Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 15-C Bài 101-150 Người Samaria nhân hậu --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 10, 25-37: "Ai là anh em của tôi?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, có một người thông luật đứng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời". Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông đã trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?" Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông'. Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy". - Ðó là lời Chúa. -------------------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: Phần một là người thông luật hỏi Đức Giêsu về điều kiện để được sống đời đời. Ông cũng kể ra được hai điều căn bản của Luật dạy là “mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như yêu mình”. Đức Giêsu đã khen ông đã hiểu đúng và dạy ông hãy làm như Luật dạy thì sẽ được sống đời đời. Phần hai là nhà thông luật hỏi Đức Giêsu về người thân cận mà ông phải yêu kia là ai ? Đức Giêsu đã kể ra dụ ngôn về người Samari nhân hậu để dạy ông noi gương bằng cách bỏ qua những điều tùy phụ của Lề Luật để thực hiện điều chính yếu là quên mình phục vụ người bị nạn đang cần được trợ giúp.
2. CHÚ THÍCH:
Cc. 25 – 28:
Người thông luật: Từ này ám chỉ các Kinh Sư Do Thái, là những nhà thông thái hiểu biết về Luật Môsê và có nhiệm vụ giải thích Lề luật cho dân chúng tại các hội đường Do Thái.
Đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người: Các người thông luật thường tự cao, nghĩ mình là giỏi và không cần phải hỏi ai cả. Ở đây họ hỏi Đức Giêsu chỉ nhằm thử thách và gài bẫy để có dịp bắt bẻ Người mà thôi.
Làm gì để được sống đời đời ?: Người Thông Luật thuộc phái Pharisêu, là phái tin có đời sau và có sự kẻ chết sống lại, nên ông đã đặt ra câu hỏi này, trái với các người phái Sađuxêô không tin kẻ chết sống lại ( x. Cv 23, 6 – 8 ).
Trong Luật đã viết gì ?: Người Do Thái gọi 5 cuốn sách đầu trong bộ Thánh Kinh Cựu Ước là các sách Luật Môsê vì do chính Môsê và các đồ đệ của ông đã viết ra. 5 cuốn sách đó là: Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số và Đệ Nhị Luật.
Thầy tư tế đi xuống: Tư tế là người thuộc dòng dõi Aharon có nhiệm vụ dâng chiên bò sát tế trong Đền thờ. Vị này đi xuống Giêrikhô vì thành này dành cho gia đình các tư tế ở.
Thầy Lêvi: hay trợ tế, thuộc dòng dõi Ghécsôn, là một trong ba ngành lớn của dòng họ Lêvi ( x. St 46,11 ). Các thầy trợ tế Lêvi có nhiệm vụ đàn hát trong các buổi thờ phượng tại Đền Thờ.
Một người Samari kia: Samari là một miền đất nằm ở giữa hai miền Bắc ( Galilê ) và miền Nam ( Giuđê ) của nước Do Thái. Dân miền này bị người Do Thái coi là một giống dân lai căng và khinh thường họ. Vì trong cuộc lưu đày vào năm 721, một số người Do Thái ở miền này đã không bị đi lưu đày. Họ ở lại và dựng vợ gả chồng lẫn lộn với dân Ninivê từ Ba Tư kéo xuống. Dân Samari thờ Đức Chúa tại núi Garidim, và không hành hương lên Đền Thờ Giêrusalem như người Do Thái. Họ cũng có thái độ thiếu thân thiện như không cho những người Do Thái đi hành hương Giêrusalem vào ở trọ trong làng của họ ( x. Ga 4, 20; Lc 9, 53 ).
- Hằng ngày người Do Thái ngoan đạo phải cầu nguyện bằng việc đọc kinh Shêma, kinh này được rút ra từ sách nào ? Lời kinh ấy nhắc đến hai bổn phận phải làm là những bổn phận gì ?
- Đức Giêsu dạy người Pharisêu hãy làm theo gương của ai trong ba người trong bài dụ ngôn người Samari nhân hậu ? Tại sao ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA:
“Ông hãy đi, và cũng làm như vậy”.
2. CÂU CHUYỆN:
Cách đây ít hôm trang mạng Telegraph và các trang mạng khác ở Trung Quốc và trên thế giới đều đồng loạt phát đi một đoạn video clip và bình luận về tai nan tại thành phố Phật Sơn tỉnh Quảng Đông mà nạn nhân là một bé gái 2 tuổi tên Duyệt Duyệt ( Yue Yue - Ảnh chụp ) đang đi ngoài đường tại khu chợ ổ gần nhà và đã bị một chiếc xe tải nhỏ đụng phải. Đoạn video clip từ một máy quay bảo vệ an ninh tại hiện trường cho thấy viên tài xế xe tải sau khi đụng bé Duyệt Duyệt ngã ra đường, đã chỉ dừng lại một chút rồi lại tiếp tục chạy khiến bánh sau chiếc xe cán qua người bé lần thứ hai. Tuy nhiên, sự việc không dừng lại ở hành động phi nhân tính của gã tài xế. Chính thái độ thờ ơ của những người qua đường sau đó mới khiến người Trung Quốc băn khoăn tự hỏi không biết tương lai đất nước của họ sẽ đi về đâu ?
Thực vậy: trong suốt 7 phút từ lúc bé Duyệt Duyệt gặp nạn, lần lượt đã có tới 18 người đi ngang qua nơi cô bé bị nạn nằm trên đường, nhưng chẳng một ai quan tâm giúp đỡ. Người đầu tiên là một thanh niên mặc áo phông trắng và quần thể thao đi qua bé gái nằm sõng soài trên đường, máu túa ra trên mặt, nhưng anh ta đã ngó lơ. Tiếp theo là một người đi xe đạp thấy em đã vòng qua để đi. Anh ta đã ngoái lại xem có phải một người bị nạn đang nằm ở đó hay không, rồi lại thản nhiên đạp xe đi tiếp. Khi máu tuôn ra nhiều hơn, một người đi xe đạp nữa xuất hiện. Người này không chút quan tâm tới số phận của đứa trẻ.
Ba con người vô cảm vừa nói đã không giúp đỡ bé Duyệt Duyệt đáng thương, dù chỉ làm một việc đơn giản là kéo cô bé vào bên vệ đường. Sự thờ ơ của họ đã dẫn tới sự kiện một tài xế xe tải khác đi tới, do đang nói chuyện điện thoại không nhìn thấy bé Duyệt Duyệt trên đường nên đã để xe cán lên người em. Sau lần bị xe đè này, bé Duyệt Duyệt đã không còn cử động nữa. Liên tiếp sau đó, rất nhiều người đi xe đạp và cả một số người đi xe chở hàng qua khu vực nạn nhân nằm vẫn không hề quan tâm tới bé Duyệt Duyệt. Cũng có một người phụ nữ dắt theo đứa con đi qua, thấy bé Duyệt Duyệt bị nạn lại rảo chân bước nhanh hơn ngang qua em...
Chỉ tới khi một nữ lao công quét đường 58 tuổi đi tới, thì bé Duyệt Duyệt mới được cứu giúp. Bà này vội hạ túi đồ xuống và lôi đứa trẻ sang một bên đường để tránh cho bé khỏi bị xe cán tiếp. Rồi bà tri hô lên yêu cầu được trợ giúp. Bấy giờ mẹ đứa trẻ nghe thấy hớt hải từ trong nhà chạy ra và vội mang con đi cấp cứu tại một bệnh viện gần đó. Tuy nhiên, sự can thiệp đã trở nên quá muộn. Các bác sĩ nói rằng bé Duyệt Duyệt do bị chảy máu nhiều nên bị suy hô hấp và còn bị chấn thương sọ não nghiêm trọng không được cấp thời cứu chữa nên không còn cơ hội hồi phục lại được. ( Ảnh chụp bà Trần Tiên Mai ).
3. SUY NIỆM:
“Phải làm gì để được sự sống đời đời ?”
Người Thông Luật đã hỏi Đức Giêsu va sau đó đã tự tìm ra đáp án trong Luật: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình”. Đức Giêsu đã khen câu trả lời của người Thông Luật và bảo ông ta rằng: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”.
“Ai là người thân cận của tôi ?”
Người Thông Luật lại hỏi Đức Giêsu: “Ai là người thân cận của tôi ?” Thay vì trả lời, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về người Samari tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Đang khi hai thầy tư tế và Lêvi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samari ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc và sẵn sàng trả thêm tốn phí săn sóc nạn nhân cho chủ quán. Qua đó cho chúng ta câu trả lời: người thân cận của chúng ta là hết những ai đang cần đến sự trợ giúp của chúng ta, là người gặp nạn được chúng ta dừng lại, cúi xuống và phục vụ tận tình. Cần nhắc lại: Không phải vì đó là người thân nên chúng ta mới phục vụ, nhưng là bất cứ ai mà khi tận tình phục vụ họ là chúng ta đã trở thành người thân cận của họ.
Người thân cận không phải đâu xa mà có thể là người cùng sống chung nhà, cùng nhóm sinh hoạt, cùng khu xóm. Có thể là bà hàng xóm, là cô bạn đang ở chung phòng trọ, là người thân bên cạnh mà chúng ta đang phải chịu đựng thói hư tật xấu của họ. Tóm lại là tất cả những ai đã và đang gây ra đau khổ cho chúng ta… Tất cả đều có thể được chúng ta yêu thương và trở nên người thân cận của chúng ta. Chỉ cần chúng ta dừng lại, cúi xuống phục vụ là một người xa lạ hay đáng ghét lập tức trở thành thân quen, một kẻ thù liền hóa thành bạn hữu của chúng ta.
“Kẻ đã thực thi lòng thương xót”
Thánh Augustino đã dạy: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Quả thực: Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết mình phải làm gì cho tha nhân trong bất cứ tình huống nào. Chúng ta sẽ có sáng kiến để hiến thân phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh bên cạnh. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho một kẻ xa lạ trở thành người thân, kẻ thù địch trở nên bạn hữu… Vi chỉ cần làm theo người Samari là thực thi lòng thương xót: Dừng lại và cúi xuống phục vụ người lâm cảnh khó khăn bất hạnh đang cần đến sự tích cực trợ giúp của mình.
“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”
Qua dụ ngôn này Đức Giêsu muốn dạy nhà Thông Luật và các tín hữu chúng ta hôm nay bài học: hãy yêu thương bằng việc làm cụ thể. Sở dĩ hai thầy tư tế và Lêvi “tránh qua bên kia mà đi” là vì các thầy sợ bị ô uế theo Luật khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp có thể quay lại, sợ bị phiền hà... Nhiều người trong chúng ta cũng không dám ra tay giúp đỡ tha nhân khi họ đang cần là do chúng ta cũng sợ sẽ bị tốn công sức, thời gian, tiền bạc... Đang khi người Samari trong bài dụ ngôn đã dám vượt qua những sự sợ hãi ấy.
Tình yêu là một phép mầu, chỉ cần bước tới, xích lại và cúi xuống phục vụ là người xa lạ lập tức hóa nên thân quen, kẻ thù trở thành bạn hữu... Tình yêu thực sự cũng đòi cụ thể: sẵn sàng bị lấm lem chân tay, quần áo, sẵn sàng gặp những rắc rối nguy hiểm có thể xảy ra... Thế giới hôm nay vẫn có quá nhiều những người bất hạnh nửa sống nửa chết, những người nghèo đói bệnh tật và đang bị bỏ rơi. Thế giới vẫn đang cần những người Samari là các tín hữu chúng ta dám dừng lại, cúi xuống và tận tình phục vụ. Đã có khi nào bạn làm giống như người Samari nói trên hay chưa ? 4. THẢO LUẬN:
- Bài Tin mừng mời chúng ta xét mình: Tôi thường cư xử thế nào đối với những kẻ đang gặp hòan cảnh khó khăn ?
- Tôi cần làm gì khi gặp một người bị tai nạn trên đường hay đang lâm vào hòan cảnh bất hạnh trong cuộc sống để vừa thi hành được đức Bác Ái, lại vừa khôn ngoan tránh bị người khác hiểu lầm đã gây ra tai nạn ?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mắt chúng con nhìn thấy được nỗi đau khổ trong ánh mắt kẻ khác, đặc biệt là của những người thân trong gia đình chúng con. Xin cho tai chúng con biết lắng nghe tiếng khóc của kẻ khác, nhất là của những kẻ cùng chung huyết nhục với chúng con. Xin cho chúng con biết lưu tâm thương xót những ai đang khốn khó, đặc biệt những người thân yêu của chúng con.
Lạy Chúa, xin cho chúng con đủ khiêm tốn để đừng bao giờ gặp người đau khổ mà phớt lờ bỏ đi vì ngại vất vả cực nhọc, vì sợ bị nghi ngờ và nói xấu, hay sợ bị những kẻ gian lừa dối... Xin cho chúng con biết đề nghị để được giúp đỡ họ: “Này anh, tôi có thể giúp gì được cho anh hay không ?”
Đoạn Tin Mừng này gồm có hai phần: phần thứ nhất là cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với vị thông TN 15-C115
Đoạn Tin Mừng này gồm có hai phần: phần thứ nhất là cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với vị thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất: “Mến Chúa và Yêu Người”, và phần thứ hai là dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành” để minh họa giới luật “Yêu Người”. Trong nhiều dụ ngôn riêng của Tin Mừng Lu-ca, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành” là một trong những dụ ngôn danh tiếng nhất. Thánh Lu-ca đặt dụ ngôn này ngay trước cuộc viếng thăm của Đức Giê-su tại nhà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, ở đó cô Mác-ta và cô Ma-ri-a tiếp đón Đức Giê-su, mỗi người mỗi cách, để minh họa cho giới luật “Mến Chúa”. Như vậy, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri” này cùng với câu chuyện “hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a” hình thành nên bức tranh bộ đôi dồi dào về ý tứ và phong phú về giáo huấn: “Mến Chúa và Yêu Người”.
Cuộc đối thoại giữa Đức Ki-tô và người thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất này, cũng được thánh Mát-thêu (22: 34-40) và thánh Mác-cô (12: 28-31) thuật lại. Cả hai thánh ký này đều định vị cuộc đối thoại này vào khuôn khổ sứ vụ của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, vài ngày trước cuộc Thương Khó; trong khi thánh Lu-ca đặt cuộc đối thoại này ở đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su. Ngoài ra, thánh Mác-cô nhận định thái độ tích cực của vị thông luật này: khi hỏi Chúa Giê-su, ông chân thành muốn biết giới luật nào đứng hàng đầu và khi thấy câu trả lời xác đáng của Chúa Giê-su, chính ông đã tán thưởng: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng” (Mc 12: 32). Trái lại, thánh Lu-ca cũng như thánh Mát-thêu xem câu hỏi của vị thông luật này là có ác ý: hỏi một vấn đề nan giải để “thử” Chúa Giê-su ngỏ hầu để Ngài lỡ lời mà bắt bẽ hay để Chúa Giê-su không trả lời được mà dèm pha bêu xấu Ngài.
1. Câu hỏi của vị thông luật:
Trong Tin Mừng Lu-ca, vị thông luật này lên tiếng hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Nhưng Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp mà hỏi ngược lại vị thông luật này: “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”. Vì thế, chính vị thông luật này đặt câu hỏi và cũng chính ông trả lời bằng cách liên kết giới luật: “mến Chúa” được dạy trong sách Đệ Nhị Luật (6: 5) và giới luật “yêu người” được ghi trong sách Lê-vi (19: 18). Có thể các kinh sư trước thời Chúa Giê-su đã đối chiếu hai bản văn này rồi. Tôn giáo về một Thiên Chúa giàu lòng yêu thương được mặc khải trong Cựu Ước là một mặc khải duy nhất và đáng kính so với quan niệm về Thượng Đế tại các dân tộc khác, kể cả triết học Hy-lạp. Trong câu chuyện của Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô, chính Đức Giê-su công bố hai giới luật mến Chúa và yêu người là ngang bằng nhau. Chắc chắn, các nhà thông luật đã không dám đẩy lời dạy của họ xa cho đến mức xem hai giới luật này ngang bằng nhau như vậy.
Sau khi nghe câu trả lời của vị thông luật, Chúa Giê-su chỉ còn xác nhận: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Nhưng để chứng tỏ là mình có lý, vị thông luật lại hỏi Chúa Giê-su: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”. Quả thật, trong sách Lê-vi, người thân cận được định nghĩa là người thuộc vào dân Thiên Chúa và phải được cư xử như là anh em. Chúa Giê-su muốn phá vỡ quan niệm hẹp hòi này. Để giúp vị thông luật hiểu rõ hơn, Ngài kể dụ ngôn “người Sa-ma-ri nhân hậu”.
2. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu:
Hai thành phố này cách nhau khoảng hai mươi lăm cây số với độ chênh lệch khá lớn (Giê-ru-sa-lem được định vị ở độ cao khoảng 800 đến 900 mét; Giê-ri-cô ở dưới mực nước biển khoảng 250 mét). Vào thời đó, đoạn đường giữa hai thành phố này có những đồi núi khô cằn, những hốc đá và những khe núi, vì thế, đầy những hang ổ trộm cướp và những chuyện cướp bóc thường hay xảy ra đối với khách bộ hành. Vì thế, câu chuyện của Chúa Giê-su phản ảnh thực tế đoạn đường đầy hiểm nguy này.
Trên con đường đó, có một người bị sa vào tay bọn cướp, “chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết”. Trước hết, một thầy tư tế, đoạn, một thầy Lê-vi đi qua con đường đó mà trở về nhà sau khi đã chu toàn nghĩa vụ của mình ở Đền Thánh. Cả hai đều gặp thấy nạn nhân nữa sống nữa chết nằm trên đường, nhưng “tránh qua bên kia mà đi”. Chúa Giê-su không nói cho chúng ta biết tại sao họ tránh qua một bên mà đi. Có thể họ không muốn mình bị ô uế qua việc đụng chạm đến xác chết (Lv 21: 11) hay lo sợ an nguy đến tính mạng của mình, vì có thể tên cướp vẫn còn ẩn khuất ở một nơi nào đó để rình. Xem ra thật hơn, Chúa Giê-su đưa hai nhân vật này vào câu chuyện vì họ là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng và đạo đức nhất trong xã hội Do thái để tạo nên một sắc màu tương phản với nhân vật Sa-ma-ri bị coi là tạp chủng, bị khinh bĩ, bị khai trừ, mà người Do thái ghét cay ghét đắng tránh giao tiếp. Điều Chúa Giê-su muốn nêu bật chính là hai nhân vật đáng kính và đạo đức này, sau khi đã thực thi lòng mến Chúa trong Đền Thờ lại dửng dưng trước người anh em khốn khổ bất ngờ gặp thấy trên đường.
Sau cùng, một người Sa-ma-ri tình cờ đi qua con đường đó. Thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn, anh “động lòng thương”. Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân này là ai, thuộc dân tộc nào, theo tôn giáo nào, có quan điểm hay chính kiến nào, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp nạn nhân bất hạnh này. Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.
3. Câu hỏi của Chúa Giê-su:
Sau khi kể xong dụ ngôn, Chúa Giê-su hỏi trở lại vị thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Vị thông luật trả lời: “Chính là kẻ thực thi lòng thương đối với người ấy”. Chúa Giê-su xác nhận câu trả lời của ông là đúng và mời gọi ông: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Như vậy, ở đầu câu chuyện, qua câu hỏi của mình, vị thông luật nói lên nỗi bận lòng của ông là muốn phân biệt rõ ràng ai là người thân cận của tôi để tôi thực thi luật yêu người; còn ở cuối câu chuyện, câu hỏi mà Chúa Giê-su đặt ra cho ông ngầm chứa câu trả lời của Ngài: không phải “ai là người thân cận của tôi” như vị thông luật đã hỏi trước dụ ngôn, nhưng mà “ tôi phải là người thân cận của bất cứ ai cần đến sự cứu giúp của tôi trên đường đời”. Đó là cách thức “để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” mà anh đã nêu lên ở đầu câu chuyện.
4. Bài học:
Phải chăng ở nơi nhân vật Sa-ma-ri nhân hậu này, Chúa Giê-su muốn gợi lên hành động của chính Ngài, Đấng Cứu Độ đầy lòng xót thương? Và kẻ bị đánh trọng thương, bị trấn lột, bị bỏ rơi dỡ sống dỡ chết bên đường, đó không phải thân phận của nhân loại tội lỗi bị sự Ác đè nặng nên không thể tự mình cứu mình được sao? Lời giải thích này thật sự trở nên kinh điển tại các Giáo Phụ theo lối giải thích ẩn dụ. Các ngài đã phân tích dụ ngôn này cho đến từng chi tiết, chẳng hạn như cách giải thích của thánh Âu-gút-ti-nô: Đức Giê-su đã xuống từ Giê-ru-sa-lem thiên giới để cứu chữa nhân loại bị trọng thương do tội lỗi. Dầu và rượu biểu tượng các bí tích; quán trọ là hình ảnh Giáo Hội mà Chúa Ki-tô trao gởi những tội nhân để băng bó và chữa lành, trong khi chờ đợi ngày Ngài trở lại, ngày Ngài hoàn tất ơn cứu độ của chúng ta, sau khi đã giải thoát chúng ta khỏi mọi nợ nần.
Tuy nhiên, theo văn mạch, mỗi độc giả phải thấy chính mình ở nơi người Sa-ma-ri nhân lành này. Chính hành động cứu giúp anh chị em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ nào đi nữa, dù đó là thầy tư tế hay thầy Lê-vi đi nữa. Đối với bổn phận “yêu người”, không có bất kỳ hạn định nào, bởi vì đó là luật phổ quát nhất mà Thiên Chúa đã đặt để trong tận cõi thâm tâm của con người được gọi tiếng nói lương tâm của mỗi người: “thương người như thể thương thân”, và làm cho con người khác với con vật, như câu nói thời danh: “Chỉ có con vật mới quay lưng lại trước nỗi khổ đau của đồng loại”.
Như thế, qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân hậu”, Chúa Giê-su chấm dứt tinh thần duy luật, chấm dứt chủ nghĩa dân tộc, chấm dứt sự phân biệt đối xử, chấm dứt mọi lý lẽ đưa ra để biện minh cho thái độ “tránh sang một bên” trước những nỗi khốn khổ của anh em đồng loại của mình trong cuộc sống đời thường. Nói như Lu-the: “Điều làm tôi kinh hãi không phải kẻ ác làm điều ác mà là người thiện thờ ơ lãnh đạm trước những đau khồ của anh em mình”. Tác giả Suy Niệm Lời Chúa đã nhận xét như sau: “Có những tội tiêu cực biểu lộ qua việc đắm chìm trong vũng lầy của tội lỗi; nhưng có những tội tiêu cực biểu lộ bằng sự dững dưng, thờ ơ, khoanh tay chẳng thèm làm gì. Một thái độ nhắm mắt làm ngơ cũng đủ bị kết án. Vì sự thánh thiện hay tội lỗi của một người không chỉ ảnh hưởng trên bản thân họ, mà còn lan tỏa đến những người khác, đến môi trường họ sống”.
Tác giả bài viết: Lm Hồ Thông HT68
Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Người ta thường chia bác ái ra làm nhiều loại tuỳ theo đặc tính của nó: bác ái đổi chác, theo nghĩa: TN 15-C103
Người ta thường chia bác ái ra làm nhiều loại tuỳ theo đặc tính của nó: bác ái đổi chác, theo nghĩa "bánh ít đi, bánh qui lại"; bác ái ngân hàng là bác ái kiểu cho vay lấy lãi một cách sòng phẳng; bác ái vị tha là bác ái hoàn toàn cho đi một cách vô vị lợi; bác ái quảng đại tức là biết sẵng sàng trao ban hơn cả những gì mà đối tượng chờ đợi, v.v... Thế còn bác ái Kitô giáo là loại bác ái nào?
Câu chuyện Dụ ngôn trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho ta biết bác ái Kitô giáo đúng nghĩa là gì. Theo trình thuật của thánh Luca, thì cả 3 nhân vật trong câu chuyện: người Samaria, thầy Tư Tế và thầy Lêvi đều trông thấy nạn nhân bên đường, nhưng chỉ có người Samaria biết "chạnh lòng thương". Tuy nhiên, ông không chỉ dừng lại ở mức độ "từ ánh mắt" (trông thấy) "đến trái tim" (chạnh lòng thương); mà còn "đến cả đôi tay", tức là bằng những hành động rất cụ thể.
Ông ta dừng lại, đến gần bên nạn nhân, cúi xuống, đổ dầu rượu (có lẽ ông đã dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho người bị nạn) và băng bó cẩn thận sau khi đã tẩy trùng cho vết thương, rồi đặt nạn nhân lên lưng lừa và đưa tới quán trọ mà săn sóc. Hơn thế nữa, ông còn ở lại với người bị nạn: "Hôm sau ông đưa ra hai quan tiền". Từ ngữ "hôm sau", mặc nhiên ta có thể hiểu ông đã ở lại với nạn nhân qua đêm để cho người đó qua khỏi cơn nguy kịch đã, rồi mới an lòng ra đi. Chưa hết, ông còn thanh toán mọi chi phí, và dặn dò cặn kẽ với người chủ quán: "Nhờ bác săn sóc người này, có tốn kém bao nhiêu, chính tôi sẽ chi trả khi trở về". "Chính tôi" sẽ chi trả chứ không phải vợ con anh ta, cha mẹ anh ta, cũng không phải nhà băng, hay dịch vụ bảo hiểm y tế. Lòng quảng đại của ông thật tuyệt vời! Ông đã không ngại hy sinh thời giờ, sức lực và cả tiền bạc. Nói cách khác, ông đã quảng đại cho đi tất cả, nhất là cho đi chính mình.
Chính cung cách cư xử của người Samaria này đã làm nỗi bật lên đức ái hoàn hảo của Tin Mừng. Dụ ngôn cũng muốn ám chỉ cho ta thấy Đức Kitô đích thực là người Samaria nhân hậu đối với nhân loại chúng ta, khi Ngài đã sống trọn hảo đức bác ái đó của Tin Mừng. Ngài đã rời bỏ mọi vinh quang Thiên Quốc để đến trần gian. Ngài đã cúi xuống trên nhân loại khổ đau để băng bó và chữa lành các vết thương do tội lỗi và sự chết gây ra. Đoạn Ngài ra đi, để nhân loại trong quán trọ là Giáo hội của Ngài, để Giáo hội trông nom và chăm sóc hộ Ngài.
Và bây giờ đến lượt chúng ta cũng phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaria nhân lành bên cạnh tất cả những người mà chúng ta gặp gỡ: chân tình giúp đỡ và băng bó các vết thương của họ. Vết thương của nghèo đói, đau khổ, bệnh tật, cô đơn, chết chóc,... Con đường từ Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những con người bất hạnh, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị để mặc trong tình trạng sống không ra sống, chết không ra chết. Họ đang là những nạn nhân của bạo lực, bất công, bệnh tật, chiến tranh hận thù... "Hãy đi và làm như vậy" luôn là một mệnh lệnh có tính cấp bách.
Chính vì thế, sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc chúng ta nỗ lực mỗi ngày làm một việc bác ái cụ thể trong môi trường mà mình đang sống: nơi thôn xóm, nơi công sở, nơi trường học, trên đường đi. Hãy làm với một niềm tin tưởng rằng mỗi một cử chỉ bác ái mà ta làm cho tha nhân, dù nhỏ bé đến đâu, cũng đều góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan toả và làm cho nền văn minh tình thương của nhân loại được thăng hoa.
Chính Chúa Giêsu đã dạy rằng: "Không phải bất cứ ai cứ kêu lên: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Chúa Cha, kẻ ấy mới được vào mà thôi" (Mt 7, 21 ). Ngài cũng đã dạy rằng Thiên Chúa chỉ tính sổ với ta về những hành động yêu thương, bác ái mà ta đã làm hoặc đã không làm cho những người anh em của ta (x. Mt 25).
Xin cho điều Chúa dạy, "hãy đi và làm như vậy" được mỗi người chúng ta ghi tâm khắc cốt và nỗ lực đem ra thực hành, để ta "được sự sống đời đời", sự sống mà Chúa đã hứa ban cho tất cả những ai biết lắng nghe và thực thi vuông tròn các huấn lệnh của Ngài. Amen.
Những người tự nhận là dân riêng khi nói đến người khác tôn giáo thường nói là quân vô đạo hay người: TN 15-C104
Những người tự nhận là dân riêng khi nói đến người khác tôn giáo thường nói là quân vô đạo hay người thờ tà thần. Một số bất mãn cho câu nói trên là kiêu căng, khinh thường các tôn giáo khác. Số khác nhẹ nhàng hơn coi đây chỉ là thói quen khi nhắc đến tôn giáo khác mà trong tâm không có í khinh thường. Ngày nay danh từ thông dụng là các tôn giáo bạn. Riêng chữ bạn đủ nói lên í nghĩa của việc quí mến, coi trọng niềm tin khác tôn giáo.
Nhóm tự nhận là dân riêng không đồng nhất khi nói về chính họ. Người Do Thái cho rằng họ là dòng dõi tổ phụ Abraham, được Ya vê tuyển chọn và đặt Giao Ước. Như thế những ai không nằm trong Giao Ước đều không phải là dân riêng. Đế quốc Rôma thì coi những ai không là công dân của họ đều không phải là dân riêng. Tôn giáo tự nhận là thánh nhân hậu thế- The Latter Day Saints Church chỉ tín hữu của họ là dân riêng. Một số môn đệ Đức Kitô cho là những ai chưa lãnh nhận Thánh Thần thì chưa phải là dân riêng. Thánh Phaolô cho rằng những ai tin vào Đức Kitô sống lại từ cõi chết họ sẽ được ơn cứu độ. Theo Ngài thì không còn La Mã hay Hi Lạp, nô lệ hay tự do, không còn phân biệt nam trọng hay nữ khinh mà tất cả đều là con Thiên Chúa. Roman 10,9-12 và Galatian 3,28.
Đức Kitô trong cuộc đời rao giảng Ngài luôn kêu gọi mọi người xám hối và tin vào Tin Mừng. Như thế Thiên Chúa chọn tất cả và những ai đón nhận Tin Mừng trở thành dân riêng. Điều này dẫn đến tình trạng có người đón nhận lời rao giảng cũng có kẻ từ chối chấp nhận. Như thế người tự loại ra ngoài dân riêng không phải là Thiên Chúa loại họ ra mà chính họ loại họ ra khỏi dân riêng.
Những người đón nhận lời kêu gọi xám hối và tin vào Tin Mừng mang theo họ nhiều ngày lễ mừng trong năm và sau này những ngày lễ đó trở thành đại lễ trong Giáo Hội Chúa. Mặc dù đã trở thành dân riêng nhưng chúng ta chưa dứt khoát chối bỏ tâm tình phục tùng tà thần tồn tại trong con người. Tinh thần thờ tà thần bị đè nén mà chưa hoàn toàn bị tiêu huỷ vì thế khuynh hướng tham vật chất, thích lợi nhuận và bả vinh hoa phú quí trần gian luôn là những cám dỗ mãnh liệt trong cuộc lữ hành trần thế. Tinh thần đó luôn khơi dậy cuộc chiến nội tâm. Khi mãnh liệt, lúc nhẹ nhàng trong tâm hồn. Nếu không có cầu nguyện để nhận sức mạnh ân sủng Chúa thì khó có thể tự sức mình chống lại các cám dỗ, rất khó thắng sức mạnh của ma quỉ trong cơn cám dỗ. Một khi bị lệ thuộc vào trần thế chúng ta mất tự do vì luật lệ tự nó có giới hạn. Do đó luật lệ giới hạn con người. Hơn nữa luật lệ thường chú trọng nhiều đến bảo vệ vật chất là lơ là việc cổ võ đời sống tâm tinh. Một số luật còn ngăn cấm, cản trở thực hiện đời sống tâm linh.
Bởi có những giới hạn nên tình trạng bị cám dỗ càng mạnh mẽ hơn. Cám dỗ dưới nhiều dạng thức như yêu Chúa nhưng không yêu tha nhân. Chúng ta được công chính nhờ lòng tin, không phải nhờ tự biện hộ cho mình nên công chính. Chúng ta thích kết án hơn là tha thứ, làm ngơ trước bất công và coi thường công bằng.
Dân riêng Chúa luôn tìm được tự do trong cuộc sống yêu thương, mến Chúa yêu người. Tình yêu Chúa mời gọi chúng ta yêu tha nhân như chính mình. Tình yêu này vượt khỏi mọi giới hạn mầu da, ngôn ngữ và chủng tộc. Sống trong tình yêu Chúa là sống trong tự do.
Lẽ ở đời hễ ai thương mình, thì mình thương lại, ai ghét mình thì mình ghét lại hoặc nếu không: TN 15-C105
Lẽ ở đời hễ ai thương mình, thì mình thương lại, ai ghét mình thì mình ghét lại hoặc nếu không ghét họ, mình cũng chẳng mặn mà gì với người ghét mình.Đối với người Kitô hữu lại khác, họ yêu thương Thiên Chúa như một người Cha và yêu thương kẻ khác như anh em. Tuy nhiên, tình yêu đối với người khác cần phải đi xa tới đâu, cần phải trải rộng tới đâu ? Người thông luật trong đoạn Tin Mừng Lc 6, 25-37, hỏi Đức Giêsu:" Ai là người thân cận của tôi ? ".Chúa Giêsu không trả lời với Ông trực tiếp câu hỏi Ông nêu nhưng Ngài lấy dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu để trả lời cho Ông và cho hết mọi người:" Tình thương đó phải trải rộng đến tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ vv...". Điều này cho thấy, giới răn mới, giới răn bác ái yêu thương là giới răn Chúa Giêsu đem lại hoàn toàn mới mẻ cho nhân loại...
Câu chuyện Đức Giêsu đem ra để trả lời cho người thông luật đồng thời Ngài đặt câu hỏi:" Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp ?". Người thông luật trả lời:" Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót ". Đức Giêsu bảo Ông:" ...Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy " ( Lc 10, 37 ).Người Samaritanô nhân hậu đã thực thi đức ái một cách tuyệt vời. Ông đã không chỉ nói đầu môi chóp lưỡi, và đã không chỉ nói cho qua lệ, cho qua loa rồi thôi, nhưng thực tế, Ông đã nói và đã làm. Hành đồng của người Samaritanô nhân hậu hoàn toàn khác với các vị thông luật, Pharisêu, luật sĩ vv...Các vị này nói mà không làm. Ngôn hành của họ bất nhất.Chắc chắn Đạo Do Thái đã qui định tình yêu thương đối với người khác. Nhưng các vị này vì quá tỉ mỉ, chi li nên đã giới hạn tình yêu thương đối với kẻ khác, cố bóp méo quan niệm về tình yêu thương đó. Chúa Giêsu qua dụ ngôn này đã phá tung rào cản mà những Kinh sư, Luật sĩ, Pharisêu đã núp để khỏi sống theo những đòi hỏi của luật bác ái. Ở đây, chúng ta thấy thầy tư tế và thầy Lêvi "tránh qua bên kia mà đi " khi đối diện với người bị nạn. Sở dĩ hai thầy này có thái độ đó là vì các thầy sợ nhiễm trùng, sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp, sợ phiền hà, liên lụy tới bản thân vv...Còn người Samaritanô dù không đồng đạo, dù không phải là chức sắc, chức việc tôn giáo, nhưng ông đã biết dừng lại để làm cái điều mà tiếng lương tâm thôi thúc, đòi buộc.Ông đã biết làm một điều mà thầy tư tế và thầy Lêvi, những chức sắc cao cấp của Đạo Do Thái, những người chỉ biết nói trên đầu môi chóp lưỡi, nhưng thực tế lại sống xa đức bác ái, đức thương yêu...Hành động, cử chỉ của người Samaritanô nhân hậu thật cao quí biết bao bởi vì Ông đã vượt qua giới hạn mà các thầy tư tế, các thầy Lêvi phải làm nhưng đã không làm. Vâng, người Samaritanô đã trở nên bạn với người bị nạn. Bởi vì, tất cả đều có thể trở nên anh em với nhau khi người này người kia biết cảm thông, giúp đỡ và yêu thương nhau. Thầy tư tế và thầy Lêvi thực sự đã sống hoàn toàn xa lạ, không trở nên bạn, không trở thành anh em với người khác. Người Samaritanô tốt lành đã trở nên anh em với người bị nạn.
Chính vì thế, chúng ta có thể hiểu được rằng yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là yêu thương với tất cả con tim, biết hy sinh, từ bỏ, cảm thông, tha thứ, quên mình, hiến thân phục vụ tha nhân. Chúa đã làm gương hy sinh, từ bỏ, hiến thân cho nhân loại:" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu " ( Ga 15, 13 ). Con người phải biết hy sinh, từ bỏ và hiến mạng sống, bản thân để phục vụ mới có giá trị. Vì con người càng ích kỷ, hẹp hòi, càng tìm bản thân mình, càng đánh mất chính mình. Nên, con người chỉ là người khi họ dám hy sinh cho người khác. Biết bao gương của các thánh đã minh chứng hy sinh cho người khác sẽ nhận lại được nhiều, càng cho đi càng nhận lãnh. Chân phước Têrêsa Calcutta và các nữ tu bác ái của Mẹ đã hy sinh biết bao cho người khác. Nhiều vị thánh đã hy sinh cả cuộc đời để phục vụ và đem hạnh phúc cho kẻ khác. Do đó, họ cho đi và họ lại nhận lãnh được nhiều.
Người Kitô hữu phải thể hiện cuộc sống của mình theo gương Chúa Giêsu. Đạo Công giáo là Đạo tình thương. Mọi Kitô hữu đều phải sống tình thương bằng những việc làm tỏa sáng, nếu không họ chỉ là những Kitô hữu giả hiệu.Thánh Gioan đã định nghĩa:" Thiên Chúa là Tình Yêu ". Nên, người môn đệ Chúa phải bắt chước Chúa sống tình yêu bằng những việc bác ái, hy sinh.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nêu gương cho chúng con bằng chính sự từ bỏ, bằng chính sự hiến mình trên thập giá.Xin cho chúng con hiểu được rằng Đạo của Chúa thiết lập là Đạo tình thương, cốt lõi của Đạo là tình thương.Xin cho chúng con luôn biết đón nhận, yêu thương mọi người, đừng để chúng con chỉ biết nghĩ đến lợi ích của chúng con mà quên những anh chị em đang sống xung quanh, họ rất cần đến bàn tay góp sức của chúng con. Amen.
Người ta kể rằng ngày kia Chúa Giêsu đóng vai bác hành khất đi ăn xin. Chiều đến, Ngài rảo qua: TN 15-C106
Người ta kể rằng ngày kia Chúa Giêsu đóng vai bác hành khất đi ăn xin. Chiều đến, Ngài rảo qua các biệt thự xin trọ qua đêm. Kẻ thì bảo vào chuồng ngựa mà ngủ, kẻ nói xuống vựa lúa, kẻ khác bảo chui vào gầm cầu thang...Nhưng xem ra bác hành khất không muốn nhận những tấm lòng tốt đó. Bác ra xóm lao động xin ở trọ. Bác được lối xóm tiếp đãi tử tế và cho ăn, ngủ chung nhà. Sáng sớm hôm sau thức dậy, bác ta biến đâu mất nhưng gia chủ thấy một bức thơ để lại, trong có ghi câu "Các con là bạn thân của Đức Kitô". Sau này mấy kẻ nhà giầu nghe biết rát lấy làm hổ thẹn.
Đức ái là yêu thương. Bác ái không ghen tương đố kỵ. Thiên Chúa đã phú bẩm trong lương tâm con người để biết phân biệt lành dữ, xấu tốt. Lương tâm cần được hướng dẫn và chỉ bảo hướng về đàng lành. Giống như một cây non cần được uốn nắn để mọc thẳng lên. Xưa Thiên Chúa đã chọn một dân riêng và ban lề luật cùng các huấn lệnh để hướng dẫn họ đi trong đường lối của Thiên Chúa. Sách Đệ Nhị Luật được ghi chép những điều Thiên Chúa truyền dạy, lời các tiên tri và những lề luật cần thiết để sống theo đường lối Chúa: Miễn là anh em nghe tiếng Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Thiên Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ (Đnl 30, 10). Lề Luật vừa hướng dẫn và vừa gìn giữ rào cản để mọi người khỏi rơi vào lầm lỗi. Sống theo mệnh lệnh và thánh chỉ của Chúa là sống theo Chúa.
Tất cả các lề luật đều qui về giới luật yêu thương. Luật yêu thương là căn cốt của tất cả cuộc sống. Sống để yêu và yêu để sống. Luật đó đã được in ghi sâu tận tâm can của mọi loài thụ tạo. Luật ở tại tâm: Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành (Đnl 30, 14). Chúng ta không phải tìm kiếm đâu xa, tâm yêu thương ở sẵn trong lòng ta. Hạt giống yêu thương đã được Thiên Chúa gieo trong lòng mỗi người. Chúng ta có bổn phận tưới gội, chăm sóc và làm cho hạt giống sinh xôi nẩy nở. Trái tim yêu thương cần mở rộng để cho đi và đón nhận. Yêu như dòng nước luôn chảy, có ra có vào và có lên có xuống. Tình yêu như dòng nước nếu bị đóng khung khép kín, tình yêu sẽ cô đơn, lẻ loi và giá lạnh.
Thánh Gioan đã tuyên xưng: Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4, 8). Vì muốn chia sẻ tình yêu, Thiên Chúa tạo dựng mọi kỳ công trong vũ trụ. Mọi vật và mọi loài được hiện hữu trong tình yêu của Thiên Chúa. Dấu ấn tình yêu được lan tỏa khắp cùng vũ trụ. Thiên Chúa đã quan phòng mọi sự theo thánh ý. Tình yêu có những cách thể hiện khác nhau giữa muôn loài. Cảm súc tình yêu được bày tỏ qua sự sống. Từ những loài có sự sống đơn sơ đến phức tạp đều được ngụp lặn trong biển tình của Thiên Chúa. Sống để yêu và được yêu. Kinh Thánh đã nói 686 lần về tình yêu 'Love, loved, loving, loves, lover', yêu Chúa và yêu người.
Truyện kể có một con chó, tên là Capitan, đã nằm ngồi bên mộ của chủ suốt quãng thời gian 6 năm. Ông Miguel Guzman đã nhận nuôi con chó như món quà cho đứa con trai trẻ vào năm 2005. Năm 2006 ông bất ngờ chết và đã được chôn cất tại nghĩa trang Villa Carlos Paz, trung tâm Argentina. Sau khi chôn táng ông xong, con chó Capitan đã ra khỏi nhà và tìm đến nghĩa trang nơi chôn cất ông. Con chó luẩn quẩn và quỳ bên mộ ông. Mỗi ngày, cứ đúng 6 giờ chiều, nó nằm xuống trên mộ suốt đêm trong vòng 6 năm trời. Chúng ta không thể hiếu thấu cái gì đã đang xảy ra trong tâm ở thế giới động vật. Tình cảm, tình yêu, cảm xúc hay một sự thần giao cách cảm nào đó.
Nhà Khoa Học đã nghiên cứu 14 cặp khỉ Rhesus Macaque tại Trung hoa. Đã học biết rằng con khỉ mẹ và các khỉ con cũng bày tỏ sự trìu mến yêu thương. Những con khỉ mẹ và khỉ con nhìn nhau với ánh mắt thân thương. Khỉ mẹ cúi xuống mơn trớn và hôn các khỉ con trên mặt, trên môi và khỉ con cũng hôn trả lại. Các con khỉ cùng chia sẻ thực phẩm và săn sóc nâng đỡ nhau giống như xã hội con người. Khỉ mẹ thường ôm con vào lòng và bảo vệ con một cách rất âu yếm. Các con khỉ cũng sống thành bày, thành đàn và yêu thương hỗ trợ nhau. Khi một con bị thương hay ốm yêu bệnh tật, các con khỉ khác cũng lo lắng chăm sóc. Qua khuôn mặt và cách biểu tỏ cảm tình, chúng ta nhận biết loài vật cũng có một mức độ yêu thương mà Tạo Hóa đã phú bẩm.
Chúng ta cũng có thể quan sát gà mẹ dẫn đàn gà con đi tìm mồi. Mẹ dẫn con ra vườn và lấy sức mình dùng đôi chân giãi đất tìm mồi, rồi cục cục gọi các gà con đến ăn mồi. Khi nghe biết có quạ đen, diều hâu hay bất cứ sự nguy hiểm nào, gà mẹ dáo giác giang cánh ra để ấp ủ con dưới cánh. Tuy cuộc sống gà vịt rất đơn sơ nhưng cũng nói lên tình liên đới bảo vệ và chia sẻ yêu thương. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh gà mẹ ấp ủ con để nói lên tình yêu của Thiên chúa với loài người: Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái người lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các người không chịu (Mt 23, 37).
Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, ngoài ra tình thương mến. Câu truyện trong bài Phúc âm hôm nay nói về một người lữ hành bị tai nạn cướp bóc và bị đánh đập dọc đường. Có thầy tư tế và trợ tế đi ngang qua và thấy nạn nhân nhưng không mở lòng giúp đỡ. Một người xứ Samaria đi qua, động lòng thương và giúp đỡ nạn nhân bằng mọi cách. Người Samaria, tuy là ngoại đạo, nhưng đã biết tỏ lòng thương xót. Ông đã thực hành giới răn yêu thương bằng chính hành động của mình. Chúa Giêsu đã khuyến khích các thầy thông luật, các môn đệ và cả chúng ta nữa: Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy.'(Lc 10, 37). Nói về giới luật yêu thương thì dễ, ai cũng có thể suy niệm, phát biểu và truyền rao nhưng để đưa vào áp dụng trong cuộc sống hằng ngày thì không đơn giản. Chúng ta cần thấm nhuần tinh thần bác ái và quảng đại dấn thân. Đạo của Chúa là đạo yêu thương. Không chỉ yêu bằng lời nhưng bằng hành động.
Chúa Giêsu đã nêu gương bằng tình yêu thập giá. Chúa đã cho và cho tất cả. Chúa Kitô là hiện thân của Thiên Chúa Cha: Chúa Giêsu Kitô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo (Col 1, 15). Tình yêu Chúa cao vời, làm sao chúng ta có thể đáp đền cho cân xứng. Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một Yêu Dấu, chịu khổ hình và chết để chuộc tội chúng ta. Chúa Con đã hiến thân trên thập giá và đã đổ tới giọt máu cuối cùng để cứu độ. Chúa Thánh Thần là ngọn lửa yêu mến khơi dậy lòng yêu thương trong tâm hồn chúng ta. Mọi sự bắt đầu với tình yêu và sẽ kết thúc trong tình yêu: Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người (Col 1, 19).
Lạy Chúa, Chúa yêu thương chúng con. Tình yêu Chúa lan tỏa khắp cùng thế giới. Vũ trụ muôn loài đều mang dấu ấn tình yêu của Chúa. Xin cho nguồn tình yêu tuôn chảy trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn biết yêu và được yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.
Con người, chẳng hiểu tự bao giờ mà cái máu của ích kỷ, của ghen tương, của thù hận nó xen vào. Ai: TN 15-C107
Con người, chẳng hiểu tự bao giờ mà cái máu của ích kỷ, của ghen tương, của thù hận nó xen vào. Ai cũng biết ích kỷ, ghen tương, không biết cảm thương ấy là không tốt nhưng rồi cũng chẳng hiểu sao người ta cứ để cho cái nồng độ của ích kỷ, của ghen tương tăng lên dần dần trong đời sống thường ngày.
Đời sống con người có lúc này lúc khác, lúc sung túc và lúc ngặt nghèo. Lúc sung túc người ta cũng chia sẻ nhưng hình như không bằng lúc người ta ngặt nghèo. Cuộc sống người ta dù có nghèo đi chăng nữa những khi gặp những người khó khăn hơn thì họ dễ chia sẻ hơn là khi người ta giàu có.
Tâm lý thường thì người ta chia sẻ cho những người thân cận, đồng vai đồng vế, đồng hàng đồng xóm với họ chứ ít bao giờ họ nghĩ đến chia sẻ cho những người xa lạ. Đi xa hơn một chút nữa, để chia sẻ cho những người mà ta tạm gọi họ là người không đồng tình đồng ý hay là người đối nghịch với ta thì càng khó hơn nữa.
Vì tâm lý thường là như vậy nên khi người ta chia sẻ với những người thân thuộc, đồng vai đồng vế thì họ cũng tự nhủ rằng họ làm như thế là tốt lắm rồi nhưng Chúa Giêsu mời gọi con người đi một bước xa hơn cái bước bình thường đó là thương những người không cùng lập trường với mình, những người đối lập với mình. Lời mời gọi ấy thật sự là khó. Lời mời gọi ấy được Thánh Luca ghi lại qua câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể.
Chúa Giêsu là nhà giáo dục tài ba, Ngài hết sức tinh tế khi muốn dạy, muốn khuyên, muốn bảo những người nghe Ngài giảng dạy. Chuyện dụ ngôn là câu chuyện hết sức gần gụi và hết sức thực tế. Chuyện dụ ngôn không ám chỉ riêng tư một cá nhân, một tập thể nào cả nhưng chỉ nói chung chung. Với cách nói chung chung đó sẽ làm giảm đi phần nào đụng chạm, phần nào tự ái của người, của nhóm người được nói đến.
Dụ ngôn người Samaria nhân hậu này hết sức quen thuộc với mỗi người kitô hữu. Chúa Giêsu nói là một người kia chứ không nói người đó tên gì, nhà ở đâu. Người kia đó đi đường từ Giêrusalem xuống Giêricô đi công chuyện, đi đám cưới hay đi đám tiệc gì đó không rõ. Chuyện đáng tiếc là người này gặp cướp giữa đường. Chắc là đoạn đường Giêrusalem xuống Giêricô vắng vẻ lắm nên người khách mới ra nông nổi này. Giá như người này chết thì chẳng còn chuyện gì đển nói nhưng người này dở sống dở chết. Sống cũng chẳng ra sống mà chết cũng chẳng ra chết mới oan nghiệt. Giá mà chết thì khoẻ còn sống mà chẳng làm được gì, kêu cũng chẳng được mà la cũng chẳng xong.
Câu chuyện hết sức hấp dẫn ở cái chổ là có thầy tư tế đi ngang qua nhưng cũng bỏ đi luôn. Và rồi, đến một thầy Lêvi cũng đi ngang nhưng ông thầy này tiếp tục cái cảnh "nhắm mắt làm ngơ". Hai ông thầy đi qua và rồi một người Samari cũng đi qua đó. Thế nhưng, điều hết sức kinh ngạc, hết sức tuyệt vời đó là người Samari này đã lấy rượu để rửa vết thương, năng bó vết thương. Khi bị tai nạn, được làm như thế quả là có phúc lắm rồi nhưng người này lại có phúc hơn nữa khi mà người Samari này còn cho lên lưng lừa và đem đến quán trọ. Không chỉ đưa đến quán trọ mà còn trao tiền cho chủ quán chăm sóc. Hơn điều mà mọi người nghĩ đó lại là còn hứa là sau khi đi công chuyện về ông sẽ thanh toán phần còn lại. Tuyệt vời, hết sức tuyệt vời nơi con người Samari này.
Câu chuyện đẹp không chỉ dừng ở chỗ này mà còn đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi người Samari và người Do Thái ngày xưa kình địch nhau, không đội trời chung với nhau. Nét đẹp của người Samari là họ đã vượt qua cái ranh giới hận thù, chia rẽ của lòng người để toả lòng thương cảm đến người bị tai nạn.
Câu chuyện này cũng đáng lưu ý nơi hình ảnh của hai ông thầy là thầy tư tế và thầy Lêvi. Hẳn ông ta có ăn, có học hơn cái người Samaria kia nhưng lòng của ông ta đã khép lại trước con người bị tai nạn. Chúa Giêsu không hề đề cập đến bằng cấp, địa vị, thân thế sự nghiệp của người Samari, Chúa Giêsu chỉ đề cập đến tấm lòng nhân hậu của người Samari dành cho người bị nạn mà là người đó lại là người ở phe đối lập của mình.
Hình ảnh của người Samaria nhân hậu hết sức dễ thương. Làm sao ông có thể làm được cái điều mà người đời khó làm này ? Chắc có lẽ trong đời thường của ông, ông đã cảm nhận được tình thương từ ơn trên dành cho đời của ông nên ông đã làm như thế với anh chị em đồng loại và anh chị em đồng loại ấy không phân biệt là kẻ ghét người thương.
Đáng trách chăng đó là hai ông thầy. Hai ông thầy được ăn được học nhất là được hòng về lòng thương xót của Thiên Chúa. Bài học về lòng thương xót ấy đã được mời gọi trong suốt dòng chảy của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa mời gọi con người giản đơn ở cái chuyện mến Chúa và yêu người. Mệnh lệnh Chúa gửi đến cho con người có như vậy thôi.
Mệnh lệnh đó, chúng ta vừa nghe Thánh Phaolô nhắc qua thư của Ngài gửi tín hữu Côlôsê. Ngài mời gọi tín hữu Côlôsê cũng như mọi người chúng ta là khi chúng ta nghe tiếng Chúa thì chúng ta giữ những mệnh lệnh, những thánh chỉ của Ngài trong sách Luật. Ngài nhắc cho chúng ta mệnh lệnh ấy nó nằm trong lòng bàn tay của mọi người. Mệnh lệnh ấy gần và rất gần. Mệnh lệnh ấy ngay trong miệng, trong lòng của chúng ta và chúng ta hết sức dễ để đem ra thực hành.
Lời của Chúa Giêsu dạy trong dụ ngôn hết sức tế nhị. Chúa Giêsu không bắt người thông luật làm như mệnh lệnh của Chúa nhưng Chúa Giêsu mời gọi người thông luật thực thi điều mà chính ông đề ra: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Chúa Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
Trang Tin mừng này kết thúc một cách bỏ ngõ. Thánh Luca không hề viết thêm cho độc giả rằng người thông luật đó đã làm gì, đã sống như thế nào sau khi nghe lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng đã mở ngõ cho nhà thông luật: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng mở ngõ cho mỗi người chúng ta. Chắc chắn khi nghe dụ ngôn ấy xong và sau khi nghe Chúa Giêsu chất vấn chúng ta cũng sẽ trả lời như nhà thông luật đó là thực thi lòng thương xót với người ấy. Thế nhưng, nhìn vào thực tế của cuộc sống, hình như chúng ta khiếm khuyết lòng thương xót anh chị em đồng loại. Lý do khiếm khuyết đó là vì chúng ta đã không lắng đọng tâm hồn, lắng đọng cõi lòng của chúng ta. Nếu chúng ta lắng đọng tâm hồn, chúng ta để cho lòng chúng ta lắng xuống chúng ta sẽ thấy được chúng ta hạnh phúc và Chúa thương chúng ta nhiều. Khi và chỉ khi chúng ta nhìn thấy tận căn lòng Chúa thương xót thì chúng ta mới có thể thương xót anh chị em đồng loại chúng ta được.
Chúng ta vẫn bị những rào cản của vật chất, của quyền lợi để rồi chúng ta không thấy Chúa hiện diện trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta hãy xin với Chúa Giêsu ban cho chúng ta con mắt đức tin để chúng ta thấy lòng Chúa thương xót chúng ta để chúng ta có thể thương xót anh chị em đồng loại như lòng Chúa mong muốn.
Tôi viết một vài suy nghĩ về người Samaritano nhân hậu trong lúc đang chờ ở phòng đợi phi trường: TN 15-C108
Tôi viết một vài suy nghĩ về người Samaritano nhân hậu trong lúc đang chờ ở phòng đợi phi trường vì máy bay trễ 3 giờ. Ước gì hãng hàng không cho tôi biết trước để tôi ở nhà soạn bài giảng này với tiện nghi đầy đủ hơn. Và tôi được dùng bữa sáng nóng hổi, và được đọc báo nữa. Nhờ thế may ra tôi có được vài suy nghĩ về một người Samaritano nhân hậu hợp với thời buổi này chăng!. Trái lại, tôi phải viết trong khi ngồi trên ghế cứng ở phi trường đặt giấy viết trên đùi, không có tiện nghi gì cả. Nhưng dụ ngôn về người Samaritano không liên quan gì đến những điều bất tiện tôi vừa gặp phải, và không có ý gì đến việc phải tử tế với người khác, vì tôi vừa nóng nảy phiền trách với cô nhân viên của hãng hàng không. Và tất cả dụ ngôn đó cũng không nói gì đến việc đi đường hay làm gì trên đường đi. Đây là câu chuyện về người đi đường, và chúng ta tất cả là người đi đường. Dụ ngôn nhắc nhở chúng ta nhớ là chúng ta phải đối đãi với người khác như thế nào trong lúc chúng ta cùng đi đường với họ trong cuộc hành trình dương thế theo ý chỉ của đức tin.
"Người Samaritano nhân hậu" đó là một cụm từ để khen ngợi một người nào. Ai được gọi là Người Samaritano nhân hậu là chúng ta biết ngay là người đó có lòng thương cảm với người lạ đang cần được giúp đỡ, mặc dù phải tốn kém cho mình. Nhưng, lẽ cố nhiên, đối với người Do Thái, người Samaritano là những người không tốt, và họ bị xem là kẻ thù địch. Và cả hai bên đều không ưa nhau. Hai dân tộc thù nhau từ bao nhiêu thế hệ. Và những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu kể dụ ngôn này đều không cần nhắc đến việc đó. Đối với họ dụ ngôn này không làm họ hài lòng. Dụ ngôn này trở nên một cú sốc làm cho những người nghe suy nghĩ lại về những thành kiến họ đã có từ trước đến nay.
Người thông luật muốn biết ông "phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Ông ấy không muốn biết những chuyện gì xa lạ, nhưng chỉ muốn biết điều gì giúp ông có được sự sống trong liên hệ mật thiết với Thiên Chúa ngay từ bây giờ, một liên hệ mà ngay cả sự chết không phá huỷ được. Chúng ta nhận thấy câu trả lời cho ông ấy không chú trọng đến Thiên Chúa. Người Do Thái tốt đạo nào cũng biết thương yêu là gì. Và câu trả lời nói về thương người lân cận đều đã có sẵn trong kinh thánh (Đnl 6:4 và Lv 19:18). Điểm chính của dụ ngôn là "ai là người thân cận của tôi?" Và đó cũng là câu hỏi đối với cả chúng ta nữa?
Bài Phúc âm hôm nay nằm trong Phúc âm thánh Luca nói về "những chuyện xảy ra trên đoạn đường lên Jêrusalem" (9:51-19:27). Câu chuyện này bắt đầu khi Chúa Giêsu bắt đầu thay đổi vì "Ngài hướng về Jêrusalem" (9:51). Thánh Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu biết trước việc Ngài sẽ gặp. Trước câu chuyện này, Chúa Giêsu gọi 72 môn đệ ra đi rao giảng (10:1). Các ông trở về mừng rõ vì đã được thành công (10:17-20). Chúa Giêsu cảm tạ Thiên Chúa vì sự mạc khải đã đến với các "người bé mọn", là môn đệ (10:21-22), và Chúa Giêsu chúc lành cho họ (10:23-24). Đến đây thì câu chuyện người thông luật xảy đến để hỏi Chúa Giêsu về sự sống đời đời và chúng ta nghe câu trả lời của Chúa Giêsu. Câu chuyện Chúa Giêsu gặp người thông luật, và dụ ngôn kế tiếp là những lời nói của những người đi đường. Chúng ta, những người tin nghe Chúa Giêsu hãy tự hỏi xem chúng ta đối với những người cùng đồng hành với chúng ta như thế nào, hoặc đối với những kẻ đi ngược đường với chúng ta?
Khi người thông luật hỏi "Ai là người thân cận của tôi?", ông ấy nghĩ là câu trả lời chắc sẽ là: người thân cận anh là bất kỳ người Do Thái nào. Câu trả lời như vậy sẽ chỉ rõ cho ông ta biết lề luật tôn giáo về sự yêu thương là như thế nào. Nhưng, Chúa Giêsu muốn đem hình ảnh người Samaritano ra làm câu trả lời cho người thông luật. Cho dù người bị thương năm kia có thuộc về giới "người thân cận" hay không. Điểm chính là Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy làm như người Samaritano đã làm là: Hãy trở nên người thân cận bằng các săn sóc người cần sự giúp đỡ vì lòng bác ái. Điểm quan trọng là: tôi không còn vai vế nào trong xã hội cả?, và người cần tôi giúp đó là bất cứ ai?
Người thông luật muốn Chúa Giêsu nói rõ người thân cận là ai, nhưng, trái lại, Chúa Giêsu nói là không cần nói đến người mình giúp đỡ, mà phải nói đến người giúp đỡ: người Samaritano là người chính trong việc giúp đỡ. Ông ta là người biết yêu thương, và chúng ta cũng hãy làm như vậy. Rốt cuộc câu hỏi của người thông luật là câu hỏi sai. Và, có lẽ chúng ta cũng muốn biết yêu thương thế nào mới gọi là đủ. Hãy cho tôi biết ai là người tôi phải yêu thương và lúc nào tôi phải yêu thương họ. Nhưng, "thương người thân cận" không phải là một bài giảng chỉ định về tình thương yêu người khác. Câu hỏi không phải là "ai là người thân cận của tôi?", nhưng là "tôi là người thân cận của ai?". Đó là ý Chúa Giêsu khi Ngài hỏi "vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?"... "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy". Từ "thân cận" chỉ sự liên hệ mật thiết. Thiên Chúa làm tất cả mọi người trở nên là người "thân cận" của chúng ta, và câu trả lời của chúng ta với Chúa là con sẽ trở nên người thân cận của người cần được giúp đỡ.
Trên đường đi lên Jêrusalem Chúa Giêsu có nhiều điều để dạy các môn đệ. Một điều Chúa Giêsu dạy các ông là: Jêrusalem sẽ là nơi Ngài chịu khổ hình và chịu chết. Trên đường lên Jêrusalem, Chúa Giesu muốn cho chúng ta biết là chúng ta phải sẵn sàng hy sinh mạng sống chúng ta vì sứ vụ và tình thương. Đó là tất cả những gì mà dụ ngôn hôm nay dạy chúng ta. Người theo Chúa Giêsu phải là người như thế nào? Làm sao chúng ta biết được người đó? Người theo Chúa Giêsu thật sự là người đáp lời ngay khi gặp người cần được giúp đỡ, không so đo xem họ có tiền không, có bằng cấp gì, ăn mặc ra sao, con người đó đi học trường nào, hay người đó thuộc quốc tịch nào, và thuộc nước nào v.v...?
Hôm nay trong phụng vụ chúng ta nghe dụ ngôn người Samaritano nhân hậu. Chúng ta có tạm dừng những thói quen đố kỵ trong làm việc, trong học hành, hay vui chơi trong gia đình như dụ ngôn. Trong đó nhấn mạnh những việc Chúa đã làm, đó là việc tốt dành cho những ai đã lãnh nhận đức tin qua bí tích Thánh Thể, đó là đem Chúa Giêsu đến như người Samaritano. Hôm nay khi chúng ta ra về Chúa Giêsu nói với chúng ta "anh em hãy đi, và cũng hãy làm như vậy". Trong phụng vụ chúng ta xin Thiên Chúa cho chúng ta "lương thực hàng ngày" và lương thực đi đường đến những nơi cần chúng ta giúp đỡ để trở nên người "Samaritano nhân hậu".
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 15 TNC giới thiệu với chúng ta một chủ đề đáng suy nghĩ, đó là: TN 15-C109
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 15 TNC giới thiệu với chúng ta một chủ đề đáng suy nghĩ, đó là: "mến Chúa và yêu người". Đây là luật mới và cốt lõi của đời sống người kitôhữu.
Bài đọc I trích từ sách Đệ Nhị Luật, qua môi miệng của Môisen, Thiên Chúa mời gọi Dân Riêng của Người hãy tuân giữ các giới răn và huấn lệnh của Thiên Chúa. Luật này không phải ở đâu xa xôi, nhưng là ở bên cạnh chúng ta, trên môi miệng và được khắc ghi trong lòng chúng ta. Luật này đạt tới sự viên mãn nhờ và trong Đức Kitô (Bài đọc II).
Cốt lõi của Lề Luật được tìm thấy trong bài Tin Mừng: "Ngươi hãy yêu mên Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn người, và hãy yêu thương anh em như chính mình". Chúa Giêsu xác nhận đó là con đường dẫn tới sự sống đời đời.
"Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức..." có nghĩa là chúng ta phải đặt Thiên Chúa ở chổ nhất trong bậc thang giá trị của cuộc đời. Theo đó, Thiên Chúa là ưu tiên số một, là quan trọng nhất trong mỗi suy nghĩ, phán đoán, hành động của cuộc đời tôi, còn những thứ khác là thứ yếu. Và mỗi ngày tôi sống theo chọn lựa đó, trong khi có những người bên cạnh có thể chọn tiền bạc, danh dự, quyền lực, hưởng lạc là chổ nhất cho cuộc đời của họ.
Nhưng chỉ mến Chúa thôi thì không đủ, mới chỉ được một nữa, chúng ta còn phải "yêu thương Anh em như chính mình". Ở đây, chúng ta để ý chữ "như chính mình".
Yêu người khác như yêu chính mình có nghĩa là: chúng ta cũng biết chăm sóc, quan tâm, giúp đỡ và mong muốn điều tốt lành, thiện hảo cho người khác như chúng ta làm cho chính mình. Chứ không phải là thấy người khác thành công thì mình tìm cách đạp đỗ, thấy người bên cạnh gặp điều khốn khó thì lòng lấy làm vui mừng! Đức Khổng Tử dạy: "Đừng làm cho người khác những gì mà bạn không muốn cho mình". Đức Giêsu còn đi xa hơn: "Hãy làm cho người khác những gì mà bạn muốn cho mình". Nhất là đối với những người đang cần đến sự giúp đỡ của Chúng ta.
Quả thế, Mến Chúa và Yêu Người là cốt lõi của Kitôgiáo. Trong tác phẩm Quo Vadis, một người ngoại giáo hỏi Thánh Phêrô khi ngài mới đến Rôma: Hy lạp đem đến cho chúng tôi sự thông thái, Rôma đem đến quyền lực, tôn giáo của ông đem lại điều gì? Thánh Phêrô trả lời: Tình yêu!
Ở đây, chúng ta tìm thấy câu trả lời cho Marx, khi ông nói rằng tôn giáo của chúng ta chỉ lo đến sự sống mai hậu mà quên đi và sao nhãng bổn phận xây dựng cuộc sống hôm nay. Có thể Marx có lý trên bình diện thực tiễn, khi ông không thấy có những kitôhữu thực sự sống Tin Mừng vào thời ông, hay nói như Maritain là "nỗi đau của thế kỷ XIX là không phải có Marx, mà là không có những kitôhữu giống như Marx". Nhưng cốt lõi của Kitôgiáo dạy chúng ta là yêu mến Thiên Chúa và từ đó hướng tới tha nhân, không phân biệt ai, hướng tới xây dựng xã hội. Việc đến nhà thờ là để giúp chúng ta sống tốt hơn trong gia đình, nơi công sở, trong công việc. Việc đọc kinh xem lễ không phải là để ẩn náu, thoát đời một cách ích kỷ, nhưng là để tìm kiếm sự bình an cho tâm hồn mình, khi tâm hồn bình an, thì gia đình, xã hội cũng sẽ được bình an.
"Hãy đi và làm như vậy"! Lời đó Chúa nói với người thông luật và hôm nay Người cũng nói với chúng Ta. Như người Samaritanô nhân hậu, là mẫu gương tuyệt về việc biết chọn Luật Bác ái là trên hết, tất cả chúng ta cũng được mời gọi thực hành Luật Bác Ái bằng những việc làm cụ thể hành ngày của chúng ta. Và như thế là chúng ta đang yêu Chúa, đang giữ luật và đang xây dựng một thế giới bằng văn minh Tình thương. Amen!
"Nhưng ai là người thân cận của tôi" (Lc 10,29) là câu hỏi của thầy thông luật đã hỏi Chúa Giê-su, một câu hỏi mà mới nghe qua, tìm một chút ấn tượng cũng chẳng có, nó chỉ là một câu hỏi rất đời thường; nhưng thật ra nó là một câu hỏi chứa đầy tính nhân bản, và nói theo kiểu tu đức nó giúp chúng ta xét mình về việc thực thi bác ái đối với anh em đồng loại, những người thân cận của chúng ta. "Nhưng ai là người thân cận của tôi" là một loạt suy tư (10 bài) được gợi ý sống động từ những tiếp xúc với anh chị em giáo hữu, đối thoại với những anh chị em bị xã hội coi là “thành phần bất hảo”, và những cảm nghiệm suy tư từ trong cuộc sống.
Xin được chia sẻ với anh chị em, những người thân cận của nhau, trong Đức Ki-tô.
Có một câu chuyện tưởng tượng, tiếp nối dụ ngôn người Samaria nhân hậu, đại khái như sau: Sau TN 15-C111
Có một câu chuyện tưởng tượng, tiếp nối dụ ngôn người Samaria nhân hậu, đại khái như sau: Sau khi đã tận tình cứu giúp nạn nhân bị bọn cướp đánh và bỏ rơi, người Samaria này lại có dịp đi từ Giêrusalem xuống Giêricô. Lần thứ hai này, ông cũng gặp một nạn nhân khác và như lần đầu, ông cũng lại ra tay cứu giúp. Và rồi tiếp theo trong những lần có dịp đi qua con đưởng đó, ông đều gặp nạn nhân và đều cứu giúp, cho đến một ngày kia là lần thứ 2222, khi đến chỗ thường xảy ra những vụ cướp bóc, ông cũng lại gặp một nạn nhân. Như thường lệ, ông xuống lừa, băng bó vết thương. Xong xuôi đâu đó, ông đặt nạn nhân lên lưng lừa. Với thời gian, con lừa của ông dường như cũng quen đường cũ, đem nạn nhân đến quán trọ. Nhưng lần này ông chủ quán chỉ thấy nạn nhân nằm trên lưng con lừa cũ mà không thấy người Samaria đâu. Hơi ngạc nhiên, nhưng ông chủ quán vẫn tiếp tục chăm sóc nạn nhân như thường lệ. Điều mà ông chủ quán không ngờ mãi đến lần 2222 người Samaria mới có sáng kiến giúp các nạn nhân đến nơi đến chốn. Để giải quyết tận gốc rễ, ông đã tìm đến sào huyệt của bọn cướp với hy vọng thuyết phục họ, hoặc nếu được thì giúp đỡ để họ có thể trở về sống một cuộc đời lương thiện, từ bỏ những hành động trộm cướp và giết người.
Trong cuộc sống, rất nhiều lần chúng ta đã gặp phải những người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật. Có thể là chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ như thầy tư tế và lêvi. Có thể là chúng ta cũng đã giúp đỡ họ một cách đại khái cho qua lần đoạn lượt bằng một lời chào, bằng một nụ cười, bằng một sự an ủi khích lệ hay bằng một vài ngàn đồng bạc làm phúc bố thí, nhưng có lẽ chưa một lần chúng ta dừng lại, suy nghĩ và tìm hiểu xem chúng ta phải làm những gì để chữa tận căn, để diệt tận gốc, hầu đem lại cho họ sự bình an và hạnh phúc đích thực.
Người Samaria đã lặn lội tìm vào tận hang ổ của bọn cướp, để xóa đi sự hiện diện của họ, vốn đã từng gieo rắc kinh hoàng và khổ đau cho nhiều người. Còn chúng ta thì sao?
Gặp một người nghèo túng, thay vì cho họ một số tiền nào đó, chúng ta có thể chỉ bảo cho họ một nghề nghiệp, nhờ đó mà họ sẽ tự túc tự cường, tự mình kến sống. Gặp một gia đình bất hòa, thay vì đưa ra những lời khuyên một cách chung chung, chúng ta có thể tìm hiểu đâu là nguyên nhân gây ra sự bất hòa đó, để rồi tìm cách xóa bỏ cái nguyên nhân ấy đi. Đây là một việc làm không mấy dễ dàng, thế nhưng, để sự giúp đỡ của chúng ta thự sự mang lại lợi ích cho người khác, liệu chúng ta có cùng với họ xóa bỏ tận gốc rễ nguyên nhân làm cho họ phải khổ đau hay không?
Vào một ngày nọ, tôi đến một quán phở ven đường để ăn sáng, tại thị trấn Mỹ Ca, thuộc Thành phố TN 15-C112
Vào một ngày nọ, tôi đến một quán phở ven đường để ăn sáng, tại thị trấn Mỹ Ca, thuộc Thành phố Cam Ranh. Trong lúc tôi đang ngồi chờ người phục vụ bàn mang thức ăn ra, tôi nhìn thấy một ông cụ trạc chừng trên 70 tuổi, áo quần xốc xếch, dơ bẩn, bước vào với dáng điệu rất mệt mỏi, đi ngang qua trước mặt tôi, đưa đôi bàn tay run run và nói: “Tôi đói quá, xin ông cho tôi ít đồng tiền lẻ để mua ổ bánh mì ăn cho đỡ đói, tôi từ Thành Phố Vinh về Phan Thiết để thăm con, nhưng chẳng may đi trên xe bị chúng móc bóp, lấy sạch hết tiền bạc, giấy tờ và cả xắc áo quần của tôi nữa, hai ngày nay tôi chẳng có miếng chi bỏ vào bụng, nên tôi đói quá và cũng chẳng còn tiền để đi tiếp vào thăm con…”
Tôi đã nghe nhưng giả điếc làm ngơ. Ông cụ đi tiếp qua bàn khác, trước mặt tôi có một cậu thanh niên trạc chừng 20 – 22 tuổi cũng đang ngồi chờ đợi như tôi, câu ta ân cần bảo ông cụ: “Bác ngồi xuống đây, hãy đợi một tí.” Ông cụ nghe lời ngồi xuống, khi người phục vụ bàn mang tô phở tới vừa đặt xuống bàn, cậu thanh niên đã bưng đưa qua và mời: “Bác ăn đi cho đỡ đói”. Ông cụ có một chút lưỡng lự, nhưng vì đói quá nên ông cụ đã ăn ngấu nghiến một cách ngon lành… Cậu thanh niên không kêu tiếp, mà ngồi nhìn ông cụ ăn mà lòng rất thương cảm.
Tôi vừa ăn vừa theo dõi thái độ của cả hai người, ông cụ ăn xong nhìn lên và hỏi: “Ủa, sao anh không ăn ?” Cậu thanh niên trả lời: “Dạ, cháu ăn rồi.” Cậu thanh niên trả tiền và mời ông cụ đi theo về nhà mình, tôi tò mò cũng đi theo và giả làm như người đi tìm nhà người thân.
Nhà cậu thanh niên nầy cách xa quán ăn khoảng chừng vài trăm mét. Khi đã vào nhà, cậu trịnh trọng mời ông cụ ngồi xuống ghế, rồi chạy ra đàng sau kêu: “Mẹ ơi, vào đây có người muốn gặp mẹ.” Người mẹ hộc tốc chạy vào, vừa nhìn thấy khách lạ trông rất tiều tụy, phờ phạc nên bà ngạc nhiên hỏi: “Ai đây con ?” Người thanh niên kể lại cho mẹ nghe hoàn cảnh đáng thương của ông cụ và thêm: “Mẹ ơi, cứu giúp ông cụ nầy với, hoàn cảnh bi đát tội nghiệp lắm.” Người mẹ ngần ngại, vì lúc nầy nhiều kẻ lợi dụng vào lòng nhân ái của người khác để trục lợi, xảy ra nhan nhản trước mắt, và chính bà cũng đã bị người ta lừa dối nên bà rất thận trọng.
Cậu thanh niên nói tiếp: “Mẹ ơi, sáng nay mẹ cho con tiền ăn sáng, nhưng con không ăn, con dành cho ông cụ này đây, nhìn ông cụ ăn mà con thấy còn ngon hơn chính con ăn nữa mẹ ạ.” Người mẹ nghe con nói như vậy trong lòng rất vui, và người con cứ mãi nằng nặc, nên người mẹ cũng xiêu lòng. Hơn nữa sau khi hỏi han, dò xét thấy dáng vẻ của ông cụ thật thà, hiền lành, nên bà đồng ý qua nhà người hàng xóm mượn tiền để giúp ông cụ tiền xe, tiền ăn dọc đường.
Cậu thanh niên khi biết mẹ đã nhận lời nên rất vui mầng. Cậu chạy vào tìm kiếm bộ áo quần còn tốt và sạch sẽ của người cha, đem ra cho ông cụ thay. Cụ rất vui và cám ơn rối rít. Tắm rửa xong, ông cụ thay đồ mới bảnh bao, rồi theo người thanh niên ra đón xe để tiếp tục cuộc hành trình lên đường đi vào thăm con ở Phan Thiết.
Chứng kiến lòng nhân ái tuyệt vời của một người thanh niên ngoại giáo, tôi cảm thấy hổ thẹn; bởi vì tôi là người lớn tuổi hơn nhiều, đã từng trải hơn nhiều, tiền bạc trong túi cũng rủng rỉnh, tôi lại là người Công giáo nòi… Kể từ đó tôi thường hay lui tới, tìm cách nọ cách kia để làm quen với gia đình đó, một thời gian sau, tôi trở thành người thân tín của gia đình họ. Nhờ đó, tôi mới biết ra tông tích của dòng tộc họ rất đáng nể: Ông nội của cậu thanh niên là bạn thân học cùng trường, cùng lớp, cùng ăn, cùng ngủ với Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, nhưng ông không vào đạo được, vì ông là con trai trưởng. Nhờ từ cốt lõi tốt lành đó, nên gia đình cậu thanh niên trở thành một gia đình tuy nghèo, nhưng có sự giáo dục vững vàng rất tốt đẹp, có căn bản đạo đức làm người thật tuyệt vời. Tôi đã học được ở nơi họ rất nhiều điều tốt lành, và cũng nhờ họ mà tôi đã thay đổi cách sống, từ một người sống rất ích kỷ, vô cảm, chỉ biết sống cho riêng mình… ( Hải Chi, Tấm gương lòng nhân ái, web Giáo Phận Phan Thiết ).
Chàng thanh niên kể trên quả có tấm lòng thương xót, một con tim nhạy cảm, đôi tay nhân ái, môt tinh thần trách nhiệm, tựa người Samari trong dụ ngôn Tin Mừng Chúa Nhật 15 hôm nay.
Con tim nhạy cảm
Không giống trái tim bị xơ cứng, chai lỳ, đông lạnh của ngài tư tế và ngài Lêvi, con tim nhạy cảm của người Samari nhìn thấy nạn nhân thừa sống thiếu chết, liền chạnh lòng thương. Với trái tim vô cảm, người ta chẳng thấy điều gì khác, người nào khác ngoài bản thân vị kỷ. Với trái tim đông lạnh, người ta coi tha nhân chỉ là bậc thang để leo lên đỉnh danh vọng. Với trái tim hoá đá, người ta coi tha nhân là đối thủ thù địch để tranh giành, cấu xé, chửi bới, đánh đấm, rủa xả, xúc phạm, thậm chí coi tha nhân là hoả ngục !
Cả ba người khách đi đường cùng đều nhìn thấy nạn nhân đáng thương, nhưng hai đấng tư tế và Lêvi đều giả mù, giả điếc, coi như không thấy, không nghe, không biết người bị nạn. Chỉ duy nhất người Samari cám cảnh nhìn thấy, động lòng, dừng lại đến gần, cúi xuống ân cần lấy dầu rượu chăm sóc băng bó vết thương.
Vị kỷ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ lo bảo vệ, gìn giữ và hết sức ý tứ, đề cao cảnh giác, khỏi bị cướp bóc, bị lợi dụng, bị lừa gạt, bị ô uế vì đụng vào xác người, thầy tư tế và thầy Lêvi đều mù loà tâm hồn, vong thân, đánh mất tình người, tình nhân ái, lòng thương xót.
Xả kỷ vị tha, chẳng lo thủ thân, chẳng hề đắn đo cân nhắc thua thiệt, hao tiền tốn của, mất thì giờ, trễ nãi hành trình, mà quên mình, nhiệt thành quan tâm đến tha nhân, người anh em xa lạ dở sống dở chết, cần được cấp cứu, săn sóc băng bó, chữa trị, hồi sức, người Samari dấn thân phục vụ. Cứu người như cứu hoả, ông chẳng từ nan để cứu chữa người đang nghìn cân treo ngọn tóc.
Đôi tay nhân ái
Lòng thương xót đi từ trái tim đến đôi tay, người Samari liền xuống lừa, xắn tay áo lên giúp đỡ. “Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc.” Sơ cứu xong, người Samari còn đem theo về nơi mình trú trọ tận tình chăm sóc, thể hiện trọn vẹn tình nhân ái.
Tình thương yêu, lòng nhân ái thật sự không chỉ bằng lời nói mà cần thể hiện qua hành động, việc làm, như trong thư thứ nhất thánh Gioan, đã hết sức ân cần dặn dò điều chính người Kitô hữu hôm nay, cũng cần thiết thực hành theo: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” ( 1Ga 3, 18 ).
Đôi tay chỉ thực sự nhân ái tràn trề lòng thương xót, khi âm thầm, kín đáo, lặng lẽ, vô tư, bất vụ lợi, mở rộng đón nhận, giúp ích tha nhân, chẳng cần lời khen, bằng ghi ơn, chẳng cần huy chương, vang danh trên truyền thông. Nếu không thì coi như đã nhận lãnh phần thưởng thế gian, chẳng còn chút gía trị với Nước Trời. “Hãy coi chừng, đừng phô trương công đức trước mặt người ta, để hòng được thấy; chẳng vậy, các người mất công nơi Cha các ngươi, Ðấng ngự trên Trời” ( Mt 6, 1 ).
Trách nhiệm trọn vẹn
Tình hình tạm ổn, nạn nhân đã qua cơn nguy kịch, cần tiếp tục tĩnh dưỡng để phục hồi sức khoẻ. Người Samari mới yên tâm lên đường, tiếp tục cuộc hành trình dang dở. “Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: 'Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông.”
Yêu thương, quan tâm, giúp đỡ, hết lòng phục vụ tha nhân, nhất là những người đang hoạn nạn, nguy khốn, cô đơn, là bổn phận và trách nhiệm của ai theo Chúa, Đấng giàu Lòng Thương Xót. Đó là việc lành bắt buộc, là nghĩa vụ cấp bách, ưu tiên không thể nào từ chối hay nhẫn tâm bỏ qua, nếu thực sự là Kitô hữu.
Đức Giêsu đã cặn kẽ dạy những ai muốn trở nên người môn đệ chân chính của Người: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa", là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên Trời” ( Mt 7, 21 ). Người đã thân thương nhắc ông thông luật tái xác nhận điều cốt tuỷ của đạo lý yêu thương: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình." Vậy qua dụ ngôn người Samari tốt lành, hẳn người Kitô hữu đã biết tỏ tường ai chính là anh em, ai là người thân cận của mình.
Vậy để thực hành được yêu cầu của Đức Giêsu: “Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống,” thì tín hữu Kitô luôn cần trang bị một trái tim thiệt nhạy cảm trước nỗi khổ của tha nhân, một đôi tay nhân ái mở rộng, sẵn sàng xoa dịu, cứu chữa, một tấm lòng yêu thương tràn đầy trách nhiệm, chân thành dấn thân phục vụ tha nhân.
“Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng:
là liên lỉ canh tân, là quyết định chọn hay chối Chúa, là tìm Nước Chúa, là tin ở tình yêu vô bờ của Chúa, là hành động với tất cả hăng say, là thể hiện mến Chúa yêu người, "ngay trong giây phút này." ( Đường Hy Vọng, số 26 )
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con thấm nhuần đạo lý yêu thương, xin dạy chúng con biết tha nhân chính là anh em, chính là bản thân chúng con, để chúng con có thể thương yêu, vui vẻ chia sẻ, giúp đỡ và phục vụ.
Lạy Mẹ Maria, khấn xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ yêu người, biết chân thật yêu thương tha nhân trong bất cứ hoàn cảnh nào, để chúng con mãi xứng đáng là con Mẹ. Amen.
Có lần nghe ca sĩ Hương Lan hát bài “Lạy Chúa, con là người ngoại đạo” với lời ca: Lạy Chúa, TN 15-C113
Có lần nghe ca sĩ Hương Lan hát bài “Lạy Chúa, con là người ngoại đạo” với lời ca: Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ngự trên cao; tôi tự hỏi: tại sao là người ngoại đạo mà lại tin là có Chúa ngự trên cao ? Đã tin có Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn là ngoại đạo thì chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo đó thôi.
Tôi đã gặp nhiều người có đạo mà không sống đạo. Và tôi cũng đã gặp nhiều người sống đạo mà không có đạo.
Nói về đạo và sống đạo, tôi thấy trong Phúc Âm có nhiều câu chuyện tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.
- Khi Chúa Giêsu vác thập giá lên Núi Sọ, đường dài, sức nặng của thập giá, kiệt sức vì bị hành hạ, Ngài gục ngã đến ba lần. Kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa là ông Simon người xứ Kyrênê, một người ngoại đạo.
- Khi Chúa Giêsu đến Caphanaum, Viên Bách Quản, một người ngoại đạo đến gặp và van xin: Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà đau đớn lắm. Chúa nói: Ta phải đến chữa nó. Viên Bách Quản thưa lại: Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, nhưng Ngài hãy phán một lời, đứa hầu nhà tôi sẽ khỏi. Nghe vậy Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: Quả thật Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel.
- Một lần khác, Chúa Giêsu vào một làng kia, có mười người phong hủi đến gặp Ngài. Từ đàng xa họ đã lên tiếng thưa: Lạy Thầy Giêsu xin thương xót chúng tôi. Thấy vậy, Chúa bảo họ: Hãy đi trình diện với hàng Tư Tế. Và xảy ra là khi họ đi thì họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch liền quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari, người ngoại đạo. Chúa Giêsu cất tiếng nói: Không phải là cả mười người được sạch cả sao, chín người kia đâu không thấy họ quay trở lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại này ?
- Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu kể dụ ngôn: một người ở Giêrusalem xuống Giêricô, giữa đường bị bọn cướp trấn lột, đánh cho nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Thầy Tư Tế đi qua, thấy vậy liền lãng tránh. Thầy Lêvi đi tới cũng chẳng ngó ngàng, bỏ mặc nạn nhân. Một người ngoại đạo Samari đi ngang, thấy người lâm nạn, chạnh lòng thương liền băng bó, đặt lên lưng lừa đưa về quán trọ, nhờ chủ quán săn sóc rồi trả hết mọi phí tổn.
Thầy Tư Tế, Thầy Lêvi chẳng những là người trong đạo, mà hơn nữa, họ còn là kẻ rao giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng không sống đạo. Người Samari, kẻ sống đạo lại là người không có đạo.
Như thế kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa trên con đường dài với những bước chân xiêu té cuối đời là người ngoại đạo. Kẻ tỏ lòng biết ơn khi được Chúa chữa lành là người ngoại đạo. Kẻ thể hiện lòng bác ái xót thương không phải là Tư Tế, là Lêvi, các chức sắc trong đạo mà là người Samari, người ngoại đạo.
Khi băn khoăn tự hỏi: thế nào là người bên ngoài, thế nào là người bên trong ? Thế nào là có đạo, thế nào ngoại đạo ? Tôi thấy trong Phúc Âm có lần Chúa Giêsu nói: Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ từ Phương Đông, Phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Giacóp trong Nước Trời, còn chính con dân trong nước lại sẽ bị đuổi ra ngoài tối tăm.
Vậy thì có một khoảng cách rất lớn giữa hiểu biết về đạo và sống đạo. Đạo thì mênh mông vô bờ bến như đất trời, làm sao có thể đem đạo vào một định nghĩa chật hẹp được ? Làm sao có thể nhốt đạo vào Nhà Thờ ? Làm sao vẽ chân dung đạo bằng tờ giấy rửa tội được ? Bởi lẽ “Đạo khả đạo phi thường Đạo” ( Lão Tử ).
Hiểu biết về đạo được thể hiện qua đời sống đạo. Có người nói rằng: Tôi tin đạo chứ tôi không tin người có đạo. Đạo thì tốt, nhưng nhiều người có đạo lại xấu. Có nhiều người ngoại đạo lại tốt hơn người có đạo. Họ nói như thế vì họ thấy nhiều người có đạo mà lại không sống đạo của mình. Quả thật, con đường dài nhất là con đường từ cái đầu đến bàn tay. Giữa suy nghĩ, lời nói và việc làm, giữa hiểu biết và cuộc sống có một khoảng cách thật lớn.
Đức Khổng Tử đã nói chí lý: Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo. Nghĩa là: đạo không xa cái bản tính của người ta, nếu theo đạo để cho xa cái bản tính của người ta thì không phải là đạo.
Đạo của Chúa Giêsu là Đạo Thiên Chúa làm người, rất gần gũi với con người. Vì con người là con đường của Giáo hội ( Thánh Gioan-Phaolô II ). Người Đông Phương lấy chữ nhân mà định nghĩa con người: nhân là người, nhân là nhân ái là lòng thương người. Ai không biết thương người khác là kẻ không xứng danh là người. Nhân bản và nhân ái có quan hệ mật thiết với nhau.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu kể, tôi thấy rằng, cái khác biệt sâu xa giữa Kitô giáo và Do Thái giáo, đó là: một bên là đạo của tình yêu, một bên là đạo của lề luật. Tư Tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vụ luật của Cựu Ước. Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu. Những người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Thấy người bị nạn, người Samari tốt lành đã động lòng xót thương. Lương tâm và tình thương đồng loại thúc đẩy anh cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn bất chấp nạn nhân là người Do Thái thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc của anh. Cung cách hành xử đầy tình thương này mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Nhìn từ lăng kính luật pháp Do Thái, hai ông Tư Tế và Lêvi đã không sai. Luật Cựu Ước dạy rằng, Tư Tế không được đụng vào thây người chết vì sợ bị ô uế. Nếu ô uế thì không được phục vụ trong đền thờ. Nạn nhân dở sống, dở chết, tức là có thể chết. Hai người Tư Tế và Lêvi không dám chạm đến người có thể chết. Họ lựa chọn lề luật. Sách luật Lv 21 ghi rõ điều khoản luật này khi nhắc đến Tư Tế và người chết. Người Samari lựa chọn bác ái. Anh không ngại chạm đến người dở sống dở chết này. Anh chăm sóc, lo lắng cho bệnh nhân như người thân và anh đã vượt quá giới hạn lề luật để sống theo bác ái. Khi phải lựa chọn giữa lề luật và bác ái, người nhân hậu lựa chọn bác ái dù biết các ràng buộc của lề luật. Người ấy không bỏ qua lề luật, không đả phá lề luật nhưng vượt trên lề luật nên đã làm trọn lề luật.
Chúa Giêsu hỏi người thông luật: "Ai là người thân cận của nạn nhân đã sa vào tay kẻ cướp ?" Người ấy đáp: "Người đã đem lòng từ bi thương nạn nhân".
Chúa Giêsu đã khéo léo chuyển vấn đề từ câu hỏi người thông luật: ai là người thân cận của tôi ? sang gợi ý tuyệt vời của Ngài: tôi là người thân cận của ai ? Trả lời câu hỏi này có lẽ phải đi từ cuộc sống cụ thể của mình. Khi tôi đến gần ai để phục vụ với tình yêu thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy thành người thân cận với tôi. Ai cũng có thể trở thành người thân cận của tôi nếu tôi yêu thương họ bằng tình yêu mà Chúa đã thương yêu tôi.
Càng hiểu biết về đạo càng phải sống đạo. Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ Lời Thầy”. Đạo của Thầy Giêsu là Đạo Tình Yêu. Yêu Chúa, Yêu Người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Yêu Chúa đích thực thì phải yêu người. Thánh Gioan viết: “Ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người thì là kẻ nói dối”. Đối với Thánh Phaolô: “Yêu thương là giữ trọn lề luật”. Lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu mà cho người không có tình yêu. Nếu không có tình yêu thì việc làm theo lề luật có tốt đến đâu cũng vô giá trị: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. Thánh Augustinô khuyên nhủ: cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu sẽ cho biết ta phải làm gì.
Tin Mừng hôm nay là câu chuyện đẹp về tình yêu thương, sống đạo cụ thể. Người Samari nhân hậu đã sống đức yêu thương cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Anh đã cho đi mà không tính toán, không chờ đợi một lời cảm ơn nào, và có lẽ anh vừa đi vừa hát bài ca hạnh phúc. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống và thực thi yêu thương: “Hãy đi và làm như vậy”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con rằng: không phải những người cứ kêu lên: “Lạy Chúa, Lạy Chúa…” là được vào Nước Trời. Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha mới được vào mà thôi. Xin cho Lời ấy in vào lòng trí giúp chúng con luôn biết thể hiện trong đời sống đạo hàng ngày. Amen.
Ngày nay, trên các phương tiện truyền thông chúng ta thường được nghe nhiều tin tức giống với TN 15-C114
Ngày nay, trên các phương tiện truyền thông chúng ta thường được nghe nhiều tin tức giống với những gì được kể lại trong bài tin mừng Luca: nạn nhân tai nạn giao thông, nạn nhân các cuộc trấn lột, cướp bóc. Nhưng hầu như không thấy ai ra tay cứu giúp các nạn nhân, thậm chí không có phản ứng gì. Cũng còn may mắn là thỉnh thoảng cũng có những luật trừ, những người can đảm bất chấp nguy hiểm liều mình để giúp đỡ những người bị hại.
Chủ nhật hôm nay chúng ta đọc lại dụ ngôn thường được gọi là dụ ngôn về người “Samari nhân hậu”. Đó là câu chuyện của một người từ Giêrusalem đi xuống Giêrikhô. Những ai quen thuộc địa phương nầy đều biết đó là con đường nguy hiểm, vì chạy qua một vùng núi khô cằn và sa mạc hoang vắng, môi trường thuận lợi cho bọn cuớp thường ra phục kích tấn công khách bộ hành. Bài tin mừng kể lại một trường hợp như thế. Một người chẳng may bị rơi vào tay bọn cứơp. Chúng tấn công, đánh đập anh ta dã man sau khi đã trấn lột hết của cải và hành lí. Đánh người cướp của xong, chúng tẩu thoát và bỏ nạn nhân giữa đường nửa sống nửa chết.
Sau đó một thầy tư tế, rồi một thầy lê vi đi ngang qua. Thấy nạn nhân giữa đường, họ đi luôn, không giúp đỡ gì. Có thể ngày nay chúng ta lên án hành động của họ, cho rằng họ quá nhẫn tâm, vì không giúp đỡ người bị nguy tử. Hơn nữa, họ là những người thông thạo lề luật, nhất là giới lưật yêu thương: “Ngươi hãy yêu thương người thân cận như chính mình ngươi”.
Nhưng có người thông cảm thái độ dửng dưng của hai thầy tư tế và lê vi ấy. Họ đang trên đường đến Giêrusalem để dâng lễ ở Đền thờ. Lề luật buộc họ phải giữ mình cho thanh sạch, không được chạm đến máu hay người chết, nếu không họ sẽ bị nhiễm ô uế, và do đó, không thể cử hành các nghi lễ được nữa. Chính vì để tránh nhiễm uế theo lề luật mà họ bước qua bên kia, qua bên kia hành vi nhân đạo cứu người bị nạn, qua bên kia lòng bác ái và tin mừng. “Tay họ sẽ trong sạch, nhưng đó là đôi tay không có trái tim”. Khi muốn trung thành với lề luật, họ quên giới luật yêu thương nền tảng và quan trọng mà Thiên Chúa đã dạy.
Đến lượt một người Samari , vốn là thù địch với người Do thái và bị họ khai trừ khỏi cộng đoàn. Nhưng trước hòan cảnh đáng thương của nạn nhân, anh đã không nghĩ gì khác ngoài việc ra tay nhân nghĩa cứu giúp người bị nạn. Anh đã biết mở rộng lòng từ tâm, dừng lại, sơ cứu rồi chở người bị thương đến quán trọ để nhờ người khác tiếp tục chăm sóc. Là hạng người đã bị coi là không vâng phục lề luật, anh ta thực sự trở thành người tuân giữ lề luật đúng nghĩa. Khi đề cao anh ta như một gương mẫu cho chúng ta, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thấy con đường phải theo để được dự phần vào cuộc Sống đời đời.
Ngài mời gọi chúng ta hãy đảo ngược vấn đề. Nếu cứ tiếp tục đặt câu hỏi: ai là người thân cận với tôi, có lẽ chúng ta cũng là một trong những gặp thấy người bị nạn, rồi đi qua luôn để tránh bổn phận bác ái. Hay trong những trường hợp khác, chúng ta có thể viện dẫn nhiều lí do để lẫn tránh người đến xin chúng ta giúp đỡ. Nhưng khi làm như thế, chúng ta từ khước chính Đức Kitô. Thật vậy, chính Ngài luôn luôn ở bên cạnh những người bị lọai trừ và bị thương bởi cuộc sống. Hơn nữa, Ngài còn tự đồng hóa với mỗi người trong họ: “Quay lưng lại với một người anh em đang đau khổ là quay lưng lại với chính Thiên Chúa”.
Khi kể cho chúng ta nghe ví dụ ấy, Đức Kitô muốn thúc đầy chúng ta làm một cuộc đảo ngược vấn đề, thay đổi cái nhìn mà chúng ta hướng đến người khác. Từ nay, câu hỏi không còn là: “Ai là người lân cận của tôi?” nhưng là “tôi trở thành người lân cận của ai?”. Người lân cận không phải là ai khác; mà là chính tôi khi tôi đến gần họ, khi tôi đến gần gia đình tôi, gần những người làm việc chung với tôi, những người bị thương trong cuộc sống, những bệnh nhân, những người bị ức hiếp trong xã hội.
Hiện nay, nhờ các phương tiện truyền thông tân tiến mà chúng ta có thể dễ dàng tiếp cận toàn thế giới. Đó là những cơ hội tốt cho phép chúng ta có thể tự đặt cho mình câu hỏi nầy: “Tôi có phải là một người lân cận tốt cho mọi người không?”
Dụ ngôn ấy nói với chúng ta về Thiên Chúa “nhân lành”. Thật vậy, người Samari tốt bụng chạnh lòng trước thảm cảnh của người bị nạn ấy chính là Thiên Chúa. Người đã động lòng thương xót trước hòan cảnh tội lỗi đáng thương của con người. Nên Người đã đến gần chúng ta, sống với chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và ban cho chúng ta niềm tin để sống và để hi vọng.
Bài dụ ngôn trên đây cũng nói với chúng ta về Chúa Giêsu. Ngài là người bị nạn rơi vào tay bọn cướp. Sau nầy, trong suốt cuộc Khổ nạn, Ngài sẽ bị kết án, bị đánh đập và bị giết chết trên cây thập giá. Các môn đệ sẽ bỏ Ngài. Ngài trở thành đối tượng chê cười cho các lãnh đạo tôn giáo dân Ngài. Khi chấp nhận chết như thế, Ngài muốn trở nên gần gủi và liên đới với tất cả những người bị loại trừ trên thế gian nầy.
Lòng thương xót của người Samari nhân lành ấy đã trở thành điển hình của lòng xót thương của Chúa Giêsu nghiêng mình trên nhân lọai đang bị tổn thương vì tội lỗi. Tòan tin mừng cho chúng ta thấy Ngài rong ruổi khắp các nẻo đường, để đến gần với các bệnh nhân và tất cả những ai bị thương bởi những thử thách của cuộc đời. Ngài đã mang lấy trên mình tất cả những nỗi đau khổ và tội lỗi của trần gian. Ngài đã phải trả giá đắt để cho chúng ta được sống. Chính khi yêu thương chúng ta cho đến cùng mà Ngài trở thành người thân cận của chúng ta. Và hôm nay, Ngài nói với chúng ta giới răn của Ngài: “Con cũng hãy đi và làm như vậy”.
Khi chúng ta cử hành Thánh lễ, chính Chúa Giêsu đến để trở nên người thân cận với chúng ta. Với Ngài, chúng ta học cách yêu thương và tiếp cận người khác như Ngài. Cùng hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi Kitô hữu biết trở thành chứng nhân cho một cộng đòan luôn mở rộng vòng tay đón nhận, một cộng đòan sống theo gương của Ngài cho đến cùng. Chính bằng giá đó mà chúng ta có thể dự phần vào sự Sống vĩnh cửu.
Mức độ yêu thương thì không có giới hạn, không phân biệt cao thấp, rộng hẹp; nhưng tự nó TN 15-C115
Mức độ yêu thương thì không có giới hạn, không phân biệt cao thấp, rộng hẹp; nhưng tự nó, hai chữ yêu thương đã trở thành quan toà phán xét mỗi một cá nhân về những hành vi của họ đối với anh em đồng loại, người thân cận của mình (Mt 25 31-46).
Thánh Phao-lô tông đồ đã nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 10). Và một khi đã chu toàn lề luật rồi, thì tất cả những việc làm của chúng ta đều trở thành hành vi của bác ái, của yêu thương.
Luật và lệ đều được phân biệt rõ ràng nơi những người có tri thức, có kiến thức. Và trước một vấn đề thực tế như giúp đỡ “người thân cận” như thế này mình có lỗi luật không, và mình có được ích lợi gì không ? Cuối cùng, họ không dám cúi xuống cứu người bị nạn nằm thoi thóp bên vệ đường, vì:
họ sợ lỗi luật.
họ nghi ngờ không biết mình có phạm luật lệ không?
và thế là suốt đời họ không thể chu toàn lề luật được.
Nhưng những Kitô hữu biết sống Lời Chúa thì không phải như thế, khi thực hành công việc bác ái, họ không đem lề luật ra phân tích đúng sai. Mà trái lại, họ đã đem con tim biết xúc động trước cảnh hoạn nạn của người anh chị em, đem tinh thần yêu thương người thân cận như chính mình của Đức Ki-tô mà phân tích: tôi phải giúp đỡ họ vì đây là người thân cận của tôi, là anh em tôi, đơn giản thế thôi. Và thế là họ đã chu toàn lề luật hơn các thầy tư tế, hơn các thầy Lê-vi và hơn cả những người thông luật.
Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều luật Hội Thánh, đều là những lề luật dạy con người ta biết ăn ở ngay lành, kính Chúa, yêu người, không làm thiệt hại ai.v.v…và các luật lệ của các quốc gia trên thế giới cũng –một cách nào đó- đều từ Mười điều răn Đức Chúa Trời mà ra, và không một giới răn hay một luật lệ nào dạy con người ta phải đi ăn cướp, gian dâm, ngoại tình, đánh giết đồng loại của mình.
Đúc Ki-tô khi mang thân phận con người sống ở trần gian, thì Ngài cũng đã chấp nhận lề luật của con người (Lc 1, 22-24; Mt 17, 24-27) và chính Ngài đã tuyên bố: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17).
“Kiện” là lập, là xây dựng …
“Toàn” là hoàn toàn, đầy đủ, toàn bộ…
“Kiện toàn” có nghĩa là làm (xây dựng) cho đầy đủ hơn, hoàn toàn hơn và có ý nghĩa hơn. Chúa Giê-su không bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn để cho lề luật có được bộ mặt mới hơn. Và chính Ngài đã không ngần ngại trách cứ các kinh sư và người Pha-ri-siêu về những phong tục truyền thống đã in sâu vào trong tâm não của họ, mà họ cho là lề luật của Thiên Chúa, của cha ông. Chính Đức Kitô đã trả lời cho những người Pha-ri-siêu và các kinh sư đã bắt bẻ Ngài khi họ thấy các môn đệ của Ngài không rửa tay trước khi ăn: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa ?” (Mt15, 3). Các ông biệt phái và các kinh sư đã chú trọng đến những tập tục truyền thống hơn là tuân giữ các lề luật của Mô-sê, họ coi những tập tục của cha ông như là lề luật của Thiên Chúa, rửa tay hay không rửa tay trước khi ăn, đó không phải là lề luật của Thiên Chúa, nhưng chỉ là thói quen cho hợp vệ sinh thế thôi. Cái chính yếu và quan trọng nhất chính là phải rửa cho sạch tâm hồn để xứng đáng là người biết tuân giữ lề luật của Thiên Chúa cách tốt lành.
Và vì chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài, cho nên các viên chức cao cấp trong đạo Do thái thời bấy giờ, đã không ngần ngại bước qua thân xác người bị nạn mà đi, dù người bị nạn ấy là đồng hương của họ, và thế là họ đã không chu toàn lề luật được cách tốt lành, và có thể nói, những phong tục tập quán của họ, chính là “người thân cận” của họ vậy.
Đức Giê-su đã kiện toàn lề luật, không những để cho lề luật trở lại “khuôn mặt” đẹp đẽ, hoàn trả lại cốt cách tinh thần tích cực ban đầu của nó, mà còn làm cho nó trở thành mối tương quan giữa người với người cách hoàn hảo và thân thiện hơn, Ngài nói: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người. Ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốtng …” (Mt 5, 21-22).
Như thế là đã rõ, luật dạy chớ giết người, vì giết người là trọng tội phải bị đưa ra toà, nhưng luật không có dạy người ta đừng giận anh em mình, đừng mắng anh em mình là đồ ngốc, không dạy người khác đừng bội nhọ danh dự của tha nhân, đừng vu họa cáo gian.v.v...và vì thế, trong cuộc sống thường ngày, dù người ta không ai cầm dao, xách súng bắn giết anh em như là kẻ thù, (nhưng họ vẫn cứ thóa mạ, cáo gian người anh em) cho nên họ vẫn cứ lên mặt kênh kênh kiệu kiệu tuyên bố với người hàng xóm rằng: cuộc đời tôi không hề giết người, không hề cầm dao phay doạ nạt anh em...
Không cầm dao chém người, không xách súng bắn người, nhưng có biết bao nhiêu lần trong cuộc sống đời thường chúng ta chửi mắng anh em rằng: thằng cha nầy ma cô, con mẹ đó đĩ thõa; biết bao lần chúng ta nói hành nói xấu người anh em, vu oan giá hoạ cho người khác, đó không phải là “giết người không gươm dao” sao ? Đức Ki-tô đã kiện toàn lề luật như thế nào: luật dạy chớ giết người, còn Chúa Giê-su dạy chớ ghen ghét người (Mt 5, 21-22); luật dạy chớ ngoại tình, còn Chúa Giê-su dạy ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình rồi (Mt 5, 27-28); luật dạy đừng thề thốt, còn Chúa Giê-su dạy có thì nói có, không thì nói không (Mt 5, 33-37)...
Luật dạy những gì cụ thể, “sự đã rồi” mới là tội, chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ bội thề, đều là những tội cụ thể mà trong cuộc đời của con người ít ai phạm đến, bởi vì xét theo lương tâm, thì những luật ấy đều được khắc ghi trong lòng của mỗi người rồi, và trên một khía cạnh nào đó, luật đã làm cho người ta xa cách nhau hơn nếu xét nét từng chữ bên ngoài, và không còn thấy được “người thân cận” của mình trong cuộc sống. Nhưng Đức Kitô đã đến trong thế gian, và Ngài đã làm cho giữa lề luật và tình cảm con người có một mối tương quan gắn bó, thân thiện, và mọi người trở nên thân cận của nhau hơn.
Trở nên người thân cận của nhau, bởi vì Đức Kitô đã tuyên bố: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiép Đấng đã sai Thầy ” (Mt 10, 40). Do đó, khi tôi đón tiếp ngưòi mà tôi gặp gỡ trong ngày, người mà tôi cùng với họ cùng làm chung một công xưởng, hoặc người mà tôi chỉ gặp qua đường nói vu vơ vài chuyện nhỏ, tất cả họ đều là hình ảnh của Đức Ki-tô, cho nên khi tôi đón tiếp họ, thì chính tôi đã đón tiếp Đức Ki-tô, tức là đón tiếp “người thân cận” của tôi vậy.
Luật mới của đức Kitô là như thế, chính Ngài đã đem Ngài ra “thế thân”, để bảo đảm cho những ai đã vì Ngài mà thi hành luật yêu thương với “người thân cận”: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40), và như thế Ngài đã xác định rõ ràng: lề luật là để cho tình người giữa người với nhau càng tràn đầy hơn, và danh Thiên Chúa được vinh quang hơn nơi các loài thụ tạo do Ngài tạo dựng: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39).
“Yêu thương là chu toàn lề luật” cũng có nghĩa là đem những câu những chữ trong lề luật, biến thành hành động cụ thể trong đời sống hàng ngày, mà không làm tổn thương đến tính cách, nhân phẩm của người anh em, chị em thân cận. Cũng có nghĩa là quyết tâm thực hành lề luật, không vì tình cảm cá nhân mà làm tổn thương đến cộng đoàn (Mt 18, 15-17), hoặc vì yêu thương theo cảm tính tự nhiên mà làm rối loạn trật tự, nề nếp đã có trong cộng đoàn. Bởi vì khi tuân giữ lề luật thì đã bộc lộ hành vi yêu thương, và khi yêu thương là đã chu toàn lề luật rồi vậy.
Đức Ki-tô đã nghiêm khắc lên án các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình (Mt 23, 12-32), không phải vì Ngài ghét họ, nhưng là vì những thói giả hình của họ đã làm cho người ta nhìn lề luật của Thiên Chúa cách méo mó, và việc tuân giữ lề luật là chất thêm gánh nặng cho họ (Mt 23, 4-5). Nhưng đồng thời Chúa Giê-su cũng đã nhẹ nhàng dạy bảo các môn đệ: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em (Mt 23, 11). Vì hơn ai hết, Chúa Giê-su đã hiểu rõ tính chất của yêu thương chính là phục vụ, cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống để làm giá chuộc muôn người (Mt 20, 28).
Phục vụ và hiến dâng, chính là yêu thương cách trọn hảo mà Chúa Giê-su đã giảng dạy và đã thực hành trong cuộc đời trần thế của Ngài. Và như thế, Chúa Giê-su đã chu toàn lề luật, vì Ngài đã yêu thương, và yêu thương đến cùng, cho đến nỗi bằng lòng chết trên thập giá (Pl 2, 8).
Chúa Giê-su đã chu toàn lề luật, vì Ngài đã yêu thương hết mình.
Là những môn đệ của Chúa Giê-su, những người tín hữu hôm nay đã cố gắng, đang cố gắng và sẽ cố gắng thực hành lời dạy của thánh Phao-lô tông đồ dạy: “Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người (Rm 12, 18), và khi đã thực hành được lời dạy đó, thì chính là chu toàn lề luật yêu thương của Chúa Giê-su rồi vậy.
Trước bữa ăn cuối cùng vào chiều thứ năm, trước khi đi chịu chết, Chúa Giê-su đã rửa chân cho TN 15-C116
Trước bữa ăn cuối cùng vào chiều thứ năm, trước khi đi chịu chết, Chúa Giê-su đã rửa chân cho các tông đồ, đây là hành vi phục vụ (Ga 13, 4-15), và chính Ngài đã nói với các tông đồ sau khi đã rửa chân cho các ông: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau …” (Ga 13, 14). Ngài đã trở nên người thầy và người anh em của mọi người để yêu thương và phục vụ họ, để chia sẻ những vui buồn, sung sướng và đau khổ của kiếp người với họ. Và cuối cùng trong thân phận con người, Ngài đã trở nên vị cứu tinh nhân loại khi bị treo trên thập giá, như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3, 15).
Thánh Phao-lô đã làm người phục vụ Đức Kitô giữa các dân ngoại (Rm 15, 16), và Ngài đã hãnh diện nói: “Vậy, trong Đức Kitô Giê-su, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa ” (Rm 15, 17).
Thánh Damien De Veuster linh mục thuộc dòng Thánh Tâm Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a (người Bỉ) sau mười năm phục vụ người cùi ở hòn đảo Molokai thuộc quần đảo Hạ Uy Di đã lây bệnh cùi, và ngài đã chết trong sự tiếc thương của họ. Ngài đã yêu thương và đã phục vụ cho đến chết, chết trên mảnh đất bất hạnh, để trở thành niềm hạnh phúc cho những người cùi bất hạnh trên hòn đảo nầy.
Linh mục Vincent Lebbe (người Bỉ) đã vì người Trung Quốc mà phục vụ, và phục vụ cho đến chết, câu nói nổi tiếng của ngài đáng để cho chúng ta suy tư khi làm công tác truyền giáo, và phục vụ người anh em đồng loại: “Không nên nhìn mũi của tôi, không nên nhìn mắt của tôi, nên nhìn thấu lòng thành của tôi, tôi là một người Trung quốc chính hiệu” . Câu nói này đã thể hiện được tâm hồn của ngài –tâm hồn truyền giáo- đã dành trọn cuộc đời phục vụ cho người Trung quốc và Giáo hội Trung quốc.
Mẹ thánh Têrêxa Calcutta (người Anbani) đã nhìn thấy “người thân cận” của mình chính là những người dân nghèo khó, bất hạnh của Ấn Độ, hay nói cách khác, mẹ đã nhìn thấy Chúa Giê-su trong những người nghèo khổ ấy, nơi mà sự phân biệt giai cấp được hợp thức hoá bằng những đẳng cấp xã hội cũng như tôn giáo, đã làm cho những người thuộc đẳng cấp nghèo, càng nghèo nàn càng khổ sở hơn. Và mẹ đã phục vụ những con người bất hạnh ấy cho đên hơi thở cuối cùng.
Phục vụ là yêu thương, là quên đi cái tư tưởng bố thí khi giúp đỡ anh chị em, nhưng luôn tự nhận mình như là người thân cận của người anh chị em mà mình đang phục vụ. Đó chính là tâm tình của người môn đệ Đức Ki-tô vậy.
Không một thánh nhân nào mà không có “thành tích” khi còn sống, mà thành tích nổi bật nhất của các ngài chính là phục vụ tha nhân. Động cơ phục vụ nơi các ngài chính là yêu thương, vì các ngài đã nhìn thấy được hình ảnh của Đức Kitô đang đau khổ nơi người anh em, các ngài đã quên đi thân phận của mình. Để phục vụ Đức Ki-tô nơi người thân cận của mình.
- Phục vụ mà không yêu thương, thì như quan hệ giữa đầy tớ và chủ nhân ông, giữa họ có một bức tường giai cấp chủ-tớ ngăn cách, và mục đích của họ chính là vì quyền lợi cá nhân.
- Yêu thương mà không muốn phục vụ thì chỉ là lừa dối Thánh Thần, bởi vì, chúng ta đừng yêu thương bằng đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm (1 Ga 3, 18), bởi vì hoa quả của yêu thương chính là phục vụ, mà phục vụ người thân cận trong khiêm tốn chính là ân sủng của Thánh Thần ban tặng, đó cũng chính là dấu hiệu để người ta nhận ra mình là người môn đệ đích thực của Đức Kitô (Ga 13, 35).
Có những người khi phục vụ chỉ mong được một tiếng khen của mọi người. Và họ đã được mọi người trả công bằng những tiếng khen.
Có những người phục vụ anh em chỉ vì lòng thương hại, và họ đã được thoả mãn khi người ta cám ơn mình.
Có những người khi phục vụ thì với cung cách của một chủ nhân, và họ đã được người ta kính nể, sợ sệt khi thưa bẩm.
Nhưng cũng có những người phục vụ, không vì tiếng khen, không vì thương hại, không vì để được mọi người kính nể, nhưng vì họ có tấm lòng nhân hậu, yêu thương của Đức Ki-tô. Họ nhìn thấy Đức Ki-tô đang đau khổ trong người anh em đau khổ, họ nhìn thấy Đức Ki-tô hạnh phúc nơi người anh em hạnh phúc của mình, họ đã phục vụ người anh em như phục vụ Đức Ki-tô vậy, và họ đã được tình thương của mọi người, họ đã trở nên người thân cận của “người thân cận”. Bởi vì khi phục vụ như thế, thì chính họ đã trở thành một thành viên trong gia đình của Chúa Giê-su, vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi (Mt 12, 50).
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Năm 1983, để cứu sống một người 36 tuổi ở Liên Xô, Bác sĩ Sumadrúp đã nhận một quả thận TN 15-C117
Năm 1983, để cứu sống một người 36 tuổi ở Liên Xô, Bác sĩ Sumadrúp đã nhận một quả thận của một em bé gái từ bệnh viện Hoa Kỳ do Bác sĩ Montona gửi tới. Nhưng phải nhờ bao nhiêu công việc của máy điện toán các nước Balan, Đức, Pháp, Anh, Ý, của hàng ngàn bác sĩ làm việc mới tìm được quả thận của em bé gái tử thương vì tai nạn xe hơi đã hiến cho bệnh viện để cứu sống ai cần. Quả thận chỉ sống được 72 giờ, làm sao từ Hoa Kỳ đến Liên Xô? Mọi luật lệ về kiểm soát an ninh, mọi thủ tục giấy tờ quá cảnh đều được các chính phủ bãi miễn để khẩn cấp đưa quả thận đến kịp cứu chữa một người. Mọi ranh giới chủng tộc, giai cấp và chế độ hận thù cũng dứt bỏ trước sinh mạng của một người.
Luật đạo, luật đời đều có mục đích bảo toàn sự sống con người, sự sống thật quý giá, không có ngọc ngà châu báo nào đổi được. Nhà hiền triết Dương Chu sống đồng thời với Lão Tử đã quả quyết: Dù mất một sợi lông chân được lợi cả thiên hạ, cũng không làm: “bạt nhất mao nhi lợi thiên hạ, bất vi”. Đức Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Được lời lãi cả thế gian, mất mạng sống mình nào được ích gì”. Cho nên không lạ gì, người ta đều mơ ước được sống trường thọ, chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu, vẫn chưa đủ, dân tộc nào cũng cho mình phát sinh từ nguồn gốc thần linh bất tử với những chuyện thần tiên hạnh phúc muôn thuở.
Dân tộc Việt Nam tự hào mình là con rồng cháu tiên, với những truyện Từ Thức lên tiên, Lưu Nguyễn lạc vào động thiên thai. Người Tàu cho mình là con cháu ông Bành Tổ vĩ đại, người Nhật nhận thần mặt trời là tổ tông. Người Ấn là con cháu của ba thần chí linh Braluna, Vishnu và Shiva, Người Hy Lạp là con cháu thần Zeus và Apôllô: Thần mỹ thuật, âm nhạc, ánh sáng, trai trẻ và cường tráng. Đế quốc La Mã thờ thần Jupiter dũng mãnh tối cao.
Những khát vọng chung của các dân tộc và của mỗi người không phải là ảo tưởng, hay huyền thoại, nhưng nó là một thứ gen nào đó, một thứ tâm thức sâu thẳm trong vô thức. Nói theo kiểu nhà Phật, đó là những chủng tử nằm sâu trong tạng thức như một thứ bào thai để sinh ra một đời sống mới. Chính những ước vọng đó đã hướng tới sự phục sinh mà Đức Giêsu là đầu, là trưởng tử đã sống lại từ cõi chết để ban cho các tiểu tử, các chi thể của Người được sống đời đời.
Người luật sĩ hỏi Đức Giêsu: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời”. Câu hỏi bộc lộ một tâm trạng băn khoăn lo lắng, một thao thức thắc mắc muôn đời, chưa có ai giải quyết nổi, chưa có ai mở đường dẫn lối chính xác, trừ một mình Đấng từ trời xuống nói cho người dưới đất biết những sự trên trời và chỉ đường về trời để được sống đời đời.
Theo Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chỉ cho ta con đường rất cụ thể tới sự sống đời đời, đó là con đường người Samari đã đi.
Đức Giêsu kể lại một câu truyện có lẽ xảy ra thường xuyên trên con đường từ Giêrusalem xuống Giêricô, dài chừng hơn hai mươi cây số, len lỏi qua rừng núi: Một người từ Giêrusalem đến Giêricô, có lẽ đi lễ về hoặc lo công việc làm ăn, chắc chắn có một số tiền của, nên bọn cướp để ý theo dõi. Chúng đã tàn nhẫn đánh người ấy đến nửa sống nửa chết giữa rừng. Tình cờ, có ba du khách đi qua, người thứ nhất là tư tế thấy vậy lách qua bên kia mà đi, người thứ hai là thầy trợ tế cũng thế. Người thứ ba là người Samari thấy cảnh tượng kẻ lâm nạn đang oằn oại đau đớn. Ông động lòng trắc ẩn, tiến lại gần dù biết kẻ lâm nạn là người Do Thái. Do Thái và Samari rất khinh bỉ nhau, họ không hề tiếp xúc với nhau. Nhưng lạ thay, trước cảnh nguy tử, mọi ranh giới chủng tộc, mọi luật lệ cấm cách, mọi kỳ thị truyền thống, đều chấm dứt, người Samari đã khẩn cấp cứu chữa kẻ thù. Ông đã coi kẻ thù là anh em của mình. Ông chỉ biết yêu thương và hết mình cứu sống. Ông đổ dầu, đổ rượu xoa bóp, băng bó những vết thương bầm tím rỉ máu. Dầu và rượu là phương thuốc kỳ diệu thời đó. Nhưng mới chữa tạm thời thôi. Ông cần phải đỡ người ấy đặt lên lưng lừa của mình, còn ông đi bộ dắt lừa, nhường yên lừa cho kẻ xấu số. Đến quán trọ, ông đã cõng bệnh nhân vào, trao tiền, xin chủ quán tìm thầy chạy thuốc cứu nạn nhân cho khỏi. Khi trở về ông trả mọi tốn kém khác nữa. Qua đoạn Tin Mừng này, chắc chắn Đức Giêsu muốn dạy chúng ta mấy bài học sống bác ái sau đây:
Bài học thứ I: Ai là thân cận, anh em với người rơi vào tay kẻ cướp? Thưa, không phải chỉ là đồng bào, đồng đạo như luật Do Thái dạy, không phải chỉ là ruột thịt, họ hàng, thân thuộc như chư dân đang sống. Nhưng là tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc, tiếng nói, giai cấp, tôn giáo, đảng phải, vì tất cả đều là con một Cha trên trời, Đấng đã dựng nên, cứu độ họ. Chừng nào nhân loại học được bài học bác ái này, chừng đó sẽ không còn kỳ thị, chia rẽ, hận thù, khủng bố, chiến tranh tàn sát. Lúc đó, thế giới này mới là thiên đường cho mọi người.
Bài học thứ II: Tôi đồng hành với ai trên con đường này?
Tôi không thể đồng hành với bọn cướp, vì đam mê tiền của đã làm chúng thành kẻ cướp của, giết người. Tôi cũng không thể đồng hành với tư tế, trợ tế, vì quen giết chiên bò để tế thần đã làm cho họ ra kiêu ngạo, chai đá, tàn nhẫn, lãnh đạm với đau khổ của đồng bào.
Tôi sẵn sàng đồng hành với kẻ lâm nạn đau khổ, nửa sống, nửa chết, vững tin vào Đấng cứu độ như người Samari nhân hậu, giầu lòng thương xót, sẽ đến cứu chữa ta, đưa ta về nhà tình thương Thiên Chúa.
Nhất là tôi phải luôn luôn đồng hành với người Samari nhân hậu có tấm lòng vàng cao thượng, cảm thông, cảm thương cứu chữa kẻ đau khổ, nghèo hèn, cô thế cô thân bị bỏ rơi trong xã hội.
Bài học thứ III: Con đường thiêng liêng đích thực là mến Chúa yêu người luôn đi song song với nhau: Thường xuyên lên Giêrusalem cầu nguyện, lắng nghe lời Chúa, thấm nhuần tình yêu hy sinh của Chúa để trên đường về Giêricô, nơi đầy đau khổ, trộm cướp, chai đá, gặp gỡ họ an ủi, băng bó những vết thương, cải hóa những tật nguyền của họ, đưa họ vào nhà trọ tình thương của Chúa để chăm sóc, cứu chữa. “Anh hãy về và làm như vậy, thì được sống đời đời”. Đó là lời Chúa.
Chỉ có loài vật mới nhẫn tâm ngoảnh mặt lại trước nỗi đau của đồng loại để chăm chút cho bộ TN 15-C118
“Chỉ có loài vật mới nhẫn tâm ngoảnh mặt lại trước nỗi đau của đồng loại để chăm chút cho bộ lông mượt mà của nó, còn con người thì không”. Đây là lời phát biểu của ông Karl Marx, một triết gia vô thần. Tuy ông ta không tin vào Thiên Chúa, nhưng tự trong thâm tâm, ông vẫn tin vào sức mạnh của tình yêu, là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người. Còn chúng ta thì sao? Là những người Công giáo, chúng ta tin vào Thiên Chúa, đấng có tên gọi là ‘Tình yêu’, nhưng chúng ta đã thực hành luật yêu thương cụ thể như thế nào? Qua dụ ngôn bài Tin mừng hôm nay, Chúa cảnh báo tất cả, từ các linh mục, tu sĩ đến giáo dân, để lay động lương tâm từng người. Người Samaritanô vốn chỉ là người ngoại đạo mà dân Do thái vẫn coi như thù địch, nhưng đã trở thành chuẩn mẫu để Chúa Giêsu đưa ra như một tấm gương soi. Sau khi thuật lại câu chuyện về người Samaritanô nhân hậu, Chúa nói với người thông luật đến hỏi Ngài, cũng như nói với chúng ta hôm nay: “Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy (c.37).
Một câu chuyện mang tính thời sự.
Ngày hôm nay, nếu Đức Giêsu đứng giữa chúng ta và cũng thuật lại giai thoại trên, Ngài sẽ đem ai ra để làm hình mẫu, bạn hay tôi, linh mục này hay tu sĩ nọ? hay Chúa lại tiếp tục đưa một người ngoại giáo nào đó ra để mời chúng ta bắt chước? Đức Cha Bùi Tuần khi đọc bài Tin mừng trên đã viết lại những dòng chia sẻ sau. “Cứ mỗi lần suy gẫm về câu truyện này, tôi cảm thấy xấu hổ và có chút gì mỉa mai làm tôi ray rứt. Tôi tưởng rằng khi đưa ra một mẫu gương bác ái, Chúa sẽ bảo chúng ta hãy nhìn vào gương sáng nơi vị linh mục này hay tu sỹ nọ, nhưng không, Chúa chỉ đưa ra một người ngoại giáo làm mẫu mực. Càng suy nghĩ tôi càng cảm thấy hổ thẹn.”
Thầy tư tế chuyên lo việc đền thờ, nhưng đền thờ đích thực nơi con người, những thụ tạo được Chúa dựng nên giống hỉnh ảnh Ngài, thì ông ta lại không màng. Cũng vậy, các thầy Lêvi thường hay đeo bảng khắc lề luật ở trước ngực, nhưng luật của tình yêu thì ông lại nhẫn tâm dẫm đạp, để mặc người bị nạn nằm đó chờ chết. Còn người Samaritanô ngoại giáo thì khác. Anh ta không biết chút gì về lề luật trên lý thuyết, nhưng trong thực hành, ông lại quá tuyệt vời.
Sự ích kỷ và vô tâm nơi mỗi người, thường xuất phát từ thái độ tự mãn mà chúng ta vẫn hay có. Trong Tin mừng Matthêu chương 18, Chúa nặng lời chỉ trích thái độ trịch thượng, khoe khoang của những người biệt phái và ký lục giả hình. Họ là những con người bề ngoài xem ra rất đạo đức nhưng trong lòng thì rống tuếch, chẳng khác gì mồ mả sơn phết bên ngoài. Cũng thế, hai ‘đấng bậc’ mà Chúa nhắc đến hôm nay, Thầy tư tế và Thầy Lêvi, đã hoàn toàn tỏ ra vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Họ vẫn tự cho mình là những người đạo đức, không dám sờ chạm đến xác chết vì sợ bị nhiễm uế. Nhưng sự vô cảm và ích kỷ lại chính là tình trạng nhiễm uế ghê tởm nhất từ chính bên trong tâm hồn của họ. Chúng ta cũng dễ rơi vào tình trạng giống vậy. Ông Wilberforce, một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại để cầu nguyện thì rất tốt, nhưng biết mở tay ra để đến với anh em, nhất là những con người cùng khổ, thì vẫn tốt hơn.”
Cho thì có phúc hơn là nhận.
Đây là điều Chúa đã nói với Phaolô năm xưa, cũng như nói với chúng ta ngày hôm nay. Gương mẫu của người Samaritanô rất cụ thể và sống động, bởi vì ông ta đã biết cho đi. Nhưng trên hết, chúng ta hãy nhìn vào chính nguyên mẫu nơi Chúa Giêsu. Ngài đã cho đi tất cả, ngay cả mạng sống. Ngài không còn giữ lại chút gì cho mình. Triết gia vô thần Jean Paul Satre đã từng tuyên bố: “Tha nhân là hỏa ngục”. Ngược lại, Chúa Giêsu lại mạnh mẽ khẳng quyết: “Ai làm những điều tốt cho tha nhân là làm cho chính Ngài” (x. Mt 25). Trên Thập giá, Chúa bị mọi người hắt hủi và mỉa mai, từ những kẻ qua đường đến lính gác và đám đông. Những con người này đã hoàn toàn vô cảm trước nỗi thống khổ của Chúa. Chỉ duy nhất một mình ông Thánh ăn trộm đã tỏ lòng thương cảm đối với Ngài: “Còn ông này, ông có làm gì nên tội…” Từ trái tim biết rung lên giai điệu yêu thương ấy, tên trộm đã được biến đổi và trở nên một vị thánh lớn.
Kết luận
Tác giả Lý Thanh Thảo có viết một câu chuyện rất ngắn.
Trên một chiếc xe hơi đời mới, một bà mẹ trẻ đang dỗ đứa con.
- Ăn thêm một cái nữa đi con, mẹ thương. - Ngán quá, con không ăn đâu, đứa bé phụng phịu. - Ráng ăn một cái nữa, ngoan nào. - Con nói không ăn mà, vứt đi, vứt nó đi.
Thằng bé lắc đầu quầy quậy, lấy tay gạt mạnh. Chiếc bánh kem văng ra khỏi cửa xe rơi xuống đường sát mép cống. Chiếc xe hơi láng bóng rồ máy chạy nhanh.
Hai đứa trẻ lem luốc đang móc rác gần đó, thấy chiếc bánh nằm chỏng trơ vội xô đến nhặt. Mắt chúng sáng rực dán chặt vào chiếc bánh thơm ngon. Thấy cái bánh lấm láp, đứa em gái nuốt nước miếng bảo thằng anh trai:
- Anh Hai thổi sạch rồi mình ăn.
Thằng anh phùng má thổi. Bụi đời đã dính chặt chẳng chịu đi cho. Đứa em cũng sốt ruột ghé miệng thổi tiếp. Cái miệng háu đói của chúng làm cái bánh rơi tõm xuống cống hôi hám.
- Ai bảo anh Hai thổi mạnh làm chi. Con bé nói rồi khóc thút thít.
- Ừ, thì tại anh. Nhưng kem còn dính tay anh đây này. Cho em 3 ngón, anh chỉ liếm 2 ngón thôi.
Những đứa trẻ đường phố tuy nghèo, nhưng rất thơ ngây và đầy ắp tình người. Chúng biết nhường nhịn và đùm bọc lẫn nhau.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có sống quảng đại với nhau hay chỉ sống ích kỷ và hẹp hòi giống như thầy Lêvi hoặc Thầy tư tế mà Chúa nói tới hôm nay.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giêsu kể dụ ngôn người Samari từ thiện. Dụ ngôn trên đây TN 15-C119
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Đức Giêsu kể dụ ngôn người Samari từ thiện. Dụ ngôn trên đây trả lời cụ thể rõ rệt cho câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”
Theo quan niệm người Do thái, thì: “Thân cận” là người có quan hệ tự nhiên gần gũi với mình như: cùng dân tộc, cùng gia đình, cùng thành phần giai cấp… còn đối với Chúa Giêsu, thì thân cận là người hiện lúc này đang cần đến tình yêu thương và sự giúp đỡ của ta. Nạn nhân bị quân cướp trấn lột, là người Do thái. Thấy anh nằm vệ đường, người Samari có thể bảo mình: đây là người ngoại quốc, tôi không biết hay đây là một kẻ thù, không đáng giúp đỡ. Nhưng ngược lại, người Samari đã động lòng thương xót, tiến lại gần, không phải để hỏi han qua loa, nhưng người ấy lại nhận lấy trách nhiệm giúp đỡ nạn nhân cho đến khi họ không cần thiết nữa.
Khi nói đến dụ ngôn này, Chúa Giêsu không phủ nhận mối liên hệ tự nhiên những người cùng gia đình, cùng dân tộc, cùng tôn giáo chặt chẽ hơn với người ngoài… Cứ lý ra, ông trưởng tế và thày phó tế kia phải là người thân cận thương giúp nạn nhân trước, vì các ông là đồng hương, đồng đạo với người Do thái này, nhưng người Samari ngoại bang đã đóng vai trò người thân cận, bởi vì thày trưởng tế và thày tư tế đã trốn trách nhiệm của mình. Như vậy, cứ lẽ thường thì “Thân cận” trước hết là những người có liên hệ tự nhiên chặt chẽ với nhau hơn, như cha mẹ với con cái, vợ chồng, an em bè bạn với nhau. Do đó, ta có bổn phận thương giúp nhau trước. Nhưng Đức ái không cho phép ta đặt một hàng rào ngăn cách hay bất cứ môt kỳ thị nào, dù là kỳ thị chủng tộc, tôn giáo hay giai cấp… Tất cả mọi kỳ thị đều không hợp Đức bác ái. Vì vậy, bất cứ ai cũng có thể là người thân cận ta, khi Chúa đặt ta trước sự hoạn nạn của họ và cho ta có điều kiện thương giúp họ.
Là người Kitô hữu, chúng ta mắc một món nợ, tức là nợ yêu thương đối với bất kỳ ai đang cần được giúp đỡ. Có người ở ngay sát nhà ta, nhưng họ không cần ta giúp đỡ, nên chưa phải là người thân cận ta, nhưng nếu người xa lạ gặp ta và cần sự giúp đỡ mà ta có khả năng đem lại cho họ, thì khi đó họ trở nên người thân cận của ta. Người đó cần tình yêu thương của ta. Tình yêu thương ấy ta phải thi hành đúng lúc, hữu hiệu và vô vị lợi.
- Đúng lúc, nghĩa là phải thi hành nhanh chóng kịp thời, tuỳ theo nhu cầu đòi hỏi không được chậm trễ. – Hữu hiệu, nghĩa là việc giúp đỡ phải đem lại kết quả thiết thực, không phải chỉ hình thức qua loa. – Vô vị lợi, nghĩa là giúp đỡ tận tình, không mang ích lợi riêng mình, không tính toán hơn thiệt, không nghĩ rằng: mình giúp đỡ như vậy để họ biết ơn và để trả mình. Sự giúp đỡ phải phát xuất từ tình yêu thương phổ quát, ôm ấp hết mọi người, không phân biệt chủng tộc, thành phần giai cấp, không xét là bạn hay thù. Người xứ Samari trong bài Phúc Âm hôm nay đã làm gương cho ta về những điểm đó. Người ấy đã thương giúp nạn nhân đúng lúc cần thiết, cần băng bó vết thương, cần cơm ăn nước uống, cần nơi nằm nghỉ… Nếu để chậm trễ, nạn nhân có thể chết được. Người Samari cũng thi hành sự giúp đỡ cách hữu hiệu, nghĩa là sự giúp đỡ cách đến nơi đến chốn, cho tới khi nạn nhân lành bệnh hoàn toàn. Người Samari còn giúp đỡ một cách vô vị lợi, không mong nạn nhân sẽ biết ơn và đền trả cho mình.
Đấy, tình yêu thương Chúa truyền dạy ta là như vậy. Do đó, mỗi khi gặp trường hợp cần giúp đỡ thì ta phải thi hành tuỳ khả năng, nếu không, ta sẽ mắc nợ “yêu thương” mà Chúa đòi ta phải đền trả.
Trong thực tế, có nhiều người cần ta giúp đỡ về phương tiện vật chất như miếng cơm manh áo, bát gạo đồng tiền, một buổi cấy gặt, một công làm nhà. Người khác cần ta giúp đỡ về mặt tinh thần, thí dụ: một lời an ủi động viên, một cuộc thăm viếng hỏi han, một sự hoà giải khôn ngoan, giúp họ thêm nghị lực để vượt qua những khó khăn thử thách, nếu không họ sẽ ngã lòng tuyệt vọng. Sau cùng, có rất nhiều người đang cần ta giúp đỡ phần linh hồn: họ như nạn nhân trong dụ ngôn, bị ma quỷ trấn lột mất mọi của thiêng liêng, đánh cho bị thương trầm trọng, bỏ nằm bên miệng hoả ngục. Họ đang cần ta giúp đỡ bằng cầu nguyện, bằng hy sinh, bằng lời khuyên bảo giáo dục, bằng mọi cách mà ta có thể làm được.
Thánh Phao-lô nhắc nhủ chúng ta rằng: “Anh em không mắc nợ nhau điều gì ngoài món nợ yêu thương, vì ai thương yêu, người đó giữ trọn lề luật”. Thực tế, tình yêu là nền tảng, là động cơ cho mọi sinh hoạt của con người. Nhân loại ngày nay, đầy dẫy nhưng chênh lệch bất công, những tội ác, kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra. Chỉ vì thiếu yếu tố tình yêu chân chính trong mối quan hệ giữa con người với con người. Ngày nào mà mọi người yêu thương nhau như Chúa yêu thương, thì bộ mặt thế giới sẽ biến đổi một cách kỳ diệu, vũ khí sẽ biến thành cày bừa, bom đạn biến thành dụng cụ sản xuất, người ta sẽ nhường cơm sẻ áo cho nhau, số người đói rách túng thiếu sẽ giảm đi, cảnh thái bình ấm no sẽ xuất hiện, dọn đường cho cảnh “ Trời Mới – Đất Mới” mà Chúa Kitô sẽ thực hiện ngày chung cùng của lịch sử.
Giờ đây, mỗi người chúng ta phải hỏi mình rằng: Ai là người thân cận của tôi? – Nói cách khác: Ai là người cần tôi giúp đỡ trong lúc này?
- Có khi là cha mẹ tôi già nua, yếu đau, túng thiếu mà tôi không chăm sóc? Biết đâu người thân cận lại là mẹ chồng, con dâu bất thuận đang cần giao hoà với nhau? Có khi là một bệnh nhân trong thôn xóm đang cần thuốc men thăm viếng? Có khi là một người khô khan tội lỗi trong gia đình, trong xứ họ, đang cần lời cầu nguyện khuyên bảo của ta để ăn năn thống hối.
Sau khi đã suy nghĩ và nhận ra người thân cận rồi, chúng ta tích cực hành động, theo gương người Samari nhân hậu mà Chúa nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay.
Người Rôma xưa có câu “Homo homini lupus” nghĩa là “Con người đối xử với nhau chẳng khác TN 15-C120
Người Rôma xưa có câu “Homo homini lupus” nghĩa là “Con người đối xử với nhau chẳng khác gì chó sói”. Thoạt nghe câu nói trên, nó làm cho chúng ta có cảm tưởng lời nói đó quá khắt khe. Nhưng, quả thật, nhìn vào thực tế của xã hội hôm nay, chúng ta không khỏi giật mình vì cách đối nhân xử thế của con người. Chúng ta không khỏi bàng hoàng về phẩm hạnh của con người ngày một xấu đi.
Thật vậy, theo dõi trên truyền thông đại chúng, có thể nói, không ngày nào mà không có một án mạng xảy ra. Gần đây nhất, ngày 8/7/2013, là chuyện một người cháu trai “đi chơi về thấy cửa khoá nên leo cổng theo lan can lầu một vào trong và bị ông ngoại mắng. Tức giận, Tú (tên người cháu trai) đạp vào ngực và vật lộn với ông. Do khoẻ hơn nên đứa cháu bất nhân thắng thế, lấy máy nghe nhạc gần đó đập vào đầu rồi bóp cổ ông ngoại đến tắt thở”. (nguồn: vnexpress)
Xa hơn nữa là chuyện vợ giết chồng, mẹ giết con, rồi đến chuyện “mạng chó đổi mạng người” mà khi nghe đến, chúng ta không khỏi ngao ngán và tự hỏi: giữa con người với con người… “tình người” nay còn đâu?
***
“Tình người” hay nói đúng hơn “Tình yêu thương”… Vâng, đó là một trong những giáo lý căn bản mà một người Kitô hữu phải biết đến và thực thi. Trong Mười Điều Răn Đức Chúa Trời, chúng ta được truyền dạy rằng, “Mười điều răn ấy tóm về hai này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
“Mến Chúa”… vâng, thật dễ dàng. Còn “Yêu người” quả là không dễ chút nào. Thế nhưng, nếu chúng ta chỉ Mến-Chúa mà không Yêu-người, như thế, chúng ta chưa làm trọn lệnh truyền của Chúa, chúng ta chỉ mới giữ một nửa điều răn của Chúa.
Kinh thánh đã dạy chúng ta rằng, “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Nói tới “yêu thương người”… Tạ ơn Chúa vì Người đã để lại cho chúng ta một bài học sâu sắc về “tình người” qua dụ ngôn “Người Samaria tốt lành”.
***
Câu chuyện “Người Samaria tốt lành” được chép trong Tin Mừng Luca (10, 25-37). Thật ra, nếu được phép, vâng, chúng ta có thể nói rằng, đây là một câu chuyện “2 trong 1”. Gọi như thế là bởi câu chuyện “Người Samaria tốt lành” là câu trả lời cho câu chuyện trước đó.
Câu chuyện trước đó được kể lại rằng, Có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp’” (Lc 10, 25).
Đây không phải là lần đầu tiên có người tìm đến Đức Giêsu để hỏi Ngài một câu hỏi với nội dung như thế. Trước đây, cũng đã có một chàng thanh niên giàu có đến với Đức Giêsu cũng với nhã ý nêu trên.
Với chàng thanh niên giàu có, Đức Giêsu đã đưa ra những lời khuyên anh ta, để nhờ đó, anh ta có thể đón nhận được điều anh ta muốn có. Ngược lại, với người thông luật, thay cho lời khuyên, Ngài đã đưa ra một câu hỏi, một câu hỏi ngầm ý như một lời trách cứ, rằng “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”
Vâng, làm sao không trách cứ anh chàng thông luật này cho được. Người thông luật, chính là thầy thông giáo, thầy thông giáo chính là người am hiểu, rành rẽ luật Môse, luật Môse được ghi trong ngũ thư là những cuốn sách nói rất rõ về Mười Điều Răn, về lề luật, về lễ nghi thờ phượng Đức Chúa Trời.
Nói cách khác, là thầy thông luật, ông ta dư biết “đáp án” cho câu hỏi của ông ta. Thật vậy, sau khi nghe câu hỏi của Đức Giêsu, vị thông luật đã trả lời “ngọt sớt” rằng “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”.
Qua cách trả lời của ông ta như thể chính ông ta là người ra câu hỏi.
Thế nhưng, điều đáng trách hơn nữa, ông thầy thông luật này đã thâm hiểm khi biến câu trả lời của mình thành câu hỏi, một câu hỏi hóc búa, trước là để thử Đức Giêsu, sau là để chứng tỏ mình-có-lý.
“Nhưng ai là người thân cận của tôi?” Ai! “Ai là người thân cận của tôi?”
Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức Giêsu, một lần nữa, đã dùng một dụ ngôn, một dụ ngôn cho đến ngày nay, giới luật pháp quốc tế đã biến nó thành một đạo luật mang tên “luật người Samari nhân hậu”.
Lm. Jude Siciliano, OP. mở đầu bài giảng về chủ đề “người Samari nhân hậu” cho biết “Trong thế giới luật pháp có ‘luật người Samari nhân hậu’, luật này yêu cầu bảo vệ hợp pháp với những ai giúp đỡ chính đáng cho người khác khi người đó bị thương tích, đau yếu hoặc trong những tình cảnh hiểm nghèo. Luật người Samari nhân hậu này nhằm khuyến khích người khác trợ giúp những ai lâm cảnh hoạn nạn”.
Thì đây, câu trả lời của Đức Giêsu cho vị thông luật, qua dụ ngôn “người Samari nhân hậu” đã mô tả rõ nét “Ai là người thân cận của tôi”.
Ba nhân vật được đề cập trong dụ ngôn, lần lượt là thầy tư tế, rồi đến một thầy Lêvi, cuối cùng là một người Samari. Cả ba, kẻ trước người sau, đều đi trên một lộ trình, lộ trình từ “Giêrusalem xuống Giêricô” (x.Lc 10, 30).
Cả ba đều nhìn thấy cảnh bi đát của một người lữ khách. Anh ta “bị rơi vào tay kẻ cướp… bị lột sạch… bị đánh nhừ tử…” và bị quẳng ra nằm rên rỉ giữa ngã ba đường làng.
Không thể tin được! Dù trông thấy người lữ khách đang nằm “nửa sống nửa chết”… Nhưng cả thầy tư tế lẫn thầy Lêvi đều “tránh qua bên kia mà đi”.
Người Samari. Vâng, người Samari “cũng thấy và chạnh lòng thương”. Sự chạnh lòng thương của anh chàng Samari không dừng ở đôi mắt, không dừng ở tấm lòng, nó được lan tỏa tới đôi chân và đôi tay.
Chuyện kể rằng “Ông ta lại gần”. Lại gần làm gì? Để xem trên con người bất hạnh này còn thứ gì quý giá “hốt hụi chót” chăng! Thưa không. “Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc” (Lc 10, 34)
Viết tới đây, tôi chợt nhớ lại, cách đây khá lâu, ngay tại Saigon (dường như ở bùng binh ngã sáu Chợ Lớn thì phải), có một người bị cướp, bọn cướp giật túi tiền của anh ta, anh ta giật lại được, nhưng xui xẻo thay! túi tiền đó bị rách do sự giằng co giữa anh ta và kẻ cướp, tiền văng tung tóe trên đường.
Lúc đó nhằm giờ tan sở, rất nhiều người dừng xe lại lượm tiền rơi vãi, thế nhưng, thay vì gom lại trả cho khổ chủ, tệ thật! những kẻ dừng lại lượm tiền coi đó như là “của trời cho” họ, họ ung dung đút tiền vào túi và lên xe “Dzọt”…
Hay như câu chuyện một ông bác sĩ lái xe gây ra tai nạn hàng loạt trên đoạn ngã tư đường Lý Thái Tổ - Sư Vạn Hạnh. Trong khi rất nhiều nạn nhân đang oằn oại rên siết vì chấn thương, thay vì nhanh chóng đưa nạn nhân đi cấp cứu, nhiều người giở trò lưu manh lục soát ví tiền, cốp xe nạn nhân, cướp tiền cướp tư trang của họ.
Thật buồn thay! “tình người” trong thời buổi “xã nghĩa” là như vậy đó!
Trở lại câu chuyện dụ ngôn. Câu trả lời đã rõ.
“Ai là người thân cận của tôi?”. Đối với thầy thông luật cũng như toàn thể người Do Thái, họ quan niệm rằng “người thân cận” chính là người-đồng-đạo, đồng hương và đồng chủng tộc.
Với Đức Giêsu, qua dụ ngôn, Ngài không chỉ gửi đến thầy thông luật một “đáp án” mà còn để lại nơi ông ta một quan niệm mới về “tình người”.
“Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” Thầy thông luật với một nhãn giới mới về “tình yêu thương” ông ta đã không ngần ngại trả lời rằng “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”.
****
Câu chuyện “người Samari nhân hậu”, qua lăng kính thần học, Lm. Charles E. Miller đã chia sẻ rằng, “Tội lỗi ‘mai phục’ trên đường đi của nhân loại, chực tước đoạt nhân phẩm của chúng ta, trấn lột chúng ta và cướp đi ân điển của Thiên Chúa. Tội đánh đập ta nhừ tử, rồi bỏ mặc ta dở sống dở chết. Chúa Giêsu đến nâng ta dậy, không phải để đặt lên lưng một con vật nào đó, mà là lên vai của Người và đưa ta về nhà Giáo Hội. Nơi đây, chúng ta được chăm sóc cho đến lúc Người lại đến trong vinh quang trong ngày chúng ta được sống lại”
Vâng, là một Kitô hữu, chúng ta chẳng khác gì người lữ khách đi trên con đường về Trời-Mới-Đất-Mới. Vẫn còn đó, những “bọn cướp” tìm đủ mọi cách để cướp đi cuộc-sống-đức-tin của chúng ta, bằng những chủ thuyết vô thần lừa lọc và dối trá, bằng những thú đam mê dục vọng, bằng tiền tài danh vọng, bằng một nền văn hóa sự chết.
Vì thế cho nên, đừng rời xa Giáo Hội, nơi mà “Nhờ máu (Chúa Giêsu) đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an” cho chúng ta, sự bình an đó giúp chúng ta có thể vững tin để trở nên “người Samari nhân lành”.
Một khi chúng ta trở nên “người Samria nhân lành”, dù ở một lãnh vực nào, ở một ơn gọi nào, chúng ta vẫn có thể nhận ra “ai là người thân cận của tôi” .
Nói cách khác, dù tôi là Giám Mục hay Linh Mục, là bác sĩ hay kỹ sư, là nông dân hay công nhân, là một người chồng hay người vợ, là sinh viên hay học sinh v.v… tôi vẫn có thể nhận ra “tôi là người thân cận của ai”.
Hôm nay chúng ta sẽ nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu. Qua hình ảnh người Samaria này TN 15-C121
Hôm nay chúng ta sẽ nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu. Qua hình ảnh người Samaria này, Chúa muốn chúng ta hãy quân tâm giúp đỡ chăm sóc người khác. Còn thầy tư tế và thầy lêvi thì xem ra chẳng làm gì nên tội, nhưng thực ra tội của họ chính là tội thiếu sót: họ đã không làm điều lẽ ra họ phải làm.
Trước khi cùng nhau dâng Thánh lễ, chúng ta hãy xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, những tội trong lời nói, việc làm và cả những tội thiếu sót.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta rất ít quan tâm đến người khác.
Nhiều việc lành chúng ta có thể làm nhưng chúng ta đã bỏ qua không làm.
Chúng ta thường thờ ơ dửng dưng trước những người nghèo khổ bệnh tật.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Đnl 30, 10-14)
Để khuyến khích dân Do Thái thực thi những lệnh truyền của Thiên Chúa, ông Môsê lưu ý họ rằng: Những lệnh truyền của Thiên Chúa không quá khó khăn cũng không vượt quá sức con người, nhưng có thể thực hiện được vì chúng không ở trên trời hay ở bên kia biển cả mà ở sát bên con người, nơi miệng con người và trong lòng con người.
2. Đáp ca (Tv 68)
Tv này là lời kêu xin của người đang gặp cảnh khổ, mong được Thiên Chúa cứu giúp.
Những lời này có thể áp dụng cho nạn nhân trong bài Tin Mừng bị kẻ cướp hành hạ đến nửa sống nửa chết và bỏ nằm trên đường.
3. Tin Mừng (Lc 10, 25-37)
1. "Ai là người thân cận của tôi?" Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng suy nghĩ của ông:
Ông muốn tìm một câu định nghĩa về "người thân cận". Người Do Thái thời đó hiểu "người thân cận" chỉ là những đồng bào Do Thái với mình.
Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.
2. Dụ ngôn người Samari phản ảnh chiều hướng suy nghĩ của Chúa Giêsu:
Định nghĩa về "người thân cận" không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)
Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm... ). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này một người là Do Thái một người là Samari.
Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (câu 36)
4. Bài đọc II (Cl 1, 15-20) (Chủ đề phụ)
Tín hữu Côlossê tuy đã tin vào Chúa Giêsu Kitô nhưng chưa an tâm, một mặt họ vẫn giữ lại những tập tục Do Thái giáo (như cắt bì, giữ luật ngày Sabát...), mặt khác họ tin thêm một số thần khác, làm thêm một số việc mê tín dị đoan. Họ nghĩ rằng như thế thì "chắc ăn" hơn.
Để bài trừ cách sống đạo "thập cẩm" này, thánh Phaolô đề cao vai trò tối thượng duy nhất của Chúa Giêsu:
Ngài là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình Ngài là trưởng tử mọi thọ tạo Mọi thọ tạo đều được tạo thành trong Ngài Ngài còn là đầu của Hội Thánh Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự viên mãn trong Ngài
Tóm lại, Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu độ duy nhất. Bởi vậy, muốn được cứu độ thì chỉ cần tin vào một mình Chúa Giêsu Kitô, không cần nhờ bất cứ tôn giáo hay thần thánh nào khác.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Các vai trong dụ ngôn
Thầy tư tế và thầy Lêvi là những người chỉ quan tâm đến bản thân mình: khi gặp một tình huống đặc biệt, họ nghĩ đến bản thân họ trước (không dừng lại chăm sóc người bị nạn vì sợ trễ giờ, vì sợ ô uế nếu đụng vào xác chết).
Người Samaria là người biết nghĩ đến người khác: khi gặp người bị nạn, anh chỉ biết tìm cách giúp đỡ nạn nhân, không ngại mất giờ, mất công và mất tiền.
Thầy tư tế và thầy lêvi chú ý giữ luật ghi trên sách vở (luật quy định về thanh sạch và ô uế); Người Samaria giữ luật trong tim (luật yêu thương)
Thầy tư tế và thấy lêvi không phạm tội nào về lời nói hay việc làm, nhưng phạm tội thiếu sót vì đã bỏ qua không làm điều mình phải làm.
* 2. Người chăm sóc
Người Samaria là một người chăm sóc
Loại người này rất hiếm thấy trong xã hội, vì trong xã hội ai nấy chỉ biết lo cho mình, ít ai để ý chăm sóc người khác, nhất là chăm sóc những người xa lạ không có quan hệ gì tới mình.
Nhưng loại người này rất hữu ích cho xã hội. Bằng những việc chăm sóc âm thầm, nhỏ bé, họ chính là muối và men làm cho xã hội bớt đau khổ, bớt xấu xa và thêm tốt đẹp.
Khi đề cao người Samaria, Chúa Giêsu muốn chúng ta cũng phải là những người chăm sóc. Con đường Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những người bất hạnh cần được chăm sóc. Mỗi người cũng được Chúa ban có nhiều khả năng chăm sóc: một lời an ủi động viên, một cử chỉ thân ái, một giúp đỡ thiết thực chính là chút rượu và chút dầu xoa dịu những thương đau cho người anh em mình đang gặp đau khổ. (FM)
* 3. Lòng tốt tự phát
Có nhiều người làm một việc tốt cách hết sức tự nhiên và dễ dàng. Đó là những người mà luật yêu thương đã ăn sâu vào con tim mình, đã trở thành máu thịt và hơi thở của mình.
Người Samaria trong dụ ngôn này là một người như thế: khi gặp một nạn nhân trên đường, anh không cần suy nghĩ gì cả mà tự nhiên xuống lừa, cúi xuống lấy dầu và rượu xoa dịu những vết thương của nạn nhân, rồi chở nạn nhân đến quán trọ, bỏ tiền ra nhờ chủ quán tiếp tục lo cho nạn nhân.
Khác hẳn với Thầy tư tế và thầy Lêvi: hai người này cũng thấy cảnh đó, nhưng đắn đo suy tính thiệt hơn. Và sau khi suy tính, họ chọn giải pháp "đi qua". Họ thuộc luật rất nhiều đấy, nhưng luật chưa ăn sâu vào tim và chưa trở thành máu thịt và hơi thở của họ.
Làm thế nào để có lòng tốt tự phát như người Samaria? Việc này không phải muốn là được, không phải chỉ cố gắng tập một lần mà có, mà là kết quả của việc thực thi những việc tốt nho nhỏ cách đều đặn và kiên trì. Một hành động tốt cao cả là thành quả của nhiều hành động tốt nho nhỏ đã quen làm trước đó. Phần thưởng đích thực của một hành động tốt là nó giúp ta có thể làm thêm những hành động tốt khác một cách dễ dàng hơn.
* 4. Yêu rồi làm (Lc 10, 25-37)
Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái làng chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo:
- Thầy không biết yêu sao?
Vị ẩn sĩ trả lời:
- Chưa đến giờ đó thôi?
Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố điều trị.
Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:
- Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng thương xót!
***
Người thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: "Ai là người thân cận của tôi?" Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samari tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lê vi "tránh qua bên kia mà đi", thì người Samari ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.
Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật: "Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?". Hỏi tức là trả lời. Và người thông luật đáp: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót". Chúa Giêsu bảo: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (Lc 10, 37).
Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và người Samari nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là "yêu bằng việc làm". Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là "miệng nói tay làm", làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: "Hãy đi và làm như vậy". Pascal đã nói: "Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương".
Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.
Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lê vi "tránh qua bên kia mà đi" là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.
Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi: "Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị đánh nhừ tử?". Trái lại, người Samari đã đảo ngược câu hỏi: "Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc người ấy?" Người Samari tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy nguy hiểm.
Yêu thương không phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân: Kahil Gibram có một câu nói chí tình: "Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi". Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.
Nỗi khát khao hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.
Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thục sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.
Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêsa Calcutta nói: "Ki tô hữu là người trao ban chính bản thân mình".
Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám đừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh em.
***
Lạy Chúa cuộc sống đạo của chúng con sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc.
Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ; chai đá, dửng dưng trước những khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen (Thiên Phúc )
5. Chuyện minh họa
a/ Lòng hiếu khách tự nhiên
Alaska là một vùng đất đẹp thu hút nhiều du khách, nhưng cũng là một vùng rộng lớn thưa dân.
Ngày kia, một du khách lái xe đi thăm các thắng cảnh thiên nhiên. Quá mãi mê ngắm cảnh, xe của ông lạc vào một vùng hoang vu. Rủi thay chính lúc đó xe ông bị hư. Sau một hồi lâu tìm kiếm, ông may mắn gặp được một nông trại và xin ông chủ nông trại ấy giúp sửa dùm chiếc xe. Người chủ nông trại nhanh nhẹn lấy đồ nghề ra. Nửa giờ sau xe chạy được. Người du khách móc ví tiền ra, hỏi:
- Tôi phải trả công cho ông bao nhiêu? - Thôi, khỏi phải trả chi cả. - Nhưng tôi thấy có bổn phận trả lại cho ông điều ông đã làm cho tôi. - Thì ông đã trả rồi đó. - Xin lỗi, tôi chưa hiểu ông muốn nói gì? - Ở nơi hoang vu này, tôi rất cô đơn nên cần có bạn. Ông đã cho tôi có dịp làm bạn với ông suốt một giờ đồng hồ vừa qua.
b/ Bản năng giúp người khác
Larry Skutnik là một người có tính nhút nhát làm việc cho một công sở ở Washington. Chiều ngày 13 tháng giêng năm 1982, một trận bão tuyết rất lớn đổ xuống thành phố này. Xe anh đang trên đường về nhà thì bị kẹt trên cầu bắt qua sông Potomac. Lý do là có một chiếc máy bay chở 79 người đã đâm đầu xuống sông. Anh bước khỏi xe để quan sát và thấy có 3 người đang bám vào đuôi chiếc máy bay đang chìm dần xuống nước. Một chiếc trực thăng đã đến kịp. 3 người ấy leo lên trực thăng. Nhưng chỉ 2 người bám dính, còn người thứ ba, một phụ nữ, vuột tay rơi trở lại xuống nước.
Không chút ngần ngại, Larry Skutnik nhảy tòm xuống sông, lặn xuống dòng nước lạnh cóng để tìm kiếm nạn nhân. Một lúc sau anh đã tìm được và đưa bà này lên bờ.
Tất cả những diễn tiến của cảnh đó đều được thu hình và sau đó được đưa lên truyền hình. Mọi người đều ca ngợi anh là một vị anh hùng. Sáng hôm sau, một phóng viên tới phỏng vấn:
- Do đâu mà anh đã làm được một hành động anh hùng như thế?
- Quả thực hai chữ "anh hùng" làm tôi xấu hổ quá. Tôi đâu có cố gắng gì đâu, chỉ là phản xạ tự nhiên thôi.
Anh hùng thật là người làm hành động anh hùng một cách tự nhiên như phản xạ. Người tốt thật là người làm việc tốt một cách rất tự nhiên.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, đạo Chúa Kitô là đạo tình thương, chỉ dùng tình thương mà cảm hóa và chinh phục người khác. Với quyết tâm sống trọn vẹn đức bác ái yêu thương Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết luôn chân thành yêu thương / và tôn trọng hết thảy mọi người.
2. Trên thế giới ngày nay / chiến tranh và khủng bố / hận thù và bạo lực / vẫn còn đang hoành hành ở nhiều nơi / gây ra tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô tác động đến mọi suy nghĩ / lời nói và việc làm của con người hôm nay.
3. Trong đời sống thường ngày / có một số người ngại phiền phức / sợ cực nhọc khi phải giúp đỡ người khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người Kitô hữu biết sống quảng đại / và sẵn sàng trợ giúp những ai đang lâm cảnh gian truân khốn khó.
4. Sống bác ái là chu toàn cả Lề Luật của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai đói rách bần cùng.
Chủ tế: Lạy Chúa, đức tin đòi buộc chúng con phải sống đức ái. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn niềm tin của mình. Chúng con cầu xin.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã kêu mời chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau như những anh em cùng một Cha. Vậy chúng ta hãy cùng Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh say đây:
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là lối sống thờ ơ ích kỷ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an...
VII. Giải tán
Sau khi kể cho người thông luật nghe dụ ngôn về người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu đã bảo người đó: "Anh cũng hãy đi và làm như vậy". Trong Thánh lễ này, Chúa Giêsu cũng kể lại cho chúng ta nghe dụ ngôn ấy. Giờ đây Thánh lễ đã xong, Ngài cũng bảo chúng ta: "Chúng con hãy đi và làm như vậy". Chúc anh chị em ra về bình an.
Đức Cha Bùi Tuần viết: “Tôi thấy từ nhà ông phú hộ đến chỗ ông ăn mày Ladarô chỉ khoảng vài TN 15-C122
Đức Cha Bùi Tuần viết: “Tôi thấy từ nhà ông phú hộ đến chỗ ông ăn mày Ladarô chỉ khoảng vài bước, nghĩa là cách nhau chỉ có cái cổng. Khi sống, ông phú hộ đã không chịu bước vài bước đó, để cảm thương và cứu khổ cho người hành khất Ladarô luôn nằm đó (x.Lc 16,19-26). Hậu quả là khi chết rồi, người phú hộ đó đã phải ném vào vực sâu hoả ngục, xa cách thiên đàng cao sang vời vời.Vài bước vô tâm đã đưa tới cực hình vô tận… Dụ ngôn người Samari tốt lành (x.Lc10,30-32) cho thấy: cũng chỉ vài bước thôi, thầy Tư tế và thầy Lêvi đã tránh sang bên kia đường, để khỏi cứu nạn nhân. Lý do họ vịn vào để tránh cứu nạn nhân, có thể là vì quá bận với những công tác tôn giáo ở nhà, hoặc vì không rõ lý lịch nạn nhân. Và họ an tâm. Nhưng Chúa Giêsu coi đó là một an tâm xấu, có thể là một tội đáng phải phạt” (xem).
Lối hành xử của ông Phú hộ “mackeno” hay thầy Tư tế và Lêvi “tránh sang một bên”, biểu tượng cho thái độ sống thờ ơ, dửng dưng, mặc kệ, đó là căn bệnh thời đại: vô cảm. Có ba cấp độ vô cảm khác nhau trong đời sống hàng ngày.
Thứ nhất là vô cảm trước người khác, hiểu theo nghĩa là một hay nhiều người cụ thể, ở ngay trước mặt, như người thân trong gia đình, hàng xóm hay bất cứ ai đó gặp tai nạn ngoài đường.
Thứ hai là vô cảm trước đất nước hiểu theo nghĩa một cộng đồng mà mỗi người là một thành viên.
Thứ ba là vô cảm trước đồng loại, bao gồm cả những người ở xa, xa xôi và xa lạ, thuộc một đất nước khác hay một lục địa khác.
Tạm thời, xin gác loại vô cảm thứ ba lại. Chỉ tập trung vào hai loại vô cảm thứ nhất và thứ hai. Lý do: một, đó là những vấn đề bức xúc nhất hiện nay; hai, sự vô cảm thứ ba chỉ khắc phục được nếu người ta đã vượt qua được hai loại vô cảm đầu tiên: Không hy vọng có người biết xúc động trước nỗi đau khổ của ai đó, ở châu Phi chẳng hạn, nếu người ta cứ dửng dưng trước những đau khổ ngay trước mặt và trước mắt mình. Nếu có, đó chỉ là chút cảm xúc mang mùi lãng mạn chủ nghĩa; nó thoáng qua, rồi tắt, chứ chắc chắn sẽ không dẫn đến bất cứ một hành động cụ thể nào cả.
Vô cảm trước đất nước có nhiều biểu hiện, nhưng trung tâm vẫn là sự dửng dưng, hay nói theo chữ quen thuộc ở Việt Nam lâu nay, là mặc kệ. Đất nước nghèo đói ư? Mặc kệ! Đất nước càng ngày càng lạc hậu ư? Mặc kệ! Sự bất bình đẳng trong nước càng ngày càng trầm trọng; khoảng cách giữa giàu nghèo càng ngày càng lớn; người giàu càng ngày càng giàu và người nghèo càng ngày càng nghèo ư? Mặc kệ! Nạn tham nhũng càng ngày càng hoành hành, càng phá nát nền kinh tế quốc gia ư? Mặc kệ! Xã hội càng ngày càng băng hoại; văn hóa càng ngày càng suy đồi; giáo dục càng ngày càng xuống cấp ư? Mặc kệ! Trung Quốc xâm lấn Việt Nam, làm lũng đoạn kinh tế Việt Nam, bắt bớ và giết hại ngư dân Việt Nam ư? Mặc kệ! Dửng dưng hay mặc kệ trước những vấn đề liên quan đến danh dự quốc gia cũng là một sự vô cảm.
Nhưng tại sao người ta lại trở thành vô cảm? Câu trả lời tương đối dễ: Một, người ta bị tước trách nhiệm đối với đất nước; và hai, bất cứ người nào còn có trách nhiệm và muốn biểu lộ trách nhiệm ấy thì bị chụp mũ, sỉ nhục, bắt bớ, giam cầm. Trách nhiệm đối với đất nước trở thành một cái tội. Dân chúng bị xem là những kẻ ngoại cuộc đối các vấn đề quốc sự. Người nào không chấp nhận điều đó thì bị trừng phạt nặng nề. Kẻ thì bị đạp vào mặt. Kẻ thì bị bắt bớ. Kẻ thì bị đe dọa. Kẻ thì bị bêu xấu trên các phương tiện truyền thông đại chúng.Trong hoàn cảnh như thế, người ta không vô cảm đối với đất nước mới là chuyện lạ. (x. Blog của tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc).
Một trong những phát minh vĩ đại của khoa học là sáng chế ra rôbốt. Nhưng khoa học không thể tạo ra một con chip "tình cảm" để khiến rôbốt biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận. Căn bệnh vô cảm biến con người thành rôbốt, vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức. Thấy những điều tốt đẹp, cao thượng mà không ngưỡng mộ, cảm phục. Gặp người có hoàn cảnh khó khan, hoạn nạn mà không thấy xót xa, thương cảm, không muốn ra tay giúp đỡ dù có điều kiện. Đứng trước sự bất công, xấu xa, gian dối mà không thấy phẫn nộ, nhức nhối. Thời nay, ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém…nhưng lại ít thấy ai ra can ngăn, cứu giúp. Không dại gì dây dưa vào, mackeno, là biểu hiện của bệnh vô cảm.
Lối sống dửng dưng, thờ ơ, mặc kệ đang hình thành một nền “văn hóa vô cảm” trong xã hội chúng ta. Thái độ này đang được thể hiện tràn lan trong cuộc sống. Hình ảnh những người trẻ nhường chỗ trên xe buýt cho người lớn tuổi hoặc phụ nữ có thai như là chuyện cổ tích; chuyện dửng dưng chứng kiến người thanh niên lừa một người mù đi bán vé số để cướp số tiền mưu sinh nhỏ nhoi được coi như chuyện nhỏ không đáng phải can thiệp, hay như chuyện một người phụ nữ bị đánh đập, bị lột hết quần áo và bị trói nằm trước mặt người qua đường mà chẳng ai quan tâm tới… Môi trường sống hôm nay tràn lan những câu chuyện vô cảm như thế xảy ra hằng ngày.
Chỉ vài bước thôi ông nhà giàu có thể đến với Ladarô nghèo khổ. Chỉ vài bước thôi thầy Tư tế và Lêvi sẽ chạm đến người bị nạn trên đường. Chỉ vài bước thôi, sao mà khó đến vậy? Âu cũng chỉ vì họ mắc bệnh vô cảm.
Sự vô cảm vì con người ích kỷ, tham lam. Vì thế, suy cho cùng, bệnh vô cảm là do thiếu vắng tình yêu, xa cách với tình yêu, không quen nói về tình yêu, không quen thể hiện yêu thương, không bao giờ nuôi dưỡng tình yêu trong cuộc sống.
Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay với hai hình ảnh trái ngược.Tư tế và Lêvi tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu ước. Người Samari tượng trưng cho những người sống tình yêu. Tư tế và Lêvi là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng nhất trong xã hội. Họ chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa nhưng lại dửng dưng trước đau khổ của anh em đồng loại. Một người Samari (thường bị người Do thái khinh bĩ, khai trừ, coi là ngoại đạo, tránh giao tiếp) tình cờ đi ngang qua, thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn nên động lòng thương. Chuyện tình cờ xảy ra trên đường: đức ái không luôn luôn đến từ nơi người ta chờ đợi. Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân là người Do thái hay không, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp người bất hạnh này. Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Chính hành động làm cho anh em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ, dù đó là thầy Tư tế hay thầy Lêvi đi nữa. Đối với nghĩa vụ đức ái, không có bất kỳ hạn định nào. Bác ái là miệng nói tay làm, là giúp đỡ người khác thật sự theo khả năng của mình.
Tin Mừng hôm nay là câu chuyện đẹp về tình yêu thương. Người Samari nhân hậu đã sống đức yêu thương cách tuyệt vời, đó là “yêu bằng việc làm”. Anh đã cho đi mà không tính toán, không chờ đợi một lời cảm ơn nào, và có lẽ anh vừa đi vừa hát bài ca hạnh phúc. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống và thực thi yêu thương: “Hãy đi và làm như vậy”.
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu chỉ với vài bước thôi, chúng con đã có thể cứu được một người cả xác cả hồn, thì xin cho chúng con có nhiều bước chân đi để đến với mọi người. Chúng con biết, cuộc sống đạo sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ thuộc, Kitô hữu mà không thực hành bác ái bằng việc làm trong đời sống thì cũng chỉ là hữu danh vô thực. Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ, chai đá, dửng dưng trước những bất hạnh khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.
Bước vào Chúa nhật XV thường niên C, mở đầu bài Tin Mừng với một thắc mắc do một nhà thông TN 15-C123
Bước vào Chúa nhật XV thường niên C, mở đầu bài Tin Mừng với một thắc mắc do một nhà thông luật đặt ra cho Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" (Lc 10,25). Biết ông ta là nhà thông luật nên Chúa Giêsu yêu cầu ông hãy tự tìm lời giải đáp. Ông đã tìm thầy và trình bày rất chính xác khi tóm lược hai giới răn chính: Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn, và thương mến người anh em như chính mình". Để tự biện minh, ông hỏi thêm: "Ai là người anh em của tôi?" (Lc 10,29). Chúa Giêsu trả lời câu hỏi này bằng một dụ ngôn. "Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô..." khi đọc lên mọi người biết ngay: đó là dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu!
Quan niệm của người Do thái về người thân cận
"Ai là anh em của tôi? " Trong Dothái Giáo thời bấy giờ có sự bàn cãi về ai sẽ được coi như người anh em của người Israel. Và theo họ, phạm trù "người anh em" bao gồm tất cả những người đồng quê với mình và những người Dân ngoại bí mật theo Do Thái giáo. Khi chọn những nhân vật (một người Samaritanô đến giúp đỡ một người Do thái!) Chúa Giêsu khẳng định rằng phạm trù người anh em là phổ quát, không phải riêng rẽ. Chân trời của nó là nhân loại chứ không phải gia đình, giới chủng tộc, hay tôn giáo. Người thù chúng ta cũng là một người anh em! Tin Mừng theo Thánh Gioan dẫn chứng những người Do thái trên thực tế không có tương quan tốt với những người Samaritanô (x. Ga 4,9).
Mọi người là anh em với nhau
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng tình yêu người thân cận không những phải phổ quát mà con phải cụ thể và tiên phong thực hiện. Người Samaritanô cư xử thế nào trong dụ ngôn? Nếu người Samaritanô chấp nhận nói với người vô phúc đang nằm đó trong vũng máu, Anh một linh hồn vô phúc! Sao xảy ra như vậy? Hãy vui lên! Hay một cái gì giống như vậy, rôi tiếp tục con đường của mình, thì tất cả những sự kiện đó không phải là mỉa mai và lăng mạ sao? Ngược lại ông đã làm một cái gì cho kẻ khác: "Ông ta lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho chủ quán mà bảo rằng: " Ông hãy săn sóc người ấy và ngoài ra, còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về, tôi sẽ trả lại ông. "
Điều mới lạ trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu không phải là Chúa Giêsu đòi hỏi một tình yêu cụ thể, phổ quát. Nhưng mới lạ ở tại một cái gì khác, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI viết trong quyển sách của ngài (x Chương 7 sách "Chúa Giêsu thành Nazarét"). Cuối dụ ngôn Chúa Giêsu hỏi người tiến sĩ luật kẻ đã hỏi Người, "Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó [thầy Lêvi, thầy tư tế, người Samaritanô] là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?"
Chúa Giêsu đem đến một sự đảo ngược bất ngờ trong quan niệm truyền thống về người anh em. Người Samaritanô là anh em chứ không phải là người bị thương tích, như chúng ta vẫn quan niệm. Điều này có nghĩa là chúng ta không phải đợi cho tới khi người anh em chúng ta xuất hiện trên đường đi của chúng ta, có lẽ là quá thê thảm. Chúng ta phải sẵn sàng nhận ra họ, gặp họ. Tất cả chúng ta được kêu gọi nên người anh em! Vấn đề của người tiến sĩ luật bị đảo ngược. Từ một vấn đề trừu tượng và lý thuyết, trở thành một vấn đề cụ thể và sống động. Câu hỏi không phải là: "Ai là người anh em của tôi?" Nhưng "ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của ai?"
Tôi là anh em của ai?
Trong quyển sách của ngài Đức Giáo hoàng đề nghị một sự áp dụng đương thời dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu. Ngài thấy toàn thể lục địa Phi Châu được biểu trưng trong người bất hạnh bị ăn cướp, bị thương tích, và để nằm chết bên lề đường, và ngài thấy, những thành phần của những xứ giàu có bắc bán cầu, hai người đi ngang qua, nếu không phải chính xác là những tay cướp.
Chúng ta có thể đưa ra một đề nghị áp dụng khác về dụ ngôn. Giả thiết, nếu Chúa Giêsu đến với dân Israel hôm nay và một người thông luật lại hỏi Người, "Ai là người anh em của tôi?" Người sẽ thay đổi một chút bài dụ ngôn và thay vì người Samaritanô Người sẽ đặt một người Palestin! Nếu một người Palestin hỏi Người cũng một câu hỏi, thì trong chỗ người Samaritanô chúng ta sẽ gặp một người Israel!
Chúng ta không áp dụng cho châu Phi và Trung Đông nữa. Nếu có ai trong chúng ta đang ngồi đây hỏi Chúa Giêsu câu hỏi "Ai là người anh em của con? " Thì Người sẽ trả lời sao? Chắc chắn Người sẽ nhắc chúng ta rằng người anh em chúng ta không những là người đồng hương Việt Nam máu đỏ da vàng với chúng ta, nhưng cũng là những kẻ ngoài cộng đồng chúng ta, không những là những người Kitô hữu mà còn những người Phật Giáo, không những là những người Công Giáo mà cũng là những người Tin Lành, không những là người cùng tín ngưỡng mà cả những người Cộng sản vô thần nữa. Nhưng Người sẽ nói thêm liền là điều này không phải là quan trọng nhất. Điều quan trọng nhất không phải biết ai là người anh em của tôi nhưng là thấy ở đây và bây giờ tôi có thể là anh em của những ai, tôi có thể làm người Samaritanô nhân hậu cho ai.
Hôm nay, Chúa nói với chúng ta: "Hãy đi và làm y như vậy", làm như người Samaritanô đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc... Đừng ngồi đặt vấn đề: "Ai là anh em tôi?", nhưng hãy đi và tỏ ra "mình là anh em của mọi người". Amen.
Lời chào từ giã của Đức Giêsu. Một lời tiễn chân độc đáo, ý nghĩa dành cho người thông luật. Ông TN 15-C124
Lời chào từ giã của Đức Giêsu. Một lời tiễn chân độc đáo, ý nghĩa dành cho người thông luật. Ông gặp Đức Giêsu trên đường lên Giêrusalem và hỏi Người một vấn đề rất cốt lõi. Đó là hành động để đạt sự sống trường sinh! Nhìn chung với người biệt phái, Đức Giêsu bị liệt vào hàng ngũ phá luật. Qua đó, người thông luật kín đáo hỏi thử Người:“Tôi phải làm gì để được sự sống trường sinh làm gia nghiệp”? Câu hỏi không mang tính viễn vông lý thuyết, nhưng rất cụ thể, biểu lộ chủ đích của hành động! Vì ông muốn chứng tỏ mình là kẻ đơn sơ chân chính.
Đức Giêsu hiểu cạn ý ông. Thay vì trả lời vào câu hỏi, Người hỏi lại ông:“Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào”? (c.26). Vị thông luật trả lời ngụ ý tỏ ra am tường bằng trích dẫn hai luật theo đó không ai không coi là hệ trọng:“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”(c.27). Câu đáp thật chính xác. Đức Giêsu ngợi khen ông và khuyến khích ông:“Cứ làm như vậy sẽ được sống”(c.28).
Tuy nhiên, do sự thúc đẩy bên trong, nhưng bên ngoài, để tỏ ra ngay chính, chưa muốn dừng lại, ông chuyển đổi câu hỏi sang đối tượng được nêu lên trong luật, cụm từ ‘người thân cận’? Rất cụ thể, Người nói với ông như để chỉ ông xem toàn cảnh câu chuyện dụ ngôn mô tả những nhân vật mà mỗi người theo cách ứng xử riêng trước một tình cảnh rất đáng thương tâm. Trên con đường từ Giêrusalem dẫn xuống Giêricô, một lộ trình nếu phải đi thì khá xa, cảnh trí thì hiểm trở. Con đường len mình đổ dốc xuống đến Giêricô. Xảy ra cảnh một người bị kẻ cướp đánh nhừ tử, bỏ nằm nửa sống, nửa chết bên đường giữa khung cảnh quạnh quẽ. Có hai người lần lượt đi qua, một vị tư tế, một vị Lêvi, cả hai trong cùng một tư thế. Họ gặp thấy người bị cướp, không dám để tâm, né tránh sang bên lặng lẽ đi. Sau đó một người samari lữ hành cũng qua, ông thấy, ông dừng ngựa, xuống chăm sóc nạn nhân rồi đưa về quán trọ. Đức Giêsu hỏi: “Ai trong ba người đó là người thân cận của kẻ bị cướp”? Không do dự, ông đáp: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Nghe vậy, Đức Giêsu bảo ông thay vì đưa tiễn: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.
Nội dung đàm đạo và các nhân vật trong toàn cảnh câu chuyện toát lên một yếu tố tương phản ngột ngạt ngầm ẩn bên trong. Bên này là những người lãnh đạo, giải thích luật, điều hành luật, thông luật, tư tế, Levi đền thờ. Bên kia là Đức Giêsu mà trong mắt họ thật đáng ghét, người Samari bội đạo, kẻ bị cướp nhơ nhớp. Tuy nhiên, khác xa với điều họ nghĩ, với Đức Giêsu thôi, Đấng đến không phải để hủy bỏ luật, dù một chấm phẩy, mà là để kiện toàn.
Riêng những lời nói, thì hai câu hỏi của Đức Giêsu và vị thông luật đặt cho nhau, đem so sánh, lối hành văn có sự khác biệt thật tế nhị mà dí dỏm. Một bên, kẻ giữ luật, nhiệm nhặt giữ khỏi ô uế, cấm sờ người thương tích sắp chết. Một bên là chủ của luật. Đàng khác, câu hỏi vị thông luật đặt lên ai là thân cận của tôi. Đức Giêsu đặt câu hỏi ai là thân cận của kẻ bị cướp. Từ hai cách đặt câu hỏi, với đại danh từ ‘của tôi’ và đối tượng của nó, cũng tỏ cho thấy đâu là não trạng dành cho vấn đề? Đại danh từ chỉ cái tôi phải chăng là ‘cái ngã’ làm nên tụ điểm trung tâm. Cái tôi mình đặt mốc xác định ‘thuộc về’ làm ra sự khác biệt hệ trọng. chính nó là sự minh định tính chất thân cận để có thể xác định tính cách đạo đức trong hành động thực thi luật yêu thương!
Dù sao, cuộc đàm thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư cũng đã trải qua hơn 2000 năm. Câu chuyện Đức Giêsu kể thì rất đời thường, rất thời sự qua mọi buổi xưa nay. Điều đáng nói là vấn đề thực thi luật yêu thương, và âm vang của nó vẫn hằng vang vọng kêu gọi tỉnh thức.
Tuy hai thế hệ xưa và nay cách xa nhau. Tính chất người và người thì hằng đồng nhất chỉ cách xử trí thì khác biệt. Thế hệ xưa vốn dĩ vì lý do giữ luật để toàn vẹn, nên sinh ra những con người làm ngơ trước tình người, thế hệ nay làm sao quan tâm nổi khi có quá nhiều trào lưu trình làng quan điểm hấp dẫn như khuynh hướng hưởng thụ tích cực. Thời đại đổi thay nhưng bản tính con người vẫn không thay đổi. Luật yêu thương phú bẩm vào lương tri mang tính ràng buộc thì bất biến, luôn đòi hỏi người với người trong tinh thần trân trọng, đối xử đẹp và tiếp sức nhau. Đó là cốt lõi của luật.
Quan điểm của Đức Giêsu hướng đến tha nhân, là những kẻ thân cận không chỉ dựa vào Cựu Ước mà còn mới mẻ của Người. Người hướng đến với hết mọi người, người tốt như kẻ xấu, yêu hay ghét, gieo ơn hay phát tán khốn, vẫn phải cầu nguyện cho tất cả với tâm thức bao dung tha thứ... Đức Giêsu, trong tình yêu như vậy, vượt trên mọi rào cản luật lệ. Do vậy, thân cận không thu hẹp vào những người thân gần mà còn vượt tận xa bao quát.
Lý do để Đức Giêsu sống và dạy luật nội tâm kiểu mới của Người chính là Người đang tự quyết lên Giêrusalem, và còn nữa, vì vâng lệnh Cha Người trên đường loan báo“nước trời đang gần đến”, cứu khổ mọi người ví là nhân loại con Cha trên trời, như “mưa nắng trên kẻ lành người dữ”(x.Mt 5,45). Hơn nữa, Người nhìn luật yêu người là quy luật thực tiễn, thiết thân, vì đồng loại thì sát gần, trong nguyên lý muốn yêu xa, hãy bắt đầu gần từ những gì thực tế. Tình yêu của con người không thể chạm đến viễn vông, thiết nghĩ bắt đầu từ những gì gần gũi hay đã qua cảm nghiệm.
Hậu thế như Phaolô, một cách chí tình, ngài khuyên dạy các giáo đoàn tòng đạo từ ngài sống luật yêu thân cận, là hãy biết sống và tập sống:
“Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl. 2,4 ).
“Hãy luôn cố gắng làm điều thiện cho nhau cũng như cho mọi người” (Tx. 5,15b).
“Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Giêsu Kitô” (Pl. 2,5).
Lạy Chúa Giêsu, con xin lắng nghe, xin hãy dạy con sống chuẩn mực là ‘họa phẩm’ của Chúa.
Larry Skutnik, 28 tuổi là một người đàn ông nhút nhát, làm việc trong văn phòng chính phủ ở TN 15-C125
Larry Skutnik, 28 tuổi là một người đàn ông nhút nhát, làm việc trong văn phòng chính phủ ở Washington. Vào buổi chiều ngày 13 tháng Giêng năm 1982, một cơn bão tuyết nghiêm trọng tràn vào thành phố. Ông đang trên đường trở về nhà và chạy trên con đường tắc nghẽn băng qua một chiếc cầu trên sông Potomac Kiver. Ông bỗng nhận thấy nguyên nhân của sự việc – một chiếc máy bay với bảy mươi chín hành khách đã đâm sầm vào dòng sông. Ông ra khỏi xe, tìm kiếm và thấy có ba người, đang bám chặt vào đuôi máy bay chổng ngược bên trên mặt nước.
Một máy bay trực thăng đã đưa hai người trong số đó vào bờ, còn người thứ ba, một phụ nữ rơi xuống nước giá lạnh và bắt đầu chìm xuống. Không chút nghĩ ngợi, ông cởi giày và áo khoác lặn xuống nước và đưa người phụ nữ ấy lên bờ. Sau đó, ông nói ông chỉ muốn về nhà. Sau một chuyến đi ngắn đến bệnh viện, ông được phép về nhà.
Hành động mạo hiểm cứu người của ông được chiếu lên truyền hình. Sáng hôm sau, ông thức dậy thấy mình trở thành một anh hùng của quốc gia. Nhưng ông tránh né mọi sự quảng cáo. “Từ “anh hùng” làm tôi e thẹn” ông nói: “Tôi đã phản ứng một cách tự nhiên, thế thôi”.
Thật đẹp khi biết rằng người ta vẫn còn thừa nhận sự cao cả của một hành động như thế. Và cũng thật đẹp khi biết rằng người ta có thể làm một hành động như thế và coi đó như một việc bình thường và tự nhiên.
Ai là người thân cận của tôi?" Đó là câu hỏi của thầy thông luật đặt ra với Đức Giêsu. Để trả TN 15-C126
"Ai là người thân cận của tôi?" Đó là câu hỏi của thầy thông luật đặt ra với Đức Giêsu. Để trả lời, Đức Giêsu đưa ra một câu chuyện, xảy ra trên đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô.
Giêrusalem là thủ đô nước Do thái từ thời vua Đavít, cao hơn mặt biển 700m. Giêrikhô là một trong những thành phố cổ nhất thế giới, có từ khoảng năm 8000 trước công nguyên, thấp hơn mặt biển 250m. Từ Giêrusalem xuống Giêrikhô chỉ có một đường duy nhất dài khoảng 23 km, đi qua núi Cây Dầu là sa mạc, ngoằn ngoèo bên những tảng đá lớn, thường là nơi ẩn núp của những băng cướp. Hiện nay, còn lưu lại một lá thư viết từ năm 171 sau công nguyên, phàn nàn với nhà cầm quyền địa phương về tình trạng tội ác xảy ra dọc theo con đường đó. Có nhiều chứng cứ lịch sử cho thấy, các du khách đã phải nộp tiền cho lũ côn đồ địa phương tổ chức trấn lột, để được an thân khi đi qua con đường đó. Vì thế, chính con đường tai tiếng đó, đã cung cấp cho Đức Giêsu bối cảnh thực tế, để người nêu lên dụ ngôn người Samaria nhân hậu.
Chuyện xảy ra: Có một người đi từ Giêrusalem xuống Giêrikhô. Đức Giêsu không gán một nhãn mác tôn giáo hay xã hội nào cho người này, dầu có lý hiểu, đó là một người Dothái. Ông ta là người tốt hay xấu? Quan trọng hay không quan trọng? Những vấn đề đó không được nêu ra. Ông ta là một người bình thường. Tất cả chỉ có thế. Ông bị rơi vào tay bọn cướp, chúng lột sạch, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ có thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samaria đi qua. Đức Giêsu đặt cả ba vào trong một tình huống, phải chọn lựa một quyết định: Giúp hay không giúp người bị nạn kia, hoặc tiếp tục công việc riêng của mình? Họ không có lối thoát, cũng không có chỗ để trốn tránh. Họ phải dấn thân cách này hay cách kia. Thầy tư tế và thầy lêvi quyết định bỏ qua mà đi. Còn người Samaria quyết định dừng lại, và giúp đỡ nạn nhân.
Thầy tư tế và thầy lêvi cho mình có lý không giúp nạn nhân, vì các thầy vừa thực hiện lễ nghi phụng tự trong đền thờ xong. Các thầy còn đang thanh sạch, trên đường đi xuống Giêrikhô trở về nhà (thành này là một trong các thành cho thầy tư tế và lêvi ở). Các thầy không thể để mình dơ, vì theo luật Maisen: "Ai chạm vào xác chết, vào máu, vào một người bị ám sát, sẽ mắc dơ trong bảy ngày" (Ds 19, 11-13). Để giữ mình thanh sạch, các thầy đã chọn giải pháp là không dây dưa vào nạn nhân. Tuy nhiên, các thầy đã không nhớ lời ngôn sứ Ôsê 6, 6: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn nghi lễ". Thiên Chúa không thích lễ lạy của các thầy, Người chờ đợi các thầy bên ngoài đường phố, lúc các thầy sẽ ra khỏi nơi tế lễ, các thầy sẽ gặp người thân cận. Hãy yêu thương! Phải, các thầy hãy yêu thương. Đó chính là sự thờ phượng thật.
Vả lại, xưa cũng như nay, tất cả những ai không giúp đỡ người khác khi gặp hoạn nạn, đều bị các tòa án kết tội. Thầy tư tế và lêvi mắc tội bỏ qua. Tội bỏ qua có thể là tội xấu xa nhất của con người, vì người ta cho rằng càng không dính dáng tới người khác, càng tốt cho mình. Thầy tư tế và lêvi là những người "vô can", khi đứng ngoài mà nhìn người khác gặp hoạn nạn. Việc đó đã nói lên tính cách của thầy tư tế và lêvi, họ là những người lấy mình là trung tâm, đã không mở lòng giúp đỡ người khác. Khi gặp vấn đề, họ đều đặt mình lên trước hết.
Người Samaria, trông thấy người bị nạn, ông cảm thông, thương xót và lập tức giúp đỡ người đó. Ông không lo ngại về điều phiền phức có thể xảy đến với bản thân. Ông cũng không lảng tránh, cho dù đó là một người Dothái. Thời đó, người Dothái và Samaria coi nhau như kẻ thù. Ở đây, ông chỉ thấy nạn nhân là một kẻ bất hạnh, một người như mình, nhưng lại không được như mình. Ông thấy bổn phận phải yêu thương người ấy như chính mình. Ông đầy ắp tình người, đã săn sóc nạn nhân, sau đó đưa về quán trọ. Ông là người có nhân bản, đã trở thành người thân cận với nạn nhân.
Làm sao người Samaria có thể thực hiện được điều đó? Điều đó không thể đạt được trong ngày một ngày hai. Những việc lớn không thể hoàn thành được trong một tính cách bốc đồng, nó là kết quả của mỗi việc nhỏ liên kết với nhau. Phần thưởng đích thực cho một việc tốt, là nó tạo ra việc tốt tiếp theo dễ hơn, tốt hơn. Tính cách con người được tạo ra hay không, đều do mỗi hành vi nhỏ mọn thường ngày. Người Samaria có hành động nhân ái, tự phát đối với người bị nạn, rõ ràng lòng tốt của ông đã trở thành một thói quen, bản tính thứ hai của ông. Ông luôn luôn hướng về người khác, lấy người khác làm trung tâm.
Với câu hỏi thầy thông luật "Ai là người thân cận của tôi? Câu trả lời chung thời đó có lẽ là "người thân cận của ta là người thuộc bộ tộc của mình, hoặc thuộc nhóm giới của mình, hoặc cùng tôn giáo với mình". Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu lại là "người thân cận là bất kỳ người nào mà ta chọn để kết thân với họ. Vấn đề thật sự không phải là coi ai là thân cận của ta, nhưng là ta sẵn sàng đối xử như thân với ai?". Kết thúc cuộc đối thoại, Đức Giêsu bảo thầy thông luật: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy", nghĩa là như người Samaria.
Lạy Chúa, xin cho con phụng thờ Chúa trong đền thờ. Nhưng đừng quên phụng thờ Chúa trên đường phố nơi người anh em.
Chủ đề: "Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn, như Đức Giêsu đã làm."
Một bà đứng bên lề đường đang chờ đèn báo để sang đường. Đối diện với bà bên kia đường là TN 15-C127
Một bà đứng bên lề đường đang chờ đèn báo để sang đường. Đối diện với bà bên kia đường là một thiếu nữ khoảng 17 tuổi. Cô ta cũng đợi để sang đường. Bà không thể nào không thấy là thiếu nữ này đang khóc. Thật vậy, nỗi buồn của cô quá lớn đến nỗi cô không thèm giấu nó. Trong khoảnh khắc ánh mắt hai người gặp nhau. Dù chỉ là khoảnh khắc nhưng cũng đủ để bà thấy được sự đau khổ lớn lao ngập đầy đôi mắt người thiếu nữ. Cô gái xoay mặt nhìn chỗ khác.
Khi đèn báo bật sáng. Mỗi người bước khỏi lề và khởi sự bước sang đường. Khi thiếu nữ gần đến, người đàn bà có thể thấy cô thật xinh xắn, ngoại trừ nỗi buồn hiện rõ trên khuôn mặt.
Ngay khi hai người sắp sửa gặp nhau, bản năng làm mẹ của bà bỗng nhiên nổi dậy. Mọi thứ trong người bà như muốn đến với cô ta để an ủi cô.
Ao ước đó lại càng gia tăng vì người thiếu nữ này cũng trạc tuổi cô con gái của bà. Nhưng bà đã để cô đi qua. Ngay cả một lời thăm hỏi cũng không. Bà chỉ để cô đi qua mà không nói một lời. Nhiều giờ sau, đôi mắt ngập tràn đau khổ của cô gái vẫn tiếp tục ám ảnh bà. Bà luôn luôn tự hỏi, "Tại sao mình không quay lại hỏi thăm, 'Cưng ơi, tôi có thể giúp gì cho cô không?' Nhưng mình đã không làm vậy. Mình bước đi. Chắc chắc là cô ta có thể khước từ mình và nghĩ mình là người tò mò. Nhưng có sao đâu! "Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ cho cô ấy biết được là có ai đó quan tâm đến cô. Nhưng mình đã bỏ đi. Mình đã làm như thể cô ấy không hiện diện."
Câu chuyện có thật đó là một trong các câu chuyện cho thấy điều Đức Giêsu muốn nói trong dụ ngôn thật hay của bài phúc âm hôm nay. Đó là: Không phải mất công nhiều để đến với anh chị em đang đau khổ với lòng trắc ẩn. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn của Đức Giêsu, chúng ta cần biết chút đỉnh về hoàn cảnh thời bấy giờ. Con đường trong dụ ngôn của Đức Giêsu không phải trong tưởng tượng. Thật vậy, đó là một con đường rất nổi tiếng. Đó là con đường duy nhất thời xưa đi từ Giêrusalem đến Giêrikhô. Lúc ấy con đường ngoằn ngoèo vì các tảng đá lớn. Hậu quả là con đường trở thành sào huyệt nổi tiếng của bọn cướp.
Một lá thư viết từ năm 171 AD than phiền với nhà chức trách về tội ác xảy ra trên con đường này. Có những hồ sơ lịch sử ghi nhận việc người đi đường phải nộp tiền mãi lộ cho bọn cướp để được yên ổn băng qua. Chính con đường nổi tiếng này đã làm khung cảnh thực tế cho dụ ngôn của Đức Giêsu về người Samari nhân hậu. Trong dụ ngôn, Đức Giêsu vẽ ra ba loại người khác nhau: một người tư tế, một thầy Lêvi, và một người Samari.
Trước hết, người tư tế. Có lẽ ông đang trên đường đến Giêrusalem để tế lễ trong Đền Thờ. Có lẽ ông nghĩ nạn nhân nằm bên vệ đường đã chết nên ông đi qua. Nếu một tư tế chạm đến xác người chết, ông bị nhiễm uế và tạm thời bị cấm không được vào Đền Thờ. Do đó, người tư tế không muốn dính dáng đến.
Kế đó là người Lêvi. Ông ta cũng giống như thầy phó tế ngày nay. Không rõ lý do tại sao ông lại bỏ qua. Có lẽ lý do của ông cũng giống như của người tư tế. Hoặc có lẽ ông sợ nạn nhân này chỉ giả vờ và sẽ tấn công ông nếu ông đến giúp. Do đó, thầy Lêvi cũng không muốn dính líu tới.
Sau cùng, đó là người Samari. Khi đề cao người Samari thành anh hùng trong dụ ngôn, Đức Giêsu chắc đã làm thính giả phải bàng hoàng sửng sốt, vì họ thường tránh xa người Samari như quân phản loạn không đạo đức đàng hoàng. Người Samari bị cấm không được vào Đền Thờ. Tiến lễ của họ bị từ chối, và lời chứng của họ không được chấp nhận ở toà án.
Nhưng Đức Giêsu biết việc Người làm khi đưa người Samari thành anh hùng trong câu chuyện. Người muốn dạy cho lớp thính giả Do Thái thấy rằng tình yêu thì không có biên giới. Tình yêu đến với mọi người đang có nhu cầu. Nó không bỏ qua. Nó dừng lại để giúp đỡ; nó muốn dính líu, bất kể người đó là ai.
Và điều đó đưa chúng ta trở lại câu chuyện của người phụ nữ và cô gái phiền muộn. Đến với cô ta và giúp đỡ cô ta thì thật dễ. Như chính bà đã nói: "Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ để cô ta biết là có ai đó lưu tâm đến cô." Và, nhiều khi, đó là điều mà tất cả những gì một người đau buồn muốn được biết. Thường những gì họ cần thì không phải tốn nhiều sức lực của chúng ta, không phải mất nhiều thời giờ của chúng ta, không phải tốn kém nhiều tiền bạc của chúng ta. Thường tất cả những gì họ cần thì đơn giản là được thấy chúng ta lưu tâm đến họ.
Và dụ ngôn hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn đến sự tương giao của chúng ta với người khác. Nó mời gọi chúng ta hãy tự hỏi chính mình: Chúng ta đáp ứng thế nào với nhu cầu của người khác? Chúng ta có dừng bước và sẵn sàng giúp đỡ họ không? Hay chúng ta bỏ đi, làm như họ không hiện diện?
Đặc biệt, chúng ta có thi hành điều này đối với các phần tử trong gia đình chúng ta hay không? Một dữ kiện buồn thảm của đời sống là đôi khi chúng ta đối xử với người lạ còn tốt hơn với người thân, như vợ chồng, cha mẹ, hay con cái.
Dụ ngôn hôm nay không mời gọi chúng ta đi ra xa, nguy hiểm đến tính mạng và trở thành anh hùng. Nó mời gọi chúng ta đến với người khác, liều mất sự tự cao tự đại của mình và trở nên nhân bản hơn. Nó mời gọi chúng ta lên tiếng hỏi, "Tôi có thể giúp gì không?" Và nếu lời ngỏ ý của chúng ta bị từ chối thì sao? Như người phụ nữ trong câu chuyện nó, "Thì có sao đâu!" Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta lưu tâm đến hộ. Tối thiểu ai đó biết rằng chúng ta đã ngỏ lời, "Tôi có thể giúp gì không?"
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con cặp mắt để nhìn thấy sự đau khổ trong ánh mắt của người khác, nhất là những người trong chính gia đình chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đôi tai để nghe tiếng than khóc của người khác, nhất là những người cùng dòng máu với chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng trắc ẩn để dám dính dáng đến nhu cầu của người khác, nhất là nhu cầu của những người thân yêu của chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự khiêm tốn đừng bao giờ bỏ qua vì sợ bị khước từ. Nhưng xin ban cho chúng con sự can đảm để đến với họ và hỏi họ, "Tôi có thể giúp gì không?"
Câu chuyện kể của Chúa Giêsu về người Samarianô nhân hậu đã khởi hứng cho một câu chuyện TN 15-C128
Câu chuyện kể của Chúa Giêsu về người Samarianô nhân hậu đã khởi hứng cho một câu chuyện phim khá lý thú. Nội dung chuyện phim như sau: Một cô sinh viên trường y đang học năm cuối chương trình y khoa một lần kia chứng kiến một người đứng tuổi mập mạp đang trong cơn đột quỵ. Hoàn cảnh lúc ấy thật cấp bách, theo sự hiểu biết về y khoa mà cô sinh viên đã tiếp thu ở nhà trường thì cần phải có một tiểu phẩu nhỏ nơi cổ nạn nhân mới có thể cứu sống nạn nhân kịp thời trước khi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Cô sinh viên ngành y ấy đã theo tiếng lương tâm mà làm tiểu phẩu trước khi được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nạn nhân được cứu sống, nhưng lại bị một di chứng là khó phát âm vì khi làm tiểu phẩu, cô sinh viên chưa tốt nghiệp ấy bị một sai sót nhỏ. Cô sinh viên bị nạn nhân kiện. Nhiều thế lực không tốt cũng nhân cơ hội ấy để kiện luôn cả khoa và trường mà cô sinh viên đang theo học. Vụ kiện làm xôn xao dư luận, trở thành đề tại “hot” và cô sinh viên đang ở trong cảnh thế bí chỉ vì lý do chính là chưa tốt nghiệp, chưa có bằng chứng nhận được phép hành nghề y khoa. Và nhà trường cũng như bị liên lụy trách nhiệm đáng kể. Câu chuyện tưởng như không có hậu ấy đã thay đổi vào phút chót khi viên luật sư trẻ đầy tâm huyết đã tìm ra một luật để bào chữa đó là luật Samaritanô. Câu chuyện phim trở thành có hậu khi cô sinh viên được tòa tuyên vô tội.
Thánh tông đồ dân ngoại nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn mọi Lề Luật” (Rm 13,8). Có thể nói rằng luật tình yêu là luật của các luật. Tuy nhiên cần xác định thế nào là yêu thương. Dưới khía cạnh tiêu cực, “đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại”(Rm 13,10). Khổng Tử dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Theo Tanmút Do Thái giáo thì Rapbi Hinlen cũng nói: “Đừng làm cho người khác điều chính mình không thích”. Ông Tobia cha, đã khuyên bảo người con một đạo lý tương tự như trên: “Này con, hãy cẩn thận trong mọi việc con làm, và hãy tỏ ra con là nhà gia giáo trong mọi cách ăn thói ở của con. Điều gì con không thích thì cũng đừng làm cho ai cả”(Tb 4,14-15). Chúa Kitô đã đưa luật tình yêu này đến tận cùng với chiều kích tích cực: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì luật Môsê và các lời ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Bài Tin mừng Chúa Nhật XV TN C tường thuật khi được Chúa Giêsu hỏi rằng trong Luật đã viết những gì thì vị thông luật đã trả lời đó là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng ông ta trả lời chính xác và hãy làm như vậy thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp (x.Lc 10,25). Kitô hữu chúng ta ít băn khoăn hay tranh luận về giới luật phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn. Quả thật nếu đã tin nhận Thiên Chúa là căn nguyên và là cứu cánh của mọi vật mọi loài, nhất là loài người chúng ta thì việc phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là lẽ tất yếu. Tuy nhiên, cũng như vị thông luật kia, chúng ta nhiều khi cảm thấy khó khăn với giới luật yêu tha nhân như chính mình.
Cựu Ước ghi rõ là phải yêu người thân cận như chính mình. Thế thì ai là người thân cận của chúng ta? Hạn từ người thân cận dường như giả thiết một sự giới hạn nào đó cả về mối tương quan cũng như điều kiện hoàn cảnh. Người Do Thái vốn ưu tiên đặt nặng mối dây tương quan niềm tin tôn giáo, kế đến là là mối tương quan màu da quốc tịch… Và chắc chắn trong phạm trù người thân cận không hề có kẻ thù. Chúng ta nhận ra điều này khi họ được dạy rằng “hãy yêu thương đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43).
Chúa Giêsu đã làm chưng hửng vị thông luật kia, khi mở rộng phạm trù người thân cận đến tất cả mọi người, không trừ ai. Người lại còn khẳng định tính tất yếu và vô điều kiện của giới luật yêu người. Câu chuyện “người Samaritanô nhân hậu” là một ví dụ minh họa rõ nét. Dù là luật của nghi lễ tế tự như trường hợp vị tư tế hay dù là một sự cẩn trọng, khôn ngoan cần có như trường hợp của vị trợ tế hay dù bất cứ lý do gì cũng không thể là nguyên cớ khiến ta xao nhãng hay thoái thác nghĩa vụ sống yêu thương. Theo nội dung câu chuyện kể, khi truyền cho vị thông luật là hãy đi và làm như người Samaritanô nhân hậu thì Chúa Giêsu nhắc nhớ vị ấy cũng như chúng ta rằng đừng hỏi ai là người thân cận của tôi mà hãy tự hỏi tôi là người thân cận của những ai. Chúng ta phải trở nên người thân cận của tất cả những ai đang cần đến lòng xót thương, ngay ở đây và lúc này.
Là Kitô hữu, chúng ta không thể bỏ qua nội dung dụ ngôn cuộc phán xét chung trong Tin mừng Matthêu đã được Giáo hội viết thành lời kinh “mười bốn mối thương người”. “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống…Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta….Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi đã không choTa ăn; Ta khát các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước, Ta mình trần, các ngươi đã không cho mặc…”(Mt 25,31-46).
“Hãy đi và hãy làm như người Samaritanô nhân hậu!” Một lệnh truyền mang tính cấp thiết vì nó liên hệ đến hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Lạy Chúa, con phải là người thân cận của ai đây? Không phải ở đâu xa hay là ngày mai, nhưng hôm nay và ở nơi này, lạy Chúa, những ai đang cần lòng thương xót, sự cứu giúp và nâng đỡ của con? Nếu thật lòng và xác tín với lời cầu nguyện trên, chắc chắn chúng ta sẽ biết phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Vào thời Đức Giêsu, câu hỏi này tất nhiên không phải mọi người Do Thái đều đặt ra. Những người TN 15-C129
Vào thời Đức Giêsu, câu hỏi này tất nhiên không phải mọi người Do Thái đều đặt ra. Những người Pha-ri-sêu tin có đời sau và sự sống lại của người chết. Nhưng những người Sa-đu-xê-ô không tin chuyện đó.
Ngày nay, những người ở xung quanh chúng ta tiếp tục có những ý kiến trái ngược về vấn đề đó. Vậy, điều này không có gì là mới cả. Dù câu trả lời là khẳng định hay phủ định thì vấn đề đời sống vĩnh cửu là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà con người có thể tự đặt ra, một vấn đề nghiêm túc nhất, mà sự được thua, rất là mạo hiểm. Pascal đã thử đem lại một câu trả lời nổi tiếng cho vấn đề đó với "sự đánh cuộc của Pascal" (Tư tường 343): "Thiên Chúa hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nhưng chúng ta nghiêng về phía nào? Phải đánh cuộc thôi. Điều này không cố ý bạn đã bị lôi kéo vào rồi. Khi chọn "Thiên Chúa hiện hữu”, nếu bạn thắng, bạn được tất cả; nếu bạn thua, bạn không mất gì cả. Vậy bạn hãy đánh cuộc Người hiện hữu không chút ngần ngại... Ở đây bạn được một cuộc sống vô cùng với hạnh phúc vô tận, một khả năng được cuộc đổi lại một con số hữu hạn, những khả năng mất mát, và điều bạn dùng đặt cược cũng hữu hạn. Điều này loại bỏ hết mọi do dự... "
Thực vậy, hai giả thuyết (Thiên Chúa hiện hữu... Thiên Chúa không hiện hữu) không có cùng một trọng lượng. Nếu chúng ta muốn đánh cuộc trên vấn đề này, vậy có một sự chọn lựa giữa "mặt sấp" và "mặt ngửa": một cơ may trên một con số giới hạn các ngẫu nhiên. Nhưng nếu chúng ta nhận định về cái được có thể xảy ra (tất cả... hoặc không gì cả), lúc đó, theo Pascal, không người đánh cuộc nào mà không ngần ngại chọn lựa, "Điều xấu nào xảy đến với bạn khi thực hiện sự chọn lựa ấy? bạn sẽ sống trung tín, khiêm nhường, biết ơn, từ thiện, là một người bạn chân thành, trung thực.
Thực ra, bạn sẽ không sống trong những lạc thú bại hoại, trong vinh quang, trong các thú vui; nhưng bạn sẽ không có những điều vui mừng khác đó sao? Tôi nói với bạn rằng bạn sẽ thu được những điều đó ngay trong cuộc đời này; và ở mỗi bước chân bạn thực hiện trên con đường ấy bạn sẽ thấy rõ sự chắc chắn của sự thắng cuộc và sự hư vô của điều mà bạn dùng để đặt cuộc, rồi bạn sẽ biết rằng bạn đã đánh cược cho một điều chắc chắn, vô cùng, mà bạn đã không cho gì cho sự đánh cược ấy".
Mọi thời đại và trong mọi nền văn minh, con người đều hy vọng vào "một đời sau”. Đức Giêsu thường nói về nó. Người cũng nói rằng "đời sống vĩnh cửu” ấy đã được bắt đầu. Đối với những ai tin, nó đã có mặt nó đã được sống, dù rằng chưa hoàn thành, dĩ nhiên rồi. Nhưng sự sống ấy chủ yếu là gì? Và phải làm gì để có nó? Đó là câu hỏi của người thông luật. Cũng là câu hỏi của chúng ta.
Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn người và người thân cận như chính mình" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống".
Trước hết, người thông Luật đọc lại kinh cầu hằng ngày của những người Do Thái, Kinh Shéma, trích ra từ sách Đệ Nhị Luật 6,5. Đức Giêsu cũng thường đọc kinh ấy mỗi ngày nhiều lần. Nhưng Người thêm vào một đoạn rút ra từ sách Lê vi 19,18.
Để được sự sống đời đời, phải yêu thương! Yêu thương! Câu hỏi và câu trả lời ấy cũng được tìm thấy trong hai Tin Mừng nhất lãm khác (Mát thêu 22, 34-40; Máccô 12, 28-31). Nhưng chính Lu ca không còn phân biệt một giới răn "thứ nhất" và một giới răn "thứ hai" lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu thương người thân cận không thể tách rời nhau. Còn trong cuộc đời tôi, có được như thế không?
Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là người nhân cận của tôi?”
Cho tới lúc này, chúng ta chưa thấy có gì độc đáo.
Giáo huấn của Đức Giêsu không khác Luật của Cựu Ước... và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp của Đức Giêsu nhân bản một cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con người.
Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho câu hỏi: "Ai là người thân của của tôi?" sẽ hướng chúng ta về cái mới mẻ thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một tình yêu phổ quát, yêu thương cả "kẻ thù” mình.
Đức Giêsu đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi...
Một "thầy tư tế", một "thầy Lê vi"! Đức Giêsu dùng cách nói mạnh. Hai chuyên viên về sự thờ phụng, hai nhà phụng vụ của Đền thờ, lo lắng tuân giữ tỉ mỉ Luật và các nghi thức. Đức Giêsu lấy hai hạng người ấy để cho chúng ta ví dụ về việc không nên làm! Hai người này, luôn chăm lo phục vụ Thiên Chúa nhưng có một thái độ hoàn toàn ghê tởm đối với con người. Ngày nay, các toà án dù không phải của Kitô giáo hẳn phải buộc họ vào tội danh "không giúp đỡ người đang gặp nguy hiểm". Tuy nhiên, từ quan điểm riêng, họ có lý: trong tâm thức và Luật Do Thái, họ nghĩ rằng bổn phận của họ là không được "sờ vào máu” để được ở trong tình trạng thanh khiết về nghi thức và để bảo đảm việc phụng vụ tại Đền thờ. Như thế, trong đời sống của chúng ta, một đôi khi chúng ta cáo từ không muốn giúp đỡ bằng cách viện ra những lý do tất cả thiện ý.
Bằng việc cố ý chọn lựa hai ví dụ đó, Đức Giêsu nhắc lại cho chúng ta một chân lý quan trọng của Kinh Thánh (Ô-sê 6,6) mà Người đã dùng hai lần để bào chữa việc Người không tôn trọng Luật phụng tự, vì lợi ích cho một luật khác quan trọng hơn về tình yêu thương huynh đệ (Mát-thêu 9,13- 12,7; 23,23). Sự lặp lại này, sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa. Thiên Chúa gắn cho sự "thực hành" bác ái và phục vụ tha nhân trong đời sống hằng ngày tầm quan trọng to lớn hơn việc thực hành phụng tự và cầu nguyện của chúng ta. Người ta không phục vụ Thiên Chúa trong Đền thờ nếu trước tiên người ta không phục vụ Thiên Chúa trong đường phố!
Tôi có là một Người "hành đạo" chân chính không? Tôi cho từ hành đạo ấy một ý nghĩa nào?
Tôi có "thực hành" bác ái, có quan tâm đến tha nhân, và phục vụ người khác không?
Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác?
Luca là thánh sử duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn kỳ diệu này. Luca là thánh sử của lòng nhân hậu, thương xót, của sự truyền giáo cho dân ngoại và của sự nghèo khó.
Các bạn hãy đọc lại sáu hành động của lòng tốt được mô tả tỉ mỉ ở đây: đây là Triều đại của Thiên Chúa, đây sự thờ phụng mới chân thật, đây là sự trỗi dậy của nhân ái mới sẽ biến đổi lịch sử cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.
Và đó là một "Người Sa-ma-ri"! Một kẻ dị giáo, một người ly giáo, một kẻ thù của những Người Do Thái trung kiên, một người anh em giả hiệu, một người đáng ghét không chịu "thực hành" tôn giáo chân chính, một người ô uế không bao giờ đặt chân vào Đền thánh, một người mà việc mới cùng bàn bị ngăn cấm, một vài ngày, Giacôbê và Gioan muốn làm lửa từ trời trút xuống họ (Lc 9,52-55). Và Đức Giêsu lại lấy một người như thế để làm gương!
“Ông chạnh lòng thương xót... " "esplanchnisthè" Động từ tiếng Hy-lạp này chứa đựng một hình ảnh: "Splanchna" chính là "ruột gan, bộ lòng". Vậy phải dịch là: "ông xúc động đến ruột gan". Và từ ấy trong tiếng Do Thái hay tiếng A-ra-mê-en mà Đức Giêsu đã sử dụng xem ra cũng mang cùng một ý nghĩa: "Rahamim" cũng chỉ "ruột gan", "lòng mẹ", "tấm lòng", “sự dịu dàng", "lòng tốt", "lòng trắc ẩn sâu xa". Vả lại, trong toàn bộ Tân Ước, từ "chạnh lòng thương" chỉ được dùng để chỉ tình cảm của Đức Giêsu trước những đám đông khốn khó, những người bệnh tật, những người sầu khổ đủ loại (Mt 9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 6,34; 8,2; 9,22; Lc. 7,13; 15,20).
Các Giáo phụ, vốn gắn với những phương thức suy nghĩ cổ xưa, hầu như đều nhất trí chú giải dụ ngôn này bằng cách áp dụng vào Đức Giêsu Kitô. Cả Tin Mừng, và trang này cũng thế, trước tiên không phải là một sách bàn về đạo đức những là sự "công bố", sự "mạc khải" về tình yêu thương của Thiên Chúa: người Sa-ma-ri tốt lành, trước hết chính là Đức Giêsu... người đi đường bị thương gần chết, chính là nhân loại bị sự ác quất ngã... quán trọ, chính là Giáo Hội nơi Đức Giêsu đưa con người đến cứu chữa. Nếu chúng ta chỉ biến trang Tin Mừng tuyệt diệu này thành một bài học đạo đức thì quả là tai hại vì trang Tin Mừng này nói với chúng ta "Thiên Chúa làm điều gì cho con người". Người không ngừng "sinh ra" con người trong cung lòng Người. Đức Giêsu đã là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình", thể hiện lòng trắc ẩn như mẹ hiền của Thiên Chúa, và chúng ta, đối với người "thân cận" của mình chúng ta phải chia sẻ lòng trắc ẩn đến từ Thiên Chúa! Nếu Tin Mừng trước tiên không phải là một "khoa đạo đức” điều đó không có nghĩa là Tin Mừng không chứa đựng những yêu sách đạo đức... vô cùng sâu xa và mạnh mẽ hơn mọi nguyên tắc.
Hãy yêu thương! phải, bạn hãy yêu thương! Bạn hãy đoàn kết, phải! Đó chính là "sự thờ phụng" thật. Tại sao? Bởi vì điều đó chính là Thiên Chúa. "Thiên Chúa là tình yêu, và ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa!" (1 Gioan 4,8). Hỡi thầy tư tế hoặc thầy Lê vi, coi chừng việc thờ phụng của thầy. Thiên Chúa không thích lễ lạy của Thầy. Người chờ đợi thầy bên ngoài, lúc thầy sẽ gặp mặt Người thân cận, lúc thầy sẽ ra khỏi nơi làm lễ tế. "Bạn có yêu không? Bạn có yêu thương tôi không?" Và không chỉ bằng lời chứ?
Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay lũ cướp?" Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".
Đức Giêsu lật ngược hoàn toàn ý niệm về người thân cận. Người thông luật đã hỏi: "Ai là người thân cận của tôi? (theo nghĩa thụ động)... trong ý nghĩa này, chính " những người khác" là Người thân cận của tôi. Đức Giêsu trả lời ông: "Bạn tỏ ra mình là người thân cận của ai?" (theo nghĩa chủ động)... trong nghĩa này, chính chúng ta phải là người thân cận" của những người khác, hoặc là không. Người, “thân cận", nghịch lý siêu phàm của Đức Giêsu, lại chính là “tôi" khi tôi đến gần những người khác với lòng yêu thương Người tạ không c.ăn tự hỏi "ai" là người thân cận của tôi... nhưng "tôi" sẽ là người thân cận của mọi người, không phân biệt như thế nào?..ôi, sự mạc khải này là của Thiên Chúa!
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy hai người đầu là hai nhân vật liên quan đến việc tôn TN 15-C130
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy hai người đầu là hai nhân vật liên quan đến việc tôn thờ trong Đền Thánh; nhân vật thứ ba là một người Do Thái ly giáo, bị coi là ngoại bang, một thứ dân ngoại dơ bẩn, được gọi là người Samaritanô thế, mà người này trông thấy kẻ bị thương đã không bỏ đi như hai người có liên hệ tới Đền Thờ trước đó, mà "đã động lòng thương" (câu 33). Phúc Âm đã thuật lại: "ông đã động lòng thương", tức là, tâm can của ông đã rung cảm. Ông cảm thấy trong lòng rung động! Chúng ta có thấy sự khác biệt ở đây: hai người kia "đã trông thấy" nhưng tâm can của họ vẫn khép kín, vẫn lạnh lùng; trái lại, tâm can của người Samaritanô đã đập cùng một nhịp với chính con tim của Thiên Chúa. Thật vậy, "lòng cảm thương" là đặc tính thiết yếu của lòng thương xót Chúa. Thiên Chúa đã cảm thương chúng ta. Như thế nghĩa là gì? Ngài chịu khổ với chúng ta; Ngài cảm thấy những đau khổ của chúng ta. Lòng cảm thương nghĩa là "cùng chia sẻ". Chữ này nói lên rằng có một điều gì đó tác động trong chúng ta, khiến chúng ta rung động khi thấy sự yếu đau của con người. Nơi những cử chỉ và tác động của Người Samaritanô Nhân Hậu chúng ta nhận thấy lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trong suốt giòng lịch sử cứu độ.
1.Trông thấy và chạnh lòng thương
Người Samaritanô Nhân Hậu đã cụ thể hóa tình yêu qua bảy hành động: (1) chạnh lòng thương, (2) lại gần, (3) đổ rượu (rửa vết thương) và dầu (sát trùng), (4) băng bó vết thương, (5) đặt lên lưng lừa, (6) đem về quán trọ, (7) tận tình săn sóc.
Hôm sau, tác giả Tin Mừng Luca còn mô tả thêm bảy hành động khác của người Samaritanô: (1) lấy ra hai quan tiền, (2) trao cho chủ quán, (3) nói, (4) chăm sóc, (5) còn thiếu bao nhiêu, (6) khi trở lại, (7) sẽ thanh toán tất cả.
2.Những động từ và những cử chỉ trên cho ta thấy người Samaritanô là một con người tận tụy, chu đáo và nhân hậu
Ông là con người của hành động, hành động vì trông thấy và chạnh lòng thương một con người đang lâm vào cơn quẫn bách khốn cùng và đang cần được giúp đỡ; chứ không như thầy Tư Tế và thầy Lêvi kia, họ cũng trông thấy nhưng tránh qua một bên vì họ sợ bị liên lụy, sợ tốn tiền, sợ mất thời gian… dù rằng thầy Tư Tế và thầy Lêvi đối với người bị nạn là tương quan thân cận, trong khi đó tương quan giữa người Samaritanô với người bị nạn là tương quan kẻ thù, nhưng ông đã làm tất cả (2 lần 7) hoàn hảo trên mức hoàn hảo.
Người Samaritanô đã sống giới răn trọng nhất mà ông không hay biết, hay nói cách khác, ông không cần một định nghĩa: “người thân cận của tôi là ai?” Ông chỉ hành động, hành động vì yêu thương, và tình yêu của ông vượt lên trên mọi ranh giới, rào cản của sự kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, địa vị,… thiết tưởng, chỉ có một tình yêu đích thực và vô vị lợi mới ân cần và chu đáo đến như vậy.
3.Người Samaritanô hành động bằng lòng thương xót thật sự
Ông đã băng bó các vết thương của nạn nhân, đã mang nạn nhân đến quán trọ, đã tự mình chăm sóc cho nạn nhân và trợ giúp nạn nhân. Tất cả những điều ấy dạy chúng ta rằng lòng cảm thương, tình yêu thương, không phải là một thứ cảm giác mơ hồ, mà là việc chăm sóc cho người khác cho dù có đích thân phải trả giá. Nghĩa là dấn thân, thực hiện tất cả những gì có thể để "đến gần người khác, cho đến độ đồng hóa mình với họ", "các người phải yêu thương tha nhân như chính bản thân mình", đó là Giới Răn của Chúa.
Truyền thống Kitô giáo vốn đề cao tấm lòng và ý hướng khi làm việc bác ái. Nhưng với thời đại vốn nhấn mạnh đến tính hiệu quả hôm nay, thì tình yêu đích thực đòi hỏi được diễn tả cách cụ thể: chấp nhận cả tay và người bị dơ bẩn lấm lem, chấp nhận gặp rắc rối, phiền hà, chậm trễ công việc đang thực hiện, thậm chí cả nguy hiểm, vì tình yêu đòi hỏi hiến trọn cả con người. Đây quả là một thách đố, nên cần đón nhận suối nguồn tình yêu là chính Chúa, để có đủ lòng quảng đại mà thi hành điều Chúa truyền “hãy đi và cũng hãy làm như vậy”. Sau đây là câu chuyện minh họa.
4.Tình người miền quê Nam Bộ
Cha Antôn Nguyễn Văn Tiếng kể câu chuyện như sau: vào khoảng đầu thập niên 1980, có một buổi chiều tôi đang làm cỏ rẫy ở đất bồi, cạnh nhà tôi bên dòng sông Tiền.
Trời bỗng chuyển mưa đen kịt và sấm chớp ầm vang. Dòng sông nổi sóng dữ dội.
Bất ngờ một tia chớp lóe sáng và một tiếng nổ kinh hồn. Tất cả đều diễn ra mau chóng.
Một chiếc ghe nhỏ cách bờ không xa, tiến vào bờ theo từng đợt sóng. Khi vào đến bờ, một người phụ nữ tuổi trên 40 từ trên ghe nhảy xuống, trong nước mắt dàn dụa, bà nói không trọn câu: “sét đánh trúng chết chồng tôi và đứa con trai tôi rồi, cô bác ơi, làm ơn giúp tìm kiếm xác chồng con của tôi, cô bác ơi”.
Đêm hôm đó, cả xóm gần như không ai ngủ. Ai có ghe thì đi ghe, ai có xuồng thì đi xuồng, ai không có gì thì đi bộ cặp bờ sông, để tìm xác hai người. Sông lớn, mặc cho sóng to gió lớn, người ta thức trắng đêm để đi tìm. Một số kề cận người đàn bà bất hạnh để an ủi bà. Khi than khóc, có lúc bà đã nói: “phải chi trời thương cất một người đi thôi, còn đàng này đem hai cha con đi cùng một lúc”. Không ai cầm được nước mắt. Mãi tới hơn nửa đêm ngày hôm sau mới tìm được xác hai cha con.
Quê của bà tận ở gần Châu Đốc, cách quê tôi mấy chục cây số đường sông lớn. Vợ chồng và đứa con trai đi mua bán hàng bông, gặp sóng to gió lớn, vội cho ghe chạy vào bờ, thì gặp nạn trên sông.
Đây là một xóm dân nghèo, nhưng bà con xúm lại đóng góp tiền để mua hai chiếc quan tài, xăng dầu và cử người lái ghe đi đưa bà và xác chồng con về quê. Bà còn một đứa con nhỏ ở nhà. Ai cũng thương tình và giúp họ với tất cả khả năng của mình. Mấy ngày sau, dân làng vẫn còn nhắc đến gia đình người đàn bà bất hạnh xa lạ đó. Hãy đi và làm như vậy.
5. Dụ ngôn “Người Samaritanô Nhân Hậu” là một bài học quý giá để chúng ta soi dọi vào cuộc sống Kitô hữu của chúng ta hôm nay
Đọc dụ ngôn “Người Samaritanô Nhân Hậu” có thể khiến người đọc tự đặt mình vào vị trí các nhân vật trong câu chuyện, rồi xét suy cuộc sống của chính mình. Chắc chắn Chúa Giêsu mong muốn mỗi người tín hữu hãy tự xem mình và hành động như Người Samaritanô Nhân Hậu giúp người lâm nạn giữa đường cũng như cứu vớt những linh hồn lạc lõng. Chúa bảo người thông luật Pharisêu: “hãy đi và cứ làm như vậy để được sống đời đời” (Lc 10:37). Bằng cách này, chúng ta cùng tham gia với Chúa để mang lại sự cứu rỗi và cuộc sống vĩnh hằng cho nhân thế.
Những môn đệ theo Chúa, hàng giáo phẩm, các giáo sĩ, cũng có thể nghĩ mình chính là người chủ quán trọ với trách nhiệm chăm sóc để giúp người bị thương tích sớm hồi phục. Hoặc người đọc cũng có thể ví mình như người khách đi đường có nhu cầu cần sự trợ giúp, hay ví mình như các ông tư tế, Lêvi sống vì lề luật và cho lề luật, dửng dưng, làm ngơ trước những khổ đau của người đồng loại. Cũng có thể chúng ta đóng vai kẻ cướp vì đôi khi chúng ta làm phương hại gây tổn thương cho người khác. Nói khác đi, trong suốt cuộc đời của mỗi người tín hữu, lúc này hay lúc khác, chúng ta có thể hành động như các nhân vật trong câu chuyện người Samaritanô Nhân Hậu.
Điểm tin thời sự tháng 6/2019 vừa qua, đề tài được nhiều lượt xem nhất liên quan đến “tình người”. TN 15-C131
Điểm tin thời sự tháng 6/2019 vừa qua, đề tài được nhiều lượt xem nhất liên quan đến “tình người”. Tuy nhiên, hễ nói tới đề tài xưa nhưng không cũ này, người ta chỉ chú ý đến việc xấu, còn việc tốt thì mấy ai quan tâm.
Cụ thể như vụ tai nạn giao thông tại một giao lộ quận Tân Phú, vào lúc 3h sáng một ngày cuối tháng sáu, chiếc xe máy chở đôi va chạm với chiếc xe con trên con đường vắng. Cú xe máy húc tạt sườn ô tô khiến họ bất tỉnh. Nhức nhối làm sao khi camera an ninh ghi hình lại trong khoảng 11 phút, có 5 chiếc xe con, 1 xe tải, hơn 40 xe máy, 1 xe đạp với gần 60 người đi qua nơi nạn nhân đang nằm nhưng rồi lại dửng dung bỏ đi. Có một thanh niên đi xe máy dừng lại nơi tai nạn, điện thoại gọi cho ai đó, một người đàn ông khác đi bộ đến gần giơ tay cô gái đang nằm sõng soài ra như kiểm tra còn sống hay không, sau đó quay ra nói chuyện với người đang gọi điện thoại. Tiếp tục có thêm 3 người đi bộ đến, nhưng tất cả đứng nhìn 2 nạn nhân nằm co giật. Khi người thanh niên co giật gượng dậy được thì cả nhóm 5 người bỏ đi.
Tại sao người ta không cư xử lá lành đùm lá rách? Cũng giống như người tư tế rồi đến trợ tế từ Giêrusalem đến Giêricô, đi ngang qua chỗ nạn nhân bị đánh và cướp bóc, họ thấy đó nhưng họ thấy nạn mà làm ngơ, đã tránh sang một bên và đi. Có phải chăng một hệ thống luật nặng nề làm cho người ta ngại giúp đỡ lẫn nhau, vì sợ ô uế, sợ liên lụy, sợ làm ơn bị mắc oán? Những điều ấy chỉ là một phần biện hộ, nhưng trên hết, điều cần nói tới đó là sự vô cảm khi người ta luôn sống ích kỷ, chỉ muốn cái gì cũng quy về mình, ngại đến với anh chị em.
Tuy nhiên, điều Chúa Giêsu dạy chúng ta không phải tìm xem ai là anh em của tôi mới giúp đỡ, không phải là đi ngang qua chỗ bị nạn và ngó xem số xe có quen không mới giúp, vì khi ấy là chúng ta đang dần sống quay lưng lại với sự thiện. Sự thiện mời gọi chúng ta dám dấn thân cho sự thật để đạt đến đức ái. Một lương tâm được huấn luyện để sống có tâm giúp chúng ta luôn được bình an dù có phải đánh đổi, dù có bị hiểu lầm đi nữa nhưng ta không hổ thẹn. Vâng, nếu không sự thật và sự thiện, người ta chỉ tìm kiếm và trang bị cho mình nét đẹp bên ngoài mà thiếu đi cái mỹ trong tâm hồn chúng ta luôn muốn vươn tới.
Và vàng có thử lửa thì mới thật là vàng, cùng trong tháng 6/2019 này, âm thầm nhưng tỏa sáng, đó là câu chuyện về bà Ngần có một người con bị tai nạn. Tại bệnh viện 103 ở Hà Nội, bác sĩ nói rằng người con bà bị chết não đến 99%, không còn cơ hội cứu sống. Tin như sét đánh ngang tai khiến người mẹ ngã quỵ. Nhưng rồi tất cả bất ngờ khi người mẹ ấy ký giấy hiến tạng người con mình cho y học. Năm con người xa lạ đã có được sự sống mới nhờ nội tạng của cậu con trai từ tim, hai quả thận đến giác mạc. Mặc cho tiếng thị phi của người đời cho rằng vì bà tham tiền mà bán nội tạng của con, không để con ra đi yên ổn khi được chết toàn thây, làm vậy là bất nhân, là thất đức. Nhưng với quyết định hiến tạng con cứu người của một lương tâm ngay lành, bà có được sự bình an trong tâm hồn khi nghĩ đây là cách duy nhất có thể giúp cho người con sẽ tiếp tục sống. Giờ đây bà có thêm năm người con gọi mẹ để tỏ lòng tri ân công đã tái sinh mình.
Thật vậy, Chúa Giêsu không trả lời cho người đến hỏi Chúa chứ “Ai là anh em của tôi”, mà Người để mỗi chúng ta tự trả lời để đi đến hành động khi nhận ra rằng tất cả những người cần giúp đỡ, họ là anh em của tôi để tôi không được dửng dưng trước người anh em đang cần đến, và đừng đợi người anh em nài nỉ bằng lời. Amen.
Xem ra trong cuộc sống những gì ở gần nhất thì mình lại thờ ơ và dễ dàng quên lãng. Lời Chúa TN 15-C132
Xem ra trong cuộc sống những gì ở gần nhất thì mình lại thờ ơ và dễ dàng quên lãng. Lời Chúa, lề luật của Thiên Chúa cũng ở ngay trong chính mỗi người không đâu xa, thế nhưng sống và giữ Lời Chúa, lề luật Chúa có lẽ lại là việc khó khăn. Thậm chí có người thờ ơ, quên lãng. Môsê khẳng định với dân chúng rằng Lời Chúa không ở đâu xa, không ở trên trời cũng như dưới biển nhưng ở ngay môi miệng và ngay trong lòng người. Với dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết thực thi tình yêu thương phục vụ tha nhân. Họ là những người đang ở bên chúng ta, đang hiện diện và đồng hành cùng chúng ta trong cuộc sống này. Họ vẫn đang hiện diện nhưng vì nhiều lý do cá nhân mà đôi mắt chúng ta xem ra đã không thấy họ.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin Mừng Lc 10,25-37
Ai là người thân cận ?
Giới răn yêu thương đòi hỏi phải yêu mến Thiên Chúa như người Cha và yêu mọi người như chính mình. Thế nhưng, cần phải đi đâu để tìm kiếm người mình phải yêu thương. Dụ ngôn người Samaria nhân hậu sẽ giúp chúng ta hiểu rằng tình yêu phải mở rộng đến mọi người không loại trừ ai và tha nhân chính là những người chúng ta gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày.
a. Lề luật của Do Thái giáo đã qui định rõ ràng phải yêu thương tha nhân. Tuy nhiên, những luật sĩ, người giải thích lề luật, lại tìm cách để giới hạn khái niệm về tha nhân là ai. Vấn đề này đã gây nhiều tranh cãi trong giới Rabbi. Theo quan niệm đương thời thì tha nhân là người đồng hương, đồng đạo còn người ngoại đạo là người ô uế, thờ ngẫu tượng thì không được đụng đến vì như thế là sai luật vì sẽ bị ô uế.
b. Người luật sĩ đến hỏi Chúa Giêsu để thử Người nhằm tìm cách bắt bẻ Người: Làm thế nào để được sống đời đời ? Ai là người anh em để mình yêu thương ? Ông muốn tranh luận về lý thuyết nhưng Chúa Giêsu đã hướng vấn đề theo ý Người. Điều cốt yếu không phải là biết ai là đối tượng của lòng yêu mến mà là có yêu thực sự hay không. Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến hành động vì tình yêu. Chính tình yêu làm cho chúng ta trở nên anh chị em của mọi người ; mọi người, không phân biệt một ai, xuất thân từ đâu, đều trở nên anh chị em của mình. "Ai là anh em của tôi ?" Câu trả lời không phải là một khái niệm lý thuyết trừu tượng từ sách vở mà là câu trả lời đến từ tình yêu sống động của tấm lòng mỗi người.
c. Người Samaria trong dụ ngôn dù là người ngoại đạo, không biết gì về lề luật như người Luật sĩ, cũng chẳng có tư cách của thầy trợ tế Lêvi hay thầy Tư tế. Thế nhưng, ông đã sống được giới răn quan trọng nhất của Chúa. Với Kitô hữu ngày nay, dụ ngôn giúp chúng ta đặt lại con tim và hành vi bác ái của mình: chúng ta đang yêu như thế nào ? Tình yêu có giúp mình trở nên người của mọi người không ?
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Tìm kiếm và sống tình yêu giữa đời thường:
Trong thực tế tìm kiếm và sống đúng đòi hỏi của tình yêu không phải là điều đơn giản. Người luật sĩ chắc chắn am hiểu luật, thế nhưng, khi nhận được câu trả lời của Chúa hãy làm đúng luật yêu thương mà ông đã biết, ông lại tìm cách bào chữa cho mình. Ông bào chữa vì ông không thấy được đâu là đối tượng để ông yêu mến. Anh em tôi là ai ? Người thân cận tôi là ai ? Trong mắt người Do Thái thì đối tượng là những người tốt, người đồng đạo… nghĩa là có những đối tượng bị loại trừ khỏi con tim yêu thương của họ. Chúa Giêsu thì khác hẳn, một khi đã yêu thì không phân biệt một ai. Qua dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó, anh em mình chính là những người khổ đau, nghèo đói, bệnh tật… chung quanh chúng ta. Đối tượng để chúng ta yêu mến không ở đâu xa mà ở ngay cạnh mình, trên đường mình đi, ngay nơi mình ở. Tìm kiếm và sống tình yêu ngay giữa đời thường của mình. Yêu đi rồi sẽ biết ai là anh em của mình hay nói cách khác chính tình yêu sẽ biến đổi mọi người thành anh chị em của nhau, thân thiết với nhau.
Với Kitô hữu hôm nay, câu chuyện Tin mừng gợi cho chúng ta cách sống đức tin của mình như thế nào ? Nhất là mối tương quan tình yêu với mọi người chung quanh. Yêu mến Thiên Chúa trong nhà thờ không đủ nếu không yêu mến Ngài trên đường đi và trong anh chị em chung quanh. Dâng lễ mà không yêu người, đối với Thiên Chúa là điều không thể chấp nhận được.
2. Sự thờ ơ vô cảm của lòng người bóp chết tình yêu:
Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu trong dụ ngôn người Samaria nhân hậu đã đưa ra hình ảnh của thầy Trợ tế Lêvi và thầy Tư tế đối lập với người Samaria nhân hậu. Chắc chắn đó là sự kiện thường thấy trong sinh hoạt của người Do Thái lúc bấy giờ. Vì khi dùng dụ ngôn, Chúa Giêsu luôn lấy những hình ảnh đời thường để giúp mọi người hiểu chân lý đức tin. Ở đây không nhằm đi vào phân tích nguyên nhân tại sao họ có thái độ như thế, nhưng chủ ý muốn nói đến thái độ vô cảm thờ ơ của họ trước đau khổ của người khác. Họ là những người có luật, hiểu luật yêu thương thế mà họ lại không thực hiện ; trong khi đó, người Samaria không biết luật đó, không biết đối tượng tình yêu của mình thì ông lại biết sống vì yêu.
Ngày nay, sự thờ ơ dửng dưng, thái độ vô cảm trước nỗi đau của anh em đồng loại xem ra là căn bệnh của thời đại, của nhiều người, trong đó có cả người Kitô hữu. Báo đài đã lên tiếng về vấn đề này trong mọi môi trường của cuộc sống. Thái độ ấy đã và đang bóp nghẹt lòng người ; đã và đang đẩy biết bao người vào trong đau khổ bất hạnh ; đã và đang làm phân hóa xã hội. Kitô hữu chúng ta sống và làm gì trước hiện tượng đó ?
3. Tình yêu, con đường của sự sống: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời ?"
Đó là câu người Luật sĩ đã hỏi Chúa Giêsu, và câu trả lời của Chúa Giêsu thật là kinh điển dựa vào luật yêu thương: Ngươi hãy đi và làm như vậy. Câu trả lời kinh điển không thể khác hơn được, tình yêu đưa tới sự sống đó là chân lý của niềm tin Kitô giáo. Hình ảnh người Samaria trong dụ ngôn cho thấy một cách cụ thể tình yêu đã mang lại sự sống như thế nào. Nạn nhân bị cướp dọc đường nếu như không gặp được người Samaria mà chỉ gặp toàn những người như thầy Tư tế, Trợ tế thì chắn chắn anh ta không thể sống được, nhưng nhờ lòng bác ái mà anh đã được cứu sống. Chúa Giêsu chính là người Samaria nhân hậu đối với chúng ta. Người rời bỏ ngai tòa Thiên Chúa để đến cứu chữa, giải thoát chúng ta khỏi vết thương và sự chết do tội lỗi gây ra. Chúa đã đến vì yêu để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Ngày nay, đến lượt mỗi người Kitô hữu chúng ta phải tiếp tục là người Samaria bên cạnh tất cả những người chúng ta gặp trong cuộc sống mình.
Xã hội và con người bất hạnh khổ đau hôm nay có gặp được người Samaria nhân hậu hay không ? Con người hôm nay có tìm được sự sống và hạnh phúc hay không ? Câu trả lời cần đến trái tim nhân hậu của mọi người nói chung, và nhất là của Kitô hữu chúng ta. Những ai lâm cảnh thiếu thốn, khổ đau đều có quyền đòi Kitô hữu yêu thương bằng hành động cụ thể.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, yêu thương là giới luật của Thiên Chúa. Ngài đã trọn tình yêu thương chúng ta. Trong tình yêu Thiên Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Chúa Giêsu đã thiết lạp Giáo hội để tiếp nối Người yêu thương chăm sóc nhân loại khổ đau. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội thực sự là nhà, là nơi mọi người tìm thấy được sự yêu thương chăm sóc và ủi an qua sự đón tiếp chân thành của mọi thành phần trong Giáo hội.
2. Ngày nay vì sự thờ ơ, vô cảm của lòng người, vì sự ích kỷ vụ lợi mà nhiều người, nhiều nơi trên thế giới phải rơi vào thảm cảnh của chiến tranh, đói khổ, lạc hậu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia không chỉ lãnh đạo bằng sự khôn ngoan, tài trí mà còn bằng con tim biết yêu nước thương dân. Nhờ đó, mọi người được hưởng tự do, công lý và hòa bình.
3. Mến Chúa yêu người luôn là một đòi hỏi thúc bách của Chúa đối với Kitô hữu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết sống yêu thương bằng hành động bác ái hy sinh cụ thể dành cho anh chị em. Xin cho mọi người được trở nên những người Samaria nhân hậu cho anh chị em chung quanh.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là tình yêu, Chúa luôn mời gọi chúng con yêu thương nhau. Xin Chúa gia tăng đức ái, giúp chúng con biết quan tâm, mau mắn, giúp đỡ anh chị em khó khăn bên cạnh với tất cả khả năng và tấm lòng của mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng
-------------------------------
TN 15-C133: Yêu thương không được dùng những tiếng "không" lạnh lùng
Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu chuyện đớn đau và buồn phiền xảy ra ngoài đường TN 15-C133
Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu chuyện đớn đau và buồn phiền xảy ra ngoài đường phố cũng như nơi khu xóm. Hằng ngày chúng ta cũng được nghe nói đến những tai ương hoạn nạn xảy ra ở chỗ này hay ở chỗ kia trên thế giới. Tuy nhiên, thái độ của chúng ta thường là thờ ơ và dửng dưng.
Chúng ta chỉ biết lo cho bản thân mình, gia đình mình, họ hàng mình, phe nhóm mình mà thôi. Và chúng ta cảm thấy chẳng có tội lỗi chi cả, vì chúng ta không ăn gian, không nói dối, không giận hờn, không thù ghét, không cướp của, không giết người, v.v.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: yêu thương không được dùng những tiếng "không" lạnh lùng ấy, nghĩa là không được bằng lòng với khía cạnh tiêu cực, mà còn phải bước vào khía cạnh tích cực, nghĩa là phải làm những điều tốt cho người khác.
Khi đọc kinh cáo mình, chúng ta đã thú nhận những tội đã phạm nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Vậy những điều thiếu sót ấy là gì? Thưa chính là những điều chúng ta phải làm mà đã không làm.
Nghĩ xấu, nói hành, ăn trộm, giết người, v.v. đó là những việc làm tội lỗi ai cũng biết. Thế nhưng, không dạy bảo con cái, không giúp đỡ cha mẹ, không bố thí cho người nghèo, không thăm viếng người đau yếu khi có thể, v.v. đó là những việc thiếu sót và cũng là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chúng ta cần phải thành thật thú nhận trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người để xin ơn tha thứ.
Đức Hồng Y G.B. Phạm Minh Mẫn khi còn làm Tổng Giám mục Sài Gòn đã từng đưa ra câu TN 15-C134
Đức Hồng Y G.B. Phạm Minh Mẫn khi còn làm Tổng Giám mục Sài Gòn đã từng đưa ra câu hỏi: “Người Công Giáo là ai?” Ngài đã trả lời từ cái nhìn bên ngoài về người công giáo: “Là người theo đạo yêu thương”, “là người đi nhà thờ”, “là người của Thiên Chúa”… Tuy nhiên Ngài cũng đưa ra một “định nghĩa mới” về người công giáo: “Căn cứ vào những trải nghiệm ở chiều sâu đời sống đạo, người công giáo còn được định nghĩa là người cảm nhận mình được Chúa thương, đồng thời ý thức ân huệ đó đã trở thành luật căn bản cho cuộc sống làm người. Nói cách khác, trọng tâm của đạo làm người là yêu thương người khác như Thiên Chúa yêu thương. Vì thế, trong quan hệ với Thiên Chúa, cũng như trong quan hệ với đồng đạo, đồng bào, đồng loại, người công giáo chân chính là người chu toàn bổn phận hàng đầu là lấy tình thương đáp trả tình thương”. Trọng tâm của đạo làm người, nhất là đạo làm người Công giáo là yêu thương người khác.
Đoạn Tin Mừng này là lời giải đáp cho những người muốn thử thách Đức Chúa. Ông luật sĩ đã biết con đường để lên trời là mến Chúa, yêu người mà còn hỏi thử ĐG. ĐG hỏi ngược lại để chính ông nói lên điều răn của Đức Chúa: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi… và yêu người thân cận như chính mình”. Ông luật sĩ lại muốn thử xem người thân cận trong đạo của ông Giêsu này là ai, vì đối với người Do Thái quan niệm người thân cận rất hạn hẹp, chỉ là những người bà con và đồng đạo. Thay vì định nghĩa “người thận cận” là ai, ĐC đã chứng minh “người thân cận” là thế nào: là người không phân biệt bà con, lương giáo, quan điểm, thành phần xã hội… mà là người biết thực thi tình bác ái.
Tư Tế và Lêvi trong đoạn Tin Mừng này chính là Phó Tế và Linh mục ngày hôm nay. Luca ghi rất rõ, Thầy Sáu thấy người bị cướp: “Trông thấy người này, ông tránh qua một bên”. Linh mục, cũng vậy, “cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi”. Phải chi người Samari, là một người dân ngoại “cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi”, thì đỡ xấu hổ biết bao nhiêu. Đằng này ông ấy cũng đi ngang con đường đó, cũng thấy, nhưng khác nhau ở chỗ là “chạnh lòng thương”. Vì vậy ông đã dừng lại làm những hành động mà Tư Tế và Lêvi của đạo Do Thái không dám làm vì sợ vi phạm lề luật khi nghĩ rằng mình đụng đến xác chết, hoặc sợ trễ công việc của mình. Còn người Samari thì chỉ biết tìm cách giúp đỡ nạn nhân mà không sợ mất giờ, mất công, mất của. Rõ ràng Thầy Sáu và Linh Mục giữ luật trên sách vở, còn người Samari giữ luật trong tim.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết không? để gió cuốn đi”. Tấm lòng chính là đạo yêu thương, không bám víu, không nặng nề, mà rất nhẹ nhàng, thanh thoát để gió có thể cuốn đi bất cứ nơi nào cần tình yêu thương. Tấm lòng đó còn có thể gọi là lòng tốt. Lòng tốt được nhận thấy ở những điểm sau đây:
Lòng tốt tự phát là lòng tốt đã ăn sâu vào con tim, đã trở thành máu thịt và hơi thở của con người, để gặp một hoàn cảnh đáng thương, nó sẽ bộc lộ một cách hết sức tự nhiên và dễ dàng.
Lòng tốt này chúng ta nhận thấy nơi ĐG, tự nhiên thấy đám đông bơ vơ cũng “Chạnh lòng thương”, tự nhiên thấy chiều tới là kêu các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”…
Lòng tốt này chúng ta thấy nơi hình ảnh của người Samari nhân hậu trong bài Tin Mừng hôm nay. Tự nhiên thấy người ta bị nạn, nhào xuống lấy dầu, lấy rượu xức, băng bó vết thương, còn chở vào quán trọ, bỏ tiền ra nhờ người ta chăm sóc vì mình có việc gấp phải đi.
Lòng tốt này tôi cũng nhận thấy nơi hình ảnh bà già trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Tự nhiên dựng một cái chòi lá sát mé lộ, để một sạp tre, một lu nước mưa. Con cháu hỏi để chi vậy? Bà nói để người ta đi đường có mỏi vào nghỉ, có khát vào uống. Ban đêm đốt cái đèn dầu treo toòng teng trong cái chòi. Người ta hỏi treo chi vậy? Bà nói treo cho người đi đường khỏi sợ ma, đi đêm mà thấy ánh sáng cũng an tâm, cũng ấm lòng hơn.
Lòng tốt này không nhiều nhưng chúng ta cũng thấy trong cuộc sống. Tự nhiên thấy người ta nghèo cũng thương, nghe người ta kể khổ cũng khóc, có nhiêu tiền cũng móc cho người ta. Tôi đang đi với một người, bỗng thấy anh hối hả qua bên kia đường, không biết chuyện gì? À, thì ra anh đi qua cho bà già ăn xin ít tiền. Bà đâu có kêu la, vậy mà anh vẫn thấy.
Lòng tốt tự phát này, người đời có thể gọi là “lòng tốt lãng xẹt”. Lòng tốt này không phải muốn là được, không phải tập một ngày một bữa là có, mà nó là kết quả của những việc tốt nho nhỏ hằng ngày được dệt kết trong ý thức mình là con Chúa, phải sống đạo yêu thương. Phần thưởng của lòng tốt tự phát này không gì khác hơn là niềm vui được làm thêm “những việc lãng xẹt”. Ví dụ, một đám bạn đi trước sân nhà thờ, một đứa nhào tới lấy miếng giấy hốt cục phân chó. Mấy đứa kia cười ha hả: “Thứ gì thấy cứt chó như thấy bánh!” Đối với người đời đó là “chuyện lãng xẹt”, còn đối với những ai có được lòng tốt tự phát đó, lại là một niềm vui, một niềm hạnh phúc. Một đám bạn chạy xe trên đường. Một đứa bỗng dừng lại, qua lộ, dắt bà già qua đường. Mấy đứa kia nói: “Rãnh quá hé!” Họ không mong chờ phần thưởng nào khác hơn là được làm nhiều những “chuyện lãng xẹt!”
Lòng tốt không giới hạn là không phân biệt thành phần, đối tượng, đẳng cấp; không ranh giới gia đình, họ đạo, có đạo hay không có đạo… nhưng là lan tỏa cho tất cả mọi người, mọi thành phần, mọi ranh giới.
Đụng xe cái rầm trong xóm đạo, mọi người nhào ra xem, hai người bị thương như nhau. Bỗng một người la lên: “Thằng này đeo thánh giá, đem nó đi trước, còn thằng kia đeo ông Phật, để đó tính sau”. Đó là giới hạn của tình yêu.
Cha Piô Ngô Phúc Hậu kể chuyện: Ông Năm có hai bà vợ, người ta gọi là bà Năm lớn, bà Năm nhỏ. Từ khi ông Năm chết, hai bà Năm về sống chung nhà. Một hôm cha Hậu lại thăm bà Năm nhỏ, tặng bà một xâu chuỗi. Bà xin thêm một xâu nữa cho bà Năm lớn. Ai nói tình yêu không thể san sẻ đâu?!
Họ đạo nọ cha sở khó lắm, nên có người không thương cha. Ngược lại cha phó rất vui vẻ, hoạt bát, dễ thương. Một hôm cha phó đi thăm một bà già bệnh tật trong họ đạo. Khi cha về, bà nói: “Con sẽ cầu nguyện cho cha”. Cha phó nói: “Cầu nguyện cho cha sở nữa”. Bà già trả lời: “Không, cha sở khó quá, con không cầu nguyện cho cha sở. Cha phó dễ thương, con cầu nguyện cho cha phó!” Cha phó bảo: “Nếu bà không cầu nguyện cho cha sở thì tôi không đến thăm bà nữa!” Bà già nói: “Vậy con sẽ cầu nguyện cho cha sở, cha phó luôn, nhưng cha phó nhiều hơn!”. “Vậy cũng được!”– cha phó trả lời cho bà ta. Cha phó đang tập cho giáo dân mình biết sống tình yêu thương không giới hạn.
hụng vụ lời Chúa hôm nay làm nỗi bật chủ đề yêu thương, đó là đạo làm người, và nhất là đạo làm con Chúa. Tình yêu thương này phải là một tình yêu thương tự phát và không có giới hạn. Nghĩa là nó trở thành nhịp thở của trái tim ta, nó trở thành phản ứng tự nhiên của ta.
Xin ơn Chúa giúp qua lời bầu cử của Mẹ Maria, thánh cả Giuse và cha Phanxicô Trương Bửu Diệp cho mỗi người chúng ta luôn ý thức để sống đạo làm người, đạo làm con Chúa qua việc trau giồi đời sống yêu thương.
Sống với nhau chưa hẳn đã là người thân của nhau. Bởi vì tâm hồn họ vẫn còn xa nhau, có khi TN 15-C135
Sống với nhau chưa hẳn đã là người thân của nhau. Bởi vì tâm hồn họ vẫn còn xa nhau, có khi còn làm đau lòng nhau. Đi bên nhau chưa chắc đã là bạn bởi vì thiếu niềm tin nơi nhau.
Trong một bài báo viết rằng: Cuối tuần, quán nhậu ì xèo, ầm ầm tiếng nói cười – người tỉnh người say rào rào lên; đâu đó có tiếng điện thoại: “Gọi gì mà gọi nhiều thế, tối tôi về, lắm mồm!”. Một người đàn ông lớn tiếng, chắc là quát vợ. Nói xong, anh lại quay sang hội chiến hữu.
“Uống đi này các cậu, bữa nay tôi mời! Lâu lắm mới gặp nhau!”.
Đám bạn gọi anh là thằng bạn “chơi được” nhất, tử tế quá! Còn vợ anh, chắc đang ngồi ngao ngán, gọi chồng về ăn cơm cũng bị mắng vốn.. .
Đôi khi nghĩ lại mình cũng “khôn nhà dại chợ” thật! Chúng ta cũng thường dễcáu gắt với mẹ khi dọn phòng sạch sẽ nhưng lạidễ cười xòa bỏ qua khi aiđónhỡ tay bôi bẩn ra áo. Vợ yêu kể chuyện cười thì không nghe, có khi cònlẩm bẩm kêu nhạt quá,nhưng nếu một người dưng không quen biết họ kể thì mình khen lấy khen để,chỉ để cho họ vui lòng. Có khi, chỉ vì bị bố gọi dậy đi làm thôi tôi cũng gắt gỏng, trong khi nếu sếp mắng vì đi làm trễ thì cũng ngậm ngùi bỏ qua.
Tại sao vậy? Tại sao chúng ta luôn cư xử với người lạ một cách thân tình, tử tế nhưng một lời nhắc của bố mẹ “đi đường cẩn thận nhé con” cũng khiến chúng ta nổi quạu “biết rồi mà, bố mẹ nói nhiều quá”. Tôi cứ hỏi đi hỏi lại câu hỏi này rất nhiều lần…?
Hôm nay Chúa Giê-su bảo nếu là người thân của nhau thì phải cúi xuống ủi an, nâng đỡ và dành thời gian giúp đỡ cho nhau. Hình ảnh thầy Levi, Thầy Tư tế bỏ lại người thân của mình nơi ven đường phải chăng cũng là hình ảnh của chính chúng ta cũng từng làm ngơ trước biết bao cái khổ, cái cực nhọc của người thân trong gia đình.
Ở đâu đó trong những mái nhà có những người cha người mẹ già yếu, ăn nhờ con cái nhưng cũng chỉ được bữa có bữa không, thiếu thốn, cô đơn giữa đàn con đông đúc.
Ở đâu đó trong những mái nhà có người vợ một mình đau đớn trong bệnh tật bên cạnh người chồng vô tâm chỉ biết ăn nhậu và sống trưởng giả.
Ở đâu đó trong những xóm đạo dành của cải để đầu tư vào lễ hội kèn trống linh đình mà bỏ rơi người nghèo khó Lagiaro đang kiếm tìm từng đồng tiền lẻ để có miếng cơm hằng ngày.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dừng lại để giúp đỡ những ai đang cần đến chúng ta, hãy biết chia sẻ với những khó khăn của tha nhân.
Hình ảnh vô tâm của thầy Tư Tế và Lê vi vô cảm như là lời nhắc nhở chúng ta đừng vô tâm với người thân cận của mình. Chúng ta có thể tốt với bạn bè, lịch thiệp với đồng nghiệp tại sao ta lại không đối xử tốt với người thân trong nhà? Chúng ta quảng đại từ thiện chỗ này, rộng rãi với chỗ kia sao chúng ta không dành sự quan tâm chia sẻ cho những người đang sống bên cạnh chúng ta?
Ước gì trong năm mục vụ với chủ đề đồng hành với gia đình khó khăn sẽ là lời nhắc nhở chúng ta đừng để gia đình mình trở thành gia đình khó khăn vì chính thái độ vô tâm thiếu trách nhiệm của mình. Hãy quan tâm tới người thân của mình đừng để thiên hạ nói: “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”. Nguyện xin Chúa là Đấng đã hết lòng yêu thương và phục vụ con người cho đến nỗi bằng lòng chịu chết vì chúng ta, xin giúp cho chúng ta cũng biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen
Lời Chúa chúng ta vừa nghe là một câu chuyện hết sức đẹp trong Tin Mừng của Chúa. Lý do TN 15-C136
Lời Chúa chúng ta vừa nghe là một câu chuyện hết sức đẹp trong Tin Mừng của Chúa. Lý do vì nó có liên hệ rất mật thiết đến giá trị cuộc đời của mỗi người trong cuộc sống làm người của mình. Đó là vấn đề BIẾT và LÀM.
1. Nội dung câu chuyện.
Câu chuyện bắt đầu từ một câu hỏi rất cụ thể và thực tế của một người thông luật. Người thông luật trong xã hội Do Thái là người hiểu biết rất rõ về lề luật của Chúa.
Một hôm, ông đứng lên hỏi Ðức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?"(Lc 10,25). Câu hỏi của có liên hệ rất mật thiết với vấn đề hết sức quan trọng của một đời người. Đó là sự sống của cả một đời người. Hạnh phúc hay đau khổ, thành hay bại đều tuỳ thuộc vào việc PHẢI LÀM này.
Đứng trước câu hỏi này Chúa Giêsu đã không trả lời ngay. Chúa tế nhị khôn khéo kéo người thông luật về những gì ông biết. Chúa hỏi lại: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi và người thân cận như chính mình".(Lc 10,27-28). Đúng là một người thông luật. Ông đã trả lời Chúa một cách đầy đủ, chính xác không thể chê vào đâu được. Chính Chúa cũng phải xác nhận điều đó. Ðức Giêsu bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm.(Lc 10.28)
Tới đây thì vấn đề người thông luật đặt ra đã có câu trả lời và câu trả lời chính là những điều ông ta đã biết từ lâu vì nằm trong nghề nghiệp của ông ta.
Kết thúc câu chuyện Chúa Giêsu đã kết thúc bằng một lệnh lên đường: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy". Thật rõ ràng và cũng thật dứt khoát.
2. Bài học
Thử hỏi đâu là bài học Chúa muốn dạy chúng ta qua câu chuyện hôm nay?. Đọc lại câu chuyện rồi liên kết các ý chính lại với nhau, chúng ta sẽ thấy ý của Chúa thật rõ. "Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp - Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? - Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."Tới đây thì ý của Chúa đã thật rõ: Chúa đã buộc vấn đề BIẾT và LÀM lại với nhau.
Biết và làm phải luôn đi với nhau. Biết mà không làm thì sẽ chẳng mang lại điều gì tốt đẹp.
Một người mê cờ bạc, ngày kia nói với Minh Sư:
- Hôm qua người ta bắt gặp con chơi cờ gian bạc lận nên những người chung sòng đã cho con một trận nên thân và họ đã liệng con qua cửa sổ. Thầy thấy con phải làm gì đây?
Minh Sư nhìn thẳng vào mắt anh ta rồi nói:
- Nếu tôi ở vào trường hợp của anh, từ rày về sau, tôi sẽ chơi bài ở tầng trệt.
Các đệ tử giật mình nên hỏi:
- Sao thầy không khuyên bảo anh ta đừng chơi bài nữa?
Minh Sư trả lời một cách ngắn gọn và đầy ý nghĩa như sau:
- Bởi vì thầy biết có khuyên như thế cũng chỉ bằng thừa mà thôi.
Ngược lại nếu biết mà cố gắng làm thì cuộc sống sẽ vô cùng tốt đẹp.
Cha muốn kết thúc bằng câu chuyện cảm động có thật này:
Chúng con biết: Vua cầu thủ bóng đá Pele được mọi người khen tặng "Hạt ngọc đen", từ nhỏ đã rất yêu thích bóng đá, và đã thể hiện tài năng của mình.
Có một lần, cậu tham gia thi đấu một trận bóng rất cuồng nhiệt, mệt thở hổn hển.
Lúc nghỉ ngơi cậu định hút một điếu thuốc.
Lúc đó cha cậu nhìn thấy vậy, liền chau mày lại.
Buổi tối khi trở về nhà, cha cậu nói:
- Hôm nay con hút thuốc?
Cậu nghĩ ra đó là việc không nên làm, đã khiến cho cha cậu giận dữ.
Nhưng cha cậu lại không nói gì, đứng dậy lấy lại bình tĩnh nói với con:
- Con trai, khi con chơi thể thao là rất tốt, và cần có thời gian nghỉ ngơi. Nhưng đáng tiếc là con lại dành thời gian đó vào việc hút thuốc. Con không nên hút thuốc nữa. Như thế sẽ làm giảm khả năng thi đấu của mình.
Pele cúi đầu không nói. Người cha lại nhẹ nhàng khuyên giải:
- Là một người cha, ta có trách nhiệm phải dạy dỗ con đi theo con đường tốt, cũng như có trách nhiệm phải ngăn chặn những hành vi không tốt. Thế nhưng có đi theo con đường tốt hay tránh đi theo thói xấu hay không là do bản thân con quyết định nữa. Ta chỉ muốn hỏi con, con có muốn cai thuốc không? Còn muốn làm một cầu thủ khỏe mạnh không? Con trai, con đã hiểu rồi đấy, vậy thì tự con quyết định đi.
Nói đến đó, người cha móc ra một tờ ngân phiếu, đưa cho Pele và nói:
- Nếu như con không muốn làm một cầu thủ và đồng ý bỏ thuốc thì đây là tiền mua thuốc của con.
Người cha nói xong liền bỏ đi.
Pele nhìn theo hình bóng xa dần của cha, không kềm được nước mắt. Nhưng không tài nào khóc thành tiếng được, và một hồi lâu mới khóc lên thành tiếng. Cậu đã hiểu ra được rất nhiều, cậu liền đứng dậy cầm tờ ngân phiếu trên bàn chạy đi trả lại cho cha, và kiên quyết nói với cha mình:
- Thưa cha, con nhất định sẽ không hút thuốc nữa, con nhất định phải trở thành một cầu thủ xuất sắc.
Từ đó về sau, Pele không những đã bỏ thuốc mà còn gian khổ luyện tập, nghệ thuật đá bóng ngày càng điêu luyện. 15 tuổi tham dự giải bóng đá quốc gia, 16 tuổi được gia nhập vào đội tuyển Braxin. Giúp Braxin lập kỳ tích giữ vĩnh viễn chiếc cúp vô địch “Nữ thần".
Đến nay, Pele đã trở thành một người giàu có, nhưng ông vẫn không hút thuốc.
Vào thế kỷ 16, ở Châu Âu có một nhà hàng hải rất nổi tiếng, hoàn thành chuyến thám hiểm của mình. Ông phát hiện ra một châu lục mới. Nữ hoàng biết được chuyện này đã mở tiệc khoản đãi ông. Nữ hoàng cũng mời rất nhiều quý tộc tham gia bữa tiệc đó để thể hiện sự tôn trọng đối với ông. Song những nhà quý tộc đó lại tỏ thái độ coi thường nhà hàng hải đó.
Trong bữa tiệc, một số quý tộc mượn hơi men để chế giễu nhà hàng hải này rằng, châu lục mà ông phát hiện ra, trước đây họ biết từ lâu rồi, chẳng có gì ghê gớm cả. Ông ta vừa dứt lời, thì các quý tộc khác cũng lên tiếng phụ họa. Họ đắc ý chờ đợi nhà hàng hải trở thành trò cười của mọi người.
Nhà hàng hải không tranh luận với họ, mà chỉ cầm một quả trứng đã được luộc chín, hỏi:
- Trong số các ông, ai có thể đặt quả trứng này đứng trên mặt bàn nhẵn mà không dùng bất cứ vật đỡ nào?
Các nhà quý tộc thay nhau cầm quả trứng thử. Nhưng cuối cùng họ kết luận: không thể nào làm được chuyện đó.
Lúc đó nhà hàng hải mới cầm quả trứng lên, đập bẹp một đầu quả trứng rồi đặt xuống bàn. Lúc này, quả trứng đứng vững trên mặt bàn.
Các nhà quý tộc đều tỏ vẻ không phục, nói:
- Cách làm này, chúng tôi ai cũng biết.
Nhà hàng hải nghe xong, nói:
- Đúng vậy, các ông đều biết, nhưng các ông lại không làm được. Đây là khác biệt lớn nhất giữa thành công và thất bại.
Nói và làm có sự khác biệt về mặt bản chất. Có một số người suốt ngày lớn tiếng hô hoán phải làm việc lớn gì đó, nhưng mãi không thấy họ hành động. Xét cho cùng họ chỉ là những người tự lừa dối bản thân. Trong xã hội hiện đại vốn coi trọng hiệu quả công việc, chúng ta hãy luôn ghi nhớ câu nói: sự khác biệt lớn nhất giữa thất bại và thành công chính là sự khác nhau giữa nghĩ được và làm được.
Nói và làm có sự khác biệt về mặt bản chất. Có một số người suốt ngày lớn tiếng hô hoán phải làm việc lớn gì đó, nhưng mãi không thấy họ hành động. Xét cho cùng họ chỉ là những người tự lừa dối bản thân. Trong xã hội hiện đại vốn coi trọng hiệu quả công việc, chúng ta hãy luôn ghi nhớ câu nói: sự khác biệt lớn nhất giữa thất bại và thành công chính là sự khác nhau giữa nghĩ được và làm được.
Lm Giuse Dinh Tất Quý
-------------------------------
TN 15-C137: Ai là người thân cận của tôi hay tôi là người thân cận của ai?
- Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Khi một luật sĩ hỏi câu gì, thì ông đã biết câu trả lời phải làm sao. Khi một luật sư hỏi bên bị TN 15-C137
Khi một luật sĩ hỏi câu gì, thì ông đã biết câu trả lời phải làm sao. Khi một luật sư hỏi bên bị, bên nguyên, ngay cả hỏi quan toà, thì ông đã tiên liệu trước câu trả lời. Nếu người được hỏi trả lời thế này, sẽ bắt bẻ thế này. Nếu trả lời ngược lại, sẽ bắt bẻ thế kia. Đối với một luật sư, họ không bao giờ hỏi một câu mà họ không biết chắc câu trả lời.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng có luật sư, mà Kinh Thánh gọi là luật sĩ, là thầy thông luật. Thầy sẽ hỏi và người được (bị) hỏi là Thầy Giêsu. Câu hỏi 1 của ông xuôi chảy, dẫu là để thử Chúa:
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: "thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?" Đức Giêsu đáp (nhưng là hỏi): "Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?" Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."
Vậy là ông hỏi Chúa, và ông cũng biết câu trả lời, nên khi Chúa hỏi lại, ông trả lời vanh vách. Nhưng khi Chúa khen, ông trở nên quê, nên phải hỏi một câu nữa cho ra nhẽ là thông luật. Sách Tin Mừng ghi: Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng (và đây là câu hỏi 2): "Nhưng ai là người thân cận của tôi ?"
Và khi hỏi câu đó, ông cũng biết tỏng câu trả lời: Người thân cận của tôi là người Do Thái chứ ai. Theo truyền thống Do Thái, người thân cận, làng xóm được định nghĩa như là: những người con trai của riêng xứ bạn. Tức là, người làng xóm láng giềng: không phải là tôi nhà số 12 Trần Phú, người hàng xóm sẽ là số 14 hoặc 16. Không phải. Kẻ ở thiệt xa, tôi Nhatrang họ Thái Bình, nhưng sẽ là làng xóm, láng giềng thân cận nếu họ cùng dân tộc. Người ở sát vách, mà là dân tộc khác, họ chẳng phải là láng giềng, lân cận.
Hãy yêu người lân cận như chính mình. Luật dạy thế. Vậy ai là người lân cận, chòm xóm. Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của luật sư, mà kể ra một dụ ngôn gây sốc, dụ ngôn người Samaritano nhân lành, mà đối với người Do Thái, bất kể người Samaritano nào cũng đáng ghét cả. Họ ở xa cũng đáng ghét, họ ở gần càng đáng ghét hơn.
Kết dụ ngôn sẽ là một câu hỏi ngược lại cho nhà thông luật kia: "Vậy ông nghĩ, trong ba người đó (tư tế, Lêvi và người ngoại Samaritano), ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?" Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
Khi ông luật sư muốn biết rõ định nghĩa của hai chữ “thân cận”, tức “đối tượng” yêu mến thì Đức Giêsu lại cho ông hay về “chủ thể” của lòng mến yêu, tức người yêu thương, chứ không phải kẻ được yêu thương. Thay vì hỏi: ai là người thân cận, Chúa Giêsu chuyển qua câu hỏi: tôi là người thân cận của ai.
Người Samari là kẻ thi thố lòng yêu thương cho tha nhân, bất kể người đó là ai: Tây, Tàu, Nhật Bản, Do Thái hay Hy Lạp, Ả Rập. Bin Laden. Bởi vì ông là người thân cận rồi, thì ông chẳng cần tìm hiểu xem ai là người thân cận để chỉ yêu người thân cận mà thôi. Thầy thông luật đã đặt sai câu hỏi. Ông muốn giới hạn lòng yêu mến: Xin Thầy chỉ cho tôi chính xác phải yêu mến tới đâu, người nào? Chúa Giêsu trả lời: Đừng hỏi thế, mà nên hỏi: Tôi phải yêu mến thế nào? Tới đâu là giới hạn.
Trong một buổi học ở Manila, 1995, các học viên được giảng viên yêu cầu mỗi người làm một thực tập nhỏ là lấy một tờ giấy lớn và ghi tên tất cả những người thân của mình, những người mà mình yêu thương đến độ có thể hy sinh mạng sống vì những người ấy. Ai nấy chăm chú suy nghĩ và cắm cúi viết. Một học viên người Việt sau giờ học tâm sự: “Thấy người ta ghi, tôi cũng ghi. Nhưng rất nhanh, tôi nhận ra rằng danh sách những người thân của tôi, những người mà tôi thương yêu hơn cả bản thân mình đến mức tôi sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh vì những người ấy thì rất ngắn ! Vì ngoài mẹ tôi, vợ tôi và hai con tôi, tôi không dám ghi thêm tên một người nào khác nữa, vì tôi không chắc là mình đã yêu thương những người ấy đến độ có thể hy sinh mạng sống cho một ai trong họ.
Tôi phải thú nhận rằng: dù giảng viên không yêu cầu chúng tôi nộp danh sách, cũng không yêu cầu học viên nói lên số người được ghi trong tờ giấy của mình nhưng riêng tôi, tôi rất xấu hổ: xấu hổ với Chúa và xấu hổ với chính mình. Vì người thân cận quá ít.”
Ấy vậy mà trong cuộc sống, người thân cận lại quá nhiều để mình phải yêu thương. Nói cách khác, vì tôi là người thân cận rồi, nên chẳng cần tìm ai là người thân cận để yêu thương nữa, mà là cứ yêu thương bất cứ ai.
Tại một giao lộ, một bà đứng bên lề đường đang chờ đèn báo để sang đường. Đối diện với bà bên kia đường là một thiếu nữ khoảng 17 tuổi. Cô ta cũng đợi để sang đường. Bà không thể nào không thấy là thiếu nữ này đang khóc vì nỗi buồn của cô quá lớn đến nỗi cô không thèm giấu nó.
Đèn báo bật sáng. Mỗi người bước khỏi lề và khởi sự sang đường. Khi hai người sắp sửa gặp nhau, bản năng làm mẹ của bà bỗng nhiên nổi dậy. Bà như muốn đến với cô ta để an ủi cô. Ao ước đó lại càng gia tăng vì người thiếu nữ này cũng trạc tuổi cô con gái của bà.
Nhưng bà đã để cô đi qua. Ngay cả một lời thăm hỏi cũng không. Chẳng khác gì thầy tư tế và Lêvi đi ngang qua và chạy nhanh khi gặp người bị cướp đánh cho nhừ tử.
Cho nên, nhiều giờ sau, đôi mắt ngập tràn đau khổ của cô gái vẫn tiếp tục ám ảnh bà. Bà luôn luôn tự hỏi, "Tại sao mình không quay lại hỏi thăm, 'Cưng ơi, tôi có thể giúp gì cho cô không?' Mình đã không làm vậy. Mình bước đi. Chắc chắc là cô ta có thể khước từ mình và nghĩ mình là người tò mò. Nhưng có sao đâu! Chỉ mất có vài giây đồng hồ, nhưng vài giây đó cũng đủ cho cô ấy biết được là có ai đó quan tâm đến cô. Nhưng mình đã bỏ đi. Mình đã làm như thể cô ấy không hiện diện."
Hằng ngày chúng ta gặp những biết bao nhiêu người không bị đánh nhừ tử nơi thân xác, nhưng nơi tâm hồn. Chúa Kitô muốn chúng ta giúp đỡ không những người đau đớn thể xác, mà cả những kẻ đau khổ nơi tâm hồn. Giáo hội của Chúa cũng dạy thương người có 14 mối thương xác 7 mối, mà thương linh hồn cũng 7 mối: lấy lời lành khuyên người, sửa dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Ta có thể nói theo ngôn ngữ thông thường hơn về việc thương người 7 mối, mặt tâm hồn: Làm thế nào ? Ta có thể có 3 cái cho sau đây
-Một nụ cười chân thành. Mẹ Têrêxa Calcutta thường khuyên như thế, dù mẹ cười không đẹp, nhưng lòng thành của mẹ chẳng ai lại không thấy. Bao vết thương có thể lành miệng, nhờ ta mở miệng nở nụ cười.
-Một lời chào vui vẻ. Sự ân cần thăm hỏi có thể giảm bớt nỗi đau của một tâm hồn sầu muộn. Lời chào lời thăm hỏi trực tiếp khi tiếp xúc mà cũng có thể qua phương tiện truyền thông như thư từ, điện thoại, email tất cả đều có sức chữa lành.
-Một lời “cảm ơn” nồng nàn. Nó có thể khích lệ một người bị quên lãng, bị khinh khi. Bạn hãy cố gắng cám ơn bác tài xế, người phu hốt rác, người phát thư và bạn cũng cần cám ơn những người trong gia đình bạn. Thầy cô giáo bạn, người chiêu đãi và cả người thợ cạo râu hớt tóc.
Quả thật, con đường từ Giêrusalem xuống Yêricô, trên đó kẻ cướp để nạn nhân nửa sống nửa chết, trên đó người Samatitanô nhân hậu đã chăm sóc nạn nhân, con đường đó khởi sự từ nhà thờ này, từ cửa nhà thờ tới nhà bạn, tới bàn giấy, tới xưởng thợ, tới nơi làm việc, tới lớp học của bạn. Dọc theo con đường ấy, có biết bao người bị thương nặng, nhẹ trong tâm hồn, hãy dừng lại và tiếp giúp họ. Nói vài lời, nở nụ cười, làm một việc để giúp đỡ.
Hãy là người thân cận của mọi người chứ không phải tìm ai là người thân cận để yêu mến một mình người đó không thôi, như ông luật sĩ nọ.
Anphong Nguyễn Công Minh, ofm (tổng hợp từ nhiều nguồn)
(Suy niệm Tin mừng Luca (Lc 10, 25-37) trích đọc vào Chúa nhật 15 thường niên)
Chúng ta hãy xét xem hai việc sau đây: Một là thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ, hai là TN 15-C138
Chúng ta hãy xét xem hai việc sau đây: Một là thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ, hai là phục vụ người đau yếu, nghèo khổ… ngoài xã hội, việc nào quan trọng hơn?
Làm việc nào trong hai việc đó thì sẽ được sống đời đời?
Thầy Tư tế và thầy Lê-vi trong bài Tin mừng hôm nay tiêu biểu cho những người chọn việc thờ phượng Thiên Chúa là việc cần phải làm để được sống đời đời, còn việc phục vụ người hoạn nạn, khốn khổ là việc thứ yếu, chẳng cần quan tâm.
Chính vì thế, khi thấy một nạn nhân nằm thoi thóp bên đường, mình đầy thương tích, đang rên la kêu cầu trợ giúp, các thầy lánh sang một bên, vội vã tiến về nhà cho kịp giờ cầu nguyện hay dâng lễ vật lên Thiên Chúa; còn chuyện cứu khổ cứu nạn, thì đừng dại dột giây mình vào làm chi cho phiền hà rắc rối, chẳng được ích gì.
Còn người Sa-ma-ri tiêu biểu cho những người chọn phục vụ người hoạn nạn khốn khổ là việc cần làm để được sống đời đời, nên khi thấy nạn nhân nằm thoi thóp bên đường, ông liền cho lừa dừng lại, bước xuống cúi mình trên nạn nhân, cảm thương thân phận người xấu số. Ông mở hành trang lấy rượu rửa sạch vết thương, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím, rồi vực nạn nhân lên lừa của mình, quay trở về quán trọ để chăm sóc chu đáo…"
Về phần chúng ta, chúng ta chọn làm theo bên nào, theo cách hành xử của thầy tư tế và Lê-vi hay theo cung cách phục vụ của người Sa-ma-ri?
Tốt nhất, chúng ta hãy học cách hành xử đúng như Chúa Giê-su muốn, dựa theo bài Tin mừng hôm nay.
Khi có người thông luật hỏi: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?”
Chúa Giê-su giúp anh tìm ra câu đáp chính xác, đó là mến Chúa và yêu người.
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn ngươi và yêu mến người thân cận như chính mình."
Như thế là phải chọn cả hai, vừa yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức, vừa yêu thương người thân cận như chính mình. Cả hai việc này đều phải được ưu tiên như nhau, nếu chúng ta thiếu một trong hai thì không được hưởng phúc thiên đàng.
Tại sao thế?
Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô 16 cho ta biết lý do:
Ta phải chọn cả hai, vừa yêu mến Thiên Chúa, vừa phải yêu thương phục vụ những người quanh ta, vì Thiên Chúa và con người chỉ là một. Ngài viết như sau:
“Chúa Giê-su đồng hóa mình với những người cùng quẫn, những người đói khát, những khách lạ, những kẻ trần truồng, đau yếu và những người đang trong vòng lao lý. "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40). Mến Chúa và yêu người đã trở thành một: Trong những người anh em bé nhỏ nhất, chúng ta tìm thấy chính Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu chúng ta gặp được Thiên Chúa.” (Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” số 15 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô)
Và chính vì thế, ngài dạy:
“Việc bác ái cũng như việc ban phát bí tích và rao giảng Lời Chúa đều là hoạt động cốt yếu của Hội thánh;
Yêu thương những người bất hạnh cũng như ban phát bí tích và rao giảng Lời Chúa đều thiết yếu đối với Hội thánh;
Do đó, Hội thánh không thể lơ là việc phục vụ bác ái cũng như không thể lơ là việc ban bí tích và rao giảng Tin mừng” (Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô).
Chính vì Chúa Giê-su là một với những người quanh ta, nên chúng ta không chỉ thờ phượng Ngài trong nhà thờ mà còn phải ân cần phục vụ Ngài đang hiện diện nơi những người bất hạnh. Chúng ta hãy nghe lời nhắn nhủ của thánh Gioan kim khẩu về bổn phận này như sau:
“Bạn muốn tôn kính thân thể Đức Ki-tô ư? Thì chớ khinh chê thân thể ấy khi thân thể ấy trần trụi: Đừng có thái độ nầy là trong nhà thờ thì tôn kính, cho thân thể Ngài mang những y phục lụa là gấm vóc, nhưng ở ngoài lại coi thường, để cho thân thể ấy phải giá lạnh và trần trụi.…
Thân thể Chúa ở đây (trong nhà thờ) không cần y phục, nhưng cần tâm hồn trong trắng; còn thân thể Chúa ngoài kia thì cần được chăm lo tận tình.” (thánh Gioan Kim Khẩu)
Lạy Chúa Giê-su,
Lâu nay chúng con nghĩ rằng chỉ cần thờ phượng Chúa cho sốt sắng là đủ để được lên thiên đàng, hóa ra không phải thế. Nếu chúng con lơ là không quan tâm chăm lo cho người người bất hạnh thì chúng con phải mang án phạt đời đời (Mt 25,41).
Xin ban thêm cho chúng con đức tin và lòng yêu mến để chúng con tin Chúa hiện diện nơi mọi người, đặc biệt là nơi những người đau khổ và đem hết khả năng để phục vụ và yêu mến họ. Có như thế, chúng con mới được hưởng phúc thiên đàng.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
-------------------------------
TN 15-C139: Thiên Chúa, Ngài là Đấng cao cả tuyệt mức
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XV Thường Niên Năm C mời gọi chúng ta suy gẫm về Thiên Chúa TN 15-C139
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XV Thường Niên Năm C mời gọi chúng ta suy gẫm về Thiên Chúa, Ngài là Đấng cao cả tuyệt mức nhưng cũng là Đấng vô cùng gần gũi với chúng ta. Đây là hai chiều kích bất khả phân về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Đnl 30: 10-14
Lời Chúa không ở xa chúng ta, nhưng ở gần bên chúng ta, ngay trong miệng trong lòng để chúng ta đem ra thực hành.
Cl 1: 15-20
Thánh Phao-lô nhắc nhở tín hữu Cô-lô-xê tính ưu việt tuyệt đối của Chúa Ki-tô trong trật tự tự nhiên cũng như trong trật tự siêu nhiên.
Lc 10: 25-37
Tin Mừng thuật lại huấn lệnh “yêu người” của Đức Giê-su được minh họa qua dụ ngôn “người Sa-ma-ri nhân lành”. Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su để cho thấy Ngài đến với chúng ta bằng trọn tấm lòng xót thương của Ngài, cúi xuống trên những khốn khổ của chúng ta và làm cho mình trở thành người thân cận của chúng ta.
BÀI ĐỌC I (Đnl 30: 10-14)
Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm và cuối cùng của bộ Ngũ Thư.“Đệ Nhị Luật”, tức “luật thứ hai” (deuteros: thứ hai và nomos: luật), vì thế cũng được gọi một cách ngắn gọn“Thứ Luật”. Đây là nhan đề mà Kinh Thánh Hy-lạp đặt cho sách vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên.
1.Bối cảnh:
Quả thật, sách được trình bày dưới hình thức năm bài diễn từ của ông Mô-sê được cho là đang ngỏ lời với dân Ít-ra-en trước khi dân tiến vào Đất Hứa. Thật ra, tác phẩm này đã được biên soạn nhiều thế kỷ sau này, vào thời kỳ mà dân Chúa bất trung cần những lời nhắc nhở về lịch sử Giao Ước và những yêu sách mà Giao Ước đòi hỏi. Cuộc khủng hoảng này chắc chắn xuất xứ từ vương quốc miền Bắc vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên và một thế kỷ sau đó đã để lại hệ lụy cho vương quốc miền Nam.
Vì thế, sách Đệ Nhị Luật là thể loại giáo lý về Giao Ước nhằm trả lời cho một câu hỏi cơ bản: Tại sao dân Ít-ra-en lại thiếu niềm tin? Do bởi niềm tin này đã không được sống ở trong lòng, những huấn lệnh cũng như những chỉ thị của Thiên Chúa vẫn ở bên ngoài con người. Đoạn văn mời gọi một đời sống tôn giáo nội tâm này, vốn là một trong những nét đặc trưng nhất của sách, thuộc về phần cuối diễn từ thứ năm của ông Mô-sê, tức là phần kết của tác phẩm.
2. “Anh em hãy nghe tiếng của Đức Chúa”:
Lệnh truyền “Anh em hãy nghe” là một trong những điệp khúc của sách Đệ Nhị Luật, nhất là ở nơi lời kêu gọi long trọng của lệnh truyền “mến Chúa” (6: 4-9), bắt đầu với: “Hãy nghe đây, hỡi Ít-ra-en”, hình thành nên lời mở đầu kinh nguyện thường ngày của Do thái giáo, được gọi là kinh “Shê-ma”.
Lệnh truyền: “Hãy trở về với Đức Chúa, là Chúa của anh em, hết lòng hết dạ”, nhắc nhở Ít-ra-en phải một lòng một dạ với Thiên Chúa của mình. Chúng ta gặp thấy ở nơi lệnh truyền này một định nghĩa về Giao Ước, tức là một kết ước tình yêu từ hai phía. Phải đáp trả những ân tình của Thiên Chúa bằng cách “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. Ở nơi tư tưởng này của sách Đệ Nhị Luật, người ta phát hiện ảnh hưởng của các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Hô-sê. Ngôn sứ Hô-sê đã sánh ví tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Ngài với tình yêu của chồng đối với vợ của mình. Do đó, ngôn sứ Hô-sê xem Giao Ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài là Hôn Ước, vì thế, đòi hỏi dân Thiên Chúa phải một lòng một dạ với Thiên Chúa của mình, giữ trọn tình yêu nhất mực chung thủy với Thiên Chúa của mình.
3.Nội tâm hóa Lề Luật:
“Vì mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay”. Từ “hôm nay” này thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật nhằm để chuyển từ chuyện kể sang lời khuyên bảo, từ quá khứ sang hiện tại, từ “ôn cố” sang “tri tân”. Vì thế, “hôm nay” muốn nói lên giá trị thường hằng của Lề Luật.
Lề Luật này không ở ngoài tầm tay của chúng ta, nhưng ở trong tâm khảm của chúng ta. Sau này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sẽ phát biểu theo cùng một cách như vậy: “Này đến ngày Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã hủy bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân Ta” (Gr 31: 31-33).
4.Nhân cách hóa Lời Thiên Chúa:
Lề Luật bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì thế Lề Luật là Lời Thiên Chúa. Tác giả nhân cách hóa và nội tâm hóa Lời Thiên Chúa: “Vì Lời Chúa ở sát bên anh em, ngay trong miệng trong lòng, để anh em đem ra thực hành”. Việc nhân cách hóa và nội tâm hóa Lời Chúa này xem ra như một linh cảm về Ngôi Lời. Các sách minh triết sẽ dâng hiến vài ví dụ như thế. Những cách tiếp cận Lời Chúa của các hiền nhân này không xa lạ với thần học Ngôi Lời, mà thánh Gioan sẽ khai triển, không chỉ trong Tựa Ngôn, nhưng cũng trong ý nghĩa và tầm mức mà thánh nhân sẽ ban cho động từ “ở”. Thánh Phao-lô sẽ trích dẫn những câu Đệ Nhị Luật này để đối lập sức mạnh bên trong của Đức Tin với sự vô ích bên ngoài của Lề Luật (Rm 10: 6-8).
Tin Mừng hôm nay, qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”, nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã đích thân đến ở kề bên chúng ta để cứu giúp chúng ta trong những khốn cùng của chúng ta.
BÀI ĐỌC II (Cl 1: 15-20)
Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê và trong Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô còn bảo tồn cho chúng ta hai bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô (Cl 1: 15-20 và Pl 2: 6-11). Cả hai bài thánh thi này dường như thuộc về gia sản phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi; chúng hình thành nên những chứng liệu quý báu. Bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô trong Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê được đặt vào bối cảnh của lời khuyến dụ luân lý; còn bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê thì đáp ứng mối quan tâm đạo lý.
1.Bối cảnh:
Thành phố Cô-lô-xê là một thành phố nhỏ thuộc miền Phy-gi-a, cách Ê-phê-xô khoảng chừng 200 cây số về hướng đông. Vào thời thánh Phao-lô, thành phố này đã mất đi nhiều tầm quan trọng xưa kia của nó. Thành phố này đã không được thánh Phao-lô đích thân rao giảng Tin Mừng, nhưng bởi một trong những cộng sự viên của thánh nhân, là ông Ê-páp-ra, nguyên quán Cô-lô-xê, ông này cũng đã thiết lập các cộng đoàn Ki-tô hữu ở Lao-đi-xê và ở Hi-ê-ra-pô-li, hai thành phố khác được định vị trong thung lũng Lycus, như Cô-lô-xê.
Những khó khăn đạo lý nổi lên khiến ông Ê-páp-ra lo lắng, vì thế ông đến thỉnh ý thánh Phao-lô, lúc đó thánh nhân đang bị giam cầm, hoặc ở Rô-ma (61-62), hoặc còn ở Xê-da-rê trước khi bị chuyển đến Rô-ma (58-60). Thánh Phao-lô không thể đích thân đến tận nơi, nên viết thư này gởi tín hữu Cô-lô-xê.
Chúng ta khó biết được đích xác những biện luận sai lạc làm xao động các tín hữu Cô-lô-xê, chúng liệu cốt yếu mà chúng ta có được là bức thư này. Dù thế nào, chắc hẳn những biện luận này giảm thiểu vai trò của Đức Ki-tô, trong khi đề cao tầm quan trọng của các hữu thể thần thiêng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Quả thật, trong Thư, thánh Phao-lô nói về “mãnh lực thần thiêng hay quyền năng thượng giới”, “những yếu tố vũ trụ”, “việc cúng tế các thiên thần”, từ vựng gợi lên những biện luận tôn giáo hỗn hợp mà vài người Cô-lô-xê say mê.
Để trả lời, thánh Phao-lô trích dẫn liền ngay sau những lời chào hỏi thông thường và một lời mào đầu khuyến dụ, bài thánh thi ca ngợi quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự tự nhiên cũng như thuộc trong trật tự siêu nhiên.
Vài người nghĩ rằng bài thánh thi này có nguồn gốc ngoại giáo nhằm ca ngợi sự hài hòa của vũ trụ theo trường phái triết học khắc kỷ và đã được Ki-tô hóa. Nhưng bài thánh thi này, rất gần với lời mở đầu Thư gởi tín hữu Do thái và với Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan, hướng về một nền tảng Kinh Thánh chung, đặc biệt nền tảng của các sách minh triết.
2.Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự tự nhiên:
-“Đức Giê-su Ki-tô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo” (Cl 1: 15)
Những câu mở đầu này áp dụng cho Đức Ki-tô những từ ngữ ca ngợi tính ưu việt của Đức Khôn Ngoan, trong các bản văn thuộc trào lưu minh triết Kinh Thánh:
“Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu,
là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa,
là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26),
hoặc:
“Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người,
trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất.
Ta đã được tấn phong từ đời đời, từ nguyên thủy, trước khi có mặt đất ….. Đã có ta hiện diện khi Người thiết lập cõi trời ….. Khi người đặt nền móng cho đất, ta hiện diện bên Người như tay thợ cả” (Cn 8: 22-30).
-Thánh Phao-lô ca ngợi Đức Ki-tô vừa nguyên nhân tác thành vừa nguyên nhân cùng đích của vũ trụ:
“Vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình… Tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1: 16)
Thánh Gioan sẽ lấy lại những từ ngữ này trong Tựa Ngôn của mình:
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có chi tạo thành. Điều được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1: 3).
-“Người có trước muôn loài muôn vật,
tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).
Chúng ta không nên nghĩ rằng viễn cảnh này mang tính vũ trụ, trước hết nó mang tính thần học. Đức Ki-tô “thâu tóm” ở nơi Ngài toàn thể vũ trụ, như các nhà thần học nói.
3.Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự siêu nhiên:
Nếu Đức Ki-tô là khởi nguyên công trình tạo dựng trong trật tự tự nhiên, thì Ngài không kém là khởi nguyên toàn bộ sự sống siêu nhiên. Ngài là đầu Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Ngài. Ngài là “Trưởng Tử trên mọi loài thọ sinh” như thế nào, thì Ngài là người đầu tiên từ cõi chết sống lại như vậy, nghĩa là Ngài đã khai mạc sự sống vinh quang; Ngài là Chủ Tể đời sống mới này. Ngài là “khởi đầu và kết thúc, An-pha và Ô-mê-ga” mà thánh Gioan sẽ nói trong sách Khải Huyền.
Chính Đức Ki-tô là tác giả của ơn cứu độ: “Nhờ máu Người đổ ra khi chết trên thập giá, Thiên Chúa đã làm hòa với mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”. Đối chiếu với sự hài hòa của vũ trụ là sự hài hòa của các tâm hồn mà việc tha thứ tội lỗi mang lại: sự bình an trong tâm hồn này là thành quả hy tế của Đức Ki-tô.
Khi trích dẫn bài thánh thi ca ngợi tính ưu việt của Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đã thấy ở đây trước tiên một vũ khí chống lại những lời nói vớ vẩn của các triết gia Cô-lô-xê; nhưng đồng thời thánh nhân cũng đã gặp thấy ở đây những từ ngữ thần học, diễn tả sâu xa thần học của thánh nhân. Biến cố trên đường Đa-mát đã mặc khải cho thánh nhân tầm quan trọng hàng đầu của vai trò Đức Ki-tô. Con người Đức Ki-tô ngự trị trên quan điểm về ơn cứu độ, quan niệm về Giáo Hội, cũng như kinh nghiệm nội tâm của thánh nhân. Đức Ki-tô là tất cả trong mọi sự.
TIN MỪNG (Lc 10: 25-37)
Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất là cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với vị thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất: “Mến Chúa và Yêu Người”, và phần thứ hai là dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành” để minh họa giới luật “Yêu Người”.
Trong nhiều dụ ngôn riêng của Tin Mừng Lu-ca, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành” là một trong những dụ ngôn danh tiếng nhất. Thánh Lu-ca đặt dụ ngôn này ngay trước cuộc viếng thăm của Đức Giê-su tại nhà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, ở đó cô Mác-ta và cô Ma-ri-a tiếp đón Đức Giê-su, mỗi người mỗi cách, để minh họa cho giới luật “Mến Chúa”. Như vậy, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri” này cùng với câu chuyện “hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a” hình thành nên bức tranh bộ đôi dồi dào về ý tứ và phong phú về giáo huấn: “Mến Chúa và Yêu Người”.
Cuộc đối thoại giữa Đức Ki-tô và người thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất này, cũng được thánh Mát-thêu (22: 34-40) và thánh Mác-cô (12: 28-31) thuật lại. Cả hai thánh ký này đều định vị cuộc đối thoại này vào khuôn khổ sứ vụ của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, vài ngày trước cuộc Thương Khó; trong khi thánh Lu-ca đặt cuộc đối thoại này ở đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su.
Ngoài ra, thánh Mác-cô nhận định thái độ tích cực của vị thông luật này: khi hỏi Chúa Giê-su, ông chân thành muốn biết giới luật nào đứng hàng đầu và khi thấy câu trả lời xác đáng của Chúa Giê-su, chính ông đã tán thưởng: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng” (Mc 12: 32). Trái lại, thánh Lu-ca cũng như thánh Mát-thêu xem câu hỏi của vị thông luật này là có ác ý: hỏi một vấn đề nan giải để “thử” Chúa Giê-su ngỏ hầu để Ngài lỡ lời mà bắt bẻ hay để Chúa Giê-su không trả lời được mà dèm pha bêu xấu Ngài.
1.Câu hỏi của vị thông luật:
Trong Tin Mừng Lu-ca, vị thông luật này lên tiếng hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Nhưng Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp mà hỏi ngược lại vị thông luật này: “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”. Vì thế, chính vị thông luật này đặt câu hỏi và cũng chính ông trả lời bằng cách liên kết giới luật: “mến Chúa” được dạy trong sách Đệ Nhị Luật (6: 5) và giới luật “yêu người” được ghi trong sách Lê-vi (19: 18).
Có thể các kinh sư trước thời Chúa Giê-su đã đối chiếu hai bản văn này rồi. Tôn giáo về một Thiên Chúa giàu lòng yêu thương được mặc khải trong Cựu Ước là một mặc khải duy nhất và đáng kính so với quan niệm về Thượng Đế tại các dân tộc khác, kể cả triết học Hy-lạp. Trong câu chuyện của Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô, chính Đức Giê-su công bố hai giới luật mến Chúa và yêu người là ngang bằng nhau. Chắc chắn, các nhà thông luật đã không dám đẩy lời dạy của họ xa cho đến mức xem hai giới luật này ngang bằng nhau như vậy.
Sau khi nghe câu trả lời của vị thông luật, Chúa Giê-su chỉ còn xác nhận: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Nhưng để chứng tỏ là mình có lý, vị thông luật lại hỏi Chúa Giê-su: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”. Quả thật, trong sách Lê-vi, người thân cận được định nghĩa là người thuộc vào dân Thiên Chúa và phải được cư xử như là anh em. Chúa Giê-su muốn phá vỡ quan niệm hẹp hòi này. Để giúp vị thông luật hiểu rõ hơn, Ngài kể dụ ngôn “người Sa-ma-ri nhân hậu”.
2.Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu:
Hai thành phố này cách nhau khoảng hai mươi lăm cây số với độ chênh lệch khá lớn (Giê-ru-sa-lem được định vị ở độ cao khoảng 800 đến 900 mét; Giê-ri-cô ở dưới mực nước biển khoảng 250 mét). Vào thời đó, đoạn đường giữa hai thành phố này có những đồi núi khô cằn, những hốc đá và những khe núi, vì thế, đầy những hang ổ trộm cướp và những chuyện cướp bóc thường hay xảy ra đối với khách bộ hành. Vì thế, câu chuyện của Chúa Giê-su phản ảnh thực tế đoạn đường đầy hiểm nguy này.
Trên con đường đó, có một người bị sa vào tay bọn cướp, “chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết”. Trước hết, một thầy tư tế, đoạn, một thầy Lê-vi đi qua con đường đó mà trở về nhà sau khi đã chu toàn nghĩa vụ của mình ở Đền Thánh. Cả hai đều gặp thấy nạn nhân nữa sống nữa chết nằm trên đường, nhưng “tránh qua bên kia mà đi”. Chúa Giê-su không nói cho chúng ta biết tại sao họ tránh qua một bên mà đi. Có thể họ không muốn mình bị ô uế qua việc đụng chạm đến xác chết (Lv 21: 11) hay lo sợ an nguy đến tính mạng của mình, vì có thể tên cướp vẫn còn ẩn khuất ở một nơi nào đó để phục kích. Xem ra thật hơn, Chúa Giê-su đưa hai nhân vật này vào câu chuyện vì họ là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng và đạo đức nhất trong xã hội Do thái để tạo nên một sắc màu tương phản với nhân vật Sa-ma-ri bị coi là tạp chủng, bị khinh bỉ, bị khai trừ, mà người Do thái ghét cay ghét đắng tránh giao tiếp. Điều Chúa Giê-su muốn nêu bật chính là hai nhân vật đáng kính và đạo đức này, sau khi đã thực thi lòng mến Chúa trong Đền Thờ lại dững dưng vô cảm trước người anh em khốn khổ bất ngờ gặp thấy trên đường.
Sau cùng, một người Sa-ma-ri tình cờ đi qua con đường đó. Thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn, anh “động lòng thương”. Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân này là ai, thuộc dân tộc nào, theo tôn giáo nào, có quan điểm hay chính kiến nào, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp nạn nhân bất hạnh này. Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.
3.Câu hỏi của Chúa Giê-su:
Sau khi kể xong dụ ngôn, Chúa Giê-su hỏi trở lại vị thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Vị thông luật trả lời: “Chính là kẻ thực thi lòng thương đối với người ấy”. Chúa Giê-su xác nhận câu trả lời của ông là đúng và mời gọi ông: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Như vậy, ở đầu câu chuyện, qua câu hỏi của mình, vị thông luật nói lên nỗi bận lòng của ông là muốn phân biệt rõ ràng ai là người thân cận của tôi để tôi thực thi luật yêu người; còn ở cuối câu chuyện, câu hỏi mà Chúa Giê-su đặt ra cho ông ngầm chứa câu trả lời của Ngài: không phải “ai là người thân cận của tôi” như vị thông luật đã hỏi trước dụ ngôn, nhưng “tôi phải là người thân cận của bất cứ ai cần đến sự cứu giúp của tôi trên đường đời”. Đó là cách thức “để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” mà anh đã nêu lên ở đầu câu chuyện.
4.Bài học:
Phải chăng ở nơi nhân vật Sa-ma-ri nhân hậu này, Chúa Giê-su muốn gợi lên hành động của chính Ngài, Đấng Cứu Độ đầy lòng xót thương? Và kẻ bị đánh trọng thương, bị trấn lột, bị bỏ rơi dỡ sống dỡ chết bên đường, đó không phải thân phận của nhân loại tội lỗi bị sự Ác đè nặng nên không thể tự mình cứu mình được? Lời giải thích này thật sự trở nên kinh điển tại các Giáo Phụ theo lối giải thích ẩn dụ. Các ngài đã phân tích dụ ngôn này cho đến từng chi tiết, chẳng hạn như cách giải thích của thánh Âu-gút-ti-nô: Đức Giê-su đã xuống từ Giê-ru-sa-lem thiên giới để cứu chữa nhân loại bị trọng thương do tội lỗi. Dầu và rượu biểu tượng các bí tích; quán trọ là hình ảnh Giáo Hội mà Chúa Ki-tô trao gởi những tội nhân để băng bó và chữa lành, trong khi chờ đợi ngày Ngài trở lại, ngày Ngài hoàn tất ơn cứu độ của chúng ta, sau khi đã giải thoát chúng ta khỏi mọi nợ nần.
Tuy nhiên, theo văn mạch, mỗi độc giả phải thấy chính mình ở nơi người Sa-ma-ri nhân lành này. Chính hành động cứu giúp anh chị em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ nào đi nữa, dù đó là thầy tư tế hay thầy Lê-vi đi nữa. Đối với bổn phận “yêu người”, không có bất kỳ hạn định nào, bởi vì đó là luật phổ quát nhất mà Thiên Chúa đã đặt để trong tận cõi thâm tâm của con người được gọi tiếng nói lương tâm của mỗi người như câu thành ngữ của người Việt Nam: “Thương người như thể thương thân”, và làm cho con người khác với con vật như câu nói thời danh: “Chỉ có con vật mới quay lưng lại trước nỗi khổ đau của đồng loại”.
Như thế, qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân hậu”, Chúa Giê-su chấm dứt tinh thần duy luật, chấm dứt chủ nghĩa dân tộc, chấm dứt sự phân biệt đối xử, chấm dứt mọi lý lẽ đưa ra để biện minh cho thái độ “tránh sang một bên” trước những nỗi khốn khổ của anh em đồng loại của mình trong cuộc sống đời thường. Nói như Lu-the: “Điều làm tôi kinh hãi không phải kẻ ác làm điều ác mà là người thiện thờ ơ lãnh đạm trước những đau khồ của anh em mình”. Tác giả Suy Niệm Lời Chúa đã nhận xét như sau: “Có những tội tiêu cực biểu lộ qua việc đắm chìm trong vũng lầy của tội lỗi; nhưng có những tội tiêu cực biểu lộ bằng sự dững dưng, thờ ơ, khoanh tay chẳng thèm làm gì. Một thái độ nhắm mắt làm ngơ cũng đủ bị kết án. Vì sự thánh thiện hay tội lỗi của một người không chỉ ảnh hưởng trên bản thân họ, mà còn lan tỏa đến những người khác, đến môi trường họ sống”.
Chúa Giêsu không gán một tôn giáo nào hay tầng lớp xã hội nào cho người đàn ông đó, mặc dù TN 15-C140
Chúa Giêsu không gán một tôn giáo nào hay tầng lớp xã hội nào cho người đàn ông đó, mặc dù rất hợp lý để quả quyết đó là một người Do Thái. Ông ta là người tốt hay người xấu ? Là người quan trọng hay là thường dân ? Những câu hỏi này đều không cần thiết. Ông ta là một con người. Đó là tất cả vấn đề.
“Ông ta bị rơi vào tay bọn cướp …”
Những tên vô tâm, hung bạo, những kẻ ức hiếp người yếu. Chúa Giêsu đã sống trong một thế giới thực. Chúa biết loại người đó vẫn tồn tại. Chúng ta cũng biết điều đó.
“Thầy tư tế và thầy Lêvi nhìn thấy ông ta nằm đó gần chết … nhưng vẫn bỏ đi.”
Thầy tư tế và thầy Lêvi là những người lãnh đạo trong tôn giáo, nhưng họ đã không cảm thấy chút xót thương cho người đàn ông bị nạn đó. Tôn giáo mà không có lòng thương xót thì thật là mâu thuẫn. Không có lòng thương xót thì người ấy không thể tự xưng mình là một con người đích thực, chứ đừng nói gì đến là một người có đạo đích thực.
“Một người Samari đi đến …”
Ông ta thấy người đàn ông bị nạn, và động lòng thương cảm, do đó ông ta tức thì cứu chữa người bị nạn. Ông không quan tâm đến rắc rối có thể xảy đến cho mình, và sẵn sàng để qua một bên vấn đề người đàn ông đó là một người Do Thái. Người Do Thái và người Samari là kẻ thù của nhau thời bấy giờ.
Khởi đầu câu chuyện, chúng ta biết rất ít về thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari. Vào cuối câu chuyện chúng ta cũng không biết nhiều hơn về họ. Tuy nhiên chúng ta biết rõ tất cả những sự kiện đó. Chúng ta biết họ thuộc loại người nào và bản chất của họ đã được bộc lộ ra cho ta thấy.
Thầy tư tế và thầy Lêvi là những người chỉ biết đến bản thân mình. Khi thời điểm quyết định đến, họ đặt chính bản thân mình trước tiên. Người Samari, lại hoàn toàn trái ngược, là người không ích kỷ, ông đã đặt ưu tiên cho người khác.
Thầy tư tế và thầy Lêvi đã phạm phải tội thiếu sót. Tội thiếu sót có thể là một tội tồi tệ nhất của chúng ta, nhưng chúng ta thường nghĩ rằng bao lâu chúng ta không làm hại ai, thì chúng ta vẫn có thể bình an. Nhưng có thể chúng ta đã thấy người nào đó bị nạn, mà ta đã không can thiệp vào ? Có những người không muốn vướng bận vào bất cứ chuyện gì bằng cách tránh xa mọi điều phiền toái.
Người Samari là người biết quan tâm giúp đỡ người khác. Người biết quan tâm giúp đỡ người khác là những người rất đặc biệt. Họ giống như muối cho đất và ánh sáng cho thế gian. Họ không ngại phải làm việc. Họ quan tâm đến mọi người vì lương tâm không cho phép họ làm khác đi.
Trong mỗi người chúng ta đều có khả năng để quan tâm đến người khác. Có những cơ hội nho nhỏ cho chúng ta thực hiện việc đó mỗi ngày. Trong khả năng của mình, chúng ta có thể nói một lời tử tế, bày tỏ sự thông cảm hoặc giúp đỡ. Đó là những giọt “dầu và rượu” giúp chúng ta xoa dịu vết thương.
Con đường từ Giêrusalem đến Giêrikhô tượng trưng cho con đường của cuộc sống. Vào cuối câu chuyện, Chúa Giêsu nói với người luật sĩ rằng “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy." Những lời này cũng là để nói với chúng ta. Và một khi chúng ta còn đang tiến bước trên đường, chúng ta vẫn có thể thực hiện điều đó.
Alaska là một nơi hoang vu, vắng vẻ, hiu quạnh, nhưng lại là một miền đất đẹp tuyệt vời. Đây TN 15-C141
Alaska là một nơi hoang vu, vắng vẻ, hiu quạnh, nhưng lại là một miền đất đẹp tuyệt vời. Đây là thánh địa dành cho những du khách thích mạo hiểm. Tuy nhiên, đây không phải là nơi tốt khi bạn gặp rắc rối giữa đường. Thành phố thì rất ít, lại cách xa nhau. Người dân sống tại đó phải đối diện với thời gian dài của sự cách ly. Những người nông dân cũng có một cuộc sống riêng biệt rất cô lập.
Lần kia, một du khách người Mỹ trên hành trình du lịch Alaska bằng motor-home đã trải qua một cuộc khủng hoảng thật sự, trục xe của ông ta bị gãy, ông bị lâm nạn không biết xoay sở ra sao giữa chốn này. Để lại gia đình trên xe, ông quyết định đi bộ với hy vọng tìm thấy ai có thể giúp đỡ gia đình ông (thời này chưa có điện thoại di động).
Sau khi đi vài dặm, ông may mắn khi nhìn thấy một trang trại. Ông trình bày với người chủ trang trại về tình thế khó khăn của mình. Người chủ trang trại rất cảm thông. May mắn thay, ông ta có máy hàn. Ông kéo chiếc xe của người du khách về trang trại của mình bằng xe máy cày và sửa lại cái trục xe bị gãy. Khi công việc đã xong, người du khách lấy ví tiền ra và hỏi: “Tôi phải thanh toán cho ông số tiền bao nhiêu ?”
“Ông không phải trả gì cả”, người chủ trang trại nói.
“Nhưng tôi phải trả cho ông vì những gì ông đã làm cho tôi.”
“Ông đã làm điều đó rồi”, người chủ trang trại trả lời.
“Tôi không hiểu gì cả”, người du khách ngạc nhiên.
“Ông đã cho tôi niềm vui khi được kết bạn cùng ông trong vài giờ qua.” Người du khách sửng sốt nhưng vui mừng vì đã gặp được một tấm lòng quảng đại như thế. Chính những người như người chủ trang trại đã giúp ta phục hồi lại niềm tin về sự tốt đẹp của con người. Điều tốt cũng mầu nhiệm như điều xấu. Nhưng điều xấu làm ta buồn và nản lòng thì ngược lại, điều tốt làm cho ta vui tươi và hứng khởi.
Đỉnh cao mà chúng ta có thể đạt tới là khi làm việc tốt trở nên một việc ban tặng dễ dàng, không tính toán và tự nhiên. Khi những việc tốt xuất phát từ bản thân ta không chút để ý, nhẹ nhàng như là một chiếc lá rời khỏi thân cây. Điều đó thật rõ ràng như trường hợp của người chủ trang trại chúng ta đã nói đến với công việc tốt đẹp tự phát của ông. Cũng giống như trường hợp của người Samari. Một điều rõ ràng là hành động tốt đẹp của người Samari đã trở thành như một thói quen, tự phát như là bản chất thứ hai của ông ta vậy. Điều tốt đẹp nơi những con người như thế đó là họ đã không hề nghĩ mình đã làm điều gì đặc biệt. Đối với một số người, sự quảng đại cốt ở một vài hành động mà thỉnh thoảng họ thực hiện ; nhưng đối với người khác, thì đó lại là một lối sống.
Làm thế nào để một người có thể đạt được tình trạng hạnh phúc này ? Điều đó không thể có được sau một đêm mà phải được học hỏi trong thời gian luyện tập lâu dài. Điều đó cũng không đạt được bằng một vài chiến công "đao to búa lớn", mà phải bằng những hành động tốt đẹp nhỏ bé góp lại. Điều lớn lao không thực hiện bởi sự bốc đồng, mà bằng hàng loạt những công việc nhỏ tập hợp lại. Phần thưởng đích thực cho một việc làm tốt đó là khiến ta làm điều tốt kế tiếp được dễ dàng hơn. Bất kỳ hành động nhỏ bé nào của một ngày bình thường, đều có thể tạo nên tính cách ở nơi ta hoặc không.
Điều làm ta khó chịu nhất trong câu chuyện của Chúa Giêsu không phải là việc bọn cướp tấn công khiến người đàn ông bị nạn, mà là việc hai người đàn ông mà ta nghĩ rằng họ sẽ giúp đỡ người bị nạn khi ngang qua đó, lại bỏ đi không hề tỏ ra một chút thương xót. Một người Công giáo đích thực không bao giờ thờ ơ với những đau khổ của kẻ khác.
“Ai là người thân cận của tôi ?” người luật sĩ hỏi. Câu trả lời thông thường vào lúc đó sẽ là: Thân cận của tôi là người cùng bộ tộc, người cùng nhóm hoặc cùng tôn giáo với tôi. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng: Thân cận của tôi là bất kỳ người nào mà tôi muốn họ trở nên thân cận với tôi. Câu trả lời đích thực: không phải là người được tôi coi như là người thân cận mà phải là chính những người tôi đã sẵn sàng đối xử như một người thân cận.
Người thân cận của tôi là ai ? Đây chính là câu hỏi mà chúng ta phải tự hỏi chính bản thân mình bây giờ và về sau, nhưng đó lại là câu hỏi mà chúng ta không tự trả lời được.
Theo đại văn hào Tolstoy, một vở kịch không thể nào cho ta biết toàn bộ cuộc sống của một người TN 15-C142
Theo đại văn hào Tolstoy, một vở kịch không thể nào cho ta biết toàn bộ cuộc sống của một người. Điều cần thiết là đặt người ấy vào một tình huống nhất định. Từ đó, trong khi họ giải quyết vấn đề trong tình huống như thế, thì cá tính của họ được bộc lộ ra.
Điều này thật chính xác trong câu chuyện của Chúa Giêsu. Chúa đã đặt thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari vào một tình huống. Họ phải đối diện với một quyết định: dừng lại và giúp đỡ người bị nạn, hoặc là tiếp tục công việc của riêng họ. Không thể trốn thoát, và cũng chẳng có chỗ để ẩn mình. Họ phải chọn một trong hai. Thầy tư tế và thầy Lêvi quyết định bỏ đi, còn người Samari quyết định dừng lại và giúp đỡ.
Cơn khủng hoảng không tạo nên cá tính, nó chỉ đơn thuần bộc lộ cá tính. Trong thời gian khủng hoảng, con người bộc lộ điều đã từng ẩn giấu bên trong con người của họ, quảng đại hay ích kỷ, anh hùng hay hèn nhát. Một khoảnh khắc hoặc một sự kiện có thể làm một con người bộc lộ bản chất của họ. Cuộc chạm trán với người bị nạn là khoảnh khắc đó của thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari.
Nó đã bộc lộ bản chất gì của thầy tư tế và thầy Lêvi ? Đó là điều rất đáng chê trách, ấy là, họ đặt bản thân mình làm trung tâm. Họ không thể đặt bản thân mình qua một bên để giúp người khác. Khi có sự cố xảy đến thì họ đặt bản thân mình lên trên hết.
Và nó đã bộc lộ bản chất gì của người Samari ? Một điều thật đáng ngưỡng mộ, ấy là, một người luôn quan tâm đến người khác. Ông là người không thể làm ngơ với nỗi đau của người khác mà không giúp họ xoa dịu nỗi đau đó.
Cuộc sống vẫn luôn trắc nghiệm chúng ta. Mỗi ngày chúng ta được trắc nghiệm một chút và điều đó được tăng dần theo thời gian. Những trắc nghiệm đó bộc lộ cho biết ta thuộc loại người nào, cơ bản là người rộng lượng hay là người ích kỷ.
Những cơ hội lớn thì hiếm có, và chỉ có một số là thực hiện được điều đó. Nhưng chúng ta có rất nhiều những cơ hội nhỏ, ít được chú ý để bày tỏ sự quan tâm và lo lắng cho những người đang sống trong tình trạng thiếu thốn.
Phạm vi đức hạnh của chúng ta được xác định, không phải bằng việc chúng ta thực hiện trong những tình huống phi thường mà bằng những cách ứng xử hết sức bình thường. Đó là sự khiêm tốn khi làm những việc nhỏ mỗi ngày hơn là tìm kiếm những việc phi thường để chứng tỏ cá tính của mình. Tính cách của chúng ta được hình thành qua các việc nhỏ hằng ngày.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thương người như thể thương thân”, câu tục ngữ này hàm súc một TN 15-C143
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thương người như thể thương thân”, câu tục ngữ này hàm súc một lời nói chân thành, tự nhiên khuyên người ta phải biết thương yêu, đồng cảm với đồng loại như yêu thương chính bản thân mình, coi nỗi đau của người khác như nỗi đau của mình để từ đó biết chia sẻ, cảm thông, ủi an, nâng đỡ và đồng hành. Tác giả dân gian khéo léo sử dụng biện pháp nghệ thật so sánh "thương người" với "thương thân" muốn nhấn mạnh nếu ta thương bản thân mình như thể nào thì hãy thương những người xung quanh ta như thế. Chẳng hạn, thân thể ta mỗi khi bị đau do trầy xước, té ngã… khiến ta phải quan tâm, lo lắng chăm sóc cẩn tthận thì khi thấy người xung quanh mình không may gặp khó khăn, hoạn nạn thì ta nên giúp đỡ, quan tâm, chăm sóc, yêu thương họ như chính bản thân mình vì ông bà ta dạy: “Bầu ơi thương lấy bí cùng tuy rằng khác giống như chung một dàn”. Còn Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô dạy: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1,15-16). Như vậy, “Tất cả mọi người đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; và sau hết, chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với chúng ta” (Rm 9,4-5).
Cho nên, động lực nồng cốt và mạnh mẽ nhất của Kitô hữu là lửa thương người. Lửa thương người này chính Chúa Giêsu đã đem từ trời xuống và làm cho nó bừng cháy lên giữa lòng nhân thế. Vì vậy, động lực thúc đẩy chúng ta hôm nay sống Lời Chúa giữa gia đình, thôn xóm, giáo xứ hay giữa lòng dân tộc là thương người như thể thương thân. Vậy, tôi xin hỏi thương người là gì? Nhà thơ Xuân Diệu nói: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Còn nhà thơ Saint-Exupéry nói: “Yêu là cùng nhìn về một hướng”. Cố Tổng Thống Ganđi nói: “Yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất, nhưng cũng là sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có”. Một thi sĩ khác nói: “Yêu là cảm giác được trở về với chính mình khi ở bên người mình yêu, và tìm thấy hạnh phúc của mình trong hạnh phúc của người mình yêu”. Còn Chúa Giêsu hôm nay dạy cho chúng ta một lối hiểu và sống của yêu thương rất thiết thực nhưng thật cao siêu, rất đơn sơ nhưng thật ý nghĩa và mang lại hạnh phúc cho chính mình và tha nhân ngay đời này và đời sau.
Tin Mừng hôm nay kể người thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu “Tôi phải làm gì để được sự sống đời”. Chúa Giêsu trả lời: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức… và yêu người thân cận như chính mình”. Anh ta mới hỏi Chúa: “Ai là người thân cận tôi”. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari đồng thời Ngài vạch cho chúng ta thấy đâu là sự thương người đích thực và đáng trân trọng.
Chúng ta nên biết vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cho rằng dân Samaria là dân phối hợp giữa người Do thái và dân ngoại. Người Do thái coi dân Samari là dân không thuần chủng và là dân tội lỗi. Cho nên, dân Samari không lên Giêrusalem để tôn thờ Thiên Chúa mà chỉ thờ Thiên Chúa ở núi Gariza. Do sự khác biệt đó mà nẩy sinh các mối thù nghịch, xung khắc với nhau. Vì vậy, không lạ gì khi Chúa Giêsu và các môn đệ đi ngang qua làng Samari, họ không tiếp đón Chúa, các môn đệ xin Chúa sai lửa xuống thiêu rụi làng này đi. Ấy thế mà hôm nay, người Samari này không phân biệt chúng tộc, tôn giáo hay ý thức hệ nên ông thương người nạn nhân này như thể thương thân, ông động lòng thương và ra tay giúp đỡ. Qủa thật, tình thương đó phản ánh tình yêu của Thiên Chúa là Đấng mà Thánh kinh nói Ngài cho mặt trời mặt lên trên người lành cũng như kẻ dữ. Cho mưa xuống trên kẻ liêm khiết cũng như kẻ gian ác. Tình yêu đó còn thể hiện trong thiên nhiên nơi cánh hoa hồng, nơi cây đa đầu làng phủ bóng che nắng che mưa hết mọi người dù kẻ đó chặt đốn phá nó.
Người Samari đã giúp đỡ nạn nhân tận tâm tận tình thậm chí không tính toán và không chờ đợi đáp trả gì. Đó là tình yêu của Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện trước và nêu gương cho chúng ta khi Ngài còn ở thế gian thế gian qua việc yêu thương, chăm sóc, rao giảng, chữa lành bệnh, cho kẻ đói ăn, tha tội cho kẻ có tội dù đó là kẻ pxúc phạm đến Ngài, cho kẻ chết sống lại, chịu nạn chịu chết và sống lại cho để mọi người được giao hòa với Chúa và anh chị em với nhau, đồng thời nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa ban muôn ơn lành dồi dào cho cho mọi người trên trời cũng như dưới đất hôm nay.
Thiên Chúa thương ta là thế, nhìn lại tình thương của chúng ta dành cho tha nhân như thế nào? Ai là người thân cận của chúng ta?. Người thân cận, cận thân, cận lân chính là người đang cần được giúp đỡ. Người đó cần tình thương của chúng ta, tình thương đó phải được thi hành cấp thời, đúng lúc, hữu hiệu và vô vị lợi, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giàu nghèo, là bạn hay thù. Đàng khác, chúng ta phải yêu thương người thân cận như chính mình, nghĩa là chúng ta phải cảm thông, dễ dãi với họ như mình vẫn thông cảm với chính mình. Cũng như chúng ta, họ có những sở trường sở đoản, những khó khăn riêng, do đó, chúng ta sẽ không vội phê phán khi thấy họ khác mình, chúng ta cũng không vội kết án họ khi họ lầm lỗi, chính chúng ta cũng có nhiều khuyết điểm và lỗi lầm, nên chúng ta phải hiểu cho sự yếu đuối của người khác. Chúng ta cũng cần nhớ rằng trọng tâm của tình thương là chấp nhận những khuyết điểm hay ưu điểm của nhau để cùng nhau xây dựng, đồng hành, sẻ chia, an ủi, nâng đỡ nhau và thương nhau một cách chân thành, tự đáy lòng, không so đo tính toán, không đòi người khác phải xin lỗi mới tha thứ, không đòi người khác phải xử tốt với mình, chúng ta mới yêu thương họ. Đó là mới là yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết thể hiện những lời Chúa dạy hôm nay bằng hành động cụ thể trong cuộc sống. Biết sẵn sàng đón nhận, chia sẻ những yếu đuối của nhau. Biết sẵn sàng mở lòng yêu thương với tinh thần quảng đại, không loại trừ. Biết mau mắn nhạy cảm trước những nhu cầu cần sự nâng đỡ, trợ giúp của người người thân cận. Biết mau mắn đưa vai đón nhận, sẻ chia và gánh lấy thập giá của nhau trên hành trình trở nên người mộn đệ đích thật của Chúa. Amen.
Tuần báo Tuổi Trẻ tuần qua đăng bài viết “Sống để yêu” có đoạn viết như sau: “Sống ở đời TN 15-C144
Tuần báo Tuổi Trẻ tuần qua đăng bài viết “Sống để yêu” có đoạn viết như sau: “Sống ở đời, ai ai cũng có những lúc tối lửa tắt đèn, có lúc lá rách cần lá lành, có lúc chị ngã cần em nâng. Sống ở đời, ai ai mà không cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực hiện tình yêu. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp. Cho nên cũng vì vậy mà trần gian mất đi nhiều nguồn vui thật”.
Quả thế, động lực nồng cốt và mạnh mẽ nhất của đời sống Kitô hữu là lửa tình yêu thương xót. Lửa tình yêu thương xót này chính Chúa Giêsu đã đem từ trời xuống và làm cho nó bừng cháy lên giữa lòng nhân thế. Cho nên, tình yêu thương xót là động lực thúc đẩy Ngài thi hành sứ mạng thương xót mà Thiên Chúa đã giao phó cho Ngài và Ngài đã hoàn tất viên mãn. Vì vậy, động lực thúc đẩy chúng ta hôm nay sống Lời Chúa giữa gia đình, thôn xóm, giáo xứ hay giữa lòng dân tộc cũng là tình yêu thương xót ấy. Vậy, tôi xin hỏi yêu là gì? Nhà thơ Xuân Diệu nói: “Yêu là chết trong lòng một ít”. Còn nhà thơ Saint-Exupéry nói: “Yêu là cùng nhìn về một hướng”. Cố Tổng Thống Ganđi nói: “Yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất, nhưng cũng là sức mạnh vạn năng mà thế giới đang có”. Một thi sĩ nói: “Yêu là cảm giác được trở về với chính mình khi ở bên người mình yêu, và tìm thấy hạnh phúc của mình trong hạnh phúc của người mình yêu”. Còn Chúa Giêsu hôm nay dạy cho chúng ta một lối hiểu và sống của tình yêu thương xót rất thiết thực nhưng thật cao siêu, rất đơn sơ nhưng thật ý nghĩa và mang lại hạnh phúc đời đời.
Tin mừng hôm nay kể người thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu “Tôi phải làm gì để được sự sống đời”. Chúa Giêsu trả lời bằng “Sách luật dạy gì?” Anh ta trả lời “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức… và yêu người thân cận như chính mình”. Anh ta trả lời lý thuyết đúng lắm, nhưng thực tế trong cuộc sống anh ta chưa thực hành được vì anh chưa nối kết được giữa tình yêu thương xót Thiên Chúa và con người. Cho nên, anh ta mới hỏi Chúa: “Ai là người thân cận tôi”. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari để cho anh ta thấy rằng hai giới răn Mến Chúa yêu người là một đồng thời Ngài vạch cho chúng ta thấy đâu là tình yêu đích thực và đáng trân trọng.
Chúng ta nên biết vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cho rằng dân Samaria là dân phối hợp giữa người Do thái và dân ngoại. Người Do thái coi dân Samari là dân không thuần tuý, thuần chủng và là dân tội lỗi. Cho nên, dân Samari không lên Giêrusalem để tôn thờ Thiên Chúa mà chỉ thờ Thiên Chúa ở núi Gariza. Do sự khác biệt đó mà nẩy sinh các mối thù nghịch, xung khắc với nhau. Vì vậy, không lạ gì khi Chúa Giêsu và các môn đệ đi ngang qua làng Samari họ không tiếp đón Chúa, các môn đệ xin Chúa sai lửa xuống thiêu rụi làng này đi. Ấy thế mà hôm nay, người Samari này không phân biệt chúng tộc tôn giáo hay ý thức hệ: Trước hết, ông ta chỉ thấy nạn nhân nằm bên lề động lòng thương xót và ra tay giúp đỡ. Qủa thật tình yêu thương của ông bây giờ không còn biên giới, không còn phân biệt: chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ. Tình yêu thương xót đó phản ánh tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Đấng mà Thánh kinh nói Ngài cho mặt trời mặt lên trên người lành cũng như kẻ dữ. Cho mưa xuống trên kẻ liêm khiết cũng như ké ác. Tình yêu đó thể hiện ngay trong thiên nhiên nơi cánh hoa hồng, nơi cây đa đầu làng phủ bóng che nắng che mưa hết mọi người dù kẻ đó chặt đốn phá nó.
Người Samari đã giúp đỡ nạn nhân tận tâm tận tình thậm chí không tính toán và không chờ đợi đáp trả cái gì. Đó là tình yêu thương xót của Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện trong thế gian, lòng thương xót Chúa thì vô biên vô tân cho dù chúng ta là tội nhân. Vì vậy, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.
Hãy cảm nghiệm tình yêu thương xót của Thiên Chúa để rồi nhìn lại tình yêu thương xót của chúng ta như thế nào? Chúng ta yêu Chúa và thương xót người thật sự chưa? Chưa, cụ thể, trước hết, quan hệ của chúng ta với Chúa còn có rất nhiều biên giới, nhiều điều kiện: lạy Chúa nếu Chúa cho con cái này, cái kia thì con đi nhờ thờ ca tụng và yêu Chúa luôn. Hay là yêu Chúa lắm nhưng mà mỗi thánh lễ đúng một tiếng thôi Chúa nhé, hơn nữa là không được vì con bận việc này cấn việc kia rồi. Hoặc là gia đình con kính mến yêu Chúa lắm, muốn đọc kinh ca tụng thờ phượng Chúa mỗi tối nhưng vì con cái đi học thêm học bớt giờ giấc bất thường khó tập trung quá nên bỏ luôn. Còn đối với tha nhân, chúng ta cũng chưa thương xót hết mình đủ vì còn quá nhiều biên giới che chắn, quá nhiều điều kiện: nào là khác nhau về ý thức hệ, khác nhau về tôn giáo, quan niệm, rồi tiền bạc giàu nghèo, tri thức, nhan sắc… Cho nên, trong Tông Sắc Dung Nhan Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Giáo hội có sứ mạng công bố về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, công bố con tim đang sôi sục của Tin Mừng. Nhờ đó, Lòng Thương Xót sẽ đạt tới được con tim và khối óc của con người. Hiền thê của Chúa Kitô biến hành động của Con Thiên Chúa thành hành động của mình, và đi đến với tất cả mọi người cũng như không loại trừ bất cứ ai” (Số 12).
Rồi chính trong quan hệ vợ chồng, cha mẹ với con cái chúng ta thương xót nhau nhưng đặt ra đủ thứ điều kiện: bà phải sinh con trai cho tui, ông phải bỏ hút thuốc rượu chè đi đã, ba má phải mua cho con xe Airblack thì con mới đi làm kiếm tiền phục dưỡng ba má chứ. Qủa thật, chúng ta chưa vượt ra những biên giới này được. Chúng ta có thương xót nhưng bị giới hạn nên tình yêu thương xót của chúng ta là tình yêu thương xót có điều kiện. Cho nên, có lý khi tác giả nào đó sáng tác bài hát “Tiếng hát của Dòng Sông” có đoạn “Tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi êm không hề hối tiếc!”. Qủa thế tình yêu ấy đâu còn ý nghĩa gì, đâu đem lại giá trị tuyệt đối.
Cho nên, chỉ có tình yêu thương xót vô điều kiện mới phá đi những biên giới để đem lại hạnh phúc đích thực, tình yêu viên mãn nhất. Chính Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy và là anh đã yêu gương cho chúng ta: “Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu”. Vì vậy, tình yêu thương xót của chúng ta dành cho nhau cũng phải vô điều kiện để rồi thương xót hết mọi người kể cả người ốm đau, bệnh tật, nghèo khổ bị xã hội bỏ rơi hay thậm chí kẻ làm phiền lòng ta nữa, đừng chờ đợi đáp trả cái gì. Vì vậy, trong buổi tiếp kiến hơn 20 ngàn khác hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô tại Rôma ngày 22-6-2016 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Các người nghèo, người bị loại trừ và bệnh tật là thịt xác của Chúa Kitô. Có biết bao lần chúng ta găp gỡ một người nghèo đến gặp chúng ta! Chúng ta cũng có thể quảng đại, có thể cảm thương, nhưng không đụng tới tay họ. Chúng ta cho họ một đồng bạc, nhưng tránh đụng tới tay họ, chúng ta vứt đồng bạc ở đó. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng sợ hãi đụng tới người nghèo và người bị loại trừ, bởi vì Ngài ở trong họ. Họ là anh em của chúng ta! Kitô hữu không loại trừ ai hết, nhưng cho họ chỗ và để cho tất cả mọi người đến”
Hãy tín thác vào Chúa và nhờ ơn Chúa, chúng ta phải thực hành tình yêu thương xót vô điều kiện này vì đó là tình yêu thương xót đích thực mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay. Vấn đề là chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận sự giới hạn đồng thời cố gắng tập luyện và vươn lên. Ước gì sau khi ra về, mỗi người biết tập nếp sống thương xót hằng ngày nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần tình yêu sẽ giúp chúng ta kiến tạo hạnh phúc và bình an đích thực cho cá nhân, cho gia đình, lối xóm, giáo xứ, Giáo hội và cả xã hội này. Amen.
Chúng ta đang sống giữa một xã hội mà người ta đề cao chủ nghĩa cá nhân. Tình liên đới và TN 15-C145
Chúng ta đang sống giữa một xã hội mà người ta đề cao chủ nghĩa cá nhân. Tình liên đới và lòng thương cảm như đã mất dần! Người ta xây lên những bức tường cao và cổng dày để ngăn cách giữa nhà họ với hàng xóm. Hơn nữa, người ta còn khép kín và đóng cửa trái tim với những người xa lạ, người gặp nạn trên đường vì họ sợ phải liên lụy...! Thế nhưng, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta "Hãy yêu mến tha nhân như chính mình và hãy là người thân cận của những ai đang mang thương tích, đau khổ." Có chạnh lòng thương và làm như vậy, chúng ta mới có sự sống. Được sống hạnh phúc và có sự sống đời đời, đó là ước mơ của mỗi Kitô hữu. Cuộc sống ấy phải được xây dựng và bắt đầu ngay tại trần thế này khi ta biết sống yêu thương.
"Nhưng ai là người thân cận của tôi?" Người thân cận của tôi đó là người tôi đến gần với tình yêu, bạn hay kẻ thù, người di dân, người đói rách ăn xin, trẻ em hay người già cả, người tốt hay kẻ xấu... Cùng làng xóm với tôi hay không; cùng niềm tin tôn giáo, chính kiến, màu da, văn hóa, thói quen, suy nghĩ hay khác tôi. Những người đang đau khổ vì cô đơn, đói khát, bệnh tật, bị bỏ rơi hay tổn thương tâm hồn. Những người ấy rất cần giúp đỡ! Nhưng tôi, tôi có mở lòng và sẵn sàng lại gần hay sợ bị liên lụy, phiền toái? Sợ bị lừa, mất mát, tốn phí thời gian, tiền của... Sợ bị chế nhạo, bị lợi dụng, xâm hại...? Tất cả những cái sợ này còn đó chỉ vì chúng ta chưa có tình yêu, thiếu lòng cảm thông và thương xót!
"Người thân cận... chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người bị nạn." Hôm nay vẫn còn đó lời mời gọi và cũng là thách đố của Chúa Giêsu với mỗi người chúng ta về người Samaria nhân hậu. Ông thấy, chạnh lòng thương, đến bên cứu giúp, xức dầu và rượu, băng bó và cưu mang người bị thương tích bên lề đường, mà không cần chất vấn về nguồn gốc hay tôn giáo. Đưa người bị nạn về quán trọ, ông không ra đi ngay nhưng chăm sóc hết ngày hôm đó, cả đêm và mãi tới sáng hôm sau với sự ân cần nồng nhiệt. Tình yêu không nhiều lời, không nệ luật, nhưng hành động cụ thể và mạo hiểm, chấp nhận mọi liên lụy.
"Hãy đi và cũng hãy làm như vậy." Dụ ngôn người Samaria nhân hậu nhắc nhớ chúng ta về dụ ngôn cuộc phán xét chung mà tình yêu trở nên tiêu chuẩn quyết định dứt khoát về những hành động và cuộc sống của một người có giá trị hay không (Mt 25, 31-46). Chúa Giêsu cho chúng ta biết rõ những người đang cần giúp đỡ đó là: Những người đói, người khát, những khách lạ, người không áo mặc, những người đau yếu bệnh tật, những người bị tù đày... Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân được diễn tả bằng một tình yêu bổ sung cho nhau. Chúng ta không thể yêu mến Chúa hết lòng mà lại không yêu tha nhân. Chính Thánh Gioan đã khẳng định "Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình."(1Ga 4, 20-21)
Thực tế cuộc sống hôm nay dường như con người ngày càng vô cảm! Người ta dửng dưng với những đau thương của người bên cạnh, ngay cả người thân trong gia đình mình chứ chưa nói đến người hàng xóm, người gặp nạn trên đường. Đây đó ta vẫn bắt gặp những cảnh đau thương mà người bị nạn kêu cứu...nhưng người xem thì nhiều mà người cứu giúp thì không! Hay thương tâm hơn là những tài xế vô cảm cán chết người, hoặc những người con đối xử tệ bạc với cha mẹ dù đau bệnh, già lão nhưng nghèo nên con cái không chăm sóc, không cứu chữa! Thế nhưng, phần chúng ta, Lời Chúa thúc bách ta hãy đi và thương xót tha nhân như người Samaria. Hãy tỏ tình yêu mến với những người xung quanh chúng ta, những người trong gia đình, những người chúng ta gặp gỡ trên đường, nơi làm việc... Không ngoảnh mặt làm ngơ trước những nỗi khốn cùng của người khác, nhưng mở lòng ra và bỏ đi tính ích kỷ, những thành kiến của mình để chạnh lòng thương. Ước mong sao mỗi Kitô hữu luôn mang trong mình tâm tình của chính Chúa Kitô, Đấng giàu lòng xót thương, Đấng đã làm người thân cận của tất cả nhân loại. Để rồi chúng ta cũng biểu lộ lòng thương xót và gieo tình yêu với những ai chúng ta sống cùng. Vậy ta có thể là anh em của tất cả mọi người chứ?
Cầu mong sao trên những con đường của chúng ta còn có nhiều trái tim yêu thương. Làng xóm và xứ đạo của ta còn những trái tim trên bàn tay sẻ chia nâng đỡ. Và xã hội của ta còn những người Samaria chạnh lòng thương chăm sóc người thân cận của họ. Bởi vì tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Cụ thể trong những ngày này, chúng ta cầu xin Chúa cho ta và mọi người biết thực sự nhìn thấy và chạnh lòng thương, mở trái tim và rộng tay chia sẻ, cứu giúp anh chị em vùng biển Miền Trung đang phải chịu khốn khổ nhiều cách...!
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu mến Chúa hết lòng và xin biến đổi tâm hồn chúng con, để chúng con biết nhạy bén nhìn thấy và rung cảm trước những nỗi đau thương của anh em chúng con. Amen.
Nhờ một người thông luật thắc mắc mà chúng ta được một dụ ngôn tuyệt hảo về lòng bác ái TN 15-C146
Nhờ một người thông luật thắc mắc mà chúng ta được một dụ ngôn tuyệt hảo về lòng bác ái đối với người thân cận.
Dụ ngôn rất dễ hiểu, ai cũng hiểu được, nhưng chúng ta cần phân tích tỉ mỉ hơn để hiểu được ý nghĩa mà thánh Luca muốn nói với chúng ta.
Thực ra câu hỏi của nhà thông luật chỉ chú trọng đến việc “làm sao được sống đời đời” Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp mà hỏi lại: “Ông đọc thấy gì trong Lề Luật?”
Nhà thông luật trả lời rất chính xác vì ông là một nhà thông luật. Nhưng ông lại thắc mắc và thêm một câu hỏi khác nhờ đó Chúa Giêsu cho ông và cả chúng ta một bài học về người thân cận.
Vậy người thân cận là ai?
Là ai đối với thầy tư tế đi ngang qua nơi đó? Thầy tư tế là người biết luật. Thầy tránh qua một bên và tiếp tục hành trình của mình, không để ý đến nạn nhân. Tại sao? Vì theo Luật Môsê, chạm đến xác chết là bị nhiễm uế. Ông sợ nạn nhân có thể chết, ông chọn giải pháp tiện nhất là tránh đi.
Một thầy Lêvi, cũng thuộc hạng biết Luật, cũng đi ngang qua đó, ông cũng tránh xa rồi đi. Ông sợ nhiễm uế.
Chỉ có một người Samari, một người đi đường, thấy nạn nhân, ông động lòng thương, dừng lại, xuống lừa, đến bên nạn nhân và chăm sóc, đưa về quán trọ…
Người thân cận là ai? Là nạn nhân.
Chúa Giêsu kết luận: “Ông hãy về và làm như vậy”.
Chúng ta có làm như vậy chưa?
Có ai trong chúng ta đã tận tình với người anh em như người Samari kia? (Chúng tôi xin mở ngoặc: ở Việt Nam cứu giúp người bị nạn như thế có người đã bỏ mạng). Nhưng chúng ta có thể giúp được nhiều người khác, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những người thân cận của chúng ta rất nhiều, chỉ cần chúng ta mở mắt và khám phá ra họ. Sự nghèo đói và đau khổ thường câm lặng. Chúng ta nhớ lời Chúa: “Khi các ngươi làm một điều gì cho những anh em bé mọn của Ta đây là làm cho chính Ta”.
Với điều kiện đó, chúng ta có thể làm được rất nhiều việc cho người thân cận của chúng ta. Mẹ Têrêxa Calcutta là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Các thánh cũng là những gương mẫu sống động khích lệ chúng ta.
Dụ ngôn không chỉ dạy chúng ta yêu thương người thân cận mà còn đi xa hơn. Chúa Giêsu nêu lên hình ảnh của thầy tư tế và thầy Lêvi. Hai nhân vật này đã xem nạn nhân như người xa lạ, người không thuộc giai cấp của mình, không là người thân cận của họ. Họ biết Luật nhưng đã bóp méo Lề Luật và xem mình là người đạo đức hơn bần dân. Chúa Giêsu rất dị ứng với thái độ phân biệt đối xử của hạng người này và nhiều lần Chúa đã lên tiếng công khai khiển trách họ. Đối với Ngài, mọi người đều phải được tôn trọng như nhau vì tất cả là con Thiên Chúa. Đang lúc các ông Pharisêu và thượng tế ngồi trên ngai của họ thì Chúa Giêsu lại đi rảo trong dân, “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất”.
Ai là người thân cận của Chúa Giêsu?
Là tất cả chúng ta, những con người được cứu vớt, nhưng vẫn còn yếu đuối.
Chúa Giêsu nêu lên hình ảnh của người Samari, một người lạc giáo, không thuộc về dân Israen và đưa lên làm mẫu mực cho người Do Thái và cho chúng ta. Người Samari cũng biết Luật vì họ giữ Luật Môsê, nhưng ông này không kỳ thị như thầy tư tế kia. Trong hoàn cảnh này, nạn nhân là một người Do Thái, (người Samari không thiện cảm gì với người Do Thái) nhưng gặp nạn nhân, ông đã động lòng thương, tận tình săn sóc, không ngại công khó tốn kém. Lòng trắc ẩn không có biên giới.
Đây chỉ là một dụ ngôn nhưng đi sát với thực tế, làm cho chúng ta phải suy nghĩ.
Chính Chúa Giêsu là người Samari nhân hậu đó. Ngài nhìn thấy con người nằm dở sống dở chết bên cuộc đời, bị ma quỉ hành hạ. Ngài đã xuống khỏi lừa, nhập thể để đến với chúng ta, băng bó các vết thương và chở chúng ta vào Hội thánh của Ngài để săn sóc. Ngài sẽ trở lại để thanh toán những món nợ nếu có.
Chỉ có Ngài là Vị Cứu Tinh duy nhất của chúng ta. Những thầy tư tế hay Lêvi đến trước Ngài, không cứu được chúng ta.
Ngài thương chúng ta và Ngài muốn chúng ta thương nhau, cứu giúp nhau như Ngài.
Giới răn mới đã được ban hành ngay từ đây: “Anh hãy về và làm như vậy”.
Trước khi đi vào tử nạn, Ngài lặp lại giới răn này rõ rệt hơn và đưa nó lên một tầng cao hơn là yêu như Thầy đã yêu.
Chúa Giêsu còn đi xa hơn người Samari kia. Không những băng bó các vết thương của chúng ta, Ngài còn chấp nhận chết cho chúng ta. Tình yêu của Ngài đã đi đến tột đỉnh: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người dám chết cho bạn hữu”.
Chúng ta được yêu thương như thế, chúng ta có biết không? Nếu biết, sao chúng ta không về và làm như vậy cho anh em chúng ta? Chúng ta đang sống trong một thế giới băng giá, vì con người không biết thương nhau, chỉ biết tàn sát lẫn nhau, chúng ta cũng sống như thế gian hay sao?
Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta bước theo Ngài, cứu vớt thế giới bằng tình yêu, sao chúng ta e ngại? Chúng ta sợ mất mát?
Chỉ có tình yêu mới cứu vớt được thế giới hôm nay đang sôi sục vì hận thù, đang tan rữa trong sự dã man.
Chúng ta không thể không nghe tiếng Chúa. Phải làm một cái gì đó cho anh em chúng ta. Chúng ta nhỏ bé thật nhưng chúng ta không chỉ là cá nhân, chúng ta là cộng đoàn. Giáo hội là cộng đoàn của những người dám yêu thương giữa hận thù, dám hi sinh giữa ích kỷ, dám cho không mà không tính toán. Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta như đã từng hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” Yêu mến Thầy hôm nay là yêu mến tất cả những nạn nhân của một thế giới vô tâm, tàn nhẫn, là những hiện thân của Thầy.
Câu hỏi đó hôm nay xuất hiện trong Tấm Bánh Tình Yêu được trao ban cho chúng ta làm lương thực. Ăn lấy Chúa Tình Yêu, chúng ta phải sống cho tình yêu. Đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu.
Thản nhiên nhìn tài xế cán xe lên người bé gái nhiều lần. Đó là tựa đề của một vụ việc xảy ra TN 15-C147
Thản nhiên nhìn tài xế cán xe lên người bé gái nhiều lần. Đó là tựa đề của một vụ việc xảy ra tại chợ Lao Bảo, thành phố Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc từ năm 2011. Nhưng trong năm 2015 được nhiều tờ báo mạng Trung Quốc đăng lại, trong đó có tờ báo lớn như Chinadaily, nhằm cảnh báo về vấn nạn "vô cảm."
Theo camera giám sát tại khu chợ, một bé gái đang đi lang thang trong chợ, không may đã bị một chiếc xe tải đâm trúng. Khi biết bánh trước vừa đâm phải người, tài xế đã phanh lại nhưng chỉ vài giây sau, anh ta đã lại quyết định lái xe đi tiếp khiến em bé bị bánh xe sau cán tiếp lần thứ hai. Sau đó, chiếc ô tô khác đi tới lại tiếp tục chèn vào em mà không dừng lại. Rất nhiều xe đi qua đó, thậm chí có cả người đi bộ chứng kiến cảnh em bé đau đớn nhưng vẫn không mảy may để ý, không gọi xe cứu thương hoặc đến hỏi han em.
Rất lâu sau, một công nhân quét rác đi qua mới phát hiện em bé đang nằm trên đường. Bà đã kêu gọi người giúp đỡ nhưng không ai ra giúp. Vài phút sau, mẹ của cô bé xuất hiện và đưa cô bé đi cấp cứu.
Theo điều tra, cô bé tên là Nguyệt Nguyệt, 2 tuổi, sống cùng bố mẹ gần khu chợ. Trong lúc bố mẹ đi lấy hàng, em chạy đi chơi và xảy ra chuyện.
Do bị cán qua cán lại nhiều lần và không được cấp cứu kịp thời, bé Nguyệt Nguyệt bị chết não và khả năng sống rất thấp. Nếu có sống cũng sẽ là người thực vật suốt đời.
Ngay khi vụ viêc xảy ra, gia đình đã báo cho cảnh sát và nhờ họ điều tra tên tài xế “dã man kia”. Khi bắt được hung thủ, tên tài xế này cho hay: lúc đó anh ta đang nói chuyện với người yêu và cô ấy đòi chia tay. Do tâm lý không ổn định và đã không nhìn thấy bé ở trước đầu xe nên đã đâm vào cô bé. Sau đó, anh ta nghĩ rằng nếu bé chết anh ta chỉ phải bồi thường 20.000 tệ (khoảng 70 triệu đồng), nhưng nếu em bé chỉ bị thương thì anh ta có thể sẽ tốn hàng trăm nghìn tệ. Chính vì vậy anh ta đã không cứu đứa bé mà lại cán thêm.
Vụ việc này đã gây lên một làn sóng phẫn nộ của người dân. Họ không chỉ lên án, chỉ trích sự dã man của hai tên tài xế đã đâm phải bé mà họ còn cảm thấy bức xúc với sự thờ ơ, vô tâm và thiếu tình người của những người xung quanh đó. (Nguồn: baogiaothong.vn)
Thật vậy, vô cảm là căn bệnh trầm kha của con người qua mọi thời đại. Trong xã hội chúng ta đang sống, dường như căn bệnh vô cảm lại trở nên trầm trọng hơn. Người ta thờ ơ, vô tâm trước những vấn đề của người khác. Người ta im lặng, làm ngơ trước những bất công của xã hội. Đáng sợ nhất khi căn bệnh vô cảm đang lây lan tới hết mọi người và mọi môi trường sống.
Vô cảm trong gia đình: khi vợ chồng không quan tâm đến nhau. Cha mẹ nhẫn tâm không cho con cái chào đời. Con cái cháu chắt bỏ rơi không chăm sóc ông bà cha mẹ. Người ta quên đi tình anh em ruột thịt, tình làng nghĩa xóm, để rồi “Đèn nhà ai rạng nhà nấy.”
Vô cảm tại trường học, khi các tiêu cực xảy ra hằng ngày trong chính môi trường giáo dục: nạn chạy trường, chạy lớp, chạy điểm; thầy cô giáo chỉ lo dạy chữ, không quan tâm đến việc dạy đạo đức nhân bản cho học sinh; nhiều thầy cô dùng bạo lực để sửa lỗi học sinh; nhiều học sinh không còn giữ truyền thống “tôn sư trọng đạo”; nhiều trường hợp học sinh bị đánh hội đồng ngay chính nơi trường học mà thủ phạm chính là những bạn bè cùng trang lứa mà không một ai dám can ngăn.
Vô cảm có mặt trong các bệnh viện: khi các y, bác sĩ để mặc các bệnh nhân kêu gào đau đớn mà không quan tâm chăm sóc. Thậm chí, nhiều bệnh nhân bị chết oan vì chưa có phong bì lót tay cho bác sĩ. Nhiều bác sĩ làm việc thiếu trách nhiệm, thiếu cả chuyên môn nên gây ra hậu quả khôn lường cho các bệnh nhân. Câu chuyện “Bé trai bị bác sĩ mổ nhầm tay trái để rút đinh ở tay phải” xảy ra tại bệnh viện 115 Nghệ An vừa qua là một bằng chứng. Việc các bác sĩ móc nối với các nhà thuốc khi kê đơn cho bệnh nhân để kiếm hoa hồng chứ không nghĩ đến những loại thuốc đó có hiệu quá tốt nhất cho các bệnh nhân của mình, đó cũng là một vấn đề đáng báo động.
Những tháng gần đây chúng ta chứng kiến sự vô cảm của chính phủ Việt Nam đối với vấn đề cá chết hàng loạt ở Miền Trung. Đặc biệt, khi biết thủ phạm chính gây nên thảm hoạ môi trường là công ty gang thép Formosa Hà Tĩnh, nhưng chính phủ vẫn tiếp tục cho nó hoạt động và chỉ nhận một số tiền rẻ mạt so với hậu quả vô cùng to lớn trước mắt và lâu dài. Họ vô cảm không nghĩ đến tình cảnh của người dân bị hại trong hiện tại và cả trong tương lai. Sự vô cảm của họ có thể giết chết không những ngư dân Miền Trung mà cả dân tộc Việt Nam chúng ta.
Sự vô cảm còn lan tràn trong các lĩnh vực khác của xã hội chúng ta đang sống: nhiệm vụ của công an, quân đội là bảo vệ bình an cho người dân nhưng họ lại đàn áp dân một cách vô tội vạ; khi những người đứng ra bênh vực cho công lý và lẽ phải lại bị bắt bớ đánh đập, tù tội; nhiều người vì muốn an thân nên khi thấy kẻ cắp móc túi người khác mà không dám lên tiếng; người ta im lặng trước sự ác, không mủi lòng trước những đau khổ của anh chị em mình; khi người ta thấy tai nạn xảy ra trên đường đi mà không sẵn sàng giúp đỡ…
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy sự thờ ơ, vô cảm của một tư tế và trợ tế đối với một người bị nạn. Tư tế và trợ tế là những người có thế giá trong dân, là những người có vai trò trong đạo Do Thái lúc bấy giờ. Họ thuộc lòng những khoản luật của đạo Do Thái, nhất là luật mến Chúa yêu người, nhưng họ không thực hành những điều luật đó. Nói cách khác, họ thờ ơ, vô cảm trước nhu cầu của anh chị em đồng loại.
Vô cảm có thể là một tội. Tội dửng dưng trước nhu cầu của anh em. Chúa Giêsu đã đề cập tới tội vô cảm này trong dụ ngôn nhà phú hộ và ông Lazarô (x. Lc 16, 19-21). Nhà phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Ông Lazarô thì nghèo khó, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Điều đáng nói là số phận đời sau của nhà phú hộ: ông phải sa hoả ngục. Ông sa hoả ngục không phải vì ông giàu có, nhưng vì ông vô cảm trước sự đói khổ của người nghèo đói Lazarô.
Để tránh khỏi bệnh vô cảm, tội dửng dưng, chúng ta bắt chước gương của người Samaria nhân hậu. Mặc dầu ông không phải là người Do Thái, người bị nạn không liên hệ gì đến ông, nhưng ông nhạy cảm trước nhu cầu của người khác. Sự nhảy cảm đó được thể hiện không chỉ qua cách: “Trông thấy và động lòng thương,” mà còn thể hiện qua việc ông: “Xắn tay áo để thoa dịu những đau khổ của người bị hại.” Tin mừng kể lại rằng: “Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc”(x. Lc 10,35).
Ông không dừng lại ở đó, sự quan tâm của ông còn đi xa hơn khi ông trả tiền bạc cho chủ quán thay cho người bị hại và hứa sẽ quay lại thanh toán những gì còn lại. Sự quan tâm chăm sóc của người Samaria đối với người bị hại là mẫu gương cho con người qua mọi thời đại, nhất là đối với mỗi người kitô hữu chúng ta. Chính Chúa Giêsu cũng nói với người thông luật rằng: “Ông hãy đi và cũng hay làm như vậy” (Lc 10,37).
Trong cuộc sống, chúng ta cần phải nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em mình, không phải chỉ bằng lý thuyết mà cần phải ra tay hành động. Bởi vì: “Lòng thương xót nếu không có việc làm thì tự nó sẽ chết” (ĐGH Phanxicô). Những lời huấn dụ của Đức Thánh Cha Phanxicô sau đây đáng chúng ta suy nghĩ, Ngài nói: “Ai đã cảm nghiệm trong cuộc sống của mình lòng thương xót của Chúa Cha thì không thể không nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em mình...Những công việc từ bi thương xót không phải là những đề tài lý thuyết, nhưng là những chứng tá cụ thể, đòi chúng ta phải xắn tay áo lên để thoa dịu những đau khổ của nhân loại” (Bài huấn dụ 30/06/2016).
Lạy Chúa Giêsu, xin chữa chúng con khỏi căn bệnh vô cảm, để chúng con luôn biết nhạy cảm trước những nhu cầu của anh chị em mình. Amen.
Hôm nay, chúng ta tự hỏi: "Ai là anh em của tôi?" (Lc 10,29). Chuyện về một số thầy người Do TN 15-C148
Hôm nay, chúng ta tự hỏi: "Ai là anh em của tôi?" (Lc 10,29). Chuyện về một số thầy người Do thái, thấy thầy Do thái kia thường vắng mặt vào buổi cầu nguyện thứ Bẩy hằng tuần. Ông nghi ngờ vị ấy có gì bí mật với Thiên Chúa, và các thầy Do thái nhóm họp bàn bạc với nhau, giao cho ông ta theo dõi người anh em… Thế là, ông tò mò tìm kiếm, thật xúc động, dõi theo người anh em đến một khu phố nghèo trong thành, nơi ấy ông nhìn thấy một thầy người Do thái đang dọn nhà cho một bà đang bị bại liệt, và ông thầy này đã đến phục vụ, chuẩn bị bữa cơm vào chiều thứ Bẩy cho bà. Khi điệp viên trở về, những thầy Do thái ở nhà đã hỏi: "Ông ấy ở đâu? ở trên trời, trên các tầng mây hay giữa các vì sao?". Câu trả lời là: "Không, người anh em của chúng ta đã được đưa lên rất cao."
Yêu người thân cận thể hiện bằng hành động cụ thể là cao cả nhất; đây là lúc mà tình yêu được thể hiện. Đừng bỏ đi qua! Nơi người nghèo, chỉ có mình Chúa Kitô kêu lên để thức tỉnh lòng bác ái nơi các môn đệ, Công đồng Vatican II trong một tài liệu đã chép: Làm "người Samaritanô" có nghĩa là thay đổi kế hoạch của mình ("đến gần anh"), dành thời gian để ("chăm sóc anh ta") ... Điều này cũng đưa chúng đến xem xét các nhân vật của quán trọ, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói:"Người Samaritanô đã có thể làm mà không có chủ quán? Thật vậy, người chủ quán, người vô danh ấy, đã thi hành nhiệm vụ cách cao cả. Tất cả chúng ta cũng có thể hành xử như ông, hoàn thành nhiệm vụ của riêng mình với tinh thần phục vụ. Tất cả chúng ta đều có cơ hội, nhiều hay ít trực tiếp hay gián tiếp, để giúp đỡ những người cần giúp. Trung thành thi hành sứ vụ là yêu mến mọi người.
Hãy vứt bỏ sau lưng cái chưa cần thiết để đón nhận người đang cần đến chúng ta, (người Samaritanô nhân hậu) và ông chủ quán đã làm việc của mình với tình yêu, cả hai đều thể hiện tình yêu bằng việc làm cụ thể. Chúa Giêsu đã hỏi nhà thông: " Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rời vào tay bọn cướp?" Và bảo ông "Ông cũng hãy đi và làm như vậy " (Lc 10,36-37).
Chúa Giêsu Kitô tự nhân mình là người Samaritanô đi ngang qua, khi những người Pharisiêu xúc phạm Chúa và nói: "Ông là một người Samaritanô và là người bị quỷ ám" (Ga 8,48 ) ... Vậy người hành hương Samaritanô là chính Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu thực sự là một lữ hành đã gặp con người bị thương do tội lỗi, ma quỷ, thế gian tra tấn, đang nằm sõng soài trên mặt đất . Chúa đã không bỏ qua, bởi vì mục đích cuộc hành hương của Chúa nhằm để "viếng thăm chúng ta" (Lc 1,68.78). Người đã từ trời lữ hành xuống thế và cư ngụ giưax chúng ta. Người không chỉ "xuất hiện trên đất, nhưng còn sống và trò chuyện với con người" (Br 3,38) ...
Trên các vết thương của chúng ta Người đã rót rượu, rượu của Lời Chúa, và như mức độ nghiêm trọng của vết thương không thể chịu được, Người đã pha trộn rượu với dầu là sự êm dịu của Người và "tình yêu Người dành cho nhân loại" (Tit 3 4) ... Sau đó, dẫn con người đến quán trọ. Quán trọ ở đây là Giáo hội, Giáo hội đã trở thành nơi ở và nơi ẩn náu của toàn dân ... Chính Chúa Kitô ở trong Giáo hội, Người trao ban hồng ân... Quán trọ ở đây còn là nhà chầu có chủ quán là Chúa Giêsu đón mời. Các Thánh Tông Đồ và Các Mục Tử, Các Tiến Sĩ và những người kế vị tượng trưng cho chủ quán trọ… Các ngài chăm sóc bệnh nhân là chúng ta bằng Lời Chúa, Cựu Ước và Tân Ước, bằng Lề luật Thánh và các tiên tri.
Chúng ta hãy đến cùng Đức Trinh Nữ Maria, bởi Mẹ là mẫu gương sẽ giúp chúng ta khám phá ra nhu cầu của người khác, về tinh thần cũng như vật chất.
Lạy Chúa, mỗi lần chúng con thấy người anh em mắc nạn, xin giúp chúng con biết hành động thương xót anh em như Chúa đã thương xót chúng con. Amen.
Hãy đi và làm như vậy" (Lc 10,37), đó là lời của Chúa Giêsu dành cho nhà thông luật khi xưa TN 15-C149
"Hãy đi và làm như vậy" (Lc 10,37), đó là lời của Chúa Giêsu dành cho nhà thông luật khi xưa. Hôm nay, Chúa cũng bảo mỗi người chúng ta "Hãy đi và làm như vậy".
Có người hỏi: Hãy đi và làm như vậy là thế nào? Là làm như người Samaritanô nhân hậu đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người Samaritanô nhân hậu bên cạnh những người chúng ta gặp và chân thành giúp đỡ, băng bó các vết thương thể xác và tinh thần cho họ, những vết thương lòng, nghèo đói, ốm đau, bệnh tật, cô đơn và chết chóc… Đừng ngồi đặt vấn đề: Ai là anh em tôi? Nhưng hãy đi và tỏ ra mình là anh em của mọi người. Đừng dừng lại tìm xem người đó là ai, có đạo hay không. Nhưng hãy đi và làm như người Samaritanô kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó, gặp người đau khổ phải cứu giúp. Cần vượt qua quan niệm hẹp hòi, đi đến tình huynh đệ phổ quát.
Người Samaritanô đối xử với nạn nhân bằng tình thương thật sự: ông băng bó các vết thương của người ấy, chở ông ta tới nhà trọ và đích thân lo lắng cho người ấy, liệu trước việc trợ giúp ông ta (x. Lc 10, 34). Mở đầu dụ ngôn, thầy tư tế và thầy Lêvi là người thân cận với kẻ hấp hối; vào cuối dụ ngôn, người Samaritanô đã trở thành người lân cận. Chúa Giêsu nhấn mạnh viễn tượng: đừng có đứng đó mà sắp xếp người khác để xem ai là thân cận ai không. Hãy trở thành người thân cận của bất cứ ai ta gặp trong lúc cần thiết, và ta sẽ là người thân cận, nếu trong tim ta có sự cảm thương, nghĩa là nếu ta có khả năng đau khổ với người khác.
Ngày 11 tháng 2 năm 1984, thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã ban hành một Tông thư mang tựa đề: "Salvifici doloris" nói về "ý nghĩa đau khổ của người theo Kitô giáo" để toàn thể Giáo hội suy tư trong Năm Thánh Cứu Độ. Ngài đã nhắc lại dụ ngôn "người Samaritanô nhân hậu", không phải chỉ để gửi tới các bệnh nhân, những người chịu đau khổ, mà còn gửi tới mọi người. Bởi vì đau khổ vẫn ở ngay bên đường đi của chúng ta, đến nỗi con người rất dễ bị cám dỗ "bỏ đi qua" một cách dửng dưng. Sự dửng dưng này là một nét đặc trưng của thời đại chúng ta. Chắc chắn rằng dụ ngôn "Người Samari nhân hậu" đã trở nên yếu tố thiết yếu của nền văn hóa đạo đức cũng như nền văn minh phổ quát của nhân loại. Chúa Giêsu bảo luật sĩ: "Cả ông nữa, hãy đi và làm như vậy".
Vị tư tế và thầy Lêvi thấy người bị hại và bỏ đi, có thể họ có lý do, tư tế bận cử hành lễ vì giờ đã điểm, thầy Lêvi cũng có thể vì sợ ô uế, bởi cả hai đều liên quan đến việc phụng tự nơi đền thời. Đức Phanxicô nói: Họ không có phụng tự thật, vì không thể hiện ra bằng việc phục vụ người lân cận. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này: trước nỗi khổ đau của bao người kiệt quệ vì đói khát, vì bạo lực và bất công, chúng ta không thể ở đó như các khán giả. Không biết nỗi khổ đau của con người, nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nếu tôi không đến gần người đàn ông này, bà kia, và em đó, tôi không đến gần Thiên Chúa.
Yêu mến Chúa trong nhà thờ thôi thì chưa đủ, cần phải yêu mến Chúa trên đường đi và trong người anh em đồng bào, đồng loại. Chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ biết luật dạy mến Chúa yêu người trong sách vở. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: "Anh em đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thực sự bằng việc làm". Ngài còn nói: "Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai yêu thương anh em mình thì sống trong ánh sáng. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối" (1Ga 2,9-11). Tình yêu đòi thể hiện bằng việc làm cụ thể. Người Samaritanô đã chạnh lòng thương trước nạn nhân, nhưng anh không dừng lại ở tình cảm suông. Anh đã thể hiện tình thương qua hành động.
Hãy nhận ra khuôn mặt của tất cả mọi người là người anh em. Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết rằng: yêu thương là hành xử như người Samaritanô nhân hậu. Hơn nữa, chúng ta biết rằng Người Samaritanô tuyệt vời là chính Chúa Giêsu: mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình làm người và hiến dâng mạng sống mình để cứu chuộc chúng ta.
Như thế, tình thương là "con tim" của đời sống kitô; chỉ có tình yêu thương mà Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta, mới làm cho chúng ta trở nên những chứng nhân của Chúa Kitô. Giới luật yêu thương của Chúa Giêsu đòi chúng ta phải thể hiện tình thương với mọi người.
Câu hỏi: "Tôi là anh em của ai?", mỗi người chúng ta tự đặt ra cho mình, không phải là câu hỏi cho người khác, nhưng cho chính mỗi chúng ta. Những người anh chị em đang sống chung quanh chúng ta đang tìm kiếm sự cảm thông, chút thanh thản và an bình của tình người. Nhưng biết bao nhiêu lần những người tìm kiếm điều ấy đã không tìm được sự cảm thông, tiếp đón, không tìm được liên đới!
Chúng ta nhìn thấy một người, trên bờ vực của cái chết, nằm trên đường phố và chúng ta nghĩ "tội nghiệp quá". Tuy nhiên, chúng ta tiếp tục với công việc hàng ngày của chúng ta. Chúng ta nghĩ rằng: Đó không phải là trách nhiệm của tôi ... và cho rằng mình có lý. Có người thờ ơ, hết biết rơi nước mắt, trước những cảnh huống đau khổ của tha nhân. Chúa bảo mỗi chúng ta: "Hãy đi và làm như vậy" (Lc 10,37).
Lạy Chúa, xin cho con biết mau mắn làm theo lời Chúa dạy. Amen.
Một vấn để nổi cộm gây bão dư luận hiện nay là sao lại có không ít trường hợp thấy người bị tại TN 15-C150
Một vấn để nổi cộm gây bão dư luận hiện nay là sao lại có không ít trường hợp thấy người bị tại nạn trọng thương mà nhiều người chỉ đứng xem hoặc ngoảnh mặt đi qua không cứu. Trong một vụ tai nạn gần đây, người phụ nữ ôm đứa con nhỏ trên tay kêu gào đến khản cổ: Ai cứu con tôi với! Thế nhưng, xem lại camera an ninh ở chung quanh, người ta thấy có tới ba hay bốn chiếc xe đi ngang qua đó, thấy nạn nhân ôm đứa con đẫm máu, họ đã lẳng lặng bỏ đi. Sau hàng giờ chờ đợi xe cấp cứu, đứa bé được đưa tới bệnh viện, nhưng đã quá muộn. Người ta đặt vấn đề: Phải chăng ngày nay, con người ngày càng trở nên vô cảm với nhau, họ nhắm mắt làm ngơ khi thấy anh em mình bị nạn? Nhiều người hiếu kỳ đứng xem một tai nạn xảy ra, nhưng không mấy người dám ra tay cứu giúp người bị nạn.
Người Samaritanô động lòng thương
Tin Mừng hôm nay cho thấy, không những thời nay ở Việt Nam ta, mà thời Chúa Giêsu cũng thế. Dụ ngôn Chúa Giêsu kể cho người thông luật là một bằng chứng (x. Lc 10, 25-37). Vị tư tế và thầy Lêvi, cả hai đều liên quan đến việc phụng tự nơi đền thờ, trông thấy một người từ Giêrusalem xuống Giêricô bị hại, từ Giêrusalem tức là đồng hương rồi, nhưng họ không cần biết; nhìn thấy nhưng không lo liệu giúp đỡ, họ bỏ qua. Người thứ ba là người Samaritanô, một người Do thái ly giáo, bị coi như ngoại quốc, dân ngoại, ô uế và bị khinh miệt, trông thấy người bị hại, ông "động lòng thương" (Lc 10, 33), ông không bỏ qua như hai người kia, ông đến gần người ấy, " băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa mình, đưa về quán trọ săn sóc" (Lc 10, 34). Phúc Âm nói: "Ông động lòng thương", nghĩa là tâm can ông cảm động. Khác với hai người kia "trông thấy", nhưng con tim của họ đóng kín, lạnh lùng. Trái lại, con tim của người samaritanô rung động. "Động lòng thương" là đặc tính cốt lõi của lòng thương xót Chúa. Trái tim người samaritanô đồng điệu với trái tim Thiên Chúa.
Thiên Chúa chạnh lòng thương
Một số người cho rằng, người có lòng thương xót là yếu đuối và nhu nhược. Điều đó có đúng không? Hoàn toàn không! Động lực nằm sau lòng thương xót chân thành là tình yêu thương sâu xa, bắt nguồn từ "Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4,16); là "Cha đầy tình thương xót" (2 Cr 1,3). Cụm từ "hay thương xót" có nghĩa chính là động lòng trắc ẩn, cảm thông cho sự yếu đuối của người khác.
Động lòng thương có nghĩa là "đau khổ với". Thiên Chúa chạnh lòng thương chúng ta. Nghĩa là Ngài đau khổ với chúng ta, Ngài cảm nhận được nỗi khổ đau của chúng ta. Động từ ám chỉ lòng quặn đau trước nỗi khổ của con người. Trong các cử chỉ và hành động của người samaritano nhân hậu, chúng ta nhận ra hành động thương xót của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Đó chính là tình thương, qua đó Chúa đến gặp gỡ từng người trong chúng ta. Ngài không giả vờ không biết chúng ta, Ngài biết các khổ đau của chúng ta, Ngài biết chúng ta cần sự trợ giúp và ủi an biết chừng nào. Ngài đến gần chúng ta, và không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Chúa Giêsu là hiện thân hoàn hảo nhất các đức tính của Thiên Chúa Cha, Người khuyên các môn đệ: "Hãy biết thương xót, như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (Lc 6,36).
Hãy có lòng thương xót
Kinh Thánh nói: "Khi Người thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót, vì họ cùng khốn, và tan lạc như chiên không có kẻ chăn" (Mt 9,36). Một học giả Kinh Thánh cho biết cụm từ "động lòng thương xót" ở đây muốn nói đến "cảm xúc sâu thẳm nhất trong lòng". Thật vậy, trong tiếng Hy Lạp, từ này được xem là một trong những từ mạnh nhất để biểu thị lòng thương xót.
Người Samaritanô hành xử với lòng thương xót đích thật: ông băng bó các vết thương của người ấy, chở ông ta tới nhà trọ và đích thân lo lắng cho người ấy, liệu trước việc trợ giúp ông ta (x. Lc 10,33-35).
Lòng thương xót có sức mạnh làm vơi đi nỗi đau. Như chúng ta đã thấy, lòng thương xót thể hiện tinh thần đồng cảm với những người đau buồn và thúc đẩy chúng ta cùng chia sẻ với họ. Lòng cảm thông cũng bao gồm việc quan tâm đến người đang gặp đau khổ và có những hành động tích cực để giúp đỡ họ.
Khi bày tỏ lòng thương xót, người tín hữu noi gương Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ quá bận rộn đến nỗi không thể giúp người khác về mặt vật chất lẫn tinh thần. Khi biết người khác gặp khó khăn, Chúa Giêsu bày tỏ lòng cảm thông và tìm cách giúp đỡ họ.
Chúng ta có thể bày tỏ lòng thương xót qua nhiều cách. Chẳng hạn, gặp người bất hạnh, khó khăn, chúng ta thăm viếng và lắng nghe họ với lòng thông cảm, cũng như an ủi họ. Lòng nhân từ hay lòng thương xót chính là nền tảng cho đời sống của người Kitô hữu. "Hãy xót thương như Chúa Cha" là ‘phương châm’ của Năm Thánh này. Vì thế, khi nỗ lực trở nên giống Cha trên trời, chúng ta hãy sống lòng thương xót. Dụ ngôn về người Samaritanô là một thí dụ điển hình, nêu bật được lòng thương xót đối với nạn nhân. Người môn đệ của Chúa không thể làm ngơ và nhắm mắt trước nỗi khổ của anh em mình.
Nơi lòng thương xót, chúng ta tìm thấy bằng chứng về cách thức Thiên Chúa thương chúng ta. Ngài trao ban toàn bộ chính Ngài cho chúng ta, không yêu cầu hồi đáp. Ngài đến giúp chúng ta bất cứ khi nào chúng ta cầu khẩn Ngài (Tông sắc về năm Thánh Lòng Thương Xót, số 13).
Lạy Chúa, xin mở mắt, mở lòng chúng con, để chúng con thấy và động lòng thương xót đối với anh em chúng con. Amen.