Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 29 -C Bài 51-100 Phải kiên trì khi cầu nguyện --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 18, 1-8: "Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người".
Đây chính là tâm tình đầy thổn thức yêu thương mà Đức Giêsu muốn tôi suy gẫm để hiểu thấu sự rung cảm chất chứa trong trái tim yêu dấu của Người.
Sau khi đưa ra dụ ngôn “quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy”, tôi cảm nghiệm rằng Đức Giêsu muốn nói đến mối quan hệ quá ư bất toàn giữa một người quyền cao chức trọng nhưng lại bất chính khi đối xử với một người khác bần cùng và bị chính người kia coi khinh. Cung cách lắng nghe của quan tòa chỉ vì cái tôi ích kỷ không muốn bị quấy rầy thật sự rất hiếm hoi, đôi khi khó tin vì đây cũng chỉ là dụ ngôn để làm đà cho một thực tại tốt lành mà Đức Giêsu có ý bầy tỏ mặc khải.
Mối tương quan tuyệt hảo mà Người mặc khải là mối tương quan tràn đầy yêu thương giữa “Thiên Chúa là Cha, Đấng Toàn Năng, Đấng Thánh Thiện” và “những kẻ Ngài đã tuyển chọn” tức Ngài yêu thương mọi người bằng một tình yêu phụ tử. Trong số “những kẻ Ngài đã tuyển chọn” đó có chính bản thân Đức Giêsu nữa, như Gioan Tẩy Giả đã làm chứng: “Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn” (Ga 1, 34)
Như vậy, một khi hướng lòng về Thiên Chúa là Cha, con người cầu nguyện với một lòng tôn kính lắng nghe, “dù Ngài có trì hõan”. Mà sự trì hõan của Ngài là “vì Ngài muốn cho ta nhiều lợi ích hơn nữa, nhờ ta kiên trì kết hợp với Ngài trong cầu nguyện” (Evagre) cũng như “vì Ngài muốn tôi luyện những ước muốn của chúng ta trong cầu nguyện, để chúng ta có khả năng đón nhận những gì Ngài sẵn lòng ban” (Augustinô).
Để hòan tất công trình “khi Con Người ngự đến”, như Đức Giêsu đã tâm sự với các môn đệ trước khi chịu khổ nạn là: “Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em” (Ga 14, 28), tức Người đã “vâng lời cho đến chết và chết trên thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 1, 8-9), Đức Giêsu đã liên lỉ lắng nghe và vâng phục bằng tình Con Thảo. Hành trình này đã được tác giả thư Do Thái xác tín minh bạch:
“Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người”. (Dt 5, 7-9)
Quả thật, Đức Giêsu đã để lại một mẫu gương “cầu nguyện luôn, không được nản chí” qua lắng nghe, vâng lời chịu chết trên thập giá và rồi phục sinh vinh hiển. Vì thế mà trong tâm hồn của Người luôn chạnh lòng thổn thức vì sự yếu đuối của con người, nên Người tự hỏi liệu cuộc tử nạn phục sinh vinh hiển của Người có đem lại cho họ lòng tin vào tình yêu mà Thiên Chúa là Cha đã “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” không?
Thiết nghĩ chỉ những ai lắng nghe được nhịp đập tim sâu thăm thẳm của Người mới có thể hăng hái ra đi thể hiện lòng tin tuyệt vời của mình. Thánh Phaolô đã có cùng một khát khao cầu nguyện để lắng nghe rồi vâng phục trong suốt ba năm tại sa mạc Ả Rập và sau đó, đi rao giảng, ngài đã khắc khoải khi viết trong thư thứ nhất gửi cộng đoàn Côrintô:
“Quả vậy, Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu. Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người đựơc cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa”. (17-18)
Còn tôi, trước kia khi mới bắt đấu cầu nguyện, tôi cũng đã hăng hái chuyên cần cầu xin Chúa chữa lành đôi chân tật nguyền và bệnh hoạn của tôi. Tôi không chỉ nài xin Chúa mà còn nài nỉ Mẹ của Chúa chuyển cầu vào ngày lễ kính Đức Maria Hồn Xác Lên Trời. Thế rồi, với xác tín rằng trong ngày lễ đó, Mẹ đã gửi đến tôi và mở lòng trí cho tôi lắng nghe được lời Chúa Giêsu nói với thánh Phaolô là: “Ơn của Thầy đã đủ cho con vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. (2Cr 12, 9)
Nhờ lắng nghe Lời quyền năng ấy mà tôi đã thay đổi hoàn toàn vì sự biến đổi sâu sa trong đức tin mới là điều mà Chúa Giêsu mong muốn hơn cả. Từ đó, tôi đã hòan tòan sống phó thác vâng phục, nghĩa là tôi đã cảm nghiệm Chúa đã thánh hóa chữa lành lòng tin của tôi, cho tôi mạnh dạn vượt qua những ươn hèn, những đau khổ trong thân xác để bước đi sinh hoạt với cộng đồng, bất chấp tất cả những tồn đọng của bệnh tật. Tôi đã không còn mặc cảm tự ti về những yếu đuối của mình. Tôi đã không còn lo sợ những khiếm khuyết, những di chứng của bệnh tật nữa vì sức mạnh của Chúa đã tràn đổ trên tôi sau những tháng ngày cầu nguyện thiết tha và kiên trì. Chính sức mạnh Thánh Thần mà Ngài ban cho trong cầu nguyện, đã giúp tôi mạnh dạn tham dự lớp học Thánh Kinh 100 tuần.
Trong một lần bước đi vất vả, vừa phải bám vào tường, vừa phải dùng tay nâng nhấc những bước chân teo tóp để leo những bậc thang, một chị học viên cùng lớp đứng gần đó, đến trợ giúp tôi và chị hỏi:
Tôi có thể giúp anh một tay chứ?
Cám ơn chị, tôi có thể tự vượt lên phía trước được – Tôi vừa ra hiệu vừa trả lời.
Anh hiện ở giáo xứ nào? – Chị ân cần an ủi.
Tôi ở cách đây 25 cây số.
Ồ! Cám ơn anh đã cho tôi thêm một nguồn động lực để tôi đến gần Lời Chúa hơn, vì anh ở xa hơn tôi đến 20 cây số, lại còn kiên trì khập khễnh đến với Lời Ngài mãnh liệt hơn cả đôi chân mạnh khỏe của tôi nữa đấy! Anh thật dũng cảm! Xin Chúa chúc lành cho anh!
Qua lần gặp đó, tôi thầm thì cảm tạ vì thánh Phaolô đã trưyền sang cho tôi Thần Khí mà ngài đã linh hứng rằng:
“Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12, 10).
Hơn thế nữa, ngài còn rút ra từ kinh nghiệm đời sống cầu nguyện của mình mà khuyên dậy môn đệ Timôthê cũng như cả tôi lắng nghe bởi vì:
“Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dậy, biện bác, sửa dậy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.” (2Tm 3, 16-17)
Đồng thời, ngài khuyên nhủ vâng phục lệnh truyền của Đức Giêsu là:
“Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dậy dỗ.” (2Tm 4, 2)
Ngoài ra, ĐTC Bênêđictô XVI đã an ủi động viên tôi trong hoàn cảnh hiện tại, khi ngài viết trong Sứ Điệp Cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 81 như sau:
“Tuy nhiên, chúng ta đừng bao giờ quên rằng sự đóng góp ưu tiên và tuyệt hảo mà chúng ta được kêu gọi để góp phần vào việc truyền giáo của Giáo Hội là lời cầu nguyện. Chúa nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt ra gặt lúa về.” (Lc 10, 2)
Lạy Chúa Giêsu, tình yêu của con,
Con cám ơn Chúa đã mặc khải cho con về mối tương quan tuyệt hào giữa Thiên Chúa là Cha và người mà Ngài tuyển chọn là con đây.
Lạy Cha Yêu Thương và Toàn Năng,
Con cảm ơn Cha biết bao vì dù cho con có tàn tật mất sức đi chăng nữa, Cha vẫn mau chóng bênh vực con bằng cách ban Thần Khí sức mạnh để lòng tin của con được lớn lên mà hưởng ơn cứu độ qua Thập Giá của Đức Kitô, Con Cha. Con tha thiết xin Nước Cha mau trị đến. Amen.
Chúa Nhật Ngày Thế Giới Truyền Giáo, 21/10/2007 Phêrô Vũ văn Quí CVK64 Email: peterquivu@gmail.com
Giải thích Tin Mừng Chúa Nhật: dụ ngôn của Chúa Kitô về sự cần thiết cầu nguyện luôn
ROME (Zenit.org).-Bài giải thích của cha Giảng Phủ Giáo Hoàng, Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchin, về các bài đọc từ phụng vụ Chúa Nhật tuần này, Chúa Nhật 29 Thường Niên.
Các bài đọc cho Chúa Nhật này là Xuất Hành 17:8-13a; 2 Timôthêô 3: 14-4; Luca 18: 1-8.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật bắt đầu như vầy: “Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây để: TN 29-C52
Bài Tin Mừng Chúa Nhật bắt đầu như vầy: “Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.” Dụ ngôn nói về một bà goá gây phiền hà. Để trả lời cho câu hỏi “Chúng ta phải cầu nguyện bao lâu?” Chúa Giêsu trả lời, “Luôn luôn!”
Sự cầu nguyện, như tình yêu, không chịu sư tính toán. Một người mẹ có đâu hỏi bà phải thường yêu con mình bao lâu, hay là một người bạn có đâu hỏi mình phải yêu một người bạn bao lâu? Có thể có những mức độ khác nhau trong sự cân nhắc đối với tình yêu, nhưng không có những khoảng cách nhiều hay ít điều hòa hơn trong sự yêu đương. Với sự cầu nguyện cũng vậy.
Lý tưởng của sự cầu nguyện kiên trì này được thực hiện trong nhiều hình thức bên phương Đông và phương Tây. Kitô giáo phương Đông thực hành điều ấy với “Kinh cầu ngưyện Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con!”
Phương Tây diễn đạt nguyên tắc của sự cầu nguyện kiên trì trong một cách uyển chuyển hơn nên nó cũng có thể được đề nghị cho những kẻ không sống một đời sống đan sĩ. Thánh Augustine dạy rằng bản chất của sự cầu ngưyện là sự ước muốn. Nếu sự ước muốn đối với Thiên Chúa là kiên trì, thì sự cầu nguyện cũng vậy, nhưng nếu không có sự ước muốn nội tâm, bấy giờ bạn có thể la hét nhiều như bạn muốn--với Thiên Chúa bạn lặng thinh.
Bây giờ, sự ước muốn bí mật đối với Chúa, một công việc của trí nhớ, của nhu cầu đối với sự vô cùng, của sự tưởng nhớ đến Chúa, có thể vẫn sống động, cả khi người ta có những sự khác phải làm: “Cầu nguyện lâu giờ cũng không là một sự như quì gối hay chấp tay lâu giờ. Cầu nguyện đúng hơn hệ tại sự đánh thức một sự thúc đẩy kiên trì và thành kính tâm hồn đối với Đấng chúng ta cầu khẩn.”
Chính Chúa Giêsu cho chúng ta gương cầu nguyện không ngừng. Về Người, có nói Người đã cầu nguyện ban ngày, ban chiều, sớm ban mai, và thỉnh thoảng Người thức suốt đêm cầu nguyện. Sự cầu nguyện là sợi giây liên kết của toàn diện sự sống của Người.
Nhưng gương Chúa Giêsu nói với chúng ta một cái gì quan trọng khác. Chúng ta tự phỉnh gạt mình nếu chúng ta tưởng rằng chúng ta có thể cầu nguyện luôn, biến sự cầu nguyện thành một thứ hơi thở của linh hồn giữa sinh hoạt hằng ngày, nếu chúng ta không trí ra những thời gian ấn định cho sự cầu nguyện, khi chúng ta rãnh khỏi mọi sự bận việc khác.
Chính Chúa Giêsu Đấng chúng ta thấy cầu nguyện luôn, cũng là Đấng, như mọi người Do thái khác thời đại Người, dừng lại và quay mặt về đền thờ tại Jerusalem ba lần một ngày, lúc bình minh, lúc chiều tà đang khi dâng lễ trong đền thớ, và lúc mặt trời lặn, và đọc những kinh nghi thức, giữa những kinh đó có kinh “Shema Yisrael!”—Hãy nghe đây, hỡi Israel!” Trong ngày Sabbath Người cũng tham gia, với các môn đệ Người, trong sự thờ phượng tại hội đường; nhiều pha cảnh khác nhau trong những sách Tin Mừng xảy ra chính xác trong bối cảnh này.
Giáo Hội—chúng ta có thể nói, từ lúc mới phát sinh—cũng đã dành một ngày riêng cho sự thờ phưng và cầu nguyện: ngày Chúa Nhật. Tất cả chúng ta đều biết, vô phúc thay, điều gì đã xảy ra cho ngày Chúa Nhật trong xã hội chúng ta: những môn Thể thao, từ là một cái gì để giải trí và nghỉ xả hơi, đã thường trở nên một cái gì đầu độc ngày Chúa Nhật… Chúng ta phải làm bất cứ điều gì chúng ta có thể cho ngày này có thể trở lại thành, như Chúa đã có ý định khi ra lệnh nghĩ lễ, một ngày của niềm vui thanh thỏa tăng cường sự hiệp thông của chúng ta với Chúa và với nhau, trong gia đình và trong xã hội.
Chúng ta những Kitô hữu đương thời phải múc sự linh hứng của chúng ta từ những lời mà, trong năm 305, Thánh Saturnius và các bạn tử đạo của ngài nói với quan xét Roman, kẻ đã cho bắt các ngài vì tham gia trong nghi thức Chúa Nhật: “Người Kitô hữu không thể sống mà không có Thánh Thể Chúa Nhật. Quan không biết rằng người kitô hữu hiện hữu cho Thánh Thể và Thánh Thể cho người Kitô hữu, hay sao?”
Cô giáo trẻ, phụ trách một lớp học, trong đó có một em thật ngang bướng ngỗ nghịch, tựa: TN 29-C53
Cô giáo trẻ, phụ trách một lớ p học, trong đó có một em thật ngang bướng ngỗ nghịch, tựa hồ như một con ngựa chứng trong sân trường. Sáng hôm ấy, cô giáo đến sớm và đang ngồi viết, thì Bình, tên em học trò ngang bướng ấy, xuất hiện và hỏi: Cô viết cái chi vậy? Cô trả lời: viết lời nguyện gởi cho Chúa đây. Ngài có thể làm được mọi sự, kể cả việc nhận lời cầu xin này. Cô giáo kẹp lời nguyện ấy vào trong một cuốn vở. Lợi dụng lúc cô giáo viết bài, Bình đã chớp mẩu giấy ghi lời cầu nguyện bỏ vào trong cuốn vở của mình.
Mười hai năm sau, tình cờ trong lúc dọn nhà, Bình tìm lại được mẩu giấy ngày xưa với nét chữa đã bị nhạt nhoà...Thế nhưng, vì cô giáo dùng loại tốc ký, nên Bình không thể đọc được. Anh bỏ mẩu giấy ấy vào trong ví rồi đi đến công sở. Tại đây anh nhờ cô thơ ký đọc giùm. Cô thơ ký nói: Tôi sẽ đánh máy và để trên bàn giấy của anh vì tôi nghĩ đây là chuyện riêng tư.
Trên đường về và suốt buổi tối hôm đó, anh cứ đọc đi đọc lại lời cầu nguyện của cô giáo: Lạy Chúa, xin đừng để con bị thất bại trong nghề nghiệp con đã chọn lựa... Nhưng con không thể nào thành công nếu như em Bình cứ phá bĩnh hoài. Xin Chúa hãy thúc giục tâm hồn em, để em trở nên một người rất tốt hoặc là rất xấu.
Lời cầu nguyện này đã đánh động anh để rồi anh xoá bỏ một số hành động mờ ám mà anh đã định thực hiện. Anh tìm đến cô giáo cũ và nói cho cô hay là lời cầu nguyện năm xưa của cô đã làm thay đổi cuộc đời anh.
Từ câu chuyện trên và nhất là từ đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta rút ra được hai điểm liên quan đến việc cầu nguyện của chúng ta:
Điểm thứ nhất đó là lời cầu nguyện có một năng lực to lớn, ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời chúng ta. Bác sĩ Carel, người đã từng đoạt giải Nobel, đã viết như sau: Cầu nguyện là hình thức năng lực hùng mạnh nhất mà con người có thể phát sinh ra, ành hưởng trên tâm hồn và thân xác chúng ta, không khác gì hấp lực của trái đất.
Điểm thứ hai đó là hãy kiên trì trong lời cầu nguyện của mình. Hình ảnh của Maisen qua bài đọc thứ nhất đã là một mẫu gương cho chúng ta noi theo, mặc dù mệt mỏi, Maisen vẫn cứ kiên trì cầu nguyện, nhờ sự giúp đỡ của bè bạn ông. Một em nhỏ đã kể lại cho bè bạn biết sở dĩ cậu ta có thể kiên trì cầu nguyện mỗi ngày là vì có bà mẹ giúp đỡ. Họ đồng ý với nhau là: mỗi sáng cả hai cùng thức dậy cùng một giờ, rồi mỗi người cầu nguyện riêng 15 phút trong phòng mình, đoạn cùng nhau ăn sáng, rồi bà mẹ thì đi lo công việc của mình, còn cậu thì đi đến trường. Cậu bé nói điều đã giúp cho cậu rất nhiều, đó là biết được rằng đang khi cậu cầu nguyện trong phòng mình, thì mẹ cậu cũng đang cầu nguyện trong phòng của bà.
Để thực hiện sự kiên trì trong việc cầu nguyện, chúng ta cần có một thời khoá biểu, một chương trình sống, ấn định những giờ giấc cầu nguyện đều đặn mỗi ngày, giống như hai mẹ con cậu bé đã làm.
Để kết luận, chúng ta ghi nhận một hình ảnh về sự cầu nguyện. Chúng ta có thể nói: Cầu nguyện chính là một chiếc máy vô tuyến thiêng liêng, nhờ đó mà chúng ta liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa, để lãnh nhận được những sự trợ giúp cần thiết.
Trong Phúc âm theo thánh Luca, dụ ngôn này đi liền sau một bài giảng của Đức Kitô ve: TN 29-C54
Trong Phúc âm theo thánh Luca, dụ ngôn này đi liền sau một bài giảng của Đức Kitô về ngày tận thế, có lẽ vì vậy câu cuối đoạn Phúc Âm hôm nay là “Tuy thế, Con Người đến sẽ còn gặp được niềm tin trên trái đất nữa không?”. Có lẽ nhân vật thẩm phán bạc ngược được dùng để làm nổi bật một sự tương phản. Bên này là một kẻ không có tình người, bên kia là Đấng Thượng Đế tuyệt đối nhân hậu. Nếu như kẻ bạo ngược chán chê mới nhận lời nài xin của bà goá chỉ vì muốn được yên thân với lòng ích kỷ của mình, tại sao Thiên Chúa, Đấng vô cùng nhân hậu, không tức khắc nhận lời cầu xin của con cái Người? Theo nhận xét bề ngoài, dụ ngôn nếu vấn đề thời hạn Thiên Chúa đặt ra để nhận lời chúng ta cầu xin. Vấn đề khác sâu sắc hơn: Thiên Chúa nhận lời, điều ấy nghĩa là gì? Khi chúng ta xin Thiên Chúa một điều rõ rệt, chẳng hạn xin lương thực hằng ngày, chúng ta có biết rõ tính chất sâu sắc bí ẩn của điều chúng ta xin không? Chúng ta có nhận thức không về tầm mức điều Thiên Chúa nhận lời ban cho, vì Thiên Chúa bao giờ cũng nhận lời? Chúng ta là những sinh vật sống trong giới hạn thời gian chúng ta đo bằng ngày giờ, bằng hiện tại và tương lai. Những ước vọng của chúng ta, tức là những lời cầu nguyện, hướng lên Thiên Chúa. Chúng ta sốt ruột nến phải chờ đến ngày mai, chúng ta muốn được thoả mãn ngay hôm nay, ngay tức khắc. Vậy mà Thiên Chúa nhìn chúng ta ở ngoài giới hạn thời gian ấy, Người nhận lời chúng ta tuỳ theo viễn ảnh toàn bộ định mệnh chúng ta, bây giờ và trong tương lai. Thiên Chúa vượt ra ngoài cái hiện tại trước mắt. Chúng ta ghi nhận hai điều sau:
1) Tại sao Thiên Chúa luôn luôn nhận lời? Bởi vì Người là Cha vô cùng nhân lành. Niềm tin chắc Thiên Chúa nhận lời cầu khẩn chính là một trong những cột trụ vững chắc nhất đời sống Kitô giáo. Nghi ngờ điều ấy là tội phạm đến đức cậy. Điều ấy quá đúng đến nỗi lời cầu nguyện của chúng ta không cần dài dòng vì Thiên Chúa biết trước biết rõ hơn chúng ta điều gì cần cho chúng ta. Thế mà Thiên Chúa là Cha chúng ta, luôn luôn sẵn sàng ban cho rất hậu tất cả những điều chúng ta cần. Toàn bộ Phúc Âm khẳng định sự thật ấy. Nếu vậy tại sao phải cầu nguyện? Cầu nguyện phải chăng là không cần thiết?
2) Bởi lẽ Thiên Chúa dựng nên chúng ta, những tạo vật có tự do, Người không bắt buộc chúng ta nhận lãnh ân huệ của Người cách miễn cưỡng. Thiên Chúa chỉ đáp ứng những nguyện vọng bày tỏ cách tự do. Lượng nhân hậu của Thiên Chúa đáp ứng quá lời cầu xin của chúng ta, nhưng Người muốn chúng ta phải cầu xin. Tại sao chúng ta thấy hình như Thiên Chúa rất nhiều phen để lâu mới trả lời. Sở dĩ như vậy vì nguyện vọng nung nấu và cầu nguyện bền bỉ mở rộng khả năng lòng trí chúng ta. Cầu nguyện hữu ích trước hết cho chúng ta, cầu nguyện đào sâu mở rộng tâm hồn. Thế mà Đấng nhân hậu vô biên cần có những tâm hồn sâu rộng… Hơn nữa, khi thấy Chúa mãi chưa cho, phải chăng Người có tham vọng sẽ ban chính mình Người cho chúng ta?
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Thật là dễ dàng để bứt đứt một sợi chỉ nhưng khi đặt một ngàn sợi chỉ cùng với nhau trong một: TN 29-C55
Thật là dễ dàng để bứt đứt một sợi chỉ nhưng khi đặt một ngàn sợi chỉ cùng với nhau trong một sợi dây bện thì thật khó mà cắt chúng ra làm hai. Cầu nguyện thì cũng giống như thế. Khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện, đặc biệt là trong khi cử hành phụng vụ, lời cầu nguyện của chúng ta có một sức mạnh vô song. Thiên Chúa rất hài lòng với lời cầu nguyện này. Khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện, Thiên Chúa là Cha của chúng ta sẵn sàng đoái nhìn chúng ta trong Con yêu dấu của Người, là Đầu của Thân Thể, Giáo Hội của Người. Lời cầu nguyện cùng nhau trong phụng vụ như là thân mình của Đức Kitô, là lời cầu nguyện tốt đẹp nhất.
Bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay biểu hiện được lời cầu nguyện phụng vụ chung này, Môsê cần sức mạnh để tiếp tục cầu nguyện trong cuộc chiến đấu với người Amalếch. Bao lâu Môsê đưa hai tay lên cầu nguyện thì dân Israel chiến thắng, nhưng khi ông buông tay xuống thì người Amalếch lại phản hồi và chiến thắng. Tiếp đó, Aaron, người anh em của Môsê và Hur bạn của ông đã giúp ông giữ cánh tay luôn luôn ở trong tư thế cầu nguyện, bởi đó dân Israel đã chiến thắng cuộc chiến.
Môsê và đôi tay giơ lên trong tư thế cầu nguyện thì giống như linh mục ngày hôm nay với đôi tay dâng lên cầu nguyện trong phụng vụ của Thánh Lễ. Linh mục sẽ không còn mệt mỏi như Môsê đã mệt mỏi xưa kia vì mọi người trong Thánh Lễ đã cùng hiệp lòng, cùng nâng bàn tay và cánh tay của linh mục. Giáo dân và linh mục đã cùng cầu nguyện với nhau. Linh mục sẽ không cầu nguyện cho chính ngài, ngài là vị lãnh đạo, là chủ tịch, là người thay thế và đại diện cho giáo dân, cho toàn dân. Đó là thời gian mà linh mục và giáo dân nói hoặc hát cùng với nhau như trong kinh Vinh danh hoặc trong những lời tuyên xưng. Tiếp đó giáo dân đáp lại những lời cầu nguyện mà vị linh mục đã xướng trên mọi người. Giáo dân lắng nghe cách chăm chú và cầu nguyện trong tâm hồn họ, đặc biệt là trong suốt kinh nguyện Thánh Thể.
Tư tế linh mục là dấu hiệu hợp nhất của phụng vụ, điều đó được tỏ hiện qua lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa như là một dân duy nhất. Tất cả chúng ta như hằng ngàn sợi chỉ đã hình thành trong một sợi dây thừng. Không chỉ vị linh mục nơi Thánh Lễ, nhưng là mọi người đều cần thiết và xứng đáng để nâng đỡ những người bạn Công giáo, đặc biệt là sự trung thành trong lời cầu nguyện khi chúng ta cảm thấy Thiên Chúa không đáp lời chúng ta. Chúng ta tin rằng sự giúp đỡ của chúng ta đến từ Thiên Chúa nhưng có lúc khó mà hành động theo như niềm tin của chúng ta.
Chúa Giêsu hiểu sự yếu đuối của chúng ta. Đó là lý do vì dao Ngài đã nói với chúng ta về dụ ngôn sự cần thiết của cầu nguyện luôn luôn và đừng bao giờ mất hy vọng. Người góa phụ trong dụ ngôn là môt bằng chứng. Một bằng chứng về sự bền bỉ, bà đã bị từ chối, bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã không muốn chúng ta bỏ cuộc, không có vấn đề gì khó, hay mất bao lâu để chúng ta cầu nguyện cho một điều gì. Để chúng ta cùng nhau cầu nguyện trong suốt Thánh Lễ.
Chúng ta đến với Thánh Lễ với nhiều lý do, và có thể mọi người trong chúng ta đều được thúc đẩy bởi lý do riêng của mỗi người mà chúng ta cho là quan trọng nhưng trên hết chúng ta phải được cảnh báo để thực hành bài học của phụng vụ trong ngày hôm nay.
Là một người Công giáo, một thành phần của Giáo Hội, chúng ta có trách nhiệm hướng đến người khác. Aaron và Hur đã không bỏ rơi Môsê trong lúc ông mệt mỏi. Họ không nghĩ rằng Môsê cầu nguyện một mình hoặc họ phải chú ý tới những lời cầu nguyện riêng của họ. Thiên Chúa hài lòng với lời cầu nguyện đầy mạnh mẽ bởi vì chúng ta cầu nguyện với tất cả không phải như những cá nhân độc lập, nhưng là cùng nhau như những người Công giáo, những người của Giáo Hội được hợp nhất trong tinh thần và trong thân thể của Đức Kitô.
Đức Giêsu nói với các môn đệ và với chúng ta hôm nay “Hãy cầu nguyện không ngừng ….. Một số người không: TN 29-C56 – bài 1
Đức Giêsu nói với các môn đệ và với chúng ta hôm nay “Hãy cầu nguyện không ngừng và không bao giờ nên nản chí”. Một số người không nhận thấy giá trị của việc cầu nguyện thường xuyên. Họ nghĩ rằng chỉ cần cầu nguyện khi họ cảm thấy hứng thú. Và câu chuyện sau đây được kể lại cho những người như thế.
Trước đây có một thị trấn nhỏ có đủ mọi cơ sở của một thành phố tự trị: một nhà tắm, một nghĩa trang, một bệnh viện và một toà án. Nó cũng có mọi loại thờ thủ công: thợ may nam nữ, thợ giày, thợ mộc, thợ nề, vân vân… Tuy nhiên, thiếu một ngành nghề: không có thợ đồng hồ.
Giờ đây, nhiều năm trôi qua, nhiều năm trôi qua, nhiều đồng hồ không còn chính xác nữa đến nỗi các người có đồng hồ để cho đồng hồ họ ngưng chạy và hoàn toàn quên chúng. Tuy nhiên, có những người khác vẫn không vất bỏ đồng hồ, và để cho chúng chạy chừng nào chúng còn chạy được. Vì thế, họ đã lên dây đồng hồ mỗi ngày dù họ biết rằng chúng không còn chạy chính xác nữa.
Một ngày nọ, một tin lan ra khắp thị trấn: một người thợ đồng hồ đã đến. Mọi người chạy đến ông ta với những chiếc đồng hồ của họ. Nhưng chỉ những đồng hồ người ta còn để cho chạy, người thợ ấy mới sửa được. Những đồng hồ bị bỏ xó bụi bặm bám đầy, ông ta không thể làm gì với chúng.
Tại sao cầu nguyện lại quan trọng? Nó làm được điều gì? Cầu nguyện làm cho hy vọng và những ý định của chúng ta trở nên trong sáng. Nó giúp chúng ta phân biệt giữa điều quan trọng và tầm thường. Nó giúp chúng ta khám phá những khát vọng chân thật của chúng ta, những ray rứt mà chúng ta không biết, những ước mơ mà chúng ta quên lãng. Cầu nguyện là một hành động thanh luyện bản thân.
Cầu nguyện dạy chúng ta phải khao khát điều gì. Nó giúp vun đắp trong chúng ta những lý tưởng mà chúng ta phải trân trọng. Sự trong sạch của miệng lưỡi hiện ra như một ý tưởng trong trí óc chúng ta, nhưng ý tưởng trở thành một sự quan tâm, một điều gì đó phải được theo đuổi, một mục tiêu phải được đạt đến, khi ấy chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin giữ miệng lưỡi con không nói điều xấu và môi con không nói lời xảo trá”.
Cầu nguyện không thay thế cho hành động. Đúng hơn, cầu nguyện giống như một luồng ánh sáng từ chiếc đèn ở phía trước chúng ta chiếu vào đêm tối. Nó giúp chúng ta tiến lên phía trước, nó khuyến khích chúng ta hành động.
Cầu nguyện không trốn tránh cuộc đời nhưng là một hành trình đi vào trung tâm của đời sống. Chúng ta học đứng vững trên đôi chân mình trước Thiên Chúa và thế giới, và chấp nhận mọi trách nhiệm về đời sống chúng ta.
Mục đích chính của đời sống ấy là nuôi dưỡng tương quan chúng ta với Thiên Chúa. Đây là điều quan trọng nhất trong mọi sự việc, chứ không phải việc chúng ta làm. Đó là cái neo trong đời sống tâm linh của chúng ta. Đời sống tâm linh không phải là một sự khác thường. Nó là đời sống của bản thân chân thật. Vấn đề không phải chỉ là đọc kinh.
Cầu nguyện không phải là một chiến thuật dùng khi hữu sự, một nơi trú ẩn được dùng đến khi sự việc trở nên tồi tệ. Nó là nơi cư trú được thiết lập cho cái tôi thâm sâu nhất. Cầu nguyện không phải là cầu xin Thiên Chúa cái này cái nọ mà nhận lãnh điều mà Người muốn ban cho chúng ta.
Cầu nguyện tự nó là một phần thưởng. Nó làm chúng ta trở nên phong phú và có khả năng sống không những tâm linh hơn mà sâu xa hơn, viên mãn hơn và đích thực hơn.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một lần kia, có một người thợ giày rất coi trọng việc cầu nguyện mỗi ngày. Khách hàng của ông ta đều là dân nghèo, và họ chỉ có mỗi một đôi giày. Người thợ giày phải nhận các đôi giày cần sửa vào chiều tối, sửa chữa chúng suốt đêm và sáng sớm giao hàng để các chủ nhân của chúng sẵn sàng sử dụng chúng lúc đi làm.
Điều này làm phát sinh một vấn đề: Ông sẽ đọc kinh sáng vào lúc nào? Có nên cầu nguyện thật nhanh vào sáng sớm và sau đó trở lại với công việc? Hoặc cứ để giờ cầu nguyện đã định trôi đi và mỗi lần như thế, ông ngừng tay búa đóng giày và thở dài: “Khốn cho tôi, tôi chưa cầu nguyện được”.
Chúng ta cũng thường gặp sự nan giải ấy vì phải lựa chọn hoặc sự hối tiếc trong lòng hoặc cầu nguyện đại khái chiếu lệ. Nhiều người trong chúng ta cố nén việc cầu nguyện thường ngày với lòng hối tiếc để chờ có được những điều kiện lý tưởng.
Nhưng sự kiềm chế, trì hoãn mãi có thể dễ dàng trở thành một thói quen. Khi giờ cầu nguyện đến, dường như miệng lưỡi chúng ta mệt mỏi, trí óc chúng ta trì trệ và cái nhìn nội tâm của chúng ta mờ tối. Vì thế, chúng ta không cầu nguyện. Chúng ta không từ khước cầu nguyện; chúng ta kiềm chế. Sự nuông chiều bản thân phù phiếm này ngăn cản chúng ta dìm mình vào sự tĩnh mịch bao quanh thế giới, sự tĩnh mịch trước lúc chúng ta sinh ra và đi theo chúng ta khi chúng ta chết.
Tại sao chúng ta không dành một giờ sống thân mật với Thiên Chúa và quay về với sự thính lặng tĩnh mịch ấy? Chúng ta ở trên ranh giới của sự mầu nhiệm mà mình không biết.
Đức Giêsu nói với các môn đệ và với chúng ta hôm nay “Hãy cầu nguyện không ngừng …. Từ khi còn thơ ấu,: TN 29-C57 – bài 2
Đức Giêsu nói với các môn đệ và với chúng ta hôm nay “Hãy cầu nguyện không ngừng và không bao giờ nên chán nản”. Từ khi còn thơ ấu, chúng ta được dạy rằng khi cầu nguyện phải chắp tay lại. Tuy nhiên, trong các kinh nguyện lớn của thánh lễ, vị linh mục mở rộng và dang thẳng đôi tay. Hai cách cầu nguyện đều tốt và có chỗ của chúng. Nhưng những cử chỉ khác nhau ấy có nghĩa là gì? Khi chắp tay lại, có nghĩa là trong lúc ấy chúng ta ngừng lại các hoạt động bình thường của chúng ta và dành thời gian để cầu nguyện Thiên Chúa. Điều này phù hợp với sự cầu nguyện riêng tư. Cầu nguyện với bàn tay mở rộng phù hợp với sự cầu nguyện chung. Cầu nguyện như thế là nhận rằng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta nghèo khó. Vì thế, chúng ta hướng bàn tay trống rỗng về Thiên Chúa như một người ăn mày hướng cái bát trống rỗng về những người khách bộ hành. Thật vậy, chúng ta đang nói: “Lạy Chúa, trước mặt Chúa, con nghèo khó như một người ăn mày. Con cầu Chúa làm đầy sự trống rỗng của con”. Cử chỉ cầu nguyện với đôi tay mở rộng tạo nên một tình trạng mạnh mẽ. Tự nó là một bài thuyết giáo. Cử chỉ ấy có từ xa xưa trong Kinh Thánh. Có một ví dụ về điều đó trong bài đọc 1 của thánh lễ hôm nay. Chúng ta thấy Môsê ở trên đỉnh đồi cầu nguyện với đôi tay dang rộng trên dân Do thái, trong cuộc chiến đấu một mất một còn với quân Amalếch. Khi cánh tay ông hạ xuống, quân Amalếch thắng thế. Nhưng khi ông giữ tay giương cao, quân Do thái thắng thế. Điều đó có ý muốn diễn tả quyền lực của sự cầu nguyện. Chừng nào mà dân Do thái còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa, họ còn tiến lên. Chừng nào họ quên không nhìn đến Thiên Chúa, họ buộc phải rút lui.
Đức Giêsu khuyên chúng ta cầu nguyện luôn và không nản chí. Nếu chúng ta ngưng cầu nguyện, chúng ta hầu như mất nhiệt tình và bỏ cuộc. Nếu chúng ta cầu nguyện liên tục, chúng ta sẽ không bao giờ mất nhiệt tình. Cầu nguyện có nghĩa là đặt chính mình và số phận của mình trong đôi tay của Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện có nghĩa là chúng ta trông cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa chứ không phải sức mạnh của chúng ta. Khi chúng ta cầu nguyện một thứ quyền lực khác trở thành có hiệu lực đối với chúng ta.
Linh mục đọc Kinh nguyện trong thánh lễ với đôi tay rộng mở. Giống như Môsê, ông cầu nguyện không chỉ nhân danh ông mà nhân danh một cộng đoàn thờ phượng. Cho dù chính chúng ta không cầu nguyện giống như thế, chúng ta có thể có cùng một thái độ trước Thiên Chúa như kinh nguyện ấy gợi ý: một thái độ khiêm nhường và tín thác.
Một lời cầu nguyện được đáp lại, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta cầu xin, nhưng khi chúng ta được ban cho cảm thức về sự cận kề của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của một bệnh nhân được đáp lại không phải bởi bì bệnh của người ấy biến mất, nhưng bởi vì người ấy có được một cảm thức về sự kề cận của Thiên Chúa, sự bảo đảm rằng căn bệnh của người ấy không phải là một hình phạt của Thiên Chúa và Thiên Chúa không bỏ rơi người ấy. Cầu nguyện có thể không làm thay đổi thế giới cho chúng ta, nhưng nó có thể cho chúng ta lòng can đảm đối diện với thế giới.
Khi chúng ta học cách cầu nguyện, chúng ta không chỉ học cách đọc lời kinh mà còn học cách mở rộng lòng mình. Chỉ cần ngồi thật im lặng và mở lòng mình và để Thiên Chúa bước vào.
Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.
Như thế, chúng ta không phải là những người đầu tiên gặp những khó khăn trong việc cầu nguyện: TN 29-C58
Như thế, chúng ta không phải là những người đầu tiên gặp những khó khăn trong việc cầu nguyện. Chính các tông đồ cũng “nản chí”. Và Đức Giêsu bắt buộc phải nâng tinh thần họ lên.
Thật vậy thường thì chúng ta bắt đầu cầu nguyện với lòng quảng đại. Chúng ta đã quyết định dành một ít thời gian mỗi ngày cho việc cầu nguyện. Một đôi khi, chúng ta đây mua một tranh thánh để đặt ở góc nhà và nó nhắc chúng ta “phải cầu nguyện”. Và rồi trong một vài ngày hoặc một vài tuần, chúng ta dùng một đoạn Tin Mừng và chúng ta cũng đã thử. Nhưng không có gì đã xảy ra! Chúng ta chỉ đụng phải sự im lặng của Thiên Chúa. Những sự phân tâm, chia trí đã chiếm hết thời gian suy niệm của chúng ta. Thế rồi, chúng ta đã ngừng lại...
Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí! Lạy Chúa, Chúa nói với chúng con như thế. Biết được Chúa hiểu những khó khăn của chúng con, tốt cho chúng con biết bao. Có một ngàn lý do để không cầu nguyện. Mọi khung cảnh của thế kỷ XX đều nói với chúng ta về hiệu quả tức thì của năng suất. Khoa học và kỹ thuật đã làm cho chúng ta tin rằng sau cùng con người có thể làm được mọi việc, ngay lập tức. Và rồi, bị sự tiêu thụ gặm nhắm, chúng ta chạy hết tốc độ. Chúng ta không còn có thời gian để dừng lại trừ lúc bị nhồi máu cơ tim. Bạn biết đấy, giữa những thời gian, học tập, công việc, lúc thư giản, tham gia; tôi không có thời gian cầu nguyện. Buổi sáng Chúa nhật là thời gian duy nhất để tôi nghỉ ngơi. Bạn biết đấy, tôi không đi dự thánh lễ được.
“Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí!”
Và rồi, cầu nguyện để làm gì? Bạn thấy rõ Thiên Chúa không nghe lời cầu nguyện của bạn. Bất công tiếp tục tồn tại trong thế giới. Thế thì tốt hơn hết là phải chiến đấu chống lại nó một cách cụ thể thay vì mất thời gian để cầu khẩn cho “Nước Cha trị đến” bởi vì xem ra Nước Cha không bao giờ đến.
Phải cầu nguyện luôn luôn và liên tục
“Phải cầu nguyện không được nản chí... vững vàng trong sự cầu nguyện... với lòng can đảm, kiên trì...
Độ là hai hình thức rất thường gặp dưới ngòi bút của thánh Phaolô, thầy của Luca (2Tx 1,11; Cl 1,3; Phl 4; Rm 1,10; 2 Tx 3,13; 2 Cr 4,1-16; Gl 6,9; Ep 3,13).
Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: ‘Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.' Một thời gian khá lâu, ông không chịu.
Một lần nữa, Đức Giêsu đã chọn một thí dụ hắc ám hết mức để làm cho chúng ta hiểu điều Người sắp nói. Một ông quan tòa phương Đông một mình làm nhiệm vụ trong một thành phố nhỏ, không có sự kiểm tra của cấp trên, và có thể kéo dài vụ kiện tuỳ thích. Một người chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng sợ hãi ma quỷ và khinh khi mọi người. Đối đầu với ông ta là một “bà góa”, chính là biểu tượng của những người nghèo không nơi nhờ cậy và không có tiền của, bị những người giàu có thù địch tha hồ bóc lột; “một người đàn bà” không có chỗ dựa về pháp lý, không không để bênh vực.
Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: ‘Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc’.
Đấy là trong một ít từ, vẽ ra chân dung của một người ích kỷ và vô liêm sỉ. Nếu có khi nào ông ta làm điều tốt lành, “trả lại công bằng” thì người ta chớ có ảo tưởng mà nghĩ rằng đó là hành động của lòng nhân từ. Đơn giản là một sự tình cờ may mắn đã lằm cho lời ích của người khác trùng hợp với lợi ích riêng của ông ta. Ong ta luôn luôn chỉ hành động “vì mình”. Khi làm đen tối thêm bức tranh về sự châm biếm mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn đẩy chứng minh của Người đến cùng cực. Mọi người đều chấp nhận rằng một người độc địa như thế có thể nhận lời một bà góa mà ông ta khinh miệt; đơn giản chỉ vì để bà góa đừng “quấy rầy” ông ta nữa.
Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?”
Vậy đây là một dụ ngôn dùng sự trạng phản, trong đó bài học được rút ra “trái ngược” với ví dụ được nêu ra: Một quan tòa bất chính, bất công, không có lương tâm và lòng nhân từ (1). ông ta từ chối (2) thực thi công bằng một thời gian dài. Sau cùng, bởi lòng ích kỷ phải nhường bộ một bà góa nghèo hèn (3) chẳng là gì đối với ông ta; để bà góa thôi quấy rầy ông ta nữa.
Trái lại, và với lý luận còn mạnh hơn rất nhiều, Thiên Chúa thì vô cùng (1) nhân từ, Người sẽ mau chóng “thực thi công bằng” cho những kẻ Người đã tuyển chọn (3) mà Người yêu thương vì những kẻ ấy kêu cầu Người.
Nếu một người độc ác như thế và nhẫn tâm sau cùng lại chấp nhận một lời cầu xin thì Thiên Chúa vốn nhạy cảm với những lời cầu nguyện của người nghèo sẽ còn phải làm nhiều hơn thế nữa.
Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người tuyển chọn sao?
Trong những dòng Tin Mừng này, bốn lần chúng ta nghe Đức Giêsu nói những từ đó lặp lại như một điệp khúc: Thực thi công bằng”; “Trả lại công bằng”; ông quan tòa bởi nghề nghiệp của mình phải là hiện thân của công lý. Công lý là một trong những giá trị cao nhất của nhân loại; liên quan đến những “quyền căn bản của con người”. “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi người có quyền được xét xử công bình và công khai bởi một tòa án độc lập và vô tư” (Tuyên Ngôn Quốc Tế về Quyền Con Người: 10 tháng 12 năm 1948).
Đức tin Kitô giáo đòi buộc chúng ta phải bảo vệ và thăng tiến công lý. Lời cầu nguyện của chúng ta chỉ trở nên chân thật nếu chúng ta đi tìm công lý. Mà nếu chúng ta “không thực thi công lý” thì Đức Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng chính Thiên Chúa, Người “sẽ thực thi công lý”.
Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ.
Đúng vào lúc lên Giêrusalem, lúc mà Đức Giêsu sáng suốt ý thức rằng Người đang tiến đến một sự kết án bất công bởi các quan tòa không công bằng thì Luca đã báo tạo thuật lại các lời đó của Đức Giêsu: “Người sẽ mau chóng bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn”. Người sẽ mau chóng thực thi công lý. Khẳng định này có vẻ nghịch lý, khi chúng ta nói rằng sự bất công tiếp tục thống trị thế giới thì chẳng phải là chúng ta được mời Soi thanh luyện ý tưởng mà chúng ta tạo ra cho mình về sự chiến thắng của công lý? Chiến thắng của Thiên Chúa, quyền năng của Người phải được thực hiện theo một cách hoàn toàn khác với cách chúng ta chờ đợi. Chúng ta luôn có xu hướng thích những quan niệm của con người, những quan niệm thiển cận của chúng ta hơn là những quan niệm của Thiên Chúa. Những lời cầu nguyện của chúng ta thường giống một thứ đòi nợ và chúng ta yêu cầu Thiên Chúa vâng lời chúng ta. Thiên Chúa như “máy phát quà tự động” là một thần tượng giả dối: bạn bỏ vào khe một đồng tiền, bạn kéo cái nút và cái máy đưa ra cho bạn một cái bánh sôcôla mà bạn yêu cầu!
Khi chúng ta có cảm tưởng không được nhận lời, chúng ta được mời gọi hiệp thông với Đức Giêsu. Người được nhận lời một cách khác! xin Cha cất chén này khỏi con”. Chén đau khổ không được cất đi. Nhưng, bởi cái chết, Người đi qua niềm vui mừng của sự Phục sinh.
Tuy nhiên bằng kinh nghiệm mà chúng ta biết điều này: Không phải lúc nào chúng ta cũng xin Thiên Chúa điều tốt nhất. Chúng ta không thể hiểu thấu tư tưởng của Chúa. Chúng ta sẽ ra sao nếu nhu mọi thói ngông cuồng ấu trĩ của chúng ta được nhận lời? Chúng ta giống như mọi sinh vật và cây cỏ: Cần phải có nhịp điệu của mùa màng, sự luân phiên của nắng mưa, của mùa hè và mùa đông và cả những cơn gió mạnh để lớn lên từ hạt đến hoa và đến quả. Một hạt mầm rẽ ra sao khi nó từ chối mọi thử thách trong dòng phát triển và muốn đòi có mùa gặt ngay hôm sau ngày gieo hạt?
Đức Giêsu biết rõ Chúa Cha! Người nói chúng ta phải có lòng trông cậy: “Thầy nói cùng anh em điều này, Thiên Chúa sẽ thực thi công lý cho những kẻ Người đã tuyển chọn ngày đêm hằng kêu cứu với Người”.
Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?
Thay vì có những “tín hữu” kêu cầu lòng nhân từ của Thiên Chúa, Đức Giêsu đụng phải những người “vô tín” ngày đêm đều không cầu nguyện. Một câu nói thể nghi vấn và đau đớn. Phải chăng rồi sẽ có một ngày người ta sẽ không còn hỏi liệu Thiên Chúa có nhận lời cầu nguyện hay không, bởi vì sẽ không còn có những lời cầu nguyện?
Nỗi đau của Đức Giêsu, nỗi đau của Thiên Chúa... khi đến gần cái chết sẽ xảy ra, không có được đức tin của dân Người chọn. Mầu nhiệm của tự do con người; tự do có thể từ chối tin, từ chối cầu nguyện.
Bất chợt, chúng ta khám phá rằng Đức Giêsu cảm thấy nỗi lo âu. Người lo âu thật sự trước việc sứ mạng và sứ điệp của Người bị từ khước.
Chính những người được tuyển chọn bị đe dọa bỏ đạo, bỏ đức tin. Sự tuyển chọn bởi phép rửa tội không phải là một bảo đảm. Đời sống trong một cộng đoàn Giáo Hội trong một khoảng thời giàn nào đó không chắc làm cho người ta không trở thành vô tín. Thiên Chúa không bao giờ quên chúng ta; còn chúng ta? Một câu hỏi nặng nề: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất?” Ngày mai, tôi sẽ còn đức tin không? và trong ngày tôi sẽ chết? ngày mà Đức Giêsu sẽ đến để gặp tôi?
Sau khi đã lặp lại rằng Thiên Chúa nhân từ và luôn luôn nhận lời cầu nguyện, Đức Giêsu cho chúng ta thấy lý do thật sự những thất vọng của chúng ta: Thiếu đức tin, cùng lời cảnh cáo nghiêm khắc đó được lặp lại hàng ngàn lần trong Tin Mừng (Lc 4,18-26; 21,23,50; 8,5-15; 9,41; 10,21-24; 11,29-32 v.v...).
Ngày nay, người ta nói về “khủng hoảng đức tin”. Đức Giêsu đã nói về nó. Cám dỗ bỏ đức tin không phải chỉ thời đại chúng ta mới có. Ngay từ hôm nay, tôi sẽ làm gì để nuôi dưỡng đức tin? Phải chăng tôi cầu nguyện.
KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN THEO GƯƠNG NGƯỜI ĐÀN BÀ GOÁ TRONG DỤ NGÔN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ thái độ vụ lợi của vị thẩm phán bất lương.
Chúa Giêsu tiến bước về Giêrusalem, thành trì Người sẽ ra đi (9,32). Người không ngừng hướng: TN 29-C59
Chúa Giêsu tiến bước về Giêrusalem, thành trì Người sẽ ra đi (9,32). Người không ngừng hướng lòng về với Chúa Cha trong cầu nguyện. Với những kẻ đi theo; Người dạy họ về ngày trở lại của Con Người. Bây giờ, Người khích lệ họ vững lòng: Hãy cầu nguyện luôn, đừng nản chí.
Minh họa cho bài học này bằng một dụ ngôn, Người dàn dựng hai nhân vật: “Một bà goá”, mà Kinh Thánh thường coi như mẫu người cần được bênh vực. - “Một thẩm phán chẳng có lòng tin, cũng không quan tâm đến luật pháp, chẳng kính Chúa, cũng không nể người. Bà góa tội nghiệp kêu mãi ông không nghe. Rồi, ông cũng cứu xét, không phải vì lương tâm, mà vì ích kỷ: “bà này quấy rày ta quá thôi thì xử cho bà, kẻo đến nhức óc vì bà”.
2. Đến thái độ nhân hậu của Thiên Chúa Cha.
Và đây là áp dụng. Bản văn long trọng nhập đề: “Và Chúa thêm....”.
Bức tranh u ám vẽ về vị thẩm phán bất lương đã sáng lên khi Đức Giêsu phác họa Cha Người ân cần nhân ái với mọi người. Nếu một thẩm phán chẳng kính sợ Chúa, không tôn trọng con người, cuối cùng, cũng bênh vực quyền lợi chính đáng của bà goá, không lẽ Thiên Chúa nhân lành cả với kẻ bất lương (6,6) lại không nghe lời chúng ta cầu xin. Như vậy, dụ ngôn không có ý dạy ta phải cư xử với Chúa thế nào, nhưng có ý mạc khải cho ta biết Chúa cư xử với chúng ta ra sao. Chiêm ngưỡng lòng nhân hậu của Chúa, Đấng hằng nghe lời ta kêu nài sẽ là một động lực khích lệ ta cầu nguyện tin tưởng hơn, kiên nhẫn hơn, và bắt chước bà góa mà không ngại kêu nài và quấy rầy Người.
Diễn từ kết thúc. Một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhắc đến sự trở lại của Con Người vào ngày thế mạt. “Nhưng, khi Con Người trở lại, liệu còn thấy lòng tin trên mặt đất không? “. Một bài huấn dụ thật cảm động để các môn đệ vững vàng trong đức tin, bền chí trong đức cậy và kiên tâm cầu nguyện. Cơn cám dỗ làm lung lay Phêrô và các bạn ông (22,32 và 22,46) chính là cơn cám đỗ Đức Giêsu đã đối mặt trong cơn hấp hối ở vườn cây Dầu và đã chiến thắng thì Giáo Hội cũng sẽ đương đầu với nó: suốt dọc lịch sử mình. Như vậy, cũng như Chúa Giêsu và các Tông đồ, Giáo Hội sẽ phải cảnh giác không ngừng trong cầu nguyện.
H. Cousin kết luận: Đề tài cầu nguyện liên hệ với đề tài lòng tin, lòng trung thành. Sự liên hệ ấy rất cụ thể và bền chặt. Nếu suốt chiều dài lịch sử của mình. Các Kitô hữu không liên lỉ cầu nguyện, không nuôi lòng tin của mình, bằng những lời nài xin liên lì, thì khi Đức Giêsu trở lại, Người sẽ không nhận ra lòng tín trung nơi những kẻ tự xưng là thuộc về Người. Theo dòng thời gian, các thành phần Giáo Hội cần trả lời cho vấn đề Đức Giêsu đặt ra ở đây.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một Thiên Chúa, là Cha hơn một người cha, công minh hơn cả quan án.
Thánh Luca đã tường thuật giáo huấn của Đức Giêsu về lời cầu nguyện. Ngài còn nhấn mạnh để chúng ta thấy: cầu nguyện nhất thiết phải kiên trì, không được thất vọng. Dụ ngôn về viên quan tòa không có lòng kính sợ Chúa, không tôn trọng con người, nhưng cuối cùng cũng nhượng bộ sự kiên trì của một bà góa cứ quấy rầy ông ta, tương tự như dụ ngôn về một người chịu thua ông bạn đến mượn ba chiếc bánh (11,5-8). Đức Giêsu không hư cấu những dụ ngôn này. Người lấy ngay trong đời thường những nhân vật với những tính tốt và nết xấu. Qua đó, Người tỏ bày Thiên Chúa là Cha còn hơn một người cha, công minh hơn cả một quan án. “Hãy nghe điều quan án bất lương đó nói. Và Thiên Chúa lại không đem điều chính trực lại cho những kẻ được chọn bằng kêu cầu Ngài ngày đêm sao? Đức Giêsu không ngừng nói với chúng ta về Chúa Cha. Nhìn vào cách con người đối xử với tha nhân: một người làm phiền bạn mình lúc khuya, người cha nuôi con cái, quan án bênh vực người cô quạnh. Đức Giêsu lại nghĩ tới Chúa Cha. Ngay cả tật xấu của người đời, Đức Giêsu cũng dùng như một thí dụ để miêu tả sự săn sóc chu đáo của Chúa Cha: “Thiên Chúa lại không bênh vực...”. Người ta thấy trong con tim Chúa Con rạo rực lòng nhiệt thành đối với Chúa Cha. Và Đức Giêsu muốn chúng ta chia sẻ tâm tình đó với Người.
2. Cầu nguyện
Cầu nguyện! Đó là từ ngữ của lòng tin! Một tín hữu không cầu nguyện có còn là tín hữu không? Tuy nhiên, cần nhìn nhận cho đúng. Cầu nguyện không dễ đâu. Đó là một thách thức, nhất là khi không được lồng vào một cử hành phụng vụ, hay một tập họp của cộng đồng. Cầu nguyện, đó là mặt sau của mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm Thiên Chúa sống động trong con người. Một nét phác thảo vô định, nhưng cháy bỏng.
Thiên Chúa chí thánh. Cầu nguyện trở thành lời ca ngợi. Thiên Chúa nhân lành. Cầu nguyện trở thành lời van xin. Chẳng cần nhấn mạnh đến lời ca ngợi. Ngay trong kinh Lạy Cha đã nói, tới rồi! Nguyện Danh Cha cả sáng, yêu ai, chúng ta nói đủ mọi lời tỏ lòng tôn kính. Huống hồ, đối với Thiên Chúa.
Còn đối với lời cầu xin. Có vấn đề đây. Trước hết, những tâm hồn mạnh chủ trương cầu xin là vô ích và ấu trĩ. Chúa biết rành hơn mình rồi. Còn đối với những tâm hồn yếu, tôi muốn nói tới những kẻ cầu xin ơn này, ơn khác một cách vụng về có khi lệch lạc. Chúa đâu phải là cái máy phân phối tự động các ơn huệ, hoặc ban ơn theo kẻo trao đổi: “Tôi dâng thứ này, Chúa ban lại ơn kia”. Hoặc tệ hơn, đòi dồn Chúa vào chân tường. Người ta đọc thấy trong sách Judith: đừng đòi Chúa bảo hành những ý định của Ngài. Đừng dồn Ngài tới chân tường như một phàm nhân: Đừng thôi thúc Ngài” (8,16)
Không trao đổi, không tối hậu thư. Lời cầu xin đích thực chấp nhận trước rằng: có thể không được chấp nhận như mình muốn hoặc hoạch định. Không được như ý cũng là một ân huệ đấy. Thiên Chúa luôn ban điều Người đã hứa: Thánh Linh. Hãy xin chính Chúa và Thánh Linh của người. Xin như vậy, bao giờ bạn cũng nhận được.
3. Hiệp nhất để làm chứng
Đoạn Tin Mừng này dọi sáng chủ đề Hiệp Thông và Truyền Giáo dưới 3 khía cạnh:
1. Dụ ngôn có ý dạy: “Hãy cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng” (Lc 18,1). Cầu nguyện là mệnh lệnh thứ nhất trong sứ mệnh truyền giáo. Nó kết hợp những người dấn thân truyền giáo. Nó nhắc người ta, đối với Chúa, đừng thất vọng bao giờ.
2. Thiên Chúa không điếc trước tiếng kêu của những người nghèo khổ đang khát khao công bình. Trao đổi thông tin về thế giới, đó là mệnh lệnh thứ hai về sứ mệnh Truyền giáo. Nó làm cho kinh nguyện phổ quát có hương vị của một tâm hồn không còn tới hy vọng nhưng vẫn vững lòng cậy trông (Rm 4,l8).
3. Nhưng, khi Con người trở lại, liệu còn thấy lòng tin trên trái đất? Đây là câu hỏi, không phải chúng ta đặt ra trước Chúa, mà là Chúa đặt ra trước chúng ta. Câu trả lời tùy thuộc một phần vào chúng ta, vào sự hiệp thông trong đức tin của chúng ta, vào ý chí chúng ta muốn trở thành chứng nhân cho Tin Mừng Đức Kitô trên khắp thế giới. Vấn đề là như vậy. Hy vọng câu trả lời sẽ tích cực. Mệnh lệnh thứ ba của sứ mệnh Truyền giáo là dâng hiến thời giờ, tài sản, và cả mạng sống cho Tin Mừng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu hôm nay kể cho chúng ta nghe chuyện về một ông quan toà bất lương, nhưng: TN 29-C60
Chúa Giêsu hôm nay kể cho chúng ta nghe chuyện về một ông quan toà bất lương, nhưng phải chịu thua một người đàn bà goá nghèo, để dạy chúng ta biết luôn tin tưởng cậy dựa vào Chúa, không được nản chí, thất vọng, thì mọi sự sẽ thành công.
Vì sao ông quan toà chẳng kính sợ Thiên Chúa và cũng không kiêng nể người ta, thế mà phải chịu thua một người đàn bà goá ? Vì ông muốn được yên thân.
Vì sao người đàn bà goá lại thắng ông quan toà? Vì bà kiên trì nhẫn nại, nhất là bà bị đẩy vào bước đường cùng, chẳng còn biết kêu ai, chỉ biết ngày này qua ngày khác đến gõ cửa xin ông quan toà minh xét.
Khi ta bị bệnh nan y, hiểm nghèo, hết cách chữa trị, chỉ còn biết cậy dựa vào Chúa, ta lại được ơn lành bệnh.
Hàng năm có biết bao nhiêu người mắc những chứng bệnh khác nhau trên thế giới, chẳng còn cách chữa trị nào khác, chỉ biết tìm đến Lộ-Đức, nước Pháp cầu nguyện với Đức Mẹ đã được chữa lành.
Kinh nghiệm cuộc sống cũng dạy ta: “Thành- Bại, Thắng- Thua, Được- Mất”, là do thái độ đức tin của ta: “Hết đêm đen trời lại sáng”. Bão tố chẳng kéo dài mãi được. Hôm nay tôi nghèo, mai tôi sẽ thoát khỏi cảnh nghèo, nếu tôi chịu khó làm ăn.
Vâng, với niềm tin rực sáng trong trái tim, ta sẽ vượt qua được tất cả. Nhưng liệu ngọn lửa đức tin có luôn rực sáng trong lòng ta hay không? Chúa Giêsu cũng đã từng thốt lên: “Liệu khi Con Người đến, có còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa không?”
Cám dỗ bỏ đức tin, bỏ đạo không chỉ thời nay mới có mà thời Chúa Giêsu cũng đã từng xảy ra. Nó có mặt ở hết mọi nơi mọi thời. Xung quanh ta, xứ đạo ta, có biết bao người chối Chúa bỏ đạo, bao gia đình tối sớm không cầu nguyện, không lễ lạy...v.v.
Trước thực trạng đó, ta phải làm gì? Ta phải khiêm tốn cầu xin Chúa như các Tông đồ xưa: “Xin Thày ban thêm lòng tin cho chúng con”, đồng thời ta cũng hãy tích cực học hỏi giáo lý và mạnh dạn rao giảng Tin mừng với tất cả lòng nhẫn nại và thành tâm thiện chí như Phaolô tông đồ đã khuyên dạy Timôthê xưa kia.
Lạy Chúa Giêsu, đức tin của chúng con rất yếu kém, xin Chúa củng cố và làm vững mạnh lòng tin nơi chúng con. Amen.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã định nghĩa về việc cầu nguyện như sau: “Đối với tôi, cầu nguyện: TN 29-C61
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã định nghĩa về việc cầu nguyện như sau: “Đối với tôi, cầu nguyện là hứng khởi của tâm hồn, là cái nhìn đơn sơ hướng về trời, là lời kinh tri ân và yêu mến giữa cơn thử thách cũng như lúc hân hoan”. Ta thấy trong lời cầu nguyện của Thánh nữ có tất cả các tâm tình của người con dâng lên Cha, đó là khiêm nhường, khao khát, phó thác, kiền trì và cảm tạ. Bài Tin Mừng hôm nay nói về dụ ngôn bà goá nghèo khổ và ông quan toà bất lương. Đức Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau; một bên là ông quan tòa quyền uy chức trọng, kiêu ngạo, bạo ngược vì “ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Còn bà góa là một người nghèo, không có địa vị trong xã hội, bị áp bức, tứ cố vô thân, không có ai nâng đỡ. Vì lòng kiên trì, ông quan toà cuối cùng cũng phải nhượng bộ với bà. Vậy khi cầu nguyện, chúng ta phải bắt đầu với tâm tình nào? Với lòng kiêu hãnh và ý riêng ta, hay với tâm tình khiêm nhường và thống hối thẳm sâu? (Tv 130,14). Khi cầu nguyện chúng ta đã có được những tâm tình căn bản của Thánh nữ Têrêsa hay của bà góa hôm nay chưa? Qua hình ảnh bà góa trong dụ ngôn, chúng ta dễ dàng nhận ra được khi cầu nguyện cần có các tâm tình sau:
Cầu nguyện là bổn phận và quyền lợi, bà goá này hoàn toàn ý thức về quyền lợi của bà, làm sao để cho ông thẩm phán mở phiền toà, ông này rất ngang ngược ”Ông không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kính nể người ta”. Nhưng vì quyền lợi bà phải đến đòi, đến gặp ông quàn tòa để yêu cầu xét xử cho bà. Vì thế, cầu nguyện không phải là ép buộc mà là bổn phận người Kitô hữu phài có, đó là tâm tình con với Cha mình, chuyện vãn với Cha mọi lúc mọi giờ, vì cầu nguyện cũng có thể được định nghĩa là nâng tâm hồn lên với Chúa hay là nói chuyện với Chúa. Tâm tình đầu tiên mà bà góa có được chính là thái độ khiêm nhường. Bà biết mình yếu đuối cô thân, cô thế, bị người ta ức hiếp cũng không thể bảo vệ cho mình được mà phải nhờ người khác bảo vệ. Một thái độ mà mỗi người chúng ta cần phải có khi cầu nguyện, đó là thái độ khiêm nhường vì con người chỉ là thụ tạo là không trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là kiếp tro bụi, chúng ta chỉ có thể đứng vững hay mạnh mẽ khi biết nương tựa vào Chúa, như thánh Augustinô đã từng khẳng định: “Trước mặt Thiên Chúa con người chỉ là kẻ van xin”. Tuy ông quan toà mang tiếng là bất tlương, nhưng bà goá hôm nay không thể nhờ được ai ngoài ông ta. Chỉ có ông quan toà mới là niềm hy vọng duy nhất, là nơi cậy trông. Bà hoàn toàn phó thác cho ông quan tòa. Chúng ta cũng thế, chỉ khi nào biết phó thác vào bàn tay Chúa như một bé thơ nằm trong lòng bàn tay mẹ hiền, thì lúc đó Thiên Chuá sẽ vỗ về an ủi, bảo vệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy biết phó thác đường đời cho Người.
Trong đời sống cầu nguyện, nhiều người thấy thất vọng, chán nãn, vì xin hoài mà không được, cầu mãi mà không cho, nên không cần cầu nguyện nữa. Thái độ đó, trái ngược với hình ảnh kêu xin của bà góa hôm nay. Bà phải chịu đựng cảnh không được chấp nhận một thời gian khá lâu, nhưng vẫn không chán nản, không sờn lòng, cuối cùng với lòng khao khát với sự kiên trì bà đã được toại nguyện. Thật vậy, Thiên Chúa không bao giờ làm ngơ trước những lời kêu xin của con người. Đôi lúc lời cầu xin của chúng ta không được Thiên Chuá nhậm lời, những lúc đó chúng ta có cảm giác như Thiên Chúa ngoảnh mặt làm ngơ trước những đòi hỏi của mình. Không phải thế, chỉ vì ta mới nhìn Thiên Chúa bằng cặp mắt hạn hẹp của người đời, bằng suy nghĩ hạn hẹp cá nhân. Trong khi Thiên Chúa quan phòng yêu thương, Ngài nhìn thấy tất cả những nhu cầu của chúng ta nhưng vì những lời cầu xin của chúng ta không có lợi cho phần rỗi của mình hoặc tha nhân hay chúng ta vẫn chưa đủ kiên nhẫn phó thác.
Vậy khi cầu nguyện, chúng ta hãy noi gương bà góa hôm nay kiên trì không thất vọng, không nản lòng, không lơ là buông thả. Thay vì chán nản, vì lời cầu nguyện khô khan vô vọng thì hãy phấn đấu chống lại mệt mỏi, quyết tâm chiến đấu khi cầu nguyện như một nhu cầu thiết yếu phải làm.
Có công mài sắt có ngày nên kim ” hay “ Nước chảy đá mòn ” . Đấy là kinh nghiệm xương: TN 29-C62
” Có công mài sắt có ngày nên kim ” hay “ Nước chảy đá mòn ” . Đấy là kinh nghiệm xương máu mà cha ông ta đã truyền lại, để dạy cho con cháu biết kiên trì, nhẫn nại trong mọi công việc. Một thanh niên muốn thành đạt trên đường đời phải kiên trì học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước. Đồng thời, anh còn phải kiên trì đào sâu suy nghĩ thêm. Cũng vậy trong đời sống đức tin, Chúa Giêsu khuyên chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện.
Ngay câu đầu của đoạn Tin mừng hôm nay, Thánh sử Luca cho chúng ta biết: “ Khi ấy, Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí ” . Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu cho thấy người đàn góa nhờ kiên trì nên bà đã được ông quan tòa minh xử cho. Chúng ta biết, bổn phận của ông quan tòa là phải đứng ra bênh vực cho những người cô thế cô thân như người đàn bà góa này. Tuy nhiên, ông quan tòa này lại là người “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì ” . Dầu vậy, ông vẫn phải chịu thua sự kiên trì của bà. Ông nhủ thầm: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc ” .
Từ đó, Chúa Giêsu nói: “ Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó!Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ ”.
Như thế, nếu thật sự kiên trì cầu nguyện chúng ta sẽ được Thiên Chúa là Cha ban cho hơn cả sự mong đợi của mình. Điều đáng nói ở đây là khi kiên trì cầu nguyện đòi hỏi chúng ta phải có những tâm tình và thái độ như thế nào?
Trước hết, kiên trì cầu nguyện đòi hỏi chúng ta phải có tinh thần hy sinh và quảng đại. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy nếu như ông Môisen không hy sinh và quảng đại thì dân Do thái khó mà thắng được dân Amalêch. Ông đã giang tay để cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Thậm chí, khi ông mệt mỏi thì có hai người đỡ tay ông. Có nhiều người tín hữu muốn cầu nguyện nhưng lại sợ mất giờ. Thiếu hy sinh quảng đại với Chúa sẽ rất khó mà được Chúa quảng đại với mình. Chúa Giêsu đã nói: “ Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa”. (Mc 4, 24b). Thật ra, sự hy sinh quảng đại của ta chỉ là phần nào đền đáp lại sự hy sinh quảng đại quá to lớn mà Thiên Chúa đã dành cho mình.
Thứ đến, sự kiên trì cầu nguyện đòi hỏi chúng ta hướng tới mục đích tốt. Mục đích tốt ấy lại còn phải theo ý Chúa để cứu rỗi linh hồn ta và cho nhiều người khác. Chẳng hạn một tên trộm, anh ta cũng kiên trì theo dõi nhưng lại với mục đích hại người khác. Khi cầu nguyện chúng ta hãy kiên trì xin những ơn nào đem lại lợi ích cho phần rỗi đời đời của ta và anh chị em ta. Đó mới thực sự là điều mà Chúa Giêsu chờ đợi nơi chúng ta.
Do đó, khi cầu nguyện chúng ta hãy thành tâm kiên trì với sự hy sinh quảng đại và với những mục đích tốt theo ý Chúa muốn. Chắc chắn, Thiên Chúa sẽ không để chúng ta chịu thiệt thòi. Hãy tin là Thiên Chúa luôn luôn nhìn xa thấy rộng hơn chúng ta nhiều.
Cầu nguyện liên lỉ - Đó là thông điệp mà Lời Chúa hôm nay gởi đến mỗi người chúng ta. Là Kitô: TN 29-C63
Cầu nguyện liên lỉ - Đó là thông điệp mà Lời Chúa hôm nay gởi đến mỗi người chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta phải biết cầu nguyện, không phải cầu nguyện trong một số dịp nào đó, mà là mọi nơi mọi lúc trong suốt cuộc đời. Với bối cảnh Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật Truyền Giáo, chúng ta cũng nên nhìn lại sứ mệnh truyền giáo của mình. Nhiều khi chúng ta chỉ chú trọng những công việc cụ thể mà quên đi sức mạnh của lời cầu nguyện. Cầu nguyện cũng giúp cho việc truyền giáo gặt hái được nhiều thành quả tốt đẹp.
CẦN PHẢI CẦU NGUYỆN
Bài đọc Cựu Ước cho thấy hiệu quả của việc cầu nguyện. Trong cuộc chiến với dân Amalec, Giôsuê chỉ huy ngoài trận mạc, còn Môsê ở trên núi cầu nguyện cho các chiến binh Israel . Vận mạng của Israel không nằm ở chiến trường, nhưng nằm trên đôi tay của Môsê. Khi ông giơ tay thì Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống thì Israel thắng thế. Cuối cùng phải có hai người nâng đỡ tay ông, Israel mới chiến thắng. Chiến thắng của Israel phát xuất từ Thiên Chúa, qua lời cầu nguyện của Môsê.
Mọi nổ lực của con người sẽ bằng không nếu không có ơn Chúa. Dân Israel có mạnh đến đâu, có liều mình xông pha đến mấy cũng không được gì nếu Chúa không phù trợ. Cảm nghiệm được như thế, tác giả Thánh Vịnh đã cất tiếng: "Nếu như Chúa chẳng xây nhà - Thợ nề vất vả cũng là uổng công" (Tv 126,1), và lại xác tín: "Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa" (Tv 120,2). Chúng ta sẽ chẳng làm gì được nếu chúng ta không biết nương nhờ vào sức mạnh của Chúa. Chúa luôn muốn thi ân giáng phúc cho con người, chỉ cần con người biết hướng lòng về Chúa với lời cầu nguyện. Do vậy, chúng ta cần phải cầu nguyện để được Chúa nâng đỡ phù trì.
CẦU NGUYỆN LIÊN LỈ
Thánh Luca thuật lại giáo huấn của Chúa Giêsu về sự cầu nguyện: Cầu nguyện nhất thiết phải kiên trì, không được thất vọng, ngay cả khi ít hoặc không thấy chút gì hy vọng.
Dụ ngôn nói về một vị quan toà bất lương, không kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng tôn trọng người ta. Một bà goá đi tìm công lý, lần nầy sang lần khác. Vị quan toà từ chối phân xử cho bà goá sau một thời gian dài. Cuối cùng, ông ta phải nhượng bộ trước sự kiên trì của bà goá và đã minh xử cho bà.
Vượt trên sự miễn cưỡng của vị quan toà, Thiên Chúa là Cha yêu thương luôn khao khát và lắng nghe lời con cái thủ thỉ với Ngài. Còn ta có như bà goá kia, tin tưởng - kiên trì đến với Chúa không?
Vì quan niệm sai lầm mà không ít người nản lòng không đến với Chúa. Chúng ta thường nghĩ rằng cầu nguyện là cầu xin. Do đó, khi không có gì để xin thì đâu cần cầu nguyện! Mà khi xin không được thì đâm ra nản lòng. Chúa quan phòng không phải là cái máy phân phối các ơn huệ một cách vô tội vạ. Lời cầu xin đích thực phải là: "Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39). Nếu không được như ý ta cũng được một ơn huệ lớn hơn: Sự quan phòng của Chúa. Cái nhận được sinh ích gấp bội cái ta muốn nhận.
Mặc khác, cầu nguyện đâu chỉ là cầu xin, cầu nguyện còn là một lời tán tụng, cảm tạ, tạ lỗi... và cuộc sống chúng ta cũng là lời nguyện dâng lên Thiên Chúa. Như thế, kiên trì cầu nguyện là luôn hướng về Chúa trong suy nghĩ, lời nói và hành động.
CẦU NGUYỆN ĐỂ TRUYỀN GIÁO.
Hôm nay, Chúa Nhật Truyền Giáo, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta mệnh lệnh của Chúa Giêsu: Hãy truyền giáo.
Trong bối cảnh Lời Chúa hôm nay, chúng ta cần khẳng định lại giá trị không nhỏ của lời cầu nguyện trong việc truyền giáo. Kinh nghiệm Giáo Hội cho thấy có nhiều phương cách để truyền giáo: bên cạnh một Phanxicô Xaviê hăng say bôn ba đó đây để truyền giáo, còn có một Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng hăng say không kém, nhưng truyền giáo bằng lời cầu nguyện trong bốn bức tường của Dòng Kín. Giáo Hội đã xác nhận hiệu quả của việc làm nầy và đã đặt Thánh Nữ lên làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Chúng ta nung nấu trong lòng ước mơ làm một điều gì đó để truyền giáo. Đó là ước mơ cao đẹp. Chúng ta hãy tùy khả năng, sức lực và hoàn cảnh riêng của mình để có phương thế truyền giáo thích hợp. Không nhất thiết phải làm một việc gì lớn lao vĩ đại, một lời nguyện đơn sơ chân thành cũng là phương cách truyền giáo hữu hiệu.
Lạy Chúa, Chúa là nguồn tình yêu và sức mạnh của đời con. Xin cho con biết tin tưởng chạy đến với Chúa trong từng biến cố vui buồn, để cuộc đời con là một chuỗi những lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.
Rất nhiều những vĩ nhân không tiếc lời ca ngợi về chữ nhẫn và những con người biết “nhẫn” trong: TN 29-C64
Rất nhiều những vĩ nhân không tiếc lời ca ngợi về chữ nhẫn và những con người biết “nhẫn” trong cuộc đời này. Tục ngữ Việt Nam cũng có rất nhiều câu nói về chữ nhẫn, như “Nước chảy đá mòn”,“Có công mài sắt có ngày nên kim” hay“ Kiến tha lâu cũng đầy tổ” . . . Và có một câu chuyện ngụ ngôn Rùa và Thỏ rất hay để nói về vấn đề này. Rùa vốn chậm chạp, nhưng nhờ kiên nhẫn mà chiến thắng được Thỏ, một loài vật vốn rất nhanh nhẹn và lanh trí. Như vậy, những ai biết kiên nhẫn trong việc mình làm thì chắc chắn sẽ chiến thắng dù có phải vất vả hay chậm trễ đôi chút. Tin mừng hôm nay tường thuật cho chúng ta dụ ngôn về vị quan toà bất lương và độc ác phải chịu thua lòng kiên trì của một người đàn bà goá nghèo khổ, cô thế cô thân. Bà chiến thắng vị quan toà không vì vị thế của bà hay lòng thương người của vị quan toà. Nhưng bà chiến thắng vị quan toà nhờ lòng kiên trì của bà. Bà đã làm cho vị quan toà bất lương cả thấy bị nhức óc và bị quấy rầy nên xử kiện cho bà. Qua đó, Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài cũng hãy biết kiên trì trong cầu nguyện để có thể đạt được điều mình khấn xin cùng Thiên Chúa. Nếu vị quan toà bất lương đã hành xử như thế thì Thiên Chúa tình yêu sẽ hành xử cho chúng ta những điều tốt đẹp hơn biết là ngần nào.
Có thể nói không có từ ngữ nào gần gũi và quen thuộc với những Kitô hữu nói riêng và của các tín đồ trong các tôn giáo khác nói chung cho bằng từ ngữ “cầu nguyện”. Ai cũng nhận ra cầu nguyện là một nhu cầu và giá trị vô song. Các nhà Tu đức cho rằng “Cầu nguyện là hơi thở linh hồn”. Và có rất nhiều những vị thánh lớn nhỏ trong Hội thánh Chúa nên thánh bằng đời sống cầu nguyện của mình. Chính Chúa Giêsu cũng nói lên giá trị vô song của cầu nguyện bằng những lời giảng dạy tha thiết của Ngài và bằng chính đời sống hằng ngày của Ngài trong cuộc đời rao giảng của Ngài. Dù biết thế, nhưng thử hỏi có được mấy người trong chúng ta biết trung thành và kiên nhẫn trong việc cầu nguyện để “chiến thắng”. Có nhiều người vì thiếu kiên nhẫn trong đời sống cầu nguyện mà dần dần đi đến chỗ mất đức tin, bỏ Chúa để đi tìm con đường “giải thoát” cho mình bằng cách tin vào chính mình hay tin vào một vị thần linh nào khác mà họ vẽ ra theo ý của họ.
Chúa Giêsu thừa nhận là Thiên Chúa có chậm trễ và trì hoãn trong việc đáp trả những lời nguyện xin của con người. Trì hoãn chứ không phải làm ngơ hay từ chối. Chúng ta không thể đòi hỏi Thiên Chúa phải trả lời chúng ta tại sao Ngài làm như thế. Chúng ta chỉ cần tin nhận và tín thác vào Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta hơn chúng ta yêu chúng ta gấp nhiều lần. Chúng ta chỉ biết một mà không biết hai, ba . . . Còn Thiên Chúa Ngài hiểu biết tất cả. Ngài sẽ làm cho chúng ta trăm ngàn lần những điều tốt đẹp cho chúng ta. Nếu một người mẹ thương con thì chắc hẳn sẽ không bao giờ cho nó con dao bén để chơi đùa khi nó mối lên 3 hay 4 tuổi. Dù rằng đứa bé thấy rất cần có con dao để chơi, và ngay lúc đó nó chỉ cần có thế thôi. Nếu mẹ nó không cho nó thì nó nghĩ rằng mẹ nó không thương nó. Nhưng nào có phải vậy đâu. Vì quá thương mà không cho và tìm cái tốt hơn và an toàn hơn để cho nó. Thiên Chúa cũng xử với chúng ta theo cùng những cách thức như thế. Ước gì chúng ta biết nhận ra Chúa là người Cha vô cùng thương yêu chúng ta để chúng ta biết trọn niềm tin và phó thác
Có quá nhiều điều chúng ta cầu xin với Chúa không được đúng đắn. Đôi khi vì vô tình hay cố ý mà chúng ta biến Chúa thành một Vị thần linh mù quáng, độc ác, tham lam, ích kỷ theo ý muốn của chúng ta. Có một chuyện kể rằng: có một người phụ nữ nọ làm nghề buôn lậu. Vì thường hay bị công an thuế vụ bắt và tịch thu hàng hoá của bà nên bà đến chân Chúa Giêsu trong nhà nguyện và cầu xin tha thiết với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho con trong những chuyến đi buôn được suôn sẻ, đi Đông thì lọt Đông, đi Tây thì lọt Tây; xin cho công an thuế vụ có mắt như mù, có tai như điếc, có mồm như câm.” Lời cầu xin nghe hay quá nhưng thật là buồn cười và ngây ngô. Nếu Thiên Chúa của chúng ta mà nhận lời cầu xin của bà thì hoá ra Thiên Chúa cũng tham lam, cũng mánh mun như một người tội lỗi tày trời. Tội nghiệp cho Chúa của chúng ta quá. Nếu chúng ta cầu nguyện như thế thì làm sao mà Chúa nhận lời của chúng ta cho được, dù rằng Chúa rất yêu thương chúng ta. Nhưng sao mỗi lần cầu xin như thế mà chúng ta gặp thất bại thì sinh ra oán ghét Chúa, hờn trách Chúa đủ mọi điều; thậm chí còn muốn “nghỉ chơi” với Chúa và bỏ Chúa luôn. Ta hãy nghĩ lại xem, chúng ta hành động như thế có đúng đắn hay không.
Bài đọc I hôm nay cũng tường thuật cho chúng ta nghe về chiến thắng của Dân Do thái trước quân Amalech hùng mạnh. Họ chiến thắng không phải nhờ sức mạnh của vũ khí hay tài năng tác chiến của họ, nhưng là nhờ vào quyền năng của Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của Môsê. Như vậy chúng ta thấy được rằng cầu nguyện có một sức mạnh vô song và là phương thế giúp ta chiến thắng kẻ thù là Ma quỷ, xác thịt và thế gian này. Chúng ta hãy nhớ rằng, chúng ta không phải là đối thủ của ma quỷ, vì chúng ta rất yếu đuối, còn ma quỷ thì nhiều mưu thâm chước độc. Chúng ta muốn chiến thắng được nó thì phải nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của chúng ta. Cầu nguyện luôn để có thể chiến thắng. Đừng vì nôn nóng hay nao núng mà nản lòng nhưng phải kiên trì. Kiên trì để chiến thắng.
"Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc".
Bài trích sách tiên tri Isaia.
Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra, hỡi Giêrusalem!
Vì sự sáng của ngươi đã tới,
Vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.
Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, và u minh phủ kín các dân,
nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy,
vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi.
Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi,
và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.
Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi:
tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi;
các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới,
và các con gái của ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.
Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi sẽ trở nên rực rỡ,
tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên.
Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi,
nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi.
Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi,
những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Êpha.
Tất cả những ai từ Saba đi tới. họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.
Đó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv. 97, 1, 2- 3ab, 3c- 4, 5- 6
Câu đáp: Chúa đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân.
Bài đọc 2: 1Tim 2, 1 – 8
"Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi"
Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phaolô Tông Đồ gởi cho Timôthêô.
Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn
cho mọi người: cho vua chúa và tất cả các bậc vị vọng, để chúng ta được sống bình yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch. Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý. Vì chỉ có một Thiên Chúa, và một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Đức Giêsu Kitô, cũng là con người. Người đã phó mình làm giá cứu chuộc thay cho mọi người, để nên chứng tá trong thời của Người, mà vì chứng tá đó, cha đã được đặt lên làm kẻ rao giảng, làm Tông Đồ (cha nói thật chớ không nói dối), và làm Thầy dạy Dân Ngoại trong đức tin và chân lý.
Vậy cha muốn rằng những người đàn ông cầu nguyện trong mọi nơi, hãy giơ lên hai tay thanh sạch, không oán hờn và cạnh tranh. - Đó là lời Chúa.
Alleluia, alleluia. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người; tất cả ai tin vào Người, sẽ được sống đời đời. Alleluia.
Phúc Âm: Joan 17, 11b. 17- 23
"Như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian"
Bài trích Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:
"Lạy Cha chí thánh,
xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con,
để chúng được nên một như Ta.
Xin hãy thánh hóa chúng trong sự thật: lời Cha là chân lý.
Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hóa, để cả chúng cũng được thánh hóa trong chân lý.
Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một.
Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con". Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM
Nhân ngày Truyền Giáo thứ 75 kể từ khi được Đức Thánh Cha Piô XI thiết lập 14/04/1926, những: TN 29-C65
Nhân ngày Truyền Giáo thứ 75 kể từ khi được Đức Thánh Cha Piô XI thiết lập 14/04/1926, những bài đọc được đề nghị trên đây, có thể giúp chúng ta nhìn lại một giai đoạn lịch sử, và cũng hướng chúng ta vào tương lai từ ngay chính hiện tại của mình. Một hiện tại có quá nhiều lo âu và đen tối.
Lịch sử truyền giáo nơi các dân tộc cho dù có thể được nhìn và nhận định dưới những nhãn quan đôi khi rất mâu thuẫn và nghịch lý, nhưng trong một chừng mực nào đó vẫn là như Isaia đã nói từ 2600 năm trước, đó là sự rực sáng của Dân Chúa với bao ân huệ Thiên Chúa không ngừng tuôn đổ xuống cho Dân Người. Và muôn dân nước được lôi cuốn tiến về Ánh Sáng ấy để khám phá ra định mệnh cao quý của chính mình và nhận được sự trợ giúp vô biên để đạt tới cùng đích trong hạnh phúc. Chúng ta có thể đọc thấy nơi Isaia vinh quang rực rỡ# của Dân Chúa, nhưng đồng thời cũng thấy được trách nhiệm vô cùng lớn lao của Dân Chúa đối với hạnh phúc của toàn nhân loại. Hai khía cạnh này không thể tách biệt trong sứ vụ và hoạt động Truyền Giáo. Vì vinh quang mà Isaia đã nhìn thấy đó chính là Người Con theo Lời Hứa cho Israel, Đấng Cứu Chuộc duy nhất của loài người. Và chính trong Người chúng ta khám phá ra một sự ràng buộc hữu cơ với mọi người: vì Người đã đồng hóa mình "với các anh em nhỏ nhất của Người".
Nói theo Đức Thánh Cha trong Sứ Điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2001 "Tôi ghi nhớ trong tim tôi, gương mặt của nhân loại mà tôi có thể chiêm ngưỡng, trong các cuộc hành hương của tôi, chính dung nhan Chúa Kitô phản ảnh trong gương mặt những người nghèo, và những người đau khổ, dung nhan Chúa Kitô sáng chói trong những hạng người sống như "con chiên không kẻ chăn". Tất cả người nam, và tất cả người nữ đều có quyền được dạy cho biết "nhiều điều".
Nếu nhìn công việc truyền giáo là như thế, chúng ta hiểu được tại sao Người Truyền Giáo đầu tiên, Đức Giêsu Kitô, cũng như người được tôn vinh là Tông Đồ dân ngoại, đã khởi sự, đã thực hiện, đã hoàn tất công việc truyền giáo của mình trong "Lời Nguyện Tạ Ơn" như thư gửi Timôtê và bài Tin Mừng khẳng định. Đức Thánh Cha viết "Trước sự minh nhiên của tính mỏng giòn, và bất lực của chúng ta, con người bị cám dỗ giải tán họ, đó cũng là cơn cám dỗ của người tông đồ. Ngược lại, chính lúc đó, khi nhìn ngắm gương mặt của Đấng Đáng yêu, mỗi người phải nghe lại lời của Chúa Giêsu "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn". Như vậy cùng một lúc, người ta kinh nghiệm sự yếu kém của con người, và ân sủng của Chúa. Ý thức về sự mỏng giòn tất yếu, được ghi khắc nơi chúng ta cách thâm sâu, chúng ta cảm thấy nhu cầu cảm tạ ơn Thiên Chúa, vì những gì Người đã thực hiện qua chúng ta, và vì những gì người sẽ thực hiện qua ân sủng của Người."
Mục đích của công cuộc truyền giáo đã được chính Đức Giêsu diễn tả trong Lời Nguyện Tế Hiến của Người một cách thật chí tình và mãnh liệt "để chúng nên một như Chúng Ta là một" , một mục đích hoàn toàn là ÂN SỦNG THUẦN KHIẾT, không thể đạt tới cách nào khác hơn là "hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn" như thánh Tông Đồ dạy. Mục đích ấy còn đòi hỏi như là hành động cốt yếu và duy nhất của hết mọi người loan báo Tin Mừng: đó là "tự hiến thánh mình". Đức Thánh Cha cũng đã viết "Qua cách sống này, họ cao rao "ân sủng của Chúa không cùng". Thường cái "không cùng" này đi tới chỗ đổ máu: nhiều người đã là những "nhân chứng đức tin" trong thế kỷ qua...."
Nhìn trong thời điểm hôm nay, giờ đây nhân loại đang phải nghe trong máu đổ thịt rơi khắp nơi những đòi hỏi cho công lý, cho sự thật, cho tự do, cho hòa bình của bao thứ người tự cho mình cái danh nghĩa là những sứ giả duy nhất... chúng ta mới thấy lời chứng của Đức Tin, lời chứng của Sứ Giả Tin Mừng xuất phát từ chính "Sự Hiến Thánh bản thân mình" trong lời nguyện tế hiến như Đức Kitô mới là câu trả lời duy nhất đem lại niềm hy vọng cho chúng ta.
Đời sống của con người được đánh dấu bằng những chặng mốc, mỗi giai đoạn trong đời là một: TN 29-C66
Đời sống của con người được đánh dấu bằng những chặng mốc, mỗi giai đoạn trong đời là một ghi dấu cho sự tiến bộ hay thoái lui. Đạo của Chúa là đạo tình yêu do Chúa thiết lập. Mà đã gọi là đạo tình yêu, con người phải đáp trả lại tình yêu của Đấng đã yêu thương mình hết mình, đã hy sinh, từ bỏ cho con người cũng chính vì tình yêu. Tuy nhiên, để sống tình yêu, con người phải có đức tin, muốn có niềm tin, con người ngoài sự nỗ lực thiêng liêng của mình, còn phải xin Chúa ban đức tin và củng cố đức tin cho mình.
TƯ TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA KHÁC VỚI CON NGƯỜI. QUYỀN NĂNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÚA VƯỢT TRÊN MỌI SUY TÍNH, ĐẮN ĐO CỦA CON NGƯỜI:
Chúa Giêsu thường dùng các dụ ngôn, thí dụ rút ra từ những sự kiện xẩy ra chung quanh Ngài trong xã hội Do Thái lúc đó. Ngài không bao giờ nói mà không dùng dụ ngôn. Lời nói của Ngài luôn luôn đi đôi với hành động. Câu chuyện Chúa Giêsu đưa ra để dậy loài người, dậy con người đã xẩy ra cách đây hơn hai ngàn năm. Nhưng chuyện Chúa Giêsu kể mà thánh Luca đã thuật lại trong chương 18, 1-8 luôn luôn có giá trị, luôn luôn có ý nghĩa, luôn luôn gây ấn tượng lớn lao. Thực tế, ở mọi thời đại trên thế giới này nhiều nơi công lý bị che mờ, nhiều người thấp cổ bị xử oan ức, không biết kêu vào đâu, không biết cậy dựa vào nơi nào: kêu đất, đất im lặng, kêu trời hầu như không bao giờ thấu. Con người vẫn la gào, vẫn kêu xin nhưng hầu như Thiên Chúa cũng vẫn im lặng, Ngài hình như làm ngơ trước những thử thách, bất công mà nhiều người thấp cổ, bé họng đang phải chịu đựng trên khắp trái đất này. Chúa Giêsu thấu hiểu được những lo toan, tâm trạng bất an của con người ở mọi nơi, mọi chỗ, vì vậy Ngài kêu gọi con người hãy kiên nhẫn cầu nguyện không ngừng và hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Ngài.
Lý luận của Chúa Giêsu về dụ ngôn” Thẩm phán bạo ngược và bà goá quấy rầy” thật đơn sơ và giản dị: vị thẩm phán như Tin Mừng nói dẫu rằng Ông ngỗ ngược, không biết kính sợ Thiên Chúa và cũng chẳng nể trọng ai, mà Ông còn phải xiêu lòng trước lời van nài liên lỉ của một bà goá, thì huống gì Thiên Chúa, Đấng giầu lòng thương xót, luôn yêu thương con người, chắc chắn khi con người kêu xin, cầu nguyện, bỏ nhiều thời giờ để ăn năn, trở về, Chúa sẽ minh giải cho những con người được chọn và tha thứ cho những tội nhân biết ăn năn sám hối. Quả thực, con người nhiều khi cứ tưởng rằng Thiên Chúa luôn im lặng và không cảm thông với nỗi đau khổ, với những khó khăn, thử thách của con người. Không, Thiên Chúa luôn có mặt, luôn can thiệp khi con người tín thác và kiên nhẫn cậy trông vào Ngài. Vì như thánh Phaolô nói:” Điều nhân loại cho là điên rồ, Thiên Chúa cho là khôn ngoan, điều con người cho là yếu hèn, Thiên Chúa cho là mạnh mẽ”. Công lý của Thiên Chúa khác với công lý của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của loài người. Quyền năng và cách xử sự của Thiên Chúa vượt trên mọi đắn đo, suy nghĩ, tính toán của con người.
DỤ NGÔN CHÚA GIÊSU NHẮM TỚI:
Dụ ngôn nhắm tới kỳ hạn, Thiên Chúa nhậm lời con người. Một cách sâu xa, ý nghĩa hơn, dụ ngôn chỉ ra lời cầu xin của con người có được chấp nhận không ? Con người có hiểu rõ hết những tiềm ẩn đàng sau lời cầu xin của con người không ? Con người có hiểu rõ Thiên Chúa sẽ chấp nhận lời cầu của mình bao nhiêu không ? Đó là những vấn nạn con người thường đặt ra và lắm khi không thể trả lời được, nhiều khi không thể giải quyết được. Vì, con người bị giới hạn bởi không gian, thời gian, ngày, giờ, năm, tháng, còn đối với Chúa Ngài không hề bị giới hạn bởi những điều nhân loại và con người bị ràng buộc. Con người xin gì, muốn được liền. Chúa hoàn toàn khác với suy đoán, tưởng tượng của con người. Ngài luôn vượt ra khỏi những giới hạn của con người, Ngài chấp nhận mọi lời cầu xin tốt lành của con người. Ngài nhậm lời con người vì Ngài là Đấng tốt lành, người Cha vô cùng nhân hậu, hiền từ. Lời cầu nguyện của con người càng bền bỉ, càng liên lỉ và cậy trông, chắc chắn Chúa sẽ ban ơn, nhậm lời dù rằng nhiều khi con người có cảm tưởng như Ngài trì hoãn. Chúa mời gọi con người đi vào mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Chúa ban cho con người tình yêu mà chính con người cũng không thể hiểu thấu được. Do đó, Chúa mời gọi con người luôn phó thác, cậy trông, tin tưởng vào Ngài. Phó thác, cậy trông như Chúa đã sống là chấp nhận làm theo ý Thiên Chúa Cha trong mọi hoàn cảnh, trong mọi trạng huống của cuộc đời vì biết rằng làm theo ý Chúa Cha là con người được hạnh phúc, được sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn kiên trì, bền vững cầu nguyện vì chúng con biết rằng Chúa sẽ không để chúng con phải thất vọng ê chề.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Bạn có kiên nhẫn cầu nguyện ? Dụ ngôn vị thẩm phán bất công và bà goá quấy rầy giúp gì cho bạn ? Có khi nào bạn nghi ngờ về lòng thương xót của Chúa ?
Theo Viện Thống kê Gallup, “cuộc thăm dò dư luận từ ngày 21-23 tháng 9 cho biết sáu mươi: TN 29-C67
Theo Viện Thống kê Gallup, “cuộc thăm dò dư luận từ ngày 21-23 tháng 9 cho biết sáu mươi tư phần trăm dân chúng Hoa Kỳ đã cho rằng tôn giáo ‘rất quan trọng’ trong đời sống của họ. Bốn mươi bảy phần trăm nói họ đã dự lễ ở nhà thờ hay hội đường trong tuần lễ trước đó.” (CWNews 5/10/2001) Sau đó cả nước Mỹ đã tổ chức ngày cầu nguyện cho các nạn nhân. Nhưng một số người vô thần phản đối, vì theo họ không cần phải cầu xin ai cả. Chỉ cần dựa vào sức con người cũng có thể giải quyết vấn đề ! Nếu không có liên hệ chặt chẽ giữa niềm tin và lời cầu nguyện, liệu có sự phản đối đó không ? Chúng ta chờ đợi câu trả lời của Chúa trong dụ ngôn hôm nay.
HAI KHUÔN MẶT.
Đức Giêsu là một họa sĩ đại tài. Để thu hút giới hâm mộ, Người đã tô đậm một nền đen nghịt, tức là ông quan tòa “chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì.” (Lc 18:2) Con người ông là một khối băng giá ngất ngưởng giữa trời. Bằng chứng ông ngâm tôm vụ bà góa kiện đối phương “trong một thời gian khá lâu.” (Lc 18:4) Chỗ dựa duy nhất của bà là người chồng không còn nữa. Bà mất tất cả. Bởi vậy, bà mới dễ dàng bị đối phương ăn hiếp. Ai muốn hại bà cũng được. Cuối cùng vì không thể chịu không nổi, bà mới lôi đối phương ra tòa. Hẳn vụ kiện không phải nhỏ. Sau bao ngày tháng kêu réo, bà đã thắng lòng lì lợm của quan tòa. Bà chỉ còn một phương tiện tranh đấu duy nhất là kiên nhẫn kêu than suốt đêm ngày tại cửa quyền. Quan tòa bực bội hết sức. Cuối cùng, “ông ta nghĩ bụng: ‘Mụ góa này quấy rầy mài, thì ta sẽ xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.’” (Lc 18:5) Dầu sao, công lý đã trở lại pháp đình, không phải vì quan tòa công minh hay có lòng thương cảm đối với những người thấp cổ bé họng, nhưng chỉ vì một lý do hoàn toàn cá nhân. Con người có thể ích kỷ cả khi làm một việc tốt cho người khác ! Dầu sao, việc bà bị đối phương hãm hại đã được đưa ra ánh sáng.
Sau khi đã tạo được một nền mờ tối như thế, Đức Giêsu đặt vấn đề: “Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi ? Thày nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ.” (Lc 18:7) Mặc dù cao vượt hơn con người, nhưng “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,” (Lc 2:78) chứ không vô tâm như “quan tòa bất chính ấy.” (Lc 18:6) Thực tế, Thiên Chúa luôn dấn thân vào lịch sử nhân loại và can thiệp để kịp thời giải cứu những người cô thế cô thân.
Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những khát vọng chính đáng của con người. Nhưng không thể hiểu Thiên Chúa như một cái máy rút tiền lúc nào cũng sẵn sàng nhả tiền cho khách hàng. Thiên Chúa thấu hiểu tất cả hiện tại và tương lai. Con người giống như người đứng dưới chân núi, không thể bao quát toàn cảnh như Thiên Chúa ở trên cao. Bởi đấy những nhận định của họ nhiều khi có tính cách chủ quan và hạn hẹp. Đó là nguyên nhân khiến lời cầu nguyện trở thành một thách đố. Những lúc lâm vào hoàn cảnh như thế, con người thường đồng hóa Thiên Chúa với bộ máy lạnh lùng, lạnh lùng hơn cả quan tòa trong dụ ngôn hôm nay. Bởi thế, có nhiều người không tin vào lời cầu nguyện, nghĩa là không tin có Thiên Chúa lắng nghe khát vọng con người và giải quyết những khó khăn cuộc sống nhân sinh. Họ mất kiên nhẫn. Từ đó, họ có ác cảm với Thiên Chúa và mọi hình thức cầu nguyện.
Nhưng đối với tín hữu, cầu nguyện là lẽ sống. Con người có thể gặp thử thách, nhưng không tuyệt vọng khi chưa đạt được điều mong ước khi cầu nguyện. Thiên Chúa chưa đáp ứng không có nghĩa là Người từ chối lời cầu nguyện. Trái lại, cần phải biết chuẩn bị và biết lắng nghe Thiên Chúa. Nếu bà góa cũng chóng nản lòng thối chí, chắc chắn chẳng bao giờ vụ kiện được minh xét. Lòng kiên nhẫn đã trở thành một sức mạnh khiến cho lời bà thấu đến tai quan tòa. Đó là một bài học đắt giá cho những ai muốn lời cầu nguyện thấu đến Thánh Nhan. Chính Đức Giêsu đã quả quyết: “Ai kiên nhẫn tới cùng sẽ được cứu thoát.”
Không những cần kiên nhẫn, người tín hữu còn phải cầu nguyện không ngừng. Chính Đức Giêsu đã làm gương rất lớn và còn dạy chúng ta cầu nguyện cùng với Chúa Cha. Lời cầu nguyện của Người vào giờ phút bi thương nhất tưởng như rơi vào hư vô. Thế nhưng, Chúa Cha đã sai Thánh Linh phục sinh thân xác Đức Giêsu. Đó là lời đáp trả kỳ diệu của Thiên Chúa cho người công chính như Đức Giêsu. Lời cầu nguyện tuyệt vời của Đức Giêsu đã cuốn hút tất cả con người của Người vào trong tình yêu Thiên Chúa.
Vì thế, khi lắng nghe và nhìn thấy Đức Giêsu cầu nguyện, chúng ta mới biết mình phải làm gì để Thiên Chúa nhận lời. Dĩ nhiên cần phải “mặc lấy Chúa Kitô” nghĩa là phải sống công chính như Chúa, để lời cầu nguyện có một sức mạnh. Hơn nữa, “chính việc trung thành với Thiên Chúa của Đức Giêsu là động lực cầu nguyện.” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:710) Nhưng nếu cho rằng lời cầu nguyện chỉ là một hành động chủ quan, một cách biến đổi chúng ta hay là cách diễn tả một sự bất lực hoặc một thứ hứng khởi tâm lý, đức tin chúng ta sẽ khác lạ với đức tin trong Thánh kinh. Tự căn bản Thiên Chúa chẳng màng gì tới những nhu cầu nhân loại và không đáp ứng nhu cầu đó. Thực tế, Thiên Chúa lắng nghe và đáp ứng lời cầu nguyện của “những kẻ Người tuyển chọn, hằng đêm ngày kêu cứu với Người.” (Lc 18:7) “Lời cầu nguyện thực sự có ảnh hưởng nào đó trên cách Thiên Chúa hành động trong thế giới.” (The New Dictionary of Catholic Spirituality 1993:766) Bằng chứng, khi giao chiến với quân Amalếch, chính nhờ lời ông Môsê cầu nguyện, dân Do thái đã chiến thắng (x. Xh 17:8-13)
KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN.
Chính nhờ niềm tin sâu xa nơi Thiên Chúa, ông Môsê đã đem lại sức mạnh cho dân Do thái. Con người hoàn toàn bất lực trước những nhu cầu giải thoát vô cùng lớn lao. Nhưng những ai hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, sẽ thấy Người hành động để “hạ bệ những ai quyền thế” và “nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1:52) Niềm tin đó phải được thể hiện qua việc cầu nguyện. Nói khác, cầu nguyện chính là một cách diễn tả niềm tin cách sống động và sâu xa nhất. “Vì khi cầu nguyện, chúng ta diễn những gì chúng ta tin về Thiên Chúa và về mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa.” (The New Dictionary of Catholic Spirituality 1993:766) Lời cầu nguyện quả thật có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống. Nhưng lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất tự một “đức tin có chất lượng và sống động.” (NIB 1995:339) Nếu tin, chúng ta sẽ thấy “chính Thiên Chúa quan tâm tới tạo vật và đáp ứng tiếng chúng kêu xin.” (The New Dictionary of Catholic Spirituality 1993:766)
Nhưng niềm tin đó đang gặp khủng hoảng lớn lao trên thế giới. Nhân loại đang đánh mất chiều kích lớn lao nhất, chiều kích Thiên Chúa. Vì thế, con người không thể giải quyết những vấn đề phức tạp. Tương quan nhân loại trở thành nhạt nhẽo và trống rỗng. Bởi không tin Thiên Chúa và khinh thường anh em, nên họ cũng chẳng cần phải gắn bó với ai. Nhân loại phân rẽ thành các khối thù nghịch. Vết nứt càng ngày càng lớn thành một hố sâu sẽ nuốt sống toàn thể nhân loại. Để lấp đầy hố sâu đó, con người cần phải chạy đến với Thiên Chúa. Vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng “xẻ núi lấp sông” mà thôi. Bởi đấy, các tín hữu hoàn toàn tin tưởng sẽ tìm được sức mạnh đích thực trong lời cầu nguyện. Nhờ sức mạnh đó, con người có thể lớn lên theo một tầm vóc Đức Kitô. Càng dựa vào Thiên Chúa, con người càng trưởng thành. Niềm tin vô cùng quan trọng cho thăng tiến nhân loại theo chiều hướng cánh chung. cần kiên trì mới thấy được tất cả sức mạnh của niềm tin. “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18:8)
Bài đọc Chúa Nhật trước nói đến bổn phận rao giảng Tin Mừng, những gian khổ phải chịu và: TN 29-C68
Bài đọc Chúa Nhật trước nói đến bổn phận rao giảng Tin Mừng, những gian khổ phải chịu và phần thưởng được lãnh nhận do việc rao giảng ấy. Cũng nằm trong cùng một hướng đi của chủ đề rao giảng Tin Mừng, qua những lời thánh Phao-lô nhắn nhủ Ti-mô-thê, người rao giảng Tin Mừng sẽ nhận ra được tầm quan trọng của Sách Thánh, tức Lời Chúa được ghi chép bằng ngôn ngữ loài người, đối với việc phát triển đời sống thiêng liêng và hồn tông đồ như thế nào.
Học Sách Thánh là công việc hết sức quan trọng đối với người Do-thái. Nó giống như "trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác Người sẽ thêm cho" (Mt 6:33). Ngay từ tuổi thơ ấu, đứa trẻ Do-thái đã làm quen với Sách Thánh rồi. Đối với Ti-mô-thê, bà ngoại và thân mẫu dùng Sách Thánh để dạy dỗ cậu từ tấm bé và giúp cho cậu "nên người khôn ngoan." Nay lại thêm một thầy dạy nữa là Phao-lô giúp Ti-mô-thê đi từ căn bản đạo đức được xây dựng nhờ Kinh Thánh Cựu Ước để tiến tới mức độ đầy tràn "lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su" của Tân Ước. Vì Đức Ki-tô là sự thể hiện đầy đủ Kinh Thánh Cựu Ước (Lề Luật và Ngôn Sứ), nên việc chúng ta học Sách Thánh và sống Lời Chúa cũng phải đạt tới cùng đích là Đức Ki-tô. Ti-mô-thê là một thí dụ cụ thể cho việc học hỏi và sống Lời Chúa.
Sau khi nhắc nhở Ti-mô-thê cứ tiếp tục nắm vững những điều ông đã được hấp thụ từ Sách Thánh, Phao-lô cho chúng ta một định nghĩa ngắn gọn về Sách Thánh:
"Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính" (c. 16).
Có lẽ đây là một định nghĩa rõ ràng nhất về Sách Thánh trong toàn bộ Kinh Thánh. Sách Thánh phải là những sách ghi lại những gì được Thiên Chúa linh hứng. Mục đích của Sách Thánh là làm chất liệu cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục chúng ta, nhờ đó chúng ta được thay đổi nên mỗi ngày một tốt hơn. Nếu Sách Thánh là phương tiện để giúp cho mọi người "nên công chính" thì Sách Thánh lại càng quan trọng đối với "người của Thiên Chúa," tức những người có sứ vụ đặc biệt phải công bố và rao giảng Lời Chúa. Sách Thánh là phương tiện giúp cho người rao giảng Tin Mừng trở nên "thập toàn" và là hành trang để họ ra đi thi hành sứ vụ.
Sau khi đã chuẩn bị tinh thần cho Ti-mô-thê, giờ đây thánh Phao-lô mới nghiêm trọng trao trách vụ cho ông. Tính cách nghiêm trọng ấy được nói lên qua việc thánh Phao-lô muốn việc trao trách vụ này là việc được thực hiện "trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Đức Ki-tô Giê-su." Vậy trách vụ ấy là:
"Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện;
Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ."
Trao trách vụ trên cho Ti-mô-thê là mục đích tối hậu của Thư 2 Ti-mô-thê. Phao-lô đang bị cầm tù và hết sức lo lắng cho tương lai của Giáo Hội. Nhận thấy mối nguy hiểm do những thầy dạy giả dối và thời thế bất lợi cho việc rao giảng Tin Mừng (cc. 3-4), Phao-lô long trọng trao trách vụ cho Ti-mô-thê phải tuyệt đối trung thành với những gì đã được "truyền lại" do bà ngoại, mẹ và do chính Phao-lô, để Ti-mô-thê "truyền lại" cho thế hệ kế tiếp. Ở đây lời nhắn nhủ của Phao-lô cũng giúp chúng ta hiểu vai trò quan trọng của Thánh Truyền nữa, tức là lời Chúa và những chân lý được bảo tồn và truyền lại từ khởi đầu Giáo Hội tới những thế hệ kế tiếp.
Lời Chúa không phải là những dòng chữ nằm chết trong những bộ sách bằng da thời xưa hoặc in ấn thật đẹp do kỹ thuật hôm nay. Nhiều người đọc Sách Thánh trong nhà thờ, sau khi đọc xong đã nâng sách lên cao rồi xướng "Đó là lời Chúa". Cử chỉ này có thể làm giáo dân hiểu lầm cuốn sách là lời Chúa, nên Phụng vụ không khuyến khích chúng ta làm như vậy. Lời Chúa đã được truyền lại qua Phụng vụ, rao giảng và dạy dỗ của Giáo Hội để làm nên Thánh Truyền thế nào, thì cũng thế, lời Chúa được chúng ta đón nghe, học hỏi, cầu nguyện và sống sẽ trở nên sống động và làm cho Thánh Truyền càng thêm phong phú. Lời Chúa là thanh gươm hai lưỡi sắc bén (Kh 2:12). Nhưng nếu gươm cứ để trong bao gươm mà không đem sử dụng thì chẳng cắt chẳng đâm được gì cả!
Tuy những nhắc nhở và trao trách vụ là những gì thánh Phao-lô muốn gửi tới Ti-mô-thê và những người có bổn phận chăn dắt đoàn chiên, nhưng đó cũng là những điều gián tiếp nhắn nhủ mọi người chúng ta nữa. Các ngài có bổn phận rao giảng, còn chúng ta có bổn phận lắng nghe và thực hành.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tôi đã ý thức thế nào về tầm quan trọng của Lời Chúa đối với đời sống của mình? Trong việc cầu nguyện? Trong tiến trình biến đổi con người mình? Lời Chúa có thực sự là "thanh gươm hai lưỡi"để một đàng giúp tôi thấy Thiên Chúa và đàng khác giúp tôi nhận ra con người tôi không?
Chia sẻ với nhóm đâu là "lúc thuận tiện" và "lúc không thuận tiện" mà tôi đã rao giảng lời Chúa hoặc đã không dám rao giảng lời Chúa.
Tôi đã làm gì để "truyền lại" lời Chúa cho người khác? Trong gia đình? Ngoài xã hội?
Tôi có làm theo những gì lời Chúa "biện bác (= giúp tôi xác tín), ngăm đe và khuyên nhủ" tôi không? Cho một vài thí dụ cụ thể.
Chia sẻ một vài lợi ích của những buổi học hỏi, chia sẻ và cầu nguyện lời Chúa.
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát "Lắng nghe tiếng Chúa" (Ca nguyện Linh Thao, trang 171).
Lc 3:15-16.21-22: 15 Dân ngong ngóng và mọi người suy tính trong lòng về Yoan: Có khi chính ông là Ðức Kitô chăng. 16 Nên Yoan đáp lại với mọi người rằng: "Phần ta, ta thanh tẩy các ngươi bằng nước! Sẽ đến Ðấng quyền thế hơn ta, ta không đáng cởi quai dép Ngài; Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh thần và lửa.
21 Xảy ra là trong khi toàn dân chịu thanh tẩy, và Ðức Yêsu cũng chịu thanh tẩy và đang cầu nguyện, thì trời mở ra, 22 và Thánh thần lấy hình dáng thể xác như con chim câu, đáp xuống trên Ngài, và tự trời một tiếng phát ra:Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ
Bài tin mừng Chúa nhật nầy gồm các câu thuộc hai phân đoạn khác nhau trong 3:1-4:13. Câu: TN 29-C69
Bài tin mừng Chúa nhật nầy gồm các câu thuộc hai phân đoạn khác nhau trong 3:1-4:13. Câu 3:15-16 thuộc phân đoạn đầu 3:1-20 nói về sứ vụ rao giảng và hoạt động của Gioan; các câu 3:20-21 thuộc về phân đoạn tiếp theo 3:21-4:13 nói về các biến cố của Chúa Giêsu trước khi Ngài đi rao giảng công khai. Lời rao giảng của Gioan gồm ba đoạn liên tiếp nhau (3:7-9; 10-14; 15-17), và đoạn thứ ba liên quan đến Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ đến theo lời của ông (3:15-17). Sứ vụ của Gioan là loan báo việc Chúa Giêsu đến, và sứ vụ nầy chấm dứt khi ông bị bỏ tù. Tuy nhiên biến cố nầy được tường thuật và đặt trước trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa (3:18-20). Lời tiên báo về Đấng sẽ đến được thực hiện khi Chúa Giêsu đến và chịu phép rửa. Như thế hai phân đoạn 3:15-17 và 3:21-22 liên hệ rất chặt chẽ với nhau.
Loan Báo Về Đấng Thiên Sai (cc. 15-18)
(Xem thêm bài chú giải Chúa Nhật III Mùa Vọng C, Lc 3:10-18).
Dân chúng đặt vấn đề với Gioan về Đấng Thiên Sai. Họ trông đợi đấng thiên sai, và họ nghĩ Gioan là đấng ấy. Động từ prosdokaô, “trông đợi” trong Luca, mang đặc tính cánh chung, và gắn liền với Chúa Giêsu như là Đấng Thiên Sai (3:15; 7:19.20; 8:40; 12:46). Không chỉ dân chúng mà cả Gioan cũng mong đợi. Dân chúng đến thắc mắc với Gioan, trong khi Gioan sai môn đệ đến hỏi trực tiếp Chúa Giêsu (7:19.20).
Sang phần nầy, Luca dùng laos, “dân chúng” (3:15.18) thay vì ochlos, “đám đông” (3:7.10). Có gì khác biệt? - Từ laos, “dân chúng” chỉ dân Israel như là dân Chúa chọn. Họ là những người trông đợi Chúa Giêsu (3:15.18); trong khi ochlos “đám đông” chỉ “con cháu của Abraham” xét theo máu huyết (3:8). Họ cần hối cải qua phép rửa của Gioan (3:7.10). Luca phân biệt rất rõ ràng khi dùng hai từ nầy. Từ “đám đông” mang ý nghĩa rất tổng quát và trung tính. Như “dân chúng”, họ cũng đi theo và lắng nghe Chúa Giêsu giảng dạy (6:17). Tuy nhiên “đám đông” đã đứng bên cạnh các thượng tế trong việc tố cáo Chúa Giêsu (23:4), và họ đã nhận ra tội của mình (23:48). “Dân chúng” thì không như thế. Họ gắn liền với việc phụng thờ Thiên Chúa (1:10), được Thiên Chúa viếng thăm và giải thoát (1:68.77), được thiên sứ báo tin Con Thiên Chúa giáng sinh (2:10.31.32tt). Họ rất gắn bó với việc nghe Chúa Giêsu rao giảng (19:48; 21:38). Họ thường ca ngợi Thiên Chúa (18:43). Các thượng tế và luật sĩ thường sợ “dân chúng” (19:48; 20:6.19), chứ không phải “đám đông”. “Kardia”, “tim”, trọng tâm của đời sống tinh thần, nguồn và nơi phát xuất ý nghĩ, đam mê, ước muốn, tình cảm… Sự trông chờ và ý nghĩ của dân chúng hình thành từ trong con tim của họ.
Đấng Christos, “Kitô”, lúc nầy đối với dân chúng mới là sự nhận dạng khởi đầu. Căn tính của Ngài chỉ được mặc khải toàn vẹn trong cuộc thương khó (24:26.46). Đấng Kitô nầy tỏ mình dần dần cho mọi đối tượng: các mục đồng (2:11), Simêon (2:26); dân chúng (3:15), ma quỉ (4:41), Phêrô (9:20), các luật sĩ (20:41), hội đồng công tọa, các thượng tế (22:67; 23:35), người trộm cướp (23:39). Tuy nhiên không phải ai cũng nhận ra Ngài.
Gioan trả lời cho toàn thể dân Israel, pasin, chứ không chỉ những người hiện diện lúc ấy (c. 16). Câu nầy gồm hai vế đối xứng và tương phản nhau, men…. dé, “Tôi, tôi thanh tẩy anh em bằng nước” - “ Ngài, Ngài thanh tẩy anh em trong Thánh Thần và lửa”. Xen vào giữa hai vế là câu “Ngài quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài”. Câu giữa nầy liên kết hai nhân vật chính lại: Gioan và Chúa Giêsu. Với cấu trúc nầy, Luca không nhắm đến sự so sánh giữa hai phép rửa cho bằng sự cao trọng hơn của Chúa Giêsu đối với Gioan; và như là kết quả kéo theo, phép rửa của Ngài cũng cao trọng hơn phép rửa của Gioan. “Đấng quyền thế hơn”, ho ischyoteros, có mạo từ chỉ định, nên đọc và quy chiếu về “Đấng Kitô”, cũng có mạo từ xác định ở câu 15. Gioan muốn chỉ “Đấng Kitô” ấy mà dân chúng mong đợi phải là “Đấng Quyền thế hơn”, chứ không phải là chính ông. “Đấng Quyền thế”, ischyros, trong cựu ước là chính Thiên Chúa (Đnl 10:17; 2 Mac 1:24). “Đấng quyền thế hơn” nầy chỉ biết được là Đấng nào khi quy chiếu lời loan báo nầy về câu 3:22, trong đó Thiên Chúa tuyên bố Chúa Giêsu là “Con Ta” (3:22; Cv 19:4). Phần Gioan, ông cũng “quyền thế” trong sứ vụ. Và quyền nầy chỉ là do sứ vụ lãnh nhận từ Thiên Chúa (3:2). Bởi đó, giữa ông và Chúa Giêsu có một khoảng cách chênh lệch rất lớn, được diễn tả bằng hình ảnh “không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Động từ erchomai, ở thì hiện tại mà chỉ tương lai, mang tính trông chờ thiên sai.
Về việc thanh tẩy, động từ baptizô, “thanh tẩy” trong vế đầu chỉ việc thanh tẩy Gioan thực hiện, ở thì hiện tại và đã trở thành quá khứ khi Chúa Giêsu đến; trong khi đó, việc thanh tẩy mà Chúa Giêsu ban ở thì tương lai đã trở thành hiện tại đối với Luca. Như thế, khi Đấng quyền thế hơn Gioan đến, sứ vụ của Gioan chấm dứt và mọi sự khởi đầu một cách hoàn thoàn mới. Đó thật là một Tin mừng cho toàn dân (3:18).
Phép Rửa của Chúa Giêsu (cc. 21-22)
Bản văn của Luca dựa trên Marcô, tuy nhiên có những khác biệt: - Tên Gioan không được nêu lên, mà tên của Chúa Giêsu (c. 21b); - Dân chúng chịu thanh tẩy đặt song song với việc thanh tẩy của Chúa Giêsu; - Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi Thánh Thần ngự xuống. Có thể giải thích ý hướng của Luca qua các đặc điểm nầy là ông chỉ muốn tập trung bản tường thuật vào Chúa Giêsu mà thôi.
Câu 21 gồm hai vế song song liên kết nhau bằng liên từ kai, “và”. Egeneto dè, “Xảy ra là”, Luca bắt đầu một trình thuật mới về Chúa Giêsu; trước đây ông cũng đã làm như thế khi khởi đầu trình thuật về Gioan (3:2). Giới từ dùng với dative của một động từ ở thể nguyên mẫu chỉ sự xảy ra đồng thời: en tô baptisthçnai = hôti ebaptisthç (BDF, 404,2); nghĩa là khi dân chúng chịu thanh tẩy, Chúa Giêsu cũng chịu thanh tẩy. Xem thêm cách dùng tương tự trong Luca: 8:40; 9:34.36; 11:37; 14:1; 19:15; 24:30; Cv 11:15. Động từ baptizô trong cả hai trường hợp đều ở thì thụ động. Tên “Jçsous” được đặt vào đây để nhấn mạnh. Luca muốn nhấn mạnh là Chúa Giêsu tự nguyện xếp mình vào hàng “tội nhân” như dân chúng, và cùng nhận một thanh tẩy như họ; tuy nhiên cách trình bày, “và Chúa Giêsu cũng chịu thanh tẩy”, cho thấy Ngài đứng riêng khỏi nhóm của họ; qua đó ngụ ý là Ngài vẫn khác họ vì Ngài không có tội.
Chi tiết Chúa Giêsu cầu nguyện chỉ có trong Luca. Động từ proseuchomai, “cầu nguyện” ở phân từ hiện tại chỉ sự đồng thời: trời mở ra trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện; tuy nhiên việc cầu nguyện đã bắt đầu trước. Đối với Luca, cầu nguyện là điều kiện để có thái độ thích ứng trước mỗi lần tiếp xúc với Thiên Chúa (3:21); Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước khi biến hình (9:28tt). “Trời mở ra” thuộc loại văn khải huyền (Êzêk 1:1). Marcô nói là Ngài “đã thấy” (1:10), nghĩa là một thị kiến. Trái lại, Luca mô tả chuyện nầy như một sự kiện lịch sử. Về “trời”, ouranos, trước đây Luca chỉ nói các thiên sứ xuất hiện “trên trời” và “đi khỏi vào trong trời” (x. 2:13.15). Bây giờ “khoảng trời” ấy của Thiên Chúa mở ra. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã làm cho trời mở ra cho trần gian và Thiên Chúa lên tiếng với con người.
Câu 22 gồm hai phần ghi lại hành động của Thánh Thần và Thiên Chúa trên Chúa Giêsu.
Thánh Thần trong “hình dáng xác thể”, sômatikos, ngự xuống trên Chúa Giêsu (c. 22a). Vì mô tả “trời mở ra”như một sự kiện lịch sử, nên Luca cũng mô tả Thánh Thần “trong hình dáng thể xác” để dân chúng có thể thấy được; trong khi với Matthêô và Marcô, chỉ Chúa Giêsu thấy sự kiện nầy thôi trong một thị kiến (Mt 3:16; Mc 1:10). Chúa Giêsu chỉ ban phép rửa “trong Thánh Thần và lửa” (3:16) sau khi Ngài đã lãnh nhận Thánh Thần. Phép thanh tẩy Chúa Giêsu ban liên hệ đến “anh em”, hymas, là toàn thể dân Israel. Luca sẽ xác nhận điều nầy trong Cv 1:15 và 11:6. Thánh Thần được ban khi Chúa Giêsu đã sống lại.
Lời dẫn vào phần hai “Từ trời có tiếng phán ra” (c. 22b) chỉ lời Thiên Chúa sắp nói về Con của Ngài. Câu “Con là Con chí ái Ta”, có hậu cảnh là Thánh vịnh 2:7: “Con là Con Ta, hôm nay Ta đã sinh ra Con”, mặc khải điều đã ẩn dấu cho đến lúc nầy. Thiên Chúa đã dùng một trong những tương quan gắn bó nhất của con người là cha-con để diễn tả cách ẩn dụ tương quan của Ngài với Chúa Giêsu, “Con là Con Ta”. Tính từ agapçtos, “chí ái”, chỉ dùng cho Chúa Giêsu mà thôi. Eudokeô, nghĩa của động từ nầy rộng hơn cách hiểu thông thường là “hài lòng”, “well-pleased” xét về mặt tình cảm. Nó bao hàm ý tưởng sự hài lòng về một hành động hay một quyết định. Bản dịch “kẻ Ta đã sủng mộ” (Nguyễn Thế Thuấn) dễ bị hiểu cách khác. Cách dịch nầy hiểu Chúa Giêsu là túc từ trực tiếp. Trong khi đó, nguyên bản là en soi eudokçsa, “trong con Ta hài lòng”. Câu nầy không có ý nói Thiên Chúa hài lòng về Chúa Giêsu trong thâm tình Cha Con cho bằng Ngài hài lòng trong quyết định về Con Một Ngài như là Đấng Thiên Sai. Sự hài lòng nầy bao gồm tất cả con người của Chúa Giêsu và việc Ngài làm theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Câu Mt 12:18 nói diễn giải nhiều hơn về sự hài lòng nầy: “Này tôi tớ Ta, kẻ Ta đã chọn, kẻ chí ái mà hồn Ta sủng mộ, Ta sẽ đặt Thần khí Ta trên Ngài, và Ngài sẽ rao truyền chính đạo cho muôn dân”. Luca dùng động từ nầy thêm một lần nữa trong 12:32, trong đó sự hài lòng nầy đi kèm theo quyết định là “ban Nước Trời cho các ngươi” (12:32). Vậy điều làm Thiên Chúa hài lòng liên quan đến sự cứu độ của con người: Ngài ban Con Một của Ngài cho trần gian được cứu độ.
Lời tuyên bố của Thiên Chúa và hành động ngự xuống của Thánh Thần trong đoạn 3:21-22 kết thúc chủ đề “thanh tẩy” liên kết đoạn nầy với đoạn 3:15-16; đồng thời lời tuyên bố nầy là câu trả lời dứt khoát cho thắc mắc của dân chúng về Đấng Kitô (c. 15). Gioan đã trả lời cho dân chúng, nhưng ông chưa xác nhận cách rõ ràng Đấng đến sau ông là ai. Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa mới thật sự là Đấng Thiên Sai mà dân Israel đã mong đợi từ lâu.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một xác tín vững chắc: chỉ có Thiên Chúa mơi là Đấng Phù: TN 29-C70
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một xác tín vững chắc: chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng Phù trợ chúng ta, vậy chúng ta hãy kiên tâm cầu khẩn Người. “Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất”. (Tv 120, 1-2).
Trên đường đưa dân Thiên Chúa về Đất hứa, xảy ra có quân Amalec quấy nhiễu, Ông Môise xác tín “Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa”, nên đã lệnh cho Giosue: "Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi". Ông đứng trên đỉnh núi hướng mắt hướng lòng về Thiên Chúa, giơ tay cao lên khẩn cầu Thiên Chúa ơn phù trợ và “Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế (Xh 17,11)
Ơn phù trợ của Thiên Chúa đang được thực hiện nơi Chúa Giêsu Kitô, nơi Lời Ngài, như Thánh Phaolo khuyên bảo:
“Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô” (2 Tm 3, 14)
Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Ðức Kitô, Ðấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết… (2 Tm 4, 2)
Tin mừng theo Thánh Luca, Chúa Giêsu đã nêu lên dụ ngôn quan tòa phải xử cho bà góa, không vì thương con dân, nhưng vì tiếng trống kêu oan giục giã ngày đêm quấy rầy ông ta đến inh tai nhức óc.
"Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: 'Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù'. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: 'Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc'" (Lc 18, 2-5)
Điểm chính của Tin Mừng không dừng lại ở nơi ông quan tòa xét xử, vì Chúa Giêsu nêu lên trường hợp thế gian, để hướng chúng ta đến đúng địa chỉ ơn phù trợ của chúng ta là chính Thiên Chúa:: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? (Lc 18, 6-7)
Rồi Chúa Giêsu đã xác nhận ơn phù trợ của Thiên Chúa đã sẵn sàng, điều quan trọng là chúng ta có còn niềm tin tưởng mà đến với Thiên Chúa không: “Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?" (Lc 18-8)
Hình ảnh ông quan tòa trong dụ ngôn còn đang rõ mồn một trong thời đại của chúng ta.
Quan quyền ở thế gian, thời nào cũng có, mà nhất là thời này, những ông quan bất lương, độc ác, đầy thủ đoạn chính trị với nhau, các ông lớn có thể thanh trừng nhau, huống chi là đối với dân lành cô thân cô thế thì tiếc gì mà các ông không quan liêu, không ức hiếp, không đàn áp…thậm chí còn dùng cả bạo lực mà cai trị.
Trong các chế độ độc tài, đảng trị, việc xin và cho trở thành một thứ tân đạo “đạo làm dân” cho phải phép, cho phải luật. Không hề có chút yêu thương vô vị lợi nào trong cách cho, nhưng lại đầy vụ lợi cách này hoặc cách khác.
Có hay ho gì cái kiểu “xin cho” của loại quan quyền ấy, mà phải bái lạy, phải tôn sùng, phải dạ vâng thưa bẩm, phải cầu lụy, phải thỏa hiệp, phải tránh né việc làm tổn thương danh dự uy tín, phải triều phải cống cả đất cả dân cả già cả trẻ cả trăm năm kỷ niệm nơi chôn nhau cắt rốn từ đời tiên tổ đến cháu chắt đứa dắt đứa ẵm đứa bồng…
Có hay ho gì cái kiểu xin cho những bỗng lộc của thiên hoàng thế gian ấy mà phải vâng lời thế gian để Chúa Cứu Thế vẫn “cứ thế”, vẫn không có nơi gối đầu qua đêm, còn phải mãi loay xoay tìm đường cứu thế, cứu những con người đau khổ bần cùng nhất trong nhân loại.
Nhìn lại cuộc sống đạo của dân Chúa, của mỗi người hôm nay, có thể thấy được điều đáng lo ngại là chúng ta đang cậy dựa quá nhiều vào những thế lực thế gian, đến nỗi đã đặt địa chỉ “ơn phù trợ chúng ta ở nơi” những ông quan tòa vô thần “không kính sợ Thiên Chúa” , những ông quan tòa vô tâm “không kiêng nể người ta” coi dân như rơm như rác, coi mạng người như con khỉ, con con vượn, coi coi công lý như cái gai phải nhổ, coi sự thật coi lịch sử như chuyện đùa cho qua. Một sai lầm nguy hiểm đối với người công giáo, nếu đặt n
iềm tin, đặt lòng mến lòng cậy trông nơi những con người vô thần vô tâm như thế.
Vâng, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cơ hội để xác định lại niềm tin của mỗi người. Phải tin vào Thiên Chúa duy nhất, phải yêu mến và trông cậy nơi Người. Phải hướng mắt hướng lòng giơ tay cao lên mà bền bỉ kiên trì khẩn cầu cùng Thiên Chúa.
- Ông Môisê đã dang tay ra, giơ tay cao lên với niềm tin mãnh liệt là đôi tay sẽ với tới trời cao, đôi tay sẽ chạm tới Thiên Chúa để Thiên Chúa níu lên, đôi tay sẽ hứng lấy ơn phù trợ để chiến thắng quân thù trên đường đưa dân về Đất Hứa. Ông kiên trì giơ cao tay và cầu khẩn, nhờ sức mạnh của niềm tin vào Thiên Chúa chiến thắng. Khi ông mỏi tay, niềm tin của dân Chúa nâng đỡ ông.
- Chúa Giêsu cũng dang tay ra trên cây Thánh Giá, ngước mắt nhìn lên Thiên Chúa Cha mà cầu khẩn “lạy Cha con phó linh hồn con trong tay Cha “và “xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” và cuối cùng Ngài thưa với Cha “mọi sự đã hoàn tất”. Ngài đã hoàn tất ơn cứu độ.
- Mẹ Maria cũng dang tay ra đón nhận xác con yêu dấu tử nạn vì yêu nhân loại. Mẹ dang tay ra trong nước mắt, trong đớn đau nhưng với niềm tin mẹ đang đón nhận ơn cứu độ.
- Dang tay ra, giơ cao tay lên, cầu khẩn, cử chỉ phụng vụ ấy được tiếp tục trong giáo hội qua việc các linh mục đại diện dân Thiên Chúa cầu nguyện cùng Thiên Chúa trong việc phụng vụ cao nhất là Thánh Lễ. Linh mục cũng dang tay ra giơ cao lên, tế lễ mình kết hiệp với Lễ Tế Chúa Giêsu để nên lời khẩn cầu đẹp lòng Thiên Chúa nhất. Đồng thời Ngài cũng dang tay ra nối kết muôn bàn tay nhân loại làm thành lời khẩn cầu hiệp nhất của cả cộng đoàn những người tin vào quyền năng Thiên Chúa, địa chỉ của Ơn Phù Trợ.
- Các tín hữu Chúa cũng đang nâng tâm hồn lên, ngước mắt lên, giơ cao tay lên muốn với tới trời cao, muốn chạm vào Thiên Chúa, muốn hứng lên phù trợ, đồng thời cũng đang dang tay ra nối kết muôn người trong một niềm tin tối thượng vào Thiên Chúa. Vì ngoài Thiên Chúa ra, không có nơi nào, người trần thế nào xứng đáng để chúng ta tôn thờ, cầu khẩn.
Một người tân tòng đã chọn căn phòng của mình làm nơi hướng tới Thiên Chúa. Cô ta có lòng yêu mến Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và đã gọi căn phòng ấy là cái xà lim của cô. Cô mãi khấn xin cùng Thiên Chúa ban ơn phù trợ cho những người chưa có đức tin công giáo, là những người dưng mà cô vẫn thường gặp nơi nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ Hàm Long, Thái Hà…bất kể là họ đến nhà thờ vì muốn tìm đến Chúa, vì tính hiếu kỳ, hay vì lý do nào khác.
Được chia sẻ tâm tình cầu nguyện ấy, tôi thiết nghĩ, cô ấy đã giơ cao tay lên với niềm tin và dang đôi tay ra với tình yêu đúng với chiều kích của ơn cứu chuộc.
Chị Vân trong ca đoàn Giáo Xứ tôi, đi lao động ở Mỹ, bất ngờ bị bệnh tim, phải mổ. Sau khi mổ, chị mất việc, được một chị công giáo gốc Hàn Quốc xa lạ , đón về nhà mình chăm sóc cho đến phục hồi và tạo điều kiện cho chị Vân trở về VN.
Chúng ta cũng thế, không chỉ cầu khẩn với Thiên Chúa mà phải cộng tác với Ngài bằng đôi tay rộng mở, bằng sự nâng đỡ những cánh tay rời rã, những tâm hồn thất vọng. Ở cuối xóm, ở đầu thôn, nơi này nơi kia, hoặc không đâu xa, ngay trong gia đình chúng ta có người đang mỏi tay rồi, đôi tay họ buông xuống vì nản lòng, thất vọng, họ mất niềm tin vào Thiên Chúa. Chúng ta sẽ là những Aaron và Hur giúp họ kiên trì, nhờ kết hiệp với Chúa Giêsu- được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô” (2 Tm 3, 14)
Như vậy chúng ta đang cử hành thánh lễ cuộc đời mình, cùng với cả và giáo hội: Cùng Chúa Giêsu tôn vinh Thiên Chúa, tin tưởng và kêu cầu, với niềm hy vọng qua Chúa Giêsu, tay ta chạm tới Thiên Chúa, để Thiên Chúa nắm lấy tay ta và anh em kéo lên khỏi vũng lầy hàm oan tội lệ, để tay ta hứng lấy muôn hồng ân cho ta và muôn người.
Ước gì khi Con Người đến, còn thấy niềm tin đang thực sự sống động nơi mỗi chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho con biết xác tín một lần cho một đời đức tin của con Ơn phù trợ của con ở nơi Chúa là Đấng tạo thành trời đất. Ngoài Chúa ra, không có nơi nào bình yên, không có nơi nào đáng tôn thờ, mến yêu, cậy dựa. Và cùng với niềm xác tín ấy, xin cho con biết kiên trì kêu cầu Chúa, biết liên kết với Giáo hội Chúa, với anh em cùng kêu cầu Chúa, để đủ sức vượt qua cuộc hành trình trần gian về Đất Hứa hằng sống muôn đời. A men.
PM. Cao Huy Hoàng 14-10-2010
Kinh thưa Quý vị, đặc biệt các bạn trẻ,
Trong số những người thân của chúng ta
Không phải tất cả đều đã có máy điện toán (vi tính) hoặc có dùng email, hoặc đã có thể nhận được những tài liệu này...
Vì vậy, xin hãy ủng hộ chúng tôi bằng cách phổ biến tài liệu này bằng email hoặc in ra, photocopy và gởi cho người thân của Quý vị.
Đặc biệt xin gởi cho các Linh mục chưa có sử dụng internet
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay đưa ra hai hình ảnh trái ngược. Một bên: TN 29-C71
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay đưa ra hai hình ảnh trái ngược. Một bên là bà góa nghèo khổ, bé nhỏ, không có tiếng nói trong xã hội. Một bên là ông quan tòa bất nhân, chẳng sợ trời mà cũng chẳng nể người. Thật là một hoàn cảnh tuyệt vọng cho người phụ nữ không có tiếng nói. Nhưng nhờ kiên trì, bà đã đạt được ý nguyện. Chúa kể dụ ngôn này với mục đích dạy các môn đệ hãy noi gương bà góa, cầu nguyện luôn không được nản chí . Bà goá nêu gương cầu nguyện cho ta ở 4 thái độ sau đây:
1. Thái độ khiêm nhường. Người đàn bà này rất khiêm nhường vì bà tự biết mình bé nhỏ nghèo hèn. Bị người ta ức hiếp mà chẳng thể tự bảo vệ. Không có sức khỏe để chống lại người ác. Không có người bênh vực chống lại bất công. Không có cả tiền bạc để mua lấy sự bình an. Bà mất tất cả, chẳng còn gì. Noi gương bà, khi cầu nguyện ta phải có thái độ khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết mình nghèo nàn yếu đuối, biết mình chỉ là thân phận tro bụi. Khiêm nhường biết mình đã cùng đường, không còn nơi nương tựa. Khiêm nhường biết mình bất tài bất lực.
2. Thái độ phó thác. Bà góa này không còn nơi nương tựa. Chỉ còn trông cậy vào ông quan toà như lối thoát duy nhất. Bà đặt niềm tin vào ông. Đó là niềm hy vọng duy nhất và cuối cùng. Bà bám víu lấy ông, phó thác vận mạng của mình trong tay ông. Trao cho ông sự sống của bà. Tương tự như thế, khi ta cầu nguyện, hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Chúa. Chúa là lối thoát duy nhất. Chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp ta. Hơn nữa Chúa là người Cha toàn năng và giầu lòng thương xót. Ta là đứa con bé nhỏ, yếu ớt. Hãy đặt vận mệnh ta trong tay Chúa. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa, Ngài sẽ an bài sắp xếp cho ta những gì tốt đẹp nhất.
3. Thái độ kiên trì. Chỉ còn một con đường duy nhất để sống, nên bà kiên trì theo đuổi cho đến cùng. Thất bại không làm bà nản lòng. Bị hất hủi không làm bà bỏ cuộc. Niềm tin của bà thật lớn lao. Sự kiên trì của bà thật bền bỉ. Bà đã đi đến cùng và bà đã thành công. Cũng thế, khi cầu nguyện ta hãy kiên trì. Kiên trì chứng tỏ sự phó thác trong tay Chúa. Kiên trì chứng tỏ ta hoàn toàn yếu hèn chỉ biết trông cậy vào Chúa. Kiên trì chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa tha thiết. Chắc chắn Chúa sẽ dủ lòng xót thương ta.
4. Thái độ khao khát. Bà khao khát vì đó là con đường sống duy nhất. Bà khao khát được sống. Bà không ngồi đó chờ đợi. Nhưng làm hết cách, hết sức mình để đạt được khao khát đó. Bà không chán nản thất vọng, nhưng làm việc liên lỉ cho ước nguyện của mình. Cũng thế, khi cầu nguyện ta phải có lòng khao khát cháy bỏng. Lòng khao khát đó được biểu lộ trong hành động. Ta không ngồi chờ, nhưng đứng lên, ra đi và bắt tay hành động. Không lùi bước trước khó khăn, nhưng tìm hết cách để đạt được ước nguyện. Lòng khao khát chứng tỏ ta tha thiết với lời cầu nguyện. Lòng khao khát cùng với nỗ lực phấn đấu sẽ được Chúa thương chấp nhận.
Chiêm ngắm tấm gương của bà góa, ta nhận thấy rất nhiều lúc ta chưa cầu nguyện cho đủ và cho đúng. Chưa thực hiện sự khiêm nhường để nhận ra sự bất lực của mình. Chưa hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta trong bàn tay của Chúa. Chưa biết kiên trì đủ. Và nhất là chưa tha thiết tới mức tích cực làm hết sức mình cho nguyện ước đó.
Lạy Chúa ! Xin cho con đừng bao giờ nản chí, biết kiên trì nỗ lực trong cầu nguyện, biết dành thời giờ để nói chuyện tâm tình với Chúa, nhờ đó con được liên kết với Chúa trong tình yêu thương thân mật mỗi ngày mỗi hơn, Amen .
Trong đời sống người Kitô giáo, cầu nguyện là việc không thể thiếu được. Có thể nói, người Kito: TN 29-C72
Trong đời sống người Kitô giáo, cầu nguyện là việc không thể thiếu được. Có thể nói, người Kitô hữu nào không cầu nguyện, thì không phải là Kitô hữu đích thực. Cầu nguyện là kết hợp với Chúa, nguồn sức mạnh, nguồn hạnh phúc, nguồn ân sủng. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, bao lâu con người còn hít thở không khí, thì bấy lâu con người còn phải cầu nguyện. Các thánh ví việc cầu nguyện cần thiết cho cuộc sống thiêng liêng như nước cần cho cá. Có cầu nguyện linh hồn mới sống được, vì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, nên phải cầu nguyện không ngừng, cầu nguyện với lòng kiên trì nhẫn nại.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta thấy, bao lâu ông Mai-sen giang tay cầu nguyện thì dân Chúa thắng thế; khi ông mệt mỏi bỏ tay xuống thì dân Chúa thất trận. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn “viên quan toà bất chính và bà goá quấy rầy” để dạy các ông bài học về cầu nguyện. Nhờ sự phó thác và kiên trì kêu van của bà goá mà viên quan toà bất chính, không kính sợ Thiên Chúa, chẳng coi ai ra gì, cũng phải thay lòng đổi dạ: “Mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc” (Lc 18, 5). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, không được sờn lòng, nản chí để Người thi ân giáng phúc, bênh vực che chở chúng ta, như lời Người đã phán: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ” (Lc 18, 7-8).
Chúa Giêsu không dạy điều gì mà không làm gương trước. Ngoài việc rao giảng Tin mừng, gặp gỡ dân chúng, chữa lành bệnh tật, Ngài vẫn luôn dành thời gian để cầu nguyện, tâm sự và kết hiệp với Chúa Cha. Ngài cầu nguyện trước những biến cố quan trọng hay những quyết định đặc biệt, như khi chọn mười hai tông đồ (x. Lc 6,12). Ngài cũng cầu nguyện thường ngày với các môn đệ (x. Lc 9, 28), hay cầu nguyện một mình (Lc 9, 18), tại những nơi vắng vẻ (Mc 1, 35) và trong hội đường (Lc 4, 16). Người luôn luôn cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc, với mọi biến cố vui buồn trong cuộc đời.
Các tín hữu thời Giáo hội sơ khai cũng chuyên cần cầu nguyện: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2, 42). “Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia” (Cv 2, 46). Thánh Nữ Monica, người phụ nữ luôn kiên vững trong Niềm Tin đã cầu nguyện không ngừng. Dù sống trong một gia đình ngoại đạo, nhưng Monica đã chu toàn sứ mệnh làm mẹ, giáo dục con cái biết mến Chúa, yêu người. Bà luôn yêu thương con cái, nhất là đối với Augustinô. Nhưng càng lớn, Augustinô càng biểu lộ các tính hư tật xấu. Ỷ vào trí thông minh, Augustinô lười biếng. Bị sửa phạt, Augustinô bèn lừa dối, lường gạt cha mẹ, thầy dạy, để chơi bời phóng túng. Augustinô ham mê lạc thú, kiêu căng và chạy theo danh vọng. Nhất là từ khi anh được gửi đi học ở tỉnh thì những làn sóng tội lỗi lại tràn ngập tâm hồn. Rồi anh đi theo bè rối Manikê chống lại đức tin. Còn gì đau khổ hơn cho bà Monica khi thấy con mình ngày càng bước sâu vào con đường tội lỗi. Nhưng tin vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa, bà lại càng kiên tâm cầu nguyện và làm các việc lành phúc đức. Nhờ lời cầu nguyện trong kiên nhẫn, sau nhiều năm. Cuối cùng Thánh nữ đã đưa được người chồng ngoại giáo về với Chúa vào năm 371. Vào năm 386, thánh nữ vui mừng thấy Augustinô hối cải. Đó là phần thưởng Chúa đã ban cho bà, qua biết bao hy sinh, nước mắt và kinh nguyện. Thánh nữ cùng tĩnh tâm với Augustinô ở Cassicicum và có mặt trong lễ rửa tội của con do thánh Ambrosiô cử hành.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta đưa ra trăm ngàn lý do phải lo việc bổn phận làm ta không có giờ để cầu nguyện. Người thì lấy lý do bận rộn: vì lo việc truyền giáo, lo làm việc mục vụ, lo xây cất, lo sửa chữa, lo dạy học, lo thăm viếng bệnh nhân… Người thì lo quản lý, lo cho nhu cầu anh em (chị em), lo làm kinh tế, lo giúp đỡ người nghèo, lo phát triển nhà dòng… Người thì suốt ngày lo lấy lòng bề trên (cấp trên). Người thì lo cạy cục để được danh vọng, địa vị. Người thì lo và tìm mọi cách để có điện thoại đẹp, xe tay ga, máy tính hiện đại… Người thì lo học tập, thi cử để có bằng cấp. Người thì lo công việc gia đình, lo kiếm tiền cho con cái ăn học, lo cho có nhà cửa khang trang, lo bằng anh em bạn bè, lo để có tivi tủ lạnh, xe hơi… Trên đây là những lý do nhiều người cho là chính đáng, nó chiếm hết thời gian, nên không có giờ đọc kinh cầu nguyện, không có giờ đi lễ, hoặc chỉ cầu nguyện cách chiếu lệ, cho qua. Nếu chúng ta đưa ra những lý do để miễn chuẩn cho mình không cầu nguyện, thì quả là một điều sai lầm. Như vậy, chúng ta coi công việc hơn Chúa, coi của cải vật chất là ông chủ của mình. Chúng ta bỏ không tuân giữ lời Chúa, sống ngược với ý Chúa. Vì Chúa Giêsu đã dạy “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn (Lc 21, 36). Chúa còn phán: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22, 40). Thánh Phaolô thì nói “Anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi” (Ep 16, 18).
Lời Chúa hôm nay cho ta biết, nếu ta không kiên trì cầu nguyện đời ta sẽ thất bại, như khi Mô-sê mệt mỏi buông tay xuống không cầu nguyện thì dân Chúa thất trận, khi nào Mô-sê giang tay cầu nguyện thì dân Chúa thắng thế. Nếu ta không cầu nguyện, không kết hợp với Chúa, đời ta sẽ khô héo như cành nho lìa khỏi thân nho, không cầu nguyện đời ta sẽ như cá bị đưa lên khỏi nước, không cầu nguyện ta sẽ chết, như cái xác không hồn…. Để cho đời sống cầu nguyện của chúng ta được phong phú, triển nở và trổ sinh những hoa trái dồi dào, chúng ta hãy noi gương bắt chước Chúa Giêsu cầu nguyện không ngưng nghỉ. Cầu nguyện ở mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Cầu nguyện trong nhà, ngoài sân, trên xe, nơi công sở, trong lớp học, ngoài chợ, trên giường bệnh, khi đi đường, khi chờ xe… hay trong bất cứ hoàn cảnh vui buồn, thất vọng, cô đơn, chán nản … chúng ta hãy trò chuyện với Chúa. Nhưng chúng ta hãy nhớ cầu nguyện với tâm tình đơn sơ, khiêm tốn, cầu nguyện với lòng kiên trì, nhẫn nại, không được sờn lòng nản chí. Cầu xin để ta biết và làm theo thánh ý Chúa. Chúng ta cũng hãy kiên trì cầu nguyện theo gương các thánh, nhất là thánh nữ Monica cầu nguyện trong nước mắt và hy sinh, cầu nguyện với lòng kiên nhẫn.
Lạy Chúa Giêsu, qua dụ ngôn “viên quan toà bất chính và bà goá quấy rầy” Chúa đã dạy các môn đệ bài học về kiên trì cầu nguyện, không được sờn lòng nản chí. Xin cho chúng con luôn kiên trì cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Cầu nguyện với lòng tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa như thánh nữ Monica.
“Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?”.
Giáo dục về lòng kiên nhẫn, dântộc ta có rất nhiều thành ngữ như: “có công mài sắc có ngày: TN 29-C73
Giáo dục về lòng kiên nhẫn, dântộc ta có rất nhiều thành ngữ như: “có công mài sắc có ngày thành kim”, “dẫu rằng chí thiển tài hèn, chịu khó nhẫn nại làm nên cơ đồ”…Nhẫn nại là yếu tố quan trọng quyết định thành công và hạnh phúc cho người có tôn giáo cũng như không tín ngưỡng. Bởi không có chuyện gì mà thuận buồm xui gió trong cuộc trần này. Thực tế đã có quá nhiều người bỏ cuộc do thiếu chữ nhẫn mà ra. Đời sống Kitô hữu trong mối tương quan với Thiên Chúa cũng rất cần thái độ nhẫn nại này. Thánh Phanxicô Salesio viết rằng: “Kiên nhẫn là một đức bảo đảm hơn cả cho chúng ta sự trọn lành”. Còn đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận nói: “Bền đỗ là đặc tính của các thánh vì “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi” (ĐHV số 49). Câu chuyện người đàn bà góa và ông quan bất lương của Chúa nhật hôm nay cho chúng ta một bài học quý giá, rõ ràng hơn về sự bền đỗ đó.
Chúng ta biết rằng đàn bà goá trong xã hội Do thái thời Đức Giêsu chịu rất nhiều thiệt thòi. Ở bài phúc âm này bà đại diện cho hết thảy những kẻ nghèo nàn, cô thân cố thế. Còn vị quan tòa rõ ràng ông không phải là một thẩm phán Do thái, chuyên xử những tranh chấp nội bộ trong người Do thái. Ông là một thẩm phán do Hêrôđê hay do người Lamã lập nên và được trả lương. Hạng thẩm phán này nổi tiêng 1à tham ô, đổi trắng thay đen chỉ vì một đĩa thịt. Người ta gọi họ là dayyaneh Gezelth nghĩa là các quan toà ăn cướp (theo chú giả của William Barclay). Như vậy, bà góa nghèo kia không hy vọng gì ông quan tòa mở cửa công đường xét xử cho bà. Vì bà chẳng có thứ gì để đút lót cho tên cướp cạn kia. Vậy mà, cuối cùng vụ án của bà cũng được lên bàn công lý. Nhờ bà kiên trì kêu nài. Vị quan tòa sợ hãi trước cái chí mạnh mẽ của bà. Thôi xử quách cho xong, mụ ấy làm ta nhức óc quá.
Chúng ta không coi Thiên Chúa như tên quan tòa trên nhưng phải hiểu ngược lại rằng, như Đức Giêsu giải thích: Nếu tên quan toà bất nhân kia mà còn phải nhúng nhường thực hiện theo lời nài nỉ của bà góa thì Thiên Chúa nhân từ chẳng phải sẽ làm ngay cho người kêu xin Ngài sao? Kiên nhẫn cầu xin không là lì lọm, trêu gan buộc Thiên Chúa phải hành động theo ý mình nhưng là bình tâm khiêm tốn, chấp nhận chờ đợi để Thiên Chúa quyết định cho mình. Chúng ta dễ bị cám dỗ bởi những nỗi cô đơn, nguội lạnh, hay đau thương, trở ngại của mình và của tha nhân. Chúa ơi! Ngài ở đâu? Chúng ta dễ bị thúc giục thở than. Cầu hoài không thấy gì hết, gõ đã mòn cả cửa rồi có thấy mở gì đâu. Và nhiều lúc chúng ta mất cả niềm tin. Đó thật là một thử thách lớn cho niềm kiên nhẫn của chúng ta. Nhưng cám dỗ đáng sợ hơn cả là thôi không cầu xin nữa.
Đành là Thiên Chúa sẽ mau mắn đáp cứu cho chúng ta nhưng chúng ta cũng phải hiểu cho nỗi lòng của Người. Người không muốn cho con cái mình điều bất lợi cho nó. Chỉ Thiên Chúa mới biết điểm cuối cùng nào có lợi cho chúng ta. Nếu biết vậy chúng ta sẽ không còn mệt mỏi chán chường nữa và chúng ta biết cầu xin như Đức Giêsu đã cầu xin: “Xin làm theo ý cha, đừng theo ý con”. “Đừng nản lòng vì thất bại nếu con tìm ý Chúa thực sự, thì chính sự thất bại đó là thành công” (ĐHV số 41). Cái khó ló cái khôn, chắc chắn không thành công về đường đời, đường vật chất thấy được thì cũng thêm kinh nghiệm, thêm hiểu biết và sự sống siêu nhiên. Không có điều gì trở nên vô ích cho những kẻ yêu mến.
Điều Chúa hứa Ngài sẽ thực hiện. Tuy nhiên, thực hiện thế nào thì chỉ có Ngài mới biết mà thôi. Vấn đề là bạn có đủ kiên trì để chờ cho đến khi lời hứa ấy thành hiện thực không?
Đây là dụ ngôn có tính “cánh chung”. Ông quan toà chẳng sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi TN 29-C74
Đây là dụ ngôn có tính “cánh chung”.
Ông quan toà chẳng sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì. Là phản diện của Thiên Chúa.
Bà goá: cô thân cô thế, nghèo, bị thiệt thòi, đáng thương.
Nhiều lần bà đến xin ông minh xét cho: bà bị oan, chỉ xin sự công bình. Nhưng đời nầy ít thấy nhất là nơi loài Người. Chỉ ngày phán xét Thiên Chúa mới làm minh bạch mọi sự. Dụ ngôn muốn hưóng đến ngày Đức Giêsu quang lâm.
Lâu lắm ông làm lơ, không ngó ngàng tới.
Còn bà thì kiên trì không ngơi.
Nhưng cuối cùng….dù ta không sợ trời cũng chẳng sợ đất nhưng bà nầy quấy rầy mãi, xử đi cho rãnh nợ.
Ông bất lưong mà còn vậy. Thiên Chúa há lại trì hoãn mãi mà chẳng minh xét cho những kẻ Người tuyển chọn ngày đêm kêu cầu Người sao!
Khi Con Người đến liệu còn tìm thấy niềm tin trên mặt đất nầy nữa không! Mỉa may! nhưng làm liên tục với những Chúa Nhật trước nói về đức tin.
Đề của bài Phúc Âm là cầu nguyện luôn. Bà goá nầy “xin”, chưa cầu nguyện. Cầu nguyện một phần là bày tỏ tấm lòng với Chúa để xin Người cứu vãn. Xin thì không cho được. Cầu nguyện thì may ra ie. Có đủ lòng tin, Chúa thấy lòng tin mới cho. Kiên trì không nản là tin. Không tin thì bỏ ngang. Thường Người ta chỉ xin chứ không cầu nguyện, có lẽvvì không biết cầu nguyện hoặc không muốn vì muốn Chúa làm theo ý mình, không để Chúa tự do ban ơn.
Xin gì? Bà nầy xin được minh xét: xin trả lại sự công bình. Thẩm phán là để bảo vệ công lý. Thiên Chúa là Đấng duy nhất bảo vệ sự công bình tuyệt đối cho tất cả. Xin sự công bình là điều Chúa phải cho vì đẹp ý Chúa. Thường Người ta xin điều đẹp ý mình mà trái ý Chúa. Chúa chỉ làm ý Chúa chứ không thể theo ý ta. Chúa không lệ thuộc ta. Ta phải lệ thuộc Chúa ít ra vì ta là Người xin. Xin theo ý Chúa thì mới mong. Xin nước trời là hợp ý Chúa nhất. Đây là câu trả lời tại sao xin mà không được, tại sao Chúa không cho.
Ông bất lương làm lơ, không thèm đếm xỉa gì tới vì việc nầy không lợi lộc gì. Thiên Chúa thì không. Nhưng việc trì hoãn? Nếu xét về bây giờ thì Đức Giêsu cũng đã trả lời: phải xin với lòng tin. Thấy lòng tin mới cho. Lòng tin của con đã cứu chữa con. Không phải xin mà được mà là tin mới được. Trì hoãn là chờ đợi cho chúng ta tỏ cho Chúa thấy lòng tin bằng những việc làm rõ ràng. Tin là việc làm chớ không nói khơi mà được. Thưòng Người ta muốn được mà không phải làm gì. Bà nầy kiên trì không nản là bằng chứng bà tin chắc chăn chỉ ông thẩm phán mới cho bà được điều bà xin không ai khác vì nhiệm vụ của ông là chủ trì sự công bình, nên bà không tìm ai khác mà đeo miết ông nầy cho đến khi được. Bà đã đúng. Khi chúng ta xin chúng ta cũng phải tin chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa không ai khác có thể. Muốn kiếm ai khác thì kiếm Thiên Chúa không phải cho. Chỉ khi chúng ta tin tuyệt đối Thiên Chúa mà thôi thì Thiên Chúa phải cho nếu không thì ai tin Thiên Chúa nữa. Không kiên trì tới cùng là chưa tin hoặc tin chưa đủ. Thiên Chúa đợi là đợi cho đủ. Đủ là cho ngay.
Xét về mặt cánh chung mà Luca muốn là ý chính của bài nầy thì Thiên Chúa chờ đợi người tội lỗi hối cải. Trả sự công bình cho bà nầy khi Người có lỗi với bà chưa hối cải Thiên Chúa không đành và Thiên Chúa cũng muốn chúng ta có lòng như vậy. Hối cải mới cho nước trời được “Hãy hối cải vì nứoc trời đã gần kề”. Luca muốn hướng chúng ta tới ngày Đức Giêsu quang lâm, ngày phán xét, ngày Thiên Chúa chủ trì sự công bình cho mọi nguời. Bây giờ thì chờ đợi. Thiên Chúa muốn con Người hối cải để đựoc sống vì không hối cải thì không được vào nước trời.
Nhưng mỉa may thay! Khi ta trở lại không biết có tìm thấy niềm tin trên mặt đất nầy không! Có nhà thờ, có giáo dân, nhiều nữa, nhưng không biết có niềm tin không. Rất nhiều Người nói tin, tuyên xưng đức tin nhưng không biết có phải là đức tin mà Đức Giêsu dạy hay là đức tin do họ nghĩ ra. Nguời ta giữ đạo, đọc kinh, đi lễ mà không chịu học Phúc Âm hoăc chỉ tự học như Tin lành, không hiểu đúng ý Đức Giêsu .
Xin Chúa thêm đức tin cho chúng con, đức tin như Chúa dạy, như Chúa muốn.
Thế giới công nghiệp ngày nay ít dành thời giờ cho việc cầu nguyện. Con người càng văn: TN 29-C75.
Thế giới công nghiệp ngày nay ít dành thời giờ cho việc cầu nguyện. Con người càng văn minh thì càng tất bật, mất nhiều tự do chọn lựa. Của cải làm ra tuy có nhiều hơn nhưng luôn cảm thấy thiếu! Vì vậy họ ra sức làm, làm suốt ngày. Có nhiều nơi chủ còn khuyến khích công nhân tăng ca suốt mấy tháng liền. Như vậy, việc ít cầu nguyện có thể do xã hội, do công việc làm ăn. Thế nhưng, chúng ta hãy xem, Chúa Giêsu xưa kia trong 3 năm rao giảng cũng tất bật, rao giảng từ sáng sớm đến chiều, tối còn chữa bệnh. Vậy Chúa Giêsu có cầu nguyện không? Nếu chúng ta đọc đoạn Lc 4, 40 - 42; Mt 14, 23, chúng ta thấy sau một ngày rao giảng, Chúa Giêsu lên núi hoặc đến nơi vắng vẻ để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Dù bận rộn Chúa cũng không bỏ cầu nguyện sáng tối. Ngài luôn dành một khoảng thời gian hẳn hoi để cầu nguyện chứ không làm qua loa.
Cuộc sống chúng ta quá vất vả ư! Chúng ta hãy chạy đến với Chúa, Chúa sẽ bổ sức cho chúng ta. Lúc vui cũng như lúc buồn, trước khi làm việc gì, dù thuận tiện hay không thuận tiện, chúng ta cũng dành vài giây nhớ tới Chúa và xin Người thương giúp cho công việc chúng ta được tốt đẹp. Việc cầu nguyện có thể thực hiện mọi nơi, mọi lúc vì Chúa ở khắp mọi nơi. Chính Chúa Giêsu cũng dạy các tông đồ: các con hãy cầu nguyện luôn.
Chúng ta có năng cầu nguyện không? Trước khi làm việc gì chúng ta có dâng công việc đó cho Chúa không? Nếu chúng ta thực hành điều Chúa dạy: "các con hãy cầu nguyện luôn" thì chúng ta xứng đáng là môn đệ của Chúa. Thực tế cho thấy, nhiều người kinh sáng kinh tối mà cũng bỏ qua, nhưng xem phim hoặc Tivi hàng giờ mỗi ngày thì họ ít khi bỏ!
Thực sự là có người quyết tâm sẽ cầu nguyện đều đặn mỗi ngày nhưng khi thấy những gì mình xin Chúa chưa cho thì ngã lòng. Chúa biết chắc có những trường hợp như vậy nên Ngài đã kể dụ ngôn "vị thẩm phán bất lương" trong bài Tin Mừng hôm nay. Đối với một kẻ ích kỷ, coi thường lợi ích của kẻ khác mà còn phải chịu nghe lời cầu xin kiên nhẫn, huống chi Thiên Chúa là Đấng tốt lành rất yêu thương chúng ta lại trì hoãn mãi sao?
Tuy nhiên cũng có trường hợp chúng ta xin mà Chúa không cho như ý chúng ta. Khi đó, chúng ta hãy suy nghĩ xem, có phải điều đó có hại cho linh hồn mình và người xung quanh chăng? Nếu Chúa cho liền thì mình có kiêu ngạo trước mặt người xung quanh không? Nếu chúng ta xem Phúc Âm theo thánh Luca (Lc 11,11): Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Nhưng coi chừng chúng ta xin con bò cạp hoặc con rắn thì Chúa không thể chiều theo ý chúng ta. Chúng ta đừng ép Chúa phải cho con rắn và bò cạp vốn nguy hại đến sức klhoẻ linh hồn chúng ta.
Chúng ta hãy biết rằng: con người có hai phần, phần hồn quí hơn phần xác. Không lẽ nào vì một chút lợi lộc phần xác mà mình đánh mất linh hồn. Vì vậy, khi cầu xin, chúng ta nhớ nói thêm với Chúa: Nếu Chúa thấy ích lợi cho phần rỗi con thì Chúa thương ban, bằng chẳng ích lợi thì soi sáng cho con biết nhận ra ý Chúa muốn và dạy cho con biết việc phải làm.
Tôi tin chắc điều gì mà lợi ích cho cả phần hồn và xác tôi và người xung quanh thì Chúa sẽ cho. Tôi nhớ chuyện một người bạn, anh tuy nghèo, học trung bình nhưng rất mong vào đại học. Anh kiên nhẫn cầu xin Chúa. Đến khi tốt nghiệp xong, anh thi vào Bách khoa và Mỹ thuật nhưng cả 2 trường đều trượt. Lúc đó, anh hiểu ra rằng: khả năng mình có giới hạn, nếu thi đậu 2 trường đó, chắc gì mình đủ khả năng học 5 năm. Thế rồi, anh chấp nhận thi vào trung học chuyên nghiệp. Sau đó, với bằng cấp loại giỏi, anh được đưa lên đại học và sau này không phải tốn tiền học phí. Mộng của anh đã thành hiện thực nhưng không phải theo cách anh tính cho mình nhưng theo cách Chúa định liệu và hướng dẫn.
Như vậy, điều trước tiên, chúng ta muốn xin Chúa điều gì thì mình phải cố gắng. Tuy không hoàn toàn đúng theo kế hoạch mình tính nhưng chúng ta biết chắc là Chúa sẽ ban ơn. Chúng ta hãy nhớ rằng: Nếu một cánh cửa khép lại thì Chúa sẽ mở nhiều cánh cửa khác cho chúng ta. Chúa sẽ không để chúng ta quá vất vả, hay thất vọng. Khi chúng ta cố gắng hết sức trong niềm tín thác vào Chúa, Chúa sẽ ra tay giúp chúng ta hoàn thành những gì còn thiếu sót. Trong việc giữ đạo cũng vậy, khi chúng ta muốn chừa bỏ một tật xấu mà chưa bỏ được, cứ cầu nguyện và cố gắng. Chúa rất thương chúng ta và ưng nhận lòng thành tâm, nỗ lực của chúng ta.
Ước gì chúng ta luôn nhớ bài Phúc Âm hôm nay và tin tưởng vào lời hứa của Chúa. Chúa không bao giờ quên những ai biết trông cậy nơi Người.
Nhiều người trong chúng ta đã từng biết câu chuyện ngụ ngôn của Easop về cuộc chạy đua giữa: TN 29-C76
Nhiều người trong chúng ta đã từng biết câu chuyện ngụ ngôn của Easop về cuộc chạy đua giữa Thỏ và Rùa. Hai con vật đồng ý làm một cuộc chạy đua. Vừa bắt đầu thì con thỏ liền phóng nước đại, phi một đường rất là ngoạn mục và lả lướt. Còn chú rùa thì cứ ì ạch, chậm chạm từng bước. Để tỏ ra khinh thị đối thủ hạng nhẹ, chú Thỏ quyết định dừng lại ngủ một giấc cho đỡ buồn. Khi vừa giật mình tỉnh dạy, thì con thỏ đã thấy con rùa gần tới đích, đuổi hết kịp. Ngụ ngôn của câu chuyện muốn nói với chúng ta là kiên trì sẽ giúp ta thành công.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay dạy ta kiên nhẫn cầu nguyện. Cầu nguyện là việc cần thiết đối với người tín hữu vì mỗi người đều tuỳ thuộc vào Chúa từng hơi thở. Sự cần thiết của việc cầu nguyện bắt đầu từ thái độ khiêm tốn, chấp nhận cái thân phận yếu hèn và những thiếu thốn của mình. Bài Xuất hành hôm nay ghi lại lòng kiên nhẫn cầu nguyện của Môsê. Khi ông Môsê giang tay cầu nguyện thì dân Chúa thắng thế. Còn khi ông mệt mỏi xuôi tay xuống thì quân địch Amalech thắng. Thánh Phaolô trong thư căn dặn Timôthê phải kiên nhẫn và trung tín cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa trong Thánh Kinh. Rồi đến ngụ ngôn bà goá trong Phúc Âm. Một viên quan tòa bất lương, không sợ trời đất nào, cũng chẳng sợ ai. Một bà góa đến kêu nài. Bà góa trong xã hội Do thái là người cô thế cô thân, bị mọi thứ thiệt thòi, không ai bênh vực. Bà chỉ còn biết kêu đến quan tòa để bênh vực bà chống lại kẻ đang ức hiếp bóc lột bà. Nhưng ông quan tòa này đã chẳng sợ trời lại không nể người thì ông đâu coi chuyện oan ức của bà góa này ra gì. Bởi vậy ông cứ giả điếc làm ngơ. Nhưng bà góa kia không đầu hàng. Bà cứ kiên trì kêu nài mãi. Cuối cùng, để khỏi bị quấy rầy, ông quan tòa đành quyết định xét xử bênh vực quyền lợi cho bà. Kể dụ ngôn xong, Chúa Giêsu kết luận: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao ?”. Viên quan tòa bất chính còn biết hành xử như vậy, chẳng lẽ Thiên Chúa, là Đấng nhân lành và công bằng lại không lắng nghe lời cầu nguyện liên lỉ của những con cái Ngài hay sao? Như vậy, câu đầu tiên và câu cuối cùng của bài Tin Mừng cho chúng ta thấy ý tưởng chính là cần phải kiên trì cầu nguyện luôn, đừng nản chí.
Có hai lý do thúc đẩy chúng ta phải cầu nguyện luôn. Thứ nhất, vì chúng ta luôn thiếu thốn và cần mọi sự. Tự bản chất con người ta bất toàn, thiếu thốn. Những gì bất toàn đòi phải được kiện toàn, những gì thiếu thốn đều đòi phải được đầy đủ. Thế nên, muốn kiện toàn những bất toàn, muốn lấp đầy những thiếu thốn, muốn thỏa mãn những ước vọng chính đáng thì phải cầu nguyện kiên trì.
Thứ hai, chúng ta phải cầu nguyện luôn bởi vì tự sức riêng chúng ta không thể làm gì được. Nói cách khác, chúng ta hoàn toàn bất lực trong việc kiện toàn những khiếm khuyết, trong việc lấp đầy những thiếu thốn, nhất là đối với những bất toàn và thiếu thốn siêu nhiên. Những thứ đó vượt hẳn khả năng của con người, chúng ta không thể tự làm cho mình có được, như Chúa Kitô đã nói: “Không có Thầy, các con không thể làm gì được”. Tuy nhiên, lòng tự ái đã ngăn cản người ta không chấp nhận mình thiếu thốn, khuyết điểm và bất lực. Cần phải có một tâm hồn đơn sơ khiêm tốn mới tự công nhận mình như thế. Có công nhận mới tín nhiệm chạy đến cầu nguyện với Chúa.
Ngoài ra, còn có hai lý do chính giúp chúng ta không nản chí. Thứ nhất, Chúa rất tốt lành và đầy lòng yêu thương, đồng thời Ngài lại là Thiên Chúa toàn năng. Nếu một quan tòa bất lương và vô tín ngưỡng còn biết nghe theo lời người thưa kiện, huống nữa là Thiên Chúa tốt lành vô cùng. Thiên Chúa tốt lành ấy là Đấng tác thành nên ta, là Cha yêu thương ta hết tình, đến nỗi như lời thánh Phaolô dạy: “Đã ban chính con Chúa cho ta, thì lẽ nào lại không ban mọi cái khác cho ta cùng với người con ấy”. Hơn nữa, Thiên Chúa lại là Đấng toàn năng, Ngài làm được mọi điều Ngài muốn. Nếu Ngài là đấng tốt lành yêu thương ta và muốn cho ta được mọi sự tốt lành, thì dĩ nhiên Ngài sẽ làm những điều đó cho ta. Thứ hai, chúng ta không thể ngã lòng nản chí vì Chúa đã long trọng hứa rằng sẽ nhận lời ta cầu xin. Tuyệt đối mà xét thì Thiên Chúa chẳng mắc nợ ai, cho nên dầu Ngài tốt lành và yêu thương ta, nhưng chẳng ai bắt buộc Ngài phải làm điều nọ điều kia được. Tuy nhiên, khi hứa sẽ nhận lời mọi người kêu xin, thì Chúa đã tự đặt mình vào thế bắt buộc phải nghe lời ta.
Điều cần thiết và quan trọng Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn là để được trung thành với đức tin. Cuộc sống mỗi người Kitô là một cuộc sống trong đức tin và nhờ đức tin. Vì thế mỗi người đừng để mất đức tin hay giảm sút lòng tin. Nói một cách khác tích cực hơn là để trung thành với đức tin và phát triển đời sống đức tin. Chính việc cầu nguyện sẽ giúp chúng ta sống được như thế.
Quả thật, cuộc đời người tín hữu Chúa trên trần gian là một cuộc hành trình khó khăn giữa nhiều thử thách, và để an toàn đạt đến cùng đích của cuộc lữ hành thì mỗi môn đệ Chúa phải kiên trì, phải trung thành trong đức tin cho đến khi Chúa lại đến. Và để kiên trì trong đức tin cho đến cùng thì mỗi môn đệ của Chúa cần thực hành điều căn bản và quan trọng, đó là cầu nguyện. Cũng thế, cuộc sống đức tin không phải là không có những nguy hiểm, những gian nan thử thách, không ngừng chất vấn và thách thức con người, khi con người chiều theo những lợi lộc mà bỏ quên Thiên Chúa. Dù ai, dù ở địa vị nào trong xã hội cũng như trong Giáo Hội, dung mạo tinh thần của mỗi người chúng ta có thể được so sánh như dung mạo của người đàn bà góa nghèo. Hình ảnh của người đàn bà góa nghèo trong văn chương Do thái cũng như trong nếp sống cụ thể của người Do thái là hình ảnh của một con người cô thế, yếu đuối, không phẩm giá, không địa vị, bị bỏ rơi, bị loại ra bên ngoài xã hội, nhưng chỉ sống nhờ vào lòng nhân từ của kẻ khác. Với những tật xấu, những bất toàn của chính bản thân mình, phải chăng mỗi người chúng ta trước nhan Thiên Chúa cũng là những kẻ yếu đuối thấp hèn, không công trạng gì, sống nhờ vào lòng nhân từ của Thiên Chúa ? Chỉ khi ý thức về thân phận yếu đuối của mình như người đàn bà góa kia, chúng ta mới khiêm tốn đủ để chạy đến với Chúa mà cầu nguyện xin Chúa nâng đỡ. Chúa khuyến khích chúng ta hãy cầu nguyện luôn, hãy giữ liên lạc với Ngài, tiếp xúc với Ngài qua việc cầu nguyện để đức tin được cũng cố, được kiên trì, được trung thành cho đến cùng, cho đến khi Chúa trở lại Chúa còn gặp chúng ta tỉnh thức trong đức tin, còn gặp chúng ta trung thành với đức tin vào Ngài.
Cuộc trở lại của thánh Augustinô là một ví dụ điển hình nói lên lòng kiên nhẫn trong việc cầu nguyện của bà mẹ là Monica. Sống trong thời hiện tại và hiện đại, người ta được dùng nhiều thứ dịch vụ nhanh chóng như trà, cà phê, đồ hộp chế sẵn, mì ăn liền, di động. Tuy nhiên trong đời sống thiêng liêng, không gì có thể trở nên hoàn hảo nhanh chóng như vậy. Qua ngụ ngôn trong Phúc âm hôm nay, Chúa hứa đáp ứng lời cầu nguyện của ta, nhưng là theo đường lối của Chúa. Bao giờ Chúa mới ban ơn, ta không biết được, nhưng ta phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa.
Có đôi khi ta xin ơn này mà Chúa lại ban ơn khác khiến cho người ta không ý thức được là Chúa đã ban ơn. Ví dụ có người xin khỏi bệnh phần xác, mà Chúa lại ban ơn khỏi bệnh tinh thần: cho người đó vui lòng chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Có trường hợp Chúa không ban ơn liền, nhưng Chúa chữa trị dần dần. Ví dụ một người xin Chúa chữa bệnh đau lưng. Chúa soi sáng cho người đó biết đau lưng là tại đầu óc bị căng thẳng làm máu tụ vào một nơi, không được vận chuyển điều hoà. Và Chúa chữa họ bằng cách soi sáng cho họ đọc sách để hiểu tại sao bắp thịt ở lưng bị yếu đau, để rồi bày cách cho họ tập thể thao ở bắp thịt lưng, cho máu luân chuyển điều hoà. Như vậy bác sĩ cũng như thuốc men là những dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Có trường hợp người ta tưởng Chúa không nghe lời cầu của họ, nhưng thực sự Chúa đã nghe lời mà người ta không hay biết. Ví dụ người ta xin cho một người chịu đau đớn về phần xác được khỏi bệnh, mà Chúa lại cất họ ra khỏi thế gian. Thực ra thì Chúa đã chấp nhận lời họ xin bằng cách chấm dứt đau khổ về phần xác cho người đau ốm.
Còn những lý do tại sao điều ta xin mà chưa được hay không được có thể là vì người ta không cộng tác với ơn Chúa, không biết tự giúp mình. Ví dụ một người xin Chúa giúp chống trả cám dỗ về đức khiết tịnh mà cứ xem phim ảnh trụy lạc thì làm sao tránh khỏi cám dỗ? Chưa được điều mình xin cũng có thể là vì người ta đặt chướng ngại vật, làm cản trở ơn Chúa. Chẳng hạn tính ích kỷ, lòng hận thù là những chướng ngại vật làm cản trở ơn Chúa. Còn không xin được điều mình xin có thể là tại người ta thiếu đức tin. Kiên tâm trong việc cầu nguyện là dấu chỉ người có đức tin. Đức tin là yếu tố quan trọng vì nếu người ta cầu nguyện mà không có đức tin, lời cầu nguyện khó lòng được chấp nhận. Có người cầu nguyện vài lần mà không được sinh ra chán nản, bỏ cuộc không cầu nguyện nữa. Đó chính là điều Chúa thắc mắc cuối Phúc âm hôm nay: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con yêu mến Chúa luôn để chúng con tin Chúa đủ mà kiên trì cầu nguyện vì hơn nữa đó là cách chúng con tập luyện lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy. Amen.
Có lẽ đối với một số lớn trong chúng ta, bài Tin Mừng hôm nay hình như còn mới mẽ, ít được: TN 29-C77
Có lẽ đối với một số lớn trong chúng ta, bài Tin Mừng hôm nay hình như còn mới mẽ, ít được nghe tới. Nhưng đó chính lại là cái hay, để chúng ta chăm chú nghe trọn bài, chứ không bị chia trí ngay khi vừa nghe được vài ba câu như đối với các bài Tin Mừng khác!
Thực ra, bản văn bài Tin Mừng hôm nay rất dễ hiểu. Người ta có thể nhận ra ngay được vấn đề đang được đề cập tới ở đây là gì: Đó là một người đàn bà góa, yếu đuối, cô đơn, lẻ loi, không nơi nương tựa, không có tài khoản trong ngân hàng, vô danh tiểu tốt; nói tắt là một người hoàn toàn bất lực để có thể tự vệ cho mình.
Và trong cuộc sống hằng ngày, những hoàn cảnh tương tự như thế vẫn đầy dẫy, vẫn xảy ra ngay trước mắt chúng ta. Nhưng đời là thế! Cuộc sống ô trọc chốn bể dâu này là thế! Đó là lý do thường khiến người ta đành phải thúc thủ tự hỏi: Thế thì trước một hoàn cảnh như thế, ai còn có thể làm được gì nào?
Thế nhưng thật tình cờ: một lối thoát bổng chốc xuất hiện: Người đàn bà góa nghèo hèn đã đạt được mục đích theo đuổi mình, nguyện vọng của bà đã lập tức được chấp nhận. Sự kiện đó muốn nói lên rằng, chính ở đây, trong sự thay đổi đột nhiên đó, lại chứa đựng ý nghĩa trọng yếu mà thánh sử Lu-ca muốn trình bày: Thiên Chúa sẽ lập tức ra tay nâng đỡ và bênh vực cho những ai «đã được tuyển chọn» đang thành tâm kêu cầu Người. Chính Phúc Âm đã ghi lại từng chữ rõ ràng như thế.
Dĩ nhiên, điều đó không muốn nói lên điều gì khác hơn là chân lý này: Thiên Chúa luôn luôn thương giúp; Người rất sẵn lòng thương giúp; Người thương giúp một cách mau mắn, vì chính Người là Đấng bảo vệ chở che những người nghèo đói, những người khổ đau.
Nhưng ở đây, một câu hỏi đầy tính cách thúc bách và thẳng thắn được đặt ra: Phải chăng sự thật là như thế? Phải chăng đó chẳng qua là những ảo tưởng do lòng đạo đức bày đặt ra, hoàn toàn trái ngược với những kinh nghiệm trong cuộc sống cụ thể hằng ngày? Vâng, các phương tiện truyền thông đại chúng, như báo chí, truyền thanh, truyền hình, v.v… lại trưng dẫn những chứng từ cụ thể ngược lại! Và ngay khi gặp gỡ và trao đổi với người khác, người ta cũng nghe được những điều hoàn toàn khác hẳn. Do đó, nhiều người đã cho việc cầu nguyện là vô ích, không cần thiết!
Như vậy, tất cả những kinh ngiệm đó, những điều mà người ta đã phải trải qua trên chính bản thân mình, đều đồng thanh muốn nói lên rằng: Đúng là Thiên Chúa chẳng bênh vực giúp đỡ gì cả; người ta phải nhọc nhằn vất vã không biết bao nhiêu để ngồi chờ đợi sự trợ giúp của Thiên Chúa; những người nghèo khổ cũng vẫn nghèo khổ, chứ chẳng bao giờ ngóc đầu lên được; hàng triệu người hằng ngày vẫn phải sống trong cảnh khốn cùng thảm khốc của mình, v.v… Phải chăng những người như thế không thuộc về thành phần «được tuyển chọn» của Thiên Chúa, tức những người chắc chắn sẽ được Thiên Chúa cứu chữa bênh vực, như Phúc Âm đã nói sao?
Vâng, ở đây chúng ta đang thực sự phải đối mặt với một trong những thách đố cực kỳ khó khăn và đau thương nhất của đức tin; ở đây chúng ta đang thực sự phải trực diện với vấn nạn hầu như hoàn toàn bất khả giải đáp: Vấn đề Thiên Chúa có nhậm lời cầu xin của ta hay không! Nói thế không có nghĩa là chúng ta được phép bỏ ngõ vấn đề và dừng lại ở đây. Chúng ta cần phải tìm ra câu trả lời!
Nhưng phải chăng tôi có thể trả lời là: Thiên Chúa luôn luôn trợ giúp theo cách thế của Người; Thiên Chúa đã biết rõ trước những gì hữu ích cần thiết cho chúng ta và những gì không? Hay tôi có thể trả lời là: Người ta cần phải kiên nhẫn chờ đợi trong ngày sau hết và nơi cuộc sống mai hậu, ở đó mọi sự sẽ được đền bù một cách hoàn toàn công bằng thỏa đáng?
Nếu thế, thì tất cả chỉ mới trả lời có một nửa, chỉ mới trả lời nửa vời mà thôi. Trong khi đó vấn đề khốn cùng và nghèo đói đang đày đọa hàng triệu người khắp nơi trên thế giới vẫn còn tồn đọng đó, chưa đuợc giải quyết xong, và ngày nay đối với nhiều người nó đã trở thành một thách đố cho đức tin; hay nói rõ hơn, nó đã dẫn họ hầu như tới bờ của sự mất đức tin, tức: Thiên Chúa không cứu giúp, Người vẫn im lặng và bất động, Người không hề ra tay, bởi vì đói khát, chiến tranh, nỗi khốn cùng và chết chóc vẫn còn đó và ở khắp nơi: ở Palestina, Li-băng, Pakistan, Áp-ga-nít-tan, Ấn-độ, v.v…!
Trong một trường hợp như thế, chúng ta chỉ còn có thể có hai cách trả lời:
Thứ nhất, hoặc là: «Tôi không còn cầu nguyện nữa, tôi không còn tin gì nữa cả và tôi không còn mong đợi gì nữa cả. Bởi vì tất cả chẳng có nghĩa lý gì nữa!» Hàng ngàn người nói rằng: «Ông bà xem, tôi là người thực tế; tôi đã trải qua nhiều kinh nghiệm; mọi chuyện rồi cứ thế, chẳng có cải thiện được gì đâu; tất cả đều vô ích!» Vâng, có hàng ngàn người nói như thế đó.
Và bởi vì có hàng ngàn người suy nghĩ và nói như thế, nên trên thế giới đã được cải thiện và đổi mới rất ít; bởi vì hàng ngàn người đã hành động như thế, nên trên thế giới đã có quá ít những điều thiện hảo được thực hiện; bởi vì có hàng ngàn người tự thúc thủ và sống một cách bi quan yếm thế như thế, nên cả nhân loại bị dậm chân tại chỗ; bởi vì có hàng ngàn người nói: «Đó là định mệnh, người ta đành bó buộc phải chấp nhận, chứ không thể làm gì khác được nữa, vì mọi sự trước sau rồi cũng chỉ vậy thôi», nên nhân loại đã không thể khá lên được.
Nhưng thái độ mệt mỏi, chán nãn, buông xuôi, ngờ vực và thất vọng, v.v…như thế đều không hòa hợp với tinh thần Kitô giáo.
Thứ hai, hoặc là: Tôi không bao giờ buông xuôi bỏ cuộc; cương quyết tôi phải nỗ lực tranh đấu với cuộc sống để vươn lên; tôi không thể bằng lòng với hoàn cảnh hiện tại được; tôi sẽ đổi mới những gì tôi có thể đổi mới được, vì trong cuộc sống này không bao giờ có gì mà không thay đổi được; tôi không muốn sống tiêu cực và ù lì thúc thủ; nhất định tôi phải tiến lên, chứ không dừng bước hay lui bước lại trên con đường đã đi qua; tôi không bao giờ dùng đến bạo lực, dù chung quanh tôi đang đầy dẫy đủ thứ bạo lực; tôi không thoá mạ lại khi tôi bị thóa mạ; tôi không bao giờ cùng vui cười khi thiên hạ vui cười về những bất công, những mưu mô thâm độc, quỷ quyệt và vô nhân đạo; tôi không dây mình vào những hành động bất công để hưởng lợi; tôi sống và tranh đấu cho một thế giới tốt đẹp và nhân bản hơn, dù không ai biết đến điều đó; «tôi tin tưởng vào điều thiện hảo nơi con người» (Anne Frank)(1) và luôn tìm cách giúp cho người ấy có được dịp may mắn để thể hiện được điều thiện hảo đó.
Vâng, thưa các bạn thân mến, các bạn, những người đang đọc những dòng chữ tôi viết đây, nếu như có hàng ngàn người cùng nghĩ như thế, nếu như có hàng ngàn người cũng sống như thế, và nếu như có hàng ngàn người cũng hành động như thế, thì chắc chắn thế giới sẽ được canh tân đổi mới, tương lai nhân loại sẽ tươi đẹp hơn. Những con người như thế sẽ luôn dũng cảm và đầy tin tưởng tiến bước không ngừng, luôn tìm kiếm, luôn kêu xin, luôn gõ cửa, luôn hy vọng, luôn trông cậy và không bao giờ mỏi mệt, luôn luôn sốt sắng cầu nguyện, vì họ biết rằng họ sẽ không bao giờ có thể thực hiện được hết mọi sự.
Những người như thế: Một đàng, luôn luôn sốt sắng cầu nguyện và đầy lòng tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa, bởi vì họ luôn xác tín được rằng mọi sự đều thuộcc về Người và tùy thuộc một mình Người mà thôi; đàng khác, họ luôn can đảm sống và hành động, vì họ biết rằng mọi sự đều đang chờ đợi bàn tay của họ, đều tùy thuộc vào họ, đều tùy thuộc vào các khả năng sáng tạo mà Chúa đã ban cho họ.
Những con người như thế luôn tâm niệm: «Nguyện xin cho Nước Cha trị đến.» Và nếu như họ thấy rằng Nước Thiên Chúa chưa được hiển trị nơi nào cả, thì ít ra Nước Thiên Chúa đã bắt đầu đặt được nền móng vững chắc trong trái tim họ.
Những con người như thế luôn biết tin tưởng vào Thiên Chúa. Và chính đức tin mang đến cho họ sự tự tín, sức mạnh nội tâm và sự bình an trong tâm hồn, một sự bình an mà không một quyền lực trần gian nào có thế ban tặng hay lấy đi được.
Và bởi vì họ tin tưởng vào Thiên Chúa và cầu nguyện cùng người, họ đã không bị lạc đường, họ sống một cách đúng đắn và hạnh phúc, và luôn thâm tín rằng: «Tốt nhất là thà thắp lên một ánh sáng nho nhỏ, còn hơn là chỉ ngồi im nguyền rủa bóng đêm!» _____________ 1. Anne Frank, 1929-1945, người gốc Do-thái, năm 1945 cô bị mật vụ Đức Quốc Xã bắt và giết hại tại trại tập trung Bergen-Belsen. Cô đã nỗi danh qua cuốn «Das Tagesbuch der Anne F.» - Nhật Ký của Anne F. mà cô đã để lại sau khi chết. Lm Nguyễn Hữu Thy - Vietcatholic.net
Phương pháp luyện lực Tum-mo của truyền thống Tây Tạng đã được nhóm nghiên cứu ngành: TN 29-C78
Phương pháp luyện lực Tum-mo của truyền thống Tây Tạng đã được nhóm nghiên cứu ngành y khoa của đại học Harvard khảo sát tận nơi. Alexandra David-Neel đã từng nói về hiện tượng một số người Tây Tạng có thể luyện công trong một thời gian để làm tăng nhiệt độ ở ngoài da khiến cho cả vải ướt cũng khô được, nhưng vẫn chưa có nghiên cứu khoa học nào minh chứng. Thì nay nhóm của bác sĩ Herbert Benson gồm cả hai người quay phim là Russell Pariseau và Michael Edwards, đã làm một cuộc khảo nghiệm tại thung lũng Kulu.
THỜI ĐIỂM NHÓM BÁC SĨ HERBERT BENSON
Trời lạnh đến độ mọi người phải run lên. Vậy mà nhóm mười hai người Tây Tạng đã ngồi luyện thế gTum-mo. Họ để mình trần, rồi lấy những tấm vải nhúng sũng nước quấn quanh người. Chỉ trong vòng ba bốn phút thì những tấm vải ướt bắt đầu bốc hơi làm mờ cả ống kính quay phim. Và sau khoảng 40 phút thì khô hoàn toàn.
Nhóm bác sĩ Herbert Benson đã xin 12 người này làm lại hai lần như thế nữa. Kết quả đều giống nhau. Sau đó, nhóm nghiên cứu lại sang thành phố Leh bên Ấn Độ để làm một cuộc khảo nghiệm với nhóm mười người. Nhóm này cũng dùng một thế gTum-mo đặc biệt gọi là Repeu dưới trời tuyết rơi lạnh tới 0 độ F. Họ ngồi yên như thế trong 8 giờ. Tuyết phủ kín, ai cũng nghĩ họ đã bị đông lạnh rồi. Vậy mà sau khi nghe hiệu lệnh, tất cả nhóm mười người đã đứng dậy giũ sạch tuyết và trở vào nhà một cách bình thản.
NỘI LỰC BỊ LÃNG QUÊN
Đọc và xem truyện chưởng, ai cũng nghĩ chỉ là những điều thêu dệt cho vui, chứ đâu ngờ khoa học minh chứng có thực. Từ khảo nghiệm trên, bác sĩ Herbert Benson đã tìm ra những nguyên tắc căn bản nhằm khai triển nội lực vốn bị lãng quên. Không phải chỉ một số người kỳ bí Tây Tạng hay Ấn Độ luyện được, mà ai cũng có thể áp dụng vào đời sống bình thường một cách đơn giản. Những nguyên tắc này đã được viết thành sách rất nổi tiếng như "Đáp Ứng Thư Giãn" (Relaxation Response) và "Nội Lực Hết Cỡ" (Your Maximum Mind). Như vậy thân xác cũng là cầu bác vào trí óc và tâm linh.
Diễn tiến phương pháp đạt sức mạnh thân tâm của bác sĩ Herbert Benson có thể tóm lại thành 4 bước:
Bước 1: Ngồi yên lặng trong thế thoải mái, có thể nhắm mắt và để các bắp thịt xả buông ngơi nghỉ.
Bước 2: Chọn một câu ngắn làm câu tâm niệm. Câu này thường diễn tả niềm tin của mình. Thí dụ: Chúa thương yêu, an bình, Chúa chăn nuôi con v.v. Hay giữ một hình ảnh diễn tả tâm tình.
Bước 3: Để ý hơi thở tự nhiên. Hơi thở được để ý sẽ chậm lại an tĩnh, bớt hối hả. Mỗi lần thở ra thì giữ tâm tình xả buông trao phó; và mỗi lần hít vào thì lặp lại câu tâm niệm hay nhận lấy hình ảnh trên.
Bước 4: Luôn giữ thái độ thư giãn ngơi nghỉ thoải mái. Mỗi lần chia trí thì cứ trở lại với câu tâm niệm và dõi theo hơi thở.
Để có hiệu quả thì mỗi lần như vậy nên kéo dài từ 10 đến 20 phút. Và mỗi ngày hai lần. Tập luyện một thời gian thì chẳng những tăng được sức mạnh tinh thần mà ngay cả những khả năng về tâm trí cũng được phát triển trông thấy, như học giỏi hơn, trí óc sáng suốt, con người nhanh nhẹn minh mẫn hơn...
PHƯƠNG PHÁP LUYỆN LỰC
Nhìn qua phương pháp của bác sĩ Herbert Benson thì thấy ngay hai điểm chính: 1. Xả buông nhịp hiện trạng lung tung và rối bời của mình (let go), qua cử chỉ thở ra, buông xả mọi căng thẳng trong cơ thể và lo lắng trong tâm trí. Lúc này mình mới nhận ra hơi thở của mình vừa rất nông, rất yếu và ngắn, lại vừa vấp váp không đều.
2. Mà hòa vào một nhịp sinh khí toàn mãn (let God): qua cử chỉ hít vào, nhận lấy sinh khí mới bằng một câu tâm niệm hay một hình ảnh diễn tả niềm tin.
Truyền thống Công Giáo thường gọi hai giai đoạn then chốt này là phó thác và tin yêu.
Chẳng nói gì xa. Cứ quan sát một nhóm người kéo gỗ hay vật gì nặng thì thấy rõ. Sức một người chẳng là gì. Nhưng khi cả nhóm người cùng hò giô ta kéo theo một nhịp, thì sức mạnh trở thành phi thường. Một đoàn quân đi ngang qua một cây cầu gỗ mà cùng hò cùng dậm chân một nhịp thì có thể làm cầu sập.
Từ những quan sát và khảo nghiệm trên, con người ngày nay mới dễ cảm nhận được lời Chúa Giêsu, tại sao Ngài luôn nhấn mạnh về cầu nguyện: Cần phải cầu nguyện luôn và cầu nguyện kiên trì. Vì cầu nguyện là nối lại được vào dòng nhịp sinh khí của Thần Sinh Khí Chúa, là lấy lại được sức mạnh tinh thần. Như cái máy hay cái đèn cắm được vào dòng điện thì mới sáng lên và chạy được.
Sách Xuất Hành trong Kinh Thánh kể truyện về dân Do Thái đã thắng trận nhờ ông Mô-sen giang tay kiên trì cầu nguyện, khi ông mỏi tay quá thì đã có ông Aaron và ông Hur nâng hai bên.
TIN VUI LUYỆN LỰC BẰNG KINH MÂN CÔI
Một phương cách rất đơn giản của đạo Chúa nhưng lại rất hiệu nghiệm để tìm lại được sức mạnh tinh thần là lần chuỗi Mân Côi. Nhìn từ phương pháp khảo cứu của bác sĩ Herbert Benson thì lần chuỗi Mân Côi đúng là một phương cách luyện lực gồm hai bước chính: thở ra phó thác và hít vào tin yêu.
Kinh Kính Mừng lại cũng là một câu tâm niệm, và mỗi mầu nhiệm từng chục kinh là một hình ảnh sống động, một câu truyện để chiêm ngắm. Vì thế vẫn gọi là ngắm Mân Côi. Điều then chốt là thái độ phó thác và tin yêu. Hình ảnh và lời đọc đã trở thành câu tâm niệm theo nhịp thở ra hít vào, dẫn mình hòa nhập vào một dòng sinh lực của biết bao tín hữu đang cùng chung một nhịp hò như điệu hò giô ta, bắt lại được nhịp hơi thở Thần Linh. Đây quả là một cách thế khơi lực phi thường.
Chẳng lạ gì Cha Piô, thường được gọi là một vị thánh sống, đã quả quyết: "Chuỗi hạt Mân Côi là một thanh gươm sắc bén Chúa đặt vào tay tín hữu". Và trong tất cả sáu lần hiện ra tại Fatima bên Bồ Đào Nha, Đức Mẹ Maria luôn chỉ dạy: "Hãy lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày". Năm 1917 cũng là năm cộng sản Nga chiếm được chính quyền. Vậy mà Đức Mẹ đã nói tiên tri: Lần chuỗi Mân Côi sẽ làm cho nước Nga trở lại. Riêng ngày 13 tháng 10 năm 1917, Đức Mẹ đã hứa cho một phép lạ để người ta tin. Hôm đó có tới 70 ngàn người tụ họp nơi một vùng quê, gồm những người tin đạo cũng như những người vô thần và chống đạo. Trời mưa tầm tã từ sáng đã khiến cho cả khu vực trở nên lầy lội ướt át. Nhiều người đâm ra hồ nghi. Nhưng đến trưa thì mặt trời ló ra khỏi đám mây mù, rồi bỗng xoay tít nhảy múa sà xuống sát đất trước con mắt kinh ngạc và sợ hãi tột cùng của mọi người. Có tiếng hô lên: Phép lạ! Phép lạ! Rồi mặt trời trở lại như thường. Đất bùn bỗng khô lại. Cả báo chống đạo là tờ O Seculo cũng tường thuật như vậy. Sức mạnh nào đã khiến cả mặt trời nhảy múa?
PHÚT BẮT LẠI ĐƯỢC NHỊP
Đời sống mình có thể đang rời ra từng mảnh vì mất đi nhịp sống thanh thản, vì lãng quên những phút giây tĩnh lặng cầu nguyện. Đây là lúc dừng chân để tìm lại sức mạnh tinh thần, bắt lại được nhịp sinh khí. Kinh Mân Côi chính là phương cách thần diệu nối được vào dòng sức sống này. Mình xả buông mọi ưu phiền lo lắng. Tâm hồn mình sẽ an tĩnh lại. Nhựa sống đang vươn cánh vút cao với tứ thơ Hàn Mặc Tử theo điệu nhạc Hải Linh:
Như sóng lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể.
Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
(từ tác phẩm Nhịp Sông Thanh, Thời điểm xuất bản)
Một câu truyện mang tính cách ngụ ngôn mà tôi đã nghe kể đâu đó như sau: Một người kia cầu: TN 29-C79
Một câu truyện mang tính cách ngụ ngôn mà tôi đã nghe kể đâu đó như sau:
Một người kia cầu nguyện mãi mà không thấy mình được giầu có thêm một chút. Suốt đời vất vả, long đong. Ông ta nghĩ ra một cách, và đến quì bên Thánh Thể, ông thưa với Chúa:
- Lậy Chúa! Đối với Chúa một triệu, mười triệu hay trăm triệu phải chăng cũng chỉ đáng một xu thôi thưa Chúa?
- Ừ! Cũng chỉ đáng một xu thôi. Chúa âu yếm đáp lại.
Tưởng Chúa đã trúng kế mình, người đó liền mạnh dạn thưa tiếp:
- Vâng lậy Chúa! Lần này con chỉ xin Chúa có một xu đó thôi thưa Chúa.
Và Chúa cũng rất âu yếm đáp lại:
- Được! Con chờ Cha một giây thôi.
Rồi một giây, mười giây, và một giờ qua mau nhưng vẫn không thấy Chúa trả lời thêm. Chờ mãi sốt ruột, người ấy lại thưa với Chúa:
- Lậy Chúa! Sao một giây của Chúa lâu quá vậy. Con quỳ đây đã hơn một giờ rồi mà chưa thấy Chúa nói gì?
Và cũng lại rất âu yếm, nhân từ, Chúa đáp lại:
- Con phải từ từ! Con không biết rằng một giây hay một giờ, một năm, một trăm năm và một ngàn năm trước mắt Cha cũng như nhau sao? Đối với Cha, thời gian là hiện tại.
Trong đời sống tâm linh, nhiều Kitô hữu cũng hành xử như người trong câu truyện vừa nêu trên. Chúng ta cũng sốt ruột, cũng lo lắng, và nhiều khi còn quá lo lắng đối với những việc đã xẩy ra, đang xẩy ra, và ngay cả với những việc sẽ xẩy ra. Chúng ta muốn xin với Chúa cho chúng ta một bí quyết để nắm bắt tương lai. Nói một cách đơn giản là có khả năng làm chủ được đời mình. Đối với chúng ta đấy là một xu mà chúng ta muốn xin với Chúa. Evà xưa trong vườn Địa Đàng xem như cũng muốn có một xu đó. Santan đã tán tỉnh và nói với bà về cái xu đó qua một góc cạnh khác của cái gọi là "biết lành, biết dữ". Đối với Evà "biết lành biết dữ", và đối với chúng ta làm chủ được tương lai mình cũng có nghĩa tương đương là trở thành thiên chúa của chính mình. Lúc đó, chúng ta sẽ giầu có, sẽ ngồi trên ngôi cao sang trọng, sẽ có đầy đủ mọi quyền hành trong tay. Và chúng ta sẽ hưởng thụ mọi thú vui mà không hề lo sợ bị ai lấy mất, bởi vì chúng ta đã biết trước và có khả năng định đoạt được tương lai của mình.
Nhưng đối với Chúa, đây chính là một sự kiêu ngạo rất lớn lao. Nó cũng tương đương với sự kiêu ngạo mà Lucifer đã có khi thấy mình sáng láng và tuyệt vời trước mặt các thần khác. Tất cả Lucifer, Evà, và mọi người chúng ta đều quên quên rằng Thiên Chúa mới là chủ tể vạn vật. Chỉ có Ngài mới làm chủ được thời gian và không bị lệ thuộc vào thời gian.
Quá khứ, hiện tại, và tương lại chỉ là một trước mắt Ngài. Ngài không sốt ruột, không băn khoăn, và cũng không lo lắng đến mất ăn và mất ngủ vì tất cả đang hiện hữu trước mắt Ngài, và Ngài làm chủ tất cả. Như vậy, chỉ có con người là bôn chôn, lo lắng, và hồi hộp đến mất ăn, mất ngủ. Vì tất cả chúng ta đều bị lệ thuộc và giới hạn vào thời gian: Thời gian đã qua, thời gian hiện tại, và thời gian sẽ đến. Tâm lý sống này ảnh hưởng rất nhiều đến không những đời sống tâm linh mà còn cả đời thường của nhiều Kitô hữu. Nó làm cho chúng ta bực tức, khó chịu, chộp giật, tham lam, lo lắng, hoài nghi, để rồi đi tới chỗ mất bình an và hạnh phúc.
Quá khứ: Khi nghĩ tới quá khứ, phần đông chúng ta hay nghĩ đến những cái làm cho chúng ta buồn và hối tiếc. Thí dụ, khuyết điểm, yếu đuối, và những cơ may đã bị bỏ lỡ. Những cái đó thường chỉ đưa lại một tâm trạng bực tức, khó chịu, và một cái nhìn bi qua, tiêu cực. Và cũng vì thế, rất nhiều người muốn chối bỏ quá khứ, muốn chạy trốn quá khứ, nhất là cái quá khứ nghèo khổ, bị bắt bớ tù đầy, bị người khác ức chế, và cả những quá khứ tội lỗi nữa.
Hiện tại: Bằng một kinh nghiệm riêng tư, và rút kinh nghiệm từ quá khứ, giây phút hiện tại đã trở thành cơ may hiếm hoi cho những con người thời cơ chủ nghĩa, cho những con người tham lam, cho những con người biếng lười và ham thích vật dục. Từ đó mới đưa đến những lối sống buông túng, cờ bạc, rượu chè, trai gái, nghiện hút. Từ đó mới đưa đến những ước vọng quyền lực, giầu có và địa vị. Những thứ này được củng cố bằng cái tôi tự ái, kiêu hãnh, và ích kỷ.
Tương lai: Tương lai là những gì mà mình không hề biết, nhưng cũng là những điều mình muốn biết. Đó cũng là những yếu tố thúc đẩy tính tò mò của mọi người. Người có đức tin và thành tâm yêu mến Thiên Chúa, thì tương lai là một chuỗi những biến chuyển đã được Thiên Chúa an bài. Tất cả là một hồng ân cho những ai yêu mến và biết đặt trọn niềm tin vào Ngài. Nhưng đối với những kẻ không có lòng tin, những kẻ cậy dựa vào những suy luận và khả năng của trí óc, thì tương lai là một chuỗi ngày dài đầy phập phồng, lo sợ, và băn khoăn. Chính vì thế, họ đã trở thành mồi ngon cho những điều tin tưởng nhảm nhí, đồng bóng, cầu cơ, và bói toán.
Nhưng dù là tin hay không tin, tương lai vẫn là một thách đố và là kết quả của tất cả những gì mà một con người có được qua những công việc làm của những giây phút hiện tại. Có thể nói, tương lai chỉ là một bản kết toán của những giây phút hiện tại.
Khi Chúa Giêsu tỏ vẻ như hoài nghi về Đức Tin của con người trong những ngày thế mạt: "Không biết khi con người đến, liệu còn tìm thấy đức tin trên mặt đất hay không?" (Lc 18:8), hẳn là Chúa có ý nói đến một đức tin thực hành. Đức tin được dệt bằng những tác động tín thác, yêu mến, và bằng những việc làm bác ái ngay trong những việc nhỏ bé nhất của cuộc sống.
Không buồn chán, than thở, và tự trách về quá khứ. Tất cả đều được ném trọn vào lò lửa yêu thương của Trái Tim nhân lành Chúa. Tin rằng Chúa đã tha thứ cho mình, và mình cũng phải tha thứ cho mình. Đây là đức tin thực hành đối với những yếu đuối và khuyết điểm của con người. Đức Tin mà Chúa muốn nhìn thấy khi Ngài trở lại thế gian.
Không tham lam, chộp giật, bon chen, và tìm cách tích lũy cho mình những kho tàng, những quyền hành, và những địa vị ngoài ý Chúa. Bằng lòng với tất cả những gì mà Thiên Chúa muốn cho mình. Hằng ngày dùng đủ, và biết mở rộng lòng mình đón nhận mọi thử thách, mọi bất trắc như một sự phó thác tuyệt vời trong lòng từ ái của Cha Trên Trời. Đây là đức tin thực hành. Đức Tin mà Chúa Giêsu muốn nhìn thấy khi Ngài trở lại thế gian.
Con người ngày nay cũng không khác gì con người mà Chúa đã nói tới trong thời kỳ của Noel. Họ cũng hăm hở tìm kiếm, chộp giật, tích lũy. Họ cũng lao vào những hưởng thụ vật chất và dục vọng. Họ cũng hăm hở cưới vợ, gả chồng. Mặc cho những gì Chúa muốn nói và muốn nhắc nhở qua những biến động và tất cả những tai họa đang xẩy ra đây đó.
Không lo lắng về ngày mai. Không lo lắng đến độ mất ăn, mất ngủ. Không lo lắng đến độ phải tìm ra những thủ đoạn dù là đê hèn nhất để chém giết, để đè bẹp, để trấn át người khác. Không lo lắng đến độ làm cho mình phải nghi ngờ cả đến Thiên Chúa. Sự tin tưởng, phó thác đó chính là Đức Tin thực hành. Đức Tin mà Chúa Giêsu muốn nhìn thấykhi Ngài trở lại thế gian.
Người đàn ông qua câu truyện trên chỉ xin Chúa có một xu thôi. Chúa bằng lòng cho và cũng chỉ xin lại 1 giây chờ đợi. Nhưng rồi, người ấy đã ngã lòng. Người ấy đã buồn bực. Và người ấy đã phàn nàn Chúa. Trong cuộc sống và trải qua từng giây phút, Chúa cũng xin mỗi người chúng ta không phải là một trăm năm, một chục năm, một năm, một tháng, một ngày, một giờ, mà chỉ một giây thôi nhẫn nại với Chúa qua những gì Ngài đang muốn thực hiện nơi mỗi người trong chính cuộc đời của mỗi người.
Chúa không nói sai. Đối với Ngài một xu hay một triệu, một trăm triệu cũng như nhau. Vì Ngài luôn luôn hiện hữu. Luôn luôn giầu có. Nhưng điều mà Ngài muốn chúng ta đối lại với tình yêu hải hải của Ngài là một giây thật sự trước mặt Ngài. Từng giây một, cuộc đời chúng ta sẽ được kết chặt lại bởi từng giây một của òng yêu mến, của sự tín thác tuyệt đối. Đấy chính là Đức Tin mà Chúa muốn thấy nơi mỗi người chúng ta khi Ngài trở lại.
Khoa học ngày càng tiến bộ đã giúp con người hưởng nhiều tiện nghi. Kỹ thuật tân tiến với nhiều: TN 29-C80
Khoa học ngày càng tiến bộ đã giúp con người hưởng nhiều tiện nghi. Kỹ thuật tân tiến với nhiều máy móc đáp ứng những đòi hỏi của con người. Ngày xưa người ta phải dùng đến sức lực thì ngày nay chỉ cần ngồi một chỗ nhấn nút là có thể mở TV, mở quạt trần, điện... Khỏi nói đến những tiện lợi của máy điện toán, hay việc bấm nút là máy xe nổ trước khi vào xe.
Mỗi ngày có nhiều cặp vợ chồng thuộc các tôn giáo kết hôn qua "cửa sổ" (drive thru window) tại Las Vegas mà không cần phải tới nhà thờ. Có người đề nghị xưng tội bằng điện thoại cho tiện vì làm như vậy dễ dàng hơn cho hối nhân. Hoặc xem lễ trên TV cũng được chứ cần gì phải đến nhà thờ. Nếu vậy thì có ai muốn ăn một bữa tiệc thịnh soạn qua màn ảnh TV không?
Những phương tiện này giúp ích rất nhiều cho cuộc sống hàng ngày. Nhưng cái gì cũng có hai mặt tốt-xấu. Cái mặt xấu của những tiện nghi hiện đại là làm cho con người không còn hoạt động nhiều như trước nữa, lâu ngày trở nên lười biếng, đầu óc thiếu suy nghĩ, giảm óc sáng kiến, thích hưởng thụ nhiều hơn, giảm thiểu tính kiên nhẫn. Cũng chính vì chỉ cần nhấn nút là có cái mình muốn nên chúng ta cũng nghĩ rằng cứ "nhấn nút" cầu xin là Chúa sẽ cho ngay.
Phúc Âm hôm nay nói về chuyện bà góa đã kêu nài ông quan tòa độc ác với sự kiên trì nên đã thành công. Phải chăng vì chúng ta đang bị máy móc hóa, nên chúng ta không còn kiên nhẫn trong việc cầu nguyện nữa chăng? Để cầu nguyện với lòng chân thành, lời cầu nguyện phải phát xuất tự đáy lòng chứ không chỉ ngoài môi miệng cho qua. Cầu nguyện phải kiên nhẫn, cầu nguyện không phải chỉ một lần, nhưng phải liên tục, vì càng cầu nguyện càng nhận ra sự yếu đuối và tội lỗi của mình nên càng cần đến lòng thương xót của Chúa. Cầu nguyện phải tha thiết, phải là lời cầu của người con thảo đối với cha. Cầu nguyện với lòng khiêm nhường là nhận ra sự yếu hèn của mình, vì nếu không có Chúa thì ta không làm được gì.
Nhưng trong cuộc sống chạy đua với cái đồng hồ có nhiều người sẽ nói: "Tôi không có giờ". Phải, chúng ta không có giờ, vì không ai trong chúng ta có thể làm cho ngày dài hơn hay ngắn đi được 1 phút. Giờ là của Chúa, Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày 24 giờ. Vậy chúng ta đã dùng thời giờ như thế nào? Mỗi ngày chúng ta đã dành bao nhiêu giờ cho Chúa? Nếu nói là không có giờ cho Chúa thì bao nhiêu tiếng đồng hồ mỗi ngày chúng ta làm gì? Những việc chúng ta làm đó có ích lợi cho linh hồn hay cho thân xác?
Cái gì quan trọng trong cuộc đời ta? Quyền lựa chọn là của mỗi người. Nếu cuộc sống này không phải là để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau thì chúng ta sống để làm gì? Xin Chúa cho chúng ta biết kết hợp với Chúa trong mọi công việc hàng ngày. Đó là đời sống cầu nguyện mà Chúa muốn chúng ta làm.
Lời Chúa phán trong bài Tin Mừng hôm nay: "Không biết khi Con Người đến có còn thấy Đức: TN 29-C81
Lời Chúa phán trong bài Tin Mừng hôm nay: "Không biết khi Con Người đến có còn thấy Đức Tin trên trần gian nữa không"(Lc 18:8). Lời đó khiến chúng ta phải suy tư và nghiệm xét, để tìm ra thánh ý Chúa muốn chúng ta điều gì, hầu chúng ta có thể đáp lại khát vọng của Chúa.
I. THỰC TRẠNG CỦA THẾ GIỚI HÔM NAY
Với ánh mắt tự nhiên: Thoáng nhìn thế giới và xã hội hôm nay, chúng ta thấy, có lẽ ngày Chúa tái giáng lâm hãy còn xa. Bởi theo lời Chúa phán: "Khi Chúa đến không biết có còn thấy Đức Tin trên trần gian nữa không?" Vì, đó đây biểu hiệu của Đức Tin vẫn còn hiển hiện, trong các nước thuộc thế giới tự do, được coi là vùng đất hữu thần và nhất là tại xứ sở chúng ta đang sống, các Thánh Đường san sát bên nhau, đua nhau mọc lên như nấm: Lớn nhỏ, cổ kim đều có. Nhiều Thánh Đường thật nguy nga, danh tiếng, lộng lẫy, đồ sộ, hấp dẫn, tân kỳ, thu hút các du khách thập phương tuốn đến như thác lũ, tạo nên các cuộc hành hương vĩ đại, tấp nập, các cuộc biểu dương Đức Tin tôn giáo thật trang nghiêm sốt sắng, chẳng hạn như tại Đại Vương Cung Thánh Đường Thánh Pherô Roma, Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Washington D.C., trung tâm Thánh Mẫu Lộ Đức, Fatima, La Vang... Rồi còn phải được kể đến các cuộc hội thảo thuyết trình, các khóa tĩnh huấn, các cuộc cung nghinh, các khóa giáo lý, các trường dạy Thánh Kinh... Phải chăng tất cả các sự kiện đó cho thấy Đức Tin vẫn còn tồn tại, và có thể nói, là đang trên đà phát triển nữa là khác. Ngay trong các nước vô thần, như Nga Sô, Trung Cộng và các nước đàn em chư hầu, Đức Tin dường như đã tắt ngúm từ lâu; thế mà, mỗi khi nhà cầm quyền muốn thử nghiệm ban sắc lệnh cho tự do tôn giáo, thì lập tức các Thánh Đường lại đua nhau được xây cất, các cuộc biểu dương Đức Tin lại phát hiện rầm rộ. Thế nhưng, tất cả những sự kiện đó có đáng cho phép chúng ta lạc quan không hay ngược lại?
Dưới lăng kính siêu nhiên: Những sự kiện trên đây có phải là tiếng nói trung thực của Đức Tin nơi lòng con người thời đại hôm nay, hay chỉ là nước sơn bóng bảy với vẻ hào nhoáng bên ngoài, những làn ánh sáng lập loè nay còn mai vụt tắt? Điều quan trọng là người ta có còn sống theo Đức Tin nữa không? Nếp sống con người có phù hợp với lương tri, với lẽ phải, với chân lý, với giáo huấn của Chúa và Giáo Hội không? Nếu những nguồn mặc khải tại Fatima, Hoa Kỳ, Việt Nam, Pháp, Đức, Ý kia là thật thì có lẽ ngày Chúa tái giáng lâm đã gần kề. Chúng ta chỉ cần đan cử một vài điều trong thông điệp Đức Mẹ ban tại La Salette sau đây đủ khiến chúng ta phải suy nghĩ: "Các Chính Phủ sẽ theo cùng một kế hoạch chung là đả phá và tiêu diệt mọi nguyên tắc tôn giáo, để thay vào đấy chủ thuyết duy vật, thuyết chiêu hồn và mọi thứ tệ đoan". Ngay cả nơi những tâm hồn được mệnh danh là Bạn Thân, là người đã thánh hiến cho Thiên Chúa cũng bị thông điệp than trách: "Tội lỗi của những Tâm Hồn Thánh Hiến cho Thiên Chúa vọng tới tận trời cao và đòi báo oán". Những Nơi Thánh được gọi là Nhà Thiên Chúa lại bị thông điệp nguyền rủa: "Nhiều Tu Viện không còn là Nhà Của Thiên Chúa nữa, nhưng là bãi mục trường". Thông điệp còn thêm: "Nhiều Tu Viện sẽ mất Đức Tin và nhiều linh hồn ở đấy hư đi!"
Thông điệp La Salette còn tiên báo: "Khắp nơi sẽ có những sự lạ lùng phi thường, vì Đức Tin chân thật đã tắt và ánh sáng giả tạo soi trên thế giới". Thông điệp còn vọng lên lời thống thiết não nùng: "Hỡi trái đất, hãy run sợ!...Vì những Nơi Thánh đã ra đồi bại!"
Thông điệp không nói: "Hỡi trái đất, hãy run sợ! Vì trái đất đã ra đồi bại". Nhưng thông điệp nói: "Trái đất hãy run sợ! Vì những Nơi Thánh đã ra đồi bại!"
II. HÃY TRUNG THÀNH VỚI ĐỨC TIN
Với mấy lời của thông điệp La Salette trên đây đủ cho chúng ta thấy vận mạng thế giới hệ tại các Linh Hồn Tận Hiến. Thế giới phải tiêu diệt cũng do tại các Bạn Thân của Chúa Kitô. Thế giới có được cứu thoát lại cũng do các Linh Hồn Thánh Hiến. Không cần nại đến những lời mạc khải đó, chúng ta cũng quá đủ lý do để thấy được thực trạng của thế giới hiện nay, ít ra cũng không có lý do đủ để lạc quan. Bởi lẽ, những tệ đoan đang lan tràn khắp thế giới như: Nạn ly dị, phá thai, hôn nhân bất hợp pháp, đồng tính luyến ái... Nhiều lý thuyết sai lạc thay thế những nguyên tắc đạo đức, nhiều nhà cầm quyền các quốc gia đã dùng quyền bính mình để công bố những sắc luật vô luân, chẳng hạn sắc luật cho phép và khuyến khích phá thai hoặc truyền buộc phải phá thai, cho phép ly dị; họ còn đài thọ những phí khoản khổng lồ trong ngân quỹ quốc gia vào các việc vô luân này.
Vậy, để khỏi ngã quỵ xuống hố trụy lạc của thời hiện đại, ít ra khỏi nhiễm lây những thác loạn đang diễn ra khắp đó đây; chúng ta là những Tông Đồ có sứ mạng truyền bá chân lý, hướng dẫn các linh hồn, phòng ngừa cho họ khỏi nhiễm lây những tệ đoan xã hội, những đồi phong bại tục thời đại, chúng ta hãy lắng nghe và thực hiện lời nhắn nhủ của Thánh Tông Đồ: "Con thân yêu, con hãy bền tâm, hãy trung thành với các điều con đã học hỏi và xác tín". Nhất là hãy trung tín thực thi các giáo huấn Chúa Kitô dạy, vì như lời Người đã đoan hứa: "Ai trung tín đến cũng sẽ được cứu rỗi". Lòng trung tín đó không chỉ ở việc nắm giữ những chân lý cao cả, mà còn hệ tại việc cẩn thủ tuân giữ và thực hành những nghĩa vụ tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày như lời Chúa đã căn dặn: "Ai trung tín trong những điều nhỏ mọn, cũng sẽ tín trung trong những điều lớn lao, ai khinh thường những điều nhỏ mọn cũng sẽ khinh thường trong những điều lớn lao".
Người trung thành không những được Chúa yêu thương, ban thưởng phúc trường sinh bất diệt, mà còn được loài người khâm phục, quí mến và ca ngợi. Mẩu truyện sau đây cũng đủ nói lên điều đó:
Ngày 3.8.1974, anh Lê Tấn Bằng, 25 tuổi, con ông Lê Tấn Hanh, một chủ điền giầu có tại quận An Nhân đã qua đời cách đó 20 năm. Hôm nay là lễ thành hôn của anh Lê Tấn Bằng và cô Trần Thị Phượng, 19 tuổi, trưởng nữ của một ông tài xế vùng Qui Nhơn. Lúc hai họ đương chúc mừng lẫn nhau trong tiệc cưới, thì bỗng nhiên một ông già từ ngoài sân tiến vào, tên ông là Nguyễn Văn Như, nguyên trước đây là tá điền của ông Lê Tấn Hanh.
Ông Như xin gặp và trao cho chàng rể Lê Tấn Bằng một gói quà và nói: "Đây món quà của cậu". Rồi ông trình bày câu truyện như sau: "Cách đây 20 năm lúc ba cậu sắp qua đời, ông đã trao cho tôi 20 lượng vàng này và dặn tôi cất kỹ, đợi cho tới khi nào cháu Hằng lập gia đình, hãy trao lại cho cháu để tạo lập cơ nghiệp. Hôm nay, tôi đã được toại nguyện và làm trọn lời di chúc của ba cậu".
Chúng ta được biết suốt 20 năm nay từ khi ông thân sinh của Hằng qua đời, vì Hằng mồ côi mẹ từ nhỏ, nên đã được trao cho ông chú ruột tên là Phi 63 tuổi nuôi nấng dạy dỗ, khi tới tuổi khôn, Hằng được đi học và đã tốt nghịệp bậc trung học. Vì ông Phi cũng không khá giả gì, nên cuộc sống của Hằng cũng chật vật; hằng ngày cậu phải đi kèm trẻ học tại tư gia, để kiếm tiền độ thân và có phương tiện học thêm.
Mặc dầu biết Hằng hiện tại rất nghèo, nhưng ông Như vốn không vội trao số vàng trên đây cho cậu, vì ông phải trung thành giữ đúng lời trăn trối của người quá cố, ông chỉ trao số vàng khi Hằng đã lập gia đình. Do đó, hôm nay ngày vui mừng của Hằng, ông Như mới tìm tới và trao đúng số 20 lượng vàng mà thân phụ anh Hằng đã trối cho ông lúc trước giờ lâm chung.
Khi nghe xong đầu đuôi câu truyện, ai nấy đều xúc động đến rơi lệ, trước tấm lòng trung tín và thanh liêm cao cả tuyệt vời của ông tá điền Nguyễn Văn Như. Riêng chú rể Lê Tấn Hằng và cô dâu Trần Thị Phượng vì quá cảm phục tấm lòng cao cả đó, nên đã đồng ý với nhau, xin nhận ông làm dưỡng phụ và nguyện sẽ nuôi ông suốt đời, vì hiện nay ông Như chỉ còn sống một mình trong cảnh nghèo nàn, không vợ không con.
Câu truyện trên đây đã là một đề tài sôi động, được dân chúng khen ngợi nhiệt liệt tại miền nam tỉnh Bình Định và châu thành Qui Nhơn hồi đó.
Kết Luận
Hôm nay, nhân dịp mừng Khánh Nhật Truyền Giáo, xin Chúa cho chúng ta được lòng trung thành với ơn gọi của mình, trung thành với ơn thánh Chúa ban, trung thành với sứ mạng Chúa đã ủy thác cho mỗi người chúng ta. Vì nhờ chính lòng trung thành đó sẽ có mãnh lực vô song giúp chúng ta đạt tới Đích Thánh Thiện của ơn gọi và chu toàn sứ mạng Chúa ủy thác. Xưa các Tông Đồ đã dùng phép lạ để minh chứng Đạo Chúa, nhưng chính đời sống thánh thiện của các ngài còn có sức chinh phục hơn muôn phần.
Lòng trung tín với Đức Tin và Ơn Gọi, là một phép lạ lớn lao hơn tất cả các phép lạ, có sức chinh phục các linh hồn về cho Chúa hơn hết. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta là những tông đồ của Mẹ và là con cái yêu dấu của Mẹ, biết noi theo gương mẫu lòng trung tín của Mẹ, để khi Chúa tái giáng lâm còn thấy Đức Tin sống động nơi chúng ta và trên mặt đất này như lòng Chúa mong ước.
Trong cuộc đời, khi những gian lao khốn khó xảy đến, chúng ta chạy đến Thiên Chúa để cầu TN 29-C82
Trong cuộc đời, khi những gian lao khốn khó xảy đến, chúng ta chạy đến Thiên Chúa để cầu xin Ngài cứu giúp; các người khác thì cũng vậy, chạy đến Trời, đến Phật hay một vị thần linh nào đó để cầu xin.
Nhiều người đã được ơn thoát khỏi hiểm nguy khốn khó. Tuy nhiên nhiều người khác lại thấy mình chẳng được ơn ích gì cả. Họ cũng kiên trì cầu nguyện, họ cũng đã cầu xin lâu bền mà vẫn chẳng thấy được ơn. Những điều họ xin nhiều khi rất là chính đáng nhưng đã không được đáp trả. Họ xin cho khỏi bị bóc lột áp bức, bất công; xin cho được cơm bánh, khỏi nghèo đói nhưng vẫn không thấy được.
Sáng ngày 16/10 vừa qua (2019), Ngày Lương thực Thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gởi một bức thư đến Liên Hiệp Quốc. Có những đoạn ngài viết:
“Ngày Lương thực Thế giới vang vọng hàng năm với tiếng khóc của rất nhiều anh em chúng ta, những người tiếp tục chịu những bi kịch về đói kém và suy dinh dưỡng.”
“Thật tàn nhẫn, không công bằng và nghịch lý ... trong khi có những khu vực trên thế giới thực phẩm bị lãng phí, vứt đi, tiêu thụ quá mức hoặc dùng vào các mục đích khác”.
Chúng ta hãy thử suy nghĩ xem: Phải chăng những người bị nghèo đói đó đã không cầu nguyện? Sao Chúa không trả lại công bằng cho họ, cứ để mà Điều Đức Giáo Hoàng nói là: Thật tàn nhẫn, không công bằng và nghịch lý...?
Phải chăng những người nghèo đói, những người bị áp bức bất công đó, đã không kiên trì cầu nguyện, hay là họ không có đủ đức tin?
Chắc chắn là không. Có thể họ đã cầu nguyện ngày này qua ngày khác với lòng tin, nhưng họ vẫn không được nhận lời!
Quả thật là khó hiểu, vì có cái gì đó không ăn khớp với nhau giữa dụ ngôn và thực tế! Những khó hiểu này, đòi chúng chúng ta phải tìm hiểu kỹ hơn về dụ ngôn Chúa Giêsu đã dạy.
Có một số chi tiết trong dụ ngôn khiến chúng ta phải để ý. Bà góa đã xin điều gì? Bà đã không xin một ân huệ, không xin có cơm bánh hằng ngày, không xin được lành bệnh, như kẻ mù xin được thấy, kẻ điếc xin được nghe, người câm xin nói được... mà bà chỉ xin được vị quan tòa “minh xét” vì bà đang bị đối phương hãm hại.
Bà này là một bà góa, một người bé nhỏ trong xã hội, một kẻ thấp cổ bé họng. Bà chỉ xin được xét xử công bằng trước những bất công của cuộc đời, vì bà đang bị đè bẹp trước những áp bức bất công.
Rồi chúng ta hãy nhìn về ông quan tòa. Chúa Giêsu gọi ông là vị quan tòa “bất chính”. Ông cũng kiêu hãnh, tự coi mình là người chẳng kính sợ Thiên Chúa và chẳng coi ai ra gì. Thế mà cuối cùng lại chịu xét xử cho bà góa. Ông đã làm một điều mà ông không muốn làm, chỉ vì bà ta cứ quấy rầy, làm ông nhức đầu nhức óc. Ông nghĩ rằng xử đi cho xong chuyện.
Chắc chắn rằng, Chúa Giêsu không có ý mô tả Thiên Chúa giống như ông quan tòa, nhưng ngài muốn nhấn mạnh đến sự kiên trì cầu nguyện và khẳng định Thiên Chúa sẽ “minh xét” cho những kẻ Ngài đã “tuyển chọn”, ngày đêm hằng kêu cứu đến Ngài. Một người bất chính xấu xa như ông quan tòa kia mà còn chịu nghe lời van xin, huống chi là Thiên Chúa lại không nghe lời kêu xin của những người Ngài đã tuyển chọn.
Tìm hiểu dụ ngôn tới đây, ta vẫn thấy khó hiểu cho những trường hợp người ta đã kêu xin mà vẫn không thấy nhận lời. Kẻ nghèo đói vẫn cứ nghèo đói, kẻ bị áp bức vẫn cứ bị áp bức. Cường hào ác bá sao vẫn cứ sống phây phây...! Không thấy Chúa minh xét đâu cả!
Một đàng Ngài nói sẽ minh xét cho chúng ta, đàng khác thì chúng ta lại không thấy được minh xét. Sự trai trái như vậy, có thể làm cho chúng ta không tin vào Chúa nữa. Vì vậy, không lạ gì, ngay sau dụ ngôn Chúa Giêsu nói thêm: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng”?
Và ở câu trước đó, Chúa Giêsu nói: “Lẽ nào Ngài bắt họ chờ đợi mãi?”. Những chữ Chúa Giêsu nói ở cuối dụ ngôn: “kẻ Người đã tuyển chọn”, “chờ đợi”, “Con Người ngự đến” cho chúng ta thấy dụ ngôn này được đặt vào bối cảnh của ngày cánh chung, của ngày tận thế, ngày mà thế gian sẽ qua đi và Nước Thiên Chúa sẽ đến. Đây chính là điều chúng ta phải chú ý đến để hiểu toàn bộ dụ ngôn.
Trước ngày cánh chung, hay tận thế, các tín hữu, những người được Thiên Chúa “tuyển chọn”, sẽ phải chịu những bất công, những bách hại. Những điều này không chỉ xảy ra vào thời các Tông đồ mà còn vào mọi thời, mọi nơi. Các Kitô hữu cần phải kiên trì cầu nguyện trước những gian nan thử thách, khi bị bách hại, khi bị đối xử bất công. Các Kitô hữu phải tin tưởng chắc chắc rằng Thiên Chúa sẽ minh xét cho họ. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại không minh xét cho chúng ta ngay ở đời này, nếu có thì cũng ít khi, vì những sự ở đời này cũng sẽ qua đi, nhưng Ngài sẽ minh xét cho chúng ta ở đời sau, một đời sống hạnh phúc vĩnh cữu, tồn tại mãi mãi.
Chính Đức Giêsu, một con người, con của Bà Maria và Ông Giuse, cũng là người được Thiên Chúa “tuyển chọn”, đã bị bách hại, bị kết án bất công, chịu chết, chết nhục nhã trần truồng trên thập giá. Chắc Đức Giêsu cũng đã cầu xin tha thiết với Thiên Chúa là hãy minh xét cho Ngài; và Ngài cũng tin tưởng mạnh mẽ rằng Thiên Chúa sẽ nhận lời. Và quả thật, Thiên Chúa đã nhận lời, đã cho Ngài Phục Sinh vinh hiển và đã tôn vinh Ngài.
Mỗi người chúng ta cũng là những kẻ được Thiên Chúa “tuyển chọn”, hãy noi gương Đức Giêsu Kitô, là hãy kiên trì cầu xin và tin tưởng vào sự “minh xét” của Thiên Chúa.
Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian hai năm tại Mongolia: TN 29-C83
Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian hai năm tại Mongolia, khi được nhiều bạn gửi mail khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng.
Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này.
Cuối cùng thì sáng nay, sau Thánh Lễ và chia sẻ của các tập sinh, tôi đã quyết định viết, không phải cho các bạn đâu, mà là cho chính tôi đấy.
Tôi nhớ là năm 2003, sau khi kết thúc nhiệm kỳ Giám Tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có định hướng nào rõ rệt cho tương lai phục vụ của mình. Bề Trên Trung Ương đã rộng phép cho tôi có một năm bồi dưỡng bất kỳ ở đâu…; và tôi đã quyết định xin có một năm để trau dồi tu đức và học hỏi về các tôn giáo thế giới tại Đại Học Berkeley – California ( Hoa Kỳ ). Chính trong thời gian này mà tôi đi tới quyết định xin Bề Trên cho đi truyền giáo Mongolia, nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian thành lập các cơ sở truyền giáo cho anh em Don Bosco Việt Nam.
Ngay trước khi lên đường đi Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học chuyên đề về truyền giáo tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma. Ấy thế mà khi thực sự tới và làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo thứ thiệt như Mongolia, cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ nông cạn và bé nhỏ tôi có được đã đủ để làm đảo lộn ( upside down ) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.
Trước hết tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với từ ‘truyền giáo’ vì thấy nó dễ gây hiểu lầm quá. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công Giáo theo nghĩa ‘proselytism’ thì rõ ràng ta đã hiểu sai ý Đức Kitô rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị phế bỏ kể từ sau Công Đồng Vaticanô II.
‘Truyền giáo’ phải được hiểu là ‘rao giảng Tin Mừng’, là loan báo tin vui cứu độ, là loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa đã được Đức Kitô Giêsu thực hiện trên thập giá. Quan niệm cho rằng ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội, thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một sai lầm to lớn. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện ( xem thư Rôma chương 5 ).
‘Loan báo Tin Mừng’ không làm gì hơn là mở mắt cho người ta nhận biết rằng họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót nhờ sự chết và phục sinh của Đức Kitô Giêsu, và rồi mời gọi họ gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân.
Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất dội đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết… rằng nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại… rằng ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Kitô giáo’… để rồi chỉ những người có đạo nắm giữ cặn kẽ các qui định này mới được vào thiên đường.
Thiết tưởng khi Đức Kitô sai các Tông Đồ đi rao giảng Tin Mừng, Người đâu có ám chỉ điều này. “Anh em hãy đi khắp từ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có ý nghĩa phép rửa sẽ ban Ơn Cứu Độ. Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Samari sống chung chạ sau năm đời chồng.
Khi còn ở Mongolia, cha sở Nhà Thờ Chính Tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Camơrun, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo và được rỗi linh hồn…
Tôi đã không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là cho mọi người nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại. Trường hợp cụ thể của tôi là phân tích cho những sinh viên Mongolia hiểu ra rằng Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ là như thế.
Từ cái kinh nghiệm truyền giáo còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác xa nền ‘luân lý Kitô giáo’, vẫn không hề tách họ khỏi Lịch Sử Cứu Độ mà Thiên Chúa đã chủ động thực hiện nhờ Đức Kitô Giêsu.
Công việc của nhà truyền giáo như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…; đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Kitô Cứu Chúa… đón nhận phép Thánh Tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương để không ngừng cao cao lời cảm tạ.
Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều tối quan trọng là… một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong rao giảng.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút chút vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia.
Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc hàng ngày. Amen. Lm. NGUYỄN VĂN TY,
Dòng Thánh Don Bosco
Sinh ra tại tiểu bang Florida, Diane Trần cho biết thân phụ của cô là người Việt và Mẹ là một phụ: TN 29-C84
Sinh ra tại tiểu bang Florida, Diane Trần cho biết thân phụ của cô là người Việt và Mẹ là một phụ nữ Đại Hàn. Theo đài KHOU TV thì hoàn cảnh của Diane Trần rất đặc biệt, cô vừa đi học, vừa phải đi làm hai công việc để trợ giúp một người anh đang học đại học và một em gái còn nhỏ, vì cha mẹ vừa bất ngờ ly dị, không săn sóc gia đình nữa.
Cô hiện sống với cha tại Willis, một thành phố nhỏ cách Houston khoảng 50 dặm Anh. Cha cô thường phải đi làm xa nhà. Những lúc thân phụ đi làm vắng nhà, Diane ở tại nhà cô bạn thân là Devin Hill và làm việc part time trong cơ sở chuyên lo về đám cưới của bà ngoại Devin, là bà Mary Elliot.
Trong khóa học vừa qua, Diane đã đi học trễ và nghỉ học tổng cộng 18 lần, vượt quá con số tối đa cho phép của luật giáo dục tiểu bang Texas là 10 lần trong vòng 6 tháng. Theo điều luật này thì học sinh đến trường sau 9 giờ sáng thì bị coi như không đến trường ngày hôm đó. Diane đã bị cảnh cáo trước đó, nhưng cô cho biết là vì phải làm hai công việc sau giờ học và bài vở của những lớp đặc biệt, mà cô đang học quá nhiều, khiến cô quá mệt mỏi nên không nghe được tiếng đồng hồ báo thức, nên đến trường muộn.
Câu chuyện của Diane Trần cũng được truyền đi nhanh chóng trên hệ thống Internet toàn cầu đã làm nhiều người bất mãn. Bà Samuel Oh của trang nhà Change.org đã có một thỉnh nguyện thư yêu cầu thẩm phán Lanny Moriarty xóa bỏ bản án cho Diane Trần. Với chỉ vài ngày, thỉnh nguyện thư này đã được cả vài trăm ngàn chữ ký. Và nhóm Children's Education ở tiểu bang Louisiana đã tự đứng ra quyên tiền để giúp Diane Trần. Chỉ trong vòng vài ngày, nhóm này đã gây quĩ được trên 100 ngàn Mỹ kim từ những người trên khắp nước Mỹ cũng như trên 18 quốc gia khác.
Có lẽ với sự ủng hộ Diane Trần nồng nhiệt từ khắp nơi và sự can thiệp của luật sư Brian Wice nên vào trưa ngày thứ tư, 30.5.2012, thẩm phán Lanny Moriarty đã xóa bỏ bản án cho Diane Trần ( theo Hiền Vy, RFA ).
Câu chuyện trên phản ảnh tấm lòng nhân ái của nhiều người trước bản án nghiệt ngã của quan tòa Lanny Moriarty dành cho Diane Trần. Một cái kết có hậu như kết cuộc bài dụ ngôn “Quan Tòa Bất Công” của Đức Giêsu trong trích thuật Tin Mừng theo Thánh Luca Chúa Nhật 29 hôm nay. Với thái độ ân cần bênh vực, cứu giúp và che chở, Thiên Chúa luôn xót thương con người cầu nguyện cùng Ngài.
Tin yêu
Lời cầu nguyện kiên trì và phó thác dĩ nhiên không thể thiếu tâm tình tin yêu. Thiên Chúa không chỉ là Đấng Phán Xét, mà đúng hơn, là Người Cha Nhân Từ, như trong dụ ngôn đứa con hoang đàng ( Lc 15, 1 – 3.11 – 33 ). Trước tội nhân, Ngài mong đợi sự hoán cải, sám hối, vì Ngài là "Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” ( Tv 102, 8 ).
Khoan dung với người đàn bà tội lỗi bị bắt quả tang, đoái thương và gần gũi người thu thuế biết cải tà quy chính, thứ tha bao tội lỗi chất chồng của người gian phi chịu đóng đinh, biết ăn năn sám hối, Đức Giêsu ban Ơn Cứu Độ đến với mọi người, không giới hạn, không phân biệt cũng không thành kiến, hay cố chấp.
Do vậy, Ngài chính là cứu cánh và cùng đích của con người. Nếu không đặt hết niềm tin, niềm trông cậy và phó thác vào Ngài, thì còn biết bám víu và nương tựa nơi nào ? Đáng tiếc, đến nay, tôi cứ vẫn cứng lòng, vẫn còn chạy theo thói đời, vẫn nhẹ dạ nghe theo ông thầy này bà nọ, mỗi khi làm việc gì, tổ chức chuyện gì, để biết ngày giờ tốt xấu. Tôi đâu biết Thiên Chúa âm thầm dẫn tôi an toàn trên đường đời, đầy chông gai, cạm bẫy.
Nhưng niềm tin hàng ngày tôi tuyên xưng trên môi miệng, dần dà thấm sâu vào cõi lòng sùng kính Thánh Danh Ngài. Qua bao thử thách, bao khốn khó xảy đến, tôi mới phần nào cảm nhận được Thiên Chúa Quan Phòng luôn hiện diện giải thoát tôi.
Lời nguyện thiếu tấm lòng thành kính chẳng khác chi một bài ca vô hồn, một bài kệ lấp đầy khoảng trống tâm hồn giá lạnh. Chẳng khác chi ca sĩ khéo léo, nhuần nhuyễn kỹ thuật thanh nhạc, biết luyến láy theo tiết tấu, biết phô diễn trình độ thẩm âm điêu luyện, nhưng vô cảm với lời nhạc, xa lạ với nội dung câu ca chuyển tải.
Do vậy, cầu nguyện đúng mực là kết hợp hài hòa giữa tiếng ngợi khen, tán tụng và lòng cảm tạ sâu sắc Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa. Cầu nguyện là xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa. Cầu nguyện là tin yêu tuyệt đối vào Tình Yêu hải hà.
Trung tín
Hoàn toàn trung tín vào Chúa, hoàn toàn phó thác vào Chúa Quan Phòng, lời cầu nguyện còn khẳng định tâm hồn khiêm nhu, khả ái, để xứng đáng lãnh nhân hồng ân và ơn Cứu Độ.
Đừng để Đức Giêsu phải lập lại thêm lời Ngôn Sứ Isaia than phiền: “Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” ( Mt 15, 8 ). Mọi gian dối, điêu ngoa, xảo ngôn thảy đều trở nên vô ích trước mặt Người. Chẳng thể lấy vải thưa che mắt thánh. Do vậy, điều kiện đương nhiên ắt có và và đủ của cầu nguyện là sự chân thành, tín thác và kiên trung vững bền.
Đừng nhập nhằng hư thiệt, kẻo Người bỏ rơi, không đoái thương đến nữa. “Nóng thì nóng cho hẳn, lạnh thì lạnh cho rồi. Không lạnh không nóng, dở dở ương ương, Ta sẽ mửa ngươi ra !” ( Kh 3,15b – 16 ).
Thánh Phaolô còn hết tình xác tín và giảng dạy: “Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình” ( 2Tm 2, 12 – 13 ).
Hy vọng
Cầu nguyện là sự hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa, dâng lên Ngài tất cả nỗi thống khổ, niềm vui mừng, nỗi hoan lạc, lẫn sự thất bại cũng như thành công, để hy vọng, cầu mong Ngài thánh hóa và cầu chúc cho được bình an và hạnh phúc.
“Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm họ để hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài” ( Đường Hy Vọng, số 964 ).
“Con tin lời cầu nguyện toàn năng không ? Hãy suy Lời Chúa: “Thầy nói thật với các con. Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ, cửa sẽ mở !” Có công ty bảo hiểm nào bảo đảm cho chắc chắn hơn lời ấy không ?” ( Đường Hy Vọng, số 121 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhớ mình nhỏ bé, tội lỗi, bất xứng, biết khiêm tốn và kiên trì như bà góa trong dụ ngôn hôm nay, để lời cầu nguyện chúng con được Chúa đoái thương đón nhận.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con luôn biết sống mật thiết với Chúa từng phút giây, qua những lời cầu nguyện chân thành và sốt mến, để được Chúa xót thương cứu giúp luôn mãi. Amen.
Bất kể một tôn giáo nào, cầu nguyện là yếu tố sống còn của mình. Cầu nguyện được ví như hơi: TN 29-C85
Bất kể một tôn giáo nào, cầu nguyện là yếu tố sống còn của mình. Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công Giáo, chính là thể hiện niềm tin, phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu một lần nữa nhắc lại cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc cầu nguyện, đồng thời Ngài dạy mỗi chúng ta hãy kiên trì, trung thành khi cầu nguyện qua dụ ngôn vị thẩm phán bất lương và bà góa nghèo.
Sự cần thiết của lời cầu nguyện
Nếu cá cần nước để sống; cây cối cần ánh sáng mặt trời để quang hợp và sinh trưởng, thì cầu nguyện cũng cần cho đời sống của người Kitô hữu như vậy. Cầu nguyện chính là nâng tâm hồn lên với Thiên Chúa để xin Ngài ban ơn, nâng đỡ. Cầu nguyện còn nói lên một sự thật là ta thuộc về Chúa; Chúa thuộc về ta. Tuy nhiên, vẫn là khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài luôn thúc đẩy tâm hồn chúng ta khao khát Ngài: “như nai rừng mong mỏi, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa”. Hay nói như Thánh Âu Tinh: “Lạy Chúa, tâm hồn con vẫn bồn chồn xao xuyến mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa”.
Khi nói đến sự cần thiết của cầu nguyện, Đức Giêsu cũng đã nhiều lần khuyên các môn đệ của mình hãy cầu nguyện và, chính Ngài cũng luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi làm bất cứ việc gì. Thật vậy, Ngài cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên triền núi; ngoài bãi biển. Đặc biệt, nơi các giáo huấn của Ngài, chúng ta thấy toát lên tâm tình cầu nguyện. Khi dạy các Tông Đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” ( Lc 18, 1 ). “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” ( Mc 14, 38 ). Rồi khi dạy các ông về sự tín thác, Ngài nói: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” ( Ga 15, 5 ). Qua câu nói này, Đức Giêsu cho chúng ta thấy sức mạnh vô song của lời cầu nguyện, cũng như quyền năng của Thiên Chúa trên mọi sự.
Như vậy, cầu nguyện là điều quan trọng. Không cầu nguyện, ta đánh mất điều căn bản để làm nên đời sống tinh thần. Tuy nhiên, khi cầu nguyện, Đức Giêsu dạy phải có sự kiên trì và trung thành.
Kiên trì trong cầu nguyện
Nói về sự kiên trì trong cầu nguyện, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn bà góa và vị thẩm phán:
Bà góa mà Đức Giêsu nói đến hôm nay chính là một trong những thành phần bị xã hội khinh khi, bỏ rơi; là thành phần thấp cổ bé họng trong xã hội, không có tiếng nói và ít được ai quan tâm. Sở dĩ có sự kỳ thị này là do thói quen, văn hóa và truyền thống của một số nước niềm Cận Đông thời bấy giờ. Thành phần bà góa là một trong ba thành phần không cần quan tâm ( quả phụ, cô nhi và di dân ). Họ cũng không có quyền đòi xã hội phải công bằng với mình. Chính vì thế, việc ông thẩm phán dửng dưng và không thèm quan tâm tới bà là lẽ đương nhiên, không có gì lạ. Ý thức được điều đó, nên bà đã trai lỳ và hoàn toàn phó thác trong tay vị thẩm phán bất công.
Nói lên tính kiên trì của bà góa này, tưởng cũng nên nhắc lại khuôn mặt của vị thẩm phán trong dụ ngôn hôm nay để thấy được lòng kiên định, trung thành của người đàn bà này.
Vị thẩm phán chính là một người bất lương, tham nhũng, bóc lột. Cuộc đời của ông là tiền và tiền chứ không có ân nghĩa gì hết. Vì thế, ông ta “không có kiêng nể ai” và, cũng “chẳng coi Thiên Chúa ra gì”. Cán cân công lý của ông chính là tiền. Tuy nhiên, ông đã chịu thua bà góa nghèo. Bà này có một thứ vũ khí thần kỳ, khiến vị thẩm phán cứng lòng, vô cảm đến đâu cũng phải khuất phục, đó là: kiên trì để ngồi lỳ, kỳ nèo, năn nỉ. Quả thật, ông thẩm phán này không thể chịu nổi sự phiền hà của bà góa. Cuối cùng, ông ta đã phải mở phiên tòa để minh oan cho bà. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự kiên trì của bà góa. Và đi xa hơn một bước nữa, Đức Giêsu muốn nói về lòng nhân từ của Thiên Chúa qua hình ảnh vị quan tòa.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa
Nếu người thẩm phán trong bài Tin Mừng hôm nay rất bất lương và bất nhân như thế, mà ông ta còn phải chịu khuất phục trước nỗi thống khổ của bà góa, thì Thiên Chúa là Đấng nhân lành, từ bi, chậm giận và hay thương xót… lại không thương con cái khi chúng chạy đến với mình hay sao ? Chính Đức Giêsu đã mạc khải cho thấy tình thương của Thiên Chúa khi nói: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cửa cho” ( Mt 11, 9 ).
Tuy nhiên, lời cầu nguyện của chúng ta có khi đẹp lòng Chúa và ích lợi cho phần hồn thì Chúa sẽ ban cho ngay, nhưng đôi khi chúng ta chỉ biết xin mà không biết điều đó có lợi hay có hại, những lúc như thế, Chúa sẽ trì hoãn hoặc ban những ơn khác tốt đẹp hơn cho chúng ta. Vì vậy, hãy tin tưởng, kiên trì và phó thác nơi Thiên Chúa. Hãy trở thành tác phẩm trong bàn tay tuyệt diệu của Thiên Chúa. Vậy, nếu chúng ta đã được Chúa yêu thương, thì chúng ta cũng phải loan truyền về một vị Thiên Chúa giàu tình thương và muốn cho con người được hạnh phúc đến với hết mọi người, mọi nơi...
Truyền giáo bằng cầu nguyện
Hôm nay là Khánh Nhật Truyền Giáo, ngày cả Giáo Hội cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, đồng thời cũng là dịp để mỗi chúng ta ý thức vai trò loan báo Tin Mừng của mình.
Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội không truyền giáo thì Giáo Hội đánh mất bản chất của mình, và như thế đặc tính của chúng ta mất. Tuy nhiên, truyền giáo có nhiều cách, một trong những cách truyền giáo hữu hiệu nhất chính là cầu nguyện.
Đức Giêsu khi xưa cũng vậy, Ngài khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện. Ngài cầu nguyện để: nhằm tìm kiếm, đón nhận và thi hành thánh ý của Chúa Cha ( x. Mt 4, 1 – 11 ). Sau khi loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu cũng cầu nguyện: “Giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện” ( Mt 14, 23 ); “Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện” ( Mt 26, 36 ); “sau khi từ biệt các ông, Ngài lên núi cầu nguyện” ( Mc 6, 46 ); “Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện” ( Lc 5, 16 )...
Tại sao khi truyền giáo phải cầu nguyện ? Thưa vì chúng ta xác định rất rõ: công trình cứu độ là của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là người cộng tác vào công trình ấy mà thôi. Thật vậy: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công…” Chính Thiên Chúa mới làm cho công cuộc truyền giáo sinh hoa kết quả ( x. 1Cr 3, 6 – 7 ). Thánh Phaolô cũng nói: “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin, và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” ( Pl 4, 6 ).
Khi cầu nguyện, chúng ta biết được tính cấp thiết của sứ vụ. Biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Sẵn sàng hy sinh, trung thành vì Nước Trời và phần rỗi của các linh hồn.
Nếu không có đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ là những người thợ dại khờ trong cánh đồng của sự chết. Cầu nguyện để xin Chúa biến đổi chính chúng ta, làm cho chúng ta trở nên xứng đáng để trở thành sứ giả của Chúa, những người thợ gặt lành nghề như Chúa muốn trong cánh đồng truyền giáo của Ngài, trở nên những người gieo vãi hạt giống Tin Mừng yêu thương giữa một thế giới đang dần dần muốn xa rời Thiên Chúa, đến với những con người chưa có cơ hội biết Ngài, những con người lầm lạc trong thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu mến đời sống cầu nguyện, bởi vì có cầu nguyện, chúng con mới biết Chúa là Đấng yêu thương. Xin cũng cho chúng con biết kiên trì, trung thành trong khi cầu nguyện. Xin Chúa ban cho cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội có được nhiều thợ gặt lành nghề, để ra đi thu lúa về cho Chúa. Amen.
Có biết bao nhiêu lời cầu xin diễn ra hằng ngày trong đời sống. Mỗi lời xin đều mang một nội: TN 29-C86
Có biết bao nhiêu lời cầu xin diễn ra hằng ngày trong đời sống. Mỗi lời xin đều mang một nội dung nhất định. Bất kể là lời cầu xin tiêu cực hay tích cực, nhưng đã biết cất lời nài xin là đồng nghĩa với việc chân nhận bản thân bất toàn của mình. Vì còn thiếu nên tôi mới xin, còn khiếm khuyết, còn sơ suất… mới cần xin sự bù đắp, bỏ qua.
Không phải lời cầu xin nào cũng được chấp nhận và đáp ứng. Đơn giản vì nhân loại bất toàn như nhau, lấy đâu ra sự thiện toàn bù đắp phần thiếu sót ? Đó là chưa kể đến việc con người ta bỏ qua, bưng tai bịt mắt trước những lời xin thống thiết của đồng loại, nói gì đến việc tìm được công lý giữa thời đại tranh tối tranh sáng, trắng đen trà trộn này.
Có thể khẳng định, trần gian không bao giờ có công lý hoặc có chăng chỉ là dừng ở mức độ tương đối. Chỉ Thiên Chúa mới là Sự Thiện và là Chân Lý tuyệt đối. Thế giới đã bị tục hóa, khi đồng tiền ngày càng bành trướng thế lực của nó. Nơi nào tiền bạc được đặt lên vị trí ưu việt, nơi ấy càng không có sự tồn tại những lời cầu xin của kẻ nghèo hèn, thấp cổ bé miệng. Dường như vương quốc của người nghèo với những lời cầu xin chân thành, thống thiết của họ chỉ có nơi Thiên Quốc. Xã hội ngày càng bị tục hóa, người nghèo có khóc vậy hay khóc nhiều hơn nữa thì cũng thế thôi, chẳng thay đổi được gì khi không có bạc tiền để xoay chuyển vận mạng.
Thế giới có thể quên, nhân loại có thể vờ không biết nhưng Thiên Chúa thì hoàn toàn không phải vậy. Ngài thấu hiểu tận đáy tâm hồn mỗi người. Ngài biết hết mọi sự, Ngài cũng không hề bỏ qua bất kể lời cầu xin nào của nhân loại. Tình thương nhưng-không vô biên của Thiên Chúa cao cả, mênh mông hơn đất trời, ngay cả khi con người không biết nài xin, Ngài cũng rộng tay ban phát thi ân. Luôn luôn đi bước trước trong tình yêu chính là đặc tính của Thiên Chúa.
Con người thực dụng, chỉ biết xin lợi ích cho bản thân mà quên đi Thiên Chúa và tha nhân. Thiên Chúa là Đấng giàu có vô cùng, Ngài không hề tính toán với nhân loại nhưng là một người Cha chí thánh, nhân lành, Ngài chỉ ban cho họ những gì giúp họ có được sự sống vĩnh cửu đời đời mà thôi.
Ban phát thi ân cho con người, Thiên Chúa không mất đi hay thiệt hại bản thân, bởi Ngài là Đấng Chủ Tể muôn loài, là Đấng Tạo Hóa toàn năng. Xin là bổn phận của nhân loại, nhưng ban phát là việc của Thiên Chúa. Nếu biết xin những gì đẹp lòng Thiên Chúa, thì còn lời cầu xin nào tinh tuyền xứng đáng hơn thế nữa ? ! ?
Nhân loại thì không như thế, người ta chỉ biết chăm lo lợi ích tư riêng. Một khi không được đáp ứng là quay ra oán trách Thiên Chúa và chối bỏ Người. Nhưng nếu nài xin mãi mà không được cũng khiến con người quay ra nghi ngờ, chán nản. Hiểu được giới hạn đó, Đức Giêsu đã khuyên dạy chúng ta biết kiên trì cầu nguyện.
Dụ ngôn quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy chính là bài học Ngài muốn gửi đến từng người. Cho dù gặp phải khó khăn gì, cũng cần phải tin tưởng, cậy trông vào Thiên Chúa. Kiên trì, tuyệt đối kiên trì cầu nguyện. Quan tòa bất chính kia, chẳng hề biết coi ai ra gì, vậy mà cũng xuôi lòng trước lời cầu xin của bà góa, với mục đích khỏi bị quấy rầy ( x. Lc 18, 5 ). Còn Thiên Chúa thì Ngài lại không thể bỏ qua một lời cầu xin nào của nhân loại chỉ vì quá yêu thương họ: “Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ?” ( Lc 18, 7 ).
Cái khó không hệ tại việc xin ơn và trao ơn, nhưng chính là Lòng Tin. Cuộc sống ngày nay đầy đủ, hiện đại quá, con người đâu cần Thiên Chúa, lấy gì có lời cầu nguyện, nài xin ? Đây cũng chính là nỗi đau xé lòng: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” ( Lc 18, 8 ). Lạy Chúa, mải miết lo toan cuộc sống, dường như con đã chẳng còn biết nài xin, cầu nguyện, hay bởi quá kiệt sức vì chờ đợi mỏi mòn nên con cũng buông tay… để rồi con bị tham vọng cuộc sống làm lu mờ đôi mắt tâm linh, không còn nhận ra ân huệ cao vời của Thiên Chúa, những quà tặng nhưng-không Ngài trao gửi từng phút từng giây.
Dạy con cầu nguyện, không phải cần lời nguyện cầu của con nhưng chính là giúp con biết tín thác vào quyền năng và lòng thương xót của Ngài. Ý thức được như vậy, sao con còn mãi bấu víu vào người đời, vào cuộc sống nay còn mai mất đời này để mà nài xin lòng thương hại cơ chứ ?
Xin giúp con, nếu có phải cầu xin, chỉ cần biết khẩn cầu một Thiên Chúa. Dẫu cho việc nài xin ấy có phải lặp đi lặp lại mọi ngày, cũng đừng nản chí, bởi chỉ mình Thiên Chúa, Đấng duy nhất, mới có thể lấp đầy thiếu thốn cho con.
Có một bác nông phu ra tỉnh, chẳng may bị đụng xe, và trở nên mù loà. Các bác sĩ chuyên môn: TN 29-C87
Có một bác nông phu ra tỉnh, chẳng may bị đụng xe, và trở nên mù loà. Các bác sĩ chuyên môn về mắt cho biết: Không thể nào chữa lành được nữa. Lúc đó, bác vừa tròn năm mươi tuổi và là cha của một gia đình gồm bà vợ và bảy đứa con. Dầu vậy bác không mất lòng cậy trông, trái lại bác luôn tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, đồng thời kiên tâm cầu nguyện... Trong suốt ba năm liền, mỗi ngày bác đều tham dự thánh lễ và rước lễ. Ngày kia, sau khi rước lễ, bác cảm thấy vui mừng trong lòng và khi đứng dậy ra về, thì bỗng bác được khỏi, cặp mắt nhìn rõ mọi vật như khi trước. Nước mắt trào dâng, bác chạy lại bàn thờ quỳ gối tạ ơn Chúa.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng cần phải cầu nguyện luôn và đừng ngã lòng. Ngài đưa ra hình ảnh một ông quan toà không kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người ta. Thế rồi một bà goá đến tìm ông và đòi cho được xét xử công bằng lần này qua lần khác. Vị quan toà từ chối bà lần này, thì bà lại đến vào một lần khác. Sau cùng để khỏi bị quấy rầy, vị quan toà đã nghe bà và minh oan cho bà. Rồi Ngài đã kết luận: Thiên Chúa sẽ lắng nghe và nhận lời chúng ta nếu như chúng ta biết kiên tâm cầu nguyện.
Có một sự khác biệt sâu xa giữa vị quan toà bất lương và Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời là Đấng đầy lòng thương xót, đó là vị quan toà vì không muốn bị quấy rầy mà phải thuận theo lời yêu cầu để người goá phụ không tới nữa. Thiên Chúa thì khác, Ngài hằng khao khát và luôn lắng nghe lời chúng ta van xin, cho dù Ngài thường để họ phải tiếp tục kêu cầu trong một thời gian nào đó. Và như thế, kiên trì vốn là một yếu tố căn bản của lời cầu nguyện. Đừng bỏ cuộc, trái lại hãy tiếp tục cầu xin, ngay cả khi không còn hy vọng. Đó là bài học quý giá Chúa Giêsu muốn đưa ra cho chúng ta hôm nay.
Nhiều người trong chúng ta giống như chàng thanh niên đến gặp vị linh mục, khi gặp phải điều khó khăn. Vị linh mục hỏi anh đã cầu nguyện chưa, anh trả lời: Thưa cha con đã cầu nguyện. Được mấy lần rồi. Thưa cha được một lần. Vị linh mục mới nói với anh hãy tiếp tục cầu nguyện. Cầu nguyện luôn mãi đừng nản lòng như Chúa Giêsu đã dạy. Đó là lý do hối thúc người công giáo chúng ta cầu nguyện hằng ngày. Chúng ta cầu nguyện vào ban sáng, ban tối và trước mỗi bữa ăn. Chúng ta thường xuyên đọc kinh Kính Mừng như muốn nhờ Mẹ Maria cầu nguyện thay cho chúng ta lúc này và trong cơn hấp hối. Chúng ta đọc kinh Lạy Cha mỗi ngày để xin Chúa ban xuống cho chúng ta những ơn lành hồn xác. Chúng ta đi tham dự Thánh lễ ngày thường cũng như ngày Chúa nhật. Thế nhưng chúng ta đừng quên rằng: Cầu xin chỉ là một trong những tâm tình của việc cầu nguyện mà thôi, bởi vì khi đến với Chúa trong tâm tình cầu nguyện, chúng ta còn phải thờ lạy và cảm tạ Chúa nữa.
Sự cầu nguyện được ví như một chiếc máy vô tuyến thiêng liêng, nhờ đó chúng ta được liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa mà lãnh nhận được những trợ giúp cần thiết.
Một lần kia, có một người thợ giày rất coi trọng việc cầu nguyện mỗi ngày. Khách hàng của ông ta: TN 29-C88
Một lần kia, có một người thợ giày rất coi trọng việc cầu nguyện mỗi ngày. Khách hàng của ông ta đều là dân nghèo, và họ chỉ có mỗi một đôi giày. Người thợ giày phải nhận các đôi giày cần sửa vào chiều tối, sửa chữa chúng suốt đêm và sáng sớm giao hàng để các chủ nhân của chúng sẵn sàng sử dụng chúng lúc đi làm.
Điều này làm phát sinh một vấn đề: Ông sẽ đọc kinh sáng vào lúc nào? Có nên cầu nguyện thật nhanh vào sáng sớm và sau đó trở lại với công việc? Hoặc cứ để giờ cầu nguyện đã định trôi đi và mỗi lần như thế, ông ngừng tay búa đóng giày và thở dài: “Khốn cho tôi, tôi chưa cầu nguyện được”.
Chúng ta cũng thường gặp sự nan giải ấy vì phải lựa chọn hoặc sự hối tiếc trong lòng hoặc cầu nguyện đại khái chiếu lệ. Nhiều người trong chúng ta cố nén việc cầu nguyện thường ngày với lòng hối tiếc để chờ có được những điều kiện lý tưởng.
Nhưng sự kiềm chế, trì hoãn mãi có thể dễ dàng trở thành một thói quen. Khi giờ cầu nguyện đến, dường như miệng lưỡi chúng ta mệt mỏi, trí óc chúng ta trì trệ và cái nhìn nội tâm của chúng ta mờ tối. Vì thế, chúng ta không cầu nguyện. Chúng ta không từ khước cầu nguyện; chúng ta kiềm chế. Sự nuông chiều bản thân phù phiếm này ngăn cản chúng ta dìm mình vào sự tĩnh mịch bao quanh thế giới, sự tĩnh mịch trước lúc chúng ta sinh ra và đi theo chúng ta khi chúng ta chết.
Tại sao chúng ta không dành một giờ sống thân mật với Thiên Chúa và quay về với sự thính lặng tĩnh mịch ấy? Chúng ta ở trên ranh giới của sự mầu nhiệm mà mình không biết.
Người có tôn giáo luôn gắn liền với cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở, là sự sống của người tín: TN 29-C89
Người có tôn giáo luôn gắn liền với cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở, là sự sống của người tín hữu. Vậy cầu nguyện là gì?
Cầu nguyện theo thánh Augstinô là thưa chuyện với Chúa, như một người con hiếu thảo thưa chuyện với cha mẹ, hoặc như hai người bạn chân tình tâm sự với nhau.
Vâng, nếu hiểu cầu nguyện là một cuộc tâm sự, là một cuộc trò chuyện, thì quả thực cầu nguyện là một điều rất dễ dàng và dành cho mọi người, chứ không phải chỉ dành riêng cho các linh mục, tu sĩ hay những người trí thức.
Mỗi người trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về những lần trò chuyện, trao đổi tâm sự với người khác. Vậy chúng ta đã thường hay nói những gì?
Tôi xin thưa:
- Nếu là bè bạn thân thích, chúng ta có thể nói tới mọi sự: sự vui cũng như sự buồn, sự trong nhà cũng như sự ngoài ngõ, sự quan trọng cũng như sự tầm phào. Nói chung nếu là bạn bè chúng ta có rất nhiều điều để tâm sự với nhau, để kể cho nhau...
Khi đến với Chúa, chúng ta cũng có thể trình bày về những niềm vui, những nỗi buồn, những đắng cay và những băn khoăn lo lắng chúng ta đã gặp phải. Và chắc chắn khi niềm vui được chia sẻ, thì niềm vui sẽ được nhân rộng hơn lên. Nỗi buồn được chia sẻ, nỗi buồn sẽ vơi đi. Chính những lời kinh xuất phát từ giữa lòng cuộc đời, từ những biến cố xảy ra hằng ngày, sẽ dễ làm cho chúng ta cầm trí và tránh đi thói quen máy móc chiếu lệ trong cầu nguyện.
Tuy nhiên, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và tín thác. Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi những ai kêu cầu Người, nhất là những người thấp hèn, bé nhỏ, miễn là biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa.
Thánh nữ Monica đã luôn cầu xin Chúa cho đứa con hoang đàng của mình là Augustinô. Hằng ngày bà khóc lóc, ăn chay và hãm mình. Một hôm quá thất vọng, bà đã đến hỏi ý kiến thánh Ambrôsiô và thánh giám mục đã trả lời:
- Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao nhiêu nước mắt sẽ không thể nào hư mất.
Mười tám năm đằng đẵng, sau cùng Augustinô mới trở lại.
- Như vậy, cầu nguyện là một việc rất dễ dàng mà bất cứ ai cũng đều có thể và phải làm được. Nhưng cầu nguyện không phải là chúng ta đòi Thiên Chúa làm theo ý chúng ta mà là để xin được theo ý Chúa với một lòng tin tưởng cậy trông tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Đức Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, thường trích dẫn bài thơ của một tác giả vô danh trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:
Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.
Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng kiên nhẫn là hoa trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.
Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.
Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.
Tôi đã hỏi: "Liệu Ngài có yêu tôi không" và Ngài đã trả lời rằng: "Có". Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên đàng vì tôi đã tin.
Tôi đã xin Chúa giúp tôi yêu mến tha nhân như Ngài yêu thương tôi và Chúa nói: "Cuối cùng con đã xin đúng điều ta chờ đợi".
Nguyện xin Chúa ban thêm lòng tin để chúng ta luôn kiên nhẫn trong lời cầu nguyện và tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay không phải chỉ nhấn mạnh đến việc phải kiên nhẫn cầu nguyện, mà hơn TN 29-C90 Lượng
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay không phải chỉ nhấn mạnh đến việc phải kiên nhẫn cầu nguyện, mà hơn thế nữa, còn cho chúng ta hay Thiên Chúa hằng lắng nghe và chấp nhận những lời chúng ta van xin.
Thực vậy bài đọc thứ I kể lại cuộc chiến giữa dân Do Thái và người Amalec. Điểm nổi bật đáng nhớ đó là hậu quả của việc Maisen cầu nguyện. Hễ bao lâu ông dang tay cầu nguyện thì dân Do Thái thắng còn khi nào ông bỏ tay xuống và không cầu nguyện nữa thì dân Do Thái sẽ bị thua. Như thế dân Do Thái đã không chiến đấu một mình, trái lại có Chúa ở bên cạnh và cùng chiến đấu với họ. Qua bài đọc thứ II, thánh Phaolô đã khuyên nhủ môn đệ thân tín của mình là Timôthê hãy can đảm và kiên nhẫn trong việc rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi, trong mọi lúc và bằng mọi cách.
Nhất là qua bài đọc thứ III với câu chuyện của Chúa. Thực vậy, từ một kinh nghiệm thông thường mà ai cũng có thể chứng kiến, đó là hậu quả những lời van xin liên lỉ của một người đàn bà goá đối với thái độ của một vị thẩm phán vô lương tâm. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hướng tới tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không muốn sánh ví Thiên Chúa như vị thẩm phán bất lương này. Ngài chỉ muốn cho người nghe hiểu được rằng: đến như một kẻ xấu xa như ông quan toà bất lương, thế mà cuối cùng cũng đã phải xét xử và minh oan cho bà goá khỏi tay kẻ thù. Mặc dù chỉ là để không bị quấy rầy, chứ chẳng phải vì muốn tôn trọng luật pháp, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng sự thật, huống nữa là Thiên Chúa, Đấng đầy lòng thương xót, há lại chẳng lắng nghe tiếng kêu cầu của những người Ngài đã tuyển chọn.
Thế nhưng kiên tâm cầu nguyện không có nghĩa là lải nhải những công thức có sẵn một cách máy móc. Nhiều người nghĩ rằng: cứ đọc thật nhiều, lặp đi lặp lại mãi một câu kinh, một lời nguyện thì thế nào Chúa cũng cho được toại nguyện. Trái lại kiên tâm cầu nguyện chính là cầu nguyện với lòng trông cậy, với lòng tin tưởng vào tình thương của Chúa, Ngài luôn bênh vực sự thật, bênh vực lẽ phải, bênh vực sự công chính. Cầu xin tức là tự đặt mình vào trong mối tương quan mật thiết với Chúa, là cởi mở lòng chúng ta trước tôn nhan Ngài. Như thế chúng ta chẳng còn lo sợ việc Chúa chẳng nhận lời cầu xin. Kinh Thánh đã từng xác quyết: Thiên Chúa là Đấng giải phóng chúng ta, Ngài muốn cho chúng ta được sống hạnh phúc.
Vì thế hãy mở rộng cõi lòng đến đón nhận ơn Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ được toại nguyện.
Người ta thường nói: ”Hữu chí cánh thành” (Có chí thì nên). Kinh nghiệm trường đời cho chúng TN 29-C91
Người ta thường nói: ”Hữu chí cánh thành” (Có chí thì nên). Kinh nghiệm trường đời cho chúng ta thấy muốn thành công, bất cứ ai, bất cứ công việc gì cũng đòi phải có ý chí, lòng kiên nhẫn bền tâm để vượt qua khó khăn. Chúng ta thấy thanh niên thường hay hát một bài rất có ý nghĩa:
Không có việc gì khó, Chỉ sợ lòng không bền, Đào núi và lấp biển, Quyết chí cũng làm nên.
Kinh nghiệm này không những đúng cho đời sống vật chất nhưng còn đúng cho cả đời sống tinh thần và tâm linh nữa.
Để nói lên tính cách cần thiết của sự kiên nhẫn trong việc cầu nguyện, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn một bà góa và vị thẩm phán. Vị thẩm phán này là một người bất lương, tham nhũng, chỉ biết có tiền của, không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể ai, mà phải chịu thua bà góa cô thế cô thân. Bà nghèo khó, không có tiền của để đút lót, bà chỉ có một thứ vũ khí duy nhất để chiến đấu, đó là sự kiên trì. Bà cứ quấy rầy vị thẩm phán làm cho ông phải nhức óc, sau cùng ông phải mở phiên tòa để minh oan cho bà.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói với chúng ta về sự cần thiết phải kiên trì trong khi cầu nguyện. Thánh Luca không dám so sánh Thiên Chúa với vị thẩm phán đâu, nhưng ngài chỉ có ý cho chúng ta thấy vị thẩm phán vô lương tâm như thế mà còn chịu thua sự kiên trì quấy rầy của bà góa. Còn Thiên Chúa là Đấng vô cùng nhân từ thương xót lại không nghe lời cầu xin của chúng ta mà minh oan, mà ban cho chúng ta những điều cần thiết sao? Hãy tin tưởng vào lời Chúa hứa: ”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cửa cho”(Mt 11,9). Nếu Chúa còn trì hoãn chưa đáp ứng lời cầu xin của ta, đó là dấu Ngài có một kế hoạch đặc biệt có lợi cho ta, hãy tin tưởng và chờ đợi kế hoạch đó được thực hiện.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 17,8-13.
Trên đường tiến về Đất Hứa, dân Do thái phải giao chiến với những dân đã định cư sẵn trong miền đất đó. Không phải là vũ khí tối tân, cũng không phải là các kế hoạch hành quân sắc bén sẽ đưa đến chiến thắng mà chính là lời cầu nguyện tha thiết của ông Maisen.
Sách thuật lại: khi nào ông Maisen giơ tay lên cầu nguyện thì quân Israel thắng thế, ngược lại khi ông Maisen mỏi mệt hạ tay xuống thì quân Amalếch thắng. Người ta mới lấy một tảng đá để cho ông Maisen ngồi và cử hai người cầm tay ông giơ lên, nhờ đó quân Israel chiến thắng.
Trận đánh không được miêu tả vì tác giả nhằm mục đích khác: Thiên Chúa phù hộ quân Israel nhờ lời cầu nguyện của ông Maisen.
+ Bài đọc 2: 2Tm 3,14-4,2.
Phaolô biết rằng mình sắp chấm dứt cuộc đời nên viết thư cho Timôthêô khuyên ông trung thành với truyền thống cũng như Kinh Thánh, là hai nền tảng đức tin Kitô giáo. Điều ông Timôthêo giảng dạy thì ông đã nhận được nơi thầy mình. Sinh ra trong truyền thống Do thái giáo, được Kinh thánh nuôi dưỡng, Timôthêô phải lấy đó là căn bản để giảng dạy. Ngày phán xét chung, ông sẽ phải tính sổ về sứ mạng rao giảng Tin mừng mà ông đã được trao.
+ Bài Tin mừng: Lc 18,1-8
Trong bài Tin mừng hôm nay thánh Luca có ý nhắc cho chúng ta một thái độ căn bản trong khi cầu nguyện: phải kiên trì. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn một bà góa bị người ta hà hiếp bất công, bị thiệt thòi mà không có ai bênh vực. Bà phải chạy đến kêu cứu với quan tòa xét xử công bình cho. Ông thẩm phán này là một ngưới thiếu trách nhiệm, không bênh vực bà vì bà chẳng có lợi gì cho ông. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.
Nếu một người cứng cỏi và vô lương tâm như viên thẩm phán này mà còn xiêu lòng trước lời năn nỉ của bà góa, huống chi Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu , chắc chắn là Ngài sẽ nghe lời ta cầu xin thôi. Vậy còn đợi gì chúng ta không xin Chúa ban những ơn cần thiết cho hồn xác chúng ta.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Phải kiên trì cầu nguyện.
I. DỤ NGÔN BÀ GÓA VÀ THẨM PHÁN BẤT LƯƠNG.
Đức Giêsu đã nhiều lần nói về sự cầu nguyện, dạy các tông đồ cầu nguyện, đặc biệt trong kinh Lạy Cha. Chắc chắn các tông đồ cũng gặp khó khăn trong việc cầu nguyện, thậm chí các ông có thể “nản chí”, nên hôm nay, Đức Giêsu đã khuyên các ông: ”Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”(Lc 18,1). Vì thế Ngài đã đưa ra dụ ngôn vị thẩm phán bất luơng và người đàn bà quấy rầy để dạy cho các ông một bài học: Phải cầu nguyện liên tục và kiên trì.
1. Vị thấm phán.
Theo William Barclay, vào thời Đức Giêsu sống, có hai loại thẩm phán. Thẩm phán Do thái, xét xử trước các vị trưởng lão. Thẩm phán của Hêrôđê hay đế quốc Rôma: xét xử trước công chúng. Theo thánh vịnh 82,2-7 đã nói lên sứ mạng Thiên Chúa ủy thác cho các thẩm phán: ”Hãy công minh xét xử kẻ bị áp bức và bà góa…”. Vị thẩm phán trong chuyện này là một trong những thẩm phán ăn lương được bổ nhiệm hoặc bởi Hêrôđê hoặc bởi đế quốc Rôma. Họ là những người tham nhũng, xét xử theo tiền bạc hối lộ. Ông thẩm phán được đề cập trong dụ ngôn thuộc loại này, thuộc loại bất lương vì “không kính sợ Thiên Chúa cũng không kiêng nể người ta”(Lc 18,5).
2. Bà góa.
Theo văn hóa và truyền thống của các quốc gia miền Cận Đông, bà góa là những người bị áp bức, bị xã hội bỏ rơi, không được ai nâng đỡ. Bà không có tiền để hối lộ, làm sao thẩm phán có thể xử cho bà được. Nhưng bà có một thứ võ khí duy nhất để đấu tranh là sự kiên trì và bền bỉ: ”Vì bà góa này cứ quấy rầy mãi”(Lc 18,5).
Dụ ngôn không có ý so sánh Thiên Chúa với thẩm phán bất lương, nhưng sánh ngược lại với con người như thế, Đức Giêsu có ý nói: Thẩm phán bất chính còn như thế, lẽ nào Thiên Chúa không xem xét bênh vực những đứa con yêu ngày đêm kêu xin Ngài? Chắc chắn Ngài sẽ vội vàng cứu giúp họ. Và như vậy, dụ ngôn đưa ra hai nhân vật để nói lên sự tương phản giữa sự bất lương của vị thẩm phán và lòng nhân từ của Thiên Chúa.
3. Vị thẩm phán xét xử cho bà góa.
Bà góa này nhận thấy mình cần phải được minh oan, nhưng làm sao xin ông thẩm phán mở phiên tòa được vì ông không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kiêng nể ai, bà lại không có tiền để đút lót. Vì thế bà không thể làm gì hơn là phải quấy rầy vị thẩm phán bằng cách kiên trì nài van, làm cho ông thẩm phán phải nhức óc, cho đến khi ông nhượng bộ để xét xử cho bà.
Ở đây, chúng ta nhận thấy, vị thẩm phán tuy chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng kiêng nể ai , thế mà lại chịu thua sự kiên trì của bà góa. Đứng trước sự kiên trì của bà góa, dù có bất nhân như ông thẩm phán trong dụ ngôn chăng nữa, cũng phải xiêu lòng, chịu thua. Như vậy, điều ấy nhắc cho chúng ta rằng nếu chúng ta kiên trì cầu nguyện thì Thiên Chúa vốn có lòng nhân từ thương xót lại không lắng nghe lòi cầu xin của con cái mình sao?
Đối với Thiên Chúa, thân phận chúng ta được ưu đãi hơn nhiều. Chúng ta không bị cô thế cô thân như bà góa vì chúng ta có Đấng trung gian là Đức Giêsu Kitô cứu giúp chúng ta trước mặt Chúa Cha. Ngài đã thương yêu hy sinh chịu chết để cứu chuộc chúng ta, tuyển chọn chúng ta làm con Thiên Chúa. Bà góa cần được minh oan thế nào thì chúng ta phải khẩn thiết cầu nguyện để Chúa cứu chữa chúng ta khỏi tay ba thù hơn thế.
II. PHẢI KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN.
1. Nói về sự cầu nguyện.
a) Cầu nguyện cần thiết.
Đức Giêsu đã nhiều lần nói về sự cần thiết của việc cầu nguyện, chúng ta đã nghe nhiều, không cần trưng ra đây. Ngay những người đời, những nhà thông thái, bác học cũng cảm thấy sự cầu nguyện là cần thiết. Chúng ta hãy nghe bác sĩ Alexis Carrel, người được giải thưởng Nobel năm 1912, nói về sự hiểu biết của một y sĩ chuyên khoa dày kinh nghiệm:
“Không gì gây nghị lực mạnh mẽ cho bằng cầu nguyện. Đó là một sức mạnh rõ rệt như sức thu hút của trái đất. Là y sĩ, tôi thấy nhiều người dùng thuốc gì cũng vô ích. Họ chỉ bình tĩnh tụng niệm là lành mạnh. Tụng niệm tức là cầu ở Thượng Đế nguồn khí lực vô biên để tăng khí lực hữu hạn của bạn. Nhờ đó, tâm hồn lẫn cơ thể được thanh lọc, và lành mạnh hơn. Chẳng ai nguyện cầu một chốc mà không thấy kết quả”.
Bác sĩ Carl Jung cũng cho biết kinh nghiệm khi ông nói: ”Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tưổi, rút cuộc người nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng”.
Giải pháp ông nói đây chính là sự Cầu nguyện.
Ông Gandhi, người mà dân An độ nâng lên bệ thánh, đã thú nhận rằng: ”Nếu không nhờ tụng niệm thì tôi hóa khùng đã từ lâu rồi”.
b) Năng lực của lời cầu nguyện.
Lời cầu nguyện có một năng lực to tát. Nó gây ảnh hưởng đần tiến trình các biến cố và thay đổi cả cuộc đời của nhiều người. Bác sĩ Alexis Carrel một lần nữa đã bình luận về năng lực to tát này như sau: ”Cầu nguyện là hình thức năng lực hùng mạnh nhất mà con người có thể phát sinh ra. Đối với chúng ta, ảnh hưởng của nó trên toàn tâm trí và thân xác của con người cũng hiển nhiên chẳng khác gì các hạch nội tiết. Nó là một lực có thật không khác gì hấp lực của trái đất”.
Truyện: Toa thuốc chữa bệnh.
Một hôm, một bệnh nhân trạc độ 40, đến gõ của phòng mạch bác sĩ.
Người bệnh nói:
- Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên. Sau đó, uống hai viên. Hiện bây giờ tôi uống đến những ba viên, mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.
Bác sĩ là một tín đồ Thiên Chúa giáo, liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:
- Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh cho sốt sắng, và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.
Đã lâu lắm bệnh nhân kia chẳng hề đọc kinh chiều. Chiều hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ cho một cách nghiêm chỉnh.
Một tuần sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon, và làm việc như thường lệ (Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 42-43).
Thể xác mệt mỏi chưa chắc đã làm cho tâm hồn bệnh họan. Nhưng tâm hồn mệt mỏi bao giờ cũng làm cho thể xác bệnh hoạn. Bác sĩ Alexis Carrel thật có lý: ”Bao nhiêu người đang rên siết trên giường bệnh trong các nhà thương, sẽ được lành mạnh, nếu họ quyết không chiến đấu một mình với đời, mà biết sớm quay đầu nguyện cầu cùng Thượng Đế”.
Ở Vienna, thủ đô nước Ao, có một trường Thần-kinh-bệnh-học. Họ chủ trương rằng: nhu cầu về tinh thần của loài người cũng mãnh liệt như nhu cầu vật chất. Theo Frankl, bác sĩ Giám độc trường, khoa học bắt đầu nhận rằng loài người cần có lòng tin Thượng Đế, thì mới sống vui vẻ khỏe mạnh được. Mà nguyện cầu là một phương tiện để ta thấy rằng Thượng đế là năng lực trong đời sống (x. “Luyện tinh thần”, Nguyễn hiến Lê dịch, Phần VII, ch 2).
c) Vai trò của sự cầu nguyện.
Không ai có thể sống đời Kitô hữu mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì và cầu nguyện thế nào.
Có 3 người kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi tình trạng bế tắc này?
- Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.
- Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã qùi gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.
- Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức, vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhãi, nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói “Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con”.
Đang lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa; người thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện.Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.
Ở đây chúng ta thấy có ba thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện:
Đối với người thứ nhất, đó là phung phí thời gian. Vì ông ta không có đức tin nên thái độ của ông ta là hợp lý. Nếu bạn không tin vào Thiên Chúa, bạn có thể cầu nguyện với ai? Đối với người thứ hai, cầu nguyện thay thế cho hành động. Vì thế, một khi ông đã cầu nguyện xong, ông ngồi lại không làm gì và chờ Thiên Chúa đến cứu giúp ông. Phần nhiều chúng ta cầu nguyện như thế, đặc biệt khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Nói đúng hơn, đó là một sự thoái tháchành động.
Người thứ ba đã tin tưởng cầu nguyện, nhưng không lấy đó để thay thế cho hành động, nhưng như một sự thúc đẩy hành động. Cầu nguyện xong, ông lập tức làm một việc gì mà ông có thể. Sự cầu nguyện của ông có mục đích giúp ông thêm can đảm và hy vọng. Nó cũng cho ông cảm giác Thiên Chúa ở bên cạnh ông và một sự bảo đảm Thiên Chúa không bỏ rơi ông. Ông rút ra sức mạnh cao cả từ sự cầu nguyện ấy (Carôlô, Sợi chỉ đỏ C, tr 773 và Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật và lễ trọng C, tr 658).
d) Tư thế khi cầu nguyện.
Từ khi còn bé chúng ta được dạy rằng khi cầu nguyện phải chắp tay lại. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy Linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.
Cầu nguyện chắp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những họat động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm những người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.
Hai tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều không chắp lại hay giang ra , chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư thế ấy (McCarthy).
Trong bài đọc 1 của Thánh lễ hôm nay, chúng ta thấy ông Maisen cầu nguyện với đôi tay dang rộng ra trên dân Do thái, trong cuộc chiến đấu một mất một còn với quân Amalếch. Điều đó có ý muốn diễn tả quyền lực của sự cầu nguyện. Chừng nào mà dân Do thái còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa, họ còn tiến lên. Chừng nào họ quên không nhìn đến Thiên Chúa, họ buộc phải rút lui.
Truyện: Cầu nguyện là thể hiện lòng tin.
Ông Trilussa, thi sĩ La mã (1871-1950) đã kể lại câu chuyện ông bị lạc đường ban đêm giữa một khu rừng rậm rạp và đã gặp một bà lão mù. Sau khi nghe ông trình bầy hoàn cảnh thì bà lão liền nói với ông: ”Nếu ông không biết đường, tôi sẽ đưa ông đi vì tôi thuộc đường lối ở đây”. Vừa ngạc nhiên vừa nghi ngờ ông nói: ”Tôi lấy làm lạ, bà không thấy gì cả mà lại có thể dẫn đường chỉ lối cho tôi được sao”? Bà lão không cần giải thích thêm, liền nắm lấy tay ông và ra lệnh “tiến bước”. Kể xong câu chuyện, ông Trilussa kết luận: đó là đức tin.
2. Nói về sự kiên trì.
a) Hữu chí cánh thành.
Người xưa thường nói: ”Hữu chí cánh thành”: có chí thì nên. Kinh nghiệm đời thường cho chúng ta thấy: muốn làm bất cứ việc gì, chúng ta cũng phải dầy công vất vả: người nông dân muốn có mùa gặt, phải làm đất, gieo hạt, nhổ cỏ, vun xới đất, tưới tắm chăm sóc cây lúa. Có như thế mới có thu hoạch.
Học sinh muốn trở thành bác sĩ, kỹ sư phải vất vả và học hành bao nhiêu năm trời đèn sách. Có như thế mới có thể trở thành người có chuyên môn có khả năng giúp ích cho gia đình và xã hội.
Kiên trì lao động là đều kiện cần thiết cho sự thành đạt của mọi công việc. Nói cách khác, kiên trì lao động chắc chắn sẽ đem lại thành công. Kinh nghiệm ấy được cha ông ta đúc kết thành câu châm ngôn: ”Có công mài sắt có ngày nên kim”. Câu châm ngôn này không những chỉ đúng trong lãnh vực tự nhiên mà còn đúng cả trong lãnh vực tâm linh.
Một văn sĩ kể: ”Mỗi ngày ba tôi đem một tấm ván dầy ra bắt tôi dùng lưỡi dao nhỏ rạch lên đó một cái, chỉ một cái thôi. Tôi thật vô cùng ngạc nhiên, nhưng ba tôi không hề hé môi giải thích. Tôi cứ tiếp tục rạch mỗi bữa vào chỗ cũ như vậy, và cuối cùng, sau mấy trăm ngày, tấm ván đứt ra làm hai. Bấy giờ, ba tôi mới vịn vai tôi mà bảo rằng:
- Con thấy không? Với sự bền chí cầm con dao bé nhỏ này cứa mỗi ngày một cái, con có thể làm cho tấm ván dầy đứt ra làm hai. Bao nhiêu việc đời cũng chỉ như thế mà thôi: Người ta nếu biết quyết chí mỗi ngày làm mãi công việc mà mình đeo đuổi thì ắt phải có ngày thành công. Đó là bài học luyện chí mà ba nghĩ là một gia tài lớn lao nhất ba truyền lại cho con vậy”.
(Nguyễn văn Y, Có chí thì nên tr 20-21).
Ngoài ra chúng ta còn có những câu tục ngữ diễn tả ý tưởng đó:
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta kiên nhẫn cầu nguyện. Bài trích sách xuất hành hôm nay ghi lại lòng kiên nhẫn cầu nguyện của ông Maisen. Khi ông giang tay cầu nguyện thì dân Chúa thắng thế. Còn khi ông mệt mỏi xuôi tay xuống thì quân Amalếch thắng. Thánh Phaolô trong thư căn dặn Timôthêô phải kiên nhẫn và trung tín cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa trong Thánh Kinh. Rồi đến dụ ngôn bà góa trong Tin mừng. Bà góa nài nẵng xin thẩm phán xét xử công lý cho bà. Để bà khỏi quấy rầy, ông thẩm phán, mặc dù là người bất lương , cuối cùng cũng phải xét xử vụ kiện của bà.
Cuộc trờ lại của thánh Augustinô là một ví dụ điển hình nói lên lòng kiên nhẫn trong việc cầu nguyện của bà mẹ là Monica, phải mất gần 20 năm trời lời cầu xin của bà mới được chấp nhận. Qua dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay, Chúa hứa đáp ứng lời cầu nguyện của ta, nhưng là theo đường lối của Chúa. Bao giờ Chúa mới ban ơn, ta không biết được, nhưng ta phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa.
Dù Chúa có trì hoãn: Chắc chắn Ngài sẽ can thiệp, nhưng theo cách thức của Ngài. Mỗi khi chúng ta có cảm tưởng Chúa trì hoãn không bao giờ theo ý chúng ta xin, chúng ta hãy nhớ lại lời cầu của Đức Giêsu xin Cha cất chén đắng cho Ngài, nhưng lời xin ấy đã không được Cha chấp nhận cất chén đắng đau khổ đi. Vì chính nhờ Đức Giêsu đã trải qua đau khổ của thập gía để vào vinh quang Phục sinh, mà loài người chúng ta mới được ơn cứu độ. Trong thực tế, có nhiều điều ta tưởng là tốt nên nài xin Chúa ban cho mình, nhưng thực ra nó có hại cho ta mà ta không hay biết, nên Chúa đã không ban. Chúng ta sẽ ra sao nếu mọi ước muốn ngông cuồng hay ấu trĩ của chúng ta đều được Chúa nhận lời hết?
c) Hữu cầu tất ứng.
Người ta thường nói: ”Có khấn có thiêng, có kiêng có lành”. Lời nói ấy hợp với lời Đức Giêsu đã từng nói: ”Các con cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”(Lc 11, 9), đúng là ‘hữu cầu tất ứng”. Nhưng khi nói dụ ngôn này, Đức Giêsu không có ý nói phải cầu xin cho thật dai dẳng thì mới được Thiên Chúa nhận lời, làm như thể Ngài cũng như ông thẩm phán kia, cứ để cho người ta phải xin thật nhiều thật lâu thì mới ban cho.
Qua dụ ngôn này, Ngài muốn ta tin tưởng vào hiệu lực của lời cầu xin, chứ không phải khuyên ta cầu xin cho dài hay phải lặp đi lặp lại cho thật nhiều lần lời cầu xin của mình. Chính Ngài cũng đã khuyên: ”Khi cầu nguyện, các con đừng lải nhải như dân ngọai; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”(Mt 6.7-8). Như vậy, Chúa bảo chúng ta phải chú ý đến chất lượng hơn là số lượng, nghĩa là phải cầu xin với tất cả lòng tin yêu, phó thác như đứa con đối với cha mình.
Nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng đôi lúc Chúa trì hoãn, và việc trì hoãn đáp ứng lời cầu xin của chúng ta cũng có lý do mà chỉ Ngài biết. Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Ngài. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Ngài ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu cho mọi người.
Truyện: Ông có muốn vào không?
Một người đưa tin phóng ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín. Ông gõ cửa nhưng không ai mở cả. Ông biết trong nhà có người vì trước đó ông đã nhìn qua cửa sổ thấy họ. Bởi đó ông nổi cáu vừa la lớn tiếng vừa dùng hết sức mình đập vào cánh cửa. Sau khi ông đập của tới 30 lần thì một cái đầu mới thò ra qua một lỗ nhỏ trên cánh cửa, hỏi:
- Ông có muốn vào không?
- Muốn vào không ư? Tôi đã kêu cửa muốn khàn cả cổ rồi đây này.
- Xin ông thông cảm. Mỗi ngày rất nhiều đứa bé hàng xóm cứ đến gõ cửa để phá chơi rồi lại chạy trốn. Ban đầu chúng tôi tưởng ông cũng thế. Nhưng khi nghe thấy ông vẫn kiên trì kêu cửa, chúng tôi biết ông muốn vào thật nên mới mở cho ông (Bruno Hagspiel).
d) Liệu sau này còn niềm tin như thế?
Chúng ta nghĩ thế nào khi Chúa nói: ”Thầy bảo các con: Chúa sẽ kíp giải oan cho họ” trong khi kẻ dữ thắng thế người lành, những bất công không được xét xử? Chúng ta chỉ biết tin vào Chúa vì Ngài bảo chúng ta đừng lo. Thiên Chúa không làm ngơ mãi đâu. Tuy bề ngoài có vẻ là Chúa chậm trễ, nhưng hãy nhớ: thời giờ là của Chúa. Ngài đòi ta phải kiên nhẫn, phải ăn năn trở lại (2Pr 3.8-15). Loài người chỉ có thời gian, nhưng Thiên Chúa là đời đời. Ngài luôn đến đúng lúc để cứu giúp ta.
Cuối cùng Đức Giêsu hỏi một câu đượm vẻ buồn: ”Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng”? Có còn những kẻ thật lòng tin Đấng Kitô, yêu Ngài và trông đợi sự trở lại của Ngài? Câu này tách rời khỏi dụ ngôn, loan báo sự phản đạo thời cánh chung. Những kẻ được chọn sẽ bị thử thách đến nỗi họ có thể bị mất kiên nhẫn mà trở thành vô tín (x. Mc 13,20-22). Chính vì thế mà Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng sống buông thả, nhưng phải kiên trì cầu nguyện dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, giống như bà góa kia luôn bền tâm vững chí trước thái độ thờ ơ của vị thẩm phán bất lương. Trong thời gian có vẻ lâu dài giữa việc Đức Kitô ra đi và trở lại, phải cầu nguyện liên lỉ và đừng nhàm chán thì mới có thể đón nhận ơn cứu độ.
Một đại chủng sinh đã viết: ”Con lấy làm vinh dự sống trong gia đình nghèo hèn, chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến bánh mì và thịt, họa may đôi ba lần trong một năm. Tuy hơn 10 đứa con lớn bé đang chờ chực đĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, mẹ vẫn mời họ ngồi ăn chung với chúng con”. Bà mẹ đó chính là mẹ Đức Giáo hòang Gioan 23, một vị Giáo hoàng vĩ đại của hòa bình được cả thế giới mến phục, được giải thưởng Nobel hòa bình, và là vị Giáo hòang của Công đồng Vatican II. Nhờ đâu một bà mẹ quê mùa, nghèo khó biết dạy dỗ con nên người vĩ đại như vậy: Thưa, chính là nhờ lời cầu nguyện với niềm tin sắt đá. Liệu bây giờ Chúa còn thấy được lòng kiên trì cầu nguyện nơi chúng ta nữa không? 9. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
CHÚA MONG MUỐN THẤY NIỀM TIN NÀO KHI NGƯỜI TRỞ LẠI?
Câu chuyện dụ ngôn hôm nay trình bày một phản diện, phản diện gay gắt với niềm tin vào một Thiên Chúa như Đức Giêsu muốn trình bày! Phản diện trong hình ảnh ông quan tòa không có bất cứ niềm tin nào: ‘Chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì’. Ông không có bất kỳ một lý do nào để xót thương bà góa nghèo hèn van xin ông giúp đỡ. Cuối cùng thì chỉ vì không chịu nổi sự quấy rầy đeo bám, ông đã buộc phải ‘ra tay làm phước’ cho bà góa cô thế cô thân; cuối cùng thì vị quan tòa vô tâm đó đã ‘buộc phải’ xót thương, cho dù đó chỉ là bề ngoài và hoàn toàn bất đắc dĩ.
Khi đem một hình ảnh tiêu cực đến như thế để đối chiếu với Thiên Chúa nhân lành: “Anh em nghe ông quan tòa bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ người đã tuyển chọn, hằng đêm ngày kêu cứu với Người sao?” chắc hẳn Đức Giêsu phải có một lý do gì sâu sắc lắm.
Trước hết, ông quan tòa nọ đã bị chính Đức Giêsu gán cho thuộc từ ‘bất chính’;ông bất chínhkhông phải vì đã làm điều gì phạm pháp. Không, tuyệt nhiên không! Tương tự như ông phú hộ trong câu chuyện ‘chàng La-da-rô nghèo khổ’, ông này bị Đức Giêsu gọi là ‘bất chính’ chỉ vì một lý do duy nhất: ông đã không có một chút lòng trắc ẩn, xót thương nào.
Điều này cho chúng ta một gợi ý: thay vì tin vào một Thiên Chúa công chính, như người Do Thái vẫn thường gọi, căn cứ vào giao ước đã ký kết, thì Đức Giêsu, dầu vẫn dùng các từ ngữ cũ, mời gọi các môn đệ hướng tới sự công chính theo một nội dung hoàn toàn mới. Thiên Chúa công chính vì Người từ bi và giầu lòng xót thương (xem nội dung thư thứ nhất của Gio-an, đăc biệt các câu 2:29 và 3:7). Người là trọn vẹn công chính, bởi vì Người là Thiên Chúa trọn vẹn từ nhân! Yếu tính lớn nhất của Người là “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…, để khỏi bị lên án, nhưng được cứu độ” (Ga 3:16-18). Dấu hiệu của Thiên Chúa từ nhân đó đã được nói tới trong Cựu Ước trong hình ảnh con rắn được Mô-sê giương cao trong sa mạc.
Không may các người Do Thái đã hầu như hoàn toàn quên mất hình ảnh này… Tân Ước trái lại đã biểu lộ tình yêu này bằng Thập Giá; Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy (Ga 3:14)): Thiên Chúa của Đức Giêsu vẫn là Thiên Chúa ba lần Thánh, nhưng không phải vì sự thánh thiện cao xa tự tại nơi một mình Người. Đối với chúng ta và cho chúng ta, Người là thánh vì Người yêu mến con người tội lỗi với tất cả lòng xót thương. Tôi ngạc nhiên khi nghe Đức Giêsu nói: ‘Thiên Chúa yêu thế gian’. Sau này khi Gio-an cho định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”,ông không quên giải thích liền sau đó: ‘Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống’ (1 Ga 4:8-9).
Thế nhưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương như thế, một phản diện gay gắt với ông quan tòa bất chính trong dụ ngôn, ngay cả đối với Ki-tô hữu chúng ta, cũng có thể trở thành rất mong manh; Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa xót thương vẫn có thể bị ngay chính các Ki-tô hữu mau chóng quên lãng. Chưa khi nào ta bắt gặp một Đức Giêsu bi quan và ngờ vực đến thế: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Ngài còn thấy niềm tin trên mặt đất nữa chăng?” Tôi thiển nghĩ: nếu là niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, thì cho dầu có bị thử thách tới mấy đi nữa, chắc chắn nó sẽ vẫn mãi mãi tồn tại nơi nhân loại; niềm tin cầu khẩn với một Thiên Chúa quyền phép cũng sẽ không bao giờ kết thúc, kể cả khi con người đã hoàn toàn no đủ. Nhưng tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa yêu thương, và biểu lộ lòng tin này cách mãnh liệt trong cầu nguyện với thái độ tin tưởng phó thác như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã làm, thì lại luôn có nguy cơ bị nhạt nhòa, ngay cả trong chính Giáo Hội Công Giáo. Lịch sử minh chứng: đã từng có những thời kỳ mà lòng tin vào Thiên Chúa xót thương đã hoàn toàn bị lu mờ ngay trong chính nội bộ Giáo Hội, thay vào đó người ta đề cao và quảng bá một Thiên Chúa công thẳng luận phạt tới mức đáng sợ.
Sự phổ biến của học thuyết Giăng-sê-nít hay Thanh Giáo một thời trong suy nghĩ của nhiều tín hữu và giáo sĩ cho thấy điều đó. Lòng tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ rất có nguy cơ bị biến mất. May mắn thay, việc quảng bá học thuyết ‘Con Tim’ của thánh Phan-xi-cô Sa-lê (Salesian spirituality), và gần đây hơn, việc phổ biến lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa cho thấy niềm tin này đang có dấu hiệu phục hồi. Rất mong lòng tôn sùng này sẽ sớm trở thành một niềm tin chân chính, chứ không chỉ là việc đạo đức bề ngoài..., để rồi, một khi trở lại trong vinh quang Thập Giá, Người sẽ vui mừng thấy niềm tin này đã lan rộng trong Hội Thánh và trên toàn trái đất.
Công việc của tôi, một linh mục của Đức Ki-tô cứu độ và xót thương, chính là thắp lên và chăm sóc cho ngọn lửa niềm tin này bừng sáng nơi tâm hồn nhiều tín hữu! Lạy Chúa từ nhân, đã có một lần Chúa ngự đến trong giờ chết của con, và may mắn thay lần đó Chúa còn tìm thấy niềm tin này nơi con còn tồn tại chút ít. Xin Chúa tiếp tục phát huy và duy trì trong con, và trong tất cả tâm hồn các Ki-tô hữu, niềm tin vào Thiên Chúa từ ái xót thương; để bất cứ khi nào Chúa đến, cho dầu có đột ngột tới mấy, Chúa vẫn tìm thấy niềm tin này tiếp tục tồn tại, nhất là nơi con, và nơi tâm hồn các giáo dân con phục vụ, hướng dẫn. Xin Chúa tiếp tục củng cố đức tin này trong con. Amen.
Chúa Giêsu kể chuyện một quan toà bất chính, ông ta "chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng TN 29-C92
Chúa Giêsu kể chuyện một quan toà bất chính, ông ta "chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì". Qua lối nói vắn gọn như thế, Chúa Giêsu muốn trình bầy cho chúng ta một con người nắm quyền hành, ngang ngạnh, "khó chơi"...; và điều đó nói lên tình trạng bế tắc, dường như không còn con đường nào để một con người nhỏ bé trong xã hội, một bà goá, có thể tìm được công lý.
"Vũ khí" của người bé mọn
Tuy nhiên, điều tưởng chừng như không thể như thế lại trở nên có thể với lòng kiên nhẫn. Lòng kiên nhẫn của bà góa đã làm cho con đường bế tắc của người yếu thế được thành tựu, nhờ vào chính sự mệt mỏi của vị quan toà cứng lòng. Người nghèo không có tiền bạc, không có sức mạnh, không có lý lẽ khôn ngoan, nhưng có một vũ khí lợi lại, đó là lòng kiên nhẫn. Chính nỗi cực nhọc của đời sống làm cho người nghèo biết kiên nhẫn và có thể đạt được mục tiêu mình mong muốn.
Dĩ nhiên, Thiên Chúa không phải là một quan án bất công. Dụ ngôn ở đây chỉ muốn củng cố kết quả của lòng kiên nhẫn trong việc cầu nguyện. Nếu như lòng kiên nhẫn có thể thay đổi lập trường của vị quán án hắc ám, thì huống hồ gì đối với Thiên Chúa.
"Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn?"
Sự kiên trì của niềm tin
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không trình bầy ở đây một sự kiên nhẫn thuần túy con người. Chúa cho thấy căn bản của vấn đề là ở lòng tin. Chính lòng tin vào chúa giúp người ta biết kiên nhẫn. Do đó, Chúa Giêsu muốn củng cố lòng tin của người tín hữu khi khẳng định chắc chắn Thiên Chúa sẽ ra tay tiếp cứu, dù ra như Ngài có đến chậm. Đây là một vấn đề lớn của Giáo Hội sơ khai: người ta tưởng Chúa sắp đến để xét xử chung cuộc, những đợi mãi mà vẫn chưa thấy, người ta tưởng Nước của Ngài sắp tỏ hiện huy hoàng, nhưng người Kitô hữu vẫn bị bắt bớ.... Ngày nay cũng vậy, đã có rất nhiều lời tiên báo về ngày tận thế, rồi nhưng rồi mọi sự vẫn trôi qua một cách "bình thường". Chúa Giêsu hình như hiểu rõ điều đó, Ngài phải thốt lên:
"Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? Thực sự ta không thể hiểu được cách làm của Thiên Chúa. Việc của ta và điều Chúa Giêsu nhắc nhở ta là: hãy vững tin, đừng sợ.; vì..."Người sẽ mau chóng bênh vực họ"
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Có lẽ vì con chưa ý thức tình trạng bế tắc của đời con như bà goá nghèo nọ, nên con cũng chưa đủ lòng tin, lòng kiên nhẫn trong lời cầu nguyện. Con còn tìm nhiều đường lối khác để giải quyết đời con, nên chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Xin tha thứ cho con.
Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy.....”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế. TN 29-C93
“Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?”. Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ “sáng danh tôi, tối Danh Chúa”. Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. “Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống,” đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì” trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động “kiểm soát lợi suất” sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu: "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn, ...... Dụ ngôn nói về một TN 29-C94
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu: "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng". Dụ ngôn nói về một bà goá gây phiền hà. Để trả lời cho câu hỏi "Chúng ta phải cầu nguyện bao lâu?" Chúa Giêsu trả lời, "phải cầu nguyện luôn!" (Lc 18, 1-2).
Bà góa trong dụ ngôn tin chắc vào vụ kiện của bà, bà chứng tỏ rằng bà đáng được đền bù, nên không ngại đấu tranh vì điều đó, bà có đủ lý do để lo lắng, vì các thẩm phán hành động không theo công lý, "họ không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta"(Lc 18, 3). Đức Giêsu không ngại gọi ông là "vị thẩm phán bất lương nói"(Lc 18, 7). Vị thẩm phán bất lương này không có ý định xử vụ bà góa kiện, ông không để ý đến vụ kiện của bà. May mắn thay, câu chuyện kết thúc tốt đẹp: khi ông từ chối mãi, cuối cùng ông mất kiên nhận vì sự quấy rầy của bà, nên xét xử cho bà, để ông có sự yên tĩnh.
Và Đức Giêsu phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương đó nói". Cuối cùng vị thẩm phán đó cũng mang lại công lý, hơn nữa chúng ta chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ nghe lời chúng ta. Đức Giêsu tuyên bố một cách long trọng rằng: "Thầy bảo các con, Chúa lại sẽ kíp giải oan cho họ !" (Lc 18, 8).
Để chúng ta yên tâm Thánh Luca giải thích rằng "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng". Nguy cơ chán nản thất vọng, khiến chúng ta ngã lòng là vì Thiên Chúa nhân lành không nhận lời chúng ta ngay? Nghĩa là Thiên Chúa có thể trì hoãn đáp lời chúng ta. Đáng ngạc nhiên nhất Đức Giêsu bảo chúng ta "phải luôn luôn cầu nguyện không ngừng", cần phải kiên trì.
Để giúp chúng ta giải quyết nghịch lý này, phụng vụ cho chúng ta đọc sách Xuất Hành (Xh 17, 8-13) có Môisen cầu bầu cho dân Israel trong trận chiến với người Amalec kẻ thù cha truyền con nối. Tình trạng của dân Israel cũng giống như bà góa trong Tin Mừng (Lc 18 ; 1-8). Israel chiến thắng là do tác động của Thiên Chúa chứ không chỉ bằng vũ lực của các chiến binh. Vì thế, khi nào Môisen mệt mỏi, hạ tay xuống, thì Israel thua trần, còn nếu ông cứ giơ tay lên, thì dân Israel thằng trận (Xh 17, 12). Thực tế cho thấy sức mạnh và sự kiên trì cầu nguyện là chìa khóa để chiến thắng. Môisen đã thể hiện niềm tin của mình vào Thiên Chúa công bình, khi cánh tay của ông giơ cao, dân chúng thấy sức mạnh của lời cầu nguyện. Tóm lại, Bài đọc I cho thấy niềm tin vào Thiên
Chúa có thể đảo ngược những tình huống tuyệt vọng nhất. Thiên Chúa ban ơn cách mau lẹ, Ngài mau đáp lời, nhưng một cuộc chiến vẫn được thực hiện, ân sủng phải được thể hiện trong nhân loại, chúng ta cần có thời gian để khám phá. Sự kiên trì cầu nguyện của con người và sự đáp trả từ từ của Thiên Chúa không phải là mâu thuẫn.
Điểm này khai sáng trang Tin Mừng. "Thầy bảo các con," Đức Giêsu trả lời chúng ta. Đây không phải là một câu hỏi nhưng một điều chắc chắn: Thiên Chúa nhân lành vẫn lo lắng và ban cho con cái mọi điều chúng cần. Dụ ngôn giúp chúng ta hiểu những gì Chúa quan tâm: "Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?". Thật vậy, Thiên Chúa sẽ minh oan cho người Ngài tuyển chọn "kẻ ngày đêm kêu cầu Ngài". Trong số những người nghe dụ ngôn, làm thế nào "kêu cầu cùng [Thiên Chúa ] ngày và đêm"? Đây là lý do tại sao chúng ta phải luôn luôn cầu nguyện và kiên trì nữa để duy trì lòng tin của chúng ta!
Sự cầu nguyện, như tình yêu, không chịu sự tính toán. Một người mẹ đâu có hỏi bà phải thường yêu con mình bao lâu, hay là một người bạn đâu có hỏi mình phải yêu một người bạn bao lâu? Có thể có những mức độ khác nhau trong sự cân nhắc đối với tình yêu, nhưng không có những khoảng cách nhiều hay ít điều hòa hơn trong sự yêu đương. Với sự cầu nguyện cũng vậy. Lý tưởng của sự cầu nguyện kiên trì này được thực hiện trong nhiều hình thức bên phương Đông và phương Tây. Kitô giáo phương Đông thực hành điều ấy với "Kinh cầu nguyện Chúa Giêsu: "Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con!"
Thánh Augustine dạy rằng bản chất của sự cầu nguyện là sự ước muốn. Nếu sự ước muốn đối với Thiên Chúa là kiên trì, thì sự cầu nguyện cũng vậy, nhưng nếu không có sự ước muốn nội tâm, bấy giờ bạn có thể la hét nhiều như bạn muốn với Thiên Chúa bạn lặng thinh.
Bây giờ, sự ước muốn bí mật đối với Chúa, một công việc của trí nhớ, của nhu cầu đối với sự vô cùng, của sự tưởng nhớ đến Chúa, có thể vẫn sống động, cả khi người ta có những sự khác phải làm: "Cầu nguyện lâu giờ cũng không là một sự như quì gối hay chấp tay lâu giờ. Cầu nguyện đúng hơn hệ tại sự đánh thức một sự thúc đẩy kiên trì và thành kính tâm hồn đối với Đấng chúng ta cầu khẩn."
Chính Chúa Giêsu cho chúng ta gương cầu nguyện không ngừng. Người đã cầu nguyện ban ngày, ban chiều, sớm ban mai, và thỉnh thoảng Người thức suốt đêm cầu nguyện. Sự cầu nguyện là sợi giây liên kết của toàn diện sự sống của Người.
Nhưng gương Chúa Giêsu nói với chúng ta một cái gì quan trọng khác. Chúng ta tự phỉnh gạt mình nếu chúng ta tưởng rằng chúng ta có thể cầu nguyện luôn, biến sự cầu nguyện thành một thứ hơi thở của linh hồn giữa sinh hoạt hằng ngày, nếu chúng ta không chỉ ra những thời gian ấn định cho sự cầu nguyện, khi chúng ta tránh khỏi mọi sự bận việc khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng lòng chúng con về với Chúa, giúp chúng con kiên trì cầu nguyện với Chúa không ngừng, xin Chúa dạy chúng con cầu nguyện, để linh hồn, thể xác, trí khôn chúng con luôn hướng về Chúa. Amen.
Theo tục lệ của người Do thái, Chúa Giêsu cầu nguyện một ngày 3 lần: buổi sáng khi mặt trời mọc, TN 29-C95
Theo tục lệ của người Do thái, Chúa Giêsu cầu nguyện một ngày 3 lần: buổi sáng khi mặt trời mọc, buổi chiều vào lúc cử hành hy tế trong đền thờ Giêrusalem (3giờ chiều) và ban tối khi màn đêm buông xuống. Trước và sau bữa ăn còn có những lời kinh tạ ơn. Các giờ cầu nguyện đó là thói quen hàng ngày của bất cứ người Do thái đạo đức nào. Nhưng lời cầu nguyện của Chúa Giêsu còn có một cái gì đó vượt cao hơn mô hình truyền thống Do thái.
1. Chúa Giêsu cầu nguyện.
Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Ga Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)... Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.
Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: "Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết" (Lc 10,21).
Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: "Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con" (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: "Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha" (Lc 22,42).
Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha.
Chiêm ngắm Chúa Giêsu cầu nguyện, ta có thể hiểu rằng:
- Tư thế cầu nguyện rất linh động: có thể quỳ, có thể đứng, có thể ngồi...Ánh mắt ngước lên trời cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa Cha trong cõi vô biên, hoặc nhắm mắt lại để cho hồn xoáy vào vô biên ấy.
- Nội dung cầu nguyện là ngỏ bày tâm tình của mình cho Chúa Cha. Tâm tình có khi là ngợi khen, chúc tụng, cảm tạ, có khi là thống hối, cầu xin. Luôn luôn kết thúc bằng hai ý nguyện: xin đừng theo ý con mà là theo ý Cha và con xin phó thác hồn con trong tay Cha.
- Nơi chốn cầu nguyện có thể là một nơi thanh vắng (Lc 5,16), trên núi (Lc 6,12;9,28), mà cũng có thể là nơi chỗ đông người (Ga 12,28).
- Thời gian cầu nguyện là bất cứ lúc nào, nhưng tốt nhất là sáng sớm tinh mơ hay lúc đêm về.
- Đỉnh cao của cầu nguyện chính là "xin đừng theo ý con mà theo ý Cha".
2. Chúa Giêsu dạy cầu nguyện
Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)... Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.
Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu dạy về sự cần thiết và hiệu nghiệm của lời cầu xin. Phải cầu nguyện liên lỉ, đừng bao giờ nhàm chán, đừng ngã lòng. Chúa dùng Dụ ngôn minh hoạ, ông quan toà bất lương gặp bà goá kêu nài.
Bà góa cô thân cô thế nhưng lại kiên trì cương quyết, bà tin chắc cứ kêu nài, cứ van xin, thế nào quan tòa cũng chịu xét xử. Quan tòa là người chẳng sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng cũng chịu thua bà góa. Ông minh xử cho bà goá không phải vì yêu thương, chẳng phải vì trách nhiệm mà là vì sợ bị quấy rầy. Một quan tòa vô đạo, bất công mà còn xét xử cho người van xin thì huống là Thiên Chúa, Đấng công minh chính trực, thưởng phạt công bằng, Đấng giàu lòng xót thương, luôn bênh đỡ những kẻ bé mọn kêu cầu Ngài!
Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giêsu không có ý nói phải cầu xin thật dai dẳng thì mới được Thiên Chúa nhậm lời, nhưng Người muốn chúng ta tin tưởng vào hiệu lực của lời cầu xin, bởi vì "Có người cha nào, khi con mình xin cái bánh mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người" (Mt 7,9-11).
3. Sự cần thiết của đời sống cầu nguyện
Sống lời Chúa Giêsu dạy, Thánh Phaolô khuyên các tín hữu cầu nguyện liên tục, không ngừng, ngày đêm. Ngài nói lên sự cần thiết của cầu nguyện bằng những lời tâm tình mời gọi: "Hãy chuyên cần cầu nguyện" (Rm 12,12); "Anh em hãy bền đỗ cầu nguyện, tỉnh thức cầu nguyện và tạ ơn" (Co 14,2), "Đừng ngớt cầu nguyện" (1Thes 5,7; Rm 8,26-27).
Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết, tối quan trọng, là một vấn đề sinh tử. Thánh Gioan Kim Khẩu so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu cá bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên cần phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu việt không khác nào cá phải chết vì không có nước.
Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ thành tiều tuỵ, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, linh hồn ta sẽ chết đi trước mặt Chúa.
Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của người Kitô hữu. Một đức tin không có cầu nguyện thì chỉ là một niềm tin vô ngã, vật chất.
Cầu nguyện là lẽ sống. Lời cầu nguyện có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động.
4. Đỉnh cao cầu nguyện
Phần đông người tín hữu chúng ta ít khi biết cầu nguyện trong thinh lặng. Hễ cầu nguyện là chỉ biết đọc kinh. Đọc kinh ở nhà thờ, đọc kinh ở nhà. Có khi đọc kinh nhiều mà cầu nguyện chẳng bao nhiêu. Nhưng phút giây thinh lặng là những phút giây quan trọng để lắng nghe Chúa nói. Đỉnh cao của cầu nguyện là thinh lặng kính thờ Chúa.
Cầu nguyện không phải là vấn đề của kiến thức hay kỹ thuật. Cầu nguyện luôn đi đôi với đức tin và lòng mến. Vì thế phải cầu nguyện trong Thánh Thần (Rm 8,1), đơn sơ (Lc 18,15-17), khiếm tốn (Lc 18,14), trong thầm kín (Mt 6,6).
Khi cầu nguyện tâm trí được nâng lên cùng Thiên Chúa hầu suy tôn, tán tụng, cảm mến, tạ tội, xin ơn. Trình độ cầu nguyện cao nhất là: xin đừng theo ý con mà theo ý Cha.
Trong một thế giới ồn ào náo động như hiện nay, một thế giới bị ô nhiễm về môi sinh và bị ô nhiễm về tinh thần, người Kitô hữu phải là chứng nhân cầu nguyện. Chúng ta cầu nguyện vì muốn nên giống Chúa Giêsu, Đấng hằng cầu nguyện liên lỉ với Cha và dạy chúng ta cách thức cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, chiêm ngắm Chúa cầu nguyện, lắng nghe Chúa dạy cầu nguyện, chúng con nhận thấy đời sống cầu nguyện thật cần thiết cho đời tâm linh. Xin cho chúng con luôn yêu mến đời sống cầu nguyện; xin cho chúng con xác tín rằng, tự sức riêng, chúng con không làm được gì cả, nhưng với ơn Chúa, chúng con làm được nhiều điều tốt lành trong cuộc sống hàng ngày. Amen.
Hơn một năm trước đây, nhân loại trong bầu khí chuẩn bị buớc vào thiên niên kỷ thứ ba, kỷ niệm TN 29-C96
Hơn một năm trước đây, nhân loại trong bầu khí chuẩn bị buớc vào thiên niên kỷ thứ ba, kỷ niệm 2000 năm Mầu Niệm Nhập Thể. Trong dịp trọng đại đó, Giáo hội nhìn lại việc loan báo Tin Mừng cho thế giới, đồng thời đề ra những đường huớng mới cho một cuộc loan báo Tin Mừng cách cụ thể cho từng châu lục. Đặc biệt với giáo hội tại Á Châu đã vui mừng đón nhận được Văn kiện "Eccelesia in Asia - Giáo Hội Tại Á Châu" được công bố tại New Delhi (Ấn độ), tháng 11 năm 1999, như một "kim chỉ nam" cho giáo hội nơi đây chuẩn bị mừng Năm Đại Toàn xá 2000; đồng thời có dịp nhìn lại vấn đề truyền giáo của mình và tìm ra một hướng đi mới cho thiên niên kỷ này.
Và mới đây trong phiên họp chung ngày 10-10-2001, ĐHY Jan Schotte, Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục, đã loan báo các nghị phụ về việc công bố Văn kiện Hậu- Thượng Hội Đồng Giám Mục riêng của Châu Đại dương (Ecclesia in Ocaenia). Ngài nói: "Tôi vui mừng loan báo trong phiên họp chung này là Đức Thánh Cha, sau khi suy tư lâu dài và bàn hỏi, đã quyết định công bố Tông huấn Hậu- Thượng Hội Đồng "Ecclesia in Oceania" tại Vatican (thay vì đi đến một địa điểm trong miền này), trong một buổi tiếp kiến riêng, được ấn định vào ngày 22 tháng 11 năm 2001, lúc 11g30, tại Phòng Khánh Tiết Clementina của Phủ Giáo Hoàng, nhân dịp kỷ niệm năm thứ bốn của lễ nghi khai mạc khóa họp riêng cho Châu Đại dương".
ĐHY Jan Schotte nhấn mạnh: "Trong lúc này, tôi xin các Nghị phụ cầu nguyện cho Giáo hội tại Châu Đại Dương, đã từ lâu chờ đợi với nhiều lo âu về văn kiện này. Giáo hội trong miền này được mời gọi đón nhận giáo huấn Hậu Thượng Hội Đồng trong tinh thần yêu mến, được mời gọi phổ biến văn kiện này và thực hiện nội dung của nó trên cấp bậc giáo phận và giáo xứ với lòng nhiệt thành truyền giáo, đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha tiến đến việc tái rao giảng Tin Mừng, cách riêng trong lúc bước vào Ngàn Năm thứ ba".
Với những ý nghĩa đó, Chúa Nhật Truyền Giáo có chiều kích của một cuộc khởi khởi đầu mới trong nỗ lực loan báo Đức Giêsu cho thế giới.
Anh em sẽ làm chứng cho Thầy
Các tông đồ là những người được Đức Giêsu kêu gọi để chia sẻ cuộc sống của Người; các ông đã được tham dự và chứng kiến những biến cố khác nhau trong cuộc đời của Đức Giêsu. Những điều đó không phải chỉ là những sự kiện lịch sử,?không phải chỉ làô1 xảy ra trong quá khứ. Các tông đồ không phải chỉ là những chứng nhân về những sự kiện tầm thường. Trái lại đây là những biến cố làm đảo lộn lịch sử, những biến cố đem lại ơn giải thoát cho con người, và các tông đồ là những người loan báo, những người tiếp tục thực hiện công trình ấy.
Những biến cố tập trung vào sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Các tông đồ không làm chứng về điều gì khác ngoài sự kiện đó. Đó không phải là hoạt động của con người, nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, để thể hiện tình thương và ơn cứu độ cho thế giới. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là làm chứng về biến cố quan trọng này. Vì đó là biến cố quan trọng nên phải dồn hết mọi nỗ lực, mọi khả năng để loan báo, để làm chứng. Phải làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi bằng máu nữa.
Do đó, ý thức được tầm quan trọng của sứ điệp, các tông đồ, những người đã được chứng kiến tận mắt, đã đem hết cuộc đời của mình để làm chứng: các ông đã giảng dạy, đã viết thơ, viết sách, đã chịu nhiều gian nan vất vả với một ước mong duy nhất là sứ điệp phục sinh được công bố cho tất cả mọi người. Các ông đã không ngần ngại chịu đổ máu, chịu hy sinh cuộc đời, bởi vì các ông được sai đi làm nhân chứng, theo gương Vị Thầy, Đấng đã gọi và sai các ông đi.
Và, như lịch sử cho thấy, việc loan báo sứ điệp Ki-tô giáo trong những thế kỷ đầu tiên dựa trên biến cố nền tảng này. Các ki-tô hữu thời sơ khai không chú trọng về các quy luật luân lý, cũng không trình bày nhiều về các chi tiết trong cuộc đời Đức Giêsu, nhưng tất cả cuộc sống, mọi sinh hoạt của họ đều xoay quanh biến cố phục sinh, vì họ hiểu rằng, đó là biến cố trọng tâm của lịch sử ơn cứu độ.
Như vậy, sứ điệp Ki-tô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới; cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Ki-tô giáo trước hết là một biến cố, và người loan báo phải làm chứng về biến cố ấy.
Tin Mừng thúc bách tôi
Ơn cứu độ phải được loan đi cho đến tận cùng vũ trụ. Đó là sự nôn nóng của một tâm hồn đã được đổ tràn tình thương của Thiên Chúa. Đó cũng là thao thức của một tâm hồn đã được cảm hóa nhờ sự chết và sống lại của Đức Ki-tô, và đó cũng là niềm phấn khởi của tâm hồn tràn đầy sức sống và gắn bó sâu xa với Đức Ki-tô.
Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm về điều mình làm chứng. Tin Mừng không phải chỉ là những điều được rao giảng, được công bố, nhưng chính là cuộc sống, là những tiếp xúc thâm sâu với Đức Giêsu, để rồi từ đó mới chuyển qua những hoạt động cụ thể, những công việc bên ngoài.
Đã có một thời người ta quan niệm việc truyền giáo như là những hoạt động rầm rộ nhằm áp đặt, lôi kéo người khác theo đạo. Dĩ nhiên, những công việc này rất ích lợi nếu phát xuất từ tấm lòng nhiệt tình với Tin Mừng, với ơn cứu độ. Khốn thay, không phải lúc nào cũng được như thế. Không những người ta đã bó buộc, đã áp đặt, nhưng còn lợi dụng danh nghĩa truyền giáo để mưu tìm những ích lợi cho riêng mình…
Tuy thế, chúng ta không hề có ý phủ nhận công lao vất vả của các vị truyền giáo đã đem Tin Mừng đi khắp thế giới. Chỉ có điều là, vẫn có những bóng đen trong lịch sử truyền giáo, và điều ấy phải là một kinh nghiệm sâu sắc cho cuộc loan báo Tin Mừng mới.
Như vậy, truyền giáo không phải là lôi bè, kết đảng làm sao lôi kéo nhiều người về với phe mình. Nhưng truyền giáo phải là tiếng gọi, là nhu cầu bên trong của cõi lòng tha thiết yêu thương, của tâm hồn có được kinh nghiệm về Đức Giêsu. Ngoài ra, truyền giáo cũng chính là để mọi người được sống trong tình thương, được tôn trọng để từ đó Nước Chúa được hiển trị và muôn người hợp nhất nên một trong ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô chịu chết và sống lại.
Từ đó, con đường hành động của người Ki-tô hữu không thể nào khác hơn con đường của Thầy mình: là hạt lúa mì gieo vào lòng đất, chịu thối rữa đi; là phải cúi xuống rửa chân cho anh em mình, là phải sẵn sàng phục vụ giúp đỡ những người khó khăn bên cạnh mình … nghĩa là phải đối xử với mọi người cách chân tình, đầy tâm tình yêu mến và kính trọng, bởi vì tâm hồn mình đang thấm đầy tình yêu và sức sống của Đức Ki-tô, Đấng đã chịu chết và sống lại cho tất cả mọi người.
Tin Mừng là tin mừng tình thương, chỉ khi nào con người sống trong tình thương, và loan báo, thể hiện tình thương đó, khi ấy mới thực sự là truyền giáo.
Lạy Chúa, con là sứ giả của Chúa
"Lạy Chúa, Chúa đã muốn chọn con để cộng tác vào việc loan báo Tin Mừng của Chúa. Chúa muốn đến với nhân loại qua cuộc đời của con. Chúa muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người qua trung gian của con.
Con là người được tham dự vào công trình của Chúa, con là sứ giả của Chúa. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn.
Vâng, lạy Chúa, Con biết rõ điều đó.
Chính Chúa đã kêu gọi con, đã đổ xuống trên con tình thương của Chúa. Chính Chúa đã đóng dấu ấn của Chúa trên con, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Chúa đã muốn dùng con để công bố những điều kỳ diệu mà không sợ rằng chân lý bị suy suyển vì tội lỗi của con.
Riêng con, con rất vui mừng và sung sướng được góp phần nhỏ nhoi của mình vào công việc lớn lao của Chúa. Con cảm thấy hạnh phúc vì được trở nên khí cụ để Chúa bày tỏ quyền năng.
Xin cho con luôn cảm thấy ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được Chúa đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả của Chúa.
Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật đó mỗi khi con được đón nhận, dù con thật bất xứng.
Nhưng lạy Chúa,
Con cũng nhận ra đây là một gánh nặng.
Con phải hoàn thành sứ mạng đã được trao phó “khi thuận tiện cũng như lúc khó khăn".
Con phải loan báo về Chúa, phải làm chứng - vì khốn cho con, nếu con không rao giảng. Con không thể tháo lui, bỏ mặc sứ mạng của mình.
Con phải ra đi, ra khỏi mình để loan báo, để thể hiện ơn cứu độ của Chúa cho mọi người, dù người đó là ai chăng nữa.
Đôi lúc con cảm thấy mình không đủ sức để chu toàn sứ vụ, đôi lúc con cảm thấy sứ vụ quá khó khăn mà dường như con không thể vượt qua.
Xin con luôn nhớ rằng Chúa vẫn ở bên con, vẫn là người hướng dẫn, vẫn là người chịu trách nhiệm về sứ vụ đã trao cho con.
Xin cho con đủ tin tưởng và can đảm để trở thành một khí cụ tốt …
Và lạy Chúa,
Làm sao con có thể thông truyền chân lý của Chúa mà chính con lại đã không đích thân chiếm lấy chân lý ấy, và Chúa cũng đã chẳng chiếm lấy con rồi?
Làm sao con có thể loan báo Tin Mừng mà đã không được Tin Mừng ấy ghi dấu sâu xa nơi tâm hồn mình.
Làm sao con có thể làm chứng về Chúa nếu con đã không có kinh nghiệm về Chúa?
Con hiểu rằng Chúa là Ánh Sáng, và ánh sáng đó bừng lên là nhờ chất dầu của cuộc đời con.
Con phải để cho ánh sáng đó bừng lên trong cuộc đời mình trước khi bừng lên trong thế giới.
Cuối cùng, lạy Chúa,
Chúa đã muốn sử dụng con, xin đừng để con thành một ngăn trở. Xin đừng để những vụng về, những yếu đưối của con làm hỏng đi công trình của Chúa, trái lại, xin cho mọi người đón nhận được Chúa qua cuộc đời của con." Theo Karl Rahner
Sau khi đã trả lời câu hỏi của người Pharisêu về biến cố Nước Thiên Chúa đến, Đức Giêsu ngỏ lời TN 29-C97 Dalat
Sau khi đã trả lời câu hỏi của người Pharisêu về biến cố Nước Thiên Chúa đến, Đức Giêsu ngỏ lời với các môn đệ để dạy họ về ngày Con Người tỏ mình ra (Lc 17,22-37). Có những từ hoặc câu được dùng làm móc liên kết các câu văn với nhau: động từ “[tôi] đến”, được dùng ở c. 20a (“đến”) và 22b (“sẽ đến”); hai câu tương tự: “«Ở đây này!» hay «Ở kia kìa»!” (c. 21a) và “Người ở kia kìa! hay Người ở đây này!” (c. 23b).
Ngay sau lời giáo huấn mang tính cánh chung của Đức Giêsu về [các] ngày của Con Người, tác giả Lc thêm một dụ ngôn để minh định điều Người đã nói, đó là Dụ ngôn Quan tòa bất chính (18,1-8).
Cũng như có một phương diện trong lối xử sự của người quản lý bất lương được đề ra như điển hình cho lối xử sự của Kitô hữu (16,1-8a), ở đây một quan tòa bất chính được dùng như một biểu tượng của Cha trên trời. Tuy nhiên, để độc giả khỏi hiểu sai hướng, bản văn có thêm cc. 7-8a giúp điều chỉnh hình ảnh của Thiên Chúa nếu như đã bị hiểu méo mó.
Chúng ta có thể đọc Hc 35,12-20 và coi đoạn này như là bối cảnh của dụ ngôn Tin Mừng. 2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Câu mở: Mục tiêu Đức Giêsu nhắm khi giảng dạy (18,1);
2) Dụ ngôn Quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy (18,2-5):
3) Biến một chi tiết của dụ ngôn thành ẩn dụ (18,6-8a):
- Câu chuyển mạch (c. 6), - Cách xử sự của Thiên Chúa (cc. 7-8a);
4) Biến cả dụ ngôn thành ẩn dụ (18,8b). 3.- Vài điểm chú giải
- phải cầu nguyện luôn (1): Từ “luôn” được dịch từ Hy Lạp pantote có nghĩa là “trong mọi tình huống, bất kể hoàn cảnh thế nào”. Đây không phải chỉ là một nhân đức hay là một bổn phận, mà là một sự cần thiết trong chương trình của Thiên Chúa (HL. dei).
- nản chí (1): Động từ Hy Lạp egkakeô có nghĩa gốc là “ở trong một con đường xấu”, từ đó có nghĩa là “chán chường; buông xuôi”.
- một bà góa (3): Hình ảnh của bà góa trong bản văn phù hợp với hình ảnh Cựu Ước: thường các bà không được xử công bình (x. Xh 22,22-24; Đnl 10,18; 24,17; Ml 3,5; R 1,20-21; Ac 1,1; Is 54,4; Tv 68,5). Lưu ý là truyền thống Lc (Lc-Cv) nói nhiều đến các bà góa (Lc 2,37; 5,25-26; 7,12; 20,47; 21,2-3; Cv 6,1; 9,39.41).
- Bà này đã nhiều lần đến (3): Động từ êrcheto ở thì vị-hoàn (imperfect) cho biết bà đã đến liên tục và còn đến. Bởi vì tình trạng của bà là tuyệt vọng, bà chỉ còn vũ khí cuối cùng là kiên trì.
- xin ngài minh xét cho tôi khỏi tay đối phương (3): Bà không xin quan toà trừng phạt đối phương, nhưng xin ông minh định quyền lợi của bà.
- kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc (5): Động từ hypôpiazein có nghĩa là “đánh dưới mắt” (ngôn ngữ quyền Anh); vả, tát”, từ đó có nghĩa là “gây phiền hà, dằn vặt”.
- quan toà bất chính (6): “Bất chính” là từ ngữ đánh giá lối cư xử trước đây của ông, chứ không không phải là đánh giá về quyết định của ông đối với vụ việc của bà góa (x. 16,8a: “người quản lý bất lương”).
- nói đó! (6): Kết luận này chuyển sự chú ý đi từ bà góa sang cách xử sự và suy nghĩ của ông quan tòa. Độc giả được gợi ý để hiểu ngầm: Phương chi Thiên Chúa! Ngài sẽ đáp ứng lời thỉnh cầu tha thiết của con người khi họ kêu cầu Ngài.
- những kẻ Người đã tuyển chọn (7): Từ ngữ “kẻ được [Thiên Chúa] tuyển chọn” có một lịch sử dài trong Kinh Thánh, với ý nghĩa tổng quát là những kẻ được Thiên Chúa để riêng ra vì Ngài yêu thương họ, tức là vô điều kiện, không hề bị ép buộc, hoàn toàn tự do. Từ này đặc biệt có liên hệ với thời bách hại.
- lòng tin trên mặt đất (8): nghĩa là lòng tin gợi hứng cho lời cầu nguyện tha thiết. Câu hỏi này cần được liên kết với lời mở ở c. 1. 4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu mở: Mục tiêu Đức Giêsu nhắm khi giảng dạy (1)
Trước đây (x. Lc 11,1-13), khi các môn đệ thỉnh cầu, Đức Giêsu đã dạy các ông Kinh Lạy Cha, và nhấn mạnh rằng Thiên Chúa còn sẵn sàng chấp nhận lời con cái Ngài kêu xin hơn là các người cha trần thế. Ở chương 11, tác giả Lc đề cập đến việc cầu nguyện cá nhân. Nhưng nội dung của câu mở (Lc 18,1) ở đây lại nói trực tiếp đến việc kiên trì cầu nguyện, chứ không nói đến sự tin tưởng là Thiên Chúa sẽ đáp lời ta xin, nên để đón nhận được bài học, chúng ta cần hiểu ngữ cảnh bản văn đang suy ngẫm.
Bản văn Lc 17,20-37 kết thúc chương 17 trả lời cho hai câu hỏi “Khi nào Nước Thiên Chúa đến?” và “Nước ấy đến ở đâu?”. Vậy lời dạy của Đức Giêsu về việc cầu nguyện liên tục và không được nản chí là nhằm có được tư thế sẵn sàng cho biến cố chung cuộc, Nước Thiên Chúa đến. Chính động từ egkakeô, “chán chường; buông xuôi”, được dùng ở đây (xem thêm Lc 17,20; 21,36) cũng như trong các Thư Phaolô (2 Cr 4,1; Gl 6,9; x. Ep 3,13; 2 Tx 3,13) thuộc về bối cảnh cánh chung (Ngày Quang lâm). Do đó, ở đây có thể hiểu là Đức Giêsu muốn khuyên bảo các môn đệ: trong thời gian này là thời gian chờ đợi Người trở lại, thời gian đầy thử thách, các ông không được chểnh mảng hay bỏ mất việc cầu nguyện, vì bất cứ lý do gì. Đây là một sự cần thiết (chứ không phải là một sự chọn lựa tùy nghi), liên tục (“luôn luôn”, chứ không thỉnh thoảng) và “không được nản chí” (phải kiên trì chứ không được chán nản buông xuôi). * Dụ ngôn Quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy (2-5)
Bây giờ Đức Giêsu kể một dụ ngôn nhằm cho thấy rằng các môn đệ có thể tin tưởng vô điều kiện vào Thiên Chúa, là chắc chắn Ngài chấp nhận lời các ông cầu nguyện, cho dù sự chấp nhận không xảy ra ngay và các ông cứ phải lặp lại nhiều lần lời cầu nguyện.
Tuy nhiên, nhân vật đầu tiên được nói đến lại không phải là bà góa đang gặp khó khăn, mà là ông quan tòa. Nơi chốn mang tính tổng quát: “Trong một thành kia”, nhằm nêu bật đặc tính điển hình. Còn ông quan toà thì tỏ ra độc lập và tự phụ; ông chỉ biết chính ông, lợi lộc của ông và sự thoải mái của riêng ông mà thôi. Ông không hề kính trọng Thiên Chúa, chẳng sợ ngày nào đó phải ra trước tòa Ngài; ông cũng chẳng nể sợ ai cả, tức là một kẻ không tuân giữ Luật Thiên Chúa (“yêu mến Thiên Chúa hết lòng, và yêu người thân cận như chính mình”). Quả thật, các Thánh vịnh có nói đến những hạng quan tòa như thế (x. Tv 58,2-3; 82,2). Ngôn ngữ Kinh Thánh gọi hạng người này là “quân gian ác”. Giới thiệu ông quan tòa bất chính trước như thế, hẳn là tác giả muốn tập trung chú ý vào tình trạng không thể làm gì được nữa: không mong có một cơ may nào cho bà góa kia đâu, bởi vì mọi sự đã qua rõ ràng. Một quan tòa không giữ lề luật, cũng chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng coi ai ra gì, chắc chắn sẽ không đề lòng mình mềm ra vì một người đàn bà, phương chi một bà góa.
Còn bà góa, chúng ta không biết gì về tuổi tác, thu nhập, mức độ lệ thuộc, hoặc kẻ thù của bà, chỉ biết rằng bà thuộc về một trong ba hạng người thất thế về phương diện xã hội (quả phụ, cô nhi và di dân). Chính vì thế ông quan tòa chẳng có gì phải quan tâm đến bà. Nhưng hẳn là các thính giả cảm thấy xót xa khi nghe nói là bà phải gặp một quan tòa “chẳng coi ai ra gì”. Tuy nhiên, bà góa nghĩ rằng vụ việc của bà là đúng, và không có một chi tiết nào trong bài dụ ngôn gợi ý là vụ việc của bà không đúng, dù ta không biết là việc gì. Do đó, bà kiên trì kêu cứu. Bà kiên trì đến mức ông quan tòa cứng lòng và khinh người đã phải xét vụ việc của bà và cho bà được như ý. Để có thể làm chuyển động ông quan tòa đó, nại đến lương tâm thì không ích gì; phải chạm đến tính ích kỷ của ông: Ông phải minh xét vì không muốn bị quấy rầy liên tục như thế. * Biến một chi tiết của dụ ngôn thành ẩn dụ (6-8a)
Thế rồi Đức Giêsu hỏi hai câu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?” (c. 7), mà không chờ câu trả lời, vì biết rằng ai cũng biết câu trả lời: “Chắc chắn Thiên Chúa sẽ minh xét cho những kẻ Ngài đã tuyển chọn, và Ngài sẽ không trì hoãn”. Nhưng Đức Giêsu lại nhấn mạnh hơn đến phản ứng của Thiên Chúa trước lời cầu nguyện: “Người sẽ mau chóng minh xét cho họ” (c. 8). Câu trả lời của Người vừa vững chắc, vừa tin tưởng, lại vừa thách đố: làm sao có thể khác được, khi Thiên Chúa là Thiên Chúa và khi những kẻ Người đã tuyển chọn đúng là như thế (“ngày đêm hằng kêu cứu với Người”)?
Để nêu bật sự mau mắn của Thiên Chúa trong việc đáp ứng những kẻ Ngài đã tuyển chọn, Đức Giêsu dùng một hình ảnh phản diện: ông quan tòa bất chính. Nếu lời cầu xin bền bỉ đã khiến cho kẻ có tính ích kỷ phải đáp ứng, thì càng khiến Thiên Chúa phải quan tâm, bởi vì Ngài không hề ích kỷ chút nào. Thật vậy, khi dạy các môn đệ cầu nguyện, Đức Giêsu đã bảo các ông thưa với Thiên Chúa như với “Cha” (Lc 11,2). Thêm vào bài học diễn tả qua hình ảnh ông quan tòa, hình ảnh bà góa lại củng cố những ai đang lung lay trong việc cầu nguyện. Như thế, bằng sự tương phản giữa hai dung mạo, Đức Giêsu đưa các thính giả đến chỗ đồng ý rằng quả thật không hề có một lý do gì mà nói rằng việc cầu nguyện kiên trì với vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương và toàn năng lại không được chấp nhận.
Tuy nhiên, vì công thức “những kẻ Người đã tuyển chọn” có liên hệ đến thời bách hại, bài học của đoạn Tin Mừng này, ngoài mục tiêu là Ngày Tận Thế, cũng nhắm tới các hoàn cảnh khó khăn của những người đang bước theo Đức Giêsu và khuyến khích họ cứ vững tin vào Thiên Chúa. * Biến cả dụ ngôn thành ẩn dụ (8b)
Đến đây Đức Giêsu lại hỏi: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người có tìm được lòng tin trên mặt đất chăng?”. Câu này đưa thính giả đi từ giọng điệu tích cực và khích lệ của cc. 6-8a sang một giọng điệu ưu tư, thách đố, bằng cách gợi ý là rất có thể Con Người không tim được “lòng tin” (tên pistin, ở dạng xác định, với quán từ xác định, chứ không ở dạng bất định) khi Người trở lại vào Ngày Phán Xét. Mô tả Đức Giêsu là “Con Người” có nghĩa là xác định Đức Giêsu sẽ phán xét loài người vào lúc tận thế. Còn “lòng tin” được nói đến ở đây hầu chắc có nội dung chuyên biệt có Đức Giêsu là trung tâm cùng với giáo huấn của Người. Như vậy, Người hỏi là khi trở lại, liệu Người trong tư cách “Con Người” có tìm được chăng lòng tin nơi Người và nơi giáo huấn của Người. Nhưng “lòng tin” đây còn có thể là điều tập trung trực tiếp hơn vào vấn đề được bài dụ ngôn nói đến: lòng tin nâng đỡ việc cầu nguyện liên tục, mà nếu không có lòng tin này, các môn đệ sẽ không cầu nguyện liên tục, sẽ nản chí. Vậy “lòng tin” đây còn có thêm nét này, là xác tín rằng chắc chắn Thiên Chúa sẽ nghe lời chúng ta cầu nguyện và sẽ mau mắn đến với chúng ta. + Kết luận
Bản văn chúng ta đang đọc có hai điểm nhắm: Ở c. 1, điểm nhắm là người cầu nguyện phải kiên trì; ở cc. 6-8a, tác giả lại tâp trung vào thực tại Thiên Chúa chắc chắn nhận lời cầu nguyện. Vậy, một đàng, tác giả muốn giúp các độc giả kiên trì cầu nguyện, đừng nản chí, cho dù có được đáp trả thế nào; đàng khác, ngài bảo họ là đừng bao giờ nghi ngờ là Thiên Chúa không nghe lời các kẻ Ngài đã tuyển chọn và không mau mắn đáp ứng họ. Bài dụ ngôn về Ông quan tòa và bà góa giúp giải thích hai điểm giáo huấn ấy. Tuy nhiên, tác giả cảm thấy cũng phải đưa vào câu nói cuối cùng của Đức Giêsu: liệu người môn đệ có thật sự tiếp tục tin vững vàng rằng Thiên Chúa quá yêu thương dân Ngài, nên không thể nào không mau mắn đáp lại lời họ cầu nguyện chăng?
Sự tương phản giữa việc cầu nguyện không nản chí và việc Thiên Chúa mau mắn đáp lời cầu nguyện là do hai hoàn cảnh khác nhau: một bên là sự chờ đợi Phán Xét chung cuộc quá lâu; bên kia là tình trạng chịu bách hại. Đối với những người chịu bách hại, Thiên Chúa sẽ mau mắn can thiệp; còn đối với những người nản chí, hãy nhớ rằng Con Người sẽ đến kết thúc thế giới này.
Cuối cùng, có thể nói cốt lõi của bài học là nghĩ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với người cầu nguyện và tin vào tình yêu ấy. Chính Đức Giêsu cũng đã phải đối diện với thách đố này: chính Người đã nghĩ rằng điều tốt hơn cho Người là tránh cái chết. Chỉ có sự tín nhiệm nơi tình yêu của Cha Người đối với Người mới khiến Người nói, mỗi khi Người nói rằng Người không muốn chết: “Xin cho ý Cha, chứ không phải ý con, được thực hiện” (Lc 22,42). Ở đây, cũng như trong mọi tình huống của cuộc đời, Người luôn để cho sự hiểu biết về tình yêu của Cha Người hướng dẫn mọi quyết định và hành động của Người. Việc Người cầu nguyện liên tục cho thấy lòng tin của Người đặt nơi tình yêu của Cha Người đối với Người; Người trở thành một điển hình để trả lời cho mối bận tâm của tác giả Lc, đó là cầu nguyện luôn và không được nản chí. Lời khuyến cáo duy nhất Người nói với các môn đệ khi ở trong vườn là: “Dậy mà cầu nguyện” (Lc 22,46). Quả thật, Thiên Chúa luôn tìm thấy Đức Giêsu kiên trì cầu nguyện (cả trên thập giá) cho đến tận lúc Ngài đến đưa Người về với Ngài.
Nói tóm, nếu một quan tòa bất chính và khinh người, mà chỉ vì muốn yên thân, đã xử công bình, thì một Người Cha yêu thương sẽ làm gì? Tình yêu của Ngài sẽ khiến Ngài cứ lần lữa, hay là làm cho Ngài mau mắn hành động? Bà góa đã thắng vụ kiện do liên tục quấy rối ông quan tòa bất chính; dưới ánh sáng của hoàn cảnh của bà, ta có thể nói gì về việc cầu nguyện liên tục với Thiên Chúa? Chúng ta còn có thể nghi ngờ là một việc cầu nguyện kiên trì không đưa lại hiệu quả gì cho chúng ta sao? 5.- Gợi ý suy niệm
1. Người ta thường đặt ra các câu hỏi như sau: Việc cầu nguyện có giá trị gì chăng? Thiên Chúa có quan tâm đến người cầu nguyện không? Phải chăng lời cầu nguyện chỉ như hơi thở hòa vào trong gió? Người ta hỏi như thế vì ghi nhận rằng dường như Thiên Chúa không phản ứng, và có biết bao người đã từng ngỏ lời với Ngài mà không nhận được sự trợ giúp của Ngài. Nếu lời cầu nguyện không có hiệu quả gì, thì nó có giá trị gì? Hợp lý nhất chẳng phải là ngưng cầu nguyện, để khỏi phí thì giờ sao? Tốt nhất không phải là tránh mọi ảo tưởng sao? Nếu đã không xoay trở được một mình hoặc không tìm được sự trợ giúp của người khác, chúng ta lại không phải suy ra rằng chúng ta cũng chẳng có thể trông mong gì được nơi Thiên Chúa sao? Đức Giêsu đã kể dụ ngôn Quan tòa bất chính để trả lời các vấn nạn này.
2. Nếu chúng ta cầu nguyện liên lỉ với Thiên Chúa, thì không phải là vì Thiên Chúa không quan tâm đến ta, nên ta phải quấy rầy Ngài. Thật ra khi đó, chúng ta sống được tương quan hiếu thảo với Ngài vì Ngài là Cha chúng ta, và ta cũng hiểu được chương trình Ngài đang theo để biết cộng tác vào. Thiên Chúa không phải là một quan tòa bất chính, hoàn toàn lãnh đạm đối với chúng ta, nhưng Ngài là Cha chúng ta, Ngài đồng hành với chúng ta với tất cả mối quan tâm từ phụ. Đối với Ngài, chúng ta không phải là những sinh vật vô nghĩa, không giá trị, mà là những kẻ Ngài tuyển chọn, những con cái được Ngài yêu thương. Tương quan này giữa Thiên Chúa và chúng ta là lý do khiến chúng ta không bao giờ được ngưng cầu nguyện; đã thế, chúng ta lại hoàn toàn có thể tin tưởng rằng lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được chấp nhận. Do đó, không phải là vì Thiên Chúa, nhưng là vì chúng ta, chúng ta cần cầu nguyện kiên nhẫn, không ngừng.
3. Nếu chúng ta không cầu nguyện nữa, nếu chúng ta không tin tưởng Thiên Chúa nữa, chúng ta không nhìn nhận Ngài là Cha chúng ta và coi Ngài như là một Đấng bất lực hoặc như một nhà độc tài lãnh đạm. Do đó, cùng đi kèm với lời chúng ta cầu nguyện, phải có lòng tin của chúng ta đặt vào Thiên Chúa như là Cha chúng ta. Cho dù chúng ta có phải chờ đợi, cho dù chúng ta có không cảm nhận được sự gần kề của Thiên Chúa, cho dù lời chúng ta cầu nguyện có khi như rơi vào khoảng không, Thiên Chúa là và vẫn là Cha chúng ta. Chúng ta cần thưa gởi với Ngài, chúng ta phải duy trì cho sống động dây liên kết con cái với Chúa Cha. Nếu chúng ta ngưng cầu nguyện, mà coi việc cầu nguyện không có ý nghĩa, chúng ta cũng cắt đứt tương quan này. Ai không cầu nguyện nữa và chỉ cậy dựa vào sức riêng, người ấy độc lập đối với Thiên Chúa và loại trừ Ngài.
4. Bởi vì Ngài là Cha chúng ta, Thiên Chúa không thể không nhận lời chúng ta thỉnh cầu. Tuy nhiên, chúng ta không được quy định cho Ngài cách thức và thời điểm Ngài phải nhận lời chúng ta. Chỉ có một điều chúng ta biết chắc chắn, đó là Ngài sẽ minh xét cho chúng ta, sẽ cứu chúng ta. Ngài có thể thử thách chúng ta lâu dài, nhưng cũng có thể can thiệp rất nhanh, mà ta không ngờ. Dù thế nào, Ngài cũng không bao giờ bỏ chúng ta, không để chúng ta phải hư mất. Đối với Đức Giêsu, sự trợ giúp của Thiên Chúa là chuyện tuyệt đối chắc chắn, bởi vì quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa là những thực tại tuyệt đối chắc chắn. Chính vì thế, chắc chắn việc cầu nguyện vừa cần thiết vừa có ý nghĩa.
5. Nếu chúng ta không tin tưởng vào Thiên Chúa và loại trừ Ngài, chúng ta sẽ không được Ngài trợ giúp nữa, không phải vì Thiên Chúa không muốn giúp đỡ chúng ta, nhưng bởi vì chúng ta không mở lòng ra với Ngài để đón nhận Ngài. Do đó, câu hỏi của Đức Giêsu ở cuối bài Tin Mừng là một lời mời gọi chúng ta tin rằng nhờ đức tin và lời cầu nguyện, chúng ta luôn kết hợp với Thiên Chúa, và như thế, chúng ta sẵn sàng đón lấy sự trợ giúp và ơn cứu độ Ngài ban.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm ----------------------------------------
Sống ở đời con người không thể sống lẻ loi, đơn độc bởi vì không ai là một hòn đảo. Trái lại, con TN 29-C98
Sống ở đời con người không thể sống lẻ loi, đơn độc bởi vì không ai là một hòn đảo. Trái lại, con người sống liên đới với nhau, nên, mọi người đều mang ơn nhau và đều cần đến nhau. Câu chuyện Chúa Giêsu thuật lại trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 18, 1-8 nói về “ Bà góa quấy rầy “ và “ Vị quan án bất lương ”dù không muốn giúp, không muốn giải quyết cho bà góa này, nhưng vì bà góa cứ quấy rầy mãi,vị quan án này cũng phải xét xử để bà góa đừng đến quấy rầy ông ta nữa! Dụ ngôn nhằm động viên, khích lệ các môn đệ bởi vì Chúa đã cảnh tỉnh các ông về ngày tận thế, do đó, Ngài sợ các ông lo lắng, bối rối, sợ hãi, nên mới kể cho các ông dụ ngôn này…Ngài muốn cho các môn đệ biết Chúa nhân từ biết bao, nên Ngài sẽ cứu giúp những ai biết kiên tâm khẩn cầu Ngài…
Các bài đọc hôm nay, giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn về việc cầu nguyện.Đặc biệt, Tin Mừng của thánh Luca luôn được coi là Tin Mừng cầu nguyện. Xuyên suốt Tin Mừng của thánh luca cho thấy, Chúa dạy các môn đệ cầu nguyện và khẳng định phải cầu nguyện như Ngài, phải cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngừng, đừng bao giờ nản, đừng bao giờ chán, đừng bao giờ ngã lòng. Đưa ra dụ ngôn “ Quan án bất lương “ và “” Người bạn quấy rầy “, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ và nhân loại rằng Thiên Chúa là Cha nhân từ, không bao giờ từ chối bất cứ điều gì con người thành tâm kêu khẩn với Ngài. Chúa dạy chúng ta cứ xin thì được, cứ gõ thì mở, cứ tìm sẽ gặp…Lẽ dĩ nhiên Chúa hoàn toàn khác với cách hành động của ông quan án hay người bạn trong đêm vì lời kêu cầu của người khác, mặc dầu đang ngủ nhưng cũng dậy để giải quyết việc cho người bạn hàng xóm. Thiên Chúa là Đấng chí công, Ngài nhân từ, hiền lành và khiêm nhường. Ngài luôn trung thành dù con người có bất trung. Nhiều khi chúng ta cầu nguyện nhưng chưa thấy Chúa nhậm lời, không phải vì Ngài không cho hay không nhậm lời, nhưng Ngài thử lòng chúng ta, và để thanh lọc, thanh luyện tư tưởng, suy nghĩ của chúng ta…Ngài sẽ kíp giải oan cho chúng ta vv…
Chúa luôn kiên nhẫn, Ngài làm gương cho chúng ta về việc cầu nguyện.cả cuộc đời của Người là lời cầu nguyện không ngừng. Lúc nào Ngài cũng cầu nguyện: Ngài cầu nguyện trước khi làm phép lạ, Ngài cầu nguyện trong vườn Cây Dầu, mồ hôi và máu chảy ra, Ngài cầu nguyện thâu đêm trước khi chọn các môn đệ. Chúa củng cố tinh thần các môn đệ trước những thử thách gian nan của cuộc đời. Ngài nói ma quỷ sẽ sàng các con như sàng gạo, các ngài sẽ bị bỏ vạ, cáo gian, các ngài sẽ bị đau khổ, bắt bớ, nhưng Chúa hứa:” Thầy đã thắng thế gian.Các con đừng sợ vì chính Thiên Chúa đã tuyển chọn các con “. Cầu nguyện là biểu hiệu của đức tin. Thực tế, Chúa lo âu về đức tin của con người. Chúa luôn yêu thương con người, Ngài luôn lắng tai và nghe chúng ta khẩn cầu, nguyện xin. Chúa không bao giờ từ chối những điều Ngài xét thấy cần cho bản thân, cho cuộc sống của chúng ta. Khi cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra sự có mặt của Thiên Chúa, chúng ta sẽ hiểu được thế nào là sự can thiệp của Thiên Chúa. Nhờ đó, chúng ta luôn gắn bó với Ngài…Không cầu nguyện, chúng ta sẽ không bao giờ có thể gặp được Chúa.
Do đó, qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, chúng ta nhận ra việc cầu nguyện là ưu tiên số một, là cần thiết nhất trên đời.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết vâng nghe lời Chúa, thực hành lời Chúa và siêng năng cầu nguyện: cầu nguyện mãi mãi, cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện không ngừng. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng vào Chúa, luôn cậy trông vào Mẹ Maria. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa lại gọi ông Quan Án trong dụ ngôn này là bất lương ? 2.Bà góa trong Tin Mừng hôm nay là người thế nào ? 3.Tại sao Chúa lại dùng dụ ngôn để dạy các môn đệ ? 4.Dụ ngôn mà Chúa Giêsu đưa ra hôm nay nói gì cho chúng ta ? 5.Có cần phải cầu nguyện không ?
(Suy niệm và Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
1. Câu nhập đề (c.1) xác định ý nghĩa dụ ngôn: việc cầu nguyện kiên trì, trong các hoàn cảnh thất vọng nhất (pantote: trong mọi hoàn cảnh, dù thế nào đi nữa) không chỉ là một bổn phận hay một nhân đức, mà là một nhu cầu thiết yếu phải là (dei).
Phải kiên trì và liên lỉ cầu nguyện, không thoái nhượng, giảm sút, không buông thả (egkakeo). Ngoài Lc TN 29-C99
Phải kiên trì và liên lỉ cầu nguyện, không thoái nhượng, giảm sút, không buông thả (egkakeo). Ngoài Lc với một lần duy nhất dùng chữ đó, người ta chỉ thấy động từ egkakeô nơi Phaolô (Eph 3,13; Gal 6,9; 1Th 3,13; 2Cor 4,1.16). Cách dùng động từ này hầu như luôn có màu sắc cánh chung và Chúa Giêsu đã nhiều lần khuyên bảo kiên trì cầu nguyện như thế ngay sau khi gợi lên cuộc quang lâm của Ngài (Lc 21,36; Mc 13,32-37), nên mệnh lệnh “không buông thả” có một ý nghĩa chuyên môn. Nghĩa là, trong khi chờ ngày Đức Kitô trở lại, đấy là thời thử thách, các môn đệ không được trì trệ hay buông thả việc cầu nguyện. Thay vì chán nản vì lời khẩn cầu xem ra vô vọng, họ phải phấn đấu chống lại mệt mỏi và tiếp tục việc bổn phận ấy chừng nào có thể.
Câu nhập đề này phải luôn qui hướng để hiểu dụ ngôn. Đây không chỉ là lời giáo huấn về việc cầu nguyện nói chung, mà là lòng kiên trì bền chí khi cầu nguyện; sự kiên trì này vừa là thái độ chính yếu của môn đệ trong thời cánh chung, vừa cũng là môt thử thách cam go của thời sau hết. Đó là điều dụ ngôn muốn xác quyết trước hết: chiếm hữa sự công chính, nghĩa là sự giải thoát dành cho các người được chọn lúc Chúa tái giáng; đoạn nói đến lý lịch của các thính giả: “Ngài nói với họ”, với chính các môn đệ đã từng nghe các giáo huấn trước kia; sau cùng câu kết luận gợi lên việc Con Người trở lại (c.8) và kết thúc bằng việc tiên báo ngày Ngài đến lần cuối (17,22-24). Không thể hiểu sự đối chọi giữa lời cầu xin bền bỉ của bà góa và tính ù lì của vị thẩm phán, nếu không chú ý đến chủ đề cánh chung này. “Dụ ngôn này liên hệ chặt chẽ với những điều trước, nghĩa là với các khó khăn các tín hữu sẽ gặp, và với việc Con Người đến: (Lagrange). Nhiều tác giả cũng đồng ý như thế: Godet, Zahn, Rengstorf, Schlatter, Oesterley, Creed, Vaganay.
Khi được các người biệt phái hỏi về thời gian Vương quốc Thiên Chúa sẽ đến (17,20), Chúa Giêsu trả lời biến cố này không thể quan sát được, vì Vương quốc có bản tính thiêng liêng. Ngay sau đó, Ngài quay lại nói với các môn đệ về những điều kiện của việc tái hiện, vừa thình lình và nhanh như chớp. Quả thực, sau khi Ngài ra đi, các tín hữu phải sống trong mọt thời kỳ bị kìm kẹp, đầy khổ hình, nên đã khẩn khoản van nài Đức Kitô vinh hiển tỏ mình ra cách khải hoàn chiến thắng, và đến can thiệp bênh đỡ họ: “Các ngươi ao ước thấy được một ngày của Con Người mà thôi nhưng cũng không thấy được ” (17,22). Ước nguyện sôi nổi được giải phóng khỏi người hung dữ được nhận lời. Chúa sẽ tỏ mình ra cách hữu hình. Do đó phải chờ đợi trong đức tin cho đến ngày cuối cùng, là ngày Ngài sẽ xuất hiện sáng láng, “như chớp lòe từ phương trời này đến phương trời kia” (17,24). Lúc đó, có nhiều người vẫn ngủ mê, sống cách vô tư, không bận tâm đến đời sống tôn giáo, tự cho mình đã được an toàn, giống như ngày hôm trước xảy ra lụt hồng thủy; và ngày tàn phá Sôđoma (17,26-30). Vì ngày quang lâm đến bất ngờ, nên các môn đệ được khuyên nhủ phải luôn sẵn sàng (17,31-33). Vì cũng như các đại họa trước, Con Người sẽ đến thình lình, không ngờ trước được, do đó quá chậm trễ, khi đến giây phút cuối cùng mới nghĩ đến những dự phòng cần thiết để được cứu thoát. Bài học thật rõ ràng: trái với lần xuất hiện thứ nhất, tiệm tiến và thấy được, lần tái hiện sẽ thình lình và nhanh như chớp; nhưng vì còn lâu mới đến, nên sẽ đến bắt chợt từng người. Do đó phần đông không còn nghĩ đến ngày đó nữa, và đắm chìm trong trạng thái hôn mê thiêng liêng. Ngay những kẻ đã từng kêu xin Chúa đến cứu giúp xem ra quá thất vọng và trong tâm khảm không còn niềm ao ước thuở ban đầu là nhìn thấy ngày của Con Người nữa. Chính để dạy về việc phải luôn nhiệt tâm, phải cầu nguyện không ngừng – Khi Chúa chậm đến và xem ra giả điếc trước các lời kêu xin – mà Ngài đưa ra dụ ngôn người thẩm phán bạo ngược và bà góa kiên trì này.
2. Dụ ngôn đã vắn tắt phác họa chân dung con người ích kỷ. Nếu y làm việc thiện, đó không phải vì y quyết định trở nên tốt, nhưng một tình cớ nào đó đã may mắn tạo nên sự trùng phùng giữa việc thiện người khác và ích lợi riêng tư của y: trong trường hợp đang gặp, khi minh xử cho bà góa cứng đầu này, chỉ vì y muốn được yên thân.
So sánh một người như thế với Cha trên trời là một điều không thể được. Dụ ngôn sẽ làm ta khó chịu, nếu so sánh trực tiếp như thế; nhưng nếu được xem như một chủ đề tương phản (thème à contraste), dụ ngôn thật tuyệt diệu và ý nghĩa. Hình ảnh đáng ghét của người ích kỷ, bây giờ trở nên châm biếm: “Hỡi các thính giả, đâu là lý luận của các người, các người chấp nhận một vị thẩm phán bạo ngược ích kỷ có thể vui lòng minh xử cho một người không liên hệ gì với y, còn các người lại nghi ngờ Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại có thể từ chối lời cầu xin của các người được chọn sao?”. Từ câu 7 trở đi, vị thẩm phán bạo ngược là đề tài tương phản. Chính Chúa Giêsu đưa ra phản đề: hãy nghe vị thẩm phán bất lương phán. Y nói gì? Ta sẽ minh xử cho bà, hầu bà để ta yên thân. Còn Thiên Chúa thì không giải oan minh xử sao? Cách đặt câu hỏi như thế này là để làm cho câu phản đề được mạnh hơn. Để đối chiếu với vị thẩm phán chỉ yêu chính mình, không sợ Thiên Chúa cũng như loài người, đối với y, bà góa chỉ là một người quấy rầy, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người cha trên trời vô cùng nhân từ, luôn lo lắng cho kẻ được chọn, luôn kêu cầu Ngài ngày đêm. Sự kiên nhẫn cầu nguyện được qui chiếu với tính cứng đầu của bà góa. Cũng như bà ta, các môn đệ sẽ bị ngược đãi trong thế giới, phải chịu những bất công, không được ai bênh vực chở che. Họ chỉ có Thiên Chúa lưu tâm đến. Nếu họ bền chí tiếp tục cầu nguyện không sờn lòng. Vị thẩm phán tới cao sẽ không thể làm ít hơn “vị thẩm phán bất công và bạo ngược”.
3. Sự kiên trì đầy công nghiệp này, điều kiện để được nhậm lời, giả thiết là “trong một thời gian dài” Thiên Chúa kiên nhẫn và lặng thinh, xem ra bất màng đến con cái mình. Do đó phải hiểu câu 7b: kai makrotthumei ep autois, là câu đã được giải thích nhiều cách. Một số tác giả đã nối kết hai động từ của câu: “Và Thiên Chúa chẳng minh xử cho các kẻ được chọn hằng kêu cầu Ngài ngày đêm và Ngài lại trì trệ với họ sao?”.
Thực ra, cần phải lưu ý trước tiên đến thì của các đông từ, nó không cho phép nối thì hiện tại makrothumei với subonctif aoriste pôiêsêi, nhưng đòi nối kết lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa với tiếng van nài liên lỉ và hiện thực của các môn đệ. lúc ấy, câu 7 lập lại 2 chủ đề của dụ ngôn: một đàng, cầu nguyện không bao giờ buông thả. Đàng khác, sự trì hoãn của vị thẩm phán giả điếc làm ngơ không chịu giải quyết vấn đề. Mệnh đề cuối cùng, thay vì là câu nói lên một tư lợi phụ thuộc, đã xác định tương đồng giữa vị thẩm phán và Thiên Chúa: cả hai đều trì hoãn, dù có tiếng kêu cầu.
Makrothumein là động từ mà các bản papyrus không hề dùng, các bản văn cổ điển ít xử dụng, nhưng được thánh kinh dùng nhiều. Trong Tân Ước nó có nghĩa “kiên nhẫn chịu đựng, bao dung”, và có ý ám chỉ lòng kiên nhẫn – tính bao dung của Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người. Đó là một ý chí kiên trì hằng muốn tha thứ, thay vì giận dữ tội nhân, tìm thời cơ và chuẩn bị các dịp thuận tiện để giúp tôi nhân ăn năn hoán cải. Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa là một trong những thành tố hữu hiệu nhất để thực hiện ơn cứu độ phổ quát (Rm 2,4; 9,22; 1Tm 1,16). Từ đó, sự bất động hay bất can thiệp của Thiên Chúa, thay vì được coi như là dấu hiện Ngài tỏ ra thờ ơ lãnh đạm, lại là bằng chứng lòng nhân từ của Ngài; không có gì đáng tức giận, như bà góa đã không tức giận trước sự chậm chạp và chống đối của thẩm phán. Chính trong thời gian trì hoãn này mà ta phải tiếp tục bền chí cầu xin, không sờn lòng, vì kinh nguyện nằm trong chương trình kiên nhẫn của Thiên Chúa.
Cần phải trích dẫn trọn vẹn thần học cánh chung của 2P 3,9-15: “không phải Chúa chậm trễ giữ điều đã hứa (lời Chúa Giêsu hứa sẽ trở lại) như có kẻ cho đó là trễ tràng, nhưng Ngài xử khoan dung đối với anh em (makrothumei), bởi không muốn ai phải hư đi, nhưng là hết thảy tìm đường hối cải. Còn ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm; trong ngày đó các tầng trời xèo xèo biến sạch; ngũ hành cháy rụi; đất và các công trình trên đất bị bắt gặp… Vì muôn vật sẽ bị tiêu tan như thế, thì anh em phải nên người thế nào về đức hạnh thánh thiện, và lòng đạo đức trong sự ngóng đợi và cố hối mau cho ngày Thiên Chúa chóng tỏ hiện, ngày sẽ làm các tầng trời bốc cháy tiêu tan và ngũ hành bị thiêu… Trời mới và đất mới đó là điều ta ngóng đợi chiếu theo lời hứa của Ngài… Bởi thế, trong lúc chờ đợi, anh em hãy cố gắng để nên tinh toàn vô tì tích, mà sống trong bình an trước mặt Ngài, vì hãy nghĩ rằng lòng khoan dung kiên nhẫn (makrothumia) của Chúa chúng ta là ơn cứu rỗi của anh em.
Vậy giờ đây, việc Thiên Chúa trì hoãn đã được biện minh trong dụ ngôn vị thẩm phán ù lì. Vâng, Thiên Chúa trì hoãn; đúng là Ngài không can thiệp, dù biết bao,lời kêu van đến Ngài; và chính vì thế mà câu 7b kai makrothumei ep autois nhấn mạnh. Chữ kai có thể có nghĩa concessive, tương tự như ei cai của câu 4: “dù rằng”, hay như kaitoi, kaiper, nhưng đúng hơn nên mặc cho nó nghĩa adversative, đã được Tân Ước dùng nhiều (Lc 13,17; 10,24; Mc 4,17; Gio 7,19; 16,32; 20,29; Cvsđ 7,5…) và tương đương với chữ Waw trong ngôn ngữ Sêmit. Dù sao, chữ kai nói lên sự trùng phùng giữa hai hoạt động và đồng nghĩa với “thực vậy, thực ra” (Cvsđ 22,28; 1Th 2,19; 1Cor 14,19; Col 3,8; 4,3). Phải chăng Thiên Chúa sẽ không minh xử cho các người được chọn mà Ngài hằng yêu mến họ và họ hằng kêu cầu Người, trong lúc thực ra Ngài trì trệ việc nhận lời, phải chăng Ngài điếc? Nói các khác, Chúa xác quyết tính cách hiệu nghiệm của lời cầu nguyện bền chí (dù xem ra vô hiệu) như gương cầu nguyện của bà góa.
Đây là một mầu nhiệm. Theo thói quen, Chúa Giêsu không minh giải thêm nhưng tái xác quyết lời trấn an: “Ta bảo thật các ngươi, Ngài sẽ kíp minh xử cho họ” (c.8a). “Ta bảo thật các ngươi” là tiếng mời ta nghĩ ngay đến uy quyền của Chúa. Phải tin, dù bề ngoài có vẻ thất vọng: quả thực, Thiên Chúa trì hoãn, nhưng ta bảo đảm cùng các ngươi, ngày kia Ngài sẽ minh xử, như vị thẩm phán này đã minh xử.
4. Vị thẩm phán này đã bất ngờ tự ý quyết định xử án, không có gì tiên báo ông sẽ can thiệp cả. Thiên Chúa cũng sẽ minh xử một cách tương tự như thế, en tachei. Thành ngữ này nói lên tính cách gấp rút, vội vã nhưng cũng có nghĩa thời gian sắp hành động: sắp đến; hay chỉ cách thức hành động: hành động “bất ngờ”, “thình lình”, như cạm bẫy đột xuất xảy đến, gây nên kinh ngạc, sửng sốt. Chính trong nghĩa cuối cùng này mà ta phải hiểu thành ngữ en tachei mà Lc thường dùng ở 3 chỗ khác nữa (Cvsđ 12,7; 22,18; 25,4).
Vì thế trong dụ ngôn này, en tachei không nhằm nói lên việc Thiên Chúa sắp can thiệp, vì như thế là đi ngược lại với giáo huấn minh nhiên của dụ ngôn cũng như lời xác quyết trì trệ của câu 7a, nhưng nói lên cách Ngài sẽ can thiệp: thật bất ngờ và thình lình để cứu rỗi các kẻ đã được chọn. Thiên Chúa có thể trì hoãn cho đến lúc nào Ngài muốn ra tay hành động; nhưng khi Ngài thể hiện công bằng và quyền năng của Ngài (công bằng và quyền năng mà con cái Ngài hằng kêu xin từ lâu), Ngài không thể hiện cách từ từ, tiệm tiến, nhưng cách nhanh lẹ khôn tả: “Trong một nháy mắt” hay “như chớp từ phương trời này đến phương trời kia” (Lc 17,24), như Ngài đã làm khi xảy ra lụt hồng thủy và khi thiêu đốt Sodôma (Lc 17,26-33).
5. Tuy nhiên có sự khác giữa ngày quang lâm và các đại họa đó. Noê, “người công chính” (2Pet 2,5) là một tâm hồn mạnh tin, điều này đã cứu ông và gia nhân (Dth 11,7); nhưng vào thời sau hết và vì các cuộc bách hại, đức tin sẽ biến mất (2Th 2,3), đức ái của một số đông sẽ nguội dần (Mt 24,12). Sau một thời gian thinh lặng, Chúa Giêsu ưu sầu gợi lên việc chối đạo tổng quát: “Nhưng khi Con Người đến, hỏi còn thấy đức tin trên trái đất này nữa chăng?” (c.8b). Những kẻ được chọn, nhờ lòng đạo đức sốt sắng của họ, là những kẻ phải cố hối cho ngày Đức Kitô tái giáng mau đến (2P 3,12), sẽ bị thử thách đến nỗi lòng kiên nhẫn của họ sẽ bị ảnh hưởng và Thiên Chúa phải rút ngắn các ngày đó, “bằng không, sẽ không ai được cứu thoát” (Mc 13,20.22). Chính vì thế mà Chúa Giêsu khuyên môn đệ mình đừng buông thả, nhưng phải tiếp tục cầu nguyện liên lỉ dù gặp hoàn cảnh nào, như bà góa kia luôn bền chí trước vị thẩm phán ù lì: trong thời gian (có vẻ khá lâu) giữa việc Đức Kitô ra đi và trở lại (x.Lc 19,12), “phải cầu nguyện liên lỉ, chớ nhàm chán” (c.1). Vì đó là ơn cứu rỗi.
KẾT LUẬN
Sau khi dài dòng nhắc đến việc Chúa Cứu Thế sẽ đến cách khải hoàn để báo thù, và sau khi vấp phải sự kiên nhẫn và im lặng của Thiên Chúa, con người sẽ vô cùng ngạc nhiên về ngày quang lâm. Nhưng sự kiên nhẫn của các người được chọn luôn luôn cầu nguyện và không hề buông thả, phải luôn phù hợp với lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa. “Các ngươi cứ bền đỗ, mới cứu vãn được linh hồn các ngươi” (Lc 21,19).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Giêsu vừa loan báo cho các tông đồ những biến loạn mà nhân loại sẽ gặp khi Ngài hiển hiện vào ngày thế mạt. Vì biến cố này trì trệ và sự kiên nhẫn của người tín hữu sẽ bị ảnh hưởng. Chúa Giêsu phán dạy dụ ngôn này nhắm giúp họ có một thái độ thích hợp. Đó là điều chúng ta vừa đọc được.
Tác giả phúc âm xác định mục đích câu chuyện, là khuyến khích chúng ta “liên lỉ cầu nguyện, chớ nản lòng”.
Và Chúa Giêsu kể trong thành nọ có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa và khinh thường mọi người. Một bà góa đến xin xử kiện, ông từ chối, nhưng bà này, vì không thể “chạy chọt” cho ông, nên nhờ đã gan lì mà được điều bà xin.
Chúa Giêsu kết luận là nếu vị thẩm phán đã minh giải cho bà vì bà làm “ông điên đầu”, phương chi Cha trên trời sẽ nghe và minh giải cho những người được chọn, sau khi đã dành nhiều thì giờ để tội nhân có thể ăn năn trở lại.
2. Dụ ngôn nói đến kỳ hạn Thiên Chúa dùng để nhận lời cầu xin của chúng ta. Sâu xa hơn nữa, dụ ngôn đặt câu hỏi: lời cầu nguyện được chấp nhận, có nghĩa gì? Khi xin Thiên Chúa một điều gì rõ ràng, ví dụ, bánh hàng ngày, chúng ta có biết tất cả ý nghĩa sâu xa tiềm ẩn trong điều chúng ta xin không? Chúng ta có biết Thiên Chúa chấp nhận đến mức độ nào không, vì Ngài luôn nhậm lời chúng ta cầu xin? Chúng ta chỉ là những con người sống trong giới hạn thời gian, luôn phân chia thành giờ, ngay hôm nay, ngày mai. Chúng ta không muốn ước vọng kinh nguyện mình ngày mai mới được thực hiện: mà muốn được liền, ngay tức khắc. Nhưng Thiên Chúa thấy chúng ta cách khác, vượt quá thời gian và không gian, Ngài nhận lời chúng ta nhưng luôn để ý đến những nhãn giới của số mệnh chúng ta bây giờ và tương lai. Thiên Chúa vượt quá “cái tức khắc”. Do đó hãy biết điều này:
a/ Thiên Chúa luôn nhậm lời chúng ta, tại sao? Vì Ngài là Cha vô cùng nhân từ. Xác tín việc Thiên Chúa luôn nhậm lời chúng ta là một trong những cột trụ vững chãi nhất của cuộc sống Kitô hữu. Nghi ngờ điểm này là phạm đến đức cậy. Do đó, khi cầu nguyện chúng ta đừng nhiều lời, vì TC biết trước và rõ hơn chúng ta những điều chúng ta xin. Thiên Chúa, Cha chúng ta luôn luôn sẵn sàng ban cách dư thừa điều chúng ta cần; phúc âm luôn xác quyết như thế. Nhưng tại sao phải cầu xin? Việc cầu xin có lợi gì không?
b/ Lợi ích của việc cầu nguyện. Vì tôn trọng tự do của chúng ta Thiên Chúa không áp đặt trên chúng ta những ân huệ của Ngài, Ngài đáp ứng các ước vọng của chúng ta. Lòng quảng đại của Ngài thỏa mãn vượt quá lời chúng ta cầu xin, nhưng Ngài muốn chúng ta cầu xin. Tại sao Ngài thường có vẻ trì hoãn đáp lời chúng ta? Vì lòng ước muốn càng nung nấu, lời cầu xin càng bền chí, tâm hồn và con tim chúng ta càng rộng mở hơn. Việc cầu nguyện trước hết có ích cho chính chúng ta. Hơn nữa, khi trì hoãn ban ơn, chẳng phải là vì Thiên Chúa muốn tự hiến chính Ngài đó sao? ----------------------------------------
(1) Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. (2) Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan tòa. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. (3) Trong thành đó, cũng có một bà góa. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: “Xin ngài bênh vực tôi chống lại kẻ kiện tôi”. (4) Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì. (5) Nhưng mụ góa này quấy rầy mãi, thì ta bênh vực mụ cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc”. (6) Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó ! (7) Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? (8) Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?”
2.Ý CHÍNH:
Tin mừng Lu-ca kể ra dụ ngôn của Đức Giê-su về bà góa và ông quan tòa nhằm dạy các môn đệ: TN 29-C100
Tin mừng Lu-ca kể ra dụ ngôn của Đức Giê-su về bà góa và ông quan tòa nhằm dạy các môn đệ: “phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Một người bất lương như ông quan tòa mà còn phải chịu thua lòng kiên trì nài xin của bà góa nghèo. Phương chi Thiên Chúa là Cha nhân lành lại không mau chóng bênh vực những kẻ hằng kêu xin Người đêm ngày hay sao? Tuy nhiên có nhiều kẻ vì thiếu kiên trì khi gặp gian nan thử thách nên đã sớm bị mất đức tin. Vì thế Đức Giê-su đã phải thốt lên lời than phiền như sau: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1-3: +Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn…: Câu dẫn nhập này báo trước ý nghĩa của dụ ngôn: Đức Giê-su muốn nhấn mạnh đến thái độ kiên trì và liên lỉ cầu nguyện để chuẩn bị cho ngày Người tái lâm. +Trong thành kia có một ông quan tòa: Ông này bị coi là bất lương vì ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng nể nang người đời. Những quan tòa như thế có nhiều trong dân Ít-ra-en, nhất là trong thời kỳ đất nước bị ngoại bang cai trị. Những quan tòa này nhiều lần đã bị các ngôn sứ lên án (x. Is 1,23; Gr 5,28; Am 5,7). +Trong thành đó cũng có một bà góa: Bà góa là một mẫu người nghèo thường được đề cập tới trong Thánh kinh. Do các bà không có chồng bảo vệ nên dễ bị kẻ xấu chèn ép bóc lột. +“Xin ngài bênh vực tôi chống lại kẻ kiện tôi”: Bà góa này xin quan tòa giúp minh oan trước kẻ đang kiện cáo mình.
-C 4-5: +Một thời gian khá lâu, ông không chịu…: Lúc đầu ông quan tòa hành động vì ích kỷ, nhưng cuối cùng ông cũng đành phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa nghèo để đứng ra bênh vực bà, hầu tránh khỏi bị bà đến quấy rầy mãi.
-C 6-8: +Rồi Chúa nói: Lu-ca nêu tước hiệu “Chúa” 20 lần trong các bài tường thuật. Tước hiệu “Chúa” ám chỉ Đức Giê-su đã được tôn vinh sau khi phuc sinh (Pl 2,6-11). Khi dùng tước hiệu “Chua” này Lu-ca muốn nhấn mạnh vương quyền mầu nhiệm của Đức Giê-su. +“Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó: Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn…”: Mục đích so sánh Thiên Chúa với quan tòa bất chính là để làm nổi bật sự tương phản giữa lối hành xử bất lương của viên quan tòa với lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa. Một con người ngang ngược ích kỷ vô tín mà còn biết bênh đỡ người yếu thế để tránh sự quấy rầy như vậy, phương chi Thiên Chúa nhân từ lại có thể nhẫn tâm từ chối lời cầu xin của những kẻ đầy lòng cậy trông phó thác nơi Ngài hay sao? +Dù Người có trì hoãn: Chắc chắn Chúa sẽ can thiệp, nhưng theo cách thức của Người. Mỗi khi cầu xin mà lâu vẫn chưa được như ý, chúng ta hãy nhớ lại trường hợp Đức Giê-su trong vườn cây Dầu: đã cầu xin Chúa Cha cho khỏi uống chén đắng và đã không được Cha ưng thuận, nhưng nhờ đó mà loài người chúng ta mới được hưởng ơn cứu độ nhờ cuộc khổ nạn và phuc sinh của Đức Giê-su. Trong thực tế, có nhiều điều chúng ta cố nài xin Chúa ban cho mình, vì tưởng là điều tốt cho mình, nhưng thực ra lại có hại cho phần rỗi đời đời của ta, nên vì tình thương mà Chúa đã không ban theo ý ta như Đức Giê-su đã nói:”Có ngừoi cha nào đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ?….”. Trật tự thế giới này sẽ ra sao nếu các ước muốn ngông cuồng ấu trĩ của mọi người đều được Chúa chấp nhận ? +Người sẽ mau chóng bênh vực họ: Ở đây cũng như ở nhiều nơi khác (x. Mt 9,1; 13,30). Đức Giê-su báo trước sẽ có một cuộc phán xét để bênh vực những kẻ Người tuyển chọn (x. Lc 17,22-37). +Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?: Trong cơn thử thách, những kẻ được tuyển chọn cũng vẫn có thể trở thành vô tín nếu không kiên trì (x. Mc 13,20-22). Vì thế Đức Giê-su khuyên các môn đệ tránh lối sống buông thả, nhưng phải vững tâm cầu nguyện, giống như bà góa trong dụ ngôn đã luôn kiên trì cầu xin trước thái độ thờ ơ của vị quan tòa bất lương. Trong thời gian dài từ khi Đức Ki-tô về trời đến khi Người lại đến vào ngày tận thế, các tín hữu phải “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).
4.CÂU HỎI: 1)Câu nào trong Tin mừng cho thấy bài học Đức Giê-su muốn dạy môn đệ về sự tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa ? 2)Phải giải thích thế nào nếu Thiên Chúa trì hõan không nhận lời cầu xin xem ra chính đáng của chúng ta ? 3)Câu nào cho thấy vào ngày tận thế nhiều người có thể mất đức tin vì đã không kiên trì cầu nguyện khi gặp gian nan thử thách ? 4)Chúa đã hứa:"Hãy xin sẽ được…", vậy tại sao tôi cầu xin hoài mà vẫn không được Chúa ban như ý của mình ? II. SỐNG LỜI CHÚA:
1.LỜI CHÚA: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng đến kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ?” (Lc 18,7).
2.CÂU CHUYỆN:
-CỨ KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN THÌ CHẮC SẼ ĐƯỢC CHÚA CHẤP NHẬN: Một nhân viên bưu điện phi ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín để phát thư. Ông gõ cửa nhưng không thấy ai ra mở cả. Ông biết trong nhà có người, vì đã thấy bóng họ thấp thóang qua khung cửa sổ. Do đó, ông vừa la lớn vừa đập mạnh vào cánh cửa. Sau khi ông đập cửa tới 5 lần thì một lỗ nhỏ trên cánh cửa được mở ra và có tiếng người trong nhà hỏi: “Ông muốn gì ?”. Ông trả lời: “Muốn gì ư ? Tôi đã kêu cửa mấy phút rồi mà không thấy ai ra mở cửa để lấy thư cả !” Bấy giờ người trong nhà mới vặn chốt mở rộng cửa ra và giải thích như sau: “Xin ông thông cảm cho. Mỗi ngày chúng tôi phải chịu đựng lũ trẻ hàng xóm đến phá quấy: Chúng cứ tới đập cửa ầm ầm, rồi khi chúng tôi ra mở cửa thì lại chẳng thấy ai cả. Khi nãy lúc đầu chúng tôi cứ tưởng là lũ trẻ đến phá rối như mọi khi, nên không ra mở cửa. Nhưng về sau thấy cửa cứ bị đập hòai, nên chúng tôi biết là có khách đến thăm thực sự”.
-CẦU NGUYỆN ĐÃ ỨNG NGHIỆM SAU NHIỀU NĂM: Tạp chí Hướng Đạo có đăng một câu chuyện thú vị về một cô giáo trẻ. Câu chuyện được tóm tắt như sau: Cô giáo Ma-ry được điều về dạy ở một trường học nọ. Trong lớp cô phụ trách có một học sinh ngỗ nghịch tên là Bill. Em này thường gây cho cô giáo trẻ sự bực bội và biến lớp học thành một nơi bát nháo. Một buổi sáng kia, cô Ma-ry đến lớp sớm hơn và ngồi ở bàn thầy giáo hí hoáy viết tốc ký lên một trang giấy, thì bất ngờ Bill xuất hiện. Cậu bé tiến lại gần bàn cô giáo và nói: “Cô đang viết gì vậy?” Ma-ry đáp: “Cô viết lời cầu nguyện với Chúa đó”. Bill chế giễu: “Chúa có thể đọc được chữ tốc ký hay sao?” Ma-ry đáp: “Người có thể làm được mọi sự. Ngay cả việc nhậm lời cầu xin này của cô!”. Nói xong, cô để mảnh giấy kia vào trong cuốn Kinh thánh, và quay lên viết bài học trên bảng cho cả lớp. Lợi dụng lúc cô giáo loay hoay viết, Bill đã lén lấy cắp mảnh giấy có ghi lời cầu nguyện của cô giáo và bỏ vào trong cuốn tập của cậu. Hai mươi năm sau, Bill đã trở thành giám đốc của một công ty lớn. Một hôm ông ta lục tìm một đồ vật cũ để trên gác xép ngôi nhà xưa của cha mẹ ông. Bill tình cờ cầm lên một cuốn sổ ghi bài học thuở nhỏ và đột nhiên thấy một mảnh giấy vàng ố rơi xuống sàn. Đó là mẩu giấy có ghi chữ tốc ký. Bill không hiểu nội dung những dòng chữ ấy. Ông gấp tờ giấy kia lại, mang đến văn phòng nhờ cô thư ký đọc giúp. Cô ta đã viết lời dịch vào một tờ giấy khác và đưa cho Bill. Ông nhận ra đó là lời cầu nguyện của cô giáo Ma-ry năm xưa, nội dung lời cầu ấy như sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con bị thất bại trong nghề giáo của con. Con không thể làm cho lớp con đang dạy vào khuôn khổ kỷ luật được, vì có một cậu học trò tên là Bill hay phá bĩnh. Xin Chúa hãy uốn nắn tâm hồn cậu bé này. Vì theo con nhận xét: Cậu bé ấy có thể trở thành một người hoặc rất tốt hoặc rất xấu sau này”. Câu cuối cùng như một nhát búa nện vào đầu Bill, bắt ông phải suy nghĩ. Thật ra chỉ vài giờ trước đó, Bill có dự tính lao vào một vụ làm ăn buôn lậu, hy vọng sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty. Ông cầm tờ giấy kia lên gấp lại cho vào chiếc ví để trong túi quần. Rồi trong suốt một tuần lễ kế tiếp, mỗi khi có dịp là ông lại lôi tờ giấy kia ra đọc đi đọc lại nhiều lần. Cuối cùng thì lời cầu nguyện của cô giáo được viết trước đó hai mươi năm đã phát huy tác dụng và làm thay đổi ý định buôn lậu của Bill. Mấy tuần sau, khi có dịp ngang qua nhà cô giáo cũ, ông đã tìm đến thăm cô và kể cho cô nghe về lời cầu nguyện của cô cách đây 20 năm đã có sức mạnh làm thay đổi cuộc đời hiện tại của ông ra sao.
3.SUY NIỆM:
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã dạy các môn đệ: "Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí" (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện để sẽ được Chúa ban ơn cứu độ. Nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyên và phải cầu nguyện thê nào?
1. Có mấy thái độ cầu nguyện?:
-Trong một vụ động đất lớn khiến nhiều nhà cửa trong thành phố bị sụp đổ. Có ba người bị kẹt trong văn phòng một tòa nhà của một công ty xây dựng. Bấy giờ văn phòng bị tối thui vì cúp điện và một khối bê-tông lớn từ tầng trên rơi xuống đã chắn ngang cửa sổ và cửa ra vào văn phòng. Trước tình huống này, người thứ nhất là trưởng phòng không có đức tin và đã bỏ không đên nhà thờ từ lâu. Ông ta bực tức không ngừng chửi rủa viên kỹ sư thiết kế và là chủ thi công công trình tòa nhà đã không chịu gia cố thêm sắt thép khi xây dựng chân móng và đà cột, khiến tòa nhà dễ dàng sụp đổ khi bị động đất mạnh. Anh thứ hai là nhân viên vệ sinh của công ty có lòng đạo đức bình dân, khi bị kẹt trong văn phòng liền quỳ gối lần chuỗi kinh mân côi thật sốt sắng cầu xin Đức Mẹ thương ra tay cứu giúp. Anh thứ ba là nhân viên bảo trì máy móc của công ty là người có đức tin trưởng thành đã tỏ ra bình tĩnh khi gặp sự cố. Anh ta âm thầm đối thoại cầu xin Chúa như sau: “Lay Chúa, Chúa muốn con làm gì để thoát khỏi hoàn cảnh này?” Sau đó anh lấy ra búa và đục trong giỏ đồ nghề luôn mang theo và bắt đầu đục phá khối bê-tông bít lối ra vào kia. Cứ sau một lúc làm việc, anh dừng tay nghỉ mệt và lại thầm thĩ thưa chuyện với Chúa: "Lạy Chúa, xin giúp con đủ sức đục bể khối bê-tông này để cả ba người chúng con mau thoát ra ngoài". Cuối cùng anh ta đã phá được một mảng lớn bê-tông và cả ba người đã chui ra ngoài an toàn.
2. Tại sao phải cầu nguyện ?
Câu chuyện trên cho thấy ba thái độ cầu nguyên: người thứ nhất do mất đức tin, cho rằng cầu nguyện vừa mất thời giờ lại vừa vô ích, nên không cầu nguyện khi gặp khó khăn. Anh ta chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh và tha nhân, mà không tích cực giải quyết vấn đề. Người thứ hai có đức tin thụ động: Khi gặp sự cố chỉ biết khoanh tay đọc kinh để cầu xin phép lạ, thay vì chủ động giải quyết vấn đề. Có lẽ đại đa số các tín hữu chúng ta vẫn đang có lối cầu nguyện thụ động này, nhất là khi chúng ta cầu xin Chúa cho người khác. Người thứ ba có đức tin tích cực chủ động: tuy tin vào quyền năng của Chúa, nhưng đồng thời cũng ý thức phải sử dụng các phương tiện Chúa ban để chủ động giải quyết sự cố mà không quên cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp. Đây là cách cầu nguyện đúng đắn đẹp long Chúa mà các tin hữu chúng ta cần phải áp dụng trong cuộc sống đời thường.
3. Chúng ta phải làm gì ?
-Kiên trì cầu nguyện: Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã dạy các môn đệ: "Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí" (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta phải kiên trì cầu nguyện noi gương ông Mô-sê quì giang tay suốt cả ngày để cầu xin cho quân Ít-ra-en thắng trận (Bài đọc 1); Hay như bà goá bị kiện cáo oan ức đã kiên trì xin ông quan toà “vốn không tin Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người đời” minh oan cho bà. Nhờ biết kiên trì mà cuối cùng bà đã được ông ta minh oan (Bài Tin Mừng). Mỗi người chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện, cả những lúc xem ra Chúa im lặng không đáp ứng các yêu cầu chính đáng của chúng ta với lòng tín thác cậy trông vào quyền năng và tình thương cùa Chúa như lời Đức Giê-su: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,7-8a).
-Không nên đòi hiệu quả tức thời: Khi cầu nguyện, chúng ta tin chắc Chúa sẽ đáp lời cầu xin của chúng ta. Nhưng Ngài không ban lập tức theo ý riêng của chúng ta, mà ban vào thời gian và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta. Thời gian Chúa nhậm lời có thể kéo dài lâu hơn chúng ta nghĩ và cách Ngài ban ơn cũng có thể khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng thích hợp nhất và ữu hiệu nhất cho hạnh phúc của chúng ta.
-Hãy cầu xin theo ơn Thánh Thần soi dẫn: Thánh Phao-lô đã dạy: "Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta… theo đúng thánh ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Như thế, cầu nguyện không phải là xin ơn theo kiểu vụ lợi của chúng ta, cũng không phải là sự liệt kê những nhu cầu để xin Chúa ban theo ý riêng của ta. Nhưng cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, xin Ngài giúp chúng ta vâng theo thánh ý Ngài, noi gương Đức Giê-su đã cầu xin Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Tuy nhiên con người vốn yếu đuối dễ nản chí, nên Đức Giê-su đã cảnh báo: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18,8).
4.THẢO LUẬN:
1)Bạn cần đọc kinh dự lễ như thế nào để tránh bị lo ra chia trí và để lời cầu nguyện xứng đáng được Chúa chấp nhận ?
2)Ngoài việc đọc kinh dự lễ, bạn cần làm gì để biến đời bạn trở thành một lời cầu nguyện liên lỉ ?
5.NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA CHA giàu lòng từ bi thương xót. Chúa hằng nhận lời cầu xin của con. Qua dụ ngôn hôm nay, Đức Giê-su đã dạy con rằng: Ông quan tòa dù là kẻ bất chính và ích kỷ mà còn sẵn sàng đáp lại lời cầu xin kiên trì của một bà góa nghèo, phương chi là Chúa, Đấng hằng thương yêu săn sóc con như gà mẹ ấp ủ đàn con dưới cánh. Con tin tưởng vào Chúa và phó thác cuộc đời con trong tay Chúa quan phòng. Xin Chúa thương nâng đỡ và ban ơn giúp con.
-LẠY CHÚA. Điều làm cho Chúa đau lòng là nhiều người đã bị mất đức tin, trong đó có thể có cả con nữa. Nhiều lúc chính con đã không tin vào hiệu lực của lời cầu xin. Khi gặp khổ đau hoạn nạn, con thường hay than thân trách phận, mà không cầu xin Chúa nâng đỡ. Cũng có những lúc con chỉ cậy vào sức riêng mình, dựa vào thế lực của tiền bạc hay của những kẻ nhiều quyền lực… mà không cậy dựa vào ơn của Chúa. Nhiều lúc con chán nản thất vọng vì cầu xin mãi mà không được Chúa ban theo ý con xin. Xin giúp con kiên trì cầu nguyện và không bao giờ nản chí. Xin cho con ý thức rằng: Những ai tin cậy vào Chúa, sẽ không bao giờ phải thất vọng hổ ngươi.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON