Tôi thụ phong giám mục ngày 30-04-1975. Từ hôm đó đến nay, thời gian tương đối là dài. Trên quãng đường này, tôi đã thấy rất nhiều thay đổi, nơi xã hội, nơi Giáo Hội, nơi cộng đoàn, nơi cá nhân. Nhưng có nhiều điều trong tôi không thay đổi. Đó là không bao giờ tôi hết sợ chấp nhận chức vụ giám mục. Và cho đến bây giờ, tôi vẫn xin Chúa cứu tôi sớm thoát khỏi chức vụ giám mục. Tuy nhiên, trong mọi hoàn cảnh tôi vẫn nguyện cầu, cho thánh ý Chúa được thực hiện trọn vẹn khắp nơi, nhất là nơi bản thân tôi. Những phản ứng trên đây là rất chân thành. Vẫn mãi như vậy. Bao năm qua tôi đã sống với tâm trạng đó như thế nào? Đó là điều tôi muốn chia sẻ. Mong rằng chia sẻ này sẽ là một chút kinh nghiệm, góp phần nhỏ vào việc đào tạo thường xuyên những người môn đệ Đức Kitô tại Việt Nam hôm nay. Tất nhiên, Đấng có thể giải quyết trường hợp của tôi là chính Thiên Chúa. Vì thế, hằng ngày tôi tha thiết nói với Chúa một câu vắn tắt, mà xưa Đức Kitô đã nguyện cầu trên thánh giá: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Thường thường tôi lặp lại câu đó nhiều lần. Và thường thường đã xảy ra sau đó nhiều chuyển biến, mà tôi cảm nghiệm được. Xin kể đây vài cảm nghiệm riêng tư. Phải nói ngay đến cảm nghiệm về sự bình an tâm hồn. Tâm hồn cho dù đang xao động, sẽ cảm thấy mình như được bàn tay vô hình đưa xuống một nơi rất êm đềm, rất vắng, rất bình an, rất sâu, tận đáy cõi lòng. Nơi đây như sa mạc, như biển cả, nối vào cõi đời đời. Chốn tĩnh mịch này có thể là nơi Chúa đã nói tới, qua miệng tiên tri Hôsê: “Ta sẽ đưa nó vào nơi thanh vắng, tại đó Ta sẽ nói với trái tim nó những lời yêu thương” (Hs 2,16). Thú thực là tôi không nghe thấy tiếng Chúa nói. Nhưng tôi cảm nghiệm thấy sự hiện diện của Chúa. Ngài hiện diện như một tình yêu sống động. Nếu cần một số hình ảnh Phúc Âm để diễn tả, thì tình yêu Chúa như đôi tay Đức Kitô rộng mở đón nhận những người yếu hèn, bé nhỏ, tội lỗi. Tình yêu Chúa như tay Đức Kitô đụng vào người chết, làm cho nó sống lại. Tình yêu Chúa như đôi tay Đức Kitô bẻ bánh và trao cho những kẻ đi theo Ngài. Tình yêu Chúa như đôi tay Đức Kitô đã rửa chân cho các môn đệ. Tình yêu Chúa như hai tay Đức Kitô đã chịu đóng đinh vào thánh giá để đền tội cho nhân loại. Tình yêu Chúa như bàn tay Đức Kitô đặt trên đầu các môn đệ, để ban cho họ những ơn lành cần thiết. Như vậy, tình yêu Chúa được cảm nghiệm như đôi tay ân cần, âu yếm, luôn hoạt động, để tác tạo, để cứu độ, để phục vụ, để thánh hoá. Khi phó thác mình trong tay Chúa như vậy, tôi cảm nghiệm như được tay Chúa đưa trở về suối nguồn. Chính trái tim Ngài là nguồn mạch tình yêu. Từ đó nảy sinh ra nhiều cái nhìn mới về các sự việc xảy ra. Mọi việc của tôi đều được thực hiện như những thông tin về tình yêu Thiên Chúa. Mọi thời sự hàng ngày, mọi biến cố gần xa đều được đón nhận như những bản tin mang nội dung về tình hình hoạt động của tình yêu Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy thế này: Với nhiều cách khác nhau, tình yêu Chúa đang tác tạo những chân thiện mỹ mới. Bằng những ngả đường khác nhau, tình yêu Chúa đang cứu độ con người. Dưới nhiều hình thức khác nhau, tình yêu Chúa đang khích lệ những đổi mới tốt nơi các tâm hồn trong xã hội và trong Giáo Hội. Trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, tình yêu Chúa đang kêu gọi các môn đệ hãy tỉnh thức và cộng tác với Chúa. Những môn đệ nào của Đức Kitô cảm thấy mình yếu đuối kém cỏi như tôi, thì cố gắng làm những việc lành nhỏ. Nhất là những ai luôn cảm thấy mình bất xứng như tôi, thì càng cần phải trở về sống bên Chúa nhiều hơn, để được Ngài đào tạo cách riêng cho. Dựa theo kinh nghiệm, tôi có cảm tưởng là, khi Chúa đào tạo các môn đệ, Ngài để ý nhiều đến cái tâm. Ngài thanh luyện, uốn nắn cái tâm, sao cho nó trở nên hiền lành, khiêm nhường và yêu thương giống như trái tim của Ngài. Tôi thấy những ngôn ngữ Tin Mừng có sức thuyết phục đều không nặng về cái lý, dựa trên giáo thuyết, xuất phát từ lý trí, mà nặng về tình thương, dựa trên kinh nghiệm sống, xuất phát từ trái tim. Tôi cho rằng đạo đời nhiều nơi đang xuống dốc, nguyên nhân không phải yếu về trí tuệ, nhưng khô cằn nguội lạnh về trái tim. Chia sẻ vắn tắt trên đây là một đáp ứng nhỏ về những đòi hỏi rất lớn đặt ra cho chức vụ giám mục tại Việt Nam hôm nay. Tình thế phức tạp, trách nhiệm nặng nề, mà khả năng thì rất giới hạn. Vì thế mà đầu và cuối mỗi việc, lời cầu của tôi sẽ vẫn mãi là: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Thánh lễ kỷ niệm thụ phong giám mục, 30-04-1975 - 30-04-1997, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Thánh Giuse là một người âm thầm. Phúc Âm ghi chép về Ngài rất ít. Có một điều chắc chắn là Ngài đã sống bên cạnh Đức Mẹ và Chúa Giêsu một thời gian dài ở Nagiarét. Trong suốt 30 năm tại đó, thánh Giuse đã thấy Chúa Giêsu sống một đời thường như một người thường. Đời thường như một người thường là cuộc sống trong gia đình, trong xóm làng, trong đất nước. Đời thường như một người thường là phấn đấu làm ăn, là học hỏi, tập tành, là tiếp xúc, đối xử. Đời thường như một người thường là cuộc sống với người khác, sống nhờ người khác, sống trong những hoàn cảnh cụ thể của xã hội, văn hoá, chính trị, tôn giáo. Đời thường như một người thường là phải va chạm với các tính tình khác nhau, là phải có những chọn lựa trong các tình huống khác nhau, là phải có những cân nhắc đắn đo trong phong cách sống, trong nội dung nói và cách nói, trong việc làm và cách làm. Thánh Giuse thấy nơi Chúa Giêsu, đời thường như một người thường là một đời thường rất dễ thương, bởi vì nó phản chiếu vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang Thiên Chúa ở đây được tỏ hiện như những vẻ đẹp giản dị nhưng dễ mến: Vẻ đẹp của hiền lành và khiêm nhường, vẻ đẹp của tình yêu nhận lãnh và cho đi, vẻ đẹp của sự phục vụ vị tha, vẻ đẹp của lòng bao dung quảng đại kiên trì, vẻ đẹp của tinh thần người con thảo vâng phục thánh ý Chúa Cha. Bắt chước Chúa Giêsu, thánh Giuse cũng sống một đời thường như một người thường. Làm những việc thường với những phấn đấu thường ngày và cùng những người xung quanh, để bảo tồn, để xây dựng và để phát triển cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Nhưng Ngài cố gắng để tất cả đời thường đó phản chiếu vinh quang Thiên Chúa, một thứ vinh quang làm bằng các đức tính nhân bản, các đức tính xã hội, bằng tình yêu, khiêm tốn hiền lành, phục vụ, từ bỏ mình, nhất là bằng niềm tin vào Thiên Chúa là Cha. Mọi chi tiết của một đời thường như thế đều chứa đựng những giá trị cực kỳ cao đẹp, có sức cứu độ, có sức thánh hoá, có sức tạo dựng. Như thế là trong những cái hữu hạn lại có được những giá trị vô hạn, trong những cái hữu hình lại có được những giá trị vô hình, trong những cái mau qua lại có được những giá trị đời đời. Với cách sống như thế, đời thường đã phản chiếu vinh quang Thiên Chúa. Đó là một đời thường nói về Thiên Chúa. Đó là một đời thường làm chứng về Thiên Chúa. Đó là một đời thường truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Tất nhiên, để một đời thường có giá như thế, con người cần phải có những biến đổi sâu sắc trong nội tâm và trong nếp sống. Thánh Giuse đã có những biến đổi đó, nhờ sự Ngài luôn luôn lắng nghe ý Chúa, và luôn luôn thực hành ý Chúa. Với những suy nghĩ trên đây về thánh Giuse, tôi nhìn họ đạo Bò Ót trong cuộc sống và trong thánh lễ này. Anh chị em là những người nghèo. Đời thường của anh chị em là những cuộc sống nghèo với những lao động nhỏ, với những ước mơ nhỏ, với những niềm vui và với những nỗi lo. Tất cả đều rất thường nhưng trong những cái rất thường đó, tôi thấy có những giá trị quý giá lớn. Những giá trị lớn đó: như tình liên đới biết đùm bọc nhau, như tính hài hoà, biết kính trọng những khác biệt và biết sống tình nghĩa với nhau, như tính chân thật, trọng cái gì là thực, là lương thiện, như sự chịu khó phấn đấu để phát triển con người và cuộc sống, như niềm tin mến Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Như thế, qua đời thường, anh chị em đã làm chứng được là anh chị em đã và đang có nhiều đổi mới nội tâm và nếp sống. Đời thường của anh chị em đang phản chiếu phần nào vinh quang Thiên Chúa. Tôi cố ý nhấn mạnh đến đời thường, để anh chị em nhận thức rõ lãnh vực thích hợp nhất và cần thiết nhất để làm vinh danh Chúa chính là đời thường của anh chị em. Chúa Giêsu đã thực hiện điều đó. Thánh Giuse đã thực hiện điều đó. Xin cầu chúc anh chị em biết thực hiện điều đó một cách tốt đẹp nhất, để chúng ta có thể nói như thánh Phaolô xưa: “Chúng tôi phản chiếu vinh quang Thiên Chúa như một tấm gương, vì chúng tôi được biến đổi theo hình ảnh Người, mỗi lúc một rực rỡ hơn, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần” (2Cr 3,18). Thánh lễ kính thánh Giuse thợ, tại nhà thờ Bò Ót, ngày 01-05-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hôm nay, thứ sáu đầu tháng, ngày tĩnh tâm hàng tháng của linh mục, tu sĩ giáo hạt Tân Hiệp, chúng ta quy tụ tại nhà thờ giáo xứ Lạng Sơn, kinh 3 này, để tham dự một thánh lễ mang nhiều ý nghĩa: - Tạ ơn Chúa vì ngân khánh linh mục cha sở.
- Tạ ơn Chúa vì tháp chuông mới và đài mới.
- Cầu nguyện cho các em Thêm Sức hôm nay.
- Cầu nguyện bình an cho giáo xứ. Với nhiều ý hướng như thế, các người tham dự thánh lễ tất nhiên có những tâm tình khác nhau. Riêng tôi, xin được chia sẻ suy nghĩ của mình. Đó là suy nghĩ về hiệp thông. Thực vậy, cảnh hiệp thông trong thánh lễ hôm nay đã gợi ý cho tôi kêu gọi mọi người: Hãy cùng nhau làm cho giáo phận Long Xuyên nói chung và giáo hạt Tân Hiệp nói riêng có được một tinh thần hiệp thông sống động mạnh mẽ, trong việc phục vụ Hội Thánh và hạnh phúc của đồng bào. Hiệp thông là một nhu cầu căn bản của Hội Thánh. Hiệp thông là một vẻ đẹp của cộng đoàn đức tin. Hiệp thông là sức mạnh nâng đỡ mỗi người môn đệ Đức Kitô. Xây dựng hiệp thông là việc của mọi người trong giáo phận, trong giáo hạt, trong giáo xứ. Việc xây dựng này là: Làm việc với nhau, làm việc bên nhau, làm việc giúp nhau, là nâng đỡ nhau, chia sẻ cho nhau, cảm thông với nhau. Một trong những lý do thiết thực khiến tôi hôm nay nhắc nhở đến tinh thần hiệp thông, là do hai nhận xét sau đây: Trước hết, tôi nhận thấy tinh thần hiệp thông hiện nay tại nhiều nơi xem ra có vẻ như không được mạnh mẽ bằng trước kia, tức là những tháng năm đầu sau giải phóng. Tôi nói “có vẻ như”, nghĩa là tôi căn cứ vào những dấu bề ngoài, thấy được, quan sát được. Hiện nay, tinh thần cục bộ, tinh thần cá nhân có vẻ mạnh, nhiều lúc lấn lướt tinh thần hiệp thông có tính Hội Thánh. Cùng với nhận xét trên, tôi cũng có nhận xét này nữa, đó là hiện nay tinh thần hiệp thông tại nhiều nơi không còn được xây dựng trên nền tảng hoàn toàn Phúc Âm nữa, mà lại được xây dựng trên những nền tảng thế tục, như tiền bạc, danh vọng, cạnh tranh uy tín Người ta tìm hiệp thông với những người có tiền, có quyền, nhằm mục đích kiếm lợi thế gian, hơn là hiệp thông với những người tha thiết với đức tin, có lý tưởng dấn thân truyền giáo. Tinh thần tục hoá đã xuất hiện. Hai nhận xét trên đây có thể là sai. Và tôi mong là sai. Nhưng xem ra lại đúng. Đó là một băn khoăn cho tôi và cho nhiều người yêu mến Hội Thánh. Để ngăn chặn sự xuống dốc của tinh thần hiệp thông có thể xảy ra trong giáo xứ, trong giáo hạt, tôi xin anh chị em hãy quan tâm nhiều hơn đến việc cùng nhau tìm Chúa, đến việc cùng nhau thờ phượng Chúa, đến việc cùng nhau loan báo Tin Mừng, đến việc cùng nhau phục vụ hạnh phúc đồng bào. Cùng nhau nghĩa là có tính cách cộng tác, tham gia, tập thể. Chúa Giêsu đã hứa: “Khi hai ba người chúng con cùng nhau cầu nguyện, thì Thầy sẽ ở giữa chúng con” (Mt 18,20). Lời hứa trên đây của Chúa Giêsu cho phép tôi nghĩ rằng: Không những khi chúng ta hợp nhau cầu nguyện, Chúa Giêsu sẽ ở giữa chúng ta, mà bất cứ khi nào hợp nhau làm những việc có tính cách thờ phượng Chúa và phục vụ con người vì danh Chúa, thì Chúa Giêsu cũng sẽ hiện diện giữa chúng ta. Để biết thờ phượng Chúa và biết phục vụ đồng bào một cách thích hợp, nhất là trong một tình hình có chiều hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá, chúng ta cần có những hiểu biết rộng, những hiểu biết đúng, những hiểu biết sâu, những hiểu biết về nhiều lĩnh vực khác nhau. Hiệp thông với nhau để cùng nhau chia sẻ những hiểu biết như thế, sẽ là một cách tự đào tạo chính mình, phải được coi là rất hữu ích. Thời nay, sự trưởng thành của đức tin, nhất là của mục vụ, tuỳ thuộc rất nhiều vào những nhận thức và những đáp lại tiếng gọi khẩn cấp của Phúc Âm vang lên từ những quãng đường lịch sử cụ thể của từng địa phương. Nhận thức được những tiếng gọi khẩn cấp đó, và biết đáp ứng những nhu cầu khẩn cấp đó là việc không dễ. Nhưng nó là việc có thể thực hiện được khi chúng ta có tinh thần hiệp thông. Thánh lễ tại nhà thờ giáo xứ Lạng Sơn - kinh 3, ngày 02-05-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Thầy Pascal đã qua đời, để lại nơi tôi nhiều kỷ niệm đẹp. Đối với tôi, kỷ niệm đẹp nhất của tu sĩ 78 tuổi này là hình ảnh con người chín chắn. Chín chắn được tỏ lộ qua sự khôn ngoan trong các suy nghĩ, qua sự thận trọng trong các phản ứng, qua khả năng biết kiềm chế mình trong những nói năng, qua sự chuyên cần trong mọi hình thức phục vụ, qua sự đúng đắn trong các lựa chọn. Khi nhìn vào sự chín chắn của Thầy Pascal, như một công trình được xây dựng và được làm mới lại thường xuyên suốt đời tu 54 năm của mình, tôi có cảm tưởng là một cách nào đó, nơi Thầy đã ứng nghiệm lời khuyên của thánh tông đồ Phaolô: “Tin vào lòng thương xót Chúa, tôi khuyên anh chị em hãy lấy bản thân mình làm lễ vật sống động, thánh thiện, tốt đẹp mà dâng cho Chúa. Như thế là anh chị em thờ phượng Chúa một cách xứng hợp. Anh chị em đừng học đòi theo thói thế gian. Nhưng hãy biến đổi chính mình bằng cách làm mới lại tâm trí của mình, để anh chị em có thể hiểu biết ý Chúa, biết phân biệt được điều gì đối với Chúa là phải, là đẹp, là tốt, là trọn hảo” (Rm 12,1-2). Khi dùng lời Kinh Thánh trên đây như một tiêu chuẩn, để đánh giá Thầy Pascal, tôi thấy Thầy là một người môn đệ Đức Kitô đáng được ca ngợi, đáng nêu gương. Bởi vì Thầy đã tỏ ra trưởng thành, chín chắn trong sự nội tâm hoá sâu xa từng chi tiết Lời Chúa dạy trên đây. Thực vậy, trong suốt đời tu của Thầy, dù ở nhà dòng, dù đi giúp xứ, dù ở gia đình, dù ở bệnh viện, Thầy luôn luôn biến bản thân mình làm lễ vật sống động dâng lên Chúa. Thánh lễ thường ngày của Thầy là chính bản thân mình, với lửa mến trong trái tim, với mọi thứ hy sinh lớn nhỏ tự chọn cũng như phải chấp nhận, với một phong cách sống chín chắn mà khiêm nhường, trưởng thành mà nhã nhặn. Thiết tưởng đó là cách thờ phượng rất đẹp lòng Chúa. Hơn nữa, tôi thấy Thầy Pascal dù ở giữa thế gian, nhưng đã không học đòi thế gian. Thầy học gương Thánh Gia, hiền lành khiêm nhường, luôn cố gắng thực thi thánh ý Chúa. Ý Chúa là: “Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa, rồi mọi sự khác, Chúa sẽ ban cho sau” (Lc 12,31). Tìm Nước Thiên Chúa, phục vụ Nước Thiên Chúa, đón nhận Nước Thiên Chúa, mở rộng Nước Thiên Chúa, dù ở đâu, dù với hoàn cảnh nào, dù trong chức vụ nào, đó là thao thức ưu tiên, đó là thao thức thường xuyên của người môn đệ Đức Kitô, đó là thao thức có tính cách tuyệt đối phải vượt trên mọi thao thức khác, kể cả những thao thức có vẻ đạo đức. Tôi có cảm tưởng là thao thức tìm Nước Thiên Chúa nơi Thầy Pascal đã trở nên chín chắn với thời gian, với kinh nghiệm cuộc sống, với việc huấn luyện tu đức thường xuyên, trường kỳ, phải có nơi những người tu, nhất là với những khổ đau nơi bản thân Thầy cũng như với những khổ đau của những người nghèo, người bệnh, mà Thầy được chia sẻ. Chính nhờ đó, mà Thầy đã biết phân định được điều gì đối với Chúa là có giá trị đạo đức thực, việc gì là có giá trị Tin Mừng cứu độ thực sự, ước muốn nào là ơn Chúa gọi thực, và ước muốn nào chỉ là ý riêng mình, không có ích gì cho Nước Trời. Khả năng phân định như thế là rất quý. Nó làm cho sự chín chắn nhân bản của Thầy trở thành một sự chín chắn về đời sống thiêng liêng. Sự chín chắn này đang là một đòi hỏi khẩn thiết Chúa định ra cho mọi người tin theo Chúa, nhất là cho các người tu. Thầy Pascal đã hiểu đòi hỏi đó, và đã đáp ứng đòi hỏi đó một cách tốt đẹp. Tất nhiên, Thầy vẫn là con người yếu đuối. Nhưng nhận thức được sự thực đó, để làm cho đức khiêm nhường được thêm chín chắn, đó là một cách làm chứng về ơn Chúa đang rất cần cho thời nay. Trong thánh lễ này, chúng ta cảm tạ Chúa vì những ơn Chúa ban cho Thầy Pascal. Chúng ta cầu nguyện cho Thầy, và chúng ta cũng xin Thầy cầu nguyện cho chúng ta. Thánh lễ an táng Thầy Pascal Nguyễn Trung Huân, tại tu viện Thánh Gia - Cần Xay, ngày 09-05-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Nhà thờ Chánh toà Long Xuyên có thói quen dành thánh lễ Chúa Thánh Thần lúc 16 giờ cho các bệnh nhân. Thánh lễ giờ đây đang được cử hành với cảnh đặc biệt đó. Sự hiện diện của các bệnh nhân tại thánh đường tạo nên một bầu khí cảm thương thân mật. Bầu khí thiêng liêng này nhắc cho chúng ta rằng: Các bệnh nhân là những thành phần quan trọng và gần gũi của cộng đoàn. Những thành phần này phải được tôn trọng. Sự cảm thương của gia đình, của xóm ngõ, của họ đạo đối với các bệnh nhân là một yếu tố có thể đem lại cho xã hội và Giáo Hội một sự đổi mới đáng kể về mặt văn hoá và đạo đức. Bởi vì những tình cảm như thế sẽ làm cho mối tương quan giữa những con người với nhau trở nên tốt đẹp, giúp đem lại bình an và bác ái. Hơn nữa, khi mỗi người chúng ta biết đau cái đau của người bệnh, chúng ta sẽ thấy chính mình chúng ta sẽ thay đổi. Chúng ta đang thấy: Có những người vừa bệnh vừa nghèo, có những người vừa liệt vừa cô đơn, có những người đau nhiều thứ bệnh và phải kéo lê cuộc đời đau khổ thiếu thốn năm này sang năm khác. Phải vác gánh nặng trong thân xác. Phải vác gánh nặng trong tâm hồn. Nhưng vẫn can đảm, vẫn biết lo cho gia đình, vẫn quên mình, để sống cho kẻ khác. Sức khoẻ mong manh, nhưng phản chiếu một tinh thần mạnh. Một cuộc đời có bề dày bi đát, nhưng lại rất phong phú sức sống nội tâm. Sự biết chia sẻ những cảnh sống đó sẽ đạo đức hoá chúng ta. Bên cạnh các bệnh nhân và với kinh nghiệm riêng mình, tôi thấy khổ đau chính là một phần của sự sống. Phần đó là phần quan trọng. Bởi vì đau khổ có sức giáo dục, đào tạo, thanh luyện con người. Nó giúp cho con người trở thành kẻ có điều kiện hoàn chỉnh đời mình. Để một cây có thể phát triển xanh tươi tốt đẹp, trổ bông kết trái, nó phải chịu cắt tỉa, uốn nắn, nó phải hút vào mình những nắng, mưa và các thứ phân bón chẳng thơm tho gì. Tương tự cũng thế. Một cuộc sống chỉ có thể được đội triều thiên lúc bước vào đời sau, nếu trước đó đã cố gắng trải qua những phấn đấu, những thử thách khổ đau. Vì thế, càng gần đến đích, con người Chúa thương càng sẽ dần dần nhận ra rằng: Ơn thánh, ơn cứu độ là một tặng phẩm Chúa ban nhưng không, chứ không do công phúc của mình. Nhưng phải biết đón nhận bằng cách thực thi lời Chúa dạy: “Ai thương xót người sẽ được Chúa xót thương” (Mt 5,7). Thực vậy, cái đau đớn quan trọng nhất sẽ thanh luyện mình, và mình phải chấp nhận chính là sự biết từ bỏ mình, sự biết khiêm tốn, sự biết xót thương kẻ khác. Tôi đã thấy: có những người quen sống tự hào như kẻ đạo đức, nhưng đã chết như kẻ mất đức tin; lại có những người quen sống chui lủi như một con vật hèn, nhưng đã chết như một thiên thần. Bởi vì kẻ sống coi như đạo đức đó đã quá đầy đủ, quá tự mãn với một vài hình thức đạo đức bề ngoài, không chịu thử thách khổ đau, giữ tấm lòng hẹp hòi, dửng dưng trước những khổ đau của kẻ khác, rất ít phấn đấu, xa lạ với thánh giá. Với thái độ như thế, họ có vẻ đã không đón nhận được ơn cứu độ trong giây phút sau cùng. Còn kẻ sống như con vật đó, đã chịu khổ thể xác và tinh thần, đã quá thiếu thốn, đã rất khốn cùng, nên tâm hồn khiêm tốn, mở rộng, chỉ biết đợi chờ lòng thương xót của Chúa và của người khác, đồng thời cũng rất xót thương kẻ khác. Với thái độ như thế, họ đã ra đi với những dấu chỉ của kẻ đón nhận được ơn cứu độ, mà Chúa ban tặng cho những kẻ biết phấn đấu trong khiêm tốn, khó nghèo và biết xót thương. Với vài gợi ý trên đây, tôi xin anh chị em cùng tôi cảm tạ Chúa Thánh Thần về những đổi mới, mà Ngài đang thực hiện trong các tâm hồn, nhất là trong những người đang sống mầu nhiệm thánh giá. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn thương xót cho các bệnh nhân và cho hết mọi người, để chúng ta biết khiêm tốn xót thương nhau, biết khiêm tốn tin cậy vào lòng thương xót Chúa, biết khiêm tốn đón nhận thánh giá Đức Kitô vào đời mình như một chìa khoá mở kho tàng tình yêu thương xót Chúa. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, dành cho các bệnh nhân, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 18-05-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trưa ngày 04-06 vừa qua, khi được tin Ông Tư thân sinh linh mục Khoa vừa mới qua đời, tôi đã tới ngay nhà Ông Tư, để có mặt với gia đình trong giờ phút đau thương nhất. Tới nơi, tôi thấy một cảnh cảm động đã gây cho tôi một ấn tượng mạnh. Ông Tư vẫn nằm trên giường trong tư thế một người bệnh đang được cấp cứu. Xung quanh có rất đông người, kẻ đứng, người quỳ. Tất cả đều rất đau buồn. Nhưng lại vang lên những bài thánh ca. Để cầu nguyện, để phó dâng linh hồn Ông Tư cho Chúa. Căn phòng bao trùm một bầu khí thiêng liêng đầy đức tin và tình thương mến. Tự nhiên lúc đó tôi như gặp lại Ông Tư, một cách thiêng liêng nhưng rất thân mật. Trong thinh lặng tôi đã từ giã Ông Tư. Qua trực cảm nội tâm, tôi đã nghe một điều Ông Tư tâm sự đó là: Biết đón nhận tình yêu thương xót, biết cho đi tình yêu thương xót, biết phát triển và thanh luyện tình yêu thương xót. Tôi hiểu Ông Tư muốn nói gì. Thực vậy, Ông Tư đã nhận được tình thương sâu sắc đậm đà của gia đình, tình thương chân thành của thân thuộc bạn bè, và những người quen biết. Ông Tư cũng đã nhận được tình thương vị tha của các thành phần trong Hội Thánh, qua các liên đới tình nghĩa với Ông Tư, với gia đình Ông Tư, nhất là với linh mục Khoa, con Ông Tư. Đặc biệt Ông Tư đã nhận được tình thương tuyệt vời, tình thương cứu độ của Thiên Chúa là Đấng Ông Tư tôn thờ suốt đời với trọn tấm lòng tin mến trung kiên. Tất cả các tình thương ấy Ông Tư đã đón nhận với ý thức trách nhiệm. Đồng thời với tình thương đón nhận, Ông Tư đã có những tình thương cho đi, và dâng hiến cho Chúa, cho gia đình, cho xã hội, cho Hội Thánh, cho đủ mọi thứ người. Tôi còn nhớ những tháng ngày không xa, khi Ông Tư còn khoẻ mạnh, Ông Tư đã thỉnh thoảng tới thăm tôi. Mỗi lần chỉ ít phút thôi, với ít lời thôi. Nhưng giá trị để lại chính là thái độ tế nhị, tấm lòng chân thành khiêm tốn, nhất là chiều kích tâm linh của Ông Tư. Chiều kích tâm linh này xem ra được hình thành và phát triển do những phấn đấu nội tâm. Tôi biết là Ông Tư đã trải qua nhiều chặng đường đời chông gai. Đã có nhiều lo âu. Đã có nhiều cay đắng. Nhiều thánh giá vô hình đã đè trên tâm hồn Ông Tư. Nhưng nhờ đức tin, Ông Tư đã phấn đấu, để vượt qua, để tự thanh luyện, nhất là để hướng về tương lai theo tiếng Chúa gọi. Ông Tư đi về phía trước với tâm hồn lạc quan tin tưởng. Qua mấy lần thăm Ông Tư những ngày vừa qua, khi Ông Tư lâm bệnh hiểm nghèo, tôi nhớ lại lời thánh tông đồ Phaolô nói: “Tôi quên những đoạn đường đã đi qua và chỉ hướng về phía trước, tôi lao mình về đích, nhắm vào phần thưởng gắn liền với ơn gọi từ trên cao, mà Thiên Chúa đã gửi tới chúng ta trong Đức Giêsu Kitô”. (Pl 3,13) Tôi có cảm tưởng là Ông Tư đã sống lời Kinh Thánh trên đây một cách sâu sắc những ngày cuối đời đầy đau đớn. Theo kinh nghiệm, tôi có thể tin rằng, chính thời gian đau đớn đó, Ông Tư đã cảm nghiệm được chân lý sau đây được mặc khải qua thánh tông đồ Phaolô: Nếu tôi thiếu tình yêu tôi chỉ là con số không. (x. 1Cr 13,1-3) Trái lại, với tình yêu biết đón nhận, biết cho đi, biết thanh luyện, biết phát triển, người ta sẽ có thể sinh sản ra nhiều hoa thơm trái tốt thiêng liêng và những hoa trái đó sẽ tồn tại (x. Ga 15,16). Giờ đây, trong thánh lễ này, chúng tôi sẽ cùng với gia quyến, cùng với cộng đoàn, nhất là với Cha Khoa, cảm tạ Thiên Chúa vì muôn ơn Ngài đã ban cho người quá cố thân yêu của chúng ta. Chúng ta cầu nguyện cho người thân yêu này, và cũng xin người thân yêu này cầu nguyện cho chúng ta. Thánh lễ an táng ông Phêrô Nguyễn Thành Chưu, thân sinh linh mục Phêrô Nguyễn Tấn Khoa, tại nhà nguyện Đcv Tôma - Long Xuyên, ngày 06-06-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hôm nay, lúc 7 giờ rưỡi, tôi đã chủ sự thánh lễ đồng tế an táng Ông Cố của cha Nguyễn Tấn Khoa tại Long Xuyên. Cũng sáng nay, hồi 9 giờ rưỡi, tôi lại chủ sự tĩnh tâm cho các linh mục, tu sĩ giáo hạt Tân Hiệp. Và giờ đây, tôi lại chủ sự thánh lễ Thêm sức cho các con em giáo xứ Đồng Phú - Kinh 2. Thú thực là từ trưa tới giờ tôi khá mệt mỏi. Sự mệt mỏi của tôi đã được giảm sút khi được gặp lại anh chị em. Khi ngồi dưới đò nhìn lên hai bờ kinh, tôi đã thấy có nhiều đổi thay: Đổi thay ở những quãng đường, đổi thay ở những ngôi nhà. Những đổi thay đó báo hiệu những bước phát triển mới, ngắn hạn và dài hạn. Khi đến đây, tôi lại thấy nhiều đổi thay làm tôi ngỡ ngàng: Đó là sự đổi thay ở thánh đường, đổi thay nơi khu nhà xứ. Đặc biệt là tôi thấy nhiều đổi thay nơi các lớp người trong họ đạo: Giới trẻ có những vẻ đẹp mới, người lớn tuổi, người đứng tuổi cũng có thêm những vẻ đẹp mới về nhân cách, về văn hoá. Đổi thay này làm tôi quan tâm và vui mừng. Khi tôi gặp cha xứ của anh chị em, tôi nhận thấy nơi ngài có những đổi thay. Đổi thay đó làm tôi băn khoăn. Đó là đổi thay về tình hình sức khoẻ. Tất cả các điều đó đã làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều. Ngay từ khi vào thánh đường này, nhìn lên thánh giá Đức Kitô, để cùng anh chị em hát bài xin bình an và hiệp nhất cho giáo phận, tôi đã tập trung lòng mình vào Đức Kitô để lắng nghe lời Ngài, để chia sẻ tâm tình của Ngài, để đón nhận những soi sáng của Ngài. Đó là điều tôi muốn chia sẻ vắn tắt với anh chị em hôm nay để mừng lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu dịp Thêm sức hôm nay. Khi nhìn Đức Kitô trên thánh giá với những vui mừng và băn khoăn lẫn lộn, tôi đã hỏi Đức Kitô: Chúa muốn nói với con những gì? Tôi nhớ lại lời Ngài đã nói xưa: Con Người sẽ bị đau khổ rất nhiều. Con Người sẽ bị các kỳ lão, thượng tế và luật sĩ kết án. Và sau cùng Con Người đã bị chết đóng đinh trên thánh giá (x. Mt 16,21). Và tôi hỏi Chúa rằng: Chúa là Thiên Chúa, Chúa có cách nào khác để cứu chuộc nhân loại, để cứu chúng con không? Ngài chỉ đáp rằng: Đó là con đường duy nhất Cha đã chọn. Rồi tôi cũng nói với Chúa rằng: Con đường đó Chúa chọn cho riêng Chúa, còn chúng con thì sao? Chúa lại nhắc lại lời Ngài đã nói xưa, nói xưa mà cũng nói hôm nay với tôi, với anh chị em. Ngài nói: “Những ai muốn theo Ta cũng phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta (Mt 16,24). Ta đã đi trên con đường thánh giá, trên con đường khổ đau, trên con đường khiêm tốn, trên con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến tận cùng, thì môn đệ nào theo chân Ta cũng phải làm theo như vậy, cũng phải bước đi như vậy. Đó là những điều tôi tâm sự với Đức Kitô trong khi chúng ta hát bài cầu xin ơn bình an và hiệp nhất. Và tư tưởng đó cứ đọng mãi trong tôi từ nãy tới giờ. Trong thánh lễ, khi anh chị em hát bài “Xin chỉ cho con đường đi của Chúa”, tôi lại nhắc với Chúa rằng: Đường đi của Chúa là thế nào đây? Chúa lại nhắc lại: Đó là con đường thánh giá, đó là con đường khiêm tốn, đó là con đường từ bỏ mình. Trong bài hát lúc nãy, chúng ta cũng đã xin: Xin dạy bảo con những điều cao quý. Điều cao quý là chân lý cứu độ Chúa đã nhắc cho tôi. Lời cao quý là lời của thánh giá. Chân lý cứu độ vẫn là chân lý của thập giá Đức Kitô. Tóm lại, trong mấy phút từ nãy tới giờ, Đức Kitô đã dạy bảo tôi, để rồi tôi chia sẻ với anh chị em về ý định của Chúa. Con đường Chúa dạy chúng ta phải đi là con đường thánh giá. Chỉ có con đường đó mới có giá trị cứu độ, mới là con đường xây dựng hoà bình và hiệp nhất trong họ đạo, trong giáo phận, trong Đất nước, trong Hội Thánh. Giờ đây, tôi xin anh chị em đón nhận tâm tình của tôi, tâm tình của một người thương mến anh chị em, lo lắng cho anh chị em và muốn rằng trong tương lai bước đi của chúng ta sẽ là bước đi mà thánh ý Chúa đã chỉ cho chúng ta hôm nay. Đơn sơ, vắn tắt thôi. Chắc anh chị em đã hiểu. Chúng ta sẽ khó chấp nhận, sẽ khó thực hiện con đường thánh giá, con đường khiêm tốn, con đường từ bỏ mình, nhưng với ơn Chúa Thánh Linh chúng ta hy vọng sẽ thực hiện được. Chúng ta không mong đợi thành công nhưng chúng ta hy vọng sẽ có một cơ hội để chúng ta biết sống con đường thánh giá. Thánh giá treo ở nhà thờ chỉ là tiếng gọi con đường thánh giá chúng ta phải đi trong cuộc đời, mà thánh giá trong cuộc đời là cái thiết thực mỗi ngày. Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta thực hiện con đường Chúa dạy chúng ta hôm nay, để làm vinh danh Chúa, để chúng ta đi về với Chúa, để chúng ta giúp con em mình tìm được con đường hạnh phúc, con đường cứu độ. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Đồng Phú, kinh 2b, ngày 06-06-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Giáo xứ Đồng Phú hôm nay có một diện mạo mới. Nhìn diện mạo mới này mọi người trong giáo xứ đều hân hoan và mọi khách tới đều ca ngợi. Với tinh thần hiệp thông, tôi xin chia sẻ niềm vui với anh chị em trước những công trình tốt đẹp đã thực hiện được và nói lên những nhận xét của tôi. Tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ. Suy nghĩ thứ nhất là về những vẻ đẹp của các loại văn hoá ở đây. Môi trường, nhà thờ và nhìn xung quanh nhà thờ, tôi nhận thấy văn hoá môi trường được thực hiện tốt với nhiều sáng tạo thích hợp. Rồi đây văn hoá môi trường sẽ đóng một vai trò không nhỏ trong việc sống đạo, trong mục vụ, trong truyền giáo. Bởi vì, môi trường sẽ giúp cho chúng ta quy tụ, sẽ giúp cho chúng ta phục vụ, sẽ giúp cho chúng ta đào tạo và nhiều khi giúp cho chúng ta cầu nguyện. Phát triển văn hoá môi trường là một nhu cầu thích hợp hiện nay, nằm trong chương trình của việc phát triển đức tin. Cùng với nền văn hoá môi trường, tôi nhận thấy một vẻ đẹp của văn hoá khoa học và dân tộc trong kiến trúc nhà thờ, trong trang trí cung thánh. Cách xếp đặt này, xây cất này có khả năng gợi cảm, có một cái gì đó là hiện đại, là vĩ đại, có một cái gì đó là dân tộc. Những cái đó cũng là những giá trị đi liền với những giá trị phát triển về đức tin hiện nay. Một giá trị về văn hoá ở đây đã làm tôi quan tâm chú ý nhiều. Đó là vẻ đẹp về văn hoá nhân văn ở chính con người. Tôi biết là xứ đạo Đồng Phú của anh chị em, dưới sự hướng dẫn của các cha, đã rất quan tâm nâng cao trình độ văn hoá cho mọi lớp người của giáo xứ. Đặc biệt là nâng cao trình độ văn hoá của các con em. Hôm qua, có một cuộc trao phần thưởng tượng trưng cho học sinh nghèo, giỏi, chăm, có thành tích vượt khó. Đó là một cử chỉ nói lên nhiều ý nghĩa. Qua cử chỉ đó người ta thấy rằng: phát triển đức tin, làm chứng cho đức tin hiện nay một phần phải nhờ đến sự phát triển con người, phát triển văn hoá, thăng tiến con người. Suy nghĩ thứ hai là về vẻ đẹp của tinh thần đoàn kết trong họ đạo. Lúc nãy, ông đại diện đã nói: Giáo xứ Đồng Phú chúng ta có nhiều khúc mắc, có nhiều bất trung, có nhiều vấp ngã, nhưng tất cả đều sống trong một tình liên đới đậm đà, thương nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Thánh đường này là kết quả của tình đoàn kết đó. Tôi biết là khi xây dựng những công trình này, mọi người trong giáo xứ đều đã góp công góp của, đã chứng tỏ tinh thần trách nhiệm bằng sự chu toàn những gì đã phân công và những gì là tình nguyện. Tất cả những điều đó làm chứng rằng: tinh thần đoàn kết đã giúp xây dựng thánh đường vật chất và thánh đường vật chất cũng đã giúp gắn bó mọi thành phần trong xứ đạo lại với nhau. Một điểm ở đây đã làm tôi suy nghĩ: Đó là trong tiến trình xây dựng thánh đường, cha xứ và giáo xứ đã tránh đề cao một loại người mà người ta thường gọi là các ân nhân. Không phải là chúng ta tránh và không trân trọng những trợ giúp riêng, nhưng chủ ý chúng ta muốn mọi người nhìn nhau đều là ân nhân, tất cả cùng có công có phúc, tất cả đều được ghi ơn, tất cả đều được đền ơn. Và chính tình liên đới đậm đà khiêm tốn ấy đã giúp cho việc xây dựng thánh đường đạt tới đỉnh cao, tránh được nhiều chuyện phức tạp, và như ông đại diện đã nói là giảm bớt được những chi phí một số khá lớn. Suy nghĩ thứ ba của tôi là về vẻ đẹp của tinh thần tin mến trước những thử thách. Cuộc lễ tưng bừng bây giờ không phải là tiêu biểu cho toàn thể cuộc sống. Cuộc sống chúng ta có những niềm vui nhưng pha trộn với những khổ đau cay đắng. Cuộc sống của chúng ta có những ánh sáng nhưng vẫn chen vào những mưa gió, những cái bất thường, những cái gọi là bão tố. Chúng ta gặp thử thách, đủ mọi thử thách: về đời sống kinh tế, về đời sống gia đình xã hội, về đời sống nội tâm, về sức khoẻ, về công ăn việc làm vv... Đó là những thánh giá lớn nhỏ. Khi chúng ta vác những thánh giá ấy, chúng ta phải phấn đấu, để sự vác thánh giá trở thành những bước đi, giúp ta tới gần Chúa hơn và có sức mạnh cứu độ chính mình ta và góp phần cứu độ kẻ khác. Tôi nghĩ là thử thách sẽ không dừng ở ngày hôm nay. Nó còn tiếp tục đến. Có những thử thách cũ và sẽ có những thử thách mới. Bắt đầu lễ khánh thành nhà thờ, hệ thống âm thanh đã tắt, mặc dù chúng ta đã chuẩn bị rất kỹ. Đó là một bất ngờ xảy tới không như chúng ta đã chuẩn bị. Tôi coi đó là một báo hiệu cho chúng ta. Hãy sẵn sàng chấp nhận những thử thách sau này Chúa gửi đến cho cuộc đời chúng ta. Trong cái nhìn đó, tôi nhớ lại mấy lời khuyên của thánh Phaolô tông đồ về thử thách, tóm gọn mấy ý sau đây: Một là, phải luôn luôn ý thức rằng mọi người đều phải đi qua thử thách, đặc biệt là những người tin theo Chúa, những môn đệ Đức Kitô sẽ phải đi qua nhiều thử thách. Hai là, khi chịu thử thách hãy hết sức mến Chúa, hãy hết lòng hy vọng vào một mình Chúa và hãy tha thiết yêu thương những người chung quanh. Tất cả những lửa mến đó giúp cho thánh giá trở nên nhẹ hơn và có giá trị cứu độ hơn. Ba là, chúng ta đừng phô trương cái gì hết, một cái có thể phô trương tự hào đó là thánh giá của ta. Tôi vừa tâm sự với Chúa: Chớ chi khi con đến với Chúa, con sẽ cầm thánh giá trên tay để nói với Chúa rằng: Vinh quang Chúa đến muôn đời là ở thánh giá, thánh giá này của con kết hợp với thánh giá Đức Kitô chính là vinh quang của Chúa đến muôn đời. Ba suy nghĩ trên đây của tôi là rất chân thành, là rất cụ thể. Tôi mong muốn rằng ba suy nghĩ này giúp cho chúng ta tạo nên một phong cách sống Tin Mừng trong xã hội hôm nay. Có văn hoá, có đoàn kết nhưng cũng có can đảm chịu thử thách trong đức tin và đức mến. Giờ đây chúng ta đem tất cả niềm vui, lo âu và hy vọng của chúng ta đặt vào Trái tim Chúa Giêsu. Chúng ta đặt vào đó với niềm tin trọn vẹn, với lòng mến chân thành và nhất là với niềm hy vọng vô biên, để Chúa Giêsu sẽ dẫn đưa chúng ta, xứ đạo chúng ta đến đúng con đường làm vinh danh Chúa, để chúng ta làm vinh danh Chúa bằng những gì Chúa gửi đến cho chúng ta. Nhờ đó chúng ta biết phấn đấu cho đức tin, cho lòng quảng đại, cho lòng nhân ái Phúc Âm như chúng ta vừa nghe trong Phúc Âm. Lễ khánh thành nhà thờ Đồng Phú - kinh 2b, ngày 07-06-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm anh chị em vừa nghe, chúng ta thấy những luật sĩ, giới trí thức đã nghĩ xấu về Đức Kitô. Họ đã nghĩ rất xấu về Đức Kitô. Họ nghĩ xấu mà còn đem nói ý nghĩ xấu đó cho những người khác nghe. Họ muốn giảm uy tín của Đức Kitô. Họ bôi lọ Đức Kitô, làm cho Đức Kitô trở thành con người xấu xa trong xã hội. Thời đó, trước những bất công như thế, nhiều người đã tưởng rằng: những người thân Đức Kitô, những người hiểu Đức Kitô, sẽ bênh Đức Kitô. Nhưng thực tế những người này không hiểu Đức Kitô, cũng không bênh Đức Kitô. Chúa vẫn để vậy. Chúa vẫn bao dung. Thời xưa giới Pharisêu cũng tưởng rằng: Khi Đức Kitô, Đấng Cứu độ đến, Ngài sẽ đến theo con đường vinh quang. Nhưng thực tế cho thấy, Đức Kitô đã đến trong con đường khiêm tốn nghèo hèn . Thời nay nhiều người cũng tưởng rằng cứ dùng những biện pháp mạnh thì các bè rối sẽ tan. Nhưng thực tế bây giờ cho thấy, những bè rối đó vẫn tồn tại, vẫn phát triển. Bởi vì Đức Kitô vẫn dùng những cách của Người, đó là ban tặng ơn thánh của Người. Ai muốn nhận thì đón lấy. Ai chối từ Chúa cũng chấp nhận. Chúa không áp đặt. Nhiều nơi cũng vẫn nghĩ rằng: Hễ ai đã được rửa tội, thành người trong Hội Thánh, thì tất nhiên sẽ tốt hơn những người ngoài Hội Thánh. Nhưng thực tế bây giờ cho thấy, nhiều người có rửa tội mà đâu có sống tốt như Phúc Âm dạy. Trái lại nhiều người ngoài Hội Thánh lại sống lương thiện, bác ái hơn. Trước đây nhiều người cũng đã tưởng rằng: Khi thay đổi chế độ chính trị bên Đông Âu, bên Liên Xô, thì chắc chắn đạo Công giáo sẽ phát triển mạnh, đạo đức sẽ tăng thêm. Nhưng thực tế hôm nay chứng tỏ rằng tưởng như vậy là ảo tưởng. Trước đây có người cũng nghĩ rằng: Trong Cái Sắn này, tại các kinh, số người tín hữu sẽ càng ngày càng tăng, do đó cần làm những nhà thờ lớn hơn. Nhưng nay thực tế bây giờ cho thấy tại Cái Sắn đang giảm đi số người công giáo. Ngay giáo xứ Kim Hoà chúng ta đây, người Công giáo bỏ đi tìm làm ăn nơi khác cũng đã rất đông. Trước đây nhiều người đã tưởng rằng: Hễ đời sống vật chất kinh tế lên cao thì gia đình sẽ êm ấm hơn, yêu thương nhau hơn. Nhưng thực tế cho thấy khi gia đình giàu có hơn, thì nhiều khi lại sinh chia rẻ, lại sống hẹp hòi hơn, lại mất đi bầu khí yêu thương liên đới. Thêm vào đó còn có những phát sinh về nhiều tội lỗi khác. Chúng ta dễ nghĩ sai, dễ có ảo tưởng. Chúng ta cần phải cảnh giác về sự cứu độ. Chỉ thánh ý Chúa mới bảo đảm được sự thực cứu độ, con đường cứu độ. Hãy thực thi ý Chúa. Thực thi ý Chúa, hướng về con đường hạnh phúc trường sinh là hãy biết đón nhận sự sống Đức Kitô, luôn luôn đi tìm vinh quang của Cha, luôn luôn quy hướng về Cha, luôn luôn thực thi kế hoạch cứu độ của Cha. Thực thi ý Chúa, hướng về con đường hạnh phúc trường sinh là hãy biết đón nhận lửa Thánh Linh, ngọn lửa giúp chúng ta biết phân định cái gì tốt cái gì xấu, cái gì nên làm hôm nay, cái gì sẽ làm ngày mai, một phong cách sống Tin Mừng hợp với từng thời, hợp với từng nơi. Bây giờ đừng ảo tưởng rằng sau thánh lễ Thêm sức này, con em chúng ta sẽ nên thánh, sẽ phấn đấu kiên trì để trung thành với ơn Chúa Thánh Linh, là lửa mến Đức Kitô. Đừng ảo tưởng rằng mình chịu các phép bí tích đầy đủ, thì bảo đảm sẽ rỗi linh hồn. Cần cầu nguyện thêm. Cần cầu nguyện hằng ngày, để có thể đón nhận thêm sự sống Đức Kitô, đón nhận lửa Thánh Linh. Cần học hỏi và suy gẫm Lời Chúa nhiều hơn, để hiểu ý Chúa. Tôi tin tưởng rằng: Với ơn Chúa, chúng ta sẽ càng ngày càng hiểu ý Chúa, và càng ngày càng có sức thực thi ý Chúa. Thánh lễ Thêm Sức tại giáo xứ Kim Hoà, kinh G-1, ngày 08-06-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Khi cha Đaminh Nho mời tôi đến giáo xứ Long Bình đây để chủ toạ lễ Ngân khánh linh mục của ngài, tôi đã nói với ngài rằng: “Tổ chức nhỏ thôi. Dân đang nghèo. Hơn nữa không biết mình có gì đáng mừng không.” Cha xứ Long Bình đã trả lời tôi đại khái là: Ý của cha rất muốn âm thầm, nhưng vì giáo xứ tha thiết muốn, nên cũng phải làm tí chút. Gọn nhẹ thôi. Và chủ yếu đặt nặng phần thiêng liêng. Tôi thấy chọn lựa của cha như vậy là tốt. Giáo dân muốn, nhưng cha xứ chọn phương cách thực hiện. Hôm nay tôi tới đây, một phần vì cha xứ Đaminh, và một phần cũng vì giáo xứ Long Bình. Nhận thấy thái độ quý mến của anh chị em đối với cha xứ của mình, tôi rất vui mừng. Với tình hiệp thông chân thành đằm thắm như vậy, giáo xứ Long Bình có thể trở thành dấu chỉ Tin Mừng, cụ thể là dấu chỉ của sự bình an, dấu chỉ của ơn cứu độ, dấu chỉ của niềm hy vọng. Trong những hoàn cảnh không thiếu phức tạp, khi một giáo xứ được coi là dấu chỉ Tin Mừng với ba chứng từ như thế, thì linh mục phụ trách giáo xứ đó hẳn phải cố gắng rất nhiều. Cố gắng phục vụ giáo đoàn tối đa, nhất là cố gắng đào tạo thường xuyên chính mình. Tôi chủ ý nhấn mạnh đến việc linh mục tự đào tạo thêm và thường xuyên, sau khi đã thụ phong linh mục. Bởi vì trong suốt 25 năm qua, tình hình xã hội và con người tại Việt Nam đã có rất nhiều đổi thay. Nếu chỉ với cái vốn đạo đức và trí thức thu nhập được từ những trường lớp trước chịu chức, linh mục đồng hành để phục vụ con người và xã hội sẽ rất khó đáp ứng được những yêu cầu mới, và cũng rất khó đối phó được với những thách đố mới. Vì thế, trong vòng 25 năm đầy những đổi thay, nếu một linh mục đồng hành phục vụ giáo đoàn đã làm được cho giáo đoàn trở thành một dấu chỉ Tin Mừng với những giá trị Phúc Âm sáng đẹp, thì đúng là linh mục đó đã có thêm được một số vốn đạo đức và trí thức mới. Cái vốn thu nhập sau thụ phong linh mục thường rất lớn. Đó là một sự thực. Sự thực này gợi ý cho chúng ta để ý nhiều hơn đến sự tăng trưởng phẩm chất linh mục nơi các vị mừng ngày kỷ niệm thụ phong linh mục. Sự tăng trưởng này là do những ơn Chúa ban, và do linh mục biết đón nhận với tinh thần khiêm tốn bén nhạy, để rồi biết cộng tác với Chúa phát triển những ơn đó một cách tích cực. Khi đánh giá sự tăng trưởng phẩm chất linh mục nơi các linh mục nói chung và nơi linh mục Đaminh Vũ Hồng Nho nói riêng, tôi căn cứ vào 4 điểm sau đây: Một là năng lực. Năng lực nói đây là thứ trí thức được tôi luyện bằng thực tiễn. Năng lực tiếp thu những trí thức mới. Năng lực suy nghĩ. Năng lực nắm bắt các vấn đề. Năng lực phân tích và hệ thống hoá. Năng lực sáng tạo, nhất là năng lực phục vụ vì Tin Mừng. Hai là tác phong. Tác phong là một cách tỏ bày bản lãnh, kết tinh bởi nhiều yếu tố. Như ý chí phục vụ, tinh thần tôn trọng sự thực, trật tự, thói quen giữ lời hứa, làm tốt đúng việc đúng lúc, lòng nhân ái, nhất là tác phong kẻ luôn sẵn sàng được sai đi vì Tin Mừng. Ba là nhân đức. Nhân đức là một thói quen tốt. Linh mục cần có nhiều nhân đức, nhưng quan trọng nhất là đức ái, và đức khiêm tốn từ bỏ mình. ở đây tôi nhớ lại lời Đức Kitô đã hỏi tông đồ Phêrô: Con có mến Thầy không? Chúa hỏi ba lần (x. Ga 21,15-17), có ý nhấn mạnh đến tình mến yêu đòi hỏi dấn thân. Bốn là định hướng. Định hướng là những con đường mình chọn ưu tiên cho mục vụ. Thí dụ ưu tiên là đào tạo nhân sự, phát triển con người, giúp đỡ kẻ bệnh tật, nghèo túng, cô đơn, nhất là tân phúc âm hoá cộng đoàn và dấn thân truyền giáo. Tất nhiên, bốn điểm trên đây không phải là tất cả những gì làm nên phẩm chất linh mục. Nhưng tình trạng bốn điểm đó là những gì khiến cho người ta tin vào linh mục nhiều hay ít, kính phục linh mục nhiều hay ít. Hiện nay, linh mục Đaminh Vũ Hồng Nho đang được giáo xứ, các bạn bè tin tưởng, kính trọng. Điều đó là một dấu tốt về sự tăng trưởng phẩm chất linh mục nơi ngài. Giờ đây, tôi xin cùng với ngài, với giáo xứ và cùng với thân thuộc bạn bè quen biết, ca ngợi Thiên Chúa về sự tăng trưởng đó, mặc dầu sự tăng trưởng đó chỉ là nhỏ bé, khiêm tốn. Xin Chúa nhân lành thương giúp cha, tôi và tất cả các linh mục biết cộng tác với Chúa trong việc tăng trưởng phẩm chất linh mục của mình. Bởi vì tương lai rất cần đến một sự tăng trưởng mới, phù hợp với giai đoạn mới. Thánh lễ mừng ngân khánh linh mục cha Đaminh Vũ Hồng Nho, tại giáo xứ Long Bình, kinh G2, Cái Sắn, ngày 10-06-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Chiều hôm qua, một thanh niên từ xa đã điện thoại cho tôi. Anh chia sẻ với tôi về kết quả một thánh lễ anh mới tham dự. Theo anh kể lại thì cuộc lễ được tổ chức rất đơn sơ bề ngoài nhưng bên trong rất sốt sắng. Nhà thờ đầy chật người, với những kinh nguyện đọc chung trước thánh lễ, với những bài thánh ca hát cộng đoàn mang cung điệu mầu sắc dân tộc, với những người đọc sách thánh có tâm hồn cầu nguyện, với một bài giảng vắn gọn có chất lượng, nhất là với những khuôn mặt cầu nguyện tập trung và với cách đối xử với nhau thân tình. Thánh lễ đó đã tạo ra được một bầu không khí linh thiêng lạ lùng, gây xúc cảm cho mọi người và đối với người không công giáo. Đối với anh, thánh lễ đó đã là một ấn tượng, một khám phá. Và nhờ đó nhiều người không công giáo đã có cảm tình với Đức Kitô. Cũng chiều hôm qua, một người đàn ông lớn tuổi từ xa đã điện thoại cho tôi. Ông kể cho tôi về chuyến đi lên miền cao nguyên. Ông tự nguyện đi cùng với nhóm người tự nguyện, đa số là Phật tử. Đi lên đó để thăm hỏi, chăm sóc những người cùi. Họ đi với một tâm hồn hy sinh và cầu nguyện theo tín ngưỡng của mình. Kết quả là sau chuyến đi, một người rồi hai người đã tìm về với Đức Kitô. Tôi coi những người đó, tôi coi thánh lễ đó là những chiếc cầu thiêng liêng, để qua đó Chúa đến với con người, và qua đó con người đến với Chúa và qua đó con người gặp gỡ nhau. Cũng chiều hôm qua, tôi nhận được hai lá thư từ xa. Một lá từ Hà Nội, một lá từ thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả là hai thanh niên tôi không hề quen biết. Họ biết tôi qua sách báo. Trong thư, họ nói lên niềm khát vọng được sống đời chiêm niệm triệt để giữa đời và dấn thân cho người khác. Đọc hai thư đó, tôi có cảm tưởng họ là những chiếc cầu thiêng liêng Chúa đang chuẩn bị, để qua đó nhiều người sẽ tìm được Chúa và qua đó Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho nhiều người. Những mẩu tin vắn trên đây giúp cho chúng ta hiểu về công cuộc kiện toàn mà Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa nói: “Thầy đến không phải để phá huỷ các lề luật nhưng để kiện toàn”. Xưa Chúa Giêsu kiện toàn nếp sống đạo, bằng cách Ngài kêu gọi mọi người đừng quá câu nệ cách sống đạo, giữ luật bề ngoài, nhưng hãy đi vào nội tâm, hãy mến Chúa hết lòng và hãy yêu thương kẻ khác như chính mình. Ngài kêu gọi, rồi Ngài làm gương, rồi Ngài đào tạo một số môn đệ sống kiện toàn như vậy. Hiện nay Thiên Chúa kêu gọi chúng ta phải kiện toàn lối sống đạo của chúng ta. Chúa luôn luôn kêu gọi và Chúa muốn Hội Thánh chúng ta kiện toàn nếp sống đạo. Chúa kêu gọi trong mặc khải của Ngài. Hãy kiện toàn đời sống đạo bằng cách cùng với Ngài sống ơn gọi làm con Thiên Chúa, tham dự vào đời sống Thiên Chúa. Hãy kiện toàn đời sống đạo bằng cách cùng với Ngài sống mầu nhiệm thánh giá, từ bỏ chính mình, hy sinh cho kẻ khác. Kiện toàn nếp sống đạo của mình là biết cùng với Ngài, nhờ Ngài mà đón nhận được Chúa Thánh Linh, giúp cho mình biết mến Chúa thực, yêu thương người ta thực sự. Tôi nghĩ là với sự kiện toàn trên đây, Hội Thánh nói chung và chúng ta nói riêng, sẽ trở thành cái cầu thiêng liêng với chiều kích tâm linh phong phú, để cho Chúa đến với nhân loại, để cho con người lên với Chúa và để cho con người gần gũi lại với nhau trong tình yêu thương chân thành. Với những suy nghĩ trên đây, tôi nhìn giáo xứ Bò Ót, tôi tự hỏi ở đây có sự kiện toàn như vậy không? ở đây có những chiếc cầu thiêng liêng như thế không? Tôi đã trả lời là có. Bởi vì tôi nhìn vào những nhóm người tự nguyện đến chầu Mình Thánh Chúa, những nhóm người tự nguyện cùng nhau đào tạo đời sống nội tâm, những nhóm người tự nguyện dấn thân phục vụ đồng bào, chăm sóc những người cô đơn nghèo túng. Tôi nhìn thấy những người luôn luôn khát khao đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Tôi nghĩ rằng đó là một sự kiện toàn đời sống đạo của mình và giúp cho đời sống của họ đạo trở thành chiếc cầu thiêng liêng. Với sự kiện toàn này, tôi thấy anh chị em đang được Chúa đào tạo nên những chiếc cầu có chiều kích tâm linh. Nghĩa là luôn khát khao được thuộc về Đức Kitô, luôn luôn giúp nhau trở nên môn đệ Đức Kitô, và không bao giờ cho rằng mình đã đạt được lý tưởng người môn đệ Đức Kitô. Có một điều tôi muốn nói ở đây để khuyến khích những tâm hồn đang được Chúa gọi đi vào sâu nội tâm, điều đó là: Hãy quảng đại nhiều hơn trong sự sống mầu nhiệm thánh giá. Chúng ta biết rằng ơn cứu độ là nhờ cây thánh giá Đức Kitô. Chúng ta muốn cộng tác với Đức Kitô trong việc cứu độ, thì phải sống mầu nhiệm thánh giá, từ bỏ người cũ của mình, chấp nhận hy sinh, hoàn thành bổn phận hàng ngày mặc dầu vất vả, mặc dầu phải phấn đấu cam go. Tôi vẫn nghĩ rằng: Đời sống của chúng ta, nhất là hiện nay, không những cần phải thu nhận những ơn thánh giúp ta tin mến Chúa, mà còn cần phải có sức mạnh đối phó với những mưu mô của quỷ dữ Satan. Quỷ dữ đang lộng hành và có thể đã an cư nơi chính lòng chúng ta. Chúng ta chỉ có thể đối phó được với sức mạnh của quỷ dữ Satan bằng cầu nguyện, bằng hy sinh. Phải thế thôi. Với những tư tưởng trên đây, tôi mong rằng giáo xứ Bò Ót của anh chị em, một giáo xứ là cửa ngõ của giáo phận Long Xuyên, đang khi cố gắng phát triển những giá trị đủ loại về văn hoá, nhất là văn hoá dân tộc, thì cũng hãy cố gắng phát triển sự kiện toàn đời sống nội tâm. Để khi bước vào giáo xứ này, người ta cảm thấy giáo xứ Bò Ót chính là cây cầu thiêng liêng, với một chiều kích tâm linh sâu đậm Chúa dùng để mang ơn cứu độ đến cho mọi người chung quanh. Và như vậy, con em chúng ta sau này sẽ được hưởng những gì chúng ta hôm nay đang công phu xây đắp. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Bò Ót, ngày 11-06-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Họ đạo Định Mỹ này có những hoàn cảnh rất đáng quan tâm. Cha sở thì đi tù vì những tội liên quan đến tiền bạc. Thánh đường thì suy sụp nhưng vẫn chưa xây cất lại được. Giáo dân một phần còn nghèo túng. Địa điểm đi lại tương đối khó khăn. Những hoàn cảnh trên đây khiến tôi rất thương anh chị em và đồng thời cũng làm tôi ray rứt. Tuy nhiên, khi gặp lại anh chị em ở đây, tôi cảm thấy được an ủi và vui mừng, bởi vì tôi nhận thấy đời sống đạo ở đây rất tốt và tinh thần xã hội của anh chị em cũng chẳng kém ai. Được sống với anh chị em mấy phút ở đây, tôi muốn nhắn gửi anh chị em mấy điều vắn tắt. Điều thứ nhất là anh chị em hãy luôn nhớ mình là con Thiên Chúa được tham dự vào ơn nghĩa tử của Đức Kitô. Muốn hiểu rõ và cảm nghiệm được những ơn quý giá đó, chúng ta cần phải năng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần như thánh Phaolô đã quả quyết: Không ai gọi Thiên Chúa là Cha một cách đích thực nếu không có ơn của Chúa Thánh Linh. Lúc nãy khi nghe anh chị em đọc kinh Năm Thánh, tôi thấy người con của Chúa biết có một cái nhìn hướng về thế giới, hướng về đất nước, hướng về đồng bào và nhất là hướng về trên cao nơi có Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót đợi chờ mình. Ơn làm con Chúa là rất trọng, hãy luôn nhớ điều đó. Điều thứ hai xin nhắn nhủ là anh chị em hãy luôn nhớ Chúa kêu gọi anh chị em làm chứng mình là con của Thiên Chúa. Điều này là điều rất rõ ràng, nhưng thực hiện cách nào thì tuỳ sự khôn ngoan của anh chị em với sự soi sáng của Chúa Thánh Linh. Thí dụ như trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa kêu gọi những người tin theo Chúa phải sống công bình hơn, phải sống bác ái hơn những người khác. Điều này buộc chúng ta cần phải có nhiều phấn đấu và nhìn nhận sự thực về mình. Điều thứ ba tôi muốn nhắn nhủ là anh chị em được Chúa kêu gọi cùng nhau tích cực xây dựng cộng đoàn họ đạo của mình. Khi anh chị em nhân danh Chúa và nhân danh Hội Thánh quy tụ lại cùng nhau xây dựng họ đạo, thì Chúa ở giữa anh chị em. Và dù có gặp khó đến mấy, anh chị em cũng hãy luôn tin tưởng rằng Chúa ở với anh chị em, vì anh chị em đến quy tụ lại là vì nhân danh Đức Kitô, là vì Chúa Thánh Thần thúc đẩy, là vì vinh quang Chúa Cha trên trời. Khi anh chị em thực hiện ba điều tôi nhắn nhủ trên đây, anh chị em sẽ thấy là anh chị em cần phải có lòng tin cậy vào Chúa, nhưng đồng thời cũng cần phải cố gắng phấn đấu hết sức của mình. Tôi vừa đưa ra hai điều kiện là tin tưởng cậy trông Chúa Thánh Thần nhưng đồng thời cũng phải cố gắng phấn đấu hết sức của mình. Chúa không làm phép lạ cho chúng ta nếu chúng ta không tự mình phấn đấu xoay xở với tinh thần trách nhiệm, với tất cả sự can đảm và sự khôn ngoan của mình. Lúc nãy đi từ Long Xuyên đến đây có quãng đường tôi đi xe, có quãng đường tôi đi ghe, có quãng đường tôi đi bộ. Nghĩa là có quãng đường đi nhanh được và quãng đường phải đi chậm. Đi chậm vì phải đợi chờ, vì phải đi bộ. Chuyến đi vừa qua gợi ý cho tôi là: Cuộc hành trình của người công giáo chúng ta trong một đất nước, trong một địa phương cũng luôn luôn bị ảnh hưởng bởi thực tế. Có những quãng đường mình đi lẹ được, nhưng cũng có quãng đường mình phải đi chậm, bởi vì mình bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh thực tế. Mình muốn đi lẹ không được, phải chậm lại, bởi vì hoàn cảnh phải như vậy. Đôi khi phải dừng lại. Đó là khôn ngoan. Biết chấp nhận thực tế đó, để chúng ta đừng buồn, để chúng ta đừng thất vọng. Khi bình tĩnh bước đi con đường sống đạo, con đường xây dựng họ đạo, chúng ta sẽ thấy Chúa luôn ở với chúng ta. Và chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc, bởi vì cuối cùng, mặc dầu chúng ta chưa xây dựng được ngôi thánh đường vật chất bề ngoài, chúng ta cũng có ngôi nhà thờ thiêng liêng trong tâm hồn mình, ngôi nhà thờ đó không ai có thể phá vỡ được, không ngọn gió nào có thể huỷ bỏ được. Bởi vì ngôi nhà thờ đó là trái tim ta, là tâm hồn ta trong đó có ơn Chúa, trong đó có Chúa Cha - Chúa Con - Chúa Thánh Thần ngự trị. Với những lời tâm sự chia sẻ với anh chị em trên đây, tôi cầu xin Chúa Thánh Linh ở giữa anh chị em. Tôi hy vọng rằng, dần dần chúng ta sẽ tới được những điều chúng ta mong ước cả về tinh thần cả về vật chất. Bởi vì tất cả những sự đó không phải chỉ vì ích cho phần rỗi chúng ta, cũng không phải chỉ vì ích cho Hội Thánh chúng ta, mà còn ích lợi cho Đất nước, cho xã hội, cho đồng bào, cho địa phương chúng ta. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Định Mỹ, ngày 12-06-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về các môn đệ Chúa. Chúa muốn các môn đệ Chúa phải có những đức tính tốt. Những đức tính tốt mà Chúa Giêsu hôm nay muốn nêu lên là: sự tỉnh thức, sự trung tín và sự khôn ngoan. Khi suy gẫm nội dung bài Phúc Âm hôm nay tôi đã hỏi Chúa Giêsu: Lạy Chúa, Chúa muốn nhắn gửi nội dung này cho những ai. Và Chúa trả lời tôi: Chúa muốn nhắn gửi bài Phúc Âm hôm nay cho họ đạo Cù Lao Giêng nói chung và cho tất cả các bậc phụ huynh Cù Lao Giêng nói riêng. Và tất nhiên cho tất cả những ai có trách nhiệm mục vụ và truyền giáo. Ý thức điều đó, nên giờ đây tôi xin chia sẻ vắn tắt một vài suy nghĩ của tôi về nội dung Chúa nhắn gửi cho chúng ta. Điều quan trọng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay là Chúa đòi các môn đệ Chúa phải biết cung cấp lương thực cho những người Chúa trao phó cho mình. Lương thực đó có thể hiểu là những gì nuôi dưỡng phát triển đời sống thể chất, những gì nuôi dưỡng phát triển đời sống trí thức, những gì nuôi dưỡng phát triển đời sống đạo đức, nhưng nhất là những gì nuôi dưỡng và phát triển đời sống thiêng liêng. Khi đề cập tới lương thực nuôi dưỡng và phát triển đời sống thiêng liêng của linh hồn, nhiều người nghĩ ngay tới sinh hoạt giáo lý, đến sinh hoạt hội đoàn, đến sinh hoạt văn hoá, đến sinh hoạt từ thiện xã hội. Những việc đó quả là hữu ích và nhiều khi cần thiết. Thế nhưng, theo Phúc Âm, lương thực chính yếu nuôi dưỡng và phát triển đời sống thiêng liêng chính là: Thứ nhất, sự sống của Đức Kitô, như lời Ngài đã nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Cho nên, lương thực nuôi dưỡng và phát triển đời sống linh hồn chính là Đức Kitô. Thứ hai, lương thực nuôi dưỡng và phát triển đời sống linh hồn chính là ơn Chúa Thánh Linh, như lời Kinh Thánh đã dạy: Không ai có thể gọi Đức Kitô là Thiên Chúa của mình, nếu không do tác động của Chúa Thánh Linh. Phải có Chúa Thánh Linh trong hồn ta như sự sống, như lương thực thì chúng ta mới có thể cầu nguyện và nhìn rõ dung mạo của Đức Kitô được. Rồi thứ ba, lương thực nuôi dưỡng và phát triển đời sống linh hồn chính là ơn lòng thương xót của Chúa Cha như lời thánh Phaolô đã khẳng định: Trong lãnh vực thiêng liêng, thành công của chúng ta không phải do ý muốn của chúng ta mà có được, cũng không phải do sự chúng ta khéo chạy chọt, xoay xở mà thành. Nhưng tất cả đều do ơn lòng thương xót Chúa. Như vậy, lương thực nuôi dưỡng và phát triển đời sống linh hồn chính là tình yêu Thiên Chúa: Tình yêu Chúa Cha tạo dựng, tình yêu Chúa Con cứu độ, tình yêu Chúa Thánh Thần thánh hoá. Khi chúng ta có lương thực đó một cách dồi dào, thì lương thực đó sẽ làm nên cái phong cách của ta, sẽ làm nên bản lãnh của ta, sẽ làm nên nhân cách của ta. Để rồi từ đó, sẽ ảnh hưởng sang những người chung quanh mà chúng ta có trách nhiệm. Như vậy, các môn đệ Đức Kitô, mà cụ thể là các bậc phụ huynh, những người chia sẻ tinh thần và trách nhiệm mục vụ truyền giáo, cần phải là những người nói được như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Ga 2,20). Tôi là cành nhưng là cành sống động gắn liền với Đức Kitô, như Đức Kitô đã nói: “Thầy là cây nho, chúng con là cành” (Ga 15,5). Cành đó là cành sống, chứ không phải là cành khô gẫy. Đến đây chúng ta đã thấy sự cung cấp lương thực để nuôi dưỡng phát triển đời sống linh hồn phải bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng là nguồn mạch chính. Vậy chúng ta phải đón nhận lương thực đó thế nào? Tôi chỉ nhắc lại những điều anh chị em và chúng ta đã từng biết. Trước hết phải năng cầu nguyện, nhất là cầu nguyện với Chúa Giêsu Thánh Thể dưới sự soi dẫn tác động của Chúa Thánh Linh. Chẳng hạn trong giờ đây, ngay lúc nghe giảng này, chúng ta cũng hãy liếc nhìn vào Chúa Thánh Linh, liếc nhìn vào Đức Kitô trong nhà tạm, cầu nguyện để biết đón nhận Chúa, để biết giữ lại ơn Chúa, để biết hiểu Lời Chúa. Phải năng cầu nguyện. Thứ hai phải năng học hỏi và suy gẫm Lời Chúa. Lúc nãy, nghe hai em nhỏ đọc bài Sách Thánh, tôi có cảm tưởng là hai em đó đã tập trước, đã đọc đúng. Nhưng có điều tôi hy vọng là không phải chỉ đọc đúng mà cần sống lời mình đọc. Bởi vì trong lời Kinh Thánh có Đức Kitô. Không phải đón Lời Chúa mà là đón Đức Kitô đàng sau Lời Chúa. Cho nên khi học hỏi, khi suy gẫm Lời Chúa, thì luôn luôn nhìn vào Đức Kitô đang nói với chúng ta. Mà như vậy, chúng ta tìm gặp Thiên Chúa, chúng ta đón nhận Thiên Chúa, chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và chúng ta xin Thiên Chúa ở lại với chúng ta như là lương thực. Và sau cùng, một cách nữa để chúng ta đón nhận lương thực thiêng liêng, đó là chúng ta thực hiện tinh thần trách nhiệm, chu toàn bổn phận của mình. Mỗi người Chúa trao cho một trách nhiệm, hãy làm tốt, hãy làm đúng trách nhiệm đó thì ơn Chúa sẽ đến với chúng ta. Cách đây hai ngày, tức là tối 26 vừa qua, đài truyền hình Việt Nam có chiếu một phóng sự trong mục “Vấn đề hôm nay”. Đại cương là cảnh báo về thiếu nhi, về giới trẻ: Đang có một sự suy thoái đạo đức nơi những người trẻ tại Việt Nam hôm nay. Phóng viên đài hôm đó, khi kết luận, đã gợi ý rằng: Đây là trách nhiệm của xã hội; đây là trách nhiệm của gia đình; đây là trách nhiệm của nhà trường. Riêng tôi, tôi muốn nói thêm một câu: Đây cũng là trách nhiệm của tôn giáo. Theo tôi nghĩ: Khi con em chúng ta, khi giới trẻ chúng ta sa sút về đạo đức, thì có thể là vì người lớn chúng ta đã sa sút về đạo đức. Chúng ta hãy tự kiểm điểm mình. Chúng ta có thực sự sống đúng đạo đức không? Để giúp cho các em tránh những phạm pháp và suy thoái đạo đức, thì những phụ huynh, những người được chia sẻ trách nhiệm mục vụ và truyền giáo cần phải có đời sống bên trong phong phú. Tức là phải có sẵn sự sống Thiên Chúa trong mình, phải có tình yêu của Chúa Cha, tình yêu của Chúa Con và tình yêu của Chúa Thánh Thần, tình yêu nhân loại. Chúng ta phải có lương thực dồi dào trong chính chúng ta trước, để rồi chúng ta có thể chia sẻ sang con em chúng ta. Chúng ta không thể cho đi sự gì mà chúng ta không có. Nếu chúng ta trống vắng, nếu chúng ta chỉ bám vào những sự bề ngoài mà trong lòng thiếu vắng tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đối với người khác, thì chắc chắn chúng ta sẽ không có gì để mà chia sẻ. Ý thức như vậy, tôi xin anh chị em nhớ đến lễ hôm nay. Xin Chúa vì lời cầu bầu và gương sáng của một vị thánh đã coi sự trở về với Chúa là quan trọng, đó là thánh Augustinô, cũng giúp cho chúng ta, nhất là những người lớn biết luôn luôn trở về với Chúa, tìm lương thực chính yếu nơi Thiên Chúa. Để rồi nhờ sự chúng ta trở về, chúng ta sẽ giúp cho con em chúng ta biết trở về và nhất là biết đứng vững được trước những trào lưu xấu đang đổ vào các con em chúng ta, hầu phá đổ tất cả những đạo đức mà chúng ta đã xây dựng. Xin Chúa Thánh Thần hôm nay cho chúng ta được sáng suốt, được khiêm tốn trở về với Chúa, đi tìm Chúa, giữ Chúa lại trong mình, để nhờ đó chúng ta biết sống đạo trong một thời gian lịch sử rất khó khăn, đầy thử thách. Lễ Thêm Sức tại Cù Lao Giêng, ngày 28-8-1997.
Thánh lễ mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sống lại, thường được coi là một thời gian thiêng liêng, quý giá đặc biệt. Từ thánh lễ này, nhiều người, nhiều nơi, đã đón nhận được những ơn lành của Chúa Giêsu Phục sinh. Một trong những ơn lành ấy, có một ơn lành thiết tưởng đáng chúng ta để ý suy nghĩ, đó là sự đang xuất hiện và phát triển, những gì là thiêng liêng, trên đất nước Việt Nam ta. Thực vậy, nếu để ý quan sát và theo dõi tình hình xã hội, chúng ta có thể thấy nhiều hiện tượng có tính cách thiêng liêng đang tăng lên đều khắp. Thí dụ: Hầu như trong mọi gia đình đều có một không gian thiêng liêng đó là bàn thờ; hầu như mọi người, trong định kỳ những năm tháng đời mình, đều có dành cho mình một thời gian thiêng liêng, để cầu khấn, để tưởng niệm, để đọc sách đạo đức; hầu như trong cõi thâm sâu của tâm hồn mỗi người, đều nuôi dưỡng một niềm tin thiêng liêng, như điểm tựa vô hình; hầu như trong mọi địa phương lớn nhỏ đều có những nơi thiêng liêng, như nhà thờ, đền, chùa, để lui tới hành hương; hầu như trong mọi gia đình đều có những sợi dây thiêng liêng ràng buộc nhau lại, kẻ sống với kẻ chết, và những kẻ sống với nhau; hầu như trong mọi tình huống vui buồn, hoặc quan trọng trong cuộc đời, mọi người đều quen đi vào một thế giới thiêng liêng, để hồi tâm, để sám hối, để tìm kiếm một giải pháp linh thiêng; hầu như mọi người Việt Nam đều kính trọng những biểu tượng thiêng liêng và không ngại thực hành những nghi thức thiêng liêng. Tôi coi những hiện tượng trên đây, là những hình thức khác nhau của ơn phục sinh. Đó là những khởi đầu tốt. Những gì là thiêng liêng, sẽ làm nên một vẻ đẹp tuyệt vời cho nền văn hóa, và làm nên sức mạnh vô song cho một dân tộc. Nếu thế, thì khi lo đầu tư cho kinh tế, chúng ta đừng quên trân trọng, vun trồng và đầu tư cho những giá trị thiêng liêng. Nhất là khi tệ nạn xã hội đang có chiều hướng lan rộng, tội ác đang có vẻ tăng lên, thì việc phục sinh những gì là thiêng liêng phải được coi là rất cần trong việc đào tạo và giáo dục lương tâm. Nếu lương tâm không được xây dựng trên những xác tín thiêng liêng, nó sẽ dễ bị sụp đỗ, kéo theo nhiều sụp đỗ khác, gây tai hại trầm trọng cho con người, gia đình và xã hội. Trong cái nhìn đó, tôi nghĩ nhiều tới tu thân. Một thứ tu thân cần cho mọi người. Một thứ tu thân, có nghĩa là tu sửa, tức là thường xuyên cố gắng sửa mình. Một thứ tu thân có nghĩa là tu đức, tức là thường xuyên phấn đấu tập tành nhân đức. Thứ tu thân như thế sẽ có sức tỏa sáng những giá trị thiêng liêng, sẽ có sức đầy lùi những thói hư tật xấu. Thứ tu thân ấy sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh. Với những suy nghĩ trên đây, tôi xin mọi người hãy cảm tạ Chúa, vì ơn Phục sinh Chúa đã ban. Xin cầu nguyện cho nhau và cho gia đình, dân tộc, cộng đoàn đức tin của ta, được biết đón nhận thêm ơn Phục sinh, được biết cộng tác thêm nữa vào ơn phục sinh. Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng con tin tưởng nơi Chúa, chúng con thờ phượng Chúa.
Hằng ngày, qua báo chí, qua các đài phát thanh, qua các đài truyền hình, chúng ta biết những tin về các tai nạn thảm hoạ chiếm một phần quan trọng trong đời thường. Thí dụ về thiên tai, thì có những vụ cháy lớn, những vụ động đất lớn, những vụ hạn hán lớn, những vụ lụt lội lớn. Về y tế sức khoẻ, thì chúng ta thấy những bệnh rất là nguy hiểm: như bệnh SIDA, bệnh ung thư, bệnh dịch tả, bệnh lao vv.. Về xã hội, thì chúng ta được nhge tới những bệnh lạ rất lớn, rất nguy hại: như là nạn tham nhũng, nạn dốt nát, nạn nghèo túng, nạn thất nghiệp, nạn suy thoái về kinh tế vv... Rồi về đạo đức, thì chúng ta cũng đã được nghe những phong trào, những khuynh hướng xấu, đang tràn lan khắp nơi, thiếu lương thiện, thiếu khiêm tốn, thiếu bác ái, thiếu công bình, thiếu liên đới. Nói chung thì tất cả những tai nạn đó là những sức mạnh phản kháng nhân loại. Nó rất mạnh và rất nhiều. Bây giờ, nếu chúng ta nhìn vào một việc thôi, một giáo xứ chúng ta thôi, cũng có thể thấy những tai hoạ có sức mạnh phá hoại ấy là rất nhiều, là rất mạnh. Và nếu chúng ta nhìn vào các gia đình, kể cả gia đình chúng ta, nhìn vào chính bản thân chúng ta, chúng ta sẽ thấy sức mạnh tàn phá ấy là rất nhiều, là rất mạnh. Sống trong một tình hình đầy những thảm hoạ đó, chúng ta nhiều khi, vì tinh thần liên đới, vì tinh thần tách nhiệm, nhất là trách nhiệm đối với các linh hồn, đối với dân tộc, đối với Hội thánh, chúng ta cảm thấy xót xa lo âu xao xuyến. Và đôi khi căng thẳng trước tình hình như vậy, chúng ta phải làm gì? Tất nhiên, chúng ta không thể đầu hàng sự xấu, sự ác, để cho sức mạnh sự tội tàn phá Hội Thánh, tàn phá dân tộc, gia đình và bản thân chúng ta. Chúng ta phải làm rất nhiều việc. Nhưng việc đầu tiên chúng ta cần có, là phải tin cậy vào Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Hãy tin vào Đức Kitô là Đấng cứu độ nhân lành. Hãy tin vào Chúa Thánh Thần là Cha an ủi kẻ âu lo. Chúng ta tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Và niềm tin cậy đó là do Thiên Chúa, là của Chúa đem vào lòng mỗi người chúng ta. Niềm tin cậy ấy như là những hạt giống ở trong lòng ta, nó sẽ nảy sinh dần dần. Nhưng với điều kiện là chúng ta phải tôn trọng nó, chăm sóc nó. Tôn trọng thế nào? Tôi chỉ xin vắn tắtđưa ra ba việc sau đây. Việc thứ nhất là chúng ta nâng hồn mình lên khi cầu nguyện. Chúng ta có thể xin ơn này ơn no, nhưng chủ yếu cầu nguyện là đến với Chúa, nhìn Chúa là Cha, cảm tạ ngợi khen trong mọi hoàn cảnh. Dù hoàn cảnh đó là bi đát nhất. Nhìn vào Chúa, để rồi quy hướng mọi sự về Chúa. Ta làm việc này, không toan tính việc kia, không phải cho con, mà vì danh Chúa. Quy hướng tất cả về Chúa. Nhìn vào Chúa là đợi chờ tất cả từ tay Chúa con cố gắng nhưng không tin vào sự cố gắng của con mà tin vào ơn Chúa nhìn vào Chúa để rồi chỉ vì một sự này là thánh ý Chúa thánh ý Chúa muốn cho chúng ta trở nên giống con cái Chúa có sự sống của Thiên Chúa sự sống ấy là nguồn tình yêu tất cả những sự khác đều là phụ thuộc chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới là căn bản để chúng ta trở thành người con đích thực của Chúa khi chúng ta cầu nguyện như vậy thì chúng ta đừng cầu nguyện một mình hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Linh Chúa Thánh Linh giúp ta Chúa Thánh Linh biết thánh ý Chúa Người sẽ giúp cho chúng ta biết thế nào là cầu nguyện trước mặt Chúa để cho lời cầu nguyện chúng ta được Chúa nhậm lời việc thứ hai chúng ta tôn trọng niềm tin cậy là chúng ta học hỏi Kinh Thánh Lời Chúa lúc tôi nghe anh chị em nói đến phong trào Lời Chúa trong họ đạo tôi rất mừng bởi vì khi chúng ta đọc Lời Chúa suy gầm Lời Chúa cầu nguyện theo Lời Chúa thì chúng ta sẽ thấy tình cảm Thiên Chúa hiện ra trước mắt chúng ta một Thiên Chúa thay đổi được những điều tệ hại nhất đang là bão táp một lời Đức Kitô dạy bão táp lắng xuống người ta có bao nhiêu quỷ ám trong mình một lời Đức Kitô phán các ma quỷ phải xuất phải trở lại để cho con gười lấy lại được sự bình an từng ngàn người đang đói chỉ một lời Đức Kitô phán là người ta có lương thực để nuôi mình bao nhiêu người cứng lòng tội lỗi sa đoạ thế mà Đức Kitô như Phêrô chối Chúa Phaolô bắt Chúa vì ơn Chúa đã trở lại thành trụ cột của Hội Thánh đọc Lời Chúa nhìn việc Chúa nhờ ơn Chúa chúng ta sẽ thêm lòng tin cậy vào Chúa việc thứ ba chúng ta tôn trọng việc tin cậy đó là gắn bó thiêng liêng chúng ta thừa biết rằng chúng ta sống giữa sự lành sự ác sự xấu sự tốt giữa một bên là Nước Chúa một bên là nước ma quỉ trong chúng ta có hồn thiêng hướng về Chúa mà cũng có xác thịt nặng nề hướng về tội lỗi chúng ta phải phấn đấu phấn đấu một cách thiêng liêng để bỏ con người cũ mặc lấy con người mới để bỏ con đường rộng rãi thênh thang hưởng thụ chọn lấy con đường hẹp vác thánh giá theo Đức Kitô sự phấn đấu nó đòi hỏi chúng ta nhiều cố gắng lắm nhưng nhất là đòi chúng ta phải có lòng khiêm tốn khiêm tốn khi phấn đấu không phải là dùng lý chí mà là dùng sự khiêm tốn hoàn toạn cậy trông chúng ta đã bắt đầu phấn đấu đi trong những khi chúng ta hoang mang trong những khi chúng ta sợ sệt trong khi chúng ta chán nản phải bắt đầu phấn đấu đi vào con đường Chúa muốn thế rồi sự thiện chí đó sẽ giúp cho chúng ta đón nhận ơn Chúa đến với chúng ta và chúng ta sẽ thấy khi gắn bó thiêng liêng như vậy Chúa Thánh Thần sẽ ở bên cạnh chúng ta anh chị em thân mến họ đạo Năng Gù chúng ta chắc cũng có nhiều sức phá hoại bên này bên nọ nhưng đồng thời chúng ta cũng đã khởi sự để cộng tác với Chúa đẩy lui những sức phá hoại và điều đầu tôi nói là chúng ta không đẩy lui sức phá hoại đó bằng sức riêng của mình mà là lòng tin cậy vào Chúa anh chị em đã cầu nguyện tôi biết là anh chị em đã cầu nguyện nhiều cầu nguyện ở gia đình cầu nguyện chung trong họp hội và cầu nguyện riêng trong mọi lúc khi chúng ta cầu nguyện như vậy chắc chắn nếu chúng ta xin những gì hợp ý Chúa Chúa sẽ giúp chúng ta cũng như lúc nãy trước lễ anh chị em đã xin Chúa đốt trong lòng anh chị em ngọn lửa mến Chúa và đã xin Chúa ban cho chúng ta một trái tim mới thì đó là những lời cầu nguuện rất hợp ý Chúa không lẽ nào Chúa từ bỏ những lời cầu xin ấy sự nâng cầu nguyện anh chị em cũng đang theo dõi và phát triển phong trào Thánh Kinh điều đó là rất tốt và chắc chắn đây là một sự khởi xướng do Chúa Thánh Thần muốn đổi mới lại các gia đình đổi mới lại các xứ bằng lời Chúa và chúng ta anh chị em cũng gắng phấn đấu để đời sống đạo anh chị em tập trung vào Đức Kitô tập trung vào giới luật yêu thương phấn đấu làm sao đẩy đi được những ích kỷ hẹp hòi ghen tương để thuận hoà sống liên đới sống làm chứng cho những người xung quanh bằng những việc từ thiện bác ái tôi nghĩ rằng anh chị em đang đi đúng đường và khi amnh chị em làm đúng như vậy thì niềm tin của anh chị em sẽ lớn lên xin nhớ lại một điều Đức Kitô đã dạy nếu chúng con có một niềm tin bằng hạt cải thôi thì anh chị em có thể truyền cho núi non rơi xuống biển nó cũng sẽ vâng thì mặc dầu trong họ đạo chúng ta còn có những sức cản phá mạnh như núi như non nếu chúng ta có lòng tin cậy vững vàng khiêm tốn với Chúa thì Chúa sẽ làm phép lạ để cho tất cả những trở ngại đó tan biến dần đi và Nước Chúa được mở mang phát triển một cách sâu sắc và rộng rãi trong các gia đình khắp xứ đạo chúng ta hôm nay chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta cho con em chúng ta được biết hợp tác vào ơn tin cậy để dù trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn lòng tin lòng cậy vào Chúa và nhờ đó Chúa sẽ làm tất cả những điều mặc dầu coi như không thể làm được. Lạy Chúa chúng con tin cậy nơi Chúa. Amen.
Đối với Giáo Hội toàn cầu thì hôm nay là ngày lễ lớn, bởi vì hôm nay là ngày lễ kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Riêng đối với họ đạo chúng ta, thì hôm nay, thì cùng với ngày lễ lớn chung của Giáo Hội toàn cầu, chúng ta có thêm một lễ lớn, lễ đặt viên đá đầu tiên, để xây dựng nhà thờ. Hai lễ lớn này là trùng hợp rất tốt đẹp. Sự trùng hợp này, làm cho tôi suy nghĩ về ơn gọi, mà Chúa trao cho các địa phận, các giáo xứ và giáo xứ của chúng ta nói riêng. Ở đây, cái ơn gọi đó là thế nào? Tôi vắn tắt lại. Xưa hai thánh tông đồ đã được Chúa gọi để đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi thế nào, thì hôm nay những cộng đoàn được xây dựng trên nền tảng hai thánh tông đồ, cũng phải đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi như vậy. Tin Mừng đó là thế nào nói một cách dễ hiểu, thì Tin Mừng đó là chúng ta được Chúa yêu thương. Chúng ta được Chúa nhận là con. Chúng ta được Chúa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta được Chúa cứu độ. Chúng ta được đi theo Đức Kitô dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Và sau cùng, được lên trời hưởng hạnh phúc trường sinh bên cạnh Thiên Chúa là tình yêu. Đây là Tin Mừng hết sức rất lớn lao, hết sức lạ lùng. Hẳn phải tin là một kho tàng quý giá, không có cái gì so sánh được. Chúng ta sống Tin Mừng đó với tất cả niềm tin cậy mến vững vàng. Và chúng ta luôn ca ngợi Tin Mừng đó mà Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta ca ngợi Tin Mừng đó trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta ca ngợiTin Mừng đó suốt đời ta. Nhưng chúng ta đừng quên rằng: Khi Chúa ban Tin Mừng cho chúng ta, thì Chúa cũng dạy chúng ta là phải đi rao giảng Tin Mừng ấy Chúa sai chúng ta đi Chúa muốn chúng ta đi vào mọi lĩnh vực của xã hội Chúa muốn chúng ta chia sẻ Tin Mừng ấy cho tất cả mọi người xung quanh không phân biệt ai đó là ơn gọi đó là sứ mạng và cách chúng ta rao giảng cách chúng ta chia sẻ Tin Mừng tốt nhất là hãy sống chan hoà tình yêu Phúc Âm hãy sống chân thành tình yêu Phúc Âm hãy sống sâu sắc tình yêu Phúc Âm yêu thương Phúc Âm là chấp nhận nhau là nhường nhịn nhau là hợp tác với nhau trong công ích là biết tha thứ cho nhau là biết cùng nhau đi về cùng một hướng đó là hạnh phúc muôn đời khi chúng ta sống tình yêu Phúc Âm đó cách chân thành sâu sắc chan hoà thì chúng ta sẽ thực hiện lời trối của Đức Kitô chúng con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu thương chúng con với ba điều trên đây về ơn gọi rao giảng Tin Mừng hôm nay tôi nhìn họ đạo tôi vui mừng nhận thấy là họ đạo anh chị em sống một cách tương đối tốt tôi biết là mặc dù có những khó khăn anh chị em đã cố gắng sống yêu thương cho bộ mặt họ đạo và hơn thế nữa anh chị em với tình yêu Phúc Âm đã coi những người không cùng tín ngưỡng với mình như anh chị em ruột thịt thân thương cũng vì Phúc Âm anh chị em đã xây dựng được những liên hệ tốt giữa đời và đạo nhất là anh chị em tình yêu Phúc Âm đã biết quan tâm chia sẻ với người nghèo những người bị loại trừ trong xã hội sự sống Tin Mừng như vậy tuy còn giới hạn nhưng đã mang lại cho họ đạo chúng ta nhiều kết quả tốt nmột trong những kết quả đó là thánh lễ hôm nay là sự chúng ta khởi công xây dựng nhà thờ mới tôi coi sự chúng ta được phép xây dựng nhà thờ mới trong một cái kênh tương đối nghèo trong thời điểm tương đối khó là một dấu chỉ hoà hợp giữa đạo và đời là một dấu chỉ về sự phát triển nền văn minh tình yêu Phúc Âm là một dấu chỉ thường cho những ai biết sống ơn gọi Tin Mừng một cách chân thành sâu sắc anh chị em cũng như tôi đều biết là họ đạo chúng ta rất nghèo về nhiều mặt nhưng không nghèo đời sống đạo sự chúng ta xây dựng nhà thờ hôm nay sẽ không dựa trên của cải vật chất chúng ta có mà dựa trên tấm lòng chúng ta và cũng dựa trên tấm lòng tốt của những ân nhân xa gần tôi nghĩ rằng khi các ân nhân xa gần góp phần vào sự xây dựng nhà thờ này thì cũng là một cách góp phần sống ơn gọi rao giảng Tin Mừng cho những miền khô hạn vì họ đạo này đói nghèo cho nên sự anh chị em góp phần lại sẽ mang một ý nghĩa rất lớn ý nghĩa rất lớn Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn từng người cho nên nếu chúng ta dâng cúng cải xây dựng nhà thờ này với mục đích là góp phần rao giảng Tin Mừng thì chắc chắn Chúa sẽ trả công bội hậu cho quý ân nhân hãy tin vào Lời Chúa hãy tin vào trái tim Chúa trái tim Chúa bao la luôn luôn thưởng công cho những người yêu mến Chúa và yêu mến anh chị anh chị em thân mến tất cả là hồng ân hôm nay tôi chỉ cầu xin Chúa trong việc chúng ta được tiếp tục trong thánh ý Chúa kết quả thế nào tôi dâng phó cho Chúa và luôn nhìn mọi sự xảy ra như là hồng ân dù tốt đẹp tước mắt chúng dù đôi khi không tốt đẹp trước mắt con ngừơi thì tất cả cũng sẽ là hồng ân bởi vì Chúa ở trên Chúa biết cái gì tốt cho con cái Người hãy tin vào Chúa hãy cậy vào Chúa và nhất là hãy nhìn Chúa là hạnh phúc là mục đích là sự sống tất cả Chúa là tất cả. Xin Chúa nhân lành làm phép cho chúng ta làm phép cho công trình chúng ta. Amen.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu tóm lược việc giữ đạo vào một câu vắn tắt: “Mến Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình”. Riêng sự yêu thương anh em như chính mình đã được Chúa Giêsu cắt nghĩa rất rõ, bằng ví dụ người Samarita chăm sóc nạn nhân bị cướp đánh nằm ở vệ đường. Qua ví dụ này, Đức Kitô dạy: Yêu thương thì phải dấn thân, phải phục vụ, nhiều khi cũng phải chấp nhận vượt qua những ranh giới hẹp hòi. Chính Đức Kitô đã làm gương về điều đó. Vì yêu thương, Đức Kitô đã vượt qua ranh giới cộng đoàn những người Thiên Chúa giáo, để phục vụ người lương, là loại người thời đó bị cộng đoàn Thiên Chúa giáo xa tránh. Đó là trường hợp Ngài đón tiếp vị sĩ quan thành Caphanaum và làm phép lạ cho con ông đã chết được sống lại (x. Ga 4,46...). Vì yêu thương, Đức Kitô đã vượt qua ranh giới cộng đoàn những người đạo đức, để tiếp xúc và giới thiệu ơn cứu độ với người tội lỗi, là loại người thời đó bi cộng đoàn có đạo khai trừ. Đó là trường hợp Ngài trò chuyện với người phụ nữ Samarita có 5 đời chồng, và đã làm cho phụ nữ đó trở nên kẻ loan báo Tin Mừng (x. Ga 4,5...). Vì yêu thương, Đức Kitô đã vượt qua ranh giới những người khoẻ mạnh, để chữa người bệnh tật lâu năm là thứ người bị xã hội bỏ rơi. Đó là trường hợp Đức Kitô chữa người bất toại năm ở bờ giếng Bezatha, cạnh đền thờ (x. Ga 5,4-9). Vì yêu thương, Đức Kitô đã vượt qua ranh giới những quan niệm hẹp hòi về việc giữ đạo, để mở ra một lối sống đạo thông thoáng, có chất lượng thực sự. Đó là trường hợp Đức Kitô cho biết phải lo thờ phượng Chúa trong tinh thần và trong chân lý, hơn là thờ phượng Chúa ở nơi này chỗ nọ (x. Ga 4,23). Và trường hợp Đức Kitô cho biết cần phải coi việc cứu một người bệnh tật 38 năm là việc cần thực hiện hơn luật kiêng việc ngày Sabba (x. Ga 5,16...). Khi suy nghĩ sự Đức Kitô đề cao bổn phận yêu thương phục vụ trên đây, tôi đã nghĩ đến các họ đạo nói chung, và họ đạo Bò Ót này nói riêng. Nếu họ đạo anh chị em được coi là một cộng đoàn có tổ chức chặt chẽ, thì tôi vui mừng. Nhưng tôi sẽ vui mừng hơn, nếu họ đạo anh chị em được khen là một cộng đoàn có tình yêu thương chan hoà, phục vụ dấn thân. Nếu họ đạo anh chị em được coi là một cộng đoàn những lễ lạy phượng tự đẹp, thì tôi vui mừng. Nhưng tôi sẽ vui mừng hơn, nếu họ đạo anh chị em được khen là một cộng đoàn có nhiều nghĩa cử đẹp đầy nhân ái, đối với những loạingười bị dư luận loại trừ. Nếu họ đạo anh chị em được coi là một cộng đoàn siêng năng đông đảo đến nhà thờ dự lễ đọc kinh, học hỏi giáo lý, thì tôi vui mừng. Nhưng tôi sẽ vui mừng hơn, nếu anh chị em được khen là một cộng đoàn biết ra đi, chi sẻ Tin Mừng, để giúp cho mọi người xung quanh nhận ra rằng họ được Thiên Chúa yêu thương, họ có khả năng yêu mến, họ có khả năng phấn đấu, họ có khả năng hiểu biết những chân lý cứu độ. Sở dĩ tôi chia sẻ với anh chị em những suy nghĩ trên đây, chính vì tôi đã gặp được nhiều người công giáo sống đạo như thế. Gặp họ, tôi có cảm tưởng là gặp được những ngọn lửa đức ái, những ngọn lửa phát xuất từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, những ngọn lửa được đốt lên do Chúa Thánh Linh, để thanh luyện và đào tạo chúng ta trở nên xứng đáng người con của Thiên Chúa là Cha, giàu tình yêu thương xót. Gặp họ, tôi có xác tín này là họ sống theo đúng thánh ý Chúa, biết vượt qua chính mình, biết chấp nhận thánh giá, biết từ bỏ mình, để làm chứng cho Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, trong hoàn cảnh hiện nay. Tôi hy vọng, khi gặp anh chị em, tôi cũng sẽ có những cảm tưởng và xác tín như thế. + GB. Bùi Tuần, giám mục Long Xuyên
Đầu năm, không gì đáng cầu mong cho bằng chính con người của mình được đổi mới hơn. Đầu năm, không gì đáng mừng cho bằng gặp được những người đã đổi mới, hoặc quyết tâm đổi mới chính mình. Đổi mới chính mình là việc ưu tiên cần làm nhất. Nếu chính con người của chúng ta không đổi mới, thì dù cơ chế chính trị có đổi mới, tôn giáo có đổi mới, những cái cũ nguy hiểm nhất vẫn sẽ còn đó. Những cái cũ này gồm tâm thức cá nhân và tâm thức tập thể có khả năng làm hư hỏng sự đổi mới của cơ chế chính trị và tôn giáo. Nhìn vào tình hình hiện nay, tôi thấy việc đổi mới chính mình cần để ý nhiều đến hai nhu cầu cấp bách sau đây : Nhu cầu cấp bách thứ nhất là cấu trúc lại đời sống nội tâm. Cần coi việc phát triển trí khôn, cái tâm, ý chí là những giá trị cao quý, nền tảng. Phát triển ở đây không có nghĩa là làm vững mạnh hơn sự ổn định. Một sự ổn định đồng nghĩa với sự bám chặt vào một lối suy nghĩ nhất định để tìm an trú. Một sự ổn định được hiểu như sự tuyệt đối hiến mình cho những chấp nhận để tìm an toàn. Một sự ổn định được diễn tả như một quyết tâm bảo vệ những sở đắc để tìm an hưởng. Sự phát triển nội tâm luôn đòi hỏi những cố gắng vượt qua. Vượt qua là trút bỏ những gì chưa tốt, những gì không đúng, để tiến lên những gì tốt hơn, những gì là thực. Sẽ có phát triển về nội tâm, khi con người chúng ta có tiến triển trong khả năng nhìn, phân định, thẩm định, chọn lựa định hướng, và tổ chức cuộc sống, sao cho mình nên người hơn, có thể giúp ích hơn cho Đất nước và Hội thánh. Ở đây, tôi xin phép chia sẻ một kinh nghiệm. Đối với tôi, năm vừa qua, một vẻ đẹp đã gây ấn tượng sâu mạnh trong nội tâm tôi đó là tinh thần tôn trọng sự thực, truy tìm sự thực và công nhận sự thực nơi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Đọc cuốn “Quand le Pape demande pardon”(Khi Đức Giáo Hoàng xin lỗi) xuất bản cuối năm 1997 vừa qua, tôi rất cảm phục Đức Thánh Cha. Trong cuốn sách dày 296 trang khổ lớn này, tác giả Luigi Accattoli đã ghi lại những lời Đức Thánh Cha công khai điều chỉnh lại nhiều phán đoán và chủ trương trước đây trong lịch sử Hội thánh. Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, Đức Thánh Cha đã cho thấy là trước đây, trong lịch sử Hội thánh đã có một số kết án không đúng sự thực khách quan và không hợp với đòi hỏi của Tin Mừng. Ngài cũng cho thấy là trước đây, trong Hội thánh, cũng đã có một số trường hợp bênh đạo và truyền giáo không hợp với chủ trương tôn trọng tự do tôn giáo như công đồng Vatican II đã nêu lên. Những thái độ can đảm của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về trách nhiệm tôn trọng sự thực gợi ý cho tôi về việc cần thiết cấu trúc lại đời sống đạo đức. Phải quan tâm rất nhiều đến cái gì là thực trong hiểu biết và tuyên xưng. Cái gì là đúng sự thực trong dung mạo Thiên Chúa. Cái gì là đúng sự thực trong Tin Mừng. Cái gì là đúng sự thực trong việc làm sáng danh Chúa. Rồi, trong các liên hệ phải rất thành thực với lòng mình. Nhất là trong lời nói phải có sự thực khách quan. Biết đúng, hiểu đúng, phân định đúng, thẩm định đúng. Nhu cầu cấp bách thứ hai là phát triển các hình thức liên đới xã hội, và tăng cường chiều kích tâm linh trong các liên đới ấy. Nói chung có nghĩa là cái tâm cần phải mở rộng. Cái tâm cần phải trong sáng. Hiện nay đang có những phát triển liên hệ giữa người giàu với người nghèo, giữa đạo và đời, giữa các tôn giáo, giữa các địa phương, giữa các nước cùng khu vực. Đó là hiện tượng tốt. Nhưng điều tốt hơn không thể không quan tâm đến, đó là phát triển chiều kích tâm linh trong các liên hệ đó. Chiều kích tâm linh nói đây là những vẻ đẹp vô hình nhưng chứa đầy sức sống nâng con người lên. Như sự kính trọng người khác, bởi vì trong nhiều liên hệ hiện nay vẫn thấy có sự coi thường, thậm chí, có sự khinh khi, hạ giá người khác. Như sự quên mình, bởi vì trong nhiều phục vụ hiện nay vẫn thấy có sự quy về cái tôi, tất cả chỉ vì cái tôi, chỉ tìm lợi ích cho cái tôi. Như sự chấp nhận và tôn trọng những khác biệt, bởi vì trong nhiều cạnh tranh nói là xây dựng hiện nay vẫn thấy có sự loại trừ nhau, ghen tương nhau, đố kỵ nhau và đối kháng nhau một cách kiêu căng tàn bạo. Như sự khát khao gặp gỡ Chúa, bởi vì ngay trong nhiều hình thức giữ đạo và truyền giáo hiện nay vẫn thấy còn nhiều khuynh hướng tiêu thụ và hưởng thụ ơn này ơn nọ của Chúa, chứ không để ý đến việc được gặp gỡ Chúa, tìm thực thi thánh ý Chúa, và đi ra phục vụ con người. Cần nhiều thiện tâm, cái tâm quy hướng về sự thiện. Cần có tâm đạo, ít là đạo làm người với kỷ cương của nhân đạo. Cần có thực tâm, cố gắng trung thành với các thực tại khách quan và biết trung thành thẳng thắn với lòng mình. Cần có thức tâm, cái tâm tỉnh thức trong mọi hình dạng, dù cô tịch một mình, dù hiện diện giữa đời, dù đi vào xã hội để xây dựng và phát trển các liên đới. Với những suy nghĩ trên đây, tôi cầu chúc Quê hương và Hội thánh Việt Nam sang năm mới Mậu Dần sẽ có thêm nhiều con người mới. BÁO CÔNG GIÁO VÀ DÂN TỘC
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa về mọi ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta. Khi tạ ơn Chúa, chúng ta thường nghĩ tới những thành công. Nhưng thiết tưởng cũng nên nghĩ đến cả những thất bại. Bởi vì ơn Chúa cũng thường đến với chúng ta qua các thất bại. Biết bao thất bại đã thanh luyện chúng ta, đã giúp chúng ta trưởng thành. Không thành công là để thành nhân. Ngoài ra, khi tạ ơn, nhất là dịp tạ ơn có tính cách cộng đoàn ngày cuối năm hoặc đầu năm như hôm nay, chúng ta đặc biệt nghĩ tới sự tấn tới đạo đức nơi bản thân chúng ta và nơi cộng đoàn của ta. Thế nào là tấn tới về đạo đức ? Sự tấn tới về đạo đức mà tôi muốn nói ở đây không chủ yếu chỉ là năng đi nhà thờ, mà chủ yếu là những thái độ nội tâm. Để gợi ý, tôi xin đưa ra vài câu hỏi: Trong thời gian qua, có bao giờ chúng ta đã vẫn giữ trọn niềm tin mến Chúa, khi gặp khốn khó dập vùi ta không ? Có bao giờ, khi gặp oan ức, chúng ta đã bình tĩnh giữ thinh lặng, không tìm tự vệ, không tìm biện minh, không buồn bực tức tối, chỉ vì chúng ta phó thác tin tưởng tuyệt đối vào Chúa không ? Có bao giờ chúng ta đã vâng phục, không vì bổn phận phải vâng phục hoặc vì tìm kiếm lợi lộc này nọ, mà chỉ vì muốn tuân phục thánh ý Chúa không ? Có bao giờ chúng ta đã thương xót giúp đỡ kẻ khác, đã tha thứ cho người khác một cách nhưng không, đã cố gắng tế nhị trong đời sống chung, chỉ vì động lực bác ái không? Có bao giờ chúng ta đã phấn đấu tập vững thói quen trở về nội tâm, chỉ vì nơi đó là nơi thuận tiện để sám hối và cầu nguyện không ? Chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi tương tự như thế. Nếu các câu trả lời là “có”, thì đó là những tấn tới về đạo đức. Những tấn tới về đạo đức này là những chuyển biến quan trọng nội tâm. Trước hết nội tâm ta đã có những cảm nghiệm mới về sức mạnh của ơn thánh. Chính ơn thánh đã cho ta sức mạnh thắng vượt thử thách và tìm được sự lành trong thử thách. Chúng ta cũng có những cảm nghiệm mới về một thứ hạnh phúc thiêng liêng tuyệt vời, hạnh phúc này không đến từ những thành công theo kiểu thế gian, mà đến từ thánh giá cứu độ của Đức Kitô. Chúng ta cũng có những cảm nghiệm mới về những trách nhiệm mới đối với cộng đoàn và xã hội. Cộng đoàn và xã hội được chúng ta nhìn như những địa chỉ cụ thể Chúa sai chúng ta đi vào, để chúng ta yêu thương và phục vụ, để chúng ta được thanh luyện, để chúng ta gặp được Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta cũng có những cảm nghiệm mới về tình yêu cứu độ của Chúa đối với chúng ta, đối với cộng đoàn và đối với xã hội. Tình yêu cứu độ ấy rất đa dạng, rất lớn lao và luôn có những bất ngờ. Những cảm nghiệm trên đây và những cảm nghiệm tương tự sẽ đốt nóng lên trong lòng ta niềm hy vọng mới vào Đức Kitô, Đấng đã chịu nạn chịu chết và đã phục sinh. Niềm hy vọng cháy rực đó trong ta sẽ là một tuyên xưng về Tin Mừng, sẽ là một loan báo về Tin Mừng. Hôm nay, khi đưa ra một hình ảnh về đạo đức như trên, không những tôi muốn cùng anh chị em cảm tạ Thiên Chúa về những tấn tới đạo đức trong thời gian qua, mà còn mong muốn phát triển hơn nữa những tấn tới đạo đức trong thời gian tới. Tôi tha thiết kêu gọi mọi thành phần dân Chúa hãy đi vào tương lai với quyết tâm sẽ tấn tới thêm hơn nữa về đạo đức, một thứ đạo đức được diễn tả vắn tắt trong một lời của thánh Phaolô: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1, 21). Xin Thánh Linh và Đức Mẹ Maria thương giúp chúng ta thực hiện quyết tâm trên, một quyết tâm rất hợp ý Thánh Linh và Đức Mẹ, một quyết tâm rất cần để đi tới Năm Thánh 2000. Lễ tạ ơn dịp tĩnh tâm linh mục giáo phận Long Xuyên, ngày 22-01-1998
Hiện nay, nơi người Việt Nam, trong cuộc sống đời thường, niềm tin thiêng liêng giữ một vai trò quan trọng. Riêng trong những ngày Tết, niềm tin thiêng liêng này đã tạo nên một thứ văn hoá tâm linh đặc biệt. Địa phương nào cũng có những không gian thiêng liêng được trang trí đẹp, như nhà thờ, chùa chiền, thánh thất để dân chúng viếng thăm. Gia đình nào cũng đề cao những biểu tượng thiêng liêng, như các ảnh tượng, bàn thờ, để gia đình bái kính khẩn cầu. Người nào cũng làm đôi việc thiêng liêng, như lễ bái, thắp nhang, đốt nến, chưng hoa, cầu nguyện, trong nơi thờ tự, hoặc trước mồ người quá cố. Tâm hồn nào cũng dành riêng cho mình ít giây phút thiêng liêng, như ngưng đọng tâm hồn lại trong những nhớ thương thiêng liêng, trong những mơ ước thiêng liêng. Đời sống thiêng liêng đang phát triển dưới nhiều hình thức. Đó là một dấu chỉ tốt cho hiện tại và tương lai dân tộc Việt Nam. Chính những giá trị thiêng liêng này sẽ làm nên sức mạnh cơ sở bảo vệ đất nước Việt Nam. Nếu chỉ phát triển kinh tế, mà không phát triển những giá trị tâm linh, hạnh phúc sẽ rất mong manh, công bình xã hội sẽ bị thương tổn trầm trọng, cả đến nền độc lập cũng sẽ bị đe doạ. Trong đời sống tâm linh đang phát triển này, có một điều tôi muốn nhấn mạnh, đó là hãy nhờ niềm tin thiêng liêng mà cố gắng đổi mới tâm hồn. Đổi mới tâm hồn nói đây là chấn chỉnh lại lương tâm, là điều chỉnh lại cuộc sống, sao cho đạo đức hơn, sao cho đạo đức thực. Đạo đức tối thiểu, là sống tinh thần trách nhiệm, là sống lương thiện, là sống ngay chính, là sống công bình bác ái. Thiết tưởng đó mới là những giá trị đáng tự hào nhất. Khi nghe đó đây tự hào vì mình là người Việt Nam, là dòng dõi các thánh, tôi tự nhiên nhớ tới lời thánh Gioan Tiền hô xưa đã nói với dân Israel: “Anh chị em đừng tự phụ: chúng tôi có tổ phụ là Abraham. Tôi bảo thực, Thiên Chúa có thể làm cho các hòn đá này trở nên con cái Abraham” (Lc 3,7). Rồi thánh Gioan cho biết, dù ai thuộc gốc rễ nào, nếu không sinh trái tốt, sẽ bị Chúa chặt đi và ném vào lửa (x. Lc 3,8). Như thế có nghĩa là mỗi người chúng ta ví như một cây. Tất nhiên ai cũng muốn mình là một cây tốt. Cây tốt được chứng tỏ ở các hoa trái của nó. Hoa trái tốt nhất, mà Chúa muốn thấy nơi chúng ta, là thực thi thánh ý Chúa, là sống đạo đức hợp với thánh ý Chúa. Như lời Chúa Giêsu đã dạy: “Không phải những ai kêu: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời. Chỉ có những người làm theo ý Cha trên trời, mới được vào Nước Trời” (Mt 7,21). Chính vì thế mà, khi nghe chúc một mùa Xuân như ý, được vạn sự như ý, tôi nghĩ tới ý Chúa, chứ không phải ý của tôi hoặc ý của bất cứ ai. Tìm ý Chúa, đón nhận ý Chúa, thực thi ý Chúa, phó thác cho ý Chúa, cầu nguyện để ý Chúa được thực hiện, đó là những thao thức thiêng liêng của tôi trong mọi hình thức phục vụ Hội thánh và Dân tộc. Đối với tôi, những thao thức thiêng liêng như thế được coi là rất quan trọng trong việc làm nên vẻ đẹp của văn hoá tâm linh. Với nhận thức trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc mọi người một Năm mới có nhiều phát triển tốt, đặc biệt là phát triển tốt về một nền văn hoá tâm linh sâu sắc, cao đẹp. Lễ đầu năm Mậu Dần tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 28-01-1998
Đêm mùng một Tết, sau hồi chuông giao thừa, tôi cầu nguyện và cầu chúc. Khi các ồn ào đã bớt, tôi tạm nằm nghỉ trên chiếc ghế dài. Trong cô tịch thiêng liêng, tôi nghe có những tiếng rơi xuống nền nhà. Rất nhẹ, rất buồn. Mở đèn, nhìn xuống, tôi nhận ra, đó là những nụ hoa mai. Những nụ ấy coi còn rất tươi, nhưng đã rụng rồi. Để rụng đúng giây phút này, đúng trong căn phòng này, những nụ hoa ấy đã trải qua một chuyến đi dài. Khởi đi từ những mảnh đất vùng sâu vùng xa, chúng đã nhận được biết bao nâng niu chăm sóc qua nhiều ngày tháng. Rồi đã đi qua nhiều con sông, nhiều đoạn đường, đến chợ hoa đợi chờ. Sau cùng đã vào được nơi đây, để âm thầm làm đẹp cho căn phòng này chỉ trong vài giờ, với vẻ ngây thơ chân phác của thiên nhiên. Thề rồi rụng xuống. Như thể sứ mạng chỉ là thế thôi. Những gì tôi đã nghe, đã thấy, đã hiểu, đã cảm nhận được trong giây phút nụ hoa rụng xuống đã gây trong tôi một ấn tượng sâu đậm. Ấn tượng ấy làm rõ nét những nhắn gửi thiêng liêng về tương lai cuộc đời. Vấn đề tôi tự đặt ra cho mình là trong thời gian còn lại của đời mình, tôi cần biết phong phú hoá từng giây phút mình sống, bằng cách đón nhận những giá trị cao sâu ẩn tàng trong những sự kiện rất nhỏ của đời thường. Có những sự việc xảy ra rất thường, chỉ trong một giây, một phút, nhưng chứa đầy những ý nghĩa thiêng liêng. Biết đặt mình vào đó, con người sẽ hiệp thông được với tất cả một dòng sự sống linh thiêng chảy dài vô tận. Điều quan trọng cần có là sự nhạy bén. Sự nhạy bén này sẽ phát triển nhờ bầu khí tĩnh lặng. Tĩnh lặng môi trường, tâm lý và thiêng liêng. Tĩnh lặng nói đây không có nghĩa chỉ là vắng tiếng động, nhưng chủ yếu là trầm tĩnh khao khát và thao thức vươn lên những gì là tốt đẹp nhất. Thái độ chờ đón này là rất sinh động. Nó tạo nên một khoảng trống nội tâm vừa rộng vừa sâu, đủ chỗ cho những gì linh thiêng cao thượng đi vào và ở lại. Linh thiêng và cao thượng, khi ở lại đó, sẽ thấm dần vào tâm hồn, đổi mới các cơ năng, để tất cả con người đều phấn đấu cho sự thiện, cương quyết đi về phía trước, với niềm tin sự thiện sẽ thắng sự ác. Khi nhìn thấy những giá trị đời đời trong từng giây phút trôi qua, tôi lo ngại cho những thái độ sống buông thả, phung phí. Nếu để mình bị trói buộc vào thói quen sống phân tán, máy móc, hưởng thụ, con người sẽ bỏ lỡ rất nhiều dịp may để thăng tiến chính mình. Qua bao năm tháng, mà vẫn chẳng thu lượm được giá trị nào mới, vẫn chẳng tích luỹ được nhân đức nào đẹp, vẫn chẳng thu hồi được những ân huệ cao quý trước kia. Thời gian qua đi rất mau. Mỗi phút mau qua đó chuyên chở nhiều quà tặng vô giá. Nếu tỉnh thức, con người có thể đón nhận được rất nhiều. Bởi vì đây là những món quà ban tặng nhưng không. Thí dụ quà tặng cao quý nhất mà tôi đã nhận được trong giây phút giao thừa này là những niềm tin và hy vọng của các đồng bào nghèo. Họ tin vào Đấng Tối Cao hơn là tin vào của cải. Họ hy vọng sống lành làm lành sẽ đưa họ vào cõi vĩnh hằng hạnh phúc. Vì thế mà họ cố gắng sống với tinh thần trách nhiệm, lương thiện, ngay chính, mặc dù phải nghèo, phải khổ. Họ có thể mất niềm tin ở cá nhân này, ở quyền lực nọ. Nhưng chính trong những trường hợp như thế, niềm tin và hy vọng của họ nơi Đấng Linh thiêng càng trở nên mạnh mẽ vững vàng, toả sáng. Có những niềm tin phù du đang rụng xuống. Nhưng những niềm tin linh thiêng vẫn luôn triển nở. Báo Công Giáo và Dân Tộc
Hôm nay chúng ta mừng Cha Cố Giuse được 81 tuổi đời và 50 tuổi linh mục, đồng thời chúng ta cũng mừng giáo xứ Láng Sen được 25 tuổi họ đạo. Đối với tôi, trong ba lý do mừng đó, lý do mừng 50 tuổi linh mục Cha Cố phải là lý do chính. Trong lễ mừng này có nhiều mục khác nhau, nhưng mục quan trọng nhất phải là thánh lễ đang được cử hành để tạ ơn Chúa. Trong thánh lễ tạ ơn này có nhiều ý hướng, nhưng tôi nhắm tới một ý hướng, mà tôi cho là căn bản Phúc âm, đáng được chúng ta tập trung vào, đó là tạ ơn Chúa vì thánh ý Chúa được thực hiện nơi Cha Cố Giuse. Thánh ý Chúa được thực hiện nơi người môn đệ Chúa, đó là điều đáng tôn vinh nhất, đáng mừng nhất, đáng nói nhất. Với nhận thức đó, tôi xin chia sẻ vài suy nghĩ, để kính tặng Cha Cố, và cũng để các linh mục tu sĩ, cộng đoàn tín hữu và cả chính tôi được có dịp trở về gần hơn với lý tưởng của mình. Nói chung, thánh ý Chúa nơi linh mục là linh mục hãy sống đúng chức năng kẻ được sai đi. Ơn gọi sai đi đến từ Chúa Cha, trong Chúa Giêsu, được thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần. Vì thế, nói một cách vắn gọn, thì những lựa chọn nào của linh mục được Chúa Thánh Thần soi dẫn mới được gọi là những lựa chọn của kẻ được sai đi. Cụ thể, những lựa chọn như thế là những lựa chọn nào? Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra một ít lựa chọn điển hình. Lựa chọn thứ nhất là lựa chọn phục vụ người nghèo, chia sẻ với người nghèo. “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4,18). Lựa chọn thứ hai là lựa chọn ra đi tìm con chiên lạc theo gương Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên lành. “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi”(Mc 2,17). Lựa chọn thứ ba là rao giảng điều răn mới của Đức Kitô, cũng là điều răn căn bản của đạo Chúa, đó là bác ái yêu thương, nền tảng của sự hiệp thông: “Thầy cho chúng con một điều răn mới là chúng con yêu thương nhau”(Ga 13,34).“Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau”(Ga 13,35). Lựa chọn thứ tư là gắn bó mật thiết với Đức Kitô bằng cầu nguyện, chiêm niệm, chay tịnh và học hỏi Lời Chúa. “Thầy là cây nho, các con là ngành… Không có Thầy, các con không làm gì được”(Ga 15,5). Lựa chọn thứ năm là đào tạo các giáo dân và sai họ đi vào đời, làm men làm muối giữa xã hội. “Chúng con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian…”(Mt 28,19; Mc 16,15). Lựa chọn thứ sáu là từ bỏ mình, sẵn sàng đi vào những con đường có thánh giá: thánh giá do khó nghèo, thánh giá do bệnh tật, thánh giá do bị bỏ rơi chống đối, vv… Để nên giống Đức Kitô, Đấng đã nói: “Con Người sẽ phải đau khổ nhiều...” (Lc 9,22). “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Trên đây là những lựa chọn có tính cách dấu chỉ. Những dấu chỉ này cho thấy linh mục gắn liền với mục vụ, mục vụ được hiểu là phục vụ, phục vụ hướng về phần vụ kém nhất gồm người nghèo, người tội lỗi, người bị bỏ rơi, người đau khổ, người dốt nát. Sáu lựa chọn trên đây sẽ làm nên vẻ đẹp của linh mục. Bởi vì sáu lựa chọn đó làm chứng ngài được sai đi, sống xứng đáng kẻ được sai đi. Riêng tôi, tôi vui mừng nhận thấy sáu lựa chọn trên đây đều đã được thực hiện nơi Cha Cố Giuse, với những mức độ khác nhau. Những lựa chọn như thế làm nên một hình ảnh đẹp: Linh mục đã chọn người nghèo, và người nghèo đã gắn bó với linh mục. Tôi nghĩ rằng: nếu hình ảnh đó được nhân lên đều khắp, thì sẽ ra một hình ảnh Hội Thánh địa phương rất đẹp: Hội Thánh phục vụ người nghèo, và người nghèo tin tưởng ở Hội Thánh. Với mấy suy nghĩ trên đây, tôi xin hiệp thông với Cha Cố và cộng đoàn để tạ ơn Chúa. Xin cầu chúc Cha Cố tiếp tục sống mạnh mẽ với những lựa chọn Phúc âm của kẻ được sai đi. Lễ tạ ơn Kim Khánh linh mục Cha Cố Giuse Nguyễn Hưng, ngày 21-02-1998
Thánh lễ hôm nay là thánh lễ khai mạc trọng thể Mùa Chay 1998 cho giáo phận Long Xuyên. Thánh lễ hôm nay có một điểm rất đặc biệt, đang được chú ý và trân trọng, điểm đó là sự hiện diện của phái đoàn Toà Thánh Vatican. Với sự hiện diện quý báu này và với sự tham dự đông đảo của linh mục tu sĩ giáo dân, lúc này nhà thờ Chánh toà Long Xuyên đang làm nên một hình ảnh đẹp: Hình ảnh một Hội Thánh hiệp thông, một Hội Thánh tuyên xưng, một Hội Thánh cầu nguyện. Nhìn quang cảnh sốt sắng và đầy yêu thương này, tôi nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô. Đức Kitô đang đến với chúng ta. Đức Kitô đang ở giữa chúng ta. Trong tâm tình tin yêu, chúng ta đón nhận Ngài, chúng ta tuyên xưng Ngài là Đấng Cứu độ của chúng ta. Trong tinh thần vâng phục Ngài và gắn bó với Ngài, tôi xin đề nghị với anh chị em một ý hướng cho Mùa Chay năm nay. Ý hướng đó một đàng là yếu tố rất căn bản của Phúc Âm, một đàng là yếu tố rất cần thiết cho hoàn cảnh thực tế của Việt Nam hôm nay. Ý hướng đó được Đức Kitô gọi là điều răn mới của Ngài. Một điều răn luôn luôn mới ở mọi nơi, ở mọi hình thức văn hoá. Ý hướng đó là: “Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Đó là chân lý nền tảng của đạo. Đó là nguyên tắc vững vàng của cuộc sống. Kinh nghiệm cho thấy sự thực thi điều răn mới này của Đức Kitô sẽ được dễ dàng, khi chúng ta chân thành tha thiết sống Lời Chúa sau đây: “Chúng con hãy ở trong Thầy và Thầy sẽ ở trong các con... Vì Thầy là cây nho thực, và chúng con là những cành nho” (Ga 15,1-5). Khi, với một mức độ tương đối nào đó, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô xưa: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20) thì chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy tác động mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần trong việc áp dụng điều răn mới của Đức Kitô. Đúng như vậy, chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta có những sáng tạo, để thực thi điều răn yêu thương một cách cụ thể, sao cho thích hợp với từng văn hoá, với từng địa phương, với từng hoàn cảnh lịch sử. “Chính Chúa Thánh Thần sẽ dạy các con mọi chân lý” (Ga 16,13). Chính Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn, và sẽ sai chúng ta đi: “Thần Linh Chúa ngự trên tôi, “vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18). Tin Mừng do nội dung điều răn yêu thương của Đức Kitô và do sự sáng tạo của Chúa Thánh Linh trong áp dụng, sẽ không phải là một lý thuyết để trình bày, nhưng là những sứ mạng phải thực hiện. Thí dụ những sự hiện diện yêu thương, những việc làm mang tình liên đới, những phục vụ vô vị lợi, những sự từ bỏ mình vì tha nhân vv... Khi Tin Mừng là tình yêu Thiên Chúa Cứu độ, thì cách diễn tả Tin Mừng ấy sẽ rất đa dạng. Những khác biệt trong việc làm chứng Thiên Chúa Tình yêu là cần thiết phải có, để các dân tộc khác nhau và những thời đại khác nhau có thể nhận ra được Thiên Chúa Cứu độ hiện diện ngay giữa họ. Đồng bào địa phương này rất nhạy bén với tình người và niềm tự hào dân tộc, các tôn giáo bạn tại địa phương này rất đề cao những tấm lòng từ bi nhân ái và những con người bảo vệ độc lập đất nước. Những nhận thức đó là hữu ích cho chúng ta, khi chúng ta phiên dịch đức tin của chúng ta ra đức ái dưới những hình thức khác nhau. Giờ đây, trong tinh thần hiệp thông với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trước phái đoàn Toà Thánh đang hiện diện, chúng ta chính thức bước vào Mùa Chay với quyết tâm sống điều răn yêu thương một cách sống động. Chúng ta vững tin rằng: Tình yêu Chúa luôn luôn sẽ là sức mạnh cứu độ, đem lại phục sinh. Chúng ta cũng tin rằng: Tình yêu Chúa luôn luôn ở với chúng ta, như lời Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20). Lễ khai mạc Mùa Chay tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 27-02-1998
Từ lâu nay, họ đạo Cồn Én được dư luận khen là một cộng đoàn có nhiều phát triển: Phát triển về đời sống vật chất, phát triển về đời sống tinh thần, phát triển về mặt xã hội và phát triển về mặt tôn giáo. Những lời khen của dư luận có cơ sở, vì những phát triển mà người ta khen đều có thể thấy được, đều có thể kiểm chứng được. Điều làm cho tôi vui mừng là không phải những người công giáo đã ca ngợi anh chị em, mà có rất nhiều người không công giáo đã khen họ đạo anh chị em. Điều đó chứng tỏ rằng những cách sống đạo của anh chị em ở đây một phần lớn nhắm vào việc phục vụ đồng bào, nhất là những đồng bào nghèo, không phân biệt lương giáo. Riêng tôi, nếu phải khen anh chị em, thì tôi cũng không quên khen những người không công giáo ở đây, vì tất cả những anh chị em ấy có nhiều thiện chí, có tấm lòng bao dung, và luôn luôn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng của Chúa. Khi nhìn anh chị em, khi nhìn địa phương này, tôi cũng nhìn thấy Đức Kitô ở giữa đồng bào, hình dung của Đức Kitô ở giữa anh chị em, là hình dung mà thánh Phaolô đã tả trong bài thánh thư mà chúng ta vừa nghe. Một Đức Kitô giống như mọi người. Ngài ở giữa chúng ta để chia sẻ thân phận con người, Ngài ở giữa chúng ta để trở nên một thượng tế nhân lành, trung tín với Thiên Chúa và để đền tội cho chúng ta. Khi nhìn thấy một Đức Kitô đang ở giữa anh chị em, ở giữa chúng ta, tôi tin rằng anh chị em rất được Thiên Chúa mến thương. Lúc nãy ca đoàn đã ca ngợi điều đó. Trên khắp nẻo đường, trên trọn cuộc sống, Chúa đã thương anh chị em và anh chị em đã cảm nhận được tình thương ấy, một tình thương đáng ca ngợi muôn đời. Trước một tình hình như vậy, tôi muốn nhắn gửi anh chị em nhiều điều, nhưng có một điều tôi muốn chọn để nói lên trong ngày hôm nay, ngày đầu năm, ngày chúng ta gặp gỡ trong tình thương yêu. Lời tôi chọn đó là lời của thánh Phaolô. Thánh Phaolô hay kết thúc lời nhắn gởi của ngài bằng một câu rất vắn gọn: “Tôi phó dâng anh chị em cho Chúa” (2Cr 11,2). Hình như ngài không nhắn gửi rằng: anh chị em hãy đoàn kết, hãy có chương trình, hãy năng viết thư cho tôi, mà ngài chỉ kết một câu này: “Tôi phó dâng anh chị em cho Thiên Chúa”. Đó là câu hôm nay tôi nhắn gửi lại họ đạo Cồn Én. Không phải tôi phó dâng anh chị em cho Chúa mà thôi, nhưng anh chị em cũng hãy tự mình phó dâng mình cho Thiên Chúa. Mà khi phó dâng mình cho Thiên Chúa như vậy theo tinh thần của thánh Phaolô, thì luôn luôn có sự tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa, Đấng an bài mọi sự, Đấng biết hết mọi sự, vượt qua mọi dự tính của chúng ta, vượt qua mọi hy vọng của chúng ta. Cho dù sẽ gặp bao thử thách, cho dù phải đi trong tăm tối, Thiên Chúa giàu lòng thương xót khi đã can thiệp vào đời sống chúng ta, Ngài sẽ dẫn đưa chúng ta tới cõi bình an hạnh phúc. Để cho sự phó dâng mình cho Thiên Chúa được có ý nghĩa và nhất là được Chúa chấp nhận, tôi xin anh chị em thường xuyên để ý mấy việc sau đây: Việc thứ nhất là chúng ta phó dâng mình cho Chúa bằng sự cầu nguyện sốt sắng. Từ nãy đến giờ, tôi được cảm nhận ở đây bầu khí cầu nguyện. Tôi nghĩ rằng anh chị em ở đây đã được huấn luyện cầu nguyện khá vững chắc. Hãy cầu nguyện là sự gặp gỡ Thiên Chúa, là sự ca ngợi Thiên Chúa, là sự đợi chờ Thiên Chúa đến với mình. Chứ không phải cầu nguyện là xin xỏ ơn này ơn nọ. Khi chúng ta dâng phó mình cho Chúa bằng sự cầu nguyện như thế thì Chúa sẽ nhận chúng ta và cầm tay chúng ta bước đi trên mọi nẻo đường. Việc thứ hai chúng ta nên làm thường ngày khi chúng ta dâng phó mình cho Chúa, đó là tôn trọng lời Chúa, năng đọc lời Chúa, năng suy nghĩ lời Chúa. Cũng trong thánh lễ hôm nay, tôi nghe hai bạn trẻ đọc lời Chúa và tôi cảm thấy rằng ở đây có một thói quen kính trọng lời Chúa. Đọc với một tâm hồn kính trọng. Đọc lời Chúa mà như thể mình đang được gặp Chúa cho nên tâm tình của mình phải toát ra sự khiêm tốn và lòng tin cậy. Hằng ngày anh chị em hãy cố gắng đọc lời Chúa, suy gẫm lời Chúa và cầu nguyện theo lời Chúa. Anh chị em hãy tin rằng lời Chúa là lời ban sự sống. Không cần đọc nhiều lắm, nhưng đọc những lời trong thánh lễ, hay trong gia đình, những quà tặng mà Cha đã trao ban để trên bàn thờ, như lộc xuân, lời Chúa. Đọc đi đọc lại sẽ thấy lời Chúa giúp cho chúng ta ánh sáng bình an và hạnh phúc. Điểm thứ ba chúng ta nên làm để dâng phó mình cho Chúa, đó là chúng ta làm việc bác ái từ thiện. Trong cuộc đời chúng ta, nhất là cuộc đời lao động, chúng ta va chạm rất nhiều người. Chúng ta đi đây đi đó, gặp gỡ giao tiếp. Đây là những dịp chúng ta cần phải dùng đức tin để trong những dịp gặp gỡ đó, ta nhìn thấy Thiên Chúa trong anh chị em chúng ta. Tôi bắt tay một người, tôi phục vụ một người, nhưng mà trong cử chỉ bé nhỏ đó, tôi có ý phục vụ chính Đức Kitô. Quen làm việc bác ái trong tinh thần đức tin như vậy, chúng ta sẽ thấy đời chúng ta có ý nghĩa, không phải chỉ những việc lớn mà cả trong những việc rất nhỏ, rất thường. Tất cả đều có ý nghĩa, nhất là khi chúng ta phục vụ anh chị em chúng ta. Anh chị em hãy dâng phó mình cho Chúa, hãy dâng phó gia đình mình cho Chúa, hãy dâng phó tương lai địa phương của chúng ta cho Chúa. Và khi phó dâng như vậy, chúng ta cầu nguyện, chúng ta tôn vinh lời Chúa, chúng ta làm việc từ thiện bác ái cùng với tinh thần của Đức Mẹ hôm nay. Đức Mẹ dâng con mình cho Thiên Chúa cũng ở trong tâm tình phó thác cậy trông. Đường còn dài, chẳng biết sẽ ra sao. Nhưng Thiên Chúa là Cha. Cha chẳng bao giờ bỏ con. Cho nên luôn luôn là phó dâng, luôn luôn là tin cậy, luôn luôn là hy vọng. Mặc dù trên đường đời, có những yếu đuối, có những tội lỗi, có những vấp phạm, nhưng hãy tin rằng tình thương của Chúa rộng hơn tất cả những yếu đuối của chúng ta, miễn là chúng ta biết khiêm tốn, bé nhỏ, phó dâng mình cho Chúa, như Đức Mẹ hôm nay phó dâng con mình cho Thiên Chúa, để trong suốt cuộc đời của mình, mình đi không phải cô đơn mà đi trong bàn tay của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Trong tâm tình đó, bây giờ chúng ta hợp ý cầu nguyện cho con em chúng ta, chịu phép Thêm Sức, Rước lễ Bao đồng và Rước lễ lần đầu. Amen. Lễ thêm sức tại Cồn En, ngày 02-02-1998
Giáo xứ Trung Thành được coi là một giáo xứ quan trọng không những trong giáo hạt mà cả trong giáo phận, bởi vì giáo xứ Trung Thành có một địa thế tương đối tốt hơn nhiều giáo xứ khác, và bởi vì giáo xứ Trung Thành cũng có những tiềm năng về nhân sự, về kinh tế tương đối dồi dào, phong phú hơn nhiều giáo xứ khác. Chính vì thế mà giáo xứ Trung Thành được Chúa kêu gọi phải có nhiều tiến triển. Tiến triển về mặt văn hóa, tiến triển về mặt từ thiện xã hội, tiến triển về mặt truyền giáo, và tiến triển về mặt tu đức nội tâm, những tiến triển về bốn phương diện đó đều có một yếu tố chung. Yếu tố chung đó là bác ái yêu thương. Một nền văn hóa tốt bao giờ cũng có vẻ đẹp của bác ái yêu thương. Những hoạt động từ thiện xã hội tốt, bao giờ cũng do động lực yêu thương bác ái. Các việc truyền giáo bao giờ cũng phải hướng về yêu thương bác ái, mến Chúa hết lòng, yêu thương người khác như chính mình. Và những tu đức nội tâm bao giờ cũng phải xây dựng vững mạnh trên bác ái. Nếu không có đức ái thì tất cả mọi sự đều đổ vỡ. Vậy đức ái mà tôi vừa nói rất cần cho những phát triển về các mặt khác nhau là đức ái thế nào? Thưa là đức ái trong cuộc sống đời thường, như bài Phúc Âm hôm nay đã nói đến: Chúa Giêsu đã mô tả đời sống thường bao giờ cũng có những đụng chạm làm chúng ta đau đầu, bao giờ cũng phải gặp những khó khăn làm chúng ta phải phấn đấu. Chúa Giêsu kể ra những chi tiết rất thực bị kết án, bị vu khống, bị ghen tương, bị bóc lột, bị người ta nghĩ xấu, bị người ta hành hạ vv... Trước những cái tiêu cực đầy tối tăm gây nên đau buồn đó, Chúa Giêsu khuyên chúng ta sống bác ái, tức là với tấm lòng quảng đại bao dung. Và trong tất cả những cách phấn đấu trước khó khăn, Chúa Giêsu luôn dạy chúng ta hướng về Thiên Chúa, phục vụ con người và từ bỏ chính bản thân mình, một khả năng dễ ích kỷ, dễ hẹp hòi. Đọc bài Phúc Âm hôm nay về bác ái, nhìn qua kinh nghiệm bản thân và kinh nghiệm mục vụ đó đây, tôi thấy thực hiện việc bác ái trong đời thường là rất khó. Tôi tin rằng việc bác ái lớn lao thì là dễ. Tuy nhiên, kinh nghiệm cũng cho thấy rằng, nếu chúng ta thực tâm cố gắng làm hết sức của mình, thật lòng dựa vào ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ có một tiến triển tốt về bác ái trong các lãnh vực văn hóa, từ thiện bác ái, truyền giáo và tu đức nội tâm. Sáng hôm qua cũng vào giờ này, tôi chủ sự một thánh lễ ở một giáo xứ nghèo và tôi thấy rằng giáo xứ nghèo đó cũng như nhiều giáo xứ nghèo khác, mặc dầu trong những hoàn cảnh phức tạp khó khăn về đủ mọi phương diện, nhưng đã chiến đấu rất nhiều về văn hóa, về từ thiện xã hội, về truyền giáo và về tu đức nội tâm đang khi nhiều giáo xứ khác giàu có hơn, nhiều nhân sự hơn, trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn lại không có tiến triển hoặc là tiến triển quá chậm. Nếu tìm hiểu lý do tại sao có sự chênh lệch đó, tôi thấy nguyên do là vì có bác ái hay không có bác ái: một bên nếp sống tập trung vào bác ái và đó là bác ái có chất lượng quy hướng về Chúa, phục vụ đời sống con người, từ bỏ chính mình; và một bên là sống đạo bề ngoài hoặc là có bác ái, nhưng đó là bác ái trọng hình thức, chung quy là trở lại chính cái tôi ích kỷ của mình. Vì thế chúng ta có thể kết luận được rằng muốn sống tập trung vào bác ái để diễn tả đức tin một cách chân thành, sẽ là động lực làm cho chúng ta phát triển. Còn trái lại nếu một nếp sống cứ trôi nổi, tản mác, bám vào những triển vọng lối mòn hình thức, mà thiếu đi bác ái chân thực, điều đó sẽ gây nên những đổ vỡ đáng lo sợ. Cái đáng nói là giáo xứ Trung Thành của anh chị em được Chúa kêu gọi hãy có những tiến triển về các mặt khác nhau. Khi chúng ta sống bác ái thực sự phong phú thì họ đạo chúng ta, gia đình chúng ta, bản thân chúng ta sẽ là những tiếng chuông thiêng liêng vang đi rất xa, và đượm vào rất sâu các tâm hồn, để cho đức ái đó phản ánh Thiên Chúa là tình yêu, Hội Thánh Chúa là tình yêu, đạo Chúa là tình yêu và những tiếng chuông vang dội đó sẽ làm nên những cái bất ngờ, rất lạ lùng trong địa phương chúng ta. Bác ái sẽ là quyền năng vô song. Chỉ có bác ái chân thực, bác ái của Thiên Chúa mới là sức mạnh có thể làm thay đổi tất cả mọi sự. Vì thế trong thánh lễ, khi chúng ta tuyên xưng đức tin đối với Chúa, chúng ta cũng mời gọi tuyên xưng Thiên Chúa là tình yêu. Và người con của Thiên Chúa tình yêu cũng phải sống bác ái tình yêu để trở nên giống Cha trên trời là tình yêu. Và khi chúng ta tuyên bố từ bỏ ma quỷ tội lỗi, thì chúng ta cũng có ý tuyên hứa từ bỏ chính bản thân mình, cái bản thân ích kỷ, phô trương kiêu ngạo, hẹp hòi, để chúng ta mặc lấy Đức Kitô, một Đức Kitô luôn luôn bỏ mình vác thánh giá để chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu đốt lên ngọn lửa tình yêu trong trái tim chúng ta, trong họ đạo chúng ta, trong gia đình và địa phương chúng ta. Amen. Lễ làm phép chuông và thêm sức tại nhà thờ Trung Thành, kinh 8, ngày 22-02-1998.
Chiều hôm qua, cha xứ và giáo xứ anh chị em đã có những tiếp xúc và giao tiếp cần thiết, quan trọng. Sáng nay cha xứ và giáo xứ anh chị em cũng còn những tiếp xúc và giao tiếp quan trọng, hữu ích. Từ những giao tiếp quan trọng này tôi có một nhận định sau đây: Thời nay, giao tiếp, tiếp xúc là một nhu cầu tôn giáo, là một nhu cầu Phúc Âm cần phải được thực hiện tốt. Lý do tại sao? Tôi xin chia sẻ vắn tắt : Lý do thứ nhất là vì tiếp xúc, giao tiếp sẽ giúp cho chúng ta thực hiện bổn phận gắn bó với dân tộc. Gắn bó với dân tộc là một nhu cầu Phúc Âm thời nay rất quan trọng và sự gắn bó đó được thực hiện thường tình bằng những tiếp xúc. Nhờ tiếp xúc chúng ta thực hiện được tinh thần phục vụ của chúng ta. Chúng ta thực hiện được việc xây dựng những liên đới với địa phương. Chúng ta biết chia sẻ trách nhiệm vui mừng và lo âu với đồng bào mình. Chúng ta biết cho đi và nhận lãnh trong những lãnh vực khác nhau trong xã hội, để từ đó lịch sử dân tộc nhận thấy rằng Hội Thánh địa phương là một thành phần tích cực của dân tộc. Và lịch sử Hội Thánh sau này sẽ nhận ra rằng Hội Thánh địa phương chúng ta sống tích cực và triệt để mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô. Lý do thứ hai là nhờ tiếp xúc, giao tiếp, chúng ta mới rèn luyện được tinh thần tông đồ Phúc Âm. Xưa Chúa Kitô khi đào luyện tông đồ, Ngài vừa đưa ra những lý thuyết, những lời khuyên, nhưng đồng thời Ngài đem môn đệ Ngài vào những thực tế. Thực tế đó là những con người khác nhau, những tính tình khác nhau, những hoàn cảnh địa phương khác nhau. Nhờ cọ sát với thực tế, tông đồ mới hiểu được những thao thức của Thiên Chúa nơi con người cụ thể, mới có thể chia sẻ được những cảm thông, cảm thương với từng người mà Chúa sai mình đến. Khi giao tiếp chúng ta mới nhận thấy thực tế không có dễ dàng, thực tế là rất phức tạp để các tông đồ nên khiêm tốn hơn. Và nhất là khi giao tiếp, chúng ta mới thấy những sự lạ lùng Chúa Thánh Thần đang làm nơi các tâm hồn không phải chỉ trong Hội Thánh mà ngoài Hội Thánh nữa. Khi giao tiếp rộng rãi chúng ta mới nhận thấy Nước Trời đang đến qua những kế hoạch, qua những tuyến đường khác nhau không như mình tưởng. Và nhờ đó các tông đồ mới thấy rằng muốn cộng tác với Đức Kitô cần phải khiêm tốn, bé nhỏ, khó nghèo nội tâm. Lý do thứ ba chúng ta cần phải có những tiếp xúc tốt như nhu cầu Phúc Âm là vì nhờ đó chúng ta mới xây dựng được tinh thần hiệp thông trong Hội Thánh. Hiệp thông nghĩa là chúng ta chia sẻ, thông cảm với nhau trong nội bộ giáo xứ, trong giáo hạt với nhau, trong giáo phận với nhau, trong các giáo phận với nhau. Nhờ giao tiếp, mới thông cảm được những lo âu của từng giáo xứ, của từng giáo hạt và khi chia sẻ được cái đó, chúng ta mới được thực thi một cách cụ thể lời Đức Kitô: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”. Thương yêu là hiệp thông, là chia sẻ, là cùng vui, cùng buồn, cùng lo âu với nhau, nâng đỡ nhau. Tôi vừa chia sẻ những lý do cắt nghĩa tại sao thời nay sự giao tiếp là một nhu cầu Phúc Âm, là một nhu cầu tôn giáo. Nhưng thực tế chúng ta thấy, nhiều khi chúng ta thiếu sót trong vấn đề giao tiếp, hoặc là chúng ta không có những giao tiếp cần thiết, hoặc là có giao tiếp mà thiếu chất liệu Phúc Âm. Tôi thấy nhiều khi rõ là gần nhau, tiếp xúc với nhau, nhưng vẫn xa nhau, bởi vì không có thực chất yêu thương và đức tin vững vàng ở trong nội tâm mình. Cho nên cần phải thánh hóa những giao tiếp, cần phải Phúc Âm hóa những tiếp xúc. Muốn được như vậy, chúng ta cần phải xin Chúa ở trong lòng ta, xin Chúa ở với ta. Để cho chúng ta tiếp xúc với những người xung quanh, thì không phải mình ta tiếp xúc mà chính Chúa Giêsu trong ta nói, nhìn, nghe với chúng ta. Mà có như vậy thì những tiếp xúc của chúng ta mới có chất liệu Phúc Âm, mới là những tiếp xúc có mục đích tông đồ. Cha xứ của anh chị em hiện nay đã đứng đầu giáo hạt, cần phải có những giao tiếp và tiếp xúc cần thiết. Giáo xứ anh chị em hãy nâng đỡ ngài và tất cả giáo xứ cũng hãy cùng một định hướng đó để có những tiếp xúc, giao tiếp có tính cách Phúc Âm, nhiều tính cách Tin Mừng và nhờ đó chúng ta góp phần xây dựng Hội Thánh ở trong đất nước Việt Nam hôm nay, trong những thời điểm có nhiều thách đố rất khó khăn mà chỉ có Chúa mới có thể giải quyết được. Amen. Nhà thờ Trinh Vương kinh a1, ngày 5-3-1998
Lúc nãy, để đi đến nhà thờ Lộ Đức này, xe của chúng tôi đã đi qua một chiếc cầu: chiếc cầu đó đã được xây dựng do cha quản sở ở đây. Chiếc cầu vượt qua một khoảng cách của con sông. Chiếc cầu nối kết hai quãng đường dài. Chiếc cầu đã giúp cho hai ấp và những người hai bên giao dịch với nhau một cách dễ dàng. Từ chiếc cầu vật chất đó, tôi suy nghĩ tới những chiếc cầu vô hình, thiêng liêng. Chúa cũng đang cần có những chiếc cầu thiêng liêng vô hình, để xây dựng sự đoàn kết trong Hội Thánh, trong địa phương, trong đất nước. Những chiếc cầu đó làm như thế nào? Ở đây, tôi chỉ gợi lên một số hình ảnh. Loại cầu thứ nhất là những công việc xã hội có tính cách thăng tiến con người đi lên. Thăng tiến con người đi lên như là trong phương diện vật chất, trong phương diện văn hóa, trong phương diện kinh tế, trong phương diện xã hội vv... Giúp cho đời sống đồng bào, giúp cho tình người trở nên tốt hơn và có một mức sống phong phú hơn. Những công việc đó sẽ giúp nối kết con người lại với nhau, sẽ giúp xây dựng sự đoàn kết trong địa phương. Loại cầu thứ hai mà tôi gọi là những loại cầu vô hình thiêng liêng. Đó là những thái độ xã hội có tính cách bênh vực sự thật, bênh vực chân lý. Trước mọi hoàn cảnh xáo trộn giữa những gian dối và lương thiện, pha trộn giữa những giả tạo và sự thật, thì việc chúng ta biết bênh vực sự thật, bênh vực công lý, bênh vực quyền lợi con người, nhất là quyền lợi của những người nghèo, là thái độ xã hội có tính cách xây dựng sự đoàn kết. Cần phải biết xây dựng sự đoàn kết trong chân lý, trong sự thực. Sự thực sẽ giải thoát chúng ta. Và chính trong sự thực mà chúng ta gặp được Thiên Chúa yêu thương. Những chiếc cầu thứ ba có tính cách thăng tiến con người, xây dựng tình đoàn kết, đó là những dấn thân xã hội trong tình cảnh trên một cách khôn ngoan, sáng suốt, thận trọng. Đừng để cho mình bị lôi cuốn vào những lợi ích tư riêng, hoặc là làm những công việc coi như đi theo dư luận, không suy nghĩ. Thái độ dấn thân xã hội của chúng ta, cần phải cẩn thận, tỉnh thức và khôn ngoan để luôn luôn đem Tin Mừng đến cho việc chung mà chúng ta tham gia không để cho mình bị tha hóa bởi những công việc chung dấn thân đó. Để rồi thay vì mình Phúc Âm hóa thế gian thì thế gian lại thế gian hóa chúng ta. Để được như vậy, chúng ta đừng quên là khi chúng ta làm những công việc của chiếc cầu xây dựng đoàn kết, chúng ta cần phải nối kết trái tim của chúng ta lại với trái tim Chúa Giêsu. Trái tim Chúa Giêsu là nguồn yêu thương, là nguồn chân lý là sự khôn ngoan. Cho nên khi chúng ta nối kết trái tim chúng ta với trái tim của Ngài, chúng ta sẽ được thông phần đạo đức thánh thiện của Ngài. Để rồi khi chúng ta xây dựng những chiếc cầu thiêng liêng, xây dựng đạo đức, chúng ta dựa vào Ngài, để có thể thành công. Thành công đó có thể hôm nay không nhìn thấy, nhưng sau này luôn luôn sẽ là sức mạnh của chân lý. Chúng ta thấy Đức Kitô về cuối đời đã có những thất bại nhưng chính sự can đảm từ bỏ mình, đứng về phía thất bại, đứng về phía từ bỏ mình để làm chứng cho tình yêu, thì cây thánh giá sau này chính là sức mạnh đoàn kết con người lại với nhau. Chúng ta sống trong một thời điểm cần gắn bó với nhau, cần biết nâng đỡ nhau, cần biết đoàn kết với nhau để không những chúng ta, thời đại chúng ta cần có đức tin và làm chứng cho đức tin trong đó và tôi nghĩ rằng mỗi gia đình, mỗi cá nhân, mỗi họ đạo sẽ là một yếu tố nối kết, xây dựng đoàn kết, để giúp cho mọi người nhìn thấy mà nhận ra Tin Mừng Phúc Âm. Trong thánh lễ hôm nay, nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta biết con đường Chúa dạy, để trong tương lai chúng ta là những chiếc cầu xây dựng đoàn kết, nối liền lại những khác biệt và xóa đi những thành kiến, những giả tạo, những gian dối, để trong Chúa chúng ta hợp nhất lại thành dân của Chúa. Amen. Lễ thêm sức tại họ Lộ Đức, kinh 8b, ngày 6-3-1998
Khi tôi đi thăm các giáo xứ, tôi thường có một câu hỏi tự đặt ra cho mình, câu hỏi đó là: giáo xứ này liệu có thể tồn tại và sẽ phát triển tốt trong tương lai, nhất là khi gặp những khó khăn thử thách không? Câu hỏi đó thường làm cho tôi băn khoăn rất nhiều. Bởi vì câu trả lời của tôi ít khi dựa vào những phát triển vật chất, không bao giờ tôi nghĩ rằng vì giáo xứ này, giáo xứ nọ đã xây cất được nhà thờ mới, đã tu sửa nhà xứ cho đẹp, trong tương lai sẽ phát triển về đức tin. Tôi cũng không thường nghĩ rằng giáo xứ này có những tổ chức thánh lễ rất đẹp, nề nếp và tất cả mọi người đều có một cách sống như nhau, vâng lời bề trên, để tôi quả quyết rằng trong tương lai đức tin giáo xứ đó sẽ phát triển. Vậy tôi phải dựa vào những dấu chỉ nào? Tôi xin chia sẻ kinh nghiệm của tôi. Tôi dựa vào những yếu tố sau đây: Yếu tố thứ nhất là sinh hoạt bí tích. Sinh hoạt bí tích là sự năng lui tới các bí tích như phép Rửa tội, phép Giải tội, phép Mình Thánh Chúa. Nhưng lui tới không có nghĩa là mình đến một cách hình thức, máy móc, theo thói quen. Mà là đến với tất cả tâm hồn để tìm Chúa, để gắn chặt mình vào Thiên Chúa tình yêu, để xin Chúa cho mình biết thánh ý của Ngài mà tuân phục. Yếu tố thứ hai là sinh hoạt lời Chúa. Sinh hoạt lời Chúa là năng đọc Kinh Thánh, năng suy gẫm về Kinh Thánh, năng chia sẻ theo lời Chúa và khi làm những chuyện đó thì cũng có một ý hướng là muốn trở nên giống Thiên Chúa, muốn trở nên hình ảnh Thiên Chúa qua Đức Kitô, chứ không phải là tìm lời Chúa để tỏ ra mình khôn ngoan, hiểu biết. Yếu tố thứ ba là sinh hoạt cầu nguyện. Về điểm này anh chị em đã quá biết: cầu nguyện chung trong nhà thờ, cầu nguyện chung trong gia đình, cầu nguyện riêng, nhưng mà khi cầu nguyện như vậy thì phải cầu nguyện theo tinh thần Phúc Âm là luôn luôn tìm theo ý Chúa, luôn luôn tìm khuôn mặt thực của Thiên Chúa đạo đức, luôn luôn tìm con đường Chúa muốn ta đi, luôn luôn tìm thánh ý Chúa được thực hiện trọn vẹn trong ta. Đó mới là cầu nguyện chứ không phải cầu nguyện để xin Chúa thực hiện điều ta mong muốn. Yếu tố thứ tư là những sinh hoạt phục vụ. Sinh hoạt phục vụ là chúng ta tới giúp đỡ chia sẻ với những người khác. Những người khác đó có thể là những người nghèo, những người già cả, và người bệnh tật cô đơn, những người ngoại giáo không cùng tín ngưỡng với ta và phục vụ cũng không phải là trình diễn để gây uy tín mà là thực thi lời Đức Kitô dạy “Khi chúng con làm một sự lành cho một người bé nhỏ nhất vì danh Thầy, thì Thầy coi đó là làm cho chính Thầy” (Mt 18,5). Bốn yếu tố trên đây, khi trở thành dấu chỉ của sự tồn tại và phát triển trong họ đạo, thì không phải chỉ dựa trên hình thức bề ngoài, mà phải đi sâu. Tôi thường nhìn những phát triển bên trong để đánh giá một họ đạo, chứ không phải phát triển bên ngoài. Phát triển bên trong đó là trong xứ đạo, có nhiều người trở nên giống Chúa Kitô không? Có cố gắng sửa mình để sống như Đức Kitô đã sống xưa không? Nghĩa là cần phải có sự sửa đổi chính mình. Phát triển, như vậy, là đổi mới chính mình, đổi mới cách nhìn của mình về Thiên Chúa, về tha nhân, về các giá trị của trần thế… đổi mới trong những chọn lựa của mình giữa rất nhiều giá trị kinh tế, văn hóa xã hội uy tín, thành công vv... Theo cái nhìn phát triển đức tin, trước một tình hình như vậy, mình chọn cái gì? Đấy mới là trình độ phát triển mà tôi nhắm để đánh giá một họ đạo. Khi nhìn thấy sự đổi mới trong tâm hồn con người nhờ những sinh hoạt đa dạng trên đây, thì tôi có thể tin là họ đạo đó có tương lai, hy vọng sẽ phát triển. Nhưng đấy là tình trạng bình thường. Một điều đặt ra cho tôi là trong tương lai sẽ có nhiều sóng gió, sẽ có nhiều thử thách, có những thử thách êm đềm như ba cơn cám dỗ của Đức Kitô trong sa mạc. Và có những thử thách bạo tàn như là cơn bách hại của Đức Kitô phải chịu trong ba ngày tuần thánh. Khi gặp những cái thử thách đó, xứ đạo ấy, cộng đoàn ấy có tồn tại phát triển không? Đó là điều rất phải để ý, có được chuẩn bị kỹ không? Cái điều này, tôi phải căn cứ vào Chúa Thánh Linh nghĩa là phải có một sự khôn ngoan thực tế do Chúa Thánh Linh trao phó cho. Mà muốn có sự khôn ngoan đó thì phải tỉnh thức và cầu nguyện, bởi vì những sóng gió thử thách đến rất bất ngờ và rất đa dạng. Nếu mình tỉnh thức mà không cầu nguyện thì không biết đối phó thế nào. Tôi thường phải đối phó với những thử thách đang chờ đón, khi thì bằng cách thích nghi, khi thì bằng cách phản kháng lại, có khi bằng sự từ bỏ mình, có khi bằng sự bảo vệ chính mình, tùy sự khôn ngoan mà Chúa Thánh Linh soi sáng. Cho nên trong tình trạng này, nhìn về tương lai đầy thử thách phong ba, tôi khuyên anh chị em đẩy mạnh bốn sinh hoạt tôi vừa nói trên. Không phải chỉ là hình thức mà là đi sâu. Và phải có một cái nhìn phát triển như tôi vừa trình bày. Phát triển là đổi mới chính mình để sống như Đức Kitô đang sống giữa mình. Phát triển là phải biết tồn tại khi gặp thử thách. Nói về một vài chi tiết cụ thể. Tôi có kinh nghiệm sống bên cạnh anh em Tin Lành, anh em Hòa Hảo. Về sinh hoạt lời Chúa anh em Tin Lành rất sâu. Bất cứ trong trường hợp nào cần phải nói về lời Chúa thì lập tức anh em Tin Lành có thể nói thuộc lòng một lời Đức Kitô đã dạy. Nếu so sánh trình độ lời Chúa của anh em Tin Lành với trình độ lời Chúa của nhiều họ đạo, thì tôi thấy nhiều nơi của chúng ta còn thua kém. Anh em Tin Lành đi sâu về lời Chúa, đọc lời Chúa, thuộc lời Chúa và cố gắng sống theo lời Chúa. Về sinh hoạt phục vụ, tôi thấy anh em Phật giáo Hòa Hảo luôn luôn sẵn sàng đi đến các đối tượng cần giúp đỡ, mặc dầu những đối tượng đó không có yêu cầu, giúp đỡ những người nghèo… Chúng ta cần phải học để đi sâu vào những sinh hoạt đó. Về sinh hoạt cầu nguyện của mấy anh em Phật giáo tôi quen: Ngày nào cũng vậy, cũng dành ra một số thời giờ ban sáng, ban tối tự mình tĩnh tâm, cầu nguyện với Thượng Đế của mình trong sa mạc nội tâm. Không cần nhiều kinh nhưng tràn trề thân mật với Thượng Đế của mình, tìm lại chính mình. Họ cầu nguyện như thế đó. Họ đi sâu vào nội tâm, còn chúng ta nhiều khi quá hình thức. Trong nhiều lễ Thêm sức tôi nhận thấy tính chất hình thức đó. Chẳng hạn khi đọc bài sách Thánh, nhiều người không bằng anh chị em Tin Lành. Đọc làm sao cho có hồn. Ý thức là mình đọc lời Chúa, một lời Chúa mình trân trọng, lời Chúa mình đã gẫm suy, một lời Chúa mà mình bây giờ tuyên xưng và chia sẻ sau khi đã thấm nhuần lời Chúa trong lòng, chứ không phải chỉ đọc cho trơn. Đấy là những hình thức và nội dung đi sâu. Phải đi sâu vào những sinh hoạt đó thì sau này Chúa mới đến ở trong chúng ta. Và chúng ta mới trở nên con của Chúa, giống Chúa và có thể chống lại những phong ba, thách đố đang xảy đến cho Hội Thánh Chúa. Giáo xứ của anh chị em đã có nhiều phát triển, đã đi sâu vào nhiều sinh hoạt, nhưng cần phải đi sâu nữa và cố gắng sống theo ý Chúa. Khi gặp được Chúa rồi, gắn bó với Chúa rồi, thì chúng ta sẽ thấy có sự bình an trong tâm hồn. Việc mở Nước Trời là việc của Chúa, chúng ta chỉ là những dụng cụ bé nhỏ. Và khi nhận định như vậy rồi, chúng ta sẽ thấy chúng ta phải từ bỏ rất nhiều. Nhưng phải chấp nhận bảo vệ chân lý, nhất là những chân lý của Phúc Âm. Tôi mong rằng lần này chúng ta gặp nhau, chia sẻ những điều như vậy, để anh chị em cũng như tôi, chúng ta tìm ý Chúa, vâng phục ý Chúa và cố gắng giữ cho mình, cho gia đình mình, cho họ đạo của mình đi vào đúng đường phát triển của Chúa, nhờ đó Nước Trời sẽ được mở rộng trong địa phương ta. Amen. Lễ thêm sức tại nhà thờ Giu Đức, kinh 8b, ngày 7-3-1998
Nghe bài Phúc Âm hôm nay, tôi nhận ra một điều rất cần thiết mà Chúa muốn cho tôi cũng như anh chị em phải thực hiện nhất là trong lúc này. Điều cần thiết đó là: hãy biết cầu nguyện, chiêm niệm, suy gẫm trong nơi vắng vẻ, trong thời gian vắng vẻ. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã thực thi điều đó để nêu gương cho chúng ta, Ngài đã tránh nơi ồn ào, đi tận nơi xa, trèo lên núi cao để cầu nguyện. Việc đó chắc chắn không phải ngày nào Đức Kitô cũng làm, nhưng điều chắc chắn là ngày nào Đức Kitô cũng cầu nguyện trong thanh vắng. Thánh sử Marcô đã khởi sự Phúc Âm của Ngài bằng câu: “Ban mai, khi trời chưa sáng, Đức Kitô thức dậy và đến nơi thanh vắng ở đó Ngài cầu nguyện” (Mc 1,35). Đức Kitô thực thi điều đó không phải một cách tùy tiện nhưng coi đó là một việc cần thiết cho chính con người của mình. Cầu nguyện trong thanh vắng là một chiều kích căn bản của kẻ được sai đi. Chúa Giêsu cũng không thực hiện sự cầu nguyện trong nơi thanh vắng như một sự đáp ứng cái ưa thích tự nhiên của mình, mà chính là sự đáp ứng đối với một nhu cầu người con Thiên Chúa, cần phải tiếp cận với Chúa Cha, cần phải bàn hỏi với Chúa Cha, cần phải lắng nghe ý Chúa Cha. Vì thế Đức Kitô dùng lời cầu nguyện trong thanh vắng để chứng minh cho chúng ta rằng sức mạnh của Tin Mừng, nội dung của Tin Mừng, sáng tạo về Tin Mừng, suối nguồn của Tin Mừng là ở nơi Chúa Cha. Phải xác tín như vậy để chúng ta năng lui tới với Thiên Chúa và lui tới trong tình trạng thanh vắng nội tâm. Những người theo Đức Kitô cũng đã thực thi đúng như lời Đức Kitô dạy và theo gương Đức Kitô đã làm. Các thánh vẫn coi sự cầu nguyện trong thanh vắng là điều rất cần thiết. Chúng ta ai đã thực thi điều đó, đều cảm nghiệm lời Chúa nói trong Thánh Kinh: “Ta đứng ngoài cửa và gõ cửa, ai nghe thấy tiếng Ta gọi ra mở cửa thì Ta sẽ vào ở lại với họ, dùng bữa với họ” (Kh 3,20).Chúa Giêsu gọi ta bằng một tiếng gọi rất nhẹ nhàng, như một tiếng gõ cửa, gõ lương tâm. Nếu chúng ta không thanh vắng và không đợi chờ, không tỉnh thức, thì không nghe được tiếng Chúa gọi lương tâm mình. Và khi đã đón được Thiên Chúa vào lòng, thì như lời Kinh Thánh nói: Chính chúa sẽ dọn bữa cho chúng ta ăn. Bữa mà Chúa cho chúng ta ăn là sức sống của Thiên Chúa. Chúa chăn nuôi tôi. Mà chăn nuôi kiểu đó là lấy sự sống của Người mà nuôi ta và khi có sự sống của Chúa trong ta, thì chúng ta sẽ thấy nó khác nhiều với cái nhìn của ta. Chúa sẽ cởi gỡ dần dần những cái xiềng xích thường trói buộc chúng ta vào những phù du, vào những ảo tưởng. Chúa sẽ thanh luyện tâm hồn chúng ta để chúng ta có một sự tự do thiêng liêng. Không ràng buộc vào những phép luật để chúng ta có tự do của con cái Thiên Chúa. Và nhất là, dần dần chúng ta trở nên một dụng cụ của Chúa, ngoan ngoãn khiêm tốn trong tay của Người. Chúng ta cần phải cầu nguyện trong nơi thanh vắng và trong thời gian cô tịch. Nhất là để đối phó với tình thế phức tạp và khó khăn thì lời Chúa dạy hôm nay, gương Chúa làm hôm nay rất cần để chúng ta thực hiện. Khi chúng ta không cầu nguyện, chúng ta khó mà biết được ý Chúa. Và nếu chúng ta không cầu nguyện, dù biết được ý Chúa chúng ta cũng không có sức để thi hành ý Chúa. Những điều tôi chia sẻ ở đây tôi thấy nhiều nơi còn thiếu sót lắm. Có nơi không tạo ra cho mình được một bầu khí thanh tịnh, một bầu khí thanh vắng để cầu nguyện. Sự ồn ào đó hoặc là do tự nhiên hoặc là do chính chúng ta tạo nên đã quấy rối tâm hồn chúng ta và quấy rối tâm hồn người khác không cầu nguyện được. Hoặc là chính chúng ta ở trong một bầu khí thanh lặng nhưng lại không cầu nguyện, nhưng lại không biết suy gẫm, nhưng lại không biết chiêm niệm. Chính vì thế mà đời sống đạo của chúng ta hời hợt, không thể đổi mới được. Chỉ là trôi nổi bề ngoài. Và khi có phong ba, có cám dỗ, có thử thách, thì không đứng vững, bởi vì không có Chúa ở trong ta. Trong Mùa Chay này, tôi xin anh chị em hãy thực thi việc cầu nguyện, suy gẫm, chiêm niệm trong nơi vắng vẻ. Nơi vắng vẻ đó có thể là một mình trước Mình Thánh Chúa. Có thể là một mình trước tượng Chúa chịu đóng đinh. Có thể là một mình trước cuốn Phúc Âm. Có thể là một mình trước một cảnh thiên nhiên vắng lặng để gặp Chúa, để cầu xin với Chúa, để xin Chúa cứu mình, để xin Chúa cứu Hội Thánh, để xin Chúa ban cho dân tộc ta được bình an. Chúng ta đừng quên rằng sẽ không có thể cứu được nếu không có thánh giá. Chúng ta đừng quên rằng không có thể có sự sống lại mà không phải đi qua cuộc tử nạn. Mà chấp nhận thánh giá, chấp nhận quãng đường tử nạn là khó lắm. Cho nên phải cầu xin, phải xin Chúa ban cho chúng ta chấp nhận thánh ý Chúa trong bình an và trong sự soi sáng của Chúa Thánh Linh. Một lần nữa, tôi tha thiết xin anh chị em tăng cường cầu nguyện trong thinh lặng với một ý muốn tìm thánh ý Chúa, thực thi thánh ý Chúa mặc dầu thánh ý Chúa là thánh giá, là chặng đường tử nạn để theo Đức Kitô. Amen. Lễ thêm sức tại xứ Hiếu Thuận, kinh h, ngày 8-3-1998
Hôm nay, tôi cảm thấy vui, bởi vì tôi nhận thấy các họ đạo trong vùng này, có nhiều cố gắng phát triển. Nói chung và khách quan, tôi phải nói là: Công giáo vùng này, hôm nay có một bộ mặt rất khác Công giáo vùng này 20 năm về trước. Đây là một thực tế đáng được đánh giá cao. Khi nhìn thực tế này, tôi tự hỏi với thực tế đáng khen đây, các họ đạo vùng này có làm chứng cho Đức Kitô không? Và tôi có thể trả lời là có, bởi vì các họ đạo vùng này ít ra đã thực thi lời Chúa dạy hôm nay: "Con Người đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ" (Mt 20,28). Chúng ta cũng có thể nói: Hội Thánh hiện diện ở vùng này không phải là tìm để được phục vụ mà là để phục vụ. Tôi nhìn thấy những phục vụ của Hội Thánh vùng này đối với địa phương là rất lớn và đa dạng bằng những phát triển về nhiều mặt khác nhau. Phát triển về mặt văn hoá, phát triển về mặt xã hội, phát triển về mặt đạo đức, phát triển về mặt kinh tế. Và có thể nói là phát triển về mô hình cộng tác giữa đạo và đời. Phát triển cả về tinh thần dân chủ. Những phát triển đó chính là những cách chúng ta phục vụ dân tộc ta, địa phương ta. Nhưng có một điều tôi muốn nhắc nhủ ở đây, là cách chúng ta phát triển, cách chúng ta phục vụ. Theo tinh thần Phúc Âm, khi chúng ta phục vụ, cần phải có một tinh thần của Đức Kitô. Đó là khi chúng ta phục vụ đồng bào, chúng ta phải có lòng mến Chúa ở trong phục vụ đó. Chúng ta nhớ lại lời Đức Kitô: “Khi chúng con làm một việc gì dành cho người khác vì danh Thầy, thì hãy nhớ chúng con làm việc đó cho chính Thầy” (Mt 25,40). Phục vụ vì danh Đức Kitô, chúng ta không tìm thanh danh, chúng ta không tìm phô trương. Trái lại, chúng ta nhớ lời Đức Kitô: “Hãy làm một cách âm thầm, khiêm tốn. Tay trái làm, đừng cho tay phải biết” (Mt 6,3), nghĩa là khiêm tốn, âm thầm, và nhất là khi phục vụ chúng ta có tinh thần từ bỏ mình. Phải từ bỏ mình nhiều lắm: sự tự ái, tính phô trương, tính muốn hơn người khác, sự cạnh tranh vv... Và tinh thần từ bỏ đó phải đi sâu và đi tới cái bước mà Chúa Giêsu dạy hôm nay trong bài Phúc Âm: đó là phải đón nhận những thua thiệt về phía mình, thua thiệt cả đến mức cuối cùng. Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay: “Con Người sẽ phải đau khổ rất nhiều, sẽ phải trao nộp, sẽ phải đánh đòn, sẽ phải sỉ nhục, sẽ phải treo lên”. Mà Con Người là Đức Kitô suốt đời phục vụ đồng bào mình, có làm gì hại cho đồng bào đâu, chỉ là làm ơn, làm nghĩa. Nhưng Đức Kitô quả quyết Ngài sẵn sàng chịu đau hkổ, chịu thua thiệt, chịu mất mát như vậy đó. Và trong tinh thần của Đức Kitô, thì chính sự chấp nhận những thua thiệt ấy lại là một cách phục vụ. Bởi vì khi chúng ta hy sinh mạng sống mình, hy sinh cả những tự do và thanh danh của mình, thì đó là giá cứu chuộc các linh hồn. Và cái giá phải trả để đền tội cho nhân loại là cái giá phải trả để đem sự cứu độ đến cho dân tộc mình. Phục vụ thì phải có tình thương và phải cộng với thánh giá. Chúng ta phải nhận định rõ như vậy khi chúng ta hiểu phục vụ để cứu độ. Trong phục vụ bao giờ cũng có những thử thách, cũng có những cám dỗ bên nặng bên nhẹ. Chúng ta cần phải tỉnh thức nhiều lắm. Và tỉnh thức với tinh thần của Đức Kitô, luôn tìm thánh ý Chúa Cha, luôn chấp nhận thánh ý Chúa Cha, mặc dù thánh ý đó là khổ đau, là thua thiệt. Nhưng nếu gặp con đường thánh giá sẽ đưa tới Phục sinh. Và phục sinh của Đức Kitô sẽ được chia sẻ cho tất cả mọi người thiện chí. Anh chị em hãy tiếp tục phát triển, nhất là phát triển tinh thần Đức Kitô trong phục vụ. Không phải chỉ là phát triển công việc bề ngoài, mà là phát triển tinh thần phục vụ của Đức Kitô, đầy tình thương, đầy từ bỏ mình. Và nhất là sẵn sàng đón nhận những thánh giá do mình phục vụ. Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta hiểu sứ điệp Chúa dạy chúng ta hôm nay, để trong những hoàn cảnh bất ngờ xảy ra, chúng ta hiểu ý Chúa, chúng ta đón nhận ý Chúa và chúng ta vui mừng tạ ơn vì những thử thách đến cho chúng ta trong phục vụ. Amen. Lễ thêm sức tại nhà thờ Xẻo Dầu, ngày 11-3-1998.
Nhìn quang cảnh sốt sắng giờ đây trong thánh lễ, tôi có cảm tưởng là anh chị em đang có nhiều liên hệ tốt với Chúa, do niềm tin, lòng cậy, lòng mến. Và chính vì đó anh chị em sẽ được lên thiên đàng, sẽ được cứu rỗi. Cảm tưởng đó của tôi thực là chân thành và có cơ sở Phúc Âm. Thế nhưng cảm tưởng đó đã được điều chỉnh và bổ túc do bài Phúc Âm hôm nay. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa đã xét xử người phú hộ một cách nghiêm khắc, không phải vì người đó không có những liên hệ tốt với Thiên Chúa. Tôi nghĩ rằng người phú hộ đó cũng đã đọc kinh, cũng liên hệ với Abraham, cũng biết Môisen. Nhưng người phú hộ đó đã bị kết án vì thiếu những liên hệ bác ái với người khốn khổ kề bên mình. Như thế có nghĩa là: Ơn cứu độ được ban tặng cho những người thực thi bác ái với những người chung quanh. Việc đó được nhấn mạnh rất nhiều trong Phúc Âm. Việc đó được nhắc tới nhiều lần trong Phúc Âm. Ở đây tôi chỉ xin nhắc lại hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là Đức Kitô nói về ngày phán xét. Ngày phán xét, Chúa xếp người ta ra hai loại: bên hữu, bên tả. Chúa quay sang những người ở bên hữu và nói: "Bởi vì chúng con đã cho người đói ăn, đã cho kẻ khát uống, đã giúp những người trần truồng có áo mặc, đã đi thăm viếng những bệnh nhân, nên chúng con hãy lên thiên đàng. Bởi vì tất cả những gì chúng con làm cho kẻ khác, thì Ta kể như là làm cho chính Ta" (Mt 25,34-40). Rồi chúng ta biết Chúa nói ngược lại đối với những người bị xếp sang bên tả, bị đày xuống hoả ngục chỉ vì đã không giữ những việc từ thiện bác ái đối với những người chung quanh. Họ không làm sự gì dữ cả, mà chỉ là thái độ dửng dưng, thái độ lạnh lùng, không chia sẻ. Đó là trường hợp thứ nhất. Trường hợp Chúa nói về ngày phán xét chung, yêu cầu xếp loại người lại để sống bác ái với những người chung quanh. Trường hợp thứ hai là trường hợp về đặc điểm của người môn đệ Chúa. Chúa phán: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau" (Ga 14,35),chứ không phải là chúng ta làm cái gì khác: đi nhà thờ, gắn bó với bề trên nơi họ đạo, mà là chúng con thương yêu nhau, mà là thương yêu như Thầy đã thương yêu chúng con. Đó là đặc điểm của người môn đệ Đức Kitô. Hai trường hợp trên đây, giúp cho chúng ta kiểm soát lại nếp sống đạo của chúng ta. Chúng ta đi lễ, đọc kinh, học giáo lý, chia sẻ lời Chúa. Đó là những việc rất có ích, rất cần. Nhưng cần phải phiên dịch những cái đó ra bằng đời sống bác ái với những người xung quanh. Bởi vì nếu chúng ta chỉ liên hệ tốt với Chúa, gắn bó với bề trên trong họ đạo, trong địa phận, trong Hội Thánh, mà không phiên dịch niềm tin và sự gắn bó đó ra tình bác ái chan hoà chung quanh, thì chưa phải là nếp sống đạo của Tin Mừng. Thời nay, chúng ta đang thấy có một sự phân hoá giữa giàu và nghèo và sự phân hoá này càng ngày càng rõ. Có một lớp người càng ngày càng giàu thêm. Và có một lớp người càng ngày càng lún sâu vào sự khốn khổ, dốt nát, nghèo túng. Chính vì sự phân hoá nguy hiểm này, mà Hội Thánh tại nơi chúng ta được Thiên Chúa gọi phải làm chứng cho Tin Mừng bằng chính những công việc từ thiện, bác ái. Chúng ta không có thể làm được những việc lớn đâu, vì chúng ta không có khả năng. Nhưng chúng ta vẫn có thể làm được những công việc nhỏ bằng thái độ sống khoan dung, bằng những lời nói an ủi, kính trọng, bằng những chia sẻ thường ngày. Nhưng đây là việc chúng ta cần phải tập. Hãy tập sống bác ái từng ngày. Như lời Đức Kitô hôm nay nói trong bài thánh thư: "Ngài chết cho những người tội lỗi, Ngài chết vì chúng ta". Mỗi ngày, chúng ta hãy tập chết cho người khác. Cái chết đó là: mình phải hao mòn đi, phải chịu vất vả, phải chịu mệt nhọc, phải chịu tốn phí. Nghĩa là phải có một sự hy sinh nào đó vì hạnh phúc những người chung quanh. Hãy tập mỗi ngày, nhỏ thôi, từng bước một, để dần dần, chính mình, rồi gia đình mình, họ đạo mình trở thành một cộng đồng tình thương. Thời nay, người ta không thể rao giảng, mà cũng không muốn nghe lời rao giảng, nhưng người ta rất bén nhạy với những sự làm chứng. Làm chứng bằng đời sống, bằng quan điểm của mình, để thấy rằng: Đức Kitô là sứ điệp của tình yêu. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta xin Chúa Thánh Thần cho chúng ta ơn bác ái và xin Chúa Thánh Thần cho chúng ta có một khả năng bén nhạy, để chúng ta trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có thể làm chứng cho bác ái, cho dù khó khăn nhất, cho dù hạn chế nhất về khả năng. Luôn luôn chúng ta có thể làm chứng tình yêu của chúng ta là bao dung, là nhưng không cho những người chung quanh vì danh Đức Kitô. Amen. Lễ thêm sức tại nhà thờ Trảng Tranh, ngày 12-3-1998.
Tới giáo xứ Kinh Tràm đây, tôi rất ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên vì thấy những công trình mới: nhà thờ mới, nhà xứ mới, những con người mới, nhất là những đôi tân hôn rối lấy vợ, lấy chồng mới được hợp thức hoá. Tôi coi tất cả những công trình vật chất và tinh thần này đều hướng về mục đích phục vụ con người và phục vụ địa phương. Nếu gọi những sự kiện trên đây là một phép lạ nhỏ thì thiết tưởng không phải là quá đáng. Tôi xin chia sẻ niềm vui với anh chị em. Trong tinh thần lạc quan và trong tinh thần bài Phúc Âm hôm nay, tôi có cảm tưởng là hiện nay, tại đây, lúc này đang ứng nghiệm một lời Chúa phán trong Phúc Âm: "Chúng con đã có các Maisen và các tiên tri, chúng con hãy nghe lời họ" (Lc 17,29). Tôi như nhìn thấy Đức Kitô đang gọi đồng bào ở đây, nhìn vào Hội Thánh bé nhỏ ở chỗ này. Và muốn nhắn nhủ rằng, ở đây có một Hội Thánh với những nhân sự và hoạt động có thể tin tưởng được. Cái cảm tưởng đó lại gợi cho tôi suy nghĩ: Sở dĩ chúng ta đã thành công trong một số công trình là vì Hội Thánh chúng ta có ơn tiên tri. Ơn tiên tri rất cần thiết cho việc sống đạo và phát triển thời nay. Ơn tiên tri nói đây là các nhân sự lãnh đạo tôn giáo và tín hữu của các cộng đoàn biết nắm bắt được tình hình chung của địa phương, biết phân định được các chi tiết trong địa phương mình và biết chọn lựa đường hướng để thực hiện cái nào trước, cái nào sau, cái nào là phụ, cái nào là chính. Tôi thấy ơn tiên tri trong Giáo Hội địa phương này đã giúp cho sự phát triển được đều đặn và tương đối đúng. Với ơn tiên tri này, tôi thấy Giáo Hội địa phương chúng ta vừa có tính cách ổn định, vừa có tính cách di động, vừa có những hoạt động bí tích, vừa có những hoạt động đoàn sủng, vừa đi vào truyền thống, vừa có những sáng tạo. Với những đặc tính này, Hội Thánh tiên tri sẽ giúp cho thế hệ chúng ta đây và thế hệ con cháu chúng ta biết sống tốt đẹp trong những hoàn cảnh mới rất phức tạp. Từ đầu thánh lễ đến bây giờ, tôi thấy trước bàn thờ có hai cây nến, mà có lúc nó cháy, có lúc nó tắt do gió ở ngoài. Sự kiện này gợi lên trong tôi một hình ảnh: đời sống chúng ta cũng có những gió bão, có thể là chúng ta xin Chúa thắp lên trong lòng ta ngọn lửa hồng đức tin, nhưng mà ngọn lửa đó sẽ phải thử thách, sẽ có những gió thế tục, sẽ có những gió về kinh tế chỉ tìm lợi nhuận mà không tìm đạo đức và phục vụ con người, sẽ có những thứ gió hưởng thụ tràn vào tâm hồn chúng ta, con cái chúng ta. Nếu ngọn lửa không vững, ngọn lửa đó sẽ tắt đi. Cho nên từ bây giờ đã có những dấu hiệu để chúng ta thấy ơn tiên tri trong một Giáo Hội địa phương là phải chuẩn bị đức tin sao cho trưởng thành hầu có thể tồn tại và phát triển trong thời gian đầy những khó khăn thách thức. Muốn được như vậy, sau khi đã xây dựng những công trình vật chất, chúng ta cần nhấn mạnh hơn đến những công trình thiêng liêng: đó là sinh hoạt lời Chúa, đó là sinh hoạt cầu nguyện, đó là sinh hoạt cộng đoàn. Ba sinh hoạt đó sẽ giúp cho đức tin lớn mạnh, sẽ làm cho lửa hồng đức mến được luôn luôn sáng lên. Có như vậy thì xứ đạo chúng ta sẽ có hy vọng tồn tại và phát triển thêm. Tôi vừa mới đến đây, thì nhận thấy là rất nhiều người đã trở lại con đường đạo đức cách này, cách nọ. Và ngay nếp sống đạo của anh chị em cũng đang có hướng trở về hướng năm Thánh, là trở về tập trung vào Đức Kitô. Đây là những lựa chọn báo hiệu cho con đường sống đạo của chúng ta. Đây là những tín hiệu đáng vui để chúng ta có cơ sở mà đi lên những bước mới. Xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta ơn tiên tri. Ơn tiên tri rất cần. Một ơn tiên tri để phục vụ Chúa một cách thích hợp và hữu hiệu trong tương lai đầy thách đố. Amen. Lễ thêm sức và làm phép nhà thờ Kinh Tràm, ngày 12-3-1998
Khi khánh thành các nhà thờ, tôi hay nhớ tới nhiều hình ảnh về nhà thờ, khiến tôi suy nghĩ gần xa. Thí dụ vài hình ảnh sau đây trong Phúc Âm: Hình ảnh Chúa Giêsu hồi 12 tuổi, ở lại trong đền thờ, ngồi giữa các thầy thông luật, vừa nghe vừa hỏi họ (x. Lc 2,46). Hình ảnh Chúa Giêsu vào đền thờ, đuổi tất cả những người buôn bán ra khỏi đó (x. Mt 21,12). Hình ảnh Chúa Giêsu bị các thầy cả và luật sĩ định ném đá Ngài ngay tại đền thờ (x. Ga 10, 22 tt) Hình ảnh Chúa Giêsu ngồi trên núi Cây Dầu trước đền thờ và nói tiên tri về sự đền thờ sẽ bị tàn phá, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào (x. Mc 13, 1 tt). Bên cạnh những hình ảnh đó trong Phúc Âm, tôi cũng nhớ tới nhiều nhà thờ ở nước ngoài, mà tôi đã tới tham quan. Ở Thuỵ Sĩ, có những nhà thờ trước kia của Công giáo nay là của Tin Lành. Ở Trung Đông và Phi Châu, có những nhà thờ xưa kia của Công giáo nay thuộc về Hồi giáo. Ở Nga, có những nhà thờ xưa kia là của Công giáo, nay thuộc về Chính thống giáo. Tại Pháp, có những nhà thờ trước đây không đủ chỗ cho các tín hữu những lễ Chúa nhật, nay trở thành vắng vẻ đìu hiu quanh năm suốt tháng. Giả như tôi không nhớ tới những hình ảnh trên đây, thì khi nhìn vào các nhà thờ tại Việt Nam hiện nay, chắc tôi vui lắm. Nhưng khi nhớ tới những hình ảnh trên đây, tôi có cảm tưởng là, tuy dù không nên bi quan, tôi cũng không được chủ quan. Cho nên dù vui đến mấy trước hiện tượng tại Việt Nam các nhà thờ đang tăng thêm, và đang trở thành đẹp đẽ, sầm uất, tôi nghĩ là chúng ta vẫn phải tỉnh thức và cầu nguyện như lời Chúa Giêsu khuyên dạy (x. Lc 21, 36). Ở đây tôi xin chia sẻ vắn tắt ba cách tôi áp dụng Lời Chúa về tỉnh thức và cầu nguyện. Áp dụng thứ nhất là về phụng vụ. Thực vậy, phụng vụ đòi tỉnh thức và cầu nguyện ở mức độ rất cao. Mới rồi, trong tạp chí “Communio” (Hiệp thông) số 128, 12-1996, Đức Hồng Y người Bỉ, Godfried Dannells đã viết một bài dài phê bình phụng vụ tại nhiều nơi. Bài mang tựa đề“Phụng vụ 30 năm sau Công đồng”. Ngài cho rằng việc cải cách phụng vụ nhiều nơi đã đi sai. Những điểm sai lớn nhất là: Giờ phụng vụ thiếu sự thinh lặng, thiếu bầu khí chiêm niệm, nhất là vai trò chính của Đức Giêsu và Thánh Linh bị lấn áp bởi chủ tế và cộng đoàn. Ngài chỉ trích thói quen nhiều nơi biến giờ phụng vụ thành giờ dạy và khảo giáo lý, hay thành giờ thông tin. Qua những ý kiến của Đức Hồng Y, tôi ghi lại mấy điểm chính dành cho tôi, cho các linh mục và các cộng đoàn, khi làm việc phụng vụ. Đó là khi làm phụng vụ, chúng ta phải kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và Thánh Linh. Chính Đức Kitô nhờ Thánh Linh ca ngợi Chúa Cha, bằng việc hiến dâng chính bản thân mình, và phó thác trọn vẹn mình để thực thi ý Cha. Và ý Cha là mọi người hãy trở nên giống Ngài là Tình yêu, một tình yêu cứu độ và hiệp nhất. Để đạt được mục đích đó trong phụng vụ, chúng ta phải tỉnh thức và cầu nguyện nhiều lắm. Nếu không, việc phụng vụ sẽ dễ đi sai. Áp dụng thứ hai là về sự chọn lựa đúng con đường tu đức, sống đạo và truyền đạo. Thực vậy để thực thi ơn được sai đi làm chứng cho Chúa, chúng ta cần tỉnh thức và cầu nguyện rất nhiều. Trong gần 20 cuốn sách viết về tu đức, Đức Hồng Y Carlo Maria Martini, Tổng Giám mục Milan, đã nhấn mạnh rất nhiều đến việc phải chọn đúng những con đường Chúa muốn. Bởi vì trên thực tế, có những con đường chúng ta coi là tốt, và chúng ta tưởng là có khả năng làm sáng danh Chúa, bênh Hội Thánh, cứu độ các linh hồn và thánh hoá chúng ta, nhưng trước mặt Chúa những con đường đó lại không được coi là tốt, hơn thế nữa, chúng lại bị Chúa coi là gây hại cho Nước Trời và phản lại Tin Mừng. Vì thế, chúng ta sẽ phải chọn lựa không phải giữa cái tốt và cái xấu, mà sẽ phải chọn lựa cái đúng hơn giữa hai cái cùng coi như tốt cả. Nếu không tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta sẽ không chọn lựa đúng. Áp dụng thứ ba là về dự báo tôn giáo. Thực vậy, nếu cuộc sống đức tin là một chuyến đi dài qua lịch sử, thì rất cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Tạp chí “Christus”, trong số đặc biệt nói về Tỉnh thức (số 163, 7-1994), các tác giả đã nhấn mạnh nhiều đến việc người hoạt động tôn giáo phải hết sức tỉnh thức trước các biến chuyển của thời cuộc, để nhận ra những dấu chỉ thời đại, những báo hiệu về thời cơ và các nguy cơ, các “cơn bão và các nạn lụt” sẽ tràn vào tôn giáo. Thời sự mỗi ngày có bề dày của nó, phải nhìn sâu vào bề dày đó. Cũng như dưới sự ổn định bề ngoài giống mặt nước phẳng lặng, có thể có những dòng nước ngầm nguy hiểm. Nếu không tỉnh thức và cầu nguyện, để chuẩn bị ngang tầm với các thách đố, thì khi các biến cố xảy ra, hoặc bất ngờ hoặc dần dần, đời sống tôn giáo sẽ không tránh được những đổ vỡ, như lời Đức Kitô đã nói tiên tri về đền thờ Giêrusalem. Trên đây là một chia sẻ thân tình trong đức tin. Ước mong chia sẻ này sẽ giúp phần nào trong việc sống đức tin tại Việt Nam hôm nay. Lễ cung hiến và khánh thành nhà thờ Nam Hoà, Tp. HCM, ngày 18-03-1998
Hôm nay, được gặp lại anh chị em giáo xứ Núi Tượng tôi thật vui mừng. Chỉ nhìn sơ qua thôi tôi cũng đã thấy bộ mặt giáo xứ Núi Tượng có thêm nhiều nét đẹp mới. Điều làm cho tôi vui mừng hơn cả là mặc dù hoàn cảnh vật chất có nhiều khó khăn, anh chị em không những không để cho cuộc đời của mình tụt xuống mà còn cố gắng làm cho cuộc đời của mình, vật chất và tinh thần vươn lên. Ở đây, cuộc sống vươn lên một chút thôi cũng đã đáng mừng lắm rồi. Trong một hoàn cảnh khó khăn, nhiều giới hạn, một bước tiến nhỏ mà thôi, cũng phải kể như một thành công lớn. Khi nhìn thấy anh chị em mặc dầu nghèo mà đã đạt được nhiều thành công coi như lớn như vậy, tôi tự hỏi mình: điều gì đã giúp anh chị em vươn lên được đôi chút, thành công được bên trong, bên ngoài như vậy? Câu trả lời tôi nhìn thấy là: vì cha xứ ở đây, vì anh chị em ở đây đã biết phấn đấu. Phấn đấu với ngoại cảnh, phấn đấu với chính mình, phấn đấu cách nghiêm chỉnh, phấn đấu một cách đạo đức. Tôi dám chắc rằng, nếu anh chị em ở đây không chịu phấn đấu mà cứ sống buông trôi an phận để tìm gặp những cá nhân thì chắc chắn cuộc sống không bao giờ lên được. Và tôi cũng chắc rằng cho dù anh chị em có phấn đấu, nhưng phấn đấu mà không khôn ngoan thì cũng không đạt được kết quả. Hiện nay nhìn chung tình hình đất nước, nhìn chung tình hình các gia đình khắp họ đạo, tôi thấy trong phấn đấu cần phải có sự khôn ngoan. Và đây là điều tôi muốn dừng lại để chia sẻ với anh chị em đôi chút. Cần phải phấn đấu, nhưng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan đó chúng ta có thể nhìn thấy ngay ở trong thiên nhiên, hòn đá chúng ta để ở ven mái hiên, để thế nào thì nó vẫn như vậy. Nhưng trái lại một cây ta trồng xuống, khi nó mọc lên mà gặp trở ngại thì tự nó tránh trở ngại, lách mình để tìm tới chỗ có ánh sáng, có nước và có khoảng trống để có thể mọc lên và phát triển. Cây cỏ dường như có khôn ngoan, vì nó biết lách, tránh những trở ngại, tìm nguồn nước, tìm ánh sáng, tìm đến chỗ rộng để mọc lên và phát triển. Chúng ta nhìn những con cá ở dưới kênh. Khi gặp cạn, nó bỏ chỗ đó, để đến với những chỗ có nhiều nước, có nhiều thức ăn. Con cá cũng được coi như có sự khôn ngoan. Biết thích nghi, biết tìm tòi để có thể bảo toàn sự sống và phát triển nòi giống của mình. Loài người còn hơn là cây, còn hơn là cá, còn hơn là súc vật. Chúa ban cho ta có trí khôn, để nhìn xa thấy rộng biết tính toán, biết cân nhắc, để rồi có thể khôn ngoan mà tiến bước. Cho nên sự khôn ngoan chúng ta thấy ngay ở trong thiên nhiên. Nó ở trong đầu, ở trong lòng, ở trong kinh nghiệm của chúng ta. Chỉ cần biết vận dụng những nguồn lực đó vào cách chúng ta phấn đấu để tiến lên. Rồi sự khôn ngoan chúng ta có thể học ở những người chung quanh. Thời nay, thời kinh tế thị trường tự do, chúng ta phải học kinh nghiệm của người khác rất nhiều. Tôi mới gặp một người phụ nữ, bà có chồng là người Phật giáo. Bà có ông nội, bà nội là Tin Lành. Tức là có những khó khăn về tôn giáo trong gia đình cần phải vượt qua. Không những có những khó khăn về tôn giáo, bà còn có những khó khăn về kinh tế: nhà nghèo, gặp những trở ngại trong làm ăn, bị giựt nợ, trở nên tay trắng, phải nuôi con, nuôi chồng. Nhưng nhờ khôn ngoan, bà đã tiến lên được từng bước. Bây giờ kinh tế gia đình bà rất vững, bà giúp cho ba đứa con của mình có nghề nghiệp tất cả. Bà tạo cho chúng nó có trình độ học vấn khá cao ở Đại học. Hơn thế nữa bà còn giúp cho bên nội bên ngoại trở về với Chúa. Và khi làm việc trong xã hội bà dùng cách này cách kia để lôi cuốn những người nguội lạnh bỏ đạo trở về. Tôi hỏi: “con làm cách gì để có thể thành công như vậy?” Bà nói: “Thực sự con chỉ suy nghĩ theo luật tự nhiên. Nhưng có một điều mà con hằng nhấn mạnh là con cầu nguyện rất nhiều. Trước khi làm việc con cầu nguyện, tối về nhà con cầu nguyện, dù ở Việt Nam con cầu nguyện, dù ra nước ngoài con cầu nguyện. Và con chắc chắn một điều là sức mạnh khôn ngoan đồng hành với con chính là sức thiêng của Thiên Chúa. Nhờ bám vào Thiên Chúa con đã xây dựng được cuộc sống cá nhân mình, cuộc sống gia đình mình và cuộc sống cộng đoàn xóm ngõ tương đối thành công”. Tôi nhìn những kinh nghiệm đó như là một trường dạy sự khôn ngoan. Một người đàn bà tự lực, nhưng đã thành công nhờ biết tính toán khôn ngoan và nhất là biết bám vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bám vào Thiên Chúa, cậy vào Thiên Chúa, luôn luôn xin Chúa ở bên mình để giúp cho mình làm việc cho sáng danh Chúa. Không những chúng ta học sự khôn ngoan ở trường đời, mà chúng ta còn cần phải học ở trong Kinh Thánh. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta nghe thánh Phaolô dạy: Sự khôn ngoan là hãy ở trong Đức Kitô. Nhờ Đức Kitô để trở về với Chúa Cha. Rồi trong bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Chúa cũng dạy chúng ta phải trở về với Chúa. Khi đã trở về với Chúa qua Đức Kitô, nhờ Đức Kitô thì mọi sự khác Chúa sẽ ban cho. Đó là sự khôn ngoan mà chúng ta học được ở Lời Chúa. Riêng tôi, tôi xác quyết rằng: nếu chúng ta tìm Nước Trời trên hết, tìm Chúa trên hết, rao giảng với Chúa thì như lời Chúa dạy: Mọi sự sẽ đến với chúng ta. Hãy tìm Nước Thiên Chúa trước rồi mọi sự khác sẽ đến với chúng con sau. Hãy hết lòng giao hoà với Chúa. Nếu tôi có tội, cố tình chưa về với Chúa, hãy cố gắng bỏ đi. Giao hoà với Chúa, hàng ngày cầu nguyện và tìm Chúa trong mọi công việc. Tôi chắc chắn rằng Chúa không bao giờ bỏ chúng ta đâu. Hãy nương tựa vào Chúa nhất là trong những hoàn cảnh đầy những thách đố, đầy những khó khăn, đầy những phức tạp. Anh chị em thân mến, trong thánh lễ hôm nay chúng ta cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Trong ơn Chúa Thánh Thần có ơn khôn ngoan. Xin Chúa Thánh Thần ban sức chúng ta biết khôn ngoan trong cuộc sống đời sống đạo, sống trong gia đình, sống trong xã hội. Với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể bước đi trong tương lai với một sự bình an. Tôi tin chắc rằng tương lai của chúng ta sẽ không đơn sơ đâu. Sẽ có nhiều bão tố, sẽ có nhiều bất ngờ xảy ra. Chúng ta đừng tưởng rằng những gì ta xây dựng sẽ tồn tại. Không có như vậy đâu. Sẽ có nhiều cái bất ngờ làm cho chúng ta hoảng sợ, làm cho chúng ta bỡ ngỡ. Nhưng với sự khôn ngoan mà Chúa ban cho chúng ta, nhờ Chúa Thánh Linh, thì chúng ta sẽ bước đi trong tương lai đầy những khó khăn bất ngờ đó một cách vững vàng tin tưởng, phó thác. Vì chúng ta có Chúa ở trong lòng chúng ta. Vì chúng ta có sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Amen. Lễ thêm sức tại nhà thờ núi tượng, ngày 22-03-1998.
Họ đạo Nhơn Mỹ là một cộng đoàn nhỏ và nghèo, nhưng xét về mặt phát triển các cơ sở vật chất và các sinh hoạt xã hội thì cộng đoàn nhỏ và nghèo này không những không thua kém các cộng đoàn trong giáo phận mà còn vượt lên trên nhiều cộng đoàn khác. Thành công này do nhiều yếu tố khác nhau, như sự nhiệt tình của cộng đoàn giáo dân, sự giúp đỡ của các ân nhân xa gần, sự thông cảm của chính quyền và tôn giáo bạn địa phương, nhất là sự cộng tác của các tu sĩ, rồi đến tính năng động tài khéo của các linh mục lãnh đạo. Và chúng ta biết sau cùng là sự giúp đỡ, bảo trợ và ban ơn của Thiên Chúa chúng ta. Trong vấn đề xây dựng thì sự phối hợp các yếu tố đó lại là điều kiện cần thiết để sự phát triển có thể thực hiện được tốt đẹp và mau lẹ. Trong lãnh vực phát triển những giá trị đời tự nhiên bao giờ cũng cần phải có sự phối hợp. Và sự phối hợp đó phải nhờ đến sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan tự nhiên đối với những giá trị phát triển tự nhiên. Còn trong lãnh vực phát triển những giá trị siêu nhiên, thí dụ tinh thần cầu nguyện, tinh thần khiêm tốn, tinh thần bác ái, thì phối hợp các yếu tố khác nhau lại phải nhờ đến sự khôn ngoan siêu nhiên. Sự khôn ngoan tự nhiên không đủ, có thì tốt nhưng không đủ để giúp cho một họ đạo tiến về những giá trị siêu nhiên. Hôm nay tôi muốn nói một cách mạnh mẽ hơn và rõ rệt hơn về sự khôn ngoan siêu nhiên. Bởi vì tôi nghĩ rằng, nếu trong một họ đạo, một cộng đồng đức tin mà thiếu sự khôn ngoan siêu nhiên thì rất khó phát triển những giá trị siêu nhiên. Như tôi vừa nhắc tới, tinh thần cầu nguyện, tinh thần hy sinh, tinh thần biết dấn thân trong những trường hợp khó khăn mà nếu thiếu sự khôn ngoan siêu nhiên, thì ngay những thành công tự nhiên cũng có thể trở thành nguyên do cho sự sụp đổ đạo đức. Vậy sự khôn ngoan siêu nhiên là thế nào? Ở đây tôi chỉ xin đưa ra một cách hình thành rất rõ, đó là thái độ khôn ngoan của Đức Mẹ trong lễ Truyền Tin. Qua nội dung bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe về Đức Mẹ trong dịp truyền tin. Đức Mẹ có một sự khôn ngoan siêu nhiên rất rõ, đó là biết khiêm tốn, lắng nghe tiếng gọi của Chúa. Và sau đó lại biết khiêm tốn nói lên lời xin vâng. Để có được thái độ biết lắng nghe và biết trả lời như vậy, Đức Mẹ đã phối hợp trí khôn với trái tim. Cả hai cái tài năng đó đã được Chúa Thánh Thần ban ơn đặc biệt. Chúa Thánh Thần đã chuyển vào trong Đức Mẹ để thắp sáng lên trí khôn Đức Mẹ bằng một ánh sáng mới và Chúa Thánh Thần đã chuyển vào Đức Mẹ để đốt lên trong trái tim Mẹ ngọn lửa mới. Trái tim đó, trí khôn đó phối hợp với nhau để lắng nghe tiếng Chúa. Và khi lắng nghe tiếng Chúa rồi, Đức Mẹ hiểu sứ mạng của mình. Tiếng gọi của Chúa là thế nào? Nếu không có một trái tim được đốt lên bởi Thánh Thần và nếu không có một trí khôn được thắp sáng lên bởi ánh sáng của Chúa Thánh Linh, thì sẽ không hiểu được lời Chúa gọi. Chính nhờ hai tài năng đó phối hợp lại, Đức Mẹ đã hiểu tiếng gọi của Chúa. Và sau đó đã biết trả lời xin vâng. Đó là vắn tắt sự khôn ngoan siêu nhiên mà chúng ta cần phải học và tiếp tục thi thành trong đời sống thường của chúng ta. Chúng ta tự hỏi mình xem, chúng ta có sự khôn ngoan siêu nhiên không? Theo kinh nghiệm thường, tôi có thể đưa ra một vài tiêu chuẩn để chúng ta tự xét mình. Thường thường chúng ta có cảm thấy mình được Chúa gọi về với Chúa không? Bởi vì với sự khôn ngoan siêu nhiên, chúng ta sẽ thấy trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta cũng nghe thấy tiếng Chúa gọi chúng ta về với Chúa. Và khi nhận ra tiếng Chúa gọi rồi, trong đời sống thường, trong gặp gỡ thường, chúng ta lại thấy có một sự khôn ngoan siêu nhiên giúp chúng ta đáp ứng lại lời Chúa gọi. Đó là, một đàng phải sống thân mật với Chúa qua sự cầu nguyện, qua sự chiêm niêm và một đàng, phải đi tới đồng bào chung quanh để phục vụ. Khi chúng ta có sự khôn ngoan siêu nhiên đó, chúng ta sẽ nhìn mọi sự mọi người bằng một cái nhìn rất mới. Không phải là người mới đâu, cũng không phải là cảnh mới đâu. Nhưng với sự khôn ngoan siêu nhiên chúng ta sẽ thấy mới, rất mới. Nhìn một người ta gặp, chúng ta sẽ thấy họ được Chúa yêu thương, họ được Chúa kêu mời, họ được Chúa cứu độ. Và vì vậy khi nhận thức mình được Chúa gọi về với Chúa, chúng ta cần phải nhận thức được rằng Chúa gọi chúng ta phải đến với những người xung quanh, với đồng bào của mình. Và đến với họ để đồng hành với họ, để chia sẻ đời sống của họ, để học nơi họ những cái tốt, những cái đẹp và để biết phục vụ họ. Đến bằng cách nào, phục vụ thế nào, học hỏi thế nào thì chính sự khôn ngoan siêu nhiên sẽ giúp chúng ta. Tức là lúc đó chúng ta sẽ phối hợp được ý của ta với ý của Chúa. Và chúng ta sẽ phối hợp được trái tim bốc lửa nơi ta và trí khôn thắp sáng nơi ta để ta nhìn thấy ta phải làm gì trong từng trường hợp. Càng ngày, cuộc sống càng có nhiều thách đố. Những phát triển về cơ sở, về kinh tế, về xã hội sẽ càng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên đó có khi không cần đến sự khôn ngoan siêu nhiên. Nếu chúng ta chỉ có sự khôn ngoan tự nhiên thì sẽ không đối phó được với những khó khăn bất thường và bình thường đang tới với Hội Thánh chúng ta. Cho nên hôm nay tôi muốn nhấn mạnh đến sự khôn ngoan siêu nhiên. Để với sự khôn ngoan siêu nhiên này, chúng ta có thể đi sâu hơn nữa vào tinh thần cầu nguyện, vào sự chiêm niệm. Chúng ta có thể đi sâu hơn nữa vào sự dấn thân phục vụ con người dưới những hình thức mà Chúa Thánh Linh sẽ soi sáng cho chúng ta. Cho dù sau này có thể chúng ta sẽ không thành công trong vấn đề phát triển vật chất, nhưng chúng ta sẽ thành công trong vấn đề cứu độ với Đức Kitô. Bởi vì lúc đó có thể là Thánh Linh sẽ bảo chúng ta phải chọn lựa khôn ngoan của thánh giá. Đức Kitô sẽ chịu treo lên, Đức Mẹ cũng vậy. Nhưng chính sự khôn ngoan của thánh giá, cái khôn ngoan của sự trầm lặng của Đức Mẹ sẽ là sức mạnh cứu độ Hội Thánh, cứu độ đồng bào, cứu độ nhân loại. Một lần nữa tôi xin Đức Mẹ hôm nay cầu bầu cho chúng ta có một sự khôn ngoan biết phối hợp đời sống cầu nguyện, chiêm niệm với đời sống hoạt động bên ngoài. Biết phối hợp trí khôn được Chúa Thánh Linh thắp sáng với trái tim được Chúa Thánh Linh đốt lửa nóng lên. Biết phối hợp như vậy trong các hoàn cảnh để chính đời thường của chúng ta sẽ là những bước đi về Thiên Chúa chúng ta, một Thiên Chúa yêu thương được mặc khải do chính con người của Ngài trong lễ Truyền Tin. Amen. Lễ thêm sức tại nhà thờ Nhơn Mỹ, ngày 25-03-1998
Từ đầu tháng đến giờ, tôi đã đi làm lễ tại 11 giáo xứ. Và thêm vào đó tôi đã đi thăm 10 họ đạo khác. Tới đâu tôi cũng nhận thấy có những phát triển mới như thánh đường khang trang hơn trước, khuôn viên nhà thờ sạch đẹp hơn trước, các nhà trong xứ văn minh hơn trước, trình độ học vấn nơi giới trẻ cao hơn trước, các sinh hoạt tôn giáo và xã hội được đổi mới về phẩm lẫn lượng. Hôm nay tới đây, tôi cũng nhận thấy có những phát triển mới như vậy. Tất cả những phát triển đó đều rất đáng mừng. Tuy nhiên riêng tôi, tôi muốn đi tìm một cái phát triển khác. Đó là phát triển về giữ đạo tập trung vào Đức Kitô. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về đường lối ấy. Ngài quả quyết Ngài bởi Chúa Cha mà đến. Ngài hiểu biết Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến với nhân loại. Như thế có nghĩa là sống đạo là phải tin vào Đức Kitô, Đấng Cứu Độ trần gian, là phải bước theo Đức Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến, là phải nhờ Đức Kitô để có thể hiểu được Cha trên trời, là phải cùng với Đức Kitô đi trên con đường cứu độ mặc dầu chắc chắn là con đường thánh giá, là sống đạo, là phải cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô mà đổi mới chính mình, để đến với anh chị em chia sẻ, đồng hành và lắng nghe. Khi tôi tìm sự phát triển về đường lối sống đạo tập trung vào Đức Kitô như vậy, tôi thấy đã có những bước đầu rất tốt ở nhiều nơi. Những bước đầu đó là nhiều nơi đã có thói quen đọc Lời Chúa, suy gẫm Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa; nhiều nhóm đã tập được thói quen năng đi viếng Mình Thánh, năng suy niệm, chiêm niệm trước Mình Thánh một cách tự nguyện; rồi có những người đã tập được thói quen sống hãm mình khắc kỷ, trong kỷ luật riêng cho mình, để nhẹ nhàng đi theo Đức Kitô. Tôi cũng đã thấy có nhiều cố gắng trong việc sử dụng thời giờ, sử dụng sức khoẻ, sử dụng tiền bạc, sử dụng các hoàn cảnh chung quanh để thăng tiến chính mình trở nên con Chúa và biết rao giảng Đức Kitô cho xã hội hôm nay. Tôi cũng đã nhìn thấy nhiều sự trở về mới như trở về đời sống thơ ấu thiêng liêng, trở về đời sống chiêm niệm, trở về đời sống khiêm tốn, hiền lành. Tất cả những bước đầu như tôi vừa nói tuy nó không ồn ào nhưng chắc chắn nó mang hy vọng tốt cho tương lai của Hội Thánh, cho tương lai họ đạo chúng ta. Những bước đầu đó rất quan trọng, nhưng phải kiên trì tiếp tục mãi và nuôi dưỡng bằng những thao thức thường xuyên. Chúng ta cần phải thường xuyên thao thức thuộc trọn về Đức Kitô, tôi chọn Ngài, tôi thuộc về Ngài, tôi từ bỏ mọi sự để trở nên môn đệ của Đức Kitô. Thao thức được lắng nghe lời Đức Kitô. Thao thức được bước đi theo bước chân của Đức Kitô. Thao thức được đón nhận chính Đức Kitô vào trong lòng mình. Và thao thức được cùng Đức Kitô đến với đồng bào chung quanh. Những thao thức này rất cần thiết. Vì nếu không có thao thức thì những bước đầu của chúng ta tuy tốt đấy, cũng sẽ dễ nhạt phai. Nhưng đừng quên một điều này mà kinh nghiệm anh chị em đã thấy rõ, đó là khi chúng ta có những thao thức tốt và mạnh và khi chúng ta có những bước khởi đầu tốt, đúng hướng, chúng ta vẫn phải kiên trì, cảnh giác. Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, khi Đức Giêsu bắt đầu mạc khải một điều mới về Chúa Cha thì chính những người có đạo bấy giờ đã phản đối. Không những họ phản đối, không chấp nhận, mà còn bày mưu giết Đức Kitô. Phản ứng trên đây cho chúng ta thấy rằng dân chúng thường rất bảo thủ. Nhất là dân chúng có đạo lâu đời. Họ chỉ muốn giữ những điều đã có sẵn, chỉ muốn giữ những thành kiến hẹp hòi, chỉ muốn bám vào ý riêng của mình chứ không chịu tìm thánh ý Chúa. Sự kiện bảo thủ của dân có đạo lúc ấy toan giết Đức Kitô vì Ngài mạc khải một điều quá tốt cho phép tôi nghĩ rằng trong Hội Thánh chúng ta cũng có những sức bảo thủ chống lại những sáng kiến mới của Thiên Chúa. Và sức bảo thủ chống lại Thiên Chúa cũng có ngay trong chính chúng ta. Vì thế hằng ngày chúng ta nên xét lại chính mình, chúng ta có thực sự thao thức lắng nghe, đón nhận ý Chúa không? Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ chính mình, mọi tư tưởng riêng, mọi quyền lợi riêng để chỉ đi theo thánh ý Chúa không? Thời nay tôi nghĩ rằng, nguy cơ lớn nhất của Hội Thánh là tính ù lì, là sự lười biếng, là sợ sáng kiến là, không phấn đấu. Đang khi sự dữ tiến lên dù gặp bất cứ trở ngại nào, thì sự lành trong Hội Thánh lại bị khựng lại do lười biếng, bất động, thụ động, sợ sáng kiến, thích an nhàn, an phận của chính chúng ta. Tôi tin rằng xứ đạo chúng ta có tinh thần phấn đấu cao, có một sự thao thức thường xuyên về Nước Chúa, và có những sáng kiến tốt như một bước đầu đi về Đức Kitô. Xin anh chị em tiếp tục nuôi dưỡng những thao thức ấy. Xin anh chị em tiếp tục đi theo những bước đầu đúng hướng đó. Và xin anh chị em đừng từ chối phấn đấu cho những bước tiến sau này để dõi bước Đức Kitô, nhất là để giúp cho con em chúng ta đi vào tương lai đầy những khó khăn, đầy những thách đố cho niềm tin. Với những tư tưởng này trong lễ Thêm sức hôm nay, chúng ta xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta biết tỉnh táo, để chúng ta đi vào hướng sống đạo tập trung vào Đức Kitô. Khi tôi bước vào nhà thờ này, tôi thấy tượng Đức Kitô trên cung thánh và tôi nhìn đó là biểu tượng lối sống đạo của giáo xứ chúng ta: hướng về Đức Kitô, tập trung vào Đức Kitô, bắt chước Đức Kitô, đón nhận Đức Kitô, lắng nghe Đức Kitô, sống thân mật với Đức Kitô. Xin anh chị em phát triển thêm nhất là chiều sâu. Rồi chúng ta sẽ thấy Đức Kitô chính là nơi nương tựa của chúng ta chính là sự cứu độ của chúng ta, chính là đường dẫn chúng ta về với Chúa Cha qua người Con của Ngài. Amen. Lễ thêm sức tại nhà thờ Hiệp Tâm, kinh 3b, ngày 27-03-1998
Tạp chí “Tuổi trẻ” tuần rồi có đăng một mẩu tin vắn, nhưng sẽ được suy nghĩ lâu dài. Xin chép nguyên văn : “6.000 tỉ đồng là giá trị tài sản xã hội chủ nghĩa bị thất thoát do nạn tham nhũng trong năm 1997, cao gấp 9 lần so với năm trước” (Tuổi trẻ Chủ nhật, 22-3-1998, trang 5). Đọc tin trên, tôi rất buồn tự hỏi : Đây có phải là một dấu chỉ tố cáo tình trạng đạo đức xã hội đang xuống dốc, gây thiệt hại trầm trọng cho đất nước và đồng bào không? Đang khi tôi chán nản về sự kiện tiêu cực đó, thì tôi được an ủi bởi nhiều sự kiện tích cực khác. Những sự kiện tích cực là rất đa dạng. Như những cố gắng của nhiều ấp, xã, huyện, tỉnh trong việc phát triển cơ sở hạ tầng. Như những phấn đấu của nhiều cơ quan trong việc nâng cao kinh tế, văn hoá ở nhiều địa phương. Như những công việc đạo đức của nhiều tôn giáo trong việc thăng tiến con người ở nhiều lĩnh vực. Hôm nay, niềm an ủi trong tôi lại được tăng lên, khi nhìn thấy tại đây nhiều việc đạo đức mang tính cách phục vụ cho lợi ích chung của đất nước, của đồng bào. Thực vậy, tại đây, bao nhiêu công sức, bao nhiêu vất vả, bao nhiều tiền bạc của anh chị em đã được dùng cho công ích một cách quảng đại, đúng đắn và hữu hiệu. Do những vẻ đẹp của kiến trúc, nhà thờ này và khu nhà thờ này đang góp phần vào việc đem lại cho địa phương một bầu khí văn minh có tính cách hiện đại. Do những sinh hoạt đạo đức xã hội, nhà thờ này và khu nhà thờ này đang góp phần xây dựng cho địa phương những liên đới vui tươi lành mạnh. Do tinh thần phượng tự và giáo lý, nhà thờ này và khu nhà thờ này đang góp phần vào việc đào tạo cho các người tại đây một chiều kích lương tâm hướng thiện. Do sự phối hợp với cảnh thiên nhiên nông thôn, ruộng vườn, sông nước, nhà thờ này và khu nhà thờ này đang góp phần vào việc bảo vệ và phát triển nền văn hoá Đông Nam Á nói chung, và nền văn hoá dân tộc Việt Nam nói riêng. Nói như thế có nghĩa là tôi giả thiết nhà thờ này và khu nhà thờ này được sử dụng một cách khôn khéo. Theo tôi, yếu tố căn bản làm nên sự khôn khéo đó chính là tình yêu thương. Tình yêu thương nói đây không phải là một hệ thống giáo lý, mà là cả một cuộc sống cụ thể đời thường, trong nhà thờ và ngoài nhà thờ. Tôi đã đi thăm rất nhiều nhà thờ, nhiều cộng đoàn và đã tham dự rất nhiều cuộc lễ. Thỉnh thoảng, tôi bắt gặp trong đó những cảnh không khéo chút nào. Có nơi nhà thờ thì mới, đẹp và rộng, nhưng bầu khí cộng đoàn lại không có sức hấp dẫn. Người ta lạnh lùng với nhau. Người ta dửng dưng với khách. Người ta thờ ơ với bổn phận. Người ta xa lạ cả với Chúa. Có nơi lễ lạy thì đông đảo, nhưng bầu khí thì tục hoá. Người ta ồn ào cho những phô trương. Người ta thao thức cho những tư lợi. Người ta lãng phí cho những sĩ diện. Người ta ghen tương vì những nhỏ nhen. Nhìn những cảnh không khéo đó, tôi cho rằng những nơi như thế có phát triển về tôn giáo, nhưng không phát triển về Tin Mừng. Những phát triển trong tôn giáo về cơ sở, về lễ lạy, về sách báo, về nghi thức, về nhân sự thường được coi là những phát triển tôn giáo. Nhưng phát triển tình yêu mới là phát triển Tin Mừng. Tình yêu nói đây là tình mến Chúa thực sự, và là tình thương người thực sự. Khi đã xác định rằng phát triển tình yêu mới là phát triển Tin Mừng, chúng ta thấy rõ việc gì chúng ta phải quan tâm hơn hết và phải bắt đầu từ đâu. Nơi phải bắt đầu chính là trái tim, và việc phải quan tâm hơn hết chính là yêu thương. Yêu thương như Đức Kitô đã yêu thương. Yêu thương đúng lời Đức Kitô đã truyền dạy, như điều răn mới của Ngài. Nếu chúng ta sống Tin Mừng và phát triển Tin Mừng theo hướng đó, chúng ta sẽ góp phần không nhỏ vào việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tôi xin thêm, đạo đức hoá, đất nước chúng ta. Lễ khánh thành nhà thờ Châu Long, F1, ngày 31-03-1998
Nhà thờ Tân Bùi là một công trình đẹp, đẹp về kỹ thuật kiến trúc, nhưng nhất là đẹp về tinh thần cộng đoàn. Chi phí xây dựng nhà thờ mới này tương đối cao. Tôi biết một phần là do lòng hảo tâm của các ân nhân ngoài giáo xứ giúp đỡ, nhưng phần lớn chủ yếu là do các thành phần trong phạm vi giáo xứ đóng góp. Điều đó chứng tỏ tinh thần cộng đồng của giáo xứ là cao, là mạnh. Tôi biết là mọi gia đình, mọi cá nhân trong giáo xứ điều đã góp phần đáng kể trong ngôi thánh đường này. Dù không thấy tận mắt, nhưng với đức tin, tôi có thể nhìn thấy được từng ngọn đèn thắp sáng trong mọi trái tim anh chị em trong ngôi thánh đường này để ca tụng Thiên Chúa. Kết quả tốt đẹp hôm nay gợi ý cho tôi suy nghĩ về vai trò cộng đoàn trong Hội Thánh Việt Nam tương lai. Trước hết tôi xin chia sẻ quan niệm của tôi về cộng đoàn. Yếu tố căn bản làm nên cộng đoàn không phải là một mái nhà chung, cũng không phải là một việc làm chung, càng không phải là những lề luật chung, nhưng là những con người cụ thể cùng có một cái nhìn chung, cùng nuôi dưỡng thao thức chung, cùng sẵn sáng đóng góp những cố gắng của mình để thực hiện cái nhìn chung với thao thức chung. Bất cứ một cộng đoàn nào sống động đều đã được khai sinh từ một tình yêu chung, từ một quan tâm chung, từ những bước chung đi về phía trước. Và tất cả các cộng đoàn nếu đã phát triển được cũng là do biết phát triển những thao thức mới và biết gợi lên những cái nhìn mới về tương lai. Nói như vậy có nghĩa là cộng đoàn không phát triển vì phát triển lề luật, vì phát triển cơ chế, vì phát triển hình thức. Lề luật, cơ chế, hình thức vẫn còn trong cộng đoàn nhưng thiếu thao thức, thiếu tình yêu, thiếu quan tâm chung thì cơ chế lề luật hình thức sẽ mau trở nên cằn cỗi điêu tàn. Với những quan niệm trên đây, tôi nhìn về tương lai Hội thánh Việt Nam và tôi thấy trong tương lai, Hội Thánh Việt Nam sẽ đứng trước nhiều thứ cộng đoàn khác nhau. Có những cộng đoàn được xây dựng trên cơ chế luật lệ tục truyền vững chắc, thí dụ như là cộng đoàn giáo xứ, cộng đoàn nhà tu. Tôi gọi đó là những cộng đoàn cơ chế. Nó được xây dựng do lề luật, nó có ranh giới, nó có quyền, nó có nếp. Rồi bên cạnh những cộng đoàn cơ chế đó thì có cộng đoàn được xây dựng chủ yếu là trên những thao thức chung và trên tình yêu chung. Nó có một nếp sống nhẹ nhàng nhưng đầy hấp dẫn. Tôi thí dụ trong giáo xứ có những nhóm cầu nguyện, có những nhóm chia sẻ Lời Chúa, có những nhóm tình nguyện bác ái tình người. Đây là những cộng đoàn nhẹ nhàng, không có cơ chế, không có lề luật ràng buộc. Rồi ngoài đời cũng có những cộng đoàn như vậy. Thí dụ như những cộng đoàn về kinh tế, những cộng đoàn về văn hoá, những cộng đoàn về xã hội, về du lịch, về thể dục thể thao… Hiện nay chúng ta thấy đang xuất hiện những cộng đoàn không cơ chế đó, tức là những cộng đoàn tình nguyện, nhất là nơi giới trẻ, nơi những người làm ăn, nơi những người hoạt động xã hội. Một người có thể là thành phần của nhiều cộng đoàn khác nhau. Tôi có thể là một thành phần của cộng đoàn Hội Thánh trong địa phận Long Xuyên. Nhưng đồng thời tôi cũng có thể là thành phần của Hội Nhà báo, Nhà văn trong nước, ngoài nước… Khi kiểm điểm lại sự tham gia của một người vào những thứ cộng đoàn như vậy, người ta sẽ thấy sự tham gia vào các cộng đoàn trong xã hội hôm nay là điều phải có và sẽ đem lại cho đời sống của mình sự phong phú về kiến thức, về xã hội, về văn hoá khoa học và về đạo đức. Chính vì vậy tôi nghĩ rằng khi nhìn về tương lai Hội Thánh nói chung và về một giáo xứ nói riêng, chúng ta nhớ hai điều sau đây: một là tiếp tục cùng giáo xứ của chúng ta. Nếu chỉ dựa trên sự phát triển lề luật nếp sống phong tục mà không phát triển về những thao thức thiêng liêng thì dần dần sẽ cằn cỗi. Để cho nếp sống trong cộng đoàn tôn giáo luôn luôn được đổi mới và đáp ứng được thời mới bây giờ thì cần phải đốt nóng lên những thao thức cũ và cần phải khơi dậy những thao thức mới. Không có những thao thức mới trong tâm hồn, dần dần đạo chúng ta sẽ tục hoá và nếp sống giáo xứ sẽ già nua, sẽ tàn lụi đi, và dần dần mất đi giới trẻ là những loại người đang tham gia vào các thứ cộng đồng xã hội có nhiều thách đố. Tôi có kinh nghệm rằng, một khi chúng ta đi sâu vào tình yêu Thiên Chúa, đọc sâu lời Chúa, sống thân mật với Chúa, thì tự nhiên cộng đồng giáo xứ, cộng đồng Hội Thánh trở nên hấp dẫn và trở nên tin mừng giúp cho chúng ta có thể tự hào đi trong xã hội hôm nay với niềm tin là chết cho Chúa. Thứ hai tôi muốn nói là con em chúng ta tham gia vào các cộng đoàn xã hội là điều không tránh được. Nhưng để sự tham gia vào các cộng đoàn xã hội trở nên việc làm chứng cho Tin Mừng và có ích lợi cho cá nhân mình, thì cần phải đề cao và phải được huấn luyện sâu về nhân bản, về văn học, về xã hội, nhất là về Giáo Hội. Có như vậy tương lai Hội Thánh Việt Nam sẽ đi vào. Còn nếu không, nghĩa là không dựa vào Tin Mừng, những lúc thao thức lớn trong đời mình thì tôi sợ dần dần đạo chúng ta chỉ còn là hình thức, chỉ còn giữ được do những lệnh ở trên ban xuống chứ không do tình yêu tự phát, hồn nhiên đến với Chúa và gắn bó với nhau. Như tôi nói lúc nãy tinh thần cộng đoàn của xứ Tân Bùi là rất mạnh, là rất cao. Nhưng qua cuộc lễ này, qua công việc xây dựng nhà thờ này, chúng ta cần phải hun đúc lên những thao thức mới về Tin Mừng để tinh thần cộng đoàn của chúng ta thực sự là được nuôi dưỡng bởi tình yêu Thiên Chúa, chứ không phải bởi tư lợi bề ngoài. Có như vậy, cuộc lễ hôm nay của chúng ta không những tạ ơn Chúa về tinh thần cộng đoàn trong quá khứ và hôm nay đã có, mà còn cầu xin với Chúa cho tinh thần cộng đoàn của chúng ta trong giáo xứ, trong lòng mọi người, trong lòng hết mọi giới trẻ hôm nay được mạnh hơn, được sâu hơn nhờ ngọn lửa thao thức tình yêu Thiên Chúa trong chúng ta. Lễ khánh thành nhà thờ kinh 4a, ngày 02-04-1998
Trong thánh lễ hôm nay có một sự kiện đẹp gây ấn tượng mạnh, đó là số linh mục đồng tế rất đông. Các linh mục sẽ cùng giám mục và cộng đoàn tín hữu tạ ơn Chúa Giêsu Kitô vì Bí tích Truyền Chức thánh. Nhân dịp trọng đại này, tôi suy nghĩ nhiều về ơn gọi của mình. Tôi thấy có nhiều điều phải tạ ơn Chúa, có nhiều điều phải ăn năn sám hối, có nhiều điều phải cố gắng thêm. Giờ đây, tôi chỉ xin chia sẻ một điều, mà tôi cho là rất quan trọng trong cuộc sống ơn gọi của mình. Điều đó là gì ? Thưa là khả năng tiếp nhận. Trước hết là khả năng tiếp nhận tiếng Chúa gọi từ lịch sử cụ thể của Hội Thánh, của đất nước, của địa phương mình sống. Qua kinh nghiệm, tôi thấy rằng : một yếu tố quan trọng trong ơn gọi là nghe được tiếng Chúa gọi mình. Chúa gọi chúng ta không phải từ một hoàn cảnh nào xa vời, nhưng từ những gì cụ thể của lịch sử mà mình đang sống. Lịch sử giáo phận chúng ta có những thời sự rất rõ. Thí dụ : từ mấy năm nay xuất hiện phong trào người nông thôn bỏ nông thôn đi lên thành thị để lập thân, chứ không ngược lại. Đó là một sự kiện xã hội rất rõ, có ý nghĩa, sẽ còn tiếp diễn. Thí dụ : từ mấy năm nay xuất hiện tình trạng phân hoá giữa giầu và nghèo. Có những người nghèo sẽ mãi mãi phải nghèo. Có những người giầu sẽ còn giầu thêm. Đó là sự kiện xã hội rất cụ thể, đầy thách đố, sẽ còn phát triển. Thí dụ : từ ít năm nay xuất hiện chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân, các vấn đề được chú trọng là làm giầu, là xây dựng uy tín, là tìm thành công, là tìm sung sướng, bất chấp hoặc coi nhẹ vấn đề lương tâm. Đó là sự kiện xã hội rất nổi, đáng báo động, đang lan tràn. Thí dụ : từ ít lâu nay, xuất hiện những người thiện chí, những nhóm tình nguyện, những tổ chức tự nguyện, cổ võ tình liên đới, dấn thân lo cho người nghèo, xây dựng công bình xã hội. Đó là sự kiện xã hội rất đẹp, đầy hứa hẹn, có sức hấp dẫn. Từ những sự kiện cụ thể của lịch sử đó, Chúa đã và đang gọi chúng ta. Chúng ta sẽ nghe được tiếng Chúa gọi, nếu chúng ta có một trí khôn được thắp sáng và có một trái tim được đốt nóng. Tiếng gọi ấy sẽ là hãy đi theo Chúa để đồng hành, để phục vụ, để cứu độ. Mỗi người chúng ta có nghe được tiếng Chúa gọi mình không ? Nếu nghe được, chúng ta có tiếp nhận tiếng gọi đó một cách thận trọng không ? Và chúng ta đã trả lời tiếng gọi đó thế nào trong những sáng kiến mục vụ ? Khi nhìn lại quãng đời đã qua, và xét về tiếng Chúa gọi qua lịch sử, mỗi người chúng ta, đặc biệt là các giáo sĩ, sẽ có nhiều điều phải cảm tạ Chúa, nhưng cũng có nhiều điều phải ân hận. Bên cạnh tiếng gọi từ lịch sử Hội Thánh và đất nước, còn có tiếng Chúa gọi từ tình trạng cụ thể của chính bản thân chúng ta. Tình trạng cụ thể của bản thân chúng ta là đời sống kiến thức của mình, là nếp suy tưởng của mình, là những ước muốn và tình cảm của mình, là những thói quen của mình, là những việc đạo đức của mình, là những hóc hẻm sâu kín của tiềm thức trong ta, là những bổn phận thường ngày của ta. Trong tình trạng cụ thể của bản thân ta, điều nên để ý nhất chính là phong cách : cách học hỏi, cách xây dựng liên hệ, cách nói năng, cách ăn uống, cách cầu nguyện, cách cử hành và tham dự thánh lễ, cách rao giảng Tin Mừng, v.v. Từ tình trạng cụ thể đó, Chúa gọi chúng ta nên có những sửa đổi, nên có những chuyển thức, nên có những đột phá, nên có những cố gắng phấn đấu hơn. Mỗi người chúng ta có nghe được tiếng Chúa gọi không ? Nếu nghe được tiếng Chúa gọi, chúng ta có tiếp nhận tiếng gọi đó một cách cẩn trọng không ? Và chúng ta đã trả lời tiếng gọi đó như thế nào trong tu đức ? Khi nhìn lại, mỗi người chúng ta, nhất là các giáo sĩ, chắc sẽ có nhiều điều cần cảm tạ Chúa, và cũng có nhiều điều khiến chúng ta ray rứt. Sau cùng còn có tiếng Chúa gọi từ những nơi chốn vốn được truyền thống đức tin coi là nguồn mạch sự sống, và chân lý. Những nơi chốn đó là Kinh Thánh, là phép Thánh Thể, là nội tâm thinh lặng cầu nguyện, là đường Thánh giá, là con đường hiệp thông trong Hội Thánh, là sự từ bỏ ý riêng mình, là nếp sống chay tịnh tu thân trong những ước mơ, trong những cái nhìn, trong cách ăn uống, nói năng. Chúa gọi chúng ta phải hằng ngày đọc Lời Chúa và suy gẫm Lời Chúa. Chúa gọi chúng ta phải hằng ngày chiêm niệm mầu nhiệm tình yêu trong Phép Thánh Thể. Chúa kêu gọi chúng ta phải từng ngày từ bỏ con người cũ, để sống đời sống người môn đệ Đức Kitô. Chúa gọi chúng ta phải đi qua con đường Thánh giá, để có thể được chia sẻ ơn phục sinh của Đức Kitô. Mỗi người chúng ta đã tiếp nhận tiếng gọi của Chúa thế nào? Và đã trả lời thế nào trong tu đức, mục vụ và truyền giáo ? Riêng tôi, khi nhìn lại đời mình, tôi khám phá ra sự thực này là : Nếu nghĩ rằng mình sẽ lên thiên đàng bằng chiếc thang làm bằng các nhân đức và công phúc của mình, thì đúng là một ảo tưởng. Bởi vì mình chẳng có gì đáng gọi là nhân đức và công phúc. Nhưng mình sẽ lên thiên đàng nhờ tình yêu thương xót Chúa. Từ nhận định đó, tôi cho rằng biết tiếp nhận tình yêu thương xót Chúa là việc các giáo sĩ sẽ rất quan tâm, sẽ đặc biệt rao giảng, và sẽ thường xuyên làm chứng. Tình yêu thương xót Chúa, chính là thứ dầu thánh đích thực có sức cứu độ chúng ta. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Lễ Truyền Dầu tại Đài Đức Mẹ-Tân Hiệp, ngày 07-04-1998
Thánh lễ chiều thứ năm Tuần Thánh có nhiều chi tiết đặc biệt, như nghi thức rửa chân các môn đệ, lễ nghi rước Mình Thánh về nhà tạm. Những nghi thức này là những biểu tượng đẹp, rất gợi ý. Đáp lại những gợi ý của thánh lễ chiều nay, chúng ta thường thực hành nhiều việc lành, như đi rước lễ, đi viếng Mình Thánh, gẫm suy điều răn mới của Đức Kitô là yêu thương nhau, cầu nguyện, bố thí, chay tịnh, tĩnh tâm. Những việc lành như thế giúp chúng ta hiệp thông với Đức Kitô, dọn tâm hồn mình đón nhận ơn cứu độ Người sẽ ban cho. Trong ý hướng đó, chiều nay tôi đề nghị anh chị em làm thêm một việc lành khác. Việc lành này sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong sự xây dựng bình an tâm hồn cũng như trong sự thực thi và phát triển các chương trình cứu độ của chúng ta. Việc tôi đề nghị là hãy đi sâu vào Lời Chúa Giêsu Kitô: “Lạy Cha, xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Chúa Giêsu đã cầu nguyện như thế với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu, đêm thứ năm sang ngày thứ sáu Tuần Thánh. Lúc đó lương tâm Chúa Giêsu rực sáng lên ý thức mình được sai đi cứu độ nhân loại, và ý thức đến giờ phải làm trọn sứ mạng đó, bằng thực thi những chi tiết cuối cùng. Lúc ấy Đấng Cứu Chuộc nhìn thấy hai giải pháp: Một là cứu chuộc bằng tình yêu không cần hy sinh quá mức; hai là cứu chuộc bằng tình yêu chấp nhận hy sinh đến cùng. Lương tâm Đức Kitô bị giằng co giữa hai giải pháp đó. Để giải quyết vấn đề lương tâm, Đức Kitô đã nói với Chúa Cha: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha”. Kết quả, như chúng ta đã biết, là ý Chúa Cha muốn Đức Kitô chọn giải pháp cứu chuộc bằng tình yêu chấp nhận hy sinh đến cùng. Hy sinh những gì, hy sinh ra sao, hy sinh đến mức độ nào, thì các Phúc Âm Tuần Thánh đã ghi rõ ràng. Khi nhớ lại lựa chọn của Chúa Giêsu trong đêm thứ năm Tuần Thánh xưa, tôi thấy Người muốn chúng ta hãy bước theo Người, ít là trong hướng phải đi sau đây: Một là hãy ý thức mình có bổn phận góp phần vào việc cứu độ. Cứu độ chính mình và cứu độ kẻ khác, như cứu độ gia đình mình, dân tộc của mình, Hội Thánh của mình. Cứu độ khỏi tội lỗi và các hậu quả của tội lỗi, để đón nhận được Nước Trời là nguồn sự sống, bình an, và tình thương làm nên hạnh phúc vĩnh cửu. Hai là sự góp phần vào việc cứu độ đó đòi phải có tình yêu. Tình yêu chân thành, tình yêu thực sự đối với Chúa, đối với người khác, và đối với phần rỗi linh hồn mình. Tình yêu thực sự chân thành ấy được diễn tả bằng những thao thức của lương tâm muốn yêu thương như Chúa Cha muốn, theo gương Đức Giêsu Kitô. Ba là tình yêu mà mình góp phần vào việc cứu độ sẽ phải có những hy sinh kèm theo. Trong các thứ hy sinh, Phúc Âm Tuần Thánh nhấn mạnh nhiều nhất đến hy sinh chính bản thân mình, từ bỏ cái tôi ích kỷ, chấp nhận khổ đau vì phần rỗi người khác. Ba điều nhắc nhở trên đây làm nên một hướng đi trong việc tu thân, trong việc giáo dục, trong việc truyền giáo, trong việc đào tạo lương tâm. Khi đi vào đúng hướng rồi, chúng ta cần có những bước đi cụ thể, bằng những chọn lựa cụ thể. Chính những lúc đó, chúng ta rất cần theo gương Đức Kitô, tha thiết tìm thánh ý Chúa Cha. “Lạy Cha, xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha”. Ý Chúa Cha có thể sẽ gây bất ngờ cho ta. Nhưng đừng sợ. Hãy đón nhận ý Chúa. Bởi vì chỉ có cách đó, chúng ta mới trở nên phần nào giống Đức Kitô, chúng ta mới có thể phần nào tham gia vào chương trình cứu độ của Đức Kitô, chúng ta mới có thể được chia sẻ phần nào vinh quang Phục Sinh của Đức Kitô. Lạy Cha, con xin vâng theo ý Cha, cùng với Chúa Giêsu đi vào con đường cứu độ bằng những bước đi yêu thương và hy sinh. Lễ chiều thứ năm Tuần Thánh tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 09-04-1998
Như anh chị em đã biết, tôi mới đi họp Thượng Hội Đồng các giám mục Á châu về. Thượng Hội Đồng này gồm đại diện 49 giáo hội địa phương tại các nước Á châu. Thượng Hội Đồng cũng có đủ các Hồng Y đứng đầu các Bộ của giáo triều Rôma. Đức Thánh Cha chủ toạ. Đề tài Thượng Hội Đồng là: “Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ, và sứ mạng của Ngài tại Á châu là yêu thương phục vụ, để họ được sự sống và được sự sống dồi dào hơn” (Ga 10,10). Thượng Hội đồng khai mạc ngày 19-4-1998. Trong suốt thời gian gần một tháng, chúng tôi đã trao đổi, nhất là đã cùng nhau cầu nguyện. Thượng Hội đồng đã bế mạc ngày 14-5-1998 với những định hướng rõ rệt về sống đạo và truyền giáo. Hướng căn bản nhất là yêu thương phục vụ. Trong bài giảng Thánh lễ bế mạc, Đức Thánh Cha khẳng định: “Đây là chân lý cứu độ của Chúa Giêsu đã truyền lại cho các môn đệ Người, và đây cũng là giới răn của Người, đó là: Các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12). Đức Thánh Cha nói thêm: “Hôm nay Chúa Giêsu Kitô đóng đinh và phục sinh nhắc lại cho anh em cũng những lời đó, để khích lệ anh em ra đi rao giảng Tin Mừng cho Á châu. Với tất cả mọi người anh em đáng kính trong hàng Giám mục, Đức Kitô nói: “Thầy đã chọn các con, đã cắt đặt các con, để các con ra đi mang lại nhiều hoa trái và hoa trái các con tồn tại” (Ga 15,16). Với từng người anh em, Đức Kitô nói: “Điều Thầy truyền cho con, là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17). Rồi Đức Thánh Cha tóm kết: “Sứ mạng của Hội Thánh tại Á châu là một phục vụ của tình yêu”. Để nhấn mạnh đến hướng sống đạo và truyền giáo như trên, trong thánh lễ bế mạc, ca đoàn và cộng đoàn đã hát đi hát lại lời Đức Kitô “Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Cũng cùng hướng đó, trong bài diễn văn bế mạc, Đức Hồng Y chủ tịch Hội đồng Giám mục Indonesia, đại diện Thượng Hội Đồng, đã khẳng định “Để đi vào thiên niên kỷ mới một cách có ý nghĩa, chúng tôi dốc quyết rằng chúng tôi phải trở về với Đức Kitô và giáo huấn của Người tập trung vào tình yêu”. Với một cách dứt khoát hơn, Thượng Hội Đồng đã kết thúc bản sứ điệp bằng lời cầu nguyện hướng về Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ, xin cho Hội Thánh tại Á châu trở thành một Hội Thánh phục vụ, một Hội Thánh là nữ tỳ, một Hội Thánh là đầy tớ góp phần xây dựng tại đây một nền văn minh của tình yêu. Anh chị em thân mến, Khi nhìn qua hướng sống đạo và truyền giáo trên đây được Đức Thánh Cha và Thượng Hội Đồng đề cao, chúng ta thấy an tâm và vui mừng. Bởi vì từ trước tới giờ, hướng đó đã được chọn lựa, đã được nhấn mạnh, đã được thực hiện tại giáo phận Long Xuyên này. Chúng ta thấy hướng đó đã mang lại nhiều kết quả tốt đẹp, có lợi cho dân tộc, cho đất nước, cho Hội Thánh. Chúng ta cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta chọn đúng hướng. Chúng ta sám hối vì nhiều khi chúng ta chưa thực hiện đúng hướng đó. Chúng ta dốc lòng từ nay tập trung vào hướng đó một cách sống động hơn. Xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa tình yêu của Người. Xin Thánh Tâm Chúa Giêsu chia sẻ sang trái tim chúng ta sự sống tình yêu của Người. Để chúng ta trở thành những người con ngoan của Thiên Chúa Tình Yêu, biết tận tình mến Chúa là Cha, và chân tình yêu thương phục vụ những người xung quanh, đồng bào, như Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen. Lễ sức dầu bệnh nhân, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, 1998
Trong thời gian một tháng ở Rôma, tham dự Thượng Hội Đồng các Giám Mục Á Châu, tôi đã được nghe nhiều về tình hình đạo Công giáo ở Á Châu. Nói chung, tình hình này không đáng lạc quan, bởi vì sau 2000 năm, đạo Công giáo ở Á Châu đã tiến rất chậm và tiến rất ít. Có nơi không tiến được một bước nào. Có nơi tiến, có phát triển, nhưng rồi tàn lụi. Tôi xin đưa ra đây một vài hình ảnh. Thí dụ, tại nước Apganistan, đã có một thời gian nhiều thế kỷ, nước này hầu như toàn tòng Công giáo, có tới 9 toà Giám mục, nhưng nay, mọi cái đều tàn lụi, không còn dấu vết nào tỏ rằng trước đây đã có Công giáo. Tại nước Arập Sêút, trước đây cũng có nhiều công giáo. Nhưng nay chỉ còn 4 linh mục. Và 4 linh mục đó phải cam kết không được giảng đạo và phải đăng ký như những nhân viên của các toà đại sứ ngoại quốc, ngoài ra không được hoạt động gì trong nước đó. Tại Bắc Hàn, trước đây cũng có nhiều giáo dân, bây giờ không còn một Giám mục nào, không còn một linh mục nào, không còn một tu sĩ nào. Cả nước chỉ còn một nhà thờ Công giáo, và chỉ được phép mở ngày Chúa nhật với một thánh lễ mà thôi. Nước Nhật, với 125 triệu người dân, với 20 Giám mục, với 2000 linh mục, với 10.000 tu sĩ nam nữ, nhưng cũng không tiến thêm được cái gì khác. Số giáo dân không tới 500.000 người, mà đó là một nước có nhiều phương tiện, có nhiều tiền bạc, có nhiều tự do. Đứng trước một tình hình như vậy, tôi tự nói với chính mình rằng: tình hình đạo Công giáo tại Việt Nam nói chung, và tại Long Xuyên mình nói riêng, tuy hôm nay khá tiến, khá đẹp, nhưng không vì thế mà dám chủ quan. Những gì đã xảy ra nơi này, nơi nọ ở Á Châu, cũng có thể xảy ra cho chính Việt Nam, cho chính địa phận chúng ta. Nếu chúng ta tỉnh thức quan sát các nơi, chúng ta nhiều khi cũng phải lo âu tự hỏi: 10 năm nữa, 20 năm nữa, con em chúng ta giữ đạo như thế nào đây? Lương tâm tông đồ nơi tôi, nơi các cha, nơi anh chị em nhiều khi phải ray rứt, và sự ray rứt đó là chính đáng. Tôi hỏi Chúa xem có một giải pháp nào để giúp cho tình hình đạo chúng ta, không những là được tồn tại, mà còn được phát triển trong những hoàn cảnh bất thường? Chúa trả lời tôi, và trả lời bằng bài Phúc Âm hôm nay. Giải pháp đơn giản, giải pháp vắn gọn. Đó là, hãy mến Chúa hết lòng mình, hãy yêu thương người khác như chính mình. Đó là giải pháp duy nhất có tính cách cứu độ: Cứu lương tâm mình, cứu con cháu của mình. Nhưng để sống triệt để chân lý đó, chúng ta cần phải có trong trái tim ta ngọn lửa yêu mến. Khi chúng ta có trong trái tim chúng ta ngọn lửa yêu mến, thì dù có gió, có mưa, có bão, đức tin sẽ tồn tại, sẽ ăn sâu, sẽ lan rộng. Còn nếu chúng ta không có lửa trong trái tim ta, thì tất cả những hình thức giữ đạo bề ngoài dần dần sẽ tàn lụi đi, sẽ mất ý nghĩa đi, chỉ còn cái đạo vỏ bề ngoài. Vì thế, Thượng Hội Đồng các Giám Mục Á Châu đã đưa ra quyết nghị là: để cho sứ mạng truyền giáo ở Á Châu được kết quả, thì cần có những Giám mục thánh, linh mục thánh, tu sĩ thánh, giáo dân thánh. Mà thánh là cái gì? Thánh là có lửa mến Chúa yêu người trong trái tim mình, đơn sơ chỉ có thể thôi. Khi chúng ta có lửa mến trong lòng, chúng ta là thánh. Chính vì thế hôm nay gặp anh chị em, tôi xin anh chị em hãy tự hỏi lương tâm mình, giờ đây chúng ta có lửa thực trong tâm hồn chúng ta không? Tôi nghĩ là không ai dám quả quyết mình đang có lửa mến Chúa trong lòng thực sự nồng nàn. Và chính vì thế chúng ta cần phải cầu xin. Tháng Sáu là tháng kính Trái Tim Chúa. Trái tim bốc lửa, trái tim mở ra. Xin Trái Tim Chúa chia sẻ sang chúng ta ngọn lửa yêu mến của Trái Tim Người. Hôm nay là lễ Chúa Thánh Thần, lễ thêm sức. Chúng ta không những cầu xin cho con em chúng ta, mà cũng cầu xin cho chính bản thân ta được lửa tình yêu đốt nóng lên trong lòng ta. Tôi nghĩ rằng, Chúa không làm phép lạ cho chúng ta có lửa ngay lập tức đâu. Nhưng Chúa cho chúng ta biết đón nhận, nếu chúng ta thực tâm và có thiện ý đón nhận. Tôi thí dụ ngay bây giờ đây, anh chị em đang ngồi nghe, tôi đang nói, và chúng ta, trong giây phút hiện tại, thực hiện việc đó với tất cả tình yêu mến nồng nàn. Tập trung lòng mến trong giây phút hiện tại chỉ vì Chúa, chỉ vì phần rỗi, chỉ vì đức tin, thì đó, chúng ta đã lãnh nhận lửa mến trong lòng mình. Rồi lát nữa ra về, gặp những khó khăn, những mệt mỏi, những trái ý, chúng ta hy sinh dâng cho Chúa thì chúng ta lại đón nhận lửa của Chúa chia sẻ sang chúng ta. Tóm tắt một lời, anh chị em hãy sống Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay một cách triệt để, bằng cách là: xin Chúa ban cho chúng ta lửa mến trong trái tim và giúp cho chúng ta diễn tả lửa đó bằng sự yêu mến anh chị em chung quanh chúng ta như khẩu hiệu treo ở cuối nhà thờ: “Hãy yêu thương nhau”. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn cho chúng ta nhớ được những điều Chúa nhắn gởi cho chúng ta hôm nay. Để cho chúng ta sau này khỏi ray rứt về phần rỗi con em chúng ta, trong tương lai đầy thách đố, đầy nguy hiểm và đầy thử thách. Mình là bố mẹ, là người đỡ đầu, phải ý thức và xin cho mình có lửa, để chuyển lửa đó cho con em chúng ta. Amen. Lễ thêm sức tại nhà thờ Trinh Vương, kinh a1, ngày 04-06-1998
Ngày 18-5 vừa qua, khi tôi đang ở Paris thì được tin cha cố Giuse qua đời, tôi đã điện về gởi lời chia buồn với giáo xứ và sáng ngày hôm sau, 19-5 tôi đã đi Lisieux. Lisieux là quê hương của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Tôi thường đến đó để viếng thánh nữ, vì tôi có nhiều liên hệ mật thiết với Têrêxa, nhất là vì Têrêxa Hài Đồng Giêsu là bổn mạng các nơi truyền giáo. Khi quì cầu nguyện trước thi hài thánh nữ Têrêxa, tôi có hỏi thánh nữ: “Theo thánh nữ, điều gì là quan trọng nhất cho người truyền giáo?”. Thánh nữ Têrêxa đã soi sáng cho tôi: Điều quan trọng nhất cho người truyền giáo, đó là yêu thương. Và cùng lúc ấy tôi nhìn lên bàn thờ và chung quanh thánh đường, người ta đã khắc ghi câu nói của Têrêxa: “Tên gọi của tôi là yêu thương. Yêu thương một cách hiền lành và khiêm nhường”. Những điều mà Têrêxa Hài Đồng Giêsu tâm sự với tôi hôm đó, thì ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc lại cho tôi, cho anh chị em qua bài Phúc Âm. Khi Chúa Giêsu khẳng định: Ngài là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong yêu thương. Qua kinh nghiệm của tôi, tôi thấy rằng: sở dĩ người ta được lôi cuốn đến với Đức Kitô, vì người ta thấy nơi Đức Kitô có một trái tim yêu thương, hiền lành khiêm tốn. Cũng qua kinh nghiệm này và chính là qua lời Thiên Chúa mà Thượng Hội Đồng các Giám Mục Á Châu ở Rôma mới rồi, đã nêu lên một hướng sống đạo tại Á Châu. Hướng đó rất rõ ràng. Tôi tóm lược như sau: để cho sự sống đạo tại Á Châu có chất lượng thì hãy yêu thương và phục vụ. Để cho sự sống đạo ở Á châu có sức hấp dẫn thì hãy yêu thương và phục vụ. Để cho việc truyền giáo ở Á Châu có sức thuyết phục thì cũng hãy yêu thương và phục vụ. Như vậy là rất rõ, và cái mô hình để chúng ta nhìn vào trong yêu thương phục vụ đó là chính Đức Kitô. Hãy nhìn vào Đức Kitô trong phép Mình Thánh. Hãy nhìn vào Đức Kitô trong đàng thánh giá. Hãy nhìn vào Đức Kitô trên chính cây thánh giá, để chúng ta biết thế nào là yêu thương và phục vụ lẫn nhau. Tôi thiết tưởng đây là một chân lý chúng ta cần phải khắc ghi. Trong lý thuyết chúng ta đừng quên quan điểm đó: Sống đạo, truyền đạo là hãy yêu thương, phục vụ như chính Đức Kitô đã làm gương. Còn trong thực tế hoạt động, chúng ta cố gắng làm những gì có thể được làm và làm được để chứng tỏ yêu thương và phục vụ theo gương Đức Kitô. Qua kinh nghiệm mục vụ và truyền giáo của tôi, khi chúng ta yêu thương và phục vụ theo gương Đức Kitô, luôn luôn chúng ta cảm thấy có một sự an bình trong lương tâm, có một sự thanh luyện trong tâm hồn, và có một sức đẩy chúng ta đi lên với Chúa. Và như vậy khi chúng ta nhận yêu thương và phục vụ, cũng như khi chúng ta chủ động yêu thương và phục vụ, thì có một sức thiêng của Chúa trong lòng ta để chúng ta không dừng lại cái mục đích tạm thời, là thoả mãn nhu cầu, mà còn là đi về với Chúa. Muốn được như vậy, chúng ta cần phải biết cầu xin Chúa. Xin Trái Tim Chúa đổ sang ta lửa mến của Ngài. Xin chúa chia sẻ sang ta sự sống của Ngài, để khi chúng ta phục vụ, yêu thương, cũng như khi chúng ta được phục vụ và yêu thương, chúng ta không dừng lại trong chính cái vui của chính mình, mà chúng ta vượt qua nó, đi qua cái tôi của mình, để hướng về Thiên Chúa là Cha, để cứu độ mình, cứu độ người khác. Những điều này, chỉ những ai có kinh nghiệm nội tâm và sống kết hợp với Chúa Kitô thì sẽ thấy. Những điều tôi vừa chia sẻ đòi hỏi chúng ta là trong trái tim ta cần phải có lửa kính mến, cần phải có lửa tình yêu. Lửa đó là lửa mà chính trái tim Đức Kitô đã có xưa. Cho nên khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta rước lễ, khi chúng ta tham dự các việc phụng vụ, chúng ta nài xin Chúa cho chúng ta có lửa yêu mến. Lửa đó là lửa của Trái Tim Chúa. Lửa mến trong sạch. Lửa mến nồng nàn. Lửa mến có sức thanh luyện tâm hồn và đời sống, để chúng ta trở nên nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn và vì đó chúng ta sẽ như những người chúng ta phục vụ yêu thương có thể chấp cánh mà bay lên với Chúa là Cha. Trong thánh lễ này, chúng ta xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta định hướng được sống đạo là yêu thương phục vụ như Đức Kitô đã phục vụ và yêu thương chúng ta. Amen. Lễ thêm sức tại giáo xứ Bình Châu, kinh 8a, ngày 05-06-1998
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về Chúa Thánh Thần, Ngài hứa là khi Chúa Thánh Thần đến, thì Chúa Thánh Thần sẽ dạy cho chúng ta biết nhiều về sự thực kể cả những sự thực trong tương lai. Khi nghe lời Chúa phán trên đây, tôi đã dựa vào Lời Ngài để ca tụng Ngài. Ca tụng Ngài là Đấng thương yêu đoàn chiên, sai Chúa Thánh Thần xuống để dạy chúng ta biết những sự thực, cả những sự thực về tương lai. Và dựa trên lời Ngài, tôi đã cầu xin với Chúa, hôm nay ban Chúa Thánh Thần xuống cho chúng ta, và khi Chúa Thánh Thần xuống trên chúng ta, thì xin Ngài thực hiện lời đã hứa, là cho chúng ta biết những sự thực cần thiết, kể cả những sự thực về tương lai. Và Chúa đã trả lời tôi bằng cách cho tôi liên tưởng, nhớ lại những sự thực mà tôi vừa nắm bắt trong chuyến đi dự Thượng Hội Đồng các Giám Mục Á Châu. Đó là những sự thực khá đau buồn về tình hình công giáo tại nhiều nước Á Châu. Rõ ràng nhất là về tình hình những nơi trước đây rất phồn thịnh về tôn giáo. Chẳng hạn như là những hội thánh địa phương thời các thánh tông đồ mà thánh Phaolô đã nhắc đến trong các bài thánh thư, nay còn đâu. Còn đâu Giáo Hội Giêrusalem. Còn đâu Hội Thánh Antiokia. Còn đâu Hội Thánh Êphêsô. Còn đâu Hội Thánh Syria. Còn đâu Hội Thánh Claudicea vv... Và đó là những hội thánh địa phương đã có hồi rất phồn thịnh mà các Giám mục bấy giờ là chính các tông đồ nay đã tàn lụi. Đó là sự thực Chúa muốn tôi nói lại với anh chị em. Rồi những giáo hội địa phương của thời các giáo phụ bên Phi Châu cũng rất phồn thịnh, nhưng nay hầu như không còn vết tích. Giáo hội của thánh Augustinô, Giáo hội của thánh Cyrilô, vv... không còn gì hết. Đó là những sự thực mà Chúa muốn tôi nói lại với anh chị em, để cảnh báo rằng: có những cái chắc là tốt đẹp hôm nay, nhưng chưa bảo đảm sẽ tồn tại trong tương lai. Như đã xảy ra trong quá khứ. Đó là những sự thực về lịch sử đã qua mà Chúa Thánh Thần hôm nay muốn nói lại với chúng ta. Còn những sự thực về tương lai thì sao? Trong bài Phúc Âm Chúa nói: Thánh Thần sẽ nói về những sự thực trong tương lai cho con cái Người. Vậy những sự thực đó là thế nào? Tôi nhớ lại lời Đức Kitô. Ngài nói về tương lai. Ngài nói đại khái sau này vô số người từ phương Đông, phương Tây, Nam, Bắc được đi vào Nước Trời, còn đang khi đó thì những con cái trong nhà lại bị đuổi ra. Đó là sự thực mà Đức Kitô đã báo trước trong tương lai. Đấy là những lời Chúa Thánh Thần nói cho Hội Thánh hôm nay, với mục đích là để chúng ta cảnh giác chính mình, để chúng ta đừng chủ quan về những thành công trước mắt hôm nay. Vậy trước mắt, chúng ta làm gì để tránh sự suy thoái, tàn lụi về đức tin? Chúa căn dặn: Nếu ai không trở về với Ngài, không hối cải thì không được vào Nước Trời. Mà sự hối cải, trở về với Đức Kitô và Thiên Chúa của Ngài, chính là trở về con đường bé nhỏ. Ngài khẳng định rằng nếu ai không trở nên bé nhỏ thì không được nhận vào Nước Trời. Tôi nghĩ đây là một lời cảnh giác nhưng cũng là một lời an ủi. Bởi vì trở về, là trở về với tinh thần bé nhỏ, khiêm cung, như một đứa nhỏ luôn luôn nương tựa vào cha, luôn luôn đặt trọn mọi sự nơi Cha, luôn luôn đi tìm kiếm Cha, và dù có thất vọng, dù có thất bại, dù có tận cùng, bao giờ cũng coi Cha là điểm tựa duy nhất. Hãy trở về với tinh thần bé nhỏ, khiêm cung và đặt Chúa lên hàng ưu tiên, để luôn luôn chúng ta đi tìm Chúa là Cha, để luôn luôn chúng ta cậy trông Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Tôi nghĩ rằng, nếu chúng ta giữ được tinh thần bé nhỏ đó, thì Chúa sẽ giúp cho chúng ta, cho gia đình chúng ta, cho cộng đồng chúng ta không những tồn tại mà còn được phát triển và trở nên nhân chứng về đức tin và đức mến. Khi đến đây gặp lại anh chị em, tôi mừng là anh chị em vẫn giữ được tinh thần thơ ấu, bé nhỏ, khiêm cung. Một cộng đoàn bé nhỏ, biết yêu thương nhau. Một tinh thần bé nhỏ luôn luôn đi tìm Chúa là Cha. Một thái độ bé nhỏ khiêm cung không bao giờ tự phụ với những gì mình làm được. Tôi mong rằng anh chị em với cơ chế bé nhỏ, của một họ đạo bé nhỏ, và những gia đình bé nhỏ, hãy luôn luôn trung thành với nền tu đức thánh thiện của Têrêxa Hài Đồng Giêsu, sống tinh thần bé nhỏ, thơ ngây, đơn sơ, cậy trông vào Chúa, đi tìm một mình Thiên Chúa, mọi sự khác Chúa là Cha sẽ giúp cho chúng ta sau. Đấy là những lời tôi muốn nói lại với anh chị em sau khi đã cầu nguyện với Chúa Thánh Linh để chuyển đạt cho anh chị em những sự thực về quá khứ Hội Thánh, và tiên báo những sự thực về tương lai Hội Thánh. Sẽ có những biến chuyển. Nhưng những người đứng vững, tức là những người bé nhỏ, cậy trông, bám sát vào tình thương Thiên Chúa. Mong rằng trong ngày lễ hôm nay, Chúa Thánh Thần sẽ đến với chúng ta và sẽ biến đổi chúng ta trở thành những tâm hồn khiêm cung, bé nhỏ. Và từ đó chúng ta sẽ thấy con đường thánh thiện mà lúc nãy chúng ta đã nhắc tới trong bài hát cộng đoàn. Nó đơn sơ thôi, nó chỉ là tình yêu, yêu mến Chúa hết lòng và dấn thân phục vụ yêu thương những người chung quanh. Và như vậy chúng ta không nên thánh một mình, mà là nên thánh với những người khác, nên thánh từng bước nhỏ, nên thánh với những việc làm nhỏ, nên thánh với những tâm hồn bé nhỏ. Amen. Lễ thêm sức tại nhà thờ Cồn Trên, ngày 12-06-1998.
Thánh lễ chiều nay quy tụ tất cả các linh mục giáo phận Long Xuyên. Đây là lễ đồng tế mang tính cách giáo phận. Nó đánh dấu cuộc tĩnh tâm hàng năm cuối cùng của thế kỷ 20. Vì thế mọi người chúng ta đều rất hân hoan được có mặt trong thánh lễ lịch sử này. Dù trong tình trạng nào, mỗi người chúng ta đều là người con được Cha trên trời thứ tha và chúc phúc. Nhìn về quá khứ Đất Nước và Hội thánh Việt Nam, chúng ta thấy có những ánh sáng và có những bóng tối. Lịch sử bao trùm nhiều bí nhiệm. Khi nhìn nó trong đức tin, chúng ta sẽ khám phá ra sự khôn ngoan của Chúa Quan Phòng, nhất là chúng ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Hãy cảm tạ Chúa. Hãy tin vào Chúa. Lịch sử hôm nay đang có nhiều chuyển biến. Các chuyển biến có thể dễ làm cho ta chao đảo, mất hướng. Vì thế hôm nay, tôi xin anh chị em nắm vững mấy nhận định căn bản sau đây: Chúng ta nhận định rằng: Dù bất cứ thế nào, chúng ta vẫn mãi mãi tin vào Đức Kitô là Đấng cứu độ chúng ta. Chúng ta nhận định rằng: Dù ra sao, chúng ta vẫn mãi mãi yêu thương nhau. Chúng ta coi điều răn mới của Đức Kitô là điều răn có sức cứu độ. Thực thi điều răn yêu thương là một cách làm chứng cho niềm tin đối với Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta nhận định rằng: Trong khi thực thi điều răn yêu thương, chúng ta để ý vun trồng cách đặc biệt tinh thần liên đới và lòng thương xót. Đây là cách bảo vệ những sợi dây trách nhiệm trong xã hội đang bị nguy cơ cắt đứt, do phong trào cá nhân chủ nghĩa lan tràn. Chúng ta nhận định rằng: Chúng ta vẫn tiếp tục sống bác ái trong lãnh vực thiêng liêng, trong lãnh vực vật chất, nhưng chúng ta sẽ tăng cường hơn trong lãnh vực văn hoá. Nâng cao trình độ văn hoá lên về mọi mặt. Chính chúng ta cũng phải trở nên con người có văn hoá, nhất là văn hoá Phúc Âm. Mấy nhận định trên đây sẽ là những chỉ hướng hữu ích cho chúng ta trong những tháng ngày còn lại chuẩn bị bước vào năm thánh 2000. Càng gần đến năm thánh 2000, Satan càng dồn nổ lực hắc ám của nó vào việc quấy phá công trình cứu độ của Chúa Kitô. Chúng ta cần nhận thức sự thực đó. Để đối phó chúng ta đừng quên vâng lời Đức Kitô dạy, trong kinh Lạy Cha. “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”. Hãy cầu nguyện nhiều hơn. Hãy tĩnh thức nhiều hơn. Hãy sám hối và trở về với Đức Kitô một cách thiết thực hơn. Tất cả những gì tôi vừa trình bày đòi hỏi một thiện chí dấn thân cho đức ái, một ý chí phấn đấu cho Thiên Chúa tình yêu. Thiết tưởng đó là những đặc điểm cần thiết của người môn đệ Đức Kitô tại Việt Nam hôm nay. Để làm chứng cho Đức Kitô và Niềm Hy Vọng của chúng ta. Amen. Lễ đồng tế dịp cấm phòng năm 1999 tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 28-01-1999
Khi vừa tới đây, nhìn nhà thờ mới này, tôi đã cảm tạ Chúa và ngợi khen những người đã góp phần để kết thúc công trình đạo đức này. Trong tâm tư tạ ơn và ca ngợi đó, tôi đã nghe tiếng Chúa nói thầm trong lòng tôi rằng: tất cả những ai đã góp phần để kết thúc công trình đạo đức này đều được chúc lành, và tất cả những ai đã góp phần để khởi công cũng được chúc lành, hơn nữa họ được chúc lành nhiều hơn. Điều tôi vừa nghe Chúa soi sáng trong tâm hồn tôi gợi ý cho tôi nghĩ tới những người dám khởi sự, những người can đảm bắt đầu, tất nhiên là bắt đầu và khởi sự trong những lãnh vực tốt. Tôi suy nghĩ cụ thể ngay trong việc xây dựng nhà thờ này. Trước khi xây dựng, cha sở và an chị em nhìn thấy biết bao vất vả, đã cảm thấy ngại ngùng, và anh chị em đã khởi sự giải quyết sự ngại ngùng đó bằng niềm tin thì sức mạnh từ niềm tin. Tin vào Thiên Chúa tin rằng ngôi nhà thờ mới sẽ là nơi giúp chúng ta được tái sinh, sẽ là nơi góp phần cho văn hoá địa phương, sẽ là nơi chúng ta dần dần trở nên người mới theo gương mẫu Đức Kitô. Khởi đầu như vậy từ niềm tin là một khởi đầu tốt. Rồi khi anh chị em cùng với cha sở nhìn thấy trước mắt những khó khăn mà mình phải đối đầu, anh chị em cảm thấy bất lực và anh chị em đã tìm giải quyết trong sự cầu nguyện. Khi cầu nguyện anh chị em cảm nghiệm thấy Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài sẽ đồng hành với anh chị em trong những công trình tốt đẹp, không phải cho riêng Ngài, không phải cho riêng Hội Thánh mà để phục vụ tất cả mọi người. Khởi sự bằng cầu nguyện đó là khởi sự tốt. Rồi khi anh chị em thất thân phận mình, một họ đạo bé nhỏ yếu đuối xa xôi, anh chị em cảm thấy mình lẻ loi, và anh chị em đã giải quyết sự ngại ngùng đó lẻ loi đó bằng cách nhìn vào tinh thần hiệp thông, lòng tốt của những người xung quanh ân nhân xa gần. Và anh chị em đã thấy lòng tốt thiện chí của những người xung quanh đã giúp anh chị em. Khởi đầu bằng cái nhìn và thiện chí hiệp thông của những người xung quanh đó là khởi sự tốt. Thế rồi anh chị em đã can đảm dấn thân, đã bắt tay vào việc chấp nhận hy sinh, và càng làm càng cảm thấy mình được đổi mới như là những người tiến từng bước về Nước Trời và là những người đầy tớ phục vụ nhân dân. Khởi sự như vậy, dấn thân như vậy, hy sinh như vậy chính là khởi sự tốt. Tất cả những điều tôi vừa trình bày với anh chị em đều chứng minh rằng những cái chúng ta khởi sự, đều là những việc thuộc tâm linh. Chúng ta tin, chúng ta cầu nguyện, chúng ta cậy nhờ vào lòng tốt, chúng ta chấp nhận hy sinh, những việc tâm linh đó đều vô hình, nhưng vô hình mà mang giá trị. Giá trị có sức đẩy chúng ta làm những việc lớn không phải mưu ích cho tư riêng mà mư ích cho tất cả Hội Thánh, cho tất cả địa phương, cho tất cả dân tộc. Điều tôi nói trên đây vẫn được anh chị em tiếp tục hằng ngày trong khi diễn tiến công trình xây dựng. Tôi biết là nhiều khi trước những khó khăn, anh chị em phải làm mới lại những bắt đầu, bắt đầu khi nào, bắt đầu cậy trông lại, bắt đầu dấn thân lại. Sự khởi sự những cái bắt đầu đó từng ngày, từng giờ, từng tháng đã giúp cho anh chị em tới ngày hôm nay. Giá trị của một người, một phần lớn tuỳ thuộc ở sự can đảm biết bắt đầu, biết khởi sự. Nếu chúng ta chỉ nuôi những ước vọng, chỉ nuôi những dự kiến viễn vông mà không bắt đầu, mà không khởi sự, mà không biết cách để đi vào công việc làm cụ thể thì không bao giờ đổi mới được chính mình, chẳng bao giờ đổi mới được quê hương đất nước, chẳng bao giờ làm cho Hội Thánh được tốt đẹp hơn. Phải can đảm bắt đầu, phải có khả năng khởi sự, phải biết đi những bước đầu. Đức Kitô khi đổi mới lại tôn giáo đã can đảm đưa ra một điều răn mới thay thế luật cũ, điều răn đó là hãy yêu thương nhau. Mặc dù bị chống đối, Ngài vẫn can đảm bắt đầu, rao giảng điều đó và làm gương về điều đó. Rồi thánh Phaolô cũng làm việc can đảm bắt đầu, đi theo Đức Kitô mở ra một con đường mới truyền giáo để sau này những người đi theo Ngài dám bắt đầu đi vào con đường mới. Chúng ta cũng vậy, hễ mà những người biết đầu từ từng ngày, biết khởi sự làm việc từng ngày, hôm nay đầu tháng, chúng ta quyết tâm bắt đầu những việc làm mới. Sắp sửa sang năm mới, chúng ta lại bắt đầu có những chương trình việc làm cho chính chúng ta, cho họ đạo chúng ta, cho đất nước, Hội Thánh chúng ta. Quan trọng là can đảm bắt đầu, quan trọng là khả năng bắt đầu, quan trọng là biết cách bắt đầu. Trong những suy nghĩ đó, tôi cầu chúc anh chị em, nhất là những em nhỏ hôm nay Thêm sức biết theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng để có can đảm bắt đầu làm lại cuộc đời, đổi mới bản thân để chúng ta trở thành những viên đá nhỏ góp phần xây dựng Hội Thánh, cho tổ quốc vì hạnh phúc của mỗi người. Amen. Lễ Thêm sức tại Hoà Giang ngày 01-02-1999
“Nếu tôi phải viết một cuốn sách đạo đức, cuốn sách đó sẽ dày 100 trang. 99 trang sẽ để trắng. Trang cuối cùng, tôi sẽ viết: ‘Tôi chỉ biết duy một bổn phận, đó là yêu thương’”. Lời trên đây được in trong cuốn “Hạnh phúc bằng 36 nhân đức”. Tác giả sách là Jacques Duquesne. Nhưng tác giả câu nói trên là Albert Camus. Sách mới xuất bản tháng 12 năm 1998. Ai cũng hiểu người nói và người trích dẫn không đơn giản đến mức đó. Họ nói thế, chỉ để đề cao bổn phận yêu thương. Đề cao là rất đúng. Chúa Giêsu đã truyền dạy như thế. Hội Thánh vẫn rao giảng như vậy. Mến Chúa yêu người là lược tóm toàn thể nếp sống đạo. Từ nhỏ, tôi đã thuộc lòng chân lý ấy. Nhưng chân lý ấy đã được hiểu thế nào, cảm nghiệm ra sao, thực thi cách nào. Cần xem xét lại. Tôi lợi dụng chuyến đi Rôma - Paris đầu năm 1999 mới rồi, để phần nào xem xét lại bổn phận quan trọng nhất đời mình. Trong gần một tháng, tôi phấn đấu đọc một số sách mới nhất trong năm 1998 đề cập đến bổn phận yêu thương. Về cơ sở của bổn phận yêu thương, tôi đọc trong cuốn “Thiên Chúa là Cha của tình xót thương” do Uỷ Ban Toà Thánh chỉ đạo Năm Toàn Xá 2000, (tháng 10, 1998). Về việc xây dựng Nước Tình Yêu, tôi đọc trong cuốn “Lạy Cha, nguyện Nước Cha ngự đến” của Đức Giám Mục André - Mutien Léonard, (tháng 10, 1998). Về gương mẫu yêu thương, tôi đọc trong cuốn “Thiên Chúa, Đấng toàn năng” của Jean-Pierre Batut, nói về gương thánh nữ Têrêxa Lisieux mến Chúa yêu người, (tháng 11, 1998). Về sự kính trọng những khác biệt khi yêu thương, tôi đọc trong cuốn “Còn Thầy, Thầy không kết án ai”của Lytta Basset, (tháng 9, 1998). Về sự biết thương cảm những người khổ đau, tôi đọc trong cuốn “Cảm thương, yêu đến cùng” của Odile Terra, (tháng 3, 1998). Về ơn biết cầu nguyện với Thiên Chúa tình yêu, tôi đọc trong cuốn “Lạy Cha, xin ban cho con ơn cầu nguyện” của Jean Lafrance, (tháng 01, 1998). Về những chứng từ sống động yêu thương, tôi đọc trong cuốn “Sáng tạo mùa thu” của André Sêve, (tháng 7, 1998). Về việc vun trồng tình liên đới, tôi đọc trong cuốn “Dịp cuối thiên niên kỷ, chúng ta hãy làm nên một giấc mơ” của Đức Hồng Y Carlo M. Martini, (tháng 9, 1998). Về những phấn đấu nội tâm trong bổn phận yêu thương, tôi đọc cuốn“Cầu nguyện đời mình”của Jsabelle Prêtre – Krug, (tháng 11, 1998), và cuốn “Chỉ nam cho những khó khăn đời thường”của Pierre Descouvemont, (tháng 7, 1998). Càng đọc tôi càng thấy bổn phận yêu thương là vấn đề rất mênh mông, các ý kiến đưa ra thực là phong phú. Đang khi đó, nhìn ra xã hội, tôi thấy bổn phận yêu thương là cả một thời sự đa dạng, đầy phức tạp. Có những người tốt việc tốt về yêu thương, những cơ quan từ thiện, những phong trào cứu đói giảm nghèo, những hội nghị hội thảo về hoà bình,v.v. Nhưng cũng có những xung đột đẫm máu, những tranh chấp gay gắt, những cuộc bạo động, những vụ trộm cướp, những vụ ly dị, ngoại tình, những tham ô lừa dối, những ghen tương, kiêu căng bỏ vạ cáo gian.v.v. Khi nhìn vào chính mình, tôi thấy bổn phận yêu thương là một chuỗi dài những cuộc bắt đầu. Bắt đầu rồi lại bắt đầu. Như thể giá trị của người sống bổn phận yêu thương chỉ là có can đảm bắt đầu, có khả năng bắt đầu lại, biết khiêm tốn tiếp tục bắt đầu mãi mãi. Cách đây gần 4 chục năm, tôi đã làm hai luận án ở Đại Học Fribourg, Thuỵ Sĩ. Cả hai đều đề cập đến tình yêu: “Nguồn gốc của tình yêu” và “Nguồn gốc đau khổ của tình yêu”. Nội dung thuộc triết lý của tình yêu. Để làm hai luận án đó, tôi đã đọc khá nhiều sách. Lâu nay, những khi có dịp, tôi tìm đọc thêm các sách triết về tình yêu. Tôi thấy những sách triết xưa và nay về tình yêu có thể soi sáng nhiều cho bổn phận yêu thương trong lĩnh vực đạo đức. Tuần vừa qua, tôi đi thăm mấy nơi vùng sâu vùng xa. Tôi thấy cuộc sống nói chung có khá hơn trước. Nhưng nhiều người vẫn lầm than, nhiều hộ vẫn đói nghèo, nhiều nơi vẫn thiếu học, nhiều môi trường vẫn ô nhiễm trầm trọng. Tất cả cần được quan tâm. Có chính sách, luật pháp, chủ trương, nhưng nếu thiếu những tấm lòng thực sự yêu thương, thì các giải quyết sẽ chẳng sâu xa được. Yêu thương không đơn giản chút nào. Nó là một công trình phải xây dựng hằng ngày, trên mọi lãnh vực, trong mọi chiều kích. Phải học. Phải tập. Phải rèn luyện. Phải phấn đấu. Phải tìm tòi sáng tạo. Yêu thương là một giá trị tâm linh. Nó có ảnh hưởng rất lớn. Thịnh suy của một nền văn hoá, của một tôn giáo, của một dân tộc, tuỳ thuộc ở đó. Mùa xuân vĩnh cửu mỗi người cũng tuỳ thuộc ở đó. Báo Công Giáo & Dân Tộc, ngày 02-02-99
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta hãy làm ngọn đèn sáng. Lời khuyên dạy này thúc giục chúng ta hãy xem xét lại bản thân ta, gia đình ta, cộng đoàn của ta, họ đạo của ta có là những ngọn đèn sáng không. Với một lương tâm bình thường, chắc chắn chúng ta không dám nhận chúng ta là những ngọn đèn sáng. Với một lương tâm có hơn Chúa soi sáng, chúng ta không những không dám nhận mình là ngọn đèn sáng, mà còn nhận mình là ngọn đèn tù mù, có khi là ngọn đèn đã tắt và biết đâu, chúng chỉ là một đống tro tàn làm hại cho môi trường không khí chung quanh. Sự thực đó khiến chúng ta khiêm nhường nhận mình là kẻ có tội, bởi vì trong việc thực thi lời Chúa, chúng ta có nhiều thiếu sót, đã có nhiều lỗi lầm, đã có nhiều yếu đuối. Sự thực đó khiến chúng tta khiêm nhường bắt đầu sám hối, bởi vì chúng ta đã làm phiền lòng Chúa, chúng ta đã không sử dụng ơn Chúa cho nên. Sự thực đó khiến chúng ta khiêm nhường nhận ra rằng, nếu chúng ta không có ơn Chúa, chúng ta không nhìn rõ sự thực về mình, không đủ sức thực thi lời Chúa, không đủ sức sám hối đổi mới cuộc đời, không đủ sức trở nên ngọn đèn sáng. Sự cầu nguyện để có được những gì Chúa dạy hôm nay, là điều rất cần. Hãy tăng cường sự cầu nguyện dịp cuối năm, để xét mình có là đèn sáng trong 12 tháng qua hay không? Riêng đối với tôi, lời cầu nguyện với Chúa thiết thực là: Lạy Chúa, xin thương xót con vì con tội lỗi, và lời cầu nguyện với Đức Mẹ đó là: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội. Khi chúng ta khiêm tốn cầu nguyện, dần dần Chúa sẽ soi cho chúng ta thấy một số sự thực cần thiết. Sự thực thứ nhất là Chúa dẫn đưa chúng ta vào con đường đạo đức như một ơn gọi Chúa thắp lên trong chúng ta khát vọng đi theo Chúa về phương diện bác ái. Trong lòng thì Chúa thử thách ta, ngoài thì Chúa gởi đến gương sáng. Sự thực thứ hai là Chúa đòi chúng ta phải đáp ứng lại ơn gọi đó. Đáp ứng bằng việc làm, tâm tư và thái độ, chúng ta có làm như vậy không? Sự thực thứ ba chúng ta phải hết lòng tạ ơn Chúa, vì Chúa đã kêu gọi ta sống theo một lý tưởng. Sự thực bốn là biết kiểm điểm lại cuộc đời như một khai phá mới. Chúng ta đã có hướng mới, và cần phải xin Chúa thứ tha. Và sự thực sau cùng, là sau khi nhìn rõ về mình như vậy, chúng ta quyết tâm trở về với Chúa. Năm sự thực tôi vừa nói, là những lộ trình chúng ta đi về với Chúa. Chúng ta phải cố gắng đi như vậy, trong niềm tin phó thác nơi Chúa, là Cha giàu lòng thương xót. Đi một cách bình an, đi một cách thường xuyên như niềm tin của một người con bé nhỏ. Khi chúng ta trở về với Đức Kitô, để cùng với Đức Kitô trở thành ngọn đèn sáng, thì chúng ta hãy nhớ lại gương Đức Kitô, Ngài đã trở nên ngọn đèn sáng như thế nào. Hãy nhìn lên thánh giá, Đức Kitô treo trên thánh giá. Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô tuy là có bản tính Thiên Chúa như Chúa Cha, nhưng Ngài không đấu tranh để được ngang hàng với Chúa Cha, mà Ngài tự hạ, sống thân phận con người, và trong thân phận con người Đức Kitô đã vâng lời vâng lời cho đến chết, và chết trên thánh giá. Chính vì thế, tất cả mọi người và tất cả thần thánh trên trời, khi nghe tên Giêsu, đều quỳ gối và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa, là vinh danh”. Như vậy chúng ta thấy, gương Đức Kitô trở nên ánh sáng cứu độ chính là sự khiêm nhường, sự từ bỏ, rồi vâng phục ý Đức Chúa Cha. Sự tận hiến dâng mình Ngài trở nên điểm tựa của chúng ta. Ngài nói: “Những ai gồng gánh nặng hãy đến với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. (Mt 11,28-30). Đức Kitô trở nên điểm tựa, trở nên đèn sáng, không phải do của cải, không phải do chức quyền, mà do sự từ bỏ hết mọi sự, trở nên khó nghèo: Tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha, hiến mình làm lễ hy sinh, tự hiến dâng mình để cứu chuộc người khác. Chính vì thế Đức Kitô đã trở nên Đấng cứu chuộc chúng ta. Đó là đèn sáng, đó là biểu tượng. Anh chị em thân mến, năm nay là năm 1999 chuẩn bị đi vào năm Thánh năm 2000, năm kỷ niệm Đức Kitô giáng sinh cứu độ loài người. Vì thế, chúng ta cần phải tập trung vào Đức Kitô, nhìn vào Đức Kitô, Ngài trở nên Đấng cứu độ ở điểm nào? Lúc nãy anh chị em đã hát: “Xin đốt lửa...” mà lửa đó là lửa tình yêu, mà lửa tình yêu là lửa có nhiều sáng tạo, có nhiều hiến dâng. Chúng ta đang trong hoàn cảnh này có nhiều hạn chế về kinh tế, về văn hoá, nhưng một khi có tình yêu Chúa trong lòng ta, ta sẽ có sáng tạo để làm chứng nhân cho Tin Mừng, để làm chứng nhân cho Đức Kitô Đấng cứu độ. Cứu độ bằng việc làm, không phải bằng danh vọng uy tín mà bằng sức mạnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Cần phải có sự sống đó, tình yêu đó, thì mới sáng tạo được, nhất là trong thời buổi bây giờ, đầy những khoái lạc hấp dẫn, bởi tình yêu bao giờ cũng đòi hỏi những sự sáng tạo. Một lần nữa tôi cầu chúc anh chị em khi nhận ơn Chúa Thánh Thần thì tìm được những sáng kiến, những sáng tạo, để trong hoàn cảnh nhất định chúng ta biết làm chứng cho Đức Kitô, là Đấng cứu độ, là biểu tượng, là luật sống của chúng ta. Amen. Lễ Thêm sức tại Cái Đô,i ngày 07-02-1999
Cha Augustinô qua đời vào ngày cuối năm giáp tết, cha từ bỏ cuộc sống, cha từ biệt đoàn chiên, cha từ giã mọi người. Với cái chết đột ngột đầy tính từ bỏ đó, cha đã kết thúc một cuộc đời đặc biệt với nhiều từ bỏ khác nhau. Tôi nói như vậy, là vì trong những năm qua, cha Augustinô đã có những lựa chọn rất khó, những lựa chọn nhiều hy sinh, nhiều từ bỏ. Thực vậy, cha Augustinô là người đã sống nhiều năm ở ngoại quốc, bên Âu Mỹ, khi về Việt Nam đáng lẽ cha có thể tìm cho mình một cuộc sống đầy tiện nghi đầy văn minh, nhưng không thế, cha đã chọn một cuộc sống nghèo, ở một họ đạo nghèo, trong một địa phương túng thiếu. Đó là một lựa chọn, một lựa chọn nhiều từ bỏ. Cha sống lựa chọn đó, nêu gương người mục tử khó nghèo. Rồi cha Augustinô là người học cao, hiểu biết rộng, có nhiều bằng cấp đại học, đáng lẽ về vùng này cha có thể xin phục vụ ở những môi trường trí thức, nhưng không thế, cha đã vui lòng phục vụ một đoàn chiên bình dân, rất xa lạ với môi trường chuyên môn của cha. Đây là một lựa chọn, một lựa chọn đòi nhiều từ bỏ. Cha đã sống lựa chọn đó, để nêu gương người môn đệ Đức Kitô sống khiêm nhường. Rồi cha Augustinô là người mang nhiều bệnh tật nguy hiểm, cha có thể vì lý do đó xin ở nơi thành thị dễ chăm sóc cho bệnh tình, nhưng không thế cha, đã gắn bó với một đoàn chiên xa xôi, để chia sẻ thân phận người dân túng thiếu, cũng sống nnhư mọi người, đó là một lựa chọn khó, và rất khó, đòi nhiều hy sinh để cha sống tốt lựa chọn đó, để nêu gương kẻ được sai đi. Rồi cha Augustinô là người yêu mến sự sống, ngài có thể trì hoãn việc mình ra đi, nhưng không thế cha luôn luôn chuẩn bị từng ngày để ra đi, và thường xuyên sống trong tư thế sẵn sàng ra trước mặt Chúa. Đây là một lựa chọn khó đòi tỉnh thức, đòi hỏi từ bỏ, và cha đang sống lựa chọn đó một cách can đảm nêu gương trung thành và tỉnh thức. Những lựa chọn mà tôi cho là lựa chọn khôn ngoan trên đây không phải chỉ đòi hỏi hy sinh, đòi chấp nhận tất cả, mà khó nhất ở chỗ phải từ bỏ tư lợi của mình, ý riêng của mình, nhất là cái tôi của mình vì lợi ích đoàn chiên, vì vinh danh Thiên Chúa. Sở dĩ cha Augustinô đã có được những lựa chọn đó, và đã sống trung thành với những lựa chọn ấy, là vì cha luôn học ở nơi Đức Kitô. Đức Kitô là một trường học. Đức Kitô là một cuốn sách. Đức Kitô là một thầy dạy. Học nơi Đức Kitô, gặp gỡ Đức Kitô nhất là đi theo Đức Kitô. Đó là những lựa chọn rất khó, bởi vì Đức Kitô luôn đòi hỏi những người luôn đi theo Ngài phải từ bỏ. Chúa nói: “Ai muốn Ta, hãy từ bỏ mình, hãy vác thánh giá mình mà theo Ta”. Rồi Chúa quả quyết: “Ai không từ bỏ mình, ai không vác thập giá mình, thì không xứng đáng là môn đệ Ta”. Cha Augustinô đã có những lựa chọn trung thành, những từ bỏ của ngài là rất thực. Qua đời sống đầy những từ bỏ và qua cái chết sẵn sàng từ bỏ, Cha đang đánh thức lương tâm chúng ta. Trở nên môn đệ Chúa thì phải từ bỏ tội lỗi, tính mê nết xấu. Trở nên môn đệ Đức Kitô thì phải luôn luôn sẵn sàng từng giây, từng phút. Khi Đức Kitô đến, mình phải sẵn sàng ra tính sổ trước mặt Ngài. Vẻ đẹp của một người công giáo, của một người môn đệ Đức Kitô là sự từ bỏ. Ơn cứu độ đến từ thánh giá, hãy dùng những hy sinh để đào lên những con kênh thiêng liêng, chuyển ơn cứu độ vào các linh hồn. Nếu chỉ đọc kinh, chỉ đi lễ, chỉ thuộc giáo lý, mà không từ bỏ mình, không chấp nhận hy sinh từ bỏ, thì chưa phải là người đi theo Đức Kitô. Giờ đây, trong thánh lễ tưởng niệm sự hy sinh cao cả của Đức Kitô, chúng ta cùng nhau tạ ơn Chúa, vì Chúa đã cho cha Augsutinô có một cái nhìn sáng suốt, có một lựa chọn can đảm, biết từ bỏ, biết hy sinh vì phần rỗi các linh hồn. Trong thánh lễ này, chúng ta cũng hãy sốt sắng cầu nguyện cho linh hồn cha Augustinô, và trong thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chính chúng ta biết chọn sự từ bỏ, như một thái độ của người môn đệ đi theo Đức Kitô, như một lựa chọn đi vào năm Thánh 2000, và như một bước đi chắc chắn, để đi vào mùa xuân vĩnh cửu của Nước Trời. Amen. Lễ an táng Cha Augustinô Chế, kinh 2B, ngày 8-02-1999
Chúng ta đang sống những ngày cuối cùng của năm âm lịch, chúng ta cũng đang sống năm cuối cùng của thế kỷ XX. Đây là dịp chúng ta xem xét lại nếp sống đạo đức của mình. Nếp sống đạo đức của chúng ta có thực sự tốt không? Có thực sự được Chúa chấp nhận và khen thưởng không? Đó là vấn đề cần đặt ra trong những thời giờ cuối cùng của thời gian đang qua. Để giúp cho chúng ta nhìn rõ sự thực, hôm nay qua bài Phúc Am, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng, nếp sống đạo có hai mặt: mặt bên ngoài và mặt bên trong. Mặt bên ngoài là giữ những tập tục, là làm những việc theo thói quen, và mặt bên trong, là tâm tư, là lửa mến, với phương hướng của nó, với thực chất của nó, với mức độ nông, sâu của nó. Về nếp sống đạo những người thời đó, Đức Kitô hôm nay đẵ thẳng thắn nói rằng: về mặt bên ngoài thì chững chạc, kỹ lưỡng, những cái gì tập tục, thói quen đòi hỏi người ta làm đúng hết, nhưng mặt bên trong thì Chúa thấy trống rỗng, giả hình, bởi vì người ta xa Chúa, và xa con người. Xa Chúa là bởi vì thực sự không có lửa mến bên trong, mà xa con người là vì bởi vì trong lòng cũng thực sự không có lửa yêu thương. Ngay chính cha mẹ mình, họ cũng không thực tình hiếu thảo, giúp đỡ. Khi nghe những nhận xét trên đây của Đức Kitô, nhiều người chúng ta cũng tự nói với mình rằng, biết đâu những nhận xét ấy đúng cho thời đó và cũng đúng cho thời nay. Tôi nghĩ rằng: những sự nghi ngờ như vậy là một cách khởi đầu tốt. Khởi đầu khiêm nhường để đi vào sự xét mình. Khởi đầu khiêm nhường để đi vào sự sám hối. Khởi đầu khiêm tốn để đi tìm sự thực trước mặt Chúa, và khởi đầu khiêm tốn để quyết định đổi mới lại nếp sống đạo của mình. Thế nào là đổi mới lại nếp sống đạo của chúng ta. Chúng ta có thể tìm được câu trả lời trong chính bài Phúc Âm hôm nay. Đổi mới lại nếp sống đạo, là hãy đổi mới lại những liên đới của chúng ta đối với Chúa. Hãy mở lòng ra đến với Chúa, đến với Lời Chúa, đến với phép Mình Thánh, gặp gỡ chính Đức Kitô, lắng nghe thánh ý Ngài, đón nhận sự sống của Ngài, và chỉ thao thức một điều: luôn luôn thực thi thánh ý Ngài. Rồi đổi mới lại nếp sống đạo, là cũng đổi mới lại những liên hệ của chúng ta với người chung quanh, bằng cách là hãy mở lòng ra để biết nhìn người xung quanh, với một cái nhìn mới, cái nhìn bao dung của Cha trên trời, với tâm hồn tha thứ, không phải chỉ tha thứ bảy lần một ngày, mà bảy mươi bảy lần như Đức Kitô đã dạy. Liên hệ của chúng ta với người chung quanh là một liên hệ biết nâng đỡ nhau, biết thông cảm cho nhau, biết cùng nhau xây dựng ích chung, từ bỏ ích riêng. Nói tóm lại, mở lòng ra xây dựng những liên đới tốt, cái liên đới nào đã tốt, thì nên tốt hơn, những liên đới nào cần có, mà chưa xây dựng, thì xây dựng cho có. Đó là điều Chúa muốn tôi nói với anh chị em hôm nay một cách rất rõ ràng. Theo tiêu chuẩn đó, chúng ta hãy nhìn lại họ đạo chúng ta, cái kênh D của chúng ta, hạt Thốt Nốt của chúng ta, địa phận, địa phương của chúng ta xem có những liên hệ tốt không? Nói chung, tôi thấy là đâu đâu cũng có tiến triển về sự xây dựng những liên hệ tốt. Tuy nhiên, cũng có nhiều nơi chưa tốt: Trong một họ đạo, liên đới giữa gia đình với gia đình, xóm này với xóm kia. Trong một kênh, liên đới họ đạo này với họ đạo khác. Trong một hạt, liên đới các kênh với nhau, và liên đới cả hạt với Toà giám mục. Rồi tất cả chúng ta, hội thánh địa phương liên đới với xã hội, với chính quyền, với các người nghèo, với các tôn giáo bạn, với văn hoá dân tộc vv... Nhìn chung, chúng ta thấy có nơi rất tiến và tiến đúng và có nơi chưa tiến đủ hoặc có bước sai lầm. Hôm nay, ngày cuối năm, chúng ta sống trong năm cuối cùng của thế kỷ XX, phải quyết tâm làm sao đổi mới lại nếp sống đạo, bằng sự tôi vừa nói, là có một cái nhìn mở ra, để biết xây dựng những liên đới tốt, với Chúa và với con người, với xã hội, với truyền thống dân tộc. Tôi nghĩ rằng cái gì cũng phải có thời gian, phải biết kiên trì, phải có giáo dục, phải biết chờ đợi nhau, chớ không phải chúng ta muốn là thành công đâu. Lúc nãy đầu lễ, khi rước đoàn đồng tế, chúng ta hát cùng chung một bài, ngoài nhà thờ thì hát chậm nhưng trong nhà thì các em hát nhanh, mà khi vào nhà thờ rồi, chúng ta cùng chung một nhịp, điều đó gợi cho tôi nghĩ rằng, chúng ta cần phải có một thời gian, để chúng ta sửa lại những liên đới chưa hoà nhịp. Ai cũng phải ý thức điều đó. Biết nghe nhau. Biết đợi nhau. Biết hiểu nhau. Rồi dần dần chúng ta sẽ hoà hợp cùng nhịp với nhau, để có những liên đới nhịp nhàng, thông cảm sâu đậm. Như một lời chúc đầu năm mới, tôi chúc xứ đạo anh chị em được có những liên đới thực tốt, và có những liên đới thực chất với những người chung quanh, theo tinh thần Đức Kitô dạy. Nếu được như vậy thì đó là một tương lai sáng lạng đang đợi chờ chúng ta. Amen. Lễ Thêm sức tại Thanh Hải, kênh D2, ngày 09-02-1999