*** Đọc các bài của Lm. Mễn: 1. Vào Facebook.com; tìm: Nguyễn Mễn;
hoặc https://www.facebook.com/ nguyen.men.71; 2. Vào Internet: Google, Youtube, Cốc Cốc, Safari, hoặc Yahoo.com;
tìm: Cha Mễn, hoặc linh mục Mễn 3. https://linhmucmen.com
4. Email: mennguyen296@gmail.com 5. ĐT: 0913 784 998 có zalo; 0394 469 165
**** "Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người” (Galata 6,10)
**** Lạy Chúa, xin hãy hoàn thành nơi con những ý định của Chúa. Và xin ban cho con ơn: Không làm trở ngại ý định của Chúa do hành vi của con. Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, chỉ vì Chúa muốn, như Chúa đã muốn và tới mức độ Chúa muốn. Amen.
(Chuyện cha Mễn kể cho các gia đình Bài 238) -------------------------------------------
Bạn thân mến,
Có lần được dịp ra miền bắc, tôi có nghe được một câu chuyện giống như đùa:
Đó là ở trên miền rừng, tỉnh Tuyên Quang, thuộc GP Bắc Ninh, có một nhà thờ, mà bất cứ cha nào đến làm lễ, cũng đều phải đội nón bảo hiểm.
Số là trên nóc nhà thờ, rui mè mục nát thế nào, mà có lần cha đang dâng thánh lễ, thì có một tấm ngói bất ngờ từ trên mái rơi xuống ngay trên bàn thờ. May mà rơi không trúng đầu cha. Mọi người đều hết hồn hết vía.
Nhà thờ này cũng nhỏ thôi, trông đã cũ kỹ lắm rồi, nó lại nằm ở nơi heo hút vắng vẻ, lại ít giáo dân, nên không có khả năng xây sửa lại. Mà vì nhu cầu tôn giáo, nên thỉnh thoảng có cha về làm lễ. Mà để cho an toàn tính mạng của cha, thì cha phải đội nón bảo hiểm, khi dâng thánh lễ.
-------------
1. Nói đến nón bảo hiểm, tôi còn nhớ thời chưa có luật buộc cho cả nước, có một cha ở TP. Hồ Chí Minh, ra chợ mua một cái nón bảo hiểm Trung Quốc về để đội.
Một hôm, đang bon bon chạy trên đường xa lộ Sài Gòn, không biết cha đã chia trí thế nào, mà rồi lại tông vào phía sau của chiếc xe tải container.
Chiếc nón thì bể ra nhiều mãnh, văng tứ tung.
Còn cha thì nằm dài dưới lườn xe. Mặt mày, mình mảy, máu me, thương tích, trông thật thê thảm, nhưng cũng may mà cha không chết:
Thế là người ta bàn ra tán vào:
May mà cha mua được nón “dõm”, nên khi cha tông vào xe, là nón đã bể ra ngay. Do đó cha mới còn sống.
Chứ nếu, mà cha gặp phải nón xịn, thì ắt là cổ của cha đã gãy lìa ra khỏi thân, và cũng chắc chắn là cha đã chết rồi. Lại một lý luận giống như đùa.
2. Thế rồi, qua báo chí và dư luận, Nhà Nước muốn thăm dò chuyện buộc người ta ra đường phải đội mũ bảo hiểm.
Thế là dư luận nhao nhao lên phản đối:
- Chẳng nhẽ vợ chồng với đứa con, mỗi khi ra đường ngồi xe, lại phải đội đến 3 "cái nồi cơm điện", trông nó chẳng ra làm sao.
Hơn nữa, tốc độ giao thông ở Việt Nam hiện nay, chỉ được phép chạy với tốc độ: Từ 30 đến 50 cây số 1 giờ, thì có là bao, so với những con đường cao tốc ở xứ người, để rồi phải lo chuyện chấn thương nặng.
Vẽ chuyện, lợi bất cập hại:
Bởi, đội mũ vào, rồi đâm ra điếc, không nghe thấy còi xe, rồi tầm nhìn sang bên trái, bên phải, phía sau, lại bị hạn chế nhiều, thành ra dễ bị tai nạn như chơi.
- Có người mang sẵn ác cảm với nón bảo hiểm, nên đã tỏ ra nghi ngờ thiện chí của mấy ông lớn:
"Không khéo là các ổng có ăn chia với các nhà sản xuất mũ, hoặc với các tay đầu nậu, chuyên cung cấp mũ Trung Quốc, để ăn chia, để bỏ túi riêng".
Cuối cùng thì đến tháng 12 năm ngoái (15-12-2007), Nhà Nước ra lệnh rất nghiêm:
Hễ ai chạy xe gắn máy ra đường thì phải đội mũ bảo hiểm.
Mấy tuần lễ đầu, công an giao thông chỉ thổi còi chận lại để nhắc nhở. Sau đó là thẳng tay nghiêm phạt, không có chuyện du di nể nang ai hết.
À! Thì ra dân ta cũng biết sợ. Thế là mọi người đều tăm tắp chấp hành luật, mỗi khi ra đường.
Lần lần trở thành thói quen, nên không cần ai bảo ai, hễ cứ sắp sửa ra đường là lo đi tìm cái mũ bảo hiểm để đội.
Thế là các loại nón bảo hiểm đua nhau ra đời, đủ kiểu, đủ cở, đủ hình dáng, đủ màu sắc, thật đa dạng: Cái thì tròn tròn, cái thì xanh xanh, cái thì đỏ đỏ.
Cứ nhìn các nón bảo hiểm nhấp nhô, nhấp nhô trên đường, người ta có cảm tường như một bãi dưa hấu, đang trôi lềnh bềnh trên dòng sông bốc khói mịt mù.
“Của tội”, cho nên ai cũng cảm thấy khó chịu. Nó như một cái gì đó, cứ luôn ấn cổ đè đầu người ta xuống.
Rồi, khi chạy xe trên đường, gió thì mát, nhưng cái đầu thì lúc nào cũng bị hâm hấp, nóng ran cả đầu. Người ta tỏ ra rất bực bội khó chịu, nhưng chẳng ai dám cãi lệnh.
Rồi, cứ mỗi lần xe nhấp thắng một cái, thì cái mũ của người sau và người trước, va vào nhau, kêu một cái “cốp”.
Đó là chưa kể thật là tội nghiệp cho các bà các cô. Bởi những suối tóc óng ả điệu đàn, đã từng đi uống xù rất công phu, hoặc tốn khá nhiều tiền để duỗi tóc cho thẳng. Có những bộ tóc được nhuộm nhiều màu sắc khác nhau, trông như các tài tử minh tinh màn bạc trên tivi, hay chạy theo kiểu cọ này nọ: hai lai ba lai... coi như là phí của trời. Bởi cái mũ mà úp lên đầu như thế kia, thì còn gì là “moden”?
Thật ra, chẳng phải là ngoan ngoãn chấp hành 100% hết đâu.
Lúc đầu, vẫn có kẻ ỷ lại coi thường, liều không đội mũ xem sao.
Thế là bị công an huýt còi phạt cho một trận, là tởn ngay.
Đến Tết vừa rồi, coi như là mọi sự đã ổn định đâu vào đấy. Chiếc mũ bảo hiểm đã trở thành vật bất ly thân.
Và chính khi ấy, mới thấy dân mình thức thời, nhạy bén và có óc kinh doanh.
Nhiều nhà thiết kế đã nhanh tay, cho ra thị trường những mẫu mũ mới, có vành rộng ra để che nắng.
Nhiều họa sĩ lề đường đã chào hàng với những nét vẽ bay bướm, biến những cái mũ thô kệch, thành những nét vẽ nghệ thuật.
Nhiều cô gái con nhà giàu, lại bắt đầu chọn mũ bảo hiểm như một thứ trang sức hấp dẫn, có loại đắt tiền hơn nữa triệu bạc một cái.
Một số nhà thầu thì cho nhập ngay vào Việt Nam, những mẫu mũ, y như là mũ của lính Mỹ đánh trận ở bên I-rắc, thậm chí còn giống cả đội quân SS của Đức thời Hitler, thế mà những thứ mũ đó lại bán chạy như tôm tươi.
Còn các ngân hàng, các hãng xưởng, các công ty bảo hiểm..... đã không bỏ lỡ cơ hội, để tận dụng mũ bảo hiểm làm nơi quảng cáo cho thương hiệu của mình.
Cuối cùng, thì bây giờ khi ra đường, đội nón bảo hiểm đã thành niềm vui đối với những người khá giả, hay ít ra cũng đã thành thói quen của những người lao động nghèo.
Người ta đã quên mất rằng: Chỉ mới đây hơn nữa năm thôi, người ta đã dẫy nẫy lên như là đĩa phải vôi, khi lên án “cái thứ văn hóa mũ bảo hiểm, vớ vẫn và vô duyên”. ---------------------
3. Sát kề Noel năm 2007, đúng hơn là một tuần lễ sau khi có lệnh bắt buộc đội mũ bảo hiểm trên toàn quốc, thì ở nhà nguyện Hiệp Nhất của dòng Chúa Cứu Thế Saigon, có một ông cha đã nghĩ ra một thứ máng cỏ thật lạ lùng:
Ngài để Chúa Giêsu sinh ra trong một chiếc nôi tròn tròn. Nhìn kỷ, thì ra đó là một chiếc mũ bảo hiểm lật ngửa lên, trong nón có lót rơm để cho Chúa Giêsu Hài Nhi nằm.
Phía đầu Chúa Hài Nhi thì có một tấm biển rất to, in hình các bào thai, với hàng chữ: “Hãy bảo vệ sự sống”.
Máng cỏ này được đặt ở góc cung thánh.
Thánh lễ đêm Giáng Sinh hôm đó lại cũng rất là đặc biệt, đó là thánh lễ dành riêng cho các bạn trẻ không công giáo.
Đương nhiên là hơn phân nữa vẫn là dân công giáo. Bởi chính những người công giáo rủ rê, mời mọc các bạn bè, và người yêu của mình không công giáo, cùng đến tham dự thánh lễ.
Đầu lễ, linh mục chủ lễ mời mỗi người và từng người, lần lượt mang chiếc nón bảo hiểm của mình, tiến lên hang đá, đặt quay tròn bên cạnh cái mũ nôi của Chúa Giêsu.
Ngài nói, thế giới hôm nay, xã hội Việt Nam hôm nay, phá thai quá nhiều. Người ta đã xúc phạm và gây tổn thương đến sự sống tràn lan, mà lương tâm không hề có một chút áy náy gì. Lương tâm của họ, hay ý thức về tội của họ đã không còn nữa. Nói cho chính xác hơn, là lương tâm của họ đã chết rồi.
Giả sử hôm nay, Chúa Giêsu Hài Nhi, lại được sinh ra trong những gia đình đó, ắt là Chúa đã bị họ giết chết, ngay khi chưa kịp sinh ra. Họ không cần phải cậy nhờ đến khí giới gươm giáo của quân lính Hêrôđê để giết Chúa Giêsu đâu.
Hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải tìm mọi cách để bảo vệ sự sống, tránh hết mọi nguy hiểm rủi ro cho sự sống.
Bởi, sự sống là do Thiên Chúa ban cho. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên sự sống thôi. Đừng có ai cướp quyền này của Thiên Chúa.
Vậy Lễ Giáng Sinh năm nay, tôi đặt Chúa Hài Nhi trong một chiếc nón bảo hiểm, giữa những nón bảo hiểm của các bạn trẻ, là tôi muốn nói lên cái quyết tâm của chúng ta, là hãy tích cực bảo vệ sự sống bằng mọi cách.
Chính Chúa Giêsu, khi bỏ trời xuống trần gian này, là Ngài muốn nói lên cái quyết tâm của Ngài, đó là bảo vệ sự sống.
Ngài còn quyết tâm chết để cho mọi người được sống, và được sống dồi dào. Trong đó, có chúng ta.
4. Giữa tháng tư vừa qua, có một đám cưới thật lạ đời ở Gò Vấp:
Hôm đó là Thứ Bảy, mà Tin Mừng Chúa Nhật hôm sau, có ghi lại câu khẳng định của Chúa Giêsu:
“Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống”,
nên cha khách có đến xin cha sở cho phép được đọc bài Tin Mừng Chúa nhật đó trong lễ cưới.
Bài giảng của cha thì xoay quanh chuyện đi đường:
- Đường đời,
- Đường trần gian,
- Rồi đến con đường tâm linh,
- Đường về quê trời,
- Đường mang tên Giêsu.
Gần đến cuối bài giảng, cha bảo chú giúp lễ mang ra một túi nylon thật to. Mọi người trong nhà thờ cươi ồ lên bất ngờ, vì đó là 2 chiếc nón bảo hiểm màu xanh da trời, màu của Đức Mẹ.
Cha khách nói:
Ngày nay, người ta lo bảo hiểm cho cái đầu, cho sinh mạng của mình bằng một cái nón nhựa. Thế nhưng, chính tâm hồn của mình, cần phải được bảo vệ hơn hết, hơn bất cứ điều gì trên đời, thì người ta lại quên không nghĩ tới.
Quà cưới hôm nay, tôi muốn tặng cho đôi bạn trẻ tân hôn, là trao chính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, để Đức Mẹ luôn bảo hiểm sự sống, cho gia đình bé nhỏ của các bạn.
Khắp cả nhà thờ đều vỗ tay vang dội. Có lẽ không phải người ta vỗ tay hoan hô, vì cái sáng kiến tếu táo, mà rất hợp thời của ông cha khách.
Nhưng là vỗ tay đồng tình, nhất trí, quyết chọn cho đời mình, một hợp đồng bảo hiểm tuyệt vời trong tay Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
5. Mới đây, có một nhón bạn trẻ 8x, 9x tại TP. HCM, được thành hình từ những trò chơi Blog trên Internet, cha linh hướng của nhóm đã chọn cho họ một tên khác, đó là nhóm Fiat (Xin Vâng).
Đến ngày họp nhóm tháng tư vừa rồi, kỷ niệm tròn một tuổi đời, cha tặng cho mỗi người trong nhóm một chiếc nón bảo hiểm có in hàng chữ khá to FIAT (cùng Mẹ Xin Vâng).
Bây giờ, thì cứ mỗi sáng Chúa nhật, khi các bạn trẻ kéo nhau đi làm công tác xã hội, đến thăm những người già neo đơn, hay đi thăm những trẻ mồ côi bất hạnh, tại các mái ấm, thì những chiếc áo màu xanh da trời và những chiếc mũ trên đầu của họ, hiên ngang đi giữa các đường phố thênh thang, hay len lõi vào các con hẽm chật hẹp của TP. Saigon, ai nhìn cũng thấy lạ lạ, ai cũng thắc mắc và hỏi han tìm hiểu.
Thì ra, chiếc nón bảo hiểm còn có thêm một chức năng nữa, là làm chứng cho một chọn lựa khác thường và khác người của các nhóm bọn trẻ.
Lạy Chúa, chiếc nón bảo hiểm giúp chúng con bảo vệ sự sống thể xác ở trần gian, thì cũng xin nhắc nhở chúng con, mỗi lần đội chiếc mũ bảo hiểm trên đầu, thì cũng nhớ mà lo bảo hiểm cho phần rỗi đời đời chúng con, đó là lo chọn Chúa làm lẽ sống, đó là phải lo hết sức của mình mà tránh tội, trách các dịp tội, và tích cực làm nhiều việc lành phúc đức, như Chúa đã dạy chúng con. Amen.
Vào buổi tối đêm 24 tháng 12 vừa qua, có một sự cố đã xảy ra tại nhà thờ giáo xứ của tôi, đã làm xôn xao náo động mọi người.
Số là gần đến giờ lễ nửa đêm, thì ông từ nhà thờ phát hiện ra, tượng Chúa Hài Đồng ở hang đá trong nhà thờ, đã bị mất cắp.
Lúc bấy giờ ở sân nhà thờ, số người có đạo và không có đạo, đã qui tụ rất là đông, ở quanh các hang đá và ở các điểm trang trí chung quanh nhà thờ. Mà các cửa nhà thờ thì vẫn chưa mở. Bởi theo lệnh của Cha Sở, thì sát gần giờ lễ, các cửa nhà thờ mới được mở ra cho người ta vào, để tránh sự ồn ào, mất trật tự và thiếu trang nghiêm trong nhà thờ trước giờ lễ.
Khi nhìn vào hang đá, thì mọi người nhìn thấy các mục đồng vẫn còn nguyên. Các súc vật vẫn trong tư thế trang nghiêm thờ lạy Chúa. Còn Thánh Giuse và Mẹ Maria cũng rất cung kính cúi nhìn xuống máng cỏ. Chỉ có Chúa Hài Nhi là không còn nữa.
Về phần ông từ, thì ông đã khẳng định rất chắc chắn, là cách đây khoảng 10 phút, tôi có chỉnh sửa lại một vài bóng đèn chớp quanh Chúa Hài đồng, thì không thấy có gì khác thường.
Ông còn xác nhận: Từ nãy đến giờ, ngoài tôi ra, tôi cũng không hề thấy có bóng dáng một ai khác lai vãng trong nhà thờ này. Cho nên việc mất Chúa Hài Đồng, phải nói là một chuyện rất là lạ. Đối với ông, đúng là một chuyện không thể hiểu nổi.
Nhưng có một điều còn lạ hơn nữa, là ông từ đề nghị với Cha sở, là xin mang một tượng Chúa Hài Đồng ở một hang đá ngoài nhà thờ, đưa vào hang đá trong nhà thờ để thay thế, nhưng Cha lại không đồng ý. Cha bảo: Cứ để nguyên sự mất mát như vậy.
Trong thánh lễ đêm hôm đó, Cha Sở, với một giọng nói vừa mạnh, vừa run run vì xúc động. Cha thông báo cho cộng đoàn biết, là tượng Chúa Hài Đồng trong Hang Đá nhà thờ vừa bị mất cắp.
Cha giải thích cho mọi người rõ, về tính chất nghiêm trọng của hành vi đánh cắp này. Cha coi việc đánh cắp tượng Chúa Hài Đồng là một trọng tội, là một hành vi phạm thánh.
Rồi cuối cùng, từ trên tòa giảng, Cha tuyên bố rất dứt khoát, và tỏ ra rất giận dữ. Cha nói: "Tượng Chúa Hài Đồng, phải được mang trả lại nội trong đêm nay".
Rồi, trong các thánh lễ kế tiếp của ngày hôm sau, ngày chánh lễ 25/12, Cha Sở vẫn tiếp tục lập đi lập lại mệnh lệnh này, nhưng không thấy có hiệu quả gì. Máng cỏ vẫn còn trống trơn.
Suốt cả ngày lễ Giáng Sinh, Cha Sở cảm thấy không vui. Ngài như người mất thần. Bởi Ngài rất buồn vì sự việc đã xảy ra.
Mà Cha Sở buồn, nên cả Giáo xứ cũng buồn theo vì sự kiện này. Bầu khí của lễ Giáng Sinh không còn phấn khởi như mọi năm. Đi đâu, làm gì, dù ở chợ, dù ngồi bên mâm cơm, ai ai cũng đều bàn tán chỉ có một sự kiện duy nhất này thôi, đó là chuyện Chúa Hài Đồng đã bị mất tích.
Vào khoảng giữa chiều hôm chánh lễ, bỗng Cha sở trông thấy có một em bé, khoảng khoảng 6-7 tuổi, được những người lớn dẫn tới. Tay em, lại kéo theo một toa xe lửa xinh xinh mới toanh.
Khi đến gần, Cha Sở tỏ ra phẩn nộ thật sự, bởi trông thấy tượng Chúa Hài Đồng đã bị mất cắp, lại đang nằm trong toa xe lửa của em.
Em bé đã bị những người lớn ở nhà làm cho sợ hãi. Bây giờ gặp Cha sở, em lại càng cuống cuồng thêm.
Thấy vậy, Cha Sở dịu giọng, tỏ ra thân thiện, và để cho em bình tĩnh trả lời những câu hỏi của Cha.
Thì ra, để chuẩn bị cho lễ Giáng Sinh năm nay, em đã nhịn ăn sáng từ nhiều tháng qua, để có tiền, mà mua cho được chiếc xe lửa này.
Em nói tiếp:
Thưa Cha, con rất thích chiếc xe lửa này từ lâu lắm rồi. Và mỗi khi qua lại siêu thị, con thầm ước mong làm sao có tiền để mua nó cho được.
Nhưng vì nhà nghèo, nên con không có tiền mua ngay, lại cũng không dám xin tiền ba mẹ để mua đồ chơi. Mãi cho đến gần lễ Giáng Sinh, tiền con để dành mới vừa đủ để mua nó.
Và đây cũng ước nguyện của con đã nói với Chúa từ nhiều tháng qua, mỗi khi đọc kinh xem lễ ở nhà thờ, cũng như những lúc con đọc kinh tối sáng tối ở gia đình, là khi nào con mua được chiếc xe lửa này, thì con xin mời Chúa hãy là “vị khách đầu tiên” cho chiếc xe lửa của con.
Chúa đã nhậm lời con. Con đã mua được chiếc xe. Nên con phải giữ lời hứa với Chúa.
*****
Sau khi nghe em trình bày, Cha Sở không biết phải nói làm sao, bởi những hy sinh cố gắng của em để chuẩn bị đón Chúa Giáng Sinh trong nhiều tháng qua, quả là quá lớn.
Nhất là tâm hồn của em rất đơn sơ trong trắng trong hành vi này. Em nghĩ sao, là em làm như vậy, theo những suy nghĩ rất đơn sơ và cũng rất đơn giản của em.
Dầu sao Cha Sở cũng ôn tồn giải thích cho em về những cái sai, những cái không đúng của em trong việc làm này.
Em xin lỗi Cha. Và em bồng Chúa Hài Đồng lên trao trả lại cho cha. Và em cũng không quên cám ơn Chúa Hài Đồng, vì Chúa đã đồng ý làm vị khách đầu tiên của chiếc xe lửa của em. ------------------------
Bạn thân mến,
Câu nguyện ông già Noel, trên chiếc xe nai, chở đầy ấp quà Giáng Sinh, đi rảo khắp các nơi, để phân phát quà cho các em thiếu nhi ngoan hiền, chăm học, bên phương trời tây, chỉ là niềm ước mơ thèm thuồng cho các trẻ em thiếu nhi bên Việt Nam.
Bởi ở Việt Nam, Cha Mẹ chưa có thói quen tặng quà cho con cái mình dịp Lễ Giáng Sinh.
Tuy mọi người công giáo đều biết, lễ Giáng Sinh là ngày Tết của các em thiếu nhi.
Nhất là các cha mẹ cũng đều biết, là cách phát quà, qua truyền thuyết ông già Noel, đã là một cách rất hay để giáo dục, để dạy dỗ, để hướng dẫn con cái mình, nhưng rất ít gia đình đã biết dùng phương thức này.
Dầu sao, thì em bé trong câu chuyện của chúng ta, đã phấn đấu, tự mình, tìm cho mình một món quà, để đón rước Chúa đến thăm, cũng rất đáng là cho chúng ta suy nghĩ.
Tuy việc làm của em rõ ràng là sai, rất là sai, nhất là việc luồng lách ẩn núp trong nhà thờ để làm sao có thể lấy cắp cho được tượng Chúa, chứng tỏ việc làm không lương thiện, không ai chấp nhận được, không ai được phép bắt chước.
Nhưng tâm tình của em và những chuẩn bị của em để đón rước Chúa, phải nói là có chất lượng để chúng ta suy nghĩ.
Bởi Chúa đã đến rồi, mà sao tâm hồn của chúng ta, là những người lớn, vẫn còn trống rỗng, vẫn còn lạnh tanh, vẫn còn khô khan, chưa thấy có một cảm nghiện nào do việc Chúa đến thăm chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin cho tâm hồn của con, được trở nên như những trẻ nhỏ, để con dễ dàng tiếp cận với Chúa, để con biết tích cực hơn và có nhiều sáng kiến hơn, trong việc đón rước Chúa, nhất là mỗi khi rước lễ, để con có thể nếm cảm được tình Chúa yêu con, qua việc Chúa đã bỏ trời xuống trần gian này, hòa mình sống với con. Amen.
Vào ngày 03-12-1989, tại đảo Malta, là một đảo quốc, nằm giữa Địa Trung Hải, đã diễn ra một cuộc họp thượng đỉnh, giữa hai nhà lãnh đạo siêu cường Nga và Mỹ.
Trong cuộc họp này, tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush đã trao tặng cho chủ tịch Liên Sô Mikhail Gorbachev, một món quà Giáng Sinh rất lạ lùng, đó là một viên gạch rất cũ kỷ. Bên trên viên gạch đó, có vẻ một biểu tượng hòa bình, với những đường vẻ thật nham nhở, với màu nước sơn đã loang lỗ.
Có người thắc mắc:
Tại sao một viên gạch trơ trụi, loang lỗ, nham nhở, tầm thường đến như vậy, mà Tổng Thống Mỹ, lại dám trao tặng cho một lãnh tụ siêu cường, trong dịp lễ Giáng Sinh?
Thế nhưng, đối với những người am tường hiểu biết, thì mới thấy được những giá trị lớn lao phi thường, của viên gạch tầm thường này.
Bởi viên gạch này, chính là viên gạch đã được lấy ra từ bức tường Bá Linh vừa mới sụp đổ cách đó hai tháng.
Đây là viên gạch đánh dấu một khúc ngoặc mới của lịch sử, kết thúc một thời kỳ chiến tranh lạnh, kéo dài đã quá lâu.
Bởi cũng từ Hội Nghị này, hai siêu cường đã đồng ý giải trừ vũ khí nguyên tử, và cùng nhau hợp tác xây dựng hòa bình.
Do đó, món quà Giáng Sinh tuy có mộc mạc, nhưng lại ẩn chứa nỗi khát vọng hòa bình của con người, của cả nhân loại.
Viên gạch này, có thể được coi là một nhịp cầu, nối kết hai siêu cường, mở ra một thời kỳ mới:
- Từ đối đầu, đến đối thoại.
- Từ nghi ngờ đến cộng tác.
- Từ thù địch đến thân hữu.
Từ đây, hòa bình không chỉ là không có chiến tranh, không chỉ là ngưng tiếng súng, mà hòa bình đã là hoa trái của những tâm hồn thành tâm, thiện chí, và biết cùng nhau hợp tác xây dựng những bước đi lên cho nhân loại, nhằm đem lại hạnh phúc cho con người.
*********
Bạn thân mến,
Đã hơn hai ngàn năm nay, nhân loại cũng đã nhận được từ Trời cao, một món quà mộc mạc đơn sơ tương tự như thế.
Nhưng giá trị của món quà này, phải nói là rất to lớn, phải nói là quá phi thường, đó là Bé Hài Đồng Giêsu, Con Thiên Chúa từ trời cao, giáng sinh xuống thế làm người, sinh sống như con người, sinh sống giữa con người.
Ngài đến trần gian trong âm thầm, không tiếng kèn, không tiếng trống.
Điểm đầu tiên Ngài đặt chân tới, đó là hang bò lừa ở Bêlem, thuộc nước Do Thái.
Nơi Ngài chọn để sinh ra là giữa đồng không mông quạnh, không có nhà cửa, không có nơi trú trọ.
Dấu chỉ duy nhất, để người ta có thể nhận ra Ngài, đó là:
“Một con trẻ sơ sinh, bọc trong tấm tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 2, 12).
Một Đấng Tối Cao quyền năng, từ trời xuống, lại chấp nhận thân phận một con người, tầm thường, giới hạn, mong manh, và yếu đuối đến như vậy.
Ngài cũng đã được cưu mang trong dạ mẹ 9 tháng 10 ngày. Và đã được sinh ra một cách bình thường, như bao con trẻ sơ sinh khác.
Tuy là Con Thiên Chúa,
- Nhưng Ngài đã không sinh ra tại chính mái nhà thân yêu của mình ở Nazarét.
- Ngài đã không chọn cho mình một căn phòng trú trọ tử tế hơn ở Giêrusalem, hay ở Bêlem, như những lữ khách bình thường khác, để sinh ra.
- Ngài bị chối từ, bởi gia cảnh của Ba Mẹ Ngài quá nghèo, nên không đủ chi trả cho một chỗ qua đêm.
Ngài bị chối từ, cũng có thể là do các chủ quán sợ phiền phức, sợ bị ô uế, sợ bị xui xèo, sợ những điều không may lành xảy ra, khi phải chứa chấp một phụ nữ mang thai sắp sinh con.
Để diễn tả tình huống này, thánh Gioan đã ghi lại mấy dòng chữ thật thê thảm trong cuốn Phúc Âm của Ngài, ở đoạn 1, câu 11 như sau:
“Ngài đến nhà của Ngài,
nhưng những người nhà, đã chẳng có ai chịu tiếp nhận Ngài”. ( Ga 1,11).
Đó là lý do tại sao Đấng Cứu Thế lại phải sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
Nhưng để tìm cho được hang bò lừa trong đêm tối, ở một nơi xa lạ, ở một nơi hẻo lánh, thì chúng ta hãy nghĩ xem, thánh Giuse đã phải vất đến như thế nào ?
Nhưng hang bò lừa năm xưa, chắc chắn là rất khác với hang đá, mà chúng ta nhìn thấy tại các nhà thờ, hay tại các phố xá, hay tại các hàng quán.
Hang đá năm xưa, là một chuồng bò lừa thật sự:
- Các cây cối rào cản làm chuồng, đều đã bị xiêu vẹo.
- Nền đất của chuồng bò, gồm toàn rơm mục nát, ẩm ước, rất hôi tanh.
Bởi đây là nơi trú ngụ của các súc vật bò lừa chung chung, chẳng thuộc quyền sở hữu của riêng ai, cho nên chẳng có ai bận tâm để quét dọn.
Còn đêm tối trong hang thì phải nói là dày đặc, không có một chút ánh sáng, dù chỉ một chút ánh đèn leo lét thôi, cũng không có.
Ngoài trời thì đang tiết mùa đông, cho nên gió lạnh, giá rét, lùa vào khắp các nơi trong hang.
Đây là một trong những nỗi khổ đầu tiên của Con Thiên Chúa xuống thế làm người.
Có người cha người mẹ nào lại muốn sanh con của mình trong những điều kiện thiếu thốn, cùng cực, mất vệ sinh, tồi tệ đến như thế chăng?
Nhìn cảnh đứa con được sinh ra, không nơi nương tựa, không người giúp đỡ, cô đơn một mình, thiếu thốn đủ mọi thứ, trông thê thảm đến cùng cực, thì thử hỏi có cha mẹ nào, mà lại chẳng tuổi thân ???
Thật là chua xót biết bao, cho thân phận của một Con Thiên Chúa xuống thế làm người!
Khi chứng kiến những cảnh tượng này, ai mà lại không thắc mắc:
- Ơn cứu độ từ trời cao, tại sao lại đến với nhân loại, phải đi qua con cái đường tầm thường và thê thảm đến như thế ?
- Tại sao Thiên Chúa lại không chọn cách khác, cho bớt thê thảm hơn để làm người ?
- Tại sao Hài Nhi Giêsu, một món quà thật cao quí, từ trời cao, được Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, lại được gói ghém trong một dáng vẻ quá đơn sơ, mộc mạc, tầm thường, quá cô đơn, để rồi chẳng có mấy ai nhận ra ?
*****
Nhưng càng suy nghĩ, chúng ta lại càng thấy ấm lòng.
Bởi Thiên Chúa đến với con người trong những điều kiện thật thiếu thốn, chính là để chia sẻ thân phận mỏng dòn, yếu đuối, giới hạn của kiếp người, để cho những ai, đang sống trong cô đơn nghèo hèn, những ai đang bị hất hủi, những ai đang bị bỏ rơi, những ai đang bị gạt ra bên lề xã hội, đều có thể cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa tình thương, ngay trong chính cuộc sống đời thường của họ. Đây mới chính là niềm vui và là ý nghĩa đích thực của việc mừng Lễ Chúa Giáng Sinh.
Tiếc thay ngày nay, khi mừng lễ Chúa Giáng Sinh, người ta đã mất phương hướng.
Bởi người ta ăn mừng lễ Giáng Sinh, nhưng người ta không còn biết là ai Giáng Sinh nữa ???
Nếu là Chúa Giáng Sinh, thì người ta cũng không hiểu, Chúa Giáng sinh để làm gì ???
Bởi người ta đã loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống của họ.
Bởi người ta đã loại trừ Chúa ra khỏi xã hội của họ.
Ngày nay, người ta hiểu lễ Giáng sinh chỉ
- là ông già Noel,
- là cây thông,
- là đèn ông sao,
- là những đèn trang trí nhấp nhánh trông rất vui mắt,
- là những tiệc vui họp mặt, gặp gỡ bạn bè thân hữu,
- là những thiệp Giáng Sinh, với những lời chúc thật tốt đẹp, và những gói quà ý nghĩa trao tặng cho nhau.
Chỉ có thế thôi.
Còn món quà yêu thương, món quà cao quí nhất từ trời cao, trao ban cho con người, qua Chúa Giêsu Hài Đồng nằm trong hang lừa máng cỏ, thì người ta đã không còn hiểu ý nghĩa, cũng không có một chút cảm nhận nào, đã không còn được người ta quí trọng nữa. Thật đáng buồn thay !!!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con hiểu được ý nghĩa đích thực của biến cố tình yêu, một tình yêu vĩ đại, mà Thiên Chúa dành cho con, qua Hài Nhi Giêsu nằm trong hang lừa máng cỏ.
Xin cho con biết trân trọng món quà cao quí này.
Nhất là xin cho con biết sống như Chúa, vì Chúa đã dám sống như con. Amen.
Có một lần tôi nghe bọn trẻ hát bài “Có một bài ca không bao giờ quên”, nhưng chúng lại nghịch ngợm đổi lại, thành: “Có một bài quên không bao giờ ca”, tự nhiên tôi liên tưởng đến tâm tình tạ ơn, mà thường khi chúng ta hay quên, không mấy khi nhớ tới, để hát lên, để ca ngợi, để chúc tụng, để tôn vinh Thiên Chúa.
Đang khi đó, thì trong Kinh thánh, chúng ta thấy Chúa Giêsu lại thường hay dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa Cha, mỗi khi làm bất cứ việc gì.
- Chẳng hạn như khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều (Matthêu 15,36).
- Chẳng hạn như trong bữa tiệc ly (Matthêu 26,27),
- Chẳng hạn như khi làm cho La-da-rô sống lại từ cõi chết (Gioan 11,41), vv…
Nói đến tâm tình tạ ơn, chúng ta biết người Mỹ, từ những ngày xa xưa khi mới lập quốc, thì hàng năm, họ đã dành riêng ra một ngày, để cả nước tạ ơn Thiên Chúa, sau một mùa thu hoạch.
Họ gọi ngày này là Thanhksgiving Day.
Và theo lịch sử còn ghi lại, thì lễ Tạ ơn đầu tiên, được tổ chức tại Thành Phố Augustin, thuộc bang Florida, vào ngày 8-9-1565.
Và suốt gần 450 năm qua, người Mỹ vẫn trung thành tổ chức lễ này hàng năm, vào ngày thứ 5 cuối tháng 11.
Và trên bàn ăn của họ sẽ không bao giờ thiếu món ăn truyền thống, là gà tây và bí ngô.
Có khác chăng là ngày nay, lễ này đã được tổ chức rộng rãi, phổ biến khắp cả nước, và cả ở những nước chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Mỹ nữa.
Ngày nay, lễ này lại được kéo dài suốt cả tuần lễ, và họ chỉ để ý đến vấn đề ăn uống, vui chơi, và không còn mấy quan tâm đến yếu tố tâm tinh, đến những tâm tình đạo đức, có tính cách tôn giáo, như tổ tiên của họ xưa kia đã làm.
Nhân Mùa Tạ Ơn đang đến, chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu, mà bập bẹ những lời tạ ơn dâng lên Thiên Chúa Cha, nhất là những lời tạ ơn khó nói nhất của kiếp nhân sinh!
Có những lời tạ ơn thật dễ, để nói với nhau và cũng rất dễ, để nói với Chúa.
Nhưng cũng có những lời tạ ơn không thể thốt thành lời, nếu không có ơn Chúa.
Có khi phải đợi khi linh hồn được thấm nhuần ân sủng từ trời cao, hay có khi phải đợi đến gần buổi hoàng hôn của đời người, thì ta mới đủ can đảm, mà nói lên những lời tạ ơn muộn màng này.
Tạ ơn ai?
Tạ ơn hay hờn giận?
Cám ơn hay trách móc, khi phải nói lời Tạ Ơn Chúa, trong những nghịch cảnh đau thương của cuộc đời.
Hay, khi phải nói những lời Tạ Ơn Chúa, vì những người đã một thời làm ta đau khổ.
Lạy Chúa, những lúc đó, đúng là khó nói quá Chúa ơi!
Có những khi lời nói được thốt ra trong dòng nước mắt, mà không biết của hờn giận hay là của tha thứ.
Có khi những lời nói mới bập bẹ ở đầu môi, thì rồi lại bị nghẹn họng ngay, bởi những nghẹn ngào, tức tưởi lại trào lên, làm cho lời nói không tròn chữ, không tròn câu. Có khi lời nói được bật lên qua con tim rướm máu của những vết thương năm xưa chưa lành hẳn.
Dù thật khó để nói, dù ê a tập tành từng chữ như trẻ nhỏ đang học nói, thì Chúa ơi, con xin hứa sẽ cố gắng hết mình để nói những lời tạ ơn.
*****
Con xin cám ơn Chúa, vì những người bạn đã phản bội con năm nào. Tuy có đau đớn thật khi bị phản bội! Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, con đã hiểu được bài học về tình bạn chân thật. Bởi Chúa đã nói trong Tin Mừng thánh Gioan, đoạn 15,13 như sau:
“Tình thương chỉ cao quí, khi dám hy sinh tính mạng của mình vì bạn hữu.”
Con xin cám ơn Chúa, vì người con yêu năm xưa, đã phụ tình con. Tuy rất hận, vì bị phản bội, vì bị phụ rẫy! Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, con đã biết trân trọng hơn và biết quí yêu chính tình yêu, mà Chúa đã dành cho con, một thứ tình yêu:
“Yêu thương cho đến cùng, và đã dám chết vì con, đang khi con còn là tội nhân!” (Gioan 13,1).
Con xin cám ơn Chúa, vì những kẻ thù con năm xưa, những người đã từng bắn con ngã gục trên chiến trường năm nào, những người đã từng đẩy con vào chốn lao lung tù tội, đã làm cho gia đình con phải lận đận, phải lao đao, đã làm cho mọi người trong gia đình con phải điêu đứng, phải chao đảo trong những năm xưa. Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà gia đình con giờ đây đã vực đứng dậy được, đã đứng vững, và đã được bình an thanh thản trong ơn nghĩa Chúa.
Chính Chúa đã tạo cơ hội cho con, để con sống câu Chúa đã nói trong Tin Mừng thánh Matthêu 5,44 như sau:
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù, và hãy cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.”
Con xin cám ơn Chúa, vì những đứa con hoang trong gia đình, đã làm cõi lòng mẹ cha ra tan nát. Thất vọng, buồn tủi ngập tràn Chúa ơi! Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà chúng con hiểu ra: Chính chúng, đã giúp cho chúng con là cha mẹ, có cơ hội để nên thánh.
Con xin cám ơn Chúa, vì những bậc cha mẹ bất hảo, vì đã không yêu thương và đã không dạy dỗ con cái cho đúng mức, như bổn phận cha mẹ đòi buộc phải làm. Thất vọng và cay đáng lắm Chúa ơi, khi bị cha mẹ con bỏ bê con, hất hủi con! Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà trái tim con lại khát khao, lại quyết đi tìm một tình yêu tuyệt diệu nơi Thiên Chúa Tình Yêu.
Con xin cám ơn Chúa, vì những vấp ngã của tuổi thanh xuân của con. Bởi nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà con biết là con rất yếu đuối, nên con phải biết tập sống khiêm nhường hơn, và luôn biết tin yêu, cậy trông, phó thác và nương tựa vào lòng thương xót bao la của Chúa.
Con xin cám ơn Chúa, vì những tội lỗi của con, trong thân phận con người quá mỏng dòn, quá yếu đuối, cứ vấp đi, cứ ngã lại không biết bao nhiêu lần trong đời. Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà con đã hiểu, đó là những cơ hội, để con nếm cảm lòng nhân từ vô biên, hay thương xót của Thiên Chúa. Ôi, tội hồng phúc!
Con xin cám ơn Chúa, vì những quyết định sai lầm thuở nào, để rồi con phải rơi vào những cảnh ngang trái như hôm nay. Nhưng cũng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà con đã biết phấn đấu hơn, để vươn lên, để vượt thắng được những nghịch cảnh trong cuộc đời.
Con xin cám ơn Chúa, vì hai chữ “kiếp nghèo” luôn gắn liền với số phận hẩm hiu của đời con. Nói thật, là con rất ghét nó, có thể nói là ghét cay ghét đắng nữa. Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà con lại bình thản hơn và an tâm hơn. Bởi con đã hiểu, đây là con đường dễ dàng hơn, để đưa con vào Nước Trời. Bởi chính Chúa đã nói trong Phúc Âm thánh Matthêu 5,3 như sau:
“Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ.”
Con xin cám ơn Chúa, vì những lần thất nghiệp cay đắng, những lần phá sản, những lần bị lừa gạt, những lần mất nhà, và phải trắng tay. Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà con đã hiểu ra ý nghĩa đích thật về của cải: Của cải chỉ là một sự phù du ở đời này. Chính sách Giảng Viên đoạn 1,2 đã dạy chúng con như sau:
“Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân!”.
Con xin cám ơn Chúa, vì những lần thất bại ê chề nhục nhã. Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà con đã rút ra được biết bao nhiêu bài học, từ những lần thất bại ê chề nhục nhã đó.
Con xin cám ơn Chúa, vì cái căn bệnh hiểm nghèo mà con đang mang trong mình, bởi vì nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, mà con đã thức tỉnh hơn, để thấy rõ thân phận con người, thật là mỏng dòn, thật là rất mau qua, để con biết yêu quý cuộc sống hơn, và biết cố gắng sống thật đạo đức, biết lo tận dụng những giây phút ít ỏi còn sót lại trên cõi đời tạm này, để lập công đức.
Con xin cám ơn Chúa, vì tất cả những gì Chúa đã cất lấy đi khỏi con. Bởi con đã học được bài học phó thác của thánh Giob trong Cựu Ước: Hãy cứ tin tưởng, hãy cậy trông, hãy phó thác vào sự Chúa an bài, thì cuối cùng, mọi sự rồi sẽ tốt đẹp cho con, cả đời này lẫn đời sau.
Con xin cám ơn Chúa, vì những chén đắng, những thánh giá, những thử thách trong cuộc đời, mà Chúa đã trao cho con phải vác. Thật sự con không muốn nhận đâu. Nhưng khi nhìn vào hình ảnh của Chúa Giêsu trong vườn Giếtsemani, thì con cũng bập bẹ thân thưa với Chúa Cha:
“Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin hãy cất những chén đắng này xa con.
Nhưng xin đừng theo ý con. Một xin vâng theo ý Cha mà thôi”.
Con xin cám ơn Chúa, vì số vốn liếng quá ít ỏi, mà Chúa đã trao ban cho con, khi gởi con đến trong cuộc đời này! Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa con lại hiểu:
“Ai đã được cho nhiều, thì sẽ bị Chúa đòi lại nhiều hơn.” (Luca 12,48)
Con xin cám ơn Chúa, vì những lần Chúa đã thẳng tay thanh tẩy tôi luyện con, đã gọt dũa linh hồn con, mặc cho con phải dẫy dụa trong đau đớn. Nhưng mỗi lần khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, con lại được có thêm nghị lực, để thân thưa với Chúa Cha:
“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”.
Con xin cám ơn Chúa, vì tấm thân mệt mỏi bịnh hoạn của con, vì những lo toan vất vả của con trong cuộc sống, đã làm cho con mỏi mòn kiệt sức. Con rất mệt mỏi, có những lúc con cảm thấy thật chán chường, có những lúc con cũng không muốn sống nữa. Nhưng con lại nhớ lời của Chúa Giêsu, đã có lần an ủi khích lệ thánh Phaolô, được ghi lại trong thư thứ 2 gởi cho giáo dân Côrintô đoạn 12,9 với những lời lẽ thật quả quyết như sau:
"Ơn của Cha sẽ đủ cho con, vì sức mạnh của Cha, sẽ được biểu lộ cách trọn vẹn, trong sự yếu đuối của con".
Cho nên, con rất vui mừng và rất tự hào, vì những yếu đuối của con, sẽ là nơi để cho sức mạnh của Chúa ở mãi trong con.
Con xin cám ơn Chúa, vì những lần Chúa đã cương quyết không ban cho con những điều con xin, những gì mà con đang mong đợi, những thứ mà con cảm thấy rất cần. Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa mà con đã hiểu, là chỉ có Chúa mới biết những gì là cần thiết thật sự cho linh hồn con và cho phần rỗi đời đời của con. Cho nên con xin vâng.
Con xin cám ơn Chúa, vì cái chết oan nghiệt, vì sự ra đi vội vàng của người thân con, khi tuổi đời hãy còn quá trẻ. Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, con đã hiểu được ý nghĩa đích thực của cuộc đời: Đời người là ngắn ngủi, và giờ Chúa đến thì lại rất bất ngờ. Cho nên con phải biết quan tâm hơn nữa, mà lo cho phần rỗi đời của con, và phải biết dành tiền của, thời gian, công sức, để đầu tư cho cuộc sống mai sau của con.
Con xin cám ơn Chúa, vì những bài học cay đắng mà Chúa đang dạy dỗ con. Có những bài học con không hiểu hết ý nghĩa. Và đã có những lúc con muốn gào thét lên “tại sao là con?”, và “tại sao lúc nào cũng lại là con?”. Nhưng nhờ ơn Chúa và nhờ những giáo huấn của Chúa, con đã hiểu được rằng: Chỉ những ai được Chúa thương yêu thì Chúa mới sửa phạt thôi. Chính sách khôn ngoan, đoạn 3,12 đã nói như thế này:
“Thiên Chúa khiển trách những người Chúa thương, như người cha đối xử với đứa con yêu quý.”
Lạy Chúa, đường đời trước mắt con, hãy còn đầy dãy chông gai, hãy còn có biết bao nghịch cảnh, đó chính là những “Lời Tạ Ơn Khó Nói”.
Có những cái con chưa nhìn ra hết, có những điều con chưa cảm nhận được, và có những lời chưa thể thốt lên lời tạ ơn lúc này.
Nhưng xin Chúa ban ơn thêm sức cho con, để con thêm can đảm, mà Tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh, có khi là rất là ngang trái.
Xin cho con biết cám ơn anh chị em đang sống chung quanh con, dù đó là kẻ thù.
Mà Tạ Ơn, không phải chỉ là trong ngày lễ Tạ Ơn hôm nay, mà con xin tạ ơn Chúa, mọi ngày trong suốt cuộc đời con.
Lạy Chúa, xin cho con đừng quên cám ơn bao giờ. Amen.
Dần là chi thứ ba, trong mười hai chi, đó là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Năm Dần là năm con hổ. Người miền Bắc gọi là hổ, người miền Nam gọi là cọp.
Người ta còn dùng nhiều từ khác nữa, để gọi con thú này, như là ông hùm, ông hầm, ông cọp, ông khái, ông kễnh, ông ba mươi, ông sơn vương, ông sơn quân, ông chúa sơn lâm, vv…
Những từ kể trên có chữ "ông" được ghép vào, là để bày tỏ lòng tôn vinh, kính trọng và khiếp sợ, dành cho con thú họ nhà mèo này.
Hổ là một loài hung dữ, nên những gì có tính cách hung dữ, thì đều được người ta gọi là hổ: như rắn hổ, rắn hổ mang, nhện hắc hổ, nhện hùm.
Nọc của những loại này có thể nói là độc hại vào hạng nhất thế giới.
Cọp thường ở trong rừng, nhưng ở thành thị, chỗ có đông người, người ta cũng thấy có cọp:
Đó là những người thích lảng vảng, la cà ở các nhà sách, ở các sạp bán báo, họ “đọc cọp” các sách báo, chứ không chịu mua, để khỏi phải trả tiền.
Còn ở trường học, người ta cũng thấy có cọp, đây là thứ cọp lai giống, gọi là “Cọp-Dê), đó là do đọc trại từ Copier trong tiếng pháp, có nghĩa là chép bài.
Bọn Cọp-dê này là những học sinh không chịu học bài, chỉ rình chờ để cóp bài của người khác, hoặc của sách giáo khoa, hoặc của các “phao rơi”, bay trôi nổi, do các bạn bè bắn tới.
Bọn cọp-dê này chẳng may, gặp phải những thầy cô tinh mắt bắt được, thì sẽ bị phê cho hai chữ là "đi cọp", hay cọp dê, hay là cóp pi bài người khác. Thế là những con cọp đó đành phải ôm trứng vịt ung mang về nhà mà luộc ăn. Ăn thì nuốt không vô. Mà mặt thì méo xẹo, buồn thỉu, buồn thiu.
Chưa hết, cuối tháng , cộng các điểm lại, bọn cọp bị trứng vịt ung đó, phải lần lượt bị kéo xuống văn phòng, để ôm phiếu liên lạc về gia đình, trình cho cha mẹ.
Khi cha mẹ ký tên vào, thì chắc cũng phải kèm thêm những cái vết roi mây trên mông, trên đít. Những lằn roi mây trên mông, trên đít của những con cọp-dê này, thường không giống những cái vằn, trên lưng cọp vằn thật.
Nói thì nói vậy thôi, chứ bọn cọp-dê ngày nay tinh quái lắm: Chúng thường không đưa sổ liên lạc cho cha mẹ đâu. Chúng thay cha mẹ, tự ký lấy vào sổ liên lạc, để khỏi bị phát hiện là họ nhà cọp, và cũng để tránh những làn roi đau đớn có thể xảy ra.
Nhà trường và phụ huynh, ai cũng biết cái mánh này, nhưng chẳng ai bận tâm chỉnh sửa. Hoặc có muốn chỉnh sửa cũng đành bó tay, không cách nào khác. Rồi cứ thế mà cho qua.
Trong các kỳ thi, người ta cũng thấy bọn cọp-dê thường lảng vảng ở các “hổ bảng” (là những bảng ghi tên những thí sinh trúng tuyển).
Những con cọp-dê này đành phải chấp nhận số phận đứng ở ngoài thôi, bởi làm gì có cái vinh dự được thấy tên mình trên bảng.
Cọp được gọi là ông ba mươi, có lẽ là vì xưa kia, đất rộng, người thưa, rừng rú rậm rạp, thú vật hoang dã nhiều, nên cọp sống rất thoải mái, và thường hay lân la đến các làng mạc, để quấy nhiễu con người. Do đó, để diệt cọp, trừ tai họa cho dân chúng, triều đình nhà vua mới ban hành luật: Hễ ai bắt được cọp, nhà nước sẽ thưởng cho ba mươi quan tiền.
Nhưng cũng có người giải thích: Là đêm ba mươi, trời thường rất tối, nên cọp hay đến quấy nhiễu làng mạc, nên người ta gọi cọp là ông ba mươi.
Ngày nay, nếu ba mươi, mà lại được cộng thêm ba, thì làm chúng ta liên tưởng đến một thức uống 33 tuyệt hảo.
Gọi là thức uống tuyệt hảo, là bởi vì ở các đám cưới và ở các quán nhậu, người ta thấy trưng bày la liệt trên các bàn ăn. Và sau bữa tiệc, người ta cũng thất rất nhiều chai-lon nằm ngổn ngang ở dưới đất.
Bọn cọp thành phố xưa kia trước năm 75, cũng có một thức thức uống riêng, gọi là bia chai 33, hay cũng gọi là bia con cọp. Bẵng đi một thời gian khá lâu vắng bóng, nay người ta lại thấy tái xuất hiện trở lại cùng với bia 33 ở Việt Nam.
Lâu ngày lại được uống bia con cọp, thì cũng thấy hay hay, nhưng bởi từ nhiều năm nay, người ta đã quá quen với bia lon, và với loại bia màu xanh, màu dầu gió Heineken, nên bia con cọp đành phải chịu lép vế.
Hùng và hổ tuy dữ như thế, nhưng không bao giờ ăn thịt con. Riêng hổ bố thì rất là tệ: Xong chuyện trăng hoa với hổ mẹ thì bỏ đi, để mặc hổ mẹ lo chăm sóc, nuôi dạy con cái. Chỉ khi nào co nhu cầu cần nhau, thì hổ bố mới xáp lại.
Hổ bố chỉ có một bổn phận duy nhứt đó thôi, cho nên những ông chồng nào bắt chước hổ mà sống kiểu này, tức là không hề quan tâm gì đến vợ, đến con, sống một cách vô tư, vô trách nhiệm, thì sẽ bị người đời nói là sống theo kiểu hổ, và sẽ bị kết án là “loại chồng hổ mang”.
Cọp không thích khỉ, không thích rắn và rất ghét loài heo, loài lợn. Bốn con này gặp nhau là chỉ có nước đánh nhau, cắn nhau cho đến chết mới thôi. Trong tử vi có nói: Dần, Thân, Tị, Hợi tứ hành xung. Nghĩa là những con thú này không nên cưới lấy nhau làm chồng làm vợ.
Trong các cuộc hôn nhân, người ta thường sánh ví cô dâu chú rễ cũng giống như những con thú này, để người ta kén chọn.
Tuy không hợp lý, nhưng bao cuộc hôn nhân đã tan rã, vì những con thú này.
Trong thực tế, nhiều cuộc hôn nhân nằm trong tứ hành xung, mà vẫn sống với nhau rất hạnh phúc và làm ăn rất phát đạt.
Hổ cũng được người ta dùng để đặt tên cho người. Nhưng không thấy ai đặt tên hổ cho phụ nữ.
Tuy nhiên, người phụ nữ nào có cái tính hung dữ, cũng sẽ bị người ta gán cho cái tên là hổ cái, là cọp cái.
Người ta thường nói, là Nam thực như hổ, nữ thực như miêu (Nghĩa là nam giới, thì ăn mạnh như cọp, còn nữ giới thì ăn yếu như mèo).
Không biết câu nói này đúng đến mức nào, chứ thực sự, khi người phụ nữ ôm tiền đi chợ, rồi ngồi ăn ở các hàng quán, trong tiệm ăn hay ngồi ở lề đường, thì làm sao kiểm chứng được là phe nào ăn nhiều ăn ít, ăn mạnh ăn yếu.
Hổ có mạnh thật, nhưng có khi lại thua con chồn, vì chồn có mưu lược hơn.
Chuyện kể rằng:
Một hôm hổ bắt được một con chồn. Hổ dọa sẽ xé xác con chồn ra để ăn thịt, nhưng chồn chỉ thẳng mặt hổ và nghiêm nghị nói:
Này, đừng có xúc phạm đến ta, bởi xúc phạm đến ta là xúc phạm tới Trời. Bởi ta được Trời sai phái xuống dương gian này, là để làm Chúa Tể cả muôn loài.
Thấy hổ có vẻ không tin, chồn liền nói thêm:
Nếu không tin, mi cứ đi theo ta thì sẽ thấy.
Quả nhiên, khi chồn đi trước, hổ đi theo sau, thì các loài thú vật trong rừng, khi vừa trông thấy, liền bỏ chạy tán loạn, mà hổ nào có hay có biết rằng: Các giống thú chỉ vì sợ hổ mà chạy, chứ nào có phải sợ chồn bao giờ đâu. Thế là chồn được thoát nạn.
Khi nói về chuyện con hổ con cọp, mà không nhắc đến chuyện sau đây, thì phải kể là còn rất thiếu.
Chúng ta biết ngày xửa ngày xưa, loài người và muông thú trong rừng, đều sống rất gần gũi, rất hài hòa và rất than thiện với nhau.
Một hôm, có một con cọp từ trong rừng đi ra, thấy một anh nông dân đang cùng với con trâu cày ở dưới ruộng.
Trâu thì cặm cụi, đi từng bước, lâu lâu lại bị anh nông dân quất cho một roi vào mông.
Cọp lấy làm ngạc nhiên lắm. Đợi đến trưa, lúc trâu được tháo khỏi cái cày, cọp liền tiến lại gần trâu và hỏi:
- Này anh bạn, trông anh khỏe như vậy, mà tại sao anh lại để cho con người đánh đập khổ sở như thế?
Trâu khẽ trả lời, nói nhỏ vào tai Cọp:
- Bọn con người tuy nhỏ, nhưng họ có trí khôn, anh ạ!
Cọp không hiểu, nên tò mò hỏi thêm:
- Trí khôn là cái gì? Nó như thế nào?
Trâu không biết phải giải thích ra sao, đành trả lời qua quýt cho xong:
- Trí khôn là trí khôn, chứ còn là cái gì nữa? Muốn biết rõ thì hỏi con người đó xem.
Con cọp nhẫn nha bước lại gần chỗ anh nông dân và hỏi:
- Này anh, trí khôn của anh đâu, cho tôi xem thử một tí có được không?
Anh nông dân suy nghĩ giây lát rồi nói:
- Được, trí khôn của tôi, tôi để ở nhà. Để tôi về nhà lấy cho anh xem.
Nghe nói thế, cọp mừng lắm.
Anh nông dân đi vài ba bước. Bỗng quay lại, làm như sực nhớ ra một điều gì nên nói:
- Nhưng mà không được, lỡ ra tôi đi khỏi, anh ăn thịt con trâu của tôi thì sao? Hay là anh chịu khó, để tôi tạm buộc anh vào gốc cây này, để cho tôi được yên tâm.
Con cọp đồng ý ngay.
Anh nông dân bèn lấy dây thừng, trói cột con cọp thật chặt vào một gốc cây. Xong, anh ta lấy rơm chất chung quanh cọp, rồi châm lửa đốt.
Khi vừa chăm lửa, anh nông dân cười nắc nẻ thật to tiếng:
- Đây này, đây này, trí khôn của ta đây! Anh bạn có thấy chưa!
Com trâu đứng bên cạnh thấy vậy thì quá thích, cười bò lăn một cách đắc chí.
Và vì trâu cười ngất nghẻo, nên hàm răng của trâu cứ ma sát và đụng chạm liên hồi vào đá, nên những cái răng ở hàm trên của trâu đều gãy hết, chẳng còn một cái nào.
Còn con cọp, mãi sau, khi dây thừng bị cháy đứt, nó mới có thể vùng dậy được.
Thế là cọp ta, ba giò bốn cẳng, chạy thẳng một mạch vào rừng sâu, không dám quay mặt lại.
Từ đó, các cọp sau này khi sinh ra, cũng đều mang trên mình những cái vằn đen trên lưng, đó là dấu tích của những vết cháy.
Còn trâu thì chẳng con nào có răng ở hàm trên.
******
Bạn thân mến,
Chúng ta biết, trong muôn loài vật Chúa tạo dựng nên, thì chỉ có con người, là thụ tạo cao cả nhất, vượt xa muôn loài, trỗi vượt muôn thú.
Bởi, con người được Thiên Chúa ưu ái tạo dựng nên, giống hình ảnh Thiên Chúa. Nghĩa là chỉ có con người là thông minh, có lý trí, có ý chí, có tự do.
Con người còn được Thiên Chúa ban quyền thống trị muôn loài, và làm chủ vũ trụ và vạn vật.
Cho dù là những sinh vật bé nhỏ, hay những loài vật to lớn mạnh bạo, hung dữ như hổ, báo, sư tử, voi, khủng long, vv… cũng đều phải quy phục con người.
Cho dù những loài tinh khôn như khỉ, thì cũng chỉ là bắt chước con người mà thôi, chứ không thể sánh ví với con người được.
Vì thế nhân ngày đầu năm Canh Dần, là dịp thuận lợi, để chúng ta tạ ơn Chúa, đã tạo dựng nên chúng ta, có trí thông minh, có tài năng vượt xa muôn loài muôn vật, và còn cho chúng ta được nên giống hình ảnh của Thiên Chúa.
Chúng ta tạ ơn Chúa, đã yêu thương chúng ta vô bờ bến, cho dù con người chúng ta rất là yếu đuối, rất là bất toàn, rất là giới hạn, rất là tầm thường. Nhưng tình yêu Thiên Chúa vẫn mãi luôn rộng lớn, có thể “phủ lấp muôn vàn tội lỗi của chúng ta”.
Chúng ta tạ ơn Chúa, về một năm đã qua được bình an trong tay Chúa. Cho dù cuộc sống của chúng ta hãy còn có những khó khăn, nhưng chính Thiên Chúa đã dìu dắt chúng ta, nhờ đó, chúng ta đã vượt qua được những thăng trầm của dòng đời.
Cho dù dòng đời đâu mấy khi được bình yên, nhưng Chúa vẫn luôn luôn nâng đỡ chúng ta, bằng những ơn lành hồn xác của Người.
Chúng ta tạ ơn Chúa, còn là dịp để chúng ta biết sống sao cho xứng đáng hơn nữa với những hồng ân Chúa đã ban tặng cho ta.
Thiên Chúa cho chúng ta nên giống hình ảnh Ngài, thì chúng ta hãy cố gắng luôn tự chủ bản thân, đừng buông mình theo những đam mê tội lỗi xác thịt tội lỗi, đừng phá hủy những nét đẹp của tâm hồn, do chìu theo những thói hư tật xấu.
Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta, cho dù chúng ta còn nhiều bất xứng, nên chúng ta cũng hãy cố gắng bắt chước Chúa, mà sống tình yêu đó với tha nhân.
Hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa là Đấng nhân từ.
Hãy sống quảng đại vì Thiên Chúa luôn quảng đại với chúng ta.
Hãy trao tặng cho nhau niềm vui và hạnh phúc, vì chính Thiên Chúa đã luôn trao ban cho chúng ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, trao ban một cách nhưng không.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con luôn được trong sạch và thánh thiện, để chúng con luôn xứng đáng mang hình ảnh của Thiên Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho những ngày Xuân Mới của chúng con.
Xin cho những ngày Xuân này và trong suốt năm mới, năm Canh Dần này có được niềm vui trọn vẹn và được hạnh phúc tràn trề.
Nguyện xin Chúa Xuân, ban cho mọi nhà và cho mọi người, một năm mới này, được an bình, được may mắn, và được thành đạt trong mọi lãnh vực của cuộc sống.
Nhất là xin giúp chúng con biết luôn sống xứng đáng là con Chúa hơn, để chúng con cũng được Chúa yêu thương hơn nữa. Amen!
Khi nói: Người giáo dân dám “giăng bẫy” các linh mục, thì chắc là nhiều người không đồng tình, ít ra ở Việt Nam hôm nay.
Bởi người Giáo dân Việt Nam xưa nay, vẫn rất yêu kính các linh mục, và còn yêu kính một cách rất đặc biệt nữa.
Thế nhưng, khi suy nghĩ cho kỹ về những cách yêu kính và những cách cư xử quá tốt của người giáo dân đối với các linh mục, nhiều khi đã trở thành những cái bẫy thật sự cho các linh mục, mà người giáo dân không hề hay biết.
Tuy, chỉ là vô tình thôi và cũng rất chân thành thôi, nhưng có khi nó đã gây nên tai hại cho các linh mục không phải là ít.
Rất nhiều linh mục đã từng bị sập vào những cái bẫy thật ngọt ngào, thật êm ái, thật dễ chịu đó.
Kẻ giăng bẫy thì rất nhiệt tình, chỉ vì lòng yêu mến, hiếu kính, rất đơn sơ, rất chân tình.
Còn kẻ bị lọt bẫy thì cũng cảm thấy là bình thường. Có khi còn cảm thấy thoải mái, dễ chịu, và cũng rất hài lòng nữa, mà không hề có một chút áy náy, hay nghĩ ngợi nào:
Này nhé:
Ở ngoài đời, để có được mãnh bằng tốt nghiệp Đại Học và để có thể hành nghề, thì một vị Bác sĩ cần phải mất 7 năm học, và còn phải mất nhiều thời gian nữa để đi kiến tập, thực tập.
Và một khi đã ôm được một mãnh bằng chuyên môn rồi, thì vị ấy cũng chỉ tốt nghiệp có một khoa chuyên biệt đó thôi.
Còn nếu, muốn học thêm một khoa nào khác nữa, thì đương sự phải tốn mất thêm nhiều năm nữa.
Đó là chưa nói: Để có được một cái tâm đạo đức trong nghề nghiệp, hoặc để được giỏi giang trong chuyên môn, thì vị đó cần phải rèn luyện mài dũa khá lâu nữa, rất công phu, tốn mất nhiều năm, phải nghiên cứu thường xuyên qua sách vỡ, và qua những thao tác rèn luyện từng ca bệnh mỗi ngày, thì vị bác sĩ đó mới được nhiều người trân trọng, mới được nhiều người quí mến, và mới có thể thành một vị bác sĩ giỏi giang, nổi tiếng.
Thế nhưng, người linh mục thì khác:
Từ một người giáo dân rất bình thường, chỉ cần được vào Chủng Viện, chỉ cần được học tập và đào tạo trong vòng 6, 7 năm, cũng chỉ tương đương với Đại Học thôi.
Nhưng được học một số môn chuyên biệt về “đạo”, cộng thêm một thời gian đi “giúp xứ”, nếu đạt được tiêu chuẩn của các đấng bề trên yêu cầu, thì đương sự sẽ được Đức Giám Mục phong chức linh mục cho.
Thế là, vừa khi được phong chức linh mục xong, thì người linh mục sẽ được mọi người giáo dân trân trọng và quí mến ngay.
Họ coi người linh mục như là một thần tượng của họ.
Họ coi linh mục như là một người đã thông suốt hết mọi sự, hiểu biết hết mọi chuyện trên trời dưới đất.
Bởi người giáo dân nghĩ:
Các linh mục đã từng học được những môn học rất là cao siêu, như là Kinh Thánh, như là Thần Học, như là Triết Học, vv…
Việc thần tượng hóa các linh mục như vậy, đã làm cho người linh mục quên rằng:
“Môi trường xã hội ngoài đời ngày nay”, đã là một lãnh vực rất là đa dạng, rất là mênh mông bao la, có thể nói là vô tận.
Và cuộc sống con người hôm nay, thì cũng rất là phong phú, muôn mầu, muôn vẻ, đổi thay hàng ngày, thay đổi với tốc độ đến chóng mặt.
Và thực tế cũng cho thấy, hiện nay có không biết bao người rất là tài giỏi, trong các lãnh vực thật chuyên môn.
Còn các linh mục, thì kiến thức của các ngài cũng chỉ giới hạn các trong một góc cạnh nào đó, rất nhỏ thôi, thuộc lãnh vực tôn giáo riêng của mình.
Rồi khởi đi từ những suy nghĩ và những quan niệm “thần tượng các linh mục” như hiện nay, thì người giáo dân thường coi linh mục là vị lãnh đạo tinh thần tuyệt hảo của họ, là người cha thiêng liêng, rất đáng kính trọng của họ.
Nhiều khi người linh mục lại được họ mời kiêm nhiệm thêm nhiều chức vụ rất khác nhau, hay có khi được họ mời để tư vấn trong những lãnh vực, mà người linh mục chẳng hề có một chút chuyên môn nào, và có khi cũng chẳng có bao nhiêu kinh nghiệm trong lãnh vực luật pháp, chính trị, kinh tế, tâm lý, xã hội, có khi cả trong lãnh vực xây dựng, chăn nuôi, trồng trọt nữa...
Những kiến thức đó có chăng thì cũng chỉ là những kiến thức có tính cách lý thuyết, và trên sách vỡ thôi.
Rồi, từ một người chuyên rao giảng lời Chúa và cử hành các bí tích, thì người linh mục có khi lại phải đứng ra lo chuyện hòa giải các vụ tranh chấp kiện tụng, giữa gia đình này với gia đình nọ, giữa con người này với con người kia, khi có tranh chấp đất đai, hay phân chia tài sản, vv... Mà những cuộc hòa giải và xử kiện này, thì lại miên man mông lung, thuộc đủ mọi lãnh vực, không hề có một ranh giới nào xác định.
Có khi linh mục cũng phải đứng ra làm kỹ sư, làm kiến trúc sư bất đắc dĩ, có khi kiêm nhiệm luôn chức đốc công các công trình xây dựng, có khi lại được mời làm quân sư về cung cách làm ăn này khác.
Những kiêm nhiệm này của các linh mục, nhiều khi rất là “đời”, không hề có một chút dính dáng gì với đạo, có khi chẳng liên quan gì với những môn học, mà các ngài đã học, hay đã được đào tạo ở trong chủng viện.
Người giáo dân lại cũng có thói quen, nhìn linh mục như một người thông suốt mọi sự, bởi “linh mục là người có nhiều ơn Chúa, là người đại diện cho Chúa”, nên độ tin cậy sẽ cao hẳn hơn mọi người.
Do đó, khi được dịp xúc tiếp với linh mục, hay được linh mục ghé thăm nhà, hoặc được linh mục nhận lời mời trong những dịp này khác, thì người giáo dân lại coi đó là một niềm vinh dự thật lớn lao.
Thế nhưng trong thực tế, vì những cái bẫy ngọt ngào này, mà người linh mục, có khi không còn sáng suốt đủ, để đánh giá chính mình cho đúng, cho chính xác. Cho nên, linh mục không còn biết mình là ai nữa.
Do đó, không thiếu những trường hợp các linh mục đã bị sụp hố thê thảm, đã bị xập bẫy thật đau thương, đã bị thua lỗ thật nặng nề, đã bị thất bại thật chua cay, thật thê thảm, thật đau đớn, mà khi kết cuộc, linh mục mới biết, thì mọi chuyện đã xong rồi, và không thể bắt đầu lại được nữa.
Việc kính trọng các linh mục là điều quý giá, là điều tốt. Nhưng, các cử chỉ thái quá, theo cái kiểu: “Con xin phép lạy cha a” (đã lạy Cha, mà còn phải xin phép trước), thì quả là một cái bẫy nguy hiểm.
Nguy hiểm ở chỗ, nó làm cho người linh mục quên đi cái thân phận bụi tro của mình, đã quên đi, những yếu kém, rất giới hạn của mình.
Và từ đó, linh mục cũng đã quên đi cái vai trò của mình: Mình chỉ là một dụng cụ tầm thường được Chúa dùng, để phục vụ phần rỗi đời đời cho nhân loại, cho mọi người.
Sự linh mục tự coi mình là cái rún của vũ trụ, là lương tâm của nhân loại, là người duy nhất đúng, thì sẽ dễ trở thành quan liêu, độc tài, độc ác, độc đoán, độc diễn.
Coi chừng, người linh mục đã đánh mất phương hướng, đã làm mất đi cái căn tính của linh mục.
Và như thế, rõ ràng là linh mục đã bị sụp bẫy do giáo dân bày ra. Đây quả là điều thật đáng tiếc.
Bởi, không phải chỉ thiệt hại cho giáo dân mà thôi, mà có khi còn thiệt hại cho chính linh mục nữa, cả đời này, lẫn đời sau.
*****
Đúng ra, người linh mục phải luôn luôn cố gắng sống, như một ngọn đèn đang cháy sáng, phải luôn chấp nhận một sự hao mòn của ngọn đèn sáp đang tan chảy, để có thể cho ánh sáng tỏa khắp nơi, cho mọi giáo dân.
Anh sáng thì chỉ có thể lung linh đẹp đẽ, khi cây đèn chấp nhận để cho chất sáp liên tục bị hao mòn, liên tục bị chảy tan ra.
Như thế, đời linh mục quả là một sự trộn lẫn, có ánh sáng và bóng tối, cũng như ngọn đèn, có những lúc rực rỡ lung linh, nhưng cũng có những lúc leo lét lu mờ, có thể vì những lo âu phiền muộn, có thể vì những bổn phận linh mục chưa chu toàn.
*****
Nhưng, dù ngọn đèn có cho những ánh sáng lung linh rực rỡ, hay chỉ là những ánh sáng leo lét, thì xin đừng có ai đó quên rằng: Là ngọn đèn ấy cũng đã từng một thời, cho ta ít nhiều ánh sáng.
Dù ánh sáng đó, nhiều khi chưa đạt được như lòng ta mong ước, thì ta cũng phải biết trân trọng. Ta cũng phải biết tri ân, vì biết bao hao mòn, mới có được những ánh sáng đó.
Người ta thường nói: “Bạc là Dân, bất nhân là lính”, câu nói này không phải lúc nào cũng đúng, càng không phải là đúng cho mọi người.
Nhưng xin đừng có ai đối xử tệ bạc với các linh mục.
Xin cũng đừng có ai cư xử cách bất nhân đối với những ngọn đèn, đã ít nhiều soi sáng cho đời ta, cho gia đình ta, cho giáo xứ của ta, trong một thời gian nhất định nào đó.
Ta cũng đừng quên:
Thân phận con người là rất mỏng dòn, là rất yếu đuối, là rất là hạn chế.
Ai trong chúng ta cũng đều biết rõ điều đó. Và ai trong chúng ta cũng đã từng có ít nhiều kinh nghiệm đó.
Cho nên, chúng ta đừng có bắt ai phải là Thiên Thần, đang khi ta cũng chỉ là những con người tầm thường thôi.
Xin cũng đừng có ai đó quá xét nét, để rồi lôi các linh mục lên bàn cân, để mà cân đo, để so sánh, hoặc đặt các linh mục lên bàn mổ, để mổ xẻ, để phê bình, để chỉ trích, để kết án không thương tiếc.
Chúng ta hãy luôn cố gắng, mà sống quảng đại hơn với các linh mục, để biết cảm thông, để biết chấp nhận, để biết tha thứ, và nhất là để biết cầu nguyện nhiều hơn nữa cho các linh mục của Chúa.
Có một câu nói của cố tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã trở thành bất hủ. Ong nói:
“Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho bạn,
mà hãy hỏi bạn xem: Bạn đã làm gì cho Tổ Quốc hôm nay”.
Câu nói này sẽ giúp ta có được có một tâm hồn bao dung hơn, rộng lượng hơn, hào hiệp hơn, cao thượng hơn, và quảng đại hơn.
Với câu nói này, ta cũng có thể nói:
“Đừng đòi hỏi linh mục đã làm gì cho bạn,
mà bạn hãy tự hỏi mình xem, bạn đã làm gì cho người linh mục hôm nay”.
Cụ thể hơn:
Là có bao giờ bạn đã nghĩ, là bạn cần phải tìm thời gian, để đi thăm viếng, để an ủi, để nâng đỡ tinh thần và giúp đỡ phần vật chất cho các linh mục đang hưu dưỡng tại các nhà hưu dưỡng chưa?
Chắc là chưa phải không?
Không lẽ bạn lại quên những ngọn đèn đã một thời chấp nhận hao mòn, cả tinh thần lẫn thể xác, để soi sáng cho bạn, cho gia đình bạn và cho giáo xứ của bạn.
Vậy bạn hãy sớm có một quyết định cụ thể và tích cực hơn đi. Và hãy sớm thực hiện đi.
Lạy Chúa, xin nhắc nhở mỗi người chúng con, về lòng tri ân hiếu thảo phải có, đối với các linh mục của Chúa. Amen.
Có một nhà phú hộ kia rất giàu có. Ông là người rất có uy tín, và ông cũng rất có uy thế trong xã hội. Mọi người đều kính trọng nể phục ông. Nể phục về cung cách làm ăn rất lương thiện và cũng rất thành đạt của ông.
Nhất là trong cách sống và trong cách giao tiếp với mọi người, thì không ai có thể chê trách ông về bất cứ điều gì.
Bỗng đột nhiên, ông lâm bệnh nặng và qua đời. Mọi người ai cũng thương tiếc ông. Riêng các gia nhân, thì ai nấy cũng đều rất xúc động, bùi ngùi, khóc lóc thương tiếc ông, thương tiếc cho một ông chủ quá tốt bụng đối với họ.
Sau lễ an táng trở về nhà, các gia nhân tiếp tục bàn tán thêm về cái chết đột ngột của ông chủ.
Trước tiên, người quản gia lên tiếng nói:
Này các bạn, theo các bạn, thì ông chủ của chúng ta, hiện nay đang ở đâu?
Các bạn gia nhân đồng loạt trả lời:
Thì ổng ở trên Thiên Đàng chứ ở đâu. Bởi khi còn sống, ổng rất tốt bụng đối với chúng ta, cho nên bây giờ, sau khi chết, tôi tin chắc là Chúa sẽ thưởng công ông ta trên Thiên Đàng. Chúng tôi tin chắc là như vậy, và chắc chắn là như vậy.
Nhưng người quản gia giơ tay lên, xin mọi người thinh lặng, để anh ta nói lên ý kiến riêng của anh ta:
Theo tôi thì khác:
Tôi tin chắc là ông chủ của chúng ta, không có ở trên Thiên Đàng.
Tất cả các bạn gia nhân, ai nấy đều nhao nhao lên phản đối:
Ông chủ đối xử tốt với chúng ta như vậy, thì làm sao Chúa lại không cho ông ta ở trên Thiên Đàng ?
Người quản gia ung dung nói tiếp:
Như thế này nhé: Tất cả anh em chúng ta đều biết: Tính tình của ông chủ của chúng ta, là rất chu đáo, là rất cẩn thận trong mọi lãnh vực, nhất là trong công việc làm ăn.
Đặc biệt, là khi sắp sửa đi đâu xa, như là khi sắp sửa đi ra nước ngoài, thì chúng ta thường nghe ông ta nói trước, về chuyến đi đó, và ông ta thường nói đi, nói lại rất nhiều lần, về chuyến đi sắp tới của ông, về những nước, mà ông ta sẽ đặt chân tới.
Rồi, chúng ta cũng thấy là ông ta rất lo lắng và chính ông ta đích thận chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho chuyến đi đó, phải nói là rất chu đáo, là rất kỹ lưỡng. Bởi ông ta không muốn, là khi ở đất khách quê người, mà lại sơ xuất, hay quên sót, hay thiếu thốn điều gì.
*****
Vậy mà khi còn sống, có ai trong chúng ta đã từng nghe ông chủ chúng ta nói gì về Thiên Đàng không, hay có ai trong chúng ta đã từng nghe biết gì về ý định của ổng muốn đi vào Thiên Đàng không. Hay có ai trong chúng ta đã từng thấy ông chủ của chúng ta chuẩn bị gì cho chuyến đi vào Thiên Đàng không. Tất nhiên là không.
Điều đó, ai trong chúng ta cũng điều biết rõ.
Cho nên sự suy đoán của tôi bây giờ là chắc chắn, là chính xác, là đúng không sai. Chủ của chúng ta không hề có mặt ở trên Thiên Đàng.
Và ai trong chúng ta cũng đã đều biết:
Thiên Đàng là một nơi rất xa xăm. Để đi tới đó, chúng ta cần phải mất nhiều thời gian lắm, phải công phu vất vả ghê lắm thì mới có thể đi tới đó được.
Mà đây, là một chuyến đi không bao giờ trở lại.
Một chuyến đi có tính cách quyết định cho số phận đời đời: Hoặc sẽ được hạnh phúc vĩnh viễn bên Thiên Chúa. Hoặc sẽ phải bị trầm luân mãi mãi nơi chốn cực hình.
Một chuyến đi thật quan trọng như vậy, mà trong những ngày còn sống, ông chủ của chúng ta đã không hề nhắc tới, cũng không hề nghĩ tới, và đã chẳng hề có một chút chuẩn bị nào, mà ông chủ của chúng ta lại là một người rất cẩn thận. Cho nên, việc các anh khẳng định là ông chủ chúng ta hiện đang ở trên Thiên Đàng, thì quả là không có cơ sở.
*****
Bạn thân mến !
Thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trên đây, cũng có thể là thái độ của mỗi người chúng ta!
Coi chừng, chúng ta suốt ngày đêm, bôn ba lo toan cho cuộc sống, để rồi không có thời gian nữa, mà nghĩ tới Thiên Đàng.
Mà vì đã không có nghĩ tới Thiên Đàng, cho nên chúng ta đã không hề có một chút chuẩn bị gì cho chuyến đi vào Thiên Đàng.
Hay là thỉnh thoảng, chúng ta cũng có nghĩ tới Thiên Đàng, nhưng mà vì thỉnh thoảng mới nghĩ tới, cho nên việc chuẩn bị của chúng ta hãy còn quá sơ sài, quá hời hợt, còn thiếu quá nhiều chuyện, còn thiếu đủ mọi thứ.
Hay là chúng ta nghĩ, hễ không phạm tội, hễ không cướp của, hễ không giết người, hễ không trộm cắp gì của ai, không giật vợ giật chồng của ai, là đương nhiên được Thiên Chúa cho vào Thiên Đàng.
Nếu như vậy, thì chúng ta đã quên:
Có công thì Chúa mới thưởng,
không có công thì lấy gì để Chúa thưởng.
Vã lại, để được vào Thiên Đàng, thì trước tiên ta phải có ý định vào Thiên Đàng, ta phải muốn đi vào Thiên Đàng, ta phải quyết tâm vào Thiên Đàng, ta phải phấn đấu vào Thiên Đàng, thì ta mới vào Thiên Đàng được.
Bởi Chúa luôn tôn trọng tự do của mỗi người chúng ta.
Mà nhất là Chúa đã nói, lối vào Thiên Đàng là phải đi qua cửa hẹp, là phải bước đi trên những con đường cong queo, những con đường có nhiều sỏi đá, những con đường rất khó đi.
Cho nên, chuyện vào Thiên Đàng sẽ không có chuyện đương nhiên, cũng không phải là chuyện hên xui may rủi.
Ta nên nhớ, đây là chuyện phải quyết tâm, đây là chuyện phải phấn đấu trường kỳ, không ngừng, không nghỉ, trong việc chuẩn bị.
Chúng ta nên nhớ:
Sẽ có ngày, chúng ta lìa bỏ cuộc sống trần gian tạm bợ này.
Đây là một điều chắc chắn. Bởi có sinh thì có tử. Đó là qui luật chung của trời đất vũ trụ vạn vật.
Sẽ không có luật trừ cho chúng ta đâu.
Và ông bà của chúng ta cũng thường nói:
Sinh Ký Tử Qui, sống là tạm bợ, chết mới là lúc chúng ta đi về quê thật.
Mà để cho quê thật của chúng ta đúng là cõi phúc, đúng là Thiên Đàng cực lạc, đúng là Nước Trời, đúng là hạnh phúc vĩnh cửu, thì chúng ta phải chuẩn bị hành trang, sao cho thật kỹ trong những ngày sống ở trần gian này.
Và phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Đừng có lơ là. Đừng có chần chừ, kẻo quá trễ, kẻo quá muộn. Vì giờ Chúa đến gọi chúng ta, luôn là bất ngờ. Không có ai trong chúng ta biết trước giờ chết của mình đâu.
Coi chừng, chúng ta đang sống, như không bao giờ chết, cho nên chúng ta đã chẳng hề có một chút lo lắng bận tâm gì trong việc chuẩn bị.
Hay có chuẩn bị rồi, nhưng sự chuẩn bị của chúng ta chưa chuẩn lắm.
Chúng ta cần phải thường xuyên kiểm điểm lại sự chuẩn bị của ta, sao cho thật chu đáo, sao cho thật chuẩn, kẻo cái chúng ta đang có, đang tích lũy, đang chuẩn bị, thì khi chết, chúng ta lại không mang theo được gì.
Còn cái Chúa cần, còn cái Chúa đòi hỏi chúng ta phải tường trình, phải báo cáo, phải tính sổ, thì chúng ta lại không hề có một sự chuẩn bị nào.
Rõ ràng, cuộc sống của chúng ta trải qua bao nhiêu chục năm trời, là phí công, là vô ích. Đúng là công dã tràng:
Bởi, chúng ta đã tích lũy quá nhiều, mà hưởng thì chẳng được bao nhiêu.
Coi chừng, chúng ta đã lạc đường.
Coi chừng, chúng ta đã mất phương hướng.
Bởi trong những ngày sống ở trần gian này, chúng ta chỉ có thời giờ làm những điều chúng ta cần, mà chúng ta không cố tìm thời giờ để làm những gì Chúa cần.
Tình trạng này, sẽ rất là thê thảm cho chúng ta vô chừng, trong ngày chúng ta tắt thở, khi phải ra trình diện trước tòa Chúa phán xét.
Bởi, chúng ta đâu còn có thời gian để bắt đầu lại.
Bởi, chúng ta đâu có giờ để chỉnh sửa lại cuộc sống.
Hãy liệu, mà chỉnh sửa ngay từ bây giờ đi, kẻo không còn thời gian nữa.
Ta nên nhớ:
Trời cao, mới là quê hương thật của ta.
Thiên Chúa, mới đúng là cùng đích của ta.
Thiên đàng, mới là quê hương vĩnh cửu đích thực cho ta.
Còn trần gian này chỉ là tạm bợ mà thôi.
*****
Câu chuyện về 10 cô trinh nữ phù dâu trong Kinh Thánh, đã nhắc khéo cho chúng ta về chuyện cảnh tỉnh chuẩn bị này, để ta biết thường xuyên hơn, mà lo chấn chỉnh lại cuộc sống của ta, và thường xuyên hơn lo mà rà soát lại sự chuẩn bị của ta, sao cho thật chuẩn, sao cho thật chính xác, cho cuộc hành trình đi về đời sau, đi về Thiên Đàng, đi về chốn Vĩnh Hằng.
Trong câu chuyện 10 cô được mời đi làm phù dâu, chúng ta thấy các cô, là những người được người ta tín nhiệm, được người ta tin tưởng, nên người ta mới mời các cô đi làm phù dâu.
Đáng lẽ ra, các cô phải chuẩn bị thật kỹ càng, chuẩn bị những thứ cần thiết, từ đầu cổ tóc tai, tới áo quần giầy dép, sao cho thật tươm tất, đến dầu đèn sao cho cho thật sạch, sao cho thật sáng, để khi chàng rể đến, thì kịp thời mà nhập cuộc.
Có như vậy, thì mới không phụ lòng người đã tín nhiệm mình, để cho cuộc rước dâu sao cho thật chu đáo, thật trang trọng, thật hoàn chỉnh, thật tốt đẹp.
Thế nhưng, các cô lại tỏ ra lười biếng, và đã tỏ ra thiếu trách nhiệm:
Nói là các cô thiếu trách nhiệm, là bởi vì các cô không chịu canh thức chờ đợi, mà lại lo đi tìm chỗ để ngủ, một cách vô tư, không hề có một chút nghĩ ngợi gì.
Các cô còn tỏ ta thiếu trách nhiệm, là bởi vì các cô đã chẳng biết lo xa, cũng chẳng chịu nghĩ xa, cũng chẳng chịu thấy trước những tình huống bất trắc có thể xảy đến, cho nên, khi tình huống bất ngờ xảy ra, các cô lúng túng, các cô cuống cuồng, các ô rối rít.
Tội nghiệp cho 5 cô khờ dại. Tất cả đều nhỡ nhàng. Cửa Thiên đàng đã bị đóng lại.
Lúc đó, những tiếng kêu than sẽ không còn có tác dụng nữa, tuy rằng lúc đó, đã có dầu đèn trong tay rồi, nhưng các cô đành phải chịu đứng ở ngoài, đành phải chấp nhận bị loại trừ, bởi thời gian đã hết.
May cho các cô khôn ngoan, tuy không có canh thức, nhưng lại biết phòng xa, nên cũng được kể vào số những người đã chuẩn bị để được vào Thiên Đàng.
*****
Đã bao lần vì lười biếng, mà chúng ta đã bỏ lỡ những cơ hội để làm việc thiện, để làm các việc đạo đức, để làm các việc từ thiện bác ái.
Bỏ lỡ những cơ hội như vậy, mà chúng ta nào có áy náy gì đâu.
Đã bao lần chúng ta tỏ ra thiếu trách nhiệm trong cuộc sống gia đình, trong cuộc sống xã hội, do cách sống rất cẩu thả, rất hời hợt, cả trong các việc đạo đức nữa.
Hoặc chúng ta vô tâm trong những khi thi hành những bổn phận một cách chiếu lệ, mà nào, ta có áy náy gì chăng, vì đã bỏ lở cơ hội đi vào Thiên Đàng.
Ước gì, mỗi người chúng ta, đừng có ai vì lười biếng, mà ru ngủ đời mình, trong những đam mê bất chính, tội lỗi.
Ước gì, bình dầu yêu thương trong tâm hồn chúng ta, luôn đầy tràn, hầu có thể thắp sáng lên tình yêu Chúa và yêu người, trên mọi nẻo đường ta bước đi, và nhờ đó, nhiều người cũng sẽ được thêm ấm lòng trong tình yêu Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp cho con, luôn có đủ khôn ngoan, để chuẩn bị dầu đèn, sao cho luôn được cháy, và phải cháy thật sáng, để cuộc sống của con, lúc nào cũng sẵn sàng, cho ngày Chúa đến kêu gọi con trở về với Chúa. Amen
Trận động đất ngày 11-03-2011 tại Nhật Bản, đã lên tới 8,9 độ richter, là một trận động đất mạnh nhất, kể từ 140 năm qua. Nó kéo theo những đợt sóng thần, cao tới 10 mét, ập vào phía đông bắc của nước này, và đã gây ra một cảnh tàn phá chết chóc thật khủng khiếp.
Liền sau thảm hoạ động đất sóng thần đó, thì nước Nhật lại phải đương đầu với một hiểm hoạ phóng xạ, do nhà máy điện hạt nhân, gặp phải sự cố.
Đã có khoảng trên 10.000 người chết và mất tích.
Thiệt hại ước tính có thể lên tới 100 tỉ dollar.
Một điều, đã làm cho cả thế giới phải ngỡ ngàng khâm phục, đó là tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái, sự bình tĩnh, tinh thần kỷ luật và lòng tự trọng của người Nhật, rất là cao:
Khắp nơi, chỗ nào cũng vậy, người ta không hề thấy có sự chen lấn, không hề thấy có chuyện ấu đả, không hề thấy có chuyện lộn xộn mất trật tự, không hề thấy có chuyện ồn ào linh tinh, tại các trung tâm cứu nạn.
Cũng không ai thấy có chuyện la ó, hay tranh giành, làm rối trật tự, khi họ nhận đồ cứu trợ.
Cũng không ai thấy có cái cảnh cướp bóc, giật dọc, mất an ninh, hay hôi của, như vẫn thường thấy xảy ra ở nơi này nơi nọ, trong những trường hợp tương tự.
Như vậy, trong những hoàn cảnh đau thương bi đát đến thê thảm, mà người Nhật vẫn giữ được phong độ của mình, vẫn được phong cách của mình, cho nên đã làm cho mọi người trên khắp thế giới phải mến yêu, phải nể phục.
Nể phục, không phải chỉ vì sự phát triển khoa học kỹ thuật của họ, đã đạt tới đỉnh cao vào bậc nhất thế giới, nhưng còn nể phục, là vì trong những hoàn cảnh thê lương bi đát đến cùng cực như vậy, mà họ vẫn giữ được cái khí tiết của một người quân tử:
Rất có giáo dục, rất có văn hoá, rất có nhân bản và rất có đạo đức.
Nền giáo dục của họ, từ người lớn đến con nít, đã cho thế giới thấy, là họ đã đạt tới cái đỉnh cao vượt mức, mà mọi người trên khắp thế giới, chỉ biết chiêm ngưỡng và chỉ biết bái phục.
Họ không cần lên báo, cũng chẳng cần lên đài, cũng chẳng cần dàn đựng công phu hoành tráng trên tivi, để khoe những thành tích của mình.
Nhưng cách sống và cách ứng xử của họ trong những hoàn cánh khó khăn đó, đã làm cho mọi người, ai ai cũng đều thấy, ai ai cũng đều cảm nhận được, và mọi người đều kính nể, đều thán phục.
*****
Có một câu chuyện thật cảm động, do một cảnh sát Nhật, gốc người Việt, đã kể lại trên tờ báo Tuổi Trẻ ngày 18-03-2011, trang 11, có thể minh hoạ, giúp chúng ta hiểu phần nào, về sự thành công này, trong cách giáo dục đạo đức của họ. Anh cảnh sát đó kể như sau:
“Tối hôm qua, tôi được phái tới một trường tiểu học, phụ giúp “Hội Tự Trị” ở đó, để phân phát thực phẩm cho những người bị nạn.
Trong số những người rồng rắn xếp hàng, tôi thấy có một em nhỏ độ chừng 9 tuổi. Trên người em, chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời thì rất lạnh, mà em thì lại xếp hàng ở cuối cùng.
Sợ đến phiên em, thì chắc là chẳng còn thức ăn đâu, nên tôi tiến lại gần hỏi thăm em.
Em kể, là em đang học ở trường trong giờ thể dục, thì trận động đất và sóng thần xảy ra.
Cha của em làm việc ở gần đó, nên đã vội chạy đến trường. Từ trên ban công lầu 3 của nhà trường, em nhìn thấy rất rõ chiếc xe và cha em, đã bị nước cuốn trôi.
Chắc chắn là cha em đã chết rồi.
Còn khi được hỏi thêm về người mẹ, thì em nói: nhà của em nằm ngay bờ biển, mẹ và em chắc chắn là cũng không thể chạy thoát kịp.
Em bé quay người, lau vội dòng nước mắt, khi nghe hỏi đến những người thân.
Nhìn thấy em bị lạnh, tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát của tôi, để trùm lên người em. Vô tình, gói lương khô, khẩu phần ăn tối của tôi, bị rơi ra ngoài. Tôi lượm lên, đưa cho em và nói:
"Đợi tới phiên của con, chắc chắn là hết là thức ăn rồi. Đây, khẩu phần của chú, chú đã ăn rồi, bây giờ con ăn đi cho đỡ đói".
“Em bé nhận gói lương khô, khom người thật sâu để cảm ơn. Tôi tưởng là em sẽ ăn ngấu ăn nghiến ngay lúc đó. Nhưng không. Em ôm gói lương khô tôi cho, đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm, và để gói lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay về chỗ, tiếp tục xếp hàng.
Ngạc nhiên vô chừng, tôi hỏi em: Tại sao con không ăn, mà lại đem bỏ vào đó.
Em trả lời:
"Dạ, bởi vì còn có nhiều người, chắc là đói hơn con. Con bỏ vào đó, để các cô, các chú phân phát chung cho công bằng chú ạ".
Nghe vậy, tôi vội quay mặt đi chỗ khác để khóc, để mọi người không nhìn thấy.
Thật cảm động. Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi, mới học lớp 3, mà đã có thể dạy tôi một bài học làm người, trong lúc em đang gặp khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh.
“Một dân tộc, với những đứa trẻ 9 tuổi, đã biết nhẫn nại, đã biết chịu đựng gian khổ, và đã biết chấp nhận hy sinh cho người khác, chắc chắn phải là một dân tộc vĩ đại.
Đất nước này, đang đứng trong những giờ phút nguy cấp nhất của sự điêu tàn, nhưng cũng chắc chắn đất nước này, rồi sẽ hồi sinh mạnh hơn, nhanh hơn, nhờ những công dân biết hy sinh bản thân vì người khác, ngay từ tuổi niên thiếu...”.
*****
Nghe câu chuyện em bé người Nhật 9 tuổi, không sống cho riêng mình, mà trong lúc cùng cực thê thảm, lại biết nghĩ đến người khác, tự nhiên tôi liên tưởng đến cha thánh Ma-xi-mi-li-a-nô Kol-bê của chúng ta.
Cha thánh Kol-bê, là một linh mục công giáo người Balan. Cha bị bắt năm 1941, dưới chế độ Đức Quốc xã.
Đang khi chờ đợi ngày bị đưa vào lò để thiêu sống, thì xảy ra trong trại, có một tù nhân vượt ngục.
Viên cai tù tập trung tất cả tù nhân lại và tuyên bố: Một người trốn tù, thì 10 người phải chết thay.
Và anh ta còn đe doạ:
Lần sau, số người chết sẽ tăng lên gấp đôi. Nói rồi, anh ta lần lượt đưa tay, chỉ vào 10 tù nhân.
Bỗng có một tù nhân vừa bị chỉ định, lền vội vàng quỳ gối dưới chân viên cai tù và la to lên:
“Ôi vợ tôi. Ôi các con của tôi”.
Lúc đó, lại cũng có một cảnh khác rất bất ngờ và cũng rất đáng cho mọi người khâm phục: Đó là Cha Kol-bê.
Cha bước ra khỏi hàng ngũ, giơ tay lên, xin tự nguyện chết thay cho người cha đang đau khổ.
Được viên cai tù hỏi tại sao, thì cha Kol-bê trả lời bằng một câu thật đơn giản:
“Vì tôi, là một linh mục công giáo. Đời tôi đây, không còn có thể giúp ích gì cho ai được nữa. Còn ông này, ông còn có gia đình để gánh vác”.
Sau này, người cha gia đình này được thoát chết. Và ông, đã có mặt trong ngày phong chân phước Cha thánh Kol-bê, như là một nhân chứng, tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, này 17-10-1971.
Lạy Chúa Giêsu, trên đời này, hãy còn có rất nhiều người đã biết quên mình, để sống cho người khác.
Cuộc đời của họ rất cao thượng và rất quảng đại, giống như Chúa đã chết trên thánh giá vì chúng con, đang khi chúng con hãy còn là những tội nhân, những con người đang có tội với Chúa, những người đang phản nghịch với Chúa.
Xin cho chúng con, những môn đệ Chúa, cũng biết sống quảng đại và cao thượng, như chính Chúa đã làm gương cho chúng con. Amen.
Trong một dịp mang Mình Thánh Chúa và xức dầu cho bệnh nhân trong bệnh viện, tình cờ, tôi có gặp được một người, mà câu chuyện của người này, làm cho tôi nhớ mãi không quên, nhất là mỗi khi có dịp, nói về việc truyền giáo.
Số là, sau khi ban các bí tích sau cùng cho bệnh nhân xong, thì tôi có thói quen la cà, ghé thăm vài bệnh nhân khác, có khi là những người tôi quen biết, nhưng thường hơn là những người tôi không quen biết.
Những bệnh nhân được tôi chú ý để ghé thăm, thường là những bệnh nhân neo đơn, không có người chăm sóc ở bên cạnh.
Một hôm như thông lệ, đang khi tôi đưa mắt tìm người để thăm, thì bỗng có một người đàn ông chận tôi lại và tự giới thiệu:
Cha, con là giáo dân của cha. Cha không biết con, vì cha coi sóc một giáo xứ quá đông, nhưng con rất biết cha, vì con cũng thường hay đi lễ ở nhà thờ.
Được biết:
Anh ta là một người đạo mới. Và trong gia đình, anh ta là người duy nhất theo đạo Chúa.
Anh ta kể lại, việc vào đạo của anh, thật là đơn giản như sau:
Thưa cha, cách đây khoảng 5 năm, con bị bệnh lao phổi rất nặng. Gia đình con, đã đưa con đến bệnh viện để điều trị.
Sau một thời gian trị bệnh, thì bệnh tình của con đã có kết quả thật khả quan.
Nhưng, vì bệnh lao của con phải được điều trị thật lâu ngày, lâu tháng, thì mới có thể dứt điểm được, nên mọi người trong gia đình con đều mệt mỏi.
Vã lại, sức khoẻ của con cũng đã tạm ổn định, nên việc gia đình đến thăm và chăm sóc con cũng thưa thớt dần theo thời gian, phó mặc con cho bệnh viện.
Con cũng cảm thấy hơi buồn buồn.
*****
Trong hoàn cảnh đó, bỗng có một cô y tá rất tốt bụng, thường xuyên đến chăm sóc con, chăm sóc rất tận tình, chăm sóc thật hết mình, chăm sóc rất chu đáo, chăm sóc, mà không hề cầu mong, hay yêu cầu nơi con bất cứ điều gì.
Và con, lại thấy cô ta cũng chăm sóc những bệnh nhân khác, cũng một cách tận tình giống như vậy.
Con cảm thấy là lạ, nên thỉnh thoảng cũng có thắc mắc đôi chút, vì cô ta không giống như các cô y tá khác.
Nhưng rồi, ngày qua ngày, vì đã quen mắt, nên con lại không còn quan tâm nữa.
Nói đúng hơn, nếu con có quan tâm, thì cũng chẳng để làm gì, cho nên quan tâm làm chi cho thêm mệt xác.
Thế rồi, trong một đêm kia, đêm thì đã rất khuya, mà con lại có việc phải đi ngang qua phòng trực của các y bác sĩ.
Tình cờ, con lại bắt gặp cô ta, đang ngồi ở bàn làm việc, mà trên tay cô ta có cầm một xâu chuỗi, miệng thì râm râm cầu kinh thật sốt sắng.
Sáng hôm sau, như thói quen khi ra ca trực, cô ta có ghé qua vấn an sức khoẻ vài bệnh nhân, và có ghé qua thăm con.
Khi thấy cô ta có rộng thời gian, và gương mặt cô ta cũng vui vẻ, con liền kể lại chuyện đêm qua:
Tôi đã bắt gặp cô đang lần chuỗi ở phòng trực.
Cô ta mỉm cười vui vẻ hỏi lại:
Vậy ông là người Công Giáo?
Con trả lời:
Không, tôi không có đạo nào hết. Tôi chỉ theo đạo ông bà thôi. Nhưng tôn giáo nào tôi cũng quí, cũng kính, cũng trọng.
Thấy cô ta chăm chú nghe con nói, con liền hỏi tiếp:
Khi cô cầm chuỗi, thì cô đọc những kinh gì vậy?
Cô ta trả lời thật đơn giản, thật ngắn gọn:
Đó là những lời kinh, tôi dâng lên Thiên Chúa, để tôi cầu nguyện cho các bệnh nhân, mà tôi chăm sóc được mau sớm bình phục, và tất nhiên là trong đó có ông.
Bởi, tôi thấy ông nằm ở đây đã khá lâu, cho nên chắc là ông mong về nhà lắm phải không?
Nghe vậy, thưa cha, con thật sự bị xúc động mạnh.
Thì ra, cô ta là một người công giáo.
Và từ đó, sau khi đã được lành bệnh hẳn, con đã trở về nhà, và những dư âm của những lần xúc tiếp với cô y tá, rất tận tâm và rất nhiệt tình đó, đã để lại nơi con những ấn tượng thật tốt đẹp, không quên.
Những ấn tượng tốt đẹp đó, đã thôi thúc con tìm hiểu thêm về đạo công giáo.
Đầu tiên, con tìm cách tiếp cận với các bạn bè công giáo.
Con đã được bạn bè công giáo dẫn con đến tham dự lớp giáo lý dành cho những người muốn vào đạo.
Cuối cùng, con đã được Rửa Tội, gia nhập đạo Chúa đã gần 1 năm nay rồi.
Con rất thường đi lễ.
Không phải chỉ đi lễ Chúa nhật thôi, mà cả ngày thường nữa, khi sắp xếp công việc được, con cũng đi.
Con đi lễ, là để cám ơn Chúa, vì đã cho con gặp được cô y tá tốt bụng, để nhờ đó, mà nay con đã được ơn nhận biết Chúa, và đã trở thành con Chúa.
Bởi, những lúc con gặp đau khổ về thể xác, và thiếu thốn về tinh thần, thì sự chăm sóc đầy tình thương, cũng như sự phục vụ đầy tình người của cô ta, nhất là cô biết dùng lời cầu nguyện, để hổ trợ cho việc trị bệnh, đã làm cho con được an ủi biết chừng nào.
Nói thật, cách phục vụ và những lời cầu nguyện của cô ta, đã làm cho con cảm thấy được ấm lòng vô chừng, trong những ngày nằm bệnh viện thật cô đơn.
Từ đó, con đã tìm được niềm vui để sống, đã lấy lại được sự thăng bằng trong cuộc sống, và đã tìm lại được ý nghĩa của cuộc đời, nhờ đã được tiếp cận với một người cao thượng đó: Một con người luôn tận tuỵ với công việc, hết mình với bổn phận, quảng đại cầu nguyện cho mọi người. Đúng là một con người, luôn nghĩ đến người khác và hết mình sống cho người khác.
***
Bạn thân mến,
Câu chuyện trên đây đã giúp cho chúng ta thấy:
Vì yêu mến Chúa và vì muốn bắt chước gương phục vụ của Chúa Giêsu, mà cô y tá đã giúp cho một người chưa nhận biết Chúa, đã đến với Chúa và đã trở thành con Chúa.
Mẹ Têrêxa Cal-cut-ta, đã có lần định nghĩa về một nhà truyền giáo, như sau:
“Nhà truyền giáo, chính là người Kitô hữu, đã say mê yêu mến Chúa Giêsu, đến độ không có một ước muốn nào khác, hơn là tìm mọi cách, làm cho mọi người nhận biết Chúa và cũng yêu mến Chúa nữa”.
Chính Mẹ Têrêxa, đã không chỉ dùng những lời nói, nhưng Mẹ và chị em trong dòng của Mẹ, cũng đã biết dùng đời sống và đã dùng việc phục vụ những con người nghèo khổ, neo đơn, bệnh tật, bị xã hội bỏ rơi, để giúp cho mọi người nhận ra Chúa Giêsu, để hiểu về Chúa Giêsu.
Tuy rất âm thầm, nhưng việc làm của Mẹ đã có ảnh hưởng rất lớn, không phải chỉ tại Thành Phố Cal-cut-ta, không phải chỉ tại nước Ấn Độ, mà ngày nay, những việc từ thiện bác ái trong tổ chức của Mẹ, đã có ảnh hưởng rộng khắp, lan toả ở các nước, kể cả những nước xã hội chủ nghĩa.
Mẹ không phân biệt chủng tộc.
Mẹ cũng không phân biệt quốc gia.
Mẹ cũng không phân biệt thể chế chính trị.
Mẹ cũng không phân biệt tôn giáo.
Lạy Chúa, con tin Chúa bằng trái tim của con.
Con tuyên xưng Chúa bằng môi miệng của con.
Và con cố gắng bày tỏ Chúa ra, bằng những việc từ thiện bác ái của con, nhằm phục vụ cho những con người cụ thể.
Lạy Chúa, xin giúp con cố gắng hết mình, để thực hiện những điều, mà Chúa vừa gợi ý cho con. Amen.
Có một bệnh nhân, bỗng nhiên xay xẩm mặt mày, và ngất xỉu, vừa khi nghe người nhà cho biết, là bác sĩ vừa nói:
“Đây là một loại bệnh nan y, đang ở giai đoạn cuối. Chắc có lẽ chỉ còn sống khoảng 6 tháng nữa thôi”.
Bạn có biết không, bệnh nhân đó là một người công giáo, là một sinh viên đại học, sắp sửa tốt nghiệp, tương lai phía trước, đang mở ra với thật nhiều hoài bão, với thật nhiều ước mơ, và với thật nhiều dự tính.
Một ngày nọ, anh cảm thấy trong mình rất mệt mỏi, đau đớn khác thường. Anh nhờ bạn bè đưa anh đi bệnh viện. Và kết quả cuối cùng cho biết, là anh chỉ còn khoảng 6 tháng nữa để sống.
*****
Bạn thân mến,
Nếu hung tín này đến với tôi, hay đến với bạn, thì không biết chúng ta sẽ làm gì?
- Chán nản, thất vọng chăng?
- Buông xuôi bỏ bê tất cả chăng?
- Bỏ Chúa bỏ đạo chăng?
- Ăn chơi buông thả cho thoả thích chăng?
Không, anh bạn của chúng ta thì khác.
Sau khi tỉnh lại, anh ta đã quyết định, phải dùng 6 tháng ngắn ngủi này, để làm một việc gì đó, cho thật có ý nghĩa:
Anh đã thường xuyên đến những trung tâm HIV-AIDS, để xin trực tiếp chăm sóc các bệnh nhân.
Anh cũng đã đến các trại cùi, để học rửa các vết thương cho họ.
Anh cũng đã tìm đến những kẻ bụi đời, lang thang đó đây không định hướng, để an ủi họ, để nâng đỡ họ cách này cách khác, vv…
Có thể nói, là vì dành hết thời gian, để lo cho kẻ này người nọ, cho nên, hầu như anh đã quên đi chính bản thân mình.
Có người hỏi anh: “Tại sao anh lại làm như thế?
Anh trả lời: “Vì tôi vẫn còn được may mắn hơn nhiều người khác.”
Có người biết chuyện hỏi tiếp: “Anh nói sao? Anh may mắn hơn họ? Anh chỉ còn mấy tháng, đang khi họ còn mấy năm nữa để sống!”
Anh ta ôn tồn trả lời: “Vâng, tôi may mắn hơn họ, bởi vì tôi vẫn còn niềm tin vào Chúa Giêsu.”
*****
Bạn có biết không:
Sáu tháng sau, anh chàng sinh viên của chúng ta vẫn còn sống, và không còn cảm thấy đau yếu nữa.
Anh đã trở lại bệnh viện để tái khám, các bác sĩ vô cùng ngạc nhiên, vì căn bệnh nan y đó đã không còn nữa.
Các y bác sĩ thắc mắc không biết tại sao.
Nhưng anh ta thì biết, tại sao anh ta được khỏi bệnh:
Bởi, khi anh ta chỉ biết tập trung thời gian, tiền bạc, công sức cho người khác, thì tình yêu trong anh, bỗng nhiên được thắp sáng, làm cho anh quên đi chính mình, và quên đi những nỗi đau của mình.
Ánh sáng trong anh lớn lên, chiếu rọi anh, bao trùm anh, và chữa lành anh.
Anh đã chìm vào trong ánh sáng chan hoà của tình yêu: Yêu Chúa và yêu người.
Vì yêu Chúa, cho nên anh yêu người.
Và vì yêu người, cho nên anh yêu Chúa.
Tình yêu ấy, đã sáng lên, nhờ việc anh tiếp xúc với những đau khổ của tha nhân.
Có thể nói: Chính những người đau khổ kia, đã chữa lành cho anh, khi anh đến với họ.
Chúng ta không biết phải giải thích thế nào cho thoả đáng, nhưng đây là một cảm nghiệm riêng, mà ai trong chúng ta, ít hay nhiều cũng đều có, đó là khi mình đang mang trong mình tâm trạng buồn sầu, đau khổ, thất vọng, chán nản,… mà nếu gặp được một ai đó, đang đau khổ buồn sầu hơn mình, thì tự nhiên mình cảm thấy tâm hồn nhẹ đi, nỗi sầu đau cũng được vơi đi, và nỗi buồn sầu đau khổ cũng được chữa lành một cách kỳ diệu.
Từ những cảm nghiệm đó, chúng ta mới hiểu:
Tại sao ngày ngày, vẫn có hàng triệu triệu người đau khổ, vẫn không ngừng chạy đến với “Người tử tội” chết thê thảm trên thập giá.
Câu trả lời đơn giản, là vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, có chất chứa một nỗi đau khổ tột cùng, có thể bao trùm tất cả mọi nỗi khổ đau của toàn thể nhân loại, có thể xuyên thấu hết mọi nỗi đau của bất cứ ai.
Đến với Chúa Giêsu, người ta sẽ tìm thấy một sự cảm thông chia sẻ trọn vẹn, và có thể múc lấy từ đó một nguồn chữa lành sâu xa vô tận.
Đó cũng chính là điều, mà thánh Phaolô đã khẳng định trong thư gởi cho tín hữu Do Thái đoạn 4, câu 15 (Dt 4:15; 1P 2:24).
Lạy Chúa, khi con đến với những anh chị em đau khổ, thì nhìn bên ngoài, con giống như người làm ơn, nhưng sâu xa bên trong, con mới chính là người chịu ơn.
Xin cho con biết sống lời Chúa đã dạy:
“Ánh sáng của anh em, phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.
Và nhất là, để những vết thương của con, cũng được chữa lành. Amen.
Mới đây, tôi có dịp, gặp được một cô giáo dân Việt kiều ở Mỹ về ghé thăm.
Sau nhiều năm xa cách, nay mới gặp lại nhau, cha con tay bắt mặt mừng, tíu tít huyên thuyên, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện: Chuyện trên trời dưới đất, chuyện bên tây bên ta, hết chuyện hiện tại tới chuyện quá khứ xa xưa, hết chuyện đất nước, đến chuyện gia đình, đến chuyện bản thân.
Thì ra bây giờ, đây là lần đâu tiên, tôi được cô ta kể cho nghe về quá khứ cuộc đời của cô ta. Cô ta kể như sau:
Cha có biết không:
Con sinh ra trong một gia đình theo "đạo Ông Bà". Nói đúng hơn, là mẹ con là người Công Giáo, nhưng kết hôn với ba con là người ngoại giáo, cho nên, mẹ con cũng bỏ đạo luôn.
Nhưng con thì cũng đã được học Giáo lý, và con cũng đã được rửa tội, vào năm lên 14 tuổi. Tính đến nay, thì cũng đã hơn 30 năm rồi.
Nguyên nhân dẫn đến việc mẹ con quyết định cho các con rửa tội gia nhập đạo Chúa, là vì trong một cơn bệnh nặng, mẹ con đã kêu cầu với Chúa, và đã hứa với Chúa, là khi hết bệnh, thì mẹ con sẽ giữ đạo trở lại, và sẽ cho các con theo đạo Chúa! (Tạ ơn Chúa ! Cũng may, mà lúc ấy, mẹ con đã được hết bệnh).
Sau vài tháng ngắn ngủi học Giáo lý, thì tất cả anh chị em chúng con đều đã trở thành những "người Công giáo chính danh", với kiến thức giáo lý tạm đủ, để lãnh nhận các bí tích.
Phải nói, là với số vốn liếng giáo lý đó, đức tin của chúng con hãy còn rất là yếu ớt.
Lúc nào, con cũng coi Chúa như là một “trạm bưu điện," hay nói đúng hơn, Chúa là nơi, để con đến nhận hàng “miễn phí” (không tốn tiền).
Chúa thì ở trên đó... Và Chúa cứ ở trên đó.
Còn con thì ở đây... con vẫn cứ ở đây.
Khi nào cần, thì con sẽ đến gửi “đơn đặt hàng” lên Chúa, và cứ thế, Chúa gửi quà xuống cho con. Chỉ có thế thôi...
Và sau đó, thì đường ai nấy đi...
Việc của ai thì người đó cứ làm.
Niềm tin của con vào Chúa, hời hợt chỉ có thế thôi.
Còn kiến thức của con hiểu biết về Chúa, "giỏi lắm" là bản tóm lược hỏi thưa, trong cuốn Sách Giáo Lý Công Giáo.
Còn về luật đạo, thì con chỉ nhớ: "một năm xưng tội ít là 1 lần".
Nhưng con lại nhớ, là "một năm đi lễ ít là một lần".
Như vậy, là cha đã có thể ước tính được, số lần con đi lễ trong một năm rồi chứ gì.
*****
Rồi thời gian cứ thế trôi qua, cho đến 5 năm sau. Con rời Việt Nam, trên một chuyến tàu, với những người con không quen biết.
Chúng con ra đi trong tình trạng thiếu lương thực và thiếu nước uống.
Sau ba ngày lênh đênh trên biển cả mênh mông, chỉ thấy trời, mà không thấy đất ở đâu.
Mọi người đều quá mệt mỏi, vì đói, vì khát.
Trên tàu, hình như ai cũng bị bệnh.
Riêng con thì bị sốt khá cao.
Lúc đó, tự nhiên con lại nhớ đến những ly sữa đá, mà mẹ con vẫn thường cho uống, mỗi khi con bị sốt.
Con thèm, như một đứa con nít.
Con nhớ đến mẹ con. Và con cũng lại nhớ đến Đức Mẹ, và con lại cầu xin:
"Mẹ ơi, con khát lắm! Ước gì Đức Mẹ cho con một ly sữa đá!".
Thật sự, con xin cái điều, mà con cũng chẳng biết là con xin gì nữa trong hoàn cảnh đó.
Bây giờ con nhớ lại, con cảm thấy thật buồn cười cho lời cầu xin thật ngớ ngẫn và vô duyên của con.
Nhưng, khi lời cầu xin của con vừa dứt, thì bỗng có những tiếng súng từ một chiếc ghe khác ở xa bắn tới.
Chiếc ghe đó phóng rất nhanh, cứ tiếp tục đuổi theo ghe chúng con, và tiếp tục bắn liên hồi vào chúng con.
Trước sự uy hiếp đó, ghe chúng con bị buộc phải dừng lại.
Con không biết họ là ai.
Họ chĩa ba họng súng dài vào chúng con, làm chúng con khiếp sợ. Ai cũng như nín thở. Không biết chuyện gì sẽ xảy ra.
Và họ ra lệnh:
Ai có tiền bạc, tư trang, phải đưa hết cho họ.
Sau khi đã thỏa mãn những điều kiện họ đưa ra, chúng con tha thiết van xin họ cho nước uống, với chút ít hy vọng, sẽ được sống sót.
Điều ngạc nhiên, là trước khi bỏ đi, họ đã cho chúng con nước uống, và còn cho nước đá nữa.
Trên ghe chúng con, thì có nhiều người đem theo sữa hộp, những thứ mà bọn cướp biển chẳng màng tới.
Thế là trong nháy mắt, mọi người đều được uống sữa đá, uống một cách hết sức khoan khoái dễ chịu, như là mọi nguy hiểm, mọi khổ đau đã tan biến đâu hết, không còn có một mối đe doạ, hay lo sợ gì nữa.
Có một điều đáng buồn, là khi chiếc ghe của bọn cướp rượt theo chúng con, họ đã bắn súng vào chúng con, đã làm cho rất nhiều người trong chúng con bị thương, trong đó có một em nhỏ đã tắt thở trong đêm đó.
Cảnh cướp bóc vừa qua, đã làm cho mọi người trong tàu kinh hoàng, khiếp vía, chưa có ai hoàn hồn hẳn đâu.
Riêng con, khi cầm ly sữa đá đưa lên miệng, bỗng con sực nhớ lại lời cầu nguyện của con ban nảy:
Con hết hồn, con giật mình. Đúng là một điều con không thể nào tin được.
Con tự hỏi, đây có phải là một phép lạ chăng?
Và con đã thì thầm dâng lời tạ ơn Đức Mẹ.
Đến đây, chắc các cha tưởng, là con đã có một niềm tin vững mạnh lắm vào Chúa và Đức Mẹ chăng ?
Thưa không! Vì như con đã nói, là lúc nào con cũng coi Chúa và Đức Mẹ, như là một nơi, để con gửi đơn đặt hàng, và để con nhận hàng thôi.
*****
Sau đó, con được định cư ở Mỹ. Con đã lập gia đình, và đã có 2 con.
Chồng con là người ngoại giáo. Vì muốn được vợ, nên anh ấy cũng chấp nhận theo đạo. Con muốn làm phép cưới trong nhà thờ, vì con thấy thánh lễ hôn phối bên đạo mình, có lễ nghi rất trang trọng, và con muốn được mặc áo trắng cô dâu lúc làm phép, để "chụp hình cho đẹp", chứ nào con có ý thức đạo nghĩa gì đâu.
Mãi sau này con mới hiểu, con mới ý thức, phép Hôn Phối là một trong những bí tích quan trọng nhất trong đời sống của người Kitô hữu.
Hai con của con, cũng đã được rửa tội, cũng đã được học Giáo lý, và đã được xưng tội rước lễ.
Sau đó, thì cả nhà cũng giữ đạo, theo cái kiểu "một năm đi lễ ít là một lần".
Lâu lâu, nếu cảm thấy vui thì đi lễ, còn không thì thôi.
Nếu hôm nào có ý định đi lễ, mà lại có một cuộc vui chơi nào hấp dẫn hơn, thì chúng con thà bỏ lễ, chứ nhất định không chịu bỏ cuộc vui chơi đó.
Đời sống cứ thế trôi qua, và niềm tin vào Thiên Chúa nơi con, ngày càng thêm nguội dần.
Con là vai chánh trong việc giữ đạo mà còn vậy, thì chồng con và con cái của con sẽ như thế nào, thì cha đã rõ?
*****
Cho đến một hôm. Một biến cố đau thương xảy ra cho gia đình chúng con, đã làm đảo lộn tất cả!
Thưa cha, theo nhịp sinh hoạt của nền kinh tế thị trường, chuyện làm ăn của gia đình chúng con bị rơi vào tình trạng bế tắc, có thể nói là bi đát và thê thảm.
Chúng con đau khổ.
Chúng con tuyệt vọng.
Chúng con chán chường.
Chúng con muốn buôn xuôi.
Chúng con muốn bỏ bê tất cả.
Chúng con không biết chạy đến với ai.
Lúc đó, chúng con chỉ biết chạy đến với Chúa và Đức Mẹ thôi. Xin Chúa và Đức Mẹ chỉ đường, dẫn lối, để chúng con biết cách mà vượt thoát được tình cảnh bế tắc này!
Con đã cầu nguyện, con đã kêu xin, bằng tất cả lòng thành kính, và với tất cả sự cậy trông phó thác chưa từng có.
Rồi, hình như một phép lạ đã xảy ra.
Từng ngày, từng bước, chúng con đã vực dậy. Chúng con đã ổn định. Chúng con đã có thể đứng lên được. Và chúng con đã có thể tiếp tục cuộc sống. Đúng là một phép lạ.
Chúng con không biết tại sao.
Đây chỉ là một cảm nghiệm của gia đình con thôi. Chúng con chỉ biết cám ơn Chúa và Đức Mẹ.
Bây giờ, chúng con mới nhận ra rằng, khi bị rơi vào tình cảnh hoàn toàn bế tắc, không thể cậy dựa vào sức riêng mình được nữa, thì chúng con mới có thể sống tinh thần cậy trông, phó thác và tin tưởng vào Chúa một cách tuyệt đối được.
Khi con chấp nhận để cho Chúa làm chủ đời con, làm chủ gia đình con, thì bỗng dưng, con lại không còn đưa "đơn đặt hàng" cho Chúa và Đức Mẹ nữa.
Và thật lạ lùng, chính những lúc đó, Chúa lại gửi đến cho con những "món quà", mà con không bao giờ dám mơ hay dám nghĩ tới.
Chúng con tưởng là đã đến cùng đường, chúng con tưởng là đã hết lối, nhưng Chúa lại mở lối khác, giúp con bước đi trong bình an.
Phải thật lòng mà nói rằng, là trong tất cả các ơn con đã nhận được từ Chúa, thì ơn chịu "đau khổ", là cái ơn lớn nhất, có giá trị nhất, và quan trọng nhất, đối với gia đình chúng con.
Vì nếu không có cái biến cố đau thương đó xảy ra, chắc là con sẽ chẳng bao giờ nhận ra được sự giới hạn của con người mình, để chúng con phải chạy đến cậy dựa vào Chúa.
Và nhất là, con sẽ không bao giờ nhận ra lòng thương xót bao la vô bờ bến của Chúa đâu.
Để tỏ lòng ăn năn sám hối thật sự, con đã quyết định tìm đến với một linh mục để xưng tội.
Lần đầu tiên sau hơn 20 năm, con mới trở lại tòa giải tội.
Con rất lo lắng.
Con rất hồi hộp.
Con nghe rõ từng nhịp đập dồn dập của trái tim con.
Con biết nói gì với cha giải tội đây?
Sau hơn 20 năm xa Chúa, biết bao nhiêu điều con đã làm cho Chúa buồn. Biết bao nhiêu tội con đã làm mất lòng Chúa.
Tội trọng có.
Tội nhẹ có.
Tội phạm lướt lướt cũng có.
Mà tội phạm liền liền cũng có, không phải là thiếu. Biết bắt đầu từ đâu?
Con đã lấy hết can đảm bước vào toà giải tội:
"Thưa Cha cho con đã xưng tội lần cuối cách đây hơn 20 năm... ".
Con chỉ nói được có bấy nhiêu, rồi thì nghẹn lời và bật khóc...
Con cố gắng ngưng khóc, mà sao nước mắt cứ tuôn trào...
Con không dám chắc là vị linh mục đó, đã nghe và hiểu được hết những gì mà con đã nói...
Sau khi xưng tội xong, con chờ đợi một lời quở trách, hay ít ra cũng là một câu cha hỏi:
Tại sao, con để quá lâu mới quay về với Chúa.
Nhưng không, hoàn toàn không, một lời trách nhẹ cũng không, một tiếng thở dài cũng không.
Sau vài giây im lặng, như chờ cho cơn xúc động trong con hoàn toàn lắng xuống, cha đã cho con một vài lời khuyên ngắn gọn, nhưng đầy ý nghĩa.
Sau đó, cha ban phép giải tội, và chúc con đi bình an.
Và từ lúc đó, con đã tìm được bình an thật sự.
Bước chân vào tòa giải tội nặng nề bao nhiêu, hồi hộp bao nhiêu, thì khi bước ra, con lại cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản bấy nhiêu.
Con rất cám ơn vị linh mục này, vì qua những lời nói của cha, mà con đã tìm thấy được sự đồng cảm của phận con người mỏng dòn, yếu đuối. (Đồng cảm chứ không phải đồng tình, hay đồng loã).
Sự đồng cảm, trong lời khuyên dạy của Ngài, đã nâng đỡ con rất nhiều. Con không còn e ngại mỗi khi bước chân vào tòa giải tội, trong những lần sau này nữa.
Bằng giọng nói nhẹ nhàng, Ngài đã cho con thấy, lòng thương xót và lòng khoan dung của Chúa như thế nào, đối với những người con tội lỗi.
Lúc trước, khi nhìn những vị tu sĩ, con vẫn thường thắc mắc: Là cuộc sống đời thường, có nhiều giải trí, có nhiều lạc thú, có nhiều vui chơi như vậy, mà tại sao các ngài lại bằng lòng chấp nhận chối bỏ tất cả, để hiến dâng cuộc đời mình cho một Đấng vô hình, Đấng mà mình không nhìn thấy được. Chắc chắn là phải có một "cái gì đó", hấp dẫn, lôi cuốn mãnh liệt lắm.
Và hôm nay, con đã nếm cảm được phần nào cái sức hấp dẫn lôi cuốn kỳ diệu đó, qua việc đọc kinh thánh và qua việc cầu nguyện với kinh thánh.
Con như một người vừa thức dậy “sau một cơn mê khá dài”.
Con tỉnh lại, nhờ “mũi thuốc” cực mạnh, mà Chúa đã tiêm vào. Mũi thuốc đó, đau đớn và không dễ chịu chút nào.
Nhưng nhờ những vật vã trong đau đớn ấy, mà nay con đã được lành bệnh.
Lạy Chúa, con xin hết lòng bái phục Chúa, vì sự Chúa đã kiên nhẫn, chờ đợi một con người nguội lạnh trở về, trong hàng mấy chục năm trời.
Và cuối cùng, Chúa đã thắng, Chúa đã thành công, và đã đạt được điều Chúa mong muốn.
Xin cho con cũng biết bắt chước Chúa, mà kiên nhẫn với những yếu đuối và những bất toàn của kẻ này người nọ chung quanh con, để họ được cải hoá, và để con cũng được Chúa tha thứ nữa. Amen.
Tại nhà thờ chính tòa miền Ba-vi-e (Bavière), thuộc Tây Đức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng, được chạm trổ rất công phu từ thế kỷ thứ 14.
Khách hành hương đến đây hàng năm rất đông.
Tượng thánh giá này nổi tiếng, không phải chỉ vì tượng đã được chạm trổ rất công phu, rất có nghệ thuật, và trông rất đẹp.
Nhưng tượng này còn được nổi tiếng, là vì tượng thánh giá này trông rất lạ mắt, không giống như bất cứ tượng thánh giá nào khác, mà người ta vẫn thường trông thấy.
Bởi 2 cánh tay của tượng Chúa chịu đóng đinh, đã không có dính trên lỗ đinh nữa, mà lại được buông thỏng xuống, và vòng ra phía trước, như là đang ôm lấy một con người nào đó.
Nhất là khi nghe nhiều người kể đi kể lại câu chuyện khá ly kỳ về cây thánh giá này, đã làm cho nhiều người chú ý, đã gợi lên sự tò mò hiếu kỳ cho biết bao nhiêu người, và đã khiến cho nhiều người đã tìm đến đây, để quan sát tận nơi, để trông thấy tận mắt.
Người ta kể lại rằng:
Xưa kia tại nơi đây, có một người đàn ông, không biết từ đâu đến, đã quì gối cầu nguyện rất thống thiết dưới chân thánh giá này.
Ông cầu nguyện thật lâu giờ.
Ông cầu nguyện rất sốt sắng.
Ông hết lòng ăn năn sám hối về các tội ông đã phạm, để hy vọng sẽ được Chúa tha thứ hết mọi tội lỗi cho ông.
Nhưng, rồi bỗng nhiên, một tư tưởng ngờ vực đã làm cho ông nản lòng, thất vọng, đã làm cho ông mất hết niềm hy vọng, mất hết lòng trông cậy vào Chúa.
Tư tưởng đó là:
Tội của tôi lớn như vậy, tội của tôi nhiều như vậy, thì làm sao Chúa có thể tha thứ hết cho tôi được.
Và, ông đâm ra chán chường thất vọng thật sự.
Ông buồn bả đứng lên, quyết định trở về nhà, và chấp nhận trở về con đường cũ. Phó mặc cho cuộc đời trôi nổi. Phó mặc cho số mệnh.
Thế nhưng, khi chưa kịp quay lưng bước đi, thì bỗng từ trên cây thánh giá, Chúa đã buông thỏng đôi tay xuống, ghì ông lại, và ôm chầm lấy đôi vai của ông, trong vòng tay âu yếm của Chúa, làm cho ông không thể nào nhúc nhích được nữa.
Ông run rẩy. Mặt ông xanh mét. Ông hốt hoảng. Ông khiếp vía. Gọng rung rung. Ông liên hồi xin lỗi Chúa. Ông liên hồi nói với Chúa:
“Lạy Chúa, con tin Chúa. Con không còn dám nghi ngờ lòng thương xót của Chúa nữa đâu. Xin Chúa hãy tha thứ cho con. Xin Chúa hãy tha thứ tất cả mọi tội lỗi của con. Ông quá xúc động. Ông đã khóc, và khóc thật nhiều, vì cái nghĩa cử quá cao đẹp, mà Chúa đã dành riêng cho ông”.
Khi qua cơn xúc động, cũng là lúc đôi tay của Chúa buông ông ra.
Ông đã bình tĩnh trở lại. Ông quyết tâm ở lại đây suốt đời để phục ảnh thánh Chúa. Bởi ông đã thấy Chúa quá tốt đối với ông. Ông đã cảm nghiệm được tình thương của Chúa thật hải hà, lòng khoan dung của Chúa thật bao la. Ông đã cảm thấy yêu mến Chúa vô chừng.
Thế nhưng, sau sự kiện đó, nghĩa là sau khi đôi tay Chúa đã buông thả ông ta ra, thì người ta thấy đôi tay của Chúa vẫn tiếp tục giữ y nguyên như thế cho đến ngày hôm nay, như là Chúa muốn cho mọi người thấy và hiểu cho rằng, lòng thương xót của Chúa thì vô biên, sự tha thứ của Chúa thì không có giới hạn, đối với bất cứ ai chạy đến với Chúa. Chúa sẽ không phân biệt một ai đâu. Chúa không hề loại trừ một người nào đâu. Do đó, đừng có ai nghi nan về lòng thương xót của Chúa nữa.
*****
Bạn thân mến,
Trong suốt cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, chúng ta đã từng thấy Chúa Giêsu bày tỏ tấm lòng yêu thương của Chúa đối với con người rất nhiều lần, và bằng rất nhiều cách khác nhau:
- Nào là, Chúa đã làm rất nhiều phép lạ, để cứu chữa con người khỏi đủ mọi thứ bệnh tật phần xác.
- Nào là, Chúa đã xua trừ trừ ma quỉ, giải phóng con người khỏi mọi đau khổ phần hồn.
- Chúa đã không ngại dạy dỗ dân chúng ngày đêm, mà không hề biết mệt mỏi.
- Chúa đã âu yếm đón tiếp các trẻ nhỏ, đã âu yếm ôm chúng vào lòng, và chúc lành cho chúng.
- Chúa đã tha thứ mọi tội lỗi cho những ai hết lòng ăn năn thống hối trở về với Chúa.
Và hôm nay, Chúa nhật lễ lá, chúng ta đang cùng nhau kỉ niệm lại việc Chúa Giêsu kiên quyết bước vào đoạn đường cuối của tình yêu.
Đây là đỉnh cao của việc Chúa hiến thân cho con người, cho chúng ta, những con người tội lỗi.
Chúa quyết định yêu, và quyết yêu thương cho đến cùng, bằng việc chấp nhận một cuộc khổ nạn thê thảm, bằng việc chấp nhận một cái chết thật đau thương trên thánh giá. Chấp nhận hy sinh đến trút hết giọt máu cuối cùng.
Chúng ta còn nhớ, cách đây 40 ngày, Chúa đã bắt đầu một cuộc chay tịnh thật khắc khổ, liên tục kéo dài suốt 40 đêm ngày trong sa mạc, chịu đói, chịu khát.
Cuối cùng, cơn đói cơn khát, đã làm cho Chúa muốn ngã quỵ.
Thế là, ma quỉ nhân cơ hội này, đã xuất hiện, đã bày nhiều trò để cám dỗ Chúa:
“Nếu ông là Con Thiên Chúa, tại sao ông không truyền cho hòn đá này biến thành bánh để ăn đi”.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn kiên quyết không lùi bước. Chúa đã khẳng khái trả lời:
“Đã có lời chép rằng: Người ta sống không nguyên chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Matthêu 4,3-4)).
Và những cơn cám dỗ tiếp theo, đã cho ta thấy là Chúa vẫn một mực chống trả một cách dứt khoát. Chúa đã không chịu bỏ cuộc.
Cuối cùng, Chúa đã chiến thắng, và mà quỉ phải đành chịu thua, rút lui.
Nhưng Phúc âm thánh theo thánh Luca, đoạn 4, câu 13, đã có ghi thêm một chi tiết này, rất đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là: “Quỉ rút lui, để chờ dịp khác”.
Và dịp khác ấy chính là hôm nay:
Khi Chúa Giêsu phải hấp hối ở vườn Cây Dầu, cũng gọi là vườn Ghiết-sê-ma-ni.
Đây quả là cuộc giao tranh, giữa Chúa Giêsu và quyền lực của tối tăm, giữa sự thiện và sự ác.
Chúa Giêsu đã cầu nguyện, và cầu nguyện thật nhiều. Ngài coi việc cầu nguyện, như là một phương thế cuối cùng, để chiến thắng các chước cám dỗ.
Nhưng, chính bản thân của Chúa Giêsu, cũng hầu như sắp bị ngã gục:
Hình như cuộc chiến nội tâm của Chúa đã quá căng thẳng, đến mức có thể quỵ ngã thật sự, nên Chúa Giêsu mới tha thiết van xin với Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin tha cho con, để con khỏi phải uống chén đắng này. Và Kinh thánh kể lại: Trong cơn xao xuyến bồi hồi, quá sợ hãi đó, máu của Chúa Giêsu đã hoà lẫn với mồ hôi, nhỏ từng giọt, rơi xuống đất. Chúa sắp sửa bỏ cuộc. Nhưng Chúa còn kịp thời, nhớ lại sứ mạng được trao phó, nên Chúa mới can đảm cầu nguyện tiếp:
“Nhưng, xin đường theo ý con, một chỉ xin vâng theo ý Cha mà thôi”
Và theo thánh Luca, dịp khác ấy của Satan đã mong chờ từ lâu, đó chính là hôm nay:
Khi mà Satan đã nhập được vào Giuđa, là một trong nhóm 12 môn đệ thân tín của Chúa, đã làm cho Giuđa ra mù quán, đã làm cho Giuđa quá say mê tiền bạc, đã làm cho Giuđa quá ham thích của cải, đến mức phải chạy đi tìm kẻ thù, để thương lượng cách thế, với một cái hôn thật giả dối, để bán nộp thầy mình, chỉ với giá 30 đồng bạc.
Và cũng theo thánh Luca, dịp khác ấy của Satan mong chờ từ lâu, đó cũng chính là hôm nay:
Khi mà Phêrô và các môn đệ của Chúa, đã bị Satan sàng xảy như người ta sàng gạo.
Phêrô đã sập bẫy. Phêrô đã chối là không biết Thầy. Và đã chối đến 3 lần.
Còn các môn đệ khác, thì đã 3 giò 4 cẳng chạy một mạch, để trốn, để thoát thân.
Bởi, ai cũng kinh hãi khiếp sợ.
Ai cũng hết hồn hết vía.
Ai cũng bị sợ bị liên luỵ với Thầy mình.
Họ chạy trốn, mà mặt không hề dám quay lại, để mặc cho thầy mình cô đơn một mình, trong buồn tuổi khổ nhục, một mình phải đương đầu đối phó với bọn quân dữ.
Thế nhưng, Chúa Giêsu trong mọi tình huống, vẫn luôn tỏ ra nhân từ:
Chẳng hạn trong bữa tiệc ly, chúng ta thấy Chúa Giêsu cầm một tấm bánh trao cho Giuđa, như muốn thực hiện một nghĩa cử yêu thương cuối cùng đối với Giuđa, nhưng đã không có tác dụng gì đối với Giuđa.
Rồi ở vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã hiền hòa đón tiếp Giuđa, với những lời lẽ thật dịu dàng, để nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò:
“Giuđa ơi, con định dùng cái hôn này để nộp Thầy hay sao?” (Luca 23,48).
Nhưng, tất cả những cố gắng đó của Chúa, cũng đã không tác dụng gì. Chúa đã hoàn toàn thất bại.
Nhưng, trong những nỗi thất bại ê chề đó, Chúa Giêsu cũng vẫn quay lại nhìn Phêrô lần cuối, với một ánh mắt thật dịu dàng, để tha thứ cho ông, vì cái tội ông vừa chối Thầy.
Chúa cũng đã an ủi những phụ nữ thương khóc, khi đi theo Chúa, trên đường Chúa vác thập giá lên núi Sọ.
Chúa cũng đã xin Thiên Chúa Cha, tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người.
Chúa lại hứa ban thiên đàng cho người trộm lành biết ăn năn sám hối, vv....
Như thế chúng ta đã thấy: Trong mọi tình huống, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tỏ ra nhân từ, vẫn tiếp tục tỏ ra yêu thương và vẫn tiếp tục tỏ ra sẵn sàng tha thứ cho mọi người. Tha thứ tất cả.
Cuối cùng, chính bản thân Chúa Giêsu, Ngài đã hoàn toàn chấp nhận dâng hiến trên thánh giá, hiến thân cho đến hơi thở cuối cùng, để cứu chuộc tất cả nhân loại, để cứu chuộc mọi người, để cứu rỗi từng người chúng ta.
Thật đúng như câu Chúa đã từng nói:
“Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình của người, dám hy sinh mạng sống của mình vì bạn hữu”.
Lạy Chúa, vì yêu thương chúng con, mà Chúa đã chẳng quản ngại chịu mọi đau khổ, và đã cam đảm dám chấp nhận một cái chết thật nhục nhã, thật đau thương trên thánh giá.
Xin cho mỗi người chúng con, cũng nhận ra tình yêu thương cao quí này, để chúng con cũng biết cố gắng, mà tìm cách yêu thương Chúa hơn nữa, nhất là cố gắng không làm cho Chúa phải đau khổ, phải buồn phiền vì con. Amen.
Có một lần vào bệnh viện, tình cờ, tôi được chứng kiến một cảnh, thật là rất thương tâm, đó là:
Một người phụ nữ đau khổ, đang ngồi trước phòng giải phẫu, sốt ruột trông ngóng tin tức đứa con, đang ở trên bàn mổ.
Bỗng, vừa khi trông thấy vị bác sĩ trong phòng mổ bước ra, bà liền vội đứng lên, lao mình tới, liên hồi hỏi bác sĩ:
“Thằng bé con tôi ra sao rồi, thưa bác sĩ?
Liệu nó có qua khỏi không?
Chừng nào tôi được gặp nó, thưa bác sĩ?’
Vị bác sĩ nhẹ nhàng trả lời:
“Rất tiếc, là chúng tôi đã cố gắng hết sức, nhưng cháu đã không qua khỏi được, thưa bà”.
Nghe tin đó, bà như muốn ngất xỉu, bà mất hết tinh thần. Bà lấy hết bình tỉnh ngồi xuống ghế, chờ đợi người ta đưa xác con bà ra.
Bao nhiêu người chung quanh xoa dầu cho bà, hết lời an ủi bà, hy vọng có thể ổn định được tinh thần của bà, bởi bà đang trong tình trạng bị suy xụp tinh thần rất trầm trọng.
Vị bác sĩ thì thầm hỏi bà:
“Bà có cần một chút thì giờ, để ở riêng với cháu không, trước khi xác của cháu được chuyển qua trường đại học”.
Bà khẻ gật đầu.
Cô y tá mới dìu bà bước vào phòng mổ, kéo ghế, mời bà ngồi xuống bên cạnh xác con.
Bà mẹ yêu cầu cô y tá ở lại với bà, trong khi bà nói những lời từ biệt đứa con trai của mình.
Khi ngồi bên cạnh xác con, bà vẫn cứ tiếp tục vật vã trong đau đớn. Bà vẫn khóc và khóc thật nhiều. Những tiếng khóc nức nở của bà, như là than van, như là trách móc Chúa:
“Chúa ơi, tại sao con của con lại mắc bịnh ung thư?
Nó còn quá trẻ. Nó có tội tình chi. Chúa ơi, Chúa có còn thương chúng con nữa không?
Nó là con trai duy nhất của con. Nó học rất giỏi. Nó luôn được nhà trường khen ngợi, từ năm này đến năm khác. Từ môn này đến môn khác. Hình như không có môn nào mà nó không được khen thưởng.
Nó được các thầy cô yêu thương.
Nó được các bạn bè quí mến.
Tương lai phía trước thật là xán lạn.
Bao hy vọng của con đặt trọn vào nó.
Cả cuộc đời của con, cũng đặt trọn nơi nó.
Chúa bây giờ đang ở đâu ?
Chúa ơi, Chúa có thấy con trai của con cần Chúa, cần đến như thế nào không?
Và con đây cũng vậy”.
Khi thấy bà mân mê những lọn tóc trên đầu đứa con, cô y tá hỏi:
“Bà có muốn giữ lại một lọn tóc của cháu để làm kỉ niệm không?”.
Bà khẻ gật đầu.
Cô y tá nhẹ nhàng cắt một lọn tóc của cậu, bỏ vào bao plastic và trao cho bà.
Bà kéo cô y tá ngồi xuống bên cạnh, và bắt đầu tâm sự:
“Đây là Tâm, con trai duy nhất của tôi. Cha của nó chết rất sớm. Cho nên chỉ còn có 2 mẹ con tôi thôi. Lúc nào chúng tôi cũng gắn bó với nhau từ bao nhiêu năm qua. Chúng tôi yêu thương nhau. Chúng tôi sống rất hạnh phúc bên nhau. Cháu rất ngoan.
Nhưng đã nhiều lần, nó xin phép tôi cho nó được làm thủ tục, hiến cơ thể của mình cho trường đại học, để người ta nghiên cứu.
Nó nói:
“May ra, cơ thể của con có thể giúp được cho một người nào đó.”
Lúc đầu tôi không chịu, nhưng nó cứ nói:
“Mẹ ơi, sau khi con chết, con đâu có cần cơ thể này nữa đâu Mẹ. Có thể, nó sẽ giúp được cho một đứa con trai nào đó như con. Nó sẽ được tiếp tục sống thêm một thời gian nữa với mẹ của nó”.
Cuối cùng, tôi cũng xiu lòng, và chìu theo ý con.
Và người mẹ kể tiếp:
“Tâm của tôi, nó có một trái tim rất quảng đại, rất tuyệt vời. Tấm lòng của nó phải nói là làm bằng vàng. Nó luôn nghĩ đến người khác. Nó luôn giúp đỡ người khác, khi nào hoàn cảnh cho phép.
Và hôm nay, nó đã được mọi sự như sở nguyện”.
*****
Bước ra khỏi bệnh viện, bà đón xe về nhà, mà lòng nặng trĩu, đau đớn khôn nguôi.
Và càng đau đớn hơn nữa, khi bước vào nhà, bà thấy căn nhà trống vắng, lạnh tanh.
Bà quay qua quay lại, cũng chỉ thấy có một mình.
Bà cảm thấy cô đơn thật sự.
Và bắt đầu lo sợ cho cái nỗi cô đơn này.
Bởi từ lâu nay, bà chỉ nghĩ:
Có một đứa con thôi là đủ.
Hạnh phúc bên con như từ trước đến giờ thì đã đủ lắm rồi. Bà rất hài lòng. Và chưa bao giờ bà nghĩ đến cái tình huống bất ngờ thê thảm như hôm nay.
Rồi mai đây, bà sẽ ra sao ?
Bao tư tưởng mông lung, đã làm cho bà bất an, và đã làm cho bà lo lắng thật sự.
Bà cảm thấy bế tắc, không có lối thoát.
Tuy đầu óc đang đau đớn bất an, bà vẫn thu gom hết những đồ đạc của đứa con trai ra, để sắp xếp lại: Cái gì cần phải giữ kỹ hơn. Cái gì cần phải giữ lâu hơn.
Bà cẩn thận đặt bao plastic đựng lọn tóc của con, vào một cái hộp thật đẹp, và cẩn thận đặt trên bàn thờ của gia đình: Có bông hoa, có hương nhan, có đèn nến 2 bên.
Đây là kỷ vật cuối cùng, một kỷ vật quí báu nhất của đứa con yêu quí, mà bà còn giữ lại.
Lạy Chúa, bệnh tật, đau khổ, chết chóc, vẫn luôn là một chuyện bí nhiệm, khó hiểu đối với chúng con, những người con của Chúa.
Và càng khó hiểu biết bao đối với mọi người, trải qua mọi thời đại.
Nhưng xin cho chúng con luôn biết chấp nhận một cách vui lòng, để cho chương trình của Chúa trong lịch sử, trong nhân loại, và trong chính bản thân của con, được hoàn thành một cách tốt đẹp.
Xin cho con, trong mọi hoàn cảnh khó hiểu đó, thì quyết tâm: Không làm gì, không nói gì xúc phạm đến Chúa, kẻo Chúa phải buồn lòng vì con.
Xin cho con, mỗi khi gặp đau khổ thử thách, cũng biết cầu nguyện như Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện trong vườn Cây Dầu:
“Lạy Cha, xin đừng theo ý con, một xin vâng theo ý Cha mà thôi”.
Xin cho con cũng biết nghĩ đến người khác, biết sống cho người khác, biết sống vì người khác, như Chúa đã bỏ trời xuống trần gian vì chúng con, và chấp nhận chết vì chúng con, để chúng con được sống, và sống một cách dồi dào. Amen. -------------------
*** (Bạn muốn có những sách này, hãy chép đường link của sách vào thẻ nhớ hoặc vào USB, đưa cho tiệm Photo, họ sẽ in, chỉ khoảng 15 phút là xong, vì mỗi sách đều đã có sẵn bìa, và mỗi sách không quá 100 trang A5. Chỉ khoảng 24 tờ A4 trở lại)
I. - Chuyện minh họa Tin Mừng Chúa Nhật: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-minh-hoa-tin-mung/ 1. Chuyện người đàn ông say mê quảng cáo - sách 1 2. Chuyện linh mục vào Thiên Đàng - Sách 2 3. Chuyện con két đi khám bác sĩ – Sách 3
II. – Chuyện đời chuyện đạo: (5 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-doi-chuyen-dao/ 1. Hãy vui hưởng hạnh phúc ta đang có - sách 1 2. Chuyện đời to và nhỏ - Sách 2 3. Những lời khuyên hữu ích - Sách 3 4. Những chuyện nhỏ mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống - Sách 4 5. Một phép lạ từ một tình thương cho đi - Sách 5
III. - Chuyện kể cho các gia đình: (14 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-ke-gia-dinh/ 1. Chuyện người thu thuế và Người biệt phái - sách 1 2. Đừng bỏ cuộc - sách 2 3. Bí quyết hạnh phúc - Sách 3 4. Một chuyện không ngờ thê thảm - Sách 4 5. Đi tìm một bảo hiểm -Sách 5 6. Một mẫu người sống đạo đáng khâm phục - sách 6 7. Yêu là yêu cho đến cùng - Sách 7 8. Những chuyện lạ có thật – Sách 8 9. Một niềm vui bất ngờ - Sách 9 10. Chuyện mẹ ghẻ con chồng - Sách 10 11. Chứng nhân giữa đời thường - Sách 11 12. Cho Chúa mượn thuyền - Sách 12 13. Nét đẹp của lòng thương xót - Sách 13 14. Chuyện tôi vào đạo Chúa - Sách 14
IV.- Chuyện lẽ sống: (8 cuốn) https://linhmucmen.com/news/chuyen-le-song/ 1. Chuyện Chúa Giêsu đi xem bóng đá - Sách 1 2. Tình yêu là sức mạnh vạn năng - Sách 2 3. Ðời là một chuyến đi - Sách 3 4. Căn hầm bí mật - Sách 4 5. Thất bại, là khởi điểm của thành công - sách 5 6. Lịch sử ngày của mẹ - Sách 6 7. Chuyện tình Romeo và Juliet - Sách 7 8. Một cách trả thù độc đáo - Sách 8
V. – Kho sách quý: (3 cuốn) https://linhmucmen.com/news/kho-sach-quy/ 1. Bí mật đầy kinh ngạc về các linh hồn trong luyện ngục – Sách 1 2. Lần hạt mân côi – Thánh Josémaria Escrivá– Sách 2 3. Tiếng nói từ luyện ngục – Sách 3 ----------------------------------------------