Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 33-C Bài 51-88 Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi --------------------------------------------
Luca 21,5-19: "Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca Khi ấy, có mấy người trầm trồ về đền thờ được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy đến?" Người phán: "Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa dối. Vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: 'Chính ta đây và thời giờ đã gần đến'. Các con chớ đi theo chúng. Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời ngay đâu". Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: "Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi; sẽ có ôn dịch đói khát, những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể. Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt các vua chúa quan quyền vì danh Thầy; các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng, là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con". - Ðó là lời Chúa.
Trong một tuần phòng nọ, tôi đã quyết tâm một điều là mỗi ngày sẽ để ra 15 phút trước khi: TN 33-C51
Trong một tuần phòng nọ, tôi đã quyết tâm một điều là mỗi ngày sẽ để ra 15 phút trước khi đi ngủ để hồi tâm về những tư tưởng, lời nói và hành động của mình. Đặc biệt, tôi để ý kiểm điểm xem trong ngày qua, tôi có nhận xét, phê bình hoặc lên án ai không? Quyết định này không những tốt về mặt tâm linh, đạo đức, mà về phương diện đạo đức xã hội, nó còn giúp tôi quân bình và khách quan trong lối cư xử và sống với mọi người; nhất là những người tôi không ưa, không thích. Ngoài ra, về mặt tâm lý, sự bình tĩnh và khách quan trong lối suy tư này cũng giúp tôi tự kiềm chế được những tâm tính và tình cảm nóng nẩy, bộc trực hoặc những xúc động không đúng khi phải đối diện với những cảnh ngộ, hoặc những con người mà tôi thường ngày phải va chạm.
Sống bình thản, bằng an, và khách quan. Đức tính xã hội và triết lý sống ấy, tôi biết là tốt lành, là cần thiết. Mười lăm phút bình tâm và suy niệm ấy, tôi cũng biết là cần thiết và phải thực hành. Thế nhưng trong lúc thực hành tôi từ từ nhận ra rằng để trung thành, bền bỉ và hoàn tất được quyết tâm ấy thật không phải dễ. Chính vì vậy, cũng trong một tuần phòng khác sau đó, tôi đã xin Chúa tự giảm xuống chỉ còn 10 phút.
Trung thành, cương quyết hay bền bỉ, là một đức tính tự nhiên đáng quí. Nó cũng là một nhân đức có liên hệ mật thiết với những nhân đức luân lý như khôn ngoan, công bằng, đại đảm, và tiết độ.
Người trung thành là người trước sau như một, không thay lòng đổi dạ, bền bỉ và quyết tâm đi đến cùng hoặc hoàn tất cách đầy đủ công việc đã được trao phó cho mình. Ở đây, lòng trung thành không chỉ hiểu theo nghĩa là gắn bó và nhiệt tâm với một người nào, thí dụ, một người đệ tử trung thành với thầy mình. Trung thành trong trường hợp Chúa Giêsu đề cập đến ở đây còn vươn tới vĩnh cửu, vì theo Ngài, thì nhờ trung thành, bền bỉ sẽ dẫn ta đến sự sống đời đời, sẽ giải thoát và cứu được linh hồn mình: “Bền đỗ anh em sẽ cứu được linh hồn” (Lc 21:19).
Quyết tâm thực hiện một việc gì cho đến cùng, bền tâm, kiên trì đến cùng có nghĩa là sẽ bằng mọi giá phải thực hiện được việc ấy, dù phải gặp những thử thách, những khó khăn trong khi thực hiện. Điều này mới xem ra có vẻ dễ dãi, nhất là khi ta làm một việc mà kết quả trông thấy trước mắt. Nhưng dù là thành quả tích cực hay tiêu cực, trung thành đến cùng vẫn là một điều khó lòng thực hiện. Trở lại kinh nghiệm của chính mình, 15 phút hồi tâm rồi giảm xuống 10 phút mỗi ngày. Những lúc khỏe mạnh, những lúc thanh thản, những lúc không gặp chuyện phải lo âu, thì tôi không gặp khó khăn nào với quyết tâm của mình. Nhưng những lúc mệt mã, bệnh tật, và bận rộn với công việc, hoặc những lúc gặp thử thách thì quyết tâm này không phải là dễ dàng thực hiện. Những lúc như vậy, tôi mới thấy ứng nghiệm lời Chúa Giêsu nói về sự bền bỉ và trung thành, và tại sao Ngài lại gắn liền việc trung thành với những giá trị đời đời.
Nhưng để được cứu rỗi, được giải thoát, và được vào vĩnh hằng, thì sự trung thành của ta phải đạt được tiêu chuẩn theo với ý nghĩa đời đời của nó. Những đòi hỏi này thật sự không dễ dàng, vì nó không do tự mình quyết định hay chọn lựa, mà là chính Chúa đã xếp đặt, đã cho phép xẩy ra trong cuộc sống để đo lường, và thử thách sự trung thành của chúng ta: “Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội trường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: Các con sẽ có dịp làm chứng. Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy” (Lc 21:12-13, 16-17).
Trung thành, bền bỉ dù bị bắt bớ, giam cầm, tù tội. Trung thành, bền bỉ dù bị cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, và bạn hữu khinh chê, nhạo báng. Trung thành, bền bỉ dù phải thí mạng vì danh Chúa, không phải là chuyện nhỏ, và chuyện dễ. Điều này dĩ nhiên khó gấp trăm lần một mình đối diện với mình 10 phút mỗi ngày.
Tuy nhiên, Thiên Chúa đã không để con người rơi vào một thử thách mà họ không thể thắng vượt được, bằng không con người sẽ đổ thừa cho Ngài và sẽ bỏ cuộc. Biết như thế, nên Chúa Giêsu đã lồng vào những điều kiện trung thành những lời hứa nâng đỡ và khích lệ. Ngài cho biết về phương diện tri thức, khả năng trí tuệ và lợi khẩu sẽ có Thánh Thần Chúa giúp đỡ: “Chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù các con không thể chống lại và bắt bẻ các con” (Lc 21:15). Riêng về những thử thách tưởng như vượt quá sức tự nhiên kia thì trong những hoàn cảnh ấy, Thiên Chúa vẫn ở bên và bênh đỡ: “Dù một sợ tóc trên đầu các con cũng không bị hư mất” (Lc 21:18).
Và đó là lời hứa của Thiên Chúa, Ngài dành cho những ai trung tín với Ngài, dám chấp nhận theo Ngài và làm chứng nhân cho Ngài. Điều này dẫn ta đến một quyết định thực hành rằng, chỉ cần chu toàn cách nghiêm chỉnh, bền bỉ mọi công việc mình trong cuộc sống, và với lòng yêu mến chân thành, cậy nhờ vào ơn Chúa, con người sẽ được giải thoát. Vì ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa nhưng lại tùy vào sự trung thành đáp trả của mỗi người. Khi Chúa nói đến trung thành, bền bỉ, Ngài không nói đến phải trung thành và hoàn tất những công tác lớn lao, những việc làm hiển hách. Và đây là điều làm chúng ta an tâm, vì một khi trung thành với Ngài trong mọi khía cạnh nhỏ mọn của cuộc đời, cũng chính là trung thành và bền bỉ với Ngài trong toàn bộ cuộc sống mình, và như vậy nhờ sự trung thành ấy sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời: “Bền đỗ anh sẽ cứu được linh hồn” (Lc 21:19).
Năm 1983, có hơn 100 triệu người trên thế giới xem phim The Last Day (Ngày Sau Hết), cuốn: TN 33-C52
Năm 1983, có hơn 100 triệu người trên thế giới xem phim The Last Day (Ngày Sau Hết), cuốn phim đã mô tả sự tàn phá của chiến tranh nguyên tử. Sau đó vào ngày 18/4/1906, hằng triệu người chứng kiến trận động đất kinh hòang xảy ra tại San Francisco, California, và gần đây, vào ngày 26/12/2004, toàn thể nhân lọai lại chứng kiến cơn Sóng Thần tại đảo Sumatra, Nam Dương đã làm gần 300 ngàn người vừa chết vừa bị mất tích. Cả ba biến cố nói trên đều cho chúng ta thấy cảnh tàn phá ghê rợn ngoài sự tưởng tượng của con người và những hình ảnh này giúp chúng ta liên tưởng đến Lời Chúa hôm nay khi Ngài tiên báo về ngày tàn của Đền Thờ và Thành Thánh Giê-ru-sa-lem "không còn tảng đá nào trên tảng đá nào" (Lc 21:6) và đối với người Do-Thái thì sự tàn phá nầy được coi như là ngày tận thế.
Hôm nay, Chúa Giê-su muốn nói với các môn đệ và cũng nói với mỗi người chúng ta là hãy khôn ngoan và làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Khi Chúa Giê-su và các môn đệ nhìn thấy sự huy hoàng tráng lệ của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ngài cho các môn đệ biết sẽ có ngày Đền Thờ này bị phá hủy không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Chiến tranh loạn lạc, thiên tai, ôn dịch, hạn hán sẽ xảy ra khắp nơi. Các môn đệ của Ngài cũng sẽ không thoát khỏi tai ách, họ sẽ bị bắt bớ, ngược đãi, bị tù đày, bị xét xử trước công đường và có khi mất cả tánh mạng.
Ngài còn cho biết đây là cơ hội tốt để những ai tin vào Ngài trở thành những nhân chứng về sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa. Họ không cần phải học hỏi để tìm sự khôn ngoan, chính Thánh Thần Chúa đang sống trong họ sẽ soi sáng, hướng dẫn họ những gì cần phải làm và cần phải nói. Tiên vàn họ chỉ cần làm chứng nhân bằng cuộc sống đơn sơ, bác ái, thánh thiện; điều này có sức mạnh hơn bất cứ muôn vạn lời khôn ngoan của loài người và sau cùng là hãy kiên trì thì họ sẽ giữ được mạng sống.
Điều gì đã ứng nghiệm lời Chúa phán?
- Đền Thờ bị thiêu hủy: Năm 70, Tướng Titus đã kéo đại quân tiến chiếm thành Giê-ru-sa-lem và sau đó Đền Thờ bị thiêu rụi. Hơn nữa, vua Adrien còn ra lệnh cho đào hết nền móng Đền Thờ để xoá bỏ mọi tàn tích cũ và xây một đền thờ Thần Jupiter. Hiện nay trên nền Đền Thờ cũ là đền Omar, một giáo đường Hồi giáo.
- Ki-tô hữu bị bách hại: Từ thời Hoàng Đế Nero Giáo Hội tiên khởi đã trải qua một thời kỳ đau khổ trầm trọng. Hàng ngàn hàng vạn người đã bị thiêu sống, bị làm mồi cho dã thú. Hàng ngàn hàng vạn người đã bị đóng đinh trên thập giá.
Tại Việt Nam, nhiều cuộc tàn sát Kitô hữu đẫm máu, đầu rơi máu đổ đã xảy ra. Thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, biết bao dòng máu tử đạo đã đổ ra để làm nhân chứng cho Chúa Ki-tô. Dòng máu kiêu hùng của 117 vị Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm rạng rỡ lịch sử Giáo Hội Việt Nam và làm cho cánh đồng truyền giáo Việt Nam ngày càng được nảy nở tươi tốt. Các ngài đã kiên trì và các ngài đã sống mãi mãi trong Đức Ki-tô. Chớ gì mỗi người chúng ta biết sống yêu thương, biết quên mình để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Chớ gì Lời Chúa, "Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu" (Mc 13:31), như là tiếng chuông cảnh tỉnh mỗi người chúng ta.
Qua một số đoạn Phúc Âm chọn cho tuần cuối cùng của mùa Phụng Vụ, Giáo Hội muốn nhắn nhủ: TN 33-C53
Qua một số đoạn Phúc Âm chọn cho tuần cuối cùng của mùa Phụng Vụ, Giáo Hội muốn nhắn nhủ chúng ta phải tỉnh thức. Vì cuộc đời trần thế của chúng ta chóng qua, cái thế giới vật chất này cũng sẽ đến ngày tận cùng. Vì thế chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng.
Hôm nay Lời Chúa nói về đền thờ cao trọng cũng sẽ bị phá hủy, làm cho chúng ta liên tưởng đến tính cách tạm thời, cái mau qua chóng hết.. Lịch sử nhân loại đi về một cuộc biến chuyển khổng lồ của vũ trụ.. Qua biến chuyển sẽ thấy nước Chúa xuất hiện. Ngày đó, lửa Thánh Linh sẽ trở nên ánh sáng rực rỡ, hạnh phúc hay hình phạt đời đời, tùy sự đáp lại tình yêu Thiên Chúa hay từ khước lòng yêu thương của Chúa. Trong lúc đợi chờ lịch sử nhân loại bước vào giờ cuối cùng của lịch sử, tức là ngày giờ ta đang tiến tới đây.
Sẽ có những tiên tri xuất hiện nói: ”Chính ta đây, hay là ngày tận thế đang tiến tới đó”. Chúng ta đừng bị đánh lừa, đừng quá lo lắng để tin nhảm vào những thuyết nà thuyết kia, người này kẻ nọ. Cũng đừng hoảng sợ vì thấy chiến tranh, loạn lạc, động đất, dịch tễ, đói kém, thời tiết thay đổi.....Chúa đã nói: ”Khi những tai họa đó xẩy đến, thì cũng chưa đến ngày tận thế, có nghĩa là việc đó chưa hoàn toàn vượt tới sự suy nghĩ, tính toán của loài người, dù có dùng đến máy điện tử cũng không thể tính ra được. Đừng tò mò xem nó xẩy ra thế nào, chấm dứt thế giới thế nào ?”
Chúng ta phải làm gì ?
Chúng ta vẫn phải tiếp tục sống, vẫn phải tiếp tục làm lịch sử, sao cho nước trời được thực hiện, tức là sống bằng tinh thần của nước trời, sống bằng sự trung thành trong đức tin, vững vàng trong đức cậy, sốt sáng trong đức mến. Vì thế, nhiều khi phải sống khác với lối sống của trần gian nữa. Phải cố gắng mang lại một linh hồn cho bao nỗ lực của cuộc sống, cho bao vất vả cả đời giữ đạo, cả một đời tìm Chúa. Phải cố gắng moi lại một linh hồn có Chúa Kitô hiện diện.
Cách đây mấy năm, có 9 người tàn tật ( Một anh có chân giả, một anh kinh phong, hai anh điếc và 5 anh mù), đã hoàn tất một cuộc leo lên ngọn Rainier cao 14,000 bộ, tức là hơn 4 cây số, ở Washington, mà không bị một tai nạn nào. Khi hỏi về cuộc hành trình ấy, nhiều người đã nói: “Chúng tôi đã giúp đỡ nhau, đã tin tưởng vào mình, không nghĩ đến những tai họa sẽ xẩy ra, khiến chúng tôi leo lên tới đỉnh núi một cách án toàn.”
Câu chuyện trên đây khiến chúng ta phải tự vấn xem mình có tin tưởng vào sự thành công của mình chưa và có bị xao xuyến về cảnh ngộ bên ngoài không ?
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin trung thành, một đức cậy vững vàng, một đức mến sốt sáng, để chúng con thắng lướt mọi nguy hiểm ở đời, trong khi bao thử thách cam go xẩy đến cho đời chúng con. (14.11.2004).
Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng TN 33-C54
Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm, được trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý với các cột và đồ gỗ chạm khắc, rèm thêu, sơn sơn thiếp vàng.
Chúng ta cần phân biệt 3 giai đoạn khác nhau việc xây dựng đền thờ: Đền thờ do vua Salomon xây cất đã bị quân Chaldéa phá cùng với thành Giêrusalem năm 587. Sau đó được vua Zorobabel khởi công xây lại đền thờ (năm -525), với sự cổ võ của tiên tri Zacharia và Agiê, nhưng quân Rôma đô hộ làm hư hại đền thờ. Vua Herodê cả sửa lại vào năm 17, vào thời Đức Giêsu đang trên đường hoàn thành và sẽ kết thúc nào năm 64 sau Công nguyên.
Năm 70 sau CN, vị tướng La mã Titus đem đại quân vây thành. Ông ra lệnh không được đốt phá. Một quân nhân như bị thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong Đền thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titus ra lệnh phá huỷ thành và Đền thờ.
Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Đức Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Ngài lại nói: "Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá". Đối với người Do Thái, những từ này là báng bổ: Tiên Tri Giêrêmia đã suýt chết vì điều đó. Những lời trên sẽ là động lực khiến họ chống lại Ngài.
Nói thế là Đức Giêsu đã tách biệt chúng ta ra khỏi sự mơ mộng về quyền năng tối thượng và sự bất tử trên trái đất này, đưa chúng ta trở lại với thực tế của một thế giới mà tất cả là hư không.
Những người nghe Đức Giêsu nói tưởng rằng Thầy nói về ngày tận thế, nên hỏi dồn và bắt Ngài mạc khải cho biết thời gian và dấu chỉ của ngày ấy! Biết ý họ, Ngài đã không đáp ứng yêu cầu, nhưng cảnh báo, điều đó không thuộc quyền của Ngài: chỉ có Chúa Cha là Đấng biết ngày và giờ chung cuộc của thế giới. Đức Giêsu nói với họ " Các ngươi hãy coi chừng đừng để ai lừa gạt các ngươi". Vì sẽ có nhiều kẻ đội danh Ta mà nói rằng Đức Kitô, chính là Ta! Và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Các ngươi sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã. Coi chừng! Chớ khiếp sợ! Vì là sự phải xảy đến, nhưng chưa phải là cùng tận. Vì dân này sẽ dấy lên chống dân kia, nước này chống nước nọ. Và đó đây sẽ có đói kém và động đất.
Mọi sự ấy là khởi điểm của đau cồn chuyển cữ" (Mt 24, 4-8). Bởi vì cuộc chiến thực sự không phải là " quốc gia chống lại quốc gia, và vương quốc chống lại vương quốc ", nhưng là: vì " Danh Thầy" họ sẽ trao nộp các con.
Trở lại sách Công vụ, Thánh Luca gợi lên những cuộc bách hại các môn đệ Đức Kitô phải chịu. Nếu họ không trốn tránh và lún sâu vào tuyệt vọng, là vì Chúa đã cảnh báo trước về những gì đang chờ đợi họ. Tất cả những thảm kịch đó đổi mới người môn đệ chân chính, những cuộc bách hại phải được chọn như là " cơ hội để làm chứng " cho Đấng đã sống lại vinh quang, chắc chắn đã cứu chúng ta khỏi sự sợ hãi cái chết.
Khi thử thách xảy đến với Giáo hội, Thiên Chúa đích thân đến cứu giúp các nhân chứng của Ngài: " Chính Thầy sẽ khơi dậy trong anh em những lời cần phải nói cùng với sự không ngoan khiến cho đối phương không thể chống lại và phản biện được anh em" (x. Mt 10, 17-22). Thiên Chúa không thay đổi tiến trình của các sự kiện mà không xâm lấn vào trách nhiệm thuộc phương diện con người ; người Kitô hữu có những dữ kiện sống động để chứng tỏ rằng sự sống của họ ở nơi Thiên Chúa, chứ không nằm trong tay của người đời.
Sử gia người Rôma Tacitus đã viết rằng các Kitô hữu đã trở thành " sự ghét bỏ của nhân loại! " Điều ấy đã không ngăn cản họ làm chứng cho đức tin, Tertullian đã viết: " Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các Kitô hữu."
Chúa chúng ta rất rõ ràng: "Nếu họ bắt bớ Thầy, họ sẽ bắt bớ các con" (x. Ga 15,18-21). Chúng ta đừng quên rằng thế kỷ 20 đã có nhiều vị tử đạo hơn hai mươi thế kỷ trước của Kitô giáo. Những chứng nhân của Đức Giêsu không sống trên mặt đất, phi thời gian, lời giảng của Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta quảng đại phục vụ việc rao giảng Tin Mừng, theo Chúa Kitô, và theo con đường Ngài đã mở ra trước mắt chúng ta. Đường hẹp của Thập Giá mỗi ngày trên trái đất này. Chúng ta có thể trở thành những người biết biện phân, và thành các tiên tri đầy khôn ngoan của cây Thập giá, để có thể tố cáo những sợ hãi gò bó cằn cỗi, hướng tới anh em chúng ta, sống đời sống thực tế và chiến đấu. "Đây sẽ đến ngày bừng cháy lên như lò lửa” (Bài đọc 1).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết được những dấu chỉ của Nước Trời, để chúng con can đảm làm chứng cho Chúa mà không sợ bị trả thù. Vì như lời Chúa phán: " những kẻ kính sợ thánh danh Ta, sẽ được Mặt Trời công chính mọc lên soi sáng, mang theo sự cứu chữa trong cánh Người ". Xin giúp chúng con bền đỗ đến cùng để chúng con được ơn cứu rỗi. Amen.
"Có kiên trì, anh em mới có thể giữ được mạng sống mình"
Xã hội ngày nay cho con người nhiều cơ hội để chọn lựa phù hợp với sở thích và khả năng của: TN 33-C55
Xã hội ngày nay cho con người nhiều cơ hội để chọn lựa phù hợp với sở thích và khả năng của mỗi người, ngay cả về tín ngưỡng. Vì ngưỡng cửa cơ hội luôn rộng mở, nên con người cũng dễ dàng cho phép mình thay đổi đường hướng mình đi. Trong đời sống Kitô hữu, con người không có nhiều chọn lựa, duy một con đường con người phải đi: là theo Chúa và sống lời Ngài cho đến hơi thở cuối cùng nếu muốn chiếm trọn nước trời.
Vũ trụ luân chuyển, thế giới thay đổi, con người đổi thay, xã hội mang lại cho con người nhiều điều tốt đẹp nhưng cũng không ít những thách đố và áp lực trên con người khiến cho con người chao đảo trong vòng xoáy và mất đi đường hướng của mình. Đây là giây phút con người trở về với câu hỏi khắc khoải biết bao người đã qua đi trước "làm sao tôi có thể sống kiên định trong đức tin của tôi là một Kitô hữu?"
Thiên Chúa muôn đời là câu trả lời không bao giờ đổi thay cho tất cả những thao thức của con người. Con người chỉ có thể kiên định trong đức tin của mình khi biết nắm chặt bàn tay Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn con người đi trước hay đi sau những Thiên định nhưng đi với Người trên từng nẻo đường của đời mình, đặc biệt trong những ngõ tối của cuộc đời mình. Thiên Chúa chỉ đòi hỏi ở con người sự tin tưởng hoàn toàn vào quyền năng và tình yêu thương từ mẫu của Người. Bao lâu con người còn nhìn nhận Thiên Chúa là Cha và đặt mình đúng vào địa vị của một người con sống nhờ vào tình yêu thương không bờ biến của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa luôn mãi giữ vững những lời giao ước thiên thu của mình "Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương" (TV 34:18).
Năm phụng vụ của Giáo Hội sắp kết thúc, một năm lại lặng lẽ trôi qua, mọi tâm tư của chúng ta phải trực tiếp hướng về ngày cánh chung. Chúa Giêsu phác hoạ một bức tranh ám chỉ ngày tận cùng thế giới đó là sự phá huỷ Đền Thờ Giêrusalem, trong khi ấy, Ngài cũng cảnh tỉnh những người theo Ngài hãy sẵn sàng để đối phó với những xung khắc, căng thẳng sợ hãi, và những chiến đấu khó khăn đang xẩy tới. Nhân loại sống trong mọi thời đại đều tò mò thắc mắc khi nào thì những sự ấy sẽ xẩy ra. Ngày đó từ thời Cựu Ước đến Tân Ước đều không chỉ định thời gian, các tiên tri, các sách Tin Mừng chỉ nói: "Hãy xám hối vì Nước Trời đã gần đến."
Sứ điệp rõ ràng mỗi người có thể đọc được khi mình ra trình diện trước mặt Chúa đó chính là cách thức chúng ta sống, Chúa sẽ quyết định cuộc đời tuỳ theo sự cố gắng liên lỉ của mỗi người trong mọi giây phút hiện tại. Nhiều người hoảng sợ khiếp đảm, đừng sợ, đừng nản lòng khi thấy mình thất bại với đôi bàn tay trắng. Hãy kiên trì vì Thiên Chúa làm chủ trên mọi sự và Ngài không bao giờ ruồng bỏ dân Ngài. Đừng làm mất lòng tin vì những nỗi gian nan éo le nghịch cảnh, hay nỗi hiểm nghèo khổ tâm thử thách của giây phút hiện tại. Tất cả những thứ đó là con đường dẫn đến hạnh phúc vĩnh cửu nếu mình biết lợi dụng.
Thách thức lớn nhất mà mỗi người đang đối diện chính là phải đặt trật tự cho cuộc đời mình, hãy quay trở lại với Chúa bằng sự ăn ở ngay thẳng thật thà liêm chính. Tính ích kỷ làm chúng ta cắt đứt tình liên đới với Chúa và làm cho ta đóng kín tự chôn vào trong cái tôi vĩ đại của mình mà thôi. Khi chúa Kitô trở lại chúng ta trình diện với Ngài như thế nào? Hạnh phúc cho tôi nếu tôi là ánh sáng sứ giả Tin Mừng trong đêm tối, trong mọi cảnh huống khó khăn, tôi vẫn kiên vững với Ngài. Vì trong Thiên Chúa "Chúng ta toàn thắng tất cả nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta" (Rom 8,37).
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con để dù khó khăn nào xẩy tới chúng con vẫn kiên vững với Chúa vì Chúa là Đá Tảng là nơi chúng con nương tựa vững chắc nhất. Sr. Ngọc Quyên, CMR
Julian Apostate là Hoàng Đế Roma năm 360. Mặc dầu đã chịu Phép Thánh Tẩy và học giáo: TN 33-C56
Julian Apostate là Hoàng Đế Roma năm 360. Mặc dầu đã chịu Phép Thánh Tẩy và học giáo lý Công Giáo; thế mà ông lại là người hoàn toàn chống lại Chúa Kitô và Giáo Hội. Ông đã giết chết nhiều người Công Giáo để tế lễ các tà thần, biến nhiều Thánh Đường thành chùa miếu thờ thần, cấm truyền bá Tin Mừng và hủy bỏ tất cả những gì liên quan đến Đạo Công Giáo. Ông ta cố gắng làm cho lời tiên tri của Chúa Kitô đã nói về sự điêu tàn đổ nát của thành Jerusalem sau đây: "Khi ngày đó đến thì sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào", hết giá trị. Nhưng thực ra lời tiên tri này đã được ứng nghiệm trăm phần trăm vào năm 70, năm mà thành Jerusalem bị phá hủy bình địa. Trong khi sự việc chưa xảy ra, thì Hoàng Đế Julian đã ra lệnh triệt để bảo vệ Đền Thờ và làm cho thực kiên vững. Nhưng khi vừa khởi công đổ móng thì, theo một sử gia ngoại giáo viết: "Có những khối lửa ghê sợ bùng lên phá sập móng, thiêu đốt các người thợ, làm cho không ai có thể tới gần chỗ đó được nữa; vì thế, công việc xây lại Đền Thờ hoàn toàn thất bại". Những sự kiện lịch sử này chứng minh lời tiên tri của Chúa Kitô hoàn toàn đã được ứng nghiệm. Vậy, không biết dự tính của người Do Thái sẽ xây lại Đền Thờ Jerusalem nay mai sẽ ra thế nào?
I. CÁC LỜI TIÊN TRI CỦA CHÚA CỨU THẾ
Các lời tiên tri về Chúa Cứu Thế trong Cựu Ước đã hoàn toàn được thực hiện. Trong Tân Ước, chính Chúa Kitô cũng đã nói nhiều lời tiên tri về Người, như bị Juda phản bội, bị Phêrô chối bỏ, bị các Tông Đồ bỏ trốn, bị bắt, bị giết chết và sau 3 ngày sống lại... Chúa cũng đã nói tiên tri về Giáo Hội của Người sẽ phát triển mạnh mẽ, lan tràn khắp thế giới, và không cuộc bách hại nào có thể ngăn cản được sự bành trướng đó. Suốt 2000 năm qua những lời tiên tri đó vẫn còn ứng nghiệm đúng như lời Chúa đã khẳng định: "Dù quyền lực hỏa ngục cũng không thể thắng được". Tất cả các lời tiên tri đó đã thực hiện đúng từng chi tiết nhỏ mọn, sát khít với lời Chúa: "Dù một nét, một chấm cũng không bỏ qua, cho tới khi mọi sự được hoàn thành". Như vậy, lời tiên tri Chúa nói về Ngày Tận Thế, giờ phán xét, thưởng phạt (Mt 25) trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng sẽ được ứng nghiệm. Chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: Tôi tin "Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng". Trong Thánh Lễ, sau khi truyền phép, chúng ta cũng tuyên xưng: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến".
II. NGÀY TẬN CÙNG CỦA MỖI NGƯỜI CHÚNG TA
Ngoài ngày tận cùng của thế giới, mỗi người chúng ta đều có ngày sẽ từ giã cõi trần khi giờ chết đến, vì mỗi người đều phải chết; nhưng chết cách nào, chết ở đâu, vào giờ nào thì không ai có thể biết được. Vì thế, Chúa Kitô đã căn dặn chúng ta: "Các con hãy sẵn sàng, vì bất ngờ Con Người sẽ đến" (Mt. 24:44). Trần gian chỉ là nơi tạm cư, là cuộc lữ hành, là đường tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu; vật chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta đạt tới cùng đích và hạnh phúc trường tồn. Dầu muốn dầu không, một ngày kia, chúng ta cũng phải để lại tất cả để ra đi về thế giới bên kia, nơi Chúa đang chờ đợi chúng ta. Vì Chúa dựng nên chúng ta có mục đích để chúng ta tôn thờ, yêu mến, phụng sự Ngài, để khi kết thúc cuộc đời, chúng ta được Chúa ân thưởng, cho tận hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài trên Nước Trời, là quê hương hạnh phúc vĩnh cửu Người đã sắm sẵn cho những ai yêu mến phụng sự Người.
Kết Luận
Chúa đã truyền dạy: "Các con cứ bền đỗ đến cùng, các con sẽ giữ được linh hồn các con". Trung thành với ơn Chúa kêu gọi, là chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới cùng đích, là chiếm hữu được chính Chúa là nguồn hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta.
Lạy Mẹ, xin Mẹ giúp chúng con được luôn trung thành với Chúa, để chúng con đạt tới cùng đích, đúng như thánh ý Chúa khi tạo dựng nên chúng con giống hình ảnh Chúa và đã thương tuyển chọn chúng con làm con cái Chúa.
Julianô là một vị hoàng đế Rôma. Ông lên ngôi vua vào năm 360. Ông là người rất ghét bỏ Kitô: TN 33-C57
Julianô là một vị hoàng đế Rôma. Ông lên ngôi vua vào năm 360. Ông là người rất ghét bỏ Kitô giáo, nên đã khởi xướng một phong trào bắt bớ và cấm cách. Ông lấy nhà thờ làm chùa miếu. Cấm chỉ việc rao giảng Tin Mừng, giết hại các tín hữu. Ông muốn làm cho lời tiên báo của Chúa Giêsu về đền thờ Giêrusalem là sai là không đúng sự thật. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã bảo: Sẽ tới một ngày không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Mặc dù điều này đã xảy ra vào năm 70 khi tướng Titus đem quân vây hãm Giêrusalem. Thế nhưng ông vẫn ra lệnh xây lại một đền thờ để dâng kính các thần minh ngay tại địa điểm của đền thờ Giêrusalem. Theo các sử gia cho biết thì khi đào bới để đặt nền móng cho ngôi đền thờ mới này, những người thợ đã kinh hoàng và sợ hãi vì một sức nóng bốc lên từ lòng đất khiến họ không thể nào tiếp tục công việc.
Sự kiện này nói lên một sự thật đã bị quên lãng đó là Chúa Giêsu đã tiên báo và những lời tiên báo của Ngài đã ứng nghiệm. Chẳng hạn Ngài tiên báo về những đau khổ, sự chết, sống lại, lên trời của Ngài cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Những lời tiên báo này đã ứng nghiệm từng chi tiết. Ngài cũng đã nói trước về sự phản bội của Giuđa, về việc Phêrô trốn chạy. Tiếp đến, Ngài còn tiên báo về những biến cố lịch sử mà trí khôn loài người không thể nào thấy trước, chẳng hạn như về sự tàn phá Giêrusalem. Và điều này đã xảy ra đúng như lời Ngài đã nói. Chúa Giêsu cũng đã tiên báo về việc Giáo Hội được phát triển trên khắp thế giới, cũng như bị bách hại nhưng sẽ mãi mãi trường tồn. Và hai ngàn năm lịch sử đã chứng mình điều ấy. Từ những sự kiện kể trên, chúng ta đi tới một kết luận như sau: Với những lời tiên báo đã được ứng nghiệm, chúng ta có thể tin chắc chắn rằng lời tiên báo của đoạn Tin Mừng hôm nay cũng sẽ được thực hiện, đó là thế giới vật chất này sẽ có ngày tận cùng. Lát nữa đây trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: Người sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng. Và ngay sau khi truyền phép, chúng ta cũng tuyên xưng mầu nhiệm cao cả ấy: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến. Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị không phải chỉ cho ngày cuối cùng của trời và đất, nhưng còn cho ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, trong đó chúng ta sẽ được gặp gỡ với Chúa.
Bất cứ cái gì có khởi đầu thì cũng có kết thúc. Vũ trụ đã có một giây phút khởi đầu thì tất nhiên TN 33-C58 Lượng
Bất cứ cái gì có khởi đầu thì cũng có kết thúc. Vũ trụ đã có một giây phút khởi đầu thì tất nhiên cũng sẽ có một ngày kết thúc. Nhờ phương pháp Radio Activity mà người ta biết được gần chắc chắn sự xuất hiện của mỗi vật. Bất cứ vật nào cũng phóng ra một thứ ánh sáng gọi là phóng xạ. Chất phóng xạ này với thời gian sẽ dần dần biến thành một lượng chì. Người ta đo phóng xạ, biết được số lượng chì tăng lên mà định được thời gian xuất hiện. Riêng với trái đất, các nhà khoa học đã tính ra có chừng khoảng 4 đến 6 tỷ năm rồi.
Điều chắc chắn là Kinh Thánh đã nói đến việc Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ hư không, nghĩa là bởi không mà dựng nên cho có. Và như vậy, vũ trụ cũng sẽ có một điểm tận cùng nữa. Thực thế nhìn vào vũ trụ chúng ta thấy các năng lượng đang cạn dần. Ánh sáng mặt trời cũng đang giảm đi. Bao nhiêu nguồn năng lượng quăng mỏ cũng trở thành kham hiếm. Không khí chúng ta thở cũng đang bị ô nhiễm bởi khói động cơ. Các dòng nước chúng ta uống cũng bị những chất phế thải làm cho trở nên bẩn thỉu. Còn về phương diện luân lý, dường như con người mỗi ngày một sa đoạ và băng hoại. Vũ trụ đang tàn héo. Những gì đáng yêu, đáng yêu thì đang trở thành kham hiếm. Thế giới cần phải được tái tạo và đổi mới.
Đây không những là niềm hy vọng của chúng ta mà còn là niềm hy vọng của muôn vật nữa. Thật ra trước khi tổ tông chưa phạm tội, đất đai là bạn đường của họ. Nhưng từ khi bất tuân lệnh Chúa, đất đai trở nên kẻ thù, và trổ sinh gai góc. Khi con người phạm tội, trái đất nơi con người cư ngụ cũng bị xấu lây. Nó không còn là nơi đem lại hạnh phúc cho con người.
Chúng ta nên nhớ: Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài trong tình trạng tốt lành nguyên tuyền. Những lời chúc dữ đã giáng xuống chỉ vì loài người chúng ta. Cho nên khi loài người được cứu độ, trái đất cũng được chúc phúc. Vì vậy Công đồng đã nói: Toàn thể vũ trụ cùng với loài người đạt tới sự viên mãn trong Đức Kitô vì vũ trụ liên kết mật thiết với con người và nhờ con người đạt tới cùng đích của nó. Và như vậy chúng ta có thể nói: Như tội của Adong đã thay đổi vũ trụ thế nào thì vinh quang của Đức Kitô sẽ canh tân nó. Ngày tận cùng vũ trụ đối với Đức Kitô sẽ là ngày quang lâm vinh hiển, ngày phán xét và hoàn tất công việc tạo dựng, đối với nhân loại, đó là ngày vinh quang phục sinh, còn đối với tạo vật, đó là ngày canh tân và đổi mới.
Và như vậy chương trình tạo dựng sẽ trở về điểm nguyên thuỷ của nó là chính Thiên Chúa.
Đứng trên sườn đồi núi Cây Dầu nhìn xuống, các môn đệ trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp lộng lẫy và hùng TN 33-C59
Đứng trên sườn đồi núi Cây Dầu nhìn xuống, các môn đệ trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp lộng lẫy và hùng tráng của đền thờ, óng ánh trong nắng vàng. Đền thờ Giêrusalem quả là đẹp. Nó được vua Hêrôđê Cả xây từ năm 20 trước Công Nguyên và chỉ hoàn tất vào năm 63 sau Công Nguyên. Nền móng của nó được xây bằng những tảng đá khổng lồ, mà một trong những khối đá cân nặng không dưới 370 tấn.
Theo lời sử gia Lamã, Tacite: "Đền thờ giầu sang chưa từng thấy, những đá cẩm thạch, đồ vàng, màn trướng, đồ gỗ ốp tường chạm trổ và những đồ vật quý dâng cúng, làm cho các khách hành hương phải thán phục. Người ta nói: "Người nào không nhìn thấy Giêrusalem trong vẻ huy hoàng của nó, người ấy không bao giờ thấy niềm vui. Người nào chưa bao giờ nhìn thấy đền thờ, người ấy chưa bao giờ nhìn thấy một thành phố thực sự đẹp".
Có thể đây là những lời hơi quá, nhưng dầu sao người Dothái rất tự hào về sự tráng lệ của đền thờ. Hơn nữa, đối với họ, đền thờ còn là một dấu chỉ minh nhiên sự hiện diện của Thiên Chúa, Thiên Chúa ở với dân Người nơi đền thờ. Còn đền thờ, còn giao ước; mất đền thờ, dân tộc họ cũng sẽ diệt vong.
Trước sự ngưỡng mộ chính đáng đó, Đức Giêsu bảo: "Những gì anh em đang chiêm ngưỡng sẽ có ngày bị tàn phá, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào". Chính vì lời này, Thượng Hội Đồng đã kết án tử (Mt 26,61). Đức Giêsu biết điều đó nhưng Người không hòa theo sự thán phục của các môn đệ, Người phi bác sự tin tưởng của con người cho rằng, các công trình của họ luôn trường tồn bền vững. Người cho biết mọi sự chỉ là tạm bợ, dù là những công trình đẹp nhất của nhân loại: Mọi sự sẽ bị tàn phá, đền thờ sẽ bị phá hủy.
Các môn đệ muốn biết khi nào xảy ra và có điềm gì báo trước? Đức Giêsu không cho biết, Người chỉ giúp họ can đảm và bình thản đón nhận biến cố bằng cách cảnh giác ba điều:
1. Đừng tin những kẻ mạo danh Người
Trong thời gian giữa cái chết của Hê-rô-đê năm thứ tư trước công nguyên và những tàn phá Giêrusalem vào năm 70 rồi năm 135, nhiều người Dothái tự cho mình là ngôn sứ cuối cùng, hoặc Đấng Messia. Sử gia Joseph Flavius gọi họ là những tên bịp bợm, những tên cướp cạn có tham vọng thành lập vương quốc của Đấng Messia. Luca trong sách công vụ có kể tên hai người trong bọn họ: Theodas, người Dothái đã lôi cuốn được chừng 400 đồ đệ (Cvsđ 5,36). Và một người Aicập đã lôi cuốn được 4000 người đi theo (Cvsđ 21,38).
Đức Giêsu cảnh giác phải đề phòng những kẻ mạo danh Ngài, khi họ nói: "chính Ta đây", đừng tin.
2. Đừng tin ngày thế mạt đã đến gần
Ngày 30-8-70, tướng Titus đem đại quân đến vây thành Giêrusalem. Sau một thời gian vây hãm, hàng triệu người bị giết và chết đói, một tên lính cầm một dùi lửa, ném vào trong khuôn viên đền thờ, lửa bốc cháy kinh khủng, không sao dập tắt được, Đền thờ Giêrusalem bị phá huỷ. Trước biến cố đó, nhiều người nghĩ, ngày thế mạt đã đến gần. Đức Giêsu cảnh giác: Đừng tin, Người loại bỏ mọi tương quan giữa hai sự kiện. Theo Luca, nếu người ta gắn liền biến cố đền thờ bị phá huỷ với ngày thế mạt, đó là một hiểm họa, vì sẽ làm cho các Kitô hữu háo hấc nghe theo ảo giác của những ngôn sứ giả, của những kẻ bịp bợm cho rằng ngày thế mạt đã gần kề, Nước Thiên Chúa sắp tỏ hiện trong vinh quang, Con Người sẽ ngự xuống trên mây trời. Các lời loan báo như thế tạo nên một cơn sốt tạm bợ, sẽ gây thất vọng và khủng hoảng đức tin, người ta sẽ sống trong chờ đợi, không làm gì, vì thế Đức Giêsu nói: Đừng tin họ.
Thực vậy, sau khi đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, vua Adrien ra lệnh đào tận gốc vết tích đền thờ cũ và xây lên trên một ngôi chùa thờ thần Jupiter. Năm 363, vua Giulianô, một người bỏ đạo, cháu Constantin Đại Đế, muốn cho lời Chúa hết linh nghiệm đã cho phép người Dothái xây lại đền thờ, nhưng có lửa từ dưới nền móng bốc lên thiêu rụi thợ xây. Công việc bỏ dở và ngày nay trên nền Đền thờ cũ là một giáo đường Hồi giáo, đền Omar. Đã 2005, Đền thờ Giêrusalem bị tàn phá, ngày thế mạt chưa đến, chỉ biết rằng, giữa hai thời kỳ đó là thời của dân ngoại dầy xéo lên đền thờ, bao giờ tận cùng, không ai biết.
3. Đừng sợ những kẻ bách hại
Đức Giêsu không giấu gì các môn đệ. Người nói với họ, mọi sự rồi sẽ rất khó khăn. Khi nói về thế giới, Người rất thực tế, Người nói đến chiến tranh loạn lạc, động đất, dịch bệnh, đói kém. Khi nói về công việc rao giảng Tin mừng, Người cho biết, họ sẽ bị bách hại, tù đầy, phản bội thù ghét, giết chóc, và kẻ thù có thể chính là người nhà. Trước những thảm hoạ và tai ương đó, có thể dễ dàng khiến các Kitô hữu thất vọng và cho rằng họ là những nạn nhân.
Nhưng Đức Giêsu bảo, đó không phải là tai hoạ, song là cơ hội để người tín hữu làm chứng cho Người và cho Tin mừng. Trong cảnh tối tăm cần có ánh sáng, trong sai lầm cần có chân lý, trong thù hận cần có yêu thương, trong chiến tranh cần có hoà bình, và trong bách hại cần có chứng tá của Tin mừng. Trước những bách hại, người Kitô hữu đừng lo phải đương đầu thế nào? Hãy ghi lòng tạc dạ: "Chính Thầy sẽ ở cùng anh em, sẽ cho anh em nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thù của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được"(Lc 21,14-15).
Lạy Chúa, chúng con đang sống trong một thế giới luôn thay đổi, đầy những thảm hoạ, xin cho chúng con luôn an tâm trong tình yêu Chúa và được hưởng sự bình an mà thế giới này không thể mang lại. Chúng con cầu xin.
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay (Lc 21, 5-19), đã có nhiều người cho rằng thành Giê-ru-sa-lem mà TN 33-C60
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay (Lc 21, 5-19), đã có nhiều người cho rằng thành Giê-ru-sa-lem mà Đức Giê-su nói đến là thành phố hiện thực tại Do-thái, để rồi từ đó loay hoay tìm những chứng cớ lịch sử có thật (chẳng hạn như sự kiện thành Giê-ru-sa-lem bị cháy vào năm 70 sau công nguyên) để chứng minh lời tiên báo của Đức Giê-su là chính xác. Thực ra, đọc kỹ bài giàng về “sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem” sẽ thấy Đức Giê-su dùng hình ảnh có thật trước mắt mọi người để nói đến một hình ảnh ẩn dụ bên trong, đó là ngày tận thế, ngày cánh chung của vũ trụ. Mặc dù Đức Giê-su có nói: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” (Lc 21, 6), nhưng đó chỉ là cách Người muốn cho mọi người hình dung được ngày chung cuộc, mà ngày đó sẽ có những điềm báo trước (Lc 21, 8-19).
Trước hết, Lời dạy của Đức Ki-tô tiên báo gần đến ngày cánh chung sẽ xảy ra bắt bớ, ngược đãi, gông cùm, tù tội, mà nhiều khi chính những người thân cận nhất lại là những kẻ tố cáo, bắt nộp con em mình cho quan quyền hành tội. Cũng giống như đã có lần Đức Ki-tô dạy: “Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” (Mt 10, 35-36). Khi nghe bài Tin Mừng hôm nay, đã có ý kiến phản biện: Cha mẹ nào mà chẳng thương con, “Có người nào khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn?” (Mt 7, 9-10), chẳng lẽ khi con mình bị trù dập, đã không che giấu thì chớ, mà lại còn nhẫn tâm đi tố cáo, bắt con em mình nộp cho thế lực thù địch hay sao?
Vì thế, mới thoạt nghe Lời Chúa, thấy có vẻ nghịch lý, khó lòng chấp nhận được, và chính điều này tác động mãnh liệt vào bộ não khiến người ta phải dốc tâm suy niệm để tìm cho ra đáp án. Quả thực, khi phải dốc hết tâm trí ra suy nghĩ về một vấn đề nào đó thì việc đầu tiên là phải nhìn lại mình trước, nhiên hậu nhìn lại những người thân cận và môi trường mình đang sống, đang hoạt động. Nhìn lại để thấy được không hẳn là viết đơn hoặc đến thẳng quan quyền tố cáo con em mình mới là “tố cáo, bắt nộp” (Nhiều khi chỉ vì cha mẹ chưa tin vào những điều con mình đã tin, ra mặt không chấp nhận hành động của con em mình, tạo nên một hố sâu chia rẽ trong gia đình, thì như thế đã là “vạch áo cho người xem lưng”, khiến kẻ thủ ác có cớ để bắt bớ, tra tấn con em mình). Nhìn lại còn để cảnh giác và sẵn sàng đối phó, chớ không phải nhìn lại để trốn chạy, chối bỏ. Nhìn lại còn để thấy được sự yếu đuối, mỏng giòn của bản thân cũng như những người thân cận ruột thịt và rộng ra là của con người thụ tạo trên trái đất này, nên rất có thể “Kẻ thù của mình chính là người nhà” (Mt 10, 36).
Như thế, nhìn lại mình chính là để vượt thắng được chính mình, mà muốn được vậy thì phải biết kiên trì cầu nguyện xin ơn soi sáng để nhìn cho rõ con đường chân lý mà mình sẵn sàng nhập cuộc, đồng thời cầu nguyện xin Thần Khí Chúa tăng thêm sức mạnh và dũng khí để sẵn sàng đối mặt với nghịch cảnh, chấp nhận hy sinh để bảo vệ đức tin, bởi chính “Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được” (Lc 21, 13-15).
Điều cần suy gẫm tiếp theo, đó là vấn đề cho đến tận ngày nay, những Lời tiên báo của Đức Giê-su (“Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có hững trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện” – Lc 21, 10-11) đã thực sự xảy ra và xảy ra thật nhiều trên trái đất này. Và tất nhiên, Lời cảnh báo của Người về những người thân cận ruột thịt (cha mẹ, anh em, họ hàng, bè bạn) sẽ bắt nộp con em của mình vì đã dám làm chứng cho niềm tin về một Đấng Ki-tô Cứu Thế, cũng đã xảy ra không ít. Chính Đức Giê-su cũng đã từng bi quan về thời suy tàn ấy: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Vì người mang danh có đức tin thì vô số, nhưng người thật sự tin – nghĩa là thể hiện đức tin bằng cuộc sống – thì chẳng bao nhiêu. Chính Thánh Phao-lô cũng nói với tín hữu Ti-mô-thê: “Anh hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. Hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ” (2Tm 3,1.5).
Bài đọc 2 CN. XXXIII/TN-C hôm nay, với tiêu đề “Đề phòng lối sống vô kỷ luật: cơn sốt quang lâm!” có đoạn viết: “Thật vậy, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân.” (2Tx 3, 10-12). Quả thật vào thời gian cận kề ngày chung thẩm, sẽ xảy ra đủ thứ chuyện “vô kỷ luật” khiến thế giới như lên cơn sốt và cao trào nhất sẽ là giờ phút “Con Người quang lâm”, chẳng hiểu lúc ấy “liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8).
Tóm lại, biết lắng nghe, biết suy niệm và luôn biết tỉnh thức, sẵn sàng thực hành theo Lời Chúa dạy, “ hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2Tx 3, 13), thì mọi kẻ thù hung ác, mọi thử thách nghiệt ngã, mọi chông gai nguy hiểm, cũng đều có thể vượt qua, bởi “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu.” (Lc 21, 17-18). Câu kết của bài giảng (“Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” – Lc 21, 19) đã cho thấy ai kiên trì cầu nguỵên để có thể kiên trì đối diện với mọi thử thách nghiệt ngã, vượt thắng được nghịch cảnh, vượt thắng được chính mình, thậm chí hy sinh cả tính mạng mình cho chân lý mình đang theo đuổi, thì sẽ gặt hái được vinh quang trong ngày sau hết. “Giữ được mạng sống mình” phải được hiểu là cuộc sống mai hậu trên Nước Trời vinh hiển. Chúa đã từng dạy hãy kiên trì trong cầu nguyện (dụ ngôn “Người bạn quấy rầy”, “Người đàn bà quấy rầy”), nay Người lại dạy hãy kiên trì làm nhân chứng cho Tin Mừng cứu độ. Rõ ràng trong tư tưởng hay trong hành động, ở bất cứ hoàn cảnh nào, anh hãy biết KIÊN nhẫn bảo TRÌ đức tin mà anh đã chọn cho cuộc đời mình.
Ôi! Lạy Chúa! Chúng con “đang sống những ngày đen tối” (Ep 5, 15) đúng như lời Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-sô. Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho con để con biết “cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan”, đồng thời luôn luôn “biết tận dụng thời buổi hiện tại” (Ep 5, 16), sẵn sàng đối diện với mọi thử thách nghiệt ngã, nhất là những thử thách đến từ chính “cái tôi” ích kỷ, đớn hèn của con. Hy vọng với cách đó, con sẽ luôn luôn sẵn sàng trở về với Chúa bất cứ giây phút nào. Ôi! “Lạy Thiên Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, được phụng sự Chúa quả là một hạnh phúc tuyệt vời: xin cho chúng con tìm được niềm vui khi hết dạ trung thành với Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguỵên nhập lễ Chúa nhật XXXIII mùa Thường niên).
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật 33 hôm nay (Lc 21,5-19) là đoạn Tin Mừng mang tính Khải Huyền, là TN 33-C61
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật 33 hôm nay (Lc 21,5-19) là đoạn Tin Mừng mang tính Khải Huyền, là đoạn Tin Mừng được Chúa Giêsu tiên báo về ngày tận thế. Tận thế của từng cá nhân, của từng người bước theo Chúa Giêsu, và ngày chung thẩm của nhân loại. Đặc biệt hơn, ngày hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Vậy, ý nghĩa Lời Chúa hôm nay có liên qua mật thiết như thế nào đối với ngày Lễ mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Lời Chúa hôm nay có 2 phần rõ rệt: Phần 1, (từ câu 5-7), phần 2 (từ câu 8 -19).
Phần 1: Tiên báo về sự sụp đổ của Đền thờ Giêrusalem.
Phần 2: Những điềm báo trước của những thân phận Kitô hữu.
Đền thờ Giêrusalem là một công trình vĩ đại, là điểm nổi bật kiến trúc có một không hai, một đền thờ bằng vật chất được xây dựng lên để thờ phượng Thiên Chúa. Vẻ nguy nga, tráng lệ và thời gian xây dựng là 46 năm đã làm nên một công trình rất hãnh diện đối với người Dothai. Chúng ta thấy, phàm nhân từ cổ chí kim vẫn khát khao, vẫn theo đuổi nhu cầu tâm linh rất lớn. Đền thờ vật chất Giêrusalem là một minh chứng rõ ràng nhất, chứng tỏ sự khao khát mãnh liệt về tâm linh của con người không thể chối cãi được. Về mặt lịch sử, kiến trúc, giá trị vật chất của nó ai cũng lấy làm ngưỡng mộ, đến như Chúa Giêsu cũng lấy làm thương tiếc nó.
Vậy tại sao Đền Thánh Giêrusalem sẽ bị tàn phá? Thưa, đền thờ nói chung được xây dựng lên hầu tôn vinh Thiên Chúa, đền thờ Giêrusalem được xây dựng lên ngoài việc tôn thờ Thiên Chúa nó còn mang một ý nghĩa chính trị, nhất là nó được các nhà lãnh đạo tôn giáo Dothai cai quản, và mặc nhiên dần dần xa cách việc Thờ phượng chính đáng, không còn đẹp lòng Thiên Chúa nữa. Qủa nhiên, nó cũng chỉ là một đền thờ mang ý nghĩa vật chất, dù giá trị kiến trúc của nó thì vô cùng đẹp đẽ và nguy nga. Nhưng không theo ý Thiên Chúa, mà theo ý những nhà lãnh đạo tôn giáo. Đó là ý nghĩa nó phải sụp đỗ như Lời Tiên Báo của Chúa Giêsu. Chúng ta nhớ laị Lời Chúa Giêsu khi Người vào Đền thờ đánh đuổi những người mua bán, đổi tiền,làm ô uế đền thờ. Người Nói: “ Đừng biến nhà Cha Ta thành hang trộm cướp... Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa sẽ làm hao tổn thân xác Tôi.” (x. Ga 2, 13-22).
Chúng ta đọc lại Tin Mừng Nhất Lãm ở các trang (Mt 21,12-17; Mt 23, 37-39) (Mc11, 15-18) (Mc 13), (Lc 13, 34-35; Lc 19,41-46). Tất cả những câu nầy nói lên sự kiện đền thờ Giêsrusalem liên quan đến chương trình cứu rỗi của thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Qua đó, chúng ta thấy, việc xây cất đền thờ để thờ phượng Thiên Chúa thì quan trọng.Nhưng quan trọng hơn chính là đền thờ tâm hồn, vì một ngồi đền thờ nguy nga tráng lệ, như Giêrusalem mà còn bị hủy diệt, vì không chứa chan ơn cứu độ, không mang tính thờ phượng chân chính, mà là lợi dụng việc thờ phượng để bày đủ trò, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt.
Đền thờ Giêrusalem liên quan đến Chương Trình Cứu Thế của Chúa Giêsu, vì vậy, khi nghe Chúa nói: “Hãy phá hủy đền thờ nầy đi, trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Người Dothai nghĩ rằng Chúa Giêsu bị “tâm thần”, nhưng khi Người nói câu nầy, mặc nhiên không theo nhân tính, mà theo thiên tính của Người, nên chi, câu nói nầy hoàn toàn ứng nghiệm. Qua câu Lời Chúa trên, chúng ta hiểu được đền thờ Giêrusalem Thiên Quốc chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa. Người chính là Thành Thánh Thiên Quốc mà Thiên Chúa Ba Ngôi hài lòng. Và cũng chính điều nầy, mà Người đến trong thế gian.
Vậy, hôm nay, những người bước theo Đức Kitô, qua mọi thời đại đã cảm nghiệm Lời Chúa, muốn minh chứng Lời Chúa là chân lý, là tình yêu, bất chấp thế lực trái ngược, các ngài đã dùng chính tình yêu đáp trả tình yêu, sẵn sàng chịu chết mà không oán hận. Đó là lý do mà Đền Thờ vật chất Giêrusalem bị tàn phá, vì không thể nào sánh được với những Thành Thánh Giêrusalem trên trời, đó chính là Đức Giêsu Kitô và những ai bước theo Người.
Sống Đạo chính là Tử Đạo, Tử Đạo chính là cách sống Đạo tốt nhất, vì: “Phàm ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời... “ (Lc 12, 8-9) (Mt 10, 32). Các Thánh Tử Đạo mà Gíao Hội Việt Nam long trọng mừng kính hôm nay, không những các ngài chỉ dùng cái chết mà minh chứng sự thật về Đức Kitô, mà là trước khi nhận phúc Tử Đạo các ngài đã sống đạo một cách anh dũng, vì không ai có thể không sống vì Đạo mà lại được hưởng phúc Tử Đạo được. Câu kết cho đoạn chia sẻ hôm nay là: “Khi sống Đạo tốt chính là lúc Tử Đạo”. Mong thay!
Lạy Thiên Chúa là Cha, Cha không muốn loài người suy tôn Cha bằng vẻ bề ngoài, dù là thành thánh, hay thánh đô, mà là Cha muốn loài người suy tôn Cha bằng chính tâm linh của họ. Vì dù là thánh thánh thì cũng chỉ là tòa nhà vật chất. Vì thế, Cha đã ban cho chúng con Thành Thánh Thiên Quốc là Đức Giêsu Kitô, Con Cha, Chúa chúng con, đế chúng con bước theo Người, xây dựng một Thành Thánh như Ý Cha ở trên trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Chúa nhật 33 thường niên, năm C là Chúa nhật áp chót của năm Phụng Vụ, Giáo Hội nhắc nhớ TN 33-C62
Chúa nhật 33 thường niên, năm C là Chúa nhật áp chót của năm Phụng Vụ, Giáo Hội nhắc nhớ mỗi người đến những biến cố của đời người: chết, phán xét, thiên đàng, hỏa ngục. Lời Chúa trong bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay là một lời ngôn sứ báo trước thành thánh Giêrusalem sẽ bị tàn phá không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, đền thánh sẽ bị phá hủy bình địa, và qua biến cố lớn lao này, Chúa ám chỉ đến ngày tận thế chung, ngày phán xét của toàn thể nhân loại và đồng thời, Ngài nhắc nhở về cái chết và sự phán xét riêng của mỗi người.
Đền thánh Giêrusalem là một công trình lớn lao, là một trong những kỳ quan của thế giới. Biết bao người trầm trồ khen ngợi, biết bao người bị cuốn hút bởi kỳ quan tráng lệ, tuyệt vời do tay con người xây dựng. Chúa Giêsu một bữa kia cũng có mặt ở đó và trước những lời ca ngợi đền thánh Giêrusalem, Chúa Giêsu nói: “Mọi sự các ngươi thấy đây, sẽ không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào”. Chúa đã tiên báo Giêrusalem sẽ bị phá hủy. Lời ngôn sứ của Chúa Giêsu đã ứng nghiệm vào ngày 9 tháng 8 năm 70 sau công nguyên, nghĩa là bốn mươi năm sau lời tiên báo của Ngài. Một người lính Roma đã phóng lửa vào đền thánh Giêrusalem. Cả đền thánh nguy nga đồ sộ, biết bao người đã bỏ biết bao công sức, biết bao của cải đã đổ vào công trình xây dựng đền thờ này. Chỉ một phút chốc, công trình mà dân Do Thái tưởng muôn đời không thể hư hỏng, đã ra bình địa. Muôn đời, người ta không thể quên được cái ngày kinh khiếp của dân Thiên Chúa. Tuy nhiên, đền thờ vật chất do con người xây dựng sẽ được thay thế bằng chính Chúa Giêsu, Đấng đã ám chỉ về Thân Thể của Ngài: “Hãy phá hủy đền thờ này đi, Ta sẽ xây dựng lại trong ba ngày”. Lời ngôn sứ của Chúa Giêsu đã được ứng nghiệm. Chúa đã chấp nhận cái chết theo ý Chúa Cha trên thập giá và đúng ba ngày sau khi chết, Ngài đã sống lại khải hoàn…
Đền thờ trên thế giới là nơi Chúa Giêsu ngự, nơi đó, các Linh mục sẽ dâng lễ mỗi ngày. Mọi Kitô hữu sẽ múc lấy nơi đền thánh, nhà thờ, nhà nguyện nguồn ơn sủng của Chúa. Nhà thờ là nơi được công bố Lời Chúa, là nơi các tín hữu lãnh nhận các Bí tích, là nơi Chúa gặp con người và ngược lại. Người Kitô hữu thờ lạy Thiên Chúa Cha trong tinh thần và chân lý bởi vì chúng ta hợp nhất trong chính Thân Thể và tình của Chúa Giêsu trong Phụng vụ.
Cuối bài giảng của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay có một câu thật quý giá: “Nhờ sự kiên trì, các ngươi sẽ được sống”. Sự sống nơi con người có đức tin cùng thờ phượng Chúa trong tình yêu và chân lý. Kiên trì là sống đúng sự sống Chúa trao ban cho người. Đức tin của con người là thước đo cho lòng kiên trì và can đảm của con người trước những phong ba thử thách của thế gian. Và ngày Chúa đến trong vinh quang sẽ là ngày hoàn hảo khi Đức Kitô đến một lần nữa: “Chúa sẽ đến để cai trị thế giới với sự công bằng”.
Chúa luôn nhắc nhở cho nhân loại, cho mỗi người về ngày tận thế. Tuy nhiên, Chúa nói với chúng ta đừng bận tâm khi nào tận thế đến, mà hãy lo sống hiện tại và kiên trì. Đối với chúng ta, những Kitô hữu hôm nay là trung thành làm chứng cho Chúa, là sống đúng tư cách của một Kitô hữu đích thực. Người Kitô hữu đích thực là người sống “yêu như Thầy yêu”.
Chúng ta hãy nhớ lời Thánh Công Đồng Vaticanô II viết: “Chúng ta không biết tất cả những gì sẽ được chuyển đổi nhưng sự biến dạng do tội lỗi đã phủ bóng trên thế giới này sẽ qua đi, vì Thiên Chúa đang sửa soạn một nơi ở mới và một trời mới, đất mới, nơi mà sự công chính sẽ ngự trị và ân phúc sẽ là câu đáp trả vượt quá những sự khao khát và bình an của nơi tâm hồn con người”.
Trong Phụng vụ Thánh Thể, người Kitô hữu nhận ra rằng Chúa Kitô đã chết, đã sống lại và Đức Kitô sẽ đến một lần nữa. Người môn đệ của Chúa sẽ hướng về ngày vinh quang của Chúa không lo âu, không chán nản và người môn đệ của Chúa luôn tin vào việc Đức Kitô, Đấng cứu độ sẽ đến. Vâng, ngày tận thế của nhân loại cũng là ngày phán xét và tận cùng của mỗi người chúng con khi phải lìa xa cõi đời này mà ra trước mặt Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhiệt thành, sẵn sàng, tỉnh thức chờ đón Chúa đến. Amen.
Chủ đề: "Sự đau khổ sẽ khiến bạn trở nên cay đắng hoặc trở nên tốt hơn"
Chúa Giêsu nói, "Hãy đứng vững, và anh chị em sẽ cứu được chính mình" (Lc 21,19)
Cha Anton Luli là một linh mục dòng Tên. Ngài bị Cộng Sản bắt ngay trước ngày Giáng Sinh 1947 TN 33-C63
Cha Anton Luli là một linh mục dòng Tên. Ngài bị Cộng Sản bắt ngay trước ngày Giáng Sinh 1947. Ngài viết trong nhật ký:
Vào đêm Giáng Sinh... họ dùng dây treo tôi lơ lửng trên không... có nhón gót thì mới chạm được mặt đất.
[Sau khi bị treo ba giờ đồng hồ] Tôi cảm thấy thân thể... như lìa xa tôi. Cái lạnh từ từ len vào mọi chi thể và... tim tôi như ngừng đập... Tôi kêu lên tuyệt vọng...
Những người tra tấn bước vào... kéo tôi xuống, và họ đá tôi túi bụi. Đêm hôm đó... tôi mới cảm nghiệm được ý nghĩa thực sự của... Thập Giá.
Nhưng cùng với sự đau khổ tôi chịu... tôi cảm thấy sự hiện diện đầy an ủi của Chúa Giêsu ở trong lòng... Vào những lúc ấy, sự hỗ trợ của Người là một điều mà tôi chỉ có thể gọi là "phi thường" thật vui sướng thật an ủi mà Chúa Giêsu đã đem cho tôi.
Điều mà Cha Luli không thấy trong đêm Giáng Sinh kinh hoàng ấy là ngài bị kết án tù 40 năm. Trong thời gian ấy, mười bẩy năm ngài bị giam riêng trong ngục tối. Ngài kết thúc nhật ký bằng những lời sau:
Họ thả tôi trong dịp ân xá năm 1989. Lúc ấy tôi đã 79 tuổi. Tôi chưa bao giờ cảm thấy oán giận những người đã cướp đi cuộc đời tôi.
Sau khi được phóng thích, tình cờ tôi gặp lại một trong những người đã tra tấn tôi trên đường phố: tôi cảm thấy thương hại anh ta... và tôi đến ôm lấy anh.
Có hàng ngàn linh mục từng bị bách hại vì... Đức Kitô... nhưng không ai có thể cướp đi tình yêu của chúng tôi dành cho Chúa Giêsu trong tâm hồn. Câu chuyện lạ thường của Cha Luli đưa chúng ta về bài Phúc Âm hôm nay. Trong đó, Chúa Giêsu nói về sự phá hủy Đền Thờ và ngày tận thế.
Khi các môn đệ hỏi Người khi nào những sự kiện ấy sẽ xảy đến, Chúa Giêsu nói họ phải thấy ba dấu hiệu.
Trước hết, các ngôn sứ giả mạo sẽ xuất hiện. Chúa Giêsu nói: "Nhiều người, tự xưng là phát ngôn viên của Thầy, sẽ đến và tuyên bố... 'Đã đến lúc!' Nhưng đừng theo họ." Luca 21:8
Thứ hai, các điều kinh hoàng sẽ xảy ra trên mặt đất và trên trời.
Thứ ba, và sau cùng, Chúa Giêsu nói:
"Trước khi những điều ấy xảy ra... anh chị em sẽ bị... bách hại... bị giam tù... [và] bị đưa ra trước vua quan vì Thầy. Đây sẽ là cơ hội cho anh chị em loan báo Tin Mừng... Hãy đứng vững [qua mọi điều ấy] và anh chị em sẽ cứu được chính mình." Luke 21:12-13, 19
Và điều đó đưa chúng ta trở về với câu chuyện của Cha Luli. Ngài đã kinh qua những thử thách, bách hại, và tù đầy vì Chúa Giêsu.
Và ngài đã dùng những điều ấy như một cơ hội để loan báo Tin Mừng. Cũng như Chúa Giêsu, ngài đã tha thứ cho những người bách hại ngài. Và như Chúa Giêsu, ngài đã đứng vững cho đến cùng.
Một trong những kết quả ấy là câu chuyện đời ngài khuyến khích và phấn khởi chúng ta hãy đáp ứng với các thử thách và đau khổ như ngài đã thi hành.
Có lẽ chúng ta không còn sống để chịu những thử thách và đau khổ của ngày tận thế. Nhưng chắc chắn một lúc nào đó mọi người sẽ phải trải qua những thử thách và đau khổ trong cuộc đời.
Điều này khiến câu chuyện của Cha Luli thích hợp với các bài đọc hôm nay. Câu chuyện ấy đảm bảo rằng nếu chúng ta chấp nhận những thử thách và đau khổ của chúng ta, những gian nan ấy có thể trở nên nguồn ơn sủng lớn lao cho chúng ta, như đã xảy ra cho Cha Luli.
Tỉ như, một kết quả của những đau khổ và thử thách là Cha Luli đã cảm được sự hiện diện đầy trợ giúp của Thiên Chúa mà chưa bao giờ ngài cảm được-và rất ít người có được.
Điều đó đưa chúng ta đến một điểm quan trọng. Mọi thử thách và đau khổ sẽ khiến chúng ta trở nên cay đắng hoặc trở nên tốt hơn, tùy theo phương cách mà chúng ta chấp nhận.
Câu chuyện thật sau đây sẽ cho chúng ta thấy điều này.
Vào một ngày kia khi học lớp bẩy, John Erickson nhìn lên bảng và không thấy gì hết. Em sững sờ. Sau đó em lại thấy được nhưng không rõ như trước.
Ít lâu sau, cơn ác mộng được sáng tỏ. Em biết là có thể em sẽ bị mù. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã ban phúc cho em để có được một người em sinh đôi. Cha mẹ em mua chiếc xe đạp hai chỗ ngồi, và hai em có thể đi bất cứ đâu. John ngồi đằng sau; em kia ngồi đằng trước.
Khi đến tuổi trung học, John cũng đi học chung với em mình-thay vì học trường dành cho người khiếm thị.
Để rút ngắn câu chuyện, John làm trưởng lớp. Em bơi lội, trượt tuyết, và làm đủ mọi chuyện y như các trẻ em khác.
Sau khi xong trung học, John lên đại học và tốt nghiệp MBA ở trường Northwestern University. Ngày nay em là phó chủ tịch ngành đầu tư chứng khoán của một ngân hàng lớn nhất Chicago. Em cũng lấy vợ và rất yêu thương gia đình. Ngày nay, hiển nhiên là em bị mù, nhưng em rất biết ơn Thiên Chúa về những phúc lành. Một trong những phúc lành lớn lao nhất, em cảm thấy là "sự thách đố" Người ban cho em đó là sự tương giao cá biệt với Chúa Giêsu.
John cho biết vào năm 23 tuổi, em tham dự nhóm học hỏi Kinh Thánh. Một ngày kia, bỗng dưng em nhận ra Chúa Giêsu ở với em-và luôn luôn hiện diện trong một phương cách đặc biệt. Sau đó, em không bao giờ cảm thấy cô đơn nữa. Và vì thế các bài đọc ngày hôm nay đảm bảo chúng ta rằng nếu chúng ta cầu nguyện và kiên trì trong những lúc thử thách và đau khổ-như Cha Luli và John đã trải qua-chúng ta sẽ chiến thắng, như họ.
Đây là tin mừng trong các bài đọc hôm nay. Đây là tin mừng mà chúng ta cử mừng trong phụng vụ này. Đây là tin mừng mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đem về nhà hôm nay.
Chúng ta hãy kết thúc với những lời của Chúa Giêsu. Những lời này tóm lược lý do tại sao chúng ta sẽ kết thúc cách vinh quang nếu chúng ta cầu nguyện và kiên trì khi bị thử thách và đau khổ. Chúa Giêsu nói:
"Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như một cành không thể tự nó sinh hoa trái trừ khi dính liền với thân, các con cũng vậy nếu các con không ở trong Thầy.
"Thầy là thân cây, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy trong họ thì sẽ sinh nhiều hoa trái." (Ga 15, 4-5)
Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Chúng ta đang ở Chúa TN 33-C64
Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Chúng ta đang ở Chúa nhật áp chót của năm, cũng như Chúa nhật cuối cùng của Năm Thánh Lòng Thương Xót. Nhưng tâm điểm vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu chết và sống lại, lên trời và sẽ trở lại trong vinh quang như lời Người đã phán. Sống đời kitô hữu là sống niềm tin và hy vọng vào Chúa, nhất là trung thành với Đức tin đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta sẽ được bình an trong ngày Chúa đến.
Chúa nhật thứ XXXIII thường niên C làm chúng ta nhớ lại, khởi đầu Năm Phụng Vụ, Giáo hội đã kêu gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Kitô đến lần thứ nhất mang ơn cứu độ là chính Người đến cho nhân loại. Chúa nhật hôm nay, Giáo hội lấy lại lời Chúa Giêsu báo trước về ngày giờ Chúa đến lần thứ hai, giúp chúng ta nghĩ về những thực tại mai hậu của con người là: sự chết, sự phán xét, thiên đàng và luyện ngục. Nhưng trước khi những việc ấy xảy ra thì sẽ có các tiên tri giả, nên lời Chúa mời gọi chúng ta cảnh giác và sống trong tỉnh thức cũng như hy vọng, nhất là bền đỗ đến cùng trong niềm tin cậy vào Chúa (x. Lc 21, 5–19).
Nghe đoạn Tin Mừng Luca (21, 5–19) hôm nay với những lời tiên báo của Chúa Giêsu như: Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy, xuất hiện các tiên tri giả, các dân nước chống lại nhau, nạn ôn dịch xảy đến… Dĩ nhiên người ta hỏi Chúa: Khi nào thì điều ấy xảy ra? Ðâu là những dấu hiệu? Nhưng Chúa Giêsu chuyển sự chú ý của họ đối với những khía cạnh cụ thể bao giờ xảy ra, sẽ như thế nào, sang những vấn đề đích thực. Có hai vấn đề. Thứ nhất: là đừng để mình bị những tiên tri giả đánh lừa, và đừng để mình bị tê liệt vì sợ hãi. Thứ hai: sống thời gian chờ đợi như thời gian làm chứng và kiên trì. Và chúng ta đang ở trong thời gian chờ đợi Chúa đến.
Lời cảnh tỉnh xưa của Chúa Giêsu vẫn luôn có tính chất thời sự, kể cả đối với chúng ta là những người đang sống trong thế kỷ 21. Chúng ta cần phải phân định, đâu là tinh thần của Chúa và đâu là tinh thần của thần dữ. Ðúng vậy, ngày nay cũng có những cứu thế giả, toan tính thay thế Chúa Giêsu: thủ lãnh của thế gian này muốn thu hút về mình tâm trí của người khác, nhất là của những người trẻ. Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta: “Các con đừng đi theo chúng!”.
Trong thực tế, những gì mà Chúa Giêsu tiên báo liên quan đến ngày tận thế đã, đang và chắc chắn sẽ xảy ra. Chẳng hạn gần với thời của Người là Đền Thánh Giêrusalem đã bị phá tan bình địa vào năm 70 sau đó như Người tuyên bố. Các biến cố khác như chiến tranh, giặc giã, đói khát, động đất, chết chóc, nước này nổi lên chống đối nước kia... đang không ngừng ập đến trong nhân loại từ nơi này đến nơi khác dưới mọi hình thức, rõ ràng nhất là sự tận cùng đời người của mỗi chúng ta. Hằng ngày có không biết bao nhiêu nhân mạng tan biến đi thành tro bụi trên trái đất này. Như thế, điều Chúa Giêsu tiên báo về ngày tận thế không phải là sự dọa nạt, nhưng thức tỉnh chúng ta, hướng chúng ta về cuộc sống an bình, hạnh phúc trong sự đợi chờ của niềm tin và lòng cậy trông vững vàng vào sự quan phòng và quyền năng Thiên Chúa.
Chúa nhắc nhở rằng: “Dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất” (Lc 21,18). Chúng ta hoàn toàn ở trong tay Thiên Chúa! Những nghịch cảnh chúng ta gặp vì đức tin và vì lòng gắn bó với Tin Mừng là những cơ hội để làm chứng tá; những nghịch cảnh ấy không làm chúng ta xa Chúa, nhưng thúc đẩy chúng ta càng phó thác vào Chúa,sức mạnh của Thánh Linh và ơn thánh của Ngai.
Lời Chúa nói đây: “Các con cứ bền đỗ đến cùng, các con sẽ giữ được linh hồn các con” (Lc 21,19). Những lời trên của Chúa Giêsu chứa chan niềm hy vọng. Lời ấy như tiếng mời gọi chúng ta sống hy vọng và kiên nhẫn, chờ đợi những thành quả của ơn cứu độ, tín thác nơi ý nghĩa sâu xa của cuộc sống và lịch sử: những thử thách và khó khăn là điều thuộc về một kế hoạch rộng lớn hơn; Chúa là chủ tể lịch sử, ngài hướng dẫn mọi sự đến chỗ viên mãn. Dầu có những xáo trộn và tai ương làm chao đảo thế giới, nhưng kế hoạch từ nhân và thương xót của Thiên Chúa sẽ viên mãn! Và đây là niềm hy vọng của chúng ta: tiến bước như thế trên con đường này, trong ý định của Thiên Chúa sẽ được hoàn thành. Ðó là niềm hy vọng của chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con tin cậy vào Chúa, Lời Chúa là ngọn đèn soi cho chúng con bước, là Ánh Sáng chỉ đường cho chúng con đi, Lời ấy tồn tại mãi cho dù mọi sự qua đi.
Trong Chúa nhật áp chót của niên lịch phụng vụ, ngày cánh chung được nhắc đến. Nhà tiên tri TN 33-C65
Trong Chúa nhật áp chót của niên lịch phụng vụ, ngày cánh chung được nhắc đến.
Nhà tiên tri khi đứng bên bờ hiện tại nhìn về tương lai, có thể ví như một khán giả nhìn diễn tiến một vở kịch trên sân khấu. Qua màn thứ nhất đang diễn ra họ nhìn thấy màn thứ hai ở đàng sau đang khởi đầu. Đó là bối cảnh của bài phúc âm hôm nay, trong đó Chúa Giêsu tiên báo về ngày tàn của Giêru-salem và đàng sau lộ hiện những gì sẽ xảy ra trong ngày tận thế.
Trước hết về ngày tàn của Đền thờ Giêru salem. Đứng trên sườn đồi núi cây dầu nhìn xuống, các môn đệ trầm khen ngợi vẻ đẹp lộng lẫy và hgùn tráng của Đền thờ óng ánh trong nắng vàng. Các ông nói: “Thầy xem Đền thờ đẹp thật.” Chúa Giêsu ngước mắt nhìn, vẻ mặt buồn buồn và nói: “Những gì chúng con nhìn thấy đây, sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào?” Các môn đệ kinh ngạc vô cùng. Nhưng lời tiên tri ấy đã ứng nghiệm trong từng chi tiết. Và đó là màn thứ nhất.
Năm 70, tướng Titus đem đại quân đến bao vây thành. Một tên lính cầm một dùi lửa, ném vào trong khuôn viên Đền thờ, lửa bốc cháy kinh khủng không sao dập tắt được. Sau đó, vua Adrien ra lệnh đào tận gốc vết tích đền thờ cũ và xây lên một ngôi chùa thờ thần Jupiter. Năm 363, vua Giudianô, một người bỏ đạo, cháu Constantino đại đế, muốn cho lời Chúa hết linh nghiệm đã cho phép người Do thái xây lại đền thờ nhưng có lửa từ dưới nền móng bốc lên thiêu rụi thợ xây. Công việc bỏ dở và ngày nay trên nền Đền thờ cũ là một giáo đường Hồi giáo, đền Omar. “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta sẽ không bao giờ qua” (Mc 13,31).
Qua màn thứ nhất, ẩn hiện bên sau, những gì sẽ diễn ra trong gnày tận thế. Đó là màn thứ hai. Trong ngày thế mạt ấy, sẽ có chiến tranh loạn lạc, nhất là “Ngời ta sẽ bắt bớ” các con. Nếu người ta đã bắt bớ thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Người ta sẽ điệu các con đến trước vua quan và các con sẽ là chứng nhân của Thầy. “Rồi sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trời ra tối tăm, mặt trăng mất sáng, tinh tú rơi xuống, mọi tần trời lay chuyển” (Mc 13,24). Có giả thuyết khoa học cho rằng trái đất sẽ đụng phải một tinh tú và nổ tung. Bấy giờ mọi người sẽ xem thấy Chúa ngự xuống oai nghi trên mây trời để phán xét người lành kẻ dữ.
Giáo hữu tiên khởi khi đọc đoạn này lo sợ đến nỗi có người không làm gì cả. Thánh Phaolo trong bài đọc II, đã khuyên họ phải làm việc. Ai không làm thì đừng có ăn. Cuộc sống của Giáo Hội là một cuộc trông đợi Chúa đến, giữa những cơn bắt bớ cấm cách. Ai bền đỗ thì cứu được linh hồn mình. Đó là bài học cho chúng ta.
Mục tiêu là thành phố hải cảng và kỹ nghệ Hiroshima với 350 ngàn dân. Chiếc pháo đài bay TN 33-C66
Mục tiêu là thành phố hải cảng và kỹ nghệ Hiroshima với 350 ngàn dân. Chiếc pháo đài bay B.29 mới được sơn lên cái tên mới: Enola Gay. Màu xám bạc của nó lấp lóa trong ánh mặt trời buổi sớm. Đại tá Tibbets ra lệnh cho phi hành đoàn: “Sắp đến mục tiêu, tất cả đeo kính an toàn. Chuẩn bị ném bom! “.
Khi chiếc Enola Gay đã ở ngay trên trung tâm thành phố, lúc 8 giờ 15 phút 15 giây ngày 6-8-1945, chuyên viên thả bom nhấn nút, khoảng chứa bom mở ra, một quả bom khổng lồ với cây dù lớn xoè ra phía trên, rơi xuống!
Không đầy một phút nữa, bom sẽ nổ. Phải nhanh chóng thoát khỏi vùng nổ. Đại tá Tibbets chúi mũi chiếc Enola Gay xuống để tăng tốc độ. Bốn mươi ba giây sau đó, một vùng sáng chói gấp hàng chục lần mặt trời bùng lên. Tiếp theo đó, chiếc pháo đài bay rung chuyển dữ dội như một món đồ chơi trong cơn bão. Đại tá Tibbets cố gắng giữ vững đường bay. Khi những cơn chấn động đã giảm bớt cường độ, ông mới quay đầu nhìn lại: Thành phố Hiroshima đã chìm dưới một đám mây hình nấm, màu tím đen đang mỗi lúc mỗi bốc cao. Có ai ở trong phi hành đoàn đã thốt lên bằng một giọng run rẩy xúc động: “Chúng ta vừa làm chuyện gì vậy?” Không có ai lên tiếng trả lời. Mọi người mặt mày xám ngắt trong cơn bàng hoàng cực độ.
Đó không phải là quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ. Trước đó đã có những trái bom thí nghiệm. Nhưng nó là quả bom nguyên tử đầu tiên được sử dụng vào mục đích tấn công, và không phải là quả cuối cùng. Kể từ buổi sáng hôm đó, nhân loại đã bắt đầu đem vào cuộc sống của mình một nỗi lo âu mới.
Năm chục ngàn người đã chết ngay tức khắc trong ánh chớp kinh hoàng lúc 8 giờ 16 phút ngày 6-8-1945. Hàng trăm ngàn người bị thương, nhiều chục ngàn người khác chết trong những ngày sau đó. (Nguyễn Thiếu Nhẫn, thông tin Berlin)
Trước những cái nhìn chiêm ngưỡng và thán phục đền thờ Giêrusalem lộng lẫy kì vỹ, Đức Giêsu mặc khải ngày thế mạt thật kinh hãi. Nhưng quan trọng hơn cả thiên hạ là còn giữ được niềm tin và hy vọng hay không, khi bị tam gian như vòng kim cô khống chế trọn đời.
Đó là thời gian đem đến già nua, cằn cỗi, hư hỏng. Không gian nổi giận đem đến thảm họa, động đất, sóng thần, núi lửa. Và nhân gian ích kỷ dối trá, lọc lừa, giả mạo, chia rẽ, bất hòa, bách hại, bạo lực, phản bội, chiến tranh. Tất cả sự dữ đồng loạt chế ngự, áp đặt, đày đọa con người.
Thời gian
Con người vốn là tạo vật hữu hạn, trong khi Đấng Tạo Hóa vô hạn. Ngài hiện hữu muôn đời, mãi mãi vĩnh cửu. Từ “Thời gian” xuất hiện cả thảy 771 lần trong Kinh Thánh. Còn những chữ “vĩnh cửu, cõi đời đời, còn đến đời đời và cho đến đời đời” xuất hiện 548 lần. Ngài biết con người bị thời gian giới hạn. Ngài muốn con người biết Ngài vượt trên dòng thời gian. Luôn đồng hành cùng con người trong suốt cuộc đời hữu hạn.
Thời gian lẳng lặng tước đi tuổi xuân, sức khỏe, lạc quan, kín đáo đem đến tuổi già, bịnh hoạn, đau đớn, bi quan và thất vọng. Chẳng ai cưỡng lại nổi dòng thời gian lạnh lùng và vô tình. Thuốc men, dược phẩm, hay thẩm mỹ viện cũng chỉ vớt vát lại, cố tìm lại những gì thời gian đã tước đoạt lấy đi mất.
Vậy tôi có biết dùng vốn thời gian vài chục năm để sinh lợi phần hồn, để cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa, để mong được sống đời đời? Hay chỉ ngu mê, dại dột, thiển cận, vị kỷ, chăm lo vun quén cho thân xác mỏng dòn, mau hư nát?
Tôi phải sử dụng thời gian như thế nào, để có thể lạc quan như Thánh Phaolô hoan hỷ trước cái chết đến gần: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin.” (2 Tm 4, 6-7)
Không gian
Đức Giêsu nhập thể làm người, không chọn môi trường thân thiện, thuận lợi hay dễ chịu. Trái lại, Người chọn không gian nghiệt ngã, khó khăn như chốn lưu đầy. Người chấp nhận hòa mình vào môi trường tràn đầy bầu khí bất khoan nhượng, đố kỵ, chống đối, thù địch. Người can đảm vác thánh giá nặng nề khổ ải, nêu gương cho những ai muốn đi theo Người.
Còn không gian, môi trường bây giờ chẳng tốt lành hơn, mà còn bị thoái hóa, càng bất thân thiện hơn, khi mức độ ô nhiễm, hủy hoại môi trường tràn lan. Thời tiết thay đổi bất thường, hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ toàn cầu tăng cao, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh, luôn sẵn sàng đe dọa kiếp người mỏng manh. Không gian sống lành mạnh ngày càng thu hẹp dần. Bước chân ra đường là đối mặt biết bao nguy hiểm rình rập. Tai nạn giao thông, giật dọc, cướp bóc, ma túy, mại dâm, mãi lộ…
Nhưng tôi chưa can đảm phiêu lưu, dám xa rời tổ ấm, mái gia đình, như Đức Giêsu phiêu lưu vô tư: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8, 20)
Tôi còn bị môi trường sống ràng buộc, xiềng xích bởi tình thân, tình phu phụ, tình phụ tử, nghĩa họ hàng, bạn bè thân quen. Tôi nào dám dứt khoát theo Chúa? Dám dứt khoát xả thân yêu tha nhân, kẻ lạ, hay thù địch? Thế làm sao Người cứu rỗi tôi?
Nhân gian
Nhưng sự đe dọa đáng sợ hơn cả chính là sự dữ phát xuất từ con người vị kỷ, tham lam, thù hận, đố kỵ, mâu thuẫn. Hai trái bom nguyên tử dội xuống Hiroshima và Nagasaki mở đầu cho mối lo sợ triền miên về chiến tranh hủy diệt toàn cầu. Võ khí càng tối tân, chiến thuật càng tinh vi, sự dữ càng lên ngôi. Cái chết nhanh gọn bất chợt như tia sáng. Tình người biến mất. Chỉ còn oan cừu, trả thù và ngồn ngộn sát khí.
Nhưng, có lẽ đau đớn hơn cả chính là hiềm khích, phản bội từ ngay thân nhân, vì tôi theo tuyên ngôn Bát Phúc, vì tôi chọn Chúa, hơn là khôn ngoan theo thế gian, chọn theo thân bằng quyến thuộc.
“Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.”
Trước hai ngả đường, theo Chúa hay theo nhân gian, tôi luôn lúng túng, sợ hãi, lưỡng lự, muốn bắt cá hai tay. Như thế sao Chúa dủ lòng thương xót tôi được?
Trước muôn ngàn thử thách đau khổ, con hãy sốt sắng, tin tưởng và đọc nhiều lần: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Bí quyết can đảm của người Kytô hữu. (Đường Hy Vọng, số 674)
“Ðó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.” Qua sự dữ thử thách và tôi luyện, với hồng ân dào dạt, con người mới có thể chứng minh được niềm tin và hy vọng vào ơn Cứu Độ. “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.” Luôn tin cậy và phó thác vào Chúa Quan Phòng, luôn kết hợp mật thiết với Ngài, cầu nguyện và sám hối, ăn năn, nguyện xin Lòng Chúa Thương Xót, tôi mới dám hy vọng được vinh hạnh sống mãi với Người.
“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn.” (Đường Hy Vọng, số 670)
Nếu mỗi ngày, đều tâm niệm là ngày cuối cùng ở đời, ngày chung thẩm, liệu tôi còn dám đi hoang theo thế gian hay không? Hay là luôn sẵn sàng là người đầy tớ trung thành, kiên nhẫn chờ đợi Người Chủ trở về?
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống bấp bênh giữa chốn ba đào, ba chìm bảy nổi. xin cho chúng con luôn nghe được tiếng Chúa nói: “Thầy đây, đừng sợ”, để chúng con biết trở về với Tình Yêu Chúa, biết yêu thương nhau, yêu thương tha nhân, tin cậy, phó thác và sống theo Lời Chúa, hầu chúng con được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con noi gương Mẹ, luôn sống gần gũi mật thiết với Chúa, để được chở che, giúp sức chống trả các cơn cám dỗ, đam mê xác thịt, để sẵn sàng chấp nhận bền bỉ, kiên trì, trung thành trước sự gian nan, khó khăn, đau khổ, để được phúc đời sau. Amen.
(5) Nhân có mấy người nói về Đền thờ được trang hoàng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giê-su bảo: (6) “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. (7) Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra thì có điềm gì báo trước?” (8) Đức Giê-su đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt. Vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính Ta đây, và thời kỳ đã đến gần”. Anh em chớ có theo họ. (9) Khi anh em nghe có chiến tranh loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước. Nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu”. (10) Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. (11) Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém. Sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện”. (12) Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù, và điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. (13) Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. (14) Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. (15) Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được”. (16) Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. (17) Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. (18) Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. (19) Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay mở đầu "diễn từ chung luận" (x. Lc 21,5-36). Trọng tâm của bài Tin TN 33-C67
Bài Tin mừng hôm nay mở đầu "diễn từ chung luận" (x. Lc 21,5-36). Trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay là Đức Giê-su loan báo việc đền thờ Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy và liên kết với việc tàn phá đền thờ, Đức Giê-su đề cập đến ngày tận thế. Trong khi chờ đợi “Ngày của Chúa” tức là ngày Chúa đến lần thứ hai, các tín hữu sẽ phải trải qua nhiều gian nan thử thách, phải qua một thời kỳ bị bách hại. Nhưng họ đừng sợ, hãy cứ kiên trì vì sự bách hại sẽ là một cơ hội để họ làm chứng cho Tin Mừng. Chính Chúa sẽ giúp họ chiến thắng với điều kiện họ phải luôn kiên trì giữ vững đức tin và trung thành với Chúa cho đến cùng.
3. CHÚ THÍCH:
- C 5-7:
+ Có mấy người nói về Đền thờ được trang hoàng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng: Đền thờ nói đây đã được vua Hê-rô-đê Cả trùng tu vào năm 19 trước Công nguyên và bốn mươi sáu năm sau mới hoàn thành (x. Ga 2,20). Vì Đền thờ vừa được xây xong nên rất đẹp.
+ “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó, sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”: Nhiều ngôn sứ đã tiên báo Đền thờ thứ nhất sẽ bị tàn phá (x. Mk, Gr, Ed), tượng trưng cho Giao ước sẽ bị phá hủy, vì dân Do thái đã bất trung với Giao ước ấy. Hôm nay Đức Giê-su lại tiên báo Đền thờ mới này cũng sẽ trở nên hoang tàn vì tội của dân Ít-ra-en đã từ chối Đấng Thiên Sai. Lời tuyên bố này về sau sẽ trở thành lý do khiến Đức Giê-su bị kết án (x. Mt 26,61). Tuy nhiên lời tiên báo này đã được ứng nghiệm vào năm 70 sau Công Nguyên, khi Đền thờ bị quân Rôma đốt cháy và đã sụp đổ thành bình địa.
+ “Vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?”: Nghe Đức Giê-su tiên báo về sự sụp đổ của Đền Thờ, mọi người đều sợ hãi. Họ muốn biết đích xác ngày giờ xảy ra cùng những điềm báo trước để chuẩn bị. - C 8-9: + Đức Giê-su đáp: Anh em hãy coi chừng...: Đức Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi về thời gian và dấu chỉ tiên báo Đền Thờ sắp bị phá hủy, nhưng dựa vào đó Người mặc khải về ngày tận thế sẽ xảy ra giống như vậy.
+ Khi anh em nghe có chiến tranh loạn lạc thì đừng sợ hãi, vì những việc đó xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu: Đức Giê-su cảnh giác các môn đệ là đừng tưởng chiến tranh loạn lạc là dấu chỉ của ngày tận thế. Những điều đó sẽ xảy ra, nhưng chưa phải là dấu tiên báo ngày tận thế đã đến.
- C 10-11:
+ Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia...: Chiến tranh và những thiên tai như động đất, ôn dịch, đói kém, cùng những điềm lạ trên trời cũng không phải là những dấu chỉ của ngày tận thế, vì nó luôn xảy ra và hầu như thời nào cũng có. Nó chỉ cho thấy vũ trụ này sẽ không tồn tại mãi mãi.
- C 12-15:
+ Người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em....: Đức Giê-su tiên báo về một thời kỳ lịch sử, trong đó các môn đệ phải chu tòan sứ mệnh làm chứng cho Người giữa những cơn bách hại. Nhưng như Đức Ki-tô phải chịu khổ hình rồi mới vào vinh quang (x. Lc 24,26), thì các môn đệ cũng phải trải qua thử thách giống như Thầy mình.
+ Nộp cho các hội đường và nhà tù: Tại mỗi hội đường địa phương đều có nơi dành riêng cho việc xét xử và phạt tù các tội nhân vi phạm các tội thông thường về tôn giáo. Còn các tội nghiêm trọng sẽ được xét xử trước Thượng Hội Đồng tại thủ đô Giê-ru-sa-lem.
+ Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy: Trong Tin mừng Lu-ca, việc làm chứng cho Đức Giê-su là sứ mệnh của Nhóm Mười Hai (x. Lc 24,48) và của Phao-lô (x. Cv 22,15). Làm chứng là công bố Đức Giê-su đã chết, đã sống lại và được đặt làm “Chúa”. Sau này làm chứng còn có nghĩa là tử vì đạo.
+ Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan: Đức Giê-su hứa chính Người sẽ trợ giúp các chứng nhân của Người (x. Ga 14,21), và sẽ sai Thánh Thần đến giúp đỡ các ông (Lc 12,11-12).
- C 16-19:
+ Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em... bắt nộp: Sự thử thách của các tín hữu xảy ra từ gia đình, nơi được coi là an toàn nhất.
+ Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét: Kiểu nói bị mọi người thù ghét không có ý nói theo nghĩa tuyệt đối là hết mọi người, nhưng chỉ muôn nói là: Những kẻ chối bỏ Thiên Chúa sẽ thù ghét các môn đệ Đức Giê-su.
+ Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu: Đây là lời động viên các tín hữu hãy can đảm và tín thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng.
+ Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình: Trong bất cứ cơn thử thách nào, nếu biết kiên trì, trung thành với đức tin thì chắc chắn các tín hữu sẽ được vào Nước Thiên Chúa (x. Cv 14,22).
4. CÂU HỎI: 1) Như các ngôn sứ xưa, Đức Giê-su đã tiên báo thế nào về số phận của Đền thờ Giê-ru-sa-lem ? Tai họa của Đền thờ tượng trưng cho điều gì sau này ? 2) Theo Đức Giê-su thì chiến tranh lọan lạc và các điềm lạ cả thể trên trời có phải là dấu hiệu của ngày tận thế đã đến hay chưa ? 3) Đức Giê-su tiên báo về số phận của các tín hữu sẽ như thế nào ? 4) Người dạy họ phải có thái độ ra sao khi bị bách hại?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” (Lc 21,19). 2. CÂU CHUYỆN:
1) MỌI SỰ XẢY RA ĐỀU HỮU ÍCH CHO PHẦN RỖI CỦA TÔI:
Một người kia có đức tin mạnh vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào dù may hay rủi, anh ta cũng đều cầu nguyện: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa về điều Chúa mới để xảy ra cho con, vì con tin rằng điều đó hữu ích cho phần rỗi đời đời của con”. Một hôm, anh ta mua vé tàu sang nước Anh. Sáng hôm ấy vì thức dậy trễ, nên anh vội leo lên tắc-xi yêu cầu tài xế lái thật nhanh đến bến tàu cho kịp giờ tàu chạy. Nhưng khi xe chở anh tới bến cảng thì cũng là lúc con tàu bắt đầu nhổ neo khởi hành. Anh vội chạy ra bến và hét gọi thật to, vẫy tay ra hiệu cho con tàu dừng lại. Nhưng dường như thuyền trưởng không nhìn thấy anh ta và con tàu vẫn từ từ rời khỏi bến cảng ra khơi. Trong lúc chạy theo con tàu, chẳng may anh vấp chân vào một mấu sắt trồi lên ở cầu tàu và bị té ngã. Chiếc va-li nặng đang cầm trên tay đè lên làm gẫy một chân của anh. Mọi người đổ xô đến giúp đỡ và chở anh đến bệnh viện gần nhất cấp cứu. Sau khi hồi tỉnh và được các phóng viên hỏi cảm tưởng khi bị trễ tàu và bị gẫy chân, thì anh đã trả lời rằng: “Tôi cảm tạ Chúa vì Người đã ban cho tôi bị trễ chuyến tàu này”. Họ lại hỏi: “Bị trễ tàu và gãy chân như thế mà là ơn lành của Thiên Chúa sao?” Anh ta trả lời: “Tôi không biết lý do tại sao, nhưng tôi tin rằng Chúa quan phòng biết rõ điều đó có ích cho tôi. Đối với tôi như thế đã là đủ lắm rồi”.
Quả thật, chỉ mấy ngày sau, báo chí đã đồng loạt đăng lên trang nhất tin một con tàu rời bến cảng vào đúng buổi sáng ngày anh bị trễ tàu, và sau đó đã đụng phải đá ngầm ở ngòai khơi và bị chìm khiến tất cả hành khách trên con tàu ấy đều bị chết chìm ! Bấy giờ anh chàng bị què chân kia lại càng thêm xác tín rằng: chính Chúa quan phòng đã thương gìn giữ anh tránh được một cái chết thê thảm, bằng cách để anh bị trễ tàu và còn để anh bị té gẫy chân nữa. Qua câu chuyện trên, chúng ta cũng có thể rút ra bài học này là: Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành cho những ai biết cậy trông phó thác trong tình thương quan phòng của Ngài.
2) NHẬT KÝ ANNE FRANK:
Anne Frank là một cô bé người Do Thái đã bị bọn Đức Quốc Xã bắt giam vào trong trại tập trung người Do thái. Tại đây cô đã chứng kiến bao cảnh đau khổ, đã thấy có nhiều người vì quá khổ mà đã đánh mất nhân phẩm, mất lý tưởng, mất cả đức tin của mình. Chính cô cũng gặp nhiều đau khổ và có lần đã tự hỏi: “Có Thiên Chúa không? Có công lý không?” Nhưng sau những lúc giao động ấy, cô vẫn giữ vững được đức tin của mình: Cô tin rằng dù con người có những hành vi gian ác như thế nào chăng nữa thì trong lòng họ vẫn là người tốt; Dù hiện tại có xấu xa đến đâu đi nữa nhưng cuối cùng sự thiện cũng sẽ chiến thắng sự ác; Dù hiện nay xem ra Thiên Chúa vắng mặt, nhưng chính Thiên Chúa sẽ có tiếng nói cuối cùng. Những suy tư ấy đã được cô ghi lại trong nhật ký hằng ngày. Sau chiến tranh thế giới thứ II, quyển “Nhật ký Anne Frank” đã được xuất bản, được dịch ra nhiều thứ tiếng, và nổi tiếng khắp thế giới.
Trong Tin Mừng Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ: “Anh em đừng sợ hãi”. “Đừng sợ” không có nghĩa là không có cảm giác sợ, mà là không để cho cảm giác ấy đè bẹp mình, nhưng phải làm chủ cảm giác ấy và chiến thắng nó như có người đã nói: “Anh hùng không phải là người không biết sợ mà là người chiến thắng được nỗi sợ” (Solzhenitsyn)
3) TA PHẢI LÀM GÌ ĐỂ CHUẨN BỊ CHO NGÀY TẬN THẾ ?
JULIANÔ là một vị hoàng đế Rôma, lên làm vua vào năm 360. Ông là người rất ghét đạo công giáo, nên đã ra lệnh cấm đạo. Ông biến nhà thờ thành chùa miếu. Cấm việc rao giảng Tin Mừng và giết các tín hữu. Ông muốn làm cho lời tiên báo của Chúa Giê-su về đền thờ Giê-ru-sa-lem không đúng sự thật. Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã bảo: Sẽ tới một ngày Đền Thờ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào. Mặc dù điều này đã xảy ra vào năm 70 khi tướng Ti-tus đem quân vây hãm Giê-ru-sa-lem. Thế nhưng hoàng đế Ju-li-a-nô vẫn ra lệnh xây dựng một đền thờ mới để dâng kính các thần minh ngay trên nền của đền thờ Giê-ru-sa-lem. Theo các sử gia thì khi đào bới để đặt nền móng cho ngôi đền thờ mới này, những người thợ đã kinh hoàng và sợ hãi vì một sức nóng bốc lên từ lòng đất khiến họ không thể tiếp tục công việc.
Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị không phải chỉ cho ngày tận thế chung, nhưng còn cho ngày tân thế riêng là giờ chết của mỗi chúng ta, khi đó ta sẽ gặp gỡ Chúa.
3. SUY NIỆM:
Tin mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại lời Đức Giê-su tiên báo về sự hủy diệt Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Đây cũng là dịp để chúng ta suy nghĩ về giờ chết của mỗi người chúng ta và về ngày tận thế chung của toàn thể nhân loại. Đồng thời chúng ta biết nên làm gì để chuẩn bị cho ngày ấy.
1) TIÊN BÁO VỀ ĐỀN THỜ BỊ PHÁ HỦY VÀ NHỮNG ĐIỀM BÁO TRƯỚC:
Tin mừng Lu-ca ghi lại lời Đức Giê-su tiên báo về sự hủy diệt của Đền thờ Giê-ru-sa-lem như sau: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6).
Nghe Đức Giê-su tiên báo về sự sụp đổ của Đền Thờ như vậy, mọi người đều kinh hãi và muốn biết rõ hơn về thời gian và dấu chỉ báo trước cho biến cố ấy. Đức Giê-su đã cho biết một số điềm báo về ngày này, ám chỉ ngày tận thế của nhân loại, khi Người sẽ tái lâm trong vinh quang để phán xét chung như sau:
-Sẽ có nhiều người sẽ mạo danh Người đến nói rằng: “Chính Ta đây, và thời kỳ đã đến gần”.
-Sẽ có chiến tranh loạn lạc: Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ.
-Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém. -Sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện. -Nhưng trước khi các sự ấy xảy ra, các tín hữu sẽ trải qua thời kỳ bị bắt bớ ngược đãi, bị nộp cho các hội đường và nhà tù, bị điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Đức Giê-su.
2) PHẢI ỨNG PHÓ THẾ NÀO ?:
-Hãy kiên trì và đừng nản chí: Đức Giê-su đã khích lệ các môn đệ như sau: ”Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” (Lc 21,19). Kiên trì là dù gặp phải những gian truân thử thách, họ cũng không được chùn bước, không nản chí bỏ cuộc, nhưng phải luôn kiên trì giữ vững đức tin và quyết tâm đi theo con đường của Đức Giê-su là: “Qua đau khổ vào trong vinh quang” (x. Lc 18,32). Cụ thể là “Từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).
-Làm chứng cho Chúa bằng lòng tín thác cậy trông:
Đối với Đức Giê-su, bách hại và thử thách không đáng sợ, nhưng là cơ hội để các môn đệ "làm chứng" cho Chúa, dù phải chịu thử thách đau khổ kể cả sự chết, như thánh Phao-lô đã quả quyết như sau: “Tôi tin chắc rằng: Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,38-39).
Đây cũng là thời gian thuận tiện để các tín hữu chúng ta làm chứng đức tin về sự hiện hữu của một thế giới mới đây ánh sáng và tình thương, trong đó mọi người đều tin thờ một Thiên Chúa là Cha và đối xử với nhau như anh chị em trong đại gia đình của Thiên Chúa. Thế giới ấy bắt đầu từ Hội Thánh hôm nay và sẽ biến thành “Trời Mới Đất Mới” là thiên đàng mai sau (x. Kh 21,1-4).
3) CHUẨN BỊ THẾ NÀO CHO GIỜ CHẾT VÀ NGÀY TẬN THẾ:
- Đừng sợ hãi lo lắng trước cái chết: Đức Giê-su dạy các môn đệ "Đừng sợ !" không có nghĩa không được sợ, nhưng phải biết làm chủ cảm giác sợ ấy và chiến thắng nó như Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu: tuy lo sợ đổ mồ hôi máu khi đối diện với cái chết đang tới gần (x. Lc 22,44), nhưng Người đã can đảm thưa với Chúa Cha: “Đừng theo ý con mà xin vâng ý Cha” (Mt 26,38-39).
- Chu toàn việc bổn phận: Thời thánh Phao-lô có nhiều tín hữu ở Thê-sa-lô-ni-ca tưởng lầm ngày tận thế đã đến gần, nên bỏ bê công việc làm ăn rồi chỉ biết ăn bám vào người khác. Ngài đã cảnh cáo họ như sau: ”Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân“ (2 Ts 3,10-13). Cũng vậy, trong khi chờ đợi giờ Chúa đến, mỗi người chúng ta cần phải chu toàn các việc bổn phận của mình. Phải luôn kiên trì giữ vững đức tin dù gặp phải bất cứ khó khăn ngược đãi nào để được hưởng ơn cứu độ như lời Chúa: ”Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” (Lc 21,19).
- Dọn mình chết lành: Hiện nay có nhiều người sống như không bao giơ phải chết. Họ không biết mình sống để làm gì và không biết chết rồi sẽ ra sao ? Do đó, họ chỉ lo hưởng thụ các đam mê lạc thú bất chính và không làm gì để chuẩn bị cho đời sau. Còn các tín hữu hôm nay cần ý thức về ngày giờ chết của mình để chuẩn bị chết lành, bằng việc thực hiện những việc như sau: Thanh toán nợ nần sòng phẳng, hồi tâm sám hối mỗi tối và năng lãnh bí tích Hòa giải, dọn mình dự lễ rước lễ mỗi ngày. Thực hành các việc bác ái cụ thể như kinh “Thương Người có mười bốn mối” và “Kinh Hòa Bình” (của thánh Phan-xi-cô) đề ra. Ngoài ra còn phải chu toàn công việc bổn phận như: học tập, nội trợ, lao động trí óc chân tay… Làm được như vậy thì khi giờ chết đến gần, chúng ta sẽ không cảm thấy bồn chồn lo lắng, nhưng sẽ vui mừng chờ đón Chúa đến trong niềm tin tưởng cậy trông sẽ được Người thương đón nhận vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.
4. THẢO LUẬN:
1) Câu chuyện bị trễ tàu và thoát chết cho thấy đức tin của nhân vật chính thế nào ? 2) Đã bao giờ bạn gặp hoàn cảnh “rủi biến thành may” như anh chàng này chưa ? 3) Bạn quyết tâm làm gì để chuẩn bị giờ chết bất ngờ có thể đến với bạn ?
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chính tiền tài, danh vọng, quyền lực và những đam mê lạc thú bất chính làm cho tâm hồn chúng con luôn cảm thấy bất an. Xin cho chúng con biết sáng suốt xác định cùng đích đời mình là Nước Trời đời sau. Xin cho chúng con biết luôn chu toàn các việc bổn phận và sẵn sàng đón Chúa đến bất cứ lúc nào trong giờ chết để xứng đáng nhận được ơn cứu độ của Chúa.
Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn tại Đền Thờ. Tác giả Lc đã ghi lại một diễn từ dài bàn về số phận TN 33-C68
Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn tại Đền Thờ. Tác giả Lc đã ghi lại một diễn từ dài bàn về số phận của Giêrusalem và Đền Thờ (21,8-36). Bản văn được kết cấu theo cấu trúc đồng tâm như sau:
A. Cảnh báo mở đầu (8-9) B. Các tai họa vũ trụ (10-11) C. Những gì phải xảy ra trước:
a) Các cuộc bách hại người Kitô hữu (12-19), b) Hình phạt cho Giêrusalem (20-24).
B’. Các tai họa vũ trụ vào lúc tận thế (25-33) A’. Cảnh báo kết thúc (34-36). Bản văn này thường được gọi là “Diễn từ cánh chung” của Đức Giêsu bởi vì bài đề cập đến các eschata, “các sự sau cùng”, của Giêrusalem cũng như thế giới. Ở trong Tin Mừng Nhất Lãm, bản văn này cũng thường được gọi là “Diễn từ khải huyền”, bởi vì bài trình bày các eschata này bằng giọng điệu khải huyền. Có thể tạm hiểu “cánh chung học” là một khối giáo huấn về các eschata (ở đây là eschata của Giêrusalem và thế giới); còn “khải huyền” là một dạng văn chương hoặc một kiểu suy nghĩ.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là nửa đầu của bài Diễn từ trên. Phần này được dẫn nhập bằng một câu hỏi các thính giả đặt ra cho Đức Giêsu; câu hỏi này đến sau khi họ nghe Đức Giêsu tiên báo về số phận của Đền Thờ và các vật trang hoàng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dẫn nhập vào Diễn từ cánh chung (21,5-7); 2) Diễn từ cánh chung (nửa bài) (21,8-19):
a) Cảnh báo mở đầu (cc. 8-9), b) Các tai họa vũ trụ (cc. 10-11), c) Những gì phải xảy ra trước: Các cuộc bách hại người Kitô hữu (cc. 12-19).
3.- Vài điểm chú giải
- Đền thờ (5): Sau khi dân Do Thái từ Babylon hồi hương, họ xây dựng Đền Thờ thứ hai theo sự hướng dẫn của Dơrúpbaven, để thay cho Đền Thờ vua Salômôn đã bị vua Nabucôđônoso phá hủy vào năm 586 tCN. Công trình kiến trúc mới này được xây trên vị trí cũ và được hoàn tất vào khoảng năm 515 tCN (Kg 1,4-15). Đền Thờ mới này không được trang hoàng đẹp bằng Đền Thờ của vua Salômôn, nên vua Hêrôđê Cả đã tô điểm lại Đền Thờ vào năm 15 triều đại ông (20-19 tCN). Vào dịp Đức Giêsu thanh tẩy Đền Thờ, Tin Mừng Gioan cho biết là công việc tái thiết đã đến năm thứ bốn mươi sáu (2,20). Thật ra công việc trùng tu còn kéo dài cho đến khoảng năm 63, tức chỉ còn bảy năm nữa là bị tàn phá.
- bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra (7): “Các sự việc đó” chính là cuộc tàn phá Đền Thờ, chứ không phải là “những sự cuối cùng” (như câu hỏi trong Mc 13,4b). Câu hỏi này trở thành điểm đưa tới Bài diễn từ cánh chung.
- bị lừa gạt (8): Động từ planan có nghĩa là “đưa đi xa sự thật hoặc sự trung thành”.
- Chính ta đây (8): Có những kẻ đến mạo danh Đức Giêsu, bởi vì Người vắng mặt: Có những đoạn văn gợi ý như thế (x. 12,35-48; 19,11-27).
- Thời kỳ đã đến gần (8): Đọc hết bài Diễn từ cánh chung, với cc. 28 và 31, có thể nói “thời kỳ” đây chính là sự sai lạc Lc đã lưu ý ở 19,11: “Đức Giêsu lại kể thêm một dụ ngôn, vì Người đang ở gần Giêrusalem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi”.
- loạn lạc (9): Tác giả TM III đã sửa cụm từ “tin đồn chiến tranh” của Mc (13,7a) thành “loạn lạc” (akatastasia, “cuộc nổi dậy; sự rối loạn”) rất có thể là để phản ánh cuộc nổi dậy của người Do Thái Paléttina để chống lại người Rôma (66-70 sau CN); cuộc nổi dậy này đã đưa tới chiến tranh thực thụ.
- Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia (10): x. 2 Sb 15,6. - nước này chống nước nọ (10): x. 4 Er 13,31. - Sẽ có những trận động đất lớn (11): xem Ed 38,19-22.
- nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền (12): “Nộp cho các hội đường và các nhà tù (phylakas)” hẳn là nhắm đến những bách hại do người Do Thái gây ra. “Điệu đến trước mặt các vua và các quan” hẳn là nhắm đến những bách hại do Dân ngoại gây ra. Tuy nhiên, về lý thuyết, “nhà tù” cũng có thể gợi đến cảnh giam giữ của Dân ngoại, cũng như “vua” có thể là những nhân vật như vua Hêrôđdê Ácríppa. Còn “quan [quyền]” (hêgemones) thì hầu chắc nhắm đến các thủ lãnh Dân ngoại, như Phêlích (x. Cv 23,24–24,27) và Pokiô Phéttô (Cv 24,27–26,32). Nếu như vậy, trong sách Cv, chúng ta có các minh họa là các cuộc bách hại Têphanô, Phêrô, Giacôbê và Phaolô.
- anh em đừng suy tính trước phải bào chữa cách nào (14): Động từ promeletan là một từ chuyên môn để nói về việc thực tập hoặc ghi nhớ một bài diễn từ trước; vì thế cách dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn rất gợi ý: “tập dọn [biện hộ]”.
- cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu (16): Cặp thứ nhất, “cha mẹ và anh em” được dùng ở 18,29. Nay tác giả tạo thêm cặp thứ hai, “bà con và bạn hữu”, như để tương ứng với hai cặp ở c. 12.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dẫn nhập vào Diễn từ cánh chung (5-7)
Đền Thờ Giêrusalem do vua Hêrôđê xây dựng rất đẹp. Người ta thường nói: “Nếu bạn chưa thấy Đền Thờ Giêrusalem, bạn chua thấy được thứ tuyệt vời nhất trên thế giới”. Trong khi giảng dạy tại Đền Thờ, Đức Giêsu nghe được một vài thính giả bình phẩm về vẻ tráng lệ của Đền Thờ, với những vật dụng trang hoàng lộng lẫy. Người đã đáp lại: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (c. 6). Lời Người nói không phải là một lời lưu ý, nhưng là một lời tuyên bố mang tính ngôn sứ, một lời tiên báo đáng lo ngại: Sẽ đến lúc mọi sự bị phá tan tành. Lời Người nói quá rõ và đã được ứng nghiệm khi Đền Thờ bị đốt phá vào cuối tháng tám hoăc đầu tháng chín năm 70 (Chiến tranh Do Thái 6.4,5 § 250-284). Tuy nhiên, vào lúc này, lời Đức Giêsu khẳng định khiến những người đang nghe Người nói phải thắc mắc; họ đã hỏi: “Vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra?”. Câu hỏi này đã trở thành bàn đạp cho Đức Giêsu trình bày Bài diễn từ cánh chung: Các thính giả hỏi Người về một dấu hiệu báo trước cuộc tàn phá Giêrusalem, Đức Giêsu lại nêu ra một loạt các dấu hiệu không liên hệ đến cuộc tàn phá Giêrusalem, mà là đến sự cùng tận của thế giới.
* Diễn từ cánh chung (nửa bài) (8-19)
Bài diễn từ cánh chung bắt đầu từ c. 8. Đây là một bài độc thoại, vì không có một thính giả nào can thiệp để hỏi.
Trong lời cảnh báo mở đầu (cc. 8-9), Đức Giêsu lưu ý đề phòng các ngôn sứ giả, tức là những kẻ mượn danh Người mà nói về chiến tranh và loạn lạc, tức là nói về cuộc tàn phá Đền Thờ trong tương lai gần. Đức Giêsu dùng ngôn ngữ khải huyền tương tự Đn (x. Đn 2,28) mà nhấn mạnh rằng “những việc đó phải xảy ra trước”, “nhưng không phải là tận cùng ngay đâu” (c. 9c). Còn khi nói về “các dân nổi lên chống lẫn nhau, những thiên tai địa họa” (cc. 10-11), Người gợi đến Is 19,2 và 2 Sb 15,6, cũng như Ed 38,19-22. Tất cả những điều này được nêu lên từ câu hỏi về tàn phá Đền Thờ, nhưng Đức Giêsu lại muốn cảnh báo về một mối nguy khác liên hệ đến “thời kỳ” (kairos). Đây không chỉ là thời điểm tàn phá Đền Thờ, mà chính là thời điểm Nước Thiên Chúa xuất hiện trong vinh quang, Con Thiên Chúa tỏ mình ra trên mây trời. Lc đã lưu ý như thế ở 19,11. Trong Mc (13,8), tác giả cho thấy là chiến tranh và những tin đồn về loạn lạc là “khởi đầu các cơn đau đớn”; còn với Lc, chiến tranh và loạn lạc cũng chẳng phải là dấu hiệu báo trước nữa: chúng không liên hệ gì đến cùng tận, chúng phải xảy ra trước cùng tận, nhưng không phải là lời loan báo cùng tận. Vì đối với Lc, cùng tận chưa đến ngay, nên ngài không kể lể dài dòng về các dấu hiệu báo trước (cc. 10-11). Các dấu hiệu này khá mơ hồ, nên đúng với mọi thời; điều này là để cho hiểu rằng “không phải là tận cùng ngay đâu”.
Bây giờ tác giả mới nhấn mạnh đến thái độ các tín hữu phải có trong khoảng thời gian cách biệt họ với tận thế. Vì tận thế bị đẩy vào một tương lai xa vơi, vô định, các Kitô hữu phải biết sống trong thời gian, đương đầu với lịch sử, biết kiên vững qua dòng thời gian; đặc biệt họ phải can đảm đương đầu với các cuộc bách hại (cc. 12-19). Phần thứ hai của tác phẩm Lc (= sách Cv) đã cho thấy rõ điều này: vào thời Họi Thánh sơ khai, các Kitô hữu đã bị bách hại (Cv 4,16-18; 8,1b-3; 12,1-5). Đức Giêsu cho thấy rằng các bách hại này phát xuất từ các “nguồn” Do Thái và Dân ngoại, từ các hội đường và nhà tù, từ các vua và các quan. Tất cả mọi chuyện này sẽ xảy đến vì “Danh Người”. Những bách hại đó sẽ thách đố các môn đệ “làm chứng” rằng họ là “Kitô hữu” (x. Cv 11,26). Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng lo lắng phải tự biện hộ như thế nào, vì chính Đức Giêsu – chứ không là Thánh Thần như trong Mc (13,11) – sẽ giúp họ ăn nói và có sự khôn ngoan để làm cho những kẻ bách hại họ phải lúng túng.
Nhưng Đức Giêsu cũng lưu ý rằng cuộc bách hại này không chỉ đến từ người ngoài (Do Thái và Dân ngoại), nhưng còn đến từ bà con thân thuộc mình. Hơn nữa, họ không chỉ bị bắt hay bị bỏ tù, mà con bị giết chết nữa. Lý do luôn luôn là: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (c. 17).
Tuy nhiên, các cảnh báo này chẳng mấy chốc đã được chuyển thành một lời hứa đạt được chiến thắng. Nếu các môn đệ bền chí, họ sẽ “giành được mạng sống”. Khi viết như thế, Lc đã bỏ lời nói của Mc về tận thế: “kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mc 13,13). Bởi vì dưới cái nhìn của tác giả Lc, các cuộc bách hại không được kết nối với thời cuối cùng mà chỉ là đặc điểm của thân phận người Kitô hữu trong trần gian. Như thế, sự bền chí chính là điều kiện cần có để có thể đương đầu với những tình cảnh khó khăn nhất cũng như với nếp sống nhàm chán hằng ngày.
+ Kết luận
Với bài diễn từ này, Đức Giêsu xác định lối sống các môn đệ Người phải theo trong thời gian giữa cuộc Phục Sinh của Người và việc Người trở lại vĩnh viễn. Đức Giêsu không còn ở với các môn đệ cách hữu hình nữa. Các ông phải tiến đi trong cuộc lữ thứ trần gian trong sự hiểu biết khái quát về bản chất của các thực tại trần thế và xác tín vững chắc vào chiến thắng cuối cùng của Thầy các ông. Người không hứa giữ cho các môn đệ khỏi nguy hiểm hay bách hại. Người đảm bảo cho các ông rằng, dù có thế nào, Nước Thiên Chúa sẽ tiếp tục tiến tới. Đây là thời gian của Họi Thánh. Các tín hữu cần phải biết sống đức tin diễn tả ra bằng sự bền chí trong mọi tình huống của cuộc sống.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Dòng lưu chuyển của thế giới vẫn cứ tiếp diễn như lâu nay, với những tai họa thiên nhiên và những tai họa gây ra do hận thù và sự điên rồ của loài người. Lịch sử nói chung sẽ mang dấu ấn là các cuộc chiến tranh, những mối hận thù giữa các dân tộc, các trận động đất, các nạn đói. Sự kiện Đức Giêsu đã đến cũng như công trình của Người, và cả cuộc Phục Sinh, không đưa con người đi vào một vườn địa đàng trên mặt đất này. Trái đất vẫn là thế như lâu nay: một thung lũng nước mắt và đau thương. Trong cuộc sống trần thế này, không có gì tồn tãi mãi. Người tín hữu phải biết đâu là điểm tựa của đời mình.
2. Người ta thích tìm ra các dấu hiệu, các “điềm”, để được an tâm về cuộc sống tương lai. Đức Giêsu không cung cấp một dấu hiệu để trấn an, khiến người ta có thể ỷ y vào đó mà sống thiếu trách nhiệm. Người giúp các thính giả bình thản đón tiếp các biến cố và sống niềm tin trong các biến cố đó mà làm chứng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát; điều chính yếu là cuộc sống và lời nói của họ phải đưa niềm hy vọng Kitô giáo vào trong thế giới, là giúp sống niềm tin.
3. Các môn đệ của Đức Giêsu phải biết rằng tư cách môn đệ của họ, sự kết hiệp với Đức Giêsu, tất cả những điều này không là một đảm bảo về vinh dự, về sự bình an và được nhìn nhận. Lại phải nói là chính vì họ thuộc về Người, mà họ sẽ phải chia sẻ thân phận của Người: bị bách hại bởi những thế lực bên ngoài, bị chống đối bởi chính những người thân trong gia đình, bị mọi người ghét bỏ và khước từ. Nhưng điều quan trọng là Tin Mừng được loan báo cho muôn dân.
4. Đức Giêsu không muốn nói rằng lịch sử của nhân loại chỉ gồm toàn những thiên tai địa họa, còn lịch sử đời các môn đệ chỉ gồm toàn những bách hại. Nhưng cũng đúng là thiên tai địa họa cũng như các cuộc bách hại là những đặc điểm của lịch sử trần thế này, nên các môn đệ của Đức Giêsu phải được chuẩn bị cho những điều ấy. Đức Giêsu không muốn cho các môn đệ Người có những ý tưởng sai lạc về tương lai. Họ phải tin tương vững vàng vào lời nói của Người.
5. Có những người tưởng rằng phải có những thử thách lớn lao thì mới chứng tỏ được bản lãnh của mình, và họ chờ đợi những biến cố “kinh thiên động địa” để chứng tỏ bản thân. Thật ra, bản lãnh của con người còn được chứng tỏ qua việc kiên trì sống cuộc sống đều đều nhàm chán hằng ngày với tất cả ý thức và tình yêu. Và cũng đúng là chỉ người nào có khả năng đứng vững trong cuộc sống hằng ngày thì mới đứng vững trong những cơn gian nan thử thách.
Cuối năm Phụng vụ, Lời Chúa trong Thánh lễ mời gọi chúng ta tiếp tục nhìn về tương lai vĩnh TN 33-C69
Cuối năm Phụng vụ, Lời Chúa trong Thánh lễ mời gọi chúng ta tiếp tục nhìn về tương lai vĩnh cửu. Được sống lại với Chúa Ki-tô, chúng ta sẽ được hưởng sự sống đời đời trên thiên quốc. Nhưng ngay bây giờ và tại trần gian này, chúng ta vẫn phải đối phó với những thử thách nội tâm và những khó khăn bên ngoài trước khi cái chết của chúng ta nói riêng và ngày tận thế nói chung xảy tới. Vậy đâu là thái độ thích ứng để chúng ta chuẩn bị cho cuộc sống đời đời? Chúa Giê-su cho chúng ta câu trả lời ở cuối bài Tin Mừng hôm nay: “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.
Để suy niệm đề tài này, có lẽ chúng ta cần hiểu “mạng sống” được Chúa nói đến ở đây chính là sự sống đời đời, chứ không phải cuộc sống trần thế hiện thời. Như vậy “giữ được mạng sống mình” có nghĩa là làm thế nào để được sống đời đời. “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống” (Lu-ca 17:33).
Trước hết, sự sống đời đời là sự sống đầy hạnh phúc, không còn đau khổ ưu phiền, không khi nào mất đi được và nhất là được thông hiệp hoàn toàn với Chúa và với mọi người con cái Chúa. Cuộc sống ấy sẽ thực sự bắt đầu sau khi Chúa Ki-tô trở lại trần gian để phán xét mọi người. Thời điểm Chúa trở lại, hoặc ngày tận thế, tuy không ai biết được khi nào sẽ xảy ra, nhưng chắc chắn sẽ xảy ra. Chính vì thế, nhiều người lo lắng. Chúa Giê-su đã biết ngày giờ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem sẽ bị tàn phá trong tương lai và Người nói cho dân chúng biết điều đó. Dân chúng hiếu kỳ muốn biết khi nào việc ấy xảy ra và có những dấu hiệu nào báo trước. Dĩ nhiên Chúa không cho họ câu trả lời, mà lại nhân chuyện này dạy họ phải có thái độ nào để chờ đợi ngày cùng tận của đời mình và của toàn nhân loại. Để có thái độ thích đáng, chúng ta cần phân biệt những thời điểm: thời điểm của những điềm báo và chính thời điểm tận thế. Các điềm báo được kể ra liên tục: chiến tranh, loạn lạc, động đất, ôn dịch, đói kém, hiện tượng kinh khủng và điềm lạ từ trời. Tuy nhiên ở đây, Chúa dạy chúng ta phải sáng suốt nhận định rằng dù có những điềm báo ấy, nhưng “chưa phải là chung cục ngay đâu”.
Đối với Chúa Giê-su, những điềm báo dường như không quan trọng, mà những diễn biến “trước khi tất cả các sự ấy xảy ra” mới thực sự quan trọng cho tất cả chúng ta. Những diễn biến ấy chính là những cuộc bách hại chúng ta phải chịu để tuyên xưng đức tin. Điềm báo chỉ là những dấu chỉ cho thấy điều gì sắp xảy ra, chứ không phải là cơ hội hay động lực giúp chúng ta chuẩn bị đối phó với những gì sắp xảy ra. Những điềm báo chiến tranh, thiên tai… là những gì bên ngoài và chung quanh chúng ta. Còn bách hại, bị ngược đãi vì đức tin mới thực sự là “cơ hội” để ta làm chứng cho Chúa Ki-tô. Qua diễn tả của Chúa Giê-su về việc bách hại, chúng ta hiểu được bách hại không chỉ xảy ra thời cấm đạo hay dưới những chế độ tàn ác vô thần. Bách hại có thể xảy ra ngay trong gia đình, do những người thân yêu. Đơn thuần thôi, “vì danh Thầy, chúng ta bị mọi người thù ghét”, tức là bị ghét bỏ vì sống đức tin Công giáo thì cũng đã là một hình thức bách hại rồi! Hiểu như vậy, tất cả chúng ta đều là những người sẵn sàng để tử đạo, mà ý nghĩa của tử đạo là làm chứng cho Chúa trong mọi sự.
Trong tình trạng tử đạo âm thầm và triền miên cũng như tình trạng anh dũng làm chứng cho Chúa ngoài xã hội trước khi những điềm báo tận thế xảy ra, Ki-tô hữu chúng ta phải có thái độ nào? Có hai thái độ được Chúa nhấn mạnh ở đây: đừng sợ hãi lo nghĩ, và hãy kiên trì, thì chúng ta mới giữ được mạng sống đời đời của mình.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Nghe tin đồn Chúa sắp trở lại, tức ngày tận thế, nhiều tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đã sống buông thả, dường như họ sợ cuộc đời quá ngắn ngủi nên phải hưởng thụ. Triết lý sống ấy ngày nay chẳng thiếu gì. Để nhắc nhở tín hữu của ngài, thánh Phao-lô đã lấy chính các tông đồ làm gương mẫu sống chờ đợi Chúa trở lại. Ngài viết cho họ: “Anh em phải bắt chước chúng tôi. Chúng tôi đã không sống vô kỷ luật…, đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả” (Bài đọc 2). Vậy ta cứ kiên trì làm điều phải làm!
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 21:5-19)
Dấu chỉ là những gì chúng ta có thể cảm nghiệm bằng giác quan, nhưng thường lại nói lên một TN 33-C70
Dấu chỉ là những gì chúng ta có thể cảm nghiệm bằng giác quan, nhưng thường lại nói lên một thực tại vô hình. Bài Tin Mừng hôm nay đầy những dấu chỉ: dấu chỉ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem nguy nga sẽ bị san bằng, dấu chỉ chiến tranh loạn lạc, dấu chỉ những thiên tai và ôn dịch đói kém, dấu chỉ những hiện tượng kinh khủng xuất hiện từ trời. Tiếp đến là những dấu chỉ chúng ta có thể nhận ra tại nơi mình sinh sống, đó là những “bách hại vì danh Thầy” mà chúng ta phải hứng chịu do vua chúa, chính quyền, thậm chí do chính người trong nhà như cha mẹ, anh chị em và bạn hữu. Nếu tất cả những sự kiện kể trên đều là những dấu chỉ nói lên thực tại ngày tận thế, tức ngày Chúa Giê-su trở lại trần gian đã đến gần, thì việc xảy ra những dấu chỉ ấy cũng đồng thời là những cơ hội để chúng ta làm chứng nhân cho Chúa.
Làm chứng cho Chúa, đây chính là cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Trong bối cảnh ngày Chúa trở lại trần gian đang đến gần và những cuộc bách hại đang xảy ra, Chúa dạy chúng ta phải nói lên lòng tin của chúng ta nơi Người. Đúng vậy, nếu chỉ sống trong cảnh thanh bình không có bách hại, có lẽ chúng ta sẽ ít có cơ hội làm chứng cho Chúa. Nhưng khi thử thách và bách hại tấn công lòng tin của chúng ta, thì đó là cơ hội để chúng ta tỏ ra lòng trung thành với Chúa.
Mục đích khi người ta bách hại là làm cho chúng ta không còn tin tưởng vào tình yêu và quyền năng Thiên Chúa nữa. Thay vì tin vào Chúa, người ta sẽ “lừa gạt” chúng ta hãy tin vào chính mình, hoặc một người hay một vật nào đó “mạo danh” Chúa Giê-su và đến nói với chúng ta rằng: “Chính Ta đây”. Người ta thuyết phục chúng ta hãy chối bỏ vai trò của Chúa trong cuộc đời chúng ta, để tin vào sức mạnh và quyền lực của tiền bạc danh vọng. Nhưng có lẽ thứ bách hại tinh tế và nguy hiểm nhất, đó là cảnh chúng ta “sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp”. Dĩ nhiên ở đây chúng ta thường hiểu việc “bắt nộp” theo nghĩa bóng, tức là chính những người thân thiết lại bách hại chúng ta không bằng vũ lực, nhưng bằng cách tạo ra những khó khăn hoặc chống đối khiến chúng ta không còn được tự do để sống đức tin Công giáo. Hoặc nói theo cách diễn tả của Chúa Giê-su, họ bắt nộp chúng ta có nghĩa là “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét”. Người thân mà thù ghét chúng ta thì khác nào chúng ta bị trao nộp!
Nếu Chúa đặt chúng ta ở trong những cơ hội để làm chứng nhân cho Chúa thì Chúa cũng không bỏ mặc chúng ta làm chứng một mình, nhưng Người sẽ giúp đỡ chúng ta. Không những Người giúp chúng ta can đảm kiên cường, mà Người còn giúp chúng ta “ăn nói khôn ngoan” đến nỗi tất cả địch thủ của chúng ta “không tài nào chống chọi hay cãi lại được”. Khi ấy, sức mạnh và đức khôn ngoan của Thánh Thần sẽ là khiên thuẫn đỡ che chúng ta thoát khỏi mọi hiểm nguy.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có thể chúng ta chưa cảm nhận được bách hại như những người đang phải sống dưới những chế độ đàn áp tôn giáo. Nhưng thực ra bách hại đang vây quanh chúng ta dưới những hình thức khác. Thí dụ chúng ta đang sống trong “nền văn minh của sự chết”, trong đó “ôn dịch” của những thứ internet vô luân đang hoành hành khắp nơi, nhất là tác hại trên những người trẻ hôm nay. Thí dụ, “hiện tượng kinh khủng” của phá thai xuất hiện ngay trong những môi trường đại học xá hay nhà trọ sinh viên ở Việt Nam và trong những khu ổ chuột tại những thành phố lớn… Thế giới hôm nay đang thể hiện đủ mọi thứ “bách hại” Chúa Giê-su đã nhắc đến. Tuy là điều chúng ta không mong đợi, nhưng lại là “những cơ hội” để chúng ta làm chứng cho Chúa. Chúng ta nghe Đức Thánh Cha Phanxicô dạy rằng Xa-tan đang hiện diện giữa chúng ta, nhưng nó không làm chủ được tình thế mà là chính Thiên Chúa mới làm chủ tình thế. Có Thiên Chúa làm chủ tình thế, chúng ta vững tâm thi hành bổn phận làm chứng nhân cho Chúa Ki-tô bằng lối sống thấm nhuần đạo lý của Tin Mừng. Có Chúa chăm sóc, thậm chí một sợi tóc trên đầu chúng ta cũng không bị mất, nên chúng ta không sợ bất cứ kẻ thù nào. Chúa chỉ xin chúng ta làm một điều này thôi, là “có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”!
Lc 21:5-19: 5 Có ít người nói đến Ðền thờ là được đá xinh đẹp và đồ lễ tạ trau giồi, thì Ngài nói: 6 "Về những điều các ngươi ngắm đó, sẽ đến những ngày: "Sẽ không để đá còn trên đá, bất cứ gì cũng bị phá tan tành".
7 Họ mới hỏi Ngài rằng: "Lạy Thầy, vậy bao giờ các điều ấy sẽ xảy ra, và sự gì sẽ làm điều báo mọi sự ấy sắp đến?"
8 Nhưng Ngài nói: "Các ngươi hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt. Vì sẽ có nhiều kẻ đội danh Ta đến nói rằng: - Chính là Ta; và: - Thời buổi đã gần bên; các ngươi chớ đi theo họ!" 9 "Khi các ngươi nghe có giặc giã, và loạn lạc, các ngươi chớ hoảng hốt: vì các sự ấy phải xảy đến trước, nhưng vẫn chưa phải là cùng tận ngay đâu".
10 Bấy giờ Ngài nói với họ: "Dân này sẽ dấy lên chống dân kia, nước này chống nước nọ. 11 Sẽ có động đất lớn, và đó đây có ôn dịch và đói kém; sẽ có những điều kinh khủng và những điềm cả thể tự trời đến."
12 "Nhưng trước mọi điều ấy, người ta sẽ tra tay trên các ngươi và bắt bớ, nộp các ngươi cho hội đường, và tống ngục, điệu các ngươi đến các vua chúa quan quyền vì danh Ta. 13 Một cơ hội để các ngươi làm chứng! 14 Vậy các ngươi hãy ghi kỹ trong lòng là đừng tập dọn biện hộ! 15 Vì Ta sẽ cho các ngươi miệng lưỡi cùng khôn ngoan, làm hết thảy những kẻ chống đối các ngươi đều vô phương cự lại hay kháng lý". 16 "Các ngươi sẽ bị nộp do cả cha mẹ, anh em bà con, bạn hữu; và họ sẽ giết nhiều người trong các ngươi. 17 Và các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta. 18 Nhưng dù một sợi tóc cũng không rơi mất khỏi đầu các ngươi. 19 Chính bởi kiên nhẫn mà các ngươi giữ được mạng sống các ngươi".
Đoạn nầy nằm trong văn mạch lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong Đền thờ (19:47-21:38); diễn từ TN 33-C71
Đoạn nầy nằm trong văn mạch lời giảng dạy của Chúa Giêsu trong Đền thờ (19:47-21:38); diễn từ nầy chia làm hai ở câu 21:4. Phần thứ hai 21:5-36 bàn về số phận của Giêrusalem và Đền thờ (x. Mc 13:5-37; Mt 24:1-36), và có thể chia làm ba phần: Bối cảnh của lời tiên báo (21:5-7); Lời tiên báo (21:8-28); Khuyến dụ tỉnh thức và dụ ngôn cây vả (21:29-36). Đoạn về nội dung của lời tiên báo (21:7-28) nói đến những biến động: Kitô giả (cc. 8-9), chiến tranh (cc. 10-11), bắt bớ (cc.12-19); Đền thờ sụp đổ (cc. 20-24); Những dấu hiệu của việc Người Con Nhân Loại trở lại (cc. 25-28).
Trong tin mừng Luca, nhiều lần Chúa Giêsu nói đến ngày Người đến. Trong 12:35-48, Người khuyến dụ mọi người phải tỉnh thức, trung tín và sẵn sàng. Trong 17:20-37, Người nhấn mạnh điều nầy là không ai có thể biết được khi nào Người Con của Nhân Loại đến. Liên quan đến đền thờ Giêrusalem, Người đã khóc cho nó vì sẽ đến ngày bị bỏ hoang phế (13:34-35). Trong diễn từ nầy, Luca đặt việc tàn phá Giêrusalem (21:6.20-24) trong tương quan chặt chẽ với ngày Con Người sẽ đến (21:25-28). Luca đã ghi nhận trước điều nầy là khi thấy Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem, người ta nghĩ là Nước Thiên Chúa đã đến (19:11). Vậy đền thờ Giêrusalem và những biến cố chung quanh việc tàn phá nầy liên quan rất trực tiếp với Chúa Giêsu và việc Người sẽ đến.
Bối cảnh của lời tiên báo về số phận của đền thờ Giêrusalem (21:5-7). Chúa Giêsu ở trong Đền thờ và giảng dạy (x. 19:47; 20:1; 21:37-38). Đền thờ đang được nói đến là đền thờ thứ hai, sau đền thờ do Salômon xây, và bị tàn phá bởi người Babylon năm 587 trước Chúa Kitô. Sau thời kỳ lưu đày, Giêrubbabel (Esdra 3-6) và Haggai (Hag 1-2) cho khởi công xây dựng lại đền thờ, và hoàn tất khoảng năm 515 trước Chúa Kitô. Dưới thời Hêrôđê Cả, đền thờ được tái thiết, khởi từ năm 20 trước Chúa Kitô (x. Gio 2:20) tiếp tục cho đến năm 63 sau Chúa Kitô. Về các phiến đá xinh đẹp, đồ sộ và những trang hoàng trong đền thờ, xem Josephus B.J. v. 5. Chúa Giêsu nói về “ngày sẽ đến” (c. 6). Đó là ngày Thiên Chúa sẽ đến (19:44), và cũng là ngày của Con Người (17:22.30). Sự hủy diệt sẽ đi trước ngày ấy; Luca ví chuyện nầy như thời ông Noê (17:26-29). Như thế, trong khi người ta hãnh diện về sự huy hoàng của đền thờ, Chúa Giêsu loan báo sự tàn phá của nó; “dei”, “phải”, chỉ ý muốn của Thiên Chúa (21:9).
Nội dung của lời tiên báo (21:8-19). Mở đầu phần nầy là câu hỏi về thời điểm và những dấu lạ đi trước biến cố ấy (c. 7). Để trả lời, Chúa Giêsu nói đến ba điều: liên quan đến những người lấy danh Chúa đến và kêu gọi người ta đi theo họ (21:8-9); liên quan đến chiến tranh giữa các nước, những thiên tại và đói kém trên mặt đất (21:10-11); liên quan đến việc bắt bớ các môn đệ của Chúa Giêsu (21:12-19).
Về việc những người lấy danh Chúa mà đến và kêu gọi môn đệ (21:8-9). Mệnh lệnh Chúa Giêsu đưa ra trước: “Hãy coi chừng đừng để bị lừa gạt” (c. 8). Động từ “planaō” có nghĩa là “dẫn lạc đường”; động từ nầy chỉ xuất hiện một lần ở đây trong Luca. Trong Marcô, động từ nầy liên hệ đến sự hiểu biết Thiên Chúa. Nếu không biết Sách Thánh viết về Người, sẽ bị rơi vào lầm lạc; Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chứ không phải của kẻ chết (Mc 12:24.27; Mt 22:29). Vậy, mệnh lệnh nầy kêu gọi các môn đệ của Chúa Giêsu phải lắng nghe Chúa Giêsu để khỏi bị dẫn đi sai đường. Cách dùng chữ “Những người đến lấy danh của tôi” tương tự lời tung hô của dân chúng khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem “Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến” (19:38). Lấy danh của ai là đại diện và hiện thân của người đó. Thành ngữ “đến nhân danh Chúa” ám chỉ Đấng Messia của Thiên Chúa. Đã có những người lấy danh của Người mà trừ quỷ (9:49). Những người ấy sẽ lập lại những lời nói của Chúa Giêsu: “Tôi đây” cách nói Chúa Giêsu thường dùng (22:70; 24:39; đặc biệt trong tin mừng Gioan 4:26; 6:20; 6:35; 6:41…); “Thời buổi đã gần bên” chính Chúa Giêsu đã rao giảng (10:9.11; Mc 1:15). Như thế, ở đây không ám chỉ Đấng Messia, mà “Kitô” giả (x. Mt 24:5). Họ muốn thay thế Chúa Kitô và kêu gọi các môn đệ đi theo họ; thành ngữ “đi theo sau” chỉ việc trở thành môn đệ (x. 9:23; 14:27).
Chúa Giêsu dùng ngôn ngữ khải huyền khi nói về những chuyện sẽ xảy ra trước khi Đền thờ bị tàn phá. Về chiến tranh (c. 9) Người nói cách mơ hồ, và ám chỉ Đaniel 7:22tt. Những sự kiện nầy phải xảy ra trước khi kết thúc với Đền thờ bị tàn phá (Đaniel 2:28tt. 45). Về các thiên tai (cc. 10-11), cũng bằng ngôn ngữ khải huyền (x. Is 19:2; 2 Sử biên 15:6; Ezk 38:19-22).
Về việc bắt bớ các môn đệ Chúa Giêsu (cc. 12-16). Chúa Giêsu báo trước những bắt bớ các môn đệ của Người phải chịu, hoặc do người do thái, vua chúa và quan quyền (c. 12; 12:11), hoặc do gia đình, bạn bè và thân nhân (c. 16). Tất cả đều lấy “danh của Người” mà làm đều ấy. Người muốn các môn đệ dùng cơ hội nầy mà “làm chứng cho Người (c. 13). Phần Người, Người bảo đảm cho họ sự khích lệ (c. 14) và nâng đỡ (c. 15); đồng thời bảo đảm cho họ sự sống đời đời nếu họ kiên trì trong sự bắt bớ nầy (cc. 17-18). Về việc bắt bớ bởi người do thái, Luca ghi nhận những sự kiện trong Công vụ tông đồ 4:16-18; 9:1b; 12:1-5; 12:1-11; 25:13:26:32. Liên quan đến “hội đuờng”, thời Chúa Giêsu những ai tin vào Người, sẽ bị trục xuất ra khỏi hội đường (x. Gio 12:42). Bị bắt bớ bởi vua chúa và quan quyền: Felix (Cv 23:24-24:27), Porcius Festus (Cv 24:27-26:32). Các tông đồ bị bắt, giết chết: Stêphanô (Cv 6:8-7:60), Phêrô (Cv 12:3), Giacôbê (Cv 12:2), Phaolô (Cv 23:12.14.18; 24:27).
Kết luận (c. 19). Hypomonē, do chữ hypo-menō có nghĩa là “ở bên dưới”, chỉ sự kiên trì, bền bỉ trong mọi tình huống, nhất là biết thời gian thử thách hiện tại sẽ qua đi. Luca hình tượng hoá điều nầy bằng hình ảnh hạt giống. Nó kiên trì chịu mục nát, biến đổi để trở thành mùa màng trĩu hạt (x. 8:15). Vậy, bắt bớ sẽ qua đi. Cần kiên trì chịu thử thách ấy, sẽ được nhận ơn cứu độ.
Cần đọc trọn vẹn diễn từ mới hy vọng hiểu rõ ý nghĩa và mục đích của những điều được tiên báo. Xin gợi ý một vài điều để suy nghĩ thêm. Giêrusalem và đền thờ là điểm trung tâm diễn từ nầy nhắm đến. Đền thờ được ca ngợi bởi những trang hoàng đẹp đẽ của nó (c. 5). Tuy nhiên, Chúa Giêsu tiên báo nó sẽ bị sụp đổ (c. 6). Cùng với đền thờ bị tàn phá, thành Giêrusalem sẽ bị vây hãm, chiếm đóng và dân trong thành bị đi đày (x. 21:20.24). Những ngày đầu tiên Chúa Giêsu đến Giêrusalem và giảng dạy trong đền thờ, Người đã bị các thượng tế và kinh sư mưu đồ giết hại Người (x. 19:47). Trong lời tiên báo về Đền thờ, Người nói đến việc các môn đệ của Người sẽ bị bắt và dẫn đến hội đường. Họ chung một số phận với Người. Người kêu gọi họ kiên trì để được cứu độ. Sau khi đền thờ bị phá hủy và thành Giêrusalem bị tàn phá, Người nói đến việc Người Con Nhân Loại đến (21: 25-28), và Người tuyên bố “ơn cứu độ đã đến gần” (21:28).
Diễn từ nầy đặt trước trình thuật về cuộc thương khó (22:1-23:56) ngụ ý rằng cuộc thương khó là thời kỳ đi trước sự phá hủy Đền thờ. Trong thời kỳ nầy, Người sẽ chịu bắt bớ, và những biến cố trời đất cũng sẽ xảy ra như lời tiên báo (x. 23:44-46). Thời kỳ nầy sẽ diễn ra lâu dài hơn trong lịch sử của các môn đệ Người. Người sẽ bị giết, cũng như một số người trong các môn đệ Người sẽ bị giết (21:16). “Màn Đền thờ bị xé ra” (23:45) chính là lúc Đền thờ cũ bị hủy bỏ và thay thế bằng Đền thờ mới là Chúa Giêsu (x. Mc 14:58). Vậy, trong khi tiên báo sự sụp đổ của đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu tiên báo ngày Người đến. Muôn thiên hạ sẽ thấy Người trong quyền năng và vinh quang, thay thế cho vẻ đẹp huy hoàng của đền thờ Giêrusalem.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 21:5-19)
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là công trình xây dựng lớn lao nhất của Ít-ra-en. Không những dân Ít-ra-en TN 33-C72
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem là công trình xây dựng lớn lao nhất của Ít-ra-en. Không những dân Ít-ra-en hãnh diện về Nhà Chúa của họ, mà cả đến các dân tộc chung quanh cũng không ngớt trầm trồ khi có dịp tới tham quan. Tuy nhiên Chúa Giê-su lại có cái nhìn khác về Đền Thờ. Người nhìn thấy trước cảnh điêu tàn của nó trong tương lai khi bị ngoại bang tàn phá “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào”. Việc Đền Thờ bị phá hủy chỉ là một trong những dấu chỉ báo trước ngày chung cuộc sẽ đến. Sự kiện lịch sử này đã xảy ra vào năm 70 sau công nguyên cho thấy “ngày chung cuộc sẽ đến” là một thực tại chắc chắn, cũng giống như việc người ta sẽ sống lại trong ngày sau hết (bài Tin Mừng tuần trước, Lu-ca 20:27-38). Do đó, từ thực tại chắc chắn này, Chúa Giê-su muốn đưa ra một bài học: phải làm gì để chuẩn bị cho ngày tận thế?
Trước hết Chúa Giê-su không quan tâm tới thời điểm của những dấu chỉ xảy ra trước ngày chung cuộc. Chiến tranh, thiên tai, thậm chí cả “những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện”, tất cả chỉ là bối cảnh của một thế giới đang tiến đến ngày chung cuộc và “sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy”. Như thế rõ ràng sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay là Ki-tô hữu phải là những chứng nhân cho Chúa Giê-su giữa hoàn cảnh thế giới họ đang sống.
Làm chứng cho Chúa trong một môi trường thuận lợi có lẽ không có gì đáng nói. Nhưng nếu sống giữa một thế giới đi ngược lại với chân lý và những giá trị của Tin Mừng mà vẫn trung thành làm môn đệ Chúa thì đó mới thực sự là “cơ hội” để chúng ta làm chứng cho Người. Hơn thế nữa, không những chúng ta phải can đảm đi ngược chiều với lối sống của thế gian, mà còn phải kiên trì giữ vững đức tin khi bị bách hại. Ngày nay, sự bách hại không còn luôn luôn là bắt bớ, ngược đãi, bỏ tù và xét xử bất công nữa, nhưng bách hại lại như những con sóng ngầm lôi cuốn tín hữu đi lúc nào không biết, hoặc như những liều thuốc độc dần dần hủy hoại sự sống con người. Một thí dụ điển hình: có bao giờ bạn nghĩ đến sức mạnh kinh khủng của các “mạng lưới” chưa? Chúng đầu độc bao người, nhất là giới trẻ. Có nhiều nữ sinh viên ở Việt Nam dùng điện thoại thu hình những hành động đồi bại của họ, rồi hãnh diện đưa lên You Tube cho thiên hạ coi, không còn biết thế nào là liêm sỉ nữa! Nhiều khi họ còn nghĩ đó là cách để trở thành nổi tiếng! Dĩ nhiên bên cạnh họ vẫn có nhiều em can đảm không chịu để mình bị “bách hại” do lối sống buông thả và vô đạo đức của các bạn xấu ấy.
Nhiều khi trước mọi bách hại như thế, chúng ta không biết phải chống trả làm sao. Nhưng Chúa Giê-su dạy chúng ta “đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào”. Chúa sẽ giúp chúng ta chống trả nếu chúng ta gắn bó với Người.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chẳng ai trong chúng ta mong muốn mình bị bách hại cả. Chúng ta chỉ thích được yên thân sống đạo! Nhưng không có chuyện yên thân sống đạo đâu, vì chúng ta phải sống trong thế giới bất lợi này để làm chứng cho Chúa. Chúa Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Gio-an 17:15). Làm chứng cho Chúa giữa những bách hại có nghĩa là làm chứng ở mọi nơi chúng ta sống. Bách hại xảy ra nhiều khi ngay trong gia đình, qua những bất đồng về đạo lý và luân lý giữa các thành phần. Nhưng điều chúng ta xác tín là dù bách hại thế nào và ở đâu thì đó cũng là “cơ hội làm chứng nhân cho Chúa”. Chúng ta đừng để mất cơ hội nhé!
Vào mỗi dịp cuối năm, Phụng vụ lại mời gọi chúng ta suy niệm về thân phận con người. Trong tháng TN 33-C73
Vào mỗi dịp cuối năm, Phụng vụ lại mời gọi chúng ta suy niệm về thân phận con người. Trong tháng Mười Một dương lịch, chúng ta thường đến viếng mộ người thân. Giữa “thành phố thinh lặng” của những người đã nằm xuống, các ngôi mộ lớn nhỏ nằm cạnh nhau. Đến viếng mộ để tưởng nhớ người ra đi, đồng thời cũng là để suy tư về hậu vận con người. Dù sang hay hèn, dù trí thức hay bình dân, dù hạnh phúc hay đau khổ, cuộc sống đời này đều kết thúc ở nấm mộ. Tuy vậy, người Công giáo tin rằng, nấm mộ không phải là điểm đến cuối cùng của con người. Đó chỉ là nơi dừng chân trong khi chờ đợi được sống lại. Ngôn sứ Đanien đã được thấy viễn tượng này trong một thị kiến. Vào lúc tận cùng của thời gian, mọi người đã chết đều được sống lại. Người thì sống lại để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì sống lại để chịu trầm luân vĩnh viễn. Bên kia sự chết vẫn có sự sống!
Niềm tin vào đời sau giúp chúng ta cố gắng sống tốt ở đời này. Tin vào Thiên Chúa là Đấng sẽ phán xét kẻ dữ người lành sẽ giúp ta hy vọng và kiên nhẫn vươn lên để không vấp ngã trên đường đời. Người tín hữu tin có đời sau, khi họ kết thúc hành trình dương thế. Chết không phải là hết, mà chỉ là kết thúc một giai đoạn của cuộc sống. Chết là sự biến đổi, là cánh cửa mở ra để người công chính tiến vào sự sống đời đời. Luôn suy nghĩ đến phúc tội, sẽ giúp con người dễ hoàn lương hơn. Các thánh là những người tin chắc có sự sống đời sau, và họ đã làm mọi sự để đạt được sự sống ấy, như phần thưởng Chúa dọn sẵn cho những ai mến yêu và trung tín với Ngài.
Sống giữa thế gian, con người dễ bị cám dỗ dao động. Họ bị lôi kéo để chọn lạc thú tiền tài và lợi lộc trước mắt. Họ lập luận rằng: cuộc đời chẳng có bao nhiêu, không ăn chơi hưởng lạc thì cuộc đời uổng phí! Có biết bao người chọn hưởng thụ làm lẽ sống, nên đã phải gánh chịu hậu quả thê thảm. Cuộc đời họ tan nát tiêu điều và trở thành gánh nặng cho người thân.
Chúa Giêsu đã khuyên nhủ chúng ta hãy kiên nhẫn và vững vàng, kể cả trong lúc biến động và thậm chí là ngày tận thế. Thánh Mác-cô đã dùng lối hành văn “Khải huyền” để diễn tả ngày tận thế, với hình ảnh những thiên thể từ trên cao sa xuống, vũ bão cuồng phong làm cho con người hoảng loạn. Những ai tin cậy yêu mến Chúa thì không sợ hãi bất cứ biến cố nào, vì họ tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa. Điều quan trọng là họ phải cậy trông và tin tưởng phó thác vào Chúa, luôn trong tình trạng “tỉnh thức” để rồi bất cứ Chúa đến giờ nào, họ cũng xứng đáng ra đón Chúa và được Ngài cho hưởng hạnh phúc Thiên đàng.
Những bận rộn lo toan của cuộc sống thường nhật dễ làm cho chúng ta quên đời sau. Tuy vậy, nếu sống là đang đi trong một cuộc lữ hành, thì chúng phải biết đích điểm của cuộc lữ hành đó là gì. Người khôn ngoan biết thận trọng lo liệu để không đi lệch hướng; kẻ dại dột cứ nhắm mắt đi dù chẳng biết đâu là đích điểm. Chúa Giêsu là Đấng dẫn đường cho chúng ta. Người là vị Thày dạy chúng ta tiến bước để chúng ta không bị lạc. Tác giả thư Do Thái nói về chức tư tế của Chúa Giêsu, Đấng đã hiến mình cho Thiên Chúa để mang ơn cứu độ cho trần gian (Bài đọc II). Cái chết của Người trên thập giá đã xoá bản án nguyên tội cho loài người. Người đã ra khỏi mộ tối, sống lại quang vinh, như một lời đoan chắc với chúng ta rằng, nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta sẽ được sống lại với Người. Đó là lý do tại sao trên mỗi phần mộ của người Kitô hữu đều có biểu tượng thánh giá, như một lời tuyên xưng vững vàng vào màu nhiệm phục sinh, đồng thời cũng là một lời cầu nguyện cho người đã an nghỉ.
Bên kia sự chết là sự sống. Cửa của những nấm mồ sẽ được mở tung vào ngày tận thế. Đó là niềm xác tín của chúng ta. Có nhiều người băn khoan mất tiền mất của để được dự đoán hậu vận tương lai, đường đời dài ngắn, sau đó chuốc vào thân nỗi sợ hãi bất hạnh. Khi nào là tận thế, đó không phải là điều bận tâm tìm kiếm của chúng ta. Một người sống tốt lành trước mặt Chúa và nhân hậu đối với anh chị em mình, chắc chắn sẽ được Chúa thương ban phần thưởng trong cuộc sống vĩnh viễn.
Có 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra có một số nhỏ các quốc gia độc lập TN 33-C74
Có 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra có một số nhỏ các quốc gia độc lập như nước Vatican, Taiwan và Kosovo không là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Nói đúng hơn là có tất cả 196 nước trên thế giới. Có những Nước lớn, đất rộng người đông như Trung Hoa có trên 1 tỷ 341 triệu người, Ấn Độ có trên 1 tỷ 210 triệu và Hoa Kỳ có trên 314 triệu người. Tổng số dân trên thế giới khoảng trên 7 tỷ. Có những quốc gia nhỏ xíu như Nước Vatican rộng (0.2 square miles) với dân số 770 dân và Nước Monaco (0.7 square miles) có 32 ngàn dân. Số dân tăng dần mỗi năm. Số người qua đời ít hơn số trẻ sơ sinh. Dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia hướng đến cùng đích. Bước vào thế kỷ thứ 21, nhờ khoa học kỹ thuật siêu vượt, con người đã mở rộng tầm kiến thức và tạo mối liên hệ tới mọi quốc gia. Sự truyền thông đa chiều đã nối kết con người xích lại gần nhau hơn.
Sống trên trần gian là cuộc lữ hành đi về quê thật. Có biết bao con đường mở ra giúp dẫn đưa con người đi đến cùng đích. Con người mọi thời đã suy tư giác ngộ ra nhiều thứ đạo, nhiều tôn giáo và nhiều cách thế để đạt mục đích. Có 20 tôn giáo chính thức, đang là chỗ cậy dựa tinh thần cho nhiều người: Kitô giáo đông nhất có trên 2 tỷ tín đồ, Hồi Giáo khoảng trên 1 tỷ 570 triệu, Hinduism có khoảng 950 triệu, Buddhism (Phật giáo) số thống kê không chính xác (350-1,600 triệu tín đồ)…Ngoài ra còn rất nhiều các nhóm tôn giáo khác nhau. Tất cả các tôn giáo cùng đi tìm ý nghĩa và cùng đích cho cuộc sống hôm nay và ngày mai. Đa số các tôn giáo đều tin có cuộc sống hạnh phúc mai hậu nơi thiên đàng, niết bàn, cõi tây phương cực lạc, quê trời, cõi trời và nơi trường sinh bất tử.
Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta những dấu chỉ về ngày cánh chung. Nước Trời khởi đi từ trần thế và kết thúc trên quê trời. Chúa Giêsu chỉ dậy: Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần (Mc 13, 28). Chúa quan phòng cho chúng ta thấy những dấu chỉ của thời gian, không gian và vạn vật muôn loài. Mọi thứ đều có khởi đầu và có ngày cùng tận. Mọi loài thụ tạo được phát triển trong thời gian, đừng mong có những bước nhảy vọt. Cuộc sống của con người cũng như thiên nhiên cần phát triển theo những chặng đường rất tự nhiên, từ trẻ tới già, từ non nớt tới sự chín mùi, từ ngây thơ tới tuổi trưởng thành và từ khởi sinh đến cùng đích. Chúng ta được mời gọi bước tới trên con đường trọn lành để chiếm hữu quê thật.
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm đối diện với những người tốt, kẻ xấu. Mỗi người đều có cơ hội thay đổi để nên tốt lành hơn. Sự thật ở đời, chúng ta khó tìm được một người hoàn toàn tốt hay một người toàn xấu. Trong tâm con người, có phần tốt và chút thói xấu lẫn lộn. Nghèo cùng tâm trí và không biết gieo duyên lành sẽ dễ bị cuốn lôi theo dòng chảy. Đôi khi vì qúa chủ quan, chúng ta không nhận ra những thói hư tật xấu của mình. Mỗi người cần xét mình và biết mình để tìm cách sửa sai và thăng tiến mỗi ngày.
Trong thế giới ngày nay, xuất hiện rất nhiều tôn giáo dẫn đường cuộc sống. Mỗi tôn giáo với những linh đạo riêng có thể giúp các tín đồ của mình tu thân và tu tâm để thoát vòng loạn ly. Đời sống con người hiện đại đang dần bị tục hóa. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hưởng thụ và tương đối đang bủa vây và kéo chìm con người trở về với bản năng hưởng thụ. Qua truyền thông nối mạng, hình như các tệ nạn và gương xấu đang tràn lan một cách mạnh mẽ như sóng triều. Sức mạnh của sự thỏa mãn vật chất mạnh hơn các lý tưởng tinh tuyền của tôn giáo. Nhiều người tìm kiếm thỏa mãn những đòi hỏi vật thể và vui hưởng cuộc sống trong hiện tại, thay vì hướng đến cuộc sống hạnh phúc tương lai. Chúng ta cần thức tỉnh cả trong ý tưởng, tâm linh và thân xác để nhận diện ý nghĩa thật của cuộc sống.
Nhiều bạn trẻ thả trôi cuộc đời lênh đênh không có đích điểm. Thật đáng thương cho kiếp phận con người. Hằng ngày tôi gặp gỡ nhiều người trẻ tự thắt nút cuộc đời qua những biến cố xảy ra. Đang trong tuổi đẹp trăng tròn, nhiều bạn trẻ đã bắt đầu tìm hưởng thụ tính dục, rồi sớm có con, không hôn nhân, không gia đình, thay bạn đổi bồ như thay áo. Qua năm tháng, những nút thắt cuộc đời đan kết chất chồng lên nhau như mối tơ vò. Nhìn một người mẹ trẻ có ba đứa con với hai hoặc ba người bạn tình. Tương lai tại thế của các bạn trẻ này thật mờ mịt khó đường giải quyết. Xảy một ly đi một dặm, làm lại cuộc đời thế nào bây giờ. Làm sao chúng ta có thể nói với họ về tương lai của ngày sau? Các bạn trẻ tự giới hạn viễn tượng sống để giải quyết vấn đề hiện tại với nhiều điều nan giải. Cứ thế cuộc đời bị luẩn cuẩn trong mạng lưới ràng buộc, cả nể cho nên sự dở dang.
Ngày cánh chung sẽ đến giống như dấu chỉ của cây vả xanh tươi, chúng ta biết mùa hè sắp đến. Mỗi người chúng ta nên nhìn dấu chỉ của thời đại để chuẩn bị cho đời sống mai hậu. Chúng ta biết rằng một việc tốt dù nhỏ cũng có thể sinh ra hoa trái tốt lành. Chúng ta phải gieo nhân tốt mới có thể sinh qủa tốt được. Giữa ngã ba cuộc đời, chúng ta phải biết chọn lựa và từ bỏ. Chọn lựa con đường dẫn đến hạnh phúc và an lạc. Từ bỏ đi những bận vướng của cuộc sống. Cuộc đời có nhiều vương vấn nên cần có thái độ dứt khoát. Ai cũng có thể làm lại cuộc đời. Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại. Chấp nhận thực tại, chúng ta tháo cởi từng những nút thắt để cuộc sống tâm linh được thanh thản và an vui. Những việc làm tốt nho nhỏ hằng ngày sẽ lớn dần và đâm bông kết trái.
Chúa Giêsu biết thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của con người, nên Ngài đã dâng hiến lễ đền tội để giao hòa. Thơ gởi tín hữu Do-thái viết: Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo (Dt 10, 14). Dù con người có sa phạm, lầm lạc và tội lỗi, Chúa vẫn có cách dẫn đưa họ trở về như mẫu gương của thánh Augustinô. Nếu chúng ta chỉ hối tiếc về sự sa ngã lầm lạc thì chưa đủ. Muốn làm lại cuộc đời, chúng ta cần thành tâm nhận lỗi, rồi hối lỗi, thật lòng sửa lỗi, chuộc lỗi, xin tha lỗi và tu luyện tâm tánh. Đây là một sự thách đố quyết tâm đổi đời. Hãy chạy đến với lòng Chúa thương xót xin ơn tha thứ. Chúa sẽ tẩy sạch tâm hồn, đổi mới trái tim yêu thương và thánh hóa trở nên con người mới trong ân sủng.
Niềm tin vào Thiên Chúa là niềm hy vọng viên mãn. Tiên tri Đaniel đã có thị kiến về ngày thế mạt: Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời (Dn 12, 2). Chúng ta không thể coi thường những chỉ thị, huấn lệnh và lời giảng dạy trong Giáo Hội. Niềm tin tôn giáo là cửa ngõ dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chúng ta cần phải đi, phải bước tới và thực hành những điều Chúa truyền dạy. Nước Trời mở cửa đón nhận tất cả mọi người, nhưng chỉ những kẻ kiên trì phấn đấu đến cùng mới đáng hưởng phần phúc thiên đàng. Chúng ta không biết được ngày giờ Chúa đến, nên luôn phải sẵn sàng: Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mc 13, 32).
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày để ngày sau được chung hưởng hạnh phúc đời đời.
Giữ vững lập trường là không dao động trong mọi tình huống, như ca dao nói: “Dù ai nói ngả TN 33-C75
Giữ vững lập trường là không dao động trong mọi tình huống, như ca dao nói: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, thì tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Tuy nhiên, đó lại là điều không dễ thể hiện. Chúa Giêsu cũng đã căn dặn: “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10:22; Mc 13:13).
Kiên định, kiên tâm, kiên chí, kiên cường hoặc kiên nhẫn là đức tính rất quan trọng trong cuộc sống. Nhà giáo dục William Arthur Ward (1921-1994, người Mỹ, tác giả cuốn Fountains of Faith – Suối nguồn Niềm tin), nhận định: “Sự kiên nhẫn của ngày hôm nay có thể biến sự nản lòng của ngày hôm qua thành khám phá của ngày mai. Mục đích của ngày hôm nay có thể biến thất bại của ngày hôm qua thành quyết tâm của ngày mai”. Tính kiên trì là loại “bùa hộ mạng” mà người ta luôn cần phải đem theo mình, không được rời nó ra, dù chỉ trong thoáng chốc. Đời hoặc đạo cũng đều cần kiên định, nghĩa là luôn tự nhủ “an tâm và tin cậy Chúa, luôn vững lòng, không sợ hãi chi” (Tv 112:7-8).
Người ta nói: “Điều gì đến sẽ đến – What will be will – Que sera sera”. Câu này có thể mang ý nghĩa tiêu cực hoặc tích cực. Là tiêu cực nếu chúng ta thuộc loại người bất cần, là tích cực nếu chúng ta thuộc loại người biết chấp nhận thực tế – với người có niềm tin vào Thiên Chúa, đó là Thánh Ý Chúa. Thật vậy, chúng ta lo cũng không xong, tránh cũng chẳng được, thế thì cứ vui vẻ chấp nhận cho thanh thản, không chấp nhận thì chỉ tự dày vò mình mà thôi. Cuộc đời đã lắm khổ rồi, sao lại muốn làm khổ mình thêm?
Những ngày cuối năm Phụng Vụ, Giáo hội nhắc nhở chúng ta về Ngày Quang Lâm của Đức Giêsu Kitô, tức là Ngày Tận Thế. Tuy nhiên, không biết chúng ta có được chứng kiến thời khắc đó hay không, nhưng có điều chắc chắn là ngày tận thế của cuộc đời mình – tức là ngày chúng ta nhắm mắt, xuôi tay, và trả lại tất cả cho thế gian!
Sự chết liên quan tận thế. Tận thế liên quan sự chết. Nói tới sự chết khiến chúng ta liên tưởng tới thiên tài âm nhạc Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791). Khi soạn tuyệt phẩm REQUIEM, ông đã linh cảm: “Tôi e rằng tôi đang viết một bài cầu hồn cho chính mình”. Trong thư gởi cho người cha, Mozart cho biết: “Con không bao giờ đi ngủ mà không nghĩ rằng có thể con không còn thấy ngày mai nữa. Sự chết là mục đích thực sự của cuộc đời chúng ta. Từ vài năm nay, con đã quen với người bạn tuyệt vời đó của con người. Hình ảnh người bạn đó không làm con sợ mà con thấy người bạn đó hiền lành và cởi mở”. Ước gì chúng ta cũng biết tâm niệm như vậy!
Với người không có niềm tin, chết là hết – như “chó chết hết chuyện” vậy. Nhưng với chúng ta, những người có niềm tin vào Đức Kitô, chết không là hết, mà chết là “ngưỡng quá độ ”, là “buổi giao mùa”, là khởi đầu sự sống mới. Chết là hên chứ không xui chút nào cả.
Kinh Thánh cho biết: “Thời đó, Tổng lãnh Sứ thần Micae sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Ðn 12:1). Đó là nói về sự sống lại của những người đã chết. Chết là để sống lại, như vậy chết không là hết, không là điều tuyệt vọng, nghĩa là chết mà đầy hy vọng.
Sách Đa-ni-el nói rõ về sự sống lại và sự thưởng phạt: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Ðn 12:2-3). Ngày nay sống thế nào thì ngày mai sẽ “phản ánh” như vậy, sống tốt thì được thưởng, sống ác thì bị phạt. Gọi là “thưởng – phạt” theo cách hiểu của phàm nhân mà thôi, chứ thật ra đó là sự công bằng, là điều tất yếu, là công lý của Thiên Chúa.
Công lý đó cũng chính là tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa. Có được Ngài thì thật là hạnh phúc. Tác giả Thánh Vịnh tâm sự: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5).
Tâm niệm như vậy nên tác giả Thánh Vịnh luôn ghi nhớ: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi! (Tv 16:8-11). Có Chúa là có tất cả, ngay trong lúc cứ tưởng là “dấu chấm hết” nhưng chỉ là “dấu chấm xuống dòng” để bắt đầu niềm hy vọng mới. Điều này được minh chứng qua câu chuyện Tổ phụ Áp-ra-ham vâng lời Thiên Chúa mà hiến tế chính con trai độc nhất của ông (x. St 22:1-18).
Sống để rồi chết, chết để rồi sống. Quy trình sinh – tử đó không là “vòng luân hồi” như người ta tưởng. Quy trình sinh – tử đó vô cùng kỳ diệu, nhưng không dễ thực hiện. Ai thực hiện được như vậy thì thật hạnh phúc, và xứng đáng được hưởng lời hứa của Thiên Chúa. Tuy nhiên, lời hứa nào cũng có điều kiện: “Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2:10c).
Chúa Giêsu đã tiên phong trải qua “vòng sinh – tử” đó để làm hy lễ cứu độ nhân loại. Hy lễ của Ngài hữu hiệu, chỉ một lần là trọn vẹn vĩnh viễn. Thánh Phaolô nói: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi. Còn Đức Kitô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. Và từ khi đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân. Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10:11-14).
Và rồi Thánh Phaolô kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì không cần dâng lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).
Tin Mừng hôm nay có hai phần: [1] Con Người Quang Lâm (Mc 13:24-27 – tương đương Mt 24:29-31 và Lc 21:25-28), và [2] Dụ Ngôn Cây Vả (Mc 13:28-32 – tương đương Mt 24:32-36; Lc 21:29-33).
Chúa Giêsu cho biết rằng vào những ngày đó – tức là thời cuối cùng, thời tận thế, và sau cơn gian nan ấy, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời. Những hình ảnh vừa đáng sợ vừa đáng mừng, tùy “cách nhìn” của mỗi người. Chúa Giêsu nói thật, không nói đùa bao giờ đâu!
Sau đó, Chúa Giêsu dùng hình ảnh thực tế là cây vả để nói về cuộc sống của chúng ta. Ngài chân thành nói: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”.
Đừng tin ai, đừng nghe ai, cứ ghi nhớ lời Chúa Giêsu đã nói: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”. Chắc chắn như vậy!
Với tâm thức đó, Thánh Phaolô đã căn dặn: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2 Tx 2:2-3). Và ông gọi đó là “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7), đồng thời nhắc nhở về việc xuất hiện của tên bịp bợm: “Tên gian ác xuất hiện là do tác động của Satan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ” (2 Tx 2:9-10). Như vậy, “tất cả những kẻ không tin sự thật nhưng ưa thích sự gian ác thì sẽ bị kết án” (2 Tx 2:12).
Có lần chính Chúa Giêsu cũng đã quan ngại mà đặt vấn đề: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18:8). Một câu hỏi đáng quan ngại thật đấy! Câu này cũng nhắc nhở chúng ta đừng hoang mang, chớ lo lắng, hãy cố gắng tập trung vào Chúa và sống đức ái qua đức tin. Chuyện gì đến sẽ đến, sợ hay lo thì cũng chẳng thay đổi được gì cả. Cứ tâm nguyện theo lời Chúa Giêsu dạy: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!”.
Thánh Phaolô đã đề cập tầm quan trọng của đức kiên nhẫn: “Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người” (2 Tm 2:12). Đây là lời đáng tin cậy.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết tỉnh thức và sẵn sàng mọi nơi và mọi lúc. Xin giúp con vững tin vào lời Đức Kitô Giêsu để không dao động trong bất cứ hoàn cảnh nào. Xin thương giúp mọi người cũng vững lòng tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót đến hơi thở cuối cùng. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Đã từ lâu, mỗi khi đề cập tới phán xét hay ngày tận thế, tôi luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi này! Trong TN 33-C76
Đã từ lâu, mỗi khi đề cập tới phán xét hay ngày tận thế, tôi luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi này! Trong dịp ghé thăm một tòa giám mục nọ, tôi được chỉ cho thấy một tòa nhà rộng lớn đang được xây dựng ngay trong khuôn viên; vị giám mục giới thiệu với tôi, đó là ‘tòa nhà cánh chung’ hay nôm na gọi là ‘bốn sự sau hết’. Trong ngôi nhà đó, ngài cho dựng lên ‘như thật’ các cảnh tượng phán xét, thiên đàng, hỏa ngục v.v. Trả lời thắc mắc của tôi là tại sao phải tốn phí bao nhiêu tiền của để xây dựng một công trình như thế, vị giám mục trịnh trọng giải thích: “Đó là bài giáo lý căn bản nhất; giáo dân cần phải được răn đe để tránh phạm tội!” Tôi không rõ: đó có phải là mục đích mà cả ba cuốn Tin Mừng Nhất Lãm dành trọn cả chương (Mt 24, Mc 13, Lc 21) để mô tả khá chi tiết ngày thế tận và cuộc đại phán xét đó không? Nếu quả đúng là để răn đe, để cảnh cáo, thì cho dầu có đạt được mục đích giúp cho một số người làm lành lánh dữ đi nữa, tôi vẫn không khỏi thắc mắc: các sách đó có đáng được gọi là “TIN MỪNG” hay không?
Đề tài ‘thế tận’ này bao giờ cũng được các sách Tin Mừng bắt đầu bằng việc: các tông đồ là những người Do Thái thắc mắc về viễn tượng đền thánh Giê-ru-xa-lem bị tàn phá. Đây là vấn đề người Do Thái nào cũng quan tâm vì đã được các tiên tri đề cập tới nhiều (Is 66:8; Ed 38; Gr 4; Dcr 14), và thường qua đó đưa ra lời cảnh báo về ‘ngày phán xét’ mà các ngôn sứ gọi là ‘ngày của Đức Chúa’ (Am 5:18; Xp 1:14). Các sự kiện này được mô tả bằng một văn phong khó hiểu hầu gợi được sự quan tâm của quần chúng, nhằm chuẩn bị họ tỉnh thức sẵn sàng cho cuộc khai mạc vĩ đại của ‘triều đại Thiên Chúa đến trần gian’. Bất cứ người Do thái nào cũng sẽ rất ấn tượng về quyền năng của Thiên Chúa, qua các hiện tượng ‘kinh khủng’ xảy đến khi Ngài xuất hiện (quang lâm), các hiện tượng ném vũ trụ vào một cuộc khủng hoảng toàn diện đầy kinh hãi: “Mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống…”
Tuy nhiên, tương phản với cái viễn tượng đầy khiếp sợ mà người Do Thái đã quá quen thuộc, Đức Giê-su lại đưa ra một hình ảnh hoàn toàn trái ngược: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả… Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy… anh em biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”. Suy nghĩ cho kỹ ta mới thấy: hình ảnh cây vả đâm chồi nảy lộc vào đầu xuân đầy sức sống đối nghịch với dáng chết chóc của cành khô trơ trụi trong những ngày đông giá. Quang lâm hay ngày phán xét mà Đức Giê-su trình bày, mặc dù khởi đi từ các hình ảnh Cựu Ước đầy kinh hãi, lại hàm chứa một nội dung tràn trề hy vọng; ngày đó sẽ không gây sợ hãi hay trốn chạy, nhưng sẽ là mừng vui và hy vọng: “anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc” (Lc 21:28). Điều đáng lưu ý là: Luca đã đề cập tới hình ảnh cây vả đâm chồi nẩy lộc ngay sau lời khích lệ trên (xem Lc 21:28-30).
“Lúc đó Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Quả thực, thế tận sẽ là ngày Đức Chúa quang lâm…, ngày Người tuyển chọn…, ngày Người tập hợp! Những kẻ được Người ‘tuyển chọn’ chắc hẳn không thể là những kẻ tự cho mình là xứng đáng, đơn giản vì chẳng có ai xứng đáng trước mặt Thẩm Phán quang minh, nhưng phải là những ai đã hiểu mình được cứu độ cách nhưng không, đã biết tới lòng nhân từ vô hạn lượng của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su, và đã từng đón rước lòng nhân từ ‘đến gần, ở ngay ngoài cửa’. Con số những người này có thể là nhiều lắm: kể từ A-đam E-va ‘từ đầu mặt đất’, qua hết các thế hệ kế tiếp…, và mãi cho tới những người ở ‘cuối chân trời’. Phải, tất cả những người đó, cho dầu bất xứng và tội lỗi, nhưng bằng cách này hay cách khác, đã biết đón nhận ơn cứu độ của xót thương và thứ tha, họ sẽ đứng thẳng và ngẩng đầu lên vào giờ phút kinh hoàng, khi mà mọi kẻ khác, kể cả các bậc thánh hiền và công chính nhất, đều phải cúi gầm mặt run sợ. Phải chăng: đó mới chính là giờ phút cao điểm của Tin Mừng cứu độ?
Thiết tưởng đối với tất cả những ai tin tưởng và tín thác vào lòng từ nhân của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã mạc khải bằng chính cái chết của Người, thì ngày cánh chung ấy sẽ không bao giờ có thể là ‘dies irae, dies illa’ – ngày đó, ngày thịnh nộ, nhưng phải là ‘dies spei, dies illa’ – ngày đó, ngày hy vọng tràn trề. Mong rằng mọi Ki-tô hữu chúng ta trước hết, và nhiều người khác nữa, sẽ thuộc số những kẻ ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên’, vì chúng ta đã chẳng không ngừng cử hành việc ‘Con Người đã đến gần, đã ở ngay ngoài cửa’, nhất là khi cử hành Hy Lễ Thập Giá trên bàn thờ ‘mong đợi Người lại đến’ là gì!
Lạy Đấng Phán Xét chí công, con muốn được liệt vào số những người ‘đứng thẳng và ngẩng đầu lên’ trong ngày phán xét, không phải vì con tốt lành thánh thiện hơn ai, nhưng trong tư cách Ki-tô hữu con đã từng tin vào tình yêu cứu độ của Ngài. Xin cho ngày cánh chung sẽ trở nên ngày hiển linh Tin Mừng cứu độ cho con và cho toàn thể nhân loại, và là ngày vĩ đại của niềm hy vọng và cậy trông hoàn vũ. A-men.
Chiều hôm Thứ Sáu vừa qua, các hãng thông tấn như radio, internet, đặc biệt là các đài truyền hình TN 33-C77
Chiều hôm Thứ Sáu vừa qua, các hãng thông tấn như radio, internet, đặc biệt là các đài truyền hình lớn như CNN hay Fox News đột nhiên ngưng các chương trình thông thường, để loan tin và trực tiếp truyền hình về vụ khủng bố xảy ra tại thành phố Paris tại Pháp quốc, làm nhiều người thiệt mạng. Chủ đích của các hãng truyền thông là cho khán thính giả biết những sự kiện đang xảy ra, và cảnh giác chúng ta chú ý và đề phòng, nhất là những sự khủng bố giết người của người Hồi giáo quá khích. Chúng ta biết khủng bố có thể xảy ra bất cứ lúc nào và nơi nào, kể cả trong quốc gia Hoa kỳ này, vì quân khủng bố Hồi giáo quá khích đang hiện diện và trà trộn trong tất cả các thành phố.
Trong những tuần cuối của năm phụng vụ, Giáo hội, qua những bài Kinh thánh Lời Chúa, muốn nhắc nhở và cảnh báo chúng ta, là những Ki-tô hữu, đến một sự kiện sẽ xảy ra liên quan đến đời sống hiện tại, nhất là đến đời sống vĩnh cửu ngày sau, để chúng ta chú ý, nhìn vào đời sống và chuẩn bị một cách tốt đẹp theo thánh ý Chúa dạy, cũng như sống trong an bình, vui mừng và hy vọng. Sự kiện sẽ xảy ra là Ngày Tận Thế, mà theo như lời Chúa, sẽ đến bất cứ lúc nào mà chúng ta không biết.
Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Đa-ni-êu nói cho chúng ta biết về thời cùng tận, và liệt kê những điều sau đây sẽ xảy ra. Thứ nhất thời điểm đó Tổng Lãnh Sứ Thần Michael sẽ được Thiên Chúa sai đến để che chở cho dân trong thời kỳ khốn khổ sau hết. Thứ hai đây là thời kỳ khốn khổ chưa từng thấy trong lịch sử loài người, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Và sau cùng, những ai có tên trong Sách của Thiên Chúa sẽ được thoát nạn, được giải thoát và được ban thưởng phúc trường sinh. Sách này chỉ có Con Chiên, ám chỉ Chúa Giê-su Ki-tô Chiên Thiên Chúa, đã bị giết nhưng vẫn đang sống, mới có thẩm quyền để mở mà thôi. Vào lúc đó mọi người sẽ chỗi dậy và phải chịu phán xét về việc làm của mình. Người công chính và trung thành sẽ được ban thưởng phúc trường sinh. Những người tội lỗi sẽ “chịu tủi nhục muôn đời.”
Trong bài đọc 2, tác giả Thư Do-thái cho chúng ta biết về ơn sủng Hiến Lễ của Chúa Giê-su Kitô trên thập giá. Tuy Hiến Lễ này chỉ xảy ra một lần, nhưng có sức mạnh tẩy trừ mọi tội lỗi của con người mọi thời đại, và làm cho con người được trở nên tinh tuyền thánh thiện mỗi ngày một hơn. Hiến Lễ của Chúa Giêsu trên đồi Golgotha, được ban cho Giáo hội qua Bí-tích Rửa Tội để tẩy sạch tội lỗi con người, qua Bí-tích Giao Hòa để ban ơn tha thứ, và sau cùng Hiến Lễ của Chúa Giê-su Kitô được thể hiện qua Bí Tích Thánh Thể, ban ơn thánh cho con người chúng ta trong giai đoạn hiện tại.
Bài Tin mừng hôm nay làm cho tôi nghĩ đến bài Tin mừng của thánh Luca Thứ Sáu hôm qua, khi những người Pha-ri-sêu đến hỏi Chúa Giêsu “Khi nào Nước Thiên Chúa đến và khi nào Thiên Chúa sẽ ngự đến?” Chúa Giê-su đã cho họ biết Thiên Chúa đang hiện diện ở giữa họ, và Người đưa ra một dấu hiệu Chúa đến trong ngày tận thế một cách thình lình như chớp sáng lòe bầu trời giữa sự vô lo của con người trần thế. Sau đó, Chúa đã đưa ra 2 sự kiện điển hình để minh chứng. Sự kiện thứ nhất về những người sống trong thời ông Nô-e. Thời đó người ta đang sống trong phồn thịnh, ăn chơi phè phỡn, tội lỗi thả dàn. Họ chỉ lo về vật chất, không nghĩ và để ý gì về đời sống tinh thần và lo cho linh hồn của họ nữa. Họ cũng không nghe, bỏ ngoài tai những lời khuyên bảo của các ngôn sứ. Trong khi đó một mình ông Nô-e nghe lời Chúa bảo, lo lắng đi đóng tàu để tránh đại hồng thủy. Họ tiếp tục sống phè phỡn, ăn chơi, lo kiếm tiền thật nhiều và hưởng thụ, nghĩa là chỉ lo tới vật chất. Nhưng giữa lúc phồn thịnh và ăn chơi thì lụt đại hồng thủy xảy đến, cuốn trôi tất cả, tiêu hủy tất cả. Thiên Chúa đến và đến gọi chúng ta bất ngờ. Ngày tận thế và ngày Chúa trở lại với loài người cũng bất ngờ như vậy.
Sự kiện thứ 2 mà Chúa đề cập đến xảy ra thời ông Lót, cả thành phố Sô-đô-ma đang phồn thịnh, thịnh vượng, ăn chơi thả dàn, xây cất, mua bán, nghĩa là tất cả đang sống trong một cuộc sống hưởng thụ bình thản, nhưng là một loại bình thản giả tạo trong tội lỗi và lầm lạc. Giữa lúc như thế thì lửa bởi trời đổ xuống thiêu hủy tất cả, chỉ một mình ông Lót thoát chết. Còn bà Lót thì hóa thành tượng muối vì đã quay đầu nhìn lại thương tiếc, ham đống của cải bỏ lại, thay vì cứu lấy chính bản thân mình.
Ông bà anh chị em thân mến. Tất cả những sự kiện trên đây mãi mãi vẫn là một bài học nhắc nhở chúng ta. Thiên Chúa đến và đến gọi chúng ta bất ngờ. Ngày Chúa trở lại phán xét nhân loại cũng bất ngờ như vậy. Cũng như mỗi người không biết khi nào mình chết, thì cả nhân loại cũng không biết khi nào Chúa trở lại. Tất cả đều bất ngờ. Nhưng vì yêu thương, Chúa đã dùng lời của Người để dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta không bị lâm vào cảnh bất ngờ như những người bị thiệt mạng trong cuộc khủng bố ở Paris. Tin Mừng thánh Gioan quả quyết rằng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” Vì thế, nếu chúng ta muốn được cứu thoát khỏi cảnh “tủi nhục muôn đời” thì chúng ta phải tin vào Chúa Giêsu Ki-tô Con của Thiên Chúa, và sống giáo huấn của Chúa dạy.
Chúng ta hãy nhớ cuộc sống ở trần gian là một cuộc lữ hành, là một cuộc hành trình về nhà Cha trên Trời. Chúng ta đang sống giữa trần gian như một bông hoa sớm nở, trưa héo, chiều tàn, nghĩa là, cuộc đời chúng ta ngắn ngủi và mong manh. Hơn nữa, giờ chết của chúng ta cũng như ngày tận thế, chúng ta hoàn toàn không biết. Vì thế là những Kitô hữu, chúng hãy lắng nghe Lời Chúa báo trước, và sống thế nào để đừng bao giờ sự chết đến với chúng ta trong tình trạng đáng tiếc và đáng hội hận. Trái lại, chúng ta sống như thế nào để làm sáng danh Chúa và để kết thúc cuộc đời một cách tốt đẹp. Xin Chúa giúp chúng ta nhận những sự kiện chung quanh, để chúng ta chú ý đến cuộc sống đức tin, luôn trung thành với Chúa, và sửa soạn cho ơn cứu rỗi, cũng như đời sống vĩnh cửu của chính mình. Hôm nay chúng ta còn thời giờ để sửa soạn và giúp người khác được, nhưng đến ngày và thời điểm sau cùng đó, chúng ta sẽ không còn thời giờ và cơ hội. Chúng ta phải luôn ý thức rằng, Chúa không muốn chúng ta sống trong lo âu, sợ hãi, nhưng muốn chúng ta sống trong bình an, tin tưởng và hy vọng.
(24) Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, (25) Các ngôi sao từ trời sa xuống, và quyền lực trên trời bị lay chuyển. (26) Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. (27) Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời. (28) Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. khi cành nó mềm ra và trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. (29) Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi”. (30) Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. (31) Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. (32) Còn về ngày hay giờ thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay Người Con cũng không. Chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giêsu” (x. Mc 13,1-37). Bằng TN 33-C78
Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giêsu” (x. Mc 13,1-37). Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giêsu nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa” tức là ngày tận thế. Khi đó sẽ có những cơn bách hại xảy ra, trời đất cũ sẽ bị rung chuyển và biến đổi thành “Trời Mới Đất Mới” (x Kh 21,1), trước khi Con Người đến trong đám mây.
CHÚ THÍCH:
– C 24-25: + Trong những ngày đó: Ngày nói đây là ngày Đền Thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ bị tàn phá bình địa. + sau cơn gian nan ấy: Cơn gian nan như một điềm báo trước về Ngày Tận Thế.
+ Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển: Những hình ảnh trong các sách Cựu Ước này nói về “Ngày của Đức Giavê”. Ở đây các hình ảnh này nhằm đề cao sự uy nghiêm của Đức Kitô trong Ngày Tận Thế: bấy giờ các tầng trời sẽ bị rung chuyển, công trình sáng tạo xưa kia sẽ biến mất và một Trời Đất Mới sẽ xuất hiện.
– C 26-27:
+ Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến: Con Người là hình ảnh một nhân vật trong sách Đanien, trổi vượt hơn hình ảnh “Đấng Mê-si-a Con Vua Đavít”. Ngài đến trong đám mây trời, tiến lên trước toà Thiên Chúa và nhận lãnh một vương quyền phổ quát (x Đn 7,13). Trong các sách Tin Mừng, Đức Giêsu đã xưng mình là Con Người tới 70 lần (x. Mt 8,20; Ga 3,13…): Người tự xưng là Con Người với 2 ý nghĩa. Một là Người Tôi Tớ của Đức Giavê: “Tôi, Người Tôi Tớ bị loại bỏ, bị giết chết nhưng sẽ được tôn vinh và sẽ cứu độ muôn người” (x. Mc 8,31). Hai là Chúa Con, được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Tv 110,1) và đến ngày tận thế, sẽ lại đến (x. Đn 7,13).
+ “Đến trong đám mây”: Mây không phải là một phương tiện di chuyển, nhưng chỉ là một biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 13,21; Mt 17,5)
+ Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: Từ khắp nơi, Đấng Kitô sẽ ra lệnh cho các thiên thần qui tụ tất cả những người lành thánh được tuyển chọn tập trung lại.
– C 28-29:
+ Lấy thí dụ cây vả… khi thấy những điều đó xảy ra: Các ngôn sứ thường dùng hình ảnh mùa hè và mùa gặt để diễn tả ngày cánh chung hay ngày tận thế. Ở đây Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả báo trước mùa hè sắp tới, để ám chỉ về ngày cùng tận của Đền Thờ Giêrusalem là hình ảnh tiên báo về ngày tận thế (x Mc 13,4-19).
– C 30-31:
+ Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra: Việc tàn phá Đền Thờ Giêrusalem xảy ra vào năm 70, là thời điểm những ai nghe lời Đức Giêsu giảng vẫn còn sống và chứng kiến những điều Người tiên báo được ứng nghiệm.
+ Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu: Vũ trụ vật chất sẽ có ngày tan biến (x Is 24,19.23), nhưng Lời Đức Giêsu sẽ luôn tồn tại nhờ quyền năng của Thiên Chúa. – C 32:
+ Về Ngày Giờ đó: câu này nói về ngày tận thế sẽ xảy ra.
+ chỉ có Chúa Cha biết mà thôi: Ngày Giờ cánh chung hay tận thế thuộc quyền Chúa Cha định liệu. Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa (x. Pl 2,6), với tư cách là Ngôi Lời, đồng bản tính vơi Chúa Cha nên dĩ nhiên Người biết mọi sự giống như Chúa Cha. Nhưng với tư cách là Đấng Thiên Sai (x. Pl 2,8), Người “nên giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ không có tội” (x. Gl 4,4), nên Người không biết được Ngày Giờ ấy, hầu mọi người phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chuẩn bị cho ngày ấy (x. Mc 13,33).
CÂU HỎI:
1) Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã tự xưng là “Con Người” mấy lần? Đức Giêsu muốn mặc khải mình là ai khi tự xưng mình là Con Người?
2) “Con Người ngự trong đám mây mà đến”: Phải chăng đám mây là phương tiện Đức Giêsu dùng để di chưyển?
3) Đức Giêsu có biết rõ ngày cùng tận của thế giới là ngày nào không? Tại sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến (Mc 14,26).
CÂU CHUYỆN:
1) DỌN MÌNH CHẾT LÀNH:
Khi Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình của ngài, nhưng ngài biết mình khó sống thêm nên thường nói với những người chung quanh: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Đến ngày cuối cùng khi giờ chết sắp đến, thư ký riêng tới bên giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài cảm thấy trong mình thế nào. Đức Gioan trả lời: – Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.
Vị thư ký nói: – Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…
Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi: – Họ nói với con thế nào?
Vị linh mục nghẹn ngào nói: – Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha về Thiên đàng.
Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói:
– Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.
Phải có một niềm tin vững mạnh, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời.
2) TRÁNH NGHE NHỮNG TIN ĐỒN NHẢM VỀ NGÀY TẬN THẾ:
Vào cuối năm 1992, hàng chục ngàn tín đồ của một giáo phái tại Hàn quốc đã tụ tập nhau trong hơn 150 nhà thờ để đón chờ ngày tận thế, đón Đức Giêsu tái lâm trong vinh quang để phán xét chung. Theo những người lãnh đạo của giáo phái này thì chính xác ngày tận thế là vào lúc nửa đêm ngày 28/10/1992. Các tín đồ của giáo phái trương lên biểu ngữ: ”Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”. Đồng thời hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc cũng được đặt trong tình trạng báo động cao trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu ngày tận thế không xẩy ra. Bởi vì, rất nhiều người do quá tin tưởng đã bán hết nhà cửa và phát tán mọi tài sản gia đình… để chuẩn bị cho ngày tận thế này. Nhưng cuối cùng ngày tận thế đã không xẩy ra, nên sau đó giáo phái này đã tự giải thể.
Đây chỉ là một trong nhiều tiên báo không chính xác về ngày tận thế trên thế giới. Sở dĩ người ta đóan sai là do đã hiểu lời Chúa cách lệch lạc và không đúng theo ý Chúa Giêsu dạy. Đối với các tín hữu chúng ta: nhân dịp cuối năm phụng vụ, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta ý thức về ngày tận thế chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không xác định cụ thể ngày giờ. Việc đề cập đến ngày này nhằm giúp chúng ta canh tân đời sống và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến viếng thăm trong giờ chết của mỗi người.
THẢO LUẬN:
1)Bạn hiểu thế nào về ngày tận thế? 2)Chết là gì? 3)Bạn làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến trong giờ chết mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai?
SUY NIỆM:
1) Ngày tận thế chắc chắn sẽ đến:
Tin mừng Máccô hôm nay nói về ngày tận thế: Hôm ấy các môn đồ chỉ cho Đức Giêsu thấy cảnh huy hoàng của Ðền Thờ khi được ánh sáng mặt trời chiếu vào! Nhưng Đức Giêsu đã tiên báo cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và Đền Thờ sẽ bị phá hủy không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, vì dân Giêrusalem đã từ chối đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm.
Ðức Giêsu đã dùng những hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung trong các sách ngôn sứ để diễn tả cảnh tàn phá của Giêrusalem. Từ đó, Người đề cập đến ngày cùng tận của thế giới. Nhưng lời của Đức Giêsu được các thánh sử ghi lại sau khi Ðền Thờ đã bị sụp đổ và Hội Thánh bị bách hại khắp nơi. Qua Lời Chúa hôm nay, Máccô muốn trình bày các điều sau: Một là các hiện tượng trời đất như mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay chuyển… là điềm báo Chúa đến trong ngày tận thế. Hai là mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống… cho thấy vũ trụ này sẽ quay trở lại lúc khởi nguyên hỗn mang khi chưa có ánh sáng. Và như thế, ngày tận thế là lúc vũ trụ sẽ biến mất để cho “trời mới và đất mới” xuất hiện. Ba là người ta sẽ thấy “Con Người đến trong đám mây”. Con Người chính là Ðức Giêsu Cứu thế. Hình ảnh mây trời nhấn mạnh tính cách “hiển linh” của việc Người đến. Và như vậy “ngày của Chúa” sẽ trở thành ngày của Thiên Chúa đến “trong” và “nhờ” Con Người là Đức Giêsu. Bốn là Vua Kitô sẽ sai các thiên thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, để đưa họ vào hưởng vinh quang của Người trên trời.
2) khi nào điều ấy xảy ra?
Đây là thắc mắc của mọi thế hệ loài người. Theo Tin mừng Máccô: Ðức Giêsu dạy các môn đệ phải tiên liệu: Khi thấy các điềm kia xảy ra, thì hãy biết rằng “Con Người đã đến gần bên cửa” (x Mc 13: 28-29).
Các điềm báo về ngày tận thế như: Mùa hè ám chỉ thời kỳ tận thế, các chi tiết khác như: Ðền thờ bị tàn phá, chiến tranh lọan lạc, các Kitô giả xuất hiện, niềm tin trở nên nguội lạnh, các tầng trời bị lay chuyển v.v… cho thấy tính không bền vững của vũ trụ vật chất.
Nghe lời Chúa hôm nay, nhiều người đã lầm tưởng ngày tận thế sắp đến. Nhưng ngay sau đó Đức Giêsu đã khẳng định: “Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được… cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha” (Mc 13,32).
Thực ra, với bản tính Thiên Chúa, Đức Giêsu ngang hàng với Chúa Cha, nên cũng biết rõ ngày tận thế. Nhưng với bản tính lòai người thì cũng như chúng ta, Người không biết rõ đó là ngày nào.
3) Chúng ta phải làm gì?
– Không nên hỏang sợ nhưng hãy hy vọng chờ đón Chúa đến:
Đức Giêsu báo trước sẽ có ngày tận thế, nhưng lại dạy môn đệ không nên hoảng sợ. Người đến để phán xét mọi người, nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2 Tm 4,8), thì Người sẽ là Đấng Cứu Độ và là vinh quang của họ: ”Người sẽ sai các thiên thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đức Giêsu Kitô” (Tt 2,13). Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ đúng đắn nhất của các môn đệ là: ”tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, trong niềm mong chờ, vì Chúa sẽ đến bất ngờ như Người đã nói: ”Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
– Chuẩn bị cho giờ chết của mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai:
Người Kitô hữu chỉ có thể “đứng vững trước mặt Con Người” khi biết thanh luyện tội lỗi, tránh xa sự dữ và các thói hư, nhất là thói ích kỷ, tham lam…, và góp phần xây dựng một thế giới mới yêu thương, trong đó mọi người luôn quan tâm, cảm thông và chia sẻ phục vụ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cho gia đình, cộng đòan và môi trường sống ngày một tốt đẹp hơn.
– Cần ý thức tính tập thể của ơn cứu độ:
Đường về trời không dành riêng cho từng người, nhưng là con đường chung cho hết mọi người. Trong ngày phán xét, Đức Kitô sẽ tái lâm xét xử nhân lọai dựa trên tiêu chuẩn thực thi bác ái chia sẻ và phục vụ tha nhân. Ai sống trong yêu thương, người đó sẽ được sống lại và hưởng hạnh phúc trường sinh, còn kẻ “ghét anh em chính là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15) cũng sống lại để chịu hình phạt “khóc lóc và nghiến răng” (x Mt 25,31-46). Còn “Ai làm cho người ta nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”(Đn 12,3).
– Maranatha: Lạy Chúa Kitô, xin hãy đến:
Các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai đã mong ước ngày trở lại của Chúa qua lời cầu nguyện: “Maranatha – Lay Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20). Trong Thánh lễ, sau khi truyền phép, các tín hữu chúng ta cũng dâng lời xin: ”Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Mỗi tín hữu chúng ta cần năng hồi tâm sám hối và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến bằng việc làm các việc bác ái chia sẻ phục vụ cho tha nhân nhằm “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”, kèm theo một lời nguyện như sau: “Lạy Chúa Kitô, xin hãy đến“.
LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một quả tim mới và một thần trí mới để chúng con sẵn sàng góp phần xây dựng Hội Thánh và phục vụ Chúa trong mọi người chung quanh ngay từ hôm nay. Xin cho chúng con sẵn lòng chấp nhận các đau khổ trái ý xảy đến để thành tâm sám hối tội lỗi, khử trừ thói hư và tích cực góp phần làm cho gia đình, cộng đòan, xã hội… trở nên công bình yêu thương và bình an hoan lạc hơn, hầu đón chờ Chúa sẽ tái lâm và biến trần gian trở thành một “Trời Mới Đất Mới” vào ngày tận thế.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ)XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Con người sinh ra để làm gì ? Lúc nào con người chết ? Bao giờ là ngày cùng cận của thế giới TN 33-C79
Con người sinh ra để làm gì ? Lúc nào con người chết ? Bao giờ là ngày cùng cận của thế giới ? Vâng, những vấn nạn này đã được nhiều người đặt ra từ xưa đến giờ! Nhưng tất cả đều không giải đáp được những vấn nạn này ! Tại sao và tại sao ? Tin Mừng của thánh Máccô, hôm nay Chúa Giêsu quả quyết:” Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên Sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi “ ( Mc 13, 32 ).
Vâng, các nhà bác học, các nhà nghiên cứu đã đưa ra biết bao giả thiết, đưa ra biết bao cuộc thí nghiệm, cuối cùng tất cả đều bó tay. Con người không thể tìm được giải đáp cho giờ chết, ngày chết và ngày tận thế, ngày cuối cùng của thế giới này ! Đã có nhiều tin đồn về ngày tận thế của nhiều giáo phái.Đã có nhiều lời đe dọa của những tiên tri giả, của những đạo giáo, phe nhóm quá khích cho rằng ngày tận thế sắp đến:” Hãy ăn chơi, đừng làm gì nữa “. Chúng ta đừng nhẹ dạ tin theo những lời đồn thổi, dọa nạt nhảm nhí đó ! Thánh Augustinô đã nói cách dứt khoát:” Đức Giêsu không cho ta biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người “. Nên, chúng ta hãy ý thức thân phận mỏng giòn của ta:” Chúng ta rất yếu đuối, mong manh như cậy sậy phớt phơ trước gió, như bong bóng sà phòng trước bầu trời rộng “. Do đó, thái độ của chúng ta là tỉnh thức và cầu nguyện, sẵn sàng chờ đón Chúa đến một cách bất ngờ, đột xuất. Đức Thánh Cha Phanxicô nhiều lần cũng đã đề cập tới ngày tận thế. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói:” Khi cảm thấy cấp thiết phải kiểm tra lá số tử vi của mình, bạn hãy chuyển ánh mắt vào Chúa Giêsu”.Ngài giải thích:” Sẽ có một ngày mà ta đối diện với Thiên Chúa “. Ngài nói rằng điều quan trọng không phải là biết khi nào hoặc làm thế nào thời cánh chung sẽ đến, nhưng tốt hơn là ‘ chính chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng ‘. Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh:” Chúa Giêsu chính là “ điểm đến của cuộc lữ hành trên đường dương thế của chúng ta “, nhưng Người cũng là sự hiện diện liên lỉ trong cuộc sống của chúng ta “…
“ Chúa nhắc chúng ta là mọi thứ rồi cũng qua đi.Chỉ Lời Người mới là ánh sáng soi dẫn vững chắc cho hành trình của chúng ta “.
Loài người và chúng ta không biết ngày nào Chúa gọi chúng ta, không biết ngày nào Người đến trong vinh quang, nhưng có một điều chắc chắn để được vào Vương quốc Thiên Chúa, chúng ta phải xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Chúng ta phải nỗ lực kiến tạo hòa bình,khát khao tìm kiếm nước Thiên Chúa vì nước của Ngài là nước tình yêu.Nên, chí có những ai biết sống đức ái, biết sống ngôn ngữ tình yêu mới được vào nước của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống Lời của Người để chính ánh sáng Lời của Chúa sẽ soi đường chỉ lối cho chúng con đi.Xin cho chúng con biết sống yêu thương để những người gặp chúng con cũng nhận ra Chúa đang hiện diện trong chúng con.Xin cho chúng con biết tác tạo hòa bình vì chỉ có những ai yêu chuộng hòa bình mới được nhìn xem Thiên Chúa. Xin cho chúng con đôi mắt sáng đức tin để chúng con nhận ra Chúa nơi anh em đồng loại.Xin cho chúng con đôi tai để chúng nghe được lời yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con miệng lưỡi để chúng con biết nói lời yêu thương của Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ngày tận thế là ngày nào ? 2.Ai nắm giữ bí mật của ngày tận thế ? 3.Chúa Giêsu có mạc khải ngày tận thế không ? 4.Chắc có ngày tận thế không ? 5.Ngôn ngữ của Thiên đàng là ngôn ngữ nào ?
Ngày Chúa quang lâm là ngày không còn mặt trời, mặt trăng, chính Chúa là ánh sáng muôn ngàn TN 33-C80
Ngày Chúa quang lâm là ngày không còn mặt trời, mặt trăng, chính Chúa là ánh sáng muôn ngàn đời soi chiếu. Ngày ấy cũng bắt đầu từ hôm nay và cũng chờ đợi ngày sau hết. Sẵn sàng là thái độ khôn ngoan để sống bình an và hạnh phúc.
Ngự trên đám mây.
Thông thường đám mây xuất hiện báo hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa. Lúc thần hiện trên núi Sinai (Xh 19, 16). Khi thì từ đám mấy có tiếng của Thiên Chúa phán (Mt 17, 5).
Mây mang mưa tới, đó là dấu chỉ của mùa sản sinh, mùa sinh ơn phúc trong ngày Chúa ngự đến. Các tầng mây báo hiệu dồi dào ân phúc của Thiên Chúa. Những ngày còn lữ hành đám mây che nắng dẫn đường (Xh 40, 36 38). Sự hiện diện của Thiên Chúa bảo đảm cho cuộc xuất hành cũng là hành trình trần thế được Người thương giữ gìn.
Đám mây còn báo hiệu của ngày biến đổi, do quyền năng Thiên Chúa thực hiện. Những người được lựa chọn vào Nước Chúa, họ sẽ được biến đổi hoàn toàn trong ngày Chúa ngự đến. Như ngày Chúa biến hình trên núi đám mây bao phủ (Mt 17, 1 – 8). Trong những ngày hiện tại sống trên trần gian, con người cũng được biến đổi nhờ được kết hiệp trong Chúa Kitô. Và cũng nhờ Chúa Thánh Thần phủ bóng ân sủng làm cho con người được biến đổi, như ngày truyền tin cho Mẹ maria cho thấy việc đó (Lc1, 35)
Ánh sáng không bao giờ lịm tắt (Exsultet)
“Ánh sáng ban ngày của ngươi không còn là mặt trời nữa, và ban đêm, ngươi chẳng cần đến ánh trăng soi: Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu chiếu soi ngươi, ánh quang huy của ngươi là Thiên Chúa ngươi thờ.” (Is 60, 19)
Ánh sáng chân lý xua tan mọi sai lầm và nghi ngờ. Chỉ còn xác tín vào điều chân thật một cách chắc chắn. Ngày của Chúa xóa tan hết những u mê tâm trí, Đấng làm cho con người sáng suốt nhận ra Người hiện diện “Ngài quả là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng.” (Tv 36, 10)
Thánh Gioan giới thiệu về ánh sáng ban sự sống “ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.” (Ga 1, 4). Sự sáng Chúa Giê su nói chính là Ngài, bao lâu còn sống trên dương gian này còn cần đến ánh sáng và cũng là đón nhận chính Ngài: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” (Ga 9, 4 -5)
Ánh sáng và bóng tối, hướng theo chủ đề luân lý, là con cái sự sáng và bóng tối luôn chen lẫn vào, nếu thiếu hay không có ánh sáng. Một thế gian luôn thù nghịch với Thiên Chúa, nên khi có Chúa ở cùng bóng tối thế gian không thể làm gì được, “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8, 12)
Ánh sáng muôn ngàn đời là chính Chúa sẽ trị vì. Là con cái sự sáng hãy tỉnh thức và cầu nguyện để chính Chúa luôn là ánh sáng soi đường dẫn đến sự sống. Ngày của Con Người sẽ đến và những người theo ánh sáng của Chúa sẽ cùng theo Người vào tham dự vào sự sống đời đời.
Dụ ngôn Nước Chúa kể rằng: Người gieo giống tốt, ruộng bằng phì nhiêu. Chăm nom săn sóc TN 33-C81
Dụ ngôn Nước Chúa kể rằng: Người gieo giống tốt, ruộng bằng phì nhiêu. Chăm nom săn sóc sáng chiều, Trong khi đêm ngủ, ra chiêu phá vùng. Kẻ thù gieo vãi cỏ lùng, Chen vào phá hoại, rục tùng phí công. Cỏ lùng giữa lúa mênh mông, Lúa thơm kết hạt, trổ bông cỏ lùng. Bằng lòng đầy tớ đi cùng, Ra đồng nhổ cỏ, đem nung đốt lò. Chủ rằng đợi đó đừng lo, Tới mùa thợ gặt, thu kho lúa vàng. Cỏ lùng gom lại bó ngang, Đốt đi từng bó, dễ dàng hủy tiêu. Con người tốt xấu bao nhiêu, Tới ngày phán xét, thiên triều thẳng ngay.
Nước Trời dưới thế bao gồm cả người tốt lẫn kẻ xấu. Mọi người cùng chung sống với nhau. Giống như cỏ lùng được gieo vào giữa ruộng lúa. Cả hai cứ tiếp tục mọc lên cho đến khi sinh bông hạt. Tới mùa thu hoạch, ông chủ sẽ thu góp cỏ lùng lại và đem đốt đi. Hình ảnh Nước Trời nơi trần gian cũng tương tự như thế. Nước Trời còn gọi là Hội Thánh, không phải tất cả mọi người trong Hội là thánh cả đâu. Chúng ta tuyên xưng Giáo Hội thánh thiện là vì có Chúa Kitô là đầu nhiệm thể, Ngài chính là Đấng Thánh.
Chúa mời gọi mọi người gia nhập vào Nước Chúa. Nước Chúa bao gồm cả người thánh thiện lẫn các tội nhân. Cuộc lữ hành trần thế là một cuộc tôi luyện. Không ai sinh ra đã là thánh. Chúng ta phải trở nên thánh mỗi ngày. Chúa ban đủ ơn và tạo điều kiện cho mỗi người được nên tốt lành và thánh thiện. Chúa không ép buộc nhưng Chúa mời gọi chúng ta hãy nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời.
Truyện kể có một ông chủ giầu có đến thăm một làng quê nghèo. Ông muốn chia xẻ tài sản cho người nghèo để giúp họ có vốn làm ăn. Nhiều người nghe thế, vội vã đến xin giúp đỡ. Họ nghĩ ông chủ qúa tốt bụng và độ lượng. Nhưng có một số người khác tính toán kỹ hơn tự hỏi: Tại sao ông ta rộng lượng như thế? Chắc ông ta có ý đồ lợi dụng điều gì đây? Họ đã chối từ sự giúp đỡ. Ông chủ ra đi, những người nhận phần vốn đã sinh hoa lợi và làm lại cuộc đời. Còn những người cố hữu trong tư tưởng nghi ngờ. Họ vẫn chịu cảnh nghèo nàn và vất vả hằng ngày.
Chúa là Cha nhân hậu và quảng đại vô cùng. Chúa đã trao ban cho chúng ta biết bao hồng ân. Chúng ta được sinh ra làm người và rồi được sinh lại làm con của Chúa. Chúng ta được gia nhập vào Nước Chúa và có quyền làm con Chúa. Chúa trao ban cho chúng ta có khả năng, có trí khôn và có linh hồn. Chúng ta phải làm gì để đáp lại lòng yêu thương vô bờ của Chúa. Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta nghĩ rằng tất cả những gì chúng ta có, đều là do công lao khó nhọc của chúng ta.
Nước Trời như hạt giống gieo xuống sinh nhiều hoa trái. Hạt giống mà chúng ta đã lãnh nhận cho dù có nhỏ bé đều là ân sủng được trao ban. Không có gì nhưng không hay tự nhiên mà có. Tất cả đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta đã nhận lãnh hạt giống ân sủng, chúng ta có bổn phận làm sinh hoa kết trái yêu thương.
Đời thế tạm sẽ vào hồi kết thúc. Cõi trường sinh rồi đến lúc khởi đầu. Đời sống xã hội luôn có TN 33-C82
Đời thế tạm sẽ vào hồi kết thúc Cõi trường sinh rồi đến lúc khởi đầu
Đời sống xã hội luôn có nhiều dạng khủng hoảng: kinh tế, văn hóa, xã hội, tài chính, chính trị, tâm lý, hôn nhân, gia đình,… Lĩnh vực nào cũng có thể bị khủng hoảng – kể cả tôn giáo.
Nhưng có một dạng khủng hoảng đáng quan ngại nhất liên quan thời gian: Tận Thế. Thời gian vừa chậm vừa nhanh, tùy cảm xúc mỗi người, nhưng người ta vẫn cảm thấy “thời gian thấm thoát”. Thật vậy, mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm – cả năm đời và năm phụng vụ. Thời gian vào giai đoạn cuối. Thời điểm cuối gợi nhiều suy tư. Có nhiều cái cuối, đặc biệt nhất là cuối đời và cuối thời – Công giáo gọi là Thời Cánh Chung. Chúng ta đang ở trong thời này.
Có lẽ hai từ “tận thế” chẳng ai muốn nhắc tới hoặc nghe người khác đề cập, bởi vì nó khiến người ta e ngại hoặc không vui. Tuy nhiên, tận thế chắc chắn vẫn sẽ đến – có thể là niềm mong chờ của người này, nhưng có thể lại là nỗi sợ hãi của người khác. Sự thật đúng là phũ phàng quá!
Nhưng sự thật mãi mãi là sự thật, bởi vì Thiên Chúa là Sự Thật. Thời gian là của Chúa, nhưng Ngài ban cho mỗi người được quyền quản lý quỹ thời gian riêng mình. Ngôn sứ Daniel nói: “Thời đó, Micael sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là THỜI NGẶT NGHÈO CHƯA TỪNG THẤY, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai ĐƯỢC GHI TÊN trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Ðn 12:1a). Đó là những lời tiên báo về ngày tận cùng của thế gian, đặc biệt ông cho biết đó là “thời ngặt nghèo nhất”, chắc chắn rất đáng quan ngại, thậm chí là sợ hãi, nhưng lại không hề đáng sợ đối với những người thuộc về Thiên Chúa, vì họ có tên trong sách của Chúa – nghĩa là họ sẽ được tai qua nạn khỏi.
Có thể vẫn có gì đó khó hiểu đối với một số người, thế nên ngôn sứ Daniel đã giải thích: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy”. Những người “an nghỉ trong bụi đất” là những người chết, vậy mà họ “trỗi dậy” – tức là hồi sinh, sống lại. Rõ ràng đó là ngày tận thế, ngày chung thẩm. Nhưng số phận mỗi người lại không giống nhau: “Người thì để HƯỞNG phúc trường sinh, kẻ thì để CHỊU ô nhục và BỊ ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Ðn 12:1b-2). Cùng một ngày, cùng được sống lại, nhưng có kẻ thấy hốt hoảng sợ hãi và có người thấy vui mừng hớn hở.
Như đại diện những người thuộc về Chúa, Thánh Vịnh gia thân thưa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tất cả đều là của Chúa, nhưng Ngài trao quyền quản lý cho chúng ta. Nếu nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta hoàn toàn an tâm: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:8-9). Ôi, thế thì hạnh phúc biết bao!
Cái gì cũng có hệ lụy tất yếu, có kết quả thì ắt có nguyên nhân, có kết thúc ắt có khởi đầu, có sau thì phải có trước, có cuối thì cũng phải có đầu. Về nguyên nhân, Thánh Vịnh gia xác định: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10), đồng thời hoàn toàn khiêm nhường và tín thác vào Chúa: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11). Chắc hẳn phàm nhân không đủ ngôn từ để diễn tả niềm hoan lạc được cận kề bên Thiên Chúa – Đấng là Đầu và là Cuối (Kh 1:17), là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22:13).
Nói về việc tế lễ, phụng vụ, Thánh Phaolô cho biết: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi” (Dt 10:11). Tế lễ là bổn phận và trách nhiệm hằng ngày của các tư tế, không chỉ dâng lễ đền tội cho mình mà còn dâng thay người khác, nhưng dù dâng bao nhiêu lần vẫn không bao giờ đủ mức độ hoàn hảo. Nhưng có một tư tế chỉ cần dâng một lần cũng đủ, đó là Đức Kitô: “Sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Ngài đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10:12). Chính Ngài và chỉ có Ngài là Đấng cứu độ nhân loại.
Thật vậy, bởi vì Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thượng tế, là Đấng cao cả hơn mọi loài: “Từ khi đó, Ngài chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” (Dt 10:13), và “Ngài chỉ dâng hiến lễ MỘT LẦN, mà VĨNH VIỄN làm cho những kẻ Ngài đã thánh hoá được NÊN HOÀN HẢO” (Dt 10:14). Dù là ai và là gì thì tất cả chúng ta vẫn chỉ là những tội nhân, không hơn không kém. Nhưng chúng ta diễm phúc được cứu độ, chiếc áo tội lỗi của chúng ta được “giặt sạch” bằng chính Bửu Huyết của Đức Kitô. Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì đâu cần lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).
Có mở thì cũng có kết, có khai sinh thì cũng có khai tử, có thuở tạo thiên lập địa thì cũng có lúc niên tận thế cùng. Đề cập ngày Con Người quang lâm, Chúa Giêsu cho biết các dấu chỉ: “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:24-25). Thế là giờ G đã đến. Đó là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). Và cũng chính lúc đó, “Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27). Thật lạ, ai cũng phải trình diện, Satan cũng chẳng thoát, điều này đã được thông báo từ ngàn xưa: “Một ngày kia, con cái Thiên Chúa đến TRÌNH DIỆN Đức Chúa; Satan cũng đến trong đám họ để TRÌNH DIỆN Đức Chúa” (Gióp 2:1).
Nếu chú ý, chúng ta có thể đoán biết điều gì xảy ra khi thấy những sự việc tiếp diễn hằng ngày. Ngày tận thế cũng có những dấu chỉ khả dĩ nhận biết, Đức Kitô dùng hình ảnh thực tế hơn để mọi người đều có thể hiểu: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:28-29). Cuối cùng, Ngài quả quyết: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Tức là rất chắc chắn xảy ra ngày tận thế, không hề là chuyện đùa hoặc bịa đặt chi cả!
Thế nhưng hình như loài người vẫn bán tín bán nghi. Bằng chứng là đã từng có nhiều tin đồn về ngày nọ hay tháng kia là thời điểm tận thế, về chuyện “tối ba ngày, ba đêm”,… Vì vậy, người ta lo tích lũy vật chất (nến, dầu, mì gói,…) để “đối phó”. Chao ôi! Thật là ấu trĩ, nhảm nhí và dị đoan, chứng tỏ họ chẳng biết hoặc chẳng tin điều Chúa Giêsu đã nói. Mơ hồ hay cứng lòng? Chính Chúa Giêsu đã nghiêm túc minh định: “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, CHỈ CÓ CHÚA CHA BIẾT MÀ THÔI” (Mc 13:32). Tỉnh cơn mộng ảo đi, đừng ngủ gà ngủ gật nữa!
Tại sao người ta vẫn bịa đặt và phát tán những tin đồn nhảm nhí? Càng tệ hại hơn là vẫn có những người nhẹ dạ cả tin khi nghe những lời “tiên tri dỏm” ấy. Chúa Giêsu còn chưa biết thì làm sao những con người phàm phu tục tử đầy tội lỗi như chúng ta lại biết trước? Không lo sống tốt mà cứ lo chuyện nhảm hết trên trời lại dưới đất là sao? Quá vô lý vì đức tin ấu trĩ và không thèm tin lời Chúa nói. Khôn hay Khốn?
Về Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu, Cựu Ước và Tân Ước nói giống nhau:
MẶT TRỜI SẼ TRỞ NÊN TỐI TĂM, MẶT TRĂNG HOÁ THÀNH MÁU, trước khi NGÀY của ĐỨC CHÚA xuất hiện, ngày vĩ đại, kinh hoàng. (Ge 3:31)
Ngay sau những ngày gian nan ấy, MẶT TRỜI SẼ RA TỐI TĂM, MẶT TRĂNG KHÔNG CÒN CHIẾU SÁNG, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia. (Mt 24:29-31; Mc 13:24-27; Lc 21:25-28)
Rất rõ ràng, rất rạch ròi. Nhưng có những “cái không” rất cần lưu ý: KHÔNG tin nhảm nhí, KHÔNG dị đoan, KHÔNG mê tín, KHÔNG nghe những kẻ bịa chuyện, có thể họ chỉ là những kẻ phá đạo, là tay sai của ma quỷ, chứ họ chẳng “đạo đức” gì đâu. ĐỪNG nhẹ dạ cả tin kẻo đức tin bị rung rinh, lung lay, thậm chí còn có thể bị “bật gốc” luôn đấy!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con chuyên cần tìm hiểu và vững tin vào Lời Chúa, hoàn toàn tín thác vào Con Chúa để có thể đứng vững cho đến lúc Đức Kitô tái lâm. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, và đừng để chúng con bị khủng hoảng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
Tôi còn nhớ vào năm 1994 cha quản xứ của tôi đọc một bài báo nói về ngày tận thế vào ngày 5/5 TN 33-C83
Tôi còn nhớ vào năm 1994 cha quản xứ của tôi đọc một bài báo nói về ngày tận thế vào ngày 5/5 năm đó, và sẽ có tối 3 ngày 3 đêm, nên cha kêu gọi mọi người phải mua đủ nến và mang đến nhà thờ để cha làm phép. Nhưng đợi đến ngày đó, không có gì xảy ra.
Sau đó, có tin đồn tận thế sẽ xảy ra vào năm 2000, nhưng cũng không xảy ra. Gần đây, một tờ báo cho rằng ngày tận thế được xác định theo lịch của người Maya rơi vào ngày 15/5/2015. Những lời đồn đoán này đã gây hoang mang cho biết bao người. Ở Brazil, cảnh sát phải đối phó với nguy cơ tự tử tập thể khi chờ ngày tận thế. Nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tin đồn.
Sự kiện này cho thấy rằng con người thời nào cũng muốn biết những gì sẽ xảy ra tương lai: Có ngày tận thế không? Số phận của chúng ta sẽ ra sao trong và sau ngày đó? Chúng ta tìm được câu trả lời cho những vấn nạn đó từ phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
1. Thế giới và thế hệ này sẽ qua đi
Trước hết, Lời Chúa hôm nay mạc khải cho chúng ta biết rằng: thế giới này sẽ có ngày kết thúc. Thế giới này không vĩnh cữu qua sự quả quyết của Chúa Giêsu: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13,30). Đồng thời Chúa Giêsu loan báo về ngày quang lâm của Người. “Ngày quang lâm” trong tiếng Hy lạp là parusia. Có nghĩa là sự trở lại trần gian lần thứ hai của Chúa Giêsu vào ngày thế mạt.
Nếu lần thứ nhất Chúa Kitô đến với nhân loại trong sự khiêm tốn và thấp hèn của người tôi tớ, thì lần thứ hai Chúa ngự đến trong vinh quang và quyền năng của vị thẩm phán. Người là vị thẩm phán chí công đến để xét xử nhân loại. Người sẽ xét xử chúng ta dựa trên công lý và tình yêu, theo những gì mà chúng ta đã sống trên thế gian.
Bấy giờ số phận của những người công chính sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời, sẽ được chiếu tỏa như những vị sao. Còn những người tội lỗi thì phải chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời (x. Đn 12,3).
Vì thế, “ngày quang lâm” sẽ trở thành ngày của sợ hãi, thất vọng đối với những người tội lỗi vì án phạt đời đời. Nhưng đó là ngày của hy vọng và cứu độ đối với những người công chính; ngày Thiên Chúa hoàn tất cách viên mãn chương trình cứu độ con người; đó là “trời mới đất mới” (Kh 21:1), thời đại của công lý, hạnh phúc và tình yêu ngự trị mãi mãi (x. 2 Cr 5,17).
2. Thời gian và những dấu chỉ cánh chung
Như thế, điều chắc chắn là thế giới này sẽ có ngày kết thúc. Nhưng xảy ra lúc nào? Tin Mừng hôm nay khẳng định: “Về ngày giờ đó thì không ai biết được ngay cả Thiên sứ trên trời, và Người Con cũng không thể biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32). Thánh Augustinô còn xác quyết: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”.
Tuy nhiên, trong Tin Mừng Máccô, Chúa Giêsu loan báo về những dấu chỉ xảy ra để báo trước về ngày đó: 1) Những ngôn sứ giả, những Mêsia giả sẽ phỉnh gạt nhiều người (Mc 13,5-6); 2) Những cuộc bách hại chống lại các môn đệ của Đức Giêsu (Mc 13,9-13); 3) Những tai ương, chiến tranh, động đất, đói kém và những hiện tượng lạ lùng xảy ra (Mc 13,7-8).
Trong khi đó, Tin Mừng Mátthêu chương 24 cho biết thêm 4 dấu chỉ của ngày tận thế, đó là: 1) Tin Mừng về Nước Thiên Chúa được loan báo cho hết mọi người (Mt 24,14); 2) Xuất hiện những tiên tri giả và phản Kitô; 3) Người Do thái trở lại tin nhận Chúa Kitô. 4) Thiên tai xảy ra. Đó là những dấu chỉ tiên báo về ngày thế mạt.
3. Thái độ của chúng ta hôm nay
Như vậy, Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu biết về biến cố cánh chung và ý nghĩa của ngày quang lâm để chúng ta khi sống trong hiện tại nhưng luôn hướng về tương lai, luôn nhớ đến sự phán xét chung, và phần thưởng cũng như hình phạt đời đời cho mỗi người.
Trước sự chắc chắn và bất ngờ của cái chết, của việc Chúa quang lâm, chúng ta được mời gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng một đời sống phục vụ và yêu thương tha nhân. Bởi lẽ, vào ngày xế chiều, Thiên Chúa sẽ phát xét chúng ta dựa vào lòng bác ái của chúng ta đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn chúng ta, để mỗi người biết cải biến mỗi ngày, nhận ra Chúa nơi những dấu chỉ thời đại và nơi anh chị em. Nhờ đó, khi ngày của Chúa đến, chúng con vẫn luôn bình an và hy vọng, vì biết rằng Người sẽ mang lại những gì tốt lành cho những ai yêu mến và phó thác nơi Người. Amen!
Mừng lễ kính Đức Kitô xuống thế lần thứ hai nhắc nhở cho Kitô hữu nhớ món quà hằng sống Đức TN 33-C84
Mừng lễ kính Đức Kitô xuống thế lần thứ hai nhắc nhở cho Kitô hữu nhớ món quà hằng sống Đức Kitô hứa ban cho những ai trung tín trong đức tin. Món quà hiện thực này Đức Kitô hứa ban khi Kitô hữu hoàn thành viên mãn cuộc lữ hành trần thế. Hoàn thành viên mãn khi Kitô hữu sống trung thành với đức tin, giữ trọn lời hứa khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Món quà hằng sống có được không phải do sự khôn ngoan hay cố gắng của con người mà chính là kết quả của đời sống yêu Thiên Chúa, mến tha nhân và thiết tha với lời Đức Kitô giảng dậy. Thánh Mark cho biết món quà hằng sống được trao ban nhưng khi nào được lãnh nhận là điều không ai biết. Bởi không biết ngày giờ được trao ban nên Kitô hữu cần chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đón nhận. Thái độ đón nhận rất khác nhau nơi tâm hồn con người. Có người chuẩn bị hàng ngày đợi đến khi gọi thì đáp lại ngay.
Kẻ khác thì lơ là, lúc sốt sắng, lúc thờ ơ. Họ cần thay đổi lối sống, thái độ sống đón nhận Lời Chúa với tất cả tâm tình, nếu không sẽ gặp rắc rối khi giờ chết ập đến. Kẻ khác đã không đón nhận còn chối bỏ món quà hằng sống. Bởi từ chối đón nhận quà hằng sống nên khi thời gian đến họ sống trong kinh hoàng, sợ hãi. Từ chối tin vào lời Đức Kitô khi gặp khốn khó không có nơi nương tựa, đau khổ. Khi biết sự khôn ngoan của con người bị giới hạn, con người không thể giúp hơn được nữa, lúc đó họ không còn lối thoát và sợ hãi xâm chiếm tâm hồn họ, đau khổ đè nén tâm can họ. Thất vọng ào tới tấn công tinh thần. Đau khổ, bất hạnh ào đến tứ phía. Họ phải trả giá rất đắt cho việc từ chối niềm tin. Tin vào Đức Kitô mất rất ít, lợi rất nhiều. Mất vì phải từ bỏ í riêng, mất vì phải tiêu diệt cái tôi. Lợi đầu tiên và quan trọng nhất chính là ơn cứu độ. Khi giờ chết đến có nơi nương tựa, không phải ra đi trong cô đơn nhưng có Đức Kitô đồng hành đó là điều lợi thứ hai. Đến giờ phán xét tránh được sợ hãi ngàn trùng vì có Chúa ở cùng ta, ai hãm hại được. Đó là điều lợi thứ ba. Được mọi người yêu mến khi còn sống đó là điều lợi thứ tư. Hàng năm có cả tháng cầu nguyện cho các linh hồn đó là điều lợi thứ năm. Quan trọng hơn cả là không phải sống mồ côi nhưng có Thiên Chúa là Cha hằng sống, yêu thương, bao bọc.
Bởi không biết ngày giờ phán xét nên Kitô hữu sống tinh thần chuẩn bị đón chào ngày Chúa đến và sống trong hy vọng. Đức Kitô còn cho biết trước khi ngày Chúa xuất hiện sẽ có dấu chỉ, làm rung chuyển tấm lòng con người và cả vũ trụ rên xiết. Cùng dấu chỉ nhưng điều đó gây kinh hoàng cho người không có niềm tin, cũng dấu chỉ đó lại mang lại an ủi, niềm hy vọng cho Kitô hữu vì họ nhận biết ngày giờ Đức Kitô đến đón họ vào thiên quốc. Sợ hãi, kinh hoàng thường đi chung với thần dữ vì thế có thể coi đây là sự vùng vẫy cuối cùng của thần dữ trước khi chúng buông tay đầu hàng để chui vào ngục tối của chúng. Đức Kitô sai thiên thần đón nhận kẻ trung tín trong đức tin và chân thành trong bác ái. Sợ hãi, lo lắng biến mất và Kitô hữu sống trong hào quang chiến thắng huy hoàng của Đức Kitô. Thánh Mark nhắc nhở chúng ta mỗi ngày luôn nhớ đến ơn hằng sống và coi đó là ưu tiên hàng đầu trong ngày. Kitô hữu sống trong hiện tại nhưng hướng về tương lai bởi món quà hằng sống được trao ban nhưng chưa lãnh nhận.
Kitô hữu tin vào sự chết thân xác và sự chết tâm linh. Người ta không thể chứng minh được tình yêu nhưng nhìn vào kết quả tình cảm con người dành cho nhau để nhận biết tình yêu. Qua hành động bác ái, yêu thương và sự hiện hữu của chính mình mà ta nhận biết tình yêu Chúa. Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa tạo dựng nên ta và cuối đời ta thuộc về Chúa bởi Ngài hứa không bỏ chúng ta mồ côi. Kẻ không tin vào Thiên Chúa không có câu trả lời đích thực về đời người. Với họ chết là hết, ngay cả câu trả lời này họ cũng bán tín, bán nghi, không hoàn toàn tin là sự thật.
Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy thì mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng TN 33-C85
Trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy thì mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi và sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
Anh em hãy coi cây vả mà tìm hiểu. Khi cành nó trổ lá thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi những điều đó xẩy ra anh em biết là Người đã đến gần, ngay tại cửa rồi. Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi trước khi mọi điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi đâu.
Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hoặc người Con. Chỉ có Thiên Chúa Cha biết mà thôi (Mc 13:24-32).
***
Câu chuyện trên lấy từ chương 13 Tin Mừng Marco (Mc 13: 24-32) là chương khó nhất và được coi là một tiên đoán về ngày tận thế.
Chương này còn gọi là “Tiểu Khải Huyền”. Như Daniel 7-12 và sách Khải Huyền, trọng điểm của chương này là một thế giới bị truy nã. Chúng ta nên để ý đến ý nghĩa của câu chuyện, không phải thời gian câu chuyện xẩy ra.
Chúa Giesu tiên đoán đền thờ bị phá hủy (Mc 13:2) đã gây hoang mang khiến 4 môn đệ Phero, Giacobe, Gioan và Anre coi là chuyện riêng của Người với thời gian và dấu chỉ cho biết những chuyện xẩy ra vào ngày tận cùng (Mc 13:3-4). Để cho rõ ràng, Chúa đã giảng cho các ông một bài về thời cánh chung trước khi Chúa chịu chết. Đây là những chỉ dẫn, khuyên bảo các ông và Giáo Hội phải tin tưởng và vâng lời khi bị xã hội, người đời kết án, mang ra tòa buộc tội, vu oan và hành hạ. Anh em đừng sợ phải nói gì, làm gì. Chúa Thánh Thần sẽ an ủi và nói thay cho anh em (Mc 13:5-13).
Dấu chỉ là sự xuất hiện những ghê tởm khốc hại của quyền lực La Mã đã xúc phạm đền thánh (Mc 13:14; Dn 9:27). Những biến động đó ở Jerusalem khiến chúng ta tin và hy vong vào Chúa hơn là nghe theo những tiên tri giả để bảo vệ thị trấn (Mc 13:14-23). Thiên Chúa chỉ can thiệp sau khi mọi hủy hoại (Mc 13:24-27) xẩy ra trước ngày tận cùng của thế hệ Kito giáo đầu tiên (Mc 13:28-31).
Không ai ngoài Cha Ta biết chắc ngày đó (Mc 13:32), cho nên phải tỉnh thức (Mc 13:33-37). Luca cho thấy ngày đó sẽ xẩy ra cho đến “thời tận cùng của dân ngoại” (Lc 21:24). Coi thêm Mathieu 24:1-25,46.
CON NGƯỜI
Bài Tin Mừng hôm này dựa vào hai thực tế: Chính chúa Giesu sẽ hoàn thành những lời trong Cựu Ước nói về ngày tận cùng và các môn đệ không lo lắng để ý đến ngày giờ chính xác chúa Giesu giáng lâm lần thứ hai. Câu 26 cho biết chúa Giesu từ trời xuống trong uy quyền vinh quang.
Giống như Con Người trong Daniel, chúa Giesu trong Marco sẽ trở lại và tụ họp những người được Chúa chọn “từ bốn phương, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”(Mc 13:27).Chúa đã không vẽ ra một tương lại sáng ngời cho các môn đệ. Người nói về thời đại lúc bấy giờ, lúc những độc giả đầu tiên của Marco sống và chính chúng ta hiện nay. Chúa nói trước về chiến tranh, động đất, đói kém… ám chỉ “ khởi đầu của những tiếng nổ tan tành, pangs”: những biến cố dấu chỉ đau khổ gần kề của thời đại mới sẽ bùng nổ mà quyền lực cổ xưa đã phấn đấu để nó không xẩy ra.
Chúa Giesu diễn tả cho những người lúc bấy giờ tất cả mọi sự mà chúng ta ngày nay cũng hoảng sợ: nào là chiến tranh tàn phá, truy nã, chết chóc, nào là đau khổ khốn cùng…Chúa dùng những tiên đoán đó làm nền tảng cho hy vọng của chúng ta. Chúa khuyến khích chúng ta cậy trông vào Người! Thiết nghĩ tất cả Kito hữu chúng ta đều cảm thấy an lòng vì Lời Chúa nói: “Khi thấy những điều đó xẩy ra, anh em biết là Người đã đến gần, ở ngay trước ngưỡng cửa rồi. Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi những điều đó xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời thầy sẽ chẳng qua đi đâu.” (Mc 13:29-31)
NHỮNG THỬ THÁCH THỜI CÁNH CHUNG
Những thử thách thời cánh chung sẽ ở nhiều dạng thức. Trước tiên là phản bội. Chúa Giesu đã bị “bội phản”, bị “nộp” cho kẻ thù, kẻ tội lỗi để thử thách. Những người đọc Marco sẽ bị phản bội, bị giải giao cho công tố viên, bị đánh đập trong nhà hội rồi bị gọi ra tòa làm chứng trước các vua quan. Họ sẽ bị bội phản và bị kêt án tử hình không phải do kẻ thù mà do chính cha mẹ, con cái, anh em họ hàng và bạn bè!
Thứ đến, những Kito giả, tiên tri giả sẽ xuất hiện để “lừa phỉnh, khiến người ta đi lạc đường” Chúng hứa hẹn sẽ giải phóng, biểu diễn nhiều trò ảo thuật làm mờ mắt mọi người để họ không còn tin vào Chúa Giesu nữa.
Thứ ba, những thử thách hoặc cám dỗ sẽ xẩy ra cả với những người đang vui hưởng cảnh hòa bình tương đối và vững bền. Chúa Giesu nói về loại thử thách sau cùng này trong câu chuyện dụ ngôn kết thúc chương 13 của Marco nói về một người đi du hành xa nhà, trao cho gia nhân coi sóc mọi sự, dặn phải “tỉnh thức trông nom”. Gia nhân đã gặp nguy khốn vì ngủ quên. Còn trong Mathieu (Mt 13:22) thì chúng bị cảnh giàu sang làm mờ mắt và thế gian dụ dỗ, đã ước mơ những điều mà Chúa Giesu đã cảnh cáo không được làm như trường hợp hạt giống rơi vào bụi gai có mọc mầm đấy nhưng bị nghẹt thở không phát triển được.
Tin Mừng Marco cho biết chúng ta là những kẻ theo Chúa Giesu sẽ bị thử thách. Thử thách bởi đau khổ, tai ương hoặc bởi danh-quyền-lợi cám dỗ dẫn đi lầm đường lạc lối. Ho bị thử thách bởi những mơ ước, ham muốn xác thịt, danh, quyền, tiền. Bất cứ hình thức cám dỗ nào Marco đều nhắc nhở chúng ta phải cẩn thận, tỉnh thức và cầu nguyện, vì nếu không, chúng ta sẽ sa ngã, không sẵn sàng đủ để đón chào ông chủ, Thầy chúng ta, và không thể tự biện hộ trước mặt Chúa ngày Chúa đến.
Khi bị thử thách thì đừng sợ, vì chúa Giesu đã thay đổi trắc nghiệm hoàn toàn. Sức chịu đựng của chúa Giesu rất bền bỉ, chúa đã tự hiến làm của lễ hy sinh toàn hảo cho Thiên Chúa, do đó việc tế lễ trong đền thờ Jerusalem bị hủy bỏ. Từ bấy giờ về sau những “của lễ” thích hợp của những người công chính sẽ là những lời cầu nguyện của những cộng đồng tín hữu khi họ tụ họp lại với nhau, không phải là những của lễ dâng trong đền thánh như hồi xưa nữa. Chính của lễ hy sinh của chúa Giesu đã đủ để hòa giải mọi tội lỗi của loài người. Vì vậy, những ai theo chúa Giesu thì được “cứu thoát” khỏi hình phạt của Thiên Chúa. Họ có thể tin rằng họ đã được cứu rỗi.
CỘNG ĐỒNG CẦU NGUYỆN CHUNG
Marco cho biết sau khi đền thờ bị phá hủy, cộng đồng những người cầu nguyện sẽ là “nhà cầu nguyện cho mọi quốc gia”, là tân đền thờ được chúa Giesu thiết lập. Cầu nguyện riêng / cá nhân sẽ là dấu hiệu của tân cộng đồng này, là đền thờ được xây bằng những đá tảng sống động. Nhưng làm sao Marco và những độc giả của Marco có thể hiểu được ý niệm về “lời cầu nguyện riêng này”? Làm sao chúng ta có thể đọc kinh cầu nguyện theo phương cách đó và hậu quả của lời cầu như vậy sẽ là gì? Chúa Giesu đã hứa là cầu nguyện với lòng tin tưởng mãnh liệt, không hồ nghi thì sẽ được đáp ứng.
Trong lúc đen tối và sầu thảm ở vưởn Gethsemane, chúa Giesu đã thành khẩn xin Thiên Chúa cứu Người thoát khỏi cơn hấp hối đau khổ này. Biết Thiên Chúa Cha có thể cứu giúp, nhưng chúa Giesu vẫn chấp nhận và tuân theo ý của Thiên Chúa Cha. Sức chịu đựng của chúa Giesu, suy nghĩ và cương quyết theo chủ đích của mình vì ý muốn của Thiên Chúa Cha sẽ là khải hoàn vinh quang trong vườn ở chân núi Cây Dầu. Đối với Marco, lời cầu trong vườn Gethsimane chính là mẫu mực cho “các môn đệ cầu nguyện khi bị thử thách.”
TRẮC NGHIỆM THỬ THÁCH
Những biến cố to lớn ghê gớm nào trong đời đã làm lung lay chúng ta? Những thử thách hàng ngày của chúng ta như thế nào? Chúng ta có cảm nghiệm gì về những chối bỏ hay đau khổ, chết chóc hoặc mất mát đã khiến chúng ta buông suôi trước Lời Hằng Sống đã một lần chúng ta chấp nhận? Chúng ta có quá lo lắng để ý đến tiền bạc, thành bại trong công việc và cuộc sống không? Có quá băn khoăn về sức khỏe, việc làm, gia đình và tình bạn bè đến độ quên cả Lời Chúa không? Chúng ta có để cho những giận hờn, lo buồn hay dục vọng ngăn cản chúng ta bước theo Chúa không? Chúng ta có giữ lại được điều gì vui tươi trong cuộc sống của chúng ta không?
Tin Mừng Marco cho thấy khi bị thử thách, chúng ta không phải lặp lại sự trung thành của chúa Giesu bằng sức mạnh mong manh của chúng ta. Chúng ta không phải đối diện với những thử thách của ma quỉ không có quyền hạn như Thiên Chúa. Chúa Giesu thành Nazareth đã thay đổi vĩnh viễn tình trạng của chúng ta rồi. Marco đã viết Tin Mừng để ủy quyền cho những ai tin thì cầu nguyện. Mỗi cá nhân trong cộng đồng Kito hữu đều được ủy quyền để cầu nguyện riêng mà không thể bị trật đường vì sợ hãi, lo lắng, bị truy nã hoặc vì những quyền lực giả dối khi sống ở trần gian. Chúa Giesu đã cứu chuộc tội lỗi loài người và phá hủy những quyền lực cố tình ngăn cách loài người khỏi Thiên Chúa. Do đó tất cả mọi sự đều khả thi khi chúng ta đến với Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện.
NHỮNG HÌNH ẢNH CỦA LỊCH SỬ ƠN CỨU ĐỘ
Chúng ta đừng bao giờ để mất hình ảnh vĩ đại về lịch sử ơn cứu độ khi chúng ta đối diện với những thất bại, gian nan bi thảm trong cuộc sống hàng ngày. Là Kito hữu mỗi ngày chúng ta đều được kêu gọi chống lại những kẻ thù của hy vọng và ưu sầu buồn thảm luôn luôn bám lấy chúng ta. Nỗi ưu sầu tập thể có thể dễ dàng trở thành hoảng sợ quá độ giữa bất cứ một khủng khoảng nào.
Do đó bám chặt vào Lời Chúa là điều rất quan trọng để có thể phác họa một cuộc sống theo Lời và sống với Lời. Từ đó, chúng ta có thể thực hiện những lời tiên tri Daniel (Dn 12:1-3) trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta: “Những kẻ khôn ngoan sẽ sáng chói như ánh sáng bầu trời, và những kẻ dẫn đưa nhiều người về đường công chính sẽ nên như những vì tinh tú tồn tại đến muôn ngàn đời.”
Do đó bám chặt vào Lời Chúa là điều rất quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXIII/TN-B – Mc 13, 24-32) là một trích đoạn “Bài giảng về ngày TN 33-C86
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXXIII/TN-B – Mc 13, 24-32) là một trích đoạn “Bài giảng về ngày cánh chung” của Đức Giê-su Ki-tô. Ngày cánh chung (tận thế) đã được tiên báo từ Cựu Ước: “Thời đó, sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.” (Đn 12, 1-3).
Nếu đọc hết cả “Bài giảng về ngày cánh chung” thì sẽ thấy ngày cuối cùng của trần thế thật là khủng khiếp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính Ta đây!”, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi đầu các cơn đau đớn. Phần anh em, anh em hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ được biết… Anh em sẽ nộp nhau cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.” (Mc 13, 5-13). “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” (Lc 21, 25-26).
Ngày cuối cùng của trần thế là như vậy đó! Và chỉ nghĩ tới thôi cũng đã thấy sợ hãi khôn cùng, chẳng hiểu khi đối diện với sự thật thì sẽ ra sao? Điều đáng lo ngại nhất là thế giới ngày nay đã diễn ra giống như lời tiên báo của Đức Ki-tô, thậm chí còn tệ hại hơn nữa là khác. Sự sa đọa và tội lỗi của nhân loại ngày càng gia tăng. Con người dường như ngày càng mất đi cảm thức về tội lỗi. Người ta chỉ biết quan tâm chạy theo những quyến rũ của vật chất, của quyền lực danh vọng, của thú vui xác thịt… Con người trở nên ích kỷ hơn bao giờ hết. Các tôn giáo có khuynh hướng chỉ chú tâm đến những lễ nghi hay hình thức bên ngoài mà quên đi tinh thần phải có ở bên trong.
Vì thế, khả năng soi sáng và hướng dẫn thế giới của các tôn giáo không mấy hữu hiệu. Giới tăng lữ, tu sĩ bị tục hóa đến nỗi nhiều người chỉ coi tác vụ của mình như một nghề nghiệp sinh nhai. Ấy là chưa kể những “Ki-tô, ngôn sứ, tiên tri giả” nhan nhản khắp nơi. Đó là những điều khiến Đức Giê-su đã đoán trước và lo ngại cho thế giới này: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Đó mới thật sự là nỗi lo sợ của những kẻ thức giả và nói chung là của những người còn tin vào một cõi sống có thực dành cho con người sau ngày tận thế (kẻ lành hưởng phúc, kẻ dữ chịu án phạt đời đời).
Tham sinh uý tử (tham sống sợ chết) là bản chất con người, chuyện đó không có gì đáng trách. Tuy nhiên, chỉ cần đọc tiếp đoạn Tin Mừng trích dẫn trên thì sẽ thấy “sau cơn mưa, trời lại sáng”, sau lúc tối tăm ngặt nghèo là sự chói rạng của bầu trời hy vọng: “Ngay sau những ngày gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia.” (Mt 24, 29-31). Đấng Cứu Độ sẽ tái quang lâm và khi đó chính là lúc cả một bầu trời hy vọng sẽ đến với những kẻ TIN và kiên trì với niềm tin của mình mà vượt qua mọi gian nan, thử thách.
Điều cần thiết là trong những ngày cuối cùng ấy, phải cảnh giác cao độ, kẻo mắc mưu gian của những kẻ “phản Ki-tô” hoặc “Ki-tô giả” (“Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào.” – 2Tx 2, 3). Ấy cũng bởi vì không ít người xưng mình là “con cái”, là “tôi tớ” của Thiên Chúa là Đấng Chân Thật, nhưng lại tin nghe và hùa theo những chuyên gia “lộng giả thành chân” (lấy giả làm thật), tránh né sự thật, đánh bóng, tô hồng cho sự giả trá để biến nó thành “sự thật” với mục đích lôi cuốn những người trẻ lòng non dạ… Họ chính là những kẻ đã bị ngôn sứ I-sai-a vạch trần mưu gian: “Khốn thay những kẻ lấy dây gian tà kéo lầm lỗi, và dùng thừng kéo xe mà lôi theo tội ác… Khốn thay những kẻ bảo cái tốt là xấu, cái xấu là tốt, những kẻ biến tối thành sáng, sáng thành tối, biến cay đắng thành ngọt ngào, ngọt ngào thành cay đắng.” (Is 5, 18-20).
Như vậy thì thái độ ứng xử cần có của Ki-tô hữu phải là tỉnh thức và chờ đợi, hay nói cách khác là hãy nhìn lại mình để thấy được mình đã sống như thế nào và tận dụng ngày cuối cùng của cuộc đời ra sao, để sẵn sàng đón nhận ngày phải đến và sẽ đến – ngày “chung thẩm” cuộc sống trần ai. Thánh Phao-lô đã gửi tín hữu Ê-phê-sô những lời khuyên chí tình chí nghĩa: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep, 15-16). Vâng, “biết tận dụng thời buổi hiện tại” và hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng: Yêu thương gia đình và những người thân cận như thể không còn dịp để yêu thương nữa. Cuối cùng, hãy cầu nguyện như thể mình cầu nguyện lần cuối.
Tóm lại, bất cứ một sự gì trên đời có khởi đầu thì cũng có kết thúc, không có bất cứ một sự gì là miên viễn bất tử cả. Là con người thì ai cũng biết chắc chắn 100% rằng mình sẽ chết. Mà cũng vì thế nên con người cứ mò mẫm tin vào thầy nọ thuốc kia mà đi tìm thần dược trường sinh bất tử. Từ khi con người nhờ hồng ân Thiên Chúa ban, hiện diện trên trái đất này cho tới ngày nay, chưa một ai chứng minh được rằng mình thoát khỏi sự chết, thoát khỏi sự trở về với cát bụi. Con người biết chắc mình đã “sinh ký” (sống gởi) thì sẽ “tử quy” (thác về); nhưng khổ một nỗi là chẳng ai biết chắc được về ngày giờ chết của mình. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, không ai ngờ trước được. Ngày cánh chung cũng vậy (“Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả Người Con cũng không, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.” (Mt 24, 36). Vì thế, cần phải chuẩn bị thật chu đáo ngày diện kiến Ông Chủ để được Người phán dạy: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25, 23).
Thật là phù hợp khi Hội Đồng Giám Mục ấn định ngày bế mạc Năm Thánh “Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam” vào ngày lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đúng vào Chúa nhật XXXIII mà các bài Kinh Thánh đều tập trung trình thuật ngày cánh chung vũ trụ. Xin toàn bộ Ki-tô hữu Việt Nam nhiệt tình hưởng ứng lời mời gọi của Hội Đồng Giám Mục trong Thư Công bố Năm Thánh (số 2): ”Năm Thánh 2018 mời gọi mọi tín hữu chiêm ngắm và học hỏi gương sống đức tin của các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Việc học hỏi này vừa giúp chúng ta hiểu biết hơn về lịch sử Hội Thánh và các Thánh Tử Đạo, vùa thúc đẩy chúng ta noi theo gương sống của các ngài. Chúng tôi khuyến khích các giáo xứ, dòng tu cũng như các đoàn thể, tổ chức những buổi thuyết trình và thảo luận về các Thánh Tử Đạo, để giúp mọi người hiểu biết, yêu mến và noi gương các ngài.”
Ôi! Lạy Chúa! Con ao ước ngày “thẩm định chung cuộc” phải là ngày hạnh phúc nhất của con. Con muốn chuẩn bị bằng cách: ngày nào hay giờ nào con cũng sống như thể ngày đó hay giờ đó là ngày hay giờ cuối cùng cuộc đời trần thế của con, để “biết tận dụng thời buổi hiện tại” như lời dạy của Thánh Phao-lô. Hy vọng với cách đó, con sẽ luôn luôn sẵn sàng trở về với Chúa bất cứ giây phút nào. Ôi! Lạy Chúa! Xin thương xót con, xin giúp con sống thật sự tinh thần chuẩn bị sẵn sàng đó, để “Khi Chúa thương gọi con về, Hồn con hân hoan như trong một giấc mơ. Miệng con nức vui tiếng cười, lưỡi con vang lời ca hát. Ngàn dân tung hô, con thật vinh phúc.” (Kim Long – “Ngày về” – TCCĐ). Amen.
“Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì dể hưởng phúc thường sinh; kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (Dn 12,2).
Điều đang nói ở đây là quang cảnh của ngày tận thế. Ngày mà “Thiên hạ sẽ thấy con Người đầy TN 33-C87
Điều đang nói ở đây là quang cảnh của ngày tận thế. Ngày mà “Thiên hạ sẽ thấy con Người đầy quyền năng và vinh quang ngừ trên đám mây mà đến” (x.Mc 13,26). Đây gọi là “cuộc phán xét chung”. Khi đó mọi người chết sẽ sống lại, nhưng số phận lại chia làm hai hướng khác nhau. Người thì hưởng phúc trường sinh, tức là được vào thiên đàng. Kẻ thì phải chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời, nghĩa là vào hỏa ngục. Ta hãy xem giáo lý của Giáo Hội nói gì và hai nơi này.
Về thiên đàng. “Thiên đàng là cuộc sống viên mãn, vì được hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi; với Đức Trinh nữ Ma-ri-a, với các thiên thần và các thánh. Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự thực hiện các nguyện vọng sâu xa nhất của con người; là tình trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung cuộc” (GLCG, số 1024). Quả thật, ““chúng ta không đủ khả năng hiểu biết và trình bày mầu nhiệm hiệp thông vinh phúc với Thiên Chúa và tất cả những người ở trong Đức Ki-tô. Khi nói về mầu nhiệm này, Thánh Kinh dùng những hình ảnh như sự sống, ánh sáng, bình an, tiệc cưới, rượu mới trong Nước Trời, Nhà Cha, Thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc.Thiên đàng là “Điều mắt chẳng hề thấy; điều tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ đến, đó là điều Thiên Chúa dọn sẵn cho những ai yêu mến Người” (x. 1Cor 2,9)”” (GLCG, số 1027).
Đúng vậy, thiên đàng chẳng một ai đã thấy, đã nghe hay nghĩ tới, chỉ một mình Đức Giê-su, từ trên đó xuống và nói cho chúng ta biết mà thôi. Con người ta, đâu có biết gì về thiên đàng, cứ nghĩ thiên đàng cũng như thế gian này, có điều khác là không phải đau khổ, không phải cực nhọc, không phải vất vả thôi. Cũng lấy vợ gả chồng, cũng sinh sống như ta đang sống. Không, đó chỉ là thiên đàng của con người, chứ không phải là thiên đàng của Thiên Chúa.
Thiên đàng của Thiên Chúa, chỉ sau khi chết ta mới biết và ngày tận thế ta mới sống. Đó là nơi lòng chúng ta không hề nghĩ tới. Thế mới hấp dẫn chứ. Nếu biết rồi còn chi là hấp dẫn nữa. Trong cuộc sống, có những điều ta không dám mơ, không dám ước, thế mà lại được khi đó ta mới cảm được, đó là hạnh phúc biết chừng nào.
Làm sao ta lại có được một người yêu thương ta như thế. Ta có làm gì đâu; ta giỏi dang hay đẹp đẽ gì. Thế mà có người lại yêu thương ta đến “chết mê chết mệt”; yêu thương ta “tít thò lò”. Có bao giờ ta dám nghĩ thế đâu, thế mà ta lại được. Đúng là ngoài sức tưởng tượng của ta, hạnh phúc biết chừng nào !!!
Ta con nhà nghèo, ngoại ngữ chẳng biết mô tê gì; cũng chẳng có “danh gì với núi sông”, thế mà lại được chọn đi nước ngoài. Rồi học mãi, học hoài chẳng nói được, cả 5 năm trời chứ đâu có ít. Và một ngày đẹp trời nào đó, tự dưng, ta nói được ào ào như gió, không cần nghĩ, không cần suy, cứ thế mà nó tuôn ra. Ôi, lạy Chúa, không có hạnh phúc nào bằng !!!
Lại nữa, ở Việt Nam thì cà tịch cà tang chiếc mô-bi-lét, chiếc cup 50; chiếc 67; có bao giờ nghĩ mình lái xe hơi. Rồi cũng phải học, cũng phải tập, thi tới thì hoài cũng đậu. Đã hơn 10 năm rồi, khi lái xe hơi đi chỗ này chỗ kia, cứ chạy tưng tưng, trong lòng vẫn cảm thấy sung sướng làm sao ấy!!!
Rồi ước muốn đi tu, nhưng cha xứ không cho giấy giới thiệu; cũng cứ đi; quá tuổi không vào chủng viện được, thì đi Dòng. “Dòng kín” không được thì sang “Dòng hở”. Ai đời, khấn trọn đời rồi, lại được chọn cho đi truyền giáo nước ngoài; lại cho luôn. Thế là thuộc về giáo phận, được truyền chức, trở thành Linh Mục Triều.Chạy lòng vòng, thế mà cũng tới đích mình muốn. Thật không còn hạnh phúc nào bằng !!!
Thế đấy, ngay đời sống trên trần gian này, ta còn cảm được hạnh phúc, khi những gì mình không dám mơ, không dám ước mà có được. Thế thì, hạnh phúc thiên đàng, ta cũng không dám mơ, không dám ước, mà được vào thì hạnh phúc biết chừng nào !!!
Nói không mơ, không ước thì cũng không đúng, vì ai cũng muốn, cũng ao ước sau khi chết được vào thiên đàng. Nhưng đa số, người ta chỉ ươc mơ xuông, chỉ có lòng ước ao thôi mà không cố gắng làm gì để được vào thiên đàng. Ta cũng ước, cũng mơ và cố gắng bao có thể để được vào thiên đàng, nhưng trên thiên đàng hạnh phúc thế nào thì ta chưa biết, đến khi vào được đó thì ta sẽ biết hạnh phúc thiên đàng là gì. Lúc đó mới hạnh phúc làm sao !!!
Còn về hỏa ngục? “Hội Thánh dạy rằng có hỏa ngục và án phạt đời đời. Ngay sau chết, linh hồn kẻ mắc tội trọng sẽ xuống hỏa ngục chịu cực hình “lửa đời đời”. Vì chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm được sự sống và hạnh phúc hằng khao khát, nên cực hình chính của hỏa ngục là đời đời bị tách khỏi Thiên Chúa” (GLCG, số 1035).
“Những điều Thánh Kinh xác quyết và Hội Thánh dạy về hỏa ngục, là lời mời gọi con người phải có trách nhiệm sử dụng tự do để đạt tới hạnh phúc đời đời; đồng thời thúc giục ta ăn năn hối cải”(GLCG, số 1036).
Nghe đến hỏa ngục ai cũng sợ và chẳng ai muốn xuống cả. Thế nhưng lại không ra sức để mình khỏi xuống đó. Thế mới chết chứ ! Sợ thì sợ nhưng không ngán; chẳng muốn xuống nhưng lại cứ đi vào. Thiên Chúa chẳng tiền định cho ai phải xuống hỏa ngục cả; Ngài chỉ muốn cho mọi người được vào thiên đàng thôi.
Vậy ta phải làm gì để được vào thiên đàng đây ?
Trong sách tiên tri Đa-ni-en có viết: “Các Hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ; nhưng ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Dn 12,3).
Người Hiền sĩ, không phải là những Ngôi Sao minh tinh Bàn Bạc, những Ngôi Sao ca nhạc, sân khấu hay nhưng danh thủ thể thao mà là người “tỉnh thức”. Họ “tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể đứng vững trước mặt Con Người” (x. Lc 21,36). Nói cách khác người Hiền Sĩ là người cầu nguyện. Cầu nguyện để làm chi ? Cầu nguyện để lãnh nhận ơn sủng của Thiên Chúa. Lãnh nhận ân sủng để làm gì ? Để ta được cứu độ.
Thánh Phao-lô nói về ân sủng này như sau: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ đem ơn cứu độ đến cho con người. Ân sủng đó dạy ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta xuất hiện vinh quang” (x.Tt 2,11-13).
Vì muốn từ bỏ được lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức thì phải cần có ơn Chúa ta mới làm và sống được. Nên ta phải cầu nguyện luôn, để “hũ ân sủng” của ta không bao giờ cạn, ta mới có đủ sức và dư sức để “qua cầu”. Người mà sống chừng mực, công chính và đạo đức sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ trong Nước Trời. Nghĩa là được vào Thiên đàng.
Người Hiền sĩ đó không chỉ lo cho mình mà còn làm cho nhiều người khác được hạnh phúc, được nên công chính nữa cơ. “Họ luôn sẵn sàng làm điều thiện; không chửi bới ai; không hiếu chiến nhưng hiền hòa, luôn tỏ lòng từ bi với mọi người” (x.Tt 3,1-2). Họ đã không làm thì thôi, đã làm thì luôn làm điều tốt, điều thiện cho người khác; đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Họ không ganh đua với người khác, họ chỉ lo chu toàn bổn phận của mình thôi. Có bị chơi xấu, nghĩ sai hay bị khinh khi họ cũng không trả thù, không thèm để ý tới làm chi, cứ để đó cho Chúa xét xử. Họ chẳng cần ai biết đến hay có ai khen lao cả, có Chúa biết là đủ rồi. Người sống như thế sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao trong nước Cha của họ, tức là trong Nước Trời; trong thiên đàng.
Quả thật, người tràn đầy ân sủng Chúa và cố gắng sống tốt lành và thánh thiện thì khi chết về với Chúa, ta sẽ được vào thiên đàng và ngày sau hết, ta được phục sinh, cả xác lẫn hồn ta được vào thiên đàng để hưởng phúc trường sinh với Chúa và các thánh.
Vậy ta hãy chọn Thiên Đàng là mục tiêu của ta, để đang khi sống ở đời này ta biết chuẩn bị, biết dùng mọi cơ hội có được trong cuộc sống, bằng cách luôn tỉnh thức và cầu nguyện. Với ơn Chúa, ta sẽ cố gắng hết sức mình để ta nên người Hiền Sĩ, nên người công chính, thánh thiện; đồng thời, cũng giúp cho người khác nên thánh nên thiện nữa. Chắc chắn ta sẽ được vào thiên đàng. Ta đừng có loi ngoi, láu cá mà nên kẻ “lòi sỉ”, coi chừng xuống hỏa ngục như chơi đó.
Năm Phụng vụ đang dần khép lại. Chúng ta đang ở Chúa nhật áp chót của năm. Và ta thấy tâm TN 33-C88
Năm Phụng vụ đang dần khép lại. Chúng ta đang ở Chúa nhật áp chót của năm. Và ta thấy tâm điểm vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu chết và sống lại, lên trời và sẽ trở lại trong vinh quang như lời Người đã phán. Sống đời kitô hữu là sống niềm tin và hy vọng vào Chúa, nhất là trung thành với Đức tin đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta sẽ được bình an trong ngày Chúa đến.
Đời này và thế giới vật chất rồi sẽ qua đi, nhưng Thiên Chúa vẫn hằng sống và luôn còn mãi. Ta phải tin thật như vậy, không được nghiêng ngả, nao núng, lo sợ trước những cám dỗ của cuộc sống và những cấm cách, bắt bớ của thời đại. “Vì thế gian chỉ có thể làm khổ hoặc giết được thân xác, chứ không làm khổ hoặc giết được linh hồn” (Lc 12, 4). "Ai muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình thì sẽ tìm lại được mạng sống mình ở đời sau" (Ga 12, 25).
Lời răn dạy của Chúa mang tính phổ quát liên quan đến mạng sống của mọi người ở đời này và đời sau, nhưng trước tiên Chúa muốn răn dạy những người đi theo Ngài, là chính chúng ta.
Quả thật, mạng sống con người là quan trọng, nhất là sự sống đời đời. Chúa Giêsu đã từng thốt lên “người ta sẽ lấy gì mà đổi được mạng sống mình. Được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình thì được ích gì” (Mt 16, 26).
Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là Chúa Giêsu loan báo việc đền thờ Giêrusalem sẽ bị phá hủy và liên kết với việc tàn phá đền thờ, Chúa Giêsu đề cập đến ngày tận thế. Trong khi chờ đợi “Ngày của Chúa” tức là ngày Chúa đến lần thứ hai, các tín hữu sẽ phải trải qua nhiều gian nan thử thách, phải qua một thời kỳ bị bách hại. Nhưng họ đừng sợ, hãy cứ kiên trì vì sự bách hại sẽ là một cơ hội để họ làm chứng cho Tin Mừng. Chính Chúa sẽ giúp họ chiến thắng với điều kiện họ phải luôn kiên trì giữ vững đức tin và trung thành với Chúa cho đến cùng.
Ngày của Chúa sẽ là ngày tận cùng của thế giới. Khi đó, tất cả mọi người sẽ tập trung lại trước mặt Chúa Giêsu, để ngài tách chiên ra khỏi dê; chiên thì ở bên phải được hưởng hạnh phúc viên mãn; dê thì ở bên trái, bị liệt vào những kẻ bị kết án đời đời. Cụ thể hơn, Ngày của Chúa còn là giây phút lìa đời của mỗi người. Giây phút quyết định, dứt khoát, không thể thay đổi, mà mỗi người sẽ lãnh nhận phần của mình đã gầy dựng trong cuộc sống trần gian.
Và ta thấy có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Họ không biết mình sống để làm gì và không biết chết rồi sẽ ra sao? Do đó, họ chỉ lo hưởng thụ các đam mê lạc thú bất chính và không làm gì để chuẩn bị cho đời sau. Còn các tín hữu hôm nay cần ý thức về ngày giờ chết của mình để chuẩn bị chết lành, bằng việc thực hiện những việc như sau: Thanh toán nợ nần sòng phẳng, hồi tâm sám hối mỗi tối và năng lãnh bí tích Hòa giải, dọn mình dự lễ rước lễ mỗi ngày. Thực hành các việc bác ái cụ thể như kinh “Thương Người có mười bốn mối” và “Kinh Hòa Bình” đề ra.
Ngoài ra còn phải chu toàn công việc bổn phận như: học tập, nội trợ, lao động trí óc chân tay… Làm được như vậy thì khi giờ chết đến gần, chúng ta sẽ không cảm thấy bồn chồn lo lắng, nhưng sẽ vui mừng chờ đón Chúa đến trong niềm tin tưởng cậy trông sẽ được Người thương đón nhận vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.
Khi chờ đợi Chúa đến, người môn đệ phải sống vững niềm tin của mình. Một niềm tin đã được phê phán, đối chất; một niềm tin đã được tôi luyện qua sự bách hại và không hiểu biết của người đời; một niềm tin giúp chúng ta sống trong thế giới này với sự xác tín là, “ việc làm cụ thể” rất cần thiết để tiếp tục công trình sáng tạo của Thiên Chúa; đồng thời, cũng xác tín rằng, thế giới này cần thiết, không thể thiếu, nhưng không phải là cuối cùng.
Ta luôn ở thế giằng co cũng như ta đang ở trong một trạng thái khắc khoải, băn khoăn, xao xuyến. Vừa làm việc hết sức mình trong thế giới, lo lắng làm cho công trình sáng tạo được hoàn thiện trọn vẹn, viên mãn, và đồng thời, vừa được báo cho biết là thế giới này sẽ qua đi, nhường chỗ cho một thế giới khác hoàn hảo sắp đến. Vừa thán phục trước những kỳ quan của thế giới, mà cùng một lúc, cũng được cuốn hút vào một thế giới mà chúng ta sẽ được giải thoát khỏi mọi sự dữ.
Tin mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu tiên báo về sự hủy diệt Đền thờ Giêrusalem. Đây cũng là dịp để chúng ta suy nghĩ về giờ chết của mỗi người chúng ta và về ngày tận thế chung của toàn thể nhân loại. Đồng thời chúng ta biết nên làm gì để chuẩn bị cho ngày ấy.