Đức Kitô về quê hương Ngài và giảng dậy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo huấn và TN 4-C151
Đức Kitô về quê hương Ngài và giảng dậy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo huấn và sự khôn ngoan, thông thái của Ngài. Khi Ngài đang giảng, bỗng từ đám đông lên tiếng yêu cầu Ngài làm phép lạ như Ngài đã làm tại Caphanaum. Đức Kitô không đáp ứng lời họ yêu cầu, từ đó sinh ra bất mãn. Đám đông trở thành lớn tiếng, kẻ đồng í, người bất đồng và cuối cùng nhóm muốn giết chết Ngài trở thành nhóm chủ động.
Trước tiên, đám đông vui mừng, họ cảm thấy hãnh diện vì một người trong số họ, trong làng, từng sống âm thầm, bỗng nay trở thành nổi tiếng. Liền sau đó họ thắc mắc, có thể do ghen tị, họ nói với nhau bởi đâu con bác thợ mộc, con ông Giuse, có được khôn ngoan thông thái đến thế c.21. Dân làng tự nhận họ biết rõ nguồn gốc Ngài, biết Ngài con cái ai, anh em thế nào, sinh sống ra sao, nhưng họ không biết mục đích Ngài xuống trần gian, và Ngài có sứ mạng quan trọng cần thực hiện đó là thực hiện í Thiên Chúa Cha. Đám đông rất đúng khi nói Ngài là con bác thợ mộc ông Giuse, và bà Maria là mẹ Ngài nhưng họ không biết Ngài còn là Con Thiên Chúa và chính là Thiên Chúa. Là con bác thợ mộc, như chúng ta, Đức Kitô không thể làm phép lạ. Ngài làm phép lạ bởi Ngài là Con Thiên Chúa. Vì đám đông hiểu lầm nên Ngài thấy cần giải thích cho họ hiểu biết Ngài là ai. Đám đông trông đợi Đức Kitô làm phép lạ lớn nơi quê hương để họ cảm thấy hãnh diện hơn, tự hào hơn. Đức Kitô không đồng quan điểm đó và bởi họ chê bai, ghen tị,vì thế Ngài lên tiếng:
Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình c.24.
Nghe thế, đám đông tỏ ra bực mình hơn. Nhận biết thái độ chống đối của họ Đức Kitô nhắc cho họ biết hai câu truyện nổi tiếng, hầu như ai cũng biết, trong Cựu Ước. Truyện thứ nhất xảy ra trong thời kì hạn hán ba năm không mưa, đói kém, Thiên Chúa sai tiên tri Elijah không đến với dân Do thái nhưng đến với dân ngoại bà goá thành Sidonian để giúp đỡ gia đình bà. Truyện thứ hai là việc Thiên Chúa sai tiên tri Elisha không đến chữa bệnh cùi cho người Do Thái mà lại chữa bệnh cùi cho tướng Naaman của quân đội Syria. Nghe thế đám đông hung hăng đòi giết Đức Kitô bằng cách xô ngài té từ trên cao xuống c.29. Đám đông hung dữ không chỉ đơn thuần chối bỏ lời giảng dậy của Đức Kitô mà họ còn chối bỏ chính con người Đức Kitô.
Hành động của đám đông rất gần với hành động ma quỉ đối xử với Đức Kitô khi chúng cám dỗ Ngài (xin xem Lk 4,1-12). Đức Kitô cũng dùng Kinh Thánh đáp lại; ma quỉ cũng thách thức Đức Kitô làm phép lạ, Ngài không đáp lại lời chúng yêu cầu. Cuối cùng ma quỉ cũng muốn xô ngài từ trên cao xuống thấp. Hai câu chuyện nổi tiếng trong Cựu Ước nói đến tình thương Chúa trải rộng vô bờ, cho mọi dân, mọi nước, không bị giới hạn cho riêng một dân tộc nào. Người Do Thái nào cũng rành rẽ hai câu chuyện trên, tuy thế mục đích, í nghĩa của chuyện không phải ai cũng nhớ mà hầu như bị lãng quên. Đức Kitô nhắc chuyện đó cho biết Ngài là Người của mọi người, không phải của riêng ai, của riêng dân tộc hay phe, nhóm nào.
Đức tin giúp chúng ta nhận biết Đức Kitô là con thánh Giuse và là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Bởi không có đức tin nên người ta tranh biện nhiều về Đức Kitô. Làm sao người ta có thể dùng sự hiểu biết giới hạn của con người để tìm hiểu Đấng vô hạn, ngoài sức tưởng tượng của con người. Chỉ cần xem cách chết của Ngài đủ biết Thiên Chúa luôn có cách riêng của Ngài và cách đó rất khác với cách người ta suy tưởng. Đức Kitô c ó nhiều người tin theo, trung thành đến phút giây cuối đời. Ngài cũng bị nhiều người loại bỏ. Điều rõ ràng cả ma quỉ lẫn dân của Ngài muốn giết chết Ngài bằng cách xô từ trên cao xuống. Kết cục Ngài tự nguyện chết đền thay tội cho nhân loại, chết không phải từ trên cao bị xô xuống theo í loài người, mà chính là theo chương trình của Thiên Chúa – từ dưới thấp được kéo lên cao treo trên thập tự.
Chúng ta nhận ơn Thánh Thần trong ngày lãnh nhận bí tích thanh tẩy, chúng ta cũng nhận ơn làm tiên tri. Trở thành tiên tri trong thời đại mới bằng cách sống chứng nhân Kitô giữa đời, rao giảng Tin Mừng bằng cuộc sống hàng ngày, hành động yêu thương tha thứ và cuối cùng cũng được Thiên Chúa nâng lên cao, sống trong vương quốc của Thiên Chúa.
Chúng ta vẫn thường nói: “Quê hương là chùm khế ngọt”, “Không nơi đâu đẹp cho bằng quê hương TN 4-C152
Chúng ta vẫn thường nói: “Quê hương là chùm khế ngọt”, “Không nơi đâu đẹp cho bằng quê hương”, “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Theo quan niệm này, thì ai ai cũng yêu mến quê hương xứ sở nơi mình sinh trưởng, là nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
Thế nhưng, cũng theo quan niệm dân gian thì đôi khi “Bụt nhà không thiêng, gần chùa gọi bụt bằng anh”. Chúa Giêsu đã nói lên kinh nghiệm này trong hội đường Nazaréth khi Ngài về thăm quê hương “Không một tiên tri nào được vinh dự đón tiếp nơi quê hương họ hàng mình”.
Thật vậy, sau hơn một năm đi giảng dạy ở nhiều nơi, nay có dịp trở về thăm quê nhằm đúng ngày Sabát, Chúa Giêsu đến hội đường tham dự. Theo thông lệ, trước hết Ngài đọc sách thánh rồi cắt nghĩa lời Kinh thánh. Lời giảng dạy của Ngài như Đấng có uy quyền và đầy khôn ngoan, làm cho những người đồng hương lấy làm kinh ngạc.
Họ ngạc nhiên bởi đâu mà Ông này khôn ngoan và quyền năng làm được các phép lạ như thế. Họ ngạc nhiên là vì họ quá biết rõ tông tích “Ngài là con bác thợ mộc Giuse và mẹ Ngài là bà Maria người cùng làng xóm cơ mà!”. Lối suy nghĩ thành kiến đó đã che mất con mắt đức tin, làm cho họ không nhận ra Thiên Chúa đang ở với dân Người.
Chính vì thành kiến và hẹp hòi trong cách nhìn, mà những người đồng hương đã không nhận ra Đấng Mêsia đang ở giữa họ. Họ không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên sai, lại càng không thể tin Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng mà cha ông tổ tiên họ hằng đợi trông.
Lý do dân chúng không nhận ra là vì họ cứ tưởng Đấng Cứu thế sẽ uy nghi từ trên trời cao ngự đến. Nhưng ai ngờ Ngài lại sinh bởi một trinh nữ làng quê dưới đất. Người ta cứ tưởng Đấng Thiên sai phải cư ngụ trong lâu đài sang trọng dành cho các bậc vua chúa. Nhưng không ngờ Ngài lại sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu độ trần gian phải oai phong lẫm liệt. Nhưng có ai ngờ Ngài lại quá hiền lành khiêm nhường giàu lòng xót thương. Người ta cứ tưởng Đấng Mêsia đến đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do thái lên hàng bá chủ thế giới. Nhưng không ngờ Ngài chịu thua hết mọi người, bị hành hạ, sỉ nhục, bị kết án tử như một phạm nhân. Người ta cứ tưởng Đấng Cứu thế là vị vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Ngài lại quỳ gối xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ. Cho nên, dân chúng không hiểu về sứ mạng của Đức Giêsu.
Cho dù Thiên Chúa là Đấng toàn năng làm được mọi sự, nhưng đành phải bó tay trước sự chối từ của con người. Ngài trở nên bất lực trước những kẻ không có lòng tin. Nên Ngài không làm phép lạ nào tại quê hương mình. Thế mới biết con người có khả năng cản trở chương trình của Thiên Chúa, con người có tự do từ chối quà tặng của Ngài.
Nếu phép lạ là ân ban của Thiên Chúa, cần được đón nhận với niềm tin, thì chính niềm tin là ân huệ của Thiên Chúa chỉ có thể nhận được với lời cầu nguyện. Triết gia Pascal đã nói: “Để có niềm tin con người phải quì gối cầu nguyện”.
Anh chị em thân mến,
Khi đến với nhân loại, Đức Giêsu muốn làm người để cảm thông, thân thiện, chia sẻ thân phận hèn mọn của con người. Nhưng xót xa thay! Ngài đã bị những người đồng hương chối từ. Mặc dù họ kinh ngạc, thán phục sự khôn ngoan của Ngài, nhưng họ không tin Ngài là Thiên Chúa. Chính khi Thiên Chúa muốn hạ mình xuống sống với con người lại là lúc con người bị vấp phạm.
Nếu dân làng Nazaréth ép Đức Giêsu làm phép lạ để minh chứng Ngài là tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Đức Giêsu chứng minh giáo lý của Ngài phải đến từ Thiên Chúa.
Nếu dân làng Nazaréth căm phẫn đến độ muốn xô Đức Giêsu xuống vực thẳm, vì Ngài không làm phép lạ nào tại quê hương, thì dân thành Giêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Chúa vào thập giá.
Sự cứng lòng tin của dân làng Nazaréth năm xưa không nhận ra dung mạo Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, biết đâu đó cũng là thái độ sống của ai đó trong chúng ta ngày nay. Chúng ta khó lòng nhận ra Chúa Giêsu nơi những người đau khổ, cùng khốn. Chúng ta không nhận ra phép lạ mà Chúa đang thực hiện qua những hoàn cảnh tầm thường của cuộc sống.
Cuối cùng, thưa anh chị em, Mùa Xuân Kỷ Hợi đang về trên quê hương Việt Nam. Ngày tết là ngày đoàn tụ gia đình, bao người đi xa cũng về với gia đình, cùng chia vui với nhau một bữa cơm ngày tết, cùng dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp, và nhắc lại những kỷ niệm đẹp, ai ai dễ dàng bỏ qua cho nhau những hiểu lầm thành kiến không tốt về người khác.
Nếu như cành mai, cành đào chịu cắt tỉa đi những cành, những lá trong đau đớn, để kết nụ đơm hoa đẹp cho đất trời thế nào, thì chúng ta cũng phải can đảm cắt tỉa đi những cành, những lá, đó là những thành kiến, những tính hư tật xấu, để tâm hồn chúng ta bung nở ra những nụ hoa bác ái yêu thương, những ân lộc tốt lành, đạo đức, cùng nhau đón chào mùa xuân mới, mà phúc lành của Chúa xuân sẽ tràn phủ trên quê hương và cho từng người chúng ta. Amen.
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống như bài Tin Mừng tuần trước: trong Hội đường TN 4-C153
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay cũng giống như bài Tin Mừng tuần trước: trong Hội đường của người Do thái ở Nazatreh, quê hương của Chúa Giêsu. Khán giả nghe Chúa nói hôm nay cũng là những người quen thuộc với Chúa. Điều khác biệt mà bài Tin Mừng hôm nay muốn cho chúng ta thấy không phải là những lời do Chúa dậy mà là thái độ của những người nghe Chúa hôm đó. Thái độ đó như thế nào? Lúc đầu là thiện cảm và thán phục. Sau đó là bất mãn và căm phẫn và cuối cùng là muốn thủ tiêu Chúa. Câu hỏi chúng ta đặt ra ở đây là tại sao thái độ ấy lại có thể thay đổi mau chóng và quyết liệt đến như thế? Chúng ta sẽ tìm hiểu lý do.
Như Tin Mừng Mathêô, Marco và Luca thuật lại thì trước khi về Nazareth Chúa đã làm hai Phép lạ tại Carphanaum: Một là phép lạ Chúa chữa người đàn bà loạn huyết; hai là Chúa phục sinh đứa con gái của ông hội trưởng hội đưởng ở đó. Chắc chắn những điều ấy đã đến tai những người ở Nazareth vì Nazareth và Carphanaum cách nhau không bao xa.
+ Một Chúa Giêsu được đã nổi tiếng như thế bây giờ trở về quê hương của mình thì làm sao mà những người đồng hương cùng sống với Chúa bao nhiêu năm trời …lại không cảm thấy tự hào? Chắc chắn là phải có.
Tin Mừng cho chúng ta thấy tất cả những người có mặt trong hội đường hôm đó đều cảm thấy tràn ngập sự thán phục trước những lời đầy vẻ duyên dáng của Chúa. Họ ngỡ ngàng trước con người mà họ đã từng quen biết từ bao nhiêu năm nay….ngỡ ngàng đến nỗi họ phải thốt lên: “Người này không phải là con của ông Giuse đó sao? (Mc 6,2-4). Bởi đâu ông ấy được như thế? – Tại sao mà ông ta được khôn ngoan như vậy? – Ông ấy không phải là con bác thợ mộc, mẹ của ông ta không phải là bà Maria và anh em của ông ta không phải là Giacôbê, Giuđa và Simon đó sao vv và vv.
+ Nhưng rồi đàng sau sự tự hào đó là một cái gì khác hơn. Luca không nói thắng ra những gì họ mong ước nơi Chúa nhưng Luca cho chúng ta thấy chính Chúa đã thấy rõ ý đồ của họ nên Chúa đã vạch mặt chỉ tên những gì mà họ mới chỉ mong ước ở trong lòng: “Hẳn các ngươi sắp nói cho ta nghe câu ngạn ngữ này: Hỡi thầy thuốc hãy tự cứu lấy chính mình. Những gì chúng tôi nghe đã xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông đi” Không biết anh chị em nghĩ sao chứ riêng tôi tôi tưởng những người ở Nazareth mong ước như thế cũng là lẽ rất thường tình. Thế nhưng ở đây Chúa lại từ chối. Không những Chúa không đáp ứng những gì người đồng hương của Ngài mong mỏi mà ngược lại thái độ của Chúa xem ra có vẻ khiêu khích và thách thức đối với họ cho nên từ thái độ cảm phục tự hào lúc ban đầu, những người Nazareth đã chuyển qua thái độ bất mãn và thậm chí còn muốn giết cả Chúa.
+ Những mong ước của họ quá ích kỷ.
Họ tưởng họ là người đồng hương với Chúa và họ có quyền đòi hỏi Chúa phải ưu tiên làm cho họ những gì họ mong muốn.
Còn Chúa thì rõ rệt là Ngài không muốn như thế. Ngài là Thiên Chúa của mọi người. Con người không có quyền đòi hỏi bất cứ điều gì từ Thiên Chúa. Thiên Chúa hoàn toàn tự do.
Những người ở Nazareth cay cú không phải là vì Chúa vung vãi những phép lạ trong những thành khác và từ chối không làm ở quê hương, nhưng họ cay cú vì Chúa đã dùng hai thí dụ thời ngôn sứ Êlia và Êlisê để nói thẳng cho họ biết rằng Ngài có quyền làm Phép lạ cho cả dân ngoại, coi dân ngoại ngang hàng và nhiều khi còn có vẻ ưu tiên hơn cả dân Do thái. Điều đó đối với họ thật là quá đáng và chính vì thế mà họ tỏ ra phẫn nộ mặc dầu họ rất cảm phục trước những lời từ môi miệng Ngài nói ra.
+ Lý do thứ hai theo Charde R. Erdman: Tại họ chưa đủ niềm tin nơi Chúa. Sở dĩ như thế là vì họ quá quen với Chúa. Ông nói:”Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường lại không thể nhận ra hết sự vĩ đại của họ và nhiều khi người ta không hiểu được những kẻ mà họ tưởng là quen biết hơn hết”
Xin được minh họa bằng một chứng từ có thật:
Một hôm cậu bé Tagore làm thơ và đưa lên cho cha cậu xem. Ông thân sinh chê:
– Dở lắm!
Hôm sau, cậu bé lại đem cho cha một sáng tác mới. Ông thân sinh cũng bỉu môi:
– Thơ này là thơ thẩn!
Tagore mới nghĩ ra một kế. Cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và ghi xuất xứ là trích sao trong một tập thơ cổ. Cậu lại đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận. Lần này ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen:
– Tuyệt !tuyệt! – rồi đem khoe tíu tít với con trai lớn của ông hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học:
– Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này!
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong, cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen ngợi là hay đáo để và muốn trích đăng lên tờ báo của ông. . . Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia để đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề ghi xuất xứ khi đăng.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lẽ ra: Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore. Ông thân sinh giận sôi máu lên. Nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình trước đó.
Ngạn ngữ của chúng ta có câu: Quen quá hóa nhàm.
Hay câu khác: Gần chùa gọi Bụt bằng anh.
Con người thường hay phán đoán người khác theo những tiêu chuẩn nhiều khi rất giả dối, có khi chỉ theo những giáng vẻ bên ngoài thậm chí nhiều khi còn chụp lên họ những hình ảnh hoàn toàn méo mó theo cách nhìn và cách phán đoán rất chủ quan của mình.
Nhưng người Nazareth trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Họ tưởng được gần gũi với Chúa bao nhiêu năm trời là họ đã hiểu được Chúa. Thật là sai lầm. Đối với họ Chúa dù có thế nào đi nữa thì cũng chỉ là con bác thợ mộc………Trong trường hợp như thế nếu Chúa có làm được phép lạ thì phép lạ của Chúa cũng chẳng có được một giá trị nào ngoài việc thỏa mãn sự tò mò của họ. Và chính vì thế mà Chúa đã không làm được phép lạ nào. Ngược lại Chúa còn phải buồn mà nói cho họ biết một sự thực này: “Không một tiên tri nài mà được nổi tiếng tại quê hương mình”
Thế là những người đồng hương với Chúa đã để mật một cơ hội bằng vàng để được hưởng những hồng ân Chúa ban cho.
Còn chúng ta thì sao? Trên đời có những cơ may chỉ đến có một lần. Hãy biết quí trọng những hồng ân Chúa ban cho chúng ta hằng ngày.
Hạnh phúc chỉ đến với những ai biết rơi lệ khi tổn thương, biết đau đớn khi mất mát, biết khát khao và nuôi dưỡng những giấc mơ, biết cố gắng làm lại khi thất bại, bởi vì chỉ có như vậy, mọi người mới biết trân trọng những gì đã và đang đến trong cuộc đời mình.
Giả hình hợm hĩnh quân biệt phái, Xảo quyệt mưu mô lũ quỷ ma, Ác nhân luôn mưu mô những TN 4-C154
Giả hình hợm hĩnh quân biệt phái Xảo quyệt mưu mô lũ quỷ ma
Ác nhân luôn mưu mô những điều xấu xa, chỉ vì tư lợi chứ không vì công ích. Sự dã tâm là ác ý, có ý “chơi khăm” người nào đó, “bằng mặt mà không bằng lòng”, trước mặt nói ngọt sớt như mía lùi mà sau lưng bất ngờ đâm thọc. Loại người này được gọi là “khẩu phật, tâm xà”, miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm, ác như mãng xà độc hại, rất đáng quan ngại!
Kẻ dã tâm khôn ranh rất tinh vi, vị kỷ mà không vị tha, chỉ tìm cách thỏa mãn tư lợi, còn ai ra sao cũng mặc, như người ta thường nói: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Đó là dạng “nhiễm xạ” tinh thần – cũng nguy hiểm như nhiễm chất phóng xạ thật. Kiểu như nhóm biệt phái giả hình, xét nét người khác để bắt bẻ, đả phá chứ không xây dựng.
Thách Thức tương đương Thử Thách nếu đó là điều khó khăn, mức yêu cầu, sự trở ngại có thể khó nhận ra hoặc tiên liệu, những thứ đó thường vượt tầm khả năng giải quyết. Đó là cuộc trải nghiệm quý giá, là vốn sống, là ngọn lửa thử vàng của ý chí và tài thao lược. Để thấu hiểu và vượt qua thách thức, thậm chí biến thách thức thành cơ hội, điều cốt lõi là bản lĩnh cá nhân, nhưng tinh thần và trí tuệ của tập thể cũng hữu ích, có thể là lá chắn và thanh gươm giúp chúng ta chiến thắng hoặc thành công.
Thách Thức tương đương Thách Đố nếu đó là kiểu gây hấn, chống đối người khác. Kiểu này nguy hiểm vì “cái tôi” bắt đầu nổi dậy, đè bẹp sự khiêm nhường. Thường thì kẻ yếu thế lại muốn chứng tỏ mình mạnh, giống như kẻ kém võ lại thích khua múa, kẻ ít chữ lại hay nói văn chương, kẻ nghèo lại khoái phô trương,… Cứ tưởng Khôn mà hóa Khốn!
Kinh Thánh đã minh định: “Khôn ngoan đã được tác thành trước vạn vật, sự hiểu biết anh minh đã có tự muôn đời” (Hc 1:4). Ai cũng được Thiên Chúa ban cho sự khôn ngoan, với mức độ có thể khác nhau, nhưng sự khôn ngoan cũng vẫn cần được trau giồi, và quan trọng là cách sử dụng sự khôn ngoan sao cho hợp lý. Có Khôn rồi mà còn phải Khéo nữa.
Ý thức nghiêm túc, tác giả sách Huấn Ca đặt vấn đề: “Gốc rễ của khôn ngoan đã được mặc khải cho ai? Và những công trình kỳ diệu của khôn ngoan, ai nào biết rõ?” (Hc 1:6). Và sau đó liền có câu trả lời mạch lạc: “Sự viên mãn của khôn ngoan là KÍNH SỢ ĐỨC CHÚA. Khôn ngoan lấy hoa trái của mình làm cho họ say sưa, lấy bảo vật của mình chất đầy nhà cửa họ, đem sản phẩm của mình đổ đầy kho lẫm” (Hc 1:16-17). Kinh Thánh cũng đã xác định nguồn gốc của sự khôn ngoan: “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời” (Hc 1:1).
Một danh nhân nào đó xác định: “Người khôn ngoan là người thấy cái gì cũng mới lạ”. Thấy mới lạ không là để tò mò, mà để khám phá và tìm hiểu thấu đáo. Đó là con người trong cuộc sống đời thường. Còn về tâm linh, người khôn ngoan là người biết kính sợ Thiên Chúa: “Lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan, mang lại bình an và sức khoẻ dồi dào. Đức Chúa đã thấy và đã đếm khôn ngoan, Người đổ mưa am tường và hiểu biết của trí tuệ, nâng cao vinh dự của những kẻ gắn bó với khôn ngoan” (Hc 1:18-19). Sự khôn ngoan rất cần trong đời sống, nhưng còn càng cần hơn trong đời sống Kitô hữu.
Tuy nhiên, điều quan trọng là người khôn ngoan không cậy nhờ phàm nhân, mà chỉ cậy nhờ vào Chúa. Họ tâm niệm và chân thành thân thưa: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ” (Tv 71:1). Chắc chắn họ sẽ không phải hổ ngươi, vì được Chúa soi sáng và hướng dẫn. Ngay trong những khi gặp thử thách, họ vẫn trọn niềm tín nguyện: “Vì Ngài công chính, xin cứu vớt và giải thoát con, ghé tai nghe và thương cứu độ. Xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con, núi đá và thành trì bảo vệ con, chính là Ngài” (Tv 71:2-3). Đúng như Thánh Phaolô xác định: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39).
Phàm nhân luôn bị tác động bởi thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố,dục). Đôi khi cầu nguyện mà có vẻ như không thấy “động tĩnh” gì, thế nhưng họ vẫn tin tưởng và khôn ngoan, vẫn vững tâm kiên trì: “Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ, khỏi móng vuốt phường nham hiểm và bọn dã man. Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân” (Tv 71:4-5). Và họ xác tín từ những điều xem chừng rất tự nhiên: “Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ, con ca tụng Ngài chẳng khi ngơi” (Tv 71:6). Đó là niềm tín thác đích thực, chắc chắn Chúa vui lòng và sẽ không ngơ mãi, không nỡ để họ phải thất vọng.
Tin là chấp nhận hoặc từ chối. Làn ranh rất mong manh. Một niềm giữ vững đức tin, họ hiên ngang vui mừng thể hiện niềm tin đó: “Miệng con công bố Ngài chính trực, suốt ngày tường thuật ơn cứu độ Ngài ban, ơn của Ngài, nhiều khôn xiết kể! Con thuật lại bao chiến công của Chúa, nhắc nhở rằng: chỉ mình Ngài chính trực công minh. Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài” (Tv 71:15-17). Người biết tín thác vào Chúa thì đúng là người khôn ngoan thực sự.
Hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc, chúng ta có được gì cũng đều là hồng ân Chúa ban. Quả thật, nếu xét cho cùng, ngay những gì chúng ta đang sở hữu cũng không hoàn toàn thuộc quyền mình, vì chúng ta có thể mất chúng bất kỳ lúc nào – kể cả sự sống. Thánh Phaolô nói: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả” (1 Cr 12:31). Con đường trổi vượt đó là con đường khôn ngoan luôn sáng rực ánh hồng ân huyền nhiệm.
Kinh Thánh đã xác định khôn ngoan là biết kính sợ Chúa, mà kính sợ Chúa thì phải biết yêu thương – tức là đức mến. Một hệ lụy lô-gích, tính liên đới kỳ diệu. Vừa như một cách định nghĩa và vừa là cách giải thích, Thánh Phaolô nói về đức mến: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13:4-7). Nghe có vẻ dài dòng, nhưng rõ ràng đến từng chi tiết. Đây là chương nói về đức mến rất tuyệt vời trong các thư của Thánh Phaolô. Quả thật, đức mến không đơn giản như chúng ta tưởng.
Như chúng ta đã biết, đức mến là một trong ba nhân đức đối thần (Tin, Cậy, Mến), cả ba đều quan trọng, nhưng đức mến quan trọng nhất, vì “đức mến không bao giờ mất được” (1 Cr 13:8a). Thật vậy ư? Chắc chắn đúng như vậy: “Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn” (1 Cr 13:8b-9). Lạ thật! Cái gì cũng hữu hạn, nhưng lòng yêu thương lại vô hạn. Ác nhân không hề có lòng yêu thương, thế nên họ ích kỷ và luôn tìm cách ghen ghét, mưu hại người khác, tìm cách thách thức bất cứ ai.
Đề cập tầm quan trọng của đức mến, Thánh Phaolô lý giải: “Khi cái hoàn hảo tới thì cái có ngần, có hạn sẽ biến đi. Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1 Cr 13:10-11). Cách so sánh rất cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu.
Thánh Phaolô nói cả ba nhân đức đối thần quan trọng, nhưng không phải vì vậy mà coi nhẹ các đức đối nhân – nghĩa là chúng cũng không kém phần quan trọng. Không ai tin cậy và yêu mến Thiên Chúa lại là người mưu mô, xảo quyệt, ác độc, nham hiểm, không biết thương xót đồng loại. Chỉ có loài quỷ đội lốt người mới như vậy.
Sống yêu thương là thể hiện đức tin, mà đức tin thì trừu tượng, nếu không khéo sẽ hóa thành ảo tưởng. Thánh Phaolô cho biết: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1 Cr 13:12). Và ngài tái xác định tầm quan trọng của đức mến: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13:13).
Thách thức liên quan kiêu căng. Trình thuật Lc 4:21-30 đề cập sự thách thức của người Do Thái đối với Chúa Giêsu. Một lần tại Hội đường, khi mở Sách Thánh gặp câu nói về Thần Khí, Chúa Giêsu nói với cử tọa: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Nghe vậy, mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ môi miệng Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu đúng là một “nhân vật đặc biệt nhất”, một “dị nhân” chính hiệu, khiến ai cũng phải tâm phục và khẩu phục. Thế nhưng vẫn có những kẻ ác ý xấu xa muốn hại Ngài. Bản chất khó dời!
Chúa Giêsu biết bụng dạ xấu xa của họ nên Ngài nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!”. Người ta có dã tâm không phải vì Chúa Giêsu làm gì sai trái, mà vì tính đố kỵ, thói ghen ghét, không muốn người khác hơn mình, sợ mình lép vế, quen thách thức và ưa thọc gậy bánh xe. Nhưng Ngài vẫn thản nhiên nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Thế kỷ XXI rồi mà câu nói này vẫn đúng, bởi vì người ta khó có thể chấp nhận tài năng của những người cùng quê hương với mình!
Họ im lặng, không đối đáp được câu nào. Đuối lý, cụt hứng, hết cãi. Mà còn nói gì được nữa chứ? Chúa Giêsu liền nói thẳng một hơi: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi”. Quá rõ, thật thấm thía và đau điếng, trúng tim đen quá mà! Chẳng ai dám lý luận chi nữa!
Quái gở! Lũ ác nhân lật mặt như trở bàn tay, mới khen nức lòng mà lại chống đối ngay, bằng chứng là lời kể của Thánh Luca: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Ngài ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực” (Lc 4:28-29). Đúng là quá đểu – đểu thật chứ không đểu giả!
Tuy nhiên, chính những con người đểu cáng đó, dã tâm và nham hiểm, cũng chẳng làm gì được người ngay lành, chính trực. Thật vậy, Chúa Giêsu thấy họ phẫn nộ mà Ngài vẫn thản nhiên “băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4:30). Chắc hẳn lúc đó lũ “quỷ sống” ấy muốn lộn ruột gan và phát điên lên được. Ngày nay, những người mưu mô nham hiểm với người khác cũng vậy thôi. Loại ác nhân như vậy ở đâu cũng có, chẳng trừ nơi nào, y như ma quỷ có mặt mọi nơi để rình rập người tốt vậy. Chúng ẩn náu và hóa trang rất tinh vi bằng các loại trang phục nhân nghĩa hào nhoáng rất bắt mắt: “Lạ gì đâu! Vì chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng!” (2 Cr 11:14).
Có nhiều mối phúc, một trong các mối phúc đó liên quan cách sống khôn ngoan và hướng thiện: “Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân, chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng, nhưng vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:1-2).
Lạy Thiên Chúa nhân lành chính trực, xin giúp con biết ghê tởm chính mình, nhưng biết cảm thông và yêu thương mọi người, nhất là những người hèn mọn, vô danh tiểu tốt, cô thân cô thế. Xin hoán cải và biến đổi con theo Thánh Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta về ơn gọi của ngôn sứ (tiên tri). Bài đọc 1 trình bày cho TN 4-C155
Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta về ơn gọi của ngôn sứ (tiên tri). Bài đọc 1 trình bày cho chúng ta về ơn gọi của Ngôn sứ Giêrêmia. Ngôn sứ là người như thế nào? Trong bài đọc 1, ngôn sứ được trình bày như là người được Thiên Chúa biết trước khi được thành hình trong lòng mẹ, được thánh hiến trước khi lọt lòng mẹ, thắt lưng, đứng dậy và nói cho dân tất cả những điều Đức Chúa truyền, không run sợ, là thành trì kiên cố và cột sắt chống lại dân (nguyên nhân chomọi người chống đối), sẽ không bị thua trận vì có Đức Chúa ở cùng để giải thoát (x. Gr 1:5,17-19). Còn Thánh Vịnh đáp ca trình bày cho chúng ta ngôn sứ là người mở miệng là tường thuật ơn cứu độ Thiên Chúa ban.Một trong những định nghĩa của ngày hôm nay về ngôn sứ mà mỗi người chúng ta được mời gọi để trở nên là: “Ngôn sứ là người có đôi mắt luôn ngước nhìn lên Chúa, có đôi tai luôn lắng nghe lời Chúa, có đôi môi luôn nói lời của Chúa, có con tim tràn đầy tình yêu của Chúa, có khối óc chứa đựng sự khôn ngoan của Chúa, có đôi tay để phục vụ Chúa và anh chị em, có đôi chân để đồng hành với những ai cô đơn trong cuộc sống.”Tóm lại, ngôn sứ là người để cho Chúa chiếm lấy và sử dụng họ theo cách thức Ngài muốn, nhất là, để cho Chúa yêu và tha thứ người khác qua họ.
Đề tài về ơn gọi của ngôn sứ đạt tới sự viên mãn trong hình ảnh của Chúa Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta về Chúa Giêsu là vị ngôn sứ như Êlia và Êlisa. Theo Thánh Luca, khác với các ngôn sứ khác, Chúa Giêsu được sai đến không chỉ cho dân Do Thái, nhưng cho muôn dân. Phản ứng đầu tiên của dân chúng trước những lời giảng dạy của Ngài là:“Ai cũng tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra” (Lc 4:22). Tuy nhiên, ngay sau đó, thái độ của họ thay đổi và họ vấp phạm về Ngài khi nhận ranguồn gốc tầm thường của Ngài: “Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?”(Lc 4:22). Qua điều này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một chân lý mà ít người biết đến: Nhìn thấy sự vĩ đại trong cái vĩ đạilàbình thường, còn nhìn thấy cái vĩ đại trong những gìtầm thường là phi thường. Thật vậy, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự vĩ đại trong những khám phá nổi tiếng của khoa học. Nhưng rất ít người nhận ra sự vĩ đại của tình yêu mà một người cha hay một người mẹ dành cho con cái trong những công việc thật bình thường mỗi ngày. Khi chúng ta không nhận ra được sự vĩ đại trong những gì là bình thường, chúng ta dễ dàng rơi vào thái độ loại trừ. Đây là điều mà người Do Thái rơi vào khi họ nhận thấy nguồn gốc tầm thường của Chúa Giêsu. Như là một ngôn sứ, Chúa Giêsu cũng phải chấp nhận định mệnh bị loại trừ và bị giết như các ngôn sứ khác. Thật vậy, có câu nói trong đời rằng: “Quen thuộc sinh ra coi thường”:Những người và những vật quáquen thuộcsẽ dễ dàng làm chúng ta “coi thường.”Hay nói cách khác, chúng ta khó khám phá ra cái mới mẻtrong những người hoặc những vậtquá quen thuộcvà như thế chúng ta dễ dàng để định kiến chi phối cách nhìn và lối cư xử của mình.
Để vượt qua thái độ định kiến, Thánh Luca trong Tin Mừng mời gọi chúng ta có cái nhìn cởi mở và không loại trừ. Điều này được Thánh Luca trình bày qua việc chỉralối nhìn thiển cận của người Do Thái, đó là họ cho rằng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho “một dân tộc được tuyển chọn.” Nhưng theo Thánh Luca, ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến là cho mọi người,cả nam lẫn nữ. Điều này được phản chiếu trong hình ảnh của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en;thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi” (Lc 4:25-27). Chúng ta thấy hai ngôn sứ Êlia và Êlisa được sai đến với những người ngoài “dân được tuyển chọn.” Đây là điều sẽ tìm thấy trong sứ vụ của Chúa Giêsu như một vị ngôn sứ trong Tin Mừng của Thánh Luca.
Hai câu cuối cùng của Tin Mừng hôm nay chỉ ra phản ứng tiêu cực của những người nghe sự thật về chính họ:“Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành–thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4:28-30). Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái độ ngưỡng mộ và là hệ quả của thái độ coi thường trước đó mà họ có về Chúa Giêsu. Họ phẫn nộ vì Chúa Giêsu nói rằng: Ơn cứu độ dành cho họ cũng được chia sẻ cho những dân tộc khác. Họ phẫn nộ vì sự quảng đại và tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Đúng hơn, họ phẫn nộ vì họ ghen tỵ vì Thiên Chúa “đối xử tốt với những người khác như Ngài đã từng đối xử độ lượng với họ.” Tuy nhiên, sự phẫn nộ vì ghen ghét của họ không ngăn bước chân của Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện kế hoạch cứu độ muôn người của Chúa Cha: Không có hành trình nào cao đẹp bằng hành trình của người ngôn sứ đi theo con đường Thiên Chúa vạch ra dù bị chống đối và loại trừ.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 trình bày cho chúng ta cách chi tiết hơn về con đường cao đẹp nhất của vị ngôn sứ. Đó không phải là con đường làm chính trị, kinh doanh hoặc thành công trong cuộc sống vật chất, nhưng là con đường đức ái, con đường yêu thương phục vụ. Con đường này là con đường “nằm trong” mọi con đường và làm cho mọi con đường khác trở nên đẹp. Thánh Phaolô còn đưa ra những đặc tính của đức ái mà vị ngôn sứ của Thiên Chúa phải sở hữu: “Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù,không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.Đức áitha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cor 13:4-7).
Khi sống đức ái đến mức thập toàn, chúng ta nhận ra rằng: Đối với Chúa, chúng ta làm việc gì [tổng thống, giám đốc hay người quét rác, rửa chén] không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta đặt bao nhiêu tình yêu [dành cho Chúa và dành cho người khác] trong công việc chúng ta làm. Thánh Phaolô nói rõ điều này khi ngài viết:“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng.Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cor 13:1-3). Chúng ta không là gì nếu chúng ta không có con tim tràn đầy tình yêu dành cho Chúa và cho người khác. Công việc của chúng ta không sinh hoa trái thánh thiện nếu chúng ta không làm vì lòng mến Chúa và tha nhân.
Thật vậy, chính đức ái sẽ theo chúng ta vào trong đời sống vĩnh cửu. Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng: “Khi cuộc đời chúng ta ngả bóng về chiều, chúng ta sẽ bị xét xử trên tình yêu.” Chúng ta thấy, mọi thứ trong đời sẽ qua đi, mọi khát vọng của con người cũng sẽ qua đi, chỉ có khát vọng về tình yêu sẽ không bao giờ được thoả mãn: “Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn.Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi…. Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cor 13:8-10,13). Hãy sống một đời sống thật yêu thương cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. Đừng lãng phí cuộc đời trong hận thù, ghen ghét và không tha thứ!
Dịp Tết hằng năm, có nhiều bà con Việt Kiều về thăm thân nhân và ăn Tết ở quê nhà. Sau những TN 4-C156
Dịp Tết hằng năm, có nhiều bà con Việt Kiều về thăm thân nhân và ăn Tết ở quê nhà.
Sau những tháng ngày rao giảng Tin Mừng đó đây, hôm nay Chúa Giêsu trở về thăm làng quê Nagiarét. Ngày Sabbat, Chúa vào Hội đường tham dự giờ cầu nguyện và nghe giảng giải Thánh Kinh. Hội đường Do thái không phải là nơi thờ phượng, nhưng là nơi người do thái tập hợp hàng tuần vào các ngày Sabat để nghe đọc Sách Thánh và diễn giải Lời Chúa. Người Do thái chỉ có một nơi duy nhất dành để thờ phượng Thiên Chúa, để dâng lên Người Lễ Toàn Thiêu và lễ Tạ Tội, đó là đền thờ Giêrusalem. Các Hội đường ở các thành phố và làng mạc trong cả nước còn được sử dụng để dạy và đào tạo tàng lớp thanh thiếu niên về Kinh thánh. Trong thời tuổi trẻ, Đức Giêsu từng là một trong các thanh thiếu niên có mặt thưởng xuyên trong các giờ giáo lý Kinh thánh, và còn hơn thế nữa, là một học trò ưu tú bậc nhất và quen thuộc của ông Trưởng Hội đường tại quê nhà Nadarét .
Vì thế, khi Đức Giêsu trở lại Nadarét và đi vào Hội đường vào Ngày Thứ Bảy, ông Trưởng Hội đường tất nhiên đã nhận ra ngay cậu học trò ưu tú năm xưa của mình và đã đưa Sách Thánh cho Ngài đọc. Đây là hành động đầy kính trọng mà các vị Trưởng Hội đường thường dành cho các vị khách quý đặc biệt của họ. Đức Giêsu đọc sách Ngôn sứ Isaia và bắt đầu giảng giải Kinh Thánh.
Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế ? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy ? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì ?”.
Những người đồng hương ngạc nhiên bởi sự khôn ngoan và những phép lạ Ngài làm ở những nơi khác. Nhưng khi nhớ đến nguồn gốc của Ngài, chỉ là một người thợ mộc, bà con với những dân làng bình thường, họ không tin. Dân làng Nadaret và cả họ hàng Chúa Giêsu không tin Chúa, đó là điều cả bốn sách Tin Mừng cho biết. Riêng Luca cho thấy họ đi tới chỗ muốn giết Chúa bằng cách xô xuống vực. Nhưng Chúa băng qua giữa họ mà đi, tiếp tục rao giảng cho những làng mạc khác.
Dân chúng xì xầm bàn tán chỉ vì ghen tương và đố kỵ nên họ muốn giết Đức Giêsu.
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu ? Họ xì xầm về nguồn gốc chỉ thấy: “Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon”. Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu ? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế ! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Để cảnh tỉnh họ, Đức Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Êlia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Itraen phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Êlia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ítraen thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xarépta, miền Xiđôn. Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Êlisa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Itraen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Naaman ngoại giáo, người nước Syri.Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Đức Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành, kéo lên tận đỉnh núi, để xô xuống vực cho nát thịt tan xương.Lòng đố kỵ ganh ghét thật khủng khiếp! Đức Giêsu trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. Mc. Kenzie nói : Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi. Sự kiện này là khởi điểm những thử thách gian nan và cái chết đang chờ đợi Đức Giêsu trong những tháng ngày sắp tới.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: “Không ai là tiên tri cho xứ sở mình”. Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn “Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận”. Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật. Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì ta cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nadarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nadarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta… Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (Đức TGM Ngô Quang Kiệt).
Đức Thánh Cha Phanxicô chia sẻ: “Tôi đã suy nghĩ và tự phản tỉnh nhiều về những điều này khi cầu nguyện. Tôi nhận thấy mình được mời gọi và chắc chắn mọi người cũng được mời gọi phải nhận ra những gì là ghen ghét, đố kỵ trong tâm hồn hình, vì chúng luôn dẫn tới đau khổ và chết chóc, không làm cho người ta vui mừng, hạnh phúc được. Người có lòng ghen ghét, đố kỵ luôn nghĩ rằng những điều tốt lành mà người khác có chống lại họ. Và đó là khởi đầu của bao nhiêu tội lỗi, gian ác khác. Chúng ta hãy nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ mở con tim mình ra cho những ghen ghét, đố kỵ đi vào, vì chúng chỉ dẫn tới đau khổ và chết chóc mà thôi”. (Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tại nguyện đường thánh Marta, sáng thứ năm, ngày 21.01.2016, lễ kính thánh Anê, trinh nữ tử đạo. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã giảng về sự ghen ghét và đố kỵ. Người ta có thể dùng lời nói mà giết hại lẫn nhau. Nhưng Thiên Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những tội lỗi xấu xa này).
Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi người ta biết tôn trọng, cảm thông, tha thứ và nâng đỡ nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái bao dung. Cuộc sống thật đẹp khi người ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau.
Xin Chúa cho chúng con có một trái tim luôn rộng mở để yêu thương mọi người. Amen.
Chúa Nhật IV Thường Niên Năm C này mời gọi chúng ta suy gẫm sứ mạng gian khổ mà các TN 4-C157
Chúa Nhật IV Thường Niên Năm C này mời gọi chúng ta suy gẫm sứ mạng gian khổ mà các ngôn sứ đã kinh qua. Các ngài đã công bố những ý định của Thiên Chúa ngược lại với kỳ vọng của mọi người. Vì thế, để chu toàn sứ mạng của mình giữa những chống đối, các ngài phải cậy dựa vào Thiên Chúa.
Gr 1: 4-5, 17-19
Vốn bản tính là một người hiền lành, nhút nhát có một tâm hồn nhạy cảm, không muốn làm phiền lòng ai, ấy vậy tư tế Giê-rê-mi-a được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ của Ngài để loan báo án phạt sắp đến của Thiên Chúa cho một dân bất tín, vì thế ông bị mọi người căm ghét và tìm cách hãm hại.
1Cr 12: 31-13: 13
Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bài thánh thi nổi tiếng ca ngợi đức mến cao trọng trên tất cả.
Lc 4: 21-30
Tin Mừng tiếp tục thuật lại phần thứ hai của câu chuyện Đức Giê-su về thăm Na-da-rét, ở đó Ngài gặp phải thái độ tiêu cực từ phía những đồng hương của Ngài, họ không hiểu và tìm cách hãm hại Ngài.
BÀI ĐỌC I (Gr 1: 4-5, 17-19)
Trong lịch sử của trào lưu ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a chiếm lấy một chỗ đặc thù. Tác phẩm của ông chứa đựng, hơn bất kỳ tác phẩm nào khác, những lời trần tình bộc lộ cách tự nhiên đời sống nội tâm sâu xa của vị ngôn sứ. Trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ông Gióp là tưởng tượng. Trái lại, trong cuộc đối thoại thường hằng với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a phản ảnh đúng những gì vị ngôn sứ đã thực sự kinh qua. Vốn là một con người hiền lành, nhút nhát có tâm hồn nhạy cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận một sứ mạng hết sức khó khăn. Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a thuật lại ơn gọi ngôn sứ của ông “từ năm thứ mười ba triều vua Giô-si-gia-hu”, tức là năm 626 t.CN. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a xuất thân từ một gia đình tư tế ở A-na-thốt, nơi có một thánh địa thời xưa, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 5 cây số.
Thiên Chúa gọi tư tế Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ của Ngài
Thiên Chúa trực tiếp kêu gọi tư tế Giê-rê-mi-a khi Ngài xưng mình ở ngôi thứ nhất: “Ta”. Đây là biểu thức quen thuộc của các sấm ngôn, biểu thức này bày tỏ mối quan hệ mật thiết đặc biệt giữa Thiên Chúa và vị ngôn sứ của Ngài. Người ta cũng có thể nghĩ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa vang lên trong lòng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a.
Sáng kiến của Thiên Chúa là ưu tiên hàng đầu và vô điều kiện. Thiên Chúa chọn những ai phục vụ những ý định của Ngài đều là như thế. Đức Giê-su gọi các môn đệ của Ngài cũng theo cùng một cách như vậy: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15: 16).
Thiên Chúa đã gọi ngôn sứ Giê-rê-mi-a ngay từ trong lòng mẹ (1: 5). Trong Kinh Thánh cho đến lúc đó, kiểu nói này chỉ được dành cho ông Sam-son (Tl 13: 5). Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị sẽ lấy lại và áp dụng cho “người tôi trung” mầu nhiệm: “Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi” (Is 49: 1).
Thánh Phao-lô cũng sẽ định nghĩa ơn gọi của ngài như vậy: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong bụng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người”(Gl 1: 15). Thánh Lu-ca cũng sẽ nói về Gioan Tẩy Giả (Lc 1: 15) cũng như về Chúa Giê-su như vậy trong câu chuyện Truyền Tin.
Kiểu nói: “Ta đã biết ngươi” nói lên một sự hiểu biết chan chứa yêu thương, theo sắc thái ẩn chứa trong động từ Híp-ri, nghĩa là Thiên Chúa dành sự ưu ái của Ngài cho người mà Ngài chọn. Kiểu nói: “Ta đã thánh hóa ngươi” hàm chứa một sự tấn phong về phương diện thiêng liêng theo cùng một cách thức như các ngôn sứ khác.
Khi nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn quá trẻ: “Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!”. Chúng ta không biết tuổi đời của ông vào lúc đó, có thể khoảng chừng hai mươi tuổi. Ông tự coi mình còn trẻ người non dạ trước một sứ mạng cao trọng này.
Sứ mạng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a
Chính người thanh niên còn trẻ người non dạ này mà Thiên Chúa truyền lệnh:“Hãy chỗi dậy! hãy nói với chúng tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi. Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (1:17).
Sứ mạng của Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là kêu gọi toàn dân hoán cải và loan báo án phạt sắp tới, theo đó Thiên Chúa sẽ hủy diệt vương quốc, tàn phá Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ. Với tâm hồn nhạy cảm, ông sẽ khóc than về nỗi bất hạnh giáng xuống trên dân tộc của ông, nhưng với tư cách là ngôn sứ, ông sẽ kiên vững trong sứ điệp của mình cách sáng suốt đến kinh ngạc và nuôi dưỡng niềm hy vọng không lay chuyển của mình vào một “Giao Ước Mới”.
Ơn phù trợ của Thiên Chúa
Vì loan báo những tai họa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị bách hại, bị chế nhạo. Ông sẽ cho thấy lòng can đảm khôn sánh trong những gian nan thử thách. Đức Chúa hứa với ông: “Này, hôm nay, chính ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố, nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ: từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ” (1: 18).
Trong các ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a có vận mệnh gần giống với vận mệnh của Chúa Ki-tô.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 31: 13: 13)
Đoạn trích thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bản văn nổi tiếng được gọi là “bài ca đức mến”. Bài ca đức mến này hấp dẫn chúng ta vì nhiệp điệu của nó, những từ chính yếu được láy đi láy lại của nó, câu kết luận của nó gây ấn tượng trên chúng ta: “Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba điều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (13: 13).
Chủ nghĩa cá nhân
Thánh Phao-lô vừa gợi lên sự giàu có của những ân huệ mà Thánh Thần ban cách quảng đại cho cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô. Tuy nhiên, những ân ban này gây nên những xáo trộn, những ghen tuông. Thánh Phao-lô đã nhận thức rất rõ một trong những khuyết điểm cốt yếu của các tín hữu này là “chủ nghĩa cá nhân”. Vì thế, thánh nhân thường hằng cầu xin cho họ ý thức rằng họ là một phần của thân thể duy nhất, thân thể của Đức Ki-tô.
Phương thuốc thật sự chữa trị chủ nghĩa cá nhân là yêu thương tha nhân và yêu mến Thiên Chúa. Đây là một ân huệ vượt trên mọi ân huệ. Mọi người trong cộng đoàn muốn được ơn nói tiên tri, được ơn nói tiếng lạ, được biết mọi điều bí nhiệm, thánh Phao-lô đáp lại: “Giả như tôi có được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết mọi điều bí nhiệm , mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì” (13: 1-2).
Thánh Phao-lô không nghi ngờ đức tin của các tín hữu Cô-rin-tô, thậm chí “chuyển núi dời non”; thánh nhân không nghi ngờ đức mến của họ, thậm chí đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí; thánh nhân không nghi ngờ đức cậy của họ, thậm chí sẵn sàng chết vì đức tin của mình. Điều quan trọng mà thánh nhân muốn nhắn gởi đến họ chính là nếu họ “không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì” (13: 3).
Cao trọng hơn cả là đức mến
Nếu phần bút chiến chiếm một chỗ lớn trong lời khuyên bảo cháy bỏng của thánh Phao-lô, nó không là tất cả. Những phẩm chất của “đức mến” mà thánh nhân kể ra không dứt và cuối cùng thánh nhân quả quyết: “Đức mến không bao giờ mất được”. Viễn cảnh đều hướng đến yêu thương người thân cận, nhưng mến Chúa cũng được hàm chứa ở đây. Trong tất cả các thư của mình, thánh Phao-lô không ngừng lập đi lập lại đức mến đối với Thiên Chúa đang hoạt động trong chúng ta để sinh hoa kết trái, đó là những hoa trái của đức ái huynh đệ. Thánh Phao-lô chỉ cho thấy dù làm bất kỳ công việc nào, ngay cả hiến thân mình cho đến chết, mà không có đức mến thì chưa đủ. Chính đức tin gợi lên đức mến; chính đức cậy nâng đỡ đức mến. Tự bản chất, ba nhân đức này đều là thánh thiện, nhưng “cao trọng hơn cả là đức mến”.
TIN MỪNG (Lc 4: 21-30)
Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục suy gẫm câu chuyện Đức Giê-su về thăm những đồng hương Na-da-rét của Ngài theo thánh Lu-ca. Trong phần thứ nhất mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật trước, Đức Giê-su đã được mọi người đồng hương hoan hỷ chào đón và ngưỡng mộ, vì họ hãnh diện về danh tiếng của một người trong họ và thán phục về cách thức giải thích Kinh Thánh của Ngài. Trái lại, phần thứ hai mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hôm nay là một thất bại và gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét. Câu chuyện này biểu tượng cho hai thái độ tương phản của dân Ít-ra-en: trước hết hoan hỉ tiếp đón Đức Giê-su, sau đó tìm cách loại bỏ và giết chết Người. Đồng thời, Đức Giê-su loan báo sứ mạng phổ quát của Người.
Thái độ của người đồng hương Na-da-rét từ thiện cảm sang ác cảm (4: 22)
Từ thái độ thiện cảm: “Mọi người đều tán thưởng và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Đức Giê-su”, những người đồng hương Na-da-rét chuyển sang thái độ ác cảm với Ngài chỉ vì Ngài xuất thân từ một gia đình tầm thường: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?”. Gia thế tầm thường của Người đã che khuất tầm nhìn của họ khiến không thể nhận ra Đức Giê-su là Đấng được sai đến để thực hiện “lòng Chúa xót thương” trải rộng cho tất cả mọi người, nhất là những người bất hạnh, nghèo hèn, cùng khốn, bị áp bức trong xã hội, mà ngôn sứ I-sai-a đã báo trước.
Câu trả lời của Đức Giê-su (4: 23-27)
Đức Giê-su vạch trần những ý nghĩ thầm kín trong lòng họ khi trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình”. Câu tục ngữ này tiên báo thật hoàn hảo về những lời thách đố được lập lại đến ba lần ở dưới chân thập giá: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn”(23: 35, 37, 39).
Với niềm kiêu hãnh hẹp hòi và với cái nhìn nông cạn, họ cảm thấy bị chạm tự ái vì Đức Giê-su, người đồng hương của họ, đã không làm những điều kỳ diệu ở tại Na-da-rét như Ngài đã làm tại Ca-phác-na-um. Họ cho rằng mình có quyền chính đáng đòi hỏi Ngài thực hiện những phép lạ cốt để thỏa mãn tính tự phụ của họ, chứ không nhằm thay đổi lòng dạ của họ. Vì thế, Đức Giê-su trích dẫn câu tục ngữ thứ hai: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương của mình”. Qua câu tục ngữ thứ hai này, Đức Giê-su phác họa số phận chung của các ngôn sứ thời xưa, các ngài đã không được hiểu và bị bách hại bởi chính những người đồng hương của mình, tiêu biểu là số phận của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đồng thời tiên báo số phận của chính Ngài.
Cuối cùng, Đức Giê-su dẫn chứng hai mẫu chuyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sê được trích từ 1V 17 và 2V 5. Qua hai mẫu chuyện này, Đức Giê-su muốn ám chỉ đến sứ mạng phổ quát của Ngài. Ngài đến để thực hiện sấm ngôn Is 61: 1-2, nhưng không chỉ đóng khung cho những người đồng hương của Ngài: dân Na-da-rét hay toàn thể dân Ít-ra-en, mà còn mở rộng ra đến hết mọi dân mọi nước khác nữa. Việc Ngài chọn Ca-phác-na-um làm cứ điểm truyền giáo của mình theo cùng một ý nghĩa như vậy. Thành này, được gọi là “Ngã Tư của các dân tộc”, là nơi giao tiếp thường hằng của dân Do thái với những dân ngoại chung quanh. Chiều kích hoàn vũ của sứ điệp được phác họa rồi. Đó cũng là toàn bộ chương trình mà Giáo Hội, tiếp nối sứ mạng của Đức Giê-su, sẽ thực hiện như được miêu tả trong sách Công Vụ Tông Đồ, sách này cũng là công trình biên soạn của chính thánh Lu-ca. Chính vì sứ mạng này mà Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến để thực hiện bằng cả mạng sống mình và cũng vì sứ mạng này mà Giáo Hội hiện diện giữa nhân loại cho đến ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang.
Tiên báo tương lai (4: 28-30)
Việc Đức Giêsu hủy bỏ đặc quyền đặc lợi của họ trong việc thi ân giáng phúc gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét của Ngài. Sự phẫn nộ của họ: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ”, tiên báo sự phẫn nộ của những thành viên Thượng Hội Đồng sau này. Hành động dữ dội của họ: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành… kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”, tiên báo cuộc Khổ Nạn của Ngài. “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”: tiên báo cuộc Phục Sinh tương lai của Ngài. Hiện thời, chưa tới giờ của các đối thủ, Đức Giê-su vẫn tiếp tục con đường của mình, con đường ấy rốt cuộc sẽ dẫn Ngài lên Giê-ru-sa-lem, ở đó Ngài sẽ bị dẫn ra ngoài thành thánh đến tận đỉnh đồi và bị đóng đinh tại đó.
Theo thánh Lu-ca, câu chuyện Đức Giê-su viếng thăm Na-da-rét mang tính ngôn sứ: câu chuyện này quy tụ mọi yếu tố tiên báo tiến trình sứ mạng của Đức Giê-su. Để hiểu một cách xác đáng những tương hợp lịch sử giữa cuộc viếng thăm Na-da-rét của Ngài và cuộc đời cứu độ của Ngài, chúng ta nên đọc liên tục: lòng nhiệt thành của đám đông dân chúng; đoạn thái độ từ chối của dân Ít-ra-en; sứ điệp được hứa cho lương dân; viễn cảnh Tử Nạn; và cuối cùng, sự tự do tối thượng của Đức Giê-su, Đấng làm chủ cuộc sống và cái chết của Người: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Câu chuyện này cũng tiên báo sứ mạng của Giáo Hội trong tương lai: việc loan báo về những đặc ân dành cho dân Ít-ra-en đã đến hồi kết thúc và thời kỳ Thiên Chúa đón nhận lương dân gây nên sự phẫn nộ từ phía người Do thái. Điều đó dự báo một chương trình như ở Cv 13, trong đó những người Do thái ở An-ti-ô-khi-a chuyển dần từ thiện cảm đối với thánh Phao-lô sang “phẫn nộ” khi họ thấy dân ngoại “nghe lời của Thiên Chúa” (Cv 13: 44-45). Nếu câu 24 đã tiềm ẩn những lời đe dọa đối với Chúa Giê-su thì câu 29 nói thẳng ra một mưu toan sát nhân đầu tiên. Việc dân thành Giê-ru-sa-lem loại trừ Đức Giê-su ra “khỏi thành” (x. Cv 3: 14-15), cũng như sau này đối với thánh Tê-pha-nô (Cv 7: 58), được loan báo theo cách đó. Ngay từ cảnh này, chúng ta biết rằng tước hiệu “ngôn sứ” dành cho Đức Giê-su hàm chứa sự loại bỏ và cuộc tử nạn.
Những người đồng hương Na-da-rét đã có sẵn hình tượng về Đấng Cứu Độ. Vì thế, khi không thể đòi hỏi Ngài hành động theo đúng ý muốn của họ, họ từ chối Ngài và thậm chí tìm cách hãm hại Ngài. Trong cuộc sống, chúng ta cũng thường hay cư xử với Lời Chúa theo cùng cách thức như thế. Chúng ta đọc và tìm cách uốn nắn lời Chúa sao cho phù hợp với sở thích, ước muốn của chúng ta, thay vì để cho lời Chúa thực sự chất vấn chúng ta. Chúng ta sử dụng Lời Chúa như phương tiện biện minh cho cách sống hiện nay của mình, thay vì để cho Lời Chúa thật sự là ngọn đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta. Đó là lý do tại sao Lời Chúa không thể tác động vào cuộc sống của chúng ta, sinh hoa kết trái trong cuộc đời của chúng ta. Xin được mượn lời của tác giả thư gởi tín hữu Do thái về quyền năng của Lời Chúa để kết thúc buổi chi sẻ này: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4: 12-13).
Ai trong chúng ta cũng có cha có mẹ sinh ra và ai trong chúng ta cũng đều có một mái ấm gia TN 4-C158
Ai trong chúng ta cũng có cha có mẹ sinh ra và ai trong chúng ta cũng đều có một mái ấm gia đình. Và gia đình chính là sợi giây linh thiêng mà mọi người ai cũng đều trân trọng.
Chúng ta đang ở vào những ngày cuối cùng của năm Âm lịch. Trong không khí nao nức chuẩn bị đón tết cổ truyền dân tộc, nhà nhà người người chạy đua cùng thời gian. Và ai nấy đều muốn dành thời gian cho gia đình của mình. Vì thế, dù bận rộn công việc như thế nào nhiều người đều vẫn thu xếp với mong muốn ở bên gia đình.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ!
Hoàn cảnh của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay không phải như là chúng ta đang sống vào dịp tết. Nhưng nó rất phù hợp với những ai đang mang trong lòng nỗi buồn xa xứ. Sau khi Chúa Giêsu sai các tông đồ đi vào môi trường thực tế nhằm giúp các ông có được nhiều kinh nghiệm hơn cho công việc loan báo Tin Mừng sau này. Chúa Giêsu trở về quê hương thăm gia đình, nơi mà Ngài đã từng sinh trưởng với bao kỉ niệm thời thơ ấu. Nơi đây nhiều người mở rộng vòng tay đón nhận người con xa xứ nên họ mời Ngài vào hội đường để chia sẻ. Nhân cơ hội này Ngài trình bày cho họ về giáo lý của Ngài. Sau khi nghe những điều Ngài vừa trình bày “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” và họ tự đặt câu hỏi: “ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?” nghĩa là chính họ biết rõ xuất thân của Chúa Giêsu, nhưng họ không thể tin vào tai mình được. Lời Ngài như có ma lực cuốn hút họ, đưa họ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nhưng cuối cùng lòng họ không tin. Chúng ta thử nghĩ đặt mình trong hoàn cảnh của Chúa Giêsu khi chúng ta rời quê hương đi học rồi ra trường thành đạt nay trở về muốn cho mọi người biết về những điều mắt thấy tai nghe về những nơi mà mình đã từng trải nghiệm. Nhưng mọi người không mấy đón nhận. Chúng ta có buồn không? Buồn chứ, tủi chứ. Chúa Giêsu cũng vậy, nên Ngài trưng dẫn tục ngữ biểu lộ nỗi chua chát trong lòng mình : “không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình.” thói thường những gì quen quá thì hóa nhàm. Chúng ta thường phán đón người khác dưới lăng kính chủ quan, tùy thể cái hình thức. Cũng chính não trạng trạng này đã làm cho đời sống chúng ta thiếu vắng tình người hơn, đời sống thiêng liêng trở nên lạnh nhạt hơn. Chúng ta dễ dàng lướt qua khi tha nhân đang cầu cứu. Chúng ta dễ bỏ Chúa trước những lợi lộc nhỏ nhoi hay những sự viếng thăm đầy tình Chúa tình người trở thành sự sung đột.
Không xung đột làm sao được khi một bên mang đầy thiện chí còn một bên thì luôn giữ thái độ khép kín, cho nên cơ hội được đón nhận ơn cứu độ cũng bị đóng kín và nhất là khi Chúa Giêsu trưng dẫn hai ví dụ trong thời Cựu ước: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thiếu gì bà góa trong nước It-ra-en vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thế mà ông được sai đến giúp bà góa thành Sa-rép-ta miền Xi-đon. Cũng vậy, thiếu gì người phong hủi ở trong nước It-ra-en vào thòi ngôn sứ Ê-li-a nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người Xy-ri-a”.
Chúa Giêsu muốn ám chỉ họ không xứng đáng để được hưởng ơn cứu độ vì họ cứng lòng tin còn các dân tộc khác lại có cơ hội hơn. “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành-thành này được xây trên núi-họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”.
Cộng đoàn phụng vụ thân mến!
Với sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắn gởi cho mọi người chúng ta luôn có thái độ quảng đại, bao dung trong cuộc sống. Luôn tạo cho mình cơ hội nhất là cơ hội để đến với Chúa và Chúa đến với mình. Đừng đóng khung bất cứ ai khi chưa hiểu hết về họ. Luôn nghĩ đến gia đình như Chúa Giêsu đã từng yêu đến. Với tâm tình đó cầu chúc tất cả mọi người trong năm mới này thêm nhiều công phúc, nhận đầy lộc thánh và hưởng thọ viên mãn.
Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã suy nghĩ về chuyến viếng thăm của Chúa Giêsu về Nadaret và Ngài TN 4-C159
Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã suy nghĩ về chuyến viếng thăm của Chúa Giêsu về Nadaret và Ngài đã giảng trong Hội đường. Hôm nay chúng ta tiếp tục suy nghĩ về việc Ngài rao giảng tại đó.
Ngài đọc một đoạn sách tiên tri Isaia nói đến Đấng sẽ được sai đến mang cho dân ơn giải thoát, là Đấng Thiên Sai. Ngài kết thúc bằng một câu không ai có thể ngờ : “ Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”. Gián tiếp Ngài công nhận mình là Đấng Thiên Sai, nhưng mọi người trong Hội đường không mấy ai hiểu. Rất tiếc rằng thánh sử không ghi lại những gì Chúa giảng hôm ấy mà chỉ ghi lại phản ứng của những người nghe mà thôi. Mọi người đều tán thành những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Nhưng sau khi thán phục, dân Nadaret bắt đầu tự hỏi về thân thế của Ngài : “ Ông nầy không phải là con ông Giuse đó sao ?” Và từ đó xảy ra một cuộc tranh luận sôi nổi đưa đến quá khích đến nỗi họ muốn xô Ngài xuống vực sâu, vì Ngài đã cho họ thấy rằng dân Do thái trong lịch sử, đã từ chối các tiên tri, đã mất đi ơn Chúa. Những người lương dân được hưởng nhờ như bà góa ở Sarepta và ông Naaman người Syria.
Chúng ta đón nhận lời Chúa như thế nào ? Chúng ta có cảm thấy vui mừng vì Chúa đã nhìn đến chúng ta, thương chúng ta và đã ngỏ lời với chúng ta, mời gọi chúng ta bước vào cuộc đối thoại yêu thương của Ngài không ? Hay chúng ta chỉ lắng nghe tiếng mời gọi của thế gian, chăm chú nghe những lời mời gọi của thế gian mà lãng quên lời Chúa ? Càng tệ hơn khi chúng ta chống đối lời Chúa, xem như một cản trở hay không có lợi gì cho chúng ta. Chúng ta mất bao nhiêu thời giờ để chú tâm đến những chuyện phù phiếm, giả dối của thế gian mà bỏ qua lời mời gọi của Chúa. Chúa luôn mời gọi và mong mỏi chúng ta chấp nhận lời Ngài để bước vào hạnh phúc Ngài dành cho chúng ta, nhưng hình như chúng ta thích những thú vui chóng qua của thế gian hơn hạnh phúc tuyệt vời của Chúa. Chúng ta thích làm nô lệ thế gian hơn làm con Chúa. Nhưng hãy nhìn lại : thế gian đã cho chúng ta được gì ? Nỗi thất vọng triền miên. Vì mọi sự đều chóng qua và chúng ta vẫn là những con người nhỏ bé, không nắm được tương lai. Hôm nay, thế gian càng thêm hấp dẫn vì những phát minh mới, mang lại cho con người nhiều tiện nghi, nhiều thú vui hơn bao giờ hết, nhưng không bao giờ có bình an. Thế gian hôm nay là một nồi thuốc súng đang chực nổ bất cứ lúc nào. Hôm nay, con người đang sống trong lo sợ hơn là hạnh phúc. Thế chiến thứ ba đang chực chờ…tương lai của thế giới mù mịt.
Chỉ có Thiên Chúa mới là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta mà thôi : “ Chỉ có Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống…” Chỉ có tình thương của Chúa mới là bảo đảm cho chúng ta thôi. Phải tin rằng Chúa vẫn thương chúng ta, dù chúng ta có lãng quên Ngài, vì Ngài là Tình Yêu. Không ai có thể ngăn cản Ngài thương chúng ta. Nhưng chúng ta có đón nhận tình thương của Ngài không ? Dân Nadaret lúc đầu đã chăm chú nhìn vào Ngài, lắng nghe Ngài, nhưng sau đó đã nhìn nơi khác và đã đánh mất Ngài. Chúng ta hãy chăm chú nhìn về Ngài. Chúng ta nhớ, trong khi đi đường, đoàn dân chen lấn Ngài, chạm vào Ngài, nhưng không có ai trong họ được lành bệnh, chỉ có một người phụ nữ rón rén chạm vào áo Ngài và lập tức bà được khỏi bệnh. Ngài là như thế đấy ! Ngài là quyền năng nhưng chỉ có ai tin vào Ngài mới được chữa lành, mới thấy mình được chấp nhận.
Chúng ta có tin thật không ? Vì chúng ta có quyền từ chối hồng ân và tình thương của Ngài như dân Nadaret. Chúng ta tin vào cái gì ? Không có gì bảo đảm cho chúng ta cả. Mọi sự đều mong manh. Chỉ có Ngài thôi. Hãy chăm chú nhìn Ngài, hãy đến với Ngài, hơn nữa ăn lấy Ngài, nuốt lấy tình yêu đang mời gọi. Chúng ta sẽ không bao giờ thất vọng, vì Ngài là nguồn sống , là hạnh phúc duy nhất của chúng ta thôi. Hãy hỏi các thánh, họ sẽ nói cho nghe. Thánh Âutinh, sau nhiều năm sống trong trụy lạc đã thú nhận : “Con đã biết Chúa quá trễ !” Chân phước Charles de Foucauld, sau thời gian sống phóng túng đã tìm lại được Chúa và từ đó đã hoàn toàn sống cho Chúa, đã nhận ra rằng ngoài Chúa, không có hạnh phúc nào khác. Hãy đón nhận Chúa vô điều kiện, vì Chúa có thể đến với chúng ta bất cứ dưới hình thức nào. Chỉ cần chúng ta có sẵn sàng tiếp đón Ngài, dù dưới hình thức một tấm bánh hay dưới hình thức một người anh em đau khổ. Miễn là chúng ta không từ chối Ngài.
Chuyện kể, có một thiền sư ngắm nhìn dòng suối hiền hòa, bỗng nhiên trông thấy một con bọ TN 4-C160
Chuyện kể, có một thiền sư ngắm nhìn dòng suối hiền hòa, bỗng nhiên trông thấy một con bọ cạp rớt xuống suối. Thầy đưa tay vớt nó và nhẹ nhàng để nó lên mặt đất. Con bọ cạp theo phản ứng tự nhiên: cong đuôi chích bất cứ ai đụng đến nó. Mặc dù bị nó chích rất đau, nhưng thầy không hề tức giận.
Sau đó, thầy đứng lên, đi được vài bước và quay lại nhìn con bọ cạp, thấy nó lại té xuống suối. Thiền sư vội vàng chạy lại cứu nó, rồi cẩn thận đưa nó lên mặt đất. Lần này, nó cũng chích thầy phát nữa.
Một người đi ngang qua, thấy vậy bực mình lớn tiếng: “Con bọ cạp vô ơn bạc nghĩa như vậy, cứu nó làm gì cho mệt. Kệ xác nó.”
Thiền sư nghe vậy thản nhiên trả lời: “Chích người là bản năng của con bọ cạp, còn lương thiện là bản năng của ta, sao ta có thể vì bản năng của nó, mà vứt bỏ bản năng của ta?”
Câu chuyện trên diễn tả lòng từ bi và cao thượng của vị thiền sư đối với con bọ cạp. Lòng từ bi khiến vị thiền sư sẵn sàng cứu vớt con bọ cạp chết đuối dẫu biết rằng rất có thể bị nó quay lại chích vào tay. Một cách nào đó, câu chuyện này giúp chúng ta hiểu hơn câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
2- Đến câu chuyện Tin Mừng
Tiếp nối câu chuyện Tin Mừng Chúa Nhật vừa rồi, Chúa Giêsu trở về Nadarét. Đây là lần đầu tiên Người trở về thăm quê sau khi bắt đầu sứ vụ công khai. Chúa Giêsu vào hội đường, đọc và giải thích Sách Thánh. Dân chúng ngạc nhiên và thán phục những lời của Người. Nhưng sau đó, những người đồng hương của Chúa thắc mắc: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? Họ thách thức Chúa làm phép lạ như đã làm tại Caphanaum để họ tin. Trước sự khước từ của người đồng hương, Chúa Giêsu nói rằng: “Không một tiên tri nào được tôn trọng ở chính quê hương mình” (Lc 4,24). Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy và lôi Người ra khỏi thành, rồi đưa Người lên núi để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi (Lc 4,21-30).
Khi tường thuật lại sự kiện này, thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy rằng, những gì Kinh Thánh báo trước nay đã ứng nghiệm; những gì đã được hứa trong Cựu Ước nay được thực hiện nơi Đức Giêsu. Người đến khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ. Và cả những lời tiên báo của ông già Simêon về sự chống đối Đức Giêsu hôm nay cũng ứng nghiệm. Thánh Máccô còn cho thấy rằng sự chống đối này bắt nguồn từ ngay trong gia đình họ hàng của Người, khi họ nghĩ rằng Chúa Giêsu “bị mất trí và đi bắt Người về.” Còn thánh Luca liên hệ đến số phận của các tiên tri trong Cựu Ước, những người bị từ chối, bách hại, tù đày và bị giết chết. Đây cũng là số phận của Đấng Cứu Thế phải trải qua khi thực thi sứ mạng cứu độ.
Nguyên nhân của sự khước từ này là do sự thành kiến của những người đồng hương của Chúa. Họ bị giới hạn tầm nhìn của mình nơi sự hiểu biết hẹp hòi về lý lịch gia đình của Người. Họ chỉ nhìn nhận Đức Giêsu là một con người chứ không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai. Nên họ không tin vào Người và không nhận ra căn tính đích thực của Người.
Vì thế, Đức Giêsu không làm một phép lạ nào tại chính quê hương mình. Điều đó không có nghĩa là vì Người đã bị tước đoạt quyền năng làm phép lạ, nhưng vì sự cứng lòng, thành kiến và thiếu niềm tin của người đồng hương. Những thái độ đó ngăn cản Chúa không muốn thực hiện những dấu lạ cho họ. Bởi lẽ, dẫu Thiên Chúa quyền năng, phán một lời liền có trời đất, nhưng Người phải dừng bước trước thái độ cứng lòng và thiếu cộng tác của con người. Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để lòe mắt thiên hạ, hay ra oai quyền phép thần thánh của mình. Phép lạ Người thực hiện như là kết quả và phần thưởng cho những ai đã tin. Như Chúa thường nói: “Đức Tin con cứu chữa con.”
Như thế, khi bắt đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu phải đối diện với sự khước từ và chống đối. Điều đó cho thấy mầu nhiệm thập giá luôn xuất hiện trong cuộc đời và sứ vụ của Người. Đỉnh cao của sự chống đối và khước từ đó chính là thập giá. Nơi đó, sự phản trắc, tệ bạc và độc ác của con người được phơi bày đến mức tột đỉnh. Nhưng nơi đó, lòng từ bi, nhân hậu và tình yêu của Thiên Chúa cũng đạt tới sự viên mãn vô biên. Một Thiên Chúa bị con người từ chối và đóng đinh vào thập giá. Một Thiên Chúa đón nhận tất cả sự bạc nhược vô ân đó bằng một tình yêu không bờ bến, nhờ đó để chữa lành và cứu độ con người.
3- Thái độ của người Kitô hữu
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có thể mắc phải thái độ thành kiến, hẹp hòi và vô ơn đối với Thiên Chúa và tha nhân như người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay. Thái độ thành kiến là một hàng rào ngăn cản con người tới việc khám phá chân lý và những gì mới mẻ của cuộc sống do Chúa Thánh Thần mang lại. Thành kiến nhốt con người trong tầm nhìn hạn hẹp của mình, như cóc ngồi ở đáy giếng chỉ nhìn trời bằng cái vung. Nên nó làm cho con người không nhận ra những điều kỳ diệu và tốt đẹp nơi người khác. Vì thế, chúng ta loại bỏ nơi mình thành kiến khi tiếp cận cuộc sống bằng cách biết mở rộng tầm nhìn, cởi mở và tôn trọng người khác, biết đón nhận và học hỏi những điều mới mẻ từ người khác, cũng như biết bao dung và chấp nhận những khác biệt của họ mà không hề có thái độ loại trừ. Cuộc sống này đáng ngưỡng mộ và có nhiều điều mới mẻ đối với ai biết sống tích cực và ngạc nhiên.
Đối với Thiên Chúa, mỗi ngày chúng ta được mời gọi luôn có thái độ ngoan ngùy trước những tác động của Chúa Thánh Thần, trở nên dễ bảo và sẵn sàng để được Người hướng dẫn. Bởi lẽ, Người không thể làm gì trước sự chai lì của chúng ta và phép lạ không thể xảy ra với những người không có niềm tin như Tin Mừng hôm nay minh chứng.
Nguyện xin Chúa biến đổi lòng trí chúng ta theo thánh ý của Người. Amen!
Những hình ảnh chủ yếu nói lên sứ mệnh của Chúa Giê-su được trình bày qua Phụng vụ Lời TN 4-C161
Những hình ảnh chủ yếu nói lên sứ mệnh của Chúa Giê-su được trình bày qua Phụng vụ Lời Chúa của những Chúa Nhật đầu mùa Thường niên. Chúa Giê-su là Đấng được Thánh Thần xức dầu tấn phong, là Đấng tuyên đọc Lời Chúa, Đấng làm phép lạ, chữa lành, trừ quỷ… Đặc biệt hôm nay, bài đọc trích sách Giê-rê-mi-a và bài Tin Mừng nói với chúng ta về Chúa Giê-su là Đấng được Thiên Chúa sai đến trần gian, không phải cho riêng dân Do-thái mà thôi, nhưng cho mọi dân mọi nước. Sứ mệnh của Chúa Giê-su là sứ mệnh phổ quát, liên hệ đến toàn thể nhân loại và đến ơn cứu độ dành cho mọi người không trừ ai. Suy nghĩ vể chiều kích phổ quát của sứ mệnh Chúa Giê-su là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Hoàn cảnh khiến Chúa Giê-su khẳng định sứ mệnh phổ quát của Người chính là từ câu chuyện xảy ra ở hội đường Na-da-rét. Tại đây, vì ganh ghét với những nơi Chúa Giê-su đã làm nhiều phép lạ, dân thành Na-da-rét đòi hỏi Chúa: “Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” Dĩ nhiên, vì thấy họ không có lòng tin, Chúa Giê-su đã không đáp ứng yêu cầu của họ (xem Mác-cô 6:5-6) và Người còn nói lên một sự thật phũ phàng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Họ muốn độc quyền “hưởng lợi” từ sứ mệnh của Chúa Giê-su, chứ không muốn chia sẻ phúc lành của Thiên Chúa với những người khác. Họ đã thiển cận muốn Chúa Giê-su phải dành ưu tiên cho họ. Họ không muốn hiểu chiều kích phổ quát sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh đã được sách ngôn sứ I-sai-a nói đến và vừa được Người tuyên đọc trong hội đường của họ. Vì thế, để minh chứng đặc tính phổ quát của sứ mệnh, Chúa Giê-su đã đan cử hai câu chuyện: chuyện ngôn sứ I-sai-a cứu giúp bà góa thành Xa-rép-ta khỏi nạn đói và chuyện ngôn sứ Ê-li-sa chữa lành quan Na-a-man người xứ Xy-ri mắc bệnh phong cùi. Cả hai người này đều thuộc thành phần dân ngoại, chứ không phải dân Ít-ra-en. Thế là dân chúng Na-da-rét đùng đùng nổi giận và muốn giết quách Chúa Giê-su, người đồng hương của họ! Tính ích kỷ đã bưng tai bịt mắt họ khiến họ không muốn nhìn nhận Chúa Giê-su là Đấng cứu độ trần gian; hơn thế nữa, họ còn muốn tiêu diệt luôn một người con thân yêu của Na-da-rét đã nổi tiếng khắp nơi, nên họ đã “kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”. Nhưng Chúa Giê-su đã “băng qua giữa họ mà đi” vì giờ của Người chưa đến!
Để hiểu đặc tính phổ quát của sứ mệnh Chúa Giê-su, chúng ta hãy trở lại với bài đọc 1 trích sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Chính Giê-rê-mi-a đã tiếp nhận lời Thiên Chúa giải thích sứ mệnh Người trao cho vị ngôn sứ: “Trước khi ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”. Thiên Chúa đã chủ động tuyển chọn, thánh hóa và đặt Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ của Người. Vậy là ngôn sứ của Thiên Chúa, Giê-rê-mi-a phải làm gì? Tác vụ của ông là nói thay cho Chúa, nói những điều Người truyền cho ông nói và nói cho mọi người mọi nơi. Nhưng những điều ông nói lại không phải là các điều người ta muốn lắng nghe, “từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh, các tư tế và toàn dân trong xứ”. Do đó họ không nhìn nhận sứ mệnh ngôn sứ của ông, đến nỗi còn tìm cách tiêu diệt ông nữa. Tuy nhiên ông không hề sợ hãi vì ông tin tưởng vào sự che chở của Thiên Chúa, như Người đã hứa với ông: “Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”. Sứ mệnh của Giê-rê-mi-a là hình ảnh tiên báo sứ mệnh của Chúa Giê-su. Giống như Giê-rê-mi-a, Chúa Giê-su không được đón nhận tại quê nhà. Giống như dân vương quốc Giu-đa đã “giao chiến” với Giê-rê-mi-a, các kẻ thù của Chúa Giê-su là nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư, thượng tế và tư tế, tất cả đều tìm đủ cơ hội và đủ cách để bắt bẻ, làm mất uy tín của Chúa trước dân chúng. Cuối cùng họ đã thành công trong việc bắt Người, làm chứng gian kết tội Người và nộp Người cho Rô-ma để áp lực họ đóng đinh Người vào thập giá. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn “ở với” Người, giải thoát Người và cho Người sống lại vinh hiển. Còn Chúa Giê-su, nhiều lần Người đã xác tín rằng sứ mệnh của Người là cứu độ toàn thể nhân loại. Người quả quyết Thiên Chúa “đã sai Con Một đến thế gian để “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Những lần khác, Chúa Giê-su còn nói đến sứ mệnh phổ quát này: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”, hoặc: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 12:32; 3:14).
Sống sứ điệp Lời Chúa
Với bài đọc 1 và bài tin Mừng, ta hiểu được sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su là sứ mệnh phổ quát. Nhưng còn bài đọc 2 trích thư 1 Côrintô thì sao? Thánh Phao-lô nói đến tầm quan trọng và vai trò của đức mến được biểu lộ qua nhiều hành vi, rồi ngài kết luận: “Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. Phải, chính với đức mến này, vì lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người, Chúa Giê-su và cả chúng ta nữa sẽ thi hành và chu toàn sứ mệnh!
Những Chúa nhật trước, các tín hữu được mời gọi bước theo Chúa Giê-su và sống trong Ngài. Chúa TN 4-C162
Những Chúa nhật trước, các tín hữu được mời gọi bước theo Chúa Giê-su và sống trong Ngài. Chúa nhật thứ IV này, người môn đệ của Chúa được mời gọi nói lời yêu thương trong mọi hoàn cảnh. Dẫu biết rằng thân phận người ngôn sứ, người đi nói lời của Đấng Tình Yêu, luôn gặp trở ngại và khổ đau. Nhưng một khi được cảm nếm tình yêu của Chúa, người môn đệ chỉ còn biết nói lời yêu thương.
“vì Ta ở với ngươi”
Giê-rê-mi-a được người đời tặng cho cái tên là “vị ngôn sứ đau khổ” bởi đơn giản là đời ông quá khổ đau. Chẳng phải đến khi việc đã rồi thì ông mới giật mình thấm thía. Nhìn vào lịch sử, ông đã thấy và cảm được nó nên ông đã từ chối, đã đay đảy không nhận lời làm ngôn sứ của Chúa. Nhưng rồi mọi lý do, nào là còn trẻ, nào là chưa có kinh nghiệm, nào là nhiều thù địch, nào là không biết ăn nói, tất cả chẳng là gì với lời hứa của Vị Chúa Tình Yêu “Ta ở với ngươi và giải thoát ngươi”.
Lời của Thiên Chúa nói với chàng trai Giê-rê-mi-a trong bài đọc thứ nhất là lời có sức biến đổi. Lời ấy đã khiến một con người nhút nhát và sợ hãi nơi Giê-rê-mi-a trở nên một vị ngôn sứ mạnh mẽ, can đảm rao giảng lời yêu thương của Thiên Chúa. Bất chấp những đòn roi, những xỉ vả, lăng nhục từ người thân nghĩa thiết đến người dưng trong xã hội, Giê-rê-mi-a đã sống trọn vẹn một đời đi nói lời yêu thương của Trời.
Được sống với Chúa, được ở trong tình yêu của Chúa là quá đủ đối với Giê-rê-mi-a. Dù phải đối mặt với bao giông tố, nhưng Giê-rê-mi-a đã vượt thắng bởi sức mạnh của tình thương. Lời trần tình của ông thật thấm thía: “Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt. Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (Gr 20,9).
“Người rẽ qua giữa họ mà đi”
Thân phận trớ trêu của ngôn sứ tưởng như là chuyện của số ít trong thiên hạ. Nhưng đến cả Thiên Chúa xuống thế làm người, sống làm mẫu cho người thế noi theo cũng mang nỗi trớ trêu ấy. Thánh sử Luca trong bài Tin mừng đã viết lại sự đời nơi làng quê Nazareth, cái kịch tính của yêu thương và hận thù đã dần đẩy lên đến cao trào kinh hoàng nơi Đức Giê-su.
Ở nơi Đức Giê-su, không phải là một con người đi nói lời của Thiên Chúa như bao các ngôn sứ. Nhưng Ngài chính là LỜI CHÚA, một LỜI viết hoa với trọn vẹn Yêu Thương. Một lời Ngài nói mang trọn nghĩa yêu thương của TRỜI. Bởi thế mà người ta ngạc nhiên tròn mắt “thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra”. Sự thảng thốt của dân làng “Người này không phải là con ông Giuse sao?” diễn tả cái thực ấy nơi Đức Giê-su.
Sự thán phục và cảm nếm Lời Yêu Thương chẳng được bao lâu, thì cái kiêu căng, sự sợ hãi đổi thay nơi con người dân làng Nazareth đã trở nên sức mạnh ngăn cản dòng suối tình yêu chảy đến trong họ. Sự từ chối Lời Thiên Chúa quá phũ phàng khi “Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm”. Nhưng Tình yêu đã tìm lối để đi, dòng suối tình mến đã không vì thế mà ngưng chảy vào thế gian “Người rẽ qua giữa họ mà đi”.
Giê-su là con người đau khổ trên hết mọi con người khổ đau; nhưng Giê-su đã yêu thương hơn bất cứ trái tim yêu thương nào trên cõi đời này. Càng rời xa Chúa, lòng bác ái nơi con người càng trở nên mờ nhạt; càng ở gần Chúa, trái tim con người càng cháy bỏng tình yêu. Nơi Đức Giê-su, không chỉ là một con người ở cận kề bên Chúa, nhưng là người và Chúa làm một trong tình yêu, một tình yêu nguyên tuyền trọn vẹn.
“đức mến là trọng hơn cả”
Ở lại trong Chúa, người môn đệ cảm nhận được tình yêu huyền diệu ấy ngày đêm nung nấu, thôi thúc trong tâm hồn mình. Thánh Phaolo đã quả quyết về sự vĩnh cửu của tình yêu ấy. Đến cả đức tin, đức cậy rồi cũng qua đi, và chỉ còn lại đức ái. Ngài đã ca vang bài ca đức ái cho dân thành Cô-rin-tô được biết mà sống yêu thương nhau.
Lời ca của Thánh nhân cứ vang lên phân biệt rõ ràng từng cung bậc của cảm xúc. Người tín hữu được mời gọi sống những tiêu chí cụ thể của một nền văn mình tình thương: “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.”
Được một lần cảm nếm lòng yêu thương tha thứ của Chúa như thánh Phaolo, được “ngã ngựa” một lần như ngài thật hạnh phúc muôn đời. Chính sự xúc động sâu thẳm trong tâm hồn người môn đệ trước tình yêu của Thầy đã làm biến đổi người môn đệ nên con người của yêu thương và tha thứ. Con người ấy chỉ còn biết nói lời yêu thương.
Lạy Chúa, xin Ngài ở với con, đừng để con lạc xa nguồn suối. Dù khó khăn, nhọc nhằn, con tin có Ngài giải thoát con.
Nếu như Tin Mừng Chúa nhật III Thường niên trình thuật Đức Giê-su thực hiện lời ngôn sứ Isaia TN 4-C163
Nếu như Tin Mừng Chúa nhật III Thường niên trình thuật Đức Giê-su thực hiện lời ngôn sứ Isaia đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật IV, Người tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai công khai loan báo Tin Mừng. Danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi: Người chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là mọi người đều vui mừng, sung sướng và thán phục Đấng Thiên Sai.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/TN -C – Lc 4, 21-30) nối tiếp đoạn trích tuần trước (CN III/TN -C). Cùng trình thuật về chủ đề “Đức Giê-su về thăm Na-da-ret”, 2 tác giả Mat-thêu và Mac-cô chỉ miêu tả thái độ ngạc nhiên của những người đồng hương với Đức Giê-su khiến họ “vấp ngã vì Người”. Sau đó là Lời nói chua chát của Đức Giê-su: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mt 13, 57; Mc 6, 4).
Riêng với thánh sử Lu-ca thì có thêm đoạn: “Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” (Lc 4, 21-23). Nếu chỉ thấy “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” thì đâu đến nỗi Đức Giê-su phải nói với họ như vậy.
Thực ra, Đức Giê-su đã quá hiểu cái kiểu tán thành và thán phục bằng “đầu môi chót lưỡi”, nhưng trong lòng thì lại nghĩ khác của những người đồng hương. Họ cho rằng “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13, 53-56). Vì thế, Đức Ki-tô vạch trần ý nghĩ đen tối đó. Cái kiểu tán thành và thán phục của những người đồng hương thật chẳng khác gì cảnh “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao.” (“Kiều” – Nguyễn Du). Ngoài miệng thì khen ngợi tâng bốc, nhưng trong lòng thì chỉ muốn nốc-ao (knock out). Ôi chao là nhân tình thế thái!
Nói về thái độ xem thường người đồng hương, Việt Nam cũng đã có những kinh nghiệm được đúc kết thành châm ngôn, tục ngữ: “Bụt chùa nhà không thiêng”, “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Hoá cho nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.” (Mc 6, 5-6). Với những người dân làng bình thường không tin vào Đức Ki-tô thì còn có thể hiểu được, nhưng đến cả những người bệnh được chữa khỏi mà cũng không tin thì quả thật hết biết! Và vì thế mới khiến cho một vị Thiên sai là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, phải “lấy làm lạ” và cuối cùng thốt lên câu nói chua chát như vậy (Mc 6, 4). Thế đấy!
Cũng vì biết quá rõ tâm địa của họ, nên Đức Giê-su nói thẳng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 24). Người còn chứng mình bằng cách nêu ra hình ảnh 2 vị ngôn sứ nổi tiếng thời Cựu Ước, đó là ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa (Lc 4, 25-27). Quả thật, ngôn sứ bị rẻ rúng nơi quê hương mình như lời nhận xét của Đức Giê-su đã xảy ra từ thời Cựu Ước, đó là trường hợp ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Vị ngôn sứ này đã tự thuật: “Người phán với tôi: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái It-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này”. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.” (Ed 2, 2-5).
Và sự tiên đoán của Đức Giê-su đã xảy ra. Đám người đồng hương của Đức Ki-tô vừa mới thơn thớt lỗ miệng “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, giờ đây khi nghe Người vạch trần cái “lòng chai dạ đá” của họ ra, thì ngay lập tức “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.” (Lc 4, 28-30). Đúng là trò “Lật mặt như trở bàn tay”. Thật không ngờ lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en sau bao thế kỷ cũng lại ứng nghịêm ở ngay dân được chọn (“dân nội” đàng hoàng!).
Như vậy thì rõ ràng không phải chỉ riêng dân làng Na-da-rét mới có cái nhìn sai lệch về Thiên Chúa thông qua những ngôn sứ được sai đến loan báo Tin Mừng; mà kể cả dân tộc Do Thái từ trước đó hàng mấy thế kỷ cũng nổi loạn chống lại Thiên Chúa vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri họ (“Người phán với tôi: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá.” – Ed 2, 3-4). Ôi chao! Cứ tưởng đó chỉ là truyện cổ tích xảy ra cách đây hơn 20 thế kỷ, nào ngờ ở cái thời đại văn minh tiến bộ vượt bậc ngày nay vẫn còn không ít cảnh “Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá” sống nhởn nhơ trên khắp địa cầu.
Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng cái bản tính cố chấp hẹp hòi của con người đã định vị trong con một cách nhìn lệch lạc, không đúng đắn, thiếu khách quan về con người, sự vật hay sự kiện. Thành kiến ấy khiến con nhìn một công trình bằng gỗ thì chỉ chú ý đến nước sơn choáng lộn bên ngoài, mà không cần biết đến chất lượng gỗ bên trong; con đã quên mất rằng “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Hơn thế nữa, khi nhìn anh em, con chỉ chú ý đến vẻ đẹp tô son trét phấn, áo quần loè loẹt bên ngoài, mà quên mất rằng “cái nết đánh chết cái đẹp”, quên mất rằng con người cũng chẳng khác một bông hoa “hữu xạ tự nhiên hương” (có mùi thơm thì tự nhiên có hương toả bay, còn nếu đã không có hương thơm thì cái sắc hoa bên ngoài cũng trở thành vô vị mà thôi). Cái thành kiến ấy đã khiến con gặp không ít trường hợp “tốt mã giẻ cùi”, và chỉ đến lúc đó, con mới thấy sáng mắt, mới thấy “bừng con mắt dậy, thấy mình… vô duyên!”
Ôi! Lạy Chúa! Khi nhìn ra được những sai lầm, con rất muốn tẩy rửa tâm hồn cho sạch mọi vết nhơ của những thành kiến đã trở thành định kiến trong con, con rất muốn thay đổi được cách nhìn, cách suy nghĩ, nhận định thiển cận của con. Lạy Chúa, con lại cũng biết rằng con người của con thật mỏng giòn yếu đuối, nhưng lại rất bảo thủ, khó lòng mà “xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi” cố hữu được. Vì thế, cúi xin Chúa ban Thần Khí khơi dậy lửa Mến trong lòng con, soi sáng và hướng dẫn con tẩy rửa con người mình trong Nước và Thánh Thần như Lời Chúa đã hứa năm xưa.
Ôi! “Lạy Chúa, xin cho tất cả chúng con biết hết lòng thờ phượng Chúa, và thành tâm yêu mến mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV thường niên)
Hai anh bạn thân gặp nhau, ngồi tâm sự: Hùng: Tết này cậu về lâu không? Mạnh: Một tuần. Hùng: TN 4-C164
Hai anh bạn thân gặp nhau, ngồi tâm sự:
Hùng: Tết này cậu về lâu không?
Mạnh: Một tuần.
Hùng: Ít thế. Sao cậu lại đi tu xa thế làm gì cơ chứ?
Mạnh: Ở gần thích thật nhưng Chúa chọn mình “ra khơi xa”.
Hùng: Tớ thấy Giáo phận mình còn thiếu người mục vụ, giáo dân tội lắm.
Mạnh: Tớ biết. Chúa ban cho mỗi người một ơn gọi… Với lại, truyền giáo không chỉ giới hạn trong một vùng miền nhất định, không chỉ cho quê hương mình. Cầu nguyện cho nhau nhé.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu Phục Sinh ban cho các môn đệ lệnh truyền: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15). Điều đó có nghĩa là Tin Mừng của Chúa là Tin Mừng cho muôn dân. Ngay khi khởi sự rao giảng tại quê hương Nadarét, Thầy Giêsu đã bày tỏ điều này cho những người đồng hương.
Nghe Thầy Giêsu đọc sách Thánh và khẳng định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4, 21), mọi người trong Hội đường đều tán thành và thán phục những lời ân sủng thốt ra từ miệng người (Lc 4, 22). Đó là những phản ứng ban đầu của dân chúng. Nhưng rồi họ lại bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? (Lc 4, 23). Câu hỏi đó đã khiến lòng các ông khép lại trước lời ân sủng của Thiên Chúa. Biết Thầy Giêsu chỉ là con bác thợ Giuse nghèo hèn, sống cạnh nhà mình, dân chúng cho rằng họ đã biết rõ về Thầy. Tuy nhiên, cái họ biết còn rất giới hạn. Thầy hiểu rõ lòng dân chúng đang nghĩ gì và biết rõ thái độ không bằng lòng đón nhận một ngôn sứ cùng quê, nghèo hèn. Thầy Giêsu nói rõ cho họ, nhắc cho họ về tình thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn Itraen làm dân riêng nhưng Người vẫn thương yêu dân ngoại như trường hợp cụ thể của bà góa thành Xarépta, miền Xiđôn và ông Naaman, người xứ Syri (x.Lc 4, 25 – 27). Ta có bao giờ tự giới hạn con tim, giới hạn suy nghĩ chỉ vì cứ tưởng ta biết quá rõ về người bên cạnh chúng ta. Nếu ta nghĩ mình biết rõ về người này người kia là ta đã từ chối nhìn nhận một con người cụ thể với bao điều tốt đẹp nơi họ. Thiên Chúa vẫn không ngừng mời gọi ta bước ra khỏi cái nhìn hẹp hòi, suy nghĩ nông cạn của mình để đón nhận người khác.
Nghe những lời của Thầy Giêsu, mọi người trong Hội đường đều phẫn nộ (Lc 4, 28). Tại sao họ phải phẫn nộ như thế? Phải chăng chính vì sự thật họ đã nghe khiến họ không chấp nhận được? Không những họ đã chối từ vị ngôn sứ Thiên Chúa đang ban cho họ mà họ còn muốn tiêu diệt Người. Họ lôi người ra khỏi thành, lôi Người lên tận đỉnh núi để xô người xuống vực (x. Lc 4, 29). Khi bị lôi đi như vậy, Thầy Giêsu không phản kháng gì ư? Thầy đủ quyền năng để thoát khỏi bàn tay giận dữ của đám đông dân chúng. Khi ấy, ta thấy một Giêsu rất nhẫn nhục. Có lẽ, Thầy chờ đợi lòng trắc ẩn trong trái tim đám đông hay vì Thầy muốn chứng minh rằng khi sự dữ đến mức đỉnh điểm thì Thầy vẫn điềm nhiên băng qua giữa họ mà đi? (x. Lc 4, 30). Ở trước sự dữ, ta có giữ được sự an tĩnh trong tâm hồn hay ta để cho sự dữ đè bẹp?
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã đem tình yêu trở về quê hương, đem Tin Mừng đến cho những người đồng hương và chỉ cho họ thấy tình thương của Thiên Chúa không hề giới hạn. Xin Chúa cho con đừng giới hạn Thiên Chúa trong những gì con hiểu biết nhưng luôn biết đón nhận sự hiện diện của Chúa nơi anh chị em và sống tình bác ái cụ thể. Xin Chúa huấn luyện trái tim và trí tuệ của con để con thấy Chúa rất gần con, rất thân con và rất rất thương con. Amen.
Trong mỗi ngày sống, chúng ta thường ngạc nhiên trước sự kỳ diệu của thiên nhiên và con người TN 4-C165
Trong mỗi ngày sống, chúng ta thường ngạc nhiên trước sự kỳ diệu của thiên nhiên và con người. Sự ngạc nhiên có khi đem lại niềm vui nhưng có khi là sự đố kỵ.
Chúa Giêsu, sau khi đọc sách Isaia, đã nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng người nói ra” (Lc 4, 21-22). Họ quay lại bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? (Lc 4, 23). Câu hỏi của họ có ý gì? Phải chăng họ ngạc nhiên trước lời nói của Ngài, ngạc nhiên về người con của ông Giuse, một người chỉ biết làm thợ mộc, một gia đình nghèo, hay ngạc nhiên về sự trưởng thành khôn ngoan tuấn tú của Ngài? Điều giúp chúng ta hiểu họ muốn nói gì qua lời Chúa Giêsu nói: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Caphacnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào!” (Lc 4, 23). Câu hỏi của họ là sự bất ngờ khó tin, khó chấp nhận về lời Chúa Giêsu nói. Họ chỉ nhìn Chúa Giêsu dừng lại ở nguồn gốc gia đình, con người của làng Nadarét, con của bác thợ mộc. Sự hiểu biết của họ có thể chỉ dừng lại trong tầm nhìn nông cạn và nghiêng về quá khứ, họ cần mở tầm nhìn ra để đạt tới sự hiểu biết đến từ Thiên Chúa. Bởi đó, Chúa Giêsu đã nhắc nhở qua lời: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 24). Chúa Giêsu nhắc nhở họ và khẳng định rằng chính cái nhìn đóng khung và thiếu lòng tin cùng coi mình trọng hơn cả sẽ khiến cho họ không đón tiếp một ngôn sứ nào. Đồng thời, họ cũng từ chối ơn được cứu thoát. Không chỉ vậy, thái độ của họ cũng khiến cho mọi người không đạt tới ơn cứu độ. Vì chính cái nhìn, lời nói là hàng rào ngăn cản người khác thay đổi bản thân và thăng tiến. Tất cả những thái độ ấy bắt nguồn từ sự kiêu ngạo, từ cái tôi, khiến họ không còn nhận ra lời yêu thương của Chúa Giêsu. Nếu như nơi họ có sự khiêm tốn, đón nhận, có tâm và có tầm thì họ sẽ vui mừng, hãnh diện về quê hương mình, khi quê mình có một người tài giỏi và tài năng. Chính rào cản này đã đóng khung họ cũng như người khác trước cơ hội biết Thiên Chúa.
Đối chiếu vào bản thân mỗi người, chúng ta đang có cái nhìn đóng khung với ai không? Chúng ta có thái độ nào khi thấy một người anh chị em mình thay đổi? Chúng ta có cho người khác cơ hội thay đổi, thăng tiến đời sống không? Chính khi cho người khác cơ hội thay đổi cũng là lúc chúng ta cho mình có cơ hội thay đổi.
Theo lẽ tự nhiên, chẳng ai muốn người khác giỏi hơn mình nên rất khó để nói lời động viên hay khen ngợi. Ngược lại chúng ta dễ dèm pha và muốn cho họ xấu hổ trước người khác. Tất cả những lẽ tự nhiên ấy đi ngược lại với Thiên Chúa, đi ngược với Đức Mến. Đức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,… (x. Cr 13, 4). Đó là những gì mà Thiên Chúa hằng mời gọi chúng ta sống cách sống yêu thương. Vậy chúng ta phải làm sao? Hãy chạy đến trước Tôn Nhan Chúa, cầu nguyện và xin Ngài hướng dẫn. Vì chỉ có Chúa mới giúp mỗi người chúng ta sống yêu thương. Hãy đến với Chúa Xuân, đến với những người lầm lạc nay đã trở về để niềm vui gia đình, tình nghĩa hàng xóm và mùa xuân thêm ấm áp.
Lạy Chúa, Đấng hằng yêu thương tất cả mọi người chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận nhau trong tình yêu Chúa. Chính khi đón nhận nhau là chúng con mới có thể hoàn toàn đón nhận Chúa. Để mùa xuân này, chúng con tràn đầy tình yêu Chúa Xuân và tình yêu tha nhân. Amen.
Hai từ này còn gọi là “sứ ngôn” hay “tiên tri”. Phải chăng, “ngôn sứ” là người nói thay cho ai TN 4-C166
Hai từ này còn gọi là “sứ ngôn” hay “tiên tri”. Phải chăng, “ngôn sứ” là người nói thay cho ai, hoặc là người biết trước sự việc trong tương lai? Chuyện vui kể rằng:
Người con đưa cha đến gặp bác sĩ. Sau khi khám bệnh, bác sĩ nói là người cha bị bệnh ung thư rất nặng và chỉ sống được ba tháng nữa thôi.
Trên đường về nhà, người cha nói với con ghé vào quán rượu gần nhà để uống chút đỉnh, vì đàng nào ông ta cũng sắp chết rồi.
Trong quán rượu, ông ta nói với mọi người là ông ta sắp chết vì bệnh AIDS. Sau khi ra khỏi quán, người con hỏi cha:
– Tại sao ba lại nói là sẽ chết vì bệnh AIDS thay vì bệnh ung thư?
– Thì tao không muốn thằng nào léng phéng với mẹ mày sau khi tao chết. (Sưu tầm)…
Thưa các bạn!
Phải chăng, đây là “diệu kế” để đánh lạc hướng người khác, chứ không phải là nói thay hay nói trước một sự việc sắp xảy ra, nhằm nhắc nhở hay dạy dỗ điều gì đó?
Trong nhà đạo, “ngôn sứ” là người được sai đi nói thay mặt ai đó nói chung và thay mặt Thiên Chúa nói riêng trong Thánh Kinh.
Tin Mừng Chúa nhật 4 Thường Niên năm C, Đức Giêsu được mô tả như các ngôn sứ Elia và Elisa, Ngài không phải chỉ được sai đến với dân Do Thái mà thôi.
Tại hội đường Nazaret, Đức Giêsu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra” (Lc 4,21-22).
Thế nhưng, Đức Giêsu đã bị người đồng hương chống đối, còn muốn giết đi nữa. Họ chấp nhận sứ điệp của Ngài, nhưng không nhận sứ điệp từ nơi Ngài, vì Ngài cũng chỉ là một người Nazareth như ai, con bác thợ mộc Giuse…
Hơn nữa, Đức Giêsu cũng giống như vị ngôn sứ, được Thánh Thần xức dầu, và sai đi rao giảng Tin mừng. Vì vậy, số phận của Đức Giêsu cũng chẳng khác số phận của các ngôn sứ, bởi vì “Không một ngôn sứ nào được đón tiếp nơi quê hương mình”.
Cổ nhân thường nói: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần chùa gọi bụt bằng anh”… Thiết tưởng, thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị và không ai thoát cần loại bỏ, lên án và đổi mới…
Là người, “bạn & tôi”qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, cũng là ngôn sứ của Thiên Chúa, đó là một trong ba chức năng của Đức Kitô mà mọi người được tham gia: “tư tế, ngôn sứ, vương đế”.
Ước gì, mỗi Kitô hữu có sứ mạng loan báo Tin mừng cho người khác. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi mọi người phải can đảm và hăng say thi hành trong cuộc sống, bằng chứng tá sống động, mặc dầu bị người ta chối bỏ hay chống đối.
Ước chi, “bạn & tôi” biết xóa bỏ thành kiến và trong năm mới xin Chúa ban ơn can đảm mới, hăng say mới, hy sinh mới, và trung thành với Chúa và với nhau mãi. Amen
Hôm nay Bài Tin Mừng Luca thuật lại việc Chúa Giêsu vinh qui về làng sau khi đã nổi được một TN 4-C167
Hôm nay Bài Tin Mừng Luca thuật lại việc Chúa Giêsu vinh qui về làng sau khi đã nổi được một ít danh trên thành Capharnaum. Nhưng danh gì thì danh, danh đâu mặc kệ, người dân làng quê Nazareth vẫn cứ nhìn chàng Giêsu là con trai ông già Giuse thợ mộc. (Đúng ra là thợ tạp dịch, chứ thợ mộc cũng có giá rồi). Nhìn như thế là nhìn bằng cặp mắt xem thường: “Nào chàng này chẳng phải Giêsu là con trai của ông Giuse đó sao?” (chứ đâu phải con nghị này tướng kia đâu !)
Vậy đề tài của chúng ta sẽ là “thành kiến.” Thành kiến là khi chúng ta nhìn (kiến là thấy, là nhìn) ai đó, mà chúng ta có sẵn cái nhìn nào đó về người ấy (thành là xong, có sẵn), mà thường là cái có sẵn xấu. Cái có sẵn tốt, người ta không gọi là thành kiến. Xem ông ta là thánh, không phải “thành kiến”, mà coi bà ta là quỉ, quỉ cái, thì đích thị là thành kiến.
Sách Liệt Tử thuật chuyện có người kia làm mất cái búa, nghi cho đứa con người láng giềng lấy trộm. Nghi nó ăn trộm tức là tạo thành kiến (thấy sẵn) trong nó là tên ăn trộm, nên anh trông dáng nó đi: rõ là đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó: rõ là đứa ăn trộm búa. Thấy nó cử động: rõ là đứa ăn trộm búa. Nhất cử nhất động của nó không một tý gì là không phải của một đứa ăn trộm búa. Tối hôm đó, người ấy bới trong góc nhà, thấy lại cái búa. Hôm sau, trông đứa trẻ con nhà láng giềng, cử động nhất nhất không một tí gì là giống đứa ăn trộm búa nữa.
Thành kiến quả là tai hại độc ác. Tại nó mà sự giao thiệp giữa con người và con người trong xã hội từ xưa đến nay trở thành vô cùng gay go phức tạp.
Thành kiến thường do đâu mà có, các nhà tâm lý kể cho ta nghe khá dài, ta không liệt kê tại đây, chỉ tóm bằng chữ GATO, Ghen Ăn Tức Ở.
Ta, người có Đạo, nhìn kẻ không cùng Đạo với ta là kẻ ngoại Đạo với nghĩa hơi khinh thường: “Ôi chấp gì tên ngoại đạo đó.” Nhưng có chắc gì kẻ có Đạo như ta bác ái thương người như kẻ ngoại đạo kia không, mà Karl Rahner gọi là “Kitô hữu vô danh,” còn chúng ta kẻ mang danh Kitô hữu, nhưng lại là “Kitô hữu vô thần.”
Ta, người Đạo gốc nhìn kẻ kia là Đạo theo với cái nhìn tự hào về mình. Nhưng ai lại không phải là Đạo theo. Không theo sao theo vào được Đạo. Giống như người con ruột kia tự hào khi chỉ cô gái nọ mà nói: “cô ta là con nuôi đó.” Tôi xin nói. “Tôi cũng là con nuôi.” Ai cũng là con nuôi, không nuôi làm sao sống đến bây giờ. Thì cũng vậy, ai cũng là Đạo theo hết, không theo làm sao trèo vào được Đạo. Tự hào đạo gốc mà xem lễ dưới gốc cây còn tệ hơn đạo theo mà leo lên cao, vào ghế đầu ngồi đàng hoàng.
Vì thế đừng có thành kiến gì về ai. Thành kiến làm cho người ta mù quáng, đến nỗi không thể nhận ra đâu là sự thật, và khó lòng có được nhận xét đúng đắn về người khác. Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu trở về thăm quê nhà Nadarét. Những người đồng hương tuy thán phục lời giảng của Người, nhưng vì có thành kiến về gia đình tầm thường của Người, nên đã không chấp nhận sứ mệnh Thiên Sai của Người. Họ muốn thấy Người làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh ấy. Khi không được thoả mãn, và nhất là sau khi nghe Người không phân biệt dân Do Thái với dân ngoại, dân thành ngoại giáo Ca-phác-na-um hay dân Nadarét đồng hương…thì họ đã nổi giận và tìm cách giết hại Người.
A Lưu là tên tiểu đồng. Nó thực là ngây ngô, không được việc gì cả. Vậy mà Chu Nguyên Tố nuôi nó suốt đời. Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà không sạch được cái buồng con. Ông giận mắng thì nó quăng chổi, lẩm bẩm: “Ông quét giỏi thì phiền đến tôi làm gì ?” Khi ông đi vắng, sai nó trực ngoài cửa, dù khách quen đến, nó cũng không nhớ được tên ai. Có hỏi, thì nó nói: người ấy lùn mà béo … Người ấy gầy mà lắm râu … người ấy xinh đẹp … người ấy cao tuổi và chống gậy… . Đến khi nó liệu chừng không nhớ xuể, nó đóng cửa lại, không cho ai vào nữa.
Nhà có cái ghế gãy chân, ông sai nó đi chặt cây có chạc ba để chữa lại. Nó cầm búa, cưa, đi khắp vườn. Hết ngày về nó chìa hai ngón tay làm hiệu và nói: “Cành cây có chạc đều chĩa lên cả, không có cành nào chúc xuống đất”. Cả nhà đều cười.
Trước sân có vài cây liễu mới trồng ông sợ trẻ láng giềng đến nghịch hỏng, sai nó trông nom giùm. Đến lúc nó vào ăn cơm, nó nhổ cả cây lên mà cất đi một chỗ. Công việc nó làm, nhiều chuyện đáng cười như thế cả.
Ông Chu Nguyên Tố là người viết chữ chân tốt mà vẽ lại giởi lắm. Một hôm, ông hòa phấn với mực để vẽ, thấy A Lưu, ông hỏi đùa: “Mày vẽ được không ?”. A Lưu đáp: “Khó gì mà không được”. Ông bảo vẽ, A Lưu vẻ nét đậm, nét nhạt, nét xa, nét gần y như người xưa nay vốn đã biết vẽ. Ông thử luôn mấy lần, lần nào A Lưu cũng vẽ được như ý cả. Từ bấy giờ, ông dùng tới A Lưu luôn, không lúc nào rời. Sau A Lưu nổi tiếng là một nhà danh họa. (trích Lục Dung)
Câu chuyện dường như cố ý nêu lên những cái ngây ngô đờ đẫn… để rồi đưa ra một nhận xét bất ngờ của Hàn Tín dụng quân: “dụng quân như dụng mộc.” Trong trời đất, không vật nào là vật bỏ, chỉ vì ta không biết dùng do thành kiến mà phí uổng không biết bao nhiêu là nhân tài.
Nhưng có tiểu đồng A Lưu cũng phải có ông chủ Chu Nguyên Tố. Có Hàn Tín phải có Trương Lương. Trong ngành giáo dục ngày nay, không thiếu chi A Lưu. Chỉ có Chu Nguyên Tố, kẻ biết nhìn người, không thành kiến, thật là hiếm hoi, có thể đếm được trên đầu ngón tay.
Phần ta người Kitô hữu, có khi ta cũng như người Nazaret xưa, vì thành kiến mà không nhận ra Đức Kitô. Thánh Martino thành Tours không thành kiến nên thấy được Vua Kitô qua hình dạng người ăn xin khi thánh nhân cắt nửa vạt áo tặng kẻ ăn mày rét lạnh, và ban đêm Vua Giêsu khoác mảnh áo đó đến với Martino. Thánh Phanxicô giục thành kiến ra sau để nhận ra Chúa Kitô nơi người phung hủi. Phanxicô ôm hôn người phung. Và cuối thế kỉ 20 vừa qua, khuôn mặt nổi bật của nhân loại, mẹ Têrêxa Calcutta, không hề có thành kiến, đã nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô ở khắp nơi, nằm la liệt gần chết. Mẹ và con cái mẹ đem về để Chúa Kitô có cái chết xứng đáng. Nâng niu người hấp hối như nâng niu Mình Thánh Chúa.
Einstein có nói, phá vỡ một thành kiến còn khó hơn phá vỡ một nhân nguyên tử. Trên thế giới này mấy nước đã làm được chuyện đó: phá vỡ nhân nguyên tử để chế ra bom nguyên tử. Ấy vậy mà chế bom nguyên tử còn dễ hơn phá vỡ thành kiến.
Khi vợ nhìn người chồng với thành kiến là “đồ lười” thì chồng có chăm đến mấy cũng chẳng được điểm.
Khi chồng nhìn vợ bằng thành kiến “đồ lăng loàn” thì vợ có cố tu thân đến mấy cũng chẳng xoá tan thành kiến nơi chồng.
Khi con cái nhìn cha mẹ như là ông kẹ, là kỳ đà cản mũi, thì cha mẹ có làm gì nâng đỡ con, cũng bị con hiểu sai là cản trở.
Khi cha mẹ nhìn con cái thấy chỉ là một “lũ yêu” thì con cái nhiều khi thành lũ yêu thật, chẳng được tích sự gì.
Chúng ta cầu xin Chúa, Đấng toàn năng có thể làm được mọi việc, cho mỗi người chúng ta bớt thành kiến trong cách nhìn người để nhận ra nơi anh chàng Giêsu, cà lơ phất phơ ngoài đường, con bác thợ, là Chúa Kitô để không xua đuổi Người đi, và không tìm cách giết Ngài như dân làng Nazaret xưa. Amen.
Chúng ta thấy trong những ngày gần Tết nhiều người Việt sống khắp nơi trên thế giới trở về TN 4-C168
Chúng ta thấy trong những ngày gần Tết nhiều người Việt sống khắp nơi trên thế giới trở về quê hương mừng Tết như thường nói: “Không nơi đâu đẹp bằng quê hương”, hay “Ta về ta tắp ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.” Khi đề cập tới quê hương hay nói những điều đó là người ta ngụ ý rằng: bất cứ ai cũng yêu mến quê hương mình, yêu quí nơi đã được sinh ra và lớn lên. Đây là nhận xét chung về tình cảm cá nhân mỗi người dành cho quê hương đất nước, đặc biệt nơi sinh trưởng. Còn về phương diện tình cảm cá nhân dành cho những người đồng hương hay cùng một quốc gia thì khác. Có người này và có người khác; có những hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác. Chúng ta thấy điều này rõ ràng ngay tại những cộng đoàn Công giáo người Việt ở quốc gia Hoa kỳ này. Nhiều người nhận ra những giá trị tinh thần và tha thiết với những gì đã thấm vào dòng máu, hòa lẫn chung vào thân thể của mình, vượt qua những giới hạn cá nhân và hoàn cảnh, tụ họp vào các giáo xứ để đùm bọc và nâng đỡ nhau sống đức tin theo tinh thần người Việt. Và có những người Việt khác vì lý do cá nhân này, lý do nọ từ chối không muốn gia nhập giáo xứ, mà gia nhập và sinh hoạt trong những giáo xứ người Hoa kỳ hay người Mễ. Có lẽ vì quan niệm cố hữu của người Việt chúng ta: “Bụt nhà không thiêng.” Và điều này phản ảnh một phần nào câu nói bất hủ của Chúa Giê-su trong bài Tin mừng: “Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình.” Chúa Giê-su đã tuyên bố chân lý bất hủ này về chính bản thân Người, tại quê hương Na-da-rét của Người.
Bài Tin mừng cho chúng ta biết sau hơn một năm giảng dạy tại nhiều nơi, Chúa trở về quê hương Na-da-rét. Hôm ấy đúng vào ngày Sa-bát, Chúa đến hội đường và người ta mời ngài giảng dạy. Theo thông lệ, trước hết Người cũng đọc Sách Thánh rồi giảng dạy: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe.” Tin mừng còn ghi lại mấy câu tuyên bố của Chúa Giê-su, nhưng câu nói đó cũng đủ để cho mọi người biết Người muốn giảng dạy điều gì.
Thật vậy, bài Tin mừng đưa đến nhiều câu hỏi thí dụ như: “Tại sao và lý do gì đã làm cuộc thăm viếng và giảng dạy của Chúa Giê-su bắt đầu rất tốt đẹp sau đó trở thành thù ghét?” Ban đầu: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” Nhưng sau đó là đổ vỡ hoàn toàn, trở nên tẩy chay, thù ghét và muốn thủ tiêu: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Người ra khỏi thành. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” Một câu hỏi khác: “Làm sao Chúa có thể thoát được mà không bị thương tích hay hề hấn gì?” Và câu hỏi khác: “Đây có phải là sự tóm tắt những sự kiện đã xảy ra nhiều lần, trong những cuộc thăm viếng của Chúa Giê-su trước đây, báo trước những gì sẽ xảy ra đàng trước trong sứ vụ của Người?”
Đúng vậy, với lời tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”, Chúa Giê-su khẳng định và muốn cho họ biết Người là ai, là người được Thiên Chúa sai đến, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế mà mọi người đang trông đợi. Nghe Chúa nói vậy, những người hiện diện hết sức bực tức, nổi giận kéo Người ra khỏi hội đường, đưa Người lên núi để xô Người xuống vực thẳm cho chết đi, nhưng giờ Người chưa đến, nên họ không làm gì được Người. Dân làng Na-da-rét không nhận Chúa, từ chối và xua đuổi Người, tuy họ đã nghe lời Người giảng dạy và những phép lạ Người đã làm, vì bản thân “con bác thợ mộc” của Người, vì sứ mệnh, lời giảng dạy và mục đích của Người không phù hợp, không thuận với quan niệm và ý muốn của họ.
Thật ra Thánh Lu-ca không chú ý đến, và cũng không trả lời trực tiếp cho những thắc mắc trên của chúng ta, nhưng cho chúng ta biết sự kiện: dân chúng Na-da-rét không coi Chúa Giê-su là một người đặc biệt, chỉ là một con người tầm thường và còn tầm thường hơn họ. Có lẽ Thánh Lu-ca muốn cảnh báo cho chúng ta biết và ám chỉ sứ vụ rao giảng và chữa lành của Chúa Giê-su bắt đầu rất nổi tiếng trong quần chúng, nhưng dần dần dân chúng hiểu được ý nghĩa lời giảng dạy và hành động của Người cho nên họ từ bực tức, ganh ghét, thù hằn đến muốn giết Người. Hay Thánh Lu-ca muốn dạy cho chúng ta biết chúng ta không thể uốn nắn, hay muốn Chúa Giê-su phải giảng dạy theo ý chúng ta muốn, thích, hay hành động theo cách thức của chúng ta làm, hay sống theo đường lối của chúng ta, mà chúng ta phải sống theo lời giảng dạy, giáo huấn của Người thì mới được hưởng ơn cứu độ và hạnh phúc Nước Trời.
Qua thái độ của những người Na-da-rét đối với Chúa trong bài Tin mừng, chúng ta có thể nhận biết họ khinh thường và không có lòng tin vào Người. Và qua sự kiện đó cho chúng ta một bài học hữu ích, đó là dựa vào thành kiến để đánh giá người khác. Vì thành kiến, vì tự ái, vì ganh ghét, nhiều khi chúng ta phán đoán, đánh giá người khác một cách hấp tấp, vội vàng hay thiếu trung thực, nhiều khi còn chỉ trích, nói xấu và vu khống, đưa đến tranh chấp, chia rẽ và thù ghét. Chúng ta hãy nhớ người xét đoán hồ đồ, không trung thực hay theo thành kiến không sống được với ai và cũng không ai dám chơi, bạn bè thân thiết với họ. Họ mất niềm tin nơi mọi người, mọi người lánh xa họ. Vì vậy chúng ta cố gắng sữa chữa những tật xấu để đời sống và những mối liên hệ với người khác tốt đẹp hơn.
Một điểm quan trọng nữa mà chúng ta phải chú ý là bác ái hay tình yêu thương trong bài đọc 2 hôm nay thật hay và đầy ý nghĩa mà chúng ta thường xử dụng hay nghe đọc trong Thánh lễ Hôn phối. Thật vậy, đó là chủ đích và ước vọng của mỗi gia đình vợ chồng. Nhưng những điều này không phải tự nhiên mà đến. Muốn đạt được tình yêu và hạnh phúc này, gia đình vợ chồng phải cố gắng, hy sinh và quảng đại.
Thánh Phao-lô nhấn mạnh cho chúng ta biết tình yêu thương không phải là ích kỷ, kiêu hãnh, giận dữ và ý nghĩ xấu. Tình yêu thương là kiên tâm và nhân hậu, tha thứ, tin tưởng và trông cậy. Nếu nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và khôn ngoan, có đầy lòng tin chuyển dời được núi non, nếu phân phát hết của cải để nuôi kẻ nghèo khó, mà không có tình yêu thương, bác ái thì cuộc sống Ki-tô hữu sẽ không có gì, vô nghĩa. Vì vậy, chúng ta phải đặt trọng tâm cuộc sống vào tình yêu thương, bác ái và quảng đại.
Xin kính chúc tất cả ông bà anh chị em một Mùa Xuân, một Năm Mới Kỷ Hợi an bình, sức khỏe tốt và tràn đầy ơn lành của Chúa.