy về yêu thương nhiều và hay hơn ai hết, nhưng lại cư xử thiếu tình thương hơn ai hết. Và như vậy chúng ta trở thành những kẻ phỉ báng đạo của chúng ta.
Thiết tưởng cũng nên nhắc lại lời thách thức của Mahatma Gandhi đối với những Ki-tô hữu người Anh thời của ông. Thách thức đó cũng là thách thức của con người thời đại đối với chúng ta. Mặc dù rất say mê con người và giáo lý của Đức Giê-su, rất thích tinh thần bát phúc của Ngài, và sống một cuộc đời rất phù hợp với Tin Mừng, nhưng Gandhi không theo Ki-tô giáo. Ông không chấp nhận Ki-tô giáo là đúng hơn, tốt hơn tôn giáo của ông chỉ vì lối sống của người Ki-tô hữu mà ông biết, tức những người Anh đang đô hộ nước ông, không hơn gì những người đồng đạo của ông, cũng tỏ ra độc ác không kém những kẻ đô hộ khác.
Theo ông, nếu Ki-tô giáo mà đúng hơn, tốt hơn các đạo khác, ắt người Ki-tô hữu phải sống tốt hơn người của các tôn giáo khác. Ông thách thức người Anh là những người vừa đem Ki-tô giáo đến với dân tộc ông, vừa nô lệ hóa dân tộc ông: “Các anh chỉ cần sống đúng như tôn giáo các anh chỉ dạy, thì chắc chắn toàn dân Ấn Độ sẽ trở thành Ki-tô hữu hết”. Sự thách đố này quả là nhức nhối đối với rất nhiều Ki-tô hữu, kể cả những người làm Tông Đồ.
Thời nay, chắc hẳn cũng có rất nhiều người tương tự như Gandhi, rất có cảm tình với Đức Giê-su, cũng bị hấp dẫn bởi giáo thuyết của Ngài, nhưng họ nhất định không theo Ki-tô giáo. Lý do: vì họ thấy người Ki-tô hữu, kể cả những người rao giảng Ki-tô giáo cho họ, chẳng hề sống tinh thần yêu thương của Đức Giê-su, thậm chí còn sống kém hơn cả bản thân họ. Thật mỉa mai khi chúng ta tự hào về đạo của mình là đạo yêu thương nhưng chúng ta lại sống yêu thương không bằng những người đạo khác ! Chúng ta đang vô tình phỉ báng Ki-tô giáo bằng hành động thật sự! Tội phỉ báng này thiết tưởng còn nặng nề và tai hại hơn phỉ báng bằng lời nói!
Lạy Cha, xin cho con hiểu tinh thần của Đức Giê-su: không phải chỉ là yêu thương những người gần gũi với mình, mà biến mọi người trở thành gần gũi bằng những hành động yêu thương cụ thể. Nhất là những người đang đau khổ, bệnh tật, nghèo nàn, thiếu thốn, bị bỏ rơi, bị áp bức, là những người đang cần đến tình yêu thương của con nhất. Xin đừng để con tin một đằng, nói một đằng, và hành động một đằng khác.
Xem ra cái nghịch lý của Đạo Chúa vẫn là yêu thương ngay cả kẻ thù, dù kẻ đó có ghen ghét, có: TN 15-C34
Xem ra cái nghịch lý của Đạo Chúa vẫn là yêu thương ngay cả kẻ thù, dù kẻ đó có ghen ghét, có căm hờn, gay gắt đối với mình, thậm chí muốn tiêu diệt cả mình. Chúa vẫn dậy phải yêu thương tất cả và yêu thương tới tận cùng. Trong Cựu Ước, có luật: ”Mắt thế mắt, răng đền răng”. Chúa đến, Ngài làm đảo lộn tất cả. Ngài không dậy: ”Chỉ thương yêu những người yêu thương mình. Nhưng Ngài đi xa và đi rất xa: yêu thương cả những người không yêu thương mình”. Đó là sự tối ưu của luật mới, luật Tân Ước. Và đây cũng là ý nghĩa của các bài đọc và đặc biệt là bài Tin Mừng hôm nay.
LUẬT BÁC ÁI CỦA CHÚA GIÊ-SU
Tin Mừng của Thánh Mát-thêu cho thấy, Chúa Giê-su khi trả lời chất vấn của một người thông luật đã nói lên sự khác biệt, lập trường của Ngài về sự yêu thương, đối với Ngài giới răn quan trọng nhất trong lề luật: ”Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn trọng nhất. Và giới răn thứ hai cũng giống như thế; ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi, toàn thể lề luật và các ngôn sứ đều qui vào hai giới răn đó” ( Mt 22, 34 – 40 ). Còn theo Lu-ca, người luật sĩ đã đọc thấy trong sách Luật: ”Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình” ( Lc 10, 27 ). Cả thánh Lu-ca và Thánh Mát-thêu đều cho thấy Chúa Giê-su bao gồm hai giới luật mến Chúa và yêu người thành một lề luật trọng yếu là luật bác ái: “Mến Chúa yêu người” ( Ga 13, 34; 13, 35 ).
Bởi vì, luật đạo cũ nặng về hình thức lễ nghi tỉ mỉ, mà không chú trọng đến tâm tình, cốt lõi bên trong. Những nhà thông luật, Pharisiêu và biệt phái lại làm cho trở nên lệch lạc, lấy cái phụ làm cái chính yếu và lấy cái chính yếu làm cái phụ. Do đó Chúa Giê-su đã nặng lời cảnh cáo họ: ”Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình ! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm những điều này mà không được bỏ các điều kia” ( Mt 23, 23 ). Luật bác ái của Chúa Giê-su không thu hẹp trong phạm vi thân nhân, bà con, láng giềng, cũng không chỉ áp dụng cho những người đồng hương theo như quan niệm hẹp hòi, thiển cận của người Do Thái đồng thời với Chúa, nhưng phải được mở rộng ra để đón nhận mọi người, không phân biệt người theo đạo, hay không theo đạo, người Rô-ma, hay người Hy Lạp, người ở trong hay người ở ngoài, người da mầu hay người da trắng v.v...
Chúa dạy phải yêu thương ngay cả kẻ thù ghét ta ( Mt 5, 43 – 48 ). Điều này phù hợp với cách nói “người thân cận”. Thánh Lu-ca dùng ( Lc 10, 27 ) bao gồm những người bà con, thân bằng quyến thuộc mà còn là những kẻ xa lạ, ngay cả kẻ thù ghét ta. Chúa dậy nhân loại, dậy mọi người làm như Ngài chỉ bảo, nhưng chính Chúa lại làm gương cho loài người, cho mỗi người về giới luật yêu thương bác ái. Lúc Chúa bị treo trên thập giá, quân lính, quân dữ và nhiều người xỉ nhục, nói phạm đến Chúa, Chúa vẫn cầu xin cho họ ( Lc 23, 34 ).
CHÚA ĐÒI HỎI CON NGƯỜI THỰC THI LUẬT BÁC ÁI YÊU THƯƠNG
Thường thường ta dễ yêu thương người nào thích ta, yêu ta, thiện cảm với ta và ta thường ác cảm, ghét cay ghét đắng, thù oán những ai làm hại ta. Tại sao Chúa Giê-su lại dạy con người, nhân loại và mỗi người chúng ta phải thương yêu hết mọi người ?
Xét tự nhiên, ta nhận thấy ít có người tốt lành đáng yêu, nhưng con người thường là xấu xa gian ác rất đáng ghét ! Tuy nhiên, Chúa lại truyền dậy chúng ta phải yêu thương hết mọi người ngay cả những kẻ thù ghét, bách hại chúng ta. Đó mới là nhân đức anh hùng, nhân đức siêu nhiên. Quả thực, ta chỉ có thể yêu thương đồng loại nếu ta có đức tin nhận biết mọi người đều được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Ngài, đều có một Cha trên trời, đều là anh em với nhau, nên phải yêu thương nhau và đều được giá máu Chúa Ki-tô cứu chuộc.
Do đó, tình huynh đệ giữa mọi người phải được triển nở và nhân ra. Đức bác ái của Ki-tô giáo là một nhân đức siêu nhiên, khác với các học thuyết, khác với đức khiêm ái của Mặc Tử trong triết học Trung Hoa. Yêu thương như lời Chúa dậy, không chỉ được rêu rao trên đầu môi chóp lưỡi mà còn phải thể hiện bằng hành động cụ thể, cách xử thế tế nhị, tốt với mọi người. Câu chuyện về người Sa-ma-ri Chúa Giê-su đề cập trong đoạn Tin Mừng của Thánh Lu-ca hôm nay, ngắn gọn, nhưng bao hàm một ý nghĩa sâu xa, rộng lớn. Cách cư xử của người Sa-ma-ri diễn tả một đức ái hoàn hảo, bộc phát và nhanh nhẹn.
Dụ ngôn còn cho thấy đức ái bao hàm lòng cảm thông và thương xót, dù rằng người Sa-ma-ri đã đoán trước người bị cướp đánh nhừ tử để nửa sống sống dọc đàng, là người Do Thái, người không đội trời chung với anh và với dân vùng Sa-ma-ri của anh. Anh đã không hận thù, nhưng đã động lòng thương, giúp đỡ người bị lâm nạn, anh đã đối xử thật đẹp với tất cả tâm tình chân thật khác với thầy tư tế và trợ tế Lê-vi. Thầy tư tế và thầy trợ tế Lê-vi vừa ra khỏi đền thờ Giê-ru-sa-lem, nơi họ vừa tế tự nhưng thực tế họ không sống đạo gì cả. Họ đã làm ngơ trước sự đau khổ của kẻ khác, đặc biệt họ đã làm ngơ ngay cả với người đồng hương của mình. Thờ phượng, tế tự mà không yêu thương anh em, không quảng đại, bác ái, chia sẻ với anh em mình, trước mặt Chúa đều vô ích, Chúa ghê tởm những hạng người này, các ngôn sứ đã cho ta hay điều ấy. Dân này chỉ thờ ta ngoài môi miệng.
DỤ NGÔN VẪN MÃI MÃI CÓ GIÁ TRỊ:
Chúa dậy dụ ngôn này đã cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng nó vẫn còn là nỗi trăn trở của con người muôn thuở. Chúa Giê-su là người Sa-ma-ri nhân hậu, Ngài đã khước từ vinh quang nước trời ( Pl 2, 6 – 11 ) đến trần gian để băng bó và chữa lành các vết thương do tội lỗi gây ra cho nhân loại, cho con người, cho từng người. Rồi Chúa trao lại Giáo Hội sứ mệnh băng bó, chăm sóc vết thương tội lỗi cho nhân loại với hình hài người Sa-ma-ri nhân hậu bên cạnh mọi hạng người nghèo đói, neo đơn, bệnh hoạn tật nguyền, cô đơn, đau yếu v.v... để Giáo Hội và mỗi người chúng ta thực thi huấn lệnh của Chúa: Hãy đi và làm như người Sa-ma-ri, chúng ta sẽ được sống ( x. Lc 10, 28 ).
Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu luôn là nỗi thao thức của mỗi người. Hiện nay còn có bao thầy tư tế, bao thầy trợ tế Lê-vi ? Chúng ta đã tích cực giúp đỡ những người hoạn nạn, ốm đau, gặp thử thách như thế nào ? Liệu ta có cảm thông với những người, những dân tộc đang gặp biết bao nhiêu khó khăn, thử thách trên thế giới hay không ?
Hay nói một cách thực tế hơn, chúng ta có nghĩ, chia sẻ, quảng đại với những người anh em của chúng ta trên quê hương chúng ta đang gặp khó khăn, túng nghèo như các anh chị em dân tộc thiểu số, như những bệnh nhân AIDS, tâm thần, thiểu năng, khiếm thị, những người di dân nhập cư đang có cuộc sống hết sức bấp bênh ở thành phố, như những người bị thiên tai, lũ lụt, khó khăn v.v... Chúng ta có cứu giúp họ hay chúng ta cũng làm ngơ như thầy tư tế và Lê-vi trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúa dạy mọi người phải đi tới cùng của tình yêu: ”Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu mến” ( Ga 15, 13 ). Chúa muốn và đòi hỏi mọi người phải yêu bằng một tình yêu không giới hạn, không biên giới.
Lạy Chúa Giê-su, mục tử tốt lành, xin ban cho chúng con một đức tin bền vững, một đức mến nồng nàn, siêu nhiên để chúng con luôn biết nghĩ tới mọi người, luôn sẵn sàng cứu giúp họ khi họ cần đến chúng con.
Chủ đề: Bắt chước Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, chúng ta hãy tỏ ra cảm thông với các anh chị em đang gặp đau khổ. Điều này không đòi hỏi chúng ta phải vất vả lắm đâu.
Một phụ nữ nọ đang đứng bên này đường chỗ trạm dừng, chờ cho đèn “ĐI BỘ” bật lên để có: TN 15-C35
Một phụ nữ nọ đang đứng bên này đường chỗ trạm dừng, chờ cho đèn “ĐI BỘ” bật lên để có thể băng qua bên kia đường. Phía bên kia đối diện với trạm dừng, có một cô bé quảng 17 tuổi cũng đang chờ đèn “đi bộ” bật lên để băng qua bên này. Người Phụ nữ không thể nhận ra cô bé đang khóc. Thực thế, cô bé này dù cố gắng mấy cũng không che dấu nổi vẻ đau đớn đang hằn lên trên nét mặt. Thình lình đôi mắt hai người chạm nhau. Dù đây chỉ là một cái liếc nhìn vội vã thoáng qua, song cũng đủ cho người phụ nữ ấy thấy được nỗi đớn đau khủng khiếp ngập tràn trong đôi mắt cô bé. Cô này liền quay nhìn sang chỗ khác. Ngay lúc ấy đèn báo được phép đi. Thế là cả hai rời trạm dừng bước xuống đường chuẩn bị băng qua. Khi cô bé tiến đến gần người phụ nữ có thể trông thấy rõ cô ta khá đẹp trừ nét đau khổ hiện rõ trên khuôn mặt. Ngay khi hai người sắp sửa chạm mặt nhau, bản năng làm mẹ của người phụ nữ trào dâng. Toàn thể con người bà muốn tiến đến tiếp xúc, an ủi cô bé nọ. Ước muốn ấy càng mãnh liệt hơn bởi vì cô bé trạc tuổi một trong những đứa con gái của bà. Thế mà bà đã phớt lờ đi qua, quên cả chào cô bé, chỉ lặng lẽ băng qua cô ta thôi.
Vài giờ sau, cặp mắt đầy đau khổ của cô bé vẫn tiếp tục ám ảnh bà. Bà nghĩ đi nghĩ lại rồi tự trách: “Tại sao mình lại không quay lại, bước tới cô bé và nói: “Này cưng, tôi có thể giúp đỡ gì cho cưng không?” Thế mà mình lại bỏ đi, phớt lờ băng qua bên cạnh. Có thể cô bé từ chối sự giúp đỡ của mình và nghĩ rằng mình là kẻ chúi mũi vào chuyện kẻ khác. Nhưng hệ gì đâu ! Chỉ mất có vài giây thôi, nhưng vài giây ấy cũng đủ cho cô bé biết rằng còn có người quan tâm đến cô. Thế mà mình đã phớt lờ, bước qua, đã hành động như cô ấy không hề hiện hữu !”.
Ít câu chuyện có thực nào minh hoạ rõ hơn chủ điểm mà Chúa Giêsu muốn nêu ra trong dụ ngôn tuyệt hảo của bài Phúc Âm hôm nay. Chủ điểm ấy là; chúng ta đâu phải mất nhiều vất vả trong việc biểu lộ sự thương cảm với một anh chị em nào đó đang gặp đau khổ. Để hiểu dụ ngôn của Chúa Giêsu rõ hơn, bối cảnh sau đây sẽ giúp chúng ta.
Con đường Chúa Giêsu nói đến làm nền cho dụ ngôn chẳng phải là một con đường nào đó trong tưởng tượng. Đó là một con đường rất nổi tiếng, là con đường duy nhất thời đó nối liền Giêrusalem và Giêricô; thỉnh thoảng con đường này lượn quanh những tảng đá khổng lồ, vì thế đây là nơi thuận tiện cho lũ trộm cướp và kẻ sống ngoài vòng pháp luật hành động. Hiện nay còn lưu lại một lá thư viết từ năm 171 sau Công nguyên phàn nàn với nhà cầm quyền địa phương về tình trạng tội ác xảy ra dọc theo con đường này. Có nhiều chứng cớ lịch xử cho thấy các du khách đã phải nộp tiền cho lũ côn đồ địa phương tổ chức được an thân đi qua con đường này. Vì thế, chính con đường đầy tai tiếng này đã cung cấp cho Chúa Giêsu bối cảnh thực tế để nêu lên dụ ngôn người Samari nhân lành.
Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu vẽ cho chúng ta chân dung ba người khác nhau: một tư tế, một thầy Lêvi, và một người Samari.
Trước hết là vị tư tế. Có thể ví vị này như một linh mục thời nay. Có lẽ vị này đang trên đường đi đến Giêrusalem để thực hiện nghi lễ phụng tự trong đền thánh. Có thể ông ta nghĩ rằng gã đàn ông máu me đầy người nằm bên lề đường kia đã chết rồi, vì thế ông thản nhiên bước qua phía kia rồi đi. Bởi vì nếu một tư tế chạm vào một xác chết thì xét theo mặt nghi thức, ông ta bị ô uế và phải tự tách rời khỏi đền thánh một thời gian. Vì thế, vị tư tế trên đã chọn giải pháp là không dây dưa vào.
Sau đó là thầy Lêvi. Có thể ví vị này như một vị phó tế thời nay. Chúng ta không rõ lý do thầy phớt lờ bỏ đi. Có thể thày cũng cho rằng người đàn ông bị thương đã chết rồi giống như ý nghĩ của vị tư tế nọ; hoặc có thể thày sợ người đàn ông nọ chẳng qua chỉ giả đò bị thương để rồi sẽ tấn công thày bất ngờ khi thầy dừng lại cúi xuống giúp đỡ. Vì thế thày Lêvi cũng chọn giải pháp chắc ăn là không dây dưa vào.
Cuối cùng, người Samari đến. Chúa Giêsu biến chàng Samari thành vị anh hùng của bài dụ ngôn chắc hẳn đã làm cho các thính giả của Ngài rất khó chịu. Bởi vì, họ vẫn thường xa lánh dân Samari như xa lánh những kẻ bội giáo, những kẻ lơ là đức tin của mình. Dân Samari đã bị khai trừ ra khỏi đền thánh. Người Do Thái không cho họ tham dự vào những chuyện liên quan tới tôn giáo, và không chấp nhận lời chứng của họ ở toà án.
Tuy nhiên Chúa Giêsu biết rõ vịêc Ngài làm khi Ngài biến một người Samari thành vị anh hùng của câu chuyện. Ngài muốn dạy cho đám thính giả Do Thái rằng Tình yêu không phân biệt biên giới, Tình yêu tìm đến mọi kẻ đang khó khăn, tình yêu không bỏ đi, không phớt lờ, mà là dừng lại để giúp đỡ, để “dây dưa” vào kẻ đang gặp khốn khó, bất kể đó là ai.
Và điều này đưa chúng ta trở lại câu chuyện người phụ nữ và cô bé đau khổ nọ. Đối với bà, việc tiến đến tiếp xúc và giúp đỡ cô gái ấy như chính bà đã tự nhủ hẳn là rất dễ dàng. “Chỉ mất vài giây thôi, nhưng vài giây này là đủ để cô ấy biết rằng có người quan tâm đến cô”, và thường thì người đang đớn đau muộn phiền chỉ cần có thế họ không cần chúng ta phải hao tốn nhiều năng lực, mất nhiều thì giờ, hoặc chi tiêu nhiều tiền bạc đâu. Thường họ chỉ cần một dấu hiệu đơn giản chứng tỏ chúng ta quan tâm đến họ và bài dụ ngôn hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương giao của mình với kẻ khác. Bài dụ ngôn ấy mời gọi chúng ta tự đặt cho mình câu hỏi đơn sơ này: chúng ta đã cư xử thế nào đối với những người đang gặp khó khăn? Chúng ta có quay lại tiếp xúc và xin được giúp đỡ họ, hay chúng ta phớt lờ bước đi làm như họ không hề hiện hữu? nhất là chúng ta đã cư xử thế nào đối với những người thân trong gia đình mình? Thật là đáng buồn vì đôi lúc chúng ta cư xử với những kẻ xa lạ gặp khó khăn còn tử tế hơn khi chúng ta cư xử với vợ chồng, cha mẹ, con cái chúng ta đang gặp khốn khó. Bài dụ ngôn hôm nay không kêu mời chúng ta xông pha liều mạng như các vị anh hùng. Nó chỉ mời gọi chúng ta giơ tay ra, dẹp bỏ lòng kiêu hãnh đi, và sống nhân đạo với kẻ khác: “Tôi có thể giúp gì cho bạn không?” Nhưng nếu lời yêu cầu chúng ta bị khước từ thì sao? Thì như người phụ nữ trong câu chuyện trên đã nói: “Hệ gì đâu ! ít là kẻ ấy cũng biết rằng chúng ta đã đề nghị: “Tôi có thể gíup đỡ gì cho bạn chăng?”.
Lạy Chúa xin cho mắt chúng con nhìn thấy được nỗi đau khổ trong ánh mắt kẻ khác, đặc biệt những người thân trong gia đình chúng con.
Xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng khóc của kẻ khác, đặc biệt của những kẻ cùng chung huyết nhục với chúng con.
Xin cho chúng con biết lưu tâm thương xót những người khốn khó, đặc biệt những người thân yêu của chúng con.
Xin cho chúng con đủ khiêm tốn để đừng bao giờ phớt lờ bỏ đi vì sợ bị từ chối, mà cho chúng con can đảm tiến đến xin được giúp đỡ họ; “Tôi có thể giúp gì cho anh, cho chị, cho em?”.
Một thiếu phụ trẻ rời bỏ miền quê để tìm việc làm. Chị xin được một việc làm tại Cleveland, Bang: TN 15-C36
Một thiếu phụ trẻ rời bỏ miền quê để tìm việc làm. Chị xin được một việc làm tại Cleveland, Bang Ohio với chân tốc ký. Quá nhớ nhà, chị vào một quán nhỏ, khi chị uể oải nâng chén cơm và không nuốt xuống được, một bà đứng tuổi bước vào và xin ngồi bên chị. Người thiếu phụ không muốn tiếp bà, tức thời bà đứng tuổi cảm được người thiếu phụ có điều buồn bực. Bà hỏi thăm và khôn ngoan an ủi, sau cùng người tốc ký bật cười nhưng cười trong nước mắt. Bà đứng tuổi nói chuyện lâu với nàng, cùng nàng về quán trọ và mỗi ngày ghé thăm nàng, trong hai tuần lễ, tới khi người thiếu phụ trở lại bình thường và chế ngự được nỗi nhớ nhà.
Đây là câu chuyện nói về người Samaritanô nhân hậu. Người thiếu phụ trẻ không bị đánh nhừ tử nơi thân xác, nhưng nơi tâm hồn. Một người đàn bà đầy thiện cảm tới giúp nàng, Chúa Kitô muốn chúng ta giúp đỡ không những đau khổ thể xác, mà cả những đau khổ nơi tâm hồn. Giáo Hội của Chúa cũng dạy chúng ta phải thực thi không những việc từ thiện thể xác, mà còn phải thực thi những điều cần thiết hơn, đó là việc từ thiện tinh thần. Đó là ý nghĩ của tôi trong ngày hôm nay.
Hằng ngày chúng ta gặp những người cô đơn như cô tốc ký trong câu chuyện, những người buồn chán, bối rối, bị hiểu lầm, bị bỏ rơi, thiếu tình thương và chăm sóc, bị ngược đãi, thất vọng, chán nản và mặc cảm tội lỗi. Tâm hồn họ bị thương nặng như thể xác của người bị cướp đánh đập. Họ kêu cứu trong bài đáp ca hôm nay; “Tôi buồn sầu và đớn đau” chúng ta đừng bỏ qua. Hãy dừng lại và giúp họ.
Làm thế nào? Một nụ cười chân thành, một lời chào vui vẻ, sự ân cần thăm hỏi có thể giảm bớt nỗi đau của một tâm hồn sầu muộn. Một lời “cảm ơn” nồng nàn có thể khích lệ một người bị quên lãng, bị khinh khi. Bạn hãy cố gắng cám ơn bác tài xế, người phu hốt rác, người phát thơ và bạn cũng cần cám ơn những người trong gia đình bạn, Thầy cô giáo của bạn, người chiêu đãi và cả người thợ cạo râu, hớt tóc. Chào hỏi người lớn tuổi cũng rất quí giá. Tình yêu chân thành sẽ cho bạn biết bạn phải nói gì và nói làm sao.
Có những người gặp thảm kịch như tai nạn, bệnh nặng, có người chết trong gia đình, tâm hồn họ sẽ thấy được nâng đỡ, xoa dịu nhờ lời ân cần thăm hỏi, viếng thăm qua điện thoai, có người bị dằn vặt bởi nghi ngờ, bị tổn thương vì bạn bè, đồng nghiệp, thiếu tế nhị. Bạn hãy tử tế với họ và bạn sẽ chữa lành được tâm hồn họ.
Quả thật, con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô trên đó kẻ cướp đã để nạn nhân nửa sống nửa chết, trên đó người Samaritanô nhân hậu đã chăm sóc nạn nhân. Con đường đó khởi sự từ nhà thờ này, từ cửa nhà thờ tới nhà bạn, tới bàn giấy, tới xưởng thợ, tới lớp học của bạn. Dọc theo con đường ấy, có biết bao người bị thương nặng, nhẹ trong tâm hồn. Hãy dừng lại và tiếp giúp họ. Nói vài lời, làm một việc để giúp đỡ.
Câu chuyện Chúa Giêsu kể hôm nay, chỉ cho chúng ta biết ai là người lân cận mà chúng ta phải yêu thương. Người cho chúng ta sức mạnh, sự khôn ngoan để yêu thương qua thánh lễ tình yêu này. Xin Chúa giúp bạn thành người Samaritanô nhân hậu. Amen.
“Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: "thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?" Người đáp: "Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?" Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."
Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi ?" Đức Giê-su đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy lên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác." Vậy ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?" Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
***
Chúa kể dụ ngôn về người Sa-ma-ri-a nhân hậu nhân dịp một luật sĩ kia cậy mình hiểu biết: TN 15-C37
Chúa kể dụ ngôn về người Sa-ma-ri-a nhân hậu nhân dịp một luật sĩ kia cậy mình hiểu biết Kinh Thánh và những lối diễn dịch khéo léo của các ra-bi đến để đối chất với Chúa với ý định đánh hạ Ngài. Trong cuộc tranh luận, ông hỏi Chúa câu này: "Tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời ?" Chắc ông tưởng rằng Chúa sẽ kể ra một lô những nghi lễ, những quy tắc mới lạ và sẽ làm giảm giá trị của Luật pháp. Nhưng ông ta giật mình nghe Chúa hỏi ngược lại: "Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?" Câu trả lời dưới hình thức hỏi lại đã tước mất khí giới của đối phương. Tuy nhiên ông ta cũng khôn khéo trả lời rằng Luật pháp gồm tóm trong đòi hỏi kính chúa yêu người.
Chúa bảo: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống." Không có gì mờ ám, né tránh hay lường gạt trong câu nói của Chúa Giê-su. Lòng yêu mến vẹn toàn đối với Thiên Chúa và loài người nhất định là con đường sự sống. Nhưng ai có thể bày tỏ ra tình yêu vẹn toàn ấy ? Chúa Giê-su đến không phải để phá hỏng điều răn ấy mà để làm ứng nghiệm trọn vẹn, đem lại ơn tha tội cho những kẻ vi phạm luật ấy và ban quyền năng cho những kẻ cảm biết mình cần thiết. Câu trả lời của Chúa đánh hạ luật sĩ, nó còn đụng đến lương tâm ông nữa. Ông tự biết mình không thể làm trọn những đòi hỏi của những điều luật mà ông biết rất rõ. Bởi vậy ông cố tự biện minh bằng cách thâu hẹp địa hạt mà luật tình yêu áp dụng. Đó luôn luôn là kinh nghiệm của những kẻ tìm cách tự cứu mà từ chối sự cứu rỗi của Chúa Ki-tô. không ai có thể dùng sức mình để làm trọn vẹn những đòi hỏi của Luật pháp, hoặc là chúng ta phải tìm cầu sự giúp đỡ từ bên ngoài nơi Chúa Giê-su từ ái, hoặc phải tìm cách giảm thiểu những đòi hỏi của luật.
Ý của luật sĩ là không thể nào chu toàn được luật yêu mọi người, dầu là điều răn yêu người lân cận. Để tự biện minh, ông hỏi: "Ai là người thân cận ?" Chúa Giê-su đáp lại bằng một câu chuyện một người Do-thái gặp nạn trên đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô. Con đường này nổi tiếng là nguy hiểm, Giê-ru-sa-lem có độ cao 766 mét cao hơn mặt biển. Chỉ trong một khoảng hơn 32 cây số, con đường này đổ dốc sâu tới 1200 mét. Đó là con đường chật hẹp, qua nhiều đèo hiểm trở, có nhiều khúc ngoặt bất ngờ, thuận tiện cho những bọn cướp rình rập. Đến thế kỷ thứ V, thánh Hiêrônimô cho chúng ta biết con đường đó còn mang tên làn "Con đường đỏ hay con đường máu." Đến thế kỷ thứ XIX, ai muốn đi con đường đó phải trả trước tiền an ninh cho những quận trưởng Ả rập địa phương. Đầu năm 1930, H. Morton cho biết ông được cảnh cáo, nếu ông định đi con đường đó thì phải về nhà trước khi trời tối, vì có tên cướp Aben Jidah chuyên cướp ô tô và trấn lột hành khách, du khách, rồi trốn vào núi trước khi cảnh sát kịp tới. Khi kể chuyện này, Chúa Giê-su nói về một việc thường xảy ra trên con đường từ Giê-ru-sa-lem tới Giê-ri-khô. Chúng ta thử quan sát các nhân vật được nêu ra. Khách bộ hành: đây là người bất cẩn, liều lĩnh. Ít ai manh hành lý hay tư trang quý mà dám đi một mình trên đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô. Bao giờ họ cũng trẩy đi thành đoàn, thành toán, để được an ninh. Người này không thể qui lỗi cho ai hết ngoài chính mình trong thảm họa đã xảy ra.
Thầy tư tế trông thấy nạn nhân, ông vội vàng bước qua. Chắc ông đang nhớ rằng kẻ nào sờ vào mình người chết thì sẽ bị ô uế bảy ngày (Ds 19,11). Ông không dám khẳng định, nhưng ông e ngại người đó đã chết và nếu ông chạm vào người đó, ông sẽ mất phiên phục vụ trong Đền Thờ, ông không muốn liều lĩnh như vậy. Ông là người đặt lễ nghi lên trên tình yêu thương. Đền thờ và các nghi lễ tại đó có ý nghĩa đối với ông hơn là sự đau khổ của con người.
Thầy lê-vi mà chức vụ là người giúp đỡ thầy tư tế, một người nhẹ bổn phận hơn và chắc có nhiều thời giờ hơn để có thể cứu trợ. Hình như ông này đã lại gần nạn nhân trước khi ông bỏ đi. Quân cướp thường dùng mồi nhử bằng cách cho một tên trong bọn chúng giả làm nạn nhân, và khi có ai đó vô tình dừng lại bên cạnh nạn nhân, thì cả bọn liền ập đến bắt trói hành khách đó. Người lê-vi này sống với khẩu hiệu "an toàn trước hết", ông không muốn liều để giúp đỡ ai hết.
Người Sa-ma-ri: Người nghe chuyện lúc bấy giờ chắc tưởng là người này tới là tai họa rồi đó. Có thể người này không có dòng máu Sa-ma-ri. Người Do-thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri, nhưng người này có lẽ thuộc hạng thương gia lưu hành thường quen lui tới nhà quán. Trong Gio-an 8,48, người Do-thái gọi Chúa Giê-su là người Sa-ma-ri. Danh từ đó đôi khi được dùng để chỉ một tên rối đạo hay một kẻ không tuân phục nghi lễ. Có lẽ người này chỉ là người Sa-ma-ri theo nghĩa một người mà giới chính thống ngoan đạo khinh bỉ. Chúng ta nhận xét hai điều về người này:
Anh là người được tín nhiệm: rõ ràng chủ quán sẵn lòng tin lời anh. Có thể là anh không đi đúng thần học, nhưng anh là người tốt.
Chỉ có anh là người sẵn sàng giúp đỡ. Anh có thể bị xem là người rối đạo, nhưng tình thương của Thiên Chúa chan chứa trên tâm hồn anh. Người ta dễ gặp những người ngoan đạo thích giáo lý hơn thích giúp đỡ và cũng gặp người mà giới ngoan đạo khinh bỉ lại biết yêu thương đồng loại. Cuối cùng, chúng ta sẽ bị Chúa phán xét, không phải vì giáo lý trong đầu óc chúng ta, song vì cách chúng ta đã sống.
Chúng ta thử tìm sự dạy dỗ của dụ ngôn người luật sĩ đặt câu hỏi lòng đầy hăng hái. Chúa hỏi lại ông đọc gì trong luật. Luật sĩ đáp theo như đã ghi: "Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi." (Đnl 6,3), và thêm "Phải yêu người thân cận như mình." (Lv 18,19). Nhưng giời đạo sĩ Do-thái vốn ưa thích định nghĩa, họ ra sức định nghĩa người thân cận là ai, và với tư tưởng hẹp hòi của họ, họ đã thu hẹp người thân cận vào đồng bào Do-thái của họ thôi. vậy câu hỏi của luật sĩ "ai là người thân cận của tôi" là câu hỏi thích đáng. Và câu trả lời qua dụ ngôn dạy ta ba điều:
Ta phải giúp đỡ kẻ khác dầu khi kẻ đó tự gieo họa cho mình, như người hành khách bất cẩn liều lĩnh này.
Dù người thuộc quốc tịch nào, khi lâm nạn, đều là người thân cận của chúng ta, sự giúp đỡ của chúng ta phải rộng lớn như tình yêu Thiên Chúa.
Sự giúp đỡ phải thực tế chứ không dừng lại ở cám xúc. Hẳn thầy tư tế cũng như thầy lê-vi cũng cảm thấy xót xa cho người lâm nạn, nhưng không hành động gì. Sự cảm thương thành thực phải đi đôi với hành động thiết thực.
Điều Chúa Giê-su phán với thầy dạy luật thì Ngài cũng nói với chúng ta "Ngươi hãy đi làm như vậy."
Đức Giêsu nói về luật mến Chúa và yêu người làgiới răn giềng mối và quan trọng nhất của lề: TN 15-C38
Đức Giêsu nói về luật mến Chúa và yêu người làgiới răn giềng mối và quan trọng nhất của lề luật, Ngài đã trả lời cho luật sỹ và biệt phái đặt câu hỏi về giới răn trọng, nhằm có ý ám hại Ngài (xem Mt 22,34-40; Mc 12,18-31). Người luật sỹ đến hỏi thử Ngài: "Tôi phải làm gì để được sống đờiđời" (Lc 10,25). Để có câu trả lời cho con đường dẫn đến sự sống đời đời, mỗi người phải tin vào Chúa Giêsu, vừa phải noi gương sống như Ngài, như giáo huấn Ngài dạy trong ví dụ người Samari nhân hậu:
I. Tin vào Chúa Giêsu:
1/ Ngài là trưởng tử tập họp vạn vật trong Ngài:
Thánh Phaolô trong Bài đọc 2 xác tín cho chúng ta về Đức Kitô: Ngài là trưởng tử giữa mọi loài thụ sinh, trong Ngài vạn vật trên trời dưới đất được tập hợp. Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự tồn tại trong Ngài, Ngài là đầu của Hội thánh, và Hội thánh là thân mình Ngài... Ngài đã giảng hòa vạn vật... ban lại cho mọi loài sự bình an (trật tự) nhờ Bửu Huyết của Ngài đổ ra nơi Thập Giá!".
Ta có thể tóm lược được tư tưởng của Phaolô về Chúa Kitô qua bàiđọc 02 theo hình vẽ sau:
VC
+SS
+TK
+LH
+thần tín
:Chú Kitô
VC
+SS
+TK
+LH
:Người
VC
+SS
+TK
: Động vật
VC
+SS
: Cây
vật chất
Ghi chú:
VC: Vật chất, SS: Sự sống, TK: Thần kinh, LH: Linh hồn.
Nhìn vào lược đồ trên, rõ ràng Chúa Kitô lôi kéo vạn vật lên với Ngài, kết hợp cùng Ngài để tồn tại trong Ngài, đúng như lời Phaolô tóm gọn chương trình cứu độ Thiên Chúa thiết lập: "Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Chúa Kitô, Chúa Kitô thuộc về Thiên Chúa". (1 Cr 3,22-23).
2/ Cách thức Chúa Kitô tập họp vạn vật trong Ngài:
Đức Giêsu đã dùng hình ảnh người Samari nhân hậu để diễn tả về chính Ngài:
SAMARI NHÂN HẬU
Người Do Thái coi người ở Samari là kẻ rối đạo, vì không thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem mà lại thờ Thiên Chúa ở Garizim!
Người Samari chăm sóc người bị cướp đánh nửa sống nửa chết.
Ông đưa nạn nhân vào quán trọ và cùng với chủ quán chăm sóc.
Ông trả công cho chủ quán hai quan tiền.
Ông có việc lên đường, nên hứa với chủa quán khi vòng về, ông sẽ trả những gì còn thiếu cho chủ quán về việc chăm sóc nạn nhân!
CHÚA GIÊSU
Các đầu mục Do Thái kết án Chúa Giêsu là kẻ phá đạo hay rối đạo, vì Ngài không giữa luật Môsê.
Đức Giêsu chămsóc nhân loại: Nửa sống là thân xác họ, nửa chết là linh hồn họ chết vì tội do ma quỷ xúi giục.
Chúa Giêsu đưatội nhân vào Hội thánh để Ngài và Hội thánh chăm sóc.
Những ai cùng với Đức Kitô chăm sóc đồng loại đều được Chúa trả công cả xác, cả hồn, đời này và đời sau.
Ngài về trời, Ngài sẽ trở lại trần gian trong ngày cánh chung, lúc ấy Ngài thưởng công trọn vẹn cho cả xác hồn cho những ai biết chăm sóc người khác theo giới răn Chúa dạy!
3/ Hai đặt tính phục vụ của Chúa Kitô:
a- Không phân biệt bạn hay thù:
Ngài phục vụ không phận biệt bạn hay thù như người Samari phục vụ kẻ bị cướp đánh, không cần biết lý lịch của họ!
b- Chấp nhận phiền hà:
Ngài chấp nhận sự phiền hà, đau khổ vì phục vụ, nhất là Ngài làm vượt quá lề luật dạy, như người Samari nhân hậu động đến xác người bị cướp đánh là bị dơ theo luật và phải kiêng cữ 07 ngày, không được tham dự phục vụ với cộng đoàn. Đó là lý do Thầy Tư tế cũng như Thầy Lêvi phải tránh xa người bị nạn máu me đầy mình! (Ds 19,11-16).
II. Sống như Chúa Giêsu đã sống:
Chúa dạy: "Yêu hết sức lực": Như Đức Giêsu không còn sức vác Thập Giá, nên phải nhờ ông Simon vác giúp (Lc 23,26); Yêu hết trí khôn: như cái chết của Đức Giêsu người ta cho là điên dại (I Cr 1,18t); Yêu hết linh hồn: Như Đức Giêsu trên Thập Giá thưa với Chúa Cha: "Lạy Cha, Con phó linh hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46); Yêu hết lòng: "Dù Đức Giêsu đã chết, nhưng kẻ ác vẫn đâmvào tim Ngài, nước và máu từ lòng Ngài dốc hết ra (Ga 19,34). Vậy yêu Chúa chính là hy sinh cho đồng loại để đưa họ về cho Chúa, vì Chúa muốn kéo mọi sự lên với Ngài (Ga 12,32).
Do đó bài đọc 1 (Đnl 30,10-14) Môsê đã dạy dân: Ai sống lệnh truyền yêu thương như Chúa Giêsu đã làm gương không vượt quá sức mình, thì được Ngài cùng hành động với, như Thánh Phaolô nói: "Ai yêu Chúa, được Ngài đồng công cộng tác, biến mọi sự nên tốt đẹp" (Rm 8,28). Như lề luật Chúa dạy ở bên ta, đó chính là nhu cầu của đồng loại đang đòi hỏi ta, cũng như những gương sáng giống như Chúa Giêsu đang thách đố ta, Luật Chúa trên miệng ta, khi ta biết mở miệng nói lời như Thiên Chúa huấn luyện ta, để ta biết dùng lời nói mà nâng đỡ kẻ nhọc nhằn (xem Is 50,4); và Lời Chúa ngay trong lòng ta: Là ta hãy có lòng trắc ẩn yêu thương đồng loại, nhất là người đang gặp đau khổ như Chúa thương ta, hay ít là người Samari nhân hậu chămsóc người bị cướp đánh. Chỉ có những kẻ lòng chai dạ đá, sống ích kỷ bỏ qua nhu cầu đồng loại như ông Tư tế và Lêvi, dù có đến Nhà thờ để cầu nguyện cũng bị Chúa kết án là hạng vô đạo.
Vào một buổi sáng Chúa Nhật năm1968. Viên cảnh sát ở miền Bảo Lộc đang trên chiếc xe máy đi lễ. Xe đang thả dốc, ông nhìn xuống vực thẳm vệ đường thấy một người đang nằm sõng sượt trên vũng máu bên cạnh chiếc xe đạp, ông vội dừng xe, với lòng trắc ẩn, ông bước tới... Lòng ông bị dằng co đôi đường: nếu ở lại giúp nạn nhân, ông sẽ mất lễ, ông không giống người Samari nhân hậu. Cuối cùng, ông quyết định bỏ lễ để ở lại giúp nạn nhân, ông vực nạn nhân lên xe và chở vào bệnh viện gần nhất. Nhưng sau ông bị tạm giam để điều tra. Vợ ông nghe tin vào thăm ông trong tù và không ngớt lời trách móc... Rất may, nạn nhân hồi tỉnh trở lại, người ta mới được biết: trên chiếc xe đạp cô đi ra vườn chè để hái, vì đang thả dốc, không may xe đứt thắng sau làm cô hoảng hốt bóp mạnh thắng trước thế là chiếc xe lộn ngược xuống hố, tay lái của xe thúc vào hông cô làm cô bất tỉnh!
Nhờ vậy mà viên cảnh sát kia được tự do, và sau những ngày ấy vợ ông tha hồ nhận quà từ gia đình nạn nhân.
Hôm nay chúng ta sẽ nghe lại dụ ngôn người Samari nhân hậu. Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu: TN 15-C39
Hôm nay chúng ta sẽ nghe lại dụ ngôn người Samari nhân hậu. Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta biết quan tâm chăm sóc đến anh chị em quanh ta. Tư tế và thầy Lêvi đáng bị kết tội, không phải vì sự can phạm mà vì đã bỏ sót - họ đã từ chối giúp đỡ một người bị đánh trọng thương. Tội do thiếu sót có thể là tội độc ác nhất của chúng ta, thế mà chúng ta lại chẳng bao giờ nghĩ đến chúng là tội cả. Chúa Giêsu chính là người Samari nhân hậu. Người hằng chữa lành những vết thương của ta.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã động lòng trắc ẩn thương chúng con vì những nỗi buồn khổ của chúng con.
Chúa chữa lành chúng con khỏi những vết thương do tội lỗi và chia rẽ.
Chúa đưa chúng con đến quán trọ của sự sống đời đời.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: Đnl 30,10-14
Môsê thuyết phục dân chúng tuân giữ Luật của Thiên Chúa, không phải là những điều áp đặt từ bên ngoài, nhưng là những điều xuất hiện ngay từ trong lòng chính mỗi người.
Bài đọc 2 : Cl 1,15-20
Thánh Phaolô khẳng định uy quyền tối cao, tuyệt đối của Đức Kitô.
Tin Mừng: Lc 10,25-37
Dụ ngôn bất hủ về người Samari nhân hậu.
CON ĐƯỜNG TỪ GIÊRUSALEM ĐẾN GIÊRIKHÔ “Một người kia từ …”
Chúa Giêsu không gán một tôn giáo nào hay tầng lớp xã hội nào cho người đàn ông đó, mặc dù rất hợp lý để quả quyết đó là một người Do Thái. Ông ta là người tốt hay người xấu ? Là người quan trọng hay là thường dân ? Những câu hỏi này đều không cần thiết. Ông ta là một con người. Đó là tất cả vấn đề.
“Ông ta bị rơi vào tay bọn cướp …”
Những tên vô tâm, hung bạo, những kẻ ức hiếp người yếu. Chúa Giêsu đã sống trong một thế giới thực. Chúa biết loại người đó vẫn tồn tại. Chúng ta cũng biết điều đó.
“Thầy tư tế và thầy Lêvi nhìn thấy ông ta nằm đó gần chết … nhưng vẫn bỏ đi.”
Thầy tư tế và thầy Lêvi là những người lãnh đạo trong tôn giáo, nhưng họ đã không cảm thấy chút xót thương cho người đàn ông bị nạn đó. Tôn giáo mà không có lòng thương xót thì thật là mâu thuẫn. Không có lòng thương xót thì người ấy không thể tự xưng mình là một con người đích thực, chứ đừng nói gì đến là một người có đạo đích thực.
“Một người Samari đi đến …”
Ông ta thấy người đàn ông bị nạn, và động lòng thương cảm, do đó ông ta tức thì cứu chữa người bị nạn. Ông không quan tâm đến rắc rối có thể xảy đến cho mình, và sẵn sàng để qua một bên vấn đề người đàn ông đó là một người Do Thái. Người Do Thái và người Samari là kẻ thù của nhau thời bấy giờ.
Khởi đầu câu chuyện, chúng ta biết rất ít về thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari. Vào cuối câu chuyện chúng ta cũng không biết nhiều hơn về họ. Tuy nhiên chúng ta biết rõ tất cả những sự kiện đó. Chúng ta biết họ thuộc loại người nào và bản chất của họ đã được bộc lộ ra cho ta thấy.
Thầy tư tế và thầy Lêvi là những người chỉ biết đến bản thân mình. Khi thời điểm quyết định đến, họ đặt chính bản thân mình trước tiên. Người Samari, lại hoàn toàn trái ngược, là người không ích kỷ, ông đã đặt ưu tiên cho người khác.
Thầy tư tế và thầy Lêvi đã phạm phải tội thiếu sót. Tội thiếu sót có thể là một tội tồi tệ nhất của chúng ta, nhưng chúng ta thường nghĩ rằng bao lâu chúng ta không làm hại ai, thì chúng ta vẫn có thể bình an. Nhưng có thể chúng ta đã thấy người nào đó bị nạn, mà ta đã không can thiệp vào ? Có những người không muốn vướng bận vào bất cứ chuyện gì bằng cách tránh xa mọi điều phiền toái.
Người Samari là người biết quan tâm giúp đỡ người khác. Người biết quan tâm giúp đỡ người khác là những người rất đặc biệt. Họ giống như muối cho đất và ánh sáng cho thế gian. Họ không ngại phải làm việc. Họ quan tâm đến mọi người vì lương tâm không cho phép họ làm khác đi.
Trong mỗi người chúng ta đều có khả năng để quan tâm đến người khác. Có những cơ hội nho nhỏ cho chúng ta thực hiện việc đó mỗi ngày. Trong khả năng của mình, chúng ta có thể nói một lời tử tế, bày tỏ sự thông cảm hoặc giúp đỡ. Đó là những giọt “dầu và rượu” giúp chúng ta xoa dịu vết thương.
Con đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô tượng trưng cho con đường của cuộc sống. Vào cuối câu chuyện, Chúa Giêsu nói với người luật sĩ rằng “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy." Những lời này cũng là để nói với chúng ta. Và một khi chúng ta còn đang tiến bước trên đường, chúng ta vẫn có thể thực hiện điều đó.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta học được bài học của dụ ngôn người Samari nhân hậu và cố gắng thực hành trong cuộc sống thường ngày.
Xướng: Cầu nguyện cho các Kitô hữu để họ trở nên người thân cận với những ai đang sống trong sự thiếu thốn.
Xướng: Cầu cho các tổ chức xã hội để họ biết quan tâm chăm sóc đặc biệt cho những ai đau yếu và những thành viên đang bị tổn thương trong xã hội.
Xướng: Cầu nguyện cho những ai đang hành nghề chăm sóc cho con người: các bác sĩ, y tá, nhân viên cứu hoả, nhân viên cấp cứu, để họ diễn tả lòng thương xót của Chúa Giêsu nơi những nạn nhân.
Xướng: Cầu xin cho ân sủng Chúa được ban xuống trên những ai đang đau khổ, để họ cảm nghiệm được rằng họ không chịu đau khổ một mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đôi mắt biết nhìn ra những vết thương của người anh em, con tim để biết đồng cảm với họ, và sự hăng say để cư xử cách tốt nhất theo khả năng của chúng con. Chúng con cầu xin …
Có lẽ rất nhiều người tín hữu chúng ta đa tin và sống Ịạo như người thông luật đã nêu thắc mắc: TN 15-C40
Có lẽ rất nhiều người tín hữu chúng ta đa tin và sống Đạo như người thông luật đã nêu thắc mắc với Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.
Thật vậy, như ông này, chúng ta cũng sốt sắng tuân giữ những lề luật căn bản trong Đạo về mến Chúa yêu người, về công bằng bác ái.Nhưng cũng nhân câu hỏi của nhà thông luật này và câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta hãy tự xét xem mình đã thật sự mến Chúa và yêu người khác như Chúa dạy chưa ?
Mến Chúa thì dễ vì Chúa vô hình, ta không xem thấy và tiếp xúc thực sự hàng ngày.Tuy nhiên, nhiều khi cũng thấy khó tin và yêu Chúa như Người đòi hỏi. Đó là lúc chúng ta gặp những gian nan, khó khăn, đối diện với những đau khổ bất ngờ về bệnh tật hiểm nghèo, bị mất công ăn việc làm và địa vi xã hội, bị khinh chê,hiềm khích, cô đơn tuyệt vọng nhất là khi phải mất người thân yêu trong cuộc ở sống này.
Trong những tình huống ấy, thật khó mà cảm nghiệm tình thương yêu dịu ngọt của Chúa như trong những hoàn cảnh được nhiều điều sung mãn vừa ý.Vì thế, nhiều người đã kêu trách Chúa khi gặp những thử thách lớn lao và có khi đã mất đức tin và lòng trông cậy vào Chúa chỉ vì những trở ngại này.Nhưng nếu vẫn yêu mến và tin cậy Chúa trong những nghịch cảnh này thì đó mới thật là yêu,mới thật là tin, cậy.
Đấy là những thách đố cho niềm tin và yêu Chúa trong cuộc sống trên trần thế này. Về giới luật yêu người thì sự khó khăn này còn lớn lao hơn nữa vì thực tế người là vật hữu hình, hữu thanh ta phải tiếp xúc, trực diện hàng ngày trong gia đình, và ngoài xã hội.Yêu người thích mình, về phe với mình, luôn bênh vực, ủng hộ mình thì quá dễ, nhưng với những người không ưa mình, hay chỉ trích, phê bình mình cho dù là có tính chất xây dựng đi nữa., thì cũng rất khó để chấp nhận, nói gì đến yêu thương họ như yêu chính mình..Nhưng Chúa lại thách đố chúng ta “phải yêu và cầu cho cả kẻ thù” vì “ nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có ân nghĩa gì đâu ? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ” (Lk 6: 32).
Bác ái là giới răn quan trọng nhất để minh chứng niềm tin vào Thiên Chúa vô hình nhưng có thật. Bác ái, hay yêu thương thì không thể chỉ bằng lời nói hay đẹp mà chủ yếu ở thực hành cụ thể như thông cảm, giúp đỡ người nghèo khó, thăm viếng người đau yếu, an ủi người sầu khổ, cứu giúp người hoạn nạn.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay,nhất là môi trường xã hội Mỹ với những éo le về luật pháp, thì thật là khó để thi hành bác ái theo gương người Samaritanô nhân hậu được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật vậy, chủ nghĩa cá nhân (individualism) đã làm cho biết bao người chỉ biết sống cho mình, ít quan tâm đến người khác ở chung quanh. Lại nữa, với hệ thống luật pháp phiền toái của xã hội Mỹ khiến nhiều người không muốn bị liên lụy (liable) hay mất thì giờ ra tòa làm chứng (witness) nên không ai muốn “nghĩa hiệp” xông vào tiếp cứu một nạn nhân đang bị cướp, hay bị hành hung ngoài đường phố. Cùng lắm người ta chỉ gọi hộ xe cứu thương hoặc cảnh sát mà thôi. Nghĩa là ít có, nếu không muốn nói là không có ai, dám cứu giúp nạn nhân như gương người Samaritanô kia., chỉ vì những phiền toái của hoàn cảnh xã hội. ngày nay.
Tuy nhiên, hoàn cảnh khó khăn không thể giới hạn lòng yêu thương tha nhân như Chúa đòi hỏi. Một trong những tội lớn của người thời đại hôm nay là tội dửng dưng (indifference) hay vô cảm (insensibility) trước sự đau khổ của người khác.Vì ích kỷ và cá nhân chủ nghĩa, nhiều người chỉ biết lo cho hạnh phúc, an vui của riêng mình và người thân của mình trong khi hoàn toàn dửng dưng, không quan tâm gì đến những người kém may mắn, đang đau khổ về vật chất hay tình thần, tình cảm..
Người ta thường thắc mắc: tại sao có quá nhiều đau khổ, bất toàn trong cuộc sống con người trên trần thế này ? Có Thiên Chúa nhân hậu và công bằng thực sự hay không?
Hỏi thế là không hiểu lý do Chúa tha phép cho những đau khổ đó xảy ra cho con người. Chúa có thể quét sạch mọi sự dữ, chữa lành mọi bệnh tật, tiêu diệt mọi nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người. Nhưng Chúa không muốn một mình Người làm hết những công việc đó. Chúa muốn chúng ta cộng tác với Người trong chương trình này. Chúa cần bàn tay chúng ta mở rộng để ôm lấy những người đang đau khổ, sầu buồn để an ủi họ. Chúa cần đôi chân chúng ta để đi đến thăm viếng những người bệnh tật, mù què, hay đang phải tù đầy nơi các trại giam, khám đường. Chúa cần đôi mắt của chúng ta để nhìn thấy những bất công xã hội, những gương xấu đang làm băng hoại mọi giá trị đạo đức, luân lý, những trẻ em đang bị bỏ đói nơi đầu đường xó chợ, không được chăm nuôi đúng mức. v.,v. Tóm lại, Chúa mong muốn chúng ta quan tâm thích đáng đến anh chị em mình không phân biệt mầu da, ngôn ngữ, và địa vị xã hội, vì Chúa Kitô thực sự hiện diện nơi những người anh em kém may mắn, đang đau khổ thể xác hay tâm hồn đó..
Vậy người Samaritanô của thời đại hôm nay phải chăng là người không dửng dưng trước sự đau khổ của người khác, không làm ngơ trước sự dữ đang tác hại biết bao tâm hồn trong trắng, nghĩa là thực sự nhậy cảm (sensible) trước những nhu cầu vật chất, tinh thần, tình cảm của anh chị em mình ?
Trong cuộc sống chúng ta có nhiều câu hỏi: tôi phải làm gì để có tiền ? Tôi phải làm gì để học giỏi ?: TN 15-C41
Trong cuộc sống chúng ta có nhiều câu hỏi: tôi phải làm gì để có tiền ? Tôi phải làm gì để học giỏi ? Tôi phải làm gì để người yêu vui vẻ, tôi phải làm gì để giành được địa vị giám đốc.v.v… và có rất nhiều câu hỏi mà chúng ta đã đặt ra cho mình cũng như cho người khác khi nhu cầu đòi hỏi…
Nhưng có lẽ chưa một ai trong chúng ta tự hỏi mình: “Ai là người thân cận của tôi” như người thông luật trẻ đã hỏi Chúa Giêsu.
1. Người thân cận của tôi là ai ?
Người thân cận của tôi trước hết là “cái tôi” của mình, cái tôi này đã làm cho tôi có lúc như nổi loạn vì bất mãn với người khác, bất mãn với cuộc sống hiện tai, bất mãn với đời sống cộng đoàn.
Người thân cận của tôi tiếp theo là vợ chồng con cái của tôi, những người thân cận này vì yêu thương họ mà tôi phải làm việc mệt nhọc, phải thức khuya dậy sớm, và có khi vì yêu thương họ mà tôi phải phạm pháp, phải hối lộ, phải chửi nhau với người khác để kiếm tiền chăm sóc họ.
Người thân cận của tôi cũng chính là cha mẹ anh chị em ruột thịt của tôi, vì họ mà có lúc tôi bỏ đường danh vọng theo ý mình để nghe lời cha mẹ làm việc khác, vì anh em thân cận mà có lúc tôi phải trở thành người xa lạ với những người đã nâng đỡ tôi trong cuộc sống…
Người thân cận của tôi cũng chính là bạn bè thân hữu, họ đã chơi rất thân với tôi, và vì nể bạn bè mà có khi tôi phải nhậu nhẹt sau giờ làm việc, có khi thức suốt đêm để ăn chơi quên mất đường về nhà…
Chấm hết, đó là những người thân cận của tôi ngày hôm nay cũng như người Do Thái và tất cả mọi người trên mặt đất này.
Chúa Giêsu không trả lời với người thanh niên thông luật rằng: người thân cận của anh là cha mẹ, là anh chi em, là vợ chồng của anh, là bạn hữu của anh. Bởi vì đó là mối “thân cận” thường tình của con người, mối thân cận này thường làm cho người ta dễ dàng đi đến thái độ thờ ơ, dửng dưng với người xa lạ không quen biết… mà Nước Trời thì không phải chỉ dành cho bà con bạn hữu hay của một nhóm người mà thôi.
2. Người thân cận của tôi là ai ?
Đó là người mà Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn rất dễ hiễu và thực tế: người Samaria nhân hậu.
Người Samaria nhân hậu ấy là người thân cận của tôi, họ là người ngày hôm qua chửi tôi trong cuộc họp cộng đoàn, họ là người ngày hôm qua phê bình tôi giữa đám dông dân chúng, họ là người mà thường ngày tôi ghét cay ghét đắng vì thái độ hách hách của họ, họ là người mà tôi quyết tâm sẽ trừng trị họ cho bỏ ghét trong xí nghiệp của tôi…
Những người Samaria ấy là người thân cận của tôi, vì ích kỷ, vì kiêu ngạo, vì lòng hận thù mà tôi biến họ thành kẻ thù của tôi, nhưng Chúa Giêsu đã sửa cho tôi cách nhìn xa hơn và hướng thiện hơn: con người ta ai cũng có một tâm hồn biết thương xót. Người Samaria là kẻ thù của người Do Thái nhưng họ vẫn sẵn sàng xuống ngựa và cúi xuống ôm lấy người Do Thái bị nạn đang nằm bên vệ đường, tấm lòng của họ tốt lành hơn các tư tế và các thầy Lê Vi của người Do Thái gáp trăm ngàn lần…
Chúa Giêsu rất có lý khi đưa ra dụ ngôn tuyệt vời này, cái lý lớn nhất của Ngài là mọi người đều là anh em của nhau con cùng một Cha trên trời, từ cái lý này mà sinh ra nhiều lý khác rất hợp với lời rao giảng của Ngài: yêu thưông người như chính mình, yêu thương và làm ơn cho kẻ thù ghét mình…
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã trình bày rõ ràng cho chúng ta thấy người thân cận của tôi là ai trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nghe rất rõ ràng, nhưng thực hành thì chúng ta vẫn chưa làm tốt, bởi vì chúng ta chưa thực sự là người muốn trở nên người thân cận của mọi người khi mà chúng ta vẫn còn những phê bình ác ý, vẫn còn suy tính hơn thiệt khi giúp đỡ người khác…
Hy vọng -với ơn Chúa giúp- chúng ta sẽ nhìn thấy tất cả mọi người đều là người thân cận của mình, nhất là những người ngày ngày chúng ta tiếp xúc trò chuyện, những người mà chúng ta cho rằng “không đáng làm bạn với mình” sẽ trở nên những người thân cận của chúng ta.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 15 thường niên tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.
Xin mở đia chỉ http://vietcatholic.net/nhantai để đọc bài: Nhưng, ai là người thân cận của tôi ? cùng tác giả.
Tôi viết bài suy niệm khi đang ngồi trong phòng đợi của một chuyến bay công tác. Chuyến bay trễ tới ba: TN 15-C42
Tôi viết bài suy niệm khi đang ngồi trong phòng đợi của một chuyến bay công tác. Chuyến bay trễ tới ba giờ; nếu biết trước chuyện này thì tôi đã ở nhà, nhấm nháp cà phê, ăn sáng và đọc báo. Có thể nhờ tờ báo mà tôi được thêm chút tài liệu cho bài suy gẫm về người Samari nhân hậu hôm nay. Tôi chỉ biết về sự chậm trễ khi ra đến phi trường, hỏi phòng bán vé, thì người ta mới cho hay. Tôi bực mình với cô nhân viên. Nhưng nghĩ lại thì đâu phải lỗi ở cô ta, thế là tôi phải ngồi ở phòng đợi, trên một cái ghế nhựa hết sức bất tiện và kê giấy trên đùi mà viết. Câu chuyện về người Samari nặng ký hơn những phiền toái hiện giờ và chẳng có chi liên quan đến sự thoải mái của chuyến bay và các hành khách. Nhưng lại nhắc nhớ cho chúng ta về thái độ của mình đối với bạn đồng hành. Chúng ta là ai? Cư xử như thế nào trong hành trình cuộc đời? Dầu sao thì tất cả những người sinh ra trên trái đất đều là lữ hành và dụ ngôn hôm nay liên quan trực tiếp đến mọi linh hồn. Nó là tâm điểm hành động của đức tin công giáo.
Người Samari nhân hậu! Cụm từ rất phổ thông trong Hội Thánh. Khi ai đó được gán cho tước hiệu này thì mọi người đều hiểu ngay ông ta, bà ta, cô ta… có lòng tốt đối với tha nhân, nhất là với những kẻ sa cơ lỡ bước, ngay cả trường hợp phải trả giá bằng tài sản của mình. Tuy nhiên trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, cụm từ này có nghĩa khác. Người Samari không phải là kẻ làm điều lành, nhưng là cái túi hận thù, ghen ghét. Ngược lại dân Samari cũng coi người Do Thái như vậy. Hai bên khinh dể lẫn nhau. Cho nên các thính giả Do Thái khi nghe Chúa Giêsu kể dụ ngôn, họ hiểu ngay ngụ ý của Ngài mà không cần giải thích. Đối với họ, đây không phải là chuyện dễ nghe, mà là một cú sốc, có tác dụng cảnh tỉnh về tình trạng tồi tệ của hai dân tộc. Kinh Thánh đã nhiều lần đề cập đến vấn đề yêu thương tha nhân, hàng xóm láng giềng, nhưng đã bị thẩm quyền đền thờ bóp méo nội dung, thậm chí còn đưa ra những giải thích trái ngược.
Hôm nay một luật gia Do Thái muốn “hỏi thử” Đức Giêsu phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Dĩ nhiên ông ta quá rõ những điều truyền dạy. Ông ta thông thạo Kinh Thánh mà! Luca đã nói điều đó: Một thầy thông luật. Ông ta chỉ muốn sát hạch xem Chúa có thuộc bài không? Đó là thái độ trịch thượng của giới trí thức lúc bấy giờ đối với Chúa Giêsu. Tương tự như chúng ta ngày nay, đối với những kẻ thấp cổ bé miệng. Câu hỏi của ông ta căn bản là: Cốt yếu lề luật là gì? Kiến thức hay hành động? Sự vật hay con người? Câu trả lời ông muốn là tập trung lòng yêu mến, kính trọng vào Thiên Chúa duy nhất. Từ đấy nảy sinh tất cả những lễ nghi và thói tục mà người Do Thái đạo đức phải tuân giữ để thờ phượng Thiên Chúa. Ông ngầm ý hành vi của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi trong xã hội là sai lầm. Dĩ nhiên ông cũng biết đến lệnh truyền phải yêu người thân cận như chính mình, nhưng nội dung của lệnh truyền đó đã bị bóp méo. Câu trả lời của Chúa làm ông ngỡ ngàng. Ngài không chỉ tập trung vào Thiên Chúa mà còn vào con người nữa: “Ông trả lời đúng lắm, cứ làm như vậy thì sẽ được sống”.
Điều ông không nghĩ ra: Ai là người láng giềng? Bởi vì Kinh Thánh không chỉ rõ. Sách Lêvi viết: “Ngươi không được trả thù, ngươi không oán giận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa”. Sách Đệ nhị luật truyền: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết dạ hết sức anh em.” Cho nên câu chuyện quoặt sang hướng khác: Ai là anh em tôi? Câu hỏi mang tính thời sự cả cho các tín hữu ngày nay và Hội Thánh hiện giờ. Nhưng để hiểu rõ, chúng ta hãy đặt nó vào bối cảnh của Phúc Âm. Luca mô tả hành trình Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Trước hết, Chúa Giêsu sau khi hoàn tất công việc rao giảng ở Galilêa, công bố hiến chương Nước Trời. Người quyết định hướng về Giêrusalem: “Khi tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời. Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem” (9,51). Luca cho thấy rõ Chúa Giêsu ý thức sứ mạng của mình và Ngài nhất định thi hành nó. Ngài sai các tông đồ và 72 môn đệ đi trước Ngài rao giảng trong các thành và làng mạc mà Ngài sẽ đến. Chúng ta suy niệm đoạn Phúc Âm này tuần trước.
Các ông trở về, thành công lớn và Chúa Giêsu cảm tạ Chúa Cha về những mạc khải cho các môn đệ mà Ngài gọi là những kẻ bé mọn. Ngài chúc lành cho các ông (10,23). Đúng vào thời điểm này thì người luật gia thông thái xuất hiện hỏi Người về điều răn lớn. Chúa Giêsu chất vấn ngược lại vì ông ta là thầy dạy trong dân. Ông biết rõ điều mình hỏi. Tuy nhiên câu chuyện chuyển sang ngõ khác: Ai là anh em tôi? Như chúng ta thấy ở trên nó là vấn đề của kẻ lữ hành, của hết mọi người thời ấy cũng như bây giờ. Chúng ta hoàn toàn là các lữ khách trên trần gian. Vậy phải đối xử với nhau ra sao? Nhân hậu hay độc ác cùng người chính kiến và đối lập? Khi người thông luật hỏi ai là người thân cận, ông muốn Chúa Giêsu trả lời theo thói tục Do Thái: Dân tộc Israel, ngoài ra là thù địch. Chúa Giêsu không trả lời theo ý ông mà là một dụ ngôn hoàn toàn ngược lại. Nếu theo thói tục Do Thái thì hoá ra hạn chế bổn phận yêu mến của tôn giáo, như vậy làm hỏng hoặc phá hoại mệnh lệnh Thiên Chúa truyền cho nhân loại: Hãy yêu mến tha nhân như chính mìnhh. Chúa Giêsu muốn ông thông luật nhìn vào người Samari cho câu trả lời: Đừng hạn chế tình yêu vào một loại người nào để chu toàn lề luật, dù người đó là bạn hay thù theo chữ đỏ đền thờ. Hôm nay chúng ta cũng vậy, Chúa muốn chúng ta hành động tương tự như người Samari, không phân biệt có đạo hay vô thần, kẻ cùng lý tưởng hay khác tôn giáo, khác tư duy và khác lối sống. Chúng ta phải minh chứng được mình là con Thiên Chúa, Đấng làm mưa nắng trên người lành kẻ dữ, bằng lòng thương cảm hết mọi người, nhất là những kẻ thấp cổ bé miệng, chứ không phải chỉ những ai mình ưa thích. Cho nên vấn đề là chúng ta yêu thương thế nào chứ không phải loại người cần chúng ta giúp đỡ.
Khi ông luật gia muốn biết rõ định nghĩa của hai chữ “thân cận”, tức đối tượng yêu mến thì Đức Giêsu lại cho ông hay về chủ thể của lòng mến yêu, tức người yêu thương, chứ không phải kẻ được yêu thương. Người Samari là kẻ thi thố lòng yêu thương cho tha nhân, bất kể người đó là ai: Tây, Tàu, Nhật Bản, Do Thái hay Hy Lạp. Ngày nay chúng ta cũng phải như vậy, không được chọn lựa đối tượng yêu thương. Hoá ra theo quan điểm của Chúa Giêsu, thì thầy luật gia đặt sai câu hỏi. Ông muốn giới hạn lòng yêu mến: Xin Thầy chỉ cho tôi chính xác phải yêu mến tới đâu? Chúa Giêsu trả lời: Đừng hỏi thế, mà nên hỏi: Tôi phải yêu mến thế nào? Và lề luật Thiên Chúa dạy yêu mến thì không giới hạn! Như vậy câu hỏi không phải là: Ai là thân cận của tôi? Nhưng là: Tôi là thân cận của những ai? Câu trả lời quá hiển nhiên. Than ôi! Ngày nay chúng ta vẫn cứ lấn cấn như thầy thông luật. Chúa Giêsu nói rõ ý Ngài khi hỏi lại: Theo ý ông trong ba người đó, ai đã tỏ ra thân cận với người bị rơi vào tay kẻ cướp? Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi và hãy làm như vậy”. Từ “láng giềng, thân cận” nói lên các tương quan của chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng mỗi người trong tương quan với người khác. Vậy thì mọi người đều là láng giềng của nhau, bất kể không gian và thời gian. Chúng ta có liên hệ hữu cơ và mật thiết với kẻ khác. Đáp ứng tốt ơn gọi này là thực thi chương trình của Thiên Chúa và sự thăng tiến nhân loại.
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Kitô dạy dỗ môn đệ nhiều điều, một trong các điều đó là tự nguyện lên Thành Thánh, nơi Ngài sẽ bị hành xích và tử nạn. Trong khi đi, nhiều lần Ngài nói rõ Ngài dâng hiến cuộc đời để phục vụ và yêu thương. Ngài cũng dạy các môn đệ như vậy: “Những ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”. Dụ ngôn hôm nay cùng nhằm một nội dung. Người ta sẽ nhận ra người theo Chúa như thế nào? Đó là nhờ lối sống đầy thương cảm. Người theo Chúa thực sự sẽ đáp ứng tự phát những nhu cầu của tha nhân, không cần kiểm tra trước giai cấp, địa vị của họ, chẳng cần xét xem họ thuộc hạng người nào? Quần áo ra sao? Bằng cấp, vốn liếng thế nào? Quốc tịch, dung mạo, con cái ở đâu…? Miễn là họ thuộc diện người cần giúp đỡ. Đức tin trước khi được hệ thống hoá thành thần học, thành suy tư trừu tượng thì đã là một lối sống cụ thể, một kiểu mẫu hành động của các tín hữu. Xin đừng quên điểm này, kẻo đi vào vết xe đổ của hai vị Tư Tế và Lêvi. Thái độ tư tế và lêvi của chúng ta xem ra khá phổ biến. Chúng ta dựa vào một lý do nào đó để bỏ qua công việc bác ái yêu thương. Thí dụ, lý do kỷ luật tu viện, nhà Dòng, đức khó nghèo… để làm ngơ, không giúp đỡ người nghèo khổ. Chuyện này, trong lối sống của các vị tu sĩ và linh mục khá thường xuyên. Các vị hữu trách cũng hay la rầy bề dưới vì đã “quá rộng” tay bố thí cho những con cháu Cái Bang, sa cơ lỡ vận. Xin nhìn vào dụ ngôn hôm nay để tìm ra ý Chúa mà sống thực tình yêu thương chứ không chỉ đầu môi chóp lưỡi.
Bởi lẽ dụ ngôn nhấn mạnh về phương diện hành động chứ không phải lý thuyết. Lời Chúa luôn luôn mang phẩm chất giáo huấn. Chúng ta nghe đọc gương sáng người Samari nhân hậu trong bối cảnh thánh lễ Chúa nhật. Tạm thời chúng ta gạt sang một bên các công việc hàng ngày, những lo lắng gia đình, con cái, học hành… Chúng ta lắng nghe Lời Chúa và để tâm suy đi nghĩ lại. Những ai chấp nhận nó trong đức tin thì cũng giống như trong phép Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện để đào tạo nhân cách chúng ta, ban cho nó những phẩm chất yêu thương của người con Chúa, theo kiểu người Samari nhân hậu. Thực ra dụ ngôn còn đi xa hơn nhiều. Nó ám chỉ Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, xót thương nhân loại đã bị Satan cướp bóc, đánh nhừ đòn, rồi vất nửa sống nửa chết bên vệ đường trần gian. Ngài ra tay cứu vớt, chữa lành các vết thương, rồi thiết lập Giáo Hội để tiếp tục chăm sóc. Như vậy người Samari nhân hậu mặc nhiên trở thành hình ảnh Chúa Chiên nhân lành, một hình ảnh đẹp đẽ của Đấng Cứu Thế.
Cho nên trong bài đọc 2, thánh Phaolô hết lời ca ngợi Chúa Giêsu, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo. Trong Người muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Đức Kitô là trung tâm của vũ trụ, là viên mãn của muôn loài, là sức mạnh của Thiên Chúa, và là nguồn ơn cứu độ nhân loại. Ngài xứng đáng những tước hiệu đó, do bởi lối sống của mình. Một lối sống tươi sáng đặc biệt, đầy yêu thương và bác ái. Tự hy sinh chịu chết để cứu vớt chúng ta. Bản chất của Ngài là yêu thương. Thánh Gioan đã tuyên bố Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu không thể không yêu. Chúa Giêsu là tình yêu vì Ngài là Thiên Chúa. Do đó dụ ngôn Ngài kể hôm nay mang tính chất đậm đà yêu thương và phát xuất từ trái tim Ngài. Chúng ta phải yên lặng chiêm ngắm và thờ lạy, biết ơn Đấng đã dạy chúng ta nhận ra nó. Nhất quyết đem thực hành trong cuộc sống cá nhân và xã hội. Dụ ngôn có phạm vi ứng dụng rộng rãi và luôn lôi cuốn người nghe. Tại sao nhân loại có những anh hùng vì yêu thương bác ái như mẹ Têrêsa thành Calcutta, thánh Maximilianô Kolbê, những Charles de Foucauld, cha Damien tông đồ cùi hủi? Dụ ngôn trả lời, bởi vì Thiên Chúa đã hành động như vậy và các linh hồn tuân giữ lời Ngài đều cư xử tương tự. Amen.
*** Dù xây chín cấp phù đồ, không bằng làm phúc giúp cho một người.
Cách đây không lâu trên đường đi làm, xe Dream của tôi bị xẹp bánh giữa lúc trời mưa lớn. Tôi dắt: TN 15-C43
Cách đây không lâu trên đường đi làm, xe Dream của tôi bị xẹp bánh giữa lúc trời mưa lớn. Tôi dắt xe vào một tiệm sửa vá xe Honda trong một con hẻm. Tiệm sửa vá xe này ở dưới mái hiên của một căn nhà. Tôi đứng đợi dưới mái hiên ướt át hơn nửa tiếng đồng hồ mới gặp được anh thợ sửa xe, vì anh ta về nhà cơm nước và nghỉ trưa. Tôi rất muốn có một cái ghế để ngồi cho đỡ mỏi, nhưng vợ chồng người chủ nhà không hề quan tâm đến chuyện ấy. Tôi nghĩ bụng nếu bấy giờ mình kêu một ly cà phê hay một chai nước ngọt thì chắc chắn hai người kia sẽ đem ra cho mình một chiếc ghế. Nhưng tôi cố ý không mua cà phê hay nước ngọt, thử xem lòng hiếu khách và bác ái của hai vợ chồng công giáo kia như thế nào. Tôi biết họ là người công giáo vì trên tường có bàn thờ với tượng Thánh giá, ảnh Chúa, ảnh Mẹ, đèn nến đầy đủ. Tôi không phải là kẻ bị cướp dọc đường như nạn nhân trong dụ ngôn mà Chúa Giê-su kể trong Lc 10,25-37. Nhưng cách cư xử của hai vợ chồng chủ nhà công giáo mà tôi gặp làm tôi liên tưởng đến thầy Tư tế và thầy Lê-vi trong dụ ngôn của Phúc âm. Tôi cũng hiểu ra rằng sở dĩ Đạo Công giáo chậm phát triển tại Việt Nam là vì những-người-chưa-công-giáo ít gặp được những người Sa-ma-ri tốt lành nơi những người công giáo.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Đnl 30,10-14: Lời Chúa ở rất gần anh em, để anh em đem ra thực hành.
10 Khi ấy, ông Mô-sê nói với dân chúng rằng: “Anh em hãy nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ.
11 Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em. 12 Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh em phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 13 Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến anh em phải nói: "Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 14 Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.
(2) Bài đọc 2: Cl 1,15-20: Muôn loài đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Đức Ki-tô và cho Đức Ki-tô.
15 Đức Giê-su là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, 16 vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. 17 Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. 18 Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. 19 Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, 20 cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 10,25-37: Ai là người thân cận của tôi?
25 Một hôm có người thông luật kia muốn thử Đức Giê-su mới đứng lên hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia gia nghiệp?” 26 Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? " 27 Ông ấy thưa: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình." 28 Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."
29 Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi? " 30 Đức Giê-su đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác." 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? " 37 Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Đnl 30,10-14) là những lời của căn dặn của ông Mô-sê về sự gần gũi và vừa sức của tiếng/lời/mệnh lệnh/thánh chỉ của Thiên Chúa đối với người tín hữu Do Thái (và Ki-tô), nên không ai có thể viện lý do gì mà không đem ra thực hành.
Qua đoạn Sách Đnl 30,10-14 chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng có mặt ngay bên cạnh con người, thậm chí trong lòng mỗi người, thầm thì vào tai mỗi người những lời yêu thương và hỗ trợ việc thực hiện mệnh lệnh hay chỉ thị của Người.
(2) Bài đọc 2 (Cl 1,15-20) là bài thánh thi chúc tụng ngợi khen Chúa Ki-tô là Đấng có một địa vị và vai trò độc nhất vô nhị trong Kế Hoạch Tạo Dựng và Cứu Chuộc của Thiên Chúa.
Trong đoạn thư gửi tín hữu Cl 1,15-20 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su Ki-tô quan trọng và cao trọng như thế nào: Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử của mọi loài thụ tạo cũng như của loài người, là Đầu của Hội Thánh, là Đấng giải hòa con người với Thiên Chúa bằng máu hiến tế trên thập giá, là Đấng cao trọng hơn tất cả mọi loài thụ tạo và mọi loài được Thiên Chúa dựng nên nhờ Người và cho Người.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 10,25-37) là dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành. Chủ đích của Chúa Giê-su khi kể dụ ngôn này là giúp “người thông luật kia” (và mọi người chúng ta) hiểu rằng: điều quan trọng không phải là tìm xem ai (hay những ai) là người thân của mình, mà là tự xét xem mình đã trở thành người thân của người (hay những người) gặp hoạn nạn chưa?
Qua Bài Phúc Âm Lc 10,25-37 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su là một bậc Thày siêu hạng, vì Người đã dùng một câu truyện đơn sơ, sống động và dễ hiểu để chuyển tải một nội dung Đạo Lý rất cao siêu và cốt yếu nhất của Ki-tô giáo: Ki-tô giáo là Đạo của Tình Thương! Mỗi Ki-tô hữu phải là một người Sa-ma-ri tốt lành, tức người biết biến mình thành người thân thiết của những người nghèo khó, túng thiếu, hoạn nạn trong xã hội.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" tức “thực thi lòng thương xót” đối với những người gặp hoạn nạn. Chúng ta có thể hiểu những người gặp hoạn nạn là tất cả những ai nghèo khó, túng thiếu, bệnh tật, bị đàn áp bóc lột hay phân biệt đối xử, bị gạt ra ngoài lề xã hội, bị bỏ rơi, khinh miệt.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Xin chia sẻ một bài tự-kiểm-tra mà tôi đã học được trong Khóa Thừa Tác Viên Lời Chúa (Ministers of the Word Training) của Viện Mục Vụ Đông Á (East Asian Pastoral Institute) ở Phi-líp-pin, năm 1997:
“Bạn hãy lấy một tờ giấy và một cây bút. Sau vài phút suy nghĩ, bạn hãy viết ra tên những người mà hằng ngày bạn làm việc và hy sinh cho họ. Bạn hãy đếm xem được bao nhiêu người? Rồi bạn hãy tự hỏi và tự trả lời: Mình có thể sẵn sàng chết cho mấy người trong số những người này? Bạn sẽ thấy đức ái của mình còn hạn hẹp như thế nào!”
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 “Anh em hãy nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người” - Lạy Thiên Chúa là Chúa muôn loài muôn vật, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã luôn ở bên, ở trong chúng con và Chúa hằng nói với chúng con những lời yêu thương. Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 “Đức Giê-su là hình ảnh Thiên Chúa vô hình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” - Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã ban Con Một Chúa cho chúng con để Người yêu thương, chăm sóc, băng bó và chữa lành các vết thương do tội lỗi gây nên trong tâm hồn chúng con. Xin Chúa cho chúng con được chạm vào bàn tay chữa lành của Người để chúng con nên lành lặn và được hòa giải cùng Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" tức “thực thi lòng thương xót” đối với những người gặp hoạn nạn, nghèo khó, túng thiếu trên đường đời - Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì chúng con đã học được bài học cơ bản nhất của người Ki-tô hữu. Xin Chúa cho chúng con biết áp dụng bài học quan trọng này vào cuộc sống thường ngày của chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Ngay từ hồi còn nhỏ, chúng ta đã thuộc lòng câu giáo lý: Hỏi. Ta sống ở đời này để làm gì ?: TN 15-C44
Ngay từ hồi còn nhỏ, chúng ta đã thuộc lòng câu giáo lý:
Hỏi. Ta sống ở đời này để làm gì ?
Thưa. Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp cho ngày sau được hạnh phúc đời đời.
Nói tóm lại, mục đích chúng ta theo đuổi trong cuộc sống là xây dựng hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy: Hạnh phúc là điều mọi người đều mong muốn và tìm kiếm.
Bất kỳ ai chối bỏ cuộc đời mai hậu, thì cũng không thể hủy diệt được niềm khát khao hạnh phúc vĩnh cửu. Bất cứ ai là người, thì đều mong mỏi tình yêu có nghĩa là yêu và được yêu.
Chính trong niềm mong mỏi, khát khao tình yêu và hạnh phúc trong cuộc sống, đã gợi lên những thắc mắc trong thẳm sâu cõi lòng. Tình yêu và hạnh phúc chỉ có được khi sống với người khác. Không ai sống đơn độc lẻ loi mà lại cảm thấy hạnh phúc toàn vẹn. Thế nhưng phải sống và phải yêu như thế nào ?
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, ông luật sĩ đã đến để chất vấn Chúa Giêsu về sự sống đời đời. Và Ngài đã nhắc lại điều quan trọng nhất trong lề luật đó là kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình ta vậy. Điều này thì ông luật sĩ đã quá biết, ông ta chỉ thắc mắc:
- Ai là người anh em ?
Chúa Giêsu đã không đưa ra một định nghĩa có tính cách triết học và trừu tượng về người anh em, trái lại Ngài đã kể một câu chuyện cụ thể và đòi chúng ta phải hành động như vậy.
Đúng thế, có một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, chẳng may bị bọn cướp trấn lột và đánh trọng thương. Lần lượt xuất hiện các nhân vật. Bắt đầu là thày Tư tế, rồi thày Lêvi và cuối cùng là người Samaria. Chúa Giêsu nhấn mạnh: để đạt tới sự sống đời đời, nếu chỉ hiểu biết cặn kẽ về luật mà thôi thì cũng chẳng ích lợi gì. Thực vậy, thày Tư tế và thày Lêvi, là những đấng vị vọng trong đạo, đương nhiên họ rất thông hiểu giới luật yêu thương. Họ có đủ cách để giảng dạy cho dân, thế nhưng họ đã không thực hiện, bởi vì họ đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước tiếng kêu cứu của nạn nhân đang cần sự giúp đỡ. Còn người Samaria là hạng người bị khinh miệt, không mấy thông hiểu về lề luật, bị coi như người ngoại giáo. Thế nhưng, ông đã làm ngược lại với thái độ của hai đấng vị vọng nói trên.
Chúa Giêsu muốn chúng ta xác định cho rõ ai trong ba người, qua thái độ cư xử của mình khi đứng trước nỗi đau khổ của người khác đã thực thi giới luật yêu thương ?
Không phải sự hiểu biết, mà chính là việc thực thi tình thương yêu mới dẫn chúng ta đến việc trở nên người anh em của đồng loại mình.
Đây chính là điểm quan trọng, cần phải canh tân tâm hồn, cần có cái nhìn hướng đến hành động trước những nỗi khổ đau của người anh em. Sẽ không có tình yêu, sẽ không có hạnh phúc và sẽ không có hy vọng được sống đời đời nếu như chúng ta lẩn tránh và làm ngơ trước nỗi thống khổ của anh em mình.
Theo Phúc Âm thuật, Đức Giêsu đặt lại tất cả mọi vấn đề. Người luật sĩ biết quá rõ Lề Luật: TN 15-C45
Theo Phúc Âm thuật, Đức Giêsu đặt lại tất cả mọi vấn đề. Người luật sĩ biết quá rõ Lề Luật giải quyết cách nào vấn đề người ấy đặt ra cho Thầy, nhưng vẫn muốn dồn Thầy vào chỗ lúng túng khó xử. Vì vậy sau câu đáp của Đức Giêsu, người lúng túng nhất chính là người luật sĩ ấy. Thật vậy, Đức Giêsu phá vỡ những hàng rào vừa chắc chắn vừa dễ chịu ngăn đỡ người Do Thái ngoan đạo giữ được chừng mực, khỏi quá nhiệt thành trong việc bác ái. Những luật sĩ từng chẻ cái tóc làm tư, đem nghĩa vụ bác ái mổ xẻ thành cơ man điều luật, sắp xếp theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau: chủng tộc, cách giữ lề luật, giá trị về mặt xã hội, tuổi tác, nam nữ v.v… Chỉ một câu thôi, Chúa lật đổ mọi hàng rào. Đối tượng bác ái là con người, đơn giản thế thôi. Về sau, Chúa mở rộng viễn ảnh ra xa nữa: lòng yêu thương vì bác ái nhắm vào con người trong tư cách con cái Thiên Chúa, nghĩa là cùng trong liên hệ Cha con với Thiên Chúa tất nhiên phải thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Ở tầm cao đó, không một thang giá trị nào đứng vững. Về điểm này Công Đồng Vaticanô II đã khai quang một số viễn ảnh rất đáng chúng ta chú ý.
1) ‘Bác ái Kitô giáo thực sự lan tràn tới mọi người không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội hay tôn giáo, bác ái không cầu mong một lợi ích hay một sự tri ân nào. Như Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu vô vị lợi, các tín hữu cũng phải lấy tình bác ái mà lo lắng cho con người bằng cách yêu mến họ với cùng một ý hướng như khi Chúa tìm kiếm con người. Do đó, như Đức Kitô đã rảo qua khắp các thị thành làng mạc, chữa lành mọi kẻ tật nguyền bệnh hoạn, làm dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến, Giáo Hội cũng nhờ con cái mình mà liên kết với mọi người thuộc mọi hoàn cảnh, nhất là với những người nghèo hèn đau khổ, và tình nguyện hy sinh cho họ’ (Sắc Lệnh Ad Gentes 12).
2) Bác ái Kitô giáo phải quan tâm cách rất thực tế đến việc chữa lành những vết thương của bất công trên nhân loại. ‘Các Kitô hữu phải hoạt động và cộng tác với mọi người khác để tổ chức đứng đắn những công việc kinh tế xã hội’. Công đồng đưa ra hai phương thức ưu tiên hành động để tiến tới sự tổ chức thế giới công bình hơn, đó là việc giáo dục, và sự viện trợ cho thế giới thứ ba. ‘… Họ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục các thiếu nhi và thanh thiếu niên bằng các loại trường học khác nhau. Các trường này không những phải coi như phương tiện tuyệt hảo để huấn luyện và nâng cao giới trẻ Kitô hữu, mà đồng thời còn là một công cuộc phục vụ nhân loại hết sức giá trị -nhất là đối với các quốc gia đang phát triển- để nâng cao nhân phẩm và chuẩn bị những hoàn cảnh hợp nhân bản hơn’. – ‘Ngoài ra, họ còn phải tham gia vào nỗ lực của các dân tộc đang cố gắng tạo ra những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn, và củng cố hòa bình thế giới, bằng cách khuất phục đói khát, dốt nát và bệnh tật’ (Sắc Lệnh Ad Gentes). Người ta có thể công bằng mà nhìn nhận rằng Giáo Hội với danh nghĩa một định chế của Đức Giêsu, đã không sai lầm trong việc thực hành bài học mà Giáo Hội đã biết rút ra từ dụ ngôn người Samaria nhân lành. Tuy nhiên Giáo Hội cũng là mỗi người trong chúng ta. Về thực tế, giá trị và kích thước lòng bác ái của chúng ta lớn hay nhỏ? Nếu chúng ta lúng túng trong khi tìm câu đáp, phải chăng chúng ta không sáng suốt hay thiếu sáng suốt, hoặc chúng ta thuộc hạng người dễ thỏa mãn về thành tích của mình?
Có một lần tôi đi ngang qua một khu xóm, tôi nghe bài hát có lời ca: Lạy Chúa con là người: TN 15-C46
Có một lần tôi đi ngang qua một khu xóm, tôi nghe bài hát có lời ca: Lạy Chúa con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ngự trên cao.
Tôi tự hỏi: Tại sao là người ngoại đạo mà lại tin là có Chúa ngự trên cao ? Đã tin có Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn là ngoại đạo thì chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo đó thôi.
Tôi đã gặp nhiều người có đạo mà không sống đạo. Và tôi cũng đã gặp nhiều người sống đạo mà không có đạo.
Nói về đạo và sống đạo, tôi thấy trong Phúc Am có nhiều câu chuyện tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.
- Khi Chúa Giêsu vác thập giá lên Núi Sọ, đường dài, sức nặng của thập giá, kiệt sức vì bị hành hạ, Chúa Giêsu gục ngã ba lần. Kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa là ông Simon người xứ Kyrênê, một người ngoại đạo.
- Khi Chúa Giêsu đến Caphanaum, Viên Bách Quản, một người ngoại đạo đến gặp và van xin: Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà đau đớn lắm. Chúa nói: Ta phải đến chữa nó. Viên Bách Quản thưa lại: Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, nhưng Ngài hãy phán một lời, đứa hầu nhà tôi sẽ khỏi. Nghe vậy Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: Quả thật Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel.
- Một lần khác Chúa Giêsu vào một làng kia, có mười người phong hủi đến gặp Ngài. Từ đàng xa họ đã lên tiếng thưa: Lạy Thầy Giêsu xin thương xót chúng tôi. Thấy vậy, Chúa bảo họ: Hãy đi trình diện với hàng Tư Tế. Và xảy ra là khi họ đi thì họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành liền quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari, người ngoại đạo. Chúa Giêsu cất tiếng nói: Không phải là cả mười người được sạch cả sao, chín người kia đâu không thấy họ quay trở lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại này?
- Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn: một người ở Giêrusalem xuống Giêricô, giữa đường bị bọn cướp trấn lột, đánh cho nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Thầy Tư Tế đi qua, thấy vậy liền lãng tránh. Thầy Lêvi đi tới cũng chẳng ngó ngàng, bỏ mặc nạn nhân. Một người ngoại đạo Samari đi ngang, thấy người lâm nạn, chạnh lòng thương liền băng bó, đặt lên lưng lừa đưa về quán trọ, nhờ chủ quán săn sóc rồi trả hết mọi phí tổn.
Thầy Tư Tế, Thầy Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn nữa họ còn là kẻ rao giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng không sống đạo. Người Samari,kẻ sống đạo lại là người không có đạo.
Như thế kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa trên con đường dài với những bước chân xiêu té cuối đời là người ngoại đạo. Kẻ tỏ lòng biết ơn khi được Chúa chữa lành là người ngoại đạo. Ke thể hiện lòng bác ái xót thương không phải là Tư Tế, là Lêvi, các chức sắc trong đạo mà là người Samari, người ngoại đạo.
Khi băn khoăn tự hỏi: thế nào là người bên ngoài, thế nào là người bên trong ? Thế nào là có đạo, thế nào ngoại đạo ? Tôi thấy trong Phúc Am có lần Chúa Giêsu nói: Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ từ Phương Đông, Phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Giacop trong Nước Trời, còn chính con dân trong nước lại sẽ bị đuổi ra ngoài tối tăm.
Vậy thì có một khoảng cách rất lớn giữa hiểu biết về đạo và sống đạo. Đạo thì mênh mông vô bờ bến như đất trời, làm sao có thể đem đạo vào một định nghĩa chật hẹp được ? làm sao có thể nhốt đạo vào nhà thờ ? làm sao vẽ chân dung đạo bằng tờ giấy rửa tội được ? bởi lẽ “Đạo khả đạo phi thường Đạo” ( Lão Tử)
Hiểu biết về đạo được thể hiện qua đời sống đạo. Có người nói rằng: tôi tin đạo chứ tôi không tin người có đạo. Đạo thì tốt, nhưng nhiều người có đạo lại xấu. Có nhiều người ngoại đạo lại tốt hơn người có đạo. Họ nói như thế vì họ thấy nhiều người có đạo mà lại không sống đạo của mình. Quả thật, con đường dài nhất là con đường từ cái đầu đến bàn tay. Giữa suy nghĩ, lời nói và việc làm, giữa hiểu biết và cuộc sống có một khoảng cách thật lớn.
Đức Khổng Tử đã nói chí lý: Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo. Nghĩa là: đạo không xa cái bản tính của người ta, nếu theo đạo để cho xa cái bản tính của người ta thì không phải là đạo.
Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Thiên Chúa làm người, rất gần gũi với con người. Vì con người là con đường của Giáo hội ( ĐGH Phaolô II). Người Đông Phương chúng ta lấy chữ nhân mà định nghĩa con người: nhân là người, nhân là nhân ái là lòng thương người. Ai không biết thương người khác là kẻ không xứng danh là người. Nhân bản và nhân ái có quan hệ mật thiết với nhau.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu kể, tôi thấy rằng, cái khác biệt sâu xa giữa Kitô giáo và Do Thái giáo đó là: một bên là đạo của tình yêu, một bên là đạo của lề luật. Tư Tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu. Những người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Thấy người bị nạn, người Samari tốt lành đã động lòng xót thương. Lương tâm và tình thương đồng loại thúc đẩy anh cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn bất chấp nạn nhân là người Do Thái thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc của anh. Cung cách hành xử đầy tình thương này mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã khéo léo lái vấn đề từ câu hỏi người thông luật: ai là người thân cận của tôi ? sang gợi ý tuyệt vời của Ngài: tôi là người thân cận của ai ? Trả lời câu hỏi này có lẽ phải đi từ cuộc sống cụ thể của mình. Khi tôi đến gần ai để phục vụ với tình yêu thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy thành người thân cận với tôi. Ai cũng có thể trở thành người thân cận của tôi nếu tôi yêu thương họ bằng tình yêu mà Chúa đã thương yêu tôi.
Càng hiểu biết về đạo càng phải sống đạo. Chúa Giêsu dạy rằng: “ ai yêu mến Thầy sẽ giữ Lời Thầy”. Đạo của Thầy Giêsu là Đạo tình yêu. Yêu Chúa, yêu người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Yêu Chúa đích thực thì phải yêu người. Thánh Gioan đã viết:ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối. Đối với Thánh Phaolô: yêu thương là giữ trọn lề luật. Lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu mà cho người không có tình yêu. Nếu không có tình yêu thì việc làm theo lề luật có tốt đến đâu cũng vô giá trị: giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Thánh Augustinô khuyên nhủ: cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu sẽ cho biết ta phải làm gì.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con rằng: không phải những người cứ kêu lên “Lạy Chúa, Lạy Chúa..” là được vào Nước Trời. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha mới được vào mà thôi. Xin cho Lời Chúa dạy in vào lòng trí chúng con, và Lời Chúa được thể hiện trong đời sống đạo của chúng con hàng ngày. Amen
Tối hôm qua tôi dâng lễ cho một họ đạo nhỏ của tôi, trong bài giảng tôi hỏi các em thiếu nhi ai là TN 15-C47
Tối hôm qua tôi dâng lễ cho một họ đạo nhỏ của tôi, trong bài giảng tôi hỏi các em thiếu nhi ai là người thân cận của các em, các em đều trả lời là cha mẹ, anh chị em, ông bà và bạn bè. Khi tôi hỏi các người lớn thì họ cũng trả lời như vậy, và nếu tôi hỏi bạn câu hỏi đó, thì tôi cũng tin rằng bạn cũng trả lời như các em và người lớn giáo dân của tôi vậy.
Chúa Giê-su không nói với người thanh niên cha mẹ là người thân cận của anh, Ngài cũng không nói anh em ruột thịt, bà con bạn hữu là người thân cận của anh, nhưng Ngài kể một câu chuyện về người Sa-ma-ri nhân hậu cho anh thanh niên nghe, để anh thanh niên kết luận: người Sa-ma-ri là người thân cận của người bị nạn.
Chung quanh bạn có rất nhiều người, nhưng bạn vẫn cứ không coi họ là người thân cận, bởi vì họ không phải là người thân thiết của anh, cũng đúng thôi. Nhưng Chúa Giê-su muốn các môn đệ của Ngài –trong đó có bạn- phải trở thành người thân cận của mọi người, để mọi người trở thành người thân cận của anh, không phải để gây bè kết cánh, nhưng là để yêu thương người thân cận như chính mình. Đó chính là cốt lõi của luật Tân Ước, tức là điều răn mới của Chúa Giê-su: hãy yêu thương nhau.
“Anh hãy đi, và cũng làm như vậy”, đó là lời nhắn nhủ của Chúa Giê-su với bạn, với tôi và với tất cả những người Ki-tô hữu. “Làm như vậy” tức là làm như người Sa-ma-ri nhân hậu:có một tâm hồn yêu thương để biết cảm thông, trắc ẩn và yêu thương mọi người như người thân cận của mình.
Trong một cuộc phỏng vấn tuyển dụng công nhân, người ta đưa ra câu hỏi: trong trường hơp bạn: TN 15-C48
Trong một cuộc phỏng vấn tuyển dụng công nhân, người ta đưa ra câu hỏi: trong trường hơp bạn gặp tai nạn lao động, chúng tôi có thể liên lạc với ai? Địa chỉ? Số điện thoại? Nhân viên tuyển dụng nhận được một câu trả lời hết sức “bất thường”: Bất cứ ai có mặt tại hiện trường. Dĩ nhiên, câu trả lời bị loại và ứng viên không được nhận vào làm vì nằm ngòai tiêu chuẩn của xí nghiệp. Tuy nhiên, xét về mặt tôn giáo thì lại là câu trả lời “tuyệt vời”, đáp ứng đúng giáo huấn của Chúa Giêsu. Ông tiến sĩ luật trong bài Phúc Am hôm nay cũng hỏi Chúa Giêsu về đề tài này: Ai là thân cận của tôi? Mục tiêu của ông ta là đặt Chúa Giêsu vào một thử thách, vì lề luật đã chỉ rõ: Thân cận của người Do Thái là đồng chủng, đồng loại. Ngoài ra là hạng “chó má” và là kẻ thù. Về phần Chúa Giêsu, Ngài hỏi lại: vậy theo ông nghĩ ai trong ba người đó là thân cận của người bị nạn? Giáo lý của Chúa ngược với truyền thống Do Thái. Lúc này, chúng ta ngộ ra Giáo lý ấy là cao siêu, nhưng thời ấy quả khó nghe! Chẳng ai trong cư dân Giêrusalem có thể chấp nhận được và chứng cớ nằm ngay trong thái độ của thày Tư tế và Lê vi. Họ hiểu rõ Lề luật lắm chứ!
Riêng phần tôi, câu chuyện gợi cho tôi nhớ lại thời còn là trẻ con, (có lẽ cũng là thời thơ ấu của quí vị, của chung mọi người). Liệu câu hỏi ai là láng giềng của tôi khiến quí vị liên tưởng đến những người bạn thời son trẻ? Tôi lớn lên ở khu phố Brooklyn, New York, America. Láng giềng của gia đình tôi là bà Weissman, căn hộ bên cạnh, bà là người Do Thái, có hai con trai: Jules và Herbert. Chúng tôi thường chơi đùa trên hè phố. Mẹ tôi và bà Weissman trao đổi bánh mì vừa nướng với nhau. Khi ngửi thấy mùi thơm từ căn hộ bà Weissman bay sang, chúng tôi bấm bụng, thế nào chút nữa cũng được nếm bánh của bà. Ngược lại, gia đình bà cũng vậy. Đó là kiểu cách thông thường hàng xóm đối xử với nhau. Chúng tôi cũng có láng giềng khác ở phía dưới cầu thang. Họ là chủ nhân của những căn hộ chúng tôi thuê. Chị tôi và tôi đi học với con cái của họ: Mary Anne và Louie, cùng với các trẻ con Ai Nhĩ Lan khác.
Khi có ai đó trong các bà mẹ phải vắng nhà, thì những người chung quanh có bổn phận coi sóc con cái cho họ. Chúng tôi bày ra mọi thứ trò nghịch ngợm trên hè phố, nhất là đá lon. Các cha mẹ trong nhà đưa mắt canh chừng. Đôi khi có những cuộc ẩu đả nho nhỏ thì bất cứ cha mẹ nào cũng có bổn phận can thiệp. Chúng tôi là hàng xóm với nhau theo nghĩa đó. Đôi khi có những ông bà già hoặc tính nết khó khăn thì cũng than phiền chút ít vì chúng tôi quá ồn ào. Lúc ấy chưa có súng giả để chơi, nên các trò chơi đều mang tính hiền lành, vô hại. Những mùa hè nóng nực, nếu có hàng kem đi qua thì thật tuyệt vời, tình thế chung là như vậy. Chẳng ai tính đến chuyện tôn giáo hay kỳ thị. “Anh giúp đỡ tôi khi tôi có nhu cầu, lần khác tôi giúp đỡ gia đình, con cái anh”. Đó là luật chung!
Cho nên câu hỏi của nhà thông thái luật: “tôi phải làm chi để được sống muôn đời?” mang tính chất lý thuyết hơn, vì ông ta biết rõ câu trả lời. Thực tế ông đã đọc vanh vách Đệ Nhị Luật 6,5 và Lê Vi 19,18 không sai một chữ. Vậy, vấn đề không phải là không biết, mà lá không hiểu ý nghĩa, nhất là không thực hành: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân như chính mình”. Chúa trả lời ông ta: “Ông nói đúng lắm, cứ làm như vậy là sẽ được sống muôn đời”. Người tiến sĩ luật hài lòng về mình và tự nhủ: “thế là ta đã nên công chính trước mặt Đấng Tối Cao, không cần làm chi hơn nữa.” Phải chăng đây cũng là thái độ của tuyệt đại đa phần giáo dân, giáo sĩ, thầy tu hôm nay? Họ chắc chắn về việc giữ đạo của mình, hài lòng với hiện trạng và lên mặt kiêu căng, khinh bỉ kẻ khác? Nhưng ông luật sĩ chẳng biết thân cận mình là ai. Ngày nay chúng ta cũng mù tịt. Chí ít theo tiêu chuẩn của Chúa Giêsu. Vì thế, Chúa phải dạy ông ta một bài học, bằng dụ ngôn cụ thể và rất ấn tượng. Dụ ngôn đã trở thành câu chuyện ngàn đời: Một người từ Giêrusalem đi Jêricô…
Ngày nay, con đường này hầu như nguyên trạng, vắng vẻ và hoang vu như phong cảnh trên mặt trăng (xin coi: “What Jesus saw from the Cross” của A.D. Sertillanger, O.P. sắp được xuất bản tiếng Việt). Cuộc sống con người cũng vậy nếu không có hàng xóm, láng giềng, bạn bè, thân thích. Cho nên dụ ngôn của Chúa Giêsu kêu gọi mọi người xét lại tư duy và thái độ của mình. Chúng ta được dựng nên để yêu thương, sống với người khác. Chứ không phải đơn thương độc mã như một tu sĩ từng tuyên bố: con người bẩm sinh là cô đơn! Vậy mà cũng có bằng tiến sĩ đấy! Oi cái học thời nay! Chắc hẳn người Samaritanô là kẻ “vô đạo” theo tiêu chuẩn của các thầy thông luật. Nạn nhân từ Giêrusalem xuống Jericô là Do Thái chính hiệu. Vậy mà dân vô đạo lại tỏ lòng thương xót kẻ đạo dòng! Trong khi hai thầy chức việc lánh xa vì lý do tôn giáo! Bài học của Chúa Giêsu quả thấm thía và đau xót. Liệu đó có phải là lời cảnh tỉnh cho chúng ta? Ở đây lại chẳng là vấn đề biết hay không mà là hiểu và thực hành. Chúa Giêsu thật quá quắt, dạy dỗ những điều khuấy động lương tâm người ta, nhất là hạng quyền cao chức lớn. Thảo nào thập hình là cái giá “bắt buộc” phải trả cho tính “ngôn sứ” của mình!
Khi lãnh phép Rửa tội và Thêm sức, mọi tín hữu đều được kêu gọi trở nên người Samaritanô nhân hậu cho thế giới đầy dẫy hận thù, chia rẽ, bạo lực hiện nay. Chúng ta đã kể đi thuật lại Dụ ngôn của Chúa nhiều lần, thậm chí đặt tên cho các cơ sở từ thiện, quán ăn, phòng trọ, bệnh viện, ngay cả nguyện đường, nhà thờ… nhưng nhiều lúc thiếu suy nghĩ về ý nghĩa. Chúng ta chạy theo lợi nhuận để ganh đua. Chứng cớ là thường xảy ra bất đồng về lý tưởng, kéo theo chia rẽ vật chất. Phe “tiền” luôn luôn thắng thế vì vật chất bao giờ cũng có sức mạnh hơn. Câu hỏi cuối cùng của Chúa Giêsu: Theo ý ông, ai trong ba hạng người đó là thân cận của người bị nạn? Ít được chúng ta quan tâm. Số phận lời khuyên: “Ông hãy đi và cũng làm như vậy” càng bị bỏ ngòai tai. Tuy nhiên, người ta vẫn tự hào về thái độ “bác ái” của mình, quảng cáo lung tung và rất mạnh mẽ, vì có nhiều tiền. Từ đó, lợi nhuận ngày một cao hơn.
Xin đừng đặt câu hỏi: “Ai là thân cận tôi… Ai làng láng giềng, hàng xóm của tôi… Ai là anh chị em tôi?”. Theo Giáo lý của Chúa Giêsu, những câu hỏi đó là “thừa”. Trước mặt Ngài, mọi người đều là láng giềng, là anh chị em vì đều là con cái Đức Chúa Trời, được Người yêu thương. Nhưng vấn đề phải là: “Ai cần đến sự giúp đỡ của tôi? Ai có nhu cầu cần được cứu trợ? Như Chúa Giêsu đã nói với thầy thông luật: “Theo ý ông, ai là thân cận của kẻ bị nạn?” hay như câu trả lời của ứng viên tìm việc: “bất cứ những ai có mặt tại hiện trường”. Chúng ta nên nhạy cảm thương xót tha nhân, bất cứ họ là ai, không chi có thể tách chúng ta ra khỏi lòng bác ái, tương tự như người Samaritanô nhân hậu. Ông ta và người Do Thái luôn có mối bất hòa, ghen ghét, hậy thù, thậm chí nguyền rủ nhau không tiếc lời: chó má, heo ngựa. Vậy mà ông đã vượt thắng tất cả để trở nên thân cận với người Do Thái. Chao ôi! Một gương sáng bất tận cho mọi thời đại! Xin đừng huyên thuyên, huênh hoang với những “đại ngôn” rỗng tuếch của mình.
Xin nhắc lại, theo Giáo huấn của Chúa Giêsu, bất cứ những ai có nhu cầu cần trợ giúp đều là thân cận của chúng ta, không lọai trừ trường hợp nào, cũng không đặt điều kiện. Chuyện này đơn giản chẳng chút phức tạp, chẳng cần đại học chuyên khoa thần cũng có thể nắm bắt rõ ràng. Chẳng cần xét xem đương sự có xứng đáng hay không và biết ơn hay không, giàu hoặc nghèo. Như vậy, chứng tỏ rằng láng giềng của gia đình tôi còn thiết sót rất nhiều, không chỉ như mô tả ở trên. Ngòai ra, nếu có gia đình da màu nào đến cư ngụ, lập tức họ bị cô lập hoặc chúng tôi dần dần bỏ đi, tình láng giềng bị phá vỡ.
Gần đây có một chương trình truyền hình, nhan đề “Ông Rodgers” dành cho trẻ em. Những ai coi đều được mời gọi nhập vai hàng xóm. Ông ta theo đạo “trưởng lão”, nhưng không lôi kéo ai vào đạo. Ong chỉ khích lệ khán giả trở nên láng giềng của ông, rồi nói chuyện với nhiều minh họa làm thế nào để trở nên hàng xóm tốt, lương thiện, đáng kính và quan tâm, giúp đỡ. Mỗi chương trình đều mở màn với lời chào: “Hello, nào các em, hãy làm hàng xóm của ngộ nhé! Ngộ có điều này hay lắm”. Và Rodgers tiếp tục chương trình. Đôi mắt khán giả nhí dán chặt vào màn ảnh chờ đợi… Chẳng bao giời Rodgers làm các em thất vọng.
Chúng ta thường thiết lập các bức tường để ngăn cách nhau, mặc dầu miệng lưỡi thường xoen xoét nói lời thân thiện. Nhất là trong các hội nghị quốc gia, quốc tế, giao tiếp, chính trị, thương mại, ngay cả trong các nhà Dòng, tu viện, bạn bè… Chúa Giêsu khao khát rũ bỏ hết tất cả, từng viên đá một. Ngày nay nơi cửa ra vào các thánh đường, trong các giờ phụng vụ, kinh lễ, người ta mang phù hiệu chào đón thiện nam, tín nữ, nhưng chẳng hiểu thành thực được bao nhiêu phần trăm? Sỡ dĩ Chúa Giêsu cảm thông và chữa lành các bệnh nhân, vì Ngài đã mang thương tích và sống kiếp lầm than. Chúng ta sống nhung lụa tiện nghi quá quắt, thì có khả năng nghi ngờ tính chân thành của chúng ta, bởi lẽ chúng ta không có kinh nghiệm chịu đựng gian khổ, thì làm thế nào thành thực chạnh lòng thương? Cho nên dù mặc y phục đẹp, đeo phù hiệu lớn và luôn miệng chào đón: “tôi xin làm láng giềng của bạn” thì thế giới vẫn đầy nghi ngờ chưa chắc đã tin. Đức cố Giáo hòang Gioan Phaolô II phát biểu như sau: Sở dĩ có đau khổ trên thế giới bởi vì đau khổ phóng thích tình yêu, nếu không, tình yêu sẽ bị ích kỷ xiềng xích lại. Người ta chỉ tỏ lòng thương xót, yêu mến khi đứng trước đau khổ của tha nhân. Vậy, thiếu thốn và bất hạnh biến chúng ta thành những nhân tình mà Thiên Chúa muốn kêu gọi.
Xin kể ra đây một biến dạng của Dụ ngôn hôm nay: một phụ nữ trên đường đến bệnh viện để phá thai. Lương tâm chị kêu gọi là đừng làm như vậy. Đó là tội sát nhân. Nhưng người phụ nữ biện minh: thân xác là của tôi, tôi muốn làm chi mặc ý. Người chồng nói: Lỗi ở cô ta không ý tứ chứ nào đâu phải của tôi? Ông bác sĩ nói: Nhà nước cho phép phá thai, quốc hội đã tranh cãi và bỏ phiếu. Chẳng tội vạ chi hết. Linh mục nói: Giáo hội quá bảo thủ, tôi còn bận bịu trăm công nghìn việc, thời giờ đâu mà dính dáng đến chuyện này. Chính trị gia lên ý kiến: Tôi chỉ tuân theo cảm tính chung, nếu không, chẳng ai bỏ phiếu cho tôi trúng cử lần hai, lần ba. Một cử tri phàn nàn viết thư cho đại biểu của mình: “bao lâu ông ủng hộ luật phá thai, tôi sẽ chẳng bỏ phiếu cho ông!”. Rồi ông gởi tấm ngân phiếu 1 triệu đôla cho hội tranh đấu cho “quyền sống của con người” với lời nhắn: “xin cho tôi được phép ghi danh làm hội viên”. Trong những người ấy, theo ý bạn, ai là thân cận của đứa trẻ sắp bị hại? Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban ơn cho chúng ta được sáng suốt phân định rõ ràng. Amen.
Ai là người thân cận của tôi? Câu hỏi mới nghe như đơn giản nhưng thực ra đó lại là mấu chốt; TN 15-C49
Ai là người thân cận của tôi? Câu hỏi mới nghe như đơn giản nhưng thực ra đó lại là mấu chốt để giải thích cho đúng đắn lề luật Maisen. Vì lẽ luật này đòi hỏi chúng ta phải yêu người thân cận như chính mình.
Theo lẽ thường của người Do Thái thời bấy giờ thì quan niệm về người thân cận bị thu hẹp vào các thành phần Israel. Như vậy hạng ngoại kiều không có chỗ đứng trong những hoạt động bác ái, thành ra dụ ngôn Chúa Giêsu kể về người Samaria nhân hậu có hiệu quả như một trái bom hay như một cú đấm vào lương tâm của những kẻ tự ru ngủ bằng điệp khúc bình an vì đã làm tròn bổn phận tối thiếu của mình.
Quả thực qua dụ ngôn Chúa Giêsu đã chỉ trích gương xấu cần phải tránh mà điển hình là ông tư tế và thầy Lêvi, hai ông viên chức của phụng vụ đền thờ và được coi như là hàng đạo đức bởi đã giữ đúng lề luật. Đồng thời Ngài cũng nêu lên gương tốt phải theo mà cái khuôn mẫu là người Samaria, một ngoại kiều, một địch thủ, một tên lạc đạo. Bất chấp mọi thứ rào cản xã hội hay tập tục truyền thống, ông ta đã xông xáo tiến lại người xấu số để giúp đỡ anh ta đang bị bỏ dở sống dở chết trên đường. Chắc hẳn tình người của ông đã phát xuất từ lòng nhân từ rộng rãi của ông chứ không phải từ những bộ luật rườm rà phiền toái.
Đưa ra những nhân vật điển hình trên, chắc hẳn Chúa Giêsu nhằm giải thích một cái gì đó thiết yếu trong giáo huấn của Ngài, điều mà con người mọi thời, nhất là chúng ta ngày nay, trong hoàn cảnh cụ thể của mình, cần được soi sáng. Cái thiết yếu chính là ý nghĩa của câu hỏi lật ngược: Không còn hỏi ai là thân cận của tôi, mà hỏi tôi là người thân cận của ai?
Đó là tinh thần cách mạng của Tin Mừng mà không bao giờ chúng ta múc cạn được chiều sâu của nó. Bởi vì vấn đề không còn là ngồi đó mà xem ai là kẻ thân cận của mình, như thể một số người nào đó được chỉ định trước để chúng ta sử dụng như là phương tiện làm chiếu sáng đức yêu người của chúng ta, trong khi một số những người khác có thể thoát ra ngoài những hoạt động yêu thương ấy mà không gây ra một nguy cơ nào cho lương tâm. Chúng ta đi tìm những người thân cận trong một danh sách đã lập trước. Trong khi đó chính tình yêu đòi buộc chúng ta phải đi tìm gặp những người thân cận ở trong một giới hạn vô biên vì giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn. Khi đó mọi người đều có thể là người thân cận, là người anh em của chúng ta, đặc biệt là những kẻ đau khổ, nghèo túng và bị ruồng bỏ. Người chúng ta phải yêu thương trước nhất phải là người chúng ta thương không nổi, phải là người sống bên lề xã hội, tức là hạng người tội lỗi, yếu đuối và bị khinh khi. Bao lâu chưa đạt tới đó, thì chúng ta hãy còn ở trong cái mức của ông tư tế, cái mức của thầy Lêvi là những người đã cố tạo khoảng cách cho đủ xa những kẻ bất hạnh.
Đừng giả đui giả điếc trước tiếng gọi của những người anh em đó, dù họ là ai, dù họ ở đâu, thì họ vẫn là những người thân cận của chúng ta, nếu chúng ta biết tiến lại gần họ với một con tim bằng hữu và với những cánh gay giơ ra để giúp đỡ như người Samaria và như Đức Kitô ngày xưa.
Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai ?Ữ Ịó là lời một bài hát của nhạc sĩ: TN 15-C50
“Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai ?” Đó là lời một bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy rất được các em nhỏ ưa thích trong thập niên 1970. Bin Laden không nghĩ như vậy. Trên thế gian này, được bao nhiêu người có thể chấp nhận Bin Laden là “người thân cận” ?
Chỉ mới nghe đến cái tên Bin Laden mà thôi, cũng đủ khiến lắm người giật mình nổi cả da gà: hiện ra ngay hình ảnh một tay mà đầu óc chỉ chứa mưu mô tàn ác, lấy sự khốn khó của người khác làm vui mừng, cười sằng sặc như ngạ quỷ khi ngày ngày ở nơi nọ nơi kia tay chân của y kích bom cài trên xe, cột trong mình, cho nổ làm bao người thịt da nát tan, có khi chết hai ba lần. Khó mà chấp nhận khái niệm “con cùng một Cha Trên Trời” giữa chúng ta và Bin Laden ! Khó mà kìm nén hân hoan, nếu mai đây nghe tin Bin Laden bị tiêu diệt ! Khó lòng mà nghĩ tới hình ảnh một “Bin Laden – người thân cận” của chúng ta. Song sự thật vẫn là như thế, đâu tùy thuộc ý chí đầy hỉ nộ ái ố của chúng ta.
Thật ra, người Á Đông không thù dai, với tinh thần “đánh người chạy tới, không ai đánh kẻ chạy lui”, với truyền thống “thương người như thể thương thân”, cũng thể hiện lòng nhân ái bất cứ lúc nào có thể, mà không nghĩ tới hiểm nguy cũng như lợi lộc cho bản thân. Đó cũng là lời giải thích vì sao các phim có những cốt truyện và nhân vật hành hiệp giang hồ, – bênh vực kẻ yếu hoặc cô thân cô thế, chống lại cường quyền hoặc ỷ đông hiếp yếu – thường dành được nhiều thiện cảm.
Trong những ngày qua, khắp nơi trong nước xảy ra những vụ cướp tiệm vàng ngay giữa ban ngày, ngay chốn đô hội, với súng ống sẵn sàng nhả đạn giết chết người như giết ngoé, chẳng khác gì đám “găng tơ” trong phim ảnh Hollywood, nhưng chưa có vụ nào được lực lượng an ninh phá án. Chỉ những người dân “thấy chuyện bất bình chẳng tha”, là can thiệp hiệu quả. Ai là người thân cận của tôi ?
Người khốn cùng, người gặp hoạn nạn, cho dù là ai, cho dù ở phe phái nào, cho dù quá khứ ra sao, đều phải là người thân cận của tôi ! Đó là tinh thần mà ông Henri Dunant đấu tranh và áp dụng khi sáng lập Hội Chữ Thập Đỏ. Đó cũng là tinh thần của Công Ước Genève về bổn phận đối xử nhân đạo với tù binh.
Ở Hoa Kỳ và một số quốc gia, có luật “Người Sa-ma-ri tốt lành”, để phạt những người và những hành vi vô trách nhiệm, không trợ giúp người khác trong trường hợp này, hoặc không phạt các hành vi không trợ giúp người khác trong những hoàn cảnh nọ, vì đó không chỉ là lương tâm con người, mà là để xây dựng nền tảng nhân ái, văn minh tình thương trong một xã hội xô bồ, duy vật và hưởng thụ. Người Việt Nam có câu: “Bầu ơi thương lấy bí cùng; tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn”.
Chúa Giê-su không có một lời phán xét nào về ứng xử của thầy tư tế và người luật sĩ. Người cũng không gọi “ông Sa-ma-ri Tốt Lành”, mà chỉ nói một “người Sa-ma-ri”. Người để cho thầy thông luật – kẻ đặt câu hỏi với Người – kết luận và đưa ra lời phán xét. Người làm một cuộc lật đổ ngoạn mục, khi không xếp người bị thương vào hàng “người thân cận của tôi”, mà lại chính là “người Sa-ma-ri”, một kẻ coi chuyện cứu giúp như là một chuyện đương nhiên, một bổn phận giữa người với người, mà không nại ra bất cứ lý do nào khác – kể cả mối thù truyền kiếp – để tránh né bổn phận lương tâm. Đây là “cái dằm” trong tất cả mọi luật luân lý và công bằng, mà vô số lý lẽ – có khi rất ngụy biện – nhằm làm cho người ta tránh né bổn phận, xa lãng lòng nhân ái và tình người, mà lương tâm vẫn thanh thản ! Bao nhiêu người đã vấp phạm vì “cái dằm” ấy !
Người Sa-ma-ri hôm nay – một người bên lương, i tờ về Giáo Lý, chẳng hề do dự, so đo tính toán giờ giấc, tiền bạc và cả sinh mạng, rồi mới bắt tay ngay vào việc: làm tất cả những gì cho sự sống và sức khoẻ của tha nhân, dù biết rõ người được cứu chữa ngày thường có thể coi anh ta như kẻ thù ! Chúa Giê-su muốn nâng mức độ nhân ái của người Sa-ma-ri, để người đời sau có thể thêm vào hai chữ “tốt lành”.
Con kể lại Chúa nghe một câu chuyện “Người Sa-ma-ri Thế Kỷ XXI”, xảy ra cách nay đúng ba tháng, ngày 16 tháng 4, tại Mỹ:
Không ai không ngậm ngùi khi biết về cuộc đời của giáo sư Livu Librescu, người đã quyết định chặn cửa lớp học để ngăn kẻ giết người tại Trường Đại Học Công Nghệ Virginia ( Mỹ ) trong lúc các sinh viên nhảy qua cửa sổ thoát thân. Có gì đó thật trớ trêu khi bản thân Librescu từng thoát chết trong vụ thảm sát người Do Thái tại Romania hơn nửa thế kỷ trước, nhưng lại không thoát khỏi họng súng tử thần của kẻ giết người cuồng loạn, đúng vào ngày mà ở Israel tổ chức lễ tưởng niệm các nạn nhân của vụ thảm sát người Do Thái.
Khi tiếng súng vang lên gần lớp học nơi giáo sư Librescu đang giảng, ai nấy đều hoảng hốt. Các sinh viên người chui xuống gầm bàn, người bổ nhào ra cửa sổ. Tất cả đều tránh cánh cửa lớn, nơi mà kẻ thủ ác đang lặng lẽ tiến đến với hai khẩu súng sẵn sàng nhả đạn. Chỉ có giáo sư Librescu tiến về phía đó. Ông thúc hối sinh viên tìm cách nhảy qua cửa sổ thoát thân, trong khi ông giữ chặt cánh cửa không rời.
Hơn ai hết, Librescu biết rõ nỗi đau của những người có thân nhân bị thảm sát. Khi còn là một đứa trẻ ở Romania, ông từng chứng kiến cha mình bị lôi đi đưa vào trại lao động và vào lò thiêu sống. Lúc đó, dù chỉ mới là một đứa trẻ nhưng Librescu đã phải gánh lên vai trách nhiệm bảo vệ mẹ và chèo lái gia đình. Trong buổi sáng thứ hai 16 tháng 4 đẫm máu ấy, một lần nữa ông trở thành người bảo vệ, lãnh trách nhiệm của một người thầy, một người cha, đứng ra bảo vệ gia đình của mình tại Đại Học Công Nghệ Virginia.
Con trai cả của ông hiện đang sống tại Israel kể rằng cha mình xem các sinh viên như gia đình của ông, thường xuyên giúp đỡ họ về mặt tài chính hoặc chỗ ở. Thương yêu học trò như con như cháu nên dù đã ở tuổi 77 nhưng người thầy tận tụy vẫn chưa phút giây nào tỏ dấu hiệu mệt mỏi, mà vẫn tâm huyết với sự nghiệp giảng dạy của mình. Hết lòng với sinh viên là vậy, nhưng ông lại giữ kín những rắc rối của mình. Hơn một năm trước, ông được chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt, nhưng ông không tiết lộ tin này cho đồng nghiệp hay sinh viên vì sợ làm phiền đến mọi người.
Ngày 20 tháng 4, di hài của giáo sư Librescu đã được chuyển bằng máy bay về Israel để an táng. Người ta sẽ còn nhắc đến tên ông như một người anh hùng, như lời ca tụng của một giáo sư trên trang web tưởng nhớ những nạn nhân xấu số của thảm kịch Virginia: “Một ngọn nến đủ để thắp sáng căn phòng đang chìm ngập trong bóng tối.
Giáo sư Librescu đã thắp sáng niềm hi vọng cho toàn thế giới, nhắc chúng ta nhớ rằng ngay cả trong những thời khắc đen tối nhất của cuộc đời, vẫn có những anh hùng như ông tồn tại”. Chưa đúng ! Giáo sư Librescu không nghĩ mình là anh hùng khi hành động như thế. Ông muốn trả lời câu hỏi: ”Ai là người thân cận của tôi ?” trong dụ ngôn mà Chúa Giê-su nói hôm nay. Ông là Người Sa-ma-ri Tốt Lành. Đối với Ông, mọi người – kể cả tên sát nhân hoặc các tên lý hình quốc xã ngày trước – đều là “người thân cận”. ( Ảnh chụp giáo sư Livu Librescu )
Anh người Sa-ma-ri ơi, anh làm chúng tôi “quê cơ” quá đỗi ! Anh dạy chúng tôi rằng: những việc làm như của anh, như của giáo sư Librescu, vẫn còn nhiều ở mọi thời đại, tuyệt nhiên không phải là chuyện cổ tích. Chỉ cần một chút tình người, một “con tim nhân loại” bằng thịt, không để cho tiền tài, danh lợi, so đo tính toan làm cho thành gỗ đá, thì đều có thể hành động như thế. Bác ái mà Chúa Giê-su rát cả cổ họng để giảng giải, chúng tôi bóp méo nó một chút, xuyên tạc nó một chút, uốn cong nó một chút, giảm thiểu nội dung nó ít nhiều, nghĩa là làm sao hợp với não trạng, trình độ, khả năng và môi trường sống của chúng tôi.
Anh làm Ki-tô hữu chúng tôi “mất mặt bầu cua”, khi còn dai dẵng hẹn chủ quán là sẽ trở lại, không phải để khoe khang vỗ ngực như một đại ân nhân – thực tình anh còn xứng đáng hơn với mỹ từ ấy nhiều lần ! – mà để thanh toán mọi chi phí, không “làm việc nửa mùa”, không ”đánh trống bỏ dùi”. Đồng bạc, vật chất không làm anh xa người khác, không khiến anh vênh vang kiêu ngạo, trái lại nó giúp anh nối kết với mọi người, nối kết mọi người với nhau.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu số 58