Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 16-C Bài 1-50 Maria chọn phần tốt nhất

Thứ tư - 17/07/2019 03:14
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 16 TN-C Bài 1-50 Maria chọn phần tốt nhất
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 16 TN-C Bài 1-50 Maria chọn phần tốt nhất
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 16-C Bài 1-50 Maria chọn phần tốt nhất
---------------------------------------
Phúc Âm: Lc 10, 38-42: "Martha rước Người vào nhà mình. Maria đã chọn phần tốt nhất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào một làng kia và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp con với". Nhưng Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------

TN 16-C1. MỘT SỰ CẦN THIẾT.. 2
TN 16-C2. NTGT/199- ĐIỂM DỪNG.. 4
TN 16-C3. HRK/145- VIỆC CẦN.. 7
TN 16-C4. PV/512- HIỆN DIỆN.. 9
TN 16-C5. HRK/376- MỘT VIỆC.. 11
TN 16-C6. CSTM/170- LẮNG NGHE.. 13
TN 16-C7. CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU CẦN.. 15
TN 16-C8. SCĐ/614- TỐT NHẤT.. 18
TN 16-C9. SCĐ/617- ƯU TIÊN.. 20
TN 16-C10. SCĐ/618- CẦU NGUYỆN.. 21
TN 16-C11. NHỮNG MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI 22
TN 16-C12. Tiến Gần Đến Trong Đức Tin. 24
TN 16-C13. Phần Tốt Nhất 26
TN 16-C14. Chỉ Có Một Điều Cần. 28
TN 16-C15. Chuyến đi lên Jerusalem lần cuối cùng - Nhóm Đồng Hành. 30
TN 16-C16. Con lo lắng bối rối nhiều chuyện. 32
TN 16-C17. Yêu theo cách của người mình yêu. 33
TN 16-C18. RƯỚC CHÚA VÀO NHÀ.. 35
TN 16-C19. MATTA VÀ MARIA.. 42
TN 16-C20. Chọn phần tốt nhất 51
TN 16-C21. Chỉ có một chuyện cần thiết 52
TN 16-C22. MÁC-TA VÀ MA-RI-A.. 55
TN 16-C23. Hiếu khách – Jkn. 61
TN 16-C24. Dấu chỉ 65
TN 16-C25. Maria đã chọn phần tốt nhất 70
TN 16-C26. Thiên Chúa đã viếng thăm.. 73
TN 16-C26. Chúa đến viếng thăm.. 74
TN 16-C27. Đón rước Chúa. 77
TN 16-C28. Điều cần cho đời sống. 79
TN 16-C29. XIN THÀY HÃY BẢO EM CON... 81
TN 16-C30. ĐIỀU TỐT THÔI, TỐT HƠN VÀ TỐT NHẤT.. 85
TN 16-C31. LÀ CẢ MARTHA VÀ MARIA. 88
TN 16-C32. MACTA VÀ MARIA.. 90
TN 16-C33. Sai lầm của nhà thầu khoán. 93
TN 16-C34. Chọn phần tốt nhất 96
TN 16-C35. CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI ĐAU KHỔ.. 98
TN 16-C36. GẶP GỠ VÀ ĐÓN RƯỚC THIÊN CHÚA.. 101
TN 16-C37. Martha và Maria. 105
TN 16-C38. Một sự hiện diện thiết yếu. 107
TN 16-C39. Phúc cho ai sẵn sàng đón nhận Chúa- Jude Siciliano. 108
TN 16-C40. Chỉ một việc cần. 112
TN 16-C41. CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ.. 114
TN 16-C42. Phục vụ trong trật tự. 117
TN 16-C43. Sự cân bằng. 119
TN 16-C44. Ngồi dưới chân Chúa Giêsu. 120
TN 16-C45. Mời Chúa vào nhà. 122
TN 16-C46. Mácta và Maria. 125
TN 16-C47. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin. 127
TN 16-C48. Chú giải của Noel Quesson. 128
TN 16-C49. Matta và Maria. 132
TN 16-C50. Chú giải của Fiches Dominicales. 133

------------------------

 

TN 16-C1. MỘT SỰ CẦN THIẾT

 

Nhìn vào cuộc sống, chúng ta phân biệt hai loại cần thiết, đó là cần thiết tương đối và cần thiết: TN 16-C1


Nhìn vào cuộc sống, chúng ta phân biệt hai loại cần thiết, đó là cần thiết tương đối và cần thiết tuyệt đối. Vậy thế nào là cần thiết tương đối và thế nào là cần thiết tuyệt đối ?

Cứ chung mà nói, ai trong chúng ta cũng cần đến tiền bạc cũng như cơm ăn áo mặc. Vì thiếu nó, chúng ta không thể sống và nếu có sống, thì cũng sống trong cảnh cùng cực túng thiếu, sống không ra người. Bời đó, ai cũng chịu khó bươm chải, chạy ngược chạy xuôi, làm lụng vất vả,  đổ mồ hôi xôi nước mắt để tìm tiền kiếm bạc. Cơm áo gạo tiền là nỗi lo lắng số một của chúng ta. Và trong bất kỳ phạm vi nào, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng phải là vấn đề tiền đâu.

Một khi tiền bạc đã rủng rỉnh, người ta lại mơ ước đến quyền hành và thế lực, nhờ đó mà lên mặt với đời và để lại trong thời gian một chút danh giá, một  chút tiếng tăm.

Đô đốc Byrd là một nhà thám hiểm Nam cực, vì không có đủ tiền, ông đã cho đăng báo và hứa rằng nếu ai giúp đỡ ông về phương diện tiền bạc, thì khi tìm thấy sông hoặc núi, ông sẽ lấy tên người ấy mà đặt cho. Tức thì nhiều người giàu có đã mang tiền đến giúp vì họ muốn cho tên tuổi của mình được tồn tại mãi với thời gian.

Một trường hợp khác, đó là Carnégie, ông vua thép ở Mỹ. Trong việc làm ăn, đã xảy ra một sự cạnh tranh giữa ông và Pullman, nhiều lúc đã đi tới chỗ va chạm và xích mích, thiệt hại cho cả đôi bên. Ngày kia, Carnégie đến giặp Pullman và nói:

- Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều điên khùng. Vậy tôi xin đề nghị với ông, thay vì cạnh tranh, chúng ta hãy hợp tác với nhau.

Nói rồi, Carnégie kể ra những lợi ích to lớn do sự hợp tác đem lại. Cuối cùng Pullman chỉ hỏi một câu:

- Vậy ông tính đặt tên cho công ty là gì ?

- Công ty Pullman chứ sao nữa.

Nghe vậy, Pullman đã mỉm cười, bắt tay và mời Carnégie ở lại dùng cơm tối.

Xem đó, chúng ta thấy đô đốc Byrd và Carnégie đã đánh trúng vào yếu điểm của nhiều người, đó là lòng ham mê danh vọng.

Thế nhưng, tiền bạc và danh vọng có thực sự là điều cần thiết tuyệt đối hay không ? Chắc chắn là không. Vì khi phải đối đầu với cái chết, chúng ta sẽ chẳng mang theo được một chút gì sang thế giới bên kia:

- Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,

  Chết xuống âm phủ, chẳng mang được gì.

Với chúng ta thì khác, sự cần thiết tuyệt đối chính là phần rỗi linh hồn như lời Chúa đã phán:

- Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.

Tự đời đời, Chúa chẳng cần đến chúng ta. Nếu không có vũ trụ và loài người, thì Chúa vẫn là Chúa. Ngài hoàn toàn đầy đủ và hạnh phúc. Sở dĩ Chúa dựng nên chúng ta là để chúng ta được chia sẻ phần hạnh phúc với Ngài.

Bởi vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải nhận biết và thờ phượng Ngài, hầu nhờ đó đạt được phần rỗi cho linh hồn.

Đúng thế, chúng ta được sinh ra bên ngoài là nhờ cha mẹ. Nhưng không cha mẹ nào dám xác quyết rằng tất cả đều do mình trao ban. Những sự vật rất tầm thường như khí trời, cơm gạo, rau cỏ để cho chúng ta được sống là do ai, nếu không phải là do bởi chính Thiên Chúa.

Vì thế, sự cần thiết tuyệt đối đó là nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa. Nếu thiếu sót trong phạm vi này, chúng ta đã thiếu sót một chuyện rất quan trọng. Vì chỉ có vấn đề này mới thực sự là cần thiết.

Cavalière là một nữ tài tử nổi tiếng và gặp nhiều may mắn. Thế nhưng, theo lời cô, giữa những lời khen tặng cô vẫn cảm thấy trống vắng, khiến cho nhiều lần cô muốn đi tìm cái chết. Tự đáy lòng, cô luôn nghe như có tiếng nói:

-Hỡi Cavalière, có phải mi được sinh ra là để bám lấy những cái phù du giả tạo đó hay sao ?

Một hôm, người ta không thấy bóng dáng cô ở Paris, kinh thành ánh sáng nữa. Cô đi tới một miền núi, sống âm thầm và cầu nguyện trong một nhà dòng. Hai năm trước khi qua đời, Robert de Pierre, một nhà báo, tìm đến nơi cô đang ở. Thấy cuộc sống quá lặng lẽ và quạnh hưu, nên đã nói:

- Sống như thế này thì có chi là sung sướng.

Nhưng cô đã trả lời:

- Sung sướng lắm chứ. Sung sướng gấp ngàn lần ở Paris. Vì nhờ đó, tôi được sống gần Chúa, được sống trong Chúa và được sống với Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời của tôi.

Hãy nhận biết và thờ phượng Chúa, nhờ đó đạt tới cuộc sống vĩnh cửu, đó là sự cần thiết tuyệt đối mà mỗi người chúng ta phải chọn lựa, phải thực hiện giữa cuộc đời đầy huyên náo và bon chen.

------------------------

 

TN 16-C2. NTGT/199- ĐIỂM DỪNG

 

Khi nói đến điểm dừng, tức là có chuyển động. Bởi nếu không bao giờ chuyển động thì đó không: TN 16-C2


Khi nói đến điểm dừng, tức là có chuyển động. Bởi nếu không bao giờ chuyển động thì đó không phải là điểm dừng, mà là điểm cố định, một điểm chết. Điểm dừng thì trước khi dừng đã chuyển động, và dừng để rồi sẽ chuyển động. Bởi lẽ, dừng mà không bao giờ chuyển động nữa thì cũng là điểm dừng chết.

Từ những điểm dừng trong đời.

Quan sát cuộc sống quanh ta, chúng ta sẽ bắt gặp được những điểm dừng. Có những điểm dừng chết chóc, nhưng cũng có những điểm dừng sống động. Có những điểm dừng mang đến tai họa, nhưng cũng có những điểm dừng mang lại niềm vui, một sự đổi mới, một sự cứu rỗi: đồng hồ đang chạy, ngưng đồng hồ chết; hạt giống gieo xuống đất rất cần để yên một thời gian nó mới nẩy mầm. Một người đang đi trong một cánh rừng, anh dừng lại quan sát xung quanh, sau đó quyết định đổi hướng đi vì biết mình đã lạc đường một điểm dừng cho sự đổi mới, một cái dừng giải thoát.

Trở lại bức tranh Tin Mừng hôm nay mà Luca phác họa cho chúng ta. Chúng ta cũng gặp được những điểm dừng: Chúa Giêsu và các môn đệ dừng chân ở nhà Mácta và Maria; Maria dừng chân dưới chân Chúa Giêsu; Mácta dừng chân bên chân Chúa Giêsu. Tất cả những điểm dừng đều có mục đích: Chúa Giêsu và các môn đệ nghỉ chân để tiếp tục hành trình lên Giêrusalem; Maria dừng bên chân Chúa để nghe Lời Chúa; Mácta dừng lại để cầu cứu Chúa, dường như muốn làm nũng, dường như muốn trách  Chúa.

Qua điểm dừng của Mácta trong Phúc âm:

Cô Mácta bận rộn, rất bận rộn với công việc phục vụ bề bộn. Lòng mến Chúa, lòng hiếu khách của cô được thể hiện qua công việc, cô muốn làm những thức ăn ngon nhất, phục vụ chỗ nghỉ tốt nhất mà cô có thể dành cho Chúa và môn đệ của Ngài. Cô thật tốt bụng. Cô là chị lớn nên nặng trách nhiệm, cô đảm đang tháo vát và nhiều sáng kiến. Sáng kiến nhiều nên nhiều việc, và cuối cùng làm chẳng kham đành xin Chúa can thiệp.

Mácta phục vụ Chúa, điều đó thật tốt. Thế nhưng điều tốt xem ra bình thường đó lại có vấn đề. Vấn đề ở chỗ nào ? Ở chỗ là cô không toàn tâm toàn ý phục vụ Chúa, vì cô còn bận tâm để ý đến người em, mà người em này hiện ra trong mắt cô với hình ảnh không mấy tốt đẹp đó là người trốn việc, biếng nhác, và do đó công việc của cô đã bề bộn lại càng bề bộn hơn, đã rối trí lại càng rối trí hơn, nhưng rất may cho cô là giữa lúc bế tắc đó cô còn biết dừng lại bên Chúa. Cái dừng lại đó cần thiết cho cô, ích lợi cho cô lắm, vì cô sẽ có người tiếp tay công việc, vừa khép sự chú ý của Chúa và mọi người về phía mình mà trước đó dường như không ai để ý tới, vừa giải tỏa được nỗi ấm ức trong lòng đối với cô em Maria. Mácta dừng lại để người khác khen mình, để tự khen mình, khen mình cũng là hạ giá người khác: “Em con để mình con phục vụ”. Phải chăng ý cô là: Con quá giỏi, còn em con nó vụng về chẳng biết làm gì, lại vô tâm quá. Một cái dừng để trách móc người khác, và cũng để trách Chúa: “Mà Thầy không để ý tới sao”. Cô trách khéo: sao con?. Một cái dừng để bắt người khác làm theo ý mình, làm như mình và cũng để lôi kéo Chúa về phe mình: “Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Lấy uy của Chúa, dùng quyền của Chúa để bắt người khác phục vụ ý mình, làm như mình muốn.

Nhưng Chúa Giêsu tận dụng giây phút dừng lại ấy của Mácta để thức tỉnh cô. Sự thực thì Chúa có vô tâm với cô không? Thưa không, Chúa không vô tâm nhưng để ý tới cô, để ý nhiều nữa kìa, không những biết việc cô làm nhưng Chúa còn biết lòng dạ, suy nghĩ của cô: Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!” vì băn khoăn lo lắng nhiều chuyện đến nỗi dường như không còn biết điều gì khác nữa, cô đang ngủ mê trong công việc của mình nên Chúa phải thức tỉnh cô. Thức tỉnh trong yêu thương, Chúa gọi cô Kitô hữu phải một mà đến hai lần, như đánh thức người mê ngủ: “Mácta! Mácta ơi!...” thật êm ái và yêu thương. Sao mà cô không tỉnh thức được. “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”. Một điểm dừng làm thay đổi nhận thức, làm đảo lộn những giá trị mà Mácta đã xây dựng trước đó, nó mang đến một sự đổi mới theo chiều kích thiêng liêng cần thiết cho sự cứu rỗi.

Câu trả lời của Chúa chắc chắn làm Mácta ngạc nhiên, giật mình vì ngoài sự phán đóan và tỉnh ngộ, có một cái nhìn mới, đón nhận những giá trị mới. Từ nay cô không phải lo lắng bởi lương thực vật chất, nhưng phải lo lắng cho lương thực thiêng liêng. Từ của ăn trần thế mau hư nát, Chúa hướng cô đến lương thực Nước Trời trường tồn. Từ lương thực nuôi sống thân xác phàm tục Chúa hướng cô đến lương thực linh hồn thiêng liêng Lương thực Nước Trời thì tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất đó chính là Lời Chúa, đó là ơn Chúa.

Đến điểm dừng của Kitô hữu trong cuộc sống;

Cuộc sống con người ngày nay hoạt động nhiều hơn tĩnh lặng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát  triển vùn vụt, con người như bị cuốn hút vào vòng quay của nó đến nỗi dường như không có thời gian để thở, để thư giãn, để nghĩ ngơi…Người Kitô hữu trong hoạt động Tông đồ, hoạt động truyền giáo, bác ái từ thiện, dấn thân xã hội…dường như cũng bị ảnh hưởng của thời đại: Thế giới còn nhiều người chưa nhận biết Chúa, còn nhiều người nghèo đói, bệnh tật, gặp hoạn nạn, đau khổ…cho nên bổn phận, trách nhiệm của Giáo hội, của một Kitô hữu còn nặng nề, cần nhiều hoạt động cụ thể và thiết thực. Nhưng hoạt động Tông đồ, truyền giáo, bác ái của chúng ta có phản ánh tình yêu Của Thiên Chúa? Có là hoa quả của tình yêu Thiên Chúa? Hay chỉ để làm tăng uy tín, tăng giá trị, khuếch trương ảnh hưởng của chúng ta, kéo sự chú ý của người khác về phía mình, yêu cầu Chúa  làm theo ý mình?

Chúa có thể mải mê công việc của Chúa mà không được quên đi chính Chúa. Chúng ta có thể loay hoay với công việc của cuộc sống, nhưng không được quên đi mục đích của cuộc sống. Cần có những điểm dừng trong cuộc sống để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh cho những hoạt động của chúng ta. Chiếc ly cần phải đứng yên mới có thể hứng lấy nguồn nước từ vòi rót xuống. Thiên Chúa không thể đổ vào tâm hồn chúng ta điều gì cả nếu trước đó đã bị đầy mọi sự rồi. Để phân phát tình yêu Thiên Chúa, ta cần phải có tình yêu Thiên Chúa tràn đầy nơi mình trước. Hoạt động Tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em. Thế giới không thích thú gì khi gặp gỡ ta, những thế giới đang khao khát tình yêu Thiên Chúa, đang khao khát những gì Thiên Chúa muốn trao ban cho họ qua trung gian chúng ta.

Khi bị quay cuồng trong cuộc sống, nếu chúng ta biết dừng lại như Mácta và cầu cứu Chúa: “Chúa ơi! Con mệt quá”, lúc đó chúng ta sẽ được Chúa tiếp sức bằng Lời của Chúa, sẽ được Chúa chỉ cho chúng ta điều nào là quan trọng nhất, điều nào là phụ thuộc và qua đó ơn Chúa, tình yêu Chúa sẽ nuôi dưỡng và tiếp sức cho chúng ta. Chúng ta đừng quên chọn Chúa và Lời Chúa là phần tốt nhất cho đời mình. Hoạt động của chúng ta phải là hoa trái của tình yêu của Thiên Chúa. Cành sinh hoa kết quả không phải vì cành, nhưng vì cành biết kết hợp cùng cây.

Hành trình nào cũng cần có những điểm dừng, những điểm dừng ấy thật cần thiết để tiếp sức cho hành trình đạt đến đích. Hành trình về tiếp nhận ân sủng, tăng cường sức khỏe thiêng liêng, bồi bổ tâm linh cho hành trình đến đích. Gặp gỡ Chúa trong thinh lặng, cầu nguyện là cần thiết nhất để giao tiếp với Chúa, nghe tiếng Chúa và đón nhận ơn Chúa.


Thế nhưng liệu có thinh lặng cầu nguyện được trong thế giới ồn ào náo nhiệt, tràn ngập công việc này chăng?
Mẹ Têrêsa Calcuta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcuta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ, để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ.

------------------------

 

TN 16-C3. HRK/145- VIỆC CẦN

 

Truyện cổ tích Arập có kể lại câu chuyện: Một vị hoàng tử được vua cha gởi vào sa mạc để thụ: TN 16-C3


Truyện cổ tích Arập có kể lại câu chuyện: Một vị hoàng tử được vua cha gởi vào sa mạc để thụ huấn với một vị hiền triết. Vị hoàng tử này kinh ngạc về thái độ lạ thường của nhà hiền triết, suốt ngày không thèm nói lời nào với hoàng tử mà chỉ ra dấu cho hoàng tử hãy ngồi im bên cạnh mình.

Sau một tháng im lặng như vậy, hoàng tử bực mình hỏi:

- Thưa thầy, cha tôi gởi tôi đến đây để học cùng thầy, nhưng đã một tháng qua rồi mà tôi chưa học được gì cả ?

Nhà hiền triết ôn tồn trả lời:

- Này hoàng tử trẻ tuổi của ta, nếu con không học quí trọng sự thinh lặng của ta thì con sẽ không thể nào quí trọng được những lời ta nói. Nếu con không học được bài học sống trong thinh lặng thì con sẽ không học được gì nữa cả.

Triết gia người Pháp ông Pascal đã nhận định về thời đại của ông như sau: “Sau khi đã quan sát cuộc sống của những người đồng thời trong một thời gian lâu, tôi có thể kết luận rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng gây phiền phức xáo trộn cho con người là vì con người không còn khả năng sống trong thinh lặng nữa”.
Ông Pascal đã sống xa chúng ta hơn ba thế kỷ, ông sống vào thế kỷ XVII bên Pháp. Căn bệnh của những thời đại ông vẫn còn là căn bệnh của những người hay nhiều người của thời đại hôm nay, đó là căn bệnh sợ im lặng, sợ sống trong thinh lặng. Nhìn qua những ồn ào, những bạn trẻ lúc nào cũng phải nghe nhạc, xem truyền hình, lúc nào cũng phải đùa chơi với bạn bè, chúng ta có thể hiểu được phần nào căn bệnh này còn tồn tại. Nhưng không phải là sự thinh lặng của cô đơn, của sự trống rỗng không có gì cả. Người Kitô không bao giờ sống trong thinh lặng cô đơn trống rỗng này, vì có sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời và ngay bên cạnh. Sự thinh lặng của người Kitô là sự thinh lặng có đầy Chúa, để được đồng hiện diện với Chúa, để được nhìn thấy Chúa và lắng nghe tiếng nói của Ngài.

Thử hỏi trong một  ngày sống chúng ta dành ra được bao nhiêu giây phút thinh lặng có đầy Chúa này ? Bao nhiêu giây phút chúng ta im lặng đến gặp Chúa trong Bí tích Thánh Thể ? Bao nhiêu giây phút chúng ta im lặng để đọc Kinh Thánh, để lắng nghe Lời Chúa ? Đây là điều tốt nhất mà Maria đã chọn như trong Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cho chúng ta.

Sự thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa, đó là sự thinh lặng có đầy Chúa. Không dừng lại ở sự thinh lặng, nhưng luôn đi trên con đường noi gương sống của Chúa, được hiện diện với Chúa, được đồng hóa với Ngài, được chia sẻ sứ mạng của Ngài. Đây là điều chúng ta nhận thấy nơi vị tông đồ Phaolô được nhắc lại nơi bài đọc II. Sống trong sự thinh lặng có đầy Chúa, thánh tông đồ Phaolô đã định nghĩa cuộc sống của mình như là một cuộc sống trong Chúa, sống đầy Chúa và sẵn sàng lãnh nhận những gì còn thiếu nơi cuộc thương khó của Ngài.

Cách nói còn thiếu nơi sự thương khó của Chúa không có nghĩa là sự thương khó của Chúa còn thiếu điều gì, nhưng muốn nói là sự thương khó của Chúa cần được chia sẻ, được sống trong cuộc đời của tông đồ Phaolô. Có sống trong thinh lặng đầy Chúa này chúng ta mới có đủ can đảm vác thập giá với Chúa, chia sẻ những đau khổ, hy sinh của Chúa trong những hy sinh đau khổ chúng ta đương đầu hằng ngày.

Tâm thức sống ồn ào là tâm thức của những kẻ trốn chạy khỏi cuộc sống. Sống trong thinh lặng có đầy Chúa như Maria ngày xưa và như Mẹ Maria im lặng bên cạnh Chúa cho đến dưới chân thập giá. Đó là thái độ tốt nhất để sống trọn vẹn cuộc sống đầy gian nan thử thách của chúng ta trong hoàn cảnh ngày nay.
Xin Chúa ban cho chúng ta được sống trong thinh lặng đầy Chúa này, thinh lặng để lắng nghe, để có thêm sức mạnh của Chúa, để giữ vững đức tin, đức cậy và đức mến vào Chúa.

------------------------------------

 

TN 16-C4. PV/512- HIỆN DIỆN

 

Chúng ta không sống đời sống tâm linh một cách nghiêm túc, chúng ta không dành ra một ít: TN 16-C4


Chúng ta không sống đời sống tâm linh một cách nghiêm túc, chúng ta không dành ra một ít thời gian để sống với Thiên Chúa và lắng nghe lời Người. Phần lớn chúng ta đọc một số kinh sáng và kinh chiều. Nhưng, khổ nỗi, những kinh nguyện ấy thường là những lời quá quen thuộc mà chúng ta đọc một cách máy móc, vội vàng trong lúc đầu óc cứ mãi chạy theo những công việc đang chờ đợi chúng ta. Kinh nghiệm như thế giống như mặc áo quần, rồi mới rửa tay của mình khi người ta cần phải được tắm rửa, kỳ cọ. Chúng ta cần có sự cầu nguyện tập trung, dâng hiến, sự cầu nguyện giống như cơn đói phải được no thỏa mà không gì có thể thay thế. Loại kinh nghiệm ấy luôn làm cho chúng ta biến đổi và thêm sức mạnh. “Cầu nguyện không phải là xin xỏ. Nó là sự khao khát của linh hồn. Nó là sự thừa nhận mỗi ngày sự yếu đuối của chúng ta”.

Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu là đọc kinh hơn là cầu nguyện. Trong một ý nghĩa nào đó, cầu nguyện bắt đầu ở chỗ mọi diễn tả chấm dứt. Những lời nói mà môi miệng chúng ta thốt ra thường chỉ là những làn sóng trên bề mặt của bản thể chúng ta. Hình thức cao nhất của sự tôn thờ là thinh lặng.

Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất chính là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không nói hoặc làm điều gì. Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Chúa Giêsu. Nhưng đối với một số người, điều đó có vẻ như lãng phí thời gian trong khi có rất nhiều việc phải làm.

Ở trong sự hiện diện, không nói hoặc làm điều gì không phải là một việc dễ dàng. Bởi vì ngay khi chúng ta ngừng lại, chúng ta cảm thấy trống rỗng kể cả thấy mình vô dụng. Phần đông chúng ta có ý thức về giá trị của mình qua việc làm. Họ không biết đương đầu như thế nào với sự ngưng nghỉ và bất động. Kết quả là đời sống của họ nông cạn và hời hợt bên ngoài.

Phần đông con người có xu hướng đặt tình yêu của Thiên Chúa với hoạt động xã hội. Dĩ nhiên cầu nguyện có thể là một sự tránh né và thoát ly. Nhưng hoạt động xã hội cũng thế. Hoạt động của chúng ta có thể là một sự tránh né việc tìm kiếm Thiên Chúa. Và không có cầu nguyện, người ta có thể dễ dàng quy ngã, hướng ngã, thay vì được Thiên Chúa hứng khởi.

Henry David Thoreau đã sống hai năm trong một túp lều ở rừng Maine. Ông ta làm gì suốt hai năm ấy ? Ông trồng một vườn rau, đọc sách và quan sát thiên nhiên. Nhưng một đôi khi ông không làm gì cả. Ông  nói: Thỉnh thảong vào một buổi sáng mùa hè, tôi ngồi trên con đường ngập nắng dẫn vào túp lều từ sáng cho đến trưa, mê man trong mộng tưởng giữa những cây thông, trong sự cô đơn và bất động yên tĩnh, trong khi bầy chim ca hát chung quanh tôi.

Ông đã thu hoạch được gì  từ điều đó ? ông nói:

“Trong những mùa ấy, tôi lớn lên như cây ngũ cốc trong đêm. Đó không phải là thời gian lấy mất khỏi đời tôi, nhưng vượt ra ngoài và bên trên sự bớt đi thông thường. Cần cù như những con kiến chưa đủ, bạn cần cù về điều gì ? Đừng sợ cuộc đời bạn kết thúc, đúng hơn phải sợ cuộc đời bạn chưa bao giờ bắt đầu.

Một số người cho Thoreau là một kẻ mơ mộng lười biếng. Nhưng chúng ta cần dành thời gian cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó không phải là thời gian bị lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù chỉ trong thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.

Với cái nhìn nông cạn, phần việc của Maria có vẻ dễ dàng hơn, cô chỉ việc ngồi đó, và phần việc của Macta khó khăn hơn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều. Gạt bỏ công việc của mình và chú tâm hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn, nhưng đó lại là linh đạo sinh ra lợi ích rất lớn lao.

------------------------------------

 

TN 16-C5. HRK/376- MỘT VIỆC

 

Có một câu chuyện vui kể rằng, trên một chiếc phi cơ du lịch loại nhỏ có bốn người và một phi: TN 16-C5


Có một câu chuyện vui kể rằng, trên một chiếc phi cơ du lịch loại nhỏ có bốn người và một phi công, một thương gia, một linh mục nhà truyền giáo và một hướng đạo sinh. Phi cơ đang bay, bỗng một động cơ bị trục trặc, ngưng hoạt động, viên phi công cố gắng mãi mà động cơ vẫn không hồi phục và cũng không thể đáp khẩn cấp ở đâu được. Cuối cùng, ông phải tuyên bố một giải pháp là nhảy dù để thoát hiểm.

Ông mang ra ba cái dù và nói: Tôi là phi công, tôi còn có vợ và ba đứa con, nên tôi cần phải sống. Thế là ông ta đeo một chiếc dù rồi nhảy xuống. Liền sau đó vị thương gia tuyên bố: Tôi là một kỹ sư và là một thương gia, hiện thân của trí tuệ và giàu có của nhân loại nên tôi cần phải sống, rồi ông vội vã khoác tay vào dây đeo, lao đầu ra cửa nhảy xuống. Vị linh mục hốt hoảng nhìn chàng hướng đạo sinh và nói: Này con, con còn trẻ, tương lai đầy hứa hẹn, con cần phải sống và để giúp ích mọi người, con hãy mang cái dù còn lại mà thoát hiểm đi. Nhưng chàng hướng đạo sinh thưa với vị linh mục: “Tất nhiên ai cũng cần sống, cha hãy bình tĩnh lúc này hãy còn một cái dù cho cha và một cái cho con. Vì ông thương gia hiện thân của trí tuệ và giàu có của nhân loại đã đeo cái ba lô của con nhảy xuống mất rồi”.

Ai cũng cần phải sống, đó là lẽ tự nhiên, nhưng điều quan trọng hơn hết là biết cách làm thế nào để sống. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chị em Mattha và Maria đón tiếp Đức Giêsu vào nhà, Mattha tất bật lo phục vụ, cô bận rộn đến nổi cáu kỉnh như vẻ trách cô em Maria không biết chia sẻ gánh nặng và thầm trách Đức Giêsu chưa quan tâm đủ đến sự tất bật của mình.

Nhiệt tình đón tiếp vị khách, nhất là khách quí như Chúa Giêsu, đó là lẽ thường tình, nhưng Đức Giêsu lại nói với Mattha: “Chị băn khoăn và lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một điều cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất”.

Có người xem ra đồng tình với Mattha và phản kháng Đức Giêsu khi đưa ra câu nói: “Có thực mới vực được đạo”. Đúng ! Có thực mới vực được đạo, nhưng đáng tiếc có người chỉ hiểu được có một nửa của câu nói. Họ không biết rằng bên cạnh cái thực còn có đạo; bên cạnh của ăn vật chất còn có của ăn thiêng liêng . Ngoài cuộc sống đời này còn có cuộc sống đời sau, và người ta còn nói: “Sống không phải để ăn, nhưng ăn để sống”. Cho nên trong khi lo lắng kiếm cái thực, cái ăn để sống thì cũng phải biết lo lắng cho cái đạo để sống cho ra sống và để sống được trọn vẹn.

Đức Giêsu không phủ nhận giá trị công việc phục vụ của Mattha cũng như không từ chối sự đón tiếp của gia đình cô, nhưng Ngài đề cao việc Maria nghe lời Người. Đức Giêsu đã chẳng từng quan tâm đến những sinh hoạt đời thường và chia sẻ những khổ đau bệnh tật của dân chúng sao ? Ngài đã từng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, đã từng hóa nước thành rượu  để niềm vui tiệc cưới được trọn vẹn. Ngài đã từng chăm sóc cứu chữa các bệnh nhân, cho người què đi được, người điếc được nghe, người mù được thấy, người chết sống lại, nhưng Ngài vẫn nhắm đến điều cần thiết hơn hết là cho mọi người được nghe, được lãnh nhận Lời Hằng Sống.

Có lần Người tuyên bố: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn bởi Lời của Thiên Chúa”. Con người sống không phải chỉ có vật chất, chỉ lo bơn chải những vấn đề cơm bánh mà còn phải có đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng nữa.

Đây chính là điều cần thiết hơn hết mà Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Đây cũng chính là điều chúng ta cần phải sống và sống hạnh phúc. Tất nhiên, Lời Chúa không phải là cái dù, chỉ cần đến khi nguy biến để thoát hiểm, nhưng chính Lời Thiên Chúa, Lời Chân Lý hằng sống làm cho những sinh hoạt hàng ngày của chúng ta có hiệu quả và có ý nghĩa hơn.

Thật khó hiểu khi một người cho mình là Kitô hữu mà không bao giờ biết lắng nghe và đón nhận Lời Thiên Chúa. Càng khó hiểu hơn khi một người làm việc tông đồ mà không được Lời Chúa nuôi dưỡng và hướng dẫn.

Thánh Phêrô và các tông đồ đã cho chúng ta một cái nhìn khi thưa với Đức Giêsu: “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời”. Và có một lần khi Đức Giêsu đang giảng trong hội đường thì giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay dạ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm. Nhưng Đức Giêsu đáp lại, đúng hơn phải nói rằng, phúc thay kẻ đã lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa”.

Ước gì mỗi người chúng ta ý thức rằng, mình đã được mời gọi để sống hạnh phúc và luôn sẵn sàng đón nhận Lời ban sự sống. Lời của Thiên Chúa chính là điều tôi cần phải sống. Giờ đây mỗi người chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.

------------------------------------

 

TN 16-C6. CSTM/170- LẮNG NGHE

 

Đoạn Tin Mừng thánh Luca kể lại câu chuyện tiếp đón Chúa Giêsu của hai chị em Marta và: TN 16-C6


Đoạn Tin Mừng thánh Luca kể lại câu chuyện tiếp đón Chúa Giêsu của hai chị em Marta và Maria tại nhà của họ ở làng Bêtania. Chúng ta thấy tất cả câu chuyện xoay quanh cách thức hai người tiếp đón Chúa, rồi tột đỉnh và kết thúc câu chuyện là nhận định của Chúa Giêsu về cách tiếp đón của mỗi người.

Trước hết, chúng ta thấy cả hai người đều tiếp đón Chúa, nhưng mỗi người một cách, mỗi người một vẻ: Marta thì bận rộn tíu tít, lo lắng lăng xăng nhiều việc. Còn Maria thì chỉ ngồi bên chân Chúa, tiếp chuyện Chúa và nghe Chúa giảng dạy. Cách tiếp đón nào làm hài lòng Chúa hay được Chúa yêu thích hơn ? Đó là cách tiếp đón của cô Maria. Chính Chúa đã nhận định như thế: “Maria đã chọn phần tốt nhất”. Còn với cô Marta, Chúa nói: “Con lo lắng băn khoăn nhiều chuyện quá”. Thật ra, cả hai chị em đều hết lòng tiếp đón Chúa. Nhưng đối với Chúa: “Người ta sống không bằng cơm bánh mà thôi, nhưng còn bởi lời Thiên Chúa:, nghĩa là người ta không phải chỉ có sự sống như thực vật, động vật, mà còn phải có lẽ sống. Đối với chúng ta, lời Chúa cho chúng ta lẽ sống và đường sống. Vậy thì lời Chúa phải có vị trí ưu tiên, là vì phải nghe lời Chúa chúng ta mới có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình cho trung thực với lẽ sống và đường sống mà Thiên Chúa cho mình. Cô Maria đã làm đúng như thế. Đây là bài học thứ nhất chúng ta ghi nhận: Chúa muốn chúng ta, dù bận rộn công việc thế nào cũng phải biết dành thời giờ để lắng nghe và tìm hiểu lời Chúa.

Thực vậy, ai trong chúng ta cũng có nhiều việc phải làm. Đừng kể những người lười biếng hay những người chỉ muốn ăn không ngồi rồi, còn hầu hết chúng ta, nếu sống đúng vai trò và nhiệm vụ của mình, chúng ta đều thấy việc thì nhiều mà thời gian lại ít. Hai mươi bốn tiếng mỗi ngày hãy còn quá ngắn. Thời giờ lúc nào cũng chực chắp cánh bay đi, để lại công việc cứ tiếp nối nhau mãi, hoặc làm mãi mà không hết việc. Sống trong hoàn cảnh quá nhiều công việc như vậy, thì bài học nghỉ ngơi như cô Maria càng cần thiết cho chúng ta, chúng ta không thể để cho công việc lôi kéo mà quên mất mục đích chính của đời mình. Công việc làm ăn tay chân nghề nghiệp chỉ là phương tiện nuôi sống, là con thuyền đưa chúng ta về trời, chứ nó không thể là mục đích của đời chúng ta. Có lẽ Chúa chẳng hài lòng gì mà còn đau lòng nữa, khi thấy chúng ta quá bận rộn vào biết bao công việc, phí phạm bao nhiêu sức lực của tuổi đời, bao nhiêu thời gian quí giá, để lo cho những công việc không có giá trị trường cửu, để rồi kết thúc cuộc đời mình trong lo lắng, sợ hãi về số phận đời sau.

Như vậy, điều chúng ta cần ghi nhớ là chúng ta phải biết gặp gỡ Chúa trong hoạt động, trong việc làm. Nói cụ thể hơn, trong một ngày và trong hoạt động, chúng ta phải biết dành ra ít giây phút cho việc gặp gỡ Chúa. Thí dụ: một lúc im lặng, một khoảnh khắc nâng tâm hồn lên cao, một ít phút đọc Kinh Thánh, một ít phút để cầu nguyện, để tâm sự với Chúa và lắng nghe Chúa nói với tâm hồn mình. Nói tóm lại, chúng ta cần tìm ra ý nghĩa sâu xa những câu nhận định của Chúa Giêsu: “Chỉ có một chuyện cần mà thôi”, “Maria đã chọn phần tốt nhất”, nghĩa là cuộc đời của chúng ta, có nhiều điều phải lo lắng, có nhiều công việc phải làm, nhưng chúng ta phải biết khẳng định cái gì là ưu tiên, cái gì cần làm, cái gì phải làm trước. Đó là lắng nghe Lời Chúa, đó là cầu nguyện.

Đàng khác, bài Tin Mừng còn gợi cho chúng ta suy nghĩ thêm một vấn đề nữa, đó là câu nói của Marta: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao ?”. Câu nói của Marta tỏ lộ phần nào thái độ phân bì ghen tị thường sẵn có trong lòng mọi người. Chúng ta biết: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị rất tự cao, không muốn ai hơn mình. Mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn rầu, chán nản, tức tối, oán ghét với những thành công của người khác… Có người chỉ ghen ghét một người nào đó trong một thời gian thôi. Nhưng có người ghen ghét suốt đời. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức… Thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng môi trường, cùng tình thân mới ghen ghét nhau, như bạn bè, chị em ghen nhau; nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá ghen nhau. Rồi người lớn hay ghen tị nhiều hơn tuổi trẻ, vì tuổi trẻ còn đang ganh đua và có nhiều điểm phải vươn tới, rồi họ lại dễ bỏ qua, tha thứ. Cho nên, nếu có, thì chỉ là tạm thời. Còn người lớn ghen tị thường đưa đến oán thù, phá đổ.

Chẳng hạn, vua Saolê, khi thấy Đavid được dân chúng ca tụng là tài giỏi hơn vua, thì nhà vua ghen tức với Đavid, đến nỗi từ đó tìm đủ cách để giết Đavid, dù Đavid không có tội gì hết. Saolê ghen tị thật vô lý. Đavid là một tay tài giỏi, thắng trận trở về, xứng đáng được toàn dân ca tụng biết ơn. Còn Saolê, lẽ ra phải vui mừng vì Đavid đã đem phần thắng về cho mình, thì Saolê đã làm ngược lại là ghen tức và cay đắng trả thù. Đúng như câu nói: “Khi một người thắng trận trở về nhà, dù lòng đang vui cách mấy đi nữa, khi thấy có người khác hơn mình, thì niềm vui đó sẽ trở thành buồn bực và đau khổ”. Nếu như chúng ta ở trong trường hợp của Saolê, có lẽ chúng ta cũng ghen tức như Saolê. Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị, và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con. Nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem chúng ta có hơn trẻ con không ? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi giúp đỡ họ. Ngược lại, thử hỏi chúng ta có vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn thành công chăng ? Thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là chia vui. Chúng ta hãy nhớ: Ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị thường đi đến chỗ nói hành, nói xấu, vu oan cáo vạ, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm đứt mất tình bác ái và gây nên nhiều gương mù gương xấu. Vì thế, bằng mọi giá chúng ta phải tốp lại cái thói ghen tị vô lối của mình.

Bài Tin Mừng cũng như những điều tìm hiểu trên đây nhắc nhở chúng ta suy nghĩ: Mỗi người chúng ta đã tiếp đón Chúa, gặp gỡ Chúa, lắng nghe lời Chúa như thế nào trong cuộc sống: theo kiểu của Marta hay Maria ? Chúng ta có biết kết hợp giữa cầu nguyện và hoạt động trong cuộc sống để đáp ứng những đòi hỏi phát triển con người toàn diện không ? Chúng ta có tự cho mình là đúng, công việc của mình là hay hơn cả, để rồi phủ nhận hoặc công kích người khác, công việc của người khác không ? Trong khi có thể chính người đó mới đúng và công việc của họ mới đáng kể ? Ước mong mỗi người hãy suy nghĩ và kiểm điểm để đổi mới hoặc bổ túc những gì còn sai lỗi hoặc thiếu sót trong đời sống đạo của mình.

------------------------------------

 

TN 16-C7. CHỈ CÓ MỘT ĐIỀU CẦN

 

Tiếp theo giáo huấn về giới răn yêu thương, Tin Mừng theo Thánh Lu-ca hôm nay kể lại cho: TN 16-C7


Tiếp theo giáo huấn về giới răn yêu thương, Tin Mừng theo Thánh Lu-ca hôm nay kể lại cho chúng ta một câu chuyện  xem ra thật bình thường trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Hôm đó trong cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su ghé lại nhà của chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô, người đã được Đức Giê-su làm cho sống lại. Cả nhà của Mác-ta hôm đó thật tưng bừng vì được vinh dự đón vị đại ân nhân và cũng là người bạn thân của cả gia đình. Thế là cũng như những người phụ nữ đảm đang khác, Mác-ta bắt đầu bận rộn với việc bếp núc để có thể tiếp đãi khách quý một cách xứng đáng. Mác-ta hối hả đi chợ, hối hả làm bếp, chuẩn bị chén bát, bàn ăn... Nhiều lần, đi ngang qua phòng khách, Mác-ta đã cố gắng làm hiệu để gọi người em là Ma-ri-a xuống bếp phụ với mình, nhưng hình như cả Ma-ri-a và Chúa Giê-su đều không để ý.

Sắp tới giờ cơm, không chịu nổi, Matta đành lên tiếng nói với Đức Giê-su: “Lạy Thầy, em tôi để tôi hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao ? Xin Thầy bảo em tôi giúp tôi với”. Một đề nghị xem ra thật bình thường và hợp lý, và Mác-ta chắc hẳn, Đức Giê-su sẽ đồng ý và bảo Ma-ri-a xuống giúp mình, vì đã sắp tới giờ ăn. Thế nhưng, thật bất ngờ, Đức Giê-su chẳng những không bảo Ma-ri-a xuống giúp Mác-ta, trái lại, Ngài còn có vẻ như trách Mác-ta: “Mác-ta, Mác-ta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần thôi: Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.

Vâng, hình ảnh bận rộn, lo lắng của Mác-ta cũng chính là của mỗi người chúng ta. Suốt một ngày sống, từ lúc thức giấc cho đến khi lên giường ngủ, thậm chí cả trong giấc ngủ, mỗi người chúng ta cũng đang lo lắng, băn khoăn về nhiều chuyện. Do đó, có thể nói, lời cảnh tỉnh của Đức Giê-su đối với Mác-ta cũng chính là đang nói với mỗi người chúng ta: “Con lo lắng bối rối về nhiều chuyện. Chỉ có một sự cần thôi”. Vâng, chỉ có một sự cần mà thôi. Chúng ta cần gặp gỡ Chúa, để nhờ đó có thể nhận ra Chúa nơi những người đang sống xung quanh chúng ta.

1. CẦN GẶP GỠ CHÚA:

Là một con người có xác, có hồn, chắc hẳn không ai trong chúng ta là không có những suy nghĩ, lo lắng, trăn trở cho cuộc sống hiện tại và tương lai của mỗi người và cả gia đình chúng ta. Chúng ta có thật nhiều nỗi lo lắng, băn khoăn, nhưng nhìn chung các lo lắng của chúng ta thường là để làm sao kiếm cho được thật nhiều tiền, nhiều quyền và nhiều danh vọng, để cuộc sống vật chất của chúng ta thật đầy đủ. Thế nhưng, không biết có bao giờ chúng ta dừng lại một chút để tự đặt câu hỏi: “Tôi kiếm tiền để làm gì ? Học hành đạt bằng cấp cao để làm gì không ?” Chính vì ít khi nghĩ tới những câu hỏi này, nên chúng ta giống như cô Mác-ta trong bài Tin Mừng, cứ “lo lắng bối rối về thật nhiều chuyện”. Và chính vì những lo lắng thái quá đó đã đẩy cô Mác-ta và cả chúng ta ngày càng mệt mỏi, mất bình an, thậm chí đi đến chỗ ganh tỵ với người khác. Mác-ta đã ganh tỵ với người em là Ma-ri-a đang ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Lời Ngài.

Đứng trước những bận rộn của Mác-ta, Đức Giê-su không trách móc, nhưng Ngài nhắc bảo Mác-ta cần đặt lại bậc thang giá trị cho mỗi công việc. Việc Mác-ta lo lắng, chuẩn bị để tiếp đãi khách cũng như những lo lắng của chúng ta cho cuộc sống hàng ngày là một điều cần thiết và hợp lý. Tuy nhiên, chúng ta không được phép để những lo lắng này chiếm hết tâm trí của chúng ta. Vì đó không phải là mục đích cuối cùng của cuộc sống chúng ta. Cuộc sống của mỗi người chúng ta không dừng lại ở những tiện nghi vật chất nay còn mai mất, nhưng cần hướng tới một mục tiêu xa hơn, đó là cuộc sống vĩnh cửu, cuộc sống trong sự kết hiệp với Thiên Chúa.

Do đó, điều đầu tiên mà mà mỗi người chúng ta cần, đó là lắng nghe và gặp gỡ Chúa. Đây là điều quan trọng nhất trong cuộc sống của chúng ta. Thế nhưng, thật đáng buồn, đây lại là điều chúng ta hay quên nhất. Nhìn lại cuộc sống của mình, hàng ngày chúng ta gặp gỡ với đủ mọi người, suy nghĩ, nghe và nói về đủ thứ chuyện, chỉ trừ những chuyện liên quan đến Thiên Chúa. Chúng ta không hề nghĩ đến chuyện phải làm sao để có thể gặp gỡ Chúa. Cũng chẳng nghĩ đến chuyện phải lắng nghe lời Người. Đáp lại lời yêu cầu của Mác-ta, Đức Giê-su đã nói với cô: “Chỉ có một sự cần thôi: Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”. Ma-ri-a đã chọn việc lắng nghe lời Chúa là ưu tiên số một trong cuộc sống của mình. Cô đã “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người”. Và đây là chọn lựa khôn ngoan và chắc chắn nhất, bởi lẽ một khi đã gặp được Chúa, có Chúa trong mình, thì lúc đó tâm hồn mình sẽ được bình an. Và quan trọng hơn, không một thế lực nào có thể tước đoạt được sự bình an nội tâm này.

2. ...ĐỂ THẤY CHÚA TRONG ANH EM:

Gặp được Chúa, nhận được sự bình an của Ngài, nhờ đó, con mắt của chúng ta được mở ra, trở nên trong sáng hơn, để có thể nhận ra Chúa nơi tha nhân. Tha nhân chính là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình. Chúng ta có thể học được bài học này nơi tổ phụ Áp-ra-ham, vị tổ phụ của chúng ta trong đức tin. Nhờ luôn gắn bó với Chúa, Áp-ra-ham đã nhận ra được sự hiện diện của Chúa nơi ba người lữ khách đi ngang qua căn lều của ông giữa một buổi trưa hè nóng bức.

Và một trong những dấu chỉ rõ ràng nhất của việc gặp gỡ Chúa, đó là sự dấn thân phục vụ tha nhân. Đứng trước những người khách lạ giữa nơi hoang mạc, Áp-ra-ham đã mau mắn tiếp đón họ. Ông đã lấy nước cho họ rửa chân, bắt bê non hảo hạng làm thịt để đãi khách. Còn ông sẵn sàng đứng hầu như một người đầy tớ. Như thế, mặc dù chưa được ánh sáng Tin Mừng soi dẫn, Áp-ra-ham đã coi việc đón rước, tiếp đãi tha nhân như là làm cho chính Thiên Chúa ( x. Mt 25, 31 – 46 ).

Còn Thánh Phao-lô, sau khi đã gặp được Đấng Phục Sinh trên đường Đa-mát, cũng đã sẵn sàng hiến thân phục vụ mọi người “Tôi đã được trở thành người phục vụ Hội Thánh theo sự an bài của Thiên Chúa”. Khi nói “được trở thành người phục vụ”, Thánh Phao-lô muốn chúng ta biết rằng: Đối với ngài, việc phục vụ không còn là một bổn phận, một trách nhiệm bình thường, nhưng là một vinh dự. Sỡ dĩ, thánh nhân cho việc phục vụ tha nhân là một vinh dự, là vì thánh nhân đã nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa nơi tha nhân đang cùng chung sống với mình. Thậm chí, thánh nhân còn “vui sướng trong những đau khổ tôi phải chịu vì anh em”.

Tóm lại, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hồi tâm để nhìn lại cuộc sống của mình. Trong cuộc sống của chúng ta có nhiều nỗi lo lắng, băn khoăn. Thiên Chúa không bảo chúng ta đừng có suy nghĩ, lo lắng, nhưng Ngài mời gọi chúng ta đặt lại bậc thang giá trị. Chúng ta cần dành ưu tiên cho việc lắng nghe Lời Chúa, bởi vì “người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Và chính nhờ việc lắng nghe và gặp gỡ Chúa như thế, con mắt tâm hồn chúng ta ngày càng trở nên sáng suốt, nhờ đó, chúng ta sẽ khám phá ra sự hiện diện của Chúa nơi tha nhân và dễ dàng giải quyết được những khó khăn trong cuộc sống, và nhất là tâm hồn chúng ta sẽ luôn được bình an, một sự bình an không ai lấy mất được...

Lm. TRẦN THANH SƠN,
Giáo Phận Xuân Lộc

------------------------------------

 

TN 16-C8. SCĐ/614- TỐT NHẤT

 

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải: TN 16-C8


Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không ?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:

- Thưa thầy, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin !

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:

- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm ?

Chàng sinh viên liền hỏi:

- Thưa thầy, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không ?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả lời:

- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!

Chúa phán: “Marta, Marta ! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.

Nhà bác học đại tài Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại, mà ông nói: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi”.

Mẹ Têrêxa Calcutta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống “địa ngục Calcutta” để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào “nhà hấp hối” để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ.  Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên “chọn phần tốt nhất” này. Hãy nhớ lời Chúa: “Không có Ta, chúng con không làm gì được”.

Các triết gia Phương Tây có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia Phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: “Cầu nguyện và hoạt động”, Marta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P.Graef có một câu nói rất thâm thúy: “Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt”. Tuy nhiên, có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Marta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Chúng ta mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình. Đôi khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm chính mình !

------------------------------------

 

TN 16-C9. SCĐ/617- ƯU TIÊN

 

Một linh mục đang thống kê tình hình của xứ đạo, ngài hỏi một gia đình câu hỏi thường lệ: TN 16-C9


Một linh mục đang thống kê tình hình của xứ đạo, ngài hỏi một gia đình câu hỏi thường lệ:

- Các con có thường cầu nguyện chung cả gia đình không ?

Gia trưởng trả lời:

- Thưa cha, chúng con không có thời giờ.

- Giả như con biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu chúng con không cầu nguyện, gia đình con có cầu nguyện không ?

- Ồ, con đoán chúng con sẽ cầu nguyện.

- Giả sử con biết ngày nào đó khi gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không ?

- Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.

- Giả sử mỗi ngày con quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đôla. Các con có sao lãng việc cầu nguyện không ?

- Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng ý của những câu hỏi này là gì ?

- Vấn đề của con là không có thời giờ. Con có thể tìm được thời giờ. Con không nghĩ cầu nguyện chung gia đình là quan trọng như nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn ban của Chúa qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì con có thể nghĩ tới.

Có thể xếp những việc chúng ta phải làm hằng ngày thành hai loại: việc cấp bách (urgent) và việc thiết yếu (essential). Những việc cấp bách thì rất nhiều, những việc thiết yếu thì rất ít.

Cũng như Marta, chúng ta thường dành ưu tiên cho những việc cấp bách. Còn việc thiết yếu thì chúng ta hoãn lại. Khi nào làm xong hết những việc cấp bách, ta mới nghĩ đến việc thiết yếu. Nhưng khi đó thì đã quá muộn, chúng ta làm việc thiết yếu đó một cách hấp tấp và hời hợt.

Đức Hồng Y Joseph Bernadin, Tổng giám mục giáo phận Chicago, khi hay tin mình bị ung thư đến giai đoạn cuối, đã nói: “Bây giờ tôi mới nhận thức ra rằng chúng ta thường bỏ rất nhiều thời giờ của cuộc sống để làm những việc phụ thuộc không mấy ý nghĩa”.

Việc thiết yếu nhất mà người ta thường hoãn lại không làm là gì ? Thưa đó là việc mà Maria đã làm, đó là ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã đánh giá đó là việc thiết yếu duy nhất và là việc tốt nhất phải làm.

------------------------------------

 

TN 16-C10. SCĐ/618- CẦU NGUYỆN

 

Một bà lão đến một linh mục xin tham vấn: - Thưa cha, tôi đã cầu nguyện không ngừng: TN 16-C10


Một bà lão đến một linh mục xin tham vấn:

- Thưa cha, tôi đã cầu nguyện không ngừng suốt 14 năm qua, nhưng tôi chả cảm thấy sự hiện diện của Chúa gì cả.

- Thế bà có cho Chúa cơ hội để nói với bà lời nào không ?

- À… không. Tôi cứ nói miết. Nhưng như thế không phải là cầu nguyện sao ?

- Không. Bây giờ tôi khuyên bà mỗi ngày bỏ ra 15 phút chỉ ngồi im trước mặt Chúa thôi.

Bà cụ đã làm theo lời khuyên đó. Chỉ vài ngày sau, bà trở lại khoe:

- Thật tuyệt diệu: Khi tôi nói với Chúa thì tôi chẳng cảm thấy gì cả. Nhưng khi tôi ngồi yên trước mặt Ngài thì tôi thấy như mình được sự hiện diện của Ngài bao phủ lấy tôi.

Đối với nhiều người, cầu nguyện là nói để xin.

Nhưng, xét theo một nghĩa nào đó, sự cầu nguyện đích thực chỉ bắt đầu khi ta ngừng nói. Cách cầu nguyện tốt nhất ở bên chân Chúa, chẳng nói lời nào và cũng chẳng làm gì cả, như Maria vậy.

Có người nghĩ rằng làm việc là cách chứng tỏ cụ thể tình yêu của mình đối với Chúa, cho nên cứ ngồi im bên chân Chúa là mất giờ vô ích, nhất là khi ta còn nhiều việc phải làm. Có lẽ đúng. Nhưng nếu làm việc mà không cầu nguyện thì những việc làm kia dễ trở thành những việc làm vì mình và cho mình chứ không phải vì Chúa và cho Chúa; và cũng có thể chúng trở thành những việc của mình chứ không phải của Chúa. Kết quả là sau khi ngưng việc, ta cảm thấy lòng mình trống rỗng, con người mình rất hời hợt nông cạn.

Thoreau nói: “Đừng sợ đời mình kết thúc, nhưng hãy sợ đời mình chưa bao giờ bắt đầu”.

Nhà tâm bệnh học Thomas Moore nói: “Có người có thể chữa khỏi những rối loạn tâm thần chỉ cần bằng cách tự ban cho mình mỗi ngày một ít phút thinh lặng suy nghĩ”. Đối với sức khỏe tâm thần mà đã là như thế, huống chi đối với sức khỏe siêu nhiên.

------------------------------------

 

TN 16-C11. NHỮNG MẪU GƯƠNG SÁNG NGỜI


- Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm

 

Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn: TN 16-C11


Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau: Abraham, Maria và Phaolô.

Chọn điều tốt nhất

Đức Yêsu trên đường rao giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến Ngài. Đó là gia đình của Martha, Maria và Lazarô. Cô Martha lo làm đồ ăn đãi khách. Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với Đức Yêsu, vì thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn. Với gia đình này, Đức Yêsu và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa tiệc. Biết bao việc phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Yêsu và nghe Ngài giảng dạy. Chắc Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng Maria vẫn giữ lập trường: ngồi tiếp chuyện Đức Yêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy. Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức Yêsu can thiệp: “em con để một mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay”.

Theo nhiều người, Martha hoàn toàn có lý. Cả Maria lẫn Đức Yêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức Yêsu như thể Đức Yêsu vô tình không để ý đến vất vả của Martha.

 “Martha, chị lo lắng về nhiều chuyện quá. Chỉ cần một điều thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai cướp đi được”. Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều nào quan trọng và cần thiết để làm. Trong trường hợp này, không cần phải làm nhiều món để đãi Đức Yêsu và các môn đệ của Ngài. Không cần phải vất vả như vậy. Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối với Đức Yêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người khác. Maria đã chọn nghe Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm chê trách, như thể là người lười, như thể là người không tế nhị và không biết giúp đỡ chị nữa.

Không có một bản lĩnh và một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử như Maria được. Trong cuộc sống, tôi đã chọn điều gì là quan trọng?

Niềm nở ân cần tiếp đón tha nhân

“Đang ngồi hóng mát, nhìn lên Abraham thấy “ba vị” đang đứng gần. Abraham chạy lại, cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi trường nóng bức, và dùng bữa”. Với Abraham, đây không phải là những người quen thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế. Thái độ hiếu khách của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các vị khách đã “tỏ mình” cho Abraham.

Thái độ hiếu khách của Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay. Thái độ sống của tôi đối với những người tôi gặp gỡ như thế nào? Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa. Đức Yêsu cũng đã đồng hoá mình với những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt). Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.

Rao giảng Tin Mừng Đức Yêsu Kitô

Cả cuộc sống của Phaolô sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng. Ngài được gọi để được sai đi rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm. Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa vị và thế lực. Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn “hoàn tất” những gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội. Với Phaolô, Ngài “học no học đói”, Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.

Với Phaolô, Đức Yêsu là Tin Mừng. Đức Yêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải cho con người. Đức Yêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả để được Đức Yêsu Kitô.

Phaolô trở thành con người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ước gì mỗi người không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức Yêsu Kitô là Tin Mừng. Chính nhờ Đức Yêsu Kitô mà mỗi người ki-tô hữu trở thành người tuyệt vời.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Bạn có chấp nhận chọn lựa của Maria không? Tại sao?
2. Theo bạn, hiếu khách có còn giá trị trong xã hội hiện tại không? Xin cho biết lý do.
3. Có cần phải rao giảng Tin Mừng cho con người thời đại ngày nay không? Tin vào Tin Mừng giúp gì cho con người ngày nay?

------------------------------------

 

TN 16-C12. Tiến Gần Đến Trong Đức Tin

 

Vào năm 1968, Max Cleland đã bị trúng lựu đạn ở Việt Nam và bị mất hai chân và một cánh: TN 16-C12


Vào năm 1968, Max Cleland đã bị trúng lựu đạn ở Việt Nam và bị mất hai chân và một cánh tay. Khi cái xác tàn tật của Max được chở bằng trực thăng đến nhà thương gần đó, viên y tá chắc rằng anh sẽ không thể nào sống nổi. Tuy nhiên lòng sắt đá cương quyết của Max đã không cho phép anh thất vọng nhưng cố gắng để gượng sống. Cuốn sách "Strong at the Broken Places" của anh đã diễn tả lại cái cách mà anh đã chiến đấu để phục hồi. Nó diễn tả lại cuộc chiến đấu nội tâm mà anh đã phải dùng tất cả ý chí cho đến cạn kiệt. Nó diễn tả lại cái điểm chính yếu để cứu chữa anh; khi mà khả năng của con người bị dùng hết, thì có một nguồn sức mạnh khác bù vào. Max Cleland, người mà vào năm 1977 là một thanh niên trẻ nhất từ trước tới nay được đặt làm chủ tịch ban quản trị các cựu chiến binh, đã kết thúc cuốn sách của anh với những lời như sau:

"Từng bước một trong nhiều năm và còn tiếp tục, cuộc đời của tôi được gắn lại với nhau, về phương diện thể lý, tâm lý, và tâm linh. Tuy nhiên, trải qua những khó khăn và chiến thắng, điều mà tôi học được đó là mình có thể trở nên mạnh mẽ ở những chỗ bị rách nát. Tôi cũng học được rằng sức mạnh tuyệt đỉnh mà mình lãnh nhận được đó là hãy phó thác và để cho Chúa làm điều Ngài muốn. Khi tôi ngã, khi cuộc sống của tôi bị đứt quãng, bằng cách tìm kiếm lại Ngài, tôi trở nên mạnh mẽ hơn trước kia rất nhiều."

Nếu các bạn chỉ biết tin tưởng với những cái mà bạn đã biết, nghĩa là những quá khứ, thì mỗi một ngày mới của các bạn sẽ không như một ngày hôm qua. Tuy nhiên, nếu các bạn biết đặt bàn tay của các bạn vào bàn tay của Thiên Chúa thì các bạn sẽ khám phá ra ý nghĩa của lời Ngài hứa, "Này đây Ta đổi mới mọi sự" (Kh 21:5).

Thánh Phaolô viết, "Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện" (Eph 4:22-24).

Món quà của sự Hiện Diện của Thiên Chúa qua Chúa Kitô là một món quà của cuộc sống. Chúng ta được tặng ban cho cái cơ hội này trong giây phút này để đón nhận món quà đó, và nó sẽ giúp chúng ta chữa lành vết thương, thêm sức mạnh, và cảm nghiệm được sự đổi mới. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải nhớ rằng món quà này không bắt chúng ta phải đón nhận, nhưng nó đòi chúng ta phải biết đáp trả.

Bài Phúc Âm hôm này tả lại việc Chúa Giêsu được hai chị em Mátta và Maria đón tiếp vào nhà. Mátta thì bận rộn với việc tiếp đãi khách, nào là thức ăn phải ngon, bàn ghế và khăn trải phải sạch sẽ, bát đĩa cùng với muỗng dĩa phải gọn gàng lịch thiệp. Còn Maria thì chỉ ngồi ở chân Chúa Chúa Giêsu mà nghe Ngài giảng. Thấy thế, Mátta đã than phiền với Chúa Giêsu là tại sao Maria lại để cho chị bận rộn như thế mà không giúp. Chúa Giêsu đáp lại, "Mátta, Mátta, con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi" (Lc 10:41-42).

Khi nhận biết được Nước Thiên Chúa ở trong mình, thì các bạn sẽ cảm thấy mình được đầy đủ rồi. Các bạn sẽ không lo lắng gì đến tương lai cả. Các tư tưởng mai sẽ ăn gì hoặc mai sẽ mặc gì thì hãy để đến mai hãy lo. Tôi thấy nhiều người trong các bạn đã quá lo lắng cho tương lai mà quên mất giây phút hiện tại. Các bạn lo góp tiền góp bạc để đề phòng tương lai, nhưng hiện tại các bạn đang bị đói khát. Các bạn lo mua bảo hiểm để đề phòng những tai ương có thể xảy ra trong tương lai, nhưng trong giờ phút hiện tại các bạn lại không đủ tiền để lo cho mình và gia đình. Các bạn đang sống một cuộc sống không có hạnh phúc.

Hãy tiến lên trong đức tin! Hãy để cho Thiên Chúa là Chúa của các bạn! Có lúc chúng ta phải đi làm thì cũng có lúc chúng ta đi chơi giải trí. Có lúc chúng ta mơ mộng thì cũng có lúc chúng ta yêu thương và được yêu. Tất cả những thứ này đều có giờ của chúng. Bây giờ là lúc mà chúng ta cần phải từ bỏ lối sống cũ và cảm nhận được cách thức sống cuộc sống mới của Chúa Giêsu.

------------------------------------

 

TN 16-C13. Phần Tốt Nhất


Suy Niệm

 

Nếu dựa trên bài Tin Mừng về người Samari tốt lành, hẳn chị Mácta phải nhận được một lời ca: TN 16-C13


Nếu dựa trên bài Tin Mừng về người Samari tốt lành, hẳn chị Mácta phải nhận được một lời ca ngợi, vì chị đã làm, đã phục vụ Đức Giêsu. Thế nhưng ở đây, Ngài chỉ dành cho chị lời trách móc.

Đức Giêsu có đối xử bất công không?

Chúng ta cần nhìn ngắm chị Mácta tất bật dưới bếp. Chị thấy còn bao việc phải làm ngay cho kịp. Lòng chị lo lắng bồn chồn về việc tiếp đãi Chúa. Vậy mà cô em Maria lại ngồi không... Mácta không thể nén được nữa. Chị ngắt lời lúc Đức Giêsu đang trò chuyện với em. Hơn nữa, chị muốn Ngài ra lệnh để em mình xuống bếp. Câu nói của chị có nguy cơ phá vỡ cuộc trò chuyện. Cả Đức Giêsu và Maria đều bị coi là những người vô tâm, thản nhiên trò chuyện khi mà công việc đang ngập đầu.

Câu trả lời của Đức Giêsu đầy cảm thông, trìu mến. Ngài hiểu nỗi bối rối của Mácta khi tiếp đãi Ngài, nhưng Ngài cho thấy ngồi nghe cũng là một cách tiếp đãi, thậm chí một cách tiếp đãi tuyệt vời.

Trong một thế giới thực dụng, coi trọng hiệu quả, Hội Thánh có khá nhiều Mácta và rất ít Maria.

Lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện bị coi là xa xỉ phẩm, là những điều vô ích, mất thì giờ, ù lì, thụ động. Nhưng có hành động nào hiệu quả bằng ngồi nghe Chúa? Tiếp xúc với Đấng Toàn Năng cho ta sức mạnh để làm mọi sự.

Một Hội Thánh quân bình khi có cả Mácta và Maria.

Một Kitô hữu quân bình khi coi trọng việc ngồi bên Chúa.

Không phải chỉ là làm cho Chúa, mà còn sống với Ngài trong một tương quan mật thiết bền chặt. Đừng đợi lúc rảnh, lúc lắng mới đến gặp Chúa. Lúc cần gặp Chúa hơn cả là lúc bận bịu, lo âu.

Con người hiệu năng là con người cầu nguyện.

Khi được hỏi về bí quyết của mình, Mẹ Têrêsa đáp: "Bí quyết của tôi rất đơn giản: tôi cầu nguyện."

Có ai trong chúng ta muốn chọn phần tốt hơn như Maria?

Khi nhìn Mácta, chúng ta thấy khuôn mặt của mình.

Lúc đầu, chị chỉ muốn phục vụ Chúa. Nhưng dần dần, điều chi phối chị không phải là Chúa nữa, mà là sự thành công rực rỡ của bữa ăn do chị nấu. Chị huy động mọi người để phục vụ cho dự tính của chị, thay vì phục vụ Chúa. Chị đi đến chỗ nghi ngờ cô em lười biếng, trách Đức Giêsu vô tâm. Cuối cùng không rõ chị tìm Chúa hay tìm mình, tìm làm vui lòng Chúa hay thành công cá nhân.

Có khi chúng ta cũng bắt Chúa đứng vào phe mình để cho công việc mình chóng thành tựu.

Làm thế nào để chúng ta phục vụ mà không thấy mình phục vụ, không ngắm nghía, nhâm nhi sự quảng đại của mình?

Làm sao tôi có thể yêu một cách trong suốt như Maria?

Gợi Ý Chia Sẻ

Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Bạn nghĩ gì về đời sống cầu nguyện của bạn hiện nay? Chất lượng và thời gian ra sao?

Cái khó và cái dễ khi bạn cầu nguyện trong một xã hội công nghiệp hiện đại?

Cầu Nguyện

Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.

------------------------------------

 

TN 16-C14. Chỉ Có Một Điều Cần


Suy Niệm

 

Trên dặm đường rao giảng Tin Mừng, thỉnh thoảng Đức Giêsu và các môn đệ gặp được một: TN 16-C14


Trên dặm đường rao giảng Tin Mừng, thỉnh thoảng Đức Giêsu và các môn đệ gặp được một chỗ nghỉ chân chan chứa tình người.

Mácta là chủ nhà đón tiếp Đức Giêsu. Chị tất bật lo việc tiếp đãi nấu nướng, chị lo lắng trước bao việc phải làm ngay để có được một bữa ăn thịnh soạn hầu tỏ lòng kính trọng đối với vị khách quý. Trong khi đó cô em Maria lại vô tư và bình thản, ngồi dưới chân Chúa mà nghe Lời Người.

Maria say mê nghe Lời Chúa, Lời mở tâm tư cô ra trước những chân trời mới mẻ. Cô thấy chẳng có gì hạnh phúc hơn giây phút này, được ngồi nghe Thầy giảng như một môn đệ thực thụ.

Mácta không hiểu được cô em gái, chị cũng không hiểu được Đức Giêsu, nên cuối cùng chị đã đến thưa với Chúa: Thầy không để ý tới sao? Mácta muốn Thầy để ý đến việc mình đang làm, muốn Thầy nhận ra sự vất vả mình phải chịu. Em con để mình con phục vụ. Mácta tưởng chỉ có mình mới là người phục vụ. Chị không nhận thấy rằng Maria cũng đang tiếp khách và ngồi nghe Chúa cũng là một cách phục vụ.

Xin Thầy bảo em giúp con một tay.

Mácta kéo Đức Giêsu vào cuộc, kéo Ngài đứng về phía mình, phía đúng, để gây áp lực trên cô em. Chị muốn Maria phải vào bếp với mình, phải phục vụ theo kiểu của mình. Ngấm ngầm, Mácta không chấp nhận kiểu phục vụ của Maria. Có lẽ chị nghĩ đó là một hành vi vô ích, trong khi có biết bao việc quan trọng khác cần làm.

Đức Giêsu không ghét Mácta, không coi nhẹ việc phục vụ của chị, nhưng buộc lòng Ngài phải lên tiếng. Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi nỗi bồn chồn quá mức. Ngài muốn giải phóng chị khỏi cái tôi, khỏi lối nhìn hẹp hòi, để nhận ra điều duy nhất cần thiết.

Ngài gọi tên chị hai lần: Mácta! Mácta! Con lo lắng và xao động vì nhiều chuyện quá, dù chuyện ấy là chuyện con lo cho Thầy.

Cần thanh lọc lòng mình khỏi những tìm kiếm vị kỷ, khỏi những ganh tị nhỏ mọn và tự mãn ngấm ngầm, để có thể làm việc cho Chúa trong bình an thư thái, dù có gặp thất bại hay bị lãng quên.

Chỉ có một chuyện cần mà thôi.

Coi chừng nỗi lo lắng về nhiều chuyện phụ lại làm ta quên mất chuyện chính, một chuyện cần hơn cả, đó là an tĩnh gặp gỡ và lắng nghe Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn đệ.

Cuộc sống dồn dập hôm nay dễ biến chúng ta thành Mácta: xao động, âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn. Cả người làm việc cho Chúa cũng bị cuốn hút. Có lẽ cần bớt việc và thêm giờ cầu nguyện, cần để cho Chúa làm việc nơi tôi và qua tôi thay vì tự mình bươn chải một mình.

Phải chăng đời Kitô hữu là kết hợp giữa Mácta và Maria, giữa tất bật và an tĩnh, giữa lăng xăng và ngồi yên, giữa hoạt động và cầu nguyện?

Để rồi giữa tất bật, tôi tìm thấy an tĩnh, - giữa lăng xăng, tôi thấy mình ngồi yên, - giữa hoạt động, tôi thấy mình chiêm niệm.

Gợi Ý Chia Sẻ

Có khi nào những khúc mắc của cuộc sống đưa bạn đến ngồi dưới chân Chúa không?  Bạn nghĩ gì về sự cân đối giữa cầu nguyện và hoạt động trong đời bạn? Bạn cầu nguyện có đủ và sâu không?

Cầu nguyện là gặp gỡ và lắng nghe như cô Maria. Có khi nào bạn có kinh nghiệm như Maria không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói tự thẳm sâu cõi lòng không?

Cầu Nguyện

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

------------------------------------

 

TN 16-C15. Chuyến đi lên Jerusalem lần cuối cùng - Nhóm Đồng Hành


Chi Tiết Hay

 

Câu chuyện xảy ra trong chuyến đi lên Jerusalem lần cuối cùng. Đây là thành Bethany nơi ông: TN 16-C15


Câu chuyện xảy ra trong chuyến đi lên Jerusalem lần cuối cùng. Đây là thành Bethany nơi ông Lazarô sống với hai người chị là Martha và Maria.

(c.38) Trong văn hóa Địa Trung Hải, người phụ nữ là sở hữu chủ của nhà cửa. Người mẹ sẽ truyền gia sản lại cho người con gái lớn nhất. Trong nhiều bản dịch dựa trên bản tự Hy-lạp như Kinh Thánh Tân Ước 1994, câu "nhà của bà" được bỏ đi.

(c.39) Maria là người xức dầu và lau chân Chúa Giêsu bằng tóc của mình (Ga 12:1-3).

Vì Chúa Giêsu được dân chúng ưa chuộng vào những ngày cuối cùng của Ngài, rất có thể là có những người khác trong nhà lúc đó. Các môn đệ có thể đi theo Ngài vào nhà. Người Địa Trung Hải có lối sống đại gia đình như người Á Đông, nên trong nhà thế nào cũng có bà con của hai bà. Hơn nữa truyền thống khiến ông Lazarô phải có mặt với Chúa Giêsu để bảo vệ danh dự của 2 chị mình trong sự hiện diện của một người đàn ông không cùng họ hàng (Ga 11).

Nếu theo truyền thống phân chia vị trí theo nam nữ, thì Maria đang ngồi với Chúa Giêsu ở chổ dành riêng cho đàn ông.

Hành động của Maria nhấn mạnh đến tình yêu Thiên Chúa, trong khi hành động của người Samari trong dụ ngôn người Samari Tốt Lành (Lc 10:29-37) nhấn mạnh đến tình yêu đồng loại.

Một Điểm Chính

Phục vụ vì yêu mến Thiên Chúa, chớ không phải vì yêu thích công việc làm ấy.

Suy Niệm

Công việc phục vụ của tôi có đem tôi lại gần Thiên Chúa hơn không? Khi làm, chủ tâm của tôi là công việc, hay chủ tâm của tôi là làm để danh của Thiên Chúa được vinh quang?

Nhìn lại lòng nhân từ của tôi. Nhiều lần tôi sẵn sàng tỏ lòng nhân từ với người khác, nhưng chỉ khi nào chương trình của tôi không bị ảnh hưởng đến. Tôi muốn thương người, nhưng theo cách của riêng tôi.

Suy niệm bối cảnh của câu chuyện này. Vài ngày trước khi tử nạn, Chúa Giêsu đã ngang dọc khắp nơi giảng dạy. Ngài mệt mỏi. Tim Ngài nặng trĩu vì hình ảnh thập giá càng ngày càng rõ ràng. Ngài đã đến nhà tôi, người mà Ngài coi như bạn. Ngài đến để tìm gì? Ngài muốn một bữa cơm thịnh soạn? Hay là Ngài đến là vì tâm tình của tôi, vì tôi thương Ngài? Ngài cần con tim của tôi để an ủi và lắng nghe? Nếu tôi thương Ngài thì tôi sẽ làm sao? Tôi có trìu mến cầm tay Ngài và nói: Thầy ơi, con nghe đây. Con sẵn sàng chia sẽ những ưu tư, những đau khổ của Thầy? Lắng nghe Chúa Giêsu và để lòng mình dẫn dắt, chiêm niệm tâm tình của Chúa Giêsu chia sẽ với tôi.

------------------------------------

 

TN 16-C16. Con lo lắng bối rối nhiều chuyện

 

Tôi thèm muốn được ở với Mácta, người phụ nữ độ lượng, hiếu khách. Hạnh phúc biết bao khi: TN 16-C16


Tôi thèm muốn được ở với Mácta, người phụ nữ độ lượng, hiếu khách. Hạnh phúc biết bao khi được tiếp đón Chúa Giêsu! Thế nhưng hơi thất vọng, Ngài đã rầy chị, một lần nữa Ngài mến Maria hơn.

Mến Maria hơn sao? Chắc chắn rằng Ngài quý mến tấm lòng tự do hoàn toàn lắng nghe Ngài của chị. Ngài không khinh dể Mácta, Ngài khó chịu do sự ân cần của chị. Phải hiểu sự lắng nghe và sự ân cần được nói đến ở đây.

Trong khi biết rằng những lo lắng không ngừng rơi xuống trên chúng ta. Chúa Giêsu không muốn chúng ta để cho những lo lắng ấy chiếm quá nhiều chỗ. Vì như thế là nghi ngờ Thiên Chúa, là mỉa mai kinh “Lạy Cha”, lời kinh của sự không lo lắng, của tấm lòng tự do. Chỉ có một ước muốn lớn lao duy nhất: “Xin cho Nước Cha trị đến!” và một niềm tin cũng lớn lao không kém: “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Thánh Têrêxa nói: “Chỉ cho ngày hôm nay mà thôi”.

Đúng như ý tưởng của Chúa Giêsu: “Đừng băn khoăn chi cho ngày mai, ngày mai sẽ lo cho ngày mai… Trước tiên hãy tìm Nước Trời, còn mọi điều khác sẽ ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6, 33-34). Nhưng chính cái phần cho thêm này làm chúng ta quá bận lòng, và Chúa Giêsu tuyên chiến với những nỗi lo xấu xa này của chúng ta: “Các ngươi lo ăn gì, mặc gì… Các ngươi đừng lo phải nói gì trước toà án… Các ngươi đừng để cho những cây gai lo lắng bóp chết Lời Chúa… Các ngươi đừng để cho những lo toan đè nặng tấm lòng các ngươi…”. Chắc Ngài đã phải kinh ngạc vì thấy nhiều người lo lắng đến thế, mà Ngài thì Ngài đòi cần phải có tinh thần hoàn toàn tự do.

Không thể lui tới với Ngài nếu chúng ta không luôn luôn chú ý giữ gìn sự tự do của chúng ta. Để lắng nghe hoặc để phục vụ Ngài, chúng ta cần loại bỏ các lo lắng thái quá. Chúng ta đã phá hoại rất nhiều sự lắng nghe của chúng ta, mọi người đều dễ dàng nhận ra điều đó.

Chúng ta ít chú ý đến việc các lo toan xâm nhập vào sự phục vụ. Sự lo lắng thái quá thì không tốt, nó có thể làm hỏng sự ân cần, người tận tuỵ trở thành hay càu nhàu, nô lệ cho sự bận rộn của mình và nhanh chóng ghen tị với những người khác vì “họ chẳng làm gì cả”. Chúng ta muốn làm cho vui vẻ thế nhưng lại tạo nên một bầu khí phản kháng, khó chịu.

Đây là điều đã xảy đến với Mácta đáng thương. Chị cũng cần phải có những giây phút đẹp đẽ để lắng nghe và những giây phút cao cả để phục vụ. Ngày hôm đó chị đã không biết hài lòng về tất cả trong sự độ lượng. Chúa Giêsu đến, bữa ăn ngon phải chuẩn bị, niềm vui được thấy Maria hạnh phúc.

Ôi Mácta, chị đã bắt đầu một ngày tốt đẹp biết bao! Chị có thể vừa làm vừa hát. Nhưng chị lo lắng, nóng lòng và không còn tấm lòng tự do nữa. Chính sự tự do này là phần tốt nhất.

------------------------------------

 

TN 16-C17. Yêu theo cách của người mình yêu

 

Trên đường đi Giêrusalem, cách thành thánh 3 cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của: TN 16-C17


Trên đường đi Giêrusalem, cách thành thánh 3 cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của Mácta, Maria và Lagiarô, một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành sứ vụ tại thủ đô. Không có nơi nào tính cách nhân loại mà Luca chủ trương phác hoạ được diễn tả trọn vẹn hơn ở đây, trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được một bức hoạ tâm lý sống động hơn ở đây. Có người tưởng tượng rằng Mácta là người khô khan nhưng cương nghị và đắc lực, còn Maria thì đôn hậu, đa cảm và lười. Thật ra cả hai chị em đều có những đức tính đáng khen. Cả hai đều yêu kính Chúa Giêsu và ước ao làm vui lòng Chúa. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mácta đã làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon. Còn Maria vì trực giác hơn được điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Nguời dạy. Nàng biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của vị khách trước. Trong việc tiếp đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị nàng.

“Mácta tất bật lo việc phục vụ”. Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm. Một kẻ theo Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và kiêu hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: “Em con để con một mình phục vụ mà Thầy không quan tâm sao?”.

Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: “Mácta! Mácta! Con băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn thịnh soạn, một vài món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Maria đã chọn.

Chúng ta thử tìm những bài học nơi đây:

Nó bày tỏ sự va chạm giữa những tính tình khác biệt

Có người thì tự nhiên hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm tĩnh. Thật khó cho một người năng nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng. Ngược lại, người trầm tư mặc tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân. Không có vấn đề phải trái ở đây. Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau. Thiên Chúa cần có những người như Maria, nhưng Ngài cũng cần những người như Mácta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa. Không ai được độc quyền phục vụ Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục vụ mới là chính đáng.

Trong một cuộc lễ trọng, trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống. Hoa than thở với nến: Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi chúng em!

Nhưng ở đây còn có một bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai lầm

Hãy nghĩ đến chỗ Chúa Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra. Ngài đang trên đường đến Giêrusalem. Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó là một ngày trọng đại cho họ. Để mừng ngày trọng đại này, Mácta rất muốn thực hiện một điều tốt nhất mà gia đình có thể thực hiện được. Vì thế nàng chạy ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ muốn một điều là được yên tĩnh. Với hình ảnh thập giá ở trước mặt cùng một sự căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám đông dân chúng quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi nỗi căng thẳng. Đó là điều Maria đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà Mácta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi. “Chỉ một việc cần” câu ấy có thể có ý “Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật đơn giản”. Maria hiểu, còn Mácta thì không hiểu được. Đây là một trong những khó khăn của cuộc đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người, nhưng tử tế theo cách của chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không được thừa nhận, chúng ta cảm thấy dễ phật lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.

Nếu chúng ta đang cố gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ đến điều mà người đó đang cần.

Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo viết về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu. Lincoln bắt tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn”. Lincoln chỉ cần một người bạn thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.

Chúa Giêsu yêu thương Mácta và Mácta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao khát sự yên tịnh, sự thân mật. Chúa Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria cũng hiểu biết Chúa nữa

------------------------------------

 

TN 16-C18. RƯỚC CHÚA VÀO NHÀ


"Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy" (Lc 10,39)

Sợi chỉ đỏ:

- Bài đọc I (St 18,1-15): Abraham rước Chúa vào nhà mình
- Tin Mừng (Lc 10,38-42): Matta và Maria rước Chúa vào nhà mình

Minh họa

- Mille images 114 B
- "Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy" (Lc 10,39)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

 

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria rước Chúa Giêsu vào nhà mình: TN 16-C18


Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện hai chị em Matta và Maria rước Chúa Giêsu vào nhà mình. Matta thì lăng xăng lo việc phục vụ, còn Maria thì ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài.

Trong Thánh lễ này, chúng ta có dịp làm điều mà Maria đã làm, là ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Lời Ngài. Xin Chúa cho chúng ta được thân thiết với Chúa ngày một hơn.

II. Gợi ý sám hối

- Chúng ta quá lo lắng những việc trần gian mà ít quan tâm đến việc Chúa.

- Chúng ta dành thời giờ cho Chúa mỗi ngày quá ít.

- Chúng ta chưa quan tâm đủ đến việc ở bên Chúa và lắng nghe tiếng Chúa.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (St 18,1-15)

Câu chuyện này làm nổi bật lòng hiếu khách của tổ phụ Abraham: Ông đang ngồi trong lều giữa trưa nóng bức thì thấy bên ngoài có 3 người đàn ông. Abraham vội vàng mời 3 người vào lều mình, lấy nước cho họ rửa chân, lấy bột làm bánh, bắt một con bê hão hạng làm thịt để tiếp đãi họ. 3 người này chính là sứ giả của Thiên Chúa.

Đáp lại lòng hiếu khách của Abraham, Thiên Chúa đã cho bà Sara vợ ông có được đứa con trai đầu lòng mặc dù cả hai ông bà đều đã già quá tuổi sinh con.

2. Đáp ca (Tv 14)

Tv này thuộc loại giáo huấn, nhằm trả lời cho câu hỏi "Ai được Thiên Chúa tiếp đón vào cư ngụ trong nhà Ngài ?" Tác giả trả lời: đó là người sống thanh liêm và thực thi công chính.

3. Tin Mừng (Lc 10,38-42)

Câu chuyện có 3 vai: vai chính là Chúa Giêsu, hai vai phụ là Mác-ta và Maria mỗi người phục vụ Chúa một cách khác nhau:

- Mác-ta lăng xăng lo cơm nước, giường chiếu v.v.

- Maria "ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy"

Mác-ta khó chịu xin Chúa Giêsu bảo Maria tiếp mình. Nhưng Chúa Giêsu nói: "Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi", đó là việc Maria đang làm, tức là ngồi bên chân Chúa đề lắng nghe lời Chúa.

4. Bài đọc II (Cl 1,24-28)

Thánh Phaolô tỏ ý sung sướng vì được chịu khổ trong khi thi hành sứ vụ tông đồ. Sở dĩ những đau khổ ấy trở thành niềm vui vì Phaolô ý thức rằng nhớ đó mà ông bổ khuyết nơi thân xác mình những gì còn thiếu trong cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu Kitô.

IV. Gợi ý giảng

1. Chọn phần tốt nhất

Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không ?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:

- Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép giáo sư cho con hỏi một vấn đề liên quan đến đức tin !

Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:

- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm ?

Chàng sinh viên liền hỏi:

- Thưa giáo sư, có thể vừa là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không ?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:

- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi !

Chúa phán: "Macta, Macta ơi ! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi" (Lc 10,41-42). Phần tốt nhất ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.

Nhà bác học đại tài Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại, mà ông nói: "Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi".

Mẹ Têrêsa Calcutta, một nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống "địa ngục Calcutta" để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào "nhà hấp hối" để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của Mẹ đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ.

Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên "chọn phần tốt nhất" này. Hãy nhớ lời Chúa: "Không có Ta, chúng con không làm gì được".

Các triết gia phương Tây có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: "Cầu nguyện và hoạt động", Macta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P.Graef có một câu nói rất thâm thuý: "Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt".

Tuy nhiên, có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Mácta lăng xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng khen, để gây chú ý: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay" (Lc 10,40-41). Chúng ta mời gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình.

Đôi khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm chính mình !

2. Chọn phần ưu tiên

Có thể xếp những việc chúng ta phải làm hằng ngày thành hai loại: việc cấp bách (urgent) và việc thiết yếu (essential). Những việc cấp bách thì rất nhiều, những việc thiết yếu thì rất ít.

Cũng như Matta, chúng ta thường dành ưu tiên cho những việc cấp bách. Còn việc thiết yếu thì chúng ta hoãn lại. Khi nào làm xong hết những việc cấp bách, ta mới nghĩ đến việc thiết yếu. Nhưng khi đó thì đã quá muộn, chúng ta làm việc thiết yếu đó một cách hấp tấp và hời hợt.

Đức Hồng Y Joseph Bernardin, Tổng giám mục giáo phận Chicago, khi hay tin mình bị ung thư đến giai đoạn cuối, đã nói: "Bây giờ tôi mới nhận thức ra rằng chúng ta thường bỏ rất nhiều thời giờ của cuộc sống để làm những việc phụ thuộc không mấy ý nghĩa".

Việc thiết yếu nhất mà người ta thường hoãn lại không làm là gì ? Thưa đó là việc mà Maria đã làm, đó là ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Chúa". Chình Chúa Giêsu đã đánh giá đó là việc thiết yếu duy nhất và là việc tốt nhất phải làm (viết theo Flor McCarthy)

3. Một cách cầu nguyện

Đối với nhiều người, cầu nguyện là nói để xin.

Nhưng, xét theo một nghĩa nào đó, sự cầu nguyện đích thực chỉ bắt đầu khi ta ngừng nói. Cách cầu nguyện tốt nhất là ở bên chân Chúa, chẳng nói lời nào và cũng chẳng làm gì cả, như Maria vậy.

Có người nghĩ rằng làm việc là cách chứng tỏ cụ thể tình yêu của mình đối với Chúa, cho nên cứ ngồi im bên chân Chúa là mất giờ vô ích, nhất là khi ta còn nhiều việc phải làm. Có lẽ đúng. Nhưng nếu làm việc mà không cầu nguyện thì những việc làm kia dễ trở thành những việc làm vì mình và cho mình chứ không phải vì Chúa và cho Chúa; và cũng có thể chúng trở thành những việc của mình chứ không phải của Chúa. Kết quả là sau khi ngưng việc, ta cảm thấy lòng mình trống rỗng, con người mình rất hời hợt nông cạn.

Thoreau nói: "Đừng sợ đời mình kết thúc, nhưng hãy sợ đời mình chưa bao giờ bắt đầu".

Nhà tâm bệnh học Thomas Moore nói: "Có người có thể chữa khỏi những rối loạn tâm thần chỉ cần bằng cách tự ban cho mình mỗi ngày một ít phút thinh lặng suy nghĩ". Đối với sức khoẻ tâm thần mà đã là như thế, huống chi đối với sức khoẻ siêu nhiên.

4. Chuyện minh họa

a/ Một bà lão đến tham vấn một Linh mục:

- Thưa cha, tôi đã cầu nguyện không ngừng suốt 14 năm qua, nhưng tôi chả cảm thấy sự hiện diện của Chúa gì cả.

- Thế Bà có cho Chúa cơ hội để nói với Bà lời nào không ?

- À… không. Tôi cứ nói miết. Nhưng như thế không phải là cầu nguyện sao ?

- Không. Bây giờ tôi khuyên bà mỗi ngày bỏ ra 15 phút chỉ ngồi im trước mặt Chúa thôi.

Bà cụ đã làm theo lời khuyên đó. Chỉ vài ngày sau, Bà trở lại khoe:

- Thật tuyệt diệu: Khi tôi nói với Chúa thì tôi chẳng cảm thấy gì cả. Nhưng khi tôi ngồi yên trước mặt Ngài thì tôi thấy như mình được sự hiện diện của Ngài bao phủ lấy tôi.

b/ Khi linh mục đang thống kê tình hình của xứ đạo, ngài hỏi một gia đình câu hỏi thường lệ:

- Các con có thường cầu nguyện chung cả gia đình không ?

          Gia trưởng trả lời:

- Thưa cha, chúng con không có thời giờ.

- Giả như con biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu chúng con không cầu nguyện, gia đình con có cầu nguyện không ?

- Ồ, con đoán chúng con sẽ cầu nguyện.

- Giả sử con biết ngày nào đó khi gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Các con có cùng cầu nguyện không ?

- Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.

- Giả sử mỗi ngày con quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đôla. Các con có sao lãng việc cầu nguyện không ?

- Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng ý của những câu hỏi này là gì ?

- Vấn đề của con là không có thời giờ. Con có thể tìm được thời giờ. Con không nghĩ cầu nguyện chung gia đình là quan trọng như nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn ban của Chúa qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì con có thể nghĩ tới.

c/ Một ngư dân đưa một thanh niên lên thuyền của ông. Một bên mái chèo có viết chữ cầu nguyện và bên kia viết chữ làm việc. Anh thanh niên nói vẻ khinh miệt: "Này chú, chú lỗi thời quá. Ai muốn cầu nguyện làm gì, nếu như họ làm việc ?"

          Bác ngư phủ không nói gì, nhưng buông lỏng mái chèo có viết chữ cầu nguyện và chèo mái kia. Ông chèo và chèo mãi, nhưng chiếc thuyền chỉ quay tròn mà không tiến đi được.

          Anh thanh niên hiểu ra rằng bên cạnh mái chèo làm việc, chúng ta cũng cần phải có mái chèo cầu nguyện.

V. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Không lời cầu nguyện nào hay bằng lời kinh Lạy Cha do chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Vậy chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện bằng lời kinh Chúa dạy.

VI. Giải tán

Chúng ta đã ý thức rằng làm việc và cầu nguyện phải đi đôi với nhau, và chính sự cầu nguyện sẽ hỗ trợ cho những việc chúng ta làm. Anh chị em sắp trở lại với những việc làm hằng ngày. Đừng quên cầu nguyện để Chúa giúp anh chị em làm những việc đó tốt hơn.

------------------------------------

 

TN 16-C19. MATTA VÀ MARIA


Lc 10,38-42

 

Qua lịch sử của khoa chú giải, giai thoại này đã giải thích nhiều cách khác nhau. Chúng ta sẽ: TN 16-C19


1. Qua lịch sử của khoa chú giải, giai thoại này đã giải thích nhiều cách khác nhau. Chúng ta sẽ trình bày một vài cách giải thích theo thứ tự thời gian. Sau đó, cố gắng nắm vững ý nghĩa mà Lc muốn trình bày qua câu chuyện này. Cuối cùng sẽ đưa ra một vài kết luận.

2. Các cách chú giải trong truyền thống. Truyền thống không luôn cho chúng ta lối chú giải tổng quát, vì các tác giả đôi khi chỉ chú ý đến khía cạnh này hay khía cạnh kia của câu chuyện mà không nhìn đến toàn bộ của nó.

a/ Đây là một trường hợp điển hình của các cách xử dụng hạn chế câu chuyện như thế mà người ta hiểu phần đầu câu 42 như sau: “chỉ cần ít điều thôi”. “Matta lo lắng xôn xao nhiều chuyên quá": bà bận rộn lo phục dịch nhiều thứ. CGS trách bà điều đó, Ngài cần ít điều thôi. Đó là bài học dạy đơn giản và thanh đạm rất phù hợp với thói quen nghèo khó của CGS. Nhưng chắc hắn bài học của câu chuyện còn sâu xa hơn, vì sau khi phê bình Matta như thế, CGS còn nêu Maria như là mẫu gương phải noi theo.

b/ Cách chú giải của Origène đã có ảnh hưởng lớn trên truyền thống tu đức Hy lạp và latin.

“Người ta có thể chấp nhận là Matta tượng trưng cho đời hành động và Maria cho đời chiệm niệm. Mầu nhiệm tình yêu không còn đời sống hoạt động nữa, nếu lời dạy và huấn đức không đưa tới việc chiêm niệm: vì hoạt động và chiêm niệm không thể tách rời nhau”.

Ở đây, đối với Origène, hai chị em tượng trưng cho hai thái độ đạo đức mà một môn đệ trọn lành không thể tách rời: họ phải vừa là con người hoạt động vừa là con người chiêm niệm; nhưng hoạt động của họ phải qui hướng về chiêm niệm.

c/ Thánh Ambrosiô trình bày một lối chú giải tương tự, nhưng sát nghĩa hơn:

“Qua mẫu gương của Matta và Maria, nơi đây công việc của bà này ta thấy một sự tận tâm hoạt động, nơi kia một tâm hồn đạo đức biết lắng nghe lời Chúa; nếu phù hợp với đức tin thì thái độ có giá trị hơn các việc làm, như đã chép: “Maria đã chọn phần tốt hơn, sẽ không bị giật mất” - Vì thế chúng ta hãy chuyên lo chiếm hữu điều không ai có thể cất khỏi chúng ta được... Như Maria, anh chị em hãy hăng say khao khát sự khôn ngoan: đó là việc quan trọng và trọn hảo hơn. Chớ gì mối quan tâm mục vụ không làm cản trở việc tìm hiểu lời thần linh... Tuy vậy, người ta không chỉ trích Matta vì công việc tốt lành của bà; nhưng dù sao Maria được ưu đãi hơn vì đã biết chọn cho mình phần tuyệt hảo hơn”.

Như thế, đối với Ambrôsiô cũng như đối với Origène, hai chị em tượng trưng cho hai cách hoạt động phải luôn cùng hiện diện nơi người tín hữu.

d/ Thánh Augustino lưu tâm đến hình ảnh giáo hội hơn là giáo huấn tu đức:

“Matta tiếp đón Chúa trong nhà mình, ám chỉ giáo hội hiện nay đón Chúa trong lòng mình. Maria, em bà ngồi dưới chân của Chúa và nghe lời Ngài, ám chỉ cùng một giáo hội đó, nhưng trong một thế giới sắp đến, khi mà giáo hội hết phục vụ kẻ bần cùng mà chỉ vui hưởng sự khôn ngoan thôi. Thế nên Matta bận rộn lo phục vụ nhiều điều, vì giáo hội bây giờ đang thi hành các công việc ấy. Nếu bà than phiền vì em bà không chịu phụ giúp bà, thì ấy là cơ hội để lời Chúa chỉ cho thấy giáo hội này còn quá bận tâm lo lắng đến nhiều chuyện quá, trong lúc đó chỉ có một điều cần thôi mà người ta đạt được nhờ việc làm công phúc của giáo hội. Nhưng Chúa nói Maria đã chọn phần tốt hơn sẽ không bị mất: phần đó tốt vì nhờ nó mà người ta đạt đến mục đích và vì nó không bị lấy mất đi. Nhưng phần của việc làm, cho dù tốt, cũng sẽ bị mất đi, khi không còn sự bần cùng mà giáo hội từ trước đến nay đã phục vụ”.

Với thánh Audustinô, hai chị em biểu hiện hai giai đoạn nối tiếp nhau của giáo hội: chiến đấu và khải hoàn. Theo cách chú giải này thì câu chuyện Matta và Maria không còn mang tính cách huấn đức như với Origène và Ambrosiô nữa, nhưng là một lời hứa nhằm mục đích khơi dậy niềm hy vọng nơi các tín hữu.

c/ Thánh Cyrille thành Alexandtia đã nói nhiều lần về giai thoại này. Đôi khi Ngài theo cách chú giải của Origène mà chúng ta đã trích dẫn ở trên. Nhưng trong các bài giảng khác, Ngài đã rút ra từ câu chuyện này một bài học về cách thế tiếp đón những người mang lời Chúa đến. Với những ai tiếp đón họ, Ngài dặn dò (theo bản văn Syriaque trích trong các bài giảng của Ngài):

“Đừng bận tâm phục dịch nhiều quá, đừng kiếm gì hơn cái đang có, bàn ăn phải giản dị và nhiệm nhặt, thức ăn đơn giản và không thừa thãi”.

Đối với kẻ được mời, hãy trả lại những của cao quí:

“Đáp lại tặng phẩm vật chất, thì hãy đem lại tặng phẩm vĩnh cửu, đem tặng phẩm trên trời đáp đền tặng phẩm trần thế, đem của lâu bền mà trả những của chóng qua”.

Những lời huấn dụ này có thể đã được phát xuất do hoàn cảnh của tín hữu của thánh Cyrille; và nhất là bởi những sự lạm dụng của các thà tu lưu động. Ta không thể cho đó là tất cả tư tưởng của Cyrille về câu chuyện Matta và Maria được.

Trong mức độ nào các lối giải thích trên hợp với tư tưởng của phúc âm ?

3. Tư tưởng của Lc

Để nhận rõ tư tưởng của Lc, trong sẵn có nhiều dữ kiện: văn mạch của câu chuyện, loại văn và cách xây dựng câu chuyện, những nét đặc điểm của nó, sau hết là những điểm giống với toàn bộ tác phẩm của Lc.

a/ Dữ kiện đầu tiên có thể soi sáng ý nghĩa Lc gán cho câu chuyên này là văn mạch. Vì không thể luôn luôn xác định được văn mạch, nên ông thường chỉ theo cách xếp đặt của các tài liệu mà ông thâu lượm được trong truyền thống; nhưng một đôi khi ông đã thay đổi cách sắp xếp để thực hiện một tác phẩm văn chương có thứ tự như nguyện vọng và quyết tâm của ông (Lc 1,3). Và đây là một trường hợp điển hình.

Trong phần kể lại việc CGS khởi sự lên Giêrusalem, mà ông muốn trình bày như là phần chính của sách phúc âm (9,51-19.28), trước hết Lc đã thu thập nhiều khía cạnh khác nhau về sứ mạng của các môn đệ (9,51-10,20) mà người ta thấy rải rác trong phúc âm Mt. Sau đó, ông trình bày cả một tuyển tập gồm các giáo huấn cho môn đệ nói về các đặc ân và những đòi hỏi trong bậc sống của họ (10,21-11,13): sự mạc khải của Chúa Con ban cho họ (10,21-24, những yếu tố này cũng có trong Mt 11,25-27 và 13,16-17); luật bác ái được giải thích qua dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu (10,25-37; mà phần đầu được xếp nơi Mt 22,34-40 và Mc 12,28-31); câu chuyện Matta và Maria chúng ta đang học đây (10,38-42); sau cùng, là một tuyển tập về các yếu tố liên quan đến việc cầu nguyện (11,1-13, tương ứng với hai đoạn song song ở Mt 6,9-13 và 7,7-11).

Nằm giữa toàn bộ các bài học tu đức căn bản đó, vị trí câu chuyện Matta và Maria gợi cho chúng ta biết Lc nhìn thấy nơi câu chuyện này một bài học quan trọng bậc nhất cho các môn đệ (một vài tác giả giả thiết cho rằng Lc đặt câu chuyện ở đây là để chuẩn bị cho giáo huấn của CGS về sự cầu nguyên). Nhưng nếu thế, sao ông còn viết câu nhập đề ở 11,1 làm gì ? và nhất là câu chuyện Matta vả Maria không nói đến việc cầu nguyện.

b/ Để làm sáng tỏ ý nghĩa bài học, ta phải đi từ bản văn: trước tiên hãy nghiên cứu loại văn và cách xây dựng câu chuyện. Dù 5 câu này làm nên một câu chuyện, Lc cũng không bận tâm như một sử gia hiện đại: ông không nói rõ nơi chốn, ngày tháng của biến cố. Ông tỏ ra vô tư như Mt và Mc trong khi trình bày hoàn cảnh của câu chuyện: suốt cuộc hành trình của CGS, ông không cung cấp một niên hiệu nào, ông chỉ kể tên Giericô (18,35 như Mt 20,29 và Mc 10,46) và Giêrusalem (11 lần) vì thành này là đích điểm của cuộc hành trình và là nơi hoàn tất mầu nhiệm con người CGS. Lc chỉ lưu tâm đến hành động và giáo huấn của CGS, nên không mấy bận tâm về thời gian.

Điều đáng ngạc nhiên là ông ghi lại tên của Matta và Maria. Đây là sự kiện hiếm có nơi ông, vì cũng như Mt và Mc, ông không nói đến tên những người đối thoại với CGS, ngoài 12 tông đồ ra (trừ Giakeu ở 19,2 và Cléopas ở 2,18) cũng không kể tên những người được ơn lạ (ông kể tên Giairo ở 8,40 như Mc 5,22 nhưng không nói đến Bartimée ở 18,35, khác với Mc 40,46). việc đề cập đến tên của hai chị em gợi yđ cho biết là Lc quan tâm đến họ ít nhiều. Sự đề cập này rất ăn khớp với mối quan tâm của Lc muốn làm nổi bật vai trò các người đàn bà trong cuộc sống của CGS và của giáo hội sơ khai.

Nhìn tổng quát, thì câu chuyện muốn kể lại cách Matta và Maria tiếp đón Chúa. Lời cuối của Thày, đối chiếu hai thái độ của họ làm nên cái “móc” của câu chuyện, là kết luận và là bài học mà Lc dạy độc giả.

c/ Tất cả các đặc điểm của một câu chuyện cũng nhắm chuẩn bị cho kết luận này, trước hết là hình ảnh của hai chị em. Maria “ngồi dưới chân Chúa” (c.39). Khi tặng cho CGS tước hiệu “Chúa” trong phúc âm của mình, Lc muốn làm nổi bật uy thế của CGS, thái độ của Maria đúng là thái độ của các môn đệ đứng trước thày mình (8,35; Cvsđ 22,3; Lc 7,38; 8,41; 17,16); bà lắng nghe lời chúa: đối với Lc đó là bổn phận đầu tiên của người môn đệ đích thật (6,47; 8,13; 15,21; 11,21). Ngược lại, Matta lăng xăng lo tiếp đón: là chủ nhà (c.38) bà nhất quyết lo bảo toàn cho CGS được phục dịch tối đa mà người nghèo nhất của xứ Palestine cũng phải lo cho khách trọ của họ (c.40). Trước bao việc phải làm đó, Matta lo lắng và bối rối nhiều (c.41). Lòng nhiệt thành này bày tỏ lòng kính trọng của bà đối với CGS (c.40), cũng như nguyện vọng muốpn dành cho Ngài một sự tiếp đón xứng đáng. Nhưng bà không hiểu được thái độ vô vi của em bà, không chịu góp phần vào công việc của bà: bà muốn lôi em mình ra khỏi thái độ lắng nghe CGS, để buộc em chuẩn bị nhà cửa và bữa ăn. Bà quá chắc chắn về phán đoán của mình đến nỗi với một thái độ trách móc, bà mời CGS cũng chia sẻ quan điểm: “Lạy Chúa, em con để con phục dịch một mình mà Chúa không để ý gì sao ? Vậy xin Chúa bảo nó giúp con với” (c.40). Như thế, hai chị em xuất hiện như hai môn đệ vội vã đón tiếp thày mình, nhưng Maria chỉ lo nghe lời Thày, còn Matta lo dành cho Thày một sự tiếp đãi nồng hậu.

Câu trả lời của CGS là một lời phê phán về thái độ của Matta và Maria (41-42); Và Lc, khi gọi Ngài là “Chúa”, có ý làm nổi bật uy thế của Lời Ngài. Lời phê phán Matta đặt thành một vấn nạn cổ điển cho việc phân tích bản văn. Phần đầu ("con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện") có trong tất cả các thủ bản Hy lạp; nhưng trong nhiều thủ bản Latin và Syriaque thì không có. Phần hai (c.42a) cũng không có trong bản dịch, cách chung người ta nhất trí cho rằng hai phần bị bỏ sót này, làm cho bản văn nặng nề cứng nhắc và mất đi nét tương phản giữa hai chị em là do việc tu sửa bản văn và yếu tố lưu truyền. Trong các bản văn chép tay (Hylạp), phần thứ hai này mang nhiều dạng thức khác biệt trong nhiều bản văn. Có hai dạng thức ngắn: “Chỉ cần ít điều thôi” (nơi một số bản văn) và “chỉ cần một điều thôi” (nơi đa số, mà phần đông là có giá trị). Người ta cũng gặp thấy một công thức dài hơn gồm tóm hai dạng thức trên: “chỉ cần ít điều, hay chỉ một điều thôi” - Dạng thức dài này được xác nhận do nhiều chứng nhân ưu tú, nhất là các người Alexandrie - dạng thức này được nhiều nhà phê bình xuất bản TƯ cũng như nhiều nhà chú giải nổi tiếng chấp thuận (đó là dạng thức mà BJ giữ lại). Ngược lại lời phê phán này, người ta có thể ủng hộ cho dạng thức ngắn thứ hai ("chỉ cần một điều thôi") được đa số chấp nhận cũng cần phải thêm rằng dạng thức này làm nổi bật nét tương phản (nhiều - một thôi) và dạng thức dài hình như là do sự dung hòa hai dạng thức ngắn. Vì thế chúng ta sẽ chấp nhận với các nhà chú giải nổi tiếng (như Merk, Aland, Zahn, Loisy, Schlatter, Schmid, Ellis...)rằng nguyên bản của phúc âm là:“Chỉ cần một điều thôi”.

Khi quở trách Matta lo lắng xôn xao “nhiều chuyện”, CGS lấy lại một đề tài đã được trình bày nhiều lần trong các lời giảng huấn của Ngài về sự lo lắng: khi kêu mời các vị truyền giáo chớ lo bênh vực mình trước tòa án của những người bắt bớ (12,11; Mt 10,19), môn đệ đừng quá lo lắng về thức ăn áo mặc (12,22-26; Mt 6,25-34). Khi đề cao cảnh giác tín đồ chống lại những mối lo âu của cuộc sống làm chết ngạt hạt giống Lời Chúa (8,14; Mt 13,22; Mc 4,19) và lòng trí nặng nề (21,34). Trong mỗi đoạn, sự lo lắng bị lên án vì làm người tín hữu quên mất điều chính yếu: là tuyên xưng đức tin vào Con Người, trong Lc 12,7-9 (Mt0,31-33, tìm kiếm Nước TC trong Lc 12,31 (Mt,33); đón nhận Lời, trong Lc 8,11-15 (Mt 13,18-23; Mc 4,13-20), trông đợi ngày của Con Người, trong Lc 21,34-36. Trong trường hợp của Matta, sự lo lắng bị lên án vì làm quên điều “cần thiết độc nhất”.

“Nhiều điều” mà Matta lo lắng, theo văn mạch là săn sóc tiếp khách, phục dịch vật chất cho CGS. Còn “điều cần thiết độc nhất” được minh định bởi thái độ của Maria là bỏ tất cả để nghe lời CGS, tượng trưng qua hai chị em: bà thì lo những việc vật chất để tiếp đón, bà kia lo lắng nghe lời Chúa. CGS nhận sự tiếp đón của Matta với lòng biết ơn, như Ngài nhận sự tiếp đón của các người biệt phái (7,36tt; 11,37; 14,1) hoặc xin Giakêu tiếp đón mình (19,5); Ngài còn coi việc nhận sự tiếp đón như một luật cho các kẻ được sai đi (9,4; 10,5-9); nên Ngài không thể lên án Matta vì sự tiếp đón nồng hậu của bà.

Nhưng với CGS, có một nấc thang giá trị; Ngài kết thúc câu chuyện bằng một lời ngợi khen và một lời hứa cho Maria: “cô đã chọn phần tốt nhất sẽ không bị ai giật mất”. Vì tiếng Hy lạp meris có nghĩa là “phần” được dùng nhiều lần trong bản LXX để chỉ một phần ăn trong bữa tiệc (Stk 43,34; 1S 1,4-5; 9,23; Ne 8,10.12; Est 9,19.22), nên người ta đã thấy ở đây một sự ám chỉ đến bữa ăn mà Matta lăng xăng chuẩn bị; nhưng ý nghĩa này không hợp chút nào với hoàn cảnh, nếu không nói là đảo ngược lại. Phần Maria đã chọn là lắng nghe lời Chúa; và tiếng meris ở đây có nghĩa thường thấy trong sách thánh kinh Hy lạp: “số phận”, “phần gia nghiệp” (Giop 20,29; 27,13; Hđ 2,10; 3,22; 5,17; 9,9; Km 2,9; Si 14,9; Is 17,14; 57,5; Giêr 13,25...). kiểu nói của CGS ở đây gợi lại lời xác quyết của nhà thánh vịnh: “Lạy Chúa phần con, con đã nói, là tuân giữ lời Chúa” (Tv 119,57). Thày Giêsu kết thúc bằng cách hứa với Maria là sự chọn lựa của bà sẽ không bị thất vọng: ai ưa thích Lời Chúa, sẽ không bao giờ bị tước đoạt. Đó chính là bài học của câu chuyện: người môn đệ phải lắng nghe lời thày; Lời đó không bao giờ thiếu cho họ.

d/ Có nhiều nét đặc điểm xác nhận tầm quan trọng mà Lc gán cho bài học này, trước hết là địa vị mà ông dành cho việc nghe lời Chúa trong toàn bộ tác phẩm của ông. Mt và Mc trình bày cùng một tư tưởng ấy trong lời giải thích dụ ngôn hạt giống (Mt 13,19-23; Mc 4,14-20; Lc 8,11.15; Mt 7,14-26), nhưng Lc là người duy nhất xác định rõ việc tiếp đón lời Chúa Giêsu như là lắng nghe Lời của TC vậy (5,1; 8,11.21; 11,28); và sách Cvsđ của ông cũng hoàn toàn qui hướng về lời ấy ("lời” 10lần; “lời TC” ít nhất 10 lần; “lời của Chúa” ít nhất là 7 lần...). Đối với thánh sử đã từng chia sẻ sứ mạng của Phaolô, việc nghe lời Chúa là điều cần thiết độc nhất.

Câu chuyện thiết lập 7 phó tế trong Cvsđ 6,1-6 đặt ra nhiều vấn đề lịch sử tế nhị: những người Hy hóa (Hellenistes) là ai ? Thực ra nhiệm vụ nguyên thủy của 7 vị đó là nhiệm vụ gì ? ...Nhưng dù sao thì tư tưởng của Lc đã quá rõ ràng và nhắc lại cho ta câu chuyện Matta và Maria. Vì trước những lời than phiền của người “Hy hóa”, nhóm 12 tự thấy họ phải chọn lựa giữa việc rao giảng Lời của TC và việc phục vụ bàn ăn. Bấy giờ họ quyết định việc uỷ thác việc phục dịch này cho 7 người có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan. Còn họ chỉ chuyên tâm lo cầu nguyện và phục vụ Lời. Câu chuyện Matta và Maria xác nhận ưu thế của việc lắng nghe lời hơn việc phục vụ tiếp khách; câu chuyện trong Cvsđ cũng đặt việc phục vụ rao giảng việc phục vụ bàn ăn. Nhưng cả hai việc phục vụ này, đều được nhìn nhận và trong cả hai trường hợp, Lời được lắng nghe hay được rao giảng xuất hiện như giá trị tối cao. Rất có thể là Lc đã cảm thấy và muốn có một liên hệ giữa hai câu chuyện mà chỉ mình ông ghi lại.

c/ Sau khi đã nghiên cứu xong bản văn của Lc, chúng ta có thể rút tỉa một vài kết luận:

- Lc cố gắng trình bày một qui luật sống cho các môn đệ. Tính cách vô tư không quan tâm đến các dữ kiện “lịch sử” của câu chuyện nhất là về ngày tháng và nơi chốn, cũng như tính cách long trọng mà ông mặc cho Lời CGS ở phần cuối đã chứng minh điều đó.

- Qui luật này là phải dành ưu tiên tuyệt đối cho việc lắng nghe Lời Chúa trong đức tin. Điểm này nổi bật qua thái độ nghịch giữa hai chị em, qua lời khen ngợi bà Maria, qua tầm quan trọng dành cho Lời trong suốt tác phẩm của Lc.

- Matta không phải bị khiển trách vì thái độ hiếu khách là tiếp đón trong đức tin và đức mến và sẽ là một điều kiện thuận lợi cho việc rao giảng Tin mừng; nhưng vì đã quá băn khoăn lo lắng đến vật chất khiến bà quên mất điều cần thiết duy nhất.

Nếu so sánh các kết luận này với giải thích của các nhà chú giải xưa kể trên, ta thấy các kết luận này không khác mấy với bài chú giải của thánh Ambrôsiô. Cũng không đối nghịch với tư tưởng của Origène, khi ông nghĩ: hành động không được tách rời với chiêm niệm (nhưng phải mặc cho nó môt ý nghĩa đặc biệt Kitô giáo là thông hiểu trong đức tin để phục vụ Nước Chúa; chớ không giản lược nó vào cách suy gẫm thuần túy kiểu nhà tu). Kiểu ám dụ của Augustinô và nghĩa thực tiễn của Cyrille dĩ nhiên là đi quá xa tư tưởng của Lc; nhưng đó chỉ là những áp dụng cụ thể vào hoàn cảnh, nên thật là sai lầm và bất công khi cho đó là toàn bộ quan điểm của hai ngài; vì thật ra hai Ngài cũng nhấn mạnh nhiều đến việc tiếp đón lời Chúa.

KẾT LUẬN

Sau khi đã cố gắng theo dõi ý nghĩa mà truyền thống Kitô giáo đã gán cho câu chuyện Matta và Maria, ta không thể tự hào là đã giải quyết hết mọi vấn đề mà bản văn sâu sắc này đặt ra. Ít ra là suốt dòng lịch sử của khoa chú giải, câu chuyện hai chị em mời gọi các tín hữu suy nghĩ về cách tiếp đón CGS: một sự tiếp đón được diễn tả cho mọi lứa tuổi bằng việc tiếp đón đại lượng, nhưng chỉ thỏa mãn cho việc Chúa đến khi sự tiếp đón ấy hướng về Lời Ngài và sau cùng về mầu nhiệm của Ngài.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Hai chị em Matta và Maria đón tiếp CGS, nhưng mỗi người một cách Matta rối rít chuẩn bị bữa ăn, nhưng quá băn khoăn nên không thể chú ý tới CGS mà bà tiếp đón. Cách tiếp đãi của bà được CGS ưa thích, tuy vậy CGS thích thái độ của Maria hơn. Bà này tiếp đón Chúa bằng cách ngồi dưới chân CGS trong tư thế của người môn đệ đứng trước Thày mình; bà lắng nghe lời Ngài. Việc lắng nghe đó, được nhắc tới ở đây mà không được khai triển chút nào, giả thiết phải có một thái độ chú ý và sẵn sàng hoàn toàn đối với con người của Chúa đang nói: Maria học sống nơi Ngài. Nhanh hơn thiếu phụ xứ Samaria (Gio 4,10), bà nhận ra “hồng ân của TC” nơi người lữ khách qua đường và thông hiệp với Ngài. Đối với chúng ta cũng thế, đón tiếp ai đó: CGS hoặc người Chúa sai tới (Mt 10,40), là trước tiên để cho họ nói, là lãnh nhận nơi họ tất cả những gì họ ban cho chúng ta.

2. Matta vất vả nhiều, bà thấy bà có công trạng. Và muốn người ta chú ý tới bà nhiều hơn, để ca tụng, thương xót và giúp đỡ: “Lạy Chúa, em con để con phục dịch một mình mà Chúa không quan tâm sao ? Xin Chúa nói nó giúp con” (c.40). Một cách tài tình, Matta muốn CGS và em bà lệ thuộc vào sự tận tâm của bà. Lạy Chúa, Chúa không thấy, Chúa không thích những gì con làm cho Chúa sao ? Lẽ ra Chúa nên tỏ ra biết ơn những lao nhọc của con, đừng để con làm việc một mình chớ ! Dù sao cũng là việc phục vụ Chúa mà ? Cái phản ứng tự nhiên của Matta thường cũng là phản ứng của chúng ta. Chúng ta tìm cách làm tăng giá trị của mình trước mặt người khác bằng cách trưng bày những hoạt động của chúng ta. Như người biệt phái, chúng ta treo bảng công chính của chúng ta trước mặt mọi người để họ chú ý. Chúng ta đòi hỏi được trọng đãi như là món nợ người khác phải trả cho chúng ta.

Chúng ta muốn lãnh ngay “phần thưởng của chúng ta” mà đánh mất phần thưởng mà Cha trên trời dành cho chúng ta (Mt 6,1-3). Việc chúng ta phục vụ người khác vẫn còn là cách để thống trị họ, để khoe khoang so sánh chúng ta với họ, và còn để cho họ mang tâm trạng tội lỗi. Đối với Maria, Maria tự đặt mình đúng như cách người biệt phái đối với người thu thuế (Lc 18,8-14): “tất cả những gì mà bà làm cho CGS đều cố ý làm nổi bật ưu thế của bà trên người em và bó buộc bà này phải bắt chước “gương tốt” của mình. Nhiều lần chúng ta cũng làm như vậy, nhất là khi tưởng rằng mình ra sức làm việc cho Chúa và ao ước Ngài cho mình phải lẽ hơn một Maria nào đó. Có lẽ cũng có một chút ghen tương trong thái độ cư xử của chúng ta: chúng ta đòi hỏi người khác phục vụ Chúa Kitô theo cách chúng ta, dưới sự điều khiển của chúng ta; chúng ta không chịu cho người khác làm cho Chúa quên để ý đến chúng ta hoặc được Chúa tiếp xúc thân mật. Một cách tự nhiên, chúng ta đem CGS về với chúng ta. Chúng ta sợ mất ân huệ của Ngài, mất tình thương riêng của Ngài nếu người khác cũng đến được với Ngài.

3. CGS kêu mời Matta và mỗi người chúng ta đang mang tâm trạng như là: “Chỉ một điều cần thôi": hãy cởi bỏ những băn khoăn lo lắng và cao vọng cho mình xứng đáng được hưởng thứ ân huệ của Ta, bắt Ta lệ thuộc vào việc thiện của con, con hãy đến trình diện Ta với đôi tay trống rỗng”. Rồi “hãy chọn phần tốt hơn": là lời Ta mà con đang đói.

4. “Phần tốt hơn” mà Maria được hưởng “sẽ không bị lấy mất”. Không phải vì bà có công trạng hay là thái độ “chiêm niệm” của bà trội hơn “hoạt động” của bà chị, theo như một vài trường phái tu đức giải thích; nhưng bà đã quay về với Lời của CGS, với sự hiện diện đầy ân sủng của Chúa.

------------------------------------

 

TN 16-C20. Chọn phần tốt nhất


- Br. Thomas Huy Châu, CMC

Lk 10:38-42

 

Phúc âm hôm nay thuật lại truyện Chúa Giêsu ghé thăm chị em bà Mátta, nhân cuộc hành trình: TN 16-C20


Phúc âm hôm nay thuật lại truyện Chúa Giêsu ghé thăm chị em bà Mátta, nhân cuộc hành trình lên Giêrusalem. Bài Phúc âm tuy ngắn gọn, nhưng diễn tả thật sống động sự đối đáp qua lời nói và cử chỉ của ba nhân vật: Chúa Giêsu, Mátta và em bà là Maria. Một cách khách quan, chúng ta cùng tìm hiểu xem Chúa Giêsu, một người bạn và khách quí, đẵ được hai bà tiếp đón thế nào và ai thực sự đáp ứng điều Chúa muốn.

Nếu quan sát sự đon đả ân cần của Mátta, ai cũng nhận thấy bà là một phụ nữ tốt bụng hiếu khách. Có lẻ bà nghĩ, sau khi cuốc bộ một quãng đường dài, Chúa và các tông đồ mệt và đói lắm, nên bà lật đật nấu nhiều món ngon miệng cho Chúa ăn dường sức để tiếp tục cuộc hành trình thì thật là một việc hợp lẽ. Ý của bà thật tốt.

Còn Maria, em bà, thì cứ ngồi nghe Chúa nói, đến nỗi bà phải lên tiếng nửa van xin nửa như đượm vẻ trách móc Chúa: “Xin Thầy bảo em con giúp con một tay, Thầy không thấy nó để con làm một mình à”.

Thoạt nghe, và quan sát việc “chỉ ngồi nghe” của Maria, chúng ta thấy việc Mátta trách Maria cũng đúng chứ không phải sai. Thế nhưng chúng ta hãy tìm hiểu kỹ hơn hoàn cảnh của Chúa Giêsu lúc đó mà “thông cảm”cho Maria.

Xét theo trình thuật của Phúc Âm Luca, khi ghé thăm hai bà, Chúa Giêsu đang hành trình lên Giêrusalem để đón nhận cuộc tử nạn. Con đường Ngài tiếp tục đi sẽ dẫn Ngài đến cái chết rất thê thảm. Với tâm trạng đó, đối với Chúa lúc ấy, việc ăn uống qua mức cần thiết xem ra không thích hợp. Khi Chúa trách: “Mátta ơi con ơi! Con lo lắng nhiều việc nhiều quá”, có phải chăng ý Chúa nói bà không cần nấu nhiều món làm chi nhưng một hai món đơn giản để còn có giờ nghe và tiếp chuyện với Chúa trong nhương ngày Chúa chuẩn bị chịu chết thì có phải là hơn không? Maria, đã hiểu tâm trạng của Chúa và đã đáp ứng mong ước của Chúa.

Trong sách “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá”, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyên Văn Thuận thuật lại rằng, trong thời gian bị giam cầm, ngài quẫn trí hoang mang về công việc tông đồ ngài đang hoạt động bi đinh trệ, thi tiếng Chúa đa nói lên từ đáy lòng ngài và chỉ cho ngài biết phân biệt và chọn Chúa, thánh ý Chúa, chứ không phải công việc của Chúa. Tư tưởng của Đức Hồng Y thật là phù hợp với bài học mà Chúa muốn dạy cho Mátta, Maria và tất cả chúng ta ngày nay nưa.

Chúng ta tự xét, động lực khiến chúng ta hăng say làm nhiều công việc cho Chúa, cho cộng đoàn có thực sự là vi Chúa không?

Chúng ta đừng vội trách bà Mátta, vi bà cung có ý tốt là muốn tiếp đai Chúa cho nồng hậu, nhưng lòng tốt của bà không đáp ứng trọn vẹn ý Chúa chỉ vi bà không hiểu Chúa bằng Maria.

Nơi cộng đoàn giáo xứ, nếu Chúa muốn ta giưa chức vụ gi thi hay chu toàn, nhưng nếu ta chỉ đóng một vai trò nho nhỏ thôi, liệu chúng ta có vui lòng chu toàn không? Trong gia đinh hay xa hội cung vậy, chúng ta đừng tự quan trọng hoá chính minh. Ở cấp bậc nào, chúng ta hay vui nhận và làm tròn bổn phận là tốt hơn hết. Không có chúng ta, công việc cung van có thể hoàn thành.

Chúa đa khen Maria biết chọn phẩn tốt nhất. Chọn phần tốt nhất không phải là phải chọn làm nhiều, nhưng là biết nghe, hiểu, và làm theo ý Chúa. Chúng ta hay noi gương Maria.


------------------------------------

 

TN 16-C21. Chỉ có một chuyện cần thiết


Lc 10,38-42

A. Hạt giống...

 

Câu chuyện có 3 vai: vai chính là Chúa Giêsu, hai vai phụ là Mác-ta và Maria mỗi người phục: TN 16-C21.


Câu chuyện có 3 vai: vai chính là Chúa Giêsu, hai vai phụ là Mác-ta và Maria mỗi người phục vụ Chúa một cách khác nhau:

- Mác-ta lăng xăng lo cơm nước, giường chiếu v.v.

- Maria “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy”

Mác-ta khó chịu xin Chúa Giêsu bảo Maria tiếp mình. Nhưng Chúa Giêsu nói: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, đó là việc Maria đang làm, tức là ngồi bên chân Chúa đề lắng nghe lời Chúa.

B.... nẩy mầm.

1. Ở bên chân Chúa:

a/ Thánh sử Luca thích trình bày hình ảnh người ta ở bên chân Chúa:

          - Lc 7,36-45: một hôm có một phụ nữ tội lỗi nghe biết Chúa Giêsu đang dùng bữa tại nhà 1 người biệt phái. Nàng tìm đến đó, quỳ dưới chân Chúa và khóc đến nỗi nước mắt làm ướt chân Ngài. Tư thế bên chân Chúa trong trường hợp này là quỳ, và tâm tình là sám hối.

          - Lc 17,11-19: Lần khác Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi. Trong số đó có một người đã trở lại sấp mình dưới chân Chúa để tỏ lòng biết ơn. Tư thế ở bên chân Chúa trong trường hợp này là sấp mình, và tâm tình là tạ ơn.

          - Lc 8,40-56: Con gái ông Giairô bị bệnh năng. ông chạy đến sấp mình dưới chân Chúa để van xin Ngài đến cứu con gái ông. Tư thế trong trường hợp này cũng là sấp mình, và tâm tình là xin ơn.

          - Lc 8,26-39: Có một người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Sau khi được Chúa cứu, anh ngồi bên chân Chúa và sau đó xin đi theo Ngài. Tư thế lần này là ngồi, và tâm tình là muốn đi theo Chúa.

          .- Đoạn Tin Mừng hôm nay kể chuyện Mác-ta ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Tư thế ngồi, tâm tình lắng nghe.

          * Tóm lại, ở bên chân Chúa có thể là ngồi, quỳ hay sấp mình sâu thẳm. Và tâm tình có thể là tạ ơn, sám hối, van xin, bày tỏ thiện chí muốn đi theo hay lắng nghe học hỏi.

          b/ Ở bên chân Chúa trong tư thế nào cũng được và với tâm tình nào cũng được, miễn là ở bên chân Chúa. Và chính Chúa Giêsu cũng đề cao việc ở bên chân Ngài: "Mác-ta Mác-ta, con lo lắng bôn chôn nhiều quá. Nhưng chỉ có 1 điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất".

c/ Tư thế ở bên chân Chúa là

          - tư thế khiêm tốn
          - tư thế gần gũi gắn bó.
          - tư thế trầm lắng, bình an.

Hằng ngày chúng ta làm nhiều việc, ở nhiều nơi và với nhiều tâm trạng. Đoạn Tin Mừng này và những đoạn tương tự nhắc chúng ta có một nơi rất tốt, đó là ở bên chân Chúa. Chúng ta hãy tìm dịp đến bên chân Chúa, bên chân Chúa chúng ta có thể ngồi, có thể quỳ, có thể sấp mình sâu thẳm. Chúng ta có thể van xin, có thể tạ ơn, có thể sám hối, có thể bày tỏ thiện chí muốn theo Chúa, có thể trầm lắng đón nghe lời Ngài. Đó là điều Chúa rất ưa thích và cũng rất ích lợi cho anh em.

2. “Tất cả vì Chúa và cho Chúa”, đó có lẽ cũng là bài học Chúa Giêsu muốn nói đến qua đoạn Tin Mừng hôm nay (...) Lời Chúa... mời gọi chúng ta thống nhất đời sống. Có những giây phút ưu việt danh cho cầu nguyện, thờ phượng; còn phần lớn thời giờ được dành cho những sinh hoạt khác. Đối với người kitô hữu, phải biến mọi sinh hoạt thành lời cầu nguyện kéo dài, thành những hy tế trên bàn thờ. Chính qua những sinh hoạt ấy, chúng ta gặp gỡ, lắng nghe, thực thi thánh ý Thiên Chúa” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)

3. Đôi tay để làm việc phục vụ cũng quan trọng, nhưng đôi tai lắng nghe Lời Chúa và đôi đầu gối quỳ bên chân Chúa quan trọng hơn.

4. “Mác-ta đón Người vào nhà. Cô nói người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe Lời Ngài dạy. Còn Mác-ta tất bật lo việc phục vụ.” (Lc 10,39-40)

Cô giáo môn tiếng Anh của tôi không phải là người công giáo. Một hôm cô nói với lớp: “Không hiểu vì sao cô rất thích nghe nhạc của đạo công giáo. Những bài hát ấy có một sức lôi cuốn nào đó, mỗi lần nghe cô cảm thấy tâm hồn thanh thoát vui tươi và cuộc sống thật hạnh phúc.” Nói xong cô hỏi lớp: “Lớp mình có bạn nào người công giáo không ? Hãy nói cho cô và các bạn nghe về Chúa !” Cả lớp vẫn im lặng. Tôi muốn nói nhưng khổ nỗi vào giờ này không ai được nói tiếng Việt. Tôi biết Chúa nhưng nói về Chúa bằng tiếng Anh thì không thể, vì tôi không có đủ vốn từ và cũng không biết phải nói làm sao.

Tôi buồn vì đã bỏ qua một cơ hội để nói về Chúa cho cô và các bạn chỉ vì thiếu khả năng ngoại ngữ. Từ đó bên cạnh việc học hỏi và chia sẻ Lời Chúa, tôi sẽ nói bằng tất cả lòng yêu mến và kiến thức sẵn có của mình.

Lạy Chúa ! cả hai thái độ của Mác-ta và Maria đều cần thiết cho con trong cuộc sống hôm nay. Xin cho con vừa là Maria vừa là Mác-ta để con xứng đáng là chứng nhân đích thực của Chúa. (Hosanna)
5. Mầm khác:

------------------------------------

 

TN 16-C22. MÁC-TA VÀ MA-RI-A


 Lc 10, 38 – 42

 

Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người: TN 16-C22.


Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !" Chúa đáp: "Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi".

SUY NIỆM:

HOẠT ĐỘNG VÀ CHIÊM NIỆM

Đã có một thời không ít người đã dựa vào đoạn Tin Mừng này để chứng minh có hai lối sống khác nhau trong cuộc đời người tông đồ: lối sống hoạt động với cuộc sống nhập thế, dấn thân phục vụ con người, nhất là những người nghèo đói khổ đau và lối sống chiêm niệm dành cho những người xuất thế, ẩn dật trong bốn bức tường tu viện, vui với những tiếng hát lời kinh tối sáng. Đối với họ hai lối sống này không chỉ tách biệt nhau mà còn đối lập nhau nữa. Và dĩ  nhiên luôn kèm theo nhận định: đời sống cầu nguyện chiêm niệm luôn quan trọng hơn vì Chúa đã nói rõ: “Em con đã chọn phần tốt nhất”.

Tôi nhớ có một lần chút nữa là tôi bị bỏ đói khi nói với các bà mẹ Công Gíao kiểu này: “Các bà (lo lắng bận rộn) nhiều chuyện quá, coi chừng Chúa rầy đó !”. Mấy bà mẹ lo bếp núc cười mỉa mai: “Không có những bà Matta lo ăn uống như tụi con, liệu các cha có còn sức để mà giảng dạy không !”

Một hướng nhìn mới 

Mới đây trong Tông Huấn  Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, 1999) khi nói về bổn phận phải rao giảng TM của mọi tín hữu, ĐGH gợi lên một cái nhìn mới cho chúng ta, các Kitô hữu linh mục, tu sĩ, giáo dân: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo (còn gọi là Phúc Âm hóa) vừa là một hoạt động có chiêm niệm (nghĩa là hoạt động đã được chiệm niệm, cầu nguyện và thi hành trong tinh thần cầu nguyện), vừa là một chiêm niệm có hoạt động (nghĩa là không phải chỉ chiêm niệm cầu nguyện suông mà thôi, nhưng là chiêm niệm và cầu nguyện về hoạt động và hướng tới hoạt động (GHTAC 23). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng nói vậy nhưng với kiểu khác hơn: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (GLHTCG 2725). Phải có lửa cháy thì mới đốt sáng cho người khác. Không có lấy gì mà cho. (Nemo dat quod non habet)

Lời Chúa là ngọn đèn soi bước

Toàn bộ phần PVLC hôm nay cho ta hiểu thế nào là một người có đời sống tông đồ thực thụ:    

Đó là một người biềt nhìn thấy Chúa trong mọi người, nhận ra và đáp ứng đúng mức nhu cầu của họ

Trong bài đọc 1, sách Sáng Thế ghi lại câu chuyện Đức Chúa đã đến gặp ông Apraham tại cụm sồi Mambrê qua hình ảnh ba người khách lạ. Với lòng hiếu khách, vợ chồng ông và các tôi tớ đã mau mắn ân cần tiếp đãi các vị khách quí: Bà đã lấy ba thúng bột mà nhồi làm bánh. Ông đã lấy sữa chua, sữa tươi và bắt một con bê mềm và ngon làm thịt cho khách dùng; Ong lại còn đứng hầu đang khi khách dùng bữa. Điều này đã làm đẹp lòng Chúa và Ngài đã thưởng ông: “ Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó Xara vợ ông sẽ có một con trai.” (St 18,1-10a)

Đó là người biết nhận ra ý Chúa trong công việc bổn phận và sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời mình để chu toàn như thánh Phaolô trong thư gởi Colosê đã tâm sự (BĐ 2):

Ngài ý thức mình được Thiên  Chúa ủy thác, và đã cố gắng trở thành người phục vụ HT qua việc hy sinh chịu khổ trong công việc giảng dậy để giúp moi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô.(Cl 1,24-28)

Đó là người biết lựa chọn phần tốt nhất mà TC đã dành cho mình, nghĩa là không chỉ là tốt nhất cho mình mà còn là điều đẹp ý Chúa nhất như việc làm của Maria, được ghi nhận trong trang TM Luca hôm nay (10, 38-42):

Chị em Matta và Maria đón tiếp ĐG. Mỗi người mỗi cách.

Maria thì giữ chân Chúa bằng việc ngồi bên chân Ngài với tâm thế lắng nghe của người tông đồ đích thực (Lc 7,38 và 8,35). Chị không làm gì, không nói gì,  chỉ ngồi nghe. Chị  đón tiếp ĐG với một phong cách tốt nhất. Nhìn chị người ta có thể dám nói ngược lại rằng chính chị đã được DG tiếp đón.

Matta thì khác, chị giữ chân Chúa bằng những việc bép núc, ăn uống. Chị nghĩ rất thực tế: “Có thực mới vực được đạo.” R. Meynet chú giải rõ thêm: “Mátta tiếp đón DG vào nhà. Chúa vừa bước vào thì chị đã bỏ mặc Ngài ở đó để lo trâm công nghìn việc khác. Vịn cớ phục vụ Ngài, chị tất bật lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của chị lấn lướt cả vị khách của chị. Chị lăng xăng, lo lắng sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức vị khách mà chị hết lòng yêu thương, quí trọng”. Cũng may vẫn còn cô em ngồi hầu chuyện Chúa, chứ không thì vào nhà Bêtania khác gì vào quán ăn bên đường !

Vấn đề phải đặt ra cho Matta và những người hiếu hoạt như chị, đó là cần phân biệt việc chính yếu với việc phụ tùy. Cần rõ đâu là việc Chúa muốn, đâu là việc mình muốn. Thường ta dễ nhìn thấy và đánh giá cao công việc phục vụ của mình. Có lẽ Macta cũng chủ quan nghĩ  và nhận định như vậy nên chị đã tỏ ra bực bội khiếu nại với Chúa: “Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Nhưng thật bất ngờ khi DG cho biết ý kiến của Ngài. “ Matta ơi ! con băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá. Chỉ có một chuyện cần thiết thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.”. DG muốn ta đừng quên rằng ta buộc phải tránh mọi điều xấu nhưng không buôc phải làm mọi việc tốt. Đơn giản chỉ vì chúng ta không thể (không khả năng) làm như vậy. Cần biết chọn lựa để bớt đi những điều tuy tốt nhưng không thực sự cần thiết. Lời DG như phán quyết của trọng tài: điều quan trọng nhất của người môn đệ là phải lắng nghe lời Chúa. Nhiều lần DG đã cảnh cáo thói quá lo lắng này (Lc 12,11; 12,22-26; 8,14; 21,34). Thực ra lo lắng không hẳn là xấu nhưng phải đề cao cảnh giác vì nó khiến người môn đệ quên đi điều chính yếu.

Tóm lại DG đón nhận sự phục vụ của Matta cũng như Ngài đã từng chấp nhận việc tiếp đón của những người Biệt Phái (7, 36t; 11,37; 14,1), đã từng đón nhận việc đón tiếp của Dakêu (19,5) và đã từng dạy phải đón tiếp các sứ giả Tin Mừng (9,4; 10,5-9). Nhưng Ngài đưa ra một bậc thang giá trị cần luôn để ý: người môn đệ đích thực phải coi trọng Lời Chúa trên hết. Vì đó chính là “phần” của họ như TV 119 đã viết “Lạy Chúa, con đã nói: phần của con là tuân giữ Lời ngài ” (c.57). Sống như thế ta sẽ được kể là người xứng đáng cư ngụ trên núi thánh Chúa (Đáp ca TV 14)

Về vấn đề này, có một tấm gương hết sưc thuyết phục chúng ta, đáng chúng ta noi gương bắt chước. Đó là DGH Gioan Phaolô 2, vị cha chung của chúng ta. Cuộc sống của ngài quả là một sự phối hợp hài hòa giữa chiêm niệm và hoạt động. Một hoạt động có chiêm niêm và một chiêm niệm có hoat động. Tìm trong cuốn “Đức Giáo Hoàng John Paul II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta”, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội 1999, ta sẽ khám phá ra nhiều điều thú vị chứng minh #0 năm làm GH là 30 năm chiêm niệm và hoạt động không ngơi nghỉ để thi hành sứ vụ Phúc âm hóa trong bối cảnh thế giới và Giáo hội hôm nay:

Con người hoạt động:

Đây là chương trình làm việc một ngày của ĐGH:

6 giờ 15:    cầu nguyện một mình trong phòng cầu kinh.
7 giờ:         tiếp chung các trợ lý và nữ tu, các người làm.
7 giờ 30:    10 phút cầu nguyện một mình.
8 giờ:         ăn sáng cùng với khách và trợ lý.
9 giờ:         vào phòng làm việc, xem lại lịch làm việc đọc và viết.
11 giờ:       tiếp các Giám mục quan chức nước ngoài.
1giờ 30:     ăn trưa.
3 giờ :        phút chợp mắt trên ghế bành.
3 giờ 15:    suy gẫm trong lúc đi dạo trên thềm cung điện.
4 giờ:         viết lách.
6 giờ:         tiếp riêng các viên chức của Vatican và Curia.
7 giờ 30:    ăn tối.
9 giờ:         trở lại phòng làm việc, đọc và viết.
10 gìờ 30: Cầu nguyện trong phòng cầu kinh.
11 giờ 30: đi ngủ (Sđd trg 635-636).

Cách điều hành trực tiếp và đi lại các nơi của Đức Gioan Phaolô 2 đã làm các quan chức của Rôma phải sửng sốt. Đó là cách điều hành thông qua các mối quan hệ người với người, không phải thông qua các biện pháp quan liêu hành chính, đối với toàn thể Giáo hội. Buổi tiếp chuyện buổi sáng chẳng hạn, đã trở thành dịp để Giáo hoàng gặp gỡ các tín đồ đến từ khắp nơi trên thế giới… Sau buổi tiếp chuyện chung, Ngài thường cùng khách thưởng thức bữa sáng… Ngài cũng duy trì bữa ăn trưa cùng các viên chức của Curia và với các Giám mục đến từ khắp các nơi trên thế giới… cứ năm năm một lần… Đây là bữa ăn có một không hai cho hầu hết bốn nghìn Giám mục được cởi mở với Giáo hoàng của họ… Có bữa ăn biến thành hội nghị chuyên đề về vô số các chủ đề, từ triết học tới toán học, vật lý … Bữa ăn tối có thể cuốn Giáo hoàng vào các cuộc thảo luận chi tiết các kế hoạch cho các chuyến đi sắp tới… hoặc xem xét tình hình về giới tu sĩ, điều luôn làm Giáo hoàng lo lắng: Các linh mục có quan hệ tốt với các giám mục không ? Họ có tuân phục không ?… Khi bị cuốn vào câu chuyện, Ngài thường nhìn xa xăm như thể để tập trung tốt hơn, hoặc đôi khi Ngài khom mình trên mặt bàn, đầu đặt giữa hai tay chống xuống bàn, cứ như ngài đang ở trong một thế giới khác, khi cuộc nói chuyện bao bọc quanh Ngài" (Sđd trg 637, 638, 639).      

Ta cũng đừng quên điều này là trong cuộc đời GH của Ngài cho tới nay, Ngài đã thực hiện 95 chuyến công du mục vu tại hầu hết các nước trên thế giới, điều mà không một vị GH nào trước đây  đã làm. Một cuộc sống đầy ắp những công việc nhu thế thì giờ đâu mà cầu nguyện. Vậy mà ĐGH vẫn được coi là một con người cầu nguyện

Con người cầu nguyện:

Khi còn là đại chủng sinh, Wojtyla đã tỏ ra ham thích cầu nguyện. Các bạn đã trêu chọc và ghi trên một tấm thiệp ghim vào cánh cửa phòng Ngài: "Wojtyla, vị thánh tương lai" (Sđd trg 127).

Khi làm linh mục, Ngài tâm sự với linh mục bạn: "Nếu thiếu vắng một đời sống nội tâm sâu sắc, một linh mục sẽ biến thành một nhân viên văn phòng lúc nào không biết, và nơi truyền giáo sẽ biến thành một văn phòng xứ tẻ nhạt, chỉ giải quyết những rắc rối hàng ngày”(Sđd trg 138).

Năm 1958, khi Rôma, theo yêu cầu của Hồng Y Wyszynski, bổ nhiệm Ngài làm Giám mục phó ở Krakow, Ngài ký giấy chấp nhận ngay, không như hầu hết các vị khác thường xin cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa rồi trả lời sau. Nhưng sau khi ký giấy, người ta thấy một linh mục đến tu viện và hỏi một nữ tu nhà nguyện đâu, rồi linh mục ấy vào quỳ trước bàn thờ. “Một giờ trôi qua, rồi một giờ nữa. Một nữ tu sĩ rồi vài người nữa, đến và đi trong im lặng. Vào khoảng giờ ăn tối tiếng đồn bắt đầu lan ra rằng người linh mục im lặng kia là giáo sư Wojtyla, và các nữ tu sĩ quyết định mời ăn cơm. Nhưng linh mục không rời khỏi chỗ mình. Mẹ bề trên của tu viện đi đến để nhìn vào trong nhà nguyện thì thấy Wojtyla vẫn trầm mặc, hai tay ôm lấy đầu. Tối đó Ngài không ăn gì cả, khi các nữ tu sĩ đi ngủ, Ngài vẫn còn ở nhà thờ. Ngài đã tiếp tục cầu nguyện trong 8 giờ đồng hồ" (Sđd trg 155).

Năm 1967 Ngài nhận chức Hồng Y. Chương trình hàng ngày là: "Vào lúc năm rưỡi sáng, Người đã ở trong nhà nguyện nhỏ trong khu nhà riêng. Khoảng 7 giờ, Ngài đi tới nhà thờ Francisca ở bên kia đường, cầu nguyện trong một khoảng thời gian dài. Ngài trở về vào lúc 8 giờ để ăn sáng. Sau đó lại tới nhà nguyện nhỏ, đóng cửa lại, làm việc, cầu nguyện và đọc cho đến 11 giờ… Sau 11 giờ, Tổng Giám mục tiếp tại phòng làm việc của Ngài bất kỳ ai muốn nói chuyện với Ngài" (Sđd trg 220).

Khi hay tin Đức Gioan Phaolô 1 qua đời vào sáng sớm ngày 29-9-78, lúc đó Ngài mới bỏ một thìa đường vào tách trà. "Ngài sững người và tái đi, cánh tay phải vẫn giơ lên. Trong im lặng, tiếng động duy nhất có thể nghe được là tiếng cái thìa rơi xuống mặt bàn… rồi Ngài giam mình trong ngôi nhà nguyện nhỏ suốt mấy tiếng đồng hồ" (Sđd trg 265).

Đứng trước việc sức khỏe của Ngài gần đây đang xấu đi, "Ngài dành nhiều thời gian sống của mình cho việc cầu nguyện hơn bao giờ hết. Ngay sau khi ngừng làm việc thì Ngài lại bắt đầu cầu nguyện… Cả ngày Ngài cầu nguyện: sau khi dậy vào lúc 5 giờ sáng, ngài cầu nguyện 2 giờ đồng hồ trong nhà nguyện nhỏ trước khi cử hành đại lễ; Ngài cầu nguyện trước và sau bữa trưa, trước và sau bữa tối. Ngài cầu nguyện hầu như liên tục cả ngày. Ngay cả trong lúc ngồi trên xe của Giáo hoàng, Ngài cũng bỏ tràng hạt chậm rãi lần các hạt cho đến phút chót khi bước ra khỏi xe. "Domine non sum dignus", Ngài thầm thĩ khi tiếng vỗ tay xung quanh Ngài ập đến…” (Sđd trg 900). Bằng lời cầu nguyện, Giáo hoàng tự cho phép mình được siêu thoát. "Đó là sự tìm kiếm nhằm đồng nhất với ý muốn của Chúa Trời" (Sđd trg 901). Chính Ngài đã có dịp giải thích rằng: "Cầu nguyện có nghĩa là đi ngang qua một loạt sân khấu, từ đau đớn đến bình thản, từ tập trung đến buông xuôi… cầu nguyện bắt đầu từ sự đối thoại và đạt tới một điểm nơi mà chỉ có một mình Chúa hành động: "Chúng ta bắt đầu với ấn tượng rằng đó là sáng kiến của mình, thế nhưng đó luôn luôn là sáng kiến của Chúa ở bên trong chúng ta" (Sđd trg 80)…

Tóm lại, Đức Giáo hoàng rất coi trọng và cũng rất ham thích việc cầu nguyện chiêm niệm, không phải để xuất thế hay siêu thoát, mà để hiệp nhất với CG, hiểu biết ý Người và hoạt động theo ý Người. Mọi sáng kiến hoạt động của Ngài đều phát xuất từ đó: Thông điệp, Tông huấn, Tông thư… Thượng HĐGM, các Hội nghị, các cuộc viễn du mục vụ, các cuộc gặp gỡ các phái đoàn hành hương, gặp gỡ đại kết hay liên tôn… đều vừa được Đức Giáo hoàng thực hiện trong chiêm niệm và cầu nguyện.

Lạy Chúa, với Chúa nhật vừa qua, chúng con đã ý thức được nhiệm vụ của mình trong bối cảnh Việt Nam hôm nay. Với Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu, ĐGH nhắc nhở chúng con: Mỗi Kitô hữu phải là nhà truyền giáo. Không rao giảng bằng môi miệng nhưng phải dùng chính đời sống Kitô hữu đích thực của mình như một cách loan báo TM hữu hiệu nhất. Ở VN này một người có lòng đạo đức đích thực rất dễ được kính trọng và nghe theo.

Với Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay, chúng con hiểu rằng không thể có lòng đạo đức này nếu không quí trọng những giây phút “ngồi bên Chúa” như chị Maria hôm nay. Bóng đèn không gắn liền với nguồn điện làm sao cháy sáng, làm sao soi sáng cho ai.

Xin giúp chúng con biết xây dựng cho mình một cuộc sống luôn gắn kết hoạt động với chiêm niệm giống như vị cha chung của chúng con: một hoạt động có chiêm niệm (nghĩa là chỉ hoạt động khi đã cầu nguyện), và một chiêm niệm có hoạt động (nghĩa là chiêm niệm về hoạt động và hướng tới hoạt động).

Cụ thể xin giúp chúng con, cách riêng những người trẻ hôm nay, biết quí trọng việc cầu nguyện tôi sáng, và siêng năng tham dự Thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật để lòng Tin Cậy Mến nơi chúng con được củng cố và hăng say ra đi thực hiện công việc của một người được sai đi. Amen

Lm. Gs NBL,CT

------------------------------------

 

TN 16-C23. Hiếu khách – Jkn


Đọc Lời Chúa

· St 18:1-10a: (2) Áp-ra-ham ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy (3) và nói: «Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. (4) Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. (5) Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!» Khách trả lời: «Xin cứ làm như ông vừa nói!»


· Cl 1:24-28: (24) Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. (25) Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn.

· TIN MỪNG: Lc 10:38-42
Hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a


(38) Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. (39) Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. (40) Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: «Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!» (41) Chúa đáp: «Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! (42) Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi».

Suy niệm

Câu hỏi gợi ý:


 

Thử đặt ngược lại vấn đề: nếu cả Mác-ta cũng tiếp chuyện Đức Giê-su mà không có ai lo: TN 16-C23


1. Thử đặt ngược lại vấn đề: nếu cả Mác-ta cũng tiếp chuyện Đức Giê-su mà không có ai lo việc tiếp đãi Ngài, cụ thể là lo nước nôi tiếp khách và bữa ăn cho Ngài, thì có nên không? Ngài có hài lòng về cách tiếp đãi đó không?

2. Giữa hai chị em với nhau, thái độ của mỗi người có chỗ nào hay, chỗ nào dở? Mỗi người phải sửa đổi lại thái độ của mình thế nào cho hoàn hảo?

3. Bạn nghĩ gì về người năng cầu nguyện mà không năng hành động, hay năng hành động mà không năng cầu nguyện?

Suy tư gợi ý:

1. Hiếu khách phải là một đặc điểm của người Ki-tô hữu


Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi nhà Mác-ta và Ma-ri-a, là những người rất mến mộ Ngài. Đây là một dịp tốt để hai chị em tỏ lòng yêu thương và quí mến Ngài. Tinh thần hiếu khách như hai chị em này là một trong những đặc điểm của người Á Đông, mà cũng phải là đặc điểm của mọi Ki-tô hữu, vì đó là một khía cạnh quan trọng và cụ thể của tình yêu thương vốn là nền tảng của Ki-tô giáo. Trong bài đọc I, A-bra-ham đã tỏ ra thật hiếu khách. Không ngờ lần này khách đến lại là sứ giả của Thiên Chúa. Nếu bình thường ông không hiếu khách, thì khi thiên sứ đến bất ngờ dưới dạng người thường, làm sao ông tỏ ra hiếu khách với các vị ấy được? Điều này giúp chúng ta ý thức lại: mọi người khách đến với gia đình ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, và phần nào là hiện thân của chính Đấng mà ta đang tôn thờ và muốn yêu mến hết lòng. Như thế, quí mến khách cũng là một cách tỏ lòng quí mến Chúa.

2. Cần có sự phân công hợp lý trong gia đình, trong tập thể

Để tiếp đón Ngài cho phải lẽ và làm hài lòng Ngài, phải có người tiếp chuyện Ngài, vì nếu để Ngài ngồi không một mình thì quả là bất lịch sự. Nhưng cũng phải có người lo chuyện nước nôi và những món ăn tiếp đãi khách chứ! Vì nếu tới bữa ăn mà để cho khách ra về bụng đói, hoặc cho khách ăn một bữa cơm quá thanh đạm, xoàng xĩnh, thì còn gì là quí mến khách nữa? Vì thế, hai chị em không ai nói với ai, đã tự phân công: một người hầu chuyện Ngài, một người lo chuyện phục vụ Ngài, điều ấy thật hợp lý. Nếu cả hai cùng tiếp chuyện Ngài, thì ai lo nấu ăn? Hay nếu cả hai đều lo nấu ăn, thì ai tiếp chuyện Ngài?

3. Cần quan tâm đến nhau và tìm cách làm cho nhau hạnh phúc

Ưu điểm của Mác-ta là tinh thần năng động, cô biểu lộ tình yêu và sự quí mến của mình bằng việc phục vụ, quan tâm tới nhu cầu cụ thể của người khác. Thật là một đức tính tốt! Nhưng điều không hay nơi Mác-ta là ganh tị với em: thấy em ngồi nói chuyện với Đức Giê-su, có vẻ nhàn nhã quá, để mình phải vất vả cực nhọc, thì đâm ra buồn phiền. Cô không thể dấu trong bụng sự tị nạnh đó, mà phải bộc lộ ra, đến độ có vẻ như trách móc Đức Giê-su: «Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!». Có vẻ như cô cảm thấy không được ai chú ý tới, nhất là không ai biết tới sự khó nhọc của mình. Cái thiếu sót này rất đáng thông cảm vì tâm lý chung mọi người đều như vậy!

Cái hay của Ma-ri-a là biểu lộ tình yêu và lòng quí mến của mình bằng cách chăm chú nghe và ghi nhận, học hỏi những điều hay từ Đức Giê-su. Điều này sẽ rất ích lợi cho cô, nhất là về mặt tâm linh. Nhưng cái thiếu sót của Ma-ri-a là dành độc quyền nói chuyện với khách, mà không nghĩ gì tới sự khó nhọc vất vả của chị mình để tìm cách chia sẻ công việc với chị. Chẳng hạn, thỉnh thoảng cô có thể mời chị lên tiếp chuyện với Thầy và làm bếp thay thế chị một chút. Hai chị em thay phiên nhau, vừa tiếp Thầy, vừa lo chuyện phục vụ Thầy thì đẹp hơn biết mấy!

Trong cuộc sống chung của gia đình hay tập thể, nếu chúng ta biết quan tâm đến nhau, đến niềm vui, nỗi khổ, đến những nhu cầu, lo lắng, bận tâm của nhau, thì cuộc sống chung trở nên hạnh phúc biết bao! Sự quan tâm ấy thể hiện cụ thể tình yêu thương của ta đối với nhau. Nếu không có tình yêu thương, nếu ai cũng chỉ nghĩ đến mình, đến niềm vui và nỗi khổ, nhu cầu và lo lắng của mình, thì cuộc sống chung sẽ trở thành hỏa ngục.

3. Cần ưu tiên cho đời sống tâm linh.

Cách trả lời của Đức Giê-su: «Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi», khiến cho nhiều người nghĩ rằng Đức Giê-su đã coi việc tiếp chuyện Ngài là quan trọng và đẹp lòng Ngài hơn chuyện lo chăm sóc bữa ăn cho Ngài. Từ đó họ suy ra rằng việc cầu nguyện thì đáng quí và làm hài lòng Chúa hơn việc hoạt động. Nhưng ta thử đặt vấn đề: nếu cả hai chị em đều lo ngồi hầu chuyện Đức Giê-su, mà chẳng ai lo bữa ăn chu đáo cho Ngài, thì Ngài có hài lòng lắm không?

Là người hướng dẫn tâm linh, Ngài thấy đời sống tâm linh quan trọng hơn thể chất rất nhiều, nhân đó Ngài muốn, bằng câu nói trên, cho hai chị em một bài học: cần phải đặt nặng và lo cho đời sống tâm linh hơn thể chất. Tại sao? Vì người đời thường có khuynh hướng lãng quên đời sống tâm linh, mà chỉ chú tâm đến đời sống thể chất. Họ dành rất nhiều thì giờ và năng lực vào chuyện cơm ăn áo mặc, chuyện tiện nghi vật chất, chuyện quyền lực địa vị, chuyện tranh đua để hơn người khác, tóm lại là những chuyện liên quan đến đời sống tạm bợ ở trần gian. Đa số ít quan tâm, hoặc ít người quan tâm đầu tư cho đời sống tâm linh của mình, là điều chẳng những đem lại hạnh phúc thanh tao ở đời này, mà còn đem lại hạnh phúc lâu dài đời sau.

4. Cần có sự điều hòa và quân bình giữa tâm linh và thể chất, giữa cầu nguyện và hành động

Trong thực tế, hai khía cạnh của sự sống – tâm linh và thể chất – liên quan đến nhau, hỗ trợ nhau. Khía cạnh này tốt đẹp và lành mạnh thì cũng sẽ ảnh hưởng tốt đẹp lên khía cạnh kia. Tuy nhiên, quá quan tâm đến khía cạnh này thì sẽ bỏ bê đồng thời làm hại cho khía cạnh kia. Do đó, hai khía cạnh ấy của sự sống cần phải được quan tâm một cách điều hòa và quân bình: không nên quá quan tâm đến khía cạnh này mà bỏ bê khía cạnh kia, nhất là đối với giáo dân, là những người sống giữa trần gian.

Cũng tương tự như thế, cần phải có sự điều hòa và quân bình giữa sự cầu nguyện và hành động. Cầu nguyện nhiều mà không cảm thấy có sức mạnh nào thúc đẩy mình đi đến hành động thực tế, thì sự cầu nguyện ấy hẳn nhiên không phải là cầu nguyện đích thực, nghĩa là không thật sự gặp gỡ Thiên Chúa. Rất nhiều Ki-tô hữu hiện nay ở trong tình trạng này. Họ cảm thấy an tâm, tự cho mình là người đạo đức, chỉ vì họ đã dành rất nhiều thì giờ để cầu nguyện. Nhưng sự cầu nguyện của họ chẳng dẫn họ đến hành động để thể hiện cụ thể tình yêu thương mà đáng lẽ họ phải đạt được khi cầu nguyện đích thực. Vì thế, rất nhiều việc đáng lẽ họ nên làm hoặc phải làm, nhưng họ đã không làm. Và hiện nay cũng có nhiều nhà hướng dẫn tu đức chỉ hoặc quá nhấn mạnh đến cầu nguyện, mà không quan tâm hoặc không nhắc nhở gì đến bổn phận phải hành động.

Tuy nhiên, năng hành động mà không năng cầu nguyện thì ta dễ đi đến chỗ hành động chỉ vì lợi ích riêng của mình, chứ không phải vì Thiên Chúa hay tha nhân. Hành động như thế xét về mặt tâm linh thì không mấy giá trị và ít đem lại lợi ích thiêng liêng. Người hành động nhiều mà không cầu nguyện giống như người hành trình vào một vùng đất lạ, chỉ biết đi tới mà không biết phải lâu lâu dừng lại xem bản đồ để biết mình đang ở đâu, và biết phải đi đường nào để tới nơi mình muốn. Vì thế, có rất nhiều khả năng là họ sẽ lạc đường. Hoặc như người hành trình không biết dừng lại để ăn uống, hay để đổ xăng, hầu tiếp sức cho chính bản thân hoặc tiếp nhiên liệu cho phương tiện di chuyển. Họ sẽ không đủ sức và phương tiện để đi hết cuộc hành trình. Vậy, cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời sống Ki-tô hữu mà chúng ta cần phải thực hiện một cách quân bình và điều hòa trong cuộc sống.

Cầu nguyện


Lạy Chúa, bất kỳ một nhân đức nào trong đời sống cũng đòi hỏi phải được bổ túc bằng một nhân đức đối nghịch với nó thì nhân đức ấy mới thật sự là nhân đức. Vì thế, xin hãy cho con ơn khôn ngoan và khiêm nhượng đi đôi với lòng can đảm, cho con hiền lành mà cương quyết, năng cầu nguyện nhưng dám hành động, v.v… Tóm lại, cho con vừa biết lắng nghe lời Chúa như Ma-ri-a, nhưng cũng vừa biết săn tay lên để làm việc như Mác-ta. Amen.

------------------------------------

 

TN 16-C24. Dấu chỉ


- Lm Anrê Dũng Lạc Trần Cao Tường

 

Các người thường nói: "Ráng chiều ửng hồng, rạng đông sẽ đẹp"; hoặc: "Trời kia màu đỏ pha: TN 16-C24


Các người thường nói: "Ráng chiều ửng hồng, rạng đông sẽ đẹp"; hoặc: "Trời kia màu đỏ pha thâm, hôm nay giông gió không nhầm đâu ai". Các người đã biết nhìn điềm trời mà luận thời tiết, cớ sao không biết xem dấu chỉ mà luận thời kỳ?" (Mt 16:1-3).

Một anh sinh viên Việt ít còn biết nói tiếng Việt, nhưng nghe thì cũng lõm bõm tạm được, một hôm đến gặp một nhân viên Mỹ trong thư viện đại học New Orleans để làm thẻ mượn sách. Sau một hồi thủ tục, người Mỹ vừa đưa thẻ mới ép xong vừa nói một câu tiếng Việt làm người sinh viên Việt ngạc nhiên: thẻ nóng hổi vừa thổi vừa mượn. À thì ra anh Mỹ này đã từng ở Việt Nam, học được kiểu nói của dân Sài gòn xưa "bánh mì nóng hổi vừa thổi vừa ăn", nên biến chế tại chỗ thành câu "thẻ nóng hổi vừa thổi vừa mượn" thật tài tình mà dí dỏm quá chứ.

Câu chuyện nhỏ này không ngờ lại đánh động anh sinh viên Việt. Anh tự nhủ: người ta không phải là người Việt mà sài được tiếng Việt hay như thế, còn mình gốc Việt hẳn hòi mà mù chữ mẹ. Thế là anh ta bắt đầu học tiếng Việt và nói được.

DẤU CHÂN TRÊN CÁT

Khởi đi từ một xúc động bất ngờ, tôi bị bài thơ "Những Sợi Tóc" của nhà thơ Trần Phong Vũ trong tập thơ Dấu Chân Trên Cát quấn buộc lấy tôi một thời gian không sao cựa quậy được. Đó là những sợi rung, những sợi trăn trở, những sợi thần kinh căng thẳng, quá thực, về một chứng kiến dấu chân không phải trên cát, mà nơi cái đầu rụng hết tóc của đứa con gái út cục cưng hai mươi tuổi trong cơn bệnh có uy lực thay đổi nhãn quan cả một đời người:

Ôi! Những sợi tóc Yêu-Thương gọi về những ngày-xưa-thân-ái
Những sợi tóc tơ mềm của một thời bé dại...
Hai-mươi-năm trôi qua, những sợi tóc ngắn dài đổi thay theo thời trang, ngày tháng
Tuổi trăng tròn con học đòi làm dáng
Đứng trước gương con e lệ cúi đầu...
Bố mẹ nhìn con lớn lên mà hồn rộn rã tiếng ca vui...

....

Nhưng ai ngờ! ...

Một buổi chiều bão nổi, sét nổ ngang đầu!
Cơn bệnh trầm kha đẩy con vào bệnh viện!
Mấy chục ngày đêm thuyền hồn con trôi vào cơn mê biền biệt!
Cho bố mẹ thương đau!...
Chiều nay tan sở
Bố ghé bệnh viện thăm con
nhưng khi chạm mặt con, chợt nghe hồn nức nở!
Sông núi cựa mình!
Đất trời vụn vỡ!

......

Những sợi tóc Yêu-thương đã từ giã mái đầu!
Ôi còn đâu!
Những sợi tóc tơ mềm gọi về những ngày-xưa-thân-ái.
Những sợi tóc thơm, hơi hương của một thời bé dại.
Chơi vơi!
Có tiếng nổ chát chúa lưng trời,
Từ đáy linh hồn dội lên cơn địa chấn!

DẤU GHI NÀO TỪ ĐỘNG ĐẤT TRONG TÔI?

Một câu nói vui của một người Mỹ làm anh bạn sinh viên thay đổi lối nhìn. Một bài thơ thực chứng có sức lay động làm mình khắc khoải tìm câu trả lời. Đó chính là cái đầu trọc của đời mình, từ những tước đoạt trơ trẽn sau cái ngày bỏ cuộc! Không còn chỗ đứng chỗ ngồi gì hết. Sự nghiệp và ước mơ bị quăng vào sọt rác, xác con bị vất xuống biển. Kiếp cu li bắt đầu. Vết thương rói tươi ngồn ngộn khiến mình la hét giẫy giụa như vết thù hằn trên lưng ngựa hoang. Tại sao tôi sinh ra làm người Việt Nam phải cúi mặt nhục nhằn trước đà tiến bộ của nhân loại? Chả lẽ mình lại hăm hở lao đầu vào cuộc chơi mới đã vấy bẩn với những bon chen chộp giật cho bớt tủi, để gỡ gạc bù trừ cái hụt hẫng, cái trống rỗng thăm thẳm! Cuộc ra đi có mang một sứ mệnh hoặc một sử mệnh nào không, hay cũng chỉ để kiếm chút bơ thừa sữa cặn của cái xã hội đã quá chán mứa này!

Sắp chấm dứt một thế kỷ bước sang ngàn năm mới, mình lại phải chứng kiến cuộc đắm tàu của cả một nền văn minh. Rất nhiều con tàu như Titanic tưởng rằng không thể chìm nổi thì đã chôn sống 1500 người giữa mộ Đại Tây Dương. Nước này hơn, nước kia kém. Hận thù vay trả trả vay trùng điệp. Chả lẽ con người sinh ra ở đời lại có thể phi lý đến như vậy: sinh ra đó, lớn lên đó, giành giật thêm chút mồi, chém giết nhau kiếm thêm tí danh hão, để rồi già đi lúc nào không rõ, rồi lăn ra chết... Kiếp ngắn dài một mộ bia, xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian, dừng chân đếm túi hành trang, những gì còn lại?

MỘT NGÀY MẮT BỖNG SÁNG LÊN

Tất cả những tù mù phi lý, những căng thẳng tột cùng gây thành cơn địa chấn, được Trần Phong Vũ diễn lên thành cơn hốt hoảng lạnh xương sống Bên Vực Tử Sinh:


đường vào bệnh viện,
một buổi sáng mù sương....
từ khu cấp cứu dội lên những tiếng tru gào, réo hú
tiếng tru kinh hoàng của loài thú hoang trong giờ lâm tử!
thần chết lảng vảng đâu đây,
người đàn ông rùng mình giương đôi mắt thất thần...



Vậy mà chỉ một khoảnh khắc được bật sáng, Trần Phong Vũ bỗng "thấy" được bằng một nhãn quan mới đi vào khung trời "Phục Sinh", bình minh của một ngàn năm mới, như mắt hai môn đệ trên đường Em-mau sực mở ra trong buổi xế chiều của thế kỷ:

Trên chiếc giường nệm trắng, cô bé bệnh nhân, trong thế nằm nghiêm cẩn
đang chắp tay, mắt mở lớn, miệng mấp máy thì thầm lập lại lời ca
Halleluia. Halleluia...
Gã bước lại gần cửa sổ
nhìn xuống
bên ngoài ánh bình minh lấp lánh ngập tràn khuôn viên y viện.
bình minh của một ngày
bình minh của một đời.



Trong cuộc tỵ nạn chạy trốn vào sa mạc hoang vu tăm tối tịt đường, Mai-sen bỗng thấy được đốm lửa bật lên trong bụi gai, trong thẳm sâu lòng mình. Bình minh đời mình được khai mở. Mắt của ông sáng rực từ đây, và bật điện mở lối cho cả đám dân đang quằn quại.

Mặc dầu đang đi qua đêm đen hãi hùng, đang mò mẫm qua vùng mồ mả đầy xác chết và xương trắng ngổn ngang của hoàn cảnh lưu đầy bi thảm bên Babylon, tiên tri Ezekiel vẫn thấy được trong thị kiến một đoàn người Do Thái đang hồi sinh đứng dậy. Sở dĩ ông có niềm tin ấy là vì dưới con mắt ông, Thiên Chúa hằng sống vẫn đang dẫn đầu cuộc hành trình. Lịch sử của dân tộc phải có một ý nghĩa, mặc dù dưới con mắt của nhiều người là phi lý chán chường. Cái hướng lịch sử này đang được mở tới theo một con đường huyền nhiệm do Đấng Toàn Năng. Đã đến lúc chiếc xe lịch sử chuyển bánh thì không một sức mạnh nào cản ngăn được nữa. Tiên tri Ezekiel đã thành công trong việc khắc sâu niềm tin này vào tâm khảm những kẻ lưu đầy khi họ phải đương đầu với một tương lai mịt mù đen tối của dân tộc.

Dứt lời truyền, cả đoàn người đứng dậy,
Đông đảo thay người người sát vai chen.
Ngài bảo: "Đó toàn thể Israel,
Ta cho chúng phục sinh từ cõi chết".

Viễn kiến trên đã được một người thuộc thế hệ trẻ, tức là thế hệ thứ hai của lớp người lưu đầy, là Isaia, bật lên một nhãn quan mới sáng rực với những áng thơ đầy sinh khí, có sức tụ lực thành một nhóm nhỏ hạch nhân, vẫn thường được gọi là "Nhóm Do Thái Sót Lại" (Remnant of Israel). Chính nhóm nhỏ này đã làm bừng lên cả một phong trào hồi sinh Do Thái, làm mọi con mắt sáng lên nơi cả một lớp người vươn khỏi những gì bế tắc tăm tối, bằng một kế hoạch lên đường.

TIN VUI GỬI NGƯỜI BẬT ĐIỆN

Giữa những tù mù ngột ngạt của lớp người Việt ly hương vào thời điểm 2000 mà có được những bật sáng mở được nhãn quan mới thì cần thiết biết chừng nào. Những phô trương cả một thế kỷ qua đều chỉ nhằm vào nhu cầu vật chất "con vật kinh tế" cho lợi tức gia tăng, tưởng sẽ đưa con người đến hạnh phúc hơn, nhưng rồi "quả đắng đến không ngờ" là những nhầy nhụa, buồn nôn và phi lý càng làm cho mắt mờ đi.

Chính vì thế mà khi thấy Mát-ta bận rộn lam lũ vật chất, mà lại đi phen bì với Maria đang ngồi nghe Chúa nói chuyện thì Ngài phải lên tiếng: "Mác-tha, Mác-tha, con bối rối lo tính nhiều món quá. Chỉ cần một món mà thôi: Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai lấy mất" (Luca 10:41-42)

Món cần lúc này chính là chuyển được niềm tin, mở được nhãn quan mà cảm nhận được sức mạnh tinh thần. Hạnh phúc thật giản đơn chứ không quá phức tạp như con người trong xã hội tiêu thụ ngày nay. Khi mở được nhãn quan mới thì mọi bon chen cao thấp, mọi giằng co hơn thiệt, bỗng trở thành chuyện nhỏ nhen đáng tội nghiệp.

Đây cũng là sứ mệnh của những người cầm bút (hay máy điện toán) Công Giáo: thấy và làm chứng, chuyển được viễn kiến Phục Sinh giữa những chết chóc, loan được Tin Vui giữa những cung buồn. Một người, rồi hai người, rồi một nhóm, thổi được sinh khí làm hồi sinh như nhóm nhỏ Isaia, như nhóm hạch nhân 12 môn đệ: "Phải chăng tim chúng ta chẳng bừng bừng trong ngực khi Người nói chuyện với chúng ta dọc đường, và giải thích thánh kinh cho chúng ta sao?" (Luca 24:32).

Nhà văn Quyên Di đã phát biểu một câu chí lý: "Chúng ta có nhiều người Công Giáo viết văn, nhưng rất ít nhà văn Công Giáo". Họ phải là những người biết "nhìn dấu chỉ thời đại và chụp ghi dưới ánh sáng Tin Vui" (Hiến chế Vui Mừng Hy Vọng #4, công đồng Vatican II), biết "Nhìn Xuống Cuộc Đời" với con mắt bật điện. Giữa một rừng ca nhạc ồn ào khó phân biệt tục và thiêng, bài "Ngày Vinh Thắng" của nhạc sư Ngô Duy Linh như có sức làm mọc cánh bay lên theo đàn chim Dũng Lạc. Đúng là Tin Vui Gửi Thời Đại Mới. Trong Thi Nhân Việt Nam, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận xét về vai trò chứng nhân đức tin Công Giáo của Hàn Mặc Tử nhập thể trong dòng sống chung của một dân tộc:

"Thơ Hàn Mặc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể" (trang 212).

Hàn Mặc Tử cũng như nhiều nhà văn Công Giáo đã nhìn theo tay chỉ của Chúa Giêsu: "Các người thường nói:

Ráng chiều ửng hồng,
rạng đông sẽ đẹp;

hoặc:

Trời kia màu đỏ pha thâm,
hôm nay giông gió không nhầm đâu ai.

Các người đã biết nhìn điềm trời mà luận thời tiết, cớ sao không biết xem dấu chỉ mà luận thời kỳ?" (Mt 16:1-3).


------------------------------------

 

TN 16-C25. Maria đã chọn phần tốt nhất


- Lm Augustine, SJ

Đọc Tin Mừng Lc. 10, 38-42

(38) Trong khi Thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mácta đón Người vào nhà. (39) Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. (40) Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !" (41) Chúa đáp: "Mácta ! Mácta ơi ! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá ! (42) Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi".

Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng

Khung cảnh


 

Đoạn Tin Mừng này chỉ có trong Phúc Âm Luca. Nó nằm trong một phần lớn hơn Lc 10,1-11,13: TN 16-C25


Đoạn Tin Mừng này chỉ có trong Phúc Âm Luca. Nó nằm trong một phần lớn hơn Lc 10,1-11,13. Phần lớn hơn này ghi lại những lời giáo huấn của Chúa Giêsu đối với các môn đệ, Ngài dạy họ về những thái độ mà người môn đệ phải có:

* Lc 10,21-24: hồng ân được làm môn đệ Đức Giêsu.

* Lc 10,25-37: luật bác ái (dụ ngôn người Samari nhân hậu)

* Lc 10,38-42: truyện Martha và Maria

* Lc 11,1-13: thái độ cầu nguyện.

Truyện Martha và Maria nằm giữa những lời giáo huấn căn bản khác của Chúa Giêsu, điều đó khiến ta nghĩ rằng thánh Luca, khi viết truyện này, có ý trình bày một bài học nào đó của Chúa Giêsu, và đây hẳn là một bài học quan trọng đối với chúng ta hôm nay.

Khi đọc đoạn Tin Mừng trên, ta không thấy Luca nói rõ về thời gian và không gian xảy ra cuộc ghé thăm của Chúa Giêsu. Nhưng Luca lại nói rõ tên của Martha và Maria: điều này cho thấy Luca có để tâm đến họ (thiết tưởng nên biết rằng Luca là thánh sử để ý nhiều hơn cả đến vai trò của các phụ nữ trong đời sống tông đồ của Chúa Giêsu và trong Giáo Hội sơ khai). Đọc đoạn Tin Mừng trên, ta thấy 3 câu đầu nhằm mô tả cách thức hai chị em đón tiếp Chúa Giêsu, còn hai câu sau mới là điểm chủ yếu, là kết luận, là bài học mà thánh Luca muốn thông đạt cho chúng ta.

Khuôn mặt của Martha và Maria

Martha là chủ nhà, chính chị đã đón Chúa Giêsu vào nhà (c.38). Người Do Thái rất hiếu khách. Vì Martha muốn tiếp đãi Chúa Giêsu hết sức chu đáo (c.40), nên chị rất lo lắng bối rối trước bao nhiêu việc phải làm trước mắt (c.41). Nỗi lo lắng của chị biểu hiện lòng KÍNH TRỌNG của chị đối với Chúa Giêsu. Chị muốn phục vụ Chúa Giêsu cho xứng đáng với phẩm tước của Ngài.

Maria hẳn là cô em của Martha. Cô này "ngồi dưới chân Chúa mà NGHE LỜI NGÀI" (c.39). Thái độ "ngồi dưới chân" là thái độ của người môn đệ trước Thầy mình (Cv 22,3; Lc 7,38; 8,41; 17,16; 8,35). Chúng ta hãy ngắm nhìn tư thế của Maria, tư thế tiêu biểu của người môn đệ. Môn đệ chính là người khiêm tốn đón nhận, lắng nghe lời dạy của Thầy Chí Thánh, và đón nhận với lòng kính cẩn, mến yêu. Chúa Giêsu đã nói gì với cô Maria, chúng ta không biết. Nhưng chắc chắn cô Maria đã bị Lời Chúa cuốn hút và làm say mê. Cô đã được no thỏa bởi những Lời của Chúa và cô muốn kéo dài những giây phút sống bên Chúa. Cô quên cả nghĩa vụ phải giúp chị lo bếp núc, dọn dẹp nhà cửa để đón tiếp Chúa.

Phản ứng của Martha

Ngay bây giờ chúng ta đã thấy có sự tương phản giữa hai khuôn mặt, hay đúng hơn có sự tương phản giữa hai cách tiếp đón Chúa Giêsu của hai chị em. Cả hai đều kính trọng và yêu mến Chúa Giêsu, nhưng CÁCH thể hiện lòng kính yêu đó lại khác biệt tùy người. Martha bận rộn, bối rối, lo lắng chuyện vật chất. Còn Maria có vẻ bình thản, hạnh phúc, ngồi bên chân Chúa, nghe Chúa nói chuyện. Chính từ sự khác biệt này mà Martha có phản ứng đối với cô em gái, và chị biểu lộ phản ứng này TRỰC TIẾP với Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, em gái tôi để tôi phục vụ một mình mà Ngài không màng nghĩ tới sao?" (c.40). Chị Martha rõ ràng không hiểu được thái độ của cô em: thái độ ngồi không, thái độ không chịu vén tay áo lên mà lau chùi, dọn dẹp, nấu nướng… như mình. Chị không cảm được cái hạnh phúc mà cô em đang được hưởng. Chị chỉ thấy "ngồi dưới chân Chúa mà nghe" là một việc không quan trọng chút nào, còn nhiều việc khác cấp bách hơn và quan trọng hơn. Chính vì thế, chị muốn kéo cô em ra khỏi cái thái độ rảnh rỗi vô ích ấy để bắt tay vào làm việc. Chị khôn khéo nhờ Chúa Giêsu nói với em mình một tiếng, và trong câu nói của chị, ta thấy có ngụ ý trách móc Chúa một cách nhẹ nhàng: "mà Thầy không quan tâm đến sao?". Chị yêu cầu một cách cụ thể: "Vậy xin Ngài bảo nó đỡ đần tôi với". Như thế, chị Martha đã không chấp nhận cách tiếp đón Chúa của Maria. Đối với chị, tiếp đón Chúa đòi hỏi phải làm, phải dọn dẹp, phải chu tất mọi sự cách hoàn hảo. Chị không biết rằng ngồi nghe Chúa nói cũng là một cách tiếp đón Chúa có GIÁ TRỊ không kém. Chị muốn em chị cũng phải tiếp đón Chúa theo cách của chị.

Lời giáo huấn của Chúa Giêsu

Nếu Martha cứ vui vẻ, bình an lo việc bếp núc, nhà cửa thì chắc Chúa Giêsu đã chẳng trách móc chị. Nếu Martha không đòi Chúa Giêsu phải dạy bảo cô em của mình; nếu Martha biết quý trọng việc Maria ngồi dưới chân Chúa mà hầu chuyện Ngài, thì chắc ta không có đoạn Tin Mừng hôm nay. Martha là một người tốt, có tấm lòng quảng đại với Chúa Giêsu, nhưng cái nhìn của Martha đã vướng phải những sai lầm. Một người tốt vẫn có thể sai lầm. Chúng ta ai cũng biết Giáo Hội trân trọng tình yêu của Martha đối với Chúa Giêsu: Martha được Giáo Hội coi là một vị thánh. Nhưng Chúa Giêsu vẫn thấy cần phải giúp Martha ra khỏi sai lầm của mình. Đó là nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc lắng nghe Lời Chúa. Việc lắng nghe Lời Chúa là việc duy nhất, là việc TỐT HƠN những việc khác. Maria đã làm việc này và Chúa Giêsu yêu mến việc nghe Lời Chúa của Maria. Đây không phải là một việc THỪA, hay VÔ ÍCH, nhưng là việc CẦN THIẾT, DUY NHẤT CẦN THIẾT. Đã hẳn Chúa Giêsu đón nhận sự tiếp đãi nồng hậu của Martha với lòng biết ơn, vì Ngài thấy tấm lòng của Martha ẩn dưới những hành động đó, nhưng Ngài muốn cho Martha thấy rằng: nghe Lời Chúa để rồi đem ra thực hành là dấu hiệu cao quý của lòng kính yêu, một dấu hiệu mà Chúa thích hơn những dấu hiệu khác.

Chúa Giêsu cũng có ý trách Martha về sự "lo lắng xôn xao về nhiều chuyện" của chị. Đành rằng sự lo lắng đó là vì yêu Chúa Giêsu thôi, nhưng có lẽ Chúa muốn chúng ta phục vụ Ngài trong bình an, thanh thản, vui tươi không ganh tị, so đo, không coi điều mình làm là có giá trị nhất, cũng không tìm cách tố giác người khác. Có người hay lo lắng bối rối chỉ vì tính khí; có người lo lắng bối rối vì tình yêu của mình đối với Chúa Giêsu còn nhiều cặn bẩn của lòng yêu mình, chính cái hẹp hòi của mình làm cho mình mất bình an, thư thái. Chúng ta không kết tội Martha, nhưng chúng ta hãy xem xét chúng ta ở trường hợp nào. Chúng ta có phải là một người làm việc tông đồ một cách xôn xao ầm ĩ không? Chúng ta có phục vụ Chúa một cách bối rối bất an không? Chúng ta có bị loay hoay, bực bội vì "nhiều chuyện" không? Coi chừng "nhiều chuyện" mà chúng ta đang theo đuổi vì yêu Chúa lại làm cho chúng ta quên đi một chuyện cần thiết hơn cả đó là an tĩnh lắng nghe Lời Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn đệ.

Chắc chắn, khi Chúa đến nhà, cần phải có một Martha lo bếp núc để thiết đãi Chúa, nhưng cũng cần một Maria ngồi hầu chuyện và nghe Ngài nói. Điều quan trọng là Martha phải phục vụ trong bình an vui tươi, và Maria không chỉ ngồi lắng nghe suông nhưng sau đó còn biết đem ra thực hành. Chính Martha, ngay trong công việc phục vụ của chị, chị cũng phải được Lời Chúa hướng dẫn và chi phối không kém gì Maria.

Một số câu hỏi gợi ý

1. Có khi nào bạn thấy mình giống chị Martha không: tất bật, lo lắng, lăng xăng? Làm sao tôi có thể phục vụ Chúa trong bình an và yêu thương, không so đo ganh tị?

2. Maria hạnh phúc khi được lặng lẽ ngồi bên Chúa để nghe Lời Người. Bạn có cảm thấy nhu cầu đó nơi tâm hồn bạn không, giữa những cơn lốc của cuộc sống bon chen?

3. Bạn có tin rằng cầu nguyện và gặp gỡ Chúa sẽ giúp bạn thêm sức mạnh mà chu toàn mọi sự trong bình an, thanh thản không?


------------------------------------

 

TN 16-C26. Thiên Chúa đã viếng thăm


- Lm P.Đamianô Đinh Ngọc Thiệu

Nghe

St 18,1-10a: Đức Chúa hiện ra với ông Apraham tại cụm sồi Mambrê. Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Ông vội vã vào lều tìm bà Xara mà bảo: “ Bà mau mau lấy ba thúng bột mà nhồi, rồi làm bánh.” Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. Ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa, khách nói với ông: “ Bà Xara, vợ ông đâu? ” Ông đáp: “ Thưa, nhà tôi ở trong lều.” Người nói: “ Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xara vợ ông sẽ có một con trai.”

Cl 1,24-28: … Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho các Thánh của Thiên Chúa. Người đã muốn cho họ biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: Đó là Đức Kitô đang ở giữa anh em. Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang.

Lc 10, 38-42: Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Macta đón người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “ Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin thầy bảo nó giúp con một tay.” Chúa đáp: “ Macta! Macta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.”

Ngẫm

CÂU HỎI GỢI Ý


------------------------------------

 

TN 16-C26. Chúa đến viếng thăm

 

Chủ đề các bài đọc hôm nay ? 2. Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta có nhận ra việc Chúa: TN 16-C26


1. Chủ đề các bài đọc hôm nay ?
2. Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta có nhận ra việc Chúa đến viếng thăm và lời Ngài muốn nói với chúng ta
3. Chúng ta cần phải làm gì để đáp lại mối tình của Ngài ?

SUY TƯ GỢI Ý

1. Chủ đề các bài đọc hôm nay:

Thiên Chúa đã viếng thăm và loan báo tin vui cho muôn người

“ Thuở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta quaThánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Ngài mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.” ( Dt 1,1-2).

Hai câu trên trích trong thư gửi Do Thái, tác giả được Chúa linh ứng đã lược tóm trọn cả lịch sử cứu rỗi.

* Bài đọc 1 hôm nay: Chúa đã đến gặp Abraham qua hình ảnh ba người khách lạ. Abraham, Xara vợ ông và các tôi tớ đã mau mắn ân cần tiếp đãi các vị. Đang khi dùng bữa, khách đã nói với ông: “ Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xara vợ ông sẽ có một con trai. ” Đây chính là tin vui lớn lao cho ông bà vì hài nhi được loan báo chính là Isaac, người con của lời hứa, sẽ trở thành tổ phụ của một dân tộc đông đảo.

* Trong thư gửi Cô-lô-xê, Thánh Phaolô xác nhận: Mình là người được Thiên Chúa giao phó phải rao giảng lời Ngài cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại, qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ bày cho các Thánh của Thiên Chúa. Người muốn cho họ được hiểu biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại.Đó chính là Đức Kitô đang ở giữa anh em ( Cl , 24 – 28 )

* Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Luca thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu đến thăm hai chị em Macta và Maria. Ngài đến với họ như một người bạn bình thường nhưng chính Ngài là Nhân Vật quan trọng nhất, là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, Đấng đã được các ngôn sứ loan báo sẽ đến trong thế gian. Ngài đến thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Đó chính là tin vui lớn nhất cho muôn loài. Macta bận rộn trong công việc tiếp đón Ngài, còn Maria, người đã chọn phần tốt nhất, ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Ngài.

2. Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta có nhận ra những lần Chúa đến viếng thăm và Lời Ngài muốn nói với chúng ta không ?

Mặc dù không có cơ hội gặp gỡ Chúa, mặt giáp mặt như Abraham, Macta và Maria hay cuộc xuất hiện đầy uy lực của Chúa đã quật ngã Phaolô, cả người lẫn ngựa trên đường đến Damas, chúng ta vẫn được Chúa đến viếng thăm như lời Ngài đã hứa: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy ( Ga 14,23 ).

* Quả thế, Ngài đến với chúng ta qua các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Các bí tích đã theo dõi, nâng đỡ ta từ khi sinh ra, trong những biến cố vui buồn cuộc sống, bệnh tật, già yếu và cho đến lúc lìa đời.

* Chúa giáo huấn ta bằng Lời của Ngài, Lời hằng sống, Lời luôn hữu hiệu khi thời gian đến . Ngài giáo huấn ta qua Giáo hội, Hiền thê của Ngài để chúng ta mỗi ngày một nên hoàn thiện noi gương Đức Kitô là Đầu. Ngài đến và giáo huấn chúng ta qua những biến cố lịch sử và hoàn cảnh cụ thể của từng người. Và nhất là Ngài đến với chúng ta qua những người anh chị em, đặc biệt là những người nhỏ bé nhất, những người đang cần sự giúp đỡ của chúng ta. Phải chăng nhiều lần Chúa đến mà chúng ta đã không đón nhận Ngài: “ Ngài đã đến nhà mình nhưng người nhà đã không đón nhận”? Câu chuyện ngày cánh chung của Thánh sử Matthêu cho chúng ta thấy rõ: ngày đó khi Chúa vừa tuyên thưởng xong, thì những người công chính thưa rằng: “ Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống …, khách lạ mà tiếp rước, hoặc mình trần mà cho mặc. Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù mà đến thăm đâu? ” … Rồi đến những kẻ bên tả cũng ngạc nhiên không kém khi bị Chúa luận tội, hỏi lại Ngài … Bấy giờ, Ngài sẽ đáp lại họ rằng: “ Ta bảo thật các ngươi mỗi lần các người không làm như thế cho những người nhỏ bé nhất đây, là các người đã không làm cho chính Ta vậy. ” ( Mt 25,31-46 ).

Vậy yêu Chúa cũng chính là yêu người và yêu người là bằng chứng chúng ta thuộc về Chúa: “ Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là các con yêu thương nhau.” ( Ga 13,35 ).

3. Chúng ta phải làm gì để đáp lại mối thịnh tình của Chúa ?

Trong cuộc sống chúng ta có nhiều dịp được gặp gỡ Chúa nơi những anh chị em đồng hội đồng thuyền, cần phải biết đón nhận nhau như những người con của Chúa vì chúng ta còn nhiều sai lỗi và vì Thiên Chúa Đấng toàn thiện luôn yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta là những tội nhân.

* Cần phải biết lắng nghe ý Chúa bộc lộ qua lời bề trên, sự nhất trí chung trong các buổi sinh hoạt gia đình, tôn trọng lẽ phải và pháp luật. Và điều quan trọng tiếp nữa là phải đem ra thực hành: “ Không phải bất cứ ai thưa với thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa! Là được vào nước Trời đâu, nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy..”( Mt 7,21).

* Phải tránh thói kiêu căng tự mãn vì Chúa chỉ biểu lộ ý Ngài cho những người bé mọn khiêm nhu (Mt 11,25) .

* Cần quan tâm đến điều chính yếu trước: Hai hình ảnh: Macta tất bật lo việc phục vụ Chúa trong khi Maria ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài. Thường chúng ta dễ nhìn thấy và đánh giá cao công việc phục vụ của Macta hơn Maria chỉ ngồi nghe. Có lẽ Macta cũng nhận định như vậy nên cô đã đề nghị với Chúa: “… Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”. Nhưng thật bất ngờ Chúa đã công nhận thái độ tích cực đúng đắn của Maria qua lời tuyên bố: “ Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi”. Ngài vạch cho chúng ta thấy: Không phải bất cứ việc tốt nào cũng nên làm ngay không cần phải suy nghĩ đắn đo, nhưng phải biết chọn lựa để bớt đi những điều không thực sự cần thiết.

Nguyện: (Hát)

LẮNG NGHE LỜI CHÚA

1. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài gọi con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con lúc lẻ loi. Xin cho con cất tiếng lên trả lời vừa khi con nghe Chúa. Xin cho con biết thân thưa: Lạy Ngài, Ngài muốn con làm chi?

2. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong cuộc sống. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài từng theo bước đời con. Xin cho con biết sẵn sàng chờ đợi và vâng nghe theo Chúa. Xin cho con biết sẵn sàng thực hành Lời Chúa đã truyền ban.

ĐK: Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài đượm chất ngất niềm vui, trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời.

Lời Ngài hạnh phúc cho đời ai.


------------------------------------

 

TN 16-C27. Đón rước Chúa


 - Lm Vũ Khắc Nghiêm

Lc 10: 38-42

 

Dolbeau ở bắc Canada, nơi mấy căn nhà thấp bé, nho nhỏ, xinh xinh, ẩn mình, nơi du khách được: TN 16-C27


Dolbeau ở bắc Canada, nơi mấy căn nhà thấp bé, nho nhỏ, xinh xinh, ẩn mình, nơi du khách được tiếp đón chân tình, thân thương, quý mến với những nụ cười tươi nở thanh thoát, linh thiêng của mười bảy nữ tu dòng Kín sống trong bốn bức tường êm đềm đơn sơ, giản dị. Khi ra di, du khách in đậm những kỷ niệm còn lưu luyến mãi Dolbeau. Có phải ở đó phảng phất hương vị đầy tình thương mến ấp áp của Bêtania xưa không?

Matta, Maria có phải là nữ tu hiền hòa, hiếu khách đã nồng nhiệt đón rước một Đấng du khách từ trời xuống thăm chăng?

Ba bài đọc lời Chúa hôm nay trình bày hai cách đón rước Chúa:

1/ Cách của Matta và Abraham: Matta lo dọn bữa ăn uống, lo cho phần xác được no đầy, khỏe mạnh, sạch sẽ, khoan khoái. Bài đọc I nói đến việc tiếp đón và đãi khách rất nồng hậu của Abraham. Abraham đang ngồi hóng mát trước của nhà, dước trời nóng bức. Ông thấy ba người khách lạ đi ngang qua. Ông chạy vội ra mời họ quá bộ vaò nhà nghỉ mát, bưng nước cho khách rửa lau, dẫn khách nằm nghỉ dưới bóng cây. Ông bắt bê ngon làm thịt. Bà nhồi bột làm bánh. Ông bà hầu hạ khách lạ như mình là tôi tớ. Thật lạ lùng! Matta tiếp đãi Chúa và các môn đệ cũng hết mình như một tôi tớ.

2/ Cách của Maria và Phaolô: Một cách tiếp khách đặc biệt, ít người để ý tới. Đó là lắng nghe khách nói. Carnegie viết rất nhiều sách. Trong cuốn “Đắc nhân tâm”, tác giả viết: Cách làm cho khách vui lòng nhất là lắng nghe khách nói, lắng nghe ước muốn, nguyện vọng, tâm tư của người khác. Như vậy, tỏ ra mình kính trọng, quan tâm đến người để hiểu biết, thông cảm, chia sẻ tâm tình, kiến thức, nhu cầu thiết thực nhất của người, quý hơn cả cơm ăn, áo mặc. Đây là cách tiếp đón của Maria và Phaolô. Maria nghe lời hằng sống Chúa dạy bảo, lời cứu độ, lời vinh phúc muôn đời. Phaolô trong bài đọc 2 đã đón rước Chúa bằng thông phần, chia sẻ những gian nan thử thách, đau khổ Đức Kitô còn phải chịu. Ngài cũng đã đón tiếp dân ngoại bằng hy sinh và đau khổ, bằng rao giảng lời Chúa cho họ, sống với họ như anh em và phục vụ đem lại ích lơi cho anh em, để anh em được hy vọng đạt tới vinh quang.

3/ Như vậy đón rước Chúa, trước nhất là lắng nghe . Đức Giêsu đang âm thầm đến gõ cửa nội tâm bạn, bạn cần thiết phải thinh lặng để lắng nghe Người nói trong lương tâm, trong suy niệm Tin Mừng. Phải biết dẹp đi những ồn ào trần thế, phải xếp lại những công việc rối loạn, phải thanh tẩy những vui chơi điên đảo, mới lắng nghe được tiếng êm ái dịu hiền của Người.

Tiếp đón Chúa còn là cách biết nhận ra Chúa trong mọi người: trong những người đau khổ, neo đơn, cô độc, trong những người bị áp bức, bị phản bội, trong những người bệnh tật, đói khổ, tù đầy, tôi mọi. Những cảnh khốn cùng, âu lo, sầu khổ, phiềm muộn, tuyệt vọng, ngặt nghèo triền miên lan tràn trên mặt đất, đang phơi bày ra trước mắt chúng ta. Chúng ta có thấy Chúa trong đó không? Chúng ta có thấy Đức Kitô đang vác khổ giá đó không?

Sau đó, tiếp đón Chúa chính là phục vụ của mỗi người chúng ta tùy theo khả năng, tùy theo hoàn cảnh, theo ơn gọi riêng của mình: Maria ngồi bên chân Chúa để chiêm ngắm lắng nghe, Matta lo ăn uống nội trợ phục vụ những nhu cầu vật chất, ông Simon khỏe mạnh ra tay nâng đỡ thánh giá Chúa, bà Vêrônica dâng khăn lau mặt đầm đìa mồ hôi máu của Chúa. Tiếp đón Chúa bằng bất cứ cách nào, miễn là trọn nghĩa vụ mình với lòng khiêm tốn, vô tư, quảng đại yêu thương vì sáng danh Chúa.

Thế giới ngày nay, càng văn minh càng sống ở đô thị, càng đóng kín cửa nhà, đóng kín đến nỗi sống liên nhà nhau hàng chục năm cũng không bao giờ gặp nhau. Họ không bao giờ tiếp đón nhau, nhưng loại trừ nhau, vì họ đã đóng kín cửa lòng đối với Thiên Chúa. Nhà họ chật ních đồ vật, máy móc, nhưng lòng họ cô đơn trống vắng; chật ních những hình ảnh rối bời và tiền bạc xô bồ, nhưng rất thiếu tâm tình mến yêu.

Thế thôi! Con người ơi! Hết rồi!

Lạy Chúa, xin cho con biết đón rước Chúa, để tâm hồn con được vươn cao vô tận. Xin cho con biết tiếp đón nhau để liên kết những con tim bừng bừng sức sống, biết chia sẻ cho nhau, hiệp thông với nhau trong tình tương thân tương ái.

Lạy Chúa, xin đừng bao giờ để trái tim con chết khô cô độc.


------------------------------------

 

TN 16-C28. Điều cần cho đời sống


.- Lm. Nguyễn Ngọc Long

St 18,1-10a; Cl 1,24-28; Lc 10,38-42

 

Nếu có ai hỏi: điều gì cần cho đời sống? Có thể sẽ bị nghi hoặc, không biết hỏi thật hay đùa: TN 16-C28


Nếu có ai hỏi: điều gì cần cho đời sống? Có thể sẽ bị nghi hoặc, không biết hỏi thật hay đùa hay người hỏi có còn bình thường không! Vì ai chả biết điều gì cần cho đời sống gần như tự nhiên rồi.

Và cũng không ai chối cãi điều cần thiết hiển nhiên đó. Nhưng nếu nhu cầu đời sống chỉ thu tóm trong việc cơm ăn áo mặc, nhà cửa, phương tiện di chuyển, nhu cầu giải trí vui chơi thôi, thì đâu còn gì phải bàn bạc đến nữa!

Con người không là một cái máy, cũng không là một khuôn mẫu đúc sẵn, cứ đúng như thế là chạy là hoạt động. Không, con người còn có óc sáng tạo phát minh cái mới, điều đẹp. Con người còn có khả năng biến chế, biết tư duy phân biệt, có khả năng thưởng thức vẻ chân thiện mỹ trong công trình sáng tạo của thiên nhiên.

Dù là nhu cầu hưởng dùng hay nhu cầu sáng tạo, tư duy hay thưởng thức, con người cần luôn đến nguồn kho dự trữ nữa. Một cái giếng dù nước có trong lành, mát ngọt, nhưng nếu nguồn nước dưới lòng đất một ngày nào vì tiêu dùng liên tục gia tăng hay vì hạn hán, cũng sẽ tới lúc khô cạn. Ngày nay người ta đã nói đến và lo ngại, nếu cứ với đà tiêu thụ và khai thác ngày càng gia tăng, dầu ở các giếng dầu sẽ khô cạn.

Đời sống con người không chỉ là hoạt động, là làm việc nhưng còn cần đến thời giờ nghỉ ngơi dưỡng sức. Trong mười điều răn Thiên Chúa nhắn nhủ con người: Con phải thánh hoá ngày Chúa Nhật (điều răn thứ ba). Thánh hoá ngày Chúa Nhật là dành ngày này tạ ơn Thiên Chúa, Đấng là nguyên uỷ cội nguồn đời sống, sự phát triển; là dành ngày này cho gia đình, cho người quen thân và cho chính thân xác, tâm trí của mình. Hoạt động mãi rồi cũng có lúc phải ngừng nghỉ để lấy sức mới, lấy đà làm việc tiếp.

Làm việc hoạt động là việc tốt, việc cần thiết, nhưng dành thời giờ nghỉ ngơi dừng chân lắng nghe tiếng Thiên Chúa trong thiên nhiên, nơi tâm hồn mình, nơi người khác còn mang nhiều ích lợi cho cuộc sống tâm linh, cho thân xác, cho cuộc sống với tha nhân đồng loại.

Cô Maria trong phúc âm đã dành thời giờ lắng nghe Chúa Giêsu nói chuyện ở nhà mình và được Chúa công nhận: Em con, Maria, đã chọn phần tốt hơn (Lc 10,38-42).

Ngày Chúa Nhật là cơ hội quý giá cho con người dừng chân nghỉ ngơi lấy sức cho thể xác và tâm hồn làm việc tiếp, hoạt động tiếp tục sau một tuần lao động.

Người lao động trong xã hội, sau một năm chăm chỉ cặm cụi làm việc, cũng cần thời gian ngừng nghỉ, để thân xác và tinh thần có cơ hội thư dãn và từ đấy lấy sức lực mới cho ngày mai.

Nghỉ hè không phải chuyện xa xỉ. Nghỉ hè cũng không phải là chuyện lười biếng hay phung phí tiền bạc sức lực. Không, nghỉ hè là nhu cầu dưỡng sức bồi bổ cho sức khoẻ thể xác lẫn tinh thần.

Có những người sau tuần lễ nghỉ hè ở vùng núi cao hay bờ biển, thấy người khỏe mạnh trở lại, tinh thần phấn khởi vui sống hơn ra.

Có những người kỳ nghỉ hè không đi đâu xa. Họ ở nhà dành thì giờ đọc sách, đi dạo với con cháu, hay đi tham quan những lâu đài ở vùng chung quanh. Những cơ hội như thế giúp phát triển việc suy tư, việc học hỏi giải trí lành mạnh.

Nhu cầu làm việc hoạt động cho nhu cầu sinh sống là việc tự nhiên và cần thiết. Nhưng nhu cầu nâng đỡ sức lực thân thể và tinh thần giúp tạo niềm phấn khởi vui sống còn cần thiết hơn cho đường dài và ngày mai.


------------------------------------

 

TN 16-C29. XIN THÀY HÃY BẢO EM CON...


- Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Bài Phúc Âm Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Năm C tuần này tiếp theo ngay sau bài Phúc: TN 16-C29


Bài Phúc Âm Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Năm C tuần này tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên Năm C tuần trước. Có thể nói, bài Phúc Âm tuần này làm sáng tỏ ý nghĩa của bài Phúc Âm tuần trước. Theo bài Phúc Âm tuần trước, như chúng tôi đã chia sẻ, “chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết mình trước rồi mới có thể yêu thương tha nhân như bản thân mình được”, hay nói cách khác, chúng ta chỉ có thể yêu thương tha nhân như mình sau khi yêu mến Thiên Chúa hết mình, nghĩa là nếu không yêu mến Thiên Chúa hết mình sẽ không thể nào yêu thương như mình. “Đó là lý do tại sao Chúa Kitô, trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 21 hay đoạn 16 câu 3, đã vạch rõ căn nguyên thế gian bách hại môn đệ của Người như sau: ‘Họ làm cho các con tất cả những điều ấy là vì họ chẳng nhận biết Cha cũng không nhận biết Thày’”. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ chân lý yêu thương và hệ thống yêu thương này nơi nhân vật Matta.

Trước hết, chúng ta cần phải xác nhận là vấn đề “Matta bận rộn với việc thiết đãi khách”, như Phúc Âm thuật lại, thành phần khách có thể không phải chỉ duy có một mình Chúa Giêsu mà còn bao gồm cả 12 vị tông đồ nữa, là một việc hết sức cần thiết và tốt lành, chứ không phải là một việc xấu không được làm hay không cần phải làm. Nếu chúng ta đặt vấn đề, nếu thế thì tại sao chị lại bị Chúa Giêsu khiển trách? Về việc Chúa Giêsu trách Matta, chúng ta nên để ý đến nội dung của lời trách móc này và thời điểm Nguòi lên tiếng trách móc chị. Trước hết, về nội dung lời trách, Chúa Giêsu không trách chị về các việc chị làm, cho bằng trách chị về tâm trạng “lo lắng bối rối về nhiều chuyện” của chị. Tức là, nếu chị làm việc mà vẫn giữ được tâm hồn bằng an và vẫn tỏ thái độ vui vẻ thì thử hỏi chị có bị Vị Đại Khách hết sức thân tình với cả 3 chị em chị (xem Jn. 11:5), và nếu có dịp thì ghé thăm gia đình chị, lên tiếng trách móc như vậy chăng? Sau nữa, về thời điểm Chúa Giêsu lên tiếng trách móc Matta, Người vẫn không hề nói năng gì, tuy thấy chị cứ lăng xăng làm đủ mọi thứ để tiếp đãi Người như vậy, trái lại, Người còn thông cảm và cảm kích tấm lòng của chị đối với Người nữa là đàng khác. Đó là lý do, vì rất thương chị, lo đến tâm hồn chị, Người đã không ngần ngại lên tiếng thức tỉnh chị vào ngay lúc chị tỏ ra choáng váng với chính việc tỏ lòng yêu kính Người, đến nỗi đã không thể đứng vững được nữa và ngã xuống ngay trước mặt Người và em của mình, khi lên tiếng trách móc đứa em của mình: “Lạy Thày, em con để con hầu hạ một mình mà Thày không quan tâm đến hay sao. Xin Thày hãy bảo em con giúp con với”.

Lời trách móc của Matta, trước hết, chúng ta có thể nghĩ rằng, Chúa Giêsu chắc chắn sẽ không lên tiếng trách móc chị, nếu chị, thay vì thốt lên những lời có vẻ ghen tị với đứa em của mình và có vẻ tủi thân như thế, nhỏ nhẹ thúc giục em mình rằng: “Maria ơi, chị đang bận việc tiếp đãi Vị Thượng Khách của chúng ta, em làm ơn tiếp Người hộ chị với nhé”, hay chị cũng có thể thưa cùng Vị Thượng Khách ấy rằng: “Thày ơi, con thật có lỗi với Thày, vì bận trở để làm bữa tiếp Thày nên con không có nhiều giờ hầu chuyện Thày, xin Thày cứ nói chuyện với Maria và chờ con nhé”. Nghe thế, nếu căn cứ vào câu cuối lời Ngưới nói với Matta về Maria: “Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn và nó sẽ không bị mất đi phần tốt hơn này”, Chúa Giêsu có thể cũng sẽ lên tiếng, nhưng không phải để trách móc chị, cho bằng để trấn tỉnh chị: “Matta ơi, nếu đây không phải là lần đầu tiên Thày đến với gia đình con thì con vẫn chưa hiểu Thày hay sao (xem Jn 14:9). Con biết Thày quá rồi mà, Thày có cần gì mấy đâu con, bận bịu nhiều thứ làm chi hả con! Thày ghé thăm các con và muốn có nhiều giờ hàn huyên tâm sự với các con hơn là mất giờ ăn uống, một việc vừa vất vả cho con, lại vừa không có giờ cho chúng ta. Thày đến nhà con không phải chỉ cho riêng mình Maria đâu, mà cho cả con nữa đó”.

Sau nữa, lời trách móc của Matta đã cho chúng ta thấy tâm trạng và trình độ tu đức, hay trình độ yêu thương thân tình của chị, chẳng những theo hàng ngang, tức đối với “tha nhân”, được hiện thân nơi đứa em gái của chị, mà còn theo hàng dọc nữa, tức đối với “Chúa là Thiên Chúa” (xem Lk 10:27), nơi Vị Thượng Khách Giêsu nữa. Chắc Matta không có ý, nếu không muốn nói là không dám, trách Chúa Giêsu, mà chỉ có ý trách Maria em mình thôi. Thế nhưng, lời trách móc của chị cũng bộc lộ một giọng điệu hàm chứa cả việc trách móc chính Vị Thượng Khách khả kính khả ái của chị nữa. Điều này cũng có thể đúng, vì nếu Matta chỉ trách em mình thôi, thì tại sao chị không nói thẳng với em, việc gì phải lôi cả Chúa Giêsu vào cuộc. Chẳng hạn, Matta có thể gọi riêng Maria đến gần mà nhỏ nhẹ nói: “Maria ơi, còn nhiều việc phải làm lắm, em đến hộ chị một tay được không, để chị em mình kịp dọn bữa cho Thày dùng, vì Thày đâu có nhiều giờ ở với chị em mình...”. Bởi thế, sở dĩ lời trách móc công khai của Matta bao gồm cả Chúa Giêsu trong đó: “Lạy Thày, em con để con hầu hạ một mình mà Thày không quan tâm đến hay sao?”, có thể là vì Matta tự cảm thấy tủi thân trước việc Chúa Giêsu đối xử không đồng đều giữa hai chị em của chị. Ở chỗ, Matta tỏ ra hết sức vất vả để tiếp đãi Người như vậy mà Người lại chẳng để ý gì đến chị cả, trái lại, trong khi chị đang vất vả đến tối tăm mặt mũi như thế mà Người cứ tỉnh bơ ngồi nói chuyện riêng với Maria như không có gì xẩy ra. Rõ ràng là Người chẳng để ý gì đến chị cả, chẳng để ý đến việc chị làm gì hết. Nếu để ý đến chị, thì chẳng cần chị phải lên tiếng, Người cũng đã tự động thúc giục Maria giúp chị một tay rồi, chẳng hạn, Người có thể nói với Maria rằng: “Maria ơi, Thày thấy Matta bận bịu quá đi, con hãy ra giúp chị con một tay, Thày ngồi đây nghỉ một mình cũng được mà, (hay) đằng nào Thày cũng muốn ở yên tĩnh một chút, (hoặc) để Thày có giờ đi cầu nguyện, trong khi các con dọn bữa cho Thày dùng trước khi Thày tiếp tục lên đường sứ vụ”.

Dù lời trách móc của Matta chẳng những nhắm đến Maria em chị, mà còn bao gồm cả Chúa Giêsu nữa, nói trắng ra, Matta thực sự đã có ý trách cả Chúa Giêsu, vì mọi sự xẩy ra là do Người, nếu Người lên tiếng như chị nghĩ “Xin Thày bảo em con giúp con với”, thì đố Maria còn dám tỏ ra thái độ như bài Phúc Âm thuật lại: “ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người”. Mặt nổi của lời trách móc này có thể là như thế, song chiều sâu của lời trách móc này cho thấy Matta rất muốn được Thày yêu, chỉ vì chị thật lòng yêu Người. Trường hợp Matta bộc lộ lòng yêu của mình ra đối với Chúa Giêsu bằng việc hết sức săn đón tiếp đãi Người, kể cả qua lời chị trách yêu Người, lại bị Người chẳng những không cảm nhận và khen thưởng, còn bị Người khiển trách như thế, cũng giống hệt như trường hợp tông đồ Phêrô, trong khi tỏ ra rất kính mến Thày, lại bị Thày thậm tệ xua đuổi: “Đồ Satan, hãy xéo đi...” (Mt 16:23), chỉ vì vị tông đồ sốt sắng nhiệt tình này đã dám can ngăn Vị Thày rất khả kính khả ái có một không hai của mình đừng tử nạn theo ý Đấng sai Người. Thế nhưng, nếu căn cứ vào nguyên tắc yêu thương trọn lành, ở chỗ yêu mến Chúa hết mình và yêu thương nhau như mình, thì dầu sao cũng phải công nhận là tình yêu của Matta đối với cả Chúa Giêsu lẫn Maria em chị còn khiếm khuyết, cần phải cải tiến hơn nữa. Không phải hay sao, qua lời trách móc của mình, chị đâu yêu thương em chị như bản thân chị đâu. Nếu chị muốn được Thày yêu thì khi thấy Maria được diễm phúc ấy, thì chị phải mừng như chị được mới phải chứ, mới chứng tỏ chị yêu em chị như bản thân chị vậy. Cũng qua lời trách của mình, Matta cũng tỏ ra chưa yêu mến Chúa hết mình, yêu một cách mù quáng si mê, yêu một cách quảng đại dấn thân, trái lại, chị yêu Người một cách ngập ngừng, tùy theo mức độ được Người thương. Tóm lại, chính vì chị, dù đã thật tình yêu Chúa, song chưa hết mình yêu Người, do đó, chị cũng chưa thể yêu tha nhân như bản thân mình. Và sở dĩ Matta chưa hết mình yêu mến Người là vì chưa hiểu biết Người, chưa sống thân tình với Người, như Maria em chị.

Đó là ý nghĩa lời Chúa Giêsu, trong chính khi khiển trách Matta, đã mở ra cho chị một chân trời: “Chỉ có một điều cần mà thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn và nó sẽ không bị mất đi phần tốt hơn này”. Tức là như Chúa Giêsu khuyên Matta rằng: “Con hãy ‘chọn phần tốt hơn’ như Maria em con, ở chỗ, con hãy lấy việc gắn bó với Thày và lắng nghe lời Thày làm ưu tiên và trọng yếu hơn bất cứ một cái gì phụ thuộc khác, dù những cái phụ thuộc ấy có cần thiết đến đâu đi nữa, như việc dọn bữa cho Thày con đang làm. Bằng không, nếu con không có hay không nắm được ‘phần tốt hơn’ bất khả thiếu hay ‘không bị mất đi’ này, con chẳng những sẽ dễ bị ngoại cảnh thu hút mà còn bị đau khổ quật ngã nữa, điển hình là chính con đã tỏ ra bất mãn với em con và lên tiếng trách móc Thày vừa rồi...”. Thật vậy, đó là nguyên tắc sống nội tâm và là đường lối tông đồ bất di dịch được Người khẳng định với các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 15 câu 5: “Thày là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thày và Thày ở trong họ sẽ sinh muôn vàn hoa trái, ngoài Thày ra các con không làm gì được”.

Ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh Năm C hôm nay, thời điểm Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô tiếp tục tỏ mình trên thế gian cho đến tận thế ra qua chứng từ Giáo Hội của Người, cũng chính là ở chỗ này. Ở chỗ là, sau khi các tông đồ được sai đi truyền giáo trở về hớn hở thuật lại cho Thày mình nghe tự sự những gì “các vị đã làm và đã giảng dạy”, như Phúc Âm Thánh Marcô của Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên thuộc chu kỳ Năm B hôm nay ghi nhận, thì Chúa Giêsu đã khuyên các tông đồ rằng: “Các con hãy lui vào nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Trong bài Phúc Âm hôm nay, qua hình ảnh Matta và Maria, chúng ta thấy Chúa Giêsu có vẻ nhấn mạnh đến đời sống nội tâm và cầu nguyện hơn đời sống tông đồ và hoạt động. Tuy nhiên, không phải vì thế mà đời sống tông đồ và cầu nguyện không cần bằng hay kém giá hơn đời sống nội tâm và cầu nguyện. Trái lại, hai đời sống này phải đi song song với nhau và nâng đỡ nhau. Nếu chỉ chuyên hoạt động đến không có giờ cầu nguyện thì hoạt động sẽ như cành nho lìa khỏi thân nho và sẽ không sinh hoa kết trái gì; trái lại, một người lại chỉ chuyên chú nội tâm và cầu nguyện đến không quan tâm gì đến phần rỗi các linh hồn theo tinh thần tông đồ thì cũng chẳng khác gì như cây vả xum xuê hoa lá cành mà không có trái, cũng sẽ bị nguyền rủa mà chết đi như Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại ở đoạn 11 câu 13, 20 và 21. Thế nhưng, theo tu đức, phải làm thế nào để có thể giữ quân bình giữa đời sống nội tâm và tông đồ?

(Tin Mừng Sự Sống, buổi phát thanh thứ bốn mươi lăm, Chúa Nhật 22/7/2001)


------------------------------------

 

TN 16-C30. ĐIỀU TỐT THÔI, TỐT HƠN VÀ TỐT NHẤT

 

Mỗi người Chúa sinh ra để làm việc tốt với khả năng Chúa ban. Nhưng có ba cấp trật tốt: tốt: TN 16-C30


Mỗi người Chúa sinh ra để làm việc tốt với khả năng Chúa ban. Nhưng có ba cấp trật tốt: tốt thôi, tốt hơn và tốt nhất. Mỗi người phải biết chọn lựa ưu tiên cho việc tốt nhất. Nhưng để đạt tới việc tốt nhất, ta phải đi từ việc tốt thôi qua việc tốt hơn.

Với con mắt đức tin, cho ta phân tích giá trị việc làm của Maria khi Chúa ghé nhà.

TẠI SAO CHÚA TRÁCH CÁCH PHỤC VỤ CỦA MARTHA?

Martha muốn phục vụ Chúa, nhưng Chúa không đến để mong cho người ta phục vụ, mà Ngài đến để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc nhiều người (xem Mt 20,28).

Marth lo bữa ăn phục vụ Chúa; nhưng Chúa Giêsu coi trọng của ăn (được làm theo  ý Cha) là lo cho người ta được cứu độ hơn là của ăn vật chất (xem Ga 4,43). Bởi vì Ngài đến để thiết lập nước thiên Chúa, mà Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần (xem Rm.14,17).

Nếu bà Martha chỉ phục vụ Chúa qua miếng ăn thôi, thì việc tốt ấy trở thành việc xấu, bởi vì:

Của ăn nuôi người ta không phải chỉ dựa trên cơm bánh, mà còn sống bởi lời Chúa phán ra (xem Mt 4,4).

Chúa yêu chuộng tấm lòng người nghe lời Ngài, hơn dâng cho Ngài của cải vật chất: “Ta mà đói, Ta đâu thèm nói ngươi hay, vì trái đất với muôn loài chính Ta dựng nên. Thịt bò há là thức ta ăn? Máu chiên há là đồ Ta uống? Nhưng chính ngươi lại ghét điều Ta sửa dạy. Lời Ta truyền, ngươi đem vất sau lưng”(Tv 49/50,12.13-17).

Thiên Chúa muốn cho mọi người hãy lo việc nước thiên Chúa trước, và tìm sự công chính của Ngài ,nhất là đừng bỏ bê Lời Chúa mà lo phục vụ bàn ăn (xem Lc12,31;Cv 6,2). Bởi thế Chúa phán:"Đừng lao công vì lương thực hư nát,một hãy vì lương thực lưu tồn đến sự sống đời đời" (xem Ga 6,27).

Thiên Chúa muốn tình yêu chứ không muốn lễ vật, Ngài ưa việc nhận biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu. ( xem Os 6,6).

Thực ra, nguyên việc phục vụ bàn ăn của Martha để hầu Chúa chưa đến nỗi gây khó chịu, nhưng hai cái xấu nhất của bà là:

Bà bắt cả em lẫn Chúa phải coi trọng việc bà phục vụ hơn việc giảng dạy và nghe Lời! Nói cách khác, bà cho việc làm của mình giá trị hơn là việc Chúa dạy.

Bà vừa làm vừa cau có, khó chịu với người khác. Nếu Martha phục vụ Chúa với tinh thần vui vẻ và phấn khởi như Abraham và Sara đón tiếp ba người khách (St 18,1-10), thì chắc chắn bà đã đóng góp vào việc xây dựng Nước Thiên Chúa như gia đình Abraham.

Ngày nay thái độ sống đạo của nhiều người vẫn còn vọng lại lời phản đối của bà Martha đối với người nghe Lời Chúa như Maria.

II. ĐÂU LÀ LÝ DO CHÚA BÊNH VỰC BÀ MARIA KHI BỊ CHỊ TẤN CÔNG ?

Maria đã chọn phần tốt nhất (theo bản dịch PVGK) bởi vì:

Nhờ nghe lời Chúa, Maria đã trở nên chiên ngoan của Đức Giêsu. Chúa nói: “chiên tôi nghe tiếng tôi”(Ga 10,27). Đó là dấu chỉ người thuộc về cộng đoàn bất tử (Ga 5,24).

Nhờ nghe lời Chúa, Maria còn trở nên Hiền thê của Tân lang Giêsu. Ngài nói: "Ai nghe lời tôi, thì nó không bị ai giựt mất khỏi tay tôi và tay Cha tôi" (Ga 10,28-29). Nghĩa là Maria không bị ai giựt mất (Lc 10,42). Hình ảnh đó Đức Giêsu muốn nói: Ngài không thua Ôsê yêu cô vợ dâm đãng .Chính lúc vợ Ôsê ngoại tình, ông ra sức đi tìm vợ và quyết tâm: "Phen này Ta sẽ lột trần cái đĩ gìa của nó trước mặt các gã tình lang, để không ai giựt nó khỏi tay Ta" (xem Os 2,12). Nghĩa là dù Gômơ có bất trung, nhưng vì giao ước tình yêu, nên ông quyết tâm níu lấy Gômơ, cô vợ trắc nết. Chứ ông không rẫy từ như luật cho phép để đi lấy vợ khác (xem Dnl 24,1).

Tư tưởng hướng ra hành động. Tư tưởng tốt hành động tốt; tư tưởng xấu, hành động xấu. Hành động không do tư tưởng hướng dẫn là hành động điên khùng. Nhờ Maria sẵn có tấm lòng nghe lời Chúa, nên bà đã đọc được khát vọng, tâm tư của Chúa, và bà đã phục vụ đúng ý Chúa. Đan cử: Sau Chúa Giêsu cho em bà là Ladarô sống lại, thì có biết bao nhiêu kẻ tìm cách ám hại người, thế mà Martha lại cứ lo mải dọn bữa thết đãi Thầy, còn Maria thì biết chắc thầy sắp bị giết do cứu em bà, nên Maria đã lấy dầu thơm xức chân Chúa tỏ ý thương tâm liệm xác Ngài (xem Ga 12,1t).

Maria đã nêu gương cho người môn đệ Chúa. Thực vậy, hành động bà cứ ngồi dưới chân Chúa để nghe Ngài giảng dạy (xem Lc 10,39). Khác nào người được Chúa trừ quỷ ám cứ ngồi dưới chân Chúa, và Chúa đã sai hắn đi làm chứng cho Ngài (xem Lc 8, 35.38-39). Cũng như Phaolô tỏ ra là người môn đệ xuất sắc của Thầy Gamaliel, ông đã ngồi dưới chân thầy mà thụ giáo (xem Cv 22,3).

Thánh Phaolô đã chọn con đường phục vụ tốt nhất, xứng với danh thánh Tông Đồ ông được Hội Thánh dành riêng .

Dù ông là bậc thầy, là giới trí thức, nhưng ông vẫn quý trọng lao động chân tay, ông tự dệt vải để nuôi sống mình và còn có của để chia sẻ với những người đang ở với ông (xem Cv20, 33-35; 18 ,3 ).

Dầu ông quý việc lao động chân tay chẳng thua kém gì Martha, nhưng Phao lô còn tỏ ra tích cực phục vụ tin mừng hơn nữa. Ông nói: “Tôi vui sướng trong các nỗi thống khổ phải chịu vì Hội Thánh, tôi đã trở nên người phục vụ tin mừng, để thông báo cho anh em những gì là lường phong phú vinh quang mầu nhiệm được tỏ hiện trong Đức Giêsu. Về Ngài, tôi lo loan báo, cảnh tỉnh mọi người và dạy dỗ mọi người với tất cả ơn khôn ngoan, cốt sao cho mọi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô” (xem Col.1,24-28: bài đọc 2). Rõ ràng Phaolô còn yêu lời Chúa hơn Maria. Bởi vì, đời tông đồ của ông đã nhận ra giá trị sinh hoạt lời Chúa là cao quý nhất. Vì thế ông nói: “Được ở lại trần gian để giảng Tin Mừng thì không còn gì hạnh phúc bằng” (xem Pl.1,22), và nếu được Chúa cho về thiên đàng như đã có lần Chúa cho ông lên tới tầng trời thứ ba, ông cũng chỉ có thể kể lại là “được nghe những lời khôn tả”(2 Cr 12, 4).

Vậy khởi điểm đích thực nhất của khôn ngoan là ước ao học hỏi (Kng. 6,17). Nên thánh Tôma tiến sĩ nói: học điều mình tin, hiểu điều mình yêu và yêu mến việc mình làm”. Để đạt được những giá trị Lời Chúa hôm nay, ta hãy nhớ thực hành điều Chúa dạy: “Cần thì ít thôi, hay một điều thôi” (Lc 10,42). Câu này được áp dụng cụ thể: người ta phải biết giới hạn lòng tham của mình, biết phân biệt điều chính và điều phụ, nhất là biết trọng lời Chúa trên mọi giá trị khác, có thể mới dành được thời giờ cụ thể cho sinh hoạt Lời Chúa, mà không để những việc khác lấn át .

Truyện kể:

Triết gia Diogene nổi tiếng là người hạnh phúc nhất trên đời, thế nhưng cuộc sống của ông lại rất đơn sơ nghèo nàn: Ông sống trong một cái thùng ngày ngày nằm đọc sách nhờ ánh sáng qua lỗ hổng của vách thùng. Cơ nghiệp vỏn vẹn của ông chỉ có một cái bát bằng gỗ dùng để múc nước sông uống. Thế nhưng, một hôm ra sông để lấy nước, ông thấy một em bé chăn cừu dùng hai tay để vực nước uống, thế là ông ném luôn cái bát đi, và từ đó chỉ dùng tay mà uống nước.

Vua Hy Lạp nghe biết ông là người hạnh phúc nhất bèn tìm đến tận nơi để thăm. Thấy ông đang nằm đọc sách, nhà vua lại gần để hỏi xem ông có cần gì không. Diogene không trả lời. Nhà vua vặn hỏi nhiều lần, ông mới điềm tĩnh trả lời như sau: “Hạ thần muốn xin bệ hạ một điều: xin bệ hạ hãy tránh ra để hạ thần có đủ ánh sáng mà đọc sách”. Diogene đã đuổi khéo nhà vua vì sợ bị sa vào tròng danh lợi mà mất cái niềm vui thảnh thơi trong cuộc đời thanh bần đơn sơ.

-------------------------------

 

TN 16-C31. LÀ CẢ MARTHA VÀ MARIA.

 

Cha sở miền quê ở bang Indiana có một bà bếp tên Martha. Mỗi lần bà nghe bài Phúc âm chúng: TN 16-C31


Cha sở miền quê ở bang Indiana có một bà bếp tên Martha. Mỗi lần bà nghe bài Phúc âm chúng ta vừa đọc bà than phiền

Cha sở miền quê ở bang Indiana có một bà bếp tên Martha. Mỗi lần bà nghe bài Phúc âm chúng ta vừa đọc bà than phiền rằng: “Phải rồi, Martha, ai đã lau nhà, nấu ăn và rửa chén. Nếu tôi đã không làm những cái ấy ? Không làm gì hết, nếu tôi chỉ ngồi, nghĩ và bàn luận về những điều thiện”.

Có lẽ  một số chị em ngỡ ngàng về chuyện này, và tất cả chúng ta sẽ tự hỏi làm sao câu chuyện Martha và Maria phù hợp với đời sống chúng ta ?

Thực tế, cuộc sống của chúng ta rất bận rộn. Chúng ta không có thời gian để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, dự thánh lễ ngày thường nhiều hơn, đọc kinh thánh hay sách báo nhiều hơn. Nhưng chúng ta không có thời gian.

Quả thật Chúa Giêsu muốn chúng ta vừa là Marttha, vừa là maria. Người không nói rằng khi làm việc như Martha, bạn không thể cầu nguyện như Maria, hay ngược lại. Hai việc đều liên hệ với nhau, chúng ta phải vừa là Martha, vừa Maria.

Bạn hãy khởi đầu một ngày bằng cách dâng lên Chúa một lời nguyện vắn tắt: “Lạy Chúa, con dâng lên Chúa trọn ngày hôm nay” và nếu thư thái. Bạn dành một phút để dâng ngày cho Chúa đầy đủ ý nghĩa hơn: “Lạy Chúa, con dâng Chúa mọi tư  tưởng, lời nói và việc làm, để vinh danh Chúa, hợp cùng khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu, Chúa chúng con, Đấng cứu độ chúng con”.

Bạn hãy lập lại lời kinh này nhiều lần trong ngày, không cần nhắc lại mọi chữ, mà chỉ cần có ước muốn tất cả những gì bạn suy tư, bạn nói và bạn làm được dâng lên Chúa. Hãy liên kết việc dâng ngày này với những việc bạn quen làm như mỗi lần rửa chén, trả lời điện thoại, giăng mùng, lau nhà cửa... để nhắc bạn lặp lại lời kinh dâng ngày. Trong thánh lễ này, bạn quyết định khi nào, ở đâu và bằng cách nào bạn sẽ dành ra vài giây để dâng gì bạn đang làm cho Chúa.

Các vị thánh là những người bận rộn; với các Ngài cái búa,Chúa ái cưa, cái mai, cái xẻng, cây chổi, giẻ lau... cũng được dâng hiến như chén thánh trên bàn thờ. Thánh Bênêdictô ra luật cho các thầy dòng phụ trách các dụng cụ lao động phải gìn giữ cẩn thận như các bình Thánh trên bàn thờ. Tại sao vậy ? Vì các dụng cụ đó là những dụng cụ để các môn sinh của Người tôn vinh Thiên Chúa. Điều chính yếu trong đời sống thiêng liêng là có tinh thần phục vụ Chúa “mọi nơi và mọi lúc” như chúng ta cầu xin trong lời nhập để của kinh tiền tụng.

Thánh lễ là phương thế lý tưởng để vừa là Martha vừa là Maria. Như Maria, chúng ta ngồi dưới chân Chúa Giêsu. Như Martha, chúng ta bận bộn: cùng hát thánh ca, thưa câu đối đáp, đứng lên ngồi xuống.

Khi rước lễ, Chúa Giêsu là khách trong trái tim chúng ta như khi xưa Người là khách trong nhà của Maria. Hãy xin Người giúp bạn nên giống hai người bạn này của Chúa. Xin Người giúp bạn thực hành công việc mà Người đã chỉ định trong địa vị của bạn. Hãy xin Người giúp bạn nhớ đến Người khi bạn làm việc.
 Xin Chúa chúc lành  bạn.

-------------------------------

 

TN 16-C32. MACTA VÀ MARIA


Dẫn vào Thánh lễ và sám hối

 

Chúa Giêsu đến nhà của hai chị em Macta và Maria, Macta tiếp đón Chúa thật hoàn hảo với từng: TN 16-C32


Chúa Giêsu đến nhà của hai chị em Macta và Maria, Macta tiếp đón Chúa thật hoàn hảo với từng chi tiết của lòng hiếu khách, nhưng Maria lại ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Người. trong Thánh lễ này, chúng ta cũng có cơ hội thực hiện điều Maria đã làm, ấy là, dành thời gian này đặt mình trước sự hiện diện của Chúa. Chúng ta hãy để cho đức tin của chúng ta được sinh động trong sự hiện diện của Chúa ở giữa chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, sự hiện diện của Ngài xoa dịu nỗi sợ hãi của chúng con.

Sự hiện diện của Ngài làm thanh thản bao nỗi âu lo của chúng con.

Sự hiện diện của Ngài giúp chúng con tập trung sự chú ý  vào một điều cần thiết mà thôi: lắng nghe Lời Ngài.

Dẫn vào các bài đọc

Bài đọc 1: St 18,1-10ª

Khi Abraham bày tỏ lòng hiếu khách với ba người lạ, ông không biết rằng mình đang đón tiếp chính Thiên Chúa, Đấng sẽ ban thưởng cho ông những điều thiện hảo.

Bài đọc 2 : Cl 1,24-28

Thánh Phaolô, người phục vụ Tin Mừng cho dân ngoại để họ cũng được ơn cứu độ, ngài đã từng chịu đau khổ trong cuộc trở lại của ngài.

Tin Mừng: Lc 10,38-42

Tin Mừng đối chiếu giữa hoạt động của Macta với sự thinh lặng cầu nguyện với Chúa của Maria.

Bài giảng 1

NHỮNG ĐIỀU ƯU TIÊN

Chúng ta thông cảm với Macta. Dường như là Chúa Giêsu đã không công bằng với cô. Xét cho cùng, Tin Mừng đặt trọng tâm vào các hành động. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu khen, không phải là người hoạt động mà là người biết ngồi để lắng nghe. Điều đó không có nghĩa là Chúa Giêsu không trân trọng những gì Macta đã làm. Người không trách mắng cô. Chúng ta phải hiểu đó là sự quan tâm của Người dành cho cô.

Chúa Giêsu nhìn nhận những hiệu quả nơi những người như Macta, có bản chất quảng đại với mọi người, nhưng lại quá lo lắng về những việc đã làm được. Không đơn giản là Macta bận rộn, mà là cô đã quá bận rộn. Luôn lo lắng, âu lo; cô trở nên nô lệ cho chính công việc của mình.

Cuộc sống thường ngày của chúng ta được hình thành từ những công việc nhỏ nhặt và bổn phận thuộc hai loại sau: cấp bách và thiết yếu. Có những công việc mà chúng ta có thể cho là cấp bách nhưng chỉ có một ít thực sự là thiết yếu. Chúng ta cần phải phân biệt giữa hai điều này. Giống như Macta, chúng ta có khuynh hướng ưu tiên cho những việc cấp bách. Còn việc thiết yếu, chỉ có một điều cần thiết mà thôi, lại bị trì hoãn làm sau; và khi nếu ta có làm thì chúng ta làm một cách vội vã và cẩu thả.

Làm thế nào chúng ta biết được việc gì cần phải ưu tiên ? Cách tốt nhất để xác định những công việc thực sự cần được ưu tiên là hãy suy gẫm lại dựa trên sinh hoạt thường ngày. Chúng ta dành nhiều thời gian nhất cho những công việc gì ? Công việc gì lấy đi năng lực của chúng ta nhiều nhất ? Đó là những công việc ưu tiên của chúng ta trong thực tế. Nó có thể gây nên một thảm kịch hoặc một tình trạng khẩn cấp, khi đặt những sự việc vào trong viễn tượng của ta, và nhắc nhở chúng ta đâu mới thực sự là vấn đề.

Điều dễ dàng xảy ra nhất trên thế gian này là đặt sai thứ tự ưu tiên của công việc. Khi Đức Hồng Y Joseph Bernardin, nguyên Tổng Giám Mục Chicago, biết mình bị ung thư giai đoạn cuối đã nói: “Tôi nhận ra rằng sao lại có quá nhiều những việc tầm thường và không quan trọng đã làm tiêu hao cuộc sống hằng ngày của tôi.”

Maria đã xác định đúng việc cần phải ưu tiên, bà ta đã bỏ mọi thứ qua một bên và chỉ để lắng nghe lời Chúa Giêsu. Có nhiều người tương tự như Macta hay còn hơn nữa, bận rộn với đủ thứ việc và luôn không có thời gian. Họ là những người tham công tiếc việc. Chúng ta cần phải có cái nhìn vượt xa hơn những việc vặt hằng ngày và những việc khẩn cấp. Chúng ta cần phải dành thời gian cho chính bản thân mình. Vượt trên tất cả, chúng ta cần có thời gian để suy tư nhìn lại mình. Thomas Moore, nhà văn và nhà tâm bệnh học người Mỹ, đã nói:

“Một trong những phương pháp điều trị bằng tâm lý hết sức đơn giản là tự dành cho chính bản thân mình một vài phút mỗi ngày để hồi tâm trong thinh lặng. Hoạt động đơn giản này sẽ giúp ta nhận ra những gì thiếu sót trong cuộc sống của ta - thời gian thư giãn không làm gì cả, đó chính là chất dinh dưỡng cần thiết cho tâm hồn. Điều này chẳng có gì phải nghi ngờ, thế mà có nhiều người lại không cần đến hoặc cảm thấy hoạt động này gây lãng phí hay phiền hà.”

Nếu chúng ta có thể dành khoảng thời gian tĩnh lặng với Chúa thì cuộc sống của chúng ta có thể sẽ êm đềm hơn, không bị cuốn trôi theo những lo lắng và băn khoăn, cuộc sống sẽ sâu lắng và phong phú hơn. Thực tế, mọi điều đều có ích lợi, đời sống tâm linh, những mối tương quan và ngay cả công việc.

Hoạt động và chiêm niệm không hề tương phản lẫn nhau. Cả hai đều rất cần thiết và phải được hoà hợp trong cuộc sống.

LỜI NGUYỆN CHUNG

Chủ tế: Chúng ta ý thức rằng những nhu cầu khẩn thiết của ta sẽ được Thiên Chúa chúc lành, chúng ta cùng dâng lên Chúa.

Xướng: Xin cho những người bước theo Chúa Giêsu được biết lắng nghe lời Người và được giáo huấn Người hướng dẫn.

Xướng: Xin cho những ai đang gánh vác trách nhiệm được tìm gặp sự hướng dẫn của Chúa qua việc cầu nguyện và suy niệm.

Xướng: Cầu nguyện cho những người đang làm việc quá sức và quá nặng nề.

Xướng: Cầu nguyện cho chính bản thân ta, để chúng ta được tăng trưởng trong mối thân tình với Chúa qua việc thực hành cầu nguyện mỗi ngày.

Chủ tế: Lạy Cha, Con Cha đã ban tặng vinh dự cho Macta và Maria khi Người thân hành đến thăm gia đình của họ như một vị khách. Xin cho chúng con biết phục vụ Chúa nơi anh chị em của chúng con, và được Người đón tiếp vào trong Nước Trời, là ngôi nhà đích thật của chúng con. Chúng con cầu xin …

------------------------------------

 

TN 16-C33. Sai lầm của nhà thầu khoán


- Mark Link S.J.

Bài đọc: Stk.18,1-10;Cl. 1,14-28; Lc.10,38-42

Chủ đề: Chúng ta cần phải có thời gian yên tĩnh để cầu nguyện nếu chúng ta muốn thăng tiến và tiến bộ trong cuộc sống.

 

Một đêm nọ có người bố đến dự cuộc hội thảo dành riêng cho các bậc làm cha và các giáo viên: TN 16-C33


Một đêm nọ có người bố đến dự cuộc hội thảo dành riêng cho các bậc làm cha và các giáo viên tại trường trung học ở Chicago. Trong khi trò chuyện với một giáo viên của con trai ông, người bố bỗng nhiên buồn bã và chảy nước mắt. Sau khi lấy lại phong độ, ông ngỏ lời xin lỗi và nói: “Con trai tôi tuy không còn sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu qúi nó và muốn biết nó hiện đang sinh hoạt ở trường ra sao”. Đoạn ông kể cho thầy giáo lý do vợ và 4 đứa con của ông đã lìa bỏ ông buổi chiều hôm ấy. Ông vốn là một nhà thầu xây dựng, nên đôi lúc ông bận rộn làm việc tới 16 tiếng một ngày. Đương nhiên ông ít khi thấy mặt những người trong gia đình, nên dần dần họ trở nên mỗi ngày mỗi xa cách ông. Đoạn ông buồn bã nói tiếp: “Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con mọi thứ mà tôi từng mơ ước tặng cho họ. Nhưng vì mải lo mê công việc làm ăn nên tôi đã quên mất điều mà các con tôi cần thiết: đó là chúng nó cần một người cha quấn quít hàng đêm để yêu thương và nâng đỡ chúng”.

Câu chuyện có thực trên đây minh hoạ cho chủ điểm của bài Phúc Âm hôm nay. Chủ điểm đó là:

“Chúng ta có thể vì qúa mải mê công việc làm ăn đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta lao khổ như thế. Chúng ta có thể vì qúa mải mê kiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc sống. Chúng ta có thể lu bu theo đuổi những vật mà đồng tiền có thể mua sắm được để rồi quên béng những gì mà đồng tiền không thể mua được. Đây chính là lầm lẫn của Matta được ghi lại trong Phúc Âm hôm nay. Cô nàng qúa lăng xăng nấu nướng bữa ăn cho Chúa Giêsu đến nỗi quên mất rằng Chúa đến nhà nàng là vì tình bạn chứ đâu phải vì bữa ăn miễn phí đâu!”

Cách đây 30 năm, giả như Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ đến thăm nhà bố mẹ chúng ta, hẳn chúng ta biết được các bà mẹ chúng ta lúc ấy sẽ làm gì: nào là các bà sẽ động viên con cái chùi rửa sạch sẽ nhà cửa từ nhiều ngày trước; nào là sai chúng nó chạy lẹ ra hàng tạp hoá, hàng bánh trái mua thứ này thứ nọ… Tóm lại, có lẽ các bà ấy cũng sẽ làm giống như nàng Martha trong Phúc Âm. Tuy nhiên đồng thời các bà mẹ ấy cũng biết hành động như nàng Mary. Các bà cũng sẽ lo sao cho mọi người chúng ta đều ăn mặc tươm tất, ngồi xuống quanh Chúa Giêsu và chú ý lắng nghe mọi điều Ngài nói. Các bà mẹ ấy sẽ vừa quan tâm đến việc Chúa Giêsu được phục vụ ăn uống chu đáo, nhưng đồng thời cũng quan tâm lo biểu lộ tình yêu đối với Ngài. Như thế các bà mẹ của chúng ta thực khéo léo giữ cho hai việc ấy được quân bình. Các bà biết điều khiển đứa con và một ít tiện nghi tân thời để giữ cho mọi sự được ở thế cân bằng.  Bên cạnh đó, các bà còn được các ông bố của chúng ta cũng khéo léo trong việc hỗ trợ họ. Thực thế, các ông bố này có khả năng tuyệt vời trong việc tạo thế cân bằng giữa các việc liên quan đến cuộc sống vật chất và các sự việc liên quan đến đời sống tâm linh.

Ngày hôm nay, thật rủi thay, chúng ta đang sống trong một thế giới khác xa như thế. Thế giới hôm nay thật dễ mất cân bằng; Thật là dễ dàng quên mất mục đích của mình! Thật là dễ dàng quên mất cái nào là ưu tiên! Thật là dễ dàng mất đi sự sáng suốt của mình! Tóm lại, chúng ta quá dễ dàng quên mất điều mình đang làm và lý do khiến chúng ta làm điều đó.

Trong thế chiến thứ hai, có một chàng lính trẻ đóng quân tại đảo Saipan thuộc Nam Thái Bình Dương. Anh kể rằng vào giờ rảnh rỗi, anh và các bạn anh thường đi bơi ở một khu vắng vẻ chỗ có bờ dốc thẳng đứng tại hòn đảo ấy. Đây là một chỗ thật đẹp có những tảng đá bao quanh. Khi họ mới đến thì nước còn trong veo, đến nỗi họ nhìn thấy được đàn cá lội dưới mặt nước tới hơn 3 mét. Tuy nhiên, sau khi họ bơi được khoảng một giờ, cát dưới đáy tung lên làm nước bị đục khiến họ không thể thấy được quá 30 centimét dưới mặt nước nữa. Dầu vậy ngày hôm sau khi họ trở lại thì đám cát đã lắng xuống và dòng nước lại trở nên trong vắt như thuỷ tinh.

Tâm trí chúng ta cũng như giòng nước trên. Nó có thể bị xao động vì những ồn ào náo nhiệt của cuộc kiếm sống hằng ngày khiến cho chúng ta khó mà thấy vấn đề một cách sáng suốt. Chúng ta không còn nhìn rõ được vấn đề gì nữa: không thấy rõ viễn ảnh tương lai, không nhận ra những điều ưu tiên cần thiết, không còn được ở trong thế quân bình nữa.

Những nơi bị xao động như thế, chúng ta cần phải dừng lại và chờ cho dòng nước mờ đục của tâm trí trong sáng trở lại đã. Chúng ta cần phải làm như nàng Maria trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúng ta cần ngồi kề bên Chúa Giêsu và yên lặng cầu nguyện. chúng ta cần nghe Ngài dạy cho chúng ta biết điều nào là quan trọng, điều nào là phụ thuộc. Và Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mỗi ngày dừng lại bên chân Chúa Giêsu để cầu nguyện giống như nàng Maria đã làm trong Phúc Âm.

Điều này nêu cho chúng ta một câu hỏi:

Chúng ta phải làm gì nếu đã quá bận rộn kiếm sống đến nỗi đánh mất thói quen cầu nguyện? Chúng ta phải làm gì nếu đã quên mất cách thức ngồi yên lặng dưới chân Chúa Giêsu? Chúng ta có phải làm gì để học cách cầu nguyện trở lại không?

May mắn thay, chúng ta vẫn còn có phương cách và ngay tối nay chúng ta có thể áp dụng phương cách ấy. Chúng ta có thể dùng phương cách cầu nguyện đơn giản đã từng giúp nhiều người giống như chúng ta trở lại với thói quen cầu nguyện và nắm giữ được nghệ thuật cầu nguyện. Tôi xin mô tả phương cách này như sau:

Mỗi đêm trước khi đi ngủ, chúng ta dành ra ba phút để làm ba điều. Phút thứ nhất, chúng ta dừng lại hồi tâm suy xét ngày vừa qua, tìm ra những điểm tốt, những điểm làm chúng ta sung sướng, chẳng hạn nhận được một lá thư của người bạn cũ…. đoạn chúng ta nói với Chúa Giêsu rất chân thành về điều đó. Sau đó, chúng ta kết thúc bằng cách dâng lên Chúa Giêsu lời cảm tạ về lá thư và về người bạn nọ.

Phút thứ hai, chúng ta cũng duyệt xét lại trong trí mọi việc trong ngày, lần này chỉ rút ra những điều tiêu cực đáng phàn nàn, chẳng hạn cãi lại bố mẹ, chồng vợ gây gỗ, hay quát tháo con cái… chúng ta trình bày với Chúa Giêsu về sự yếu đuối này, xin Ngài thứ tha và sửa chữa cho chúng ta.

Cuối cùng, trong phút thứ ba, chúng ta hướng về tương lai, suy nghĩ về một điểm gai góc nào đó, chẳng hạn một việc khó khăn mà chúng ta phải thực hiện, như phải bàn luận với cha mẹ, vợ chồng hay con cái về một vấn đề nảy sinh. Chúng ta trình bày với Chúa Giêsu về điều đó đồng thời xin Ngài soi sáng và ban sức mạnh giúp chúng ta giải quyết sự việc ấy.

Phương pháp cầu nguyện đơn giản này đã giúp nhiều người lập lại được thói quen cầu nguyện, và nắm được nghệ thuật cầu nguyện. Phương pháp tốt đẹp này không những giúp chúng ta tiếp xúc trở lại với cuộc sống của mình mà còn tiếp xúc lại được với Chúa Giêsu

Lạy Chúa, xin đừng để chúng con vì quá đắm đuối trong cuộc sống  đến nỗi quên mất lý do khiến Ngài đã ban tặng cuộc sống cho chúng con. Xin đừng để chúng con vì quá bận rộn lo sinh sống mà quên mất mục đích của đời sống. Và xin đừng để chúng con mải mê theo đuổi những gì mà đồng tiền có thể mua được, đến nỗi quên mất những gì mà tiền bạc không thể mua sắm được.

------------------------------------

 

TN 16-C34. Chọn phần tốt nhất


Lc 10, 38-42.

Anh chị em thân mến,

 

Trong cuộc sống hàng ngày, ai trong chúng ta cũng muốn chọn phần tốt nhất, hảo hạng nhất hơn người: TN 16-C34


Trong cuộc sống hàng ngày, ai trong chúng ta cũng muốn chọn phần tốt nhất, hảo hạng nhất hơn người khác, bởi vì đó chính là bản chất thích hưởng thụ của con người. Khi ăn chúng ta chọn món ngon nhất, khi uống chúng ta chọn loại hảo hạng nhất, khi tìm việc chúng ta mong được chổ làm tốt nhất, khi ngồi xe chúng ta muốn chọn chổ tốt nhất… đó là những chọn lựa đẹp và tốt cho cuộc sống thường ngày…

Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy chọn cho mình phần tốt nhất như cô Maria đã chọn.

1. Chọn phần tốt nhất là Sống nghèo

Sống nghèo là sống như Chúa Giêsu: Ngài rất giàu có vì Ngài là Thiên Chúa và Ngài cũng rất nghèo khó vì Ngài là con người. Khi chọn đời sống nghèo nàn Chúa Giêsu đã nêu lên một tấm gương sáng chói cho chúng ta trong việc thờ phượng và làm sáng danh Thiên Chúa, đó là khó nghèo để được tự do lo việc Thiên Chúa là rao giảng Tin Mừng của Nước Trời, và để làm tăng thêm giá trị đích thực của nhân phẩm con người: người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi Lời từ miệng Thiên Chúa phán ra.

Sống nghèo là một lựa chọn độc đáo của Chúa Giêsu trong chương trình cứu chuộc nhân loại, là một phương pháp làm cho nhân loại đến gần với hạnh phúc đích thực hơn đó là biết thông cảm và yêu thương người thân cận, chia sẻ những lo âu và cảm nghiệm được rắng, khi chọn sống nghèo là chúng ta chia sẻ rất sâu xa mật thiết với thân phận của Chúa Giêsu hơn bất cứ lúc nào.

Phần tốt nhất của thế gian chính là sự hưởng thụ cho thân xác thoải mái, phần tốt nhất của thế gian cũng chính là con đường rộng dẫn nhân loại đi vào cõi đau khổ đời đời.

Chọn sống nghèo là làm nổi bật danh tính người Kitô hữu giữa xã hội:

Sống nghèo để tập yêu thương.
Sống nghèo để tập cảm thông.
Sống nghèo để tập phục vụ.
Sống nghèo để tập tha thứ.
Sống nghèo để trở nên người của mọi người.

2. Chọn phần tốt nhất là Thiên Chúa

Maria đã chọn phần tốt nhất vì cô đã chọn Thiên Chúa làm gia nghiệp của mình, chọn Thiên Chúa tức là lắng nghe lời dạy của Ngài, cô Maria đã ngồi dưới chân Chúa Giêsu để nghe Ngài nói.

Gia đình nghèo của chị em Matta, Maria và Lagiarô là hình ảnh của một tu viện thu hẹp: hoạt động và cầu nguyện. Hoạt động thì có Mattha, cầu nguyện thì có Maria, nhưng cái chính không phải là ở đó nhưng ở trong cung cách lựa chọn của mình: chọn Thiên Chúa hay chọn làm Thiên Chúa, bởi vì khi chúng ta chọn Thiên Chúa cho mình, thì dù hoạt động hay cầu nguyện, dù đi đông đi tây rao giảng Tin Mừng hay ngồi trong bốn bức tường của dòng Kín thì Thiên Chúa cũng là gia nghiệp của chúng ta, và việc chúng ta làm là làm sáng danh Thiên Chúa mà thôi. Còn nếu chúng ta muốn chọn làm Thiên Chúa thì chúng ta cứ lên án anh chị em, cứ phê phán tha nhân, cứ thọc gậy bánh xe, cứ vỗ ngực tuyên bố mình là người được Thiên Chúa chọn để chửi người này, để cải tổ Giáo Hội, để sửa dạy các linh mục trong Giáo Hội.v.v… thì cứ làm.

Anh chị em thân mến,

Chọn sống nghèo và chọn Thiên Chúa làm phần tốt nhất của mình trong một xã hội quá hưởng thụ và đặt các giá trị vật chất trên tinh thần không phải là việc dễ dàng, bởi vì dù chúng ta là ai, là thân phận nào chăng nữa thì chúng ta cũng vẫn là con người có tham sân si, cho nên khi chọn sống nghèo thì đồng thời chúng ta cũng chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp tốt nhất của mình, nghĩa là chúng ta sẽ dễ dàng khước từ những vật chất không cần thiết cho sinh hoạt khi chúng ta quyết tâm sống nghèo, do đó chúng ta cần phải cầu xin ơn Thiên Chúa giúp, tập thực hành sống nghèo với người nghèo, sống nghèo giữa những người giàu.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Bài giảng chủ nhật 16 thường niên tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.


------------------------------------

 

TN 16-C35. CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI ĐAU KHỔ

 

Cầu nguyện là nhiệm vụ căn bản của người sống đức tin. Họ cầu nguyện với Chúa thường xuyên: TN 16-C35


Cầu nguyện là nhiệm vụ căn bản của người sống đức tin. Họ cầu nguyện với Chúa thường xuyên. Họ cầu nguyện như một nhu cầu, với những mục đích thiết thân: Như để tìm nhan thánh Chúa, để mình trở thành người của Chúa, người của mọi người, người của chính mình với nội tâm luôn tìm thực thi ý Chúa.

Riêng đối với người đau khổ, cầu nguyện còn là một an ủi.

Mỗi người đau khổ có thể cầu nguyện với tâm tình riêng tư. Dù rất riêng tư, những tâm tình đó thiết tưởng có thể tập trung vào bốn loại. Bốn loại này thường đi chung với nhau, chen kẽ vào nhau, nối tiếp nhau, lúc mạnh lúc yếu. Và cứ thế, cầu nguyện của người đau khổ ví được như một dòng sông chuyên chở những tâm tình rất chân thành của mình về Chúa là biển cả tình yêu giàu lòng thương xót.

Bốn loại tâm tình đó tạm mang tên sau đây:

1/ Than vãn.

Than vãn là một hình thức tâm sự, giãi bày tình trạng thiếu thốn, cần được giúp đỡ. Đây là một thực tế gây nên nhiều xúc động trong thi ca, văn học và tôn giáo.

Khi người đau khổ than vãn với Chúa, thì than vãn đó là một hình thức cầu nguyện khiêm tốn, thiết tha.

Kinh Thánh ghi lại rất nhiều hình thức cầu nguyện như thế. Ở đây tôi chỉ xin được nêu lên vài thí dụ:

Thánh Gióp kêu:

“Ôi, phải chi ai cảm được nỗi sầu của con, và đặt lên bàn cân nỗi đau con đang chịu!” (G 6,1).

Vua David than:

“Rên xiết đã nhiều, nên con mệt mỏi:

trên giường ngủ, những thổn thức năm canh,

từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm gối,

mắt hoen mờ vì quá khổ đau” (Tv 6,7-8).

Chính Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu cũng đã than van thảm thiết: “Linh hồn Thầy đau buồn đến chết được” (Mt 26,38).

Thấy một người bị đau khổ hành hạ, khi họ than vãn với Chúa, ta đừng vô cảm, hoặc phán đoán sai về họ. Họ là thầy dạy ta nhiều bài học về thân phận con người, về liên đới, về đức tin. Những bài học đó rất sống động. Phải học bằng trái tim biết tế nhị, nhạy cảm và bác ái.

2/ Cầu cứu.

Đứng trước đau khổ, nhất là bị chìm vào đau khổ, bản năng bảo vệ sự sống nơi mỗi người đều phản ứng như nhau: Phản ứng đó là muốn thoát khỏi đau khổ.

Chính Chúa Giêsu đã có phản ứng như thế. Trước giờ chịu nạn, trong vườn Cây Dầu Chúa Giêsu đã cầu cứu với Đức Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén đắng này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha!” (Mt 26,39).

Một lát sau, Người lại cầu cứu thảm thiết: “Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống, thì xin cho ý Cha được thể hiện” (Mt 26,42).

Sự kiện trên cho thấy: Cầu xin Chúa cứu ta khỏi đau khổ, nếu đẹp ý Chúa, đó là việc nên làm. Hoặc cầu xin Chúa giúp ta chịu đau khổ một cách tốt nhất theo ý Chúa, đó cũng là việc nên làm.

Đọc Phúc Âm, tôi thấy nhiều trường hợp Chúa Giêsu muốn cứu người ta khỏi đau khổ, miễn là người ta biết cộng tác vào ơn cứu độ của Chúa bằng sự khiêm nhường cầu xin khẩn khoản. Thí dụ trường hợp Chúa chữa hai người mù ngồi ở vệ đường ngoài thành Giêricô. Nghe tiếng dân ồn ào theo Chúa đi ngang qua, hai người mù vội la lên: “Lạy Ngài, lạy con vua David, xin dủ lòng thương chúng tôi”. Chúa Giêsu dừng lại, gọi họ và hỏi: “Các anh muốn tôi làm gì cho các anh?”. Họ thưa: “Lạy Ngài, xin cho mắt chúng tôi được mở ra”. Đức Giêsu chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ. Tức khắc, họ nhìn thấy được và đi theo Ngài (Mt 20,32-34).

Như vậy, việc người đau khổ cầu khấn ơn được trút khỏi gánh nặng đau khổ là việc bình thường. Cũng có thể gọi việc như thế là việc đạo đức Chúa muốn và Chúa đợi ta làm.

3/ Tín thác tạ ơn.

Khi con người cảm thấy rõ nơi bản thân sự sống của mình càng ngày càng xuống dốc, họ chỉ còn cách bám vào Chúa là nguồn sự sống. Họ than vãn, họ cầu cứu. Và Chúa ban cho họ những an ủi khích lệ. Có khi họ thấy bớt được khổ đau. Có khi họ cảm được khổ đau của họ mang một giá trị cứu độ, cho họ và cho người khác. Như dòng sông bên lở bên bồi, đau khổ của họ nhiều khi cũng có giá trị đền bồi. Nhận thức đó khơi dậy tâm tình tạ ơn và tin tưởng. Thánh vương David đã nhìn lên Chúa và loan báo Tin Mừng:

“Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao, và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối. Hãy thưa với Chúa rằng:

Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con ẩn náu, là đồn luỹ che chở, con tin tưởng vào Ngài (Tv 91,1-2).

Chính Chúa Giêsu, trong giây phút khổ đau nhất, đã nói một lời mang tính cách tin tưởng tuyệt đối và tạ ơn tuyệt đối: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 25,46).

Khi đến Lộ Đức và nhiều nơi hành hương, tôi được đọc rất nhiều tấm bảng ghi lời tạ ơn của những người khấn cầu có liên quan đến đau khổ của họ. Hiện tượng này cho phép tôi nghĩ rằng: Rất nhiều người đau khổ đã cầu nguyện và họ đã được Chúa và Đức Mẹ ban ơn, không ơn này thì ơn khác. Tất nhiên chỉ một số người đã ghi lời tạ ơn trên bia đá, nhưng tất cả những người được ơn đều đã tạ ơn Chúa và Đức Mẹ bằng những cách thích hợp và tuỳ khả năng.

4/ An tĩnh.

Kinh nghiệm cho tôi thấy: Rất nhiều trường hợp, người đau khổ không than vãn, không xin cầu cứu, không nói lời cảm tạ. Họ chỉ an tĩnh nhìn Chúa, nhìn Đức Mẹ. Đó cũng là cầu nguyện. Bởi vì cái nhìn an tĩnh đó chìm vào tình yêu của Chúa, của Mẹ.

An tĩnh đó là một thứ dứt bỏ những gì là phù phiếm, mau qua, sóng gió, để hoà mình vào một tình yêu vĩnh cửu, đầy bình an, êm đềm, hạnh phúc.

An tĩnh đó là “ở lại trong tình thương của Chúa” (Ga 15,9). Đau đớn vẫn còn, nhưng nó chỉ giúp con người đi sâu vào tình thương Chúa mà thôi.

Mấy chia sẻ vắn tắt trên đây chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng hy vọng, nhờ đó, những ai đau khổ bất cứ vì lý do nào, cũng có thể nhặt được một chút nào đó giúp ích cho mình.

Số người đau khổ hiện nay rất đông. Họ sẽ không trở thành dư thừa, trái lại họ sẽ có khả năng góp phần cứu độ, nếu họ biết sống đau khổ một cách có ý nghĩa.


+ Giám mục GB Bùi Tuần

------------------------------------

 

TN 16-C36. GẶP GỠ VÀ ĐÓN RƯỚC THIÊN CHÚA  


[CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN NĂM C (22.07.2007)]

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Nếu cốt yếu của Đạo Thiên Chúa là mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người thì điều quan: TN 16-C36


Nếu cốt yếu của Đạo Thiên Chúa là mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người thì điều quan trọng nhất của người có đạo là gặp gỡ, đón rước Thiên Chúa trong tâm hồn và cuộc sống của mình. Nhưng cũng như trong tương quan giữa người với người, trong tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa, sự gặp gỡ, đón rước cũng có nhiều cách thể hiện khác nhau. Câu truyện của sách Sáng Thế (St 18,1-10) cho thấy ông Áp-ra-ham đã đón rước Thiên Chúa một cách trân trọng và nồng hậu như thế nào. Và trong câu truyện của Phúc Âm Lu-ca (10,38-42) chúng ta thấy hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a đều ân cần đón rước Chúa Giê-su. Nhưng rõ ràng là cách đón rước của Ma-ri-a khiến Chúa Giê-su thích hơn, vui hơn cách đón rước của Mác-ta. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy học cùng tổ phụ Áp-ra-ham và thánh nữ Ma-ri-a mà đón rước Thiên Chúa cách đẹp lòng Người nhất !

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.

(1) Bài đọc 1: St 18,1-10a: Thưa Ngài, xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài.

              1 Ngày ấy Đức Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. 2 Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy 3 và nói: "Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. 4 Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. 5 Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây! " Khách trả lời: "Xin cứ làm như ông vừa nói! "

          6 Ông Áp-ra-ham vội vã vào lều tìm bà Xa-ra mà bảo: "Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh." 7 Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. 8 Ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm, mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa.

         9 Khách nói với ông: "Bà Xa-ra vợ ông đâu? " Ông đáp: "Thưa nhà tôi ở trong lều." 10 Người nói: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai."

(2) Bài đọc 2: Cl 1,24-28: Mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa.

               24 Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. 25 Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, 26 rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa. 27 Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Ki-tô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. 28 Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Ki-tô.

(3) Bài Tin Mừng: Lc 10,38-42: Cô Mac-ta đón Chúa vào nhà mình, cô Ma-ri-a chọn phần tốt nhất.

              38 Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. 39 Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. 40 Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!" 41 Chúa đáp: "Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! 42 Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."

2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?

(1) Bài đọc 1 (St 18,1-10a) là câu chuyện kể lại tổ phụ Áp-ra-ham có lòng hiếu khách như thế nào: trước hết là thái độ và cử chỉ trân trọng (sụp xuống đất lạy), kế đến là khẩn khoản mời, và sau cùng là dọn bàn ăn, thức uống chiêu đãi các vị khách lạ. Các vị khách lạ chính là Thiên Chúa (ba ngôi) nhưng lúc ấy ông Áp-ra-ham không nhận ra đó là Thiên Chúa. Ông chỉ tiếp đón các ngài như những người khách lạ đang đi đường vất vả, cần chỗ dừng chân, nghỉ ngơi lấy sức.

         Qua đoạn Sách St 18,1-10a chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng rất dễ thương và tế nhị: Trước hết Thiên Chúa đã xuất hiện như những người lữ khách, cần đến lòng hiếu khách của tổ phụ Áp-ra-ham; Kế đến Thiên Chúa quan tâm đến ước nguyện thầm kín của hai vợ chồng già Áp-ra-ham và Xa-ra mà thi ân giáng phúc cho họ: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai."

(2) Bài đọc 2 (Cl 1,24-28) là những lời vàng ngọc của Thánh Phao-lô giãi bày với các tín hữu Cô-lô-xê về: (a) sự gắn bó của ngài với Chúa Ki-tô và với các tín hữu Cô-lô-xê nói riêng và Hội Thánh nói chung; (b) về sứ mạng rao giảng Tin Mừng là mầu nhiệm được giấu kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa: Đó là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ nhân loại.

            Trong đoạn thư gửi tín hữu Cl 1,24-28 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su Ki-tô là “Đấng đang ở giữa cộng đoàn Hội Thánh”, là “Mầu nhiệm được giấu kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa.”

(3) Bài Tin Mừng (Lc 10,38-42) là tường thuật của Lu-ca về hai cách đón rước Chúa Giê-su của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a. Cả hai người phụ nữ này đều rất yêu mến và quí trọng Chúa Giê-su. Cả hai đều muốn dành cho Chúa Giê-su những giờ phút thoải mái, dễ chịu nhất. Cô chị thì chuẩn bị cơm nước. Cô em thì ngồi nghe Chúa Giê-su nói và nuốt từng lời của Ngài. 

                   Qua Bài Phúc Âm Lc 10,38-42 chúng ta khám phá ra Chúa Giê-su là Đấng nào (là Thiên Chúa) qua cách đón rước của hai người phụ nữ làng Bê-ta-ni-a. Có thể nói cách Mác-ta đón rước Chúa Giê-su mới chỉ là cách đón rước Chúa với tư cách là một người bạn thân. Còn cách đón rước Chúa của Ma-ri-a mới là cách đón rước Chúa với tư cách Chúa Giê-su chính là Lời, là Sứ giả của Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa! Một cách đón rước chỉ mang chiều kích nhân linh (Mác-ta) và một cách đón rước mang chiều kích thiên linh (Ma-ri-a).

2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?    

          Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay được gói gọn trong lời này: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."   

III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY

Lời Chúa Giê-su nói với Mác-ta có là lời Chúa Giê-su nói với tôi hôm nay không? - (Có/Không?)

Tôi có băn khoăn lo lằng nhiều chuyện quá không?  - (Có/Không?)

Tôi băn khoăn lo lắng về những gì? - (Sức khỏe, sắc đẹp, công ăn việc làm, của cải, danh vọng, chức quyền…..?)

Tại sao tôi băn khoăn lo lằng nhiều như thế? - (Chỉ cậy sức mình và thiều tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa?)

Tôi có biết việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa là chuyện “cần thiết duy nhất” không?- (Có/Không?)

Tôi đã chọn việc ấy chưa? - (Đã/Chưa?)

Tôi đã làm gì để thể hiện việc chọn lựa ấy? - (Đọc, Suy Niệm Phúc âm mỗi ngày? Học hỏi Lời Chúa? Cầu nguyện với Chúa trước mỗi việc quan trọng?)

IV. CẦU NGUYỆN  (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)

                 4.1 “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài” - Lạy Chúa là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của dân riêng Chúa, của Hội Thánh, của chúng con; Chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã đến với con người, ở bên con người.  Xin Chúa ban cho chúng con ơn tỉnh thức và nhạy bén để nhận ra và đón rước Chúa vào tâm hồn và cuộc sống của chúng con.

       Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

             4.2 “Tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa” - Lạy Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì Chúa đã tỏ ra cho dân thánh Chúa biết về Mầu Nhiệm của Con Một Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô. Xin Chúa cho chúng con ơn đón nhận và loan báo mầu nhiệm cao trọng ấy cho muôn người.

       Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

             4.3 “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." - Lạy Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa, vì chúng con đã học được điều “cần thiết duy nhất” là lắng nghe và thực hành Lời của Con Một Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết áp dụng bài học quan trọng này vào cuộc sống thường ngày của chúng con.

       Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.

   Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. 
   Sàigòn 05.07.2007.

------------------------------------

 

TN 16-C37. Martha và Maria

 

Có một bà bếp của cha sở nọ, mỗi lần nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, đều than phiền: TN 16-C37


Có một bà bếp của cha sở nọ, mỗi lần nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, đều than phiền:

- Phải rồi, nếu không có Martha, thì ai sẽ lau nhà, sẽ nấu ăn, sẽ rửa chén.

Cũng vậy, nếu tôi chỉ ngồi suy nghĩ và bàn luận về những sự cao siêu trên trời, thì chắc chắn chẳng có ai làm những công việc tầm thường ấy. Ngay trong lúc này, hẳn nhiều người trong chúng ta cũng tự hỏi:

- Làm thế nào để dung hòa giữa thái độ của Martha và thái độ của Maria, hầu nhờ đó mà áp dụng vào cuộc sống cụ thể của mỗi người chúng ta.

Thực tế cho hay cuộc sống của chúng ta thì rất bận rộn, chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, chúng ta muốn tham dự thánh lễ thường xuyên hơn, chúng ta muốn đọc và suy gẫm lời Chúa lâu giờ hơn, nhưng kẹt một nỗi chúng ta lại không có thời giờ.

Quả thật, Chúa Giêsu muốn chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Ngài không nói rằng: Khi làm việc như Martha, chứ không thể cầu nguyện như Maria, hay trái lại, khi cầu nguyện như Maria, chúng ta không thể làm việc như Martha. Hai thái độ trên liên hệ mật thiết và bổ túc lẫn cho nhau: Chúng ta vừa phải là Martha vừa phải là Maria. Vậy thì chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như thế nào ?

Tôi xin thưa: Chúng ta hãy khởi đầu một ngày mới bằng cách dâng lên Chúa lời nguyện vắn tắt sau đây:

- Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa trọn ngày hôm nay.

Còn nếu như có đủ thời giờ, chúng ta hãy cầu nguyện:

- Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm, để tôn vinh danh Chúa, hợp cùng cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con.

Đồng thời, thỉnh thoảng trong ngày, chúng ta hãy lặp lại lời kinh trên, nhờ đó thánh hóa những công việc tầm thường của chúng ta, biến những công việc tầm thường ấy trở thành một lời kinh liên tục, hay nói một cách khác biến cuộc đời chúng ta trở thành một thánh lễ nối dài.

Các vị thánh là những người bận rộn. Với các ngài, cái búa, cái cưa, cái cày, cái cuốc, cái chổi được coi như là những chén thánh ở trên bàn thờ. Tại sao lại như thế?

Tôi xin thưa vì những dụng cụ ấy là những dụng cụ để các ngài làm tôn vinh danh Chúa. Điểm chính yếu trong đời sống đạo đức đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ Chúa trong mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh lễ chúng ta đang tham dự cũng là một hình ảnh lý tưởng để chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Như Martha chúng ta cùng hát, cùng đọc và cùng dâng với mọi người. Như Maria chúng ta lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, cũng như kết hiệp tâm tình để cầu nguyện với Chúa.

Khi rước lễ, Chúa Giêsu sẽ là vị khách quí ngự đến trong tâm hồn chúng ta, như ngày xưa Ngài đã là vị khách quí dưới mái nhà Bêtania. Xin Ngài hãy giúp chúng ta biết thực hiện tinh thần phục vụ như Martha và Maria, đó là hãy làm mọi việc dù tầm thường nhỏ bé nhất vì lòng yêu mến Ngài, nhờ đó những việc nhỏ bé tầm thường này sẽ trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.

------------------------------------

 

TN 16-C38. Một sự hiện diện thiết yếu

 

Tĩnh từ ‘tốt hơn’ chỉ một trạng thái trội hơn một trạng thái tốt khác. Có thể nói rằng phần tốt hơn: TN 16-C38


Tĩnh từ ‘tốt hơn’ chỉ một trạng thái trội hơn một trạng thái tốt khác. Có thể nói rằng phần tốt hơn của Maria không giảm giá trị cái phần tốt của Martha. Cả hai bà tiếp đón Đức Kitô, chăm chú săn sóc Chúa. Martha cư xử đúng vai chủ nhà lịch thiệp hiếu khách, nấu ăn bày bàn rất cầu kỳ. Đức Giêsu nhã nhặn vui vẻ, bảo bà chớ quá bận rộn làm chi. Tuy nhiên bao giờ cũng vậy, Chúa nhắm xa hơn cái hiện tại trước mắt. Chúa cho hai chị em cảm thấy sự quan trọng của chuyến viếng thăm. Điều quan trọng là không nên để các sự việc (phục vụ, hành động, …) dầu có giá trị và cần thiết hết sức, rút cuộc chiếm hết trí khôn, cản trở hoạt động của trái tim. Theo nghĩa trong Kinh Thánh, trái tim là tâm tình hướng về Đức Giêsu, cảm biết Chúa là sự Tuyệt Đối; chỉ có Chúa là hằng hữu, đáng kể, đáng chú ý. Do đó đương nhiên mọi sự phải giảm xuống mức tối thiểu. Khi Chúa đến thăm, Người chú ý đến chúng ta nhiều hơn là đến cách tiếp đón. Chúa ao ước chúng ta để ra thời giờ dừng lại tâm sự với Người, hơn là bận rộn sửa soạn lễ vật. Cách cư xử nào cũng có giá trị, cũng có mức tuyệt hảo. Bổn phận sửa soạn đãi khách không được làm giảm bớt sự săn sóc tiếp đón. Trái lại không nên vì quá săn sóc tiếp đón mà lơ là việc đãi đằng. Người ta thường căn cứ vào truyện hai bà Martha và Maria để so sánh hành động với chiêm niệm, điều thiết yếu là mỗi người phải sinh lợi ân huệ của Thiên Chúa. Ở đây chúng ta nêu ra hai điểm:

1) Đức Giêsu đến thăm gia đình Bêtania.

Điều cần là sự hiện diện thiết yếu của Chúa trong nhà chúng ta, tức là trong tâm khảm chúng ta, nơi xuất phát ý nghĩ và hành động. Giọng văn trong bài tường thuật, sự thân thiết tự nhiên của Martha, tất cả cho thấy Đức Giêsu được tiếp đãi như một người bạn thân. Đó là điểm đáng chú ý trong bài Phúc Âm hôm nay. Nói chung, trong tâm hồn chúng ta, Chúa phải cảm thấy dễ chịu như trong Nhà Người.

2) Trong nội bộ Giáo Hội, chúng ta phải tôn trọng ơn thiên triệu của giới này cũng như của giới kia. Có thể là giới hành động không hiểu được đường lối tu trì ‘bất hành động’ của giới chiêm niệm, cho nên dễ đi đến chỗ muốn thưa với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin Chúa xét xem có nên phối hợp tu sĩ các đan viện chẳng hạn, đưa họ vào công cuộc Phúc Âm hóa quá lớn lao không?’. Chắc chắn Chúa không trả lời. Nói đúng ra, Chúa trả lời, Chúa bảo không nên quan trọng hóa những phương thế bề ngoài của hành động. Hiệu năng công cuộc Phúc Âm hóa phát xuất từ sự hiện diện tác động của Thiên Chúa, tùy theo cường độ mạnh yếu, trong hành động cũng như trong kinh nguyện của chúng ta.

------------------------------------

 

TN 16-C39. Phúc cho ai sẵn sàng đón nhận Chúa- Jude Siciliano

 

Khi viết Tin mừng, thánh Luca chia cuộc đời Chúa Giêsu làm 3 giai đoạn: 1. Ở quê hương: TN 16-C39


Khi viết Tin mừng, thánh Luca chia cuộc đời Chúa Giêsu làm 3 giai đoạn:

1. Ở quê hương Nazareth xứ Galilea;

2. Hành trình đi lên Giêrusalem;

3. Ở thành thánh Giêrusalem: chịu thương khó, bị giết chết và sống lại.

Thánh nhân thâu gom mọi hoạt động của Chúa vào 3 giai đoạn ấy bất kể nơi chốn và thời gian. Cho nên chúng ta khó xác định biến cố xảy ra ở đâu, lúc nào? thí dụ chuyện của hai chị em Matta và Maria hôm nay. Thánh sử ghi chép rất chung chung: ”Trong khi Thầy trò đi đường. Đức Giêsu vào một làng kia…” Thánh Gioan nói rõ: làng Betania (11,1), và thời gian thì không phải Đức Giêsu đi lên Giêrusalem một lần duy nhất, nhưng vào nhiều dịp khác nhau. Tuy nhiên cứ theo thánh Luca thì câu chuyện Tin mừng hôm nay ở vào cuộc hành trình duy nhất này. Phụng vụ cho đọc về cuộc hành trình từ Chúa nhật 13 mùa thường niên. Một vài biến cố xảy ra lúc thầy trò đang đi đường. Một vài biến cố chỉ lấy con đường làm nền tảng còn thì xảy ra ở những nơi khác. Chuyện của hai chị em Matta và Maria không ở trên đường đi mà “vào một làng kia”. Cũng xin lưu ý nhiều tác gỉa không đồng nhất bà Maria này với Maria-Madalêna hay người đàn bà tội lỗi vô danh xức thuốc thơm chân Chúa ở nhà ông Simon (7,36). Ba người đàn bà có những tính nết khác nhau, không lẫn lộn được. Người đàn bà vô danh thánh Luca thuật chuyện ở giai đoạn thứ nhất. Ngài không lặp lại ở đây nữa (xem Le personnage de Marie-Madeleine dans L’Evangile, trong La revue Jerusalem tháng 9-10,1930).

Vì câu chuyện quá quen thuộc, chúng ta không nên vội vàng đi đến kết luận ngay, kẻo làm thiệt hại cho sự thật. Xin tưởng tượng mình đọc lần thứ nhất và để tâm suy nghĩ xem thánh Luca muốn nói gì với chúng ta nhân câu chuyện của hai chị em. Thí dụ về cô Matta, chúng ta đừng vội kết luận cô ta thuộc hạng người hoạt động thái quá, dễ nổi nóng và lo lắng tiếp đãi khách, cô không còn thời giờ lắng nghe lời Thiên chúa phán dạy. Nếu chúng ta có thành kiến gán cho cô như vậy, thì thử hỏi nhiều độc giả nghĩ thế nào khi đọc đoạn Tin mừng này? Bởi vì họ cũng là người cha, người mẹ vất vả kiếm sống cho con cái trong xã hội xô bồ hôm nay. Họ cũng là những công nhân, nông dân đầu tắt mặt tối kiếm tiền nuôi gia đình! Liệu có ai trong cuộc sống văn minh ngày nay được thời giờ nhàn hạ như cô Maria? Liệu chúng ta có kết án vô lý tầng lớp sản xuất của xã hội? Tầng lớp mọi người đều trân trọng vì lao động của họ?

Ví dụ một người cha, người mẹ độc thân, lương lậu thấp, cố gắng rất mực để cho gia đình đủ ăn đủ mặc mà nghe giải thích bài Tin mừng hôm nay theo não trạng cũ, mà lại không thấy mủi lòng? Liệu họ có thể lựa chọn ngồi một chỗ thinh lặng chiêm niệm lời Chúa như cô Maria được không? Cho nên chúng ta không thể loại trừ tầng lớp lao động chân tay khỏi ý nghĩa của Tin mừng. Chúng ta phải làm thế nào cho cô Matta cũng được tham dự vào “phần tốt nhất” mà Chúa Giêsu tuyên bố cho những kẻ lắng nghe lời Chúa! Như vậy thì những phụ nữ lao động tại gia đình hoặc trong các xí nghiệp. cơ quan mới cảm thấy không thiệt thòi về phần thiêng liêng. Chính họ đã phải hy sinh nhiều vì chồng con. Lắm người lại còn phải mang gánh nặng góa bụa. Liệu Matta có phải là một bà góa không nhỉ? Những chỉ số thống kê gần đây cho biết phụ nữ luôn lãnh lương thấp hơn so với nam giới trong cùng một công việc. Ngoài ra phụ nữ lại là những nhân viên tình nguyện đông hơn nam giới trong các cơ sở giáo hội, từ thiện, bác ái, công ích xã hội. Họ ít thời giờ giải trí, vui chơi hơn đàn ông. Thực tế họ là những phụ nữ “Samaritanô” nhân hậu lắng nghe và tuân giữ lời Chúa như chị em Maria và Matta. Cho nên chúng ta phải công bằng với họ trong lý thuyết và thực hành, làm sao cho họ cũng là những kẻ đón nhận Chúa Giêsu, lắng nghe lời Ngài như bao người khác. Để rồi như dụ ngôn người “thân cận” chúng ta hiểu được việc phục vụ của các tín hữu hệ tại nội dung nào?

Một điều cần nói là trong bản dịch khác của tiếng Anh thì từ “đón nhận” được chuyển ngữ là “tiếp đãi” Chúa Giêsu. Thoạt kỳ thủy chỉ có Chúa và cô Matta. Maria chưa xuất hiện. Trong suốt câu chuyện Maria chẳng nói lời nào! Matta theo truyền thống đông phương đã tiếp đãi kẻ đi đường rất nồng hậu và lịch thiệp. Chúng ta thấy truyền thống này trong bài đọc 1. Ông Abraham tiếp đãi ba người khách lạ xin trọ nhà ở Mambrê, gần Hébron. Ông đã giục vợ là Sara làm bánh tiếp đãi các vị, rồi sai đầy tớ bắt bê béo làm thịt. Sách Sáng thế Ký kể: ”Ông Abraham vội vã vào lều tìm bà Sara mà bảo: Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi rồi làm bánh. Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê non béo tốt, giao cho đầy tớ và anh này vội vã làm thịt. Ong lầy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi khách”. Rõ ràng có những vội vã, rộn ràng trong việc tiếp khách của ông Abraham. Vậy mà ông đâu có bị quở mắng? Ngược lại hai ông bà lại được chúc phúc: sẽ có con cháu nối dòng. Đó là Isaac (tiếng này có nghĩa là nụ cười vì bà Sara cười thầm khi nghe khách báo tin). Cô Matta đã theo thói tục lâu đời của cha ông đãi khách lạ trong nhà mình. Cả hai câu chuyện đều có ý nghĩa chung: tiếp đón Thiên Chúa đến viếng thăm. Abraham và Sara đã được ơn phúc lớn vì sự hiếu khách của mình. Chẳng lẽ Matta lại bị quở phạt? Chúng ta phải hiểu câu chuyện của cô theo hướng khác.

Phụng vụ chọn đọc bài Sáng thế song song với bài Tin Mừng là có dụng ý. Chúng ta được kêu mời suy nghĩ kỹ hơn về các sự kiện. Nhờ lòng hiếu khách Abraham và Sara được Thiên Chúa chúc lành với người con nối dòng. Nhưng dòng dõi đích thực của họ là phần tinh thần. Con cái họ là những kẻ biết kính sợ và tin cậy Thiên Chúa. Đấng luôn luôn ngự giữa dân Ngài theo lời hứa. Đấng ký kết với Israel những giao ước vĩnh cửu. Dòng dõi Abraham và Sara là những kẻ lữ hành trong đức tin trên cuộc đời trần gian. Họ sẽ “mở lòng ra” đón nhận Thiên Chúa trong cuộc sống mình. Cũng như Matta và Maria, chúng ta là hậu duệ của hai ông bà, chúng ta cũng phải mở trí, mở lòng đón nhận lời Chúa, đón nhận “khách lạ” vào cuộc sống mình. Những khách lạ đó không hẳn là người đồng vai đồng vế, những môn đăng hộ đối về kinh tế, chính trị, học thức với mình. Nhưng có thể là thấp kém, cũng có thể là hơn. Hội thánh xưa nay vẫn vừa chiêm niệm vừa hoạt động, hai khả năng không loại trừ nhau. Đúng hơn hoạt động và chiêm niệm bổ túc cho nhau. Hoạt động để chiêm niệm và chiêm niệm để hoạt động. Không nghiêng hẳn về bên nào. “Cầu nguyện và hoạt động” như thánh Bênedictô dạy. Tuần này qua tuần khác, chúng ta lắng nghe Tin mừng thánh Luca. Giống như Maria ngồi bên chân Chúa và nghe lời Ngài, để học biết phải “đón tiếp” Chúa vào cuộc sống mình ra sao! Tuần vừa qua chúng ta nghe dạy mình phải là “thân cận” của những kẻ đang cần được giúp đỡ. Tuần này câu chuyện của Maria lắng nghe lời Chúa. Như vậy chúng ta học biết phải thi thố lòng hiếu khách và tử tế cho những ai có nhu cầu. Chẳng phải vô tình mà sử gia Luca đặt câu chuyện hôm nay ngay sau chuyện người Samaria nhân hậu. Thánh nhân có ngầm ý gởi cho độc giả một thông điệp. Mọi người phải thưa gởi Chúa Giêsu như thầy thông luật: “Con phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” và câu chuyện của hai chị em Matta và Maria trả lời: “Hãy đón tiếp Chúa Giêsu vào cuộc sống và lắng nghe lời Người dạy bảo về yêu thương đồng loại, những kẻ thân cận của mình” và con đường dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu sẽ rõ ràng cho mỗi linh hồn.

Chúa Giêsu hỏi ngược nhà luật sĩ: “trong luật đã viết gì?” Ông ta trả lời: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn ngươi và yêu mến ngươi thân cận như chính mình”. Câu này có hai phần: phần thứ nhất: yêu mến Chúa, phần thứ hai: thương người thân cận. Dụ ngôn người Samaria nhân hậu trả lời cho phần thứ hai. Tin mừng hôm nay trả lời phần thứ nhất: Lắng nghe lời Chúa tức yêu mến Ngài. Đứng riêng lẻ một mình không nội dung nào đầy đủ cả. Trong dụ ngôn tuần trước người Samaria trông thấy và giúp đỡ kẻ bị nạn. Cô Maria hôm nay đón nghe lời Chúa. Cả hai gộp lại mới cho chúng ý nghĩa trọn vẹn lời giảng của Chúa Giêsu. Xin nhớ nữ giới thời Ngài thường bị hạ thấp giá trị, tương tự như trong xã hội chúng ta ngày nay. Cho nên, cả người Samaria, cả cô Maria là những mẫu người được Chúa Giêsu đề cao: “Mẹ và anh em Thầy là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành”(8,21). Thánh Phaolô trong bài đọc thứ 2 là gương mẫu người thực thi ý Chúa và thương yêu đồng loại. Ông viết: “Tôi đã trở nên người phục vụ Hội thánh, theo kế hoạch Thiên chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em! Đó là tôi phải rao giảng lời Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại”. Chữ “mầu nhiệm” thánh nhân dùng gồm tóm mọi chương trình của Thiên Chúa, dự định cho nhân loại. Nhưng nay đã được tỏ bày qua con người và sứ vụ của Chúa Giêsu .

Một từ giúp hiểu rõ bối cảnh của tin mừng hôm nay là danh xưng “Lạy Chúa” (tiếng Latinh: Dominus, tiếng Anh: Lord). Từ này chỉ được Tin Mừng dùng sau khi Chúa đã sống lại. Thí dụ ông Tôma thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con (you are my Lord and my God)”. Thánh Luca đã có dụng ý biểu lộ phản ánh sinh hoạt của Giáo Hội tiên khởi nơi ông trụ trì. Họ đón nhận và lắng nghe Chúa sống lại trong cộng đoàn của mình. Hơn nữa Tin Mừng còn 2 lần nhắc lại từ “phục vụ”(diakonia) chỉ rõ thói quen hành xử của các viên chức hội thánh lúc bấy giờ. Người ta đã tranh luận nhiều về vai trò nữ giới trong các Hội thánh tiên khởi. Liệu họ có được phép “phục vụ” trong Giáo hội không? Nếu được thì phần việc của họ là gì? Tương tự như chúng ta ngày nay tranh cãi về các vấn đề nữ giới làm linh mục.

Thực tế, thời thánh Luca nữ giới giữ nhiều chức vụ trong cộng đoàn: mục vụ, công việc tông đồ, lãnh đạo, rao giảng Tin mừng như trong các thơ của thánh Phaolô (Rm 16,1-5; 16,6-12; 1Cr 16,19; Phil 4,3…). Nhưng trong các thư cũng như bài đọc Tin Mừng hôm nay có sự chia rẽ. Một số thẩm quyền muốn nữ giới giữ vai trò lệ thuộc như cô Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu. Và như thế người phụ nữ im lặng là “phần tốt hơn”. Đó cũng là một lối giải thích cho câu chuyện của Luca! Liệu ông có dụng ý thực sự như vậy không? Ông muốn vai trò của phụ nữ là im lặng và thụ động? Nếu đúng, thì tại sao trong công vụ ông nhắc nhiều đến phụ nữ làm việc tông đồ, lãnh đạo giáo đoàn? Hơn nữa, theo thói tục Do thái người ngồi dưới chân “tôn sư” là chỗ của các sinh viên nam giới? Hoặc bởi vì Chúa Giêsu là người phóng khoáng, ít khi lệ thuộc vào thói quen và tập tục, cho nên không để cho những nề nếp trói buộc mình. Bất cứ ai lắng nghe lời Ngài đều được ngồi dưới chân và trở nên môn đệ của Ngài.

Vấn đề thật nhiêu khê. Dầu sao,vai trò của Matta đón tiếp và phục vụ là công việc quan trọng trong Hội thánh. Ngày nay chúng ta luôn phải thực hành, để những người cô thân cô thế không bị bỏ rơi. Có biết bao nhiêu khách lạ, đói khát, rét mướt, trần truồng trong xã hội. Không người chăm lo cho họ thì Hội thánh liệu có làm tròn sứ vụ của mình? May thay, trong công việc này, nữ giới chiếm phần đa số. Tương tự như trong các giáo hội tiên khởi có rất nhiều phụ nữ tài năng. Kẻ thì ngồi im lặng lắng nghe lời Chúa như cô Maria, kẻ khác hoạt động cứu giúp những nạn nhân thiên tai, dịch họa, bần cùng, đói khát như cô Matta. Bằng đường lối riêng của mình cả hai loại người cùng đón tiếp Chúa Giêsu, cùng phục vụ Ngài. Rõ ràng cả hai đều được Ngài dạy dỗ, bày tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân. Chúng ta nên cân bằng những hoạt động của họ, không bên khinh bên trọng. Mọi tín hữu đều được mời gọi lắng nghe lời Thiên Chúa. Mọi tín hữu có bổn phận đem Lời Chúa ra thực hành. Loại trừ mọi khả năng ưu tuyển, nhận cho mình những phần hơn, phần tốt. Bởi lẽ khi hoàn thành công tác, mọi người đều được Thiên chúa thâu nhận vào nước trời, an hưởng cuộc sống đời đời. Đó là phần tốt nhất và không bị lấy đi. Trong thánh lễ hôm nay, xin Thiên chúa cho mọi linh hồn thấm nhuần được tinh thần đó. Amen.

------------------------------------

 

TN 16-C40. Chỉ một việc cần

 

Trên đường hướng về Giê-ru-sa-lem, cách thành Thánh ba cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bê-ta-ni-a: TN 16-C40


Trên đường hướng về Giê-ru-sa-lem, cách thành Thánh ba cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bê-ta-ni-a, nơi ở của Mác-ta, Ma-ri-a và La-za-rô, một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành chức vụ tại thủ đô. Không có nơi nào tính cách nhân loại mà Lu-ca chủ trương phác hoạ được diễn tả trọn vẹn nơi đây, trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được một bức hoạ tâm lý sống động hơn. Có người tưởng tượng rằng Mác-ta là người khô khan nhưng cương nghị và đắc lực, còn Ma-ri-a thì đôn hậu, đa cảm và lười. Thật ra cả hai chị em đều có những đức tính đáng khen, cả hai đều yêu kính Thày và ước ao làm vui lòng Thầy. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mác-ta đã làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon lành. Còn Ma-ri-a vì trực giác hơn được điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Nàng biết Ngài mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của vị khách trước. Trong việc tiếp đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị nàng.

“Mác-ta tất bật lo việc phục vụ.” Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm. Một kẻ theo Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và kiêu hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mác-ta khi nàng chỉ trích em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: “Em con để con một mình phục vụ Thầy mà Thầy không quan tâm sao?”

Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: “Mác-ta! Mác-ta! Chị băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã không chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn thịnh soạn, một và món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Ma-ri-a đã chọn.

Chúng ta thử tìm hiểu những bài học nơi đây:

1) Nó bày tỏ sự va chạm giữa những tính tình khác biêt.

Có người thì tự nhiên hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm tĩnh. Thật khó cho một người năng nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng, ngược lại người trầm tư mặc tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân. Không có vấn đề phải trái ở đây, Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau. Thiên Chúa cần có những người như Ma-ri-a, nhưng Ngài cũng cần những người như Mác-ta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa. Không ai được độc quyền phục vụ Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục vụ chính đáng.

Trong một cuộc lễ trọng, trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống. Hoa than thở với nến! Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi chúng em!

2) Nhưng ở đây còn có một bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai lầm.

Hãy nghĩ đến chỗ Chúa Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra. Ngài đang trên đường đến Giê-ru-sa-lem. Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó là một ngày trọng đại cho họ, để mừng ngày trọng đại này Mác-ta rất muốn thực hiện một điều tốt nhất gia đình có thể thực hiện. Vì thế nàng chạy ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ muốn một điều là được yên tĩnh. Với hình ảnh thập giá ở trước mắt cùng một sự căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bê-ta-ni-a để tìm một chỗ lặng lẽ nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám quần chúng quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi nỗi căng thẳng. Đó là điều Ma-ri-a đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà Mác-ta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi. “Chỉ một việc cần” câu ấy có thể có ý “Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật đơn giản.” Ma-ri-a hiểu, còn Mác-ta thì không hiểu được. Đây là một trong những khó khăn của cuộc đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người, nhưng tử tế theo cách của chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không được thừa nhận, chúng ta cảm thấy dễ phận lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.

Nếu chúng ta đang cố gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ đến điều mà người đó đang cần.

Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức thư và bài báo về vấn đề đó, trong đó có nhiều người trách ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu Lincoln bắt tay ông bạn già chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã chút bỏ những nỗi suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: “Khi Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn.” Lincoln chỉ cần một người bạn thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.

Chúa Giêsu yêu thương Mác-ta và Mác-ta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mác-ta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao khát sự yên tịnh, sự thân mật. Chúa Giêsu yêu Ma-ri-a vì Ma-ri-a yêu Chúa, Ma-ri-a cũng hiểu biết Chúa nữa.

------------------------------------

 

TN 16-C41. CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ

 

Có hai thầy Dòng thường hay đến gốc cây trong tu viện để phì phèo điếu thuốc. Một hôm họ: TN 16-C41


Có hai thầy Dòng thường hay đến gốc cây trong tu viện để phì phèo điếu thuốc. Một hôm họ bàn với nhau là sẽ đi gặp cha linh hướng để hỏi ý kiến ngài về việc hút thuốc và cầu nguyện.  Họ quyết định sẽ nghe theo lời khuyên bảo của cha linh hướng.  Một thời gian sau, một người đã bỏ hút thuốc, còn người kia thì vẫn còn ung dung phì phèo điếu hút thuốc như trước.  Lấy làm lạ người đã bỏ thuốc hỏi anh bạn mình:

- Này anh! Anh đã nói làm sao với cha linh hướng mà nay anh vẫn còn hút thuốc vậy?

Người bạn trả lời:

- Có gì lạ đâu, tôi đã hỏi cha linh hướng: "Thưa cha, Trong khi con hút thuốc, con có được phép cầu nguyện không?"  và cha linh hướng trả lời: "Trong khi con hút thuốc thì con vẫn được phép cầu nguyện". Thế là tôi cứ hút, và trong khi tôi hút thuốc, tôi cầu nguyện.  Còn anh, anh đã hỏi cha linh hướng làm sao mà bây giờ anh không còn hút thuốc nữa?

Người bạn bỏ thuốc trả lời:

- Tôi hỏi cha linh hướng như thế này: "Trong khi con cầu nguyện thì con có được phép hút thuốc không?"  Cha linh hướng đã trả lời: “Trong khi cầu nguyện thì con không được phép hút thuốc".  Chính vì thế mà tôi đã bỏ thuốc để cầu nguyện.

* * * * *

Bạn thân mến!

Câu chuyện vui trên đây cho ta thấy hai con người, hai cách ứng xử khác nhau nhưng cùng chung một hướng đi, cùng chung một mục đích là cầu nguyện. 

Phúc âm Chúa Nhật hôm nay (Lc 10:38-42) cũng nói lên hai khuôn mặt với hai lối ứng xử khác nhau, hai lối biểu hiện lòng kính trọng và tình yêu mến khác nhau đối với Chúa Giêsu.

Phúc âm thuật lại rằng: Khi được Chúa đến nhà ghé thăm. Martha đã bận rộn với công việc, chị lo lắng chuyện ăn uống bếp núc, chuyện phục vụ đón tiếp sao cho chu đáo.  Nhưng Maria có vẻ bình an và hạnh phúc, trong tư thế gần gũi và gắn bó, chị khiêm tốn ngồi bên chân Chúa để lắng nghe Chúa nói chuyện. Thấy thế Chúa Giêsu đã lên tiếng nói với Martha:

- Martha! Martha ơi! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.  Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi. (Lc 10:41-42)

Phải chăng trong những điều tốt đẹp, ta phải chọn điều tốt nhất, đẹp lòng Chúa nhất…Đó là lời nhắc nhở khuyên bảo của Chúa Giêsu cho Martha ngày xưa và cho mỗi người chúng ta ngày nay về bậc thang giá trị giữa hoạt động phục vụ và cầu nguyện; giữa công việc của Chúa và chính Chúa.

Phải chăng điều tốt nhất, đẹp lòng Chúa nhất là chính Chúa; là gần gũi gắn bó với Chúa để nghe Lời Ngài giảng dạy khuyên bảo; là tâm tình cầu nguyện với Chúa để biết ý Ngài và làm theo ý Ngài muốn; là ở bên Ngài, nói chuyện với Ngài và mời Ngài cùng hiện diện và cùng góp công sức trong công việc phục vụ và hoạt động … Lúc đó công việc phục vụ và hoạt động không còn được làm bằng sức của ta, nhưng bằng sức của Chúa.  Thành công hay thấy bại trong công việc phục vụ không còn là của ta và do ta nữa, mà là của Chúa và do Chúa.

Phải chăng phục vụ mà không có cầu nguyện là phục vụ cho mình và theo ý mình?  Phải chăng hoạt động mà không có cầu nguyện thì “nhiều lúc” đồng nghĩa với phá hoại, đi ngược với chương trình kế hoạch của Chúa?

Phải chăng đời sống của người Kitô là kết hợp hài hòa giữa Martha và Maria? Giữa tất bật và an bình? Giữa lăng xăng và yên tĩnh? Giữa hoạt động phục vụ và cầu nguyện chiêm niệm?  Ðể rồi giữa tất bật ta tìm thấy an bình, giữa lăng xăng ta thấy mình yên tĩnh, giữa hoạt động phục vụ ta thấy mình chiêm niệm cầu nguyện.

Một tấm gương sáng về đời sống “phục vụ và cầu nguyện” mà chúng ta phải luôn ghi nhớ, luôn nỗ lực để noi gương bắt chước.  Đó là đời sống của đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trong suốt 30 năm Giáo Hoàng của Ngài là 30 năm cầu nguyện và phục vụ không ngơi nghỉ.  Đời sống của Ngài là một sự phối hợp hài hòa giữa phục vụ và cầu nguyện; là một đời phục vụ với cầu nguyện liên lỉ và một đời cầu nguyện với phục vụ không mệt mỏi.

* * * * *

Lạy Chúa! Khi bị bao vây bởi muôn vàn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những giây phút thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những giây phút thinh lặng nghỉ ngơi bên Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe Lời Ngài.
Khi những đam mê dục vọng bủa vây con,
xin cho con được thoát ra khỏi, nhờ sức mạnh của cầu nguyện.

Lạy Chúa! Ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cuộc sống của con.
Vì nhờ cầu nguyện, con gặp được chính con người thật của con và khuôn mặt của Chúa. Amen.

------------------------------------

 

TN 16-C42. Phục vụ trong trật tự


- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

 

Thoạt nghe bài Tin mừng hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa quá mâu thuẫn. Mới: TN 16-C42 FB. web


Thoạt nghe bài Tin mừng hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa quá mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể truyện người xứ Samaria nhân hậu để dạy phải phục vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại trách móc, tuy có nhẹ nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà Martha đã lăng xăng phục vụ đón tiếp Chúa. Tại sao thế?

Nếu đọc kỹ bài tường thuật hôm nay cũng như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ thấy phục vụ tuy được Chúa đề cao, nhưng vẫn phải nằm trong một trật tự toàn bộ của đời sống đạo.

Trật tự thứ nhất: Phục vụ phải biết quên mình.

Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12). Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận vì ông phục vụ mà không biết quên mình.

Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Về điểm này, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn nến và bông hoa. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông hoa thì thật đau lòng. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau. Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo: “Tay trái không biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. “Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).

Trật tự thứ hai: Phục vụ phải biết lắng nghe.

Trước hết phải biết lắng nghe lòng mình xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì mọi việc phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô ích như lời thánh Phao-lô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3).

Thứ đến phải biết lắng nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, đúng nhu cầu. Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa, phải lắng nghe tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu nguyện và tiếp xúc tâm sự với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi bước chân ta, là ánh sáng hướng dẫn ta trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).

Trật tự cuối cùng: Phục vụ phải biết nghỉ ngơi.

Cuộc sống văn minh hiện đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại các nước phương Tây, con người đang biến thành những cỗ máy làm việc, làm việc không ngừng. Đó là một đời sống mất quân bình, rất nguy hiểm.

Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Đừng quá băn khoăn lo lắng”. Hôm nay Chúa nhắc lại với bà Martha một lần nữa: “Đừng băn khoăn lo lắng quá”. Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện bên Chúa mà sinh lực ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.

Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: “Con đừng quá băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững mãi mãi”.

Xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy đến bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa hướng dẫn, việc phục vụ của chúng ta sẽ theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống tâm linh ta được phát triển toàn diện trong một nếp sống quân bình. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1-      Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Hiện nay bạn cầu nguyện thế nào? Có sốt sắng không? Có nhiều thời gian cầu nguyện không?
2-      Bạn đọc kinh nhiều, nhưng bạn có cầm trí không, hay chỉ đọc như máy?
3-      Khi phục vụ, bạn có thực sự quên mình, hay phục vụ để được tiếng là người đạo đức, để hơn người?
4-      Muốn việc phục vụ thực sự tốt đẹp, ta cần có thái độ nào?

------------------------------------

 

TN 16-C43. Sự cân bằng

 

Có một ông bố đã tâm sự với thầy giáo đang dạy cho các con ông như sau: Các con tôi mặc dầu: TN 16-C43


Có một ông bố đã tâm sự với thầy giáo đang dạy cho các con ông như sau: Các con tôi mặc dầu không còn sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu thương chúng và muốn biết chúng hiện đang học hành ra sao? Rồi ông kể cho thầy giáo hay việc vợ và bốn đứa con của ông đã lìa bỏ ông như thế nào. Ông vốn là một nhà thầu khoán nên nhiều lúc rất bận rộn. Có ngày ông phải làm việc tới 16 tiếng đồng hồ. Ông thường xuyên vắng mặt trong gia đình, nền dần dần những người thân yêu cũng trở nên xa cách. Ông buồn bã cho biết: Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con tôi mọi thứ mà tôi từng mơ ước. Nhưng vì quá mải mê với công việc làm ăn, nên tôi đã quên mất một điều mà vợ con tôi đang cần đến, đó là họ cần một người cha, một người chồng để yêu thương và nâng đỡ họ.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chủ đích của đoạn Tin Mừng ấy là như thế này: Chúng ta có thể vì quá mải mê công việc làm ăn, đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta phải vất vả như thế. Chúng ta có thể vì quá mải mê khiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc đời. Chúng ta trang bị những vật dụng mà đồng tiền có thể mua sắm được, để rồi quên mất tất cả những gì mà đồng tiền không thể mua sắm được.

Đây cũng chính là sự lầm lẫn của Martha được ghi lại qua đoạn Tin Mừng vừa nghe. Cô quá lăng xăng lo chuyện nấu nướng bữa ăn cho Chúa Giêsu đến nỗi đã quên mất rằng Chúa đến nhà cô là vì tình thương chứ đâu phải vì bữa ăn miễn phí.

Thực vậy con người chúng ta gồm có hồn và xác. Phục vụ vật chất cho thân xác là điều tốt. Thế nhưng con người còn có những nhu cầu, cần đến những phục vụ thiêng liêng cho linh hồn. Chẳng hạn, một người bạn đến chơi không phải chỉ cần đãi đằng họ là đủ, mà nhiều khi cần phải lắng nghe những tâm sự để chia sẻ những khó khăn họ gặp phải. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khen Maria đã chọn phần tốt nhất bởi vì cô đã ngồi dưới chân Chúa để đón nhận những điều Ngài giảng dạy.

Còn chúng ta thì sao? Hiện thời chúng ta đang sống trong một thế giới rất dễ mất cân bằng, chúng ta vì bận rộn với công việc làm ăn, vì mải mê tìm kiếm tiền bạc, để rồi quân mất mục đích của đời mình, quên mất cái nào là ưu tiên số một trong cuộc sống, quên mất sự sáng suốt để lựa chọn, quên mất điều mình đang làm và lý do khiến mình làm điều đó.

Chúng ta giống như chú bé vẽ voi, đáng lẽ phải vẽ: con vỏi con voi với cái vòi đi trước, hai chân trước đi trước, hai chân sau đi sau, còn cái đuôi thì đi sau rốt. Thì chú bé lại vẽ: con vỏi con voi, cái đuôi đi trước, hai chân sau đi trước, hai chân trước đi sau, còn cái vòi thì đi sau chót.

Và quan trọng hơn nữa, đó là chúng ta quên mất phần rỗi của linh hồn chúng ta. Bởi vì như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?

------------------------------------

 

TN 16-C44. Ngồi dưới chân Chúa Giêsu


- Charles E. Miller

 

Tôi nghĩ rằng khi nghe câu chuyện về Matta và Maria, nhiều người trong chúng ta có khuynh: TN 16-C44


Tôi nghĩ rằng khi nghe câu chuyện về Matta và Maria, nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng cảm thấy đáng tiếc cho Matta. Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu. Khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu có vẻ như gắt gỏng cho dù Ngài gắt gỏng nhẹ nhàng, có lẽ Ngài đã lắc đầu và nói: “Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện, Maria đã chọn phần tốt nhất”. Nhưng chính xác là Maria có chọn phần tốt nhất không? Có phải đơn giản là vui hưởng ân sủng và là bà chủ đáng yêu trong lúc Matta thì tất bật trên bếp lò nóng?

Khi Thánh Luca viết rằng Maria ngồi nơi chân Chúa Giêsu, Ngài không miêu tả tư thế nhưng là mối liên hệ giữa Maria với Chúa Giêsu. Cụm từ”ngồi nơi chân” của một người nào có nghĩa là môn đệ của người đó. Trong văn hóa Do Thái thời Chúa Giêsu, không nghe nói có một người phụ nữ nào làm môn đệ của một thầy Rabbi. Theo trong tôn giáo hoặc ít nhất là quan sát bên ngoài thì các môn đệ đều là những người đàn ông. Chúa Giêsu đã phá vỡ cái truyền thống kéo dài từ xa xưa bởi vì truyền thống không đúng. Ngài đã đến để kêu gọi tất cả mọi người, người phụ nữ cũng như người đàn ông, con nít cũng như người trưởng thành, ngay cả những kẻ được xem như là người tội lỗi để trở thành môn đệ của Ngài. Ngài đã nhấn mạnh rằng Maria đã chọn phần tốt nhất. Cô ta đã hiểu sự mời gọi của Ngài, đã chấp nhận nó. Matta cảm thấy buộc phải duy trì khuôn mẫu của cô ta và đồng ý rằng chỗ của cô ta là trong bếp. Chúa Giêsu đủ thực tế để nhận biết rằng thực phẩm đã được sửa soạn và như thế Ngài có thể đã nói với Matta rằng chỉ cần một đĩa, một cái gì đơn giản là đủ. Tiếp đó, Ngài thêm không chỉ cho Matta mà cho tất cả mọi người trong mọi thời: “Maria đã chọn phần tốt nhất và cô ấy sẽ không bị ai cướp mất”. Chúa Giêsu đã muốn Matta làm một chọn lựa đó.

Maria đã được giới thiệu với mọi người nữ trong Giáo Hội nhưng trong một ý nghĩa lớn hơn cô đã trở nên kiểu mẫu cho mọi người. Chúng ta được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, để dâng hiến cho Ngài sự ấm áp mà Ngài đã cảm nghiệm nơi nhà Bêtania, để lắng nghe Người với tất cả sự chú ý như Maria đã làm, đặt Người lên hàng ưu tiên trước mọi việc trong cuộc sống của chúng ta, và không cho phép điều gì hoặc người nào có thể dứt chúng ta ra khỏi mối liên hệ của Người. Abraham đã dâng hiến sự hiếu khách cho các thiên thần như là những sứ giả của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được khẩn nài dâng hiến sự hiếu khách cho Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa.

Chúng ta sẽ hiểu trong một ý nghĩa sâu xa, chúng ta ngồi nơi chân Chúa Giêsu trong Thánh Lễ khi cử hành phụng vụ Lời Chúa. Theo Công đồng Vatican II đã long trọng dạy cho chúng ta rằng: “Đức Kitô đang hiện diện trong Lời của Ngài, đó chính là Ngài đang nói khi Thánh Kinh được đọc trong nhà thờ” (Hiến chế về phụng vụ, số 7). Chúa Giêsu đã ước ao khi chúng ta đặt trọng tâm sự chú ý của chúng ta vào Người. Lắng nghe Người trong đức tin, hấp thụ Lời và áp dụng nó trong cuộc sống của chúng ta. Tiếp đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi lương thực thánh, Thánh Thể, bữa tiệc này không phải được sửa soạn bởi Matta nhưng bởi chính Chúa Giêsu.

Có lẽ chúng ta có thể thấy gương của Maria thì thật khó để theo. Thật là quá dễ để cho phép những lo toan trong cuộc sống hằng ngày làm chúng ta xao lãng việc nghe theo lời dạy của Chúa Giêsu. Đó là những cám dỗ cho phép những giá trị gian dối mà những giá trị đó giới thiệu cho chúng ta một xã hội vật chết đang hướng chúng ta ra ngoài những chân lý của đức tin. Chúng ta phải trung thành đến với Thánh Lễ, bởi vì ở đây chúng ta có thể đặt những sự chia trí ra ngoài, để đặt trọng tâm vào những gì thật sự là quan trọng cho chúng ta. Trong lúc chúng ta cử hành phụng vụ, nơi thờ lạy của chúng ta sẽ trở thành Bêtania của chúng ta, nơi mà chúng ta sẽ học để trở thành những môn đệ thật.

------------------------------------

 

TN 16-C45. Mời Chúa vào nhà.


(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Cách đây ít lâu, trong một bài báo, một phụ nữ đã kể lại việc trang trí nội thất của gia đình: TN 16-C45


Cách đây ít lâu, trong một bài báo, một phụ nữ đã kể lại việc trang trí nội thất của gia đình bà như sau:

Mọi công việc trang trí đều được vợ chồng tâm đầu ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người trang trí nội thất treo một bức ảnh Chúa Giêsu kích thước cỡ lớn: 40x50 vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý, nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.

Tuy nhiên, đang lúc tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe ý kiến của chồng.

Giờ đây bà nói, bà rất vui vì đã nghe theo ý chồng, vì bà nghĩ rằng bức ảnh Chúa Giêsu đã gây được ảnh hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa của bà. Chẳng hạn, ngày nọ có người khác lạ, sau khi chăm chú nhìn vào bức ảnh liền nói với bà: “Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức ảnh kia không nhìn vào bà đâu, Ngài nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!. Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức ảnh cũng thốt lên: “Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình an”. Tuy nhiên, bà nói thêm, ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên các bạn bè khách khứa xã hội tôi là mỗi khi nhìn tấm ảnh Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn được nâng lên cao”.

Cuối cùng, bà nói rằng, có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà nói: “Theo thiển ý của tôi, một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước nữa”.

Thưa anh chị em,

“Một khi bạn biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi”. Sách Sáng Thế trong Bài đọc thứ nhất hôm nay đã kể lại câu chuyện ông Abraham mời Chúa vào nhà. Abraham vồn vã, nhã nhặn ra đón khách lạ theo kiểu Đông Phương. Ông sấp mình lạy, miệng mời Chúa ghé lại. Ông đặt ghế cho Chúa ngồi nghỉ mát, lấy nước cho Chúa rửa chân, lấy bánh và thịt mời Chúa dùng. Ông đứng hầu hạ phục vụ. Abraham được Chúa hứa ngay: “Sang năm vào độ nầy, tôi sẽ ở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai”. Thế là ông được một người con nối dõi tông đường trong lúc tuổi già và son sẻ.

Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện hai chị em Matta và Maria tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà. Matta người chị vốn có lòng hiếu khách và muốn tỏ ra lòng mộ mến sâu xa đối với một bậc thầy, là bạn của gia đình, nên chị định trổ tài nấu dọn một bữa ăn thật ngon để chiêu đãi Chúa. Chị lăng xăng chạy lên chạy xuống, lo sao cho mọi sự chu đáo…

Trong khi đó, Maria lại nghĩ rằng không nên để Chúa ngồi đơn độc một mình. Vả lại, Chúa cũng chẳng muốn chỉ vác bụng đến ăn không, nhưng còn muốn chia sẻ cho hai chị em những lời ban sự sống. Do đó, một người thì muốn nói, một người lại thích nghe, quên hết cả mọi sự!

Thế là Matta nổi cáu, trách Chúa không để ý đến mình, để mặc mình vất vả! Nỗi ghen tức kể ra cũng chính đáng. Nhưng Chúa cũng trách nhẹ Matta sao lo lắng nhiều chuyện quá làm chi. Chuyện ăn uống đâu có quan trọng đến nỗi ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết thôi: “Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất”.

Có người giải thích câu nói: “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi”, cho rằng Chúa muốn nói: “Chỉ cần làm một món ăn thôi cũng đủ rồi!”. Lời giải thích ấy không phải là vô căn cứ, giải thích theo nghĩa thông thường đi nữa, thì lời trách nhẹ của Chúa Giêsu vẫn chính đáng; bởi vì trong chuyện tiếp khách, vấn đề không phải chúng ta chỉ biết cho, và người khách chỉ biết nhận, mà chính chủ nhà cũng phải biết nhận và để cho khách niềm vui được chia sẻ. Cho và nhận, đây không phải là có ý nói tới những gì là vật chất, như ăn uống, quà cáp… mà trước hết là sự hiện diện cũng như những câu chuyện trao đổi. Một người bạn thân khi đến với chúng ta, dù có được mời đến để dự tiệc, cũng không bao giờ chỉ biết vác bụng đến, nhưng còn đến trước hết với tình bạn của mình: người ấy muốn gặp chúng ta, muốn nói chuyện với chúng ta, còn chuyện ăn uống chỉ là một phương tiện, một bối cảnh được tạo ra, như người xưa thường nói: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.

Vậy, nếu được phép góp ý kiến cho hai chị em Matta và Maria, thì chúng ta sẽ có thể đề nghị như sau: hai chị em nên phân công nhau rõ ràng, mỗi người một việc. Nhưng làm sao luôn có người ngồi đó tiếp chuyện với Chúa, và nếu hai chị em đã biết tính Chúa thích ăn uống giản dị, thì cũng không nên trổ tài nấu bếp làm gì cho phí thời giờ, Chúa đến không chỉ để ăn uống với hai chị, mà Ngài còn muốn chia sẻ Lời Thiên Chúa cho hai chị nữa, nên cũng phải biết tỏ ra sốt sắng đón nghe Lời Chúa nói với các chị nữa.

Còn chúng ta thì sao, thưa anh chị em?

Chúng ta có thể vì quá mải mê công việc làm ăn đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta phải lao khổ như thế. Chúng ta có thể vì mải mê kiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc sống. Chúng ta có thể lu bu đeo đuổi những cái mà đồng tiền có thể mua sắm được để rồi quên béng những gì mà đồng tiền không thể mua sắm được. Và chúng ta vô tình đã biến thành những Matta nhiệt tình thật đấy, nhưng lăng xăng lo lắng đủ chuyện, mà quên mất “một chuyện cần thiết nhất”: lắng nghe Lời Chúa, tiếp chuyện với Ngài.

Chúng ta lo xây cất cho Chúa những ngôi thánh đường đồ sộ lộng lẫy, nhưng rồi mấy ai trong chúng ta âm thầm tới ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe Chúa nói với chúng ta Lời Chúa, Lời làm cho chúng ta được sống. Bời vì “con người sống không chỉn hờ cơm bánh, nhưng còn nhờ Lời Chúa nữa” (Mt 4,4). Thực tế cuộc sống của chúng ta rất bận rộn. Chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, dự lễ ngày thường nhiều hơn, đọc Kinh Thánh hay sách báo đạo đức nhiều hơn. Nhưng chúng ta không có thời giờ.

Quả thật, Chúa muốn chúng ta vừa là Matta, vừa là Maria: vừa lao động vừa cầu nguyện. Chúa không nói rằng khi chúng ta làm việc như Matta, chúng ta không thể cầu nguyện như Marai, hay ngược lại. Hai việc đều liên hệ với nhau. Chúng ta phải vừa là Matta vừa là Maria. Ngày nay, một người phụ nữ danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Matta thời đại: Mẹ Têrêsa thành Calcutta Ấn Độ. Mẹ đã hiểu và đã truyền lại cho con cái thiêng liêng của Mẹ tinh thần Tin Mừng hôm nay. Cầu nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa trước khi xuống “địa ngục Calcutta” để săn sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các “nhà hấp hối” để giúp những người sắp chết được an nghỉ trong Chúa.

Anh chị em thân mến,

Thánh lễ là lúc chúng ta trở thành những Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, chúng ta đừng tiếc thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, sợ thiệt thòi, mất mát, hay đến ở ngoài sân nhà thờ không chủ tâm dự lễ, không đón nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa, không mời Chúa vào nhà. Chúng ta cũng đừng đến với Chúa ngày Chúa Nhật, chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ mắc tội. Hãy đến với Chúa như một người con, một người bạn, đến để tìm Chúa, gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, chỉ vì tình yêu mến Chúa mà thôi.

Thánh lễ còn là lúc Chúa đến thăm chúng ta như đã đến với hai chị em Matta và Maria. Hãy quý trọng sự hiện diện của Ngài trong lòng chúng ta và biết tiếp chuyện với Ngài, để sự hiện diện của Chúa và Lời Chúa nuôi sống chúng ta ngày hôm nay, ngày mai và cho đến cuộc sống muôn đời.

------------------------------------

 

TN 16-C46. Mácta và Maria


– McCarthy

Suy Niệm 1. CHO VÀ NHẬN

 

Tôi có một giấc mơ. Chúa đến nhà tôi như đã đến nhà của Mácta và Maria. Vì thế tôi lau: TN 16-C46


Tôi có một giấc mơ. Chúa đến nhà tôi như đã đến nhà của Mácta và Maria. Vì thế tôi lau chùi, cọ rửa từ trên xuống dưới, rửa sạch và đánh bóng mọi thứ. Rồi tôi dọn bàn với khăn bàn tốt nhất, bộ chén dĩa bằng sứ, bộ dao nĩa muỗng bằng bạc loại tốt nhất, và cũng bài trí nến và hoa. Về thức ăn, tôi chọn món đắt tiền. Khi tất cả đã sẵn sàng và khách mời sắp đến, tôi trải thảm đỏ ra tận cổng nhà.

Người đến và tôi nghĩ tôi đã làm Người phải tự hào. Tôi phô bày thành tích cao. Tôi cung kính đứng hầu bên cạnh. Không ông vua nào có được sự phục vụ hào phóng hơn. Tôi chắc rằng cuộc đàm đạo sẽ không bao giờ nhạt nhẽo. Về phần Người, Người rất vui, Người tỏ vẻ cảm kích khi thấy tôi lúng túng. Mọi việc kết thúc chính xác như đồng hồ. Khi Người đã ra về, tôi cảm thấy tốt đẹp, và tuy vậy có một điều gì đó làm tôi phải băn khoăn.

Có một lúc tôi như đã hụt hẫng với điều lẽ ra phải có. Rồi một câu hỏi hiện ra trong tôi: Người muốn điều gì nơi tôi? Thức ăn? Lòng hiếu khách? Tôi tự hỏi. Nhưng rồi tôi nghe thấy một câu hỏi thứ hai vang lên trong tôi: Người muốn cho tôi điều gì? Tôi cảm tháy chắc chắn Người muốn cho tôi điều gì? Nhưng dù là điều gì, tôi đã không cho Người cơ hội để ban nó cho tôi. Tôi đã tạo ra cảm tưởng mọi việc đều hoàn hảo và tôi không muốn có thêm điều gì nữa.

Có những người rất hào phóng và tốt bụng khi cho nhưng rất nghèo nàn khi nhận. Bác sĩ Marie de Hennezel thành thập một số bộ phận tiếp nhận những người bệnh ở giai đoạn cuối trong một bệnh viện ở Paris. Trong cuốn sách của bà nhan đề Intimate Death, bà nói về một phụ nữ được đưa đến bộ phận ấy. Người phụ nữ này đã từng giúp đỡ mọi người nhưng giờ đây không thể giúp đỡ chính mình. Bà luôn luôn muốn được người ta ban cho thật nhiều yêu thương. Nhưng nhận được chúng thì thật là khó khăn. Bà nói về sự yêu thương của gia đình, của bạn bè, của những người chăm sóc bà như “một suối nước mà bà không biết phải uống như thế nào”. Bà cần học cách nào để lại trở thành một trẻ nhỏ, khiêm tốn đủ để nhận một món quà. Nhưng điều đó không dễ dàng bởi vì bà hoàn toàn đối lập với điều đó: bà thích cho một cách vị kỷ.

Những người vị kỷ, coi mình là trung tâm không thích nhận. Tại sao thế? Bởi vì nó làm cho họ cảm thấy thấp kém hơn người khác và đặt họ vào sự mắc nợ những người khác. Mặt khác họ thích cho bởi vì điều ấy tâng bốc cái tôi của họ, do đó (có lẽ một cách vô thức) làm cho họ cảm thấy cao sang hơn những người khác.

Cho là việc quan trọng. Nhưng nhận cũng thế. Không ai trong chúng ta tự cho mình là đủ. Mọi người chúng ta đều bất toàn. Chúng ta cần tiếp nhận của nhau, và trên hết, tiếp nhận từ Thiên Chúa. Không có khả năng tiếp nhận quả là bi thảm. Biết cho như thế nào chưa đủ, chúng ta cũng phải biết nhận như thế nào. Cả hai đều là những hoạt động của ân sủng.

Câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy sự khác nhau chủ yếu giữa Mácta và Maria. Mácta không có khả năng nhận, trong khi Maria có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn cảm. Còn Mácta, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo nàn khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì. Có một bài thơ ngắn nói lên điều ấy:

Nếu bạn có thể làm cho mình trống rỗng
Giống như một vỏ sò không
Hẳn Người sẽ tìm thấy bạn
Trên một bãi cạn của đại dương
Và Người tự nhủ: Nó chưa chết.
Và làm đầy bạn bởi chính Người
Nhưng nếu bạn quá đầy với chính bạn
Và với bao hoạt động khôn ngoan,
Đến nỗi khi Người đến Người liền nói:
Nó đủ cho nó. Nó quá đầy
Không còn chỗ dành cho Ta
(T. Brown. Thi sĩ xứ Manx)

------------------------------------

 

TN 16-C47. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin


MATTA VÀ MARIA

 

Trình thuật đưa độc giả vào đề tài tình yêu Chúa cũng nhắc đến đoạn Chúa Giêsu đi đường: TN 16-C47


Trình thuật đưa độc giả vào đề tài tình yêu Chúa cũng nhắc đến đoạn Chúa Giêsu đi đường và xin chỗ trú ngụ. Bà chủ nhà và người con gợi nhớ tới, đối với ai biết Tin Mừng thứ tư, hai người chị của Ladarô ở Bêtania (Ga 11;12,1-8). Nhưng trong trình thuật của Luca còn ghi lại là những người xa lạ mà theo lôgich1 thì ngược lại là những người kia ở mãi Giêrusalem. Maria không có gì để đồng hoá được với Maria Magđala cả (8,2; 24,10).

Sự tương phản giữa hai chị em trước hết là ở việc được trình bày Maria như một đệ tử hoàn hảo, ngồi dưới chân Thầy để đón nhận giáo huấn Ngài. Ngồi là tư thế cổ điển (x.8,35; Cv 22,3); truyền thống lại đã chẳng nói: Ước gì nhà con là nhà hội họp cho các hiền nhân, hãy níu lấy bụi đất ở chân họ và uống lấy lời của họ cho đã khát! (Misnha, Abot 1,4). Có điều không ổn ở đây nói tới một phụ nữ! Khi một Kinh sư nổi tiếng ở cuối thế kỷ thứ nhất dám nói: “Dạy cho con gái mình luật thì như dạy nó sống truỵ lạc” (Misnha, Sota 3,4), thì Chúa Giêsu lại khuyến khích một phụ nữ theo giáo huấn của mình. Thái độ của cô chủ nhà thì khỏi cần khách sáo: cô tất bật lo việc phục vụ –điều đó rất phù hợp với vai trò các phụ nữ- môn đệ ở 8,3. Nhất là cô muốn người em cũng phải phục vụ như cô: cô còn xác tín rằng Chúa không thể nào không đồng ý với cách thẩm định giá trị của riêng cô (c.40).

Ngoài tiếng gọi “Chúa!” –tước hiệu “Chúa” ở đây được Luca dùng hai lần. Như lời tuyên tín của cộng đoàn Kitô hữu đối với Đấng Phục Sinh (x. Cv 2,36), chính Chúa ở đây cần can thiệp trong Giáo Hội Người, bởi vấn đề được nêu lên luôn luôn có tính cách thời sự. Ở Cv 6,2-4, ta sẽ gặp được một đối nghịch tương tự giữa phục vụ Lời Chúa và phục vụ bàn ăn. Ngoài chuyện nêu lên việc phục vụ bàn ăn; vấn đề là nhìn nhận có một tầm mức quan trọng khác nhau giữa hai việc: Chúa trách cô chủ nhà về sự băn khoăn lo lắng của cô là điều trái ngược với tâm trạng của người tín hữu đích thực (12,25-26) và, khi cô cho việc phục vụ bàn ăn là ưu tiên, Ngài bênh vực cô Maria đã đặt việc nghe lời Ngài lên trước mọi quan tâm khác. Như thế, làm môn đệ Chúa Giêsu, chính là chọn điều cần duy nhất. Thực ra, đó không phải chính là yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực… sao? Khi trình bày câu chuyện như ông đã làm từ câu 25, đó chính là điều mà Luca muốn gợi lên cho độc giả của mình.

Có cần xác định thêm là một phụ nữ có thể là môn đệ đúng hệt với danh nghĩa ấy như một nam nhân và không bị giới hạn vào việc phục vụ bàn ăn chăng? Chắc chắn rồi… Khẳng định theo đó “phần tốt này sẽ không bị lấy đi” lại không chói tai đối với nhiều Kitô hữu là những người, như Matta, lấy làm khó chịu khi phải chấp nhận để một người phụ nữ nghe Lời và phục vụ Lời sao?.

------------------------------------

 

TN 16-C48. Chú giải của Noel Quesson

 

Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia. Chúng ta chớ quên đang cùng với Đức: TN 16-C48


Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu vào làng kia.

Chúng ta chớ quên đang cùng với Đức Giêsu trên “con đường” nào.

Vẫn luôn luôn là chính lộ lên Giêrusalem mà Luca dành nhiều chươg để thuật lại. Không dưới mười chương dài (Lc 9,51 đến 19,28). Như chúng ta đã thấy trong Chúa nhật thứ mườl ba thường niên, ngay sau khi Đức Giêsu được thật sự nhận biết là Đấng Mêsia, Người quyết tâm lên đường đến Giêrusalem (Lc 9,51). Kế đó, trong Chúa nhật thứ mười bốn, chúng ta chứng kiến sứ vụ của bảy mươi hai môn đệ (Lc 1ọ,l-20). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã ở trên con đường đến Giêrikhô, cách Giêrusalem ba mươi kilômét để lắng nghe dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10,25-37). Hôm nay chúng ta dừng lại trong một ngôi làng không được nêu tên, nhưng đó là làng Bêtania, cách trung tâm thủ đô ba kilômét. Dọc đường, Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu nói chuyện với các bạn hữu của Người rất lâu, có lẽ để chuẩn bị họ vào thời điểm mà Người sẽ chỉ còn ở với họ không bao lâu nữa. Điều này nói lên sự quan trọng của các tình huống và lời nói cắm mốc trên con đường lên Giêrusalem đó.

Chúng ta sắp tham dự vào một cảnh thể hiện lòng, hiếu khách đầy sự dịu dàng.

Chúng ta còn nhớ Người ta không muốn tiếp đón Người, trong một ngôi làng ở Samari. Hôm nay, Đức Giêsu tìm được một gia đình hiếu khách. Chúng ta vui mừng vì biết rằng không phải lúc nào Đức Giêsu cũng bị xua đuổi, không phải lúc nào Người cũng đi lang thang không nới trú ẩn... và có lúc Người cũng dừng lại ở nhà các bạn hữu Người để nghỉ ngơi, để ngồi nói chuyện... để sử dụng thời gian... và thời gian của tình bằng hữu không phải là thời gian đánh mất!

Ở đầu dốc, bên cạnh con đường đầy bụi có ngôi nhà mà Người quen biết. Bên cạnh cửa sổ có đặt lưới sắt, một cây táo đầy hoa (bây giờ là mùa xuân và lễ Vượt qua gần đến) tỏa hương thơm ngát. Đức Giêsu gõ cửa. Cửa mở ra. “Chào! ôi, vui biết mấy, nào mời Thầy vào!”

Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria

Đó là hai chị em. Họ có một em trai là Ladarô.

Các sách Tin Mừng nói về họ ba lần, trong những cảnh ở đó tính khí của họ đã được điển hình hóa và giống nhau trong mỗi câu chuyện. Mácta, một người hoạt động. Maria, một người trầm lặng. Thánh Gioan trong một câu ngắn ngủi đã kể lại: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11,5). Và trong dịp gia đình họ có đám tang, Gioan- thuật lại cho chúng ta rằng Đức Giêsu đã khóc. Một lần khác, người ta thấy Mácta đang phục vụ một bữa ăn, còn cô Maria “cứ ngồi bên chân Chúa” (Ga 12,2-3). Như thế, Đức Giêsu đã có những người bạn gái Tuần lễ cuối cùng trước khi chết, chiều nào Người cũng trở về nhà họ (Mt 2 1,7 -26,2; Mc 11,11; Ga 11,1-18-12,1; Lc 19,29).

Vậy thì ít nhất đó là một nơi mà Đức Giêsu có thể đề cao sự dịu dàng của tình bằng hữu.

Trong sách Khải Huyền, Gioan sẽ sử dụng hình ảnh ấy để nói về đời sống của Người Kitô hữu: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà Người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).

Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ.

Ôi! Một bức tranh thánh kỳ diệu! Phải ở yên thật lâu trong sự im lặng để nhìn ngắm cảnh tượng ấy, hình ảnh ấy. Ví dụ như, hãy thử tưởng tướng mình có mặt trong phòng tiệc ấy. Hãy thử hình dung lại các động tác, cử chỉ, âm thanh, mùi vị, màu sắc, những lúc im lặng, những khuôn mặt và những tấm lòng.

Đức Giêsu nói chuyện với cô Maria ngồi bên chân Chúa... cô lắng nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì? Giọng nói của Người như thế nào? Người kể lại cho cô dụ ngôn người Samari tốt lành chăng? Người giải thích lại các mối phúc thật cho cô chăng? Người là Đức Giêsu đã không mệt mỏi nói với cô Người quan niệm thế nào về các suối nguồn của hạnh phúc thật? Bản thân tôi, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu nói nhỏ với Maria những lời tâm sự về cái chết và sự sống lại của Người.

Người lên Giêrusalem là vì việc đó! Nó chiếm trọn tâm hồn Người. Đã nhiều lần, Người thử chia sẻ sự lo lắng của Người với các môn đệ nhưng xem ra họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt vời của tình bạn cởi mở đó sao.” Dẫu sao, nhờ Máccô và Gioan, chúng ta biết rằng người phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm cái chết, sự mai táng và sự sống lại của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại Bêtania trong nhà cô những ngày trước lễ Vượt qua, và một cách dịu dàng, Maria sẽ thực hiện trước một cách ướp xác bằng dầu thơm cho Người.

Các phụ nữ sẽ không thể thực hiện việc ướp xác ấy khi họ muốn đến ngôi mộ “ngày đầu tiên trong tuần” để làm việc đó, bởi vì họ sẽ thấy ngôi mộ trống. Nhưng Maria đã làm việc đó rồi, với sự tinh tế tuyệt diệu của cô! Và Đức Giêsu sẽ hiểu điều đó: “Điều gì làm được thì cô ấy đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng (Mc 14,8). Cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng Thầy; còn Thầy, anh em không có mãi đâu”(Ga 12,7-8).

Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!”

Sự can thiệp này của Mácta làm nổi bật sự khác nhau hoàn toàn của hai chị em. Trước khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta phải thán phục Mácta không nên đánh giá thấp cô chị. Ở đây không có sự đối lập giữa Mácta và Maria. Mácta thì hữu ích. Sự phục vụ của cô là cần thiết. Đức Giêsu cũng được tôn vinh vì đã đem trọn tình yêu “phục vụ” những người khác... “Nào những kẻ Cha Ta phúc phúc hãy đến. Vì xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống” (Mt 25,34).

Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa những công việc nội trợ đa đoan rất khiêm hạ, đầy ắp yêu chuộng của vô số các phụ nữ trên toàn thế giới, trong mọi nền văn minh.

Chúa đáp

Chúng ta không thể không nhận thấy sự trang trọng khi Luca dùng danh xưng “Đức Chúa” ba lần. “Đức Chúa” chỉ Đức Kitô trong vinh quang sau Phục sinh. Điều đó chỉ cho chúng ta thấy rằng cảnh tượng không chỉ nhằm kể lại một giai thoại lịch sử dù rất thú vị mà một lần nữa, chúng ta đứng trước một “mạc khải”. Đấng sắp nói chính là Đức Chúa Vinh hiển. Người sắp nói một điều quan trọng và phải được chúng ta tiếp nhận “trong đức tin”. Vả lại, toàn bộ câu chuyện trên đây rất dung dị, nhưng lại dẫn đến lời tuyên bố sau đây:

Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!

Hẳn người ta có thể mong đợi Đức Giêsu kêu gọi Maria phải ngoan ngoãn như chị cô. Trong nhiều tình huống. Đức Giêsu đã yêu cầu chúng ta phải “phục vụ”, phải yêu thương. Rõ ràng, câu trả lời của Người đã được đặt vào một bình diện khác.
Đức Giêsu nhận thấy rằng Mácta lo lắng và “giao động” quá nhiều. Đây là một đề tài được Người ưa thích. Người đã nói rằng “những lo lắng về đời sống! có thể bóp nghẹt Lời Chúa đã được gieo vào lòng người (Lc 8, 14). Người sẽ yêu cầu các tông đồ không nên lo lắng về của ăn và của mặc (Lc 12,22-26). Người sẽ khuyến cáo các thừa sai chớ lo lắng phải biện hộ như thế nào khi họ bị kết tội trước các toà án (Lc 12,11). Người sẽ nói rằng chớ để “lòng mình ra nặng nề vì lo lắng sự đời” trong lúc chờ đợi Con Người lại đến” (Lc 21,34). Đức Giêsu nói: “Bạn ơi! Chớ quên điều chủ yếu!”

Đức Giêsu không lên án Mácta vì công việc của cô cũng như nhiệt tình tiếp đón tích cực... nhưng vì sự căng thẳng, sự giao động thái quá mà dường như cô đặt vào công việc.. Rõ ràng là một sự bực bội nào đó làm cho chúng ta co quắp lại với chính mình.

Chúng ta hãy tiếp nhận lời lời gọi của Chúa cho chúng ta biết phải chậm lại đôi chút. Lúc nào chúng ta cũng chạy, phi nước đại, cũng bận trăm công nghìn việc. Thời gian nghỉ hè lẽ ra phải trở thành thời gian để tìm lại sự, quân bình của chúng ta hơn để “sống” thay vì để chạy! Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Ta nói lại với bạn điều này, bạn chớ quên điều chính yếu.

Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi

Vậy “chuyện cần thiết duy nhất” ấy là gì?

Đó là làm điều Maria đã làm “Ngồi bên chân Chúamà nghe lời Người dạy”. Khi khẳng định đó là điều cần thiết duy nhất của con người. Bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ, Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải. Vâng, Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi lo lắng trần gian khác Đức Giêsu cũng đã đưa ra càng một yêu sách trong những dịp khác. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4,4). “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34) Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Bạn chớ quên điều chính yếu.

Vậy quả thật Đức Giêsu không đánh giá thấp sự “phục vụ” mà Mácta đem lại khi bận rộn với việc “nội trợ và bếp núc”. Nhưng để “đi theo Đức Giêsu” thì ngay cả những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18,22-9,61). Hãy lắng nghe Lời Chúa! Đó là bổn phận đầu tiên của con người, của Kitô hữu. Đức Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để. Và đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải là lần cuối cùng mà Đức Giêsu khẳng định điều đó. Không lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên cát (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu không phải vì Mẹ là Mẹ Người, mà vì Mẹ đã “'lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 1 1,27-28).

Vả lại khác với các Thánh sử khác, rõ ràng Luca đã đồng hóa lời của Đức Giêsu với “Lời của Thiên Chúa” (Lc 5,1-8-11-21-11,28).

Lòng chúng ta yêu thích lắng nghe Lời như thế nào? Có phải đó là “phần tốt nhất” hàng ngày của chúng ta? Chúng ta có những ưu tiên sao? Điều nào là điều chính yếu?

------------------------------------

 

TN 16-C49. Matta và Maria


- R. Gutzwiller

 

Ta chỉ có thể hiểu dễ dàng những lời Chúa nói với Matta khi đặt chúng vào trong mối tương: TN 16-C49


Ta chỉ có thể hiểu dễ dàng những lời Chúa nói với Matta khi đặt chúng vào trong mối tương quan mật thiết với chủ đề ‘lên đường’. ‘Lên đường’ không có nghĩa là dửng dưng với những cái thuộc về vật chất hay những lo toan trần thế.

Đây không có vấn đề đối nghịch giữa đời chiêm niệm và đời hoạt động, mà chính là giá trị và sự hài hoà đúng đắn giữa hai đời sống đó. Chúng ta không nên đắm mình vào chủ nghĩa duy hoạt mà hãy biết sử dụng những giây phút trầm tư thinh lặng, hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa -dĩ nhiên là không tìm kiếm, ước ao an nhàn thanh thản nhưng chính là kín múc ở đó một năng lực mới để phục vụ con người. Vì sống là ‘lữ hành’ là ‘đi’ nên con người phải dành cho đời mình những lúc ‘dừng chân đứng lại’, ‘nghỉ ngơi lại sức’ định lại hướng đi, dò lại bước đường đã qua để có thể vững bước tiếp tục cuộc hành trình và ra đi phấn khởi hơn.

Hoạt động phải được xen kẽ bằng chiêm niệm và chiêm niệm phải chứa chan cuộc sống và triển nở trong việc làm. Trong Tổng yếu giáo lý, Th. Tôma nhấn mạnh rằng việc giảng dạy và soi sáng những người khác thì quan trọng hơn là chỉ có sự hiểu biết thông suốt nội tâm thôi.

Dĩ nhiên chúng phải bắt nguồn nơi việc chiêm niệm nhưng thay vì khư khư giữ lấy cho mình, chúng ta phải thông truyền sự hiểu biết và thông suốt nội tâm ấy cho tha nhân. Chỉ có tác động hợp nhất với Thiên Chúa và sự hợp nhất với Ngài triển nở ra việc làm, mới cấu thành một mối toàn vẹn, sự trọn hảo tối cao….

Những lời Chúa nói với Matta, là một cảnh tỉnh chống lại thứ hoạt động ồn ào, giả tạo, quá khích tức là thứ hoạt động không hề hay biết đến dành cho những khoảnh khắc để cầu nguyện, hay ít là những lời nguyện tắt, không để ý gì đến tiếng Chúa mời gọi trong cái thinh lặng và dần dà để mình bị tha hoá, thác loạn.

Còn việc Chúa khen cô Maria không có nghĩa là Ngài bảo chúng ta phải chuyên tâm chiêm niệm mà thôi, để thấy rõ điều này, chúng ta hãy xem gương của Đức Giêsu; Như vậy, việc Ngài khen cô Maria chẳng qua là Ngài nói đến tinh thần sẵn sàng và tỉnh thức để sống trọn vẹn và tích cực cho Chúa, vào lúc mà Ngài muốn nói với tâm hồn ta một cách đặc biệt.

Lên đường có nghĩa là đi về với Chúa, tức là luôn hướng nhìn về Ngài và hằng lắng nghe Lời Ngài. Như thế không phải là dừng laị và nghỉ ngơi trong việc chiêm niệm, mà chính là để tiếp tục cuộc hành trình kết hợp với Chúa đích thực.

‘Chiêm niệm trong hành động’ hiệp nhất với Thiên Chúa trong công việc, phục vụ con người là dấu đích xác cho thấy việc phục vụ Thiên Chúa. Việc phục vụ ấy chỉ có thể có đối với những ai biết dành những khoảnh khắc cầu nguyện đặc biệt, thuộc trọn về Chúa để có thể hiến thân trọn vẹn phục vụ con người hơn. Đó là thái độ Đức Giêsu đã sống. Theo Chúa Kitô giả thiết một thái độ tương tự như thế.

------------------------------------

 

TN 16-C50. Chú giải của Fiches Dominicales


TRÊN ĐƯỜNG LÊN GIÊRUSALEM, ĐỨC GIÊSU DỪNG CHÂN TẠI NHÀ CỦA MÁCTA VÀ MARIA.

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

 

Dừng chân trên đường lên Giêrusalem. “Trên đường” lên Giêrusalem “cùng với các môn đệ”: TN 16-C50 


1. Dừng chân trên đường lên Giêrusalem

“Trên đường” lên Giêrusalem “cùng với các môn đệ”, Đức Giêsu vào một làng kia. Người được “một phụ nữ tên là Mácta” mời vào nhà, Người thực thi điều đã dạy các môn đệ: “Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em” (Tin Mừng Chúa nhật XIV).

Trình thuật về câu chuyện này tiếp liền với Dụ ngôn người Samaria nhân hậu, mà ta vừa đọc trong Chúa nhật trước, tạo nên một kết cấu hai mặt, một bộ tranh gồm hai bức. Như vậy nếu có ai nêu bản văn Tin Mừng này như lý lẽ làm chứng rằng đời chiêm niệm cao trọng hơn đời hoạt động, thì mạch văn mà Luca sử đụng sẽ thuyết phục họ từ bỏ ý định đó. Nếu sự việc hôm nay soi tỏ giới răn yêu mến Thiên Chúa, thì tấm gương của người Samaria nhân hậu cũng soi tỏ tuyệt vời giới răn thương người thân cận. Nó tỏ cho thấy, người môn đệ lắng nghe Lời Chúa sẽ đi đến những kết luận thực hành nào.

2. Hai hình thức đón tiếp của Đức Giêsu bổ túc lẫn nhau.

Chân dung hai chị em Mácta và Maria mà Luca phác họa nêu bật hai thái độ, hai cách đón tiếp Đức Giêsu trái ngược nhau.

- Mácta có mặt khắp nơi trong trình thuật vắn vỏi này. Trước hết, cô có mặt bằng sáng kiến của mình, Mácta mời Chúa vào nhà mình. Rồi cô có mặt bằng sự tất bật lo việc phục vụ. Và sau cùng, cô có mặt bằng vẻ bối rối xin Chúa can thiệp.

- Còn về Maria, cô luôn im lặng. “Cô ngồi bên chân Chúa” trong tư thế một đồ đệ thực thụ (Lc 7,38 và 8,35) “cô lắng nghe lời Chúa dạy”.

Cấu trúc văn chương cũng rất gợi ý. Trong khi Maria hướng cái nhìn về Chúa (ngồi dưới chân, nghe lời Chúa) thì Mácta là người mời Chúa nên thực sự cô phải bận tâm đến việc phục vụ. Mácta tất bật lo lắng nhiều chuyện quá, đến độ muốn “lấy đi” phần tốt nhất mà cô em đã chọn.

3. Thái độ lăng xăng không được lấn lướt thái độ lắng nghe.

Trước phản ứng tức tối của Mácta: “Em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?”, câu trả lời của Đức Giêsu là đỉnh cao của trình thuật này. Ở đây, khi trách Mácta lo lắng và lăng xăng, Đức Giêsu nhắc lại đề tài đã nói nhiều trong Tin Mừng thứ ba: Khi Người mời gọi các nhà truyền giáo không nên lo lắng biện hộ cho mình trước tòa án của kẻ bách hại (11, 12); khi Người khuyên nhủ các môn đệ đừng quá lo về của ăn, áo mặc (12,22-26); khi Người cảnh giác những kẻ theo Người đừng để những “lo lắng về cuộc sống” bóp nghẹt hạt giống Lời Chúa (8,14).

Tuy Đức Giêsu chấp nhận lòng hiếu khách của Mácta với lòng biết ơn, và đánh giá đúng mức những cố gắng cô thực hiện để tiếp khách cho tốt đẹp, nhưng dù sao Người cũng muốn cô khám phá một điều còn quan trọng hơn, một điều khẩn thiết bậc nhất và duy nhất, mà cô liều mình quên mất: đó là lắng nghe Lời Chúa. Và, vì đã bỏ tất cả để chỉ giữ “một chuyện cần thiết”, mà Maria, em cô, đã tỏ mình là một môn đệ gương mẫu hoàn hảo nhất.

R. Meynet chú giải thêm: Mácta tiếp đón Đức Giêsu vào nhà. Chúa vừa bước vào, thì cô đã bỏ người đó, để lo trăm nghìn chuyện. Vịn cớ phục vụ Người, cô tất bật, cô lo lắng mọi sự chỉ trừ Chúa ra. Việc phục vụ của cô lấn lướt cả vị khách của cô. Cô lăng xăng, lo lắng, sợ rằng mình không tiếp đãi đúng mức với vị khách quí. Về phần Maria, cô giữ một thái độ xứng hợp nhất, ngồi bên chân Đức Giêsu, trong tư thế của người môn đệ. Cô không làm gì, không nói gì, cô chỉ ngồi và nghe. Cô đã quên tất cả mọi sư, ngoài Chúa. Cô quên chính mình. Cô dành cả con mắt, lỗ tai để nhìn và nghe lời Người. Cô cũng đón tiếp Đức Giêsu hơn ai hết, với phong cách tốt nhất. Nhìn cô, người ta dám nói rằng: chính cô được Người tiếp đón mới đúng. (Sđd, tr.125).
Chúa nhật vừa qua, khi đọc Dụ ngôn người Samaria nhân hậu, ta học biết rằng con đường lên Giêrusalem, theo chân Đức Giêsu, phải đi qua tình yêu thương người thân cận, đó mới là giới luật vượt trội mọi giới luật. Hôm nay, ta học biết thêm rằng con đường này không thể tách rời con đường lắng nghe lời Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Lắng nghe lời Chúa: thái độ tất yếu của người môn đệ.

Tiếp nối câu chuyện về người Samaria nhân hậu, câu chuyện về Macta và Maria trong Tin Mừng được trình bày trong bối cảnh của giới luật yêu mến Thiên Chúa, và câu chuyện cho ta thấy người môn đệ đón nhận Lời Chúa sẽ rút ra những kết luận thực tiễn nào.

Đặt thái độ của Mácta và Maria đối chọi nhau và nghĩ rằng chỉ có một phía đúng, là quá vội vàng. Maria lắng nghe lời Chúa, còn Mácta tất bật lo phục vụ Chúa. Mỗi cô mỗi cách, họ đều muốn giữ chân Chúa nghỉ lại, trên đường lên Giêrusalem. Cô này bằng cách phục vụ, thì làm tất cả những gì có thể làm cho Người; cô kia bằng cách lắng nghe lời Chúa, thì cố gắng ghi nhớ lời Người, lời của Thiên Chúa.

Trong cuộc sống của người môn đệ. có lúc “tất bật”, và có lúc “lắng nghe”. Tuy nhiên, không thể có hoạt động tốt nếu không lắng nghe tốt. Maria đã thành công khi tạo cho mình thái độ không thể thiếu của một môn đệ: là ngồi dưới chân Đức Giêsu, cô quên mọi sự khác, để toàn tâm chú ý vào Chúa và lời Người... nhưng sau đó, có lẽ cô sẽ là một tông đồ hoạt động vì Thầy mình.

Hết mọi tín hữu đều phải chọn lắng nghe. Trước hết, chính vì có biết lắng nghe lời Chúa một cách sâu sắc các môn đệ mới có thể đổi mới thế giới.

2. Maria và người Samaria nhân hậu: hai thái độ cùng minh họa huấn lệnh kép về yêu mến Thiên Chúa và yêu người thân cận

Chính trong dụ ngôn người Samaria nhân hậu, ta thấy thái độ bổ xung cho thái độ của Maria. Một người gặp một nạn nhân bị thương nằm ở vệ đường. Ông săn sóc, đưa về quán trọ và xuất tiền túi để trả mọi chi phí. Người này thực thi giới luật thứ hai là “Ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình “. Đây là dung mạo đẹp đẽ của người Kitô hữu mà Luca đặt đối diện với một dung mạo đẹp đẽ khác là Maria.

Thay vì đặt thái độ của người hao tốn sức lực để phục vụ anh em đối nghịch với thái độ của người ngồi dưới chân Đức Giêsu để nghe lời Người, hai trình thuật này bảo ra rằng Đức Giêsu phê chuẩn cả hai thái độ. Đúng là cả hai cùng minh họa Lề Luật. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi... Ngươi phải yêu người thân cận”. Ta phải phân biệt hai giới luật này như hai lối sống được đề ra. Tuy nhiên, nếu phân biệt là điều cần thì không phải để tách biệt hoặc đối nghịch nhau. Hai giới luật này chỉ là một. Trong cuộc sống cụ thể của người tín hữu, nếu người ấy không nỗ lực nối kết hai giới răn ấy với nhau, thì đời sống của người ấy sẽ ra sao? Cầu nguyện ư, đúng, nhưng là để giúp đỡ và phục vụ. Đào sâu ý nghĩa của việc phục vụ trong lúc cầu nguyện. Giáo Hội sẽ ra sao, nếu Giáo Hội chỉ có chiêm niệm? Giáo Hội sẽ ra sao, nếu Giáo Hội chỉ gồm những tín hữu tự cho là “hoạt động?“ Dĩ nhiên, là tùy theo tính khí và lịch sử của từng người, người này thì cảm thấy thích hợp hơn với đời sống nghiêng về chiêm niệm, người kia thích hợp hơn với đời sống hướng về hoạt động.

Tuy nhiên, dựa trên lời Đức Giêsu khen người Samaria nhân hậu, thì tất cả những ai tận hiến hoặc nghiêng về cầu nguyện, cần phải nhớ rằng phục vụ con người có tầm quan trọng rất lớn. Phần họ, họ cũng phải sống ơn gọi cầu nguyện của mình như là một việc phục vụ con người. Và người ta thấy có những đan viện mở cửa cơ sở, nhà thờ, cộng đoàn của mình để tiếp đón những người hoạt động ngoài xã hội đến bồi dưỡng trong cầu nguyện, tĩnh tâm và trong thinh lặng của chiêm niệm.

Nhưng dựa trên lời Đức Giêsu khen ngợi Maria, những ai sống ơn gọi được coi là hoạt động, phải coi đó như lời mời gọi họ tiên liệu một thời gian xả hơi trong thời biểu của mình, xóa đi trong nhật ký công việc một số trang, để có được một lúc đến ngồi dưới chân Đức Giêsu.

Đối với nhóm người này cũng như với nhóm người kia, việc tiên liệu những giờ phút bổ túc cho nhau như thế, sẽ cho phép họ nhận thức được rằng cuộc sống của họ không đơn thuần phó thác mặc cho sự tự phát của tính tình, nhưng cuộc sống phải được thực hiện như một lời đáp lại tiếng Chúa gọi.

------------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây