Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 7-C Bài 101-141 Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em
--------------------------------- Phúc Âm: Lc 6, 27-38: "Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".
Chuyện kể rằng: “Có hai người thổ dân Nam Phi rất giận ghét hiềm khích nhau, mối thù mỗi TN 7-C101
Chuyện kể rằng: “Có hai người thổ dân Nam Phi rất giận ghét hiềm khích nhau, mối thù mỗi ngày càng sâu đậm, chỉ mong ước có dịp thuận tiện nào để phục thù cho hả cơn giận. Ngày nọ, người kia gặp thấy một bé gái con của kẻ thù mình trong một khu rừng, anh ta bỗng nổi cơn xung giận tóm lấy cô bé, rút dao chặt cụt hai ngón tay, rồi thả cho đi. Cô bé vừa chạy về nhà vừa khóc nức nở, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn tiếng tỏ vẻ thỏa chí: “Ta đã trả thù được rồi!” Ngày tháng trôi qua, thấm thoát đã mười mấy năm, cô bé đã lập gia đình, có chồng con và cảnh gia thất đầm ấm sung túc. Bỗng một buổi chiều kia, có một người hành khất đến xin của bố thí. Bà chủ nhà đã nhận diện ra người hành khất đó chính là kẻ đã chặt hai ngón tay mình, vội vã trở vào trong nhà tìm cách “Báo thù”, bằng cách bà đem sữa bánh ra cho ông ta ăn, trao cho ông ta một số tiền để có kế sinh nhai. Khi ấy bà giơ bàn tay cụt ra và nói: “Tôi cũng đã trả thù được rồi! Người hành khất nhận ra người mình trả thù trước kia nay có tấm lòng nhân từ tha thứ “Lấy ân trả oán” cho mình, ông khóc lóc và xin lỗi tủi hỗ vô cùng.
Bài đọc I kể Đavít đã không giết Saolê là kẻ thù đang đem 3000 quân đi lùng bắt giết Đavít. Có phải Đavít yêu kẻ thù chăng? Chắc là phải, vì Đavít đã kính trọng Vua Saolê, là người đã được Chúa xức dầu. Như vậy, Đavít vì mến Chúa mà tha thứ cho kẻ thù. Lòng kính mến Thiên Chúa chính là nền tảng đức bác ái nhân từ vô biên. Ai nhận biết Thiên Chúa là Cha mình, mới nhận ra mọi người là anh em thật của mình và không còn ai là kẻ thù. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Rõ ràng, lòng nhân từ của con người gồm hai hành động “yêu thương và tha thứ”, mà lòng nhân từ của con người do Thiên Chúa ban cho. Qủa thế, con người ngay đầu đã “nhân chi sơ tính bản thiện”. Chính tâm thiện này được Thiên Chúa đặt để vào trong lòng con người khi Ngài dựng nên họ và nhờ cái chết của Chúa Giêsu. Cho nên, Chúa Giêsu hằng mong muốn rằng: “Anh em phải có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Mt 5,37).
Khi nói đến lòng nhân hậu, chúng ta nghĩ ngay đến việc ăn ngay ở lành, làm lành lánh dữ hay nói đúng hơn là làm theo tiếng nói của lương tâm, mà tiếng lương tâm chính là tiếng nói của Thiên Chúa ở trong lòng ta (Sách GLTHCG, số 1776). Thế nhưng, ngày nay, lòng người không còn chỗ cho Chúa ngự, tiếng nói của Chúa không còn vang dội trong lòng của họ nữa, tại sao? Vì lòng của họ đầy ắp điều xấu, hay chai lì với tội lỗi, đến nỗi không biết rằng họ đang sống phần “con” mà mất phần “người”, chẳng màng chi tới việc tốt xấu, thiện ác nữa. Cho nên, họ chẳng tha thiết gì với lòng nhân và hạnh phúc đời sau. Nếu con người sinh ra, sớm nở tối tàn như bông hoa và cuối cùng trở về với cái không vô tận, với sự thù hận, gian ác hay với một cõi lòng tan nát và đầy bợn nhơ, thì còn gì là giá trị và ý nghĩa của con người và đời người, cho nên Chúa Giêsu nói: “Thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26,24).
Vì vậy, để có lòng nhân hậu như Thiên Chúa, trước hết, chúng ta phải tin vào Thiên Chúa, Lời Ngài và sống đúng Lời Ngài dạy vì chưng nếu không có Thiên Chúa và Lời Ngài soi dẫn làm sao chúng ta trở thành người ăn ngay ở lành, làm theo đúng ý Chúa, vì lương tâm con người có thể sai lầm nhưng Lời Chúa chân lý, không bao giờ sai. Bên cạnh đó, chúng ta phải áp dụng Lời Chúa vào ngay trong cuộc sống đời thường của chúng ta qua việc cầu nguyện, hy sinh, yêu thương, tha thứ, phục vụ, sẻ chia đồng hành với hết mọi người trong đó có kẻ thù ta bằng cách cống hiến sức lực, tài năng, và vật chất của mình cho họ, kèm với trái tim thương xót, bao dung, đồng thời tôn trọng nhân phẩm của họ, khi ấy chúng ta mới có phúc và lòng nhân hậu như Thiên Chúa, như lời tha tội của Chúa Giêsu Kitô trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Nghe thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Người này đích thực là người công chính!", “sống không để bụng để không mang theo”
Chúa Giêsu đến thế gian để đẩy lui sự ác, đã chết để tẩy xóa sự hận thù, đã sống lại để tẩy trừ tội lỗi chúng ta. Vì vậy, Người không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt; và lòng nhân hậu yêu thương tha thứ là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui hận thù tội lỗi nơi con người, làm thay đổi đời sống có ý nghĩa hơn. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khẳng định: “Cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến”.
Ngày 13/05/1981 cả thế giới đều sửng sốt kinh hoàng về tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát tại chính công trường Thánh Phêrô. Ali Agca, một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ, thủ phạm bắn Ngài, lại được Ngài đến thăm, nói chuyện và tha thứ cho anh. Tình yêu nào đã khiến Đức Giáo Hoàng thương yêu kẻ thù như bạn hữu của mình? Chỉ có tình yêu của Đức Giêsu đã thúc đẩy vị đại diện của Người dưới trần gian này đã có lòng nhân hậu vô biên như vậy. Còn đối với mỗi người chúng ta, ước gì qua Lời Chúa hôm nay biến đổi chúng ta thành con Chúa biết “thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình. Lạy Chúa, chúng con đã xúc phạm đến Chúa biết chừng nào! Chúa vẫn tha thứ, hy sinh chịu chết cứu chuộc chúng con và cho chúng con được làm con yêu dấu của Chúa. Xin cho chúng con nhận biết lòng từ bi nhân hậu của Chúa, và cho chúng con hết lòng yêu thương mọi người, dù họ thù ghét con mãi mãi. Amen.
Những năm gần đây, trên các phương tiện truyền thông hay xuất hiện cụm từ “những thế lực TN 7-C102
Những năm gần đây, trên các phương tiện truyền thông hay xuất hiện cụm từ “những thế lực thù địch” đang chống phá nhà nước Việt Nam. Vậy, những thế lực thù địchnày từ đâu ra, sao càng ngày càng nhiều và gây lo sợ cho chính phủ đến thế?! Nhưng có một điều lạ là không ai giải thích rõ “thế lực này là ai?”, và chỉ thấy những dân oan luôn bị gán ép là bị thế lực thù địch lôi kéo, đôi khi họ cũng gán ép cho các tôn giáo bị thế lực này lôi kéo..
Thực ra, nếu mình sống tốt thì sẽ không bao giờ có thù địch. Nhất là nguời Việt Nam luôn coi nhau là anh em vì “tứ hải giai huynh đệ”. Con người sống biết nhường, biết nhịn, biết phải, biết trái thì sẽ không có tranh chấp thù địch nhau. Gọi nhau là thù địch nghĩa là sợ tranh dành miếng ăn, chỉ biết chiếm phần mình nên ai xen vào quyền lợi của mình tức là thù địch chăng? Nếu sống bên nhau mà vẫn xem nhau là thù địch thì làm sao đất nước phát triển? Nếu vẫn xem nhau là thù địch thì vẫn còn kỳ thị và loại trừ lẫn nhau?
Người Công Giáo không có kẻ thù. Người Công giáo nhìn đâu cũng thấy mọi người là anh em con một Cha trên trời. Nếu ai nói mình là người Công giáo mà còn thù ghét anh em mình tức là không còn là môn đệ của Thầy Giê-su, vì Thầy Giê-su đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”. Điều này chính Chúa Giê-su đã làm gương. Ngài đã dùng tình yêu để có thể xoá bỏ hận thù.Ngài yêu thương con người nên nhẫn nại chờ đợi con ngườiquay trở về để Ngài giang cánh tay ôm ấp thứ tha. Ngài luôn kiên nhẫn trong những lầm lỗi con người. Sự kiên nhẫn của Ngài không phải là ngồi đó mà là dấn thân để giúp họ cải tà quy chính. Ngài đã sống tột đỉnh của tình yêu tha thứ khi Ngài tha thứ cho người giết hại mình. Ngài đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “lạy cha, xin tha cho họ,vì họ làm mà không biết việc họ làm”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. Vượt lên trên tình yêu tha thứ đó là lòng nhân từ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không xét đoán tội chúng ta như chúng ta đáng tội. Ngài đã yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Cuộc sống con người luôn có những sai lầm. Sai lầm do vô tri. Sai lầm do nhẹ dạ. Sai lầm do cố ý. Những sai lầm của tha nhân khiến chúng ta bực mình. Đôi khi chúng ta muốn thanh trừng cho hả dạ. Nhưng lời Chúa luôn nhắc chúng ta hãy tha thứ để được tha thứ. Hãy tha thứ để có bình an trong cuộc sống. Không tha thứ là ta đang ôm ung nhọt trong người khiến mình đau nhức cả đời. Chỉ có tha thứ mới hạnh phúc và bình an.
Nhưng đáng tiếc, nhân loại hôm nay luôn chìm đắm trong biển máu của hận thù, chia rẽ, tranh chấp và chiếm đoạt. Bản thân chúng ta đôi khi cũng khó lòng tha thứ cho những người có lỗi với chúng ta. Người trong nhà đôi khi còn nhìn nhau như kẻ thù làm sao sống yêu tha nhân được. Vợ chồng còn không tha thứ cho nhau làm sao sống thuỷ chung với nhau. Người trong một nước mà còn nhìn đâu cũng thấy thù địch làm sao chung sống hoà bình.
Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau để mang lại cho thế giới sự hiệp nhất và bình an. Chúa muốn chúng ta hãy dùng những nghĩa cử tha thứ, bao dung để cho Nước tình thương của Chúa trị đến.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn nhận sự yếu đuối của mình mà sống khiêm tốn trước lời sửa dạy của anh em. Đồng thời, biết cảm thông tha thứ những lỗi lầm của tha nhân. Amen.
Dường như người ta đối xử với nhau thế nào thì đối xử với Thiên Chúa cũng như vậy! Ngày xưa TN 7-C103
Dường như người ta đối xử với nhau thế nào thì đối xử với Thiên Chúa cũng như vậy! Ngày xưa, người ta đã đối xử với người tên Yêsu làng Nazarét thế nào, thì đó là điều họ đã đối xử với Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì nếu người anh em họ thấy mà họ không yêu thương thì làm sao họ có thể yêu thương Đấng họ không thấy được (1Ga.4, 20)! “Vì xưa Ta đói ngươi đã cho ăn, Ta khát ngươi đã cho uống… Những gì ngươi làm cho một trong những người bé mọn nhất, là làm cho chính Ta… Những gì ngươi không làm cho những kẻ nghèo hèn nhất, là đã không làm cho chính Ta” (Mt.25, 35.40.45).
Bài đọc thứ nhất trong sách Samuel cho ta thấy cách đối xử rất đẹp của Đavít đối với vua Saolê. Saolê đi lùng bắt giết Đavít, người cô thế cô thân lúc đó; nhưng Đavít đã không giết Saolê khi có dịp. Tại sao? “Vì có ai tra tay hại đấng Đức Chúa xức dầu tấn phong mà vô sự đâu!” Đavít không hạ sát Saolê, vì ông kính sợ Thiên Chúa. Thái độ Đavít đối xử với Saolê, phản ánh thái độ thâm sâu Đavít có đối với Thiên Chúa. Đavít không dám làm trái lệnh Đức Chúa. Đavít không lấy lý trí và lý luận của mình làm tiêu chuẩn hành động, nhưng niềm tin vào Thiên Chúa và cách hiểu về Thiên Chúa. Nếu lấy chính mình là tiêu chuẩn, thì Đavít đã phải giết Saolê vì Saolê đang tìm giết ông, để Saolê sống thì mạng sống Đavít còn bị đe dọa, nên nếu tin vào mình, nếu để tìm sự an toàn theo lý trí mình thì Đavít đã phải giết Saolê. Cách hành xử của Đavít hàm chứa cách đối xử của Đavít đối với Thiên Chúa. Với Đavít, Thiên Chúa là tuyệt đối và là tất cả. Niềm tin và sự an toàn của Đavít tựa trên Thiên Chúa Quyền Năng chứ không dựa trên Đavít với lý trí và sức mạnh của ông.
Đức Yêsu dạy các môn đệ: “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc.6, 27). Tại sao lại phải yêu thương kẻ thù ghét mình? Tại sao lại phải giúp đỡ người không thích mình và tìm cách làm hại mình? Bởi vì nếu mình cư xử như vậy, mình chẳng hơn gì kẻ tội lỗi vì họ cũng làm như vậy! Nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do chính là “hãy nhân từ, hãy yêu thương như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc.6, 36).
Thiên Chúa mời gọi con người sống như Ngài. Ngài là Đấng nhân từ yêu thương, Ngài muốn con cái Ngài sống nhân từ yêu thương như Ngài. Nếu ai không sống như Ngài, thì không phải là con cái Ngài. Yêu thương mọi người và ngay cả kẻ thù ghét mình, không phải là việc phải làm vì đó là mệnh lệnh từ ngoài đối với những người con cái Thiên Chúa nhưng vì đó là bản chất người con cái Thiên Chúa. Đã là người con Thiên Chúa thì sống yêu thương, vì họ không có kẻ thù, theo nghĩa họ không thù ghét ai; nếu có ai thù ghét họ, thì đó là do người đó, chứ họ thì không thù ghét bất cứ ai cả. Như Thiên Chúa là Đấng yêu thương và chỉ biết yêu thương, thì những con cái của Thiên Chúa cũng yêu thương và chỉ biết yêu thương.
Yêu thương thuộc bản chất của những người con cái Thiên Chúa. Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa. Ai yêu thương thì là con cái Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không là con cái Thiên Chúa. Ai thù ghét là con cái ma quỷ, hiểu theo nghĩa, họ đã hành xử như ma quỷ; trong một cuộc tranh luận, Đức Yêsu đã nói với người Do Thái: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian trá” (Ga.8, 44). Yêu thương tha nhân, ở mức độ thứ nhất, là điều phải làm vì đó là giới răn của Thiên Chúa cho con người; nếu mình không thực hiện, mình không làm theo điều Thiên Chúa dạy bảo. Ở mức độ cao hơn, sống yêu thương vì tự bản chất mình thấy mình phải yêu thương; vì mình là con cái Thiên Chúa nên cách hành xử của mình cũng phải giống như cách Thiên Chúa hành xử, nghĩa là sống yêu thương.
Đức Yêsu là người đã yêu thương tất cả mọi người, cả những kẻ giết Ngài. Trên thập giá, Đức Yêsu đã thành khẩn nài xin Thiên Chúa Cha tha cho những kẻ giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34). Đức Yêsu không chỉ dạy, nhưng Ngài đã sống điều mình dạy: “Thầy nói với anh em là những kẻ đang nghe Thầy nói đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho người nguyền rủa anh em, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc.6, 27-28). Đức Yêsu đã không thù hận người làm hại Ngài, mà Ngài còn yêu thương họ, muốn điều tốt lành cho họ. Ai thù hận, thì không được hạnh phúc. Đức Yêsu không thù hận, Ngài luôn yêu thương, Ngài luôn hy vọng, Ngài luôn mong chờ người tội lỗi ăn năn sám hối để họ được bình an. Đức Yêsu tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài cầu xin và chờ mong tất cả nơi Thiên Chúa. Người yêu thương là người luôn chờ mong và hy vọng nơi con người, ngay cả những kẻ theo con mắt người đời không còn đáng tin và chẳng còn hy vọng gì nữa. Chỉ những người yêu thương mới còn sức sống; còn những người không hy vọng gì nơi con người, thì họ sống mà như đã chết, và đối tượng mà người này không hy vọng gì, cũng đã chết đối với họ.
Thánh Têphanô, vị tử đạo tiên khởi của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, cũng đã sống như Thầy mình. Ngài đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv.7, 60). Không thù hận nhưng yêu thương cả những kẻ giết mình, đó là dấu chỉ cho thấy một người đã có cái nhìn và suy nghĩ giống như Đức Yêsu, người con Thiên Chúa đích thực. Bình an hạnh phúc, là tình trạng của người đã được sống trong tình yêu Thiên Chúa, và muốn những điều tốt lành cho tha nhân như chính Thiên Chúa. Khi một người trở nên con Thiên Chúa, suy nghĩ, ao ước như Thiên Chúa, thì Nước Trời đã hiện diện trong lòng họ (Lc.17, 21). Dưới một khía cạnh nào đó có thể nói: thiên đàng đã ở nơi tâm hồn họ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đã có khi nào bạn cảm nghiệm bình an hạnh phúc trên đời? Xin chia sẻ nếu được. 2. Lòng thương cảm, động lòng thương, là dấu chỉ của tình yêu thương như Thiên Chúa muốn. Bạn nghĩ sao về quan điểm này?
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 7 Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thương yêu hết mọi người, ngay cả kẻ thù nữa.
1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23:
Đa-vít có cơ hội thuận tiện để giết vua Sa-un, kẻ đã truy sát mình, nhưng Đa-vít đã tha chết cho TN 7-C104
Đa-vít có cơ hội thuận tiện để giết vua Sa-un, kẻ đã truy sát mình, nhưng Đa-vít đã tha chết cho vua bởi vì ông tin làm như thế là chống lại với người được Thiên Chúa xức dầu tấn phong.
1Cr 15: 45-49:
Thánh Phao-lô so sánh A-đam với Đức Ki-tô. Nhờ A-đam, chúng ta được sự sống tự nhiên; nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng.
Lc 6: 27-38:
Đức Giê-su nhấn mạnh đến bổn phận yêu thương kẻ thù và những trách nhiệm của đức ái huynh đệ.
BÀI ĐỌC I (1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23)
Sách Sa-mu-en quyển một là một tác phẩm quan trọng đặc biệt vì sách ghi lại bước ngoặc “lịch sử” đã dẫn đưa dân Ít-ra-en lần từng bước từ “thể chế các thủ lãnh” sang “thể chế các vua”. Ba vĩ nhân thống trị tất cả mọi biến cố của giai đoạn lịch sử này là ngôn sứ Sa-mu-en, vua Sa-un và vua Đa-vít.
1. Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất:
Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất trong toàn bộ lịch sử Ít-ra-en. Ông có tất cả những nét quyến rũ của những anh hùng huyền thoại. Ông khôi ngô tuấn tú: “Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1Sm 16: 12); nghệ sĩ đàn hạc (1Sm 16: 16, 23); dũng cảm đến độ liều lĩnh (1Sm 17: 34-36, 40t; 18: 6-9, 26-27); không biết mệt mõi, hiếu động, nhất là sau khi đã phải trốn chạy khỏi triều đình Sa-un, ông sống cuộc sống phiêu bạt rày đây mai đó (1Sm 21-30).
2. Đa-vít có tấm lòng khoan dung nhân từ:
Sách Sa-mu-en quyển một kể cho chúng ta một trong những câu chuyện Đa-vít phải rời bỏ triều đình vua Sa-un mà trốn chạy khỏi sự truy sát của vua Sa-un. Vua Sa-un dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng bắt Đa-vít. Một đêm, vua Sa-un ngủ mê miệt trong trại thì Đa-vít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đa-vít thấy đây là một dịp may hiếm có nên xúi Đa-vít giết chết vua Sa-un. Nhưng Đa-vít không nghe theo. Ông chỉ lấy cây giáo của Sa-un rồi sang phía bên kia hô lớn bảo vua Sa-un thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Sa-un cảm động và phải thừa nhận Đa-vít là người sau này sẽ hoàn thành nghiệp lớn.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 45-49)
1. Nhờ A-đam, chúng ta có được sự sống tự nhiên:
Một lần nữa thánh Phao-lô chú ý đến A-đam (x. 15: 22-23). Cách thức chúng ta sống hiện nay, bản chất hiện nay, hình dáng, vẻ bên ngoài của chúng ta (“thân thể” của chúng ta) được tạo dựng theo khuôn mẫu của A-đam. Chúng ta được tạo nên hình thể từ đất nhưng chúng ta sống nhờ hơi thở mà Thiên Chúa thổi vào chúng ta. Chúng ta là một “sinh linh” (St 2: 7); chúng ta là một “thân thể có sinh khí” (1Cr 15: 44). Thân thể này có những đặc tính của một thân thể địa giới: kiếp sống phàm nhân phải chết, hèn hạ và yếu đuối (15: 42-43). Chúng ta ghi nhận rằng ở dây thánh Phao-lô trở lại quan điểm Kinh Thánh cựu trào hơn, khi nối kết cái chết với thân phận con người chứ không với tội lỗi.
2. Nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng:
Trái lại, nhờ Đức Ki-tô phục sinh, người Ki-tô hữu có được sự sống thần thiêng (15: 45). Thân thể của Ngài từ “trời mà đến” (15: 40), chứ không từ đất mà ra, vì thế là “thân thể có thần khí” (15: 44). Thân thể sống lại của chúng ta sẽ không là thân thể có sinh khí, nhưng thân thể có mối liên hệ với Thần Khí Thiên Chúa. Thân thể chúng ta sẽ không giống như mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, nhưng giống như thân thể của Đức Ki-tô phục sinh (15: 49), vì chúng ta được thông phần sự sống của Ngài.
Khi gọi Đức Ki-tô là “A-đam cuối cùng” (15: 45), thánh Phao-lô công bố rằng Ngài là người đầu tiên khai mở mục đích tối hậu của lịch sử. Thánh nhân cũng công bố rằng A-đam đầu tiên dự kiến A-đam sau cùng: con người, như mục đích tự nhiên của mình, phải mang hình ảnh của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Lc 6: 27-38)
Tin Mừng hôm nay áp dụng “Các Mối Phúc và các Mối Họa” của Tin Mừng tuần trước vào cuộc sống cụ thể của con người. Tin Mừng bắt đầu với lời của Đức Giê-su: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây” (6: 27) nhắc nhớ đến đám thính giả vây quanh Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và để được chữa lành bệnh tật (6: 17-19).
1.Yêu thương kẻ thù (6: 27-35):
Sau các Mối Phúc ngỏ lời với những người bị đè bẹp trong cuộc sống và các Mối Họa được gởi đến cho những người chỉ coi sự giàu sang phú quý như cứu cánh cuộc đời mình, thì phần này mở ra và đóng lại với huấn lệnh “hãy yêu thương kẻ thù” (6: 27 và 6: 35). Những kẻ thù ở đây được nhận dạng qua những hành vi họ làm: “nguyền rủa anh em” và “vu khống anh em” (6: 28), đó là những kẻ bách hại các Ki-tô hữu đã được nói đến ở Mối Phúc thứ tư (6: 22).
Ở trung tâm của phân đoạn này là luật vàng: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (6: 31). Luật này được giải thích bởi những huấn lệnh vây quanh, trước hết những huấn lệnh thuộc thể truyền lệnh ở ngôi thứ hai số ít: “Anh” (6: 29-30) và sau đó những mệnh lệnh thuộc thể điều kiện ở ngôi thứ hai số nhiều: “Anh em” (6: 32-34). Hình ảnh đưa cả má bên kia cho người ta tát và trao luôn cả áo trong cho kẻ khác, xin thì cho, lấy thì đừng đòi lại, đó là một thái độ bất bạo động không tìm cách chống cự lại kẻ ác. Để ý đến việc chuyển từ ngôi thứ hai số ít sang ngôi thứ hai số nhiều gợi lên sự vượt quá tương quan liên bản vị. Như thế luật vàng được trình bày một cách tích cực: tính hỗ tương mà luật này phải dựa vào: làm cho người khác điều thiện mà mình muốn người khác làm cho mình được xác định trong các câu 29-30, ngay cả vượt qua trong các câu 32-34. Thực vậy, ba câu hỏi nhắc lại rằng chỉ có việc không tính toán, không cho để được cho lại, hoàn toàn vô vị lợi mới phân biệt cách ăn nếp ở của người tín hữu với cách ăn nếp ở của những người tội lỗi, những người này cũng biết nhân ái đối với những ai đối xử với họ như vậy. Trong phân đoạn này, thính giả được mời gọi hằng ngày phải vượt qua chính mình, phải sáng tạo để “làm điều thiện” cho tha nhân, nhất là cho những kẻ không muốn làm điều thiện cho mình.
Tất cả những thực hành trên phải được hiểu theo quan điểm của cặp đóng khung (6: 27 và 35): lòng yêu thương đối với kẻ thù được đòi hỏi cách triệt để ở đây. Những thực hành như thế không mong được đền ơn đáp nghĩa nào trên bình diện con người; nếu có đó chỉ là phần được ban mà thôi. Người tín hữu chỉ trông chờ lời đáp của Thiên Chúa. Đáp lại ba hành vi phục vụ người khác (6: 35a) là phần thưởng đến từ Thiên Chúa (6: 35b). Ở đây cũng như Mt 5: 9, 45, chính trên cơ sở những tương quan liên vị mà người tín hữu được đồng hóa với Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa. “Ở nơi việc yêu thương kẻ thù chiếu sáng trong chúng ta họa ảnh của Thiên Chúa, Cha chúng ta, Ngài, qua cái chết của Con của Ngài, đã chuộc lại khỏi sự hư mất đời đời và hòa giải với Ngài nòi giống con người, trước đây vốn đã không thân thiện và thù ghét Ngài” (St Pius V Catechism, IV, 14, 19).
2. Phải có lòng nhân từ (6: 36-38)
Lời mời gọi của Đức Giê-su: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, là câu then chốt của đoạn Tin Mừng này, tức lả “bắt chước Thiên Chúa”, như Fray Luis giải thích: “Phẩm chất đầu tiên của nhân đức này chính là nó làm cho con người nên giống Thiên Chúa và giống đức tính vinh quang nhất ở nơi Người, lòng từ bi nhận hậu của Ngài (Lc 6: 36). Vì chắc chắn sự hoàn thiện bậc nhất một thọ tạo có thể có là phải nên giống Đấng Tạo Hóa của mình; và càng nên giống Người, càng nên hoàn thiện” (Book of Prayer and Meditation, third part, third treatise).
Khuôn mẫu của lòng nhân từ mà Đức Giê-su phô bày trước chúng ta là chính Thiên Chúa, Đấng mà thánh Phao-lô nói về Người: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn năng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2Cr 1: 3-4). Đức Pi-ô X dạy rằng “Đây là luật mà một người Ki-tô hữu phải áp dụng: phải có lòng nhân từ đối với những ai lâm cảnh gian nan khốn khó như thử chính chúng ta, và cố gắng chữa trị họ. Giáo Hội công bố luật này khi cho chúng ta một loạt những công việc vật chất đầy lòng nhân ái như thăm viếng và săn sóc bệnh nhân, cho người đói khát của ăn thức uống… và những công việc tinh thần đầy lòng nhân ái như dạy những người thất học, sửa lỗi người bị lầm lạc, tha thứ những xúc phạm…”(Catechism, 944t.).
Như vậy, những câu 37-38 cũng minh họa điều mà lòng nhân ái phát sinh. Bằng bốn ý tưởng: hai câu phủ định: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án”, và hai câu khẳng định: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại”, Chúa Giê-su kêu gọi đừng phê phán người khác, đừng giam hãm người ta mãi mãi theo cách đánh giá chắc chắn như đinh đóng cột. Người tín hữu không có thể thay thế Thiên Chúa để lên án người khác, cũng không muốn người khác đối xử với mình như vậy, đấy là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi: rốt cuộc chính Ngài sẽ xét xử, sẽ lên án hay tha thứ, sẽ ban ơn dư dật. Cách hành xử của tôi đối với người khác như thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ cư xử với tôi như vậy.
Chúng ta đã đọc trong Kinh Thánh chuyện tích bà góa xứ Xa-rếp-ta, bà mà Thiên Chúa đã truyền nuôi ngôn sứ Ê-li-a thậm chí dù chỉ với một nắm bột còn lại trong hũ và chút dầu còn lại trong vò. Ấy vậy, Người đã thưởng cho tấm lòng quảng đại của bà với một hũ bột không vơi và vò dầu không cạn (1V 17: 9tt.). Sự việc cũng đã xảy ra như thế khi một cậu bé đã sẵn lòng dâng hiến năm chiếc lúa mạch và hai con cá cho Đức Giê-su mà Người hóa nhiều để nuôi một đám đông dân chúng (x. Ga 6: 9). Đây là hai ví dụ sống động về điều Thiên Chúa làm khi chúng ta cho Ngài điều chúng ta có, ngay cả nếu quà tặng của chúng ta chẳng là bao nhiêu. Thiên Chúa không để cho ai đó vượt qua mình về tấm lòng quảng đại: “Hãy đến với Người với lòng quảng đại và hỏi Người như trẻ thơ: Còn gì mà Chúa không cho con khi Chúa đã đòi con ‘điều này’?” (Bl. J. Escriva, Con Đường, 153). Chúng ta cho Thiên Chúa bao nhiêu trong cuộc đời này, Ngài sẽ cho chúng ta bấy nhiêu, thậm chí còn nhiều hơn trong cuộc đời mai sau.
3. Không thỏa hiệp với sự gian ác:
Tuy nhiên, việc từ chối xét đoán người khác không đồng nghĩa với thái độ dửng dưng với điều chân và thiện. Đôi khi, trong hoàn cảnh mà kẻ gian ác là người có thế lực và quyền hành, viện cứ yêu thương kẻ thù mà từ chối xét đoán lại trở nên đồng lõa với hành động của kẻ gian ác. Đó không là đức ái mà Đức Giê-su đã dạy, như lời dạy của Công Đồng Vatican II: “Thực ra, đức ái và lòng nhân hậu này không bao giờ cho phép chúng ta trở nên dửng dưng với điều chân và thiện. Hơn thế nữa, chính đức ái thúc bách các môn đệ Chúa Ki-tô loan báo cho mọi người chân lý cứu rỗi. Nhưng phải phân biệt lầm lỗi, điều luôn luôn phải loại bỏ, với người lầm lỗi vì người lầm lỗi vẫn còn giữ được nhân phẩm, ngay cả khi họ có những ý niệm sai lầm hoặc hơi lệch lạc về tôn giáo. Chỉ có mình Thiên Chúa là quan tòa và là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn: bởi vậy Ngài ngăn cấm chúng ta xét đoán tội lỗi bên trong của bất cứ người nào” (Gaudium et spes, 28).
Hãy chúc lành để đáp lại những kẻ nguyền rủa; Hãy xin Chúa ban điều tốt lành cho những kẻ vu khống mình; Hãy dùng nhu thắng cương và lấy ơn báo óan; Hãy làm trước cho kẻ khác điều mình muốn họ làm cho mình. Hãy tỏ lòng khoan dung nhân từ đối với những kẻ vô ơn bạc ác với mình. Làm ơn và cho vay mượn mà không mong báo đền. Không xét đoán ý trái và đừng vội kết án tha nhân. Hãy quảng đại tha thứ và cho đi. Tất cả những điều tốt ấy sẽ không vô ích, nhưng sẽ được Thiên Chúa báo đền ở đời sau.
CHÚ THÍCH:
- C 27-28: +Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em: Kẻ thù ở đây cụ thể là những kẻ ganh ghét làm hại ta, những người nguyền rủa, vu khống, đánh đập và tước đoạt tài sản của ta... Yêu kẻ thù không phải chỉ về phạm vi tình cảm suông, nhưng là đáp trả những việc xấu của kẻ gian ác như: Chúc lành cho kẻ nguyền rủa ta, cầu nguyện cho kẻ vu khống ta.
- C 29-31: +Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy: Đây là một nguyên tắc căn bản trong cách đối nhân xử thế. Tô-bi-a cha cũng khuyên Tô-bi-a con tương tự: “Điều con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15). Còn Đức Khổng Tử thì dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều mình không muốn, thì đừng làm cho người). Lời Đức Giê-su nói đây nhấn mạnh tính tích cực: Các môn đệ cần noi gương Thiên Chúa trên trời, Đấng“luôn tỏ lòng nhân hậu đối với mọi người, ngay cả phường vô ơn và kẻ độc ác”, Người sẵn sàng ban ơn lành cho những kẻ thù ghét mình.
- C 35: +Con Đấng Tối Cao: Ai đối xử khoan dung với kẻ thù như thế sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao”, một danh hiệu được ban cho vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (x. 2 Sm 7,14). Đức Giê-su cũng được gọi bằng danh hiệu này khi sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x. Lc 1,32). Ngòai ra, những ai “ăn ở thuận hòa” cũng được gọi là “con Thiên Chúa” (x. Mt 5,9).
- C 36-37: +Anh em đừng xét đoán... Đừng lên án... Hãy tha thứ...: Xét đoán là một hành vi nhân linh, mà mọi người cần thực hiện trong cuộc sống. Sự xét đóan khôn ngoan sẽ giúp người ta phân biệt được người tốt kẻ xấu, điều nào đúng hay sai, quan trọng nhiều hay ít, việc gì cần làm trước hay làm sau... Nếu biết xét đoán đúng và áp dụng phương pháp hữu hiệu thì mọi việc sẽ thành công. Ở đây, Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Đừng xét đoán”, nghĩa là đừng đoán xét ý trái cách bất công cho người khác, vì việc kết án chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, “Đấng thấu suốt mọi bí ẩn” vào ngày tận thế. Còn hiện tại, Thiên Chúa không phán xét ai, không kết tội ai và luôn khoan dung tha thứ cho những kẻ tội lỗi có lòng sám hối ăn năn... Sau này chúng ta có được xét xử khoan dung hay không, là tùy thái độ của ta đối với tha nhân thế nào, như lời Chúa phán: “Anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy”. Tùy theo chúng ta có sẵn sàng tha thứ lỗi lầm cho tha nhân hay không, như lời Đức Giê-su đã dạy trong kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).
HỎI ĐÁP:
- HỎI: Khi dạy “Giơ má bên kia cho kẻ vả mặt mình, không cản nó lấy luôn cả áo trong.”.. Phải chăng Đức Giê-su muốn các môn đệ cứ để mặc cho kẻ gian ác lộng hành, để chúng tiếp tục làm hại nhiều người hiền lương yếu đuối?
ĐÁP: Thực ra đây chỉ là một kiểu nói nghịch lý, được cường điệu hóa theo cách nói của người Do thái, tương tự như lời Chúa đòi người ta phải tự móc mắt, chặt tay chân, nếu các bộ phận ấy nên dịp tội cho mình (x. Mt 5,29-30). Người ta không được hiểu những lời này hoàn toàn theo nghĩa đen. Bằng chứng là khi bị điệu ra xét xử, Đức Giê-su đã không đưa má kia cho tên thuộc hạ của thượng tế Khan-na khi hắn vả mặt Người, trái lại Người còn hạch lại nó rằng: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Tuy vậy, Đức Giê-su luôn đòi môn đệ phải biết nhẫn nhịn chịu đựng kẻ gian ác. Có lần Người đã quở trách hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an khi họ xin Thầy dùng sấm sét tiêu diệt dân làng Sa-ma-ri vì họ đã từ chối đón tiếp thầy trò vào ở trọ trong làng của họ (x Lc 9,55). Ngôn sứ I-sai-a cũng tuyên sấm về thái độ của người Tôi Trung của Đức Chúa, ứng nghiệm nơi Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn như sau: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Ở đây Đức Giê-su chỉ muốn dạy các môn đệ một phương thức đấu tranh bất bạo động: Hãy dùng tình thương để cảm hóa kẻ ác, lấy nhu thắng cương, lấy sự hiền lành chinh phục những kẻ cường bạo, theo nguyên tắc “thêm bạn bớt thù và biến thù thành bạn”, giúp cho những kẻ gian ác có cơ hội hòan lương.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6,38a).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Định luật quả báo trong giao tiếp xã hội:
Cách đây ít lâu có một phụ nữ viết một bài đăng trên một tạp chí tôn giáo, kể lại kinh nghiệm về định luật quả báo trong quan hệ giao tiếp với tha nhân như sau:
“Tôi là một phụ nữ tuổi trung niên và tính tình khép kín. Tôi không thích giao tiếp với bất cứ ai vì sợ bị họ quấy rầy. Chính vì thế mà tôi đã sống cô đơn nhiều năm trong một căn hộ chật hẹp với số tiền trợ cấp xã hội ba tháng một lần. Thái độ khép kín đó đã làm cho tôi bị suy nhược thần kinh. Một ngày nọ tôi bị đau nặng phải đi điều trị tại một bệnh viện miễn phí. Nằm viện đã lâu mà bệnh tình cũng không thuyên giảm. Trong thời gian này tôi cảm thấy cô đơn vì không có ai đến thăm. Chỉ có cô em gái của tôi ở nước ngoài là còn nhớ đến tôi và mỗi dịp lễ Giáng Sinh cuối năm đều gửi cho tôi một thùng quà kèm theo một thiệp chúc mừng No-en. Rồi một ngày nọ, cô em gái duy nhất kia lại bị chết đột ngột do tai nạn giao thông. Tin này khiến cho tôi càng thêm tuyệt vọng. Một hôm, tình cờ tôi đọc được một thông báo trong tập san của bệnh viện nơi tôi đang điều trị, nội dung như sau: “Tổ chức thiện nguyện chúng tôi đang cần có thêm người tình nguyện phục vụ các bệnh nhân tê liệt tại tầng lầu ba của bệnh viện”. Thế là tôi quyết định đăng ký làm thử công việc thiện nguyện này để tránh sự nhàm chán trong thời gian nhàn rỗi. Chỉ có Chúa mới biết tại sao tôi lại tình nguyện làm một việc vất vả không lương này. Nhưng theo tôi hiểu thì chắc là Người muốn dùng việc ấy để chữa lành bệnh cho tôi.
Ngày nọ, tôi được bà trưởng hội phân công đến giúp cho một bà cụ bị tê liệt mà đã từ lâu không một thân nhân nào còn đến thăm hỏi giúp đỡ. Bà cụ thường tủi thân và luôn than vãn trách móc con cháu đã đối xử tệ bạc với bà. Nhận thấy cụ cần được động viên an ủi, nên tôi hay đến ngồi bên cạnh, vừa bóp tay chân cho cụ vừa lắng nghe cụ tâm sự. Mỗi lần như vậy, cụ lại có dịp kể cho tôi nghe những nỗi đau khổ mà chồng con đã đối xử tệ bạc với cụ. Một hôm tôi ghé tai khẽ nói với cụ rằng: Tôi có một bà mẹ có nét mặt phúc hậu rất giống cụ. Tôi cảm thấy yêu cụ như yêu mẹ ruột của tôi. Nghe vậy, nét mặt cụ đột nhiên biến đổi: Cụ im lặng nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi: “Có thật vậy không hả cô?”. Tôi trả lời: “Đúng thật như vậy đó! Con rất yêu cụ như yêu mẹ ruột của con!”. Và ngay lúc ấy, tôi cảm thấy trong người tôi một mối xúc cảm lạ lùng, nó làm biến đổi con tim vốn chai lỳ của tôi. Trước đây tôi không có thiện cảm với ai, nhưng giờ đây tôi lại thấy mọi người đều dễ thương và tôi sẵn sàng tiếp xúc với những người đau khổ để đem niềm vui và tình thương đến cho họ. Cũng từ ngày đó tôi không còn cảm thấy căng thẳng thần kinh nữa và tôi quyết định không uống thuốc chữa bệnh thần kinh mỗi ngày như trước nữa. Tôi ăn ngủ bình thường và lên cân. Căn bệnh suy nhược thần kinh của tôi tự nhiên biến mất hẳn. Trong lần tái khám định kỳ, bác sĩ chữa trị cho tôi rất ngạc nhiên khi thấy tôi bình phục rất nhanh mà không cần uống thuốc mỗi ngày như trước”.
Câu chuyện nói trên cho thấy: Chính khi chúng ta thể hiện tình thương đối với tha nhân là lúc chúng ta cũng nhận được ơn chữa lành căn bệnh tinh thần của mình.
2) Phương cách tiêu diệt kẻ thù hữu hiệu nhất:
Trong cuộc nội chiến tại nước Hoa Kỳ, sự hận thù giữa hai miền Nam Bắc ngày một thêm sâu đậm. Lần kia, tổng thống ÁP-RA-HAM LANH-CÔN (Abraham Lĩnoln) đã bị nhiều người Bắc Mỹ chỉ trích khi ông chủ trương cần đối xử khoan dung đối với những đám dân nổi loạn ở miền Nam. Những người này nhắc cho Lincoln nhớ rằng cuộc chiến tranh giữa hai miền vẫn đang tiếp diễn. Theo họ, quân đội miền Nam là kẻ thù, và tất cả bọn họ đều cần phải bị tiêu diệt. Bấy giờ tổng thống LANH-CÔN đáp: “Cách tiêu diệt kẻ thù hữu hiệu nhất chính là biến kẻ thù trở thành bạn hữu của chúng ta bằng lòng khoan dung tha thứ”.
Lời nói của Lanh-côn rất phù hợp với lời Đức Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em… Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Vì Người nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác” (Mt 5,27-28.35).
3. THẢO LUẬN: Ta nên làm gì đối với những người đang thù ghét và nói xấu ta? 4. SUY NIỆM:
1) Ác giả ác báo:
Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, “Gieo gió gặt bão”: Ai làm ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm óan thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới hóa giải hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giê-su để tha thứ cho tha nhân điều họ đã xúc phạm đến ta thì phản ứng dây chuyền của sự ác là sự hận thù sẽ tăng thêm, rồi bạo lực sẽ kéo theo bạo lực và tất cả chúng ta đều rơi vào hố diệt vong.
2) Hậu quả tai hại của lòng thù hận:
Một nhà tâm lý đã nói rằng: “Nếu anh nuôi lòng thù hận và muốn giết chết kẻ thù đã làm hại anh, thì anh hãy sắm sẵn hai chiếc quan tài: Một chiếc dành cho kẻ thù sắp bị anh giết, còn chiếc kia sẽ dành cho chính anh. Vì anh cũng sẽ bị chết dần chết mòn do sợ hãi bị trả thù hay sợ sự trừng phạt của công lý”. Thực vậy, hận thù gây tác hại. Nó làm tổn thương về tinh thần cho người đang nuôi oán thù trong lòng. Nó còn huỷ diệt nhân cách của họ như Ba-con đã nói: “Khi trả thù, người ta biến mình thành ngang hàng với kẻ thù. Còn khi tha thứ thì người ta sẽ vượt cao hơn kẻ thù của mình”.
3) Phương cách hóa giải hận thù:
Các chuyên gia tâm lý ngày nay đều công nhận rằng: “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương mới làm phát triển nhân cách con người”. Tình yêu có phép mầu để biến thù thành bạn. Áp-ram Lanh-côn (Abaham Lincon) nói: “Biến thù thành bạn, tức là ta đã tiêu diệt kẻ thù rồi vậy!”. Chính Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay đã dạy chúng ta: “Anh em hãy yêu kẻ thù... Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. Hãy cho đi thì sẽ được cho lại!”(Lc 6,35).
4) Chúng ta nên làm gì?:
- Tìm ra nguyên nhân khiến ta bị thù ghét để khắc phục:
Hầu hết sự ganh ghét của người khác đối với ta là do nỗi sợ hãi không còn được tôn trọng và yêu thương. Việc xác định nguyên nhân ta bị ganh ghét là bước đầu cần làm để hóa giải sự thù ghét của kẻ khác. Sự ganh ghét có thể do chúng ta có ngoại hình đep hơn; được nhiều người quý mến hơn; được cấp trên tín nhiệm và trao trách nhiệm cao hơn; được hưởng phúc lộc dồi dào hơn… Sau đó, chúng ta sẽ khắc phục nguyên nhân và tìm cách hóa giải thù ghét như sau:
Sự xuất hiện của những người ganh ghét trong cuộc sống là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả Đức Giê-su vốn là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34), nhưng vẫn bị các đầu mục dân Do thái thù ghét và chỉ trích: “Ông ta là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách hóa giải những thù ghét của kẻ khác bằng cách đi bước trước đến với họ và “biến thù thành bạn”.
+ Cầu xin Chúa ban ơn lành cho những kẻ nói xấu và vu khống cho ta; + Lấy ơn báo óan: Làm điều tốt cho những kẻ thù ghét làm hại ta; + Làm ơn và cho vay mà không mong báo đền; + Tránh xét đoán ý trái và không kết án tha nhân cách hồ đồ bất công; + Sẵn sàng tha thứ không chỉ bảy lần nhưng tha bảy mươi lần bảy; + Quảng đại cho đi bằng lời khen thành thật để động viên tinh thần và chia sẻ vật chất...
Đây là những việc sẽ khó thực hiện nếu không quyết tâm cao và không được ơn Chúa ban ơn trợ giúp. Khi bị người khác thù ghét nói xấu và làm hại, chúng ta cần bình tĩnh tìm cách hóa giải hận thù để ngày một nên môn đệ đích thực của Chúa Giê-su.
5. NGUYỆN CẦU
- Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trước tha nhân, nhưng biết quảng đại mở ra, biết vươn tâm hồn lên cao, vượt qua mọi ích kỷ tầm thường của loài người, để mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Xin cho con đủ sức vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen cùng mọi trả thù ti tiện. Xin cho con luôn giữ được tâm hồn bình thản, không để cho bất cứ yếu tố bên ngoài nào làm xáo trộn, khuấy động tâm can con.
- Lạy Chúa. Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu được những người tự nhiên con có ác cảm. Xin cho vòng tay con rộng mở để ôm cả những kẻ đang ganh ghét, vu khống và làm hại con. Nhờ đó con hy vọng sẽ được Chúa tha thứ tội lỗi và xứng đáng làm con thảo của Chúa Cha trên trời.
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật VII, Thường Niên, Năm C
Vì thuộc về Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, mà người Kitô hữu không thể dừng lại TN 7-C106
TMĐP- Vì thuộc về Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, mà người Kitô hữu không thể dừng lại ở luân lý của “con người”, mà phải vươn tới luân lý của “con Chúa”…
Người Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, mà Đức Kitô là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, nên lối suy nghĩ và nếp sống của người thuộc về Thiên Chúa tất nhiên không thể trái nghịch với những chọn lựa của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao người môn đệ Đức Giêsu không suy nghĩ và sống hoàn toàn giống như người đời, cũng không cùng thái độ và hành động y hệt như người ngoài Kitô giáo. Nói cách khác, luân lý Kitô giáo khác các luân lý của nhiều tôn giáo bạn, cũng như không giống luân lý của cộng đồng xã hội trần thế.
Nhưng có phải người Kitô hữu thuộc về Đức Kitô thì không còn thuộc về loài người?
Thưa không, vì chính Đức Kitô tuy là Thiên Chúa cũng đã xuống thế làm người, trở nên con người như mọi người trừ tội lỗi.
Để hiểu rõ thắc mắc này, chúng ta nghe thánh Phaolô giải thích: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15, 48-49). Thánh nhân muốn nói đến những người Kitô hữu: họ vừa là người được dựng nên bởi đất, vừa là người thuộc về Thiên Chúa.
“Hình ảnh người bởi đất mà ra” ở chúng ta là những những tham sân si, những ích kỷ nhỏ mọn, những khuynh hướng sở hữu, thống trị, hưởng thụ. Tuy thế, ở con người bởi đất mà ra cũng có lương tâm biết thiện ác, lành dữ, tốt xấu và ý chí để chọn lựa. Riêng hành vi luân lý ở con người bởi đất thường bị giới hạn ở: “yêu thương kẻ yêu thương mình.., làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình.., cho vay thì hy vọng đòi lại được” ( Lc 6, 32.33.34), nghĩa là chỉ làm cho người khác điều mình muốn người khác làm cho mình, kiểu “bánh ít trao đi, bánh quy trao lại”, và luân lý đều dừng lại ở công bình: “Mắt đền mắt, răng đền răng” (Mt 5,38).
Đức Giêsu đến với nhân loại với đòi hỏi luân lý mới, hoàn toàn mới, tuy không xóa bỏ luân lý của loài người bởi đất mà ra, nhưng vượt lên trên luân lý của “con người bởi đất” bằng luân lý quên mình vì người khác” mà bất cứ ai thuộc về Thiên Chúa, tức “mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” đều phải sống.
Quên mình vì người khác khi không còn nghĩ mình là kẻ thù của người khác, không còn biết người khác là kẻ thù của mình, bằng liên lỷ sống những chọn lựa anh hùng là không nhớ người khác đã vu oan, giáng họa, làm tan gia bại sản, tiêu tùng danh dự, uy tín của mình để có thể thực hiện luân lý của Đức Giêsu, Đấng đến từ trời là “yêu kẻ thù và làm ơn cho người ghét anh em, chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6,27-28).
Quên mình vì người khác, khi “dám” không nhớ mình là người có quyền, là người được người khác phục vụ, là người được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, nhưng chấp nhận chịu thua thiệt, lép vế để có thể làm điều Đức Giêsu dạy: “Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại” (Lc 6, 30).
Quên mình vì người khác, khi can đảm không còn tìm mọi cách để mọi người nhận ra mình là đấng bậc quyền cao chức trọng, để có thể kiêm hạ đến độ xóa mình toàn diện, bỏ mình không nuối tiếc hầu làm được những việc loài người không thể làm mà Đức Giêsu muốn ở người môn đệ: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,29).
Quả thực, tình yêu kẻ thù là đòi hỏi vô cùng khó khăn, nhưng là dấu chỉ vô cùng tuyệt vời của người môn đệ Đức Giêsu, bởi đây là bằng chứng hùng hồn nhất của lòng thương xót Chúa mà người môn đệ được kêu gọi và tuyển chọn để làm chứng. Đây cũng là nét đẹp không gì sánh được của chọn lựa tự do và qủa cảm ở người môn đệ Đức Giêsu khi tha thứ vô điều kiện, vì ý thức: khi tha thứ cho người khác là lúc được Thiên Chúa thứ tha.
Tóm lại, vì thuộc về Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, mà người Kitô hữu không thể dừng lại ở luân lý của “con người”, mà phải vươn tới luân lý của “con Chúa”; không thể hài lòng với lối sống của “thân thể có sinh khí”, mà còn phải tiến xa hơn đến gần Thiên Chúa, vì họ còn là “thân thể có thần khí” (1 Cr 15, 44), và đòi hỏi của Đức Giêsu đối với những ai mang thần khí, chính là: “Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48), bằng triệt để sống Lòng Thương Xót đối với mọi người, vì lòng thương xót, mà cao điểm là lệnh truyền của Đức Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44) là điều Chúa mong ước và đẹp lòng Ngài hơn tất cả.
Bài Tin Mừng hôm nay khiến chúng ta cảm xúc ngỡ ngàng, thậm chí hoảng sợ. Nhiều người tín TN 7-C107
Bài Tin Mừng hôm nay khiến chúng ta cảm xúc ngỡ ngàng, thậm chí hoảng sợ. Nhiều người tín hữu, nhất là người không cùng tôn giáo với chúng ta cho rằng những tiêu chí mà Chúa Giêsu đề nghị là những ảo tưởng, vì những thực hành Chúa muốn chúng ta thực hiện hoàn toàn đối nghịch với quan niệm thông thường, ví dụ như chúc lành cho người nguyền rủa mình, ai vả má bên này thì giơ má bên kia nữa, ai muốn chiếm đoạt áo ngoài thì cho người ấy cả áo trong. Chúng ta có lý khi ngạc nhiên trước lời khuyên của Chúa Giêsu. Tuy vậy, đó chính là điểm độc đáo của Kitô giáo. Những thực hành này làm cho chúng ta trở nên những người phi thường trong cuộc sống đời thường.
Thông điệp thứ nhất mà Lời Chúa muốn gửi đến chúng ta, đó là Tình yêu. Thông thường, chúng ta yêu những người quý mến mình. Đó cũng là điều bình thường và hợp lệ, theo lẽ công bằng. Người ta yêu mình thì mình quý mến người ta. Người ta làm điều tốt cho mình, thì mình làm điều tốt cho người ta. Tình yêu Chúa Giêsu rao giảng được gọi là “bác ái” tức là lòng yêu mến rộng rãi đối với hết thảy mọi người, không phân biệt người tốt hay người xấu. Theo quan niệm Kitô giáo, bác ái không phải chỉ là một cảm xúc hay tình trạng tâm lý nơi con người, mà đó còn là một nhân đức đối thần. Đức Ái được Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy. Nhờ Đức Ái, chúng ta yêu mến Chúa với tình yêu trọn vẹn và yêu mến tha nhân với lòng vị tha. Chính Đức Ái thúc đẩy chúng ta, nhờ đó mà chúng ta có những nghĩa cử cao cả mạnh mẽ tới mức anh hùng, như yêu mến kẻ thù, chúc phúc cho người nguyền rủa mình. Đức Ái cũng giúp chúng ta kiên nhẫn trước những vu khống, mưu mô của những người ghen ghét chúng ta.
Đương nhiên, chúng ta phải xác định rõ, giáo huấn của Chúa Giêsu hoặc Đức Ái Kitô giáo không nhằm ủng hộ một lối sống nhẫn nhịn cam chịu và hèn nhát. Chính Chúa Giêsu, khi một người lính vả vào mặt, Người đã vặn hỏi: “Nếu tôi nói sai, anh hãy chứng minh xem tôi sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Chúa Giêsu và hôm nay là Giáo Hội của Người không cổ võ cho bất cứ hình thức bất công nào trong xã hội. Trái lại, Giáo Hội luôn bênh vực những người nghèo và là tiếng nói của những người không có tiếng nói trong cuộc sống.
Thông điệp thứ hai của Lời Chúa hôm nay, đó là lòng bao dung. Mọi mâu thuẫn đổ vỡ từ gia đình đến xã hội đều do tính ích kỷ và cố chấp của con người. Vì thiếu bao dung mà một người vốn hiền lành bỗng dưng trở thành kẻ sát nhân, rồi khi hối hận và phải vào tù thì đã quá muộn. Chúa Giêsu nói với chúng ta: hãy bao dung, vì mỗi người cũng có những lầm lỗi. Không ai là người hoàn hảo trong cuộc đời. Hơn nữ, theo nhãn quan Kitô giáo, những ai tha thứ, sẽ được Chúa thứ tha. Chúng ta thường đọc điều này trong kinh Lạy Cha.
Bài trích sách Samuen nói với chúng ta một gương mẫu của lòng bao dung, đó là vua Đavít (Bài đọc I). Ông đang bị vua Sa-un truy bắt, vì vua cho rằng Đavít có ý định chiếm ngôi vua. Trong cuộc truy bắt này, có một thời điểm mà Đavít có thể giết vua dễ dàng, nhưng ông không làm thế, vì ông tôn trọng vua là người được xức dầu. Đavít đã thể hiện lòng nhân hậu của mình, khi ông tuyên bố: “Hôm nay, Đức Chúa đã nộp vua vào tay tôi, nhưng tôi không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong”.
Cuối cùng, Lời Chúa dạy chúng ta về tình liên đới. Không dừng lại ở tình yêu mến và sự bao dung, Đức Ái Kitô giáo còn thúc đẩy chúng ta chia sẻ với tha nhân về tinh thần và vật chất. Ai trong chúng ta cũng muốn người khác làm cho mình những điều tốt đẹp. Vậy thì mỗi chúng ta hãy làm những điều tốt đẹp cho người khác. Mỗi chúng ta hãy trở nên người thân cận đối với tha nhân. Chúa dạy chúng ta: đong đấu nào, sẽ nhận lại đấu ấy. Hơn thế, đấu nhận lại còn dồi dào phong phú hơn nhiều. Đấu mà chúng ta nhận lại, là chính phần thưởng Chúa ban cho chúng ta, vì Chúa là Đấng nhân hậu và quảng đại.
Hành trình Đức tin của người Kitô hữu cũng là hành trình nên hoàn thiện. Theo Thánh Phaolô, con người vừa mang hình ảnh ông Ađam từ đất mà ra, đồng thời cũng mang hình ảnh Đức Kitô từ trời mà đến. Nên hoàn thiện, chính là tiến trình luyện lọc mỗi ngày, để giảm thiểu điều bất xứng và làm tăng thêm những nhân đức, làm cho hình ảnh Đức Kitô sống động nơi hành vi cử chỉ và lời nói của mình.
Đức tin không bứng người tín hữu khỏi cuộc sống đời thường, nhưng thêm sức mạnh để họ tuân giữ giáo huấn của Chúa. Nhờ việc tuân giữ những điều Chúa dạy, Kitô hữu trở nên những người phi thường trong cuộc sống đời thường. Chúng ta có lý để xác tín điều đó, vì đối với Chúa, nhưng điều không có thể, sẽ trở thành những điều có thể.
“Người đầu tiên biết nói lời xin lỗi là người dũng cảm nhất. Người đầu tiên biết cách tha thứ là người mạnh mẽ nhất. Và người đầu tiên biết cách quên đi quá khứ đau buồn là người hạnh phúc nhất” (Sưu tầm).
Trong giáo dục, làm sao các đấng bậc có thể vui khi nghe con nói: bố mẹ sẽ không hiểu con đâu TN 7-C108
Trong giáo dục, làm sao các đấng bậc có thể vui khi nghe con nói: bố mẹ sẽ không hiểu con đâu ! Nhưng các ngài rất mừng vui khi nghe con cháu nói: xin bố mẹ, ông bà, hãy cho con được giải thích. Tâm lý tự nhiên, ai chẳng muốn nghe những lời nói hay, nói ngọt, hoặc mấy ai có thể giữ được bình tĩnh, khi phải nghe những lời cứng cỏi, cọc cằn. Kinh nghiệm cho thấy: nói không dễ nghe, mọi người sẽ xa lánh; đừng quá thẳng thắn, người nghe sẽ khó chịu. Ở đời này, tiền của vật chất bảo đảm cho ta cuộc sống thoải mái, kiến thức rộng, sức khoẻ ổn định, tạo cho người ta cảm giác tự tin, không ai nghi ngờ gì nữa. Xa hơn một chút, không ai gọi bạn thành công khi mà các thành viên gia đình bạn bất hoà, tâm hồn không bình an, cho dù địa vị xã hội cao to, sức khoẻ cường tráng, tài sản dư thừa.
Trước nhu cầu bình an hạnh phúc nơi mỗi người, Đức Giêsu mời gọi hãy lắng nghe, để hiểu để sống: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây, hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống mình”. Các chuyên viên xã hội thì nói: bạn cần phải đủ sức khoẻ để biến công việc thành niềm vui, cần phải đủ sức mạnh để chống lại và vượt qua những nghịch cảnh ở hiện tại. Đức Giêsu có ý nhắc những ai theo Chúa làm môn đệ đều phải hiểu đúng, phải sống đẹp, mới thấy hạnh phúc ở trong tầm tay mình là sự thật: “các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy”. Thực ra, cuộc sống luôn có yêu có ghét, giận thương, vui buồn, có thành công thất bại, đúng hơn, ai cũng có cơ hội để nghe, hiểu, chọn lựa, để sống, để gặt hái niềm vui và hạnh phúc.
Trong gia đình, cha mẹ yêu thương con cháu, anh chị em hoà thuận, xóm làng yên vui, dân giầu, nước mạnh, vẫn mãi là lý tưởng, có người xem tình yêu thương đó chỉ đẹp trên phương diện lý thuyết. Tìm kiếm danh lợi thú ở đời này, khác với tìm kiếm hạnh phúc thật nơi tâm hồn, có phải tình yêu chính là chất xúc tác để ta nghe, hiểu, và thực hành đức ái với cha mẹ, người thân, những anh chị em ta gặp gỡ không ? Ai có thể nhẫn nại, khi người anh chị em tát ta má này, ta lại đưa má kia ra, nếu kẻ ấy chưa thấm nhuần bài học yêu thương, hoặc còn thiếu tình yêu Chúa trong các tương quan ? Tình yêu bất tử, thiêng liêng, dù chúng không mầu sắc, không hương vị, nhưng mọi người, mọi thời, đều hiểu “trái tim” là biểu tượng của tình yêu, hoa hồng là đặc trưng của mùi thơm tình ái.
Chỉ những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu: Saolê dẫn ba ngàn quân tinh nhuệ vây bắt Đavit, lúc màn đêm buông xuống, nhà vua và quân lính ngủ say, Đavit có cơ hội tiêu diệt Saolê, nhưng ông không ra tay ? Đavit đã hiểu, không ai ra tay hại đấng đã xức dầu mà vô tội, ông đã sống điều ông tin. Công bằng thời xưa thì nói: mắt đền mắt, răng đền răng, công bằng của thời đại văn minh lại cho rằng: ơn đền oán trả, hoặc công to thì trọng thưởng, có tội thì luận phạt. Đức Giêsu cho thấy, công bằng chuẩn nhất: là yêu thương, là tha thứ; “nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì, ngay cả những kẻ tội lỗi họ cũng biết yêu những ai yêu họ”.
Theo quy luật, người ta chỉ có thể bước đi, khi đã qua giai đoạn biết bò, biết đứng. Người ta chắc chắn phải hiểu, phải được thấm nhuần tình yêu thương của cha mẹ, người thân, rồi mới biết yêu. Hiểu để sống, biết yêu vì đã được yêu, sẽ vô cùng quan trọng cho việc xây nền móng vững chắc cho hạnh phúc ở phía trước. Người ta có nhiều tiền, không có nghĩa là đã biết sử dụng tiền, biết tìm kiếm hạnh phúc, chưa chắc đã phải là người khôn ngoan. Đúng hơn phải biết mình là ai, phải hiểu giầu vật chất và giầu đức yêu thương khác nhau, một khi biết phối hợp con tim và khối óc cùng thực thi đức ái kitô. Nghe, biết, Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, tin Đức Giêsu vừa là người vừa là Thiên Chúa cứu độ, hiểu Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, để rồi chúng ta biết thực hành niềm tin theo Chúa làm môn đệ, thật quan trọng.
Chúng ta trau dồi kiến thức để làm giầu cho bản thân, gia đình, xã hội, thì không sai, chúng ta hiểu biết hạnh phúc thật, bình an và niềm vui thật, khi có Chúa trong cuộc đời, hẳn sự giầu sang phú quý của ta hiện tại này mới đáng trân trọng. Các đấng bậc chuyên về gia đình có câu: hai yếu tố làm tăng tuổi thọ của bạn, đó là một trái tim bình thản và một lý trí luôn yêu thương tha thứ. Đức Giêsu ý thức những ai theo Ngài làm môn đệ, trước hết phải hiểu biết mình giới hạn, cần được yêu thương, hầu biết sống yêu thương bằng sức mạnh của Chúa, là bao dung quảng đại với tất cả mọi đối tượng. Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện, khi chúng ta có đủ tình yêu Chúa, có đủ niềm vui và sống thánh ý Chúa mỗi ngày. Thực hành bài học yêu thương, sống yêu thương tha thứ không phải là điều mới mẻ, cách cư xử với anh chị em có tình, có nghĩa, đến mức độ không ai là người dưng, không ai là kẻ xa lạ, đó mới thực sự là môn đệ của Chúa. Amen.
Sách Samuel thuật lại chuyện vua Saun dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng giết TN 7-C109
Sách Samuel thuật lại chuyện vua Saun dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng giết Đavít. Một đêm kia, Saun nằm ngủ mê mệt trong trại thì Đavít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đavít thấy đây là dịp may hiếm có nên xúi Đavít giết vua Saun. Nhưng Đavít chỉ lấy cây giáo của Saun, rồi sang phía bên kia hô lớn để Saun biết, và yêu cầu cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Saun cảm động, và biết rằng Đavít sau này sẽ là người hoàn thành nghiệp lớn.
Chúa Giêsu hôm nay dạy ta phải yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Đây là điều hết sức khó khăn, nhưng Chúa biết chúng ta có thể làm được với ơn thánh. Lịch sử đạo cũng như đời, thời nào cũng vẫn có những tấm gương như thế. Hơn nữa, đời sống con người phải có lý tưởng để vươn lên, không thể sống tầm thường, thô thiển theo bản năng tự nhiên của mình. Lý tưởng của chúng ta là hoàn thiện như Cha trên trời, “Đấng vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”.
Nếu cứ theo bản năng tự nhiên thì ai cũng muốn phục thù, nhưng “Lấy oán báo oán, oán chập chùng”. Khi chọn thái độ báo thù là ta bị thù hận làm nhiễm độc. Trả thù có thể thỏa mãn sự tức giận của ta, nhưng lại làm con tim ta trống rỗng, nhân tính bị hư hại, và nhân cách ra hư hỏng. Khi nuôi lòng hận thù hay muốn trả thù, ta không chỉ tiêu hao nhiều năng lực, làm tổn hại thể chất, mà còn mất đi bình an và hạnh phúc đời mình. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu lòng thù hận làm tiêu hao năng lực thì lòng yêu thương lại tăng cường nghị lực trong ta. Oscar Wilde viết : “Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù là Ngài không nhằm đến lợi ích của kẻ thù mà nhắm đến lợi ích của chính bản thân ta”.
Yêu thương kẻ thù là trang sức cao cấp của tinh thần, làm cho đời ta thêm cao đẹp, và góp phần làm cho cuộc sống mỗi người thêm cao quí. Nếu ta không sống theo lời Chúa Giêsu dạy, phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực, và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố diệt vong. Ai cũng muốn tiêu diệt kẻ thù cho hả giận, nhưng biến thù thành bạn mới là cách tiêu diệt kẻ thù một cách trí tuệ nhất. Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ. Chúa Giêsu đã làm như vậy khi Ngài xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, vu khống và nhục mạ mình (x. Lc 23, 34).
Chắc chắn Chúa Giêsu không đòi ta yêu kẻ thù như yêu người thân, không thể yêu bằng tình cảm nhưng có thể yêu bằng hành động. Yêu là làm ơn, là chúc phúc, là cho vay. Yêu là cầu nguyện và làm điều tốt cho kẻ thù. Chính những hành động tốt lành đó sẽ làm ta yên lòng và kẻ thù cũng sẽ mềm lòng. Dù sao cũng phải giải tỏa những bất bình trong lòng mình trước để không còn chấp nhất nữa. Vấn đề không nằm ở kẻ thù mà nằm ở phản ứng của chính mình. Ai cũng có quyền lựa chọn một phản ứng, tại sao không thể lựa chọn một phản ứng tốt hơn?
Thật ra kẻ thù nhiều khi đáng thương hơn đáng ghét, vì hành động vô tình chứ không cố ý, vì không làm chủ nổi mình, vì chỉ nhận thức tới mức độ đó, chưa thể sống hơn… Nếu có cái nhìn hiểu biết và cảm thông như thế, ta sẽ khai phóng được những năng lực tiêu cực trong mình, và có một tâm thế mới để nhìn kẻ thù như người anh em, và tìm cách giao hảo với những cử chỉ và thái độ thân thiện. Cố gắng làm như vậy không phải vì giả bộ hay nhượng bộ trước những điều xấu, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên. Ðó không phải là hành vi của kẻ yếu, nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm và lòng bao dung.
Thế giới văn minh không chỉ là những tiến bộ của khoa học bên ngoài, nhưng chủ yếu là những chiến thắng của con người trên lòng dạ ích kỷ của mình. Hơn nữa, chúng ta còn có những lý do và động cơ siêu nhiên trong việc yêu kẻ thù. Lý do là Thiên Chúa sẽ đối xử với ta như ta đối xử với tha nhân: xét đoán sẽ bị xét đoán, tha thứ sẽ được tha thứ, lên án sẽ bị lên án, cho đi sẽ được cho lại… Còn động cơ cao cả chính là lời hứa của Chúa Giêsu:“Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao”. Là con, nên chúng ta phải là hình ảnh sống động của một Thiên Chúa đầy lòng thương xót, là sự góp phần vào nền hòa bình viên mãn mai ngày trong trời mới đất mới.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Chúa dạy chúng con yêu kẻ thù, nhưng rồi điều đó thật là khó, vì có những tổn thương quá nặng nề, nhưng nếu con không làm như thế, thì tâm con vẫn cứ mãi u mê, không thắng được ích kỷ hận thù, thì đời con vẫn chưa là Kitô hữu.
Yêu thương là lý tưởng vươn lên mãi, không thể dừng lại ở một mức độ nào, dù kẻ thù gây thiệt hại ra sao, con vẫn phải bao dung và nhân hậu.
Con không thể yêu kẻ thù bằng tình cảm, nhưng Chúa mời con yêu bằng hành động, yêu là làm ơn làm phúc sống hiệp thông, là cầu nguyện cho họ điều lành điều tốt.
Cho con biết nhìn Chúa trên thập giá, máu thắm tuôn ra mà vẫn nói thứ tha, vẫn chở che những kẻ đan tâm hành hạ, vẫn xin Cha mở rộng lượng hải hà.
Cuộc đời là một chuỗi những vượt qua, nhất là vượt qua những tranh chấp hận thù, dám yêu tất cả dù người thân hay kẻ lạ, để mỗi ngày con hoàn thiện giống Chúa Cha.
Xin Chúa làm mềm lại trái tim con, đừng cứng cỏi để khỏi phải ưu phiền, nhưng luôn trong tâm thái dịu hiền, để giải tỏa mọi oan khiên sầu não, cho yêu thương như dòng suối dạt dào, luôn tuôn chảy dâng trào niềm vui mới, và an bình rộng trải khắp muôn nơi. Amen.
Người Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, mà Đức Kitô là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm TN 7-C110
Người Kitô hữu là người thuộc về Đức Kitô, mà Đức Kitô là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, nên lối suy nghĩ và nếp sống của người thuộc về Thiên Chúa tất nhiên không thể trái nghịch với những chọn lựa của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao người môn đệ Đức Giêsu không suy nghĩ và sống hoàn toàn giống như người đời, cũng không cùng thái độ và hành động y hệt như người ngoài Kitô giáo. Nói cách khác, luân lý Kitô giáo khác các luân lý của nhiều tôn giáo bạn, cũng như không giống luân lý của cộng đồng xã hội trần thế.
Nhưng có phải người Kitô hữu thuộc về Đức Kitô thì không còn thuộc về loài người?
Thưa không, vì chính Đức Kitô tuy là Thiên Chúa cũng đã xuống thế làm người, trở nên con người như mọi người trừ tội lỗi.
Để hiểu rõ thắc mắc này, chúng ta nghe thánh Phaolô giải thích: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15, 48-49). Thánh nhân muốn nói đến những người Kitô hữu: họ vừa là người được dựng nên bởi đất, vừa là người thuộc về Thiên Chúa.
“Hình ảnh người bởi đất mà ra” ở chúng ta là những những tham sân si, những ích kỷ nhỏ mọn, những khuynh hướng sở hữu, thống trị, hưởng thụ. Tuy thế, ở con người bởi đất mà ra cũng có lương tâm biết thiện ác, lành dữ, tốt xấu và ý chí để chọn lựa. Riêng hành vi luân lý ở con người bởi đất thường bị giới hạn ở: “yêu thương kẻ yêu thương mình.., làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình.., cho vay thì hy vọng đòi lại được” ( Lc 6, 32.33.34), nghĩa là chỉ làm cho người khác điều mình muốn người khác làm cho mình, kiểu “bánh ít trao đi, bánh quy trao lại”, và luân lý đều dừng lại ở công bình: “Mắt đền mắt, răng đền răng” (Mt 5,38).
Đức Giêsu đến với nhân loại với đòi hỏi luân lý mới, hoàn toàn mới, tuy không xóa bỏ luân lý của loài người bởi đất mà ra, nhưng vượt lên trên luân lý của “con người bởi đất” bằng luân lý quên mình vì người khác” mà bất cứ ai thuộc về Thiên Chúa, tức “mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” đều phải sống.
Quên mình vì người khác khi không còn nghĩ mình là kẻ thù của người khác, không còn biết người khác là kẻ thù của mình, bằng liên lỷ sống những chọn lựa anh hùng là không nhớ người khác đã vu oan, giáng họa, làm tan gia bại sản, tiêu tùng danh dự, uy tín của mình để có thể thực hiện luân lý của Đức Giêsu, Đấng đến từ trời là “yêu kẻ thù và làm ơn cho người ghét anh em, chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6,27-28).
Quên mình vì người khác, khi “dám” không nhớ mình là người có quyền, là người được người khác phục vụ, là người được hưởng mọi đặc quyền, đặc lợi, nhưng chấp nhận chịu thua thiệt, lép vế để có thể làm điều Đức Giêsu dạy: “Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại” (Lc 6, 30).
Quên mình vì người khác, khi can đảm không còn tìm mọi cách để mọi người nhận ra mình là đấng bậc quyền cao chức trọng, để có thể kiêm hạ đến độ xóa mình toàn diện, bỏ mình không nuối tiếc hầu làm được những việc loài người không thể làm mà Đức Giêsu muốn ở người môn đệ: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,29).
Quả thực, tình yêu kẻ thù là đòi hỏi vô cùng khó khăn, nhưng là dấu chỉ vô cùng tuyệt vời của người môn đệ Đức Giêsu, bởi đây là bằng chứng hùng hồn nhất của lòng thương xót Chúa mà người môn đệ được kêu gọi và tuyển chọn để làm chứng. Đây cũng là nét đẹp không gì sánh được của chọn lựa tự do và qủa cảm ở người môn đệ Đức Giêsu khi tha thứ vô điều kiện, vì ý thức: khi tha thứ cho người khác là lúc được Thiên Chúa thứ tha.
Tóm lại, vì thuộc về Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, mà người Kitô hữu không thể dừng lại ở luân lý của “con người”, mà phải vươn tới luân lý của “con Chúa”; không thể hài lòng với lối sống của “thân thể có sinh khí”, mà còn phải tiến xa hơn đến gần Thiên Chúa, vì họ còn là “thân thể có thần khí” (1 Cr 15, 44), và đòi hỏi của Đức Giêsu đối với những ai mang thần khí, chính là: “Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48), bằng triệt để sống Lòng Thương Xót đối với mọi người, vì lòng thương xót, mà cao điểm là lệnh truyền của Đức Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44) là điều Chúa mong ước và đẹp lòng Ngài hơn tất cả.
Trong 5 ngày tết có 2800 vụ nhập viện vì đánh nhau trong đó, 1.088 ca phải nhập viện điều trị TN 7-C111
Trong 5 ngày tết có 2800 vụ nhập viện vì đánh nhau trong đó, 1.088 ca phải nhập viện điều trị/theo dõi và 9 trường hợp tử vong. Mỗi ngày lướt qua các trang mạng ta thấy rất nhiều cuộc đánh nhau, chửi nhau, thậm chí cả chém giết nhau. Ngay trong các gia đình nhiều khi không xô xát to tiếng thì cũng là giận hờn, lườm nguýt, không nhìn mặt nhau, ghét nhau và ghét cay ghét đắng.
Người ta nói rằng: cuộc sống chung thì phải có đụng nên vẫn có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát ra huống chi con người. Nhưng con người lại hay chấp nhất với nhau nên dễ bắt bẻ nhau, xúc phạm nhau và trả đũa lẫn nhau. Muốn sống chung hạnh phúc thì con người cần phải có lòng khoan dung, có tình yêu tha thứ mới kiến tạo được một môi trường hạnh phúc bình an. Nếu con người để sự thù hận nổi loạn đến nỗi “ăn miếng trả miếng” sẽ biến môi trường sống thành nơi tranh chấp hơn thua nổi loạn như bãi chiến trường.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. Vượt lên trên tình yêu tha thứ đó là lòng nhân từ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không xét đoán tội chúng ta như chúng ta đáng tội. Ngài đã yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Chúa còn đòi chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.
Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa. Cả cuộc đời của Ngài là một chuỗi dài sự tha thứ. Ngài đã tha thứ cho lầm lỗi của người phụ nữ ngoại tình. Ngài đã tha thứ việc làm của Giakêu. Ngài đã tha thứ quá khứ tội lỗi của người trộm lành. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ, là tha thứ cho kẻ làm nhục và giết hại Ngài.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng khủng bố, bằng súng đạn, người kytô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không tha thứ thì “oán báo oán, oán lại chập chùng”. Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là “hãy yêu thương nhau”. Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung và tha thứ vì “Yêu nhau củ ấu cũng tròn – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn can đảm tha thứ cho nhau, luôn can đảm quên đi mọi hận thù, oán ghét, ghen tương để sống trong vòng tay thân ái giữa người với người và trong tình yêu tha thứ thẳm sâu của Chúa. Amen
Bước theo Thầy Giêsu, hằng ngày cùng sát cánh bên Thầy, các môn đệ cùng nhau lắng nghe lời TN 7-C112
Bước theo Thầy Giêsu, hằng ngày cùng sát cánh bên Thầy, các môn đệ cùng nhau lắng nghe lời Thầy dạy dỗ: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây”. Quả vậy, Thầy luôn sẵn sàng ban lời dạy dỗ cho những ai chăm chú lắng nghe và thành tâm đem ra thực hành (x.Lc 6, 27-38). Lời Thầy dạy dỗ được tóm gọn trong chủ đề: hãy yêu thương kẻ thù, tha thứ và hãy cầu nguyện cho họ. Yêu thương ai đó không phải là điều dễ, yêu thương kẻ thù lại càng thách đố hơn cho những ai muốn trở nên người môn đệ của Thầy Giêsu và muốn được gọi là con Đấng Tối Cao.
Đầu tiên, Thầy Giêsu muốn ta yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét ta. Khi nghe lời dạy dỗ của Thầy ta nhận thấy lời ấy xuyên thấu tâm hồn ta, thách đố ta. Trước hết, nhìn lại những tương quan hiện tại, ta thấy mình vẫn chưa yêu thương những người thân – những người yêu thương ta- bằng một tình yêu vô vị lợi. Tình yêu trong ta vẫn còn đó những ích kỷ, những toan tính, những mong chờ được đáp trả. Khi ta yêu thương mà không nhận lại được sự đáp trả của họ, ta thấy mình chùn bước, và nếu họ có lỗi với ta, ta thấy mình dễ chấp nhặt. Chỉ vì ta quá ích kỷ, chỉ nghĩ cho mình mà không đặt mình trong hoàn cảnh của người khác để cảm thông. Nếu việc đáp lại tình yêu thương của những người yêu thương ta là một thách đố lớn cho ta thì việc yêu thương kẻ thù thực sự là một ước muốn không tưởng. Thầy Giêsu đang nói với ta, vì ta vẫn chăm chú lắng nghe. Thầy hỏi ta: Sao con còn băn khoăn về điều ấy? Con không biết rằng: “Đối với Thiên Chúa thì không gì là không thể sao?”
Đúng vậy, lòng ta còn băn khoăn vì ta đã chỉ nhìn về những nỗ lực và nhìn về những giới hạn của bản thân. Khi chỉ dựa vào sức riêng, làm sao ta có thể thi hành ý muốn của Thiên Chúa! Yêu thương kẻ thù là một hành động của đức tin và để thi hành điều ấy ta cần mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa. Khi nhìn lại một kinh nghiệm đã qua, ta nhận ra điều mà Thầy Giêsu muốn ta hướng tới. Trong một lần, ta và một người chị em to tiếng với nhau vì công việc. Sau lần ấy, có một khoảng cách thật lớn giữa ta và chị. Hai bên không thể nói chuyện với nhau, không thể cười đùa, không thể cùng nhau chia sẻ công việc như trước. Tình trạng ấy cứ kéo dài mà ta không thể hàn gắn, một phần do ta và một phần từ phía chị. Khi mang sự bực bội, khó chịu trong lòng, ta mất bình an. Tìm đến vị linh hướng để được giúp đỡ, ta làm theo lời khuyên của ngài. Mỗi ngày, ta đều âm thầm làm việc hy sinh và cầu nguyện cho chị. Sau gần một năm, mối tương quan ấy đã được hàn gắn. Chị em lại có thể cùng nhau làm việc và chia sẻ vui buồn. Chính khi mở lòng đón nhận ân sủng của Chúa, lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa trong cầu nguyện và qua lời dạy bảo của vị linh hướng, hoa trái bình an đã trổ sinh trong tâm hồn ta, đồng thời tình yêu cũng kết trái trong tương quan giữa ta và chị. Yêu thương người mà ta có ác cảm, người đang hiểu lầm ta bắt đầu bằng việc: ta “không được nuôi hận thù trong lòng mình, không để sự thù ghét hướng dẫn hành động của mình, không lên án “kẻ thù” hay “kẻ ngược đãi mình” vì biết đâu chính mình là nguyên nhân sâu xa của sự thù ghét, và không tìm cách trả thù, dù chỉ bằng ý nghĩ hay lời nói. Quả thật, đối với Thiên Chúa thì không gì là không thể. Yêu thương luôn là lời mời gọi thúc bách người môn đệ quên mình để sống cho thánh ý Chúa. Yêu thương những người yêu thương mình là một điều khó nhưng lại rất dễ thực hiện nếu như ta chân thành muốn yêu thương họ. Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ghét ta không phải là một ước muốn không tưởng, vì khi ta hành động bằng đức tin và ân sủng của Chúa thì chính Người hành động trong ta.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã luôn lôi kéo và thúc đẩy con, giúp con biết vươn lên sau những lần vấp ngã, để con biết yêu thương tất cả mọi người bằng một trái tim quảng đại dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và theo gương sáng của Thầy Giêsu, để ngợi khen tình yêu tuyệt hảo của Chúa Cha. Amen.
Sách Samuen quyển thứ nhất kể lại câu chuyện cảm động về cung cách đối xử của Đavid đối với TN 7-C113
Sách Samuen quyển thứ nhất kể lại câu chuyện cảm động về cung cách đối xử của Đavid đối với vua Saun, người đang tìm giết ông. Chính Đức Chúa đã trao vua vào tay ông nhưng ông đã không ra tay làm hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong (x.1Sm 26, 9). Đó cũng là điều mà Đức Giêsu đã mời gọi chúng ta sống nhân từ như Cha trên trời là Đấng nhân từ. Người mời gọi chúng ta yêu thương kẻ thù, cầu nguyện cho người ngược đãi, cho vay không mong nhận lại… Có như vậy chúng ta mới được gọi là con cái của Cha trên trời và xứng đáng được hưởng phần thưởng lớn lao đã được hứa ban (x.Lc 6, 27-38).
Có thể nói, Đức Giêsu đã thực hiện một cuộc cách mạng lớn lao từ trước tới nay khi kêu mời mọi người yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ngược đãi mình. Để yêu thương một người khác đúng cách là điều thực sự khó. Yêu thương kẻ thù lại càng khó hơn. Đó là một thách đố nhưng không phải không làm được. Chính Đức Giêsu, Đấng thực hiện cuộc cách mạng lớn lao này đã nêu gương cho chúng ta trước. Chính Người đã yêu thương kẻ thù, tha thứ cho kẻ ngược đãi, những kẻ đã giết chết Người. Trên thánh giá, chính Người đã nài xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại mình. Người đã đến trần gian để cứu những người tội lỗi, yêu thương và tha thứ cho nhân loại lỗi lầm. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục mời gọi chúng ta thực thi cuộc cách mạng lớn lao này trong cuộc đời của mỗi người. Hãy để Đức Giêsu ở trong ta, lúc ấy chính Người sẽ giúp chúng ta yêu thương theo cách Người muốn.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy có lòng nhân từ như Cha trên trời là Đấng nhân từ. Người không chỉ mời gọi chúng ta yêu thương kẻ thù mà còn mời gọi chúng ta tha thứ, không xét đoán, không lên án và hãy cho đi cách nhưng không. Đối với cách sống của thế gian, tất cả những điều chúng ta làm thường được thực hiện theo kiểu “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Còn với Đức Giêsu, Người cho chúng ta thấy rằng chúng ta đong đấu nào thì sẽ được đong trả lại đấu ấy, nghĩa là chính Thiên Chúa là Đấng sẽ đong trả cho chúng ta. Khi ta hành xử và sống theo tinh thần thế gian, chúng ta mong đợi sự đáp trả của con người. Nhưng khi chúng ta biết sống theo lời mời gọi của Đức Giêsu, chúng ta mong đợi nơi Thiên Chúa phần thưởng lớn lao, vĩnh cửu là hạnh phúc đời sau. Khi biết đặt để niềm hy vọng vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ không còn ngần ngại cho đi, sẵn sàng tha thứ và làm những điều tốt đẹp cho nhau. Đó là cách sống của con cái Thiên Chúa.
Là con cái Chúa, chúng ta phải có khả năng biết mở rộng con tim, đôi bàn tay, đôi chân không ngừng dấn thân để đi đến với mọi người, đặc biệt là những người ta cảm thấy “khó ưa”. Xin Chúa cho chúng ta đừng chỉ biết yêu thương, quan tâm đến những người yêu thương chúng ta, những người chúng ta quý mến; nhưng xin Chúa ngự vào lòng ta, ban ơn trợ lực giúp chúng ta có khả năng sống yêu thương, tha thứ, không xét đoán, cho đi nhưng không. Bởi tha thứ là khả năng của Thiên Chúa, tự sức mình chúng ta sẽ không làm được. Là con cái Chúa, chúng ta được mời gọi sống hơn những gì thế gian đã sống.
Phần đông nhân loại xưa nay chủ trương ghét bỏ, loại trừ, thậm chí là tiêu diệt kẻ thù không thương TN 7-C114
Phần đông nhân loại xưa nay chủ trương ghét bỏ, loại trừ, thậm chí là tiêu diệt kẻ thù không thương tiếc.
Chỉ mới nghĩ đến kẻ thù, người ta thấy hậm hực trong lòng; vừa thoáng thấy bóng dáng kẻ thù, người ta cảm thấy bực bội, lòng căm hận sôi lên; khi đối diện với kẻ thù thì muốn nguyền rủa, xỉ vả, đánh đập… Nhiều người còn tìm cách làm hại kẻ thù cách nầy cách khác.
Và khi chưa có dịp trả thù cho hả hê, người ta nuôi oán thù dai dẳng trong lòng năm nầy qua năm khác khiến tâm hồn mất bình an, cuộc sống mất hạnh phúc. Nuôi oán thù như thế chẳng khác gì nhâm nhi thuốc độc hằng ngày, gây tác hại nghiêm trọng cho thân xác cũng như tâm hồn, tự chuốc bệnh vào thân và cắt giảm tuổi thọ. Oán hận người khác là tự hại mình cách dại dột. Tuy nhiên, xóa bỏ oán thù khỏi tâm hồn là điều rất khó.
Làm sao dập tắt oán thù?
Muốn dập tắt đám cháy lớn, người ta phải dùng đến nước; muốn dập tắt hận thù, thì phải nhờ đến tình thương. Tình thương là phương thế hiệu quả nhất để xóa bỏ hận thù. Chính vì thế, Chúa Giê-su chủ trương xóa bỏ hận thù bằng lòng yêu thương, được thể hiện cụ thể qua việc làm ơn, chúc lành, cầu nguyện cho kẻ thù. Ngài dạy: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6, 27-28).
Tha thứ cho kẻ thù đã khó; yêu kẻ thù càng khó hơn; thế mà Chúa dạy phải vươn lên một bậc cao hơn là làm ơn cho kẻ ghét ta, chúc lành cho kẻ nguyền rủa ta, cầu nguyện cho kẻ vu khống ta… Thật là những giáo huấn siêu phàm và rất tuyệt vời!
Chưa từng có danh nhân nào, bậc thánh hiền hay vị tôn sư nào… từ xưa tới nay để lại cho loài người những lời khuyên dạy cao cả, siêu phàm như thế!
Không chỉ dạy chúng ta yêu thương kẻ thù, Chúa Giê-su còn thể hiện lòng yêu thương kẻ thù nghịch cách tuyệt vời hơn hết.
Trong cuộc khổ nạn, sau khi bị lùng bắt giữa đêm khuya như một tên gian phi và bị kết án cách bất công trước tòa Phi-la-tô, Chúa Giê-su chịu một trận đòn dã man, tàn bạo… giáng xuống thân mình, rồi phải vác thập tự giá lảo đảo lên đồi Can-vê. Đến nơi, Ngài chịu lột trần; chịu đau đớn khủng khiếp khi đội hành quyết đóng đinh Ngài vào thập giá; chịu treo thân trần trụi trên thập giá cho ruồi mòng chích hút, lại còn bị bao người qua lại nhiếc móc, thách thức, nhạo cười…
Dù vậy, Chúa Giê-su không thù không oán, không dùng lời lăng mạ để đáp lại lăng mạ, không xuống khỏi thập giá để tiêu diệt quân thù, không dùng quyền năng mà trừng trị những tên khốn kiếp… Trái lại, Ngài nhìn họ bằng ánh mắt xót thương. Ngài sợ Chúa Cha trừng phạt tội ác tày trời họ đã gây ra, nên trước khi tắt thở, Ngài ngước mắt lên trời, tha thiết cầu xin Cha tha thứ cho kẻ gây đau thương khốn đốn cho Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Ôi! Tuyệt vời biết bao! Chỉ có Chúa Giê-su là đấng duy nhất trên đời đã tỏ lòng thương xót và tha thứ cho kẻ lăng nhục, hành hạ, phỉ báng và giết chết Ngài… đến mức cao vời như thế mà thôi.
Lạy Chúa Giê-su,
Tha thứ cho kẻ thù đã khó, yêu thương kẻ thù lại càng khó hơn, làm ơn làm phúc và cầu nguyện cho kẻ thù là điều vượt quá sức người. Xin cho chúng con biết chiêm ngắm tấm gương yêu thương, tha thứ, cầu nguyện cho kẻ thù của Chúa và vâng lời Chúa dạy để sẵn sàng tha thứ cho những kẻ thù nghịch với mình. Amen.
Lời Chúa hôm nay là phần hai Bài giảng khai mạc đã được đọc từ tuần trước. Phần hai của Bài TN 7-C115
Lời Chúa hôm nay là phần hai Bài giảng khai mạc đã được đọc từ tuần trước.
Phần hai của Bài giảng khai mạc tiếp tục nói về lối sống có phúc.
Nếu trong phần đầu, Chúa Giêsu khẳng định cuộc sống của những người nghèo khổ, chịu đói khát và khóc lóc, bị khai trừ, xua đuổi và sỉ vả là có phúc, thì giáo huấn trong phần sau đề cập đến cuộc sống bác ái sẽ đạt đến tột đỉnh khi biết yêu thương kẻ thù.
Sống bác ái là điều kiện để được vào Nước của Thiên Chúa. Còn yêu thương kẻ thù, biểu hiện độc đáo của đức bác ái, lại là gương mặt phản chiếu trung thực và trọn vẹn về Thiên Chúa, Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót.
Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn cụ thể về cách hành xử đối với kẻ thù:
Làm ơn cho kẻ ghét anh em. Chúc phúc cho người nguyền rủa anh em. Cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả má nầy thì đưa cả má kia. Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong. Ai lấy gì thì đừng đòi lại… Chúa Giêsu phân tích những lý do sâu xa của cách hành xử mang giá trị Tin Mừng:
Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Như vậy Chúa Giêsu đã mô tả những nét tiêu biểu nhất của gương mặt những công dân Nước Thiên Chúa. Một gương mặt hoàn toàn đối lập với những nét trần thế cố cựu khi đứng trước kẻ thù. Đối với kẻ thù, con người trần thế chỉ có một chọn lựa duy nhất là ăn miếng trả miếng, mắt đền mắt, răng đền răng.
Trả thù đối thủ, phản ứng đối phương, tiêu diệt đối lập, vẫn được đề cao là giải pháp duy nhất và tối ưu.
Chúa Giêsu trình bày một con đường mới và chính Người sẽ đi bước tiên phong.
Quả vậy, trên Thập giá, chịu đựng những đau đớn tột cùng do những người chống đối gây ra, Chúa Giêsu đã nài xin Chúa Cha tha thứ những kẻ bức hại mình, nhờ đó Người đã làm ngời lên gương mặt của Thiên Chúa là Đấng nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác.
Bài giảng khai mạc đã làm kinh ngạc thế giới những người bất hạnh sống trong cảnh nghèo khổ, đói khát và bị đoạ đày.
Khi đến gặp Chúa Giêsu, những con người bị cuộc đời và số phận đẩy xuống đáy vực của khổ ải, có lẽ đang mong được nghe những lời hứa hẹn về sự công bằng sòng phẳng hoặc được phân phát bản hiệu triệu đấu tranh, làm cho ra lẽ mọi căn nguyên oán cừu, thù hận. nhưng rốt cuộc, dân chúng khổ đau này đã được mời gọi hướng lên những giá trị của một thế giới mới, thế giới của tình yêu, lòng khoan dung và tha thứ; bởi vì “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”. Đong bằng đấu trả thù, Chúa sẽ đong lại bằng đấu trả thù. Dùng đấu tha thứ, Chúa sẽ dùng chiếc đấu tha thứ đong lại cho con người.
Bài giảng khai mạc sứ vụ của Chúa Giêsu đã đánh dấu thời điểm khai mạc chương trình kiến tạo một thế giới mới cho nhân loại. (Khổng Thành Ngọc).
Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Chính Người đã sống yêu thương, luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với mình, mặc dù họ ghen ghét vô cớ, họ luôn tìm dịp tố cáo xuyên tạc lời Người giảng dạy. Chúa Giêsu dạy: lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân.
“Yêu thương kẻ thù” là điều không dễ chút nào xét trên bình diện con người tự nhiên. Tha thứ cho những kẻ làm hại hay xúc phạm đến mình đã là điều khó rồi, huống chi là yêu thương, làm ơn và cầu nguyện cho họ nữa. Khi đã ghét nhau, chỉ nhìn thấy mặt, nghe giọng nói đã thấy khó chịu rồi, nói gì đến yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho nhau! Quả thật, đây là một việc vô cùng khó khăn, nhưng chúng ta có thể thực hiện được nếu có ơn Chúa trợ giúp. Chính thánh Phaolô đã quả quyết điều này: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”.
Trong cuộc sống, người ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Hãy cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.Thánh Phaolô khuyên: “Anh em nổi nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep 4,26). Ông Môisen dạy: Đừng giữ lòng thù ghét anh em, đừng tìm cách báo oán và cũng đừng để lòng những lời nhiếc mắng của kẻ khác (x.Lv 19,1-2). Còn thánh Phaolô đòi buộc chúng ta không được khinh rẻ người khác (x.1Cr 3,16-23).
Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu. Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Suy niệm Tin Mừng hôm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : yêu thương kẻ thù tạo nên một cuộc cách mạng của lòng thương xót. Nhờ tình yêu của Chúa Giêsu, nhờ Thần Khí của Người và với Người, chúng ta có thể yêu thương những người không yêu thương chúng ta, cũng như những người làm hại chúng ta.
Nhưng làm thế nào có thể vượt qua bản năng của con người và luật trả thù của thế gian? Câu trả lời của Chúa Giêsu là: “Hãy nhân từ, vì Cha của anh em là Đấng nhân từ“. Bất cứ ai lắng nghe Chúa Giêsu, nỗ lực bước theo Người dù phải trả giá, thì trở nên con Thiên Chúa và bắt đầu nên giống Cha trên trời. Chúng ta có thể nói và làm những điều mà mình chưa từng nghĩ tới, chúng ta có thể trao ban niềm vui và bình an trong những điều mà chúng ta nghĩ rằng mình sẽ xấu hổ. Chúng ta không cần sống bạo lực nữa, dù là bằng lời nói hay hành động. Chúng ta nhận ra mình có khả năng sống ân cần, dịu dàng và tốt lành. Chúng ta nhận ra rằng tất cả những điều ấy không đến từ chính mình mà từ chính Người. Và vì thế, chúng ta không lấy làm tự hào về điều đó, nhưng chúng ta sống tâm tình biết ơn.Không có gì lớn lao và sinh nhiều hoa trái hơn tình yêu: tình yêu tôn trọng, trao trả tất cả phẩm giá của con người, trong khi sự thù hận và oán ghét lại xem nhẹ và coi thường nó, làm mất đi vẻ đẹp của thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người.(x. Kinh Truyền Tin sáng 24.02.2019).
Lạy Chúa Giêsu, khi bị treo trên Thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ. Xin thương cũng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
Quan hệ tình cảm con người không phải chỉ giới hạn gữa người này với người kia mà còn liên TN 7-C116
Quan hệ tình cảm con người không phải chỉ giới hạn gữa người này với người kia mà còn liên quan đến Thiên Chúa. Quan hệ tình cảm thật bén nhậy và rất dễ sứt mẻ. Coi sóc, bảo vệ tình cảm sẽ được sống thảnh thơi, thoải mái. Lơ là, coi thường nó sẽ bị đau khổ, nhiều khi cái giá đau thương ngoài sức mình. Cả tinh thần lẫn tâm linh đều đau khổ. Cởi mở và thành thật trong đối thoại may ra tạo được cảm thông, nếu không vấn đề trở nên trầm trọng đến độ mọi liên hệ tình cảm đều ảnh hưởng, lung lay tận gốc rễ. Theo sau đổ vỡ là thù hận, bạn thành thù, thương thành hận.
Xã hội loài người dường như hài lòng với lối giải quyết từ ngàn xưa. Công bằng, sòng phẳng đối với họ là: ‘Răng đền răng, mắt đền mắt’. Lối giải quyết một chiều này không thoả đáng, bởi nó có thể giảm bớt hận thù nhưng không nối lại mối tình cảm đã đổ vỡ, và chắc chắn lối giải quyết này không giải quyết sứt mẻ tâm linh.
Quan hệ tình cảm con người liên quan đến Thiên Chúa. Khi ta gây đau khổ cho ai, ta gây đau khổ cho một thành viên của cộng đồng nhân loại. Chúa dựng nên người đó và yêu thương họ. Như thế chúng ta gây đau khổ cho người Chúa yêu thương. Đức Kitô nói với môn đệ cách xã hội áp dụng chỉ là ‘cao dán’, tạm giảm đau, không trị căn bệnh, bởi công bằng xã hội giải quyết bằng cách trừng phạt giam tù, hay bồi thường thiệt hại. Công lí đối với Đức Kitô là yêu thương và tha thứ. Đức Kitô còn đi xa hơn khi Ngài nói với môn đệ ngay cả khi nghe tin ‘kẻ thù’ gặp nạn cũng không nên vui mừng. Đức Kitô dậy hãy cầu nguyện, yêu thương, và tha thứ cho kẻ làm hại mình. Thực hiện một trong ba điều trên đã là khó. Đức Kitô dậy môn đệ thực hiện một lúc cả ba điều trên. Đối với xã hội, lời dậy bảo này xem ra không thể thực hiện. Nhất là khi vết thương lòng còn đang rỉ máu, nỗi nhục và niềm đau còn mới. Tuy nhiên Kitô hữu có thể thực hiện cùng lúc ba điều trên. Thứ nhất, Kitô hữu có Đức Kitô đồng hành, hướng dẫn, ban sức mạnh làm điều tốt lành. Thứ hai, Kitô hữu tin là Đức Kitô không dậy bảo làm điều gì quá sức mình. Chính Đức Kitô thực hiện điều Ngài phán dậy môn đệ: cầu nguyện, yêu thương, tha thứ. Trong cuộc tử nạn, Đức Kitô xin Chúa Cha tha cho kẻ làm hại Ngài. Ngài bỏ qua cho kẻ vu vạ, cáo gian. Ngài làm lơ cho kẻ làm chứng dối. Lời cầu nguyện:
Lậy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm’. Lc 23,34.
Chúng thật sự lầm hay cố tình lầm? Bởi chúng lầm nên không phạm tội sát nhân mà là ngộ sát, hình phạt được giảm khinh. Lời cầu vắn gọn trên tóm lược điều Đức Kitô dậy môn đệ: a/ cầu nguyện cho kẻ làm hại; b/ yêu thương kẻ làm hại và cuối cùng; c/ tha cho kẻ Giết, đóng đanh Đức Kitô.
Gây đau khổ cho người khác là sai, là tội bởi ta gây đau khổ cho một thành viên của cộng đồng nhân loại, người mà Chúa dựng nên và yêu thương. Thứ hai, hành hạ người khác là ỉ vào sức mạnh, đồng thời lạm dụng quyền hành. Hơn nữa ta mất tự chủ, làm nô lệ cho cơn giận, để chúng sai khiến. Giận dữ luôn trái với bác ái, yêu thương. Thay vì chọn nhân đức, ta chọn sa đoạ. Người thiếu tình yêu Chúa trong tâm hồn, hành động chiều theo xác thịt. Đức Kitô kêu gọi môn đệ học từ Ngài. Chúng ta đều có kinh nghiệm được Chúa yêu thương, ngay cả trong trường hợp ta phạm tội, chính ta không thể tha cho ta. Chúa không kết án, nhưng ban ơn giúp ta thống hối, nhận tội. Nhìn vào kinh nghiệm đó để dâng lời tạ ơn và tha thứ cho kẻ khác.
Việc tự xét mình là một ơn đặc biệt Chúa ban, bởi xét mình để biết rõ mình hơn và xin ơn tha thứ. Chính vì biết mình yếu đuối cần ơn tha thứ nên cần sống khiêm nhường và rộng lượng khi phải phán đoán. Có lần người ta thử Đức Kitô có nên ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đức Kitô nói với họ: Ai không có tội hãy ném trước đi. Tất cả lần lượt bỏ đi, còn lại mình người phụ nữ. Đức Kitô nói với người đó, Ta cũng không kết án con, ra về bằng an và đừng phạm tội nữa. Gioan 8:11.
Đức Kitô muốn con người sống thảnh thơi, hạnh phúc. Thù hận tạo đau khổ, mất bình an. Để sống an vui, hạnh phúc, ta cần ơn Chúa. Để có ơn Chúa cần theo con đường Chúa đi. Môn đệ không đi theo Thầy, môn đệ đó có đóng hiệu môn đệ, trong ruột là gì chính người đó biết. Trong tâm ai chan chứa tình yêu Chúa, người đó không có hận thù. Cuộc sống họ thảnh thơo bởi họ giầu tình yêu, lòng mến.
Từ ngày 8-12-2015 đến ngày 20-11-2016, Năm Thánh Lòng Thương Xót đã được cử hành trong TN 7-C117
Từ ngày 8-12-2015 đến ngày 20-11-2016, Năm Thánh Lòng Thương Xót đã được cử hành trong Giáo Hội Công giáo. Đây là thời điểm đầy ý nghĩa giúp cho các tín hữu tái khám phá lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với con người. Năm Thánh cũng là lời mời gọi con người hãy thực thi lòng thương xót đối với nhau, bởi lẽ lòng nhân từ hay đức bác ái là giáo huấn cốt lõi của Kitô giáo. Thiên Chúa nhân từ. Con người cũng phải sống nhân từ đối với nhau để xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa. Người xưng mình là Kitô hữu mà không thực thi lòng nhân từ, thì đó sẽ là một thứ Kitô hữu giả mạo.
“Anh em hãy có lòng nhân từ…”. Lời mời gọi ấy trải dài qua mọi thế hệ, đến với mọi tầng lớp trong xã hội và còn vang lên giữa chúng ta hôm nay. Đoạn Tin Mừng được đọc trong thánh lễ Chúa nhật này là một trong những áng văn chương tuyệt vời của Tân Ước, bởi nó diễn tả lòng nhân từ Kitô giáo một cách đặc biệt. Nội dung bài Tin Mừng có thể chia ra làm ba phần.
– Yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù. Đây là điểm đặc thù trong giáo huấn Kitô giáo. Trong Do Thái giáo, đức yêu thương chỉ được thực hiện giữa những người cùng chủng tộc. Trong quan niệm thông thường, người ta chỉ quý mến những người có liên hệ máu huyết, bạn bè, ân nghĩa. Đức Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù. Thực ra, đối với người nhân từ, thì chẳng có ai là kẻ thù cả, bởi họ luôn tha thứ điều ác mà người khác đã làm cho mình.
– Làm phúc giúp đỡ. “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Ai trong chúng ta mà chẳng muốn người khác làm điều tốt cho mình. Vậy, Chúa dạy chúng ta hãy làm những điều tốt đẹp cho tha nhân. Chính khi chúng ta làm những điều thiện hảo cho người khác, là chúng ta nhận lãnh niềm vui cho mình. Đó là phần thưởng và là công phúc Chúa ban cho chúng ta. Sự giúp đỡ Chúa Giêsu đề nghị là sự giúp đỡ vô tư, không nhằm lợi lộc hay lời vinh danh theo kiểu người đời.
– Đừng xét đoán. Thông thường trong các cuộc gặp gỡ, chúng ta có thói quen nói về người vắng mặt với những xét đoán đôi khi vừa không chính xác vừa hàm chứa nhiều ác ý. Chúa Giêsu dạy chúng ta, Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền xét đoán. Bổn phận của chúng ta là hãy cố gắng sống trung thực, ngay lành và bác ái. Chúa là Đấng thấu hiểu và phán xét những hành vi cử chỉ của chúng ta, để rồi Ngài ban thưởng hay trừng phạt những hành vi ấy.
“Ai gieo gió, sẽ gặt bão”; “Gieo nhân nào, gặt quả nấy”, các bận Tiền nhân của chúng ta đã dạy như vậy. Chúa Giêsu cũng dùng lối nói bình dân của thời đại Người để nói với chúng ta: “Đong đấu nào, nhận đấu ấy”. Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần kinh nghiệm điều này. Vì thế, người Việt chúng ta mới khẳng định: “Ông Trời có mắt!”, hoặc “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt”.
Phụng vụ hôm nay giới thiệu với chúng ta một gương sáng của lòng nhân hậu. Đó là vua Đavít (Bài đọc I). Ông đang bị vua Sa-un truy bắt, vì vua cho rằng Đavít có ý định chiếm ngôi vua. Trong cuộc truy bắt này, có một thời điểm mà Đavít có thể giết vua dễ dàng, nhưng ông không làm thế, vì ông tôn trọng vua là người được xức dầu. Đavít đã thể hiện lòng nhân hậu của mình, khi ông tuyên bố: “Hôm nay, Đức Chúa đã nộp vua vào tay tôi, nhưng tôi không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong”.
Giữa một xã hội bon chen và đầy lường gạt toan tính, người tin Chúa được mời gọi sống nhân từ bao dung, coi mọi người là anh em huynh đệ và người thân kẻ nghĩa. Đây quả là một thách đố lớn lao, vì chấp nhận tha thứ đôi khi bị coi là “hèn”. Thánh Phaolô đã đặt song đối giữa ông Ađam và Chúa Giêsu. Ông Ađam thuộc về đất, Chúa Giêsu thuộc về trời (Bài đọc II). Trong chúng ta có hai con người, luôn cạnh tranh khốc liệt. Một bên muốn hướng về trọn lành, một phía muốn nghiêng về tội lỗi. Một bên mang sức mạnh của Thiên Chúa, bên kia mang sức mạnh của thế gian. Ân sủng của Chúa sẽ giúp chúng ta chiến thắng, nếu chúng ta cậy dựa vào sức mạnh siêu nhiên.
Hãy yêu mến cả kẻ thù. Điều này cũng có nghĩa là đừng trở thành kẻ thù của ai. Tha thứ luôn đòi phải can đảm, vượt lên chính cái tôi của bản thân. Trong tiếng Pháp, tha thứ (Pardonner) có nghĩa là “Cho đi một quà tặng – Par-un-don”. Điều này cũng có chung một ý nghĩa trong tiếng Anh (forgive – For-a-gift). Quà tặng ở đây không phải là vật chất, nhưng là chính bản thân mình. Quả vậy, chấp nhận tha thứ là chấp nhận cho đi chính mình, chấp nhận mang lấy những lời thị phi và phê phán của người đời. Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận những lời thị phi và thậm chí cái chết trên thánh giá, nhưng rồi Người đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi và hạnh phúc đời đời cho những ai thành tâm thiện chí.
“Người đầu tiên biết nói lời xin lỗi là người dũng cảm nhất. Người đầu tiên biết cách tha thứ là người mạnh mẽ nhất. Và người đầu tiên biết cách quên đi quá khứ đau buồn là người hạnh phúc nhất” (Sưu tầm).
Khi Chúa dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6, 27). Đó là một TN 7-C118
Khi Chúa dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6, 27). Đó là một tình yêu khó đạt tới nhất. Khó bởi nhiều yếu tố: Tình yêu là muốn người đó sống vui tươi hạnh phúc, tình yêu là một hành vi tự do, không có điều kiện, tình yêu là một hoạt động sáng tạo và tái tạo.
Tình yêu là ước mong người mình yêu được sống.
Bản chất tình yêu được thể hiện rõ nét nhất là ước mong người mình yêu, được sống, được hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, Người nói: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.” (St 1, 26). Thiên Chúa muốn con người hiện hữu trên mặt đất này, Người muốn một cách sâu thẳm nhất trong tình yêu, nên giống hình ảnh Người. Một tình yêu trao hết cho con người những gì Thiên Chúa đã dựng nên trong thiên nhiên để con người làm chủ. Không những thế, Thiên Chúa không chỉ trao ban sự sống trên đời mà còn cho họ được sống đời đời, một cuộc sống bất diệt qua việc sáng tạo và cứu chuộc.
Tình yêu mạnh hơn sự chết, đó là một tình yêu chết cho người mình yêu (Ga 15, 13). Trong tác phẩm “Anh Phải Sống” của tác giả Nhất Linh và Khái Hưng, kể lại những câu truyện tình yêu không hề phai trong tâm trí. Nhất là câu truyện “Anh phải sống” trong chương trình văn học ngày xưa, dù đã hơn bốn mươi năm, đọc lại vẫn thấy tình yêu cao quý biết bao. Trong đó, người vợ hy sinh tính mạng mình, để người chồng được sống mà lo cho các con, cho gia đình nhỏ bé của mình. Tình yêu, mạnh hơn sự chết là một tình yêu, dù có thế nào vẫn dành cho nhau sự sống. Sự sống quý giá biết chừng nào khi nhận ra giá trị của tình yêu, chỉ mong cho người mình yêu được sống và hạnh phúc.
Trong ngôn ngữ hôn nhân, khi nói “anh yêu em”, nghĩa là muốn nói: “anh cần em sống, em cần anh sống, và sống mãi muôn đời”. Đó là tình yêu đích thật, một tình yêu ước muốn sống đời với nhau. Xin Chúa chúc lành và giữ gìn những tình yêu của những gia đình luôn được như thế.
Tình yêu nhiệm mầu của tự do.
Khi đặt vấn đề hôn nhân, con người thường nghĩ đến hợp hay không hợp với tuổi, với nghề nghiệp, với gia phong lễ giáo… Nhưng dù sao vẫn có một sức manh huyền bí vượt qua lý trí, vượt qua tình cảm. Như Xuân Diệu trong bài thơ (Vì Sao): “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu! Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều, Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…”(Vì sao – Xuân Diệu)
Tình yêu vô lý. Chẳng ai có thể hiểu được, cắt nghĩa được tình yêu vượt trên cả mọi lý trí, như đứa con hư nhất trong nhà đôi khi lại là đứa con cha mẹ lo âu, và hằng chăm lo cho nó nhiều nhất, bằng cả con tim và khối óc. Và từ đó cũng thấy lòng Chúa yêu thương, tại sao Chúa đến cứu người tội lỗi, chứ không phải người công chính (Mc 2, 17), “Để lại chín mươi chín con chiên để đi tìm con chiên lạc” (Mt 18, 12 – 14), “người đến sau làm một giờ cũng lãnh một đồng bằng với người làm suốt cả ngày cũng một đồng” (Mt 20, 1 – 16)
Tình yêu làm nên cái mới.
Một tình yêu cuộc sống cần thiết biết bao. Gia đình thêm một người con, một sáng tạo mới trong nghệ thuật, trong y học, trong khoa học… Không có tình yêu trong nghề nghiệp thì không có gì cả. Tình yêu khơi nguồn sức mạnh, như lời nguyện chúc của Chúa từ khai nguyên: “Hãy sinh sôi, nảy nở cho đầy mặt đất” (St 1, 28). Sức manh của tình yêu giúp con người vượt qua trở ngại và sóng gió. Cho con người đứng vững giữa ngàn khổ đau và ngay cả sự chết.
Tình yêu không chỉ quy về mình, một tình yêu hướng tới người khác. Thương cảm, chia sẻ, thông hiểu nhiều hoàn cảnh trong cuộc đời. Một tình yêu như Chúa đã yêu thương tất cả, đón nhận tất cả, hy sinh tất cả và yêu thương đến cùng. Một tình yêu nhân loại cũng được mời gọi như thế, khi Chúa dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Vì tình yêu có một sức mạnh hoán cải lòng người, một tình yêu chữa lành mọi thương tật, tình yêu làm mới lại trong mọi sự.
Bài học yêu thương kẻ thù, Chúa dạy cho chúng con biết, yêu là muốn được cùng nhau được sống và sống hạnh phúc. Một tình yêu chết cho người mình yêu và một tình yêu phát sinh và làm mới lại. Xin cho chúng con một tình yêu đủ lớn, để sống yêu thương, bao dung, nhân ái hơn. Amen!
Yêu thương Giới Luật Chúa truyền, Kẻ thù dối trá, Chúa khuyên lời này. Làm ơn cầu nguyện đêm TN 7-C119
Yêu thương Giới Luật Chúa truyền, Kẻ thù dối trá, Chúa khuyên lời này. Làm ơn cầu nguyện đêm ngày, Cho người nguyền rủa, cãi chày dèm pha. Cho dù vu khống ranh ma, Mến yêu chúc phúc, thứ tha tội tình. Có ai vả má cực hình, Má kia đưa sẵn, tự mình xoay qua. Áo ngoài họ lột cởi ra, Áo trong đừng cản, không va chạm người. Ai xin, ai lấy của đời, Đừng đòi con nợ, kiếm lời làm chi. Yêu thương ân nghĩa là gì? Những phường tội lỗi, thực thi hằng ngày. Các con hãy nhớ lời này, Làm ơn, làm phúc, vui thay trong hồn. Thương yêu thù địch du côn, Tỏ lòng nhân nhậu, ngữ ngôn dịu hiền. Xin đừng đoán xét xỏ xiên, Chúa luôn tha thứ, tội khiên xóa nhòa.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: Các con hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét mình. Một giáo lý hoàn toàn mới lạ vượt trên đức công bình. Người xưa dậy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng và sự trả thù là thường tình. Nếu chúng ta có dịp xem những phim bộ kiếm hiệp của Tầu, chúng ta thấy hầu hết các cốt truyện dài được kết dệt bằng sự trả thù. Trả thù truyền kiếp, từ đời cha sang đời con cái cháu chắt. Chỉ khi nào giết được kẻ thù cha, câu chuyện mới kết thúc.
Đường lối mới của Chúa Giêsu vượt trên hết các giới luật của con người. Chúa đã bẻ gãy tất cả những ràng buộc và sự ngăn cản để dẫn đưa chúng ta đến tình yêu. Chúa dạy: Yêu kẻ thù, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. Đây là huấn lệnh thật khó đối với mỗi người chúng ta. Yêu thương tha thứ đi ngược lại với những ước muốn trả đũa hay trả thù. Nhiều người quan niệm rằng: Ai không biết báo thù là người hèn mạt. Không phải là hiệp sĩ. Người có chí lớn phải có lòng kiên vững so tài đọ sức với kẻ thù.
Kinh nghiệm cuộc sống, thường thì chúng ta không có những kẻ thù lớn như giết cha giết mẹ, tàn sát hoặc hãm hiếp. Chúng ta có những kẻ thù nho nhỏ như những người mà chúng ta không ưa, có thể là thái độ cộc cằn, thô lỗ, vô duyên, dối trá, lừa đảo, nói hành gây chuyện và họ là những kẻ thù làm chúng ta khó thở. Họ gây cho cuộc đời của chúng ta thêm gánh nặng. Chúa dạy chúng ta hãy yêu mến họ và cầu nguyện cho họ. Thật không dễ tí nào. Chúa nói nếu chúng ta chỉ làm ơn và yêu mến những kẻ yêu mến chúng ta, thì nào có công lênh gì. Kẻ xấu họ cũng làm được như vậy.
Truyện kể rằng trong một lớp giáo lý, thầy Smith, một người khắt khe kỷ luật và hay khó chịu. Vào một ngày đặc biệt tìm vui cho mọi người. Trên tường có một vòng tròn để nhắm đích, gần đó là một cái bàn gồm những mũi tên. Thầy Smith nói học sinh vẽ hình của những ai mà mình ghét nhất và cho phép chúng phóng mũi tên vào hình người đó. Sally vẽ hình người bạn gái đã cướp mất người yêu. John vẽ hình thầy Smith với đầy đủ chi tiết. John có vẻ rất hài lòng và chờ tới phiên mình sẽ phóng tên vào mặt thầy để trả thù. Cả lớp xếp hàng, từng người phóng tên và cười nói vui vẻ. Một vài học sinh dùng hết sức phóng mũi tên vào ngay mắt và miệng để làm rách ra. Tới lượt John thì hết giờ. Thầy nói các em về chỗ ngồi. John càng giận dữ vì lỡ mất cơ hội trả thù thầy. Thầy từ từ gỡ miếng giấy làm đích ra khỏi bức tường. Sau điểm nhắm là khuôn mặt của Chúa Kitô. Thật thảm thương, cả khuôn mặt của Chúa bị các mũi tên đâm thâu. Thầy nói: Khi các con làm điều này cho các anh chị em, là các con làm cho chính Chúa.
Yêu kẻ thù không dễ, tha thứ cho họ còn khó hơn. Lạy Chúa, trên thập giá Chúa đã yêu thương tha thứ cho những kẻ giết Chúa và còn tha thứ tất cả những tội lỗi của chúng con. Xin cho chúng con biết tha thứ và yêu thương người khác.
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất trong toàn bộ Tin Mừng. Xin TN 7-C120
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những đoạn Tin Mừng đẹp nhất trong toàn bộ Tin Mừng. Xin được nói về vài nội dung:
Nội dung thứ nhất:Chúa muốn nói với chúng ta về những sắc thái mới mẻ của luật yêu thương. a- Như anh chị em đã thấy cuộc sống của con người trên trần gian này bị nhiều thứ luật lệ chi phối. Trong số những lề luật đó có một thứ rất quen thuộc và hầu như nó chi phối thường xuyên cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Đó là luật Công bằng. Ngôn ngữ thông thường của chúng ta thường nói là luật có đi có lại – luật vay trả.
– Cựu ước đã diễn tả luật này thành một công thức tương đối cũng rất dễ hiểu. Đó là luật:“Răng thế răng, mắt đền mắt”
– Đây là luật có tính cách sòng phẳng.
Sống như thế theo cách nhìn của trần thế kể như là cũng đã tốt lắm rồi. Thế nhưng đối với Chúa thì chưa đủ. Sống như thế theo như Chúa Giêsu nói: “người tội lỗi, những người thu thuế và cả những người dân ngoại cũng làm được.”
b- Chính vì thế mà hôm nay Chúa đề nghị chúng ta phải vươn lên tới một cuộc sống được chi phối bởi một thứ luật cao hơn. Đó là luật Bác ái. Chúa diễn ta luật ấy bằng những lời lẽ rất cụ thể như thế này:
” Hãy yêu thương kẻ thù.
Hãy làm ơn cho những kẻ ghét anh em
Hãy chúc lành cho những kẻ nguyền rủa anh em.
Hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống cho anh em
– Như thế chúng ta thấy rõ ràng Chúa đã muốn những ai muốn theo Chúa phải vượt lên trên cái lẽ thường tình của cuộc đời làm người . Những đòi hỏi của Chúa không còn nằm trên bình diện “có đi có lại nữa”. Nó đã tiến xa hơn, xa tới mức “có đi mà không có lại:
” Ai xin thì hãy cho
Ai vả má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa
Ai đoạt áo ngoài của anh em thì đừng cản nó lấy cả áo trong”
Thật không còn gì để có thể nghi ngờ. Rõ ràng là Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải sống một cuộc sống được chỉ đạo bằng một luật cao hơn luật Công bằng. Phải vươn lên đến luật bác ái yêu thương, yêu thương dường như không có bờ không có bến.
Và theo Chúa có sống một cuộc sống như thế thì mới xứng đáng là con Đấng Tối cao.
Đó là nội dung thứ nhất.
Nội dung thứ hai: Chúa chỉ cho những người làm con của Chúa cách thức thực hành để sống cuộc sống như Chúa mong muốn đó.. a- Qua những chỉ dẫn này chúng ta thấy Chúa là một người rất thực tế. Chúa không đòi hỏi những gì quá sức của con người. Chúa cũng không đòi hỏi những gì quá cao siêu, quá khó hiểu. Nguyên tắc Chúa đưa ra ở đây ai nghe cũng có thể hiểu.
Chỉ có một điều hơi lạ là ở trên thì chúng ta thấy Chúa đòi hỏi một mức độ thật cao nhưng khi đưa nguyên tắc áp dụng thì Chúa lại tỏ ra rất thông cảm với con người.
Đây là nguyên tắc của Chúa :“Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” Chỉ dẫn này rõ ràng là còn nằm trên bình diện công bằng. Thế nhưng thực hành được như Chúa nói cũng không phải là một điều dễ.
b- Tôi tự hỏi: Tôi muốn người ta làm gì cho tôi.
– Điều tôi không bao giờ muốn là người ta xử tệ với tôi, người ta lừa đảo tôi, người ta nói xấu tôi, người ta thù oán tôi, người ta xỉ nhục tôi vv và vv.
– Và điều mà tôi luôn muốn là tôi được sống an bình, tôi được tôn trọng, tôi được kính nể, tôi được yêu thương, tôi được tha thứ…
c- Vâng kính thưa anh chị em tất cả những điều ấy tôi tưởng có lẽ không có gì là khó hiểu. Rất dễ hiểu là đàng khác. Thế nhưng làm được như thế có phải là dễ không?.
Tôi nhớ lại một câu truyện nhỏ trong cuộc đời của thánh Gioan Don Bosco. Một hôm Ngài đang đi trên đường thì bị một nhóm trẻ “bụi đời” làm hàng rào cản lối không cho Ngài đi qua. Ngài thản nhiên dừng lại và bằng một cử chỉ rất lịch thiệp Ngài bỏ mũ xuống và nói:
“Xin các bạn cho phép tôi đi qua”
Nhóm trẻ ngỗ nghịch ấy lập tức im lặng. Chúng ngạc nhiên về cung cách lịch thiệp của Ngài và sau đó chỉ còn biết trả lời:
” Thưa Cha, xin cha cứ việc đi”
Pascal có nói một câu rất hay:“Biết làm khơi dậy sự kính trọng lẫn nhau đó là kết quả lớn lao của lòng yêu mến”
Đó là nội dung thứ hai.
Nội dung thứ ba: Mẫu mực và phần thưởng cho những ai dám sống đời sống yêu thương như Chúa mời gọi. a- Mẫu mực. Đó chính là Thiên Chúa. Và phần thưởng sẽ rất lớn lao.
Chính Thiên Chúa là mẫu mực. Thánh Gioan gọi đã gọi tên Người là Tình yêu. Anh chị em thấy mấy dòng chữ mà chúng tôi gắn trên tấm bảng và treo ở dưới cuối nhà thờ: “Thiên Chúa là Tình yêu”. Có lẽ không có tên gọi nào để gọi Thiên Chúa đẹp đến như thế. Thiên Chúa là Tình yêu.
Ở cuối bài Tin Mừng hôm nay, chỉ bằng một câu nói thật vắn gọn Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Thiên Chúa thực hiện lòng yêu thương như thế nào: “Người nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”.
Thật không còn gì có thể hồ nghi về ý muốn của Chúa. Chúa muốn chúng ta nên giống Người.
Dan Clark đã thuật lại một câu truyện rất cảm động như sau: Buổi tối hôm đó trời rất lạnh. Một em bé khoảng 6-7 tuổi đang đứng tần ngần trước một cửa hàng. Đứa bé rất nghèo. Nó không có giầy. Quần áo của nó chỉ là những miếng giẻ rách được khâu lại. Bỗng có một thiếu phụ đi qua. Trông thấy cậu bé, người thiếu phụ dừng lại. Bà dư sức hiểu được cậu bé đang thèm khát những gì qua cặp mắt xanh u uẩn của nó. Bà cầm tay cậu bé, dắt cậu vào trong tiệm. Bà mua cho cậu một đôi giầy mới và một bộ quần áo ấm.
Sau đó cả hai lại trở ra phố. Bà nhìn cậu bé một lần nữa và nói:
– Bây giờ cháu có thể về nhà và hưởng một ngày thật vui vẻ nhé.
Cậu bé ngạc nhiên đưa cặp mắt ngước nhìn lên người thiếu phụ và hỏi:
– Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cuời với cậu và trả lời:
– Con ơi! Không phải đâu. Bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi.
HÃY NHÂN TỪ NHƯ THÁNH PHỤ NHÂN ÁI ĐỪNG XÉT ĐOÁN ĐỂ CHÚA TRỜI THỨ THA
Đó chính là “cái tâm” của các Kitô hữu – nói chung, và của các tín nhân Công giáo – nói riêng. Lòng TN 7-C121
Đó chính là “cái tâm” của các Kitô hữu – nói chung, và của các tín nhân Công giáo – nói riêng. Lòng nhân từ luôn liên quan sự tha thứ. Cụ thi hào Nguyễn Du đã biện luận: “Thiện căn ở tại lòng ta – Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Tâm không cần Tài, nhưng Tài luôn cần Tâm, nếu không thì Tài sẽ hóa Tai (tai ương, tai họa).
Chữ TÂM có khá nhiều nghĩa – đen và bóng: tâm tạng (trái tim), tâm thất (ngăn dưới trong trái tim), tâm phúc (bụng dạ, lòng, ruột), tâm cảm (lòng, tình cảm), tâm phục (thật lòng kính trọng vâng theo), tâm ý (lòng dạ và đầu óc), đồng tâm nhất trí (cùng một lòng, một ý), viên tâm (điểm giữa vòng tròn, trọng tâm, trung tâm), tâm tưởng, tâm tư, tâm niệm, tâm nguyện, tâm thức, tâm tính, tâm tình, tâm địa, tâm ý, tâm lý, tâm trí, tâm thần, tâm trạng, lương tâm, tâm hồn, tâm linh,…
Chữ Tâm được đề cập ngay ở đầu Kinh Pháp Cú: “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Chữ Tâm liên quan việc sửa mình (tu thân). Cổ nhân có câu: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị. Thử vị tu thân tại chính kỳ tâm”. Nghĩa là “nếu tâm trí không để vào đó, thì dẫu nhìn mà chẳng thấy, dẫu để tai mà chẳng nghe, dẫu ăn mà chẳng biết mùi vị. Như vậy nên gọi là sửa mình cốt ở chỗ làm cho lòng (cái tâm) mình ngay thẳng.
Trình thuật 1 Sm 26:2, 7-9, 12-13, 22-23 cho biết: Vua Sa-un lên đường và xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Ít-ra-en, để tìm bắt ông Đa-vít trong sa mạc Díp. Đang đêm, ông Đa-vít và ông A-vi-sai đến chỗ quân binh. Vua Sa-un đang nằm ngủ trong trại binh, cây giáo của vua cắm xuống đất, ở phía đầu vua, còn ông Áp-ne và quân binh thì nằm chung quanh.
Ông A-vi-sai nói với ông Đa-vít: “Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu không cần đâm nhát thứ hai”. Ông Đa-vít nói với ông A-vi-sai: “Đừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?”. Dù sống thời Cựu Ước, với luật “răng đền răng, mắt đền mắt”, nhưng ông Đa-vít vẫn có một tấm lòng – nhân từ và tha thứ.
Sau đó, ông Đa-vít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Sa-un, rồi cả hai người ra đi. Không ai thấy, không ai hay, không ai thức dậy. Họ đều ngủ cả, vì Đức Chúa đã cho một giấc ngủ mê ập xuống trên họ. Ông Đa-vít đi sang phía bên kia và đứng trên đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng cách lớn giữa họ. Ông Đa-vít nói: “Cây giáo của đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. Xin Đức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành của họ: hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26:22-23). Đó là cái tâm cần thiết mà ông Đa-vít đã có.
Martin Luther King (1929-1968) có triết lý sống tuyệt vời: “Yêu thương là điều duy nhất có thể biến đổi kẻ thù thành bạn hữu”. Điều đó rất phù hợp với giáo huấn mà Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Hãy yêu thương nhau” (Ga 13:34; Ga 15:12 và 17). Đó chính là dấu hiệu chứng tỏ ai thực sự là môn đệ của Ngài (Ga 13:35). Thánh Gioan nói rằng chúng ta không chỉ PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô mà còn PHẢI yêu thương nhau (1 Ga 3:23).
Cái “phải” đó không có nghĩa là ép buộc, mà là nhận thức và tự nguyện. Trong tâm tình yêu mến, Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4). Lời tự nhủ đó là điều tâm niệm và tâm nguyện, đồng thời cũng là cách dẫn chứng để chính mình tâm phục khẩu phục – kể cả tha nhân.
Nhờ vào các nguồn đáng tin cậy khác nhau – từ cổ chí kim, cách riêng là chính kinh nghiệm sống tâm linh của mỗi người, chúng ta biết chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ hoài, không oán hờn mãi, không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8-10). Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi nhân từ đến nỗi phàm nhân có lúc cảm thấy phân vân, thế nhưng Ngài thực sự là vậy, không thể khác được, bởi vì đó là bản chất của Ngài và chính Ngài xác nhận: “Ta vốn nhân từ” (Xh 22:26). Và rồi Thánh Gioan cũng đã định nghĩa về Ngài: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Một định nghĩa ngắn gọn nhưng bao hàm tất cả.
Nếu Thiên Chúa chấp tội, chẳng ai có thể nên thánh, chẳng ai có thể vào Thiên Đàng. Thế nhưng thật diễm phúc cho chúng ta, vì mọi thứ tội và tội của thế gian này cũng chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Ngài: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:12-13). Thế đấy, tội gì cũng được tha – dù nhỏ hay to, nhẹ hay nặng, khinh tội hoặc trọng tội, nhưng chỉ có một tội không được tha: tội phạm tới Thần Khí – Chúa Thánh Thần (Mt 12:31; Mc 3:29; Lc 12:10). Hữu tâm thì được tha, vô tâm thì đành chịu (hoặc ráng chịu).
Thánh Phaolô trích dẫn: “Như có lời đã chép: con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện sau đó” (1 Cr 15:45-46). Hai con người với hai dạng “sức sống” hoàn toàn khác nhau. A-đam đầu tiên là nhân loại, A-đam cuối cùng là Đấng Tạo Hóa – Đức Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô giải thích rõ ràng hơn: “Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:47-49). Chúng ta là loài người, mang thân bụi phận cát, nhưng được hình thành một cách lạ lùng, khiến Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139:14).
Trình thuật Lc 6:27-38 (≈ Mt 5:38-48; 7:1-2) đề cập hai vấn đề, và cũng là hai mệnh lệnh: tình yêu thương và lòng nhân từ – yêu thương và nhân từ với bất kỳ ai – kể cả kẻ thù. Yêu thương và nhân từ không thể tách rời nhau, có cái này thì cũng có cái kia, không có cái này thì cũng chẳng có cái kia.
Nói yêu thương thì không khó, thực hành yêu thương thì rất khó, nhưng không thể không làm, vì đó là mệnh lệnh của Đức Giêsu Kitô: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại”.
Lòng yêu thương vô cùng quan trọng, là thước đo lòng mến Chúa, và là “món nợ” mà ai cũng phải trả xong cho đến đồng xu cuối cùng. Chính Chúa Giêsu đã nói chi tiết: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5:23-24). Và Thánh Gioan giải thích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Cách so sánh chí lý!
Thật vậy, Chúa Giêsu nói rất cụ thể: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Điều Ngài nói rất đời thường chứ chẳng xa rời thực tế. Tương tự, người đời cũng nhận định: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” – Mình không muốn điều gì cũng đừng làm cho người khác. Rồi Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn NHÂN HẬU với cả PHƯỜNG VÔ ÂN và QUÂN ĐỘC ÁC”. Lúa và cỏ vẫn sống chung một nguồn nước và cùng hấp thụ chất dinh dưỡng như nhau. Nắng mưa chẳng cho riêng ai – dù người đó tốt hay xấu, biết điều hay ngang ngược.
Chúa Giêsu đưa ra một loạt mệnh lệnh – mệnh lệnh xác định và phủ định: “Anh em HÃY có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em ĐỪNG xét đoán thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em ĐỪNG lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em HÃY tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em HÃY cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”. Thiên Chúa rất đại lượng và hào phóng, không ai phải chịu thiệt bao giờ. Ngài nhân lành nhưng chí công, và thời gian cũng có hạn.
Có mọi thứ mà không có đức ái thì cũng hoàn toàn vô ích! (x. 1 Cr 13:1-3). Ca dao Việt Nam so sánh rất cụ thể:
Dẫu xây chín bậc phù đồ (*)
Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người
Đó là cái Tâm mà ai cũng phải có, gọi là “đạo làm người”, loại “đạo” này không phân biệt bât kỳ tôn giáo nào, kể cả những người vô thần, bởi vì là con người thì ai cũng phải có loại “đạo” đó.
Chẳng dễ gì để sống có cái Tâm, bởi vì không chỉ mệt mỏi mà còn khổ lắm, nhưng cái khổ đó rất có giá trị. Có lòng yêu thương thì sẽ có cái Tâm, và làm được điều kỳ diệu, như Thánh Faustina Maria Kowalska cho biết: “Tình yêu cao cả có thể biến đổi những điều nhỏ thành những điều to, và chỉ có tình yêu đó mới làm cho hành động của chúng ta có giá trị”. Thánh Gioan Maria Vianney xác định: “Bạn phải chấp nhận thập giá của mình, nếu bạn can đảm vác nó thì nó sẽ đưa bạn tới Thiên Đàng”.
Lạy Thiên Chúa nhân lành, luôn nhân hậu và giàu lòng nhân ái, xin biến đổi để chúng con có thể nhân từ với mọi người, sống nhân hậu như Ngài mong muốn, xin giúp chúng con biết hy sinh và chịu đựng nhau vì yêu mến Ngài, để đền tội của mình, để cầu nguyện cho tha nhân và các linh hồn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
—–
(*) Phù đồ là cái Tháp, Tháp-Bà (tiếng Hoa, chữ âm kép, chứ không có nghĩa là tháp thờ bà chúa), Stupa (tiếng Phạn, nghĩa đen là “búi tóc”), hay Thạt (tiếng Lào, có gốc tiếng Phạn là Dhatu). Theo truyền thống Phật giáo, phù đồ là ngôi mộ chôn giữ một phần xá lợi (di thể của Phật) hoặc là nơi tưởng niệm Phật và môn đệ có di thể. Phù đồ cũng được gọi là Tháp Phật, Bảo Tháp, Đại Bảo Tháp.
Bậc làm cha mẹ có đủ ý chí, mơ ước, tự do, và bận tâm hơn cả là xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi TN 7-C122
Bậc làm cha mẹ có đủ ý chí, mơ ước, tự do, và bận tâm hơn cả là xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi dạy các thế hệ nối tiếp, khi họ hết mình xả thân vì lý tưởng: cha là núi mẹ là sông, các con hiếu thuận dòng tộc an vui. Bậc làm thầy dạy, sẽ không vì bổng lộc, họ sống bởi chữ tín thành: kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, thiếu nữ làm dáng vì người yêu mình. Khôn chết, dại chết, biết mới sống, đó là triết lý của người quân tử, tuy nhiên, chẳng ai muốn dán mác đeo bảng tên “tôi” là kẻ tiểu nhân. Từ khi sinh ra làm người cho tới khi được gọi là người trưởng thành, ai ai cũng có cơ hội, có thời gian để sống tình, sống nghĩa, trước là với cha mẹ ông bà, sau là với bậc thầy dạy, quê hương, đất nước. Có thời để yêu, có thời để nhớ, cũng bao gồm cả đời tri ân, cả kiếp người được tự do chọn lựa sống cho tương lai thế nào là hậu sinh khả uý ?
Vì muốn hiểu, muốn biết, vì sống ở đời phải có danh thơm tiếng tốt, do đó, từ cổ chí kim, xưa hay nay, mọi người luôn cần thầy khôn ngoan đức độ, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thực cho hạnh phúc gần và hạnh phúc xa. Cùng với thao thức chung của tiền nhân, Đức Giêsu đưa ra một hành động yêu thương giữa bạn bè, anh chị em làng xóm, người ghét, kẻ thương, tất cả đều được gọi là gia đình nhân loại. Tình yêu thương không phải là điều mới mẻ đối với người Do-thái, với nhân loại, có mới là mới về cách “thực hành”: “hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”. Đức Giêsu đã minh chứng tính chất mới rất âm thầm song mạnh mẽ: sống để yêu. 30 năm tại Nagiarét, Đức Giêsu học tập, suy gẫm, thực hành sứ vụ yêu thương ở hiện tại và sẽ tiếp nối hành trình yêu thương ở phía trước.
Sống để yêu, đó là “quy luật”, Chúa Giêsu sẽ còn nói với loài người qua muôn thế hệ: yêu cha yêu mẹ, yêu người yêu mình, yêu kẻ xa lạ, yêu người không đồng quan điểm với mình, yêu kẻ thù, và Ngài đã yêu đến cùng, yêu cho đến hơi thở cuối cùng trên thập giá. Tại trần thế 33 năm, Chúa Giêsu đã minh chứng cho các học trò, cho các tội nhân, Ngài đến thế gian vì yêu, Ngài sống để yêu, Ngài chết đi cho tội lỗi loài người cũng vì lý do để nói lên tình yêu luôn sống động. Bài học về tình yêu thương, sẽ không bao giờ cũ xưa, không “kỳ cục” bất thường, khi mà người ta “vả má này thì giơ má kia ra”, vì chưng, những ai có Đức Kitô trong tâm trí đều dám thực hiện điều luật “sống để yêu”.
Sống để yêu là lời gọi trở nên học trò Đức Giêsu, tuần tự qua giai đoạn: biết mình được yêu, biết mình phải làm để tình yêu sinh hoa trái, biết mình mỗi ngày phải sống thế nào cho xứng hợp với tình yêu Đức Kitô. Người xưa có câu: quân tử hiểu về nghĩa, tiểu nhân hiểu về lợi. Giáo huấn của Đức Giêsu không dừng lại ở tình nghĩa, không chỉ nói tới nghĩa vụ giữa kẻ trên người dưới, đúng hơn, những ai là thần dân của Đức Giêsu đều phải sống đức yêu thương. “Nếu anh em chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình, thì còn gì là ân với nghĩa”. Người ta có học mà không hành thì chưa phải là học, người ta có nghĩ tới ơn cha nghĩa mẹ mà chưa có lần báo đáp, hẳn đó cũng chỉ là cảm xúc hời hời qua mau. Sống để yêu và yêu để sống, không bao giờ dễ, nếu mỗi người chưa tự nguyện làm môn đệ Đức Giêsu, chưa khiêm tốn để Ngài biến đổi và kiên trì bước theo Ngài bằng sức mạnh của ý chí con tim.
Đức Giêsu lấy tình yêu của Chúa Cha làm chuẩn mực cho tiến trình nên một tình yêu: “anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành”. Thiên Chúa là cội nguồn yêu thương, ở trong Chúa, người môn để mới thấy sự phong phú giữa mọi phần tử: “anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà không hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”. Chính Chúa Giêsu đã sống mẫu gương yêu thương tha thứ đối với các học trò bỏ thầy chối thầy, ở trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu xin với Chúa Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Có một quy luật bất thành văn: tình yêu thương cho đi hoài đi mãi, nhưng không thấy cạn, không thấy vơi ; tiền của mang cho mang biếu một vài lần đã thấy hết, vì tiếc, vì sợ… Làm sao chúng ta đón nhận được lời khuyên của tiền nhân: người tốt sẽ cho bạn hạnh phúc, kẻ xấu sẽ cho bạn kinh nghiệm, khi chúng ta chưa được trang bị công bằng tình yêu thương trong các tương quan của mình ? Làm sao chúng ta có thể hiểu, có thể biết ở trần gian là cơ hội tốt để yêu thương, khi chúng ta chưa có tình yêu của Chúa Giêsu trong tâm hồn của mình ? Trong các tương quan xã hội, Chúa Giêsu nhắc nhớ ta hãy cư xử bằng tình yêu thương tha thứ, đó cũng là căn bản mỗi người sẽ cảm nhận được vì sao ta được phép gọi Thiên Chúa là Cha. Cuộc sống này sẽ có ý nghĩa biết bao, khi chúng ta biết dành thời gian cầu nguyện, suy xét về tội lỗi của mình, đó cũng là lời thôi thúc chúng ta sống ở đời này để yêu thương hầu tiếp tục được yêu thương. Amen.
Nhiều người trong chúng ta thường có hình ảnh rất lệch lạc về Thiên Chúa. Ngài thường được xem TN 7-C123
Nhiều người trong chúng ta thường có hình ảnh rất lệch lạc về Thiên Chúa. Ngài thường được xem như là một vị “cảnh sát” nghiêm khắc, luôn “rình rập” để bắt lỗi và phạt chúng ta. Điều này phản ánh cách rõ ràng qua việc chúng ta đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật. Đa số chúng ta đi tham dự thánh lễ vào Chúa nhật là vì chúng ta “sợ phạm tội”chứ không phải vì lòngyêu mến Chúa. Giáo Hội, qua lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay, trình bày cho chúng ta một hình ảnh đẹp và trung thực về Thiên Chúa mà chúng tatôn thờ. Hình ảnh này được tìm thấy trong lời của Thánh Vịnhtrong câu đáp ca: “Chúa là Đấng từbi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 8-10).
Vì có một Thiên Chúa đầy yêu thương và nhân hậu như thế và chúng ta được tạo dựng nên theo hình ảnh và giống Ngài, nên chúng ta cũng được mời gọi đối xử với nhau như Ngàiđã đối xử với chúng ta. Người ta thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.” Nếu Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, là con cái của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để trở nên từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tìnhthương. Tư tưởng về việc sống xứng đáng làhình ảnh của Thiên Chúa được tìm thấy trong bài đọc 2. Thánh Phao lô nhắc nhở chúng ta rằng nhưchúng ta mang hình ảnh của Adam thế nào, thì chúng ta cũng mang hình ảnh của Đấng từ trời đến là Đức Giêsu Kitônhư vậy: “Người thứ nhất bởi đng kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽđược mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:47-49). Vì vậy, chúng ta phải sống một cuộc sống như Đức Giêsu Kitô đã sống!
Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy thái độ từ bi nhân hậu của Thiên Chúa được Vua David tỏlộvới Saun, người tìm cách giết mình. Sau khi giúp vua Saun đánh bại quânất mà ra thì thuộc vềđất; còn người thứhai thì từ trời mà đến.Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻbởi đất mà ra; còn nhữ Philistine, David được nhiều người mến mộ. Thấy thế, vua Saun trở nên ghen tỵ và biến David thành kẻ thù số một cho ngôi vương của mình và tìm cách giết David. Đây chính là bối cảnh của bài đọc 1 sách Samuen Quyển Thứ Nhất mà chúng ta nghe ngày hôm nay. Tuy nhiên, dù vua Saun xem ông là kẻ thù, David vẫn không xem vua Saun là kẻthù và vẫn tôn trọng ông như người đã được Đức Chúa xức dầu: “Xin Đức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành của họ: hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong”(1 Sam 26:23). Chính lòng từ bi nhân hậu của David đã cải hoá vua Saun chứ không phải lòng hậnthù. Chân lý trong cuộc sống là: Chúng ta không thể bẻ gãymột chuỗi sự dữ bằng một sự dữ khác, vì khi làm như thế, chúng ta lại thêm một mắt xích vào nữa chuỗi sự dữđã tồn tại. Chúng ta chỉ có thể bẻ gãychuỗi sự dữ bằng sựthiện, bằng một hành động tốt. Ví dụ, chúng ta chỉ có thể kết thúc chuỗi hận thù bằng tha thứchứ không phải bằng một hành vị trả thù khác; hoặc chúng ta chỉ có thể kết thúc chuỗi nói dối bằng hành vi nói thật chứ không phải một hành vi nói dối khác.
Tuần trước chúng ta nghe về những mối phúc của những người môn đệChúa Giêsu. Và mục đích của các mối phúclà làm cho chúng ta trở nên từ bi nhân hậu như Cha của chúng ta Đấng ngự trên trời. Nói cách khác, bài Tin Mừng hôm nay chính là “hiện thực hoá” bài Tin Mừng chúng ta nghe tuần trướcvềcác mối phúc. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Ngài phải nên như Cha ở trên trời: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).Tức là, chúng ta không có một “thần tượng” nào khác ngoài Thiên Chúa. Theo các học giả Kinh Thánh, Chúa Giêsu trình bày trong tư tưởmg này một nền luân lý gọi là “luân lý hỗ tương,” tức là khi một người nhận điều gì thì người đó có bổn phận chia sẻ cho người khác, nhất là những người túng thiếu. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không muốnngười đó dừng lại ởđó mà đi đến nền “luân lý của tình yêu cụ thể và vô điều kiện,”tức là người đó phảichia sẻ cho người khác không phải vì “gánh nặng” của trách nhiệm, nhưng với “ước nguyện” nên giống Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Chúng ta có thểrút ra những thái độc hứng mình rằng chúng ta là con cái của Cha nhân lành trên trời.Đó là những thái độ cần thiết sau:
Thứnhất, chúng ta phải yêu kẻ thù của mình và làm điều tốt cho những người làm mình đau khổ: “Thầy nói với anh em lànhững người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6:27-28). Khi chúng ta yêu kẻ thù của chúng ta là chúng ta đi vượt qua bản tính tự nhiên được sinh ra bởi Adam để sống với bản tính của Thiên Chúa mà chúng ta được chia sẻ trong Đức Kitô: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ” (Lc 6:32). Chính điều này làm cho chúng ta giống với Thiên Chúa là Đấng yêu mến chúng ta ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân.
Thứ hai, chúng ta phải là những người hiền lành và khiêm nhường, không đáp trả bạo lực bằngbạo lực: “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6: 29).Trongcâu nói này, Chúa Giêsu muốn chúng ta đi vượt ra khỏi khuynh hướng tự nhiên là đặt việc bảo vệ chính mình lên hàng đầu khi có người tấn công hoặc muốn chiếm đoạt tài sản của mình. Điều này không có nghĩa là Chúa Giêsu không muốn chúng ta bảo vệ chính mình và tài sản của mình khi có những người xâm hại cách bất công. Điều Chúa Giêsu muốn nói đến ởđây chính là những thứđó không phải là điều chính yếu trong cuộc sống. Chúa Giêsu muốn thay thế lối hành xử đặt lợi ích của mình lên hàng đầu bằng việc đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu. Nhiều khi bị hạ nhục hoặc mất ít của cải vật chất nhưng giữđược những mối tương quan chúng ta đã xây dựng từ lâu thì cũng đáng. Chúng ta đọc báo hoặc chứng kiến trong đời sống thường ngày rằng: Con cái kiện cha mẹ, anh chị em kiện nhau, vợ chồng mâu thuẫnvới nhau chỉ vì một số tiền hoặc đất đai. Được một khoản vật chất chóng qua mà đánh mất đi những tương quan thật thiêng liêng thì có đáng không?
Thứ ba, chúng ta phải luôn quảng đại với mọi người: “Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại” (Lc 6:30).Chúng ta thường làm ơn cho người khác với nhiều động lực khác nhau, nhất là khi chúng ta cho người khác mượn gì, chúng ta thường mong chờ người đó trảlại. Tệ hơn là đôi khi chúng ta cho người khác mượn một và lấy lời hai. Nếu chúng ta làm như thế thì chúng ta có khác gì những người tội lỗi như Chúa Giêsu khuyên dạy: “Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn đểđược trả lại sòng phẳng” (Lc 6:33-34). ĐiềuChúa Giêsu muốn chúng ta ở đây là phải luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác, vì khi họđến cầu cứu chúng ta, tức là họ thật sựđang rơi vào cảnh túng thiếu.
Thứ tư, chúng ta phải luôn trao ban niềm vui cho người khác chứ không phải đau khổ. Có câu nói trong đời rằng: “Bạn cho cuộc đời cái gì, thì cuộc đời cũng sẽ cho bạn lại cái đó. Nếu bạn cho cuộc đời tình yêu chân thật thì nó sẽ cho lại bạn tình yêu chân thật, còn nếu bạn cho đời sựdối trá thì bạn cũng sẽ nhận lại sự dối trá trong cuộc đời của bạn.” Đây chính là diễn tả cụ thểnhất của “thước đo vàng” mà chúng ta nghe Chúa Giêsu nói và giải thích trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6:31).Chúa Giêsu sử dụng “thước đo vàng” để nóiđến cách hành xử căn bản của chúng ta.Và Ngài giải thích “thước đo vàng” này trong những câu 32-36.
Tóm lại, để có lòng nhân từ nhưChúa Cha ở trên trời là Đấng nhân từ, chúng ta làm những điều ngược lại với những gì mà người khác hay làm. Tư tưởng nàytiếp nối bài giảng về các mối phúc và hoạ mà chúng ta nghe Chúa Nhật trước. Cụ thể là những giá trị của người môn đệluôn ngược với những giá trị mà thế gian đón nhận: “Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽlớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35).Hơn nữa, trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra những việc thực hành cụ thểđể chúng ta thực hiện: (1) không được xét đoán:“Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán” (Lc 6:37); (2) không lên án: “Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6:37); (3) luôn tha thứ: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37); (4) luôn sống quảng đại trao ban: “Anh em hãy cho, thì sẽđược Thiên Chúa cho lại” (Lc 6:38).
Chi tiết cuối cùng đáng để chúng ta suy gẫm là việc xét lại thái độ sống của chúng ta với những người khác vì Thiên Chúa “sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6:38). Trong câu này, có một cái gì đó công bằng, nhưng cũng có một cái gì đó thật an ủi cho chúng ta: Công bằng ở chỗ là Thiên Chúa sẽ đong lại cho chúng ta bằng đấu chúng ta đong cho người khác. Tuy nhiên, điều an ủi ở đây chính là đấu của Thiên Chúa luôn “đầy tràn” tình thương và tha thứ vì Ngài “không cứtội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 8-10).Hãy đối xử với người khác như Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta!
Khổng Tử ngày xưa dạy học trò: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều mình không muốn, đừng làm TN 7-C124
Khổng Tử ngày xưa dạy học trò: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (Điều mình không muốn, đừng làm cho người khác – xc. sách “Luận ngữ – Chương Nhan Uyên”). Câu này ngụ ý: Nếu mình không muốn người khác đối đãi với mình thế nào, thì bản thân mình cũng không nên đối đãi với người khác như thế. Quan hệ qua lại giữa người với người thực sự cần phải kiên trì nguyên tắc này, đó là thể hiện lòng tôn trọng người khác, bình đẳng đối xử. Cùng một ý nghĩa như vậy, nhưng mang tính tích cực hơn, là Lời dạy của Đức Giê-su Ki-tô trong bài Tin Mừng hôm nay (CN VII TN-C – Lc 6, 27-38): “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.”
Chúa Giê-su không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Người đến trước hết là để mạc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình yêu, nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Chúa Giê-su cho biết không hề có sự cách biệt giữa “mến Chúa” và “yêu người”, vì đó là hai khía cạnh của một điều răn duy nhất: điều răn “Yêu thương”. Vì thế, người tín hữu không thể hẹp lòng với tha nhân, kể cả với kẻ thù, mà vẫn nghĩ rằng mình mở lòng với Thiên Chúa. Hẹp lòng với tha nhân cũng là hẹp lòng với Thiên Chúa.
Các mối phúc đã phác họa dung mạo người môn đệ Chúa Giê-su, biết chấp nhận những thua thiệt trong cuộc đời và bị bách hại về thể xác cũng như tinh thần vì họ muốn sống theo giáo lý của Người. Phản ứng tự nhiên của người bị bách hại là không thể đội trời chung với kẻ thù đã bách hại mình, chứ nói chi tới việc yêu thương kẻ thù. Thật thế, Kinh Thánh Cựu Ước đã chứng minh: “Luật báo phục tương xứng: Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.” (Đệ nhị luật 19, 21). Có lẽ vì thế mà Tin Mừng Lu-ca đặt vấn đề yêu thương kẻ thù ngay sau các mối phúc, coi như một điều kiện căn bản để có thể sống những mối phúc nói trên.
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục quảng diễn những mối phúc bằng những trường hợp cụ thể rút từ lối sống của người đời và đòi hỏi người môn đệ phải sống ngược lại lối sống ấy thì mới nói lên được căn tính của người đi theo Chúa. Lời dạy của Đức Ki-tô về hạnh phúc đi ngược lại não trạng con người ngày nay rất nhiều. Cũng không hẳn là ngày nay, mà ngay cả ngày xưa thì “não trạng con người” cũng không chấp nhận: Điển hình là khi nghe Đức Ki-tô giảng dạy thì cả đến những môn đệ, người thân cận, đồng hương với Người cũng phát biểu “lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi” (Ga 6, 60); “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.” (Lc 4, 28-29).
Bình thường ai cũng yêu kẻ yêu thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói là yêu kẻ thù. Đời có vay có trả vì ân oán giang hồ, không ai có thể xây dựng tình yêu với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn; không thể đội trời chung với kẻ thù. Đối nghịch với thói đời khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6, 27), Đức Giê-su đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Không ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy; nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Ki-tô.
Đức Giê-su không dạy cách nhận dạng kẻ thù; nhưng muốn người tín hữu nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hãm hại mình. Đó là một nghịch lý, nhưng Tin Mừng thường được hình thành giữa những nghịch lý như thế (“Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong.” – Lc 6, 28-29). Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người đọc, người nghe; mà đặt vấn đề rất khó nghe, nhưng có sức thuyết phục, thức tỉnh lòng người. Đức Giê-su muốn lôi con người thoát khỏi giấc ngủ mê ngàn năm trong cảnh thù hằn, hãm hại. Người muốn con người đối diện với kẻ thù bằng một thái độ cao cả. Đó là một vấn đề hóc búa nhất; nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.
Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thầy Chí Thánh Giê-su đã vạch ra con đường dẫn người tín hữu vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao đó, người Ki-tô hữu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cần phải đi bước trước (trước khi rao giảng, hãy thực hành Lời Chúa). Chính Thầy Chí Thánh đã nêu gương thực hiện khi bị treo trên thập giá: Thầy đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Sở dĩ Thầy làm được như thế, vì Thầy đã noi gương Chúa Cha là đấng nhân từ (“Chúa Cha nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác. Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” – Lc 6, 35-36). Chính ở hành vi tha thứ, Đức Giê-su cho thấy tình yêu Thiên Chúa là sức mạnh vô song, cao vời khôn ví.
Tóm lại, việc yêu thương kẻ thù là một việc vô cùng khó khăn, nhưng càng khó người tín hữu càng phải cố gắng thực thi, vì đây là giới luật Chúa Giê-su đã truyền dạy: Muốn trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa, muốn nên hoàn thiện, không còn cách nào khác ngoài cách sống “yêu thương và tha thứ”. Một tấm gương vĩ đại là chính Phao-lô – người đã từng bách hại những người theo Ki-tô – đã được chữa lành khỏi căn bệnh “mù nội tâm”. Chính ngài đã dạy cho tín hữu Rô-ma, và nói chung là giảng dạy cho mọi người biết: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13, 10). Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp mọi người chúng con hằng để tâm suy nghĩ những gì là thiêng liêng cao thượng, và biết dùng lời nói việc làm để thực thi những điều đẹp ý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN VII.TN).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề nghị chúng ta thực hiện một cuộc cách mạng vĩ TN 7-C125
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề nghị chúng ta thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại của Tin Mừng là tha thứ, yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Dưới hình thức những câu danh ngôn, Chúa Giêsu cho chúng ta một khuôn vàng thước ngọc để hành xử và qua đó Người nói cho chúng ta biết rằng yêu thương kẻ thù là cách thế để “chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.”
1- Yêu thương kẻ thù, thước đo và động lực
Thước đo của cách hành xử bao gồm hai phần: phần một liên quan đến tình yêu đối với kẻ thù, và phần hai là sự thấu hiểu huynh đệ. Trước hết là yêu kẻ thù: lý tưởng này được khai triển dựa trên những ví dụ cụ thể: ai vả má phải thì đưa cả má trái, ai lột áo ngoài thì nhường cả áo trong, ai xin thì hãy cho và cho vay mà không đòi lại. Tiếp theo là sự thấu hiểu để tránh xét đoán người khác. Khía cạnh này ngắn hơn. Chúa Giêsu dạy chúng ta thực hành những điều đó theo mẫu gương của Chúa Cha: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” Người kết luận: “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”
Quả thật, giáo huấn của Chúa Giêsu về việc yêu thương kẻ thù phải trở thành quy luật hành xử của mỗi người môn đệ Chúa. Với khái niệm “kẻ thù,” có nhiều mức độ thù địch khác, ví dụ: từ sự ác cảm tự nhiên và từ việc không hợp tính khí, đến sự ganh đua bên trong hay thể hiện ra ngoài, từ thái độ thô lỗ và tính kiêu căng, sự xảo trá và lừa lọc, tà ý và phản bội, cuối cùng là sự thù oán và thù ghét, dẫn tới sự bách hại và giết chết.
Thứ đến động lực của tình yêu này đối với kẻ thù được tìm thấy trong việc noi gương bắt chước tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với loài người: “Và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” Lý do này kết hợp với lý do thần học “nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ,” nó làm dội lại lý do phổ quát khác: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Quả thế, những tiêu chuẩn này phải là nền tảng của cách hành xử chúng ta đối với tha nhân, đặc biệt đối với kẻ thù: đó là phải có lòng tốt, thương xót và sự thánh thiện của Thiên Chúa.
Khi chúng ta yêu hết mọi người với thái độ bao dung và nhân ái này, chúng ta trở nên giống Thiên Chúa và hình ảnh con người mới trong Chúa Kitô được tái hiện trong chúng ta. Yêu thương kẻ thù là giáo huấn cao thượng nhất giúp chúng ta đạt tới sự viên mãn và trưởng thành nhân bản, xét như là hữu thể được tạo dựng để yêu thương và được yêu thương. Chỉ khi nào yêu thương một cách vô vị lợi, con người mới có thể đạt tới hạnh phúc, và với tư cách là Kitô hữu, chúng ta đạt tới tầm mức con người mới trong Chúa Kitô. Như thế, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, Đấng yêu thương tất cả mọi người.
2- Một thông điệp “chói tai”
Tin Mừng hôm nay rất cao thượng, nhưng rất khó để sống, và dường như đôi khi là không thể thực hiện. Chúng ta có cảm tưởng “chói tai” khi nghe đoạn Tin Mừng này. Chúng ta khó chấp nhận tính cao thượng này vì bản thân luôn yếu đuối và giới hạn. Bởi lẽ, trong thực tế, người ta đối xử với nhau rất khác so với lý tưởng này. Chúng ta bị cám dỗ khi nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ là người xa rời thực tế, không hiểu thấu con tim con người. Có lẽ Người không biết rằng chúng ta mang trong mình một quy luật bẩm sinh về sự trả thù mà Cựu Ước nói tới: “Mắt đền mắt, răng đền răng.” Xin thưa rằng: không! Nhưng chính vì điều này mà Chúa Giêsu đề nghị chúng ta tiến đến một con đường giải thoát và hạnh phúc, không bằng bạo lực thù oán, nhưng bằng sức mạnh của tha thứ và yêu thương. Đây cũng là sự vĩ đại nhân bản mà Đavít đã thể hiện khi tha thứ cho kẻ thù đáng phải chết của mình là vua Saul, một người được xức dầu của Thiên Chúa (bài đọc I).
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương kẻ thù luôn mãi, bởi vì chúng ta luôn bị thúc đẩy báo thù vì sự bất công và thù hận. Những cuộc tranh chấp và báo thù xảy ra hằng ngày không chỉ ở phạm vi cá nhân, gia đình mà còn ở phạm vi quốc gia và quốc tế nữa, con người thù địch lẫn nhau, quốc gia này thù địch với quốc gia kia.
Nếu không hành xử theo tình yêu và tha thứ mà Chúa Giêsu dạy, chúng ta không thể là Kitô hữu chính danh. Chúng ta được mời gọi đối xử với những kẻ thù của mình với lòng nhân từ mà Chúa Giêsu dạy. Mặc dầu chúng ta biết rằng việc thực hành những điều trên không dễ dàng chút nào.
Hơn nữa, chúng ta cũng cần biết rằng điều xem ra không thể đối với con người lại là điều có thể đối với Thiên Chúa. Nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta có thể thực hiện được những điều vĩ đại và cao cả trong đời sống mình, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa.
3- Yêu thương không cần đền đáp
Bởi thế, Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa?” Điều này những người khác đều làm, cả người xấu xa và kẻ vô đạo. Đối với các môn đệ, Chúa Giêsu đòi hỏi nhiều hơn: yêu thương cả những kẻ thù ghét mình, những kẻ không chào hỏi mình, những kẻ thô lỗ, những kẻ phản bội, làm hại và vu khống chúng ta, tóm lại, những kẻ thù của chúng ta.
Điều làm cản trở chúng ta khi sống giới răn yêu thương này đó là sự ích kỷ, toan tính và vụ lợi. Đặc biệt, khi đối diện với những người bị loại trừ, người nghèo, người già, người tàn tật, những nạn nhân xã hội, hay kẻ thù của mình…, chúng ta đặt câu hỏi: tôi kiếm được gì với những người này? Và câu trả lời: không gì cả!
Như thế, chúng ta khép lòng lại thay vì phải sống theo Lời Chúa dạy là quảng đại, nhân ái, thấu hiểu, đón tiếp, gần gũi, vui vẻ chia sẻ, yêu thương tha thứ cho họ.
Như thế, yêu thương kẻ khác với tấm lòng bao dung và phổ quát phải là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống chúng ta đối với tha nhân. Yêu thương kẻ thù là tình yêu lớn nhất và là dấu chứng khả tín nhất về việc chúng ta nên giống Chúa trong cách hành xử của mình. Amen!
Mục đích chính của Phụng vụ Lời Chúa mùa Thường niên là để đào tạo đời sống thiêng liêng của TN 7-C126
Mục đích chính của Phụng vụ Lời Chúa mùa Thường niên là để đào tạo đời sống thiêng liêng của chúng ta theo những tiêu chuẩn của Tin Mừng. Lời giảng của Chúa Giê-su là những bài học căn bản giúp chúng ta xây dựng một lối sống đặc biệt của những người con cái Thiên Chúa trong mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau. Lời Chúa trong mấy Chúa Nhật trước đã nói đến mối tương quan giữa Thiên Chúa với chúng ta, nhất là những công việc Người muốn thực hiện để chúng ta thấy được Người yêu thương chúng ta dường nào. Người sai Con Một đến để trực tiếp dạy dỗ chúng ta nên hoàn thiện. Người mong chúng ta tin vào tình yêu và lòng thương xót của Người. Đặc biệt hôm nay, lời Chúa đưa ra một phương thức cụ thể giúp chúng ta nên hoàn hảo: Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.
Trước hết bài đọc Cựu Ước kể lại một câu chuyện cảm động về lòng nhân từ. Như chúng ta đọc trong sách 1 Sa-mu-en, sau khi Đa-vít trở nên nổi tiếng thì vua Sa-un đâm ra ghen tương, muốn loại trừ Đa-vít. Đa-vít đã phải chạy trốn vào sa mạc Díp, nhưng vua Sa-un vẫn không tha, cố tìm giết Đa-vít. Ban đêm đang khi vua Sa-un nằm ngủ trong trại binh, Đa-vít và ông A-vi-sai lẻn đến chỗ vua Sa-un ngủ và có cơ hội giết vua. Nhưng thay vì sát hại vua, Đa-vít đã tha mạng cho vua, chỉ lấy đi cây giáo và bình nước để ở phía đầu vua Sa-un. Rồi Đa-vít đứng trên đỉnh núi đối diện với sa mạc, cầm trong tay cây giáo của vua Sa-un và nói với vua: “Hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong”. Cảm động trước lòng nhân từ của Đa-vít, vua Sa-un thề sẽ không giết hại Đa-vít nữa và nói với ông: “Đa-vít con cha ơi, con được chúc phúc! Chắc chắn con sẽ làm việc lớn, và sẽ thành công.” Sau này, chính vua Đa-vít cũng phạm những lỗi lầm to lớn trước mặt Chúa, nhưng vua đã tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa và hết lòng ăn năn sám hối. Vua đã trở thành mẫu gương sám hối và tín thác vào lượng từ bi của Thiên Chúa. Vua Đa-vít cũng để lại cho chúng ta một lời kinh có lẽ được đọc nhiều nhất, đó là Thánh vịnh 51.
Vua Đa-vít là một gương mẫu sống lòng nhân từ. Hai mươi tám thế hệ sau vua Đa-vít, hậu duệ của vua là Chúa Giê-su Ki-tô, đã được Chúa Cha sai đến để giảng dạy và biểu lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay là giáo huấn Người nói về việc tỏ lòng nhân từ đối với kẻ thù của chúng ta. Như chúng ta biết, trong sách Tin Mừng có hai cách trình bày con đường trở nên hoàn thiện. Đối với sách Tin Mừng Mát-thêu, con đường ấy là “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”, còn đối với sách Lu-ca, đó là “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Chúng ta có thể thắc mắc về sự khác biệt ấy. Thánh Mát-thêu viết sách Tin Mừng cho Ki-tô hữu gốc Do-thái, do đó ngài trình bày giáo lý theo khuôn mẫu Lề Luật mang tính cách lý thuyết. Với thánh Lu-ca thì khác, độc giả của ngài là Ki-tô hữu gốc dân ngoại, cho nên ngài trình bày giáo lý theo phương thức thực hành, nghĩa là dựa trên hành động cụ thể, đó là “anh em hãy có lòng nhân từ” và hãy biểu lộ lòng nhân từ ấy qua việc yêu thương kẻ thù, như chúng ta đọc thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giê-su không dài dòng giải thích ý nghĩa của lòng nhân từ, nhưng Người đưa ra những hành vi nói lên cách đối xử của người Ki-tô hữu với kẻ thù. Đan cử một số những hành vi ấy là chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình, ai vả má bên phải thì mình hãy đưa má bên trái cho họ vả… Tất cả đều là những hành vi mà người đời sẽ không làm cho kẻ thù của mình. Vậy thì tại sao Ki-tô hữu lại làm khác với người đời? Câu trả lời giản dị, đó là họ làm theo những gì Thiên Chúa đã làm. Chúng ta, vì là những kẻ tội lỗi, đều là kẻ thù của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại không đối xử với chúng ta như với kẻ thù, mà luôn luôn như với con cái của Người. Lý do Người đối xử như thế là “vì Cha anh em là Đấng nhân từ”. Người nhân từ với kẻ tốt cũng như người xấu, với người thánh thiện cũng như kẻ tội lỗi. Vậy nếu Người yêu thương cả những kẻ tội lỗi là kẻ thù của Người, thì tại sao chúng ta lại không làm giống như thế?
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúa Giê-su đã nói với chúng ta về lòng nhân từ qua những kinh nghiệm thực tế trong cách đối xử. Riêng đối với thánh Phao-lô, ngài muốn trình bày lòng nhân từ dựa trên suy tư thần học, để giúp chúng ta trở nên giống Cha trên trời là Đấng nhân từ. Ngài viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến”. Ở đây, thánh Phao-lô muốn trình bày một cuộc biến đổi con người chúng ta, từ “hình ảnh người bởi đất mà ra” sang “hình ảnh Đấng từ trời mà đến”. Đúng vậy, từ thân phận tội lỗi và kẻ thù của Thiên Chúa, chúng ta đã được Chúa Ki-tô cứu chuộc và phục hồi cho chúng ta thân phận làm con Thiên Chúa. Người mời gọi chúng ta hãy “trở nên đồng hình đồng dạng” với Người, nghĩa là rập theo lối sống của Người. Người đã tỏ lòng nhân từ khi tha thứ cho những người tội lỗi, yêu thương những kẻ bị xã hội loại bỏ, thì cũng thế, ta cũng phải tha thứ cho những người làm ta bị tổn thương và phải quan tâm đến những người bị xã hội khinh chê.
Sách Samuel trong bài đọc thứ nhất kể lại câu chuyện vua Saul trên đường đi lùng bắt Đavit vì ganh tị. Đang đêm, khi nhà vua nằm ngủ trong trại binh, Đavit đi vào mà không ai hay biết. Ông có thể giết kẻ thù của mình, nhưng ông đã không làm thế vì:“Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?” (1Sm 26,9b).Thái độ của ông là thái độ của kẻ tin. Dù người được chọn không xứng đáng, nhưng ông vẫn kính trọng người được Thiên Chúa xức dầu. Như vậy việc Đavit tha chết cho Saul được gọi là một tình yêu cao thượng, không ăn miếng trả miếng nhưng sẵn sàng tha cho kẻ hãm hại mình. Đó là tình yêu xuất phát từ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng Lc 6, 27-38, Đức Giêsu đưa ra tiêu chí cho tình yêu rất lạ lùng:“Yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6, 27). Thường người đời chỉ yêu những kẻ yêu mình và làm ơn cho những người làm ơn cho mình. Đức Giêsu nói đó là chuyện bình thường ai cũng làm được, thậm chí là dân ngoại và quân tội lỗi cũng làm được, còn con cái Thiên Chúa phải “nhân từ như Cha anh em trên trời là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36). Đây không phải chỉ là một lời khuyên nhân bản, mà là sự thật về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu như thế. Ngài đã yêu và đối xử tốt với những kẻ làm hại mình. Ngài đã yêu và vẫn yêu những kẻ phản bội Ngài. Ngài vẫn chờ đợi cho dù ta bất tín…
Từ sự thật như thế ta yêu mến Chúa nhiều hơn vì dù ta có như thế nào Chúa cũng vẫn yêu thương ta. Ngài đối xử với ta không bằng đẳng cấp luân lý hay đạo đức, mà đối xử với ta bằng bề dày nghĩa tình.
Từ đó Ngài mời gọi ta hãy yêu như Ngài. Yêu không toan tính. Yêu không lý do. Yêu không so đo. Yêu không cần hợp lý… đơn giản vì ta có niềm tin.
Để sống tình yêu này trong cuộc đời, trước hết phải gắn bó với Chúa để cảm nhận được tình yêu của Chúa ngày càng nồng nàn thắm thiết hơn. Gắn bó trong việc chung thủy với Ngài, không “ngoại tình” với những thần minh và thế lực khác, vì như thế ta sẽ không cảm nhận được tình yêu của Chúa một cách trọn vẹn. Gắn bó trong việc chạy đến với Ngài thường xuyên hơn, nhất là quyết tâm đọc kinh hôm kinh mai cho tốt và tham dự Thánh lễ ngày thường khi có thể. Gắn bó với Ngài bằng việc tha thiết với những việc đạo đức trong cộng đoàn, trong Họ đạo… Khi một tâm hồn gắn bó với Chúa như thế, con người sẽ thấy được giá trị của mình vì được Chúa yêu thương, không phải vì ta xứng đáng, mà đơn giản vì Thiên Chúa là tình yêu.
Từ tình yêu đó mời gọi ta hằng ngày hướng đến anh em không phải vì họ xứng đáng, mà vì Chúa muốn ta yêu như Ngài để đối xử tốt với mọi người. Ai đối xử với mình ra sao cũng mặc, miễn là ta muốn yêu mến họ. Đặc biệt với những gia đình gặp khó khăn, hãy luôn đồng hành để họ thấy Thiên Chúa không chê ghét hoàn cảnh của họ. Đồng hành bằng chính kinh nghiệm cá nhân của ta, vì ta cũng không xứng đáng nhưng đã cảm nghiệm được tình yêu. Đồng hành không phải để hướng dẫn, nhưng đồng hành để cùng đi cho đỡ buồn, đỡ chán, cho vơi đi gánh nặng, cho thêm phấn khởi trong cuộc hành trình.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến Chúa thật nhiều để biết yêu mến anh em con nhiều hơn.
Dù anh biết tất cả đã mãi xa rồi / Chỉ có những ký... Lời ca của một người nhắc nhở về một mối TN 7-C128
“ Dù anh biết tất cả đã mãi xa rồi / Chỉ có những ký ức ở lại / Nhưng dường như anh hoài chưa quên / Và dường như đâu đâu anh cũng thấy em.”
Lời ca của một người nhắc nhở về một mối tình trắc trở. Tình yêu làm cho người ta say đắm trong hạnh phúc nhưng cũng chính tình yêu làm cho người đó trống trải, đớn đau khi tình yêu vụt mất. Yêu một người có dễ không? Nếu yêu một người không hề dễ dàng thì yêu nhiều người và thậm chí yêu cả kẻ thù thì khó có ai có thể làm được?
Từ trên thánh giá, có một lời ca khiến cho con người mọi thời đại vẫn còn ngất ngây, lời ca ấy vẫn luôn là lời ca đẹp nhất của một trái tim hiến dâng trọn vẹn cho tình yêu: “ Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Trong những bài giảng của Thầy Giêsu, ta rất ấn tượng với bài giảng: “yêu thương kẻ thù” (x.Lc 6, 27-35). Lời của Thầy đã vang lên hơn hai ngàn năm qua và hôm nay vẫn trở nên rất thực tế đối với người môn đệ. Lời mời gọi ấy đòi hỏi người môn đệ sống một tình yêu phi thường. Yêu như Thầy Giêsu đã yêu là một điều không hề dễ dàng. Theo tự nhiên, ta dễ yêu người làm ơn cho ta và người quý mến ta cũng như ta quý mến họ. Khi cho ai của gì hay cho vay mượn dù ta tự nguyện và cho cách quảng đại nhưng trong lòng ta vẫn mong chờ một lời cảm ơn, một sự đền đáp nghĩa tình. Yêu như thế là rất người. Là môn đệ của Thầy Giêsu, trái tim ta phải rộng mở hơn, hay nói khác đi, tình yêu trong ta không được dành riêng cho một số người ta thích nhưng là dành cho tất cả mọi người. Đến như yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét ta thì ta có còn là người bình thường nữa không? Vậy mà Thầy Giêsu đã yêu như thế đó. Có lẽ, chẳng ai phải đau đớn như Thầy, đến lúc cận kề cái chết mà vẫn bị người ta sỉ nhục, lăng mạ đủ điều (x. Lc 23, 35-38). Vậy mà từ trong cái tột cùng của đau đớn, Thầy Giêsu có thể tìm đau ra được một chỗ cho tình yêu, để có thể bào chữa cho những kẻ tra tay giết mình, những kẻ năng nhục thoái mạ mình. “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Thật khó có thể hiểu được tình yêu của Thiên Chúa.
Phần thưởng là một điều luôn hấp dẫn. Phần thưởng của người môn đệ khi theo Thầy Giêsu và yêu như Thầy Giêsu là gì? Thầy Giêsu đã hứa cho những ai sống tình yêu như Thầy sẽ nhận được phần thưởng lớn lao, và hơn hết sẽ trở nên con Thiên Chúa. (x. Lc 6, 35-36). Là người Kitô hữu, ta không thể chỉ sống bình thường, yêu tự nhiên như mọi người vẫn yêu. Nhưng sống là yêu như Thiên Chúa yêu vì ta có Chúa trong lòng. Thiên Chúa là tình yêu. Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình (x. 1Ga 4, 8.21). Vì ta là con của thiên Chúa, ta có thể có khả năng để yêu hết mọi người, yêu cả kẻ thù ghét ta, kẻ làm cho ta đau đớn. Chính Chúa Giêsu trên thập giá đã dạy ta tất cả.
Lạy Chúa! Chúa đã yêu con đến cùng. Tình Yêu của Chúa làm cho con hạnh phúc. Con sẽ yêu như Chúa yêu. Con chỉ có thể yêu người khác khi con có Chúa. Vậy con tha thiết xin Chúa cứ giữ chặt con trong tình yêu của Chúa và xin Chúa hãy dẫn con đến với những người Chúa muốn con yêu họ, và khi sống cùng họ, xin Chúa cứ để con tự do yêu họ như cách Chúa muốn. Mỗi lần con không muốn yêu, chỉ muốn ghét bỏ ai, xin Chúa cho con biết nhìn lên Chúa đang Chịu Đóng Đinh trên thánh giá vì con, để tình yêu Chúa bao phủ con và phá tan rào cản ngăn cách con. Amen.
Con người sinh ra trong đời này là để yêu thương và được yêu thương. Tình yêu thương ấy được TN 7-C129
Con người sinh ra trong đời này là để yêu thương và được yêu thương. Tình yêu thương ấy được bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thương này là cốt lõi trong Đạo và trở thành giới luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi; ngươi phải yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”. Giới luật này đã được ghi trong sách Thứ luật và sách Lêvi. Các bậc khôn ngoan, các tiến sĩ luật Do Thái và ngoại giáo đã đưa ra áp dụng luật này vào trong thực tế: “Điều ngươi không muốn người ta làm cho chính mình, thì ngươi cũng đừng làm cho ai khác”. Như thế, con người mang sẵn trong mình sách lề luật và quy tắc đích thật về thái độ phải có đối với đồng loại.
Thưa anh chị em, bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta thấy một mẫu gương sáng chói về thái độ yêu thương và tha thứ cho kẻ thù: chỉ vì ghen tức mà vua Saolô đã xua quân lùng bắt Đavít, người tôi trung tài giỏi. Dù vậy, đứng bên đầu giường có sẵn cây giáo của Saolô đang ngủ say li bì, Đavít cũng không hạ sát kẻ đã gây đau thương tột độ cho mình. Ông chỉ lấy cây giáo và bình nước của Saolô và lẳng lặng ra đi khỏi doanh trại địch, rồi gọi bầy tôi của Saolô tới mà nhận về. Dù sống trong luân lý: “răng đền răng, mắt đền mắt” nhưng Đavít cũng đã thực hiện được giáo huấn mới của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình”. Vì, “Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy”. Phải yêu thương như vậy, vì đó là ý muốn của Thiên Chúa: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”. Với luật mới của Chúa Giêsu, tha nhân không chỉ là những người đồng chủng, những người yêu thương, làm ơn cho mình nhưng là tất cả mọi người. Đàng khác, Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Người phải đạt mức độ toàn vẹn và tuyệt đối hơn nữa, yêu thương cả kẻ thù và “Đừng xét đoán thì các con khỏi bị xét đoán. Đừng kết án thì các con khỏi bị kết án”. Vì, Thiên Chúa sẽ xét đoán chúng ta theo lối cư xử của chúng ta trong ngày phán xét chung thẩm.
Có câu chuyện kể rằng, trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang quằn quại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy!”. Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thanh niên trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra giữa chiến hào, tháo chiếc Thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh.
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Hình ảnh và gương bác ái của viên sĩ quan Anh giúp chúng ta suy nghĩ về đời sống của mình, đồng thời hướng cái nhìn của chúng ta vào Chúa Giêsu, Thầy dạy và là tấm gương toàn vẹn về lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúa dạy chúng ta phải yêu thương, tha thứ cho những ai làm hại chúng ta. Vì chúng ta là con cái Thiên Chúa, Đấng nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác. Chúng ta đong đấu nào thì cũng sẽ được đông trả bằng đấu ấy. Vì thế, chúng ta muốn Thiên Chúa tha tội của chúng ta thì chính chúng ta cũng phải yêu thương tha tội cho những người xúc phạm đến chúng ta.
Nguyện xin Chúa xót thương và ban ơn trợ giúp để chúng ta biết thành tâm tìm kiếm và thực thi những điều đẹp ý Chúa. Amen.
Một trong những di chứng mà chế độ Cộng sản tạo ra trong thế giới ngày nay đó là bạo lực, căm TN 7-C130
Một trong những di chứng mà chế độ Cộng sản tạo ra trong thế giới ngày nay đó là bạo lực, căm thù và trả thù. Sự căm thù, trả thù bằng bạo lực một thời được người ta đưa vào giảng dạy, tuyên truyền nhồi nhét trong nhà trường cho các học sinh. Từ đó những con người thiếu lòng bao dung tha thứ được tạo ra cho xã hội và họ đang cư xử với nhau bằng bạo lực và thù oán. Chúng ta có thể thấy trong cách ứng xử theo kiểu trả thù từ chính quyền, công an cho đến dân thường. Chính quyền, công an trả thù theo kiểu của kẻ có quyền lực, người dân trả thù nhau theo kiểu bạo lực của người dân, dân làm ăn trả thù theo kiểu dân làm ăn, các băng đảng trả thù theo kiểu các băng đảng. Hầu như các tấm gương sống quảng đại, bao dung, tha thứ càng ngày càng trở nên khan hiếm trong xã hội của chúng ta. Hôm nay Lời Chúa nhắc lại cho chúng ta về lối sống và cách cư xử của người môn đệ, đó là sống quảng đại và tha thứ.
Bài đọc một kể lại tấm gương tha thứ của Đavít đối với vua Saolê: Lúc đó Đavít đang phục vụ vua Saolê, ông cầm quân đánh thắng được nhiều kẻ thù, diệt được tướng khổng lồ Gôliat, được dân chúng ca tụng như một vị anh hùng. Vua Saolê đã ghen tị với sự thành công và được nhiều người ngưỡng mộ của Đavít, ông đã toan tính tiêu diệt Đavít. Đavít cùng với những người thân đã phải bỏ trốn vào sa mạc tránh khỏi sự truy sát của vua Saolê và đoàn quân tinh nhuệ của vua. Khi đêm xuống Saolê và đoàn quân đang ngủ, Đavít và những người theo ông đã đột nhập vào giữa doanh trại của Saolê mà không ai hay biết. Cận thần của Đavít đề nghị ông lấy giáo hạ sát Saolê, nhưng Đavít đã không làm như thế, ông chỉ lấy đi cây giáo và bình nước của Saolê như một bằng chứng ông đã tha thứ cho Saolê. Hôm sau từ bên kia thung lũng, Đavít đã gọi vua Saolê và nói cho nhà vua biết ông không hề mang thù oán, không muốn trả thù nhà vua, ông trả lại nhà vua cây giáo và bình nước với sự kính trọng. Lý do Đavít không ra tay sát hại Saolê vì ông kính trọng nhà vua là Đấng đã được Chúa xức dầu. Ông nói: “Có ai ra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà được vô sự đâu?”Điều này cho thấy cái nhìn đức tin của Đavít. Mặc dù Saolê đang là kẻ truy sát ông, Saolê đang để cho sự ghen tị thù oán chiếm hữu và làm chủ mình, nhưng Đavít vẫn nhìn nơi Saolê là người được Chúa chọn. Đavít kính trọng Saolê không phải vì cá nhân ông ta nhưng vì là người của Chúa, vì lòng kính sợ Thiên Chúa.
Trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu giải thích rõ hơn lý do tại sao chúng ta phải sống quảng đại và tha thứ đối với anh chị em: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em”.Đây là một trong những nét nổi bật trong giáo lý của Chúa Giêsu. Sống trong một xã hội mà cách cư xử mắt đền mắt, răng đền răng, ăn miếng trả miếng, thì đòi hỏi này của chúa Giêsu quả là một bước đi thật dài và thật cao, là tiêu chuẩn đòi người môn đệ phải vượt qua. Thông thường, người ta có khuynh hướng yêu người mình yêu, thích người mình thích, xa tránh kẻ thù, nhưng ở đây Chúa đòi các môn đệ của Ngài phải có hành động chủ động và cụ thể hơn, đó là lấy ơn đáp lại oán, lấy yêu thương đáp lại ghen ghét, lấy tha thứ đáp lại sự thù hằn.
Chúa Giêsu còn muốn các môn đệ của Ngài phải đi xa hơn thế nữa khi dạy rằng: Ai vả má bên này, thì giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì thì đừng đòi lại. Dạy những điều trên, Chúa không khuyến khích một lối sống nhu nhược, không làm ngơ trước bất công, nhưng Chúa muốn chúng ta không bao giờ dùng bạo lực để đáp lại bạo lực, không dùng thù oán đáp lại thù oán. Vì dùng bao lực đáp lại bạo lực, chỉ có thể gia tăng bạo lực. Cũng vậy, dùng thù oán đáp lại hận thù thì chỉ đào sâu và gia tăng sự thù oán mà thôi và nó là nguyên nhân đưa đến hủy diệt và giết chóc. Trái lại, khi dùng sự quảng đại và tha thứ để đối xử với nhau sẽ hóa giải được bạo lực và còn có thể chữa lành những tổn thương trong tâm hồn.
Lý do Chúa Giêsu đưa ra để giải thích cho những đòi hỏi của Ngài là: Vì chúng ta là môn đệ của Chúa và vì tất cả mọi người đều là con của Cha trên trời, là anh em với nhau. Vì thế, Chúa đòi chúng ta phải chủ động và tích cực đi bước trước trong việc tha thứ và trong cách cư xử quảng đại yêu thương với anh chị em chung quanh. Các nhà hiền triết trước đó như Khổng Tử chỉ yêu cầu: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”có nghĩa là: nếu mình không muốn điều gì, thì đừng làm cho người khác. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải chủ động hơn: “Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình, thì hãy làm cho người khác như vậy”.Chúa Giêsu cho thấy đòi hỏi của Ngài vượt trên tất cả cách cư xử thông thường và vượt trên lời dạy của các tôn giáo khác: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân nghĩa, vì người tội lỗi cũng yêu thương người yêu thương họ. Nếu anh em chỉ làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì dân ngoại cũng vẫn làm như thế”.Dạy điều này, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải dám sống khác với cách cư xử có qua có lạicủa người đời vì chúng ta là môn đệ của Chúa.
Lý do quan trọng hơn nữa, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết tại sao chúng ta phải cư xử tốt với nhau, quảng đại và tha thứ cho nhau, vì chúng ta là con Thiên Chúa: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là đấng nhân từ”.Thiên Chúa của chúng ta trước hết là một người Cha nhân từ hằng yêu thương ta và quảng đại tha thứ cho chúng ta. Vì thế, khi chúng ta cư xử với nhau bằng tình yêu và sự quảng đại, chúng ta không chỉ thể hiện lòng kính trọng Thiên Chúa là Cha, mà còn giúp chúng ta trở nên giống Thiên Chúa.
Mỗi người đều có kinh nghiệm về tình thương của Chúa, cảm nhận được Chúa yêu thương. Nhiều lần chúng ta sai lỗi, ngỗ nghịch chống lại Thiên Chúa, nhưng Chúa là Cha vẫn tha thứ cho chúng ta, Ngài không bao giờ kết án, nhưng chỉ biết yêu thương và tha thứ. Vì thế, chúng ta được mời gọi cư xử với nhau giống như Thiên Chúa đã đối xử với ta: “Đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên chúa xét đoán. Hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Hãy cho, thì Thiên Chúa sẽ cho lại gấp trăm và đầy tràn. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy”.
Thưa quý OBACE, sống trong một xã hội đầy sự thù oán và bạo lực, người tín hữu dễ bị cám dỗ sử dụng bạo lực để giải quyết vấn đề. Phim ảnh, sách báo ngày nay hầu như khuyến khích sự trả thù theo kiểu: “Quân tử trả thù mười năm cũng không muộn”nhiều hơn là những gương sống đẹp, sống cao thượng và tha thứ. Suy nghĩ này đang ảnh hưởng trên nhiều người chúng ta. Sống trong xã hội chộp giật, mánh khoé, gian dối, chúng ta cũng bị cám dỗ hành xử như vậy. Thực tế, nhiều người đã đánh mất sự bao dung trong cách sống, sử dụng bạo lực ngay trong gia đình, thiếu kiên nhẫn khi giải quyết các vấn đề, nhất là thiếu tình yêu thương, bác ái trong cách cư xử với những người mình không ưa, không thích. Trong tương quan xã hội, trên các trang mạng, nhiều người đã không dùng những lời lẽ thiện chí, mang tính xây dựng, những lời mang tính yêu thương của đạo để nói với nhau, trái lại họ dễ dàng sử dụng ngôn ngữ côn đồ, bạo lực để phê bình, ném đá nhau, gây tổn thương cho nhau. Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc chúng ta xét lại cách sống và cách cư xử của mình đối với những người chung quanh. Là những người thuộc về Chúa Kitô, chúng ta phải dám sống khác với dòng chảy, xu thế, cùng những lôi kéo tầm thường của xã hội ngày nay. Chúng ta được mời gọi sống, cư xử với nhau bằng tình yêu thương thực sự, không giả dối; nhìn nhau theo cái nhìn của Chúa vì chúng ta đều là con của Chúa. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi mỗi ngày phải nên giống Thiên Chúa là Đấng nhân từ và quảng đại với hết mọi người, dù là những người ta yêu ta thích, những người thích ta yêu ta và cả những người ta không yêu không thích, những người không thích ta, không yêu ta nữa. Đòi hỏi này tuy khó, nhưng chúng ta có thể thực hiện được với sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Xin cho chúng ta biết bắt đầu thực hiện những đòi hỏi của Chúa hôm nay từ trong gia đình, đến hàng xóm láng giềng và những người chúng ta gặp mỗi ngày. Amen.
Câu chuyện của Lời Chúa trong Chúa nhật VII Thường niên năm C xoay quanh cặp phạm trù yêu TN 7-C131
Câu chuyện của Lời Chúa trong Chúa nhật VII Thường niên năm C xoay quanh cặp phạm trù yêu thương và thù hận. Yêu thương thì ai cũng muốn và thù hận chẳng ai muốn vướng vào. Yêu đi với yêu, và thù đi với thù, đấy là lẽ thường ở đời. Đối với Chúa Giê-su, cái lẽ thường ấy ai mà chẳng làm được. Con đường của Giê-su mời gọi là “hãy yêu kẻ thù”. Lạ đấy và khó đấy, nhưng nó là con đường nên thánh, con đường tới Nước Trời mà Giê-su đã đi.
Tình yêu đơn phương
Ở đời, ai cũng muốn được sống trong yêu thương. Tôi yêu bạn và bạn yêu tôi. Tình yêu ấy hoàn hảo và đáng ước ao. Nhưng nhân gian chứng kiến bao cảnh đời éo le mang một tình yêu xuất phát từ một hướng và không được đáp lại. Nhiều cuộc tình tréo ngoe kiểu tôi yêu bạn nhưng bạn không yêu tôi. Còn người yêu tôi thì tôi lại không yêu họ.
Nếu đi tìm một nhân vật điển hình luôn đau khổ rằn vặt cả đời trong mối tình đơn phương, thì đó là Giê-su. Tâm hồn Giê-su buồn bã nhìn những người mà Ngài yêu mến quay mặt bỏ đi, nhìn họ bước vào con đường chết mà không khuyên can được. Ngài đã khóc vì họ chẳng nghe theo mình để được sống. Cái đau khổ tột cùng khi bị chính người mình yêu sỉ vả và xua đuổi, vung tay đóng đinh mình vào cây thập giá.
Lòng thù đơn hướng
Nếu tình yêu đối đáp là thứ hoàn hảo đáng ước ao, thì lòng thù qua lại luôn là điều bị lên án xưa nay. Nếu tình yêu đơn phương tha thiết không nhiều trong xã hội, thì lòng thù đơn hướng cũng hiếm hoi vậy. Người ta dễ dàng trả thù cho những người làm hại mình, ruồng bỏ những ai đối xử tệ với mình.
Tình yêu giúp tôi luôn có lòng tha thứ, sẵn sàng phục vụ vô vị lợi cho người tôi yêu; Lòng thù khiến tôi luôn tìm cách bắt lỗi, tìm cơ hội để làm hại người tôi thù ghét. Yêu thương hay thù hận sẽ thay đổi cách thế hành xử của tôi với tha nhân.
Vua Saole coi Đavit là kẻ thù nên nhà vua truy sát Đavit đến cùng. Vua nhìn những chiến công của Đavit chỉ là những mưu mô làm hại mình. Abisai, cận thần của Đavit coi vua Saole là kẻ thù nên muốn giết vua. Đứng trước cơ hội, Abisai chỉ tìm cách làm sao để hại nhà vua nhanh nhất. Nhưng với Đavit, ông nhìn nhận vua Saole là “người được Chúa xức dầu”, ông không coi vua Saole là kẻ thù nên ông không hạ sát nhà vua. Đavit tìm cách bảo vệ nhà vua, tìm cách thức tỉnh nhà vua cho dù vua Saole tìm cách giết hại ông.
Giê-su chẳng thù ghét ai nên Ngài chẳng tìm cách hại người, chẳng oán ghét hay sát phạt người nào. Giê-su yêu hết thảy mọi người, dù với nhiều người chỉ là mối tình đơn phương. Bởi thế Giê-su luôn tìm cách cứu người, giúp người, nâng đỡ con người cho dù họ chấp nhận hay không, cho dù họ phản bội hay hạ sát mình.
Herode thấy sự xuất hiện của Giê-su là mối hoạ cho ngai vàng của mình. Hêrode thù ghét Giê-su nên tìm hạ giết Giê-su. Người ta vẫn có thể tìm thấy đâu đó những người coi Giê-su là kẻ thù. Nhưng tất cả họ đều là những người mà Đức Giê-su yêu thương. Họ là những người mang trong mình lòng thù đơn hướng. Họ thù hận Giê-su nhưng Giê-su đâu có thù ghét họ. Ở nơi Đức Giê-su không có lòng hận thù nên chẳng người nào thù oán ngài mà bị Ngài đáp trả. Chẳng có ai trên cõi đời này là kẻ thù của Giê-su cả. Giê-su đã yêu cháy bỏng cả nhân loại, yêu từng con người, yêu cho đến cùng
Yêu đến cùng
Mệnh lệnh “hãy yêu kẻ thù” có vẻ là điều không tưởng, nhưng đối với Giê-su đó lại là điều tất yếu. “hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình” – Những mệnh lệnh ấy làm sao ta làm được khi ta mang trong mình lòng thù hận. “Ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại” – Làm sao ta có thể làm được những điều ấy khi lòng mình chẳng có tình yêu thương.
Yêu tha nhân đến cùng, yêu đến chết và sẵn sàng bị hao mòn, bị chết vì người mình yêu. Giê-su đã yêu con người như thế, và Ngài muốn con người cũng yêu nhau như thế. Giê-su khát khao biến đổi trái tim con người nên giống trái tim Ngài. Phúc cho ai trở nên ngoan nguỳ trước tình yêu của Giê-su.
Yêu thương tất cả và không thù hận ai là lời mời gọi bước tới trên con đường thiện hảo. “Hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” là lời mời gọi kèm theo bảo đảm cho những ai tiến bước. Thánh Phaolo đã biện giải trong bài đọc 2: nếu ta là người thuộc Adam, ta thuộc về đất mang trong mình thân phận mỏng manh và hậu quả của tội lỗi; thì khi ta theo Đức Ki-tô, ta thuộc về thiên giới mang trong mình ân sủng chứa chan và hưởng nhờ hiệu quả ơn Cứu Độ. Bước theo Đức Giê-su là bước đi trên đường trọn lành với sự bảo đảm của Ơn Chúa luôn ở cùng ta.
Lạy Chúa, xin kéo con về trong vòng tay ân ái của Ngài, cho con được gục đầu bên trái tim Ngài để con được cảm nếm tình yêu vĩnh cửu; xin uốn nắn trái tim con để con có thể yêu thương và mãi mãi yêu thương mà thôi.
Trong đời các cụ thường dạy “Lành với bụt chứ không ai lành với ma.” Ai tốt với ta thì ta cũng tốt TN 7-C132
Trong đời các cụ thường dạy “Lành với bụt chứ không ai lành với ma.” Ai tốt với ta thì ta cũng tốt với họ, còn ai chơi xấu ta thì ta cũng phải cho nó biết tay chứ! Trong phim ảnh, báo thù được coi như bổn phận thiêng liêng, để rồi khi thù đã trả xong thì khán giả mới thấy hả lòng hả dạ. Ấy thế mà Phúc Âm tuần này Chúa lại mời gọi chúng ta vượt qua biên giới bạn thù để yêu cả kẻ thù.
Yêu người dễ thương thì thấy hứng thú chứ yêu kẻ thù đáng ghét thì có lợi lộc gì đâu; Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình thì có sơ múi gì đâu. Thế nhưng chính khi làm như vậy thì sẽ bộc lộ ra tình yêu mà Chúa Giêsu công bố, đó là tình yêu quên mình đi chỉ nghĩ đến người khác.
Tự mình yêu thù không hề dễ. Chúng ta cần nhờ động lực thiêng liêng đó là tình yêu tha thứ của Chúa. Chúa chậm giận và giàu tình thương. Chính Chúa đã tha thứ muôn ngàn tội lỗi chúng ta. Một khi cảm nhận mình đã được Chúa tha thứ, thì ta sẽ dễ cảm thông và tha thứ, để có thể yêu kẻ thù.
Cùng với động lực là mục đích cao cả của chúng ta: khi yêu kẻ thù là lúc chúng ta mang trong mình trái tim tình không biên giới của Thiên Chúa là Đấng “nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” Khi yêu kẻ thù là lúc chúng ta có lòng nhân từ như Chúa là Đấng nhân từ.
Chắc chúng ta đều biết: Ngay giữa giây phút đau thương tột cùng vì bị kẻ thù đóng đinh vào thánh giá, Chúa Giêsu đã thốt lên: “Lạy Cha xin tha tội cho họ.” Đó là giây phút đẹp nhất đời Chúa Giêsu, giây phút làm cho điều không tưởng trở thành hiện thực, làm cho lí thuyết trở thành sự sống. Chúa Giêsu đã thực sự yêu kẻ thù. Ôi, tình không biên giới! Amen.
Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su giảng dạy về bốn mối phúc, một trong TN 7-C133
Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su giảng dạy về bốn mối phúc, một trong mối phúc là người nghèo khổ, và bốn điều bị chúc dữ, mất hạnh phúc, những người giàu có, no nê, thoáng nhìn xem ra rất lạ lùng. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy chúng ta về một giáo lý mới xem ra cũng làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu, đó là sự tha thứ, và yêu thương, cầu nguyện cho cả kẻ thù. Chúa dạy: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc, cầu nguyện cho những làm hại, vu khống mình. Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy.”
Một điều phải xác định rõ ở đây là: kẻ thù là những người thù ghét, vu khống gian dối và làm hại chúng ta, chứ không phải là những người chúng ta thù ghét họ, vì các môn đệ và Ki-tô hữu của Chúa không được thù ghét ai. Thế thì đối với kẻ thù, người làm hại chúng ta, phải đối xử với những người ấy như thế nào?
Thứ nhất, theo thường tình ở đời, đối với những người thù ghét chúng ta, thì theo bản tính tự nhiên của con người là trả thù. Ai cũng có khuynh hướng và hầu hết đều cư xử như thế, lý do là vì bản năng sinh tồn đòi hỏi hay vì sự tự ái thúc đẩy. Nếu không trả thù thì sẽ chịu thiệt thòi, tổn thương hay còn bị cho là tiếp tay với kẻ dữ, kẻ ác, hay bị cho là hèn nhát hay không công bằng. Vì: mắt thì phải đền bằng mắt, răng thì phải đền bằng rang thì mới công bằng, sòng phẳng. Thế nhưng trên thực tế sự trả thù nhiều khi còn đi xa hơn: mắt không chỉ đền bằng mắt, mà còn đền bằng tính mạng, cho nên chúng ta thường nghe nói: “Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại.” Có những người còn cầu những sự dữ và thật dữ xảy đến cho người làm hại mình.
Một linh mục đã kể lại câu truyện như sau. Một lần, sau khi đã giảng bài Tin mừng hôm nay cho một nhóm trẻ, và nhấn mạnh đến những lời giảng dạy của Chúa, và muốn các em thực tập sống Lời Chúa như thế nào, linh mục liền bảo em gái 8 tuổi đến thử tát người anh 10 tuổi đang ở nhóm khác xem coi anh mình phản ứng thế nào. Người em liền đi đến nhóm của người anh và lấy hết sức tát người anh một cái như trời giáng. Người anh quay lại và túm lấy em đánh túi bụi ngay khi đang tham dự Thánh lễ trước sự chứng kiến của cha mẹ và nhiều người. Cha mẹ phải đến can hai anh em. Vị linh mục không ngờ người em lại tát anh mình một cái tát mạnh như thế, có lẽ là tích tụ của bao năm bị anh bắt nạt! Sau đó, linh mục hỏi người anh: “Tại sao cha mới dạy em về cách hành xử theo lời Chúa Kitô dạy là hễ ai tát má này, hãy đưa má khác cho người ta, mà con đã không đưa má khác thì chớ lại còn đánh em túi bụi?” Người anh trả lời: “Tại vì nó tát con đau quá! Nếu nó chỉ tát nhẹ thôi, con sẽ đưa má khác cho nó!”
Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy tha thứ, yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho người thù ghét, làm hại mình. Ai cũng biết lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có tình thương tha thứ mới dập tắt, làm tiêu tan được hận thù mà thôi. Tuy nhiên vì tự ái và vì muốn đòi sự công bằng, người ta luôn theo đuổi sự trả thù.
Thái độ thứ hai phản ứng lại với kẻ thù là tha thứ. Khi bị người khác làm hại mà không trả thù thì đã là cao thượng, anh hùng và bác ái lắm rồi. Bài đọc 1 cho chúng ta thấy Đa-vít bị vua Sao-lê truy nã để giết, nay có cơ hội để trả thù, thế mà Đa-vít đã không dám giết vua Sao-lê vì sợ Chúa, chỉ để cây gươm và bình nước bên cạnh Sao-lê mà thôi. Hành động của Đa-vít được dân chúng ca ngợi là độ lượng, quảng đại. Có lẽ Đa-vít đã phải chiến đấu một cách mãnh liệt với bản năng muốn trả thù của mình thì mới có hành động tha thứ như thế. Tuy nhiên, với những người tin theo Chúa là tất cả chúng ta đây, Chúa muốn và đòi hỏi chúng ta phải vươn cao hơn nữa, đó là không những không trả thù mà còn yêu thương, cầu nguyện, làm ơn, làm những điều tốt lành cho những người làm hại chúng ta. Chúa Giê-su đã nêu ra cho chúng ta một tấm gương của Thiên Chúa để chúng ta noi theo, và Người nói cho chúng ta biết: “Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như người dữ, cho mưa trên người công chính cũng như kể bất lương.” (Mt. 5, 45) Khi Chúa Giê-su bị treo trên thập giá và trước khi hấp hối, Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã đánh đập và giết Người. Và qua cuộc khổ nạn và cái chết đau thương trên Thánh giá, Chúa đã tuôn đổ tình yêu tha thứ và ơn cứu độ xuống trên tất cả mọi người.
Chúng ta biết chắc chắn là việc tha thứ, yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho người làm hại mình là một điều thật khó nếu không có ơn Chúa giúp. Chúng ta cũng phải luôn xác tín rằng Chúa không bao giờ dạy chúng ta làm một điều gì mà Chúa biết rõ chúng ta không có khả năng làm được. Thật ra, tha thứ, yêu thương, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ làm hại mình không phải là một thái độ có sẵn trong con người, nhưng là ơn sủng bắt nguồn từ Thiên Chúa. Khi chúng ta đối xử bằng tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa, thì Cha trên trời sẽ càng rộng lượng hơn đối với chúng ta: “Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy.” Khi chúng ta tha thứ, yêu thương và làm ơn thì chúng ta sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa hơn như lời Chúa kêu gọi: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ.”
Bài giáo lý về tha thứ và làm ơn cho người làm hại mình của Chúa dạy trong bài Tin mừng hôm nay không phải dành cho những người muốn trở thành anh hùng hay siêu nhân, hay những người muốn nổi danh, mà dành cho những ai muốn làm con Thiên Chúa, và muốn được hưởng bình an và hạnh phúc đời này và đời sau Nước Trời.
Nói đến lòng nhân từ là người ta nói đến điều quý giá nhất, giá trị cốt lõi bên trong con người. “Nhân TN 7-C134
Nói đến lòng nhân từ là người ta nói đến điều quý giá nhất, giá trị cốt lõi bên trong con người. “Nhân” chính là cảnh giới cao thượng của con người trên đời, là đạo lý làm người mà bất kỳ ai cũng phải tu dưỡng. Lòng nhân từ được người đời coi trọng từ trước tới nay.
Nhân từ như Chúa Cha
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: “Hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” (Lc 6,36). Lời mời gọi ấy hướng chúng ta về với Thiên Chúa là Cha nhân từ.
Nhìn vào lịch sử cứu độ, chúng ta khám phá ra rằng toàn bộ mạc khải của Thiên Chúa là một lịch sử tình yêu đối với con người. Thiên Chúa yêu thương hết mọi người trừ một ai “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Lòng nhân từ của Thiên Chúa tỏ hiện cho dân Israel, và trải rộng ra tất cả những gì bàn tay Chúa tác tạo: “Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên” (Tv 145,9).
Chúa Giêsu, lòng nhân từ của Chúa Cha
Chúa Giêsu chính là hiện thân của Chúa Cha nhân từ, là quà tặng Thiên Chúa Cha ban cho con người. Chúng ta được mời gọi noi gương Chúa Cha và Chúa Giêsu là Con của Người sống nhân từ. Nhân từ thì không xét đoán, là cho đi, là thứ tha và không lên án. Chúng ta hãy ghi nhớ những lời của Chúa Giêsu khi Ngài bị đóng đinh vào thập giá, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đây chính là lòng nhân từ của Chúa Cha được thể hiện trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Chúng ta “Hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136,1)
Hãy ở nhân từ
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta "hãy ở nhân từ như Cha” (Lc 6,36) cho chúng ta thấy rằng, lòng nhân từ chính là nền tảng cho đời sống của người Kitô hữu. Chúng ta cần phải thể hiện lòng nhân từ như Chúa Cha. Vì nơi lòng nhân từ của Chúa Cha, chúng ta tìm thấy bằng chứng về cách thức Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài trao ban toàn bộ chính Ngài cho chúng ta, mà không cần hồi đáp. Ngài đến giúp chúng ta bất cứ khi nào chúng ta cầu khẩn Ngài” (x. PHANXICÔ, Tông sắc về Năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa, số 13).
Thời Giáo Hội sơ khai, lòng nhân từ được nhấn mạnh qua việc tha thứ cho nhau (x.Cl 3,13), chia sẻ của cải (x.Cv 4,34-35), và bố thí hay cứu trợ người nghèo khó (x.Cv 9,36; 10,2.4.31), lòng hiếu khách (x.1 Tm 5,10), việc chôn tang người chết (x.Cv 8,2). Thánh Phêrô khuyên: “Anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc” (1 Pr 3,8-9). Còn thánh Phaolô thì khuyên giáo đoàn Rôma sống bác ái thật: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người...kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,9-21).
Tất cả những lời khuyên và hướng dẫn trong Lời Chúa làm nổi bật tầm quan trọng của thái độ cảm thông và lòng thương xót mà tín hữu của Chúa Ki-tô cần thấm nhuần và thực thi. Như thế, Giáo Hội của Chúa Ki-tô được xây dựng qua chính những cử chỉ tràn đầy tình thương xót này, mà mọi tín hữu cần ý thức và cố gắng sống qua nhiều hình thức khác nhau.
Giáo Phụ Hermas thành Rôma giữa thế kỷ thứ II trong tác phẩm Người Mục Tử (Le Pasteur) đã nêu ra một bảng hướng dẫn tín hữu thực thi những việc tốt, để qua đó họ sống cho Thiên Chúa: “Nâng đỡ các quả phụ, thăm viếng các trẻ mồi côi và những người bất hạnh, chuộc những kẻ nô lệ là đầy tớ của Thiên Chúa, sẵn sàng đón tiếp khách tìm chỗ trọ, không gây thù hận, bình tĩnh và tự hạ mình trước mọi người, kính trọng những người già cả, thi hành công lý, gìn giữ tình huynh đệ, tương trợ những người bị bách hại, kiên nhẫn, không tức giận, an ủi những tâm hồn bị tổn thương, không bỏ rơi những người bị khủng hoảng về Đức Tin mà giúp đỡ họ, đưa họ về lại con đường chính lộ, đón nhận người tội lỗi trở lại, không chèn ép những người thiếu nợ và những người nghèo khổ…”
Người Á Đông thời xưa xem “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá đạo đức của con người, cũng là năm đức để điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Trong năm đức ấy thì đức “Nhân” (lòng nhân từ, nhân ái) được xếp ở vị trí đứng đầu, đủ thấy tầm quan trọng vô cùng của nó.
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, xin giúp chúng con sống nhân từ như Chúa dạy. Amen.
“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em... Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ…Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Ngài vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” (Luca 6: 27-35).
Chúng ta có thể là một phần của đám đông đang tụ tập quanh Chúa Giêsu. Trình thuật Tin mừng TN 7-C135
Chúng ta có thể là một phần của đám đông đang tụ tập quanh Chúa Giêsu. Trình thuật Tin mừng Luca không nói cho chúng ta biết ai đã tập họp họ lại, nhưng có lẽ họ là những người hay tự suy xét bản thân mình. Họ đã có đủ thời gian để lắng nghe Chúa Giêsu. Là những người thất nghiệp, những người lao động thời vụ không ai tuyển dụng, ngư dân đánh cá trở về ... Khoảng thời gian không làm việc này cho phép họ xem xét lại bản thân. Chúng ta dễ bị ấn tượng bởi sự cảm thông dường như đã được thiết lập giữa Chúa Giêsu và họ. Ngài dường như có cái nhìn tốt lành về tất cả những con người vô danh này. Trong nhận xét của mình, Chúa Giêsu cho thấy rằng Ngài tin tưởng vào khả năng cảm thông của họ và Ngài thúc đẩy họ làm cho năng lực này nên tốt đẹp hơn. Không ai trong họ phản đối. Nhưng khả năng vị tha này chỉ có thể phát triển nếu họ gặp gỡ được Thiên Chúa, Đấng sẽ thổi Thần Khí của Ngài trên họ. Đây là cơ sở suy tưởng của Chúa Giêsu.
Cuộc gặp gỡ này phải diễn ra để người ta trở nên biết yêu thương mà không dè sẻn. Rồi thì, thậm chí tình yêu này có thể đạt đến mức độ dành luôn cho kẻ thù của họ và cho những người muốn làm hại họ. Thế rồi, họ sẽ có thể cho đi không chỉ những thứ họ dư thừa, mà cả những thứ họ cần đến mà không tính toán. Nếu họ được mời gọi để phục vụ, họ có thể phục vụ như thế mà không cần lo lắng gì đến thời gian hoặc những vấn đề của họ. Lúc đó, họ sẽ bắt đầu giống với người lữ khách mà Tin Mừng nói đến. Người lữ khách trên đường đi của mình gặp một người đàn ông bị thương không ai giúp đỡ. Người lữ khách ấy không chỉ dành thời gian giúp đỡ mà còn đưa kẻ bị nạn đến một quán trọ mà anh ta đã thanh toán hóa đơn trước: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết…Một người Samaria kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác" (Luca 10: 30-35).
Khi đánh động chúng ta bằng cách này, phải chăng Chúa Giêsu lại không đánh thức hạt giống siêu anh hùng đang tiềm ẩn trong chúng ta, bởi vì Ngài biết rằng ai cũng có trong mình khả năng yêu thương và lòng vị tha hơn hẳn những khả năng mà người ấy tin là mình có thể có? Chúa Giêsu mời mỗi thính giả của mình lưu ý thực tế rằng có những khả năng bên trong con người của họ luôn có thể làm tốt hơn và khi làm như vậy, họ sẽ tham gia vào đoàn ngũ những người con của Đấng Tối Cao.
Con cái của Đấng Tối Cao là những người để cho mình được Thần Khí của Thiên Chúa nắm bắt và để cho Ngài hướng dẫn hành động của họ. Đương nhiên họ tự đặt mình vào sự hợp nhất với Thiên Chúa và họ cảm nhận, như thể bằng trực giác, ý muốn của Thiên Chúa , vốn thúc đẩy họ hành động theo ý hướng Chúa Giêsu dạy họ.
Điều làm chúng ta vui mừng ở đây là cách nghĩ lạc quan về bản chất con người xuất phát từ những lời nói của Chúa Giêsu. Ngài cho thấy tư tưởng tốt lành của Thiên Chúa dành cho con người. Tư tưởng tốt lành đó dẫn chúng ta vượt qua cách đọc Sách thánh theo truyền thống bi quan về con người, vốn làm cho chúng ta quen thuộc với cách ám chỉ rằng sự sa ngã đã khiến con người không còn khả năng hướng đến việc mở rộng lòng mình cho người khác, mà chỉ tìm cách thỏa mãn nhu cầu cá nhân mình. Chúa Giêsu vẽ ra đây một bức chân dung khác của con người trong tình trạng tự nhiên vốn có của nó. Chúa Giêsu cho thấy nơi con người có khả năng thể hiện lòng vị tha, đến nỗi con người có những năng lực kéo dài sự sáng tạo của Thiên Chúa. Thật vậy, làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được rằng Thiên Chúa có thể yêu thương loài người nếu loài người không có khả năng yêu thương?
Nhưng bài diễn từ này của Chúa Giêsu cũng cho thấy những giới hạn của khả năng yêu thương đó. Vì khả năng yêu thương của con người tự một mình nó không đủ giúp cho con người tự mình hoàn thành số phận của họ. Thần Khí của Thiên Chúa phải thổi trên họ và họ phải chấp nhận để cho Ngài nâng đỡ. Rồi thì họ mới có thể làm những điều đẹp lòng Thiên Chúa, sẽ hỗ trợ thế giới và điều đó sẽ ảnh hưởng đến sự tiến triển của thế giới hướng tới một tương lai hạnh phúc. Những khả năng để đạt được điều này là ở bên trong con người, nhưng chúng chỉ có thể hoạt động nếu con người chấp nhận để cho Thiên Chúa sắp đặt những khả năng đó sao cho chúng có thể hoạt động được.
Tuy nhiên, chúng ta đừng để cho mình bị xâm chiến bởi một sự hưng phấn không mấy giá trị cho mình. Chúng ta phải sửa lại những điều vừa nói mà sứ đồ Phaolô đã thực hiện trong thư gửi tín hữu Rôma. Ngài lưu ý rằng dù có tác động của Thánh Thần Thiên Chúa nơi chúng ta, vẫn có những lực lượng phản kháng dẫn chúng ta đi theo những hướng trái với ý muốn của chúng ta. Chúng ta hoàn toàn nhận thức được những gì chúng ta nên làm, nhưng đồng thời chúng ta cũng có mong muốn làm điều ngược lại. Mặc dù chúng ta biết điều gì không làm hài lòng Thiên Chúa, nhưng giống như có một dục vọng xấu xa nào đó, chúng ta lại làm điều không hài lòng Thiên Chúa: “Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rôma 7:15). Chúng ta nhận thức rõ rằng thực trạng rối loạn chức năng này ngăn cách chúng ta với Thiên Chúa.
Phaolô đưa tay chỉ về hướng thủ phạm, đó là tội lỗi. Tội lỗi là người bạn đồng hành không bao giờ buông tha chúng ta. Nó chiếm trong chúng ta chỗ mà Thiên Chúa yêu cầu. Nó cố giữ trong chúng ta thứ men ích kỷ và tạo ra trong chúng ta những rạn vỡ nội tâm cản trở ảnh hưởng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Để khắc phục điều này, chỉ có sự hiện diện canh chừng của Thiên Chúa được duy trì bằng lời cầu nguyện mới là sự hiện diện duy nhất có khả năng làm chủ tình huống này.
Trên thực tế, chúng ta liên tục bị sự cám dỗ này cư ngụ trong chúng ta, là thứ gây đối kháng giữa những gì chúng ta muốn và những gì chúng ta làm để một phần nào đó trong con người của chúng ta từ chối những gì chúng ta muốn thực hiện. Đối lập với sự căng thẳng nội tâm này, sự hiện diện liên tục của Thiên Chúa được duy trì qua lời cầu nguyện của chúng ta mang lại sự hòa hợp cần thiết mà tâm hồn chúng ta cần. Đây là điểm trung tâm trong lời giảng của Chúa Giêsu. Mong muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa của chúng ta, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần bên trong chúng ta, được cân bằng với ước muốn cố làm vừa lòng chính mình để những động lực mâu thuẫn không còn tồn tại nữa.
Bạn đã hiểu rõ rằng khi nói về ước muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể nói thêm ước muốn được chia sẻ niềm vui, và trên hết là chia sẻ tình yêu của Ngài, bởi vì tình yêu nơi con người chúng ta chỉ tìm thấy sự trọn hảo trong tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu của con người, một khi được Thánh Thần viếng thăm, sẽ trở thành yếu tố, nhờ đó mà tất cả những ước muốn của chúng ta được vượt thắng để kết hợp với những mong muốn của Thiên Chúa.
Khi tình yêu của chúng ta được sống trong ánh nhìn của Thiên Chúa, thì cuộc sống của chúng ta được hòa hợp với chính Thiên Chúa một cách kỳ diệu. Những căng thẳng nội tâm của chúng ta tan biến đến mức chúng ta không còn là những sinh vật bị chia rẽ trong chính mình nữa mà được kết hợp hài hòa với mong muốn của Thiên Chúa. Rồi thì những điều kiện thuận lợi sẽ được đáp ứng để khả năng vượt qua chính mình, mà chúng ta đã có ý nói trước đó, cuối cùng có thể được thực hiện và chúng ta thăng hoa bản thân bằng cách thực hiện những hành động mang lại sự khởi sắc khác cho cách nhìn của chúng ta về trần thế này.
Tất nhiên, sự hoàn hảo như vậy không bao giờ hoàn toàn được thực hiện và những thăng trầm của cuộc sống hàng ngày luôn tạo áp lực lên chúng ta. Jacques Brel đã nói: “Con quái vật hẳn vui mừng. Chỉ có lời cầu nguyện mới cho phép chúng ta giữ gìn được mối quan hệ cần thiết với Thiên Chúa. Vì vậy, lời cầu nguyện của chúng ta bao gồm việc cầu xin Chúa làm cho những tiếng nói bất hòa này trong chúng ta phải câm miệng để cho chúng ta sống chỉ cho một mình Chúa, là Đấng hướng dẫn các dự tính của chúng ta trong khu vườn thân tình nhiệm mầu của chúng ta. Khi đó, mọi điều chúng ta đảm nhận sẽ trở thành điều mang hy vọng và tạo ra tất cả những biến cố mới mẻ mà Thiên Chúa cần đến để thế giới này phát triển theo hướng Ngài mong muốn. mục lục
Phêrô Phạm Văn Trung phỏng dịch từ jbesset.blogspot.com
Kinh Thánh cho biết: “Con người do Thiên Chúa làm nên, vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ TN 7-C136
Kinh Thánh cho biết: “Con người do Thiên Chúa làm nên, vốn đơn sơ ngay thẳng, nhưng chính họ lại đi tìm đủ chuyện rắc rối quanh co.” (Gv 7:29) Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài không làm ra cái gì xấu xa. Chỉ vì kiêu ngạo mà phạm tội, con người thoái hóa, biến chất, không còn “tính bổn thiện” nguyên thủy được Thiên Chúa “cài đặt” lúc đầu nữa. Con người tự biến thiện căn thành ác căn, hóa thành bản chất vốn dĩ xấu xa. (Mt 7:11; Lc 11:13)
Một trải nghiệm các lĩnh vực khiến người ta “chảnh” là tài năng – dù chỉ là tài vặt. Thật vậy, thi hào Nguyễn Du đã xác định và so sánh: “Thiện căn ở tại lòng ta – Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.” Tâm không cần Tài, nhưng Tài luôn cần Tâm, nếu không thì Tài sẽ hóa Tai (tai ương, tai họa). Kiêu ngạo là đầu mối mọi thứ tội lỗi, là “chìa khóa vạn năng” mở những cửa tối tăm đáng sợ nhất.
Xét về chữ Tâm, chúng ta thấy có nhiều nghĩa – đen và bóng: tâm tạng (trái tim), tâm thất (ngăn dưới trong trái tim), tâm phúc (bụng dạ, lòng, ruột), tâm cảm (cõi lòng, tình cảm), tâm phục (kính trọng và vâng theo), tâm ý (lòng dạ và đầu óc), đồng tâm nhất trí (cùng một lòng, một ý), viên tâm (điểm giữa vòng tròn, trọng tâm, trung tâm), tâm tưởng, tâm tư, tâm niệm, tâm nguyện, tâm thức, tâm tính, tâm tình, tâm địa, tâm ý, tâm lý, tâm trí, tâm thần, tâm trạng, lương tâm, tâm hồn, tâm linh,...
Đầu Kinh Pháp Cú của Phật giáo đề cập ngay chữ Tâm: “Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả.” Chữ Tâm liên quan việc sửa mình (tu thân). Cổ nhân có câu: “Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị. Thử vị tu thân tại chính kỳ tâm.” Có nghĩa là “nếu tâm trí không để vào đó thì dẫu nhìn mà chẳng thấy, để tai mà chẳng nghe, ăn mà chẳng biết mùi vị. Như vậy nên gọi là sửa mình cốt ở chỗ làm cho tâm hồn mình ngay thẳng. Cái Tâm rất quan trọng, người nóng giận dễ sinh bệnh và tổn thọ, người hiền hòa sẽ than thản, bình an.
Tâm lý và thể lý có ảnh hưởng lẫn nhau. Trình thuật 1 Sm 26:2, 7-9, 12-13, 22-23 cho biết: Vua Saun lên đường và xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Israel, để tìm bắt ông Đavít trong sa mạc Díp. Đang đêm, ông Đavít và ông Avisai đến chỗ quân binh. Vua Saun đang nằm ngủ trong trại binh, cây giáo của vua cắm xuống đất, ở phía đầu vua, còn ông Ápne và quân binh thì nằm chung quanh.
Lúc đó, ông Avisai nói với ông Đavít: “Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu không cần đâm nhát thứ hai.” Nhưng ông Đavít nói với ông Avisai: “Đừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô sự đâu?” Dù sống thời Cựu Ước, với luật “răng đền răng, mắt đền mắt,” nhưng ông Đavít vẫn nhân từ và tha thứ. Những người có tâm luôn dễ tha thứ cho người khác.
Dễ dàng thương người phe mình, nhưng rất khó thương người khác phe – hầu như là không thể. Trong chiến tranh rất rõ: Quân đội chính nghĩa vẫn giúp quân địch khi họ bị thương, nhưng phe bất chính thì không làm như vậy. Điều đó thấy rõ trong chiến tranh Việt Nam trước đây.
Chính ông Đavít đã lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Saun, rồi cả hai người ra đi. Không ai thấy, không ai hay, không ai thức dậy. Họ đều ngủ cả, vì Đức Chúa đã cho một giấc ngủ mê ập xuống trên họ. Ông Đavít đi sang phía bên kia và đứng trên đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng cách lớn giữa họ. Ông Đavít nói: “Cây giáo của đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. Xin Đức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành của họ: hôm nay Đức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra tay hại đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong.” (1 Sm 26:22-23) Ông Đavít đã giữ được thiện căn ngay khi bất trắc.
Triết lý sống của Martin Luther King (1929-1968) rất tuyệt vời: “Yêu thương là điều duy nhất có thể biến đổi kẻ thù thành bạn hữu.” Điều đó rất phù hợp với giáo huấn mà Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Hãy yêu thương nhau.” (Ga 13:34; Ga 15:12 và 17) Đó là dấu hiệu cho thấy ai thực sự là môn đệ của Ngài. (Ga 13:35) Thánh Gioan nói: “Chúng ta PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và PHẢI yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta.” (1 Ga 3:23) Hai cái “phải” đó là mệnh lệnh, nghĩa là không thể không thi hành. Thập Giá có hai nhánh, một nhánh vươn tới Thiên Chúa và một nhánh vươn tới tha nhân – dù họ là bạn hay thù.
Thi hành mệnh lệnh yêu thương không là miễn cưỡng, mà là nhận thức và ý thức, rồi tự nguyện làm. Với tâm tình yêu mến, Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà.” (Tv 103:1-4) Lời tự nhủ đó là tâm nguyện, và cũng là cách thuyết phục lẫn nhau.
Tín nhân chúng ta biết chắc rằng Thiên Chúa “từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ hoài, không oán hờn mãi, không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm.” (Tv 103:8-10) Đó là kinh nghiệm tâm linh tuyệt vời. Quả thật, Thiên Chúa nhân từ đến nỗi có lúc chúng ta cảm thấy phân vân, nhưng Ngài thực sự là vậy, vì đó là bản chất của Ngài, như Thánh Gioan xác định: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Đặc biệt là chính Ngài xác nhận: “Ta vốn nhân từ.” (Xh 22:26)
Mãi mãi chẳng ai có thể nên thánh hoặc được vào Thiên Đàng nếu Thiên Chúa chấp tội phàm nhân. Thế nhưng chúng ta thật diễm phúc, vì mọi thứ tội và tội của thế gian này cũng không thể sánh với tình Ngài: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.” (Tv 103:12-13) Thế đấy, tội gì cũng được tha – dù là khinh tội hoặc trọng tội, nhưng chỉ có một tội không được tha: tội phạm tới Chúa Thánh Thần. (Mt 12:31; Mc 3:29; Lc 12:10) Ai hữu tâm thì được tha, vô tâm thì rán chịu vậy thôi!
Thiện căn có thể bị chúng ta làm lệch lạc, nhưng quan trọng là biết chấn chỉnh. Nhiều người đã làm mất thiện căn, thậm chí là sống trác táng, nhưng rồi họ quyết tâm sửa mình và đã nên thánh. Đừng bao giờ mất niềm tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa và đừng tuyệt vọng về chính mình!
Thánh Phaolô cho biết: “Như có lời đã chép: con người đầu tiên là Ađam được dựng nên thành một sinh vật, còn Ađam cuối cùng là thần khí ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ xuất hiện sau đó.” (1 Cr 15:45-46) Hai con người với hai dạng “sức sống” hoàn toàn khác nhau. Ađam đầu tiên là nhân loại, Ađam cuối cùng là Thánh Tử Giêsu Kitô – Ngôi Hai Thiên Chúa.
Để giải thích rõ ràng hơn, Thánh Phaolô nói: “Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất; còn người thứ hai thì từ trời mà đến. Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến. Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến.” (1 Cr 15:47-49) Chúng ta là phàm nhân, mang thân phận bụi tro, nhưng được hình thành một cách lạ lùng, khiến Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!” (Tv 139:14) Cát bụi hóa thành ngọc bích, tội nhân trở nên thánh nhân. Quá đỗi kỳ diệu, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.
Có hai vấn đề được đề cập trong trình thuật Lc 6:27-38 (≈ Mt 5:38-48; 7:1-2), và đó cũng là hai mệnh lệnh: sống yêu thương và nhân từ với bất kỳ ai – kể cả kẻ thù. Yêu thương và nhân từ không thể tách rời nhau, có cái này thì cũng có cái kia, không có cái này thì cũng chẳng có cái kia. Vả lại, đó là mệnh lệnh của Đức Giêsu Kitô: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại.” Nghe chừng đơn giản lắm, nhưng rất nhiêu khê khi thực hành.
Đạo Chúa mệnh danh là Đạo Yêu Thương. Lòng yêu thương là thước đo lòng mến Chúa, và là món nợ mà mọi người phải thanh toán cho đến đồng xu cuối cùng. Chính Chúa Giêsu đã nói chi tiết: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5:23-24) Thánh Gioan lý giải: “Nếu ai nói ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” (1 Ga 4:20) Chí lý vô cùng!
Đây là khuôn vàng thước ngọc của Chúa Giêsu: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.” Điều đó rất cụ thể đời thường, không hề viển vông. Người đời cũng nhận định: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” – Mình không muốn điều gì thì đừng làm cho người khác.
Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn NHÂN HẬU với cả PHƯỜNG VÔ ÂN và QUÂN ĐỘC ÁC.” Lúa và cỏ vẫn sống chung một nguồn nước và cùng hấp thụ dưỡng chất như nhau. Nắng mưa cho mọi người – dù tốt hay xấu, biết điều hay ngang ngược, chứ chẳng cho riêng ai.
Thiên Chúa tuyệt đối nhân lành nhưng cũng công bình, và thời gian cũng có giới hạn. Chúa Giêsu đưa ra một loạt mệnh lệnh – mệnh lệnh xác định và phủ định: “Anh em HÃY có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em ĐỪNG xét đoán thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em ĐỪNG lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em HÃY tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em HÃY cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” Thiên Chúa không bắt ai phải chịu thiệt đâu.
Có mọi thứ mà không có đức ái thì cũng hoàn toàn vô ích! (x. 1 Cr 13:1-3) Ca dao Việt Nam so sánh rất cụ thể: “Dẫu xây chín bậc phù đồ – Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người.” Phù đồ là gì mà so sánh như vậy? Phù đồ là cái Tháp, Tháp-Bà (tiếng Hoa, chữ âm kép, chứ không có nghĩa là tháp thờ bà chúa), tiếng Phạn là Stupa – nghĩa đen là “búi tóc,” hoặc tiếng Lào là Thạt – gốc tiếng Phạn là Dhatu. Theo truyền thống Phật giáo, phù đồ là ngôi mộ chôn giữ một phần xá lợi (di thể của Phật), cũng được gọi là Tháp Phật, Bảo Tháp, Đại Bảo Tháp.
Thiện căn là cái mà người ta gọi là “đạo làm người” – loại “đạo” không phân biệt bất kỳ tôn giáo nào, kể cả những người vô thần, bởi vì là con người thì ai cũng phải có loại “đạo” đó. Là con người phải biết yêu thương, không yêu thương thì không xứng danh là con người.
Thánh Faustina Maria Kowalska cho biết: “Tình yêu cao cả có thể biến đổi những điều nhỏ thành những điều to, và chỉ có tình yêu đó mới làm cho hành động của chúng ta có giá trị.” Thánh Gioan Maria Vianney xác định: “Bạn phải chấp nhận thập giá của mình, nếu bạn can đảm vác nó thì nó sẽ đưa bạn tới Thiên Đàng.” Muốn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời mà Thiên Chúa hứa ban thì phải hàn thiện, muốn hàn thiện thì phải giữ được Thiện Căn.
Lạy Thiên Chúa chí thiện, xin hoán cải chúng con theo lộ trình nhân từ của Ngài đề chúng con đủ hoàn thiện như Ngài muốn. Xin thêm sức mạnh của Ngài để chúng con chịu đựng lẫn nhau và đền tội mình ngay trên thế gian này, để cứu các linh hồn và cầu nguyện cho nhau. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ (còn được gọi là Chiến tranh giành độc lập Mỹ, 1775-1783) TN 7-C137
Trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ (còn được gọi là Chiến tranh giành độc lập Mỹ, 1775-1783), tại Pensylvania có mục sư Peter Miller rất được cộng đoàn ái mộ. Nhưng trong khu xóm gần nhà thờ có một kẻ rất oán ghét và nhiều lần nhục mạ mục sư. Vì phạm tội phản quốc, anh ta bị tòa án Philadelphia kết án tử hình. Nghe tin ấy, mục sư Miller vội vàng đi bộ tìm đại tướng George Washington xin ân xá cho tên tử tội. Đại tướng trả lời: “Tôi rất tiếc không thể thỏa đáp thỉnh nguyện của mục sư mà tha bổng cho người bạn thân của mục sư” - “Đại tướng bảo là bạn thân của tôi ư? Phải nói anh ta là kẻ thù đê tiện nhất của tôi trên đời này!” - “Mục sư nói sao? Mục sư phải lội bộ cả 60 dặm để xin ân xá cho một kẻ thù à? Thế thì là một chuyện khác. Tôi vì mục sư ân xá cho phạm nhân”. Cầm giấy ân xá của tướng Washington ký, mục sư Miller tức tốc cuốc bộ 15 dặm để đến pháp trường. Thoạt trông thấy ông đằng xa, tên tử tội nói: “Kìa, tên Peter đã lội bộ từ Ephrata đến đây đặng trả thù ta bằng cách khoái chí chứng kiến cảnh ta bị treo cổ!” Anh ta vừa dứt lời, thì mục sư cũng vừa vạch được đám đông tới nơi, trao tận tay anh ta tờ ân xá của đại tướng Washington.
1. Thái độ nội tâm
Khỏi nói, ta cũng thấy mục sư Miller đã thực hiện cách tuyệt diệu những lời Đức Giê-su dạy chúng ta hôm nay, những lời nói lên tất cả mới mẻ của Tin Mừng mà Người mang đến cho những ai chấp thuận nghe Người giảng. Nét đặc trưng luân ý Ki-tô giáo không phải chỉ là yêu thương, vì mọi nền luân lý nhân loại đều đòi hỏi điều đó… nhưng là yêu thương “kẻ thù”. Đây là một tình yêu phổ quát, chẳng loại trừ ai cả.
Từ “kẻ thù” được Đức Giê-su sử dụng là một từ mạnh mẽ, nên có nguy cơ bị hiểu sai. “Tôi đâu có kẻ thù”, ta thường nghe nói thế. Thế nhưng Đức Giê-su đã cẩn thận cho nhiều ví dụ: kẻ thù là những kẻ ghen ghét tôi… những kẻ nói xấu tôi… những kẻ vu khống tôi… Và để nắm bắt tất cả tầm mức của nền luân lý Tin Mừng này, ta cần hiện tại hóa từ “kẻ thù” ấy.
Trên bình diện cá nhân: Đức Giê-su đòi hỏi tôi yêu mến những kẻ chỉ trích, gây khó chịu, không đồng ý với tôi… những kẻ tấn công tôi bằng mọi cách suy nghĩ, ăn mặc, cầu nguyện của họ v.v… Trên bình diện tập thể: Đức Giê-su cũng đòi hỏi môn đệ yêu thương kẻ thù của nhóm: những kẻ bắt bớ, chống đối họ; những kẻ suy nghĩ và hành động khác họ… Thế giới sẽ chứng kiến một cuộc cách mạng lớn biết bao, nếu mỗi Ki-tô hữu bắt đầu làm thật những gì Đức Giê-su đã dạy làm! Trước khi đi xa hơn trong bài suy niệm, tôi hãy dừng lại một chút để đặt những danh tính và khuôn mặt đối nghịch tôi trên trang Tin Mừng này, để mong ước sự lành và cầu nguyện thực cho họ…
2- Hành vi bên ngoài
Sau các thái độ “nội tâm”, luôn luôn đi trước trong viễn tượng của Đức Giê-su, là các hành vi “bên ngoài”, hậu quả tất yếu của các thái độ ấy: “Ai vả anh má bên này thì hãy giơ cả má bên kia nữa…”. Lòng yêu mến kẻ thù phải đi đến những hành vi tích cực đối với họ. Nhưng hãy ghi nhận rằng ở đây Đức Giê-su không tìm cách ban bố một tân pháp chế, xoay quanh bốn điểm: “vả”, “đoạt”, “xin”, “lấy”… Thật ra, đây chỉ là những ví dụ nhằm minh họa một cách thức hành động hoàn toàn mới mẻ. Các ví dụ này cố ý tạo cho ngược đời để dễ nhớ thôi. Quả là thiếu óc chú giải hoặc thiếu lương tri, khi giải thích sát chữ các kiểu nói Do-thái này, như thể phải thực sự chìa má trái cho ai vả má phải. Ví dụ được tay kể chuyện tài ba đây sử dụng cũng thuộc kiểu nghịch lý như chuyện móc mắt chặt tay mình (x. Mt 5,29-30). Trong thực tế, các hành động ấy e rằng hoàn toàn vô ích. Mắt bị móc chẳng hề bảo vệ ta khỏi sự vấp ngã khác. Cái tát thứ hai đâu ngăn chặn nổi cái tát thứ ba, và còn lâu mới dẫn kẻ ác đến những tình cảm tốt đẹp!!! Chính Đức Giê-su sẽ đưa ra lời giải thích tốt nhất cho câu tuyên phán của mình khi chẳng chìa má kia cho tên đầy tớ vả mặt mình trước mặt Thượng tế: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Tuy nhiên, nếu chúng ta phải tự tìm lấy những thái độ đáp trả các cuộc tấn công mà mình là đối tượng, thì chớ có làm dịu Tin Mừng. Trong thực tế, tuy đã chẳng “chìa má kia”, Đức Giê-su cũng vẫn đi xa lắm: Người đã để mình bị đánh đến chảy máu, đã trao phó toàn thân cho những kẻ hành hạ mình: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,5-6). Đức Giê-su đã chẳng yêu cầu gì ta mà lại không làm trước.
Nhưng không phải chỉ tiêu cực như thế. “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Đây là cái thiên hạ vẫn gọi là “luật vàng”, một trong những nguyên tắc cơ bản của mọi nền luân lý. Rabbi Hillel, đồng thời với Đức Giê-su, từng dạy: “Những gì bạn không thích, thì chớ làm cho người”. Các triết gia phái Khắc kỷ cũng bảo: “Điều bạn không muốn người ta làm cho mình, thì đừng làm cho người ta”. Nhưng ta nhận thấy riêng Đức Giê-su thì đã ban cho luật này một hình thức tích cực, mang tính cách vô biên. Phải làm tất cả sự thiện có thể cho tha nhân… thậm chí cho cả kẻ thù!
Vì “nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa?”. Là môn đệ Đức Giê-su, là Ki-tô hữu, chúng ta không tất nhiên tốt hơn những người khác… Tuy nhiên, Đức Giê-su rõ rệt yêu cầu chúng ta phải khác với họ. Khác như thế nào? Cái gì đặc trưng Ki-tô hữu? Đó là “yêu mến những kẻ chẳng mến yêu ta”. Tư tưởng sâu xa của Đức Giê-su, ấy là tình yêu chúng ta phải thoát ra khỏi mọi cộng đồng tự nhiên: gia đình, giới nhóm, quốc gia, chủng tộc. Ở giữa những kẻ giống nhau, tình liên đới là điều tự nhiên, bộc phát. Và phải dám nói rằng: tình liên đới tự nó chẳng phải là một sự thiện: ngay cả những “người tội lỗi”, độc ác, áp bức, ích kỷ… cũng có thể có những dây liên đới nhằm tìm kiếm lợi lộc và chống lại kẻ khác. Chẳng phải vì ích kỷ trở nên tập thể mà nó ít nguy hiểm hơn! Trong lúc đó, tình yêu Ki-tô giáo là một tình yêu không biên giới, vô hạn định.
3. Kết quả nhận được
“Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu cả với những phường vô ân và quân độc ác”. Các lời này nêu bật cho thấy nhân loại xét chung đều xa kế hoạch của Thiên Chúa… nên Thần khí của Người, Triều đại của Người, phải nắm bắt lại chúng ta từ bên trong biết bao để biến đổi chúng ta. Cho đến Đức Giê-su, nhân loại lấy bạo lực đáp trả bạo lực. Thậm chí trong Kinh Thánh Cựu Ước, người ta còn thực hiện thánh chiến để tiêu diệt kẻ thù, còn nhân danh tôn giáo để bóp cổ ai đối nghịch cùng Thiên Chúa nữa! (x. Đnl 7,1-6; 20,10-18; 25,19; Gs 6, 17). Cho đến Đức Giê-su, và thậm chí trong Cựu Ước, người ta đã từng cầu xin Thiên Chúa phạt kẻ thù (x. Tv 17,13; 28,4; 69,23-29 v.v…). Từ Đức Giê-su, chúng ta phải cầu xin Người gia ân cho họ.
Và lý tưởng được đề ra chẳng là gì ngoài chính Thiên Chúa… một lý tưởng phải không ngừng vươn tới, chẳng bao giờ đạt nổi, vì Người vô giới hạn. Và một phần thưởng lạ lùng: ai yêu mến kẻ thù sẽ được làm “con Đấng Tối cao”. Đây chính là danh hiệu đã ban cho Đức Giê-su trong lời truyền tin cho Đức Trinh Nữ! (x. Lc 1,32). Chức làm con Thiên Chúa được ban cho kẻ “xây dựng hòa bình” (Mt 5,9). Yêu kẻ thù là chuyện phi phàm, thần linh! Đó là điều mà Thiên Chúa, Đấng “tốt lành với kẻ vô ơn bạc ác” theo lời mạc khải của Đức Giê-su, vẫn không ngừng thực hiện.
Đức Giê-su còn nêu rõ: vị Thiên Chúa ấy “là Đấng nhân từ”. Ta sẽ chẳng bao giờ nói đi nói lại đủ về điều đó: Thiên Chúa không phán xét ai, không kết án ai, luôn tha thứ cho mọi kẻ tội lỗi. Và Người đòi hỏi ta bắt chước Người! Người còn đi đến chỗ bảo rằng “cuộc phán xét riêng” của ta có thể nói là nằm trong tay ta. Điều đó không có nghĩa Thiên Chúa chấp nhận sự dữ! Sẽ chẳng bao giờ có gì chung giữa Thiên Chúa với bất công, tra tấn, độc ác, hèn nhát, ích kỷ. Ai làm những điều đó sẽ chẳng hề có phần “với Người”. Nhưng không phải Thiên Chúa phán xét hay đoán phạt. Những kẻ khốn khổ ấy tự kết án và tự tiêu diệt chính mình khi khăng khăng từ chối lời mời gọi sống yêu thương của Thiên Chúa và từ chối ơn tha thứ của Người. Hỏa ngục chính là mặt trái của Thiên Chúa và đã chẳng do Người làm ra. Hỏa ngục là hậu quả sau cùng, là chọn lựa dứt khoát của một cuộc đời liên tục lựa chọn sống ích kỷ, sống cho mình và rốt cục từ chối đi vào Thiên đàng là nơi phải bỏ mình để có thể yêu thương. Vì Thiên Chúa chỉ là tình yêu, thương xót, nhân hậu. Phần bạn, bạn ở bên phía Thiên Chúa rồi chứ?
Tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình nói chung là một chuyện không dễ dàng. Tha thứ cho kẻ TN 7-C138
Tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình nói chung là một chuyện không dễ dàng. Tha thứ cho kẻ đã hãm hại mình, làm cho mình phải đau khổ và bị tán gia bại sản… thì lại càng khó khăn hơn gấp bội. Thế nhưng điều đó không có nghĩa là không thể thực hiện được, bởi vì có những người đã tuân theo, và thực hiện được lời giáo huấn của Chúa Giê-su: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6:27-28). Tôi nghĩ bạn cũng biết những người này rồi!
• Thánh Giáo hoàng Phaolô Đệ Nhị đã tha thứ cho kẻ ám sát ngài là Ali Agca, ngay khi còn nằm trên xe cứu thương đi đến bệnh viện cấp cứu, và sau này ngài còn đến tận xà lim để thăm hỏi và tha thứ cho anh ta.
• Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, người đã từng bị giam trong lao tù cộng sản tới 13 năm, đã tha thứ cho những cán bộ, những tên quản giáo, và tất cả những ai đã hãm hại, nhục mạ và gây đau khổ cho ngài.
• Nelson Mandela, đã bị hành hạ, bị ngược đãi trong tù suốt 27 năm trường. Khi được trả tự do, ông đã tha thứ cho những người đã hãm hại, và gây ra đau khổ cho ông và cho gia đình. Ngày đăng quang nhậm chức tổng thống Nam Phi, ông Nelson Mandela đã mời ba tên cai tù đến tham dự. Tất cả mọi người hiện diện trong buổi lễ và cả thế giới tĩnh lặng khi thấy ông đứng dậy cung kính chào ba người cai tù này.
Bạn thấy đấy, việc tha thứ và yêu thương kẻ thù là việc không dễ, nếu không muốn nói là khó lắm. Thế nhưng tha thứ là việc CÓ THỂ, vì đã TỪNG có những người đã từng tha thứ cho kẻ thù của họ. Thánh Augustine đã nói: “Ông nọ bà kia nên thánh được, sao tôi không?” Nếu Thánh Giáo Hoàng Phaolo Đệ Nhị, Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Tổng Thống Nelson Mandela … đã tha thứ được, thì bạn và tôi, với ơn Chúa giúp, chúng mình cũng sẽ có thể tha thứ được, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Lc 1:37).
Tóm lại, để có thể sống tha thứ, bạn và tôi hãy cố gắng:
Thứ nhất là phải cậy dựa vào ơn Chúa, bởi vì “Không có [Chúa, chúng ta] chẳng làm gì được” (Ga 15: 5). Những khi nhớ lại những hành động không hay, không đẹp của “kẻ thù,” những lúc sự tức giận và lòng hận thù dâng lên trong cõi lòng, xin hãy nhớ đến Chúa và cầu xin Ngài ban ơn giúp sức để chúng mình có thể tha thứ, bởi Ngài đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28).
Thứ hai là phải nhận ra những lợi ích phát sinh từ sự tha thứ, tôi xin đơn cử ra ba ích lợi như sau:
1. Khi tha thứ cho người khác, thì những áp lực tâm lý, những sự căng thẳng sẽ giảm thiểu rất nhiều, và như vậy tôi sẽ sống vui vẻ, ăn ngon ngủ yên, tôi sẽ trở thành một người dễ thương, trẻ trung…nhiều người sẽ yêu mến tôi và như vậy, cuộc sống của tôi sẽ thanh thản, an bình, hạnh phúc và có ý nghĩa hơn.
2. Khi tôi tha thứ cho tha nhân, thì lúc đó tôi đang tránh xa được những mưu thâm chước độc của ma quỷ, bởi vì thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô nói rằng khi tôi sống trong hận thù và giận dữ thì lúc đó ma quỷ sẽ thừa cơ lợi dụng. Nó sẽ làm cho tôi mất bình an, đau khổ, và xúi tôi làm những chuyện ác độc và tội lỗi (4:27). 3. Khi tôi tha thứ cho người khác, thì Thiên Chúa sẽ thứ tha cho những tội lỗi mà tôi đã trót phạm đến Chúa và đến tha nhân, bởi vì chính Ngài đã phán: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em” (Mt 6:14).
Bạn thân mến, nếu hôm nay, bạn nhận ra rằng, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, (1) THA THỨ LÀ VIỆC TA CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC, và (2) KHI THA THỨ cho người khác, bạn và tôi sẽ nhận được rất nhiều lợi ích cả về mặt thể lý lẫn tâm lý, và nhất là được Thiên Chúa thứ tha cho ta, thì chúng mình hãy cố gắng tha thứ và bỏ qua những lỗi lầm của chồng, của vợ, của cha của mẹ, của con cái, của họ hàng, của bạn bè, của các giám mục, của các linh mục và của các tu sĩ nam nữ… Đừng oán ghét, đừng hận thù, đừng ao ước sự dữ cho thù địch, và cũng đừng nuôi mộng báo thù. Thù hận chẳng được lợi gì cả, mà chỉ có hại thôi! Ráng sống tha thứ cho nhau bạn nhé!
Chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa ban ơn phù giúp để bạn và tôi có thể sống trong bình an, không thù oán, không ghét rơ những người đã xúc phạm đến chúng mình, nhưng sẵn sàng tha thứ và bỏ qua những lỗi lầm của tha nhân, bất kể họ là ai.
Ý chính của lễ Chúa Nhật hôm nay là yêu thương. Hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương TN 7-C139
Ý chính của lễ Chúa Nhật hôm nay là yêu thương. Hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Đây là điều răn mới mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta trong bữa tiệc ly (Ga 13:34). Bài đọc 1 (1 Sm 26:2, 7-9, 12-13, 22-25) cho thấy vua Đavít đã từ chối không giết kẻ thù (Lc 6:27-38). Chúa đã ra lệnh cho chúng ta làm như vậy, vì yêu kẻ thù là hành dộng phù hợp với hình ảnh Thiên Chúa và sống bác ái chính là hoa trái của sự hiệp nhất với kẻ thù như thấy trong bài đọc hai (1 Cr 15:45-49).
YÊU KẺ THÙ
Cứ lẽ bình thường khi kẻ thù lâm thế bí thì phải dồn cho nó chết luôn, nghĩa là khi có thế thì phải nắm lấy ngay. Nhưng ở đây, David đã hành sử khác. Ông không để bạn mình là Abishai giết Saulo là kẻ đang ngủ. Đavít đã nhìn vấn đề một cách đặc biệt khác người. “Không giơ tay giết kẻ vô tội đã được Chúa xức dầu” (1 Sm 26:9).
Thực vậy, yêu kẻ thù và kẻ đang truy nã mình thì chỉ do sự thôi thúc của Chúa mà Đavít có được là do ý thức về tôn giáo. Ngoài ra, Chúa còn nêu gương Chúa Cha nhân lành để chúng ta noi theo mà đối sử với anh em mình. “Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà không hy vọng được đền trả…” (Lc 6:35).
LUẬT NGƯỢC ĐỜI
Sống trong xã hội, cộng đoàn, quốc gia, ngay cả trong gia đình, chúng ta thường có luật lệ phải theo. Làm những điều ta phải làm và không được làm những điều cấm. Khi còn trẻ cứ la khóc ầm ĩ là có thể được điều mình muốn. Lớn lên thì phải biết “chia sẻ” với những người khác, anh chị em trong nhà và bạn bè.
Các bài đọc hôm nay đòi hỏi chúng ta làm điều ngược đời. Đavít đã không giết kẻ thù là Saulo khi có cơ hội chắc ăn. Tại sao? Chúa Giêsu đã đưa ra một điều lệ mới ngược đời là Yêu Kẻ Thù.
Đoạn Phúc Âm Luca hôm nay (x. Lc 6:20-26) có nói đến những Mối Phúc Chúa đã ban ra. Người yêu cầu chúng ta hành động ngược lại tính tự nhiên của mình. Thay vì ghét kẻ thù thì phải yêu kẻ thù. Áp dụng theo bài đọc 2 (1 Cr 15:48-49), nếu chúng ta hành động theo tính tự nhiên của con người thì chúng ta sống trong cát bụi tức Ađam cũ. Chúng ta bị kẹt trong tội lỗi. Ngược lại nếu hành động theo thần khí Chúa Kitô thì hợp với hình ảnh Chúa Giêsu, “hình ảnh của Thiên Đàng, tức Ađam mới.
Chúa để chúng ta tự do chọn lựa giữa Ađam cũ và Ađam mới. Theo Ađam cũ thì do ma quỉ thế gian lôi kéo. Theo Ađam mới thì nhờ Chúa, chúng ta sẽ làm được điều bất thường. Mối Phúc sẽ là thiên đàng.
LÒNG CHÚA CẢM THƯƠNG LOÀI NGƯỜI
Nếu mọi người “luôn luôn đi tìm kiếm điều tốt nhất” để làm thì quá lý tưởng. Đó là điều quan trọng, một thôi thúc cần thiết để sống đức ái và tha thứ. Khi Giáo hoàng Gioan Phaolô II -bây giờ đã là thánh- đi gặp tên tính ám sát ngài là Mehmet Ali Agra, với mục đích tha thứ cho hắn thì báo Time, ngay trên trang bìa, đặt câu hòi “Tại Sao Lại Tha Thứ?” Câu hỏi này khó có thể trả lời theo lý lẽ thường ở đời. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta vượt qua giới hạn con người để có cái nhìn ân phúc như Chúa đã làm. “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là đấng nhân từ” (Lc 6:36). Hãy cho đi thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người ta sẽ đong cho anh em đủ đấu đủ lượng tràn đầy, vì anh em đong cho người bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em như thế” (c.38).
SỨC MẠNH CỦA SỰ THA THỨ
Ở đời “đền ân báo oán” là chuyện bình thường. Nhưng “lấy ân báo oán” mới là chuyện lạ. Trong một xã hội hận thù, bạo động và cực đoan, chẳng ai lấy ân báo oán. Làm vậy, người ta sẽ cho là dở hơi và đạo đức giả. Nhưng nếu cứ đổ thêm dầu vào lửa thì đám cháy chỉ cháy lớn hơn, tình trạng xấu sẽ xấu hơn và không bao giờ có kết thúc tốt. Chúa dạy chúng ta phải yêu kẻ thù, tức phải thi hành đức ái, nó sẽ phá vỡ cái vòng kim cô lẩn quẩn tiêu cực liên hệ giữa người với người. Hòa bình yêu thương chan hòa sẽ có. Và Thiên Chúa sẽ hiện diện ở đó.
Tha thứ không phải là chuyện dễ. Nó là một tặng vật Thiên Chúa ban cho chúng ta. Nó là một ân sủng có khả năng biến cải chúng ta từ chỗ ích kỷ đến cởi mở rộng lượng với kẻ thù và mọi người. Phải cầu xin Thiên Chúa và với sự giúp đỡ của Người, chúng ta mới sống đức ái và khoan dung tha thứ được. Để vượt qua oán thù, ghét bỏ, chúng ta cần nhìn vào chính bản thân chúng ta, đặt mình vào vị trí của kẻ thù. Đừng làm cho người điều mà chúng ta không muốn người làm cho mình. Cùng là con một cha chung ở trên trời, lẽ nào anh em lại đánh giết nhau!
Tình yêu gia đình, tình yêu giữa cha mẹ và con cái, một loại tình yêu vô điều kiện mà Thiên Chúa bẩm sinh cho chúng ta. Tuy nhiên yêu người mình không thích hoặc ghét hay yêu kẻ thù thì phải trả giá rất đắt. Phải quyết liệt từ bỏ tính ích kỷ, chỉ biết yêu mình, cái gì cũng muốn cho mình. Nhưng hy sinh càng nhiều thì phần thưởng càng to. Niềm vui và hạnh phúc thật cuối cùng ở trên trời càng lớn.
AI ĐOÁN XÉT AI?
Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Hãy tha thứ thì anh em sẽ được Chúa tha thứ” (Lc 6::37). Phải chăng để được tha thứ Thien Chúa đã ra điều kiện? Vậy thì lòng thương xót của Chúa có bị giảm giá trị không?
Hãy suy nghĩ cẩn thận Lời Chúa để hiểu cho hết cái thâm sâu của nó. Chúa Giêsu đến trần gian là để tha thứ tội lỗi cho loài người. Chúa đến để kêu gọi kẻ tội lỗi, không phải kẻ công chính. Khi chúng ta mở rộng lòng để đón nhận sự thương sót của Chúa, thì chúng ta đã có một cái gì thay đổi rồi. Chúng ta không còn gắn bó với “tham sân si”, với tội lỗi xấu xa của chúng ta nữa. Chúng ta đã nâng lòng hướng lên những điều cao quí hơn, không còn lạnh nhạt, vô cảm trước nỗi đau khổ khó nghèo của mọi người. Khi chúng ta cảm nghiệm, nhận biết được Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta thì tự nhiên lòng chúng ta sẽ hướng về sự tha thứ cho người khác. Làm sao chúng ta có thể phán xét bạn bè chúng ta một cách cay nghiệt khi mà Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta và cả thế giới một cách rộng lượng? Có tha thứ nào bằng cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá? (Ga 3:17). Nếu chúng ta tin vào lòng thương sót của Thiên Chúa thì chúng ta không thể không thương sót những kẻ đau khổ, không tha thứ cho những kẻ súc phạm đến chúng ta? Khi chúng ta được tha thứ, thì chúng ta là ai mà dám kết án kẻ khác…?
Để kết thúc chúng ta thử suy ngẫm những lời dưới đây trong sắc chỉ Misericordiae vultus (diện mạo lòng chúa thương xót) của Đức Phanxicô:
“Lòng Thương Xót là một trong những cột trụ chính của đời sống Giáo Hội. Tất cả mọi hoạt động tông đồ của Giáo Hội có thể thu gọn lại ở hai tiếng dịu dàng đối với các tín hữu. Không một cử chỉ, hành động cũng như lời ăn tiếng nói nào của những vị đại diên Giáo Hội mà thiếu sót ơn phúc đó. Sự tin cậy của Giáo Hội đã được thể hiện ở tình yêu thương đầy lòng trắc ẩn. Giáo Hội có một ‘ước vọng luôn luôn thương sót không bao giờ ngừng’ (Evangelii Gaudium #24). Có lẽ từ lâu chúng ta đã quên cách thể hiện và cách sống lòng thương xót. Đằng khác, vì chúng ta thích để ý đến lẽ công bằng một cách sít sao nên chúng ta quên rằng đây chỉ là bước đầu, dù cần thiết. Nhưng Giáo Hội cần đi xa hơn nữa để tiến tới mục đích quan trọng hơn. Đằng khác, dù buồn vẫn phải nói, phải công nhận là việc thực hành lòng thương xót đang ở lúc suy tàn. Trong một số trường hợp danh từ thương xót đã bị rơi rớt ở đâu mất rồi, người ta không còn sử dụng nó nữa. Tuy nhiên, nếu không có ai biết đến nó thì đời sống trở thành vô nghĩa và cằn cỗi như thể bị giam hãm trong sa mạc trơ trụi. Nhưng hiện giờ là thời đang đến với Giáo Hội để vui mừng lấy lại tiếng gọi thực thi lòng thương xót một lần nữa. Đây là lúc trở lại điều căn bản và chấp nhận tính yếu đuối và tranh đấu của những người anh chị em của chúng ta. Thương xót là sức mạnh có khả năng đánh thức chúng ta dậy để tạo dựng một đời sống mới và giúp chúng ta can đảm hướng về tương lai đầy hy vọng.”
--------------------------------------------- Misericordiae Vultus-Diện Mạo Lòng Chúa Thương xót: Sắc chỉ của Đức Phan Sinh ban ngày 11 tháng 4 năm 2015 tuyên bố năm toàn xá kể từ ngày 8-12-2015 Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đến ngày 20-11-2016, lễ Chúa Kitô Vua.
Yêu kẻ thù; - Làm ơn cho kẻ ghét; - Chúc lành cho kẻ nguyền rủa; - Cầu nguyện cho kẻ vu TN 7-C140
- Yêu kẻ thù;
- Làm ơn cho kẻ ghét;
- Chúc lành cho kẻ nguyền rủa;
- Cầu nguyện cho kẻ vu khống.
Những lời dạy ấy của Chúa Giêsu không là điều muốn hay không tùy ý, nhưng là mệnh lệnh, là đòi buộc. Nó cũng không dành cho hết mọi người, nhưng đặc biệt cho môn đệ, những người đang bên cạnh Chúa: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây...".
Lời dạy trên còn là nội dung của Luật Thiên Chúa. Môn đệ buộc phải sống chính giáo huấn của Chúa Giêsu, sống như Chúa Giêsu. Một khi sống theo đường lối yêu thương không ranh giới của Chúa, họ tiến vào cốt lõi của tình yêu mà Chúa thể hiện. Đó là tình yêu đại lượng, tình yêu vô biên, tình yêu không mệt mỏi, tình yêu xóa mọi khoảng cách, tình yêu không điểm dừng...
Cách yêu của Chúa là yêu không phân biệt, không có lằn ranh, không bao giờ chỉ đón nhận bạn và loại trừ thù!
Chúa Giêsu muốn rằng nơi mỗi con tim, tình yêu của Thiên Chúa chiến thắng sự oán ghét hận thù. Logic của tình yêu, mà đỉnh cao là Thập giá của Chúa, nét đặc trưng cốt lõi của Kitô hữu, sẽ dìu họ ra khỏi chính mình để gặp gỡ mọi người bằng tình huynh đệ không xuất phát từ tim, mà xuất phát từ Tình Trời thấu vào tim và tràn ra đến muôn người.
Nói cách khác, Chúa muốn môn đệ tha thứ và yêu thương không phải như người thường, nhưng như Thiên Chúa, "Đấng nhân hậu cả với những phường vô ơn, với những quân độc ác”. Chúa muốn môn đệ phải "như Cha trên trời là Đấng nhân từ".
Ngày xưa, Đavid, một chàng trai trẻ, theo lời hiệu triệu của vua Saun cứu nguy đất nước, xông ra chiến trường tiêu diệt quân Philitinh đang tiến chiếm bờ cõi. Đavid chiến thắng. Lẽ ra công trạng này phải được ơn và thưởng lớn. Nhưng Đavid làm ơn mắc oán. Sự ngưỡng mộ của dân chúng dành cho Đavid khiến vua Saun ganh tức và nhiều lần rắp tâm giết chết Đavid.
Một hôm, sau cuộc rược đuổi Đavid, Saun quá mệt và ngủ thiếp đi trong hốc núi. Đây là cơ hội ngàn vàng để Đavid có thể xuống tay loại kẻ hãm hại mình. Nhưng nại vào dấu ấn quyền năng của Thiên Chúa đối với người được Chúa chọn, Đavid dừng tay. Ông lý luận: "Đừng giết vua, vì có ai đưa tay hại người Chúa đã xức dầu mà không bị phạt".
Vì lời trên, có người cho rằng, Đavid không tự nguyện tha cho Saun. Ông chỉ tha vì sợ "bị phạt" mà thôi.
Nhưng tôi muốn nhìn ở góc cạnh tích cực hơn: Nhờ lòng kính tôn dành cho Thiên Chúa, nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, tin tưởng nơi quyền năng của Thiên Chúa, Đavid đã tha thứ cho kẻ thù của mình.
Chỉ có rập khuôn tình yêu của Chúa, con người mới có thể dung thứ và dung nạp vào trái tim mình kẻ từng nhiều lần đoạt mạng mình. Bởi không phải một mà nhiều lần Saun đã thực sự sát hại Đavid. Đavid chỉ may mắn sống sót. Hơn thế, lần này là lần Saun lên đường truy đuổi nhằm tận diệt Đavid.
Chỉ có rập khuôn tình yêu của Chúa, quyết định tha thứ cho kẻ hại mình mới nên dễ dàng, lập tức và tồn tại lâu dài.
Chỉ có rập khuôn tình yêu của Chúa, con người mới có thể nhanh chóng biến thù thành bạn không chút phân vân, không mảy may tính toán hơn thiệt.
Chỉ có rập khuôn tình yêu của Chúa, con người mới có thể đứng chung hàng ngũ với kẻ ngày đêm nuôi lòng thù dành cho mình.
Chỉ có rập khuôn tình yêu của Chúa, tình yêu của con người mới bền vững.
Chỉ có rập khuôn tình yêu của Chúa, tình yêu của con người mới ngày càng thăng tiến, trong sáng, thanh cao.
Chỉ có rập khuôn tình yêu của Chúa, tình yêu của con người mới có thể dâng hiến chính mình cho đồng loại, cho lẽ sống và cho chính Thiên Chúa, Đấng đi bước trước trong tình yêu.
Hãy như thánh vương Đavid, chúng ta lắng nghe giáo huấn của Chúa, sống chính mẫu gương tha thứ cho kẻ có tội đến độ chấp nhận dâng hiến chính mình mà Chúa Giêsu thể hiện.
Hãy để Chúa rót đầy tình yêu của Chúa và của Chúa Giêsu, Con Một Ngài vào hồn chúng ta. Một khi hồn đã dâng trào chính tình yêu của Chúa, chắc chắn ta sẽ dễ dàng học đòi và thực hành theo gương hy sinh cao cả của Chúa Giêsu để đến, sống và trao ban tình yêu tự cõi hồn mình tràn ra mọi anh chị em mà ta đang sống cùng, sống với.
Đúng hơn, sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa là điểm tựa để ta yêu bằng tình yêu cao đẹp trên tất cả mọi thứ yêu xuất phát từ chính trái tim, từ chính cõi hồn mình.
MARTIN LUTHER KING là mục sư người da đen, đã chủ trương đấu tranh chống nạn phân biệt TN 7-C141
MARTIN LUTHER KING là mục sư người da đen, đã chủ trương đấu tranh chống nạn phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ bằng phương thế bất bạo động của Đức Giê-su là dùng Tình Thương để hoá giải thù hận. Câu chuyện về chú bé da đen do ông kể lại đã minh hoạ cho chủ trương tốt đẹp này của ông :
Có một chú bé da đen tên là TOM. Một hôm theo thói quen, vừa tan trường là em lại chạy đi phân phát báo cho các trường trong vùng để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Hôm ấy em lại bất ngờ bị mót tiểu dọc đường. Thay vì đi tiểu đại vào một gốc cây gần đó như mọi lần, lần này Tom lại chạy vào một nhà vệ sinh dành riêng cho người da trắng bên đường để vừa đi tiểu vừa quan sát xem nhà vệ sinh của người da trắng tốt đẹp như thế nào.
Được vào trong nhà vệ sinh sạch sẽ, thoáng mát, Tom cảm thấy sung sướng. Bất ngờ Tom nghe có tiếng chân người bước nhanh trên nền nhà về hướng nhà vệ sinh mà em đang ở bên trong. Chưa kịp phản ứng thì em đã bị một người đàn ông da trắng giữ chặt và đánh Tom một cái bạt tai khiến em té ngã đập đầu vào tường nhà vệ sinh đau điếng. Kèm theo cái tát là những lời nguyền rủa tên da đen đã dám vi phạm luật của tiểu bang A-la-ba-ma nước Mỹ. Theo đó thì người da đen không được phép bén mảng đến những nơi dành riêng cho người da trắng, kể cả nhà vệ sinh.
Được chứng kiến cảnh tượng đau lòng trên, Martin Luther King đã khuyên nhủ bé Tom như sau :
- Cháu Tom bé nhỏ đáng thương ơi ! Cháu có thể lựa chọn một trong hai thái độ đáp trả : Một là chạy ra khỏi nhà vệ sinh, nhặt mấy cục đá bên đường ném vào đầu gã đàn ông da trắng khốn kiếp vừa ra tay đánh đập cháu, rồi chạy nhanh về khu người da đen nói với mọi người : Có ngày chúng ta sẽ cùng nhau giết sạch bọn da trắng đã dám khinh thường và đối xử bất công tàn nhẫn với người da đen chúng ta.
Hai là cháu sẽ chọn thái độ cao thượng hơn là : Cháu sẽ im lặng nhớ đến Chúa Giê-su ngày xưa, cũng đã từng bị kẻ gian ác xô té mấy lần trên đường vác thập giá lên núi sọ. Nhưng lần nào Người cũng im lặng, lại trỗi dậy để tiếp tục vác thập giá đi lên đỉnh đồi chịu chết trên cây thập giá. Người đã cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ hành hạ mình : “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Vậy cháu hãy tha thứ cho người da trắng đã hạ nhục cháu nhé. Tom ơi! Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu thương mới là khó. Chúng ta là những người da đen Hoa- Kỳ, chúng ta muốn xây dựng ngày mai tươi sáng hơn nhưng chỉ có tình thương mới làm được việc đó cháu ạ !
Mỗi người chúng ta hôm nay cũng hãy nhớ rằng : "Tình yêu là liều thuốc kỳ diệu chữa trị mọi vết thương của cả người cho lẫn người nhận".
2/ THA THỨ ĐỂ BIẾN THÙ THÀNH BẠN :
LEV TOLSTOY đã nói tương tự như lời Đức Giê-su dạy về sự tha thứ cho kẻ thù : "Tình yêu diệu kỳ. Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống".
Một hiệp sĩ dũng cảm tên là HIDEBRAND bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng nề. Hidebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho hành động trả thù của mình. Ông đã chọn địa điểm và thời giờ thuận lợi để thi hành ý định. Hôm ấy ông đã thức dậy vào lúc nửa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết kẻ thù của ông là Bruno sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông nhìn thấy một nhà nguyện bắt đầu mở cửa. Ông liền đi vào trong đó chờ sáng. Trong lúc chờ đợi ông quan sát các bức tranh trong nhà nguyện.
Bức tranh thứ nhất vẽ Đức Giê-su mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có ghi bằng chữ Latinh câu này : "Bị lăng nhục, Người không đáp trả bằng lăng nhục".
Bức thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi Người bị đánh đòn, với hàng chữ : "Khi chịu khổ đau như thế, Người đã không nói lời đe dọa".
Và cuối cùng bức thứ ba trình bày Đức Giê-su trên cây thập giá với hàng chữ : "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm".
Nhìn liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hidebrand đã bị xúc động mạnh. Ông quỳ gối xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng không phải để chém giết nhưng để tha thứ và hoà giải với nhau. (Góp nhặt)
3/ ĐỊNH LUẬT QUẢ BÁO TRONG GIAO TIẾP XÃ HỘI:
Cách đây ít lâu có một phụ nữ viết một bài đăng trên một tạp chí tôn giáo, kể lại kinh nghiệm về định luật quả báo trong quan hệ giao tiếp với tha nhân như sau:
“Tôi là một phụ nữ tuổi trung niên và tính tình khép kín. Tôi không thích giao tiếp với bất cứ ai vì sợ bị họ quấy rầy. Chính vì thế mà tôi đã sống cô đơn nhiều năm trong một căn hộ chật hẹp với số tiền trợ cấp xã hội ba tháng một lần. Thái độ khép kín đó đã làm cho tôi bị suy nhược thần kinh. Một ngày nọ tôi bị đau nặng phải đi điều trị tại một bệnh viện miễn phí. Nằm viện đã lâu mà bệnh tình cũng không thuyên giảm. Trong thời gian này tôi cảm thấy cô đơn vì không có ai đến thăm. Chỉ có cô em gái của tôi ở nước ngoài là còn nhớ đến tôi và gửi cho tôi một thùng quà kèm theo thiệp chúc mừng No-en vào mỗi dịp lễ Giáng Sinh cuối năm. Rồi một ngày nọ, cô em gái duy nhất kia lại bị chết đột ngột do tai nạn giao thông. Tin này khiến cho tôi càng thêm tuyệt vọng. Một hôm, tình cờ tôi đọc được một thông báo trong tập san của bệnh viện nơi tôi đang điều trị, nội dung như sau : “Tổ chức thiện nguyện chúng tôi đang cần có thêm người tình nguyện phục vụ các bệnh nhân tê liệt tại tầng lầu ba của bệnh viện”. Thế là tôi quyết định đăng ký làm thử công việc thiện nguyện này để tránh sự nhàm chán trong lúc nhàn rỗi. Chỉ có Chúa mới biết tại sao tôi lại tình nguyện làm một việc vất vả không lương này. Nhưng theo tôi hiểu thì chắc là Người muốn dùng việc ấy để chữa lành bệnh tinh thần cho tôi.
Ngày nọ, tôi được bà trưởng hội phân công đến giúp cho một bà cụ bị tê liệt mà đã từ lâu không một thân nhân nào còn đến thăm hỏi giúp đỡ bà. Bà cụ thường tủi thân và luôn than vãn trách móc con cháu đã đối xử tệ bạc với bà. Nhận thấy cụ cần được động viên an ủi, nên tôi hay đến ngồi bên cạnh, vừa bóp tay chân cho cụ vừa lắng nghe cụ tâm sự. Mỗi lần như vậy, cụ lại có dịp kể cho tôi nghe những nỗi đau khổ mà chồng con đã đối xử tệ bạc với cụ. Một hôm tôi ghé tai khẽ nói với cụ rằng : Tôi có một bà mẹ có nét mặt phúc hậu rất giống cụ. Tôi cảm thấy yêu cụ như yêu mẹ ruột của tôi. Nghe vậy, nét mặt cụ đột nhiên biến đổi : Cụ im lặng nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi : “Có thật vậy không hả cô ?”. Tôi trả lời : “Đúng thật như vậy đó ! Con rất yêu cụ như yêu mẹ ruột của con !”. Và ngay lúc ấy, tôi cảm thấy trong người tôi một mối xúc cảm lạ lùng, nó làm biến đổi con tim vốn chai lỳ của tôi. Trước đây tôi không có thiện cảm với ai, nhưng giờ đây tôi lại thấy mọi người đều dễ thương và tôi sẵn sàng tiếp xúc với những người đau khổ để đem niềm vui và tình thương đến cho họ. Cũng từ ngày đó tôi không còn cảm thấy căng thẳng thần kinh nữa và tôi quyết định không uống thuốc chữa bệnh thần kinh mỗi ngày như trước. Tôi ăn ngủ bình thường và lên cân. Căn bệnh suy nhược thần kinh của tôi tự nhiên biến mất. Trong lần tái khám định kỳ, bác sĩ chữa trị cho tôi tỏ ra ngạc nhiên khi thấy tôi bình phục rất nhanh mà không cần uống thuốc mỗi ngày như trước”.
Câu chuyện nói trên cho thấy : Chính khi chúng ta thể hiện tình thương đối với tha nhân là lúc chúng ta cũng nhận được ơn chữa lành căn bệnh tinh thần của mình.
4/ BIẾN THÙ THÀNH BẠN LÀ CÁCH TIÊU DIỆT KẺ THÙ HỮU HIỆU NHẤT:
Trong cuộc nội chiến tại nước Hoa Kỳ, sự hận thù giữa hai miền Nam Bắc ngày một thêm sâu đậm. Lần kia, tổng thống ÁP-RA-HAM LANH-CÔN (Abraham Lincoln) đã bị nhiều người Bắc Mỹ chỉ trích khi ông chủ trương cần đối xử khoan dung đối với đám dân nổi loạn ở miền Nam. Những người này nhắc cho Lanh-côn nhớ rằng cuộc chiến tranh giữa hai miền vẫn đang tiếp diễn. Theo họ, quân đội miền Nam là kẻ thù, và tất cả bọn họ đều cần phải bị tiêu diệt. Bấy giờ tổng thống Lanh-côn đáp : “Cách tiêu diệt kẻ thù hữu hiệu nhất chính là biến kẻ thù trở thành bạn hữu của chúng ta bằng lòng khoan dung tha thứ”.
Lời nói của Lanh-côn rất phù hợp với lời Đức Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay : “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em… Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Vì Người nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác” (Mt 5,27-28.35).
THẢO LUẬN: Chúng ta nên làm gì đối với những người đang thù ghét và nói xấu chống lại chúng ta?
5/ SUY NIỆM:
1) ÁC GIẢ ÁC BÁO:
Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, “Gieo gió gặt bão” : Ai làm ác thì sẽ gặp phải điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm óan thù. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới hóa giải hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giê-su để tha thứ cho tha nhân điều họ đã xúc phạm đến ta thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ ngày càng tăng thêm, rồi bạo lực sẽ kéo theo bạo lực và tất cả chúng ta đều bị rơi vào hố diệt vong.
2) HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA LÒNG THÙ HẬN:
Một nhà tâm lý đã nói rằng : “Nếu anh nuôi lòng thù hận và muốn giết chết kẻ thù đã làm hại anh, thì anh hãy sắm sẵn hai chiếc quan tài : Một chiếc dành cho kẻ thù sắp bị anh giết chết. Còn chiếc kia sẽ dành cho chính anh. Vì anh cũng sẽ bị chết dần chết mòn do sợ hãi bị trả thù hay sợ sự trừng phạt của công lý”. Thực vậy, hận thù gây tác hại. Nó làm tổn thương về tinh thần cho người đang nuôi oán thù trong lòng. Nó còn huỷ diệt nhân cách của họ như Ba-con đã nói : “Khi trả thù, người ta biến mình thành ngang hàng với kẻ thù. Còn khi tha thứ thì người ta sẽ vượt cao hơn kẻ thù của mình”.
3) YÊU THƯƠNG - PHƯƠNG CÁCH HỮU HIỆU ĐỂ HÓA GIẢI HẬN THÙ:
Các chuyên gia tâm lý ngày nay đều công nhận rằng : “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương mới làm phát triển nhân cách con người”. Tình yêu có phép mầu để biến thù thành bạn. Áp-ram Lanh-côn (Abaham Lincon) nói : “Biến thù thành bạn, tức là ta đã tiêu diệt kẻ thù rồi vậy !”. Chính Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay đã dạy chúng ta : “Anh em hãy yêu kẻ thù... Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. Hãy cho đi thì sẽ được cho lại !” (Lc 6,35).
4) LÀM GÌ ĐỂ BIẾN THÙ THÀNH BẠN?
- Tìm ra nguyên nhân khiến ta bị thù ghét để khắc phục :
Hầu hết sự ganh ghét của người khác đối với ta là do nỗi sợ sẽ không còn được tôn trọng và yêu thương. Việc xác định nguyên nhân ta bị ganh ghét là bước đầu cần làm để hóa giải sự thù ghét của kẻ khác. Sự ganh ghét có thể do chúng ta có ngoại hình đep hơn; được nhiều người quý mến hơn; được cấp trên tín nhiệm và trao trách nhiệm cao hơn; được hưởng phúc lộc dồi dào hơn… Một khi đã tìm ra nguyên nhân khiến ta bị thù ghét, chúng ta sẽ khắc phục và hóa giải sự thù ghét.
- Khắc phục và hoá giải sự thù ghét bằng thực thi yêu thương:
Lời khen ưu điểm của đối phương cách tế nhị và thành thật là phương thế hữu hiệu để hóa giải hận thù và biến thù thành bạn như Tuân Tử đã nói : “Ai khen ta mà khen phải là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy.”
+ Đi bước trước để làm hòa và biến thù thành bạn:
Sự xuất hiện của những người ganh ghét trong cuộc sống là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả Đức Giê-su vốn là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34), nhưng vẫn bị các đầu mục dân Do thái thù ghét và chỉ trích: “Ông ta là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách hóa giải những thù ghét của kẻ khác bằng cách không chấp nhất nhưng đi bước trước đến với họ và “biến thù thành bạn” bằng các phương thế như sau:
. Cầu xin Chúa ban ơn lành cho kẻ đã nói xấu và vu khống làm hại ta;
. Lấy ơn báo óan : Làm một việc tốt cho kẻ đang thù ghét ta;
. Làm ơn và cho vay mà không mong báo đền;
. Không xét đoán ý trái và không kết án tha nhân cách hồ đồ và bất công;
. Sẵn sàng tha thứ không chỉ tha bảy lần nhưng tha bảy mươi lần bảy;
. Quảng đại cho họ lời khen thành thật để động viên tinh thần và chia sẻ vật chất...
Đây là những việc sẽ khó thực hiện nếu không quyết tâm cao và không được ơn Chúa nâng đỡ trợ giúp. Khi bị người khác thù ghét nói xấu và làm hại, chúng ta cần bình tĩnh tìm cách hóa giải hận thù để nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su.
NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trước tha nhân, nhưng biết quảng đại mở ra, biết vươn tâm hồn lên cao, vượt qua mọi ích kỷ tầm thường của loài người, để mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Xin cho con đủ sức vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen cùng mọi trả thù ti tiện. Xin cho con luôn giữ được tâm hồn bình thản, không để cho bất cứ yếu tố bên ngoài nào làm xáo trộn, khuấy động tâm can con.
- LẠY CHÚA. Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu được những người tự nhiên con có ác cảm. Xin cho vòng tay con rộng mở để ôm cả những kẻ đang ganh ghét, vu khống và làm hại con. Nhờ đó con hy vọng sẽ được Chúa tha thứ tội lỗi và xứng đáng làm con thảo của Chúa Cha trên trời và nên môn đệ thực sự của Chúa.