Trong bài Phúc Âm hôm nay (Thứ năm, tuần XX TN, Mt 22,1-14), Chúa Giêsu nói đến Nước Trời qua dụ ngôn bữa tiệc. Bữa tiệc này ám chỉ một sự quy tụ rộng rãi. Chúa mời gọi mọi người. Chúa muốn mọi người quy tụ lại, để chia sẻ bữa tiệc cao quý Chúa ban tặng. Bữa tiệc cao quý đó là hạnh phúc trường sinh, do được thông hiệp vào sự sống tình yêu của Thiên Chúa. Bài Phúc Âm cho thấy một số người được mời đã tự ý không đến, và một số đã đến, nhưng không mặc y phục xứng đáng, nên bị đuổi ra. Sự kiện này khiến chúng ta phải lo. Riêng tôi, tôi rất lo cho chính mình. Nỗi lo của tôi rất chính đáng. Bởi vì tôi biết rõ những yếu đuối, những giới hạn của tôi. Nỗi lo của tôi được giải quyết thế nào ? Hôm nay tôi xin tâm sự đôi chút với anh chị em về cách giải quyết của một số tâm hồn sống theo Lời Chúa. Cách giải quyết được soi sáng từ một Lời Chúa khẳng định: “ Những ai không trở nên giống như trẻ nhỏ, sẽ không được vào Nước Trời ... Chỉ những ai giống như trẻ nhỏ, mới được vào Nước Trời”. Như thế, bí quyết để được đón nhận vào bữa tiệc Nước Trời chính là tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Dù ở tuổi nào, dù trong chức vụ nào, tinh thần thơ ấu thiêng liêng vẫn phát triển được. Cụ thể qua những việc này: Việc thứ nhất là biết cảm tạ Chúa mọi nơi mọi lúc. Mọi nơi, bởi vì nơi nào người con Chúa cũng nhận ra tình thương của Chúa, trong vũ trụ, trong môi trường, trong mọi người, và trong lịch sử. Mọi lúc, bởi vì lúc nào người con Chúa cũng cảm thấy Chúa ở với mình. Vì mọi nơi mọi lúc đều nói về tình thương và quyền năng Chúa, nên những đớn đau, những thinh lặng, những thất bại, những lỗi lầm, sẽ không phải là tiếng nói cuối cùng. Trái lại chúng sẽ càng làm cho sức mạnh phục sinh của Chúa Giêsu được tỏ hiện một cách rõ ràng hơn trong thời gian Chúa muốn. Việc thứ hai là luôn biết rung cảm trước những vẻ đẹp mới do Cha trên trời dựng nên trong các tạo vật của Ngài. Có thể nói là Chúa không ngừng tạo dựng nên những vẻ đẹp mới, những cái hay mới, những giá trị mới. Đáng kể nhất là tâm thức con người và xã hội thời nay càng ngày càng hướng về tình liên đới, không ngừng khát vọng sự công bình, càng ngày càng ham thích vẻ đẹp tâm linh của những người làm chứng cho tám mối phúc. Tâm thức đó là do Chúa Thánh Thần. Ngài hoạt động trong các tâm hồn, không phân biệt tôn giáo. Chính Ngài đã hướng lịch sử về Đức Kitô. Biết rung cảm trước những giá trị mới, đó là dấu tâm hồn còn trẻ. Biết hăm hở với những kỳ công Chúa tạo dựng mỗi ngày, đó là một cách trẻ trung hoá tâm hồn. Việc thứ ba là luôn ham thích học hỏi thêm, không những qua Kinh Thánh, qua Hội Thánh, mà cũng qua tất cả hệ thống các trung gian mà Chúa vẫn dùng để dạy dỗ con người. Tôi thấy Chúa dạy dỗ con người qua nhiều thứ trung gian, và bằng nhiều cách. Tâm hồn thơ ấu thiêng liêng dễ nhạy bén với những tín hiệu Chúa gửi cho mình qua các trung gian, dù rất tầm thường và rất bé nhỏ. Không bao giờ trẻ thơ cho mình là đã học đủ, tâm hồn thơ ấu thiêng liêng cũng thế. Luôn học hỏi thêm. Luôn quý trọng những kiến thức mới, những kinh nghiệm mới, những sáng kiến mới. Thích sớm ổn định với một trạng thái không cần đổi mới, đó là một dấu cằn cỗi, rất phản chứng đối với tinh thần thơ ấu thiêng liêng. Sau cùng, việc thứ bốn là luôn ý thức rằng mình được sai đi làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa có nghĩa là họ làm chứng Chúa đã thương yêu họ, họ tin vào tình yêu Chúa, họ kể ra được những kỳ công của tình yêu Chúa đã làm trong sự đổi mới các tâm hồn mà họ đã thấy. Họ làm chứng là họ đã gặp gỡ Đức Kitô, Ngài đã biến đổi cuộc đời của chính họ. Bốn việc tôi vừa kể vắn tắt trên đây được tôi nhận thấy nơi anh chị em. Người nhiều, kẻ ít. Tôi hy vọng rằng, giữa một xã hội đang chuyển biến phức tạp, tinh thần thơ ấu thiêng liêng, đơn sơ, khiêm tốn, phó thác, luôn biết cảm nhận được tình thương, và luôn khát vọng một thế giới của tình thương, sẽ là một tinh thần thích hợp, để được đón nhận vào bữa tiệc thiêng liêng của Nước Trời, là bữa tiệc tình yêu giữa một Nước Trời là Nước tình yêu, bên cạnh Thiên Chúa là Tình yêu viên mãn đời đời. Amen. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Ngọc Thạch, ngày 22-08-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Nhiều khi, đến chủ toạ hoặc tham dự những cuộc lễ tôn giáo, tôi đã tự nói với chính mình: “Lễ đông, mặc đẹp, linh đình, trật tự, nhưng có Tin Mừng không? Trong những cuộc lễ đó, số người mang Tin Mừng và nhận được Tin Mừng vào khoảng bao nhiêu?”. Tin Mừng tôi nói ở đây là tình mến Chúa yêu người, thứ tình thiệt, có chất lượng, chứ không phải thứ tình giả nặng về hình thức. Bởi vì tình yêu đối với Chúa và đối với người khác mới chính là giá trị cốt lõi của đạo Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Giờ đây, chủ toạ thánh lễ trong nhà thờ nhỏ bé này, tôi nhìn anh chị em, và tôi cũng tự đặt ra cho tôi câu hỏi như trên. Và câu trả lời của tôi là: Tất cả anh chị em đều mang Tin Mừng, và đang nhận được Tin Mừng. Nhưng một điều tôi xin được nói thật với anh chị em là: Hãy phát triển Tin Mừng thêm nữa, thêm mãi. Tôi nghĩ rằng: Đã là tình yêu, dù đối với Chúa, dù đối với người khác, thì bao giờ cũng có thể phát triển và phải phát triển. Sự phát triển này được nhận thấy qua các việc làm và nhất là qua phong cách sống. Tôi xin kể vài kinh nghiệm. Trong những người tôi quen biết, có một số người đã làm tôi rất mực kính phục về sự phát triển tình mến Chúa yêu người của họ. Hình thái phát triển và mức độ phát triển được tỏ lộ qua phong cách của họ. Trước đây họ có một nếp sống rất thường. Nhưng nay họ có một nếp sống rất khác. Nay họ nói năng từ tốn và chú tâm, biểu lộ tâm tình chân thật, hài hoà. Khi phải có ý kiến về người khác, họ biểu lộ một thái độ trong sáng, thận trọng, đúng mức một cách tự nhiên, như không thừa không thiếu. Khi đề cập đến những mâu thuẫn này nọ, tôi thấy họ quan tâm đến việc chiến thắng chính bản thân họ, chứ không để ý đối chọi với ai. Tâm hồn họ như một cánh đồng tươi mát, nở rộ những hoa tình thương, không có hận thù, ganh tị, hẹp hòi. Lòng trí họ như một cõi trời tự do bát ngát, cởi mở, không bị gò ép vào những ức chế và thành kiến nào. Cái tâm của họ như một dòng suối tình thương tinh sạch luôn sẵn sàng chia sẻ với mọi người, một cách linh động và tỉnh thức. Những người như thế chính là những công trình của sự phát triển tình yêu. Tình mến Chúa yêu người thấm sâu vào con người của họ, biến đổi họ. Họ mang Tin Mừng, và loan báo Tin Mừng bằng chính phong cách sống của họ. Hôm qua, khi trao đổi vấn đề này với một giáo lý viên kinh nghiệm, họ nói với tôi một cách thành thực thế này: “Con chỉ mong cho mọi người có được một mức độ tối thiểu, đó là phát triển nhân bản, biết kính trọng sự thật, biết kính trọng kẻ khác. Nói một cách nôm na, là biết ăn ngay ở lành. Con nói thế, bởi vì, qua những tiếp xúc, con thấy nhân bản xuống cấp ở rất nhiều người, kể cả những người đáng lẽ phải làm gương về đạo đức, thánh thiện”. Phát biểu trên đây cho chúng ta thấy sự phát triển Tin Mừng đang trở thành một vấn đề cấp bách, đầy khó khăn. Nhưng những khó khăn, dù thế nào đi nữa, vẫn có thể vượt qua được, nếu chúng ta có cố gắng, biết cầu nguyện, và biết nâng đỡ nhau. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn cho chúng ta được ơn phát triển tình mến Chúa yêu người, với những sáng kiến của Người, với sức năng động của Người, với sự đổi mới của Người, nhất là với tình thương bao la của Người. Amen. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Vàm Cống - Hoà An, ngày 23-08-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Đang khi đọc bài Phúc Âm thánh lễ hôm nay, tôi tự nhiên cảm nhận thấy tiếng Chúa nói với tôi từ một câu. Câu đó thế này: “Chúa sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo công việc họ làm”. Qua dòng chữ trên đây, Chúa đã nói với tôi nhiều điều quan trọng. Tôi nghĩ là quan trọng không những cho tôi, mà cũng quan trọng cho anh chị em. Vì thế giờ đây tôi xin chia sẻ đôi điều vắn tắt. Chắc anh chị em đã biết là suốt tuần qua tôi tham dự Hội đồng Giám mục Việt Nam tại thủ đô Hà Nội. Tôi đã nhận được nhiều, từ những gì đã thấy, đã nghe, đã trao đổi, đã tiếp xúc. Đang khi tôi coi sự tiếp nhận đó là quan trọng, thì qua dòng chữ bài Phúc Âm trên đây, Chúa đã dạy tôi rằng: Điều quan trọng hơn chính là sự thực hành, Chúa để ý đến những việc làm cụ thể. “Chúa sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo công việc họ làm”. Chúa đòi hỏi việc làm tốt. Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Biết đúng, hiểu rộng là điều tốt, nhưng thực hiện những hiểu biết đó là điều tốt hơn. Sở dĩ nên nhấn mạnh đến thực hành lúc này, là vì hiện nay giữa hiểu biết giáo lý và thực hành giáo lý đang có một khoảng cách lớn. Tại nhiều nơi, nhiều người, khoảng cách đó rất rộng rất sâu. Họ biết đạo, hiểu đạo, nhưng không sống đạo. hiều người thấy nhà thờ đầy người dự lễ, đã cho rằng đó là dấu chỉ sống đạo tốt. Riêng tôi không nghĩ như vậy. Nhà thờ chỉ là một phần nhỏ của sống đạo. Phần lớn của sống đạo là cuộc sống ngoài nhà thờ, là cuộc sống giữa đời, trong gia đình, xóm ngõ. Đạo bao trùm các vấn đề liên quan đến con người, đến cuộc sống, đến xã hội. Đôi khi tôi nghĩ rằng: Nếu trong Hội Thánh, mọi người công giáo đều có một cuộc sống đạo tốt về mặt công bình, bác ái, hiền lành, khiêm tốn, trong đời thường, thì những cuộc sống đạo như thế đã là truyền giáo rồi, và Hội Thánh sẽ rất phát triển, bất chấp mọi khó khăn. Thiếu sống đạo tốt giữa đời nghĩa là thiếu chiều kích xã hội trong nếp sống đạo. Chiều kích xã hội là những đức tính xã hội, như tình liên đới, biết ơn, hiếu thảo, lịch thiệp, công bình, biết kính trọng kẻ khác, biết trọng nể những khác biệt, biết thăng tiến đồng bào, biết bảo vệ nền độc lập của đất nước, và bản sắc của nền văn hoá dân tộc, biết nhạy bén với những nhu cầu khẩn thiết của con người. Chiều kích xã hội với những đức tính xã hội đang trở thành một giá trị lớn trong tôn giáo. Thời nay, người ta quen đánh giá một tôn giáo theo thái độ của tôn giáo đó đối với con người hơn là theo thái độ của tôn giáo đó đối với Thượng Đế, thần thánh. Tôi có cảm tưởng là, một cách nào đó, chính Chúa cũng đánh giá chúng ta như thế. ở đây tôi nhớ lại những lời Chúa Giêsu nói về ngày phán xét. Chúa sẽ phán xét từng người theo những việc họ đã làm cho kẻ đói, kẻ khát, kẻ không nhà ở, kẻ không có áo mặc v.v... Khi xét về sự thực hành đạo, cả về mặt đối với Chúa lẫn mặt đối với tha nhân, tôi thấy sự thiếu sót và lỗi lầm về thực hành đang là một hiện tượng đáng ngại. Để sửa lại, người ta đưa ra nhiều biện pháp. Riêng tôi, tôi thấy đầu mối chính là trái tim. Hễ trái tim có lửa mến Chúa yêu người thực sự, thì mọi cái nhìn sẽ được đổi mới, mọi xét đoán sẽ được đổi mới, mọi hoạt động sẽ được đổi mới. Trái lại, khi trái tim đã nguội lạnh, đã xơ cứng, đã cằn cỗi, đã khép kín, để ổn định với cái tôi hẹp hòi, thì dù trí khôn có đầy ắp những tư tưởng đẹp, con người vẫn cứ ỳ ra đó. Rồi chính nếp sống ích kỶ trì trệ đó lại xúi trí khôn tạo ra những quan điểm cứng nhắc, để biện minh và bảo vệ cho nếp sống đó. Và cứ thế, đạo sẽ xuống dốc từ lý thuyết đến thực hành. Hơn nữa, nhờ lửa mến Chúa yêu người đi đôi với các việc làm, sự thực hành đạo của chúng ta mới thực sự tốt. Bởi vì, nếu làm một việc tốt, nhưng làm không do động lực tốt, thiếu ý hướng ngay thẳng, thì việc làm đó sẽ mất đi công phúc. Phải đào tạo trái tim. Phải huấn luyện trái tim. Phải đổi mới trái tim. Sao cho trái tim bốc cháy lửa mến Chúa yêu người thực sự. Tôi đã nói nguyện vọng trên đây với Chúa Giêsu. Và Người đã trả lời tôi bằng cách đưa trí khôn tôi nhìn vào thánh ý Chúa gói ghém trong lời Người đã dạy xưa: “Hãy trở nên giống như trẻ nhỏ, thì sẽ được vào Nước Trời”. Vâng, nếu trái tim của chúng ta nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn, yêu thương hơn, nhất là nên ngoan ngoãn hơn đối với Cha trên trời, thì các thực hành của chúng ta sẽ đẹp hơn nhiều, sẽ phong phú hơn nhiều. Lúc đó, trong tư thế của trẻ nhỏ, với tinh thần thơ ấu thiêng liêng, chúng ta sẽ rất vui mừng cảm tạ Chúa, khi thấy Chúa trả công cho mỗi người tuỳ theo công việc họ làm. Và theo tôi nghĩ, đối với những người giống như trẻ thơ, thì Chúa sẽ trả công cho họ, theo lòng nhân hậu vô cùng của Chúa. Lễ tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, dịp Quốc Khánh, ngày 01-09-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Kinh 7 có ba cộng đoàn lớn, cộng đoàn nào cũng có nhà thờ, nhà xứ và linh mục. Cộng đoàn nào cũng có những đổi mới. Cộng đoàn nào cũng có những phát triển, hoặc về mặt đức tin, về các hoạt động tôn giáo, hoặc về các việc từ thiện xã hội, giáo dục, hoặc về trật tự đạo đức gia đình. Riêng họ đạo chúng ta, tuy những phát triển đổi mới còn nhiều giới hạn, nhưng chúng ta cũng đã có những đổi mới đáng khen, nhất là trong việc xây dựng bầu khí đạo đức gia đình, trật tự trong họ đạo và sự bình an trong xã hội. Trước những đổi mới của kinh 7 nói chung và xứ đạo anh chị em nói riêng, tôi muốn nhắc nhở một điều mà có lẽ anh chị em cũng đã từng thấy. Đó là trong mọi đổi mới, trong mọi phát triển, chúng ta cần phải biết cân nhắc, học hỏi và nghiên cứu. Nhất là cần phải bàn hỏi với Chúa Thánh Linh, trao đổi với Đức Kitô. Bởi vì cũng như trong Phúc Âm hôm nay, Chúa nói tới những đổi mới mà Chúa không thích. Thí dụ đổi mới một cách vá víu, như lấy vải mới vá vải áo cũ. Thí dụ như đổi mới một cách vội vàng, như lấy rượu mới đổ vào bầu da cũ đã mục, đã nát, thành ra rượu mới phải đổ ra. Rồi như thí dụ đổi mới một cách kém cỏi, rượu mới gọi là mới, nhưng so sánh với rượu cũ lại không ngon bằng. Trước những thí dụ Đức Kitô đưa ra trong bài Phúc Âm hôm nay về những đổi mới, chúng ta cũng đã thấy nhiều thí dụ trước mắt để chúng ta cảnh giác. Tôi thấy có những thánh đường to lớn, xây dựng tốn phí, vừa khánh thành xong đã trở nên lỗi thời. Đang khi có những nhà thờ bé nhỏ, xây ít tốn phí, đã lâu tháng lâu năm mà vẫn giữ được những vẻ đẹp của khoa học, của bản sắc dân tộc. Tôi thấy có những họ đạo cứ tăng thêm luật lệ, làm cho giữ đạo trở nên một gánh nặng đè trên con người đã khổ vì cuộc sống. Đang khi những họ đạo khác lại phát triển đức ái, mở rộng tình liên đới, giúp cho tâm hồn con người cảm thấy Hội Thánh trong họ đạo là một gia đình yêu thương nhau. Tôi đã thấy có những họ đạo chăm chú sửa cái này sửa cái kia nhiều khi quá cái quyền của mình, làm cho sự đạo và trật tự trở nên lạc lõng. Đang khi các họ đạo khác lại để ý uốn nắn tâm hồn con người trong họ đạo, để biết mở ra, để biết đón nhận, để biết lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Như vậy có những đổi mới tốt và có những đổi mới không tốt. Cái đổi mới tốt nhất, cần nhất đó là đổi mới tâm hồn mình và đổi mới tâm hồn mình là biết trở về với Đức Kitô. Mà trở về với Đức Kitô chính là cùng với Đức Kitô làm chứng cho Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Và cùng với Đức Kitô làm chứng đạo Chúa là đạo của tình yêu. Và cùng với Đức Kitô làm chứng Hội Thánh Chúa là gia đình của tình yêu. Và cùng với Đức Kitô làm chứng nền văn minh Thiên Chúa giáo là một nền văn minh xây dựng trên tình yêu mến. Lúc nãy, khi nghe đọc bài Thánh thư nói rằng nhờ Chúa Thánh Thần mà chúng ta nhận biết Thiên Chúa là Cha. Tôi đã cầu nguyện cho tôi, cho anh chị em được biết tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha. Và cũng như trong Thánh thư đã dạy, một khi đã nhận biết mình là con của Cha trên trời thì vui lòng chấp nhận cả những số phận, những thân phận của kẻ đớn đau như Đức Kitô đã vác thánh giá. Không phải chỉ biết cảm tạ Chúa vì những ân huệ được như mình muốn, mà cũng biết cảm tạ Chúa vì những thánh giá, những khổ đau Chúa để cho mình gánh vác, Chúa để cho mình chia sẻ với Đức Kitô. Vì thế khi đến đây, nhìn chung tình hình xứ đạo, tôi đã cảm tạ Chúa vì những gì Chúa đã làm cho họ đạo chúng ta, những bề ngoài tốt đẹp cũng như những gì đang muốn mà chưa thực hiện được. Những thành công và những thất bại. Những ước mơ thành đạt và những ước mơ không sao thành đạt được. Tôi cảm tạ Chúa cho tất cả anh chị em. Nếu chúng ta biết chấp nhận những sự xảy ra như vậy với con mắt đức tin, thì tất cả đều trở nên ân sủng, tất cả đều trở nên hồng ân của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ lên Thiên đàng với Chúa không phải qua những thành công, phát triển, đổi mới của chúng ta bề ngoài, mà là trên những bước đường đi theo gót Đức Kitô. Mà Đức Kitô thì đi qua 14 đàng thánh giá. Có những thánh giá phải vác, có những vấp ngã té xuống, có những cực khổ trong lòng, có những cô đơn vắng lặng. Tất cả đều là hồng ân, tất cả đều giúp cho chúng ta bước lại gần Chúa. Hãy biết đón nhận, hãy biết cảm tạ và hãy biết cùng với Đức Kitô đi về với Thiên Chúa là Cha, rồi chúng ta sẽ thấy trong mình chúng ta có một sự ngọt ngào của Nước Trời đang đến. Bởi vì chúng ta sống, nhưng không phải là ta sống, mà là Đức Kitô sống trong chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần giúp cho mỗi người chúng ta hôm nay, không những ý thức được điều đó mà còn cảm thức được những gì Chúa hứa ban cho những tâm hồn khiêm tốn bé nhỏ. Amen. Lễ Thêm Sức tại Giáo Xứ Hải Châu, Kinh 7b, ngày 06-09-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Lễ Sinh nhật Đức Mẹ, dòng Mân Côi nhớ lại ngày sinh của chính dòng mình. Từ ngày đó đến hôm nay, dòng đã trải qua nửa thế kỶ. Nửa thế kỶ của dòng gắn liền với nửa thế kỶ của các giáo phận, nhất là giáo phận Bùi Chu, của toàn thể Hội Thánh Việt Nam, một quá khứ cũng gắn liền với quá khứ của đất nước Việt Nam. Vì thế khi tôi nhìn nửa thế kỶ của dòng, tôi thấy một lịch sử có những điểm sáng và cũng có những điểm tối, một quá khứ có những vẻ đẹp và có những vết thương, một quá khứ có những cái đã làm nên động lực phát triển cho sự hiểu biết Tin Mừng và trong quá khứ đó, cũng đã có những cái làm nên sức cản trong sự rao giảng Tin Mừng. Cái nhìn như vậy của tôi, làm cho tôi suy nghĩ, làm cho tôi băn khoăn và làm cho tôi nhức nhối. Và cái nhìn đó đã khiến tôi đặt ra một số câu hỏi cho tôi về dòng Mân Côi. Tôi tự hỏi rằng: Dòng Mân Côi của chúng ta có phải là một cái ao hồ rộng lớn, có những bờ xây đẹp đẽ cố định, với mức nước coi như ổn định, với những chất lượng dinh dưỡng của nước coi như tốt, nhưng không thay đổi. Hay là dòng Mân Côi của chúng ta là một dòng sông chảy mãi, tìm về với những cánh đồng mới, chấp nhận được những dòng nước mới và luôn luôn hướng về một tương lai xán lạn, tuy chảy âm thầm. Dòng Mân Côi của chúng ta có phải là muốn trở nên một cây cổ thụ, với những cái rễ đâm sâu vào thói quen tập quán, với những lớp vỏ cứng chồng chất trên nhau và với những cành lá làm nên bóng mát, chỉ đủ che thân cây của mình. Hay là dòng chúng ta sẽ là từng trăm, từng ngàn những cây bông hồng nhiều hương, nhiều sắc, trải rộng khắp mọi cánh đồng, đem lại tươi mát cho những kẻ nghèo khó. Rồi dòng Mân Côi của chúng ta có phải là muốn trở thành một toà nhà cao vót, nhiều tầng, để phô trương quyền lực ở những đô thị. Hay là dòng chúng ta muốn trở nên những trại lều của những kẻ hành hương đi về Nước Trời, gieo vãi Tin Mừng trên khắp nẻo đường của Giáo Hội, của quê hương chúng ta. Những câu hỏi đó cũng làm tôi suy nghĩ, cũng làm tôi băn khoăn, cũng làm tôi nhức nhối. Những câu hỏi đó, với cái nhìn đó, đánh thức lương tâm tôi và hy vọng cũng sẽ đánh thức lương tâm các chị em dòng, để chúng ta nhìn về tương lai, một tương lai nhiều thách đố. Có nhiều thách đố sẽ đến với Hội Thánh Việt Nam nói chung, và sẽ đến với các dòng và dòng chúng ta nữa. Những thách đố đó như là: Rồi đây trong xã hội, các giáo dân và cả những người không tôn giáo, có thể sẽ sống công bình bác ái hơn những người tu. Rồi đây ở ngoài xã hội, ngoài đời, nhiều giáo dân mà có thể cả những người ngoài công giáo, sẽ có những dấn thân mạnh hơn, thích hợp hơn cho việc phục vụ dân nghèo. Và rồi đây sẽ có những người có những lựa chọn quyết liệt hơn cho giá trị Tin Mừng mà không phải người tu chúng ta. Rồi đây sẽ có nhiều người giáo dân và những người ngoài công giáo, sẽ có trình độ đạo đức và trí thức hơn người tu chúng ta. Đó là những thách đố và những thách đố đó đang đến với các dòng tu. Chúng ta cần phải đối diện với những thách đố đó, không chán nản, không vội nóng nhưng phải bình tĩnh, suy nghĩ, chuẩn bị cho tương lai cá nhân mình và dòng của mình. Chuẩn bị bằng cách nào? Thưa, phải chấn hưng lại đạo đức, phải trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người. Trở về với thân phận người con bé nhỏ của Cha trên trời là Tình yêu tạo dựng. Trở về với thân phận của người môn đệ trung thành của Đức Kitô là Tình yêu cứu độ. Trở về với sứ mạng khí cụ ngoan ngoãn của Chúa Thánh Linh là Tình yêu thánh hoá. Hãy trở về với địa vị của mình, rồi hãy cố gắng có một khuynh hướng tu đức đúng Phúc Âm, đó là luôn kết hợp mật thiết với Đức Kitô, như Đức Kitô đã dạy: “Thầy là cây nho, chúng con là cành. Cành nào kết hợp với cây sẽ trổ sinh hoa trái”. Chúng ta phải kết hợp với Đức Kitô và từ đó với sự soi sáng của Chúa Thánh Linh, chúng ta sẽ biết đối phó với những thánh đố của thời đại chúng ta. Chúng ta sẽ không phải là những cây vả chỉ phát triển cành lá suông, nhưng chúng ta sẽ là những cây vả có trái như Đức Kitô mong đợi. Chúng ta sẽ là những người trinh nữ khôn ngoan, không phải là những người trinh nữ nhởn nhơ tới đâu hay đó, mà luôn luôn có trái tim tỉnh thức, biết chờ đợi Đức Kitô đến và luôn có trái tim có dầu bác ái, có lửa mến yêu. Chúng ta hãy chuẩn bị cho tương lai dòng chúng ta bằng nền tu đức của Đức Mẹ, luôn phục vụ theo thánh ý Chúa. Tôi nhấn mạnh đến phục vụ theo thánh ý Chúa, bởi vì nhiều dòng, nhiều người cứ nói rằng phục vụ Hội Thánh, phục vụ các linh hồn nhưng phục vụ không đúng thánh ý Chúa mà phục vụ theo ý của mình. Đức Mẹ phục vụ theo thánh ý Chúa, luôn nói lời xin vâng, từ bỏ chính mình, sống bé nhỏ, khó nghèo, luôn luôn trung thành với ơn gọi cộng tác vào sự cứu độ của Đức Kitô. Mẹ đi từng bước nhỏ, với những dự án nhỏ, với những việc làm nhỏ, nhưng những cái nhỏ đó đầy lửa kính mến, mến Chúa yêu người, và chỉ cần như vậy Nước Trời sẽ đến. Hôm nay, kỶ niệm 50 năm ngày sinh của dòng, tôi chỉ cầu xin làm sao cho dòng Mân Côi chúng ta biết đón nhận thánh ý Chúa, sống như Đức Mẹ, bé nhỏ, khiêm tốn và luôn luôn trung thành tuân phục thánh ý Chúa Cha, với cách sống âm thầm, kết hợp với Đức Kitô, tỉnh thức với những soi sáng của Chúa Thánh Linh. Làm như vậy thôi, rồi Chúa sẽ làm cho chúng ta. Bởi vì chúng ta làm theo thân phận người con bé nhỏ, rồi Cha trên trời sẽ làm cho chúng ta hết thảy. Xin Đức Mẹ hôm nay ban ơn đặc biệt cho dòng chúng ta, cho mỗi người chúng ta, để chúng ta tỉnh thức, vui mừng và tin tưởng vào sự Chúa lựa chọn chúng ta. Chúa lựa chọn chúng ta vì yêu thương, nếu chúng ta vẫn mãi làm con, người con bé nhỏ, thì Chúa sẽ thương hoài thương mãi. Và nếu chúng ta có những vết thương, những vấp váp, những lỗi phạm, Mẹ sẽ bầu cử với Cha trên trời, để người con được tha thứ và luôn luôn được cứu độ. Amen. Lễ KỶ Niệm 50 Năm Ngày Thành Lập Dòng Mân Côi, tại TP. HCM, ngày 08-09-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Người công giáo bình thường quen được gọi là người tín hữu, nghĩa là người có đức tin. Phương chi linh mục. Linh mục không những phải có đức tin, mà còn phải sống đức tin, phải làm chứng cho đức tin, phải rao giảng đức tin, phải truyền bá đức tin. Linh mục và đức tin gắn liền với nhau. Vì thế, khi mừng kỶ niệm thụ phong linh mục của các cha và của chính tôi, tôi thường suy gẫm về một đức tin mà Chúa muốn thấy nơi các môn đệ Chúa. Tôi nghĩ chính đức tin đó mới là yếu tố đáng mừng nhất. Vậy một đức tin mà Chúa muốn phải thế nào ? ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ một cách rất vắn tắt, nhấn mạnh đến điều căn bản. Bốn Phúc Âm và các Thánh Thư dùng từ tin 243 lần. Lần nào “tin” cũng mang một ý nghĩa hướng về Thiên Chúa. Riêng nơi thánh sử Gioan, “tin” còn có một ý nghĩa sống động rõ rệt hơn. Chẳng hạn, sau khi thuật lại phép lạ ở tiệc cưới Cana, thánh Gioan kết: “Các môn đệ tin vào Đức Kitô” (Ga 2, 11), tin ở đây có nghĩa là gắn bó với Đức Kitô. Và thí dụ, sau khi thuật lại phép lạ cho Lagiarô sống lại, thánh Gioan kết: “Nhiều người trong dân Do Thái, thấy việc Chúa Giêsu làm, đã tin vào Ngài” (Ga 11, 45), tin ở đây có nghĩa là đón nhận Chúa Giêsu. Và thí dụ, trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy” (Ga 14, 1), tin ở đây có nghĩa là thuộc về Thiên Chúa, là đi theo Đức Kitô, Đấng mà Chúa Cha sai đến. Như vậy, tin không phải chỉ là tin có Chúa, tin cũng không phải chỉ là chấp nhận một hệ thống chân lý Chúa dạy. Nhưng tin chủ yếu là đón nhận Đức Kitô, là đến với Đức Kitô, là sống với Đức Kitô, là gắn bó với Đức Kitô, là bước theo Đức Kitô. Tin như thế không ở thế tĩnh, mà ở thế động. Động còn ở chỗ bước theo Đức Kitô, đồng hành với Đức Kitô. Động còn ở chỗ luôn tỉnh thức, để lắng nghe ý Chúa, để thực hành những gì Chúa muốn. Một đức tin như vậy sẽ là một động lực phát sinh ra lửa mến nồng nàn, giúp chúng ta từ bỏ mình, để có được những việc bác ái mà Chúa Giêsu khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, như “làm ơn cho những kẻ ghét mình, chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho những kẻ vu khống cho mình... không xét đoán, không kết án... nhưng tha thứ” (Lc 6, 27t). Chỉ khi đức tin đã trở thành sống động, biến thành lửa tình yêu, nhờ gắn bó mật thiết với Thiên Chúa Tình yêu, thì người môn đệ Chúa mới có thể thực thi được lý tưởng mà Chúa đã nêu lên trong bài Phúc Âm hôm nay: “Các con hãy sống nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”. Tới đây, chúng ta đã thấy: tin là đón nhận, tin là đi tới, tin là đến với, tin là bước theo, tin là gắn bó. Đối tượng là Đức Giêsu Kitô, Đấng mà Chúa Cha sai đến. Tin như thế chính là một sự sống mới chan hoà tình yêu. Để rồi, dù cuộc đời vắn hay cuộc đời dài, với một đức tin như thế, người môn đệ Chúa vẫn sẽ là một chứng nhân cho Thiên Chúa Tình yêu. Chứng nhân bằng phong cách sống đức tin như thế. Chứng nhân bằng nhiệt tình huấn luyện mọi người thuộc về mình biết sống đức tin như thế. Chúng nhân bằng sự chính mình và những kẻ thuộc về mình luôn cố gắng phát triển một đức tin như thế, với chiều kích thần bí là sự kết hợp với Chúa càng ngày càng sâu, và với chiều kích xã hội là lòng nhân hậu bác ái càng ngày càng rộng. Chúa để ý đến phẩm chất của các việc làm đức tin hơn là số lượng việc làm của đức tin. Với những chia sẻ trên đây, tôi xin tạ ơn Chúa vì đức tin của Cha Sáu trên đoạn đường dài của quá khứ, tôi cầu xin Chúa cho đức tin của Cha Sáu trên quãng đường còn lại của tương lai. Tôi hy vọng rằng đức tin của Cha Sáu sẽ là một gương sáng cho các giáo đoàn, một khích lệ cho các anh em linh mục. Thánh lễ tạ ơn hôm nay đông đảo và sốt sắng là hình ảnh cuộc đời linh mục sống đức tin của Cha Sáu: Quy tụ đủ mọi loại người quanh phép Thánh Thể, để đến với Đức Kitô, để gặp gỡ Ngài, để gắn bó với Ngài, và rồi sau thánh lễ, ai nấy sẽ được sai đi rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng là chính Đức Kitô. Rao giảng Tin Mừng là vấn đề không những có liên quan đến phần rỗi mọi người, mà còn liên quan cách riêng đến ơn gọi của Cha Sáu và của những người mà Đức Kitô đã chọn tham gia chức vụ linh mục của Ngài, để sống đức tin một cách quyết liệt giữa xã hội hôm nay. Amen. Lễ Mừng 50 Năm Thụ Phong Linh Mục, của Cha F.x Nguyễn Văn Dương, tại Cù Lao Giêng, ngày 12-09-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy nhiều phán đoán của quần chúng đã rất sai lạc. Họ thấy thánh Gioan không ăn, không uống, thì họ phán đoán ngài là kẻ bị quỶ ám. Còn khi họ thấy Đức Kitô ăn uống, thì họ lại phê phán Ngài là kẻ tham ăn, bê bối giữa những phường tội lỗi. Đàng nào cũng bị kết án và những kẻ bị kết án lại là những vị rất thánh. Chúng ta thấy: suy nghĩ sai sự thật, nói sai sự thật, phán đoán sai sự thật, là những việc gây tai hại rất nhiều cho xã hội, cho những người xung quanh và cho chính mình. Để tránh những tai hại ấy, Chúa Giêsu đã khuyên dạy chúng ta rằng: “Đừng xét đoán để chúng con khỏi bị xét đoán. Đừng kết án để chúng con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ để chúng con sẽ được thứ tha”. Như vậy, Đức Kitô đã gài những việc bác ái của chúng ta vào chính số phận của chúng ta. Nếu chúng ta tốt với người khác, thì số phận Chúa dành cho chúng ta sẽ tốt. Bằng nếu chúng ta không bác ái với những người khác, thì Chúa sẽ lại xử với chúng ta y hệt như chúng ta đã xử tệ với những người khác. Bác ái là rất quan trọng. Vì thế Đức Kitô không những khuyên dạy ta bằng lời nói, mà cũng đã khuyên dạy ta bằng chính gương sáng của Ngài. Trong bữa Tiệc Ly, Đức Kitô đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ và Ngài giảng: “Thầy làm gương cho chúng con, để chúng con hãy làm cho nhau việc mà Thầy mới làm cho chúng con. Chúng con hãy biết rửa chân cho nhau và khi chúng con thực hiện những việc ấy, thì chúng con sẽ được hạnh phúc”. Rửa chân cho nhau đó là xoá tội cho nhau, tha thứ tội cho nhau, bằng khiêm hạ, bằng bác ái yêu thương. Đức Kitô nói: “Khi chúng con làm những việc đó thì chúng con được hạnh phúc”. Tôi coi đây là một Tin Mừng, nhất là đối với những người yếu đuối, hèn mọn, như phần đông chúng ta, trong đó có tôi. Bởi vì, nếu con đường bác ái là con đường dẫn tới hạnh phúc, thì chúng ta thấy nó đơn giản, chỉ cần chúng ta trung thành và chân thành. Nó không đòi chúng ta phải có một trí tuệ thông minh để hiểu sâu sắc mầu nhiệm này, lý tưởng kia, mà chỉ cần có một trái tim biết yêu thương, biết tha thứ, biết quảng đại, biết cởi mở, biết đón nhận. “Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. Đừng xét đoán thì sẽ khỏi bị xét đoán. Đừng kết án để khỏi bị kết án”. Dễ hiểu lắm, đơn giản lắm, không cầu kỳ gì, chỉ cần một trái tim bình thường. Đây là bí quyết Chúa ban cho chúng ta, những con người yếu đuối, để chúng ta dùng trái tim mình như một chìa khoá có thể mở nước Thiên đàng cho chính mình. Trái tim chính là chìa khoá Chúa ban cho. Vì thế mỗi ngày, buổi tối, chúng ta nên xét xem trong một ngày, chúng ta có làm gì lỗi đức bác ái đối với những người chung quanh không, trong tư tưởng, lời nói, việc làm và nhất là những phán đoán, những kết án, như Đức Kitô nói trong bài Phúc Âm hôm nay. Rồi mỗi sáng khi thức dậy, sau khi dâng mình cho Chúa và Đức Mẹ, chúng ta dốc lòng trong ngày hôm nay làm đôi việc lành về bác ái, trong lời nói, trong thái độ, trong phục vụ, trong tha thứ vv... Mỗi ngày chúng ta cố gắng làm như vậy thôi, thì dần dần chúng ta sẽ đi về con đường hạnh phúc, không phải riêng cho mình, mà chung cho cho gia đình mình, cho họ đạo của mình, cho địa phương của chúng ta. Lúc nãy tôi đến đây, thấy anh chị em lần chuỗi Mân Côi, tôi vui mừng gặp thấy họ đạo chúng ta còn giữ được một nếp sống đạo tốt lành, là năng lần chuỗi Mân Côi. Đang khi tôi vui mừng như vậy, thì Đức Mẹ soi sáng cho tôi rằng: nếu họ đạo này trung thành lần chuỗi Mân Côi và biết suy gẫm mười lăm mầu nhiệm Mân Côi theo gương bác ái của Đức Kitô và của Đức Mẹ, thì họ đạo sẽ trở thành một mô hình sống đạo tốt ở trong địa phương này. Hãy biết cảm tạ Chúa bằng cầu nguyện cộng với bác ái. Hãy biết sám hối bằng cầu nguyện cộng với bác ái. Hãy biết tuyên xưng đức tin bằng cầu nguyện cộng với bác ái. Hãy biết truyền giáo bằng cầu nguyện và bác ái. Nhìn quang cảnh thánh lễ hôm nay, tôi thấy có một bầu khí sốt sắng cầu nguyện, có một trật tự đáng khen với những bài thánh ca được cộng đoàn hát chung. Tôi cảm thấy đây là một cách cầu nguyện sốt sắng. Tôi cầu xin Chúa Thánh Thần giúp cho anh chị em biết phát triển thêm yếu tố cầu nguyện cộng với bác ái. Chúng ta cầu nguyện nhiều, nhưng chúng ta đừng quên thực hành bác ái nhiều. Hai điều đó rất cần để sống đạo, để dạy đạo, để truyền đạo, nhất là trong thời buổi này và trong địa phương chúng ta. Chỉ có cách sống bác ái và làm chứng cho Đức Kitô là Tình yêu bác ái, chúng ta mới thực sự vâng theo tiếng gọi của Chúa, để sống làm con Thiên Chúa giữa trần gian. Và như chúng ta mới hát lúc nãy là: Chúng con sẽ nên nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất, chúng ta sẽ là nhân chứng bằng cầu nguyện, bằng lòng tin và nhất là bằng bác ái. Xin Chúa Thánh Thần giúp cho anh chị em, cho chúng ta hết thảy, hiểu được bài học bác ái và nhất là có thiện chí và có sức thực hành đức bác ái trong đời thường của mình. Amen. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Phú An, ngày 18-09-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hôm nay có một quy tụ nhỏ, để mừng một kỶ niệm lớn. KỶ niệm nói đây là kỶ niệm 60 năm thụ phong linh mục của hai người anh em ruột: Cha Ba và Cha Tư Stanislaô Nguyễn Hữu Trí. Cha Ba là linh mục đã từng tập kết ở Bắc. Cha Tư là linh mục đã từng hoạt động mục vụ tại vùng Châu Đốc thời quyền lực của nhiều giáo phái. Thánh lễ kỶ niệm hôm nay được cử hành tại nhà thờ họ đạo Bò Ót, bởi vì Bò Ót là quê quán của hai Cha. Cuộc lễ sẽ đơn giản, chú trọng nhiều đến nội tâm. Tất nhiên, dịp này, mỗi người có thể nhìn hai Cha với nhãn quan riêng của mình. Phần tôi, tôi nhìn hai Cha ngọc khánh này như những chứng nhân của 60 năm lịch sử Giáo Hội Việt Nam đầy chuyển biến. Nhìn một cách giản lược, tôi thấy 60 năm qua của Giáo Hội Việt Nam nơi hai Cha ngọc khánh có ba giai đoạn chính: Giai đoạn một tạm gọi là giai đoạn đức tin được che chở. Trong giai đoạn này, Giáo Hội Việt Nam đã gặp được nhiều điều kiện thuận lợi về nhiều mặt, nên đức tin đã phát triển rộng rãi. Tuy nhiên, trong tình hình đó, đức tin cũng đã gặp không thiếu trở ngại. Giai đoạn hai tạm gọi là giai đoạn đức tin tự vệ. Trong giai đoạn này, Giáo Hội Việt Nam đã gặp vô số nghịch cảnh do chinh chiến gây nên. Trong một tình hình như thế, Giáo Hội Việt Nam quan tâm đến một đức tin tự vệ, để tồn tại hơn là để phát triển. Giai đoạn ba tạm gọi là giai đoạn đức tin trình bày. Trong giai đoạn này, Giáo Hội Việt Nam sống trong một tình hình xã hội có nhiều giá trị cũ mới cạnh tranh phát triển, nên Giáo Hội cần biết trình bày đức tin thế nào trước các khuynh hướng xã hội, chính trị, văn hoá và tôn giáo để có thể được đánh giá tốt với một thực chất mang tính cách thuyết phục. Cả ba giai đoạn này cùng có những thời cơ và cùng có những nguy cơ cho đức tin. Mỗi giai đoạn đều mang ảnh hưởng của quá khứ gần và xa. Mỗi giai đoạn đều có những hạt giống tiềm ẩn của tương lai xa và gần. Cái khéo của các người được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng là biết tỉnh thức, biết nhạy bén, biết lanh lẹ, biết khôn khéo sáng tạo, để dù trong hoàn cảnh nào vẫn vững bước theo hướng đã được Đức Kitô xác định: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi... Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18). Thánh Linh và kẻ nghèo, đó là những địa chỉ quan trọng trong việc loan báo Tin Mừng về Đức Kitô. Thánh Linh và kẻ nghèo, đó cũng chính là đặc điểm nổi bật của giai đoạn trình bày đức tin hiện nay. Tôi thấy trong cả ba giai đoạn suốt 60 năm qua, hai Cha ngọc khánh đã ý thức sâu sắc về những chân lý trên trong các hoạt động mục vụ của mình. Đó là điều đáng mừng. Có một điều nữa đáng nói ở đây là hai Cha cũng đã ý thức về một chân lý khác luôn có giá trị, luôn sẽ phải xảy ra. Chân lý đó là cá nhân mình sẽ yếu đi, vì thế phải góp phần vào việc đào tạo thế hệ kế thừa, để thế hệ kế thừa có khả năng tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng hợp với những hoàn cảnh mới. Đây là một sự sản sinh thiêng liêng. Và đây cũng là một cách phục vụ Nước Chúa bằng sự tự hy sinh chính mình. Thực sự, những hy sinh của hai Cha ngọc khánh cũng đang đem lại cho hai Cha nhiều an ủi. Chỉ nhìn sơ qua hiện tình họ đạo Bò Ót, quê quán của hai Cha, chúng ta cũng có thể thấy thế hệ kế thừa đang trình bày đức tin một cách tương đối tốt đẹp. Với phong cách khiêm tốn, đức tin ở đây đang được trình bày như thánh gia xưa, luôn sẵn sàng phục vụ mọi người và luôn trân trọng đón nhận bất cứ giúp đỡ nào do bất cứ ai. Với tinh thần dấn thân, đức tin ở đây đang được trình bày như một tác nhân năng động góp phần phát triển con người và xã hội. Phát triển với chiều kích kinh tế, chiều kích văn hoá, chiều kích môi sinh, chiều kích xã hội, và nhất là chiều kích đạo đức... Với thái độ hài hoà, đức tin ở đây đang được trình bày như một người đồng hành nhiệt tình với dân tộc, như một người đối thoại chân thành với các tôn giáo bạn, và như một người bảo vệ các giá trị truyền thống của bản sắc văn hoá dân tộc. Với khát vọng siêu nhiên, đức tin ở đây đang được trình bày như một người đi theo Đức Kitô, luôn gắn bó với Ngài, luôn học hỏi lời Ngài, luôn xuất hành với Ngài theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, để loan báo Tin Mừng về tình yêu Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Trong niềm vui và hy vọng về Hội Thánh Việt Nam, xưa và hôm nay, xa và tại chính địa phương này, tôi xin cùng cộng đoàn cảm tạ Thiên Chúa, vì muôn ơn Chúa đã ban cho hai Cha. Hai Cha sống khiêm tốn, muốn âm thầm suy niệm kỶ niệm của mình. Theo hướng đó thánh lễ hôm nay của hai Cha cũng là một cách trình bày đức tin, với những suy niệm âm thầm, nhìn về quá khứ và hướng về tương lai. Cộng đoàn xin ca ngợi Chúa. Cộng đoàn xin hiệp thông với hai Cha. Amen. Lễ Mừng KỶ Niệm 60 năm Thụ Phong Linh Mục, tại nhà thờ Bò Ót, ngày 23-09-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Những lần đến họ đạo Núi Sam này, tôi thường được cảm nghiệm một số niềm vui khác thường, những niềm vui mà tôi không cảm nghiệm được ở những nơi khác. Thí dụ: niềm vui được nếm hưởng sự thanh cao nhẹ nhàng của thiên nhiên. Thực vậy, Núi Sam có một môi trường thiên nhiên đẹp, do những ngọn núi, do những cánh đồng, do những thảm nước. Đây là một nguồn lợi cao quý rất thích hợp cho những nơi hội tụ tĩnh tâm. Tôi hy vọng rằng chúng ta biết duy trì và lợi dụng môi trường thiên nhiên này, không những là bảo trì mà còn biết làm đẹp thêm nữa. Rồi thí dụ: niềm vui được nếm hưởng bầu khí bình an của tôn giáo. Lên đến đây, anh chị em cũng như tôi đều thấy Núi Sam là nơi có nhiều nơi thờ tự, là nơi có nhiều chùa chiền, có nhà thờ. Tất cả những cảnh này tự nhiên gợi lên cho chúng ta những câu hỏi về chiều sâu cuộc sống, về chiều sâu nội tâm, về ý nghĩa cuộc đời và giúp cho chúng ta có một sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Tôi hy vọng bầu khí bình an của tôn giáo ở đây vẫn sẽ tồn tại. Rồi thí dụ: niềm vui được nếm hưởng sự hài hoà, đoàn kết giữa đồng bào địa phương ở đây không phân biệt tôn giáo, không phân biệt có đạo hay không có đạo. Đây cũng là một nét đẹp giúp cho tôi có một cảm tình đặc biệt với địa phương Núi Sam, nhất là vì giữa anh chị em Công giáo và những cộng đoàn Phật giáo ở đây có những liên hệ tốt, biết giúp đỡ nhau, kính trọng nhau và thông cảm với nhau. Riêng hôm nay đến đây, tôi lại có những niềm vui riêng cũng rất khác thường. Trước hết là niềm vui có sự hiện diện của Cha sở Châu Đốc, một vị mà năm nay mừng 60 năm thụ phong linh mục. Chúng ta phải ý thức rằng, thế hệ chúng ta được như hôm nay cũng một phần nhờ công lao các vị đi trước, trong đó có Cha sở. Không có những vị đi trước giúp và xây nền móng, chúng ta chắc chắn không có được như hôm nay. Nên sự ngài có mặt ở đây với chúng ta trong lễ này là một niềm vui khác thường. Niềm vui này, tôi nghĩ sẽ không lặp lại lần nữa. Rồi có một niềm vui đặc biệt nữa đó là sự hiện diện của anh chị em đại diện cho ba họ đạo nhỏ bé. Qua anh chị em, tôi nhìn thấy rất rõ những bước phát triển mà anh chị em trong từng cộng đoàn đã đạt được và sẽ đạt được trong tương lai gần. Những phát triển không phải chỉ trên cơ sở vật chất như xây dựng nhà thờ, nhà xứ, mà nhất là trên cơ sở thăng tiến con người. Tôi nhìn qua thì thấy những công việc mà Cha ở đây, các Dì ở đây, Hội đồng giáo xứ và anh chị em ở đây đã cùng nhau thi hành, đó là nâng con người lên về mặt văn hoá, về mặt nhân bản, về mặt kinh tế, nhất là về mặt đạo đức. Những công việc này là những công việc rất quan trọng, sẽ làm nền tảng cho hạnh phúc của địa phương, của các gia đình, của cha mẹ, của thế hệ trẻ. Anh chị em của ba họ đạo tụ họp nơi đây, nhỏ bé thôi, nhưng với nét mặt hân hoan mang đầy hy vọng. Tôi nhìn thấy nơi anh chị em một hình ảnh của Hội Thánh tương lai tại Việt Nam này. Hội Thánh tương lai ở Việt Nam này sẽ không phải là cây cổ thụ có nhiều lớp vỏ cứng, mà sẽ là những cụm hồng nhỏ trồng đây, trồng đó, trồng khắp chốn, khắp nơi. Nhỏ thôi, nhưng mà đẹp, nhưng mà thơm, nhưng mà lan tràn, khác với cây cổ thụ chỉ có cành, có lá, có vỏ nhưng không phát triển. Rồi trong tương lai, hình ảnh Hội Thánh Việt Nam không phải là một hồ ao có những bờ xây cho đẹp nhưng nước bị tù. Nhưng trong tương lai, Hội Thánh Việt Nam sẽ là những dòng sông nhỏ chảy hoài, chảy mãi, bất cứ chỗ nào có thể chảy tới, ngấm vào các khe, ngấm vào các gốc cây, các đồng ruộng. Rồi trong tương lai, Hội Thánh Việt Nam không phải là toà nhà cao ốc, mà sẽ là những căn nhà nhỏ, chỗ này một cái, chỗ kia một cái, rải rác khắp nơi, di động hợp với tình hình mới. Khi anh chị em hát bài: “Gặp gỡ Đức Kitô”, tôi đã hỏi Đức Kitô về tương lai. Đức Kitô nói: Chúng con hãy làm muối, hãy làm men, hãy làm ánh sáng, nghĩa là phải ra đi, phải chia sẻ chứ đừng đứng một chỗ. Chúng con hãy là những cộng đoàn nhỏ, những bông hồng nhỏ, những ngọn đèn nhỏ, nhưng đầy lòng tin, đầy đức mến. Hãy là những dòng sông chảy đức mến, những dòng sông chảy đức tin, những cây hồng mang bác ái và niềm tin. Hãy là những ngọn đèn cháy lửa tình yêu và niềm tin. Tôi tin rằng ba họ đạo anh chị em ở đây sẽ là mô hình của Hội Thánh trong tương lai. Những cộng đoàn nhỏ sống khó nghèo, như men, như muối. Chỉ dựa vào Lời Chúa, không dựa vào tiền bạc. Chỉ dựa vào đức ái của Phúc Âm và làm chứng cho Thiên Chúa trong lãnh vực của mình, bằng đức ái của mình, bằng niềm tin hồn nhiên của mình, biết đón nhận, biết tiếp nhận, biết chia sẻ, biết kính trọng, biết phục vụ, biết có mặt. Đơn sơ thế thôi. Nhìn anh chị em của ba họ đạo ở đây, tôi rất mừng đọc được sứ điệp của Thiên Chúa gửi cho chúng ta hôm nay, về Hội Thánh Việt Nam trong tương lai. Trên đây là những chia sẻ rất chân thành của tôi. Chắc là anh chị em hiểu, chắc là anh chị em nhớ, và chắc là anh chị cũng đồng ý với tôi về những việc tôi vừa nói qua sự soi sáng của Chúa Thánh Linh. Xin Chúa Thánh Linh và Đức Mẹ giúp cho chúng ta biết theo ơn Chúa Thánh Thần, để sống làm những thành phần bé nhỏ của Hội Thánh Việt Nam trong thời đại mới, một thời đại rất phức tạp, đòi chúng ta cần phải có tâm hồn bé nhỏ, đơn sơ, khiêm tốn, hồn nhiên, biết đón nhận ơn Chúa, biết kính trọng người khác và luôn luôn biết hiệp thông với nhau trong niềm tin và trong đức ái của Hội Thánh Việt Nam. Amen. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Núi Sam, ngày 26-09-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Đức thánh Micae là một Tổng Lãnh thiên thần. Ngài thuộc một loài tạo vật rất khác loài người. Tuy nhiên, để dễ hiểu sứ vụ của Ngài theo Kinh Thánh, người ta đã tạc tượng Ngài và đã vẽ ảnh Ngài với dạng một vị tướng quân, cầm gươm, đang chiến thắng quỶ dữ phản loạn Lucife. Tượng ảnh kiểu đó chỉ là một biểu tượng. Nó mang một ý nghĩa thiêng liêng, đó là quyết tâm bảo vệ địa vị tối cao tuyệt đối của Thiên Chúa, chống lại Satan. Dứt khoát nó không mang ý nghĩa thế tục, như đề cao bạo lực, chủ trương nhân danh Thiên Chúa chống đánh, loại trừ, tiêu diệt và báo thù những ai bị cho là thuộc phe ma quỶ. Chẳng may, ý nghĩa thế tục trên đây lại được phổ biến qua nhiều thế hệ lịch sử tôn giáo xưa và nay, gây nên một não trạng phản chứng làm hại cho tôn giáo. Một câu hỏi thiết tưởng nên đặt ra ở đây là Đức Chúa Giêsu Kitô đã có thái độ nào trước não trạng đó. Thưa, xin quả quyết là Đức Kitô đã đổi mới. Đối với ma quỶ, Đức Kitô chủ trương phải chống lại. Còn đối với con người, Đức Kitô chủ trương phải yêu thương nhau. Ngài đã đi vào nhiều chi tiết. Thí dụ: Vì đã có những người kết án kẻ nọ người kia là thuộc phe ma quỶ, nên Đức Kitô răn đe: “Đừng xét đoán, để các con khỏi bị xét đoán. Đừng kết án, để các con khỏi bị kết án”. (Lc 6, 37) Vì đã có những người chủ trương báo thù, nên Đức Kitô đã khuyên răn: “Hãy tha thứ, thì sẽ được thứ tha” (Lc 6, 37). “Hãy làm ơn cho những kẻ thù ghét anh em” (Lc 6, 27). Vì đã có những người tưởng rằng những người ngoại đạo không được Chúa thương, nên Đức Kitô đã nhắc đến chuyện Thiên Chúa đã thương bà goá xứ Sidon ngoại đạo thời tiên tri Êlia, và chuyện Thiên Chúa đã thương quan Naaman người nước Syria ngoại đạo thời tiên tri Êlisêu (Lc 4, 25-27). Vì đã có những người dửng dưng trước cảnh khổ đau của kẻ khác, mà vẫn an tâm, tưởng mình vô tội, nên Đức Kitô đã đưa ra dụ ngôn người phú hộ và người ăn mày Lagiarô (Lc 16, 19-31). Người phú hộ này đã bị Chúa kết án nặng nề, chỉ vì đã dửng dưng trước cảnh bất hạnh của người ăn mày. Những đổi mới trên đây thực là đạo đức, thực là lý tưởng. Nhưng cũng chính những đổi mới này đã làm cho vô số người đạo Do thái tức giận (Lc 4, 28). Sau cùng, họ đã nhân danh Thiên Chúa loại trừ Đức Kitô bằng những vu khống, bằng những kết án bất công, bằng việc đóng đinh Ngài trên thánh giá. Đó là một thảm kịch tôn giáo. Thảm kịch trên đây mãi mãi nói lên sự thực này là những quỶ dữ không ở đâu xa, chúng chính là những nghi kÿ, những hẹp hòi, những thành kiến xấu, những ghen ghét, những hận thù vốn thường ẩn núp trong lòng mọi người. Khi thiếu khiêm tốn, thiếu bác ái, thiếu cảnh giác, những người cuồng tín trong tôn giáo sẽ bị những thứ quỶ dữ đó sai khiến, để nhân danh đạo mà phá đạo bằng những tư tưởng, lời nói và những việc làm độc ác. Chính những thứ quỶ dữ đó mới là những thứ quỶ chúng ta phải chống đánh, phải đẩy lùi. Bằng cách nào ? Trong Phúc Âm, Đức Kitô nhấn mạnh đến sự sám hối và tin theo Ngài. Tin theo Đức Kitô là sống theo gương Ngài, bước đi theo Ngài trên đường hiền lành, khiêm nhường, bác ái. Theo hướng đó, chúng ta cầu xin Đức thánh Micae giúp chúng ta đẩy lùi các thứ quỶ dữ ra khỏi gia đình ta, ra khỏi giáo xứ ta, ra khỏi Hội Thánh ta, ra khỏi nhân loại, nhất là ra khỏi chính bản thân ta. Nếu giờ đây, chúng ta cảm thấy mình đang được lôi kéo đến việc sám hối, đến việc sửa mình, đến việc hân hoan đi theo Đức Kitô trên đường khiêm nhường bác ái, thì đó là dấu Đức thánh Micae đang trợ giúp chúng ta đẩy lùi ma quỶ. Xin Ngài tiếp tục trợ giúp chúng ta. Amen. Lễ Kính Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 28-09-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Đối với tôi, bài Phúc Âm vừa nghe là một bài thần học quý giá. Nó cho tôi thấy dung mạo một Thiên Chúa rất khác lạ với những suy tưởng thông thường. Người ta thường nghĩ tưởng rằng: Thiên Chúa phải là Đấng cao sang, hùng mạnh. Thế nhưng bài Phúc Âm hôm nay cho thấy Đức Kitô đã bị đóng đinh trên thánh giá một cách nhục nhã đớn đau. Đó là một chứng cho thấy Đức Kitô là dấu chỉ của sự yếu đuối. Người ta thường nghĩ rằng: Thiên Chúa là Đấng sáng ngời các chân lý. Nếu dân thường vô học và những người tội lỗi không nhận ra Ngài, thì ít ra những người có trình độ văn hoá cao và có những chân lý thần học sâu rộng, sẽ dễ nhận ra Ngài. Thế nhưng Phúc Âm cho thấy: Dân chúng qua đường đã chế nhạo Đức Kitô, kẻ trộm bên tả Ngài cũng đã khinh dể Ngài, đến các thầy cả, luật sĩ là những kẻ có văn hoá, chuyên nghiên cứu các chân lý về đạo cũng đã nhạo báng Ngài. Đó là một chứng nữa cho thấy Đức Kitô là dấu chỉ của sự yếu đuối. Người ta cũng thường nghĩ rằng: Thiên Chúa là Đấng có sức đáp trả một cách đích đáng những thách thức đặt ra cho Ngài, Ngài phải chứng minh vinh quang của Ngài. Thế nhưng, bài Phúc Âm cho thấy Đức Kitô đã bị thách thức mà không đáp trả. Người ta thách đố: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy tự cứu lấy mình. Hãy xuống khỏi thập giá, thì chúng tôi sẽ tin ông”. Đức Kitô đã làm thinh. Sự làm thinh đó được coi như dấu chỉ của sự yếu đuối. Người ta cũng thường nghĩ rằng: Thiên Chúa là Đấng không thể nào đau khổ vì cô đơn, vì bị loại trừ. Thế nhưng, Phúc Âm cho thấy Đức Kitô đã quá khổ đau vì cô đơn, vì bị loại trừ, đến nỗi Ngài đã phải thốt lên: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con”. Như thế, lại thêm một chứng nữa cho thấy Đức Kitô là dấu chỉ của sự yếu đuối. Người ta cũng thường nghĩ rằng: Thiên Chúa được đón nhận nhờ các thứ quyền lực. Thế nhưng, Phúc Âm cho thấy: Chính sự yếu đuối của Đức Kitô đã làm cho nhiều người cảm động, suy nghĩ và trở lại. Như trường hợp kẻ trộm bên hữu Chúa, và như trường hợp viên sĩ quan ngoại đạo chỉ huy việc thi hành bản án đối với Đức Kitô. Như thế, Đức Kitô là dấu chỉ của sự yếu đuối, nhưng dấu chỉ của sự yếu đuối này chính là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cứu độ. Nếu các thầy thượng tế và luật sĩ tự phụ với trí khôn và nền đạo đức của mình, đã không đón nhận dấu chỉ đó, thì những kẻ yếu đuối lại đón nhận được. Những gì tôi đã thấy trên đây, trong Phúc Âm hôm nay, thì tôi cũng đang thấy trong mục vụ của tôi.Tại Việt Nam hôm nay, tôi đã gặp được nhiều người đang sống rất khổ cực. Họ là dấu chỉ của sự yếu hèn. Nhưng sự yếu hèn của họ toát ra sự thanh thản, trong sáng. Gặp họ, tôi thấy rõ: Trong mọi hình thức sự chết vẫn có sự sống, trong mọi hình thức yếu đuối vẫn có sức mạnh, trong mọi hình thức bóng tối vẫn có ánh sáng. Tiếp xúc với họ, tôi có cảm tưởng là tôi gặp được Đức Kitô, đang hiện diện giữa những kẻ khổ đau yếu đuối. Tôi thấy ứng nghiệm nơi họ lời Chúa phán xưa: “Các con sẽ là chứng nhân của Thầy đến tận cùng trái đất. Thầy ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Trong mục vụ, tôi cũng đã gặp được nhiều người đang sống thân phận bé nhỏ hèn mọn. Đời họ là dấu chỉ của sự chôn vùi. Nhưng sự hèn mọn của họ toả ra một hạnh phúc ngọt ngào hương vị tám mối phúc. Gặp họ, tôi thấy ứng nghiệm nơi họ lời Chúa nói xưa: “Con cảm tạ Cha đã giấu những mầu nhiệm Nước Trời cho những người hiền triết khôn ngoan, nhưng đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Trong đời thường, tôi cũng đã gặp nhiều người nhẫn nhục. Thái độ và cung cách sống của họ được coi như dấu chỉ của sự yếu đuối. Bị xúc phạm, họ vẫn yêu thương tha thứ. Bị vu oan, họ vẫn im lặng. Bị thách thức, họ vẫn bình tĩnh tin tưởng. Bị cô đơn, họ vẫn phó thác. Gặp họ, tôi đã gặp được những trái tim rất yếu. Đó là, cái yếu ở sự dễ xót thương, dễ cảm thông, dễ tha thứ. Gặp họ, tôi có cảm tưởng là gặp được Đức Kitô, Đấng đã phán xưa: “Các con hãy học cùng Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Với mấy chia sẻ trên đây, tôi hy vọng sẽ góp phần vào tâm tình cảm tạ Chúa vì những gì Chúa đã làm nơi thánh tử đạo Vinh Sơn Liêm. Xin Chúa, vì lời khẩn nguyện của thánh Vinh Sơn Liêm, ban cho chúng ta luôn biết đón nhận Đức Kitô, cho dù Ngài đến với chúng ta dưới hình thức một dấu chỉ của sự yếu đuối bé mọn. Xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết bước theo thánh Vinh Sơn Liêm, luôn quan tâm đến những người yếu đuối, bằng tình xót thương, bằng sự chia sẻ. Nhất là xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết noi gương thánh Vinh Sơn Liêm dù ở bậc nào, dù ở tuổi nào, dù trong hoàn cảnh nào luôn sống tinh thần khiêm tốn, hiền từ và bác ái của người con bé nhỏ của Chúa. Amen. Lễ Thánh Vinh Sơn Liêm, Bổn mạng lớp bồi dưỡng thần học liên tu sĩ nam nữ, tại TP. HCM, ngày 06-11-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Noel là một lễ vui. Bởi vì nó mang lại một tin mừng. Tin mừng này rất lớn, có thể tóm tắt như sau: “Chúng ta có một người Cha trên trời. Tên Ngài là Tình yêu thương xót. Ngài yêu thương mỗi người chúng ta, không vì những việc lành chúng ta thực hiện, nhưng do lòng nhân hậu của Ngài. Ngài yêu thương chúng ta, cho dù đang khi chúng ta còn xa cách Ngài”. Tin mừng trên đây được trao gởi tới mỗi người chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô xuống thế làm người. Thực vậy, Chúa Giêsu Kitô được Chúa Cha sai vào thế gian để mạc khải tình yêu Thiên Chúa. Nhìn vào hang đá, tôi thấy Chúa Giêsu bé nhỏ, hai tay giơ ra. Hai tay giơ ra như một tiếng gọi âm thầm, như một đợi chờ lặng lẽ. Tôi liên tưởng tới những lời sau này Ngài kêu gọi: Hãy đến với Thầy, hỡi những ai mệt mỏi và gánh nặng, Thầy sẽ bổ sức cho (x. Mt 11, 28). Hãy đến với Thầy, hỡi những ai đang đói, bởi vì Thầy là bánh ban sự sống (x. Ga 6,35). Hãy đến với Thầy, hỡi những ai đang khát, bởi vì Thầy là nước ban sự sống. Ai uống nước này sẽ không bao giờ phải khát (x. Ga 4, 14). Hãy đến với Thầy, hỡi những ai đi sai đường lạc lối, bởi vì Thầy là Chúa chiên lành, luôn thao thức đi tìm chiên lạc, để ban ơn tha thứ. (x. Lc 15, 15). Hãy đến với Thầy, hỡi những ai bị thương tích trong tâm hồn, bởi vì Thầy đang tìm những ai đau bệnh, để chữa lành họ (x. Mt 9,12). Qua hai tay Chúa giơ ra về phía chúng ta, Chúa đang mời gọi chúng ta đến với Ngài. Chúng ta sẽ đến với Ngài bằng cách nào? Thưa trước hết bằng niềm tin. Chúng ta tin Chúa là Cha của chúng ta, và chúng ta là con của Chúa. Tình Chúa là Cha mạnh hơn những yếu đuối của chúng ta.Tình Chúa là Cha rộng hơn những hẹp hòi của chúng ta. Tình Chúa là Cha lớn hơn những tội lỗi của chúng ta. Với niềm tin Chúa là Cha, chúng ta cần sống bé nhỏ khiêm tốn, như lờì Chúa đã phán: “Nếu chúng con không trở nên bé nhỏ, chúng con sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 18,3). Trở nên bé nhỏ là một hành trình của những chọn lựa tự ý. Chọn lựa sống tám mối phúc thật, khó nghèo, hiền lành, khiêm hạ, khát khao sự công chính, thứ tha, trong sạch... (x. Mt 5). Chọn lựa sống tinh thần biết ơn. Biết ơn Chúa hết lòng hết sức trong mọi sự và khắp mọi nơi. Biết ơn người khác với những thái độ, cử chỉ, lời nói, việc làm chân thành tế nhị. Chọn lựa sống tinh thần hoan lạc, bác ái và hoà bình của lễ Noel. Khi chúng ta càng đến gần Chúa, càng nhìn rõ hơn ý nghĩa của hai tay Chúa giơ ra, chúng ta càng hiểu đâu là “ngôi nhà”, mà ta phải chọn, và luôn luôn phải trở về. “Ngôi nhà” đó là tình yêu Thiên Chúa. Một tình yêu sống động, một tình yêu quảng đại, một tình yêu gần gũi, một tình yêu đầy những ơn lành, đầy những xót thương và những tha thứ, đầy những cảm thông và cứu độ. Như thế là đời ta đã có một hướng đi đúng, một ý nghĩa đẹp, một giá trị lớn, một sơ đồ rõ. Tuy nhiên, trên thực tế mỗi người chúng ta vẫn có thể đi sai, làm sai. Nhưng có một điều chúng ta luôn tin vững, đó là: Chúa là Tình yêu. Ngài muốn ban tặng cho mọi con cái Ngài ơn tha thứ và ơn cứu độ. Sự ban tặng này không tuỳ thuộc vào những việc ta làm cho bằng tuỳ thuộc vào thiện chí và tình yêu chân thành của ta. Và đó cũng là một tin mừng cho những cuộc đời mong manh, yếu đuối. Với vài gợi ý trên đây tôi thân ái cầu chúc anh chị em một lễ Noel tốt đẹp nhất. Lễ Mừng Chúa Giáng Sinh, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, đêm 24-12-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hồi nãy, khi bước vào nhà thờ và với con mắt đức tin, tôi đã nhìn vào hang đá. Tôi đã thấy nhiều điều kéo chú ý của tôi. Điều kéo chú ý của tôi nhiều nhất dưới con mắt đức tin, đó là cách Chúa đã chọn để giáng trần. Ngài đã tự hạ, Ngài đã bước xuống, Ngài đã dấn thân chia sẻ thân phận những con người hèn yếu. Ngài đã bao dung tha thứ cho những người khinh chê Ngài, dửng dưng với Ngài, và nhất là Ngài đã kết hợp với Chúa Cha và luôn tuân phục, tin tưởng vào Chúa Cha. Giờ đây, khi nghe bài Phúc Âm và nhìn lên thánh giá, cũng với đức tin, tôi đã nhìn thấy nhiều điều tôi phải suy nghĩ. Điều tôi suy nghĩ nhiều nhất, gây ấn tượng mạnh nhất nơi tôi, cũng chính là cách Chúa đã dùng để chết. Ngài đã chết trong nhục nhã. Ngài đã tự hạ, Ngài đã dấn thân chia sẻ thân phận những kẻ khốn cùng, những kẻ bị loại trừ và nhất là Ngài đã bao dung tha thứ và luôn kết hợp với thánh ý Chúa Cha trọn vẹn. Khi sinh ra, Ngài đã chọn cách tự hạ, khiêm cung, dấn thân, tha thứ và kết hợp với thánh ý Chúa Cha. Khi chết cũng vậy, cũng lại tự hạ, khiêm tốn, thứ tha, dấn thân vào thân phận kẻ khốn cùng và kết hợp với thánh ý Chúa Cha. Tôi coi đây là những chọn lựa can đảm. Tôi cho đây là những hình ảnh đẹp nhất của tình yêu. Tôi cho đây là cách chọn lựa đẹp nhất, để làm dấu chỉ đạo đức của một người trở nên gương mẫu. Với những cách suy nghĩ như trên, tôi đi trong địa phận, ngoài địa phận, trong nước, ngoài nước và tôi có ý tìm những người mang những dấu chỉ như trên. Những người biết tự hạ khiêm tốn, những người biết dấn thân chia sẻ thân phận những kẻ khốn cùng, những kẻ bao dung thứ tha, những kẻ kết hợp với thánh ý Chúa. Và tôi đã thấy số người như vậy là rất đông. Rất đông và không phải chỉ trong một tầng lớp, mà trong khắp mọi tầng lớp. Chính những cái đó đang biến đổi nhân loại và lập nên một trật tự mới, một trật tự mà Đức Mẹ đã nói lên trong bài ca tạ ơn: “Những kẻ giàu sang sẽ trở về tay không, còn những kẻ khó nghèo sẽ được nâng lên”. Đó là cái trật tự mới. Một trật tự vô hình trước mặt Chúa và sẽ kéo dài đời đời. Đúng là tôi đang thấy một số người rất nghèo khổ, nhưng được Chúa nâng lên làm những kẻ chứng nhân, làm những người con Chúa. Và tôi cũng đang thấy, những người coi như giàu sang chức vị, đang bị rơi xuống. Khi suy nghĩ như vậy, tôi thấy tất nhiên một câu hỏi sẽ đặt ra cho chúng tôi, cho anh chị em, cho bản thân tôi, đó là: “Chúng ta có những dấu chỉ về sự Chúa chọn chúng ta làm chứng nhân cho tình yêu Chúa, qua sự chúng ta bắt chước Đức Kitô sống tự hạ khiêm tốn, sống dấn thân chia sẻ thân phận kẻ khốn cùng, sống bao dung tha thứ và nhất là sống tuân phục thánh ý Chúa Cha không ?”. Lúc nãy, đầu thánh lễ, ông đại diện giáo xứ đã trình bày những công việc mà giáo xứ đã thực hành và sẽ thực hành. Tôi coi đó là những công trình bề ngoài thôi. Điều mà tôi nhắn nhủ, điều mà tôi đợi chờ nhiều hơn, đó là những công trình nội tâm bên trong: Xây dựng con người, xây dựng tâm hồn người con của Chúa, bắt chước Đức Kitô sống khiêm tốn tự hạ, sống dấn thân chia sẻ thân phận những kẻ khốn cùng, sống bao dung tha thứ và nhất là sống kết hợp với thánh ý Chúa Cha. Đó mới là những công trình mà Thiên Chúa đợi chờ nơi chúng ta. Và với như vậy, chúng ta mới sẽ là những chứng nhân đích thực của Chúa. Tôi đi nhiều nơi và đã thấy một số cảnh sụp đổ về đức tin nơi này, nơi nọ. Nguyên nhân chỉ vì đã không đi vào đời sống nội tâm, đi vào Phúc Âm, đi vào những đòi hỏi của Chúa Thánh Linh. Thành ra, khi nền văn minh vật chất và khoa học ào tới, cào bằng, thì những tâm hồn tuy rằng mang tên Thiên Chúa giáo cũng đã trở nên lẻ loi, mất mát và khô cằn. Tôi thấy rồi đây, Việt Nam chúng ta cũng sẽ rơi vào cảnh huống tương tự như vậy. Nên tôi kêu gọi anh chị em, hãy biết đi vào nội tâm nhiều hơn: Sống với Chúa Kitô, bắt chước Chúa Kitô, xây dựng đời sống phó thác nơi Chúa Cha, chấp nhận tự hạ, can đảm dấn thân và luôn mở trái tim mình sống bao dung tha thứ. Có như vậy, thì chúng ta, con em chúng ta sau này, mới có thể đứng vững được trước những trào lưu văn minh vật chất, đang tràn vào tàn phá đức tin. Một vài gợi ý như vậy, để anh chị em hôm nay cầu nguyện với Chúa Thánh Linh, giúp cho con em mình và cũng giúp cho chính bản thân ta biết đón nhận Chúa Thánh Thần bằng sự quảng đại, bằng sự tỉnh táo và bằng tất cả những gì mình có, để Chúa Thánh Linh tạo dựng chúng ta nên những người mới, có khả năng làm chứng cho Chúa trong một tình hình đang chuyển biến rất phức tạp. Amen. Lễ Thêm Sức tại Giáo Xứ Thái Hoà, ngày 27-12-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hồi nãy, khi làm phép bộ tượng thánh gia, tôi đã có một số suy nghĩ về đời tu. Những suy nghĩ đó đại khái như sau: Để một khối đất, khối đá có thể trở thành những tượng đẹp thì nó phải được nhào nhuyễn, phải được nắn đi nắn lại, phải được gọt rửa, phải được sửa đi sửa lại nhiều lần. Nhất là nó phải bỏ đi cái hình thái cũ của nó, để mang vào mình một hình thái mới, theo đúng mẫu đã được lựa chọn. Việc tạc tượng, vẽ ảnh như vậy là một việc rất khó. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng: việc tạc tượng, vẽ ảnh tuy khó đấy, nhưng mà chưa khó bằng đào tạo nên con người thiêng liêng. Con người thiêng liêng là một tên được gọi trong tu đức, để chỉ những người nào có một nội tâm và một chiều kích nội tâm thiêng liêng nổi bật. Theo thánh Phaolô, thì con người thiêng liêng là con người sống trong Thánh Thần. Và trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô đã chỉ vẽ những dấu để nhận ra con người thiêng liêng. Con người thiêng liêng có khả năng nhìn thấy những sự thật sâu xa, rộng, giấu ẩn ở trong những thực tại tầm thường. Con người thiêng liêng có khả năng biết phân định cái gì là tốt, cái gì là xấu trước mặt Thiên Chúa. Con người thiêng liêng có khả năng biết chọn lựa những gì là thánh ý Chúa. Con người thiêng liêng có khả năng dấn thân vào những việc theo thánh ý Chúa. Con người thiêng liêng, thí dụ như ông Simêon được kể trong Phúc Âm lúc nãy. Đang khi mọi người nhìn Hài nhi Giêsu như một đứa trẻ thường thôi, thì ông có khả năng nhìn thấy con trẻ đó, chính là một Thiên Chúa cứu độ. Trong khi mọi người đang tìm hy vọng nơi này nơi nọ, thì Simêon có khả năng nhận thấy hy vọng cứu độ là trong con trẻ đó. Con người thiêng liêng có khả năng của Thiên Chúa ban. Những khả năng đó, Chúa chỉ ban cho những tâm hồn Chúa chọn: những người có tinh thần khiêm tốn, khó nghèo, những người quyết tâm từ bỏ chính mình để trọn vẹn thuộc về Thiên Chúa. Và nhất là những người có quyết tâm chiến đấu với chính mình. Chiến đấu với chính mình, đó là một điều kiện đòi hỏi nơi người thiêng liêng, và đó cũng là một nét rất đẹp nơi người thiêng liêng. Thường xuyên hằng ngày, từng giờ từng phút, người thiêng liêng cảm thấy một bên là đòi hỏi của ơn thánh, ơn gọi, và một đàng là sức mạnh trấn áp của tội lỗi. Một bên là mời gọi của Đức Kitô, một bên là mời gọi của quỶ dữ Satan. Họ phải ý thức điều đó, để thấy rằng: Muốn theo Đức Kitô, muốn theo ơn kêu gọi, muốn trở nên con người thiêng liêng, họ phải phấn đấu với chính mình. Trong kinh Lạy Cha, Chúa đã dạy chúng ta ý thức mặt trận đó, cho nên Ngài khuyên “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”. Bởi vì, chước cám dỗ thường xuyên đối với mọi người đã là nhiều rồi, nhưng đối với người quyết tâm trở nên thiêng liêng, thì cám dỗ sẽ nhiều hơn, mạnh hơn, tinh vi hơn. Nếu chúng ta không tỉnh thức, không khiêm tốn, không trở nên khó nghèo và không quyết tâm chiến đấu với chính mình, chúng ta không thể nào thắng được ma quỶ, thắng được chính mình để trở nên con người thiêng liêng. Tôi vừa chia sẻ với anh chị em vài suy nghĩ về con người thiêng liêng, một đòi hỏi của người tu chúng tôi. Sở dĩ, tôi nói như vậy, tôi chia sẻ như vậy, là vì tôi thấy hiện nay, nói thiệt, số người thiêng liêng đang giảm dần đi, mặc dầu số người đi tu tăng lên. Và đó là một ưu tư lớn nhất của tôi. Bởi vì chỉ có những con người thực sự thiêng liêng, có chiều kích thiêng liêng sâu rộng, mới có thể làm chứng nhân cho Thiên Chúa giữa thời đại văn minh vật chất này. Chỉ có những con người thiêng liêng, với chiều kích thiêng liêng sâu đậm, vững bền, mới có thể trở nên men, nên muối, giữa một nền văn minh đầy những cám dỗ. Chỉ có những người thiêng liêng, với một chiều kích thiêng liêng được tập luyện và dồi dào ơn Chúa mới có thể làm dấu chỉ của Nước Trời, giữa một nhân loại hôm nay, bộn bề về những khả năng tha hoá chính mình. Vì thế, tôi chia sẻ với anh chị em những suy tư của tôi về con người thiêng liêng, là tôi muốn đưa ra một lời kêu gọi, để anh chị em ý thức về chiều kích thiêng liêng, về đòi hỏi thiêng liêng. Nhất là muốn kêu gọi anh chị em cầu nguyện cho Hội Thánh nói chung, cho địa phận Long Xuyên nói riêng, được nhiều người thiêng liêng như Đức Kitô mong muốn. Cách riêng hôm nay, chúng ta ở đây cũng sẽ cầu nguyện sốt sắng cho dòng Thánh Gia chúng ta được nhiều người thiêng liêng, càng ngày càng nhiều hơn, càng ngày càng có chiều kích thiêng liêng sâu hơn, để sống xứng đáng với ơn gọi chứng nhân của Chúa giữa đời. Những chứng nhân không phải bằng trí thức, không phải bằng tiền của, không phải bằng tài giỏi tự nhiên, nhưng nhất là bằng chiều kích thiêng liêng, khiêm tốn, phấn đấu với chính mình và thuộc trọn vẹn về Thiên Chúa mà thôi. Amen. Lễ Thánh Gia, Bổn Mạng Dòng Thánh Gia, Cần Xay, ngày 29-12-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, (thứ tư, tuần XX QN, Mt 20,1-16a), Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn những người được tuyển chọn phục vụ cho vườn nho Chúa. Khi suy gẫm đoạn Phúc Âm này, tôi nghĩ đến tôi, các linh mục, các giáo dân và mọi người được Chúa trao cho nhiệm vụ góp phần chăm sóc vườn nho Chúa. Vườn nho Chúa rộng mênh mông. Gồm Hội Thánh và toàn thể nhân loại. Công việc thì rất nhiều, rất đa dạng. Sau nhiều năm phục vụ vườn nho Chúa, với phần vụ của mình, tôi đã có một số kinh nghiệm. Hôm nay, trong tình gia đình, tôi xin được chia sẻ vài kinh nghiệm mà tôi thiết nghĩ là quan trọng, ít là đối với tôi. Kinh nghiệm thứ nhất là: Thứ phục vụ quý giá và cần thiết cho vườn nho Chúa hiện nay là biết làm chứng về Chúa. Làm chứng về Chúa không phải chỉ là truyền đạt những hiểu biết về Chúa học được từ các trường lớp, nhưng nhất là những cảm nghiệm sống động, riêng tư của mình về Chúa. Chúa đã đến với mình thế nào? Chúa đã biến đổi mình thế nào ? Nhờ Chúa, những cái nhìn của mình đã được đổi mới thế nào ? Nhờ Chúa, những phán đoán của mình đã được phúc âm hoá thế nào ? Nhờ Chúa, những hoạt động của mình đã được tân phúc âm hoá thế nào ? Như vậy, làm chứng về Chúa không phải là kể lại những sự Chúa đã làm cho mình được khỏi bệnh, được của cải, được may mắn, mà là kể lại những sự Chúa đã đổi mới con người của mình, những người của mình, và xã hội của mình. Đổi hận thù ra yêu thương, đổi lười biếng ra nhiệt thành, đổi ham hố của cải ra quảng đại cho đi, đổi kiêu căng ra khiêm nhường. Những làm chứng như trên là những đổi thay bên ngoài, nhưng phát xuất từ những thay đổi bên trong. Những chứng từ như thế là những hoa trái đẹp, có sức thuyết phục, giúp cho vườn nho Chúa được thực sự phát triển. Kinh nghiệm thứ hai là: Thứ phục vụ quý giá và cần thiết cho vườn nho Chúa hiện nay là có những làm chứng mang tính cách tiên tri. Có nghĩa là nhờ ơn Chúa Thánh Thần, người phục vụ vườn nho Chúa nhìn thấy được hiện tại đang mở về tương lai nào. Họ đón nhận hiện tại như một báo hiệu về một tương lai đang tới. Họ coi hiện tại như một thứ mạc khải âm thầm về một tương lai xa. Thứ làm chứng mang tính cách tiên tri này đòi hỏi phải học hỏi nhiều về lịch sử cứu độ và lịch sử thế giới, cũng như đòi hỏi phải biết phân tích tình hình vườn nho Chúa giữa xã hội hôm nay, nhất là đòi hỏi tinh thần ngoan ngoãn đón nhận ơn Chúa Thánh Linh. Những chứng từ mang tính cách tiên tri luôn luôn được soi sáng bởi Lời Chúa. Lời Chúa, qua những chứng từ này, sẽ được thời sự hoá, trở thành sống động với những chuyển biến của lịch sử. Giờ đây, đứng trước hơn 300 em sắp chịu phép Thêm sức, tôi nhìn thấy vườn nho Chúa đang chuyển biến mau lẹ giữa một xã hội đang chuyển biến phức tạp. Chúng ta đang bước vào một giai đoạn lịch sử đòi hỏi phải làm chứng về Chúa hơn là giảng dạy về Chúa, một giai đoạn cần có những làm chứng mang tính cách tiên tri về một tương lai Hội Thánh chắc sẽ khác xưa. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức cho chúng ta được biết phục vụ vườn nho Chúa với những đáp ứng thoả đáng theo nhu cầu thời đại hiện nay là nhu cầu làm chứng. Chúa giúp chúng ta. Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng học hỏi, cầu tiến và nhất là đổi mới. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Vạn Đồn, Kinh B-1, ngày 21-08-1996. + GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Khi nhận lời mời chủ toạ thánh lễ khấn dòng hôm nay, không những tôi đã nghĩ đến cộng đoàn Mến Thánh Giá Tân Lập, mà cũng còn nghĩ đến giáo xứ Tân Lập, nơi cộng đoàn Mến Thánh Giá này đã định cư và đã phục vụ. Ý nghĩ của tôi trên đây mang nhiều cảm tình và nhiều cảm phục. Nhiều tình cảm do nhiều liên hệ xưa và nay giữa chúng ta. Nhiều cảm phục do nhận thấy anh chị em có những thiện chí và khả năng tốt. Vì thời giờ có hạn, nên trong thánh lễ này tôi chỉ xin chia sẻ vài mong ước thiết tha nhất của tôi lúc này. Mong ước thứ nhất là mọi người tham dự thánh lễ này hãy tập trung tâm hồn mình vào Đức Kitô. Đức Thánh Cha xác định mục đích năm thánh 2000 là làm mới lại Hội Thánh bằng cách mọi thành phần Hội Thánh cố gắng thuộc về Đức Kitô nhiều hơn. Thánh lễ hôm nay được thực hiện cũng trong hướng đó. Muốn làm mới lại nhà dòng và giáo xứ, chúng ta cũng sẽ cố gắng thuộc về Đức Kitô một cách đích thực hơn. Bởi vì Đức Kitô là cửa dẫn vào ơn cứu độ (Ga 10,9-10), “Ngài là đường, là chân lý và là sự sống” (Ga 14,6), Ngài là “ánh sáng thế gian” (Ga 8,12). Ngài là “bánh sự sống” (Ga 6,35). Ngoài Ngài ra, chúng ta sẽ chẳng làm được gì (Ga 15,5). Hãy tập trung tất cả lòng trí chúng ta vào Đức Kitô, đang sống động giữa chúng ta, Đấng đã hứa sẽ ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20). Mong ước thứ hai là, khi đã tập trung vào Đức Kitô, chúng ta nhìn ngắm Ngài, hỏi Ngài những gì có liên quan đến chính Ngài. Và hãy lắng nghe Ngài. Nên hỏi Đức Kitô về chính Ngài, để biết ý Ngài, để hiểu lòng Ngài. Chỉ Ngài mới trả lời đúng về Ngài. Nhưng muốn được Ngài cho biết sự thực về Ngài, chúng ta cần khiêm tốn, khó nghèo. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Nếu chúng con không thay đổi và trở nên như những trẻ nhỏ, chúng con sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 18,3). Tôi xin thêm cũng theo ý đó: Nếu chúng ta không khiêm tốn, bé nhỏ, chúng ta sẽ không thấy được dung mạo đích thực rất dễ thương của Đức Kitô. Thường chúng ta hay có những hình ảnh về Đức Kitô được tạo nên do ta hoặc do người khác. Thường chúng ta cũng hay có những ý kiến và những cái nhìn làm sẵn về Đức Kitô, do nền giáo dục và tập quán kết thành. Nên tạm bỏ đi tất cả những cái đó. Chỉ nhìn vào Ngài. Chỉ đợi chờ Ngài. Đợi chờ với niềm tin và lòng mến. Có tin mới yêu. Và có yêu mới lắng nghe được tiếng Ngài nói trong lòng ta. Nhất là có tin yêu mới chia sẻ được phần nào những tâm tình kín đáo, sâu xa của Ngài với những kế hoạch cứu độ chỉ thuộc về ý Chúa Cha. Mong ước thứ ba là, trong tất cả mọi việc chúng ta hãy vâng lời Đức Kitô mà cậy nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã hứa: “Thánh Linh sẽ dạy chúng con mọi điều. Ngài sẽ nhắc lại cho chúng con những gì Thầy đã dạy chúng con. Ngài sẽ dẫn dắt chúng con đến chân lý toàn vẹn” (Ga 14,26). ở đây, tôi nghĩ tới những khó khăn trong kinh nghiệm sống đạo, tu đức, mục vụ và truyền giáo của tôi. Khó khăn trong việc phân định cái phải cái sai, điều tốt điều xấu. Khó khăn trong việc chọn lựa. Chọn thế nào mới gọi là khôn ngoan mang tính chất Tin Mừng. Lựa thế nào mới gọi là thích hợp với dấu chỉ của thời đại, có lợi cho Nước Trời. Rồi khó khăn trong việc hiểu ý Chúa qua lịch sử và các biến cố xảy ra. Nhất là khó khăn trong việc chấp nhận các thứ thánh giá đặt trên vai mình. Nhưng chính trong kinh nghiệm về những khó khăn, tôi đã gặp được những can thiệp của Chúa Thánh Thần. Tôi thấy khi mình dấn thân chỉ vì động lực Tin Mừng, chỉ vì danh Đức Kitô, chỉ vì vinh quang Chúa Cha trên trời, và khiêm tốn cậy nhờ Chúa Thánh Linh thì Chúa Thánh Linh luôn hỗ trợ, bằng cách này hay cách khác. Có những cách có thể dự đoán được phần nào, và có những cách rất bất ngờ. Tôi cũng có kinh nghiệm này: Điều mà Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hơn cả, chính là giúp thực hiện Lời Chúa. Thực hiện chân lý, đó là điều Đức Kitô nhấn mạnh (x.Ga 14,15). Những chân lý chúng ta đón nhận được và đem ra thực hiện, sẽ là những chân lý giải thoát chúng ta (x.Ga 8,31-32). Chính những chân lý được thực hiện đúng sẽ thánh hiến chúng ta (x.Ga 17,17). Với ba mong ước trên đây, tôi xin mọi người cầu nguyện cho các nữ tu có liên hệ đặc biệt đến lễ hôm nay, cho dòng Mến Thánh Giá Tân Lập, cho giáo xứ Tân Lập và cho mọi người nói chung. Hy vọng nhờ ơn Chúa, các nữ tu này và cả chúng ta nữa sẽ trở thành những môn đệ Đức Kitô đích thực, đem lại cho Giáo Hội và xã hội nhiều hoa thơm trái tốt thiêng liêng (x. Mt 7,10-20). Thánh lễ khấn dòng Mến Thánh Giá, tại nhà thờ Tân Lập - Thủ Đức, ngày 14-06-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Thánh Gioan Baotixita là một nhân vật có liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu. Ngài được Thiên Chúa chọn một cách đặc biệt. Sứ mệnh của ngài là báo tin cho dân Chúa biết Đấng Cứu thế đang đến. Bổn phận của ngài còn là dọn đường cho Đấng Cứu thế. Đó là những công việc không dễ dàng. Thánh Gioan Baotixita đã thực hiện những công việc khó khăn đó cách nào? Thưa tất nhiên bằng những lời loan báo. Nhưng những lời loan báo ấy được kèm theo nhân cách đạo đức, lối sống đạo đức, việc làm đạo đức của ngài. Đạo đức nơi Gioan Baotixita được nhận thấy ở nhiều nét, đặc biệt ở những điểm sau đây. Trước hết là lòng khiêm tốn. Đang khi dân chúng ca tụng ngài như một vị tiên tri cao cả, thì ngài lại xưng mình là kẻ hèn hạ, không đáng cởi dây giầy cho Đấng Cứu thế sẽ đến sau ngài (x.Mt 3,11). Đang khi nhiều người tung hô ngài như một vị có bản lãnh dám đứng ra cải cách đạo, thì ngài lại tự nhận mình chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc (x. Ga 1,23). Cùng với lòng khiêm tốn, đạo đức của Gioan Baotixita chú trọng đến cái tâm. Ngài tập trung việc dọn đường cho Chúa Cứu thế vào sự ăn năn sám hối, rèn luyện lương tâm (x.Lc 3,3). Phải thành tâm thống hối. Phải thực tâm mến Chúa yêu người. Cái tâm phải ngay thẳng, phải trong sáng. Toà án lương tâm nơi mỗi người phải được xây dựng và kiểm tra bởi động lực và mục tiêu chân lý đạo đức. Từ cái tâm tốt, Gioan Baotixita dấn thân lo cho con người bằng những hành vi phục vụ và những ứng xử xót thương. Ngài khuyên những ai dư ăn dư mặc hãy chia sẻ cho những kẻ thiếu thốn (x.Lc 3,10). Ngài khuyên đừng hà hiếp, đừng vu vạ cáo gian (x.Lc 3,14). Ngài cảnh giác thói quen phô trương cậy mình là con cháu Abraham nhưng trên thực tế lại không đem lại cho đồng bào mình hoa thơm trái tốt thiêng liêng nào (x.Mt 3,7-10). Đạo đức là xót thương con người, là phục vụ con người bằng những việc làm cứu độ cụ thể, đó cũng là một dấu chỉ đúng đắn để nhận ra chính Đức Kitô. Có lần Đức Kitô đã nhắn cho Gioan Baotixita biết tiêu chuẩn đó (x.Mt 11,2). Để việc phục vụ con người đáp ứng được đúng nhu cầu, nhất là những nhu cầu thiêng liêng, đạo đức, thánh Gioan Baotixita đã nêu cao việc tu thân, sống chay tịnh và chiêm niệm, thường xuyên phấn đấu với chính mình và những khuynh hướng hưởng thụ, an nhàn, như lời Đức Kitô đã khẳng định: Muốn vào Nước Trời, phải có nhiều cố gắng, phải thực sự phấn đấu từ bỏ chính mình (x.Mt 11,12). Sau cùng, nét đạo đức nổi bật nhất của thánh Gioan Baotixita là đề cao Đức Kitô. Chỉ Đức Kitô là Đấng Cứu thế. Và khi tuyên xưng chân lý đó, Gioan Baotixita đã tự tìm cách để mình mờ nhạt đi. Ngài chủ trương ngài cần phải hạ thấp xuống, và Đức Kitô cần phải được nâng lên cao (x. Ga 3,30). Trên đây là một thoáng nhìn về hình ảnh vị tiền hô Đấng Cứu thế. Ngài được dân chúng thời đó tin mến, bởi vì ngài rất đạo đức. Ngài dấn thân, nhưng lại rất tu thân. Ngài để ý đến đạo lý, nhưng nhấn mạnh hơn đến đạo đức. Ngài quan tâm đến việc phát triển cuộc sống con người, nhưng chú trọng hơn đến việc phát triển những giá trị thiêng liêng của con người. Xưa, vị đọn đường cho Đấng Cứu thế đã sống và làm như vậy, còn nay thì sao? Nay, Chúa vẫn dùng những kẻ dọn đường. Tất nhiên những kẻ dọn đường thời nay nên có thêm những cái nhìn mới, như biết nhìn xa tới tương lai, biết nhìn rộng ra thế giới, biết nhìn sâu vào dân tộc, biết nhìn đúng vào nhu cầu hiện đại hoá. Nhưng cái nhìn cần thiết nhất vẫn là cái nhìn gắn bó với các giá trị thiêng liêng. Nhìn thường xuyên vào các giá trị ấy, cố gắng tìm kiếm những giá trị ấy, sống thực sự với những giá trị ấy, làm chứng cho những giá trị ấy. Những việc đó sẽ làm nên chiều kích đạo đức của kẻ dọn đường cho Đức Kitô. Nhờ chiều kích thiêng liêng đó, kẻ dọn đường cho Đức Kitô sẽ có thể gây được niềm tin nơi người thời nay. Thiết tưởng những ai có chiều kích thiêng liêng đó sẽ có thể làm được những việc coi như không sao làm được. Với những suy nghĩ trên đây, tôi xin cùng anh chị em cảm tạ Chúa nhân lành vì những ơn Chúa đã ban cho thánh Gioan Baotixita. Chúng ta cũng cầu xin Chúa giúp chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, biết vâng ý Chúa, để biết dọn đường cho Đức Kitô một cách hữu hiệu tại Quê hương Việt Nam hôm nay. Thánh lễ kính thánh Gioan Baotixita, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 24-06-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
(Mt 16,24-28) Hơn một tháng qua, tôi đã đi qua nhiều nơi, trong nước và ngoài nước. Hầu hết những nơi đó đều giàu sang, văn minh. Thú thật là những nơi ấy đã không để lại trong tôi một ấn tượng nào sâu đậm khiến tôi phải quan tâm nhiều. Nhưng khi vào kinh 10 này, đến giáo điểm Đaminh này, tôi cảm thấy bừng lên trong tôi một cái gì là ngạc nhiên, một cái gì là ngỡ ngàng. Tôi ngạc nhiên vì thấy nơi đây đã có nhiều bước tiến và phát triển. Từ một hoàn cảnh xưa kia xôi đậu nay anh chị em đã xây dựng một giáo điểm tương đối trật tự nề nếp. Từ một hoàn cảnh xưa kia rất là nghèo túng, nay anh chị em trở thành một cộng đoàn tương đối có tương lai. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên và ngỡ ngàng hơn cả, đó là thấy nơi đây có một tình yêu thương chan hoà, một tình yêu thương sâu đậm giữa cộng đoàn với nhau, giữa cộng đoàn công giáo với đồng bào không công giáo, giữa đời và đạo. Và tôi nghĩ rằng để cho cuộc sống được tươi mới hạnh phúc thì cần phải có nhiều yếu tố về vật chất như là: nhà cửa, ruộng vườn, quần áo... Rồi thêm đó còn phải có yếu tố tinh thần như là: trình độ học vấn, trình độ văn minh. Thế nhưng, có những điều đó rồi vẫn còn thiếu lắm, nếu không có một yếu tố căn bản làm nên hạnh phúc cuộc đời. Yếu tố căn bản đó là tình thương. Nếu chúng ta có đủ mọi khả năng nhưng thiếu khả năng yêu thương, chúng ta vẫn thiếu quá nhiều. Nếu chúng ta có đủ mọi sự tinh thần và vật chất mà không có tình yêu, chúng ta phải kể như chúng ta còn quá nghèo. Tình yêu chính là cái làm cho cuộc sống trở nên có giá trị. Tình yêu chính là cái làm cho chúng ta trở nên giống Thiên Chúa. Tình yêu chính là cái làm cho chúng ta mang thực chất là con người Việt Nam với nhau. Vì thế, tôi nghĩ rằng khi chúng ta đến một gia đình, khi chúng ta đến một cộng đoàn, cái đầu tiên chúng ta cần phải quan tâm đó là: nơi đó có tình yêu thương không? Bởi vì khi có tình yêu thương rồi thì mọi cái khác sẽ đến sau. Còn nếu có đủ mọi sự mà không có tình yêu thương thì kể như mất hạnh phúc, không có tương lai. Lúc nãy, khi nghe anh chị em hát: “Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng”, và khi đọc câu đó được ghi treo ở ngoài nhà thờ, thì tôi nghĩ về Tin Mừng làm cho chúng ta trở nên con cái Chúa và trở nên anh chị em với nhau, Tin Mừng đó chính là tình thương. Hãy cho đi tình thương, hãy biết nhận tình thương, đó là Tin Mừng đích thực. Khi chúng ta sống tình thương thì chúng ta đón nhận được Đức Kitô. Trên bàn thờ, anh chị em đọc thấy: “Thầy ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đúng là Đức Kitô ở với chúng ta, nhưng nếu chúng ta biết lấy tình mến, tình thương mở cửa lòng ra thì mới đón nhận được Đức Kitô. Chúa Giêsu chỉ ở trong những tâm hồn có tình yêu thương. Nếu chúng ta hận thù, ghen ghét, chia rẽ nghi kÿ thì Chúa không ở trong đó được. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa nói: “Nếu anh chị em được mọi sự thế gian này mà hại cho cuộc sống thì đâu có lợi gì” (Mt 16,26). Tôi hiểu cuộc sống là tình yêu, tình yêu là cuộc sống. Nếu chúng ta được mọi sự: ruộng vườn, nhà ở, tiền của, danh vọng mà chúng ta hại đến tình thương, tình thương của mình, tình thương của kẻ khác, thì theo Chúa nói: đâu có lợi gì, chỉ có hại thôi. Hại cho chúng ta, hại cho người khác. Rồi trong Phúc Âm hôm nay, Chúa cũng nói: “Lấy gì thay cho sự sống được?” (Mt 16,26). Vậy khi sự sống chính là tình yêu thì lấy gì thay cho tình yêu? Xây nhà thờ cho lớn, tổ chức sinh hoạt cho linh đình để thay cho tình yêu được sao ! Tình yêu có thể thay thế mọi sự khác nhưng không có gì có thể thay thế được tình yêu. Tình yêu chính là sự sống. Khi chúng ta yêu thương kẻ khác, khi chúng ta biết cho đi, khi chúng ta biết tha thứ, khi chúng ta biết loan truyền giới luật yêu thương thì như Chúa nói trong bài Phúc Âm hôm nay: Chúa sẽ trả công cho chúng ta tuỳ theo công việc chúng ta làm (x.Mt 16,27). Chúa trả công vì sự chúng ta yêu thương và giúp người khác yêu thương. Với những suy nghĩ trên đây, tôi cầu chúc cho giáo điểm Đaminh này luôn biết phát triển về mọi mặt, nhất là phát triển về tình yêu thương. Trong bài phát biểu lúc nãy của một em đại diện có câu: “Chúng con sẽ đem yêu thương đến mọi người”. Hãy thực hiện việc đó: đem yêu thương đến mọi người không phân biệt lương giáo, không phân biệt giàu nghèo, hãy đến với tất cả mọi người. Trên thực tế, nhiều khi việc cam kết của chúng ta rất đẹp chỉ ở chỗ chúng ta quen miệng nói ra, thế thôi, chứ chúng ta thực hiện nhiều khi có luật trừ. Chỉ đem yêu thương đến cho những người vừa lòng chúng ta. Còn những người chúng ta không hợp, thì chúng ta không yêu thương. Hãy đem yêu thương đến với mọi người. Nếu chúng ta làm được điều này, thực hiện đúng được điều này, thì đó là Tin Mừng. Nhờ đó chúng ta sẽ giúp cho mọi người nhận biết chúng ta là con Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót. Và nếu làm được như vậy, chắc chắn khi ra trước mặt Chúa, chúng ta sẽ được Chúa thưởng công đời đời vì chúng ta biết yêu thương, gieo vãi yêu thương, trung thành với giới luật yêu thương. Lễ Thêm Sức tại họ Đaminh, kinh 10, ngày 08-08-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Giữa tháng 7 vừa qua, khi đang ở bên Rôma, tôi được Toà Giám mục Long Xuyên báo tin: Bệnh tình Cha Giuse Trình đã tới thời nguy kịch. Tôi rất buồn. Tôi đã thu xếp để về sớm trước dự định, mong kịp gặp Cha Giuse. Chiều ngày 31 tháng 07, vừa tới thành phố Hồ Chí Minh, tôi vội đến bệnh viện thăm Cha Giuse. Tôi thấy Cha tiều tuÿ, tàn tạ, kiệt sức, đầy đau đớn. Nhưng gặp tôi, Cha đã tỏ ra rất vui mừng. Dịp này, Cha đã trối lại nơi tôi 3 điều: 1- Xin Đức Cha, các Cha và mọi người vui lòng tha thứ cho Cha về những gì có thể đã xúc phạm đến ai, do hữu ý hoặc vô tình. 2- Xin Đức Cha, các Cha và mọi người vui lòng tha thứ cho Cha về những gì có thể đã là tội lỗi, do yếu đuối hoặc lỡ lầm. 3- Xin Đức Cha, các Cha và mọi người cùng với Cha tạ ơn Thiên Chúa đã cho Cha được cảm nghiệm mầu nhiệm thánh giá đầy hồng ân. Trong ba lời trối trên đây, tôi chú ý nhiều nhất đến lời trối thứ ba. Tôi coi đó là một ánh sáng đẹp. Nó gợi cho tôi nhớ lại lời thánh Phaolô đã gửi giáo đoàn Côrintô: “Ánh sáng đã chiếu ra từ nơi tăm tối để chúng ta nhận biết vinh quang Thiên Chúa” (2Cr 4,6). Thực vậy, một người đang khoẻ mạnh, hoạt động tốt, bỗng bị bệnh nguy hiểm, như thế là kể như rơi vào tình trạng tăm tối. Một người đang được giáo phận, giáo xứ, gia đình, và nhiều người quen biết đặt biết bao hy vọng lớn lao lâu dài, bỗng bị tê liệt, suy sụp, như thế là kể như bị rơi vào vực sâu thất vọng. Bề ngoài đúng là như vậy. Nhưng từ nơi tăm tối ấy đã chiếu ra một chuỗi ánh sáng. Theo tâm sự của Cha tối hôm ấy, tôi hiểu ánh sáng đó chính là niềm xác tín về sự cần thiết của ơn thánh Chúa trong việc cứu độ. “Không có Thầy, con không làm gì được” (Ga 15,5). Cha nói với tôi là Cha cảm nghiệm được ơn phúc của mầu nhiệm thánh giá. Ơn phúc ấy giúp cho Cha khiêm tốn, nhận biết mình hèn yếu, và nhận thấy Chúa là tất cả nguồn mạch tạo dựng và cứu độ. Chính trong những thử thách tối tăm mà Cha đã gặp được Đức Kitô một cách sâu sắc. Cha cảm tạ Chúa vì ơn bao la đó, và Cha xin mọi người cùng Cha cảm tạ Chúa vì ơn đặc biệt đó. Qua những sự việc trên đây, tôi nhìn thấy lương tâm tông đồ của Cha Giuse. Một lương tâm gọi được là lương tâm tông đồ khi nó ý thức rõ con đường mình đi tức là rao giảng Đức Kitô nhờ chính ơn của Ngài, một Đức Kitô đã chịu nạn và đã sống lại, một Đức Kitô phục vụ, một Đức Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống mình. Trong cuộc đời linh mục tuy vắn vỏi, Cha Giuse đã sống đúng lương tâm tông đồ. Cha Giuse đã rao giảng Đức Kitô, bằng những phục vụ nhiều nơi. Phục vụ các họ đạo được trao phó. Phục vụ các cộng đoàn được nhờ giúp. Phục vụ Đại Chủng Viện. Phục vụ các dòng. Nhất là bằng sự phục vụ gắn bó với giáo xứ Đồng Phú này, để cùng nhau đổi mới giáo xứ về mọi mặt. Cha Giuse đã rao giảng Đức Kitô bằng những phục vụ với nhiều sáng kiến. Hoạt động bí tích, hoạt động giáo lý, hoạt động Lời Chúa, hoạt động văn hoá, hoạt động giới trẻ, hoạt động xã hội, đặc biệt là hoạt động từ thiện dành cho các người nghèo, không phân biệt lương giáo. Cha Giuse đã rao giảng Đức Kitô bằng đời sống hiệp nhất tình nghĩa với các Bề trên trong giáo phận, với linh mục đoàn, với giáo xứ, với các bạn bè quen biết, và với đồng bào. Sau cùng Cha Giuse đã rao giảng Đức Kitô bằng sự chấp nhận một cách bình thản những đớn đau bệnh tật và cái chết âm thầm, để ứng nghiệm lời thánh Phaolô nói: “Dù con người bên ngoài của tôi có hao mòn đi, nhưng con người bên trong vẫn đổi mới mỗi ngày” (2 Cr 4,16). Tôi có thể nói: Lương tâm tông đồ của Cha đã lớn dần lên, đã trưởng thành từ từ, và đã vững mạnh qua những thử thách cuối cùng. Chính từ lương tâm tông đồ ăn rễ sâu vào Chúa, mà ánh sáng hạnh phúc và hy vọng đã chiếu ra. Giờ đây, từ giã Cha trong thánh lễ an táng này, tôi xin chính thức nhắc lại lời trối của Cha là: Xin mọi người cùng Cha cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho Cha, nhất là ơn ban cho Cha cảm nghiệm được ơn phúc của thánh giá Chúa gửi cho Cha. Như vậy là tuy Cha chết đi, nhưng ánh sáng trong lời trối trên đây còn đó. Ánh sáng thiêng liêng ấy sẽ an ủi gia đình, an ủi họ đạo, an ủi mọi người chúng ta. Dịp này, tôi cũng xin mọi người cầu nguyện nhiều cho Cha. Và cũng xin Cha cầu cho chúng ta, để mọi người biết vun trồng, giữ gìn và phát triển lương tâm tông đồ của mình, một lương tâm tập trung vào Đức Kitô, và khiêm tốn ý thức sự cần thiết tuyệt đối của ơn thánh Chúa. Với lương tâm tông đồ, chúng ta sẽ gặp lại Cha Giuse và gặp được nhau trong Nước Chúa. Thánh lễ an táng cha Giuse Vũ Đăng Trình, tại nhà thờ Đồng Phú, kinh 2b, Cái Sắn, ngày 12-08-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu phán: “Ta là bánh hằng sống bởi trời. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Tôi coi lời Chúa phán trên đây là một lời Chúa gửi riêng cho tôi và cũng là một lời Chúa muốn tôi nói lại cách riêng với anh chị em giáo xứ Tân Hiệp đây. Tôi đã suy nghĩ nhiều về lời Chúa phán. Tôi đã cố gắng thực thi lời Chúa dạy. Tôi đã hết sức sống lời Chúa phán trên đây. Tôi xin chia sẻ đôi chút những gì tôi cảm nghiệm về sự thực thi lời Chúa. Trong đời sống tự nhiên, để nuôi sống mình, để bổ dưỡng mình, chúng ta cần phải có lương thực. Lương thực phải là cái gì cụ thể như: lúa, gạo, cơm, bánh chớ lương thực không phải là cái gì trừu tượng, lý thuyết. Không phải hội nghị về lúa, không phải kế hoạch về mùa gặt có thể bổ dưỡng nuôi sống chúng ta. Lương thực phải cụ thể. Đó là cơm bánh. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, để nuôi dưỡng linh hồn, để bồi dưỡng linh hồn, chúng ta cần phải có lương thực. Mà lương thực cũng phải là cụ thể. Lương thực ấy chính là Đức Kitô, chớ không phải lương thực đó là thần học về Đức Kitô, giáo lý về Đức Kitô, lễ hội về Đức Kitô. Lương thực linh hồn là chính Đức Kitô, bản thân Đức Kitô. Khi đã có lương thực trước mặt rồi, thì không phải chỉ nhìn cơm, nhìn bánh mà no. Nhưng phải ăn, phải nuốt vào, phải được tiêu hoá để bánh trở nên xương thịt của mình. Cũng vậy, khi đã biết Đức Kitô là lương thực nuôi dưỡng linh hồn ta, thì không phải chỉ là học về Đức Kitô, nhìn Đức Kitô để rồi nói rằng chúng ta đã được nuôi sống, nhưng phải đón nhận Đức Kitô vào linh hồn ta. Đức Kitô trong bài Phúc Âm nói: “Ai ăn thịt và uống máu Ta, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54). Đó là một hình ảnh ta phải đón nhận Đức Kitô vào trong linh hồn chúng ta. Chúng ta tin Đức Kitô là sự sống linh hồn chúng ta, thì bổn phận chúng ta là phải đi tìm Ngài, là phải gặp gỡ Ngài, là phải đón nhận Ngài. Mà khi đi tìm như vậy, thì cần phải có lòng khao khát. Khi gặp gỡ như vậy, thì phải có lòng trân trọng. Và khi đón nhận như vậy, thì phải bỏ ý riêng mình đi để chấp nhận thánh ý của Ngài. Khi chúng ta đã biết Đức Kitô chính là lương thực của chúng ta, thì bây giờ chúng ta tự hỏi xem: xứ đạo của chúng ta có Đức Kitô không? Chúng ta đang tìm Đức Kitô ở đâu? Thưa tất nhiên ở nhiều cách: trong những người chung quanh, trong những bề trên, trong những cảnh nghèo, nhưng nhất là trong Phúc Âm và đặc biệt là trong phép Mình Thánh. Tôi xin nhấn mạnh: phép Mình Thánh trong một họ đạo chính là trung tâm của họ đạo. Đức Kitô hiện diện trong phép Mình Thánh. Ngài ở đó để chờ đợi, để kêu mời, để sẵn sàng ban ơn cho chúng ta. Chúng ta phải coi phép Mình Thánh trong họ đạo chúng ta như là đích điểm của mọi sinh hoạt trong họ đạo. Tôi thấy nhiều nơi có lễ mỗi ngày, đồng bào đi lễ đông, nhưng đời sống công bình bác ái vẫn tiếp tục sa sút. Trong khi đó nhiều nơi khác, ít khi có thánh lễ, đồng bào nơi đó chỉ có thói quen hay đến viếng Mình Thánh. Thế mà đời sống đạo nơi đó đã tiến rất nhiều, rất sâu và trở nên những điểm truyền giáo tốt. Tại sao những nơi có nhiều thánh lễ mà lại suy sụp về đời sống thiêng liêng, còn những nơi ít có thánh lễ chỉ năng viếng Mình Thánh lại tiến triển? Lý do là vì, nhiều khi đi lễ mà không tìm Đức Kitô. Còn những nơi kia không có thánh lễ, họ tự nguyện sốt sắng tìm Đức Kitô trong nhà thờ, nên Đức Kitô đã ban ơn rất nhiều cho họ. Tôi nói chi tiết trên đây để xin anh chị em hãy điều chỉnh lại cách sống đạo. Hãy tìm đến Đức Kitô trong thánh lễ, trước thánh lễ và sau khi chúng ta đi về. Không phải bắt đầu lễ chúng ta mới nhớ đến Chúa. Tôi thấy nhiều nơi trước lễ hầu như không có ai cầu nguyện. Như thể lễ chỉ là một lễ hội, chỉ là một tổ chức. Bởi vì trước lễ chúng ta không tìm Đức Kitô và ngay trong thánh lễ nhiều người đã không gặp gỡ Đức Kitô. Tôi đã đi nhiều nơi trong nước và ngoài nước. Tôi nhận thấy nhiều nguy cơ đang sắp đến. Những cơn cám dỗ rất mạnh, nước ma quỷ rất mạnh, các sự ác rất mạnh. Đang khi đó, chúng ta có Đức Kitô là sự sống, là thầy thuốc chữa mọi chứng bệnh linh hồn. Nếu chúng ta không đến với Ngài, không để cho Ngài chữa bệnh tâm hồn chúng ta, không xây dựng đời sống nội tâm trên chính nền tảng là Đức Kitô, thì tôi sợ có một ngày nào đó, đạo đức sẽ dần dần suy sụp, sẽ dần dần tan vỡ. Như đang xảy ra ở nhiều nước có đạo lâu đời chẳng hạn Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha.v.v. Đạo bắt đầu tan vỡ bởi vì người ta quên phép Mình Thánh. Nhà thờ trở nên vắng vẻ, ít cầu nguyện, chỉ ham hoạt động bên ngoài. Tại những nơi đó, hy vọng bây giờ đang đặt vào những nhóm người cầu nguyện, chiêm niệm trước Mình Thánh và sẵn sáng khiêm tốn đón nhận Đức Kitô. Chỉ có những con người đó, những con người mang Đức Kitô và sống với Đức Kitô một cách can đảm và dấn thân trọn vẹn mới có thể cứu được tôn giáo. Trong thánh lễ hôm nay, tôi xin hiệp ý với giáo xứ anh chị em cầu xin Chúa Thánh Thần, cầu xin Đức Mẹ phù giúp, để từ nay xứ đạo chúng ta biết trở về với Đức Kitô một cách chân thành, một cách sâu sắc. Năng viếng Mình Thánh, năng tự nguyện chầu Mình Thánh. Năng chịu Mình Thánh cách thiêng liêng. Xin Đức Kitô đến với chúng ta, nhất là đến với con em chúng ta, bởi vì, tôi nhắc lại, chính Đức Kitô là Bánh hằng sống. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Đài Đức Mẹ Tân Hiệp, ngày 17-08-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hôm nay là lễ kính Đức Mẹ, Nữ Vương Hoà bình. Tại nhiều nơi, họ đạo và các gia đình dâng mình lại cho Đức mẹ, như một cách tôn vương thân mật, để tạ ơn và để xin ơn. Trong các ơn xin trong ngày lễ Nữ Vương Hoà bình hôm nay, ơn bình an thường được nhắc đến nhiều nhất. Chắc là Đức Mẹ rất vui lòng với ơn xin đó. Nhưng thiết tưởng Đức Mẹ cũng sẽ rất vui lòng, nếu chúng ta không những xin cho mình được ơn bình an, mà còn xin cho mình được trở thành dụng cụ xây dựng bình an. Tôi thấy Đức Mẹ rất mong muốn chúng ta nghĩ đến điều đó. Một cuộc sống bình an cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc, đó là điều chúng ta vừa phải cầu xin với Đức Mẹ, vừa phải nỗ lực góp phần xây dựng. Bằng cách nào? Thưa bằng những cách mà Đức Mẹ đã thực hiện. Xin kể ra đây vắn tắt vài gương sáng. Gương sáng thứ nhất Đức Mẹ đã nêu lên là tinh thần phục vụ. Bài Phúc Âm hôm nay, khi thuật lại tiệc cưới Cana, đã ghi lại vài chi tiết về người phụ nữ khách mời đã phục vụ chủ tiệc thế nào. Người phụ nữ khách mời đó là Đức Mẹ. Là khách được mời, đáng lẽ Đức Mẹ có quyền được phục vụ. Nhưng Đức Mẹ đã phục vụ chủ nhà. Với trái tim nhạy cảm, Đức Mẹ nhìn qua diễn tiến bữa tiệc, liền biết cái gì đang thiếu. Để giữ uy tín cho chủ nhà, và bảo vệ hoà khí cho xóm làng, Đức Mẹ đã xin Con mình giúp giải quyết. Điều mà tôi suy nghĩ nhiều nơi tinh thần phục vụ của Đức Mẹ trong tiệc cưới Cana, đó là sự nhạy bén trong cái nhìn và sự khôn khéo mau lẹ trong ứng xử. Cái nhìn nhạy bén đó, cách ứng xử khôn ngoan mau lẹ đó có thể coi là một thứ nhân bản cao, và cũng có thể coi là một thứ nhân đức đẹp. Những đức tính tốt như thế, khi được thực hiện trong phục vụ, sẽ góp phần xây dựng bình an cho các cộng đoàn. Muốn xây dựng bình an phải biết phục vụ tốt, đó là điều mà Đức Mẹ đã nêu gương. Gương sáng thứ hai Đức Mẹ đã nêu lên là tinh thần sống chung. Khi suy về tinh thần sống chung nơi Đức Mẹ, tôi không nghĩ tới đời sống Thánh Gia, bởi vì tôi coi đời sống chung đó là tất nhiên phải tốt đẹp rồi. Nhưng tôi nghĩ tới đời sống của Đức Mẹ ở Nagiarét với những người đồng hương không thiếu rắc rối; ở Ai cập với những người khác đạo, khác văn hoá. Tôi cũng nghĩ tới đời sống Đức Mẹ trong thời kỳ dân chúng hoan hô Chúa Giêsu, và trong những tháng ngày quyền đời quyền đạo chỉ trích và kết án Con Đức Mẹ. Tôi thấy dù ở nơi đâu, dù vào thời nào, Đức Mẹ vẫn biết chung sống với mọi người. Chung sống một cách cởi mở, kính trọng. Chắc chắn Đức Mẹ rất biết những gì là phải là tốt, và những gì là sai là xấu, nơi người nọ, nơi chỗ kia. Nhưng Đức Mẹ đã giữ một thái độ bình an khiêm tốn. Có lần thánh sử Luca đã tóm tắt thái độ đó của Đức Mẹ bằng câu này: “Ngài giữ lấy mọi sự đó trong lòng và suy niệm” (Lc 2,19). Tôi nghĩ chính nhờ lựa chọn đạo đức như vậy, mà Đức Mẹ đã phát triển một tinh thần sống chung có khả năng xây dựng bình an cho nơi mình sống. Để xây dựng bình an, cần biết sống chung. Gương sáng thứ ba Đức Mẹ nêu lên là tinh thần trách nhiệm. Theo tôi, trách nhiệm quan trọng nhất của Đức Mẹ là vâng phục ý Chúa Cha, cùng đồng hành với Chúa Giêsu trong suốt con đường “Con Người phải đau khổ nhiều, rồi mới sống lại” (Lc 24,46) để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Con đường này rất trái ngược với tính tự nhiên, hầu như không được ai tán thành, kể cả thánh Phêrô (x. Mt 16,22). Nhưng vì Chúa Cha muốn, vì Con mình chọn, nên Đức Mẹ đi theo. Đức Mẹ trung tín bước đi trên con đường đó như một trách nhiệm trong suốt đời mình, dù khi Chúa Giêsu còn dưới thế, dù khi Chúa Giêsu đã lên trời. Tôi có cảm tưởng này là tinh thần trách nhiệm làm chứng cho tình yêu bằng mầu nhiệm thánh giá và phục sinh nơi Đức Mẹ đã tác động nhiều đến thánh Gioan, người mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Đức Mẹ. Nhờ vậy, thánh Gioan đã viết ra cuốn Phúc Âm, trong đó nhấn mạnh đến trách nhiệm gắn bó với Đức Kitô và giới luật yêu thương của Ngài. *** Với tinh thần trách nhiệm, với tinh thần sống chung, và với tinh thần phục vụ, Đức Mẹ đã nêu gương xây dựng hoà bình. Chúng ta hãy bắt chước Đức Mẹ. Cộng đoàn chúng ta, Đất Nước chúng ta đang cần những người biết xây dựng hoà bình. Thiết tưởng, với thiện tâm và quyết tâm, ai cũng có thể góp phần vào công việc đó. Nguyện xin Chúa, nhờ Đức Mẹ cầu bầu, ban ơn cho chúng ta và các con em chúng ta rước lễ lần đầu hôm nay được mãi mãi là những dụng cụ bình an của Chúa. Lễ Đức Maria Nữ Vương, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 24-08-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay nói về việc gieo trồng hạt giống Tin Mừng. Khi đem bài Phúc Âm hôm nay áp dụng vào họ đạo Láng Sen này, tôi đã thấy gì? Thưa, tôi đã thấy là hạt giống Tin Mừng đã được gieo trồng ở đây và đã được nơi đây đón nhận. Rồi sau đó hạt giống Tin Mừng đã được phát triển, ăn rễ sâu, lớn lên mạnh mẽ. Để rồi hạt giống Tin Mừng lại được nhân lên, lan rộng ra nhiều nơi khác nhau. Có nghĩa là, nếu nhìn họ đạo Láng Sen mấy chục năm dài và để ý đến chiều dài lịch sử đó thì tôi thấy có thể chia lịch sử đó ra làm ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn hạt giống Tin Mừng của Đức Kitô được gieo trồng ở đây và được nhiều tâm hồn tốt đón nhận vào lòng. Từ đó đã có những cái nhìn mới về đời sống của mình, đã có nhiều niềm hy vọng mới, đã có nhiều niềm vui mới do hạt giống Tin Mừng Đức Kitô mang lại. Thời gian đó, tôi gọi là thời gian vun trồng hạt giống Tin Mừng. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển Tin Mừng. Có nghĩa là nhờ sự cầu nguyện, nhờ Lời Chúa, nhờ các Bí tích, nhất là phép Mình Thánh, nhờ các việc từ thiện bác ái, và nhờ những khổ đau chúng ta chịu vì danh Chúa, thì hạt giống Tin Mừng đã đón nhận được ăn rễ sâu vào các tâm hồn, lớn mạnh lên như những cây tốt đẹp, sinh hoa sinh trái. Có thể nói là từ giai đoạn đó, Đức Kitô hoạt động ở nơi đây một cách rộng rãi sâu xa trong tâm hồn và biến đổi các tâm hồn thành nơi Chúa ngự, thành những phần tử của Nước Trời. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn Tin Mừng lan rộng. Đó là thời gian khi chúng ta đã có một hạt giống Tin Mừng trở thành cây cao, ăn rễ sâu, thì Tin Mừng đó lan rộng ra trong gia đình, trong khu xóm, trong địa phương và có thể lan rộng ra ngoài biên giới họ đạo, ở ngoài biên giới địa phương chúng ta. Tôi vừa nói là nếu nhìn lịch sử theo chiều dài của họ đạo thì thấy có ba giai đoạn đó rất rõ rệt. Nhưng nếu bây giờ chúng ta nhìn lịch sử họ đạo chúng ta theo bề dày, tức là trong một tuần lễ thôi, trong một ngày thôi và ngay cả trong một cuộc lễ thôi, thì trong cái bề dày đó chúng ta cũng thấy có cả ba công việc mà tôi vừa nêu lên: vừa gieo trồng đón nhận hạt giống Tin Mừng, vừa phát triển hạt giống đó và vừa nhân lên hạt giống đó. Tôi thí dụ: ngay cuộc lễ hôm nay, bây giờ đây, đối với nhiều người, kể cả chính tôi, chúng ta đã đón nhận được nhiều hạt giống Tin Mừng mới Chúa đang gieo trồng vào tâm hồn. Từ sáng đến giờ và ngay từ giờ phút này chúng ta đón nhận được một số Tin Mừng mới qua Lời Chúa, qua lời giảng dạy, qua gương sáng và qua phụng vụ, qua bầu khí gia đình họ đạo. Đó là việc gieo hạt giống Tin Mừng mới. Rồi cũng chỉ trong lễ hôm nay, chúng ta đang thấy Chúa phát triển hạt giống Tin Mừng trong tâm hồn ta. Hạt giống ăn rễ sâu hơn, rồi sau đó, lan ra những người chung quanh. Như vậy, theo chiều dài lịch sử và theo bề dày lịch sử, tôi đã thấy họ đạo Láng Sen có nhiều thành công tốt đẹp. Chúng ta nên ca ngợi Chúa vì những kết quả ấy. Hãy bảo trì những gì đã thành tựu, và hãy mở con đường cho tương lai họ đạo với những hy vọng mới, với những niềm khát mong mới. Tôi xin nhắn nhủ anh chị em hôm nay một điều: đó là chúng ta phải cảnh giác với chính mình. Trong Phúc Âm, Chúa luôn luôn khuyên chúng ta hãy nhớ rằng: đang khi hạt giống Tin Mừng được gieo trồng trong tâm hồn, trong họ đạo, thì bên cạnh hạt giống đó cũng có những cỏ xấu, những gai góc. Bài Phúc Âm hôm nay cũng nhắc lại những gai góc đó. Nếu chúng ta không phấn đấu để loại trừ những gai góc, những cỏ dại, thì hạt giống đó sẽ dần dần chết đi. Chúng ta cũng đã thấy Chúa Giêsu cảnh giác: Chúng con có một Cha nhân từ, có một Chúa là Chúa chiên lành nhưng đừng quên chúng con cũng đang có quỷ dữ, như sư tử rình rập, tìm kiếm để xé nát chúng con. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói về quỷ dữ ăn cắp những hạt giống tốt được gieo trồng nơi tâm hồn con người. Chúng ta có thể thấy chuyện đó có thể xảy ra trong tâm hồn chúng ta, chớ không phải ở xa đâu. Có những tính mê nết xấu, có những thói quen xấu, làm ngạt hạt giống Tin Mừng và làm chết đi hạt giống Tin Mừng. Chúng ta cần phải cảnh giác điều đó. Rồi trong Phúc Âm, Chúa luôn luôn cảnh giác chúng ta hãy phân biệt ý Chúa và ý riêng mình, mặc dù nhiều khi ý riêng mình coi như là tốt. Như có lần thánh Phêrô đã trình bày ý của ngài đối với Chúa. Ý đó là ý đạo đức, nhưng Chúa Giêsu bảo: Ý của con không phải do Thiên Chúa nhưng do xác thịt con (x.Mt 16,23). Cũng vậy, nhiều khi chúng ta tưởng rằng làm thế này thế nọ là sáng danh Chúa, là mở Nước Chúa, nhưng ý Chúa thì khác. Chúng ta phải cố gắng cảnh giác với chính mình, phân định cái gì là Nước Chúa thực, cái gì là lợi ích riêng, để chúng ta luôn luôn quy phục thánh ý Chúa mà thôi. Cuộc sống bao giờ cũng phải phấn đấu. Muốn trở nên một người giàu có, phải phấn đấu. Muốn trở nên một người giỏi, phải phấn đấu. Muốn trở nên một người thông minh, phải phấn đấu. Muốn trở nên một người đạo đức thánh thiện, càng phải phấn đấu, nhất là phấn đấu với chính mình. Trước một tình hình nhiều khi không thuận lợi, chúng ta hay có thói quen đổ lỗi cho người này, đổ tại hoàn cảnh kia. Nhưng việc đầu tiên chúng ta nên làm là hỏi chính mình, xem chúng ta có phấn đấu không? Ở đây, trong vấn đề phấn đấu, tôi đề nghị anh chị em thực thi hằng ngày mấy việc rất dễ: Trước hết là cầu nguyện. Theo kinh nghiệm riêng của tôi, cũng là kinh nghiệm trong Phúc Âm, chúng ta chỉ có thể đổi mới được chính mình, đổi mới được họ đạo, Hội Thánh và dân tộc ta nhờ ơn Chúa. Nhiều khi chúng ta cố gắng hết sức mình nhưng kết quả không thành là bởi vì chúng ta thiếu sự trợ giúp của ơn thánh. Vì thế phải cầu nguyện rất nhiều. Hội Thánh khuyên chúng ta năng cầu nguyện vắn tắt: “Lạy Chúa xin thương xót con”. “Lạy Chúa xin thương xót con”. Đây là lời cầu nguyện mà phụng vụ hay nhắc đi nhắc lại. Tôi nhớ là: khi dự những thánh lễ của Giáo Hội Đông phương thì lời cầu nguyện “Lạy Chúa, xin thương con” được hát đi hát lại không phải sáu lần, mà mấy chục lần, để cho tâm tình cầu nguyện khiêm tốn thấm sâu vào tâm tư mỗi người. Đó là cơ sở Kinh Thánh, cơ sở thần học, cơ sở tu đức. Hãy năng cầu xin Chúa thương xót chúng ta. Và hãy tập cho họ đạo, cho con em chúng ta năng cầu nguyện riêng với Chúa: “Lạy Chúa xin thương xót con”. ở nhà, đi đường, giao tiếp, học hành, buôn bán, làm ăn, thỉnh thoảng hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con” . Phương pháp thứ hai để chúng ta phấn đấu với chính mình là chúng ta tập quen huấn luyện trái tim chúng ta trở nên yêu thương khiêm tốn như trái tim Chúa Giêsu. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa chú trọng đến vấn đề đào tạo lương tâm, trái tim, tấm lòng, sao cho nó tốt, cho nó trong sáng, cho nó khiêm tốn, cho nó bao dung, cho nó có nhiều chất yêu thương. Hãy nhớ lời Chúa dạy: Khi chúng ta làm một chút việc lành cho người khác thì chính Cha nhận như là làm cho chính mình Cha. Hãy nhớ điều đó để mỗi người chúng ta làm một chút việc lành cho những người chung quanh. Sau cùng, một điều giúp chúng ta phấn đấu với chính mình là chúng ta chấp nhận đi vào những khổ đau, những hy sinh để dâng cho Chúa. Tôi nhớ một câu mà người ta nhắc đi nhắc lại. Câu đó là của một người bị tù đày thời Phát-xít của Đức. ở trong tù, ông đã viết một câu trong nhật ký: “Bây giờ con không thể làm gì cho Chúa nữa, bây giờ con không thể đi rao giảng sự gì về Nước Trời, con chỉ còn cách chịu khó, chịu đau, chịu nhục, và con dâng tất cả những cái đó cho Chúa để cùng với mầu nhiệm thánh giá, xin Chúa cứu độ nhân loại”. Tôi nghĩ đây là cái mọi người chúng ta có thể áp dụng được cho chính đời sống mình ngay bây giờ. Từ sáng đến giờ anh chị em vất vả lặn lội đến đây để dự lễ. Hãy dâng những khổ cực đó, những hy sinh đó cho Chúa, cùng với Máu cực thánh Chúa. Chúa sẽ thánh hoá chúng ta và giúp chúng ta phấn đấu để chúng ta thắng những sự dữ trong tâm hồn, trong gia đình, trong xóm ngõ và trong đất nước chúng ta. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa cho hạt giống Tin Mừng được phát triển, được lan ra, nhất là nơi gia đình chúng ta, nơi thôn xóm chúng ta, và tất cả địa phương chúng ta. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Láng Sen, ngày 24-08-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong phụng vụ, sau khi nghe đọc bài Phúc Âm, cộng đồng dân Chúa đồng thanh tung hô: “Lạy Đức Kitô, ngợi khen Chúa”. Vừa rồi chúng ta cũng đã làm như vậy. Chúng ta ngợi khen Đức Kitô, bởi vì giờ đây, qua Lời Chúa ban sự sống, Đức Kitô đã đến với chúng ta để ở giữa chúng ta, để viếng thăm chúng ta, để dạy dỗ chúng ta. Chúng ta ngợi khen Đức Kitô, bởi vì qua Lời Chúa ban ơn soi sáng, giờ đây Đức Kitô muốn dạy chúng ta thế nào là nếp sống đạo đức mang thực chất Tin Mừng. Chúng ta ngợi khen Đức Kitô bởi vì qua Lời Chúa ban ơn khôn ngoan, chúng ta có thể coi cuộc lễ hôm nay là một cơ hội tốt, là một ân huệ đặc biệt, để chúng ta dò xét lại nếp sống đạo của chúng ta. Trong tinh thần ca ngợi Đức Kitô, tôi xin được chia sẻ âm vang Lời Chúa trong tôi khiến tôi và có thể tất cả anh chị em sẽ có cơ hội đi sâu vào vấn đề phúc âm hoá chính mình và cộng đoàn của mình. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa đề cập đến nếp sống đạo. Trong nếp sống đạo, có những việc thuộc dạng bề ngoài, và có những việc thuộc dạng bên trong tâm hồn. Trong nếp sống đạo, có những việc thuộc dạng phụ thuộc ít quan trọng và có những việc thuộc về dạng căn bản, chính yếu phải coi là quan trọng. Chúa Giêsu cho biết là nhiều người khi giữ đạo đã chỉ lo những việc bề ngoài, những việc phụ thuộc mà quên đi việc chăm sóc những giá trị nội tâm, những giá trị Chúa coi là quan trọng hơn, có tính cách căn bản. Một nếp sống như vậy bị Chúa kết án là không đạo đức, không mang Tin Mừng. Trái lại, có những người vừa lo giữ những việc phụ thuộc, những việc bề ngoài lại vừa chu đáo thực hiện những việc bên trong tâm hồn, lo chu toàn những giá trị thiêng liêng mang thực chất Tin Mừng. Một nếp sống đạo như vậy được Chúa khen là đạo đức thực, là mang tính chất Tin Mừng thực sự. Như vậy, Chúa để ý đến vấn đề phải biết chu toàn bổn phận vun trồng những giá trị bên trong, nhưng không bỏ qua những việc bên ngoài, phụ thuộc. Để làm rõ ý, Chúa Giêsu hôm nay nhắc đến ba đức tính mà Chúa coi là quan trọng trong nếp sống đạo: một là tinh thần chính trực, hai là tấm lòng thương xót nhân ái, ba là ý chí trung thành. Chính trực là sống ngay thẳng theo lương tâm người con Thiên Chúa được Thánh Linh hướng dẫn. Nhân ái là biết đồng cảm với những tình cảnh của những người chung quanh khốn khổ. Trung thành là biết trọng lời hứa, giữ đúng bổn phận của mình, giữ đúng những lời cam kết với Chúa, với gia đình, với đất nước vv... Ba đức tính đó cần phải ở trong ta, cần phải sống động trong ta. Nó phải trở nên nguồn mạch phát sinh ra các tư tưởng, các tình cảm, các ý muốn, các lời nói, các việc làm. Nó phải trở nên chất thanh luyện hoặc bồi dưỡng chúng ta trong tất cả mọi sinh hoạt để nhờ đó chúng ta được phúc âm hoá. Tôi thí dụ: Khi các cha phụ trách họ đạo ở đây và anh chị em họ đạo kinh Ông Quýt nghĩ đến công việc xây cất tháp chuông, khu nhà xứ, chỉnh trang nhà thờ, thì những động lực làm nên những ước muốn đó chính là lương tâm chính trực đối với Chúa, đối với Hội Thánh, đối với đồng bào. Động lực đó chính là lòng nhân ái xót thương họ đạo, và những thế hệ sau này. Động lực đó chính là sự trung thành với bổn phận, bổn phận phải thăng tiến chính mình, thăng tiến đoàn chiên, thăng tiến địa phương, thăng tiến cộng đoàn giáo xứ, giáo họ của mình. Rồi trong suốt quá trình xây dựng, cả ba đức tính đó phải luôn hiện diện, phải luôn đi kèm, để nhờ đó công trình xây dựng tiến triển và đồng thời ba đức tính ấy cũng phát triển trong ta. Nhờ đó chúng ta thấy có những bước tiến cả bên ngoài cả bên trong, cả vấn đề phụ thuộc cả vấn đề chính yếu. Ngay trong cuộc lễ hôm nay, chính ba đức tính đó sẽ là ba tiêu chuẩn đánh giá chúng ta. Người ta nhiều nơi thường đánh giá một người, một tôn giáo, một cuộc lễ tôn giáo, một công trình tôn giáo theo tiêu chuẩn có tính cách xã hội. Thí dụ như là: thành công về việc tổ chức, thành công về mặt kỹ thuật, thành công về mặt thu hút tiền của và khách đến. Những tiêu chuẩn đó chỉ là về mặt xã hội, chớ không hẳn đúng về mặt Phúc Âm. Tiêu chuẩn mà Chúa muốn chúng ta dựa vào để đánh giá chúng ta, đánh giá những công trình tôn giáo, đánh giá những cuộc lễ tôn giáo, đó là ba đức tính nói trên: Tình yêu của chúng ta có trung thành với bổn phận không? Tình yêu của chúng ta có thương xót người ta không? Tình yêu của chúng ta có chính trực không? Ba đức tính trên đây cũng là những giá trị đang làm đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam. Ba đức tính trên đây cũng là ba đức tính, mà các tôn giáo bạn chung quanh ta đang vun trồng nơi những tín hữu của các tôn giáo đó. Và ba đức tính trên đây cũng chính là những bước đi trên con đường dương thế, mà Đức Mẹ đã thực hiện để đi về trời. Với những suy nghĩ trên đây và khi nhìn anh chị em, tôi có thể nói thế này: Phúc cho tất cả anh chị em, vì hôm nay anh chị em đã biết giữ những điều phụ thuộc bề ngoài, nhưng đồng thời cũng quyết tâm cố gắng vun trồng những gì là căn bản, là chính yếu của Phúc Âm. Phúc cho những người ân nhân xa gần đã góp phần vào việc xây dựng những công trình của họ đạo. Bởi vì qua những sự góp phần đó, anh chị em làm chứng được tinh thần trung hiếu, tinh thần nhân ái, tinh thần chính trực. Và cách riêng, phúc cho anh chị em họ đạo Lộ Đức, phúc cho các cha đang phụ trách ở đây, bởi vì qua những công trình đã thực hiện được, anh chị em đã là dấu chỉ của Tin Mừng, anh chị em đã làm được những việc có khả năng phục vụ và phát triển những giá trị thiêng liêng. Tôi cần nói thêm là phúc cho các con chịu phép Thêm Sức hôm nay, vì lễ hôm nay đang gây một ấn tượng rất tốt, lâu dài trong tâm trí các con. Suốt đời các con sẽ nhớ lại ngày hôm nay được Thêm Sức trong một bầu khí đạo đức chan hoà với những tâm hồn có tinh thần công chính, có lòng nhân ái, có tinh thần trung tín. Xin Chúa Thánh Linh giúp cho thành quả hôm nay kéo dài mãi và nhân lên mãi để họ đạo chúng ta trở thành một cộng đồng làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Amen. lễ làm phép chuông và nhà xứ Lộ Đức, kinh Ông Quýt, Năng Gù, ngày 26-08-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Họ đạo Chợ Thủ là một họ đạo bé nhỏ, nhưng là một cộng đoàn đã được thành lập từ nhiều năm. Nếu so sánh với các họ đạo khác trong giáo hạt và trong giáo phận, thì họ đạo Chợ Thủ này, tuy bé nhỏ nhưng vẫn là một họ đạo cao niên. Với những điều kiện thuận lợi về địa thế và về nhân sự, họ đạo Chợ Thủ của anh chị em có quyền được coi là một giáo điểm có triển vọng về phát triển tu đức, phúc âm hoá và truyền giáo. Riêng tôi, tôi cũng đặt nhiều hy vọng vào họ đạo Chợ Thủ, chính vì vị trí của họ đạo và vì những điều kiện thuận lợi của họ đạo. Tôi nghĩ là anh chị em ý thức điều đó và đã cố gắng thực thi điều đó và đem ra thực hành những ơn Chúa ban. Để đẩy mạnh hơn nữa tiềm năng truyền giáo của anh chị em, thì một câu hỏi được đặt ra lúc này là chúng ta cần phải có đường lối nào, kế hoạch nào? Theo tôi, không có đường lối nào, kế hoạch nào hữu hiệu bằng kế hoạch và đường lối Phúc Âm. Nghĩa là điều ưu tiên chúng ta phải làm, đó là chính chúng ta phải được phúc âm hoá. Ưu tiên phải làm là chúng ta phải cố gắng trở nên những môn đệ Đức Kitô. Những môn đệ Đức Kitô tỉnh thức, những môn đệ Đức Kitô khôn ngoan, những môn đệ Đức Kitô trung tín. Việc ưu tiên chúng ta phải làm để có thể truyền giáo một cách đắc lực, dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất, đó là trong chúng ta phải có chính Đức Kitô, phải có chính Chúa Thánh Thần, phải có chính Chúa Cha, nghĩa là chính chúng ta phải có sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi, và khi chúng ta có sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi rồi, thì trong ta sẽ có tình yêu nồng cháy. Về phương diện truyền giáo, mới rồi, một Đức Hồng y ở Bỉ đã nói một cách rất đơn giản nhưng rất gợi ý, đại ý thế này: Khi tôi suy nghĩ về đường lối truyền giáo, thì trước mắt tôi có ba phương án: - Phương án thứ nhất là tôi sẽ trở thành chiếc búa, nghĩa là tôi sẽ có thái độ cứng rắn. ở đâu có tội lỗi thì tôi trừng phạt, tôi kết án. - Phương án thứ hai là tôi sẽ trở nên một cái loa. Tôi sẽ dùng mọi cách để nói về Hội Thánh, về Thiên Chúa. Tôi nói nhiều, nói dài, nói lâu, nói cho mọi người nghe. Rồi ngài phê phán: Nếu tôi dùng phương án thứ nhất thì tôi sẽ là cái búa, đập thì đau tay tôi, đau người khác. Kết quả sẽ chẳng được gì. Mà nếu tôi là cái loa, nếu không có hồn thì chẳng trao gửi được gì cho những người nghe. Tệ hơn nữa là có thể mệt người nghe, làm cho họ bực tức. Còn phương án thứ ba là tôi sẽ trở thành lò lửa. Ai đến gần tôi sẽ cảm thấy lửa tình yêu Chúa toả ra. Và tôi đi đâu, tôi nói gì, tôi tiếp xúc với ai thì tự nhiên người ấy sẽ cảm thấy được một cái gì về sự nồng nàn của tình yêu Thiên Chúa trong tôi. Như vậy, tất nhiên tôi chọn phương án thứ ba. Đó là một sự lựa chọn rất đúng Phúc Âm. Khi Đức Kitô chọn thánh Phêrô thì Ngài chỉ hỏi: “Con có mến Thầy không?”. “Con có mến Thầy không? Con có mến Thầy không?” (Ga 21,15-17). Ngài nhấn mạnh đến tình yêu. Tông đồ của Chúa, không có một kế hoạch nào khác ngoài sự chính mình phải có tình yêu nồng nàn trong trái tim mình. Một tình yêu nồng nàn đối với Chúa, một tình yêu bao dung, quảng đại, chan hoà đối với những người chung quanh. Tôi thiết nghĩ thánh Augustinô cũng đã là người môn đệ Đức Kitô, có những đức tính mà Đức Kitô kể ra hôm nay trong bài Phúc Âm: người luôn tỉnh thức, người luôn luôn khôn ngoan, người luôn luôn trung tín, và nhất là người khiêm nhường. Trong cuốn “Tự thuật” của ngài, điều mà ngài khoe nhiều nhất chính là tội lỗi yếu đuối của ngài. Ngài không nói gì về những thành công, mà chỉ xưng ra những yếu đuối, những lỗi lầm của mình, để rồi ca tụng lòng thương xót Chúa đã giúp cho mình trở lại. Đó là sự khôn ngoan của những vị thánh. Đó là sự tỉnh thức với ơn Chúa Thánh Thần của các môn đệ. Đó là sự trung tín của những tâm hồn như Đức Mẹ “Xin vâng” mặc dù trong những hoàn cảnh đau thương thê thảm, thất bại nhất. Trong địa phương chúng ta, chúng ta thấy có những đoàn người đông đảo đi hành hương chỗ này chỗ khác. Chúng ta quan sát thì thấy người ta đi tìm người thánh chớ không phải đi tìm nơi thánh. Đó là tín hiệu báo cho chúng ta thấy nhân loại hiện nay đang cần những người thánh. Và một khi có người thánh, thì tự nhiên có thể đổi mới lại được xã hội, gia đình và Hội Thánh. Đây là điều Đức Thánh Cha đã nhiều lần nói tới. Mới rồi, có một Đức Hồng y ở giáo triều Rôma cũng đã khẳng định: Hội Thánh và nhân loại không được đổi mới nhờ các hội nghị, nhờ các đại hội, mà được đổi mới nhờ những con người thánh. Họ đạo chúng ta hãy cố gắng trở nên thánh như thánh Phaolô đã nói: “Không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Hãy đơn sơ làm như vậy, nghĩa là hãy để cho Đức Kitô thống trị lòng ta. Tôi không là gì. Tôi không làm gì cho ra chuyện. Tất cả đều nhờ ơn Đức Kitô dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Khi chúng ta ý thức được như vậy và đi theo hướng đó, thì chúng ta sẽ thấy họ đạo chúng ta đi đúng đường lối của Phúc Âm. Và theo con đường đó, chúng ta sẽ phát triển về các mặt, nhất là về mặt đạo đức, về mặt truyền giáo. Tôi hy vọng rất nhiều vào họ đạo anh chị em, bởi vì anh chị em có nhiều tiềm năng, có nhiều quảng đại. Chúa rất vui mừng vì anh chị em. Chúa hy vọng nhiều ở anh chị em. Xin Chúa Thánh Linh giúp cho anh chị em hôm nay lắng nghe được tiếng Chúa và biết đánh thức những tiềm năng tốt trong lòng mình để lên đường đi theo Đức Kitô. Amen. Lễ Thêm Sức tại Chợ Thủ, 28-08-1997
Hôm nay, tôi được vui mừng gặp lại anh chị em. Nhìn qua tình hình và nghe qua tình hình, tôi nhận thấy giáo xứ anh chị em đã có nhiều tiến bộ. Những năm vừa qua là một quá khứ nhiều ấn tín của những phát triển về kinh tế, về xã hội, nhất là về văn hoá và đức tin. Tôi cầu mong sang năm mới 1997 này, anh chị em sẽ có được nhiều phát triển mới. Nếu có ai hỏi tôi cái phát triển nào tôi cầu mong tha thiết nhất cho anh chị em và cũng cho chính tôi, thì tôi sẽ không ngần ngại thưa ngay rằng: Cái phát triển mà tôi cầu mong nhiều nhất, được gợi ý trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là phát triển về cái nhìn Đức Kitô. Nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta đã thấy thánh Gioan nhìn Đức Kitô theo khía cạnh Ngài là Đấng Cứu độ: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”. Các tông đồ đã nhìn Đức Kitô theo khía cạnh đó. Các ngài đã tuyên xưng Đức Kitô theo khía cạnh đó. Suốt đời các ngài đã giảng về Đức Kitô theo khía cạnh đó. Và các ngài đã chịu tử vì đạo cũng vì tuyên xưng và rao giảng Đức Kitô theo khía cạnh đó. Đức Kitô là Đấng Cứu độ: cứu độ của nhân loại, cứu độ của tôi. Riêng tôi, tôi thấy cái nhìn về Đức Kitô theo khía cạnh đó đã làm cho tôi có những cảm nghiệm thiêng liêng. Nó trở thành một nguồn sáng và một sức mạnh giúp cho bước đường của tôi trong mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh. Tôi thí dụ: Khi tôi đang nhìn thấy một thành công, tôi tưởng rằng thành công này là do tiền bạc, là do tài ba, là do người nọ người kia. Thì chính trong lúc đó, Đức Kitô đến và giải thoát tôi, cứu tôi khỏi những thành kiến, ảo tưởng, để dẫn tôi về đến cội nguồn của thành công, đó là Đức Kitô. Ngài cứu tôi khỏi những thành kiến dẫn đưa tôi đến tự mãn, tự cao, tự đại. Ngài đúng là Đấng Cứu độ. Rồi thí dụ: Trong một hoàn cảnh có những thất bại, tôi muốn chán nản. Khi ấy, Đức Kitô đến với tôi và cứu tôi khỏi thất vọng, đem tôi đến với Ngài là nguồn hy vọng, để trong một khoảng cách đầy tăm tối, tôi vẫn nhìn thấy Ngài là Đấng Cứu độ duy nhất của tôi. Để có một cái nhìn gây nên cảm nghiệm sống động như vậy, chúng ta cần phải tập. Việc thứ nhất chúng ta nên tập, để cái nhìn về Đức Kitô Cứu độ nội tâm hoá và trở nên sức sống của chúng ta, là năng chiêm ngắm Đức Kitô. Hãy năng nhìn Đức Kitô từ hang đá đến núi Calvariô. Thí dụ nhìn vào hang đá, tôi thấy Đức Kitô tự hạ, chịu bao nhục nhã đớn đau. Tôi tự hỏi: Vì ai Chúa phải như vậy? Tôi trả lời cho chính mình: Vì tôi, vì để cứu độ tôi. Tôi nhìn thánh giá, tôi cũng hỏi như vậy, và tôi cũng trả lời như vậy. Chúa vác thánh giá, Chúa chết trên thánh giá vì tôi, để cứu độ tôi. Khi chiêm ngắm Đức Kitô như vậy hàng ngày, thì hình ảnh Đức Kitô Cứu độ thấm nhập vào trong ta, trở nên hơi thở của ta. Việc thứ hai nên làm, là đến với Đức Kitô trong tâm tình của kẻ cần được cứu độ. Tôi đến với Đức Kitô giống như người bại liệt trong Kinh Thánh, và tôi nói với Chúa rằng: Con không thể nào chỗi dậy được. Xin thương xót con, vì Chúa là Đấng Cứu độ con. Rồi tôi đến với Đức Kitô như kẻ trộm bên hữu Chúa, tôi nói: Con tội lỗi. Con chịu đóng đinh. Con không thể làm được gì cho chính con, xin Chúa nghĩ đến con, xin thương xót con. Hãy đến với Đức Kitô trong tâm tình một kẻ cần được cứu độ, thì những lần đến như vậy, Đức Kitô sẽ mặc khải cho chúng ta chân dung thực của Ngài: Ngài là Đấng Cứu độ. Việc thứ ba chúng ta nên làm, để Đức Kitô Cứu độ thống trị tâm hồn chúng ta suốt đời, đó là chúng ta năng cầu nguyện. Cầu nguyện bằng cách tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ: Lạy Đức Kitô là Đấng Cứu độ, xin thương xót con. Cầu nguyện bằng cách tạ ơn: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã cứu con. Cầu nguyện như vậy, tuyên xưng như vậy, đó là một cách giúp cho tâm tình chúng ta ở trong tư thế nhìn nhận Đức Kitô là Đấng Cứu độ. Đến đây có những câu hỏi tự nhiên cần phải đặt ra cho chúng ta. Trên thực tế cho đến hôm nay, chúng ta có năng nhìn Đức Kitô là Đấng Cứu độ của ta không? Chúng ta có năng cầu nguyện bằng cách tạ ơn Đức Kitô, vì Ngài đã cứu độ ta không? Trên thực tế, có bao giờ chúng ta cảm nghiệm thấy một cách sống động về sự Đức Kitô là Đấng Cứu độ tư riêng cho chính mình ta không, hay là chúng ta chỉ tuyên xưng Ngài theo công thức đã được hướng dẫn? Nếu chúng ta nhìn nhận Đức Kitô là Đấng Cứu độ của ta suốt năm nay, thì đó là chúng ta đi vào chương trình chuẩn bị Năm Thánh, là Năm nhìn Đức Kitô là Đấng Cứu độ. Lúc nãy, anh chị em đã hát bài đáp ca tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ, đặt hết niềm hy vọng vào Ngài, đặt hết niềm cậy trông vào Ngài. Khi nghe anh chị em hát bài đó, tôi thầm cầu xin với Chúa cho bài đó trở nên một hướng dẫn cho anh chị em suốt năm 1997 này, là hướng về Đức Kitô dưới khía cạnh Ngài là Đấng Cứu độ. Chỉ có Ngài là Đấng Cứu độ, Ngài là nguồn hy vọng, Ngài là tảng đá, để chúng ta tựa nương, để chúng ta vịn vào, để chúng ta nắm lấy mà đi trong tương lai. Mặc dù có những khó khăn, mặc dù có những đớn đau, mặc dù có những vấp phạm, nhưng một khi Đức Kitô Cứu độ ở bên chúng ta, chúng ta sẽ không có ngần ngại vì chúng ta tin vào Ngài. Trong thánh thư vừa nghe, thánh Phaolô cho thấy: Ngài cảm thấy cô đơn, ngài cảm thấy bị mọi người hất hủi. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, ngài đã được hy vọng và niềm vui vì nghĩ rằng Đức Kitô là Đấng Cứu độ. Và ngài quả quyết: Chỉ một điều đó thôi, cũng đã đủ để ngài có lý do tạ ơn Thiên Chúa. Hiểu ý đó, tôi thấy mục đích của tôi, mục đích của Hội Thánh chúng ta chính là tuyên xưng Đức Kitô Cứu độ. Cho dù sau này mọi sự sẽ trở nên rất khó khăn, nhưng tâm tình chúng ta, miệng lưỡi chúng ta vẫn còn có thể tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ và chia sẻ tâm tình đó với người chung quanh, thì việc đó được kể như đủ cho chúng ta an tâm. Vì Chúa sai chúng ta đi để làm việc đó. Chúng ta phải tập trung vào việc đó, nhất là trong năm nay. Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta nhìn thấy dung nhan Đức Kitô Cứu độ. Ngài rất cần cho phần rỗi chúng ta, cho phần rỗi gia đình chúng ta. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Vinh Sơn, Kinh 0, Tân Hiệp, ngày 03-01-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Họ đạo anh chị em là một cộng đoàn bé nhỏ. Nhìn cộng đoàn bé nhỏ này, tôi có cảm nghĩ là anh chị em vừa ý thức được mình bé nhỏ bề ngoài, và cũng vừa biết sống tinh thần thơ ấu Phúc Âm bên trong. Cảm nghĩ này cho phép tôi nhớ lại lời Đức Kitô xưa đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha vì Cha đã giấu nhiều mầu nhiệm Nước Trời cho những người thông thái, nhưng đã mặc khải cho những người bé nhỏ”. Đúng là Chúa đã mặc khải cho anh chị em ở đây nhiều điều chân thực, và đúng là anh chị em, một cộng đoàn bé nhỏ, đã đón nhận được nhiều điều chân thực về Nước Trời. Trong tinh thần đó, giờ đây, tôi cũng muốn nhấn mạnh đến một điều rất chân thực, mà Phúc Âm hôm nay đã nói đến, đó là phép rửa trong Thánh Thần. Phép rửa trong Thánh Thần là thế nào? Theo tôi hiểu, thì phép rửa trong Thánh Thần mà Phúc Âm hôm nay nói tới không phải là phép rửa chủ ý rửa tội tổ tông và các tội riêng, mà là rửa những thành kiến, những định kiến, những cách nhìn, những cách suy nghĩ, những cách đánh giá, những cách lựa chọn không đúng với thánh ý Chúa. Để từ đó, con người được rửa trong Thánh Thần biết nhìn đúng, biết chọn đúng, biết bước đi đúng, và biết luôn luôn sẵn sàng theo ý Chúa. Tôi thí dụ: Thời Chúa Giêsu, dân Do Thái từ các thượng tế cho đến người dân, ai cũng tưởng rằng, khi Đấng Cứu thế đến, thì Ngài đến trong vinh quang, trong uy quyền như một ông vua, như một vị tướng, như một đấng tiên tri hùng dũng. Nhưng khi Đức Kitô đến trong khiêm hạ, trong khó nghèo, thì họ không nhận ra. Chỉ có một số người nhỏ như Gioan Tiền Hô, như Ba Vua, như mấy người mục đồng đã nhận ra. Bởi vì họ được rửa tội trong Thánh Thần. Thánh Thần đã rửa họ khỏi những định kiến, khỏi những thành kiến, khỏi những suy nghĩ cố định. Họ đã nhìn đúng mặc dầu bề ngoài nhiều người đã không nhận ra. Rửa trong Thánh Thần có nghĩa là như vậy. Những người được rửa trong Thánh Thần khi nhìn sự việc xung quanh tầm thường, đã nắm bắt được ý Chúa. Họ nhìn thấy Đức Kitô trong đó, họ gặp được Đức Kitô trong đó. Thêm vào đó, phép rửa trong Thánh Thần còn cho người ta một tinh thần tỉnh thức, để luôn luôn họ nhìn thấy lúc nào là cơ may, để họ thực thi những việc có khả năng làm vinh danh Chúa. Họ cũng như người khác, cũng đi trong con đường đời, cũng phải buôn bán, cũng phải làm ăn, nhưng tâm hồn họ tỉnh thức, để trong một trường hợp nào đó coi như khó khăn, họ nhờ ơn Chúa Thánh Thần, nắm bắt lấy cơ may, và trong cơ may đó họ thực thi việc làm sáng danh Chúa. Tôi thí dụ: Thánh Phaolô tông đồ là một người rất hăng say rao giảng Tin Mừng. Ngài có nhiều dự định. Ngài đi đây đi đó. Ngài ưa hoạt động. Thế nhưng Chúa đã để cho ngài phải đi tù, đi đày. Ngài được ơn Chúa Thánh Thần, nên ngài lợi dụng cơ hội đi tù đi đày để rao giảng Tin Mừng. Nhờ đó Rôma đã lãnh nhận được Tin Mừng do một người tù. Như vậy chúng ta thấy, những người được rửa trong Thánh Thần có một khả năng dần dần trở nên giống Đức Kitô, biết nhìn như Đức Kitô đã nhìn, biết chọn như Đức Kitô đã chọn, biết làm việc như Đức Kitô đã làm việc. Hiện nay nhìn chung Hội Thánh và nhìn riêng Hội Thánh Việt Nam, tôi có cảm tưởng là Chúa đang làm một phép rửa vĩ đại trong Thánh Thần. Mục đích là để rửa Hội Thánh, rửa từng cộng đoàn, rửa từng người cho khỏi những thành kiến cố định mà mình tưởng rằng đúng nhưng thực sự không đúng. Chúa đang thanh tẩy những cái chúng ta coi như tốt, nhưng trước mặt Chúa đang cản đường đổi mới. Chúa đang rửa những cái đó. Nhưng chỉ những tâm hồn khiêm tốn, luôn tìm vinh danh Thiên Chúa và biết suy niệm trong lòng, sẽ đón nhận được phép rửa trong Thánh Thần. Cũng trong cái nhìn đó, tôi thấy rồi đây vô số những chương trình sẽ bị sụp đổ, vô số công trình dự tính của chúng ta sẽ bị phá đi. Những cái mà chúng ta tưởng rằng tốt, chúng ta tưởng rằng làm vinh danh Chúa sẽ được điều chỉnh. Chúa Thánh Thần đang đem lại cho Hội Thánh một mô hình sống đạo mới đó là: Trở về với Đức Kitô, phản ánh gương mặt của Cha trên trời giàu lòng thương xót, phản ánh Phúc Âm, phản ánh Tám mối phúc thật. Chúa Thánh Thần đang rửa Hội Thánh. Chúng ta là những người con Hội Thánh cần biết điều đó, để chúng ta đừng lấy làm ngạc nhiên, khi nghe nơi này nơi nọ gặp những khó khăn. Tất cả đều do Chúa đang thực hiện một phép rửa trong Thánh Thần, để bắt Hội Thánh phải trở về với trung tâm điểm là Đức Kitô. Bởi vì qua lịch sử, Hội Thánh nhiều khi đã đi trệch đường về điểm này về điểm nọ, ở nơi này ở nơi khác, cho nên cần phải được rửa trong Thánh Thần. Hôm nay, tôi chia sẻ như vậy để anh chị em hiểu điều chân thực mà Chúa muốn gởi gắm anh chị em. Anh chị em là một cộng đoàn bé nhỏ, hãy tích cực tham gia, vào công việc phép rửa trong Thánh Thần của Chúa, bằng việc cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, biết khiêm hạ, sẵn sàng đón nhận ý Chúa và luôn luôn chỉ muốn thực thi những việc làm sáng danh Chúa mà thôi. Với thái độ đó, chúng ta sẽ nhận được phép rửa của Chúa Thánh Thần và đó cũng là điều tôi cầu chúc cho các con em chúng ta hôm nay khi chịu phép Thêm Sức. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo họ Vinh Sơn, Kinh A-2, ngày 03-01-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay có một chi tiết đang trở thành khẩu hiệu cho các quảng cáo cũng như trong cách truyền giáo, chi tiết đó là câu Lời Chúa “Hãy đến mà xem”. Câu chuyện xảy ra đơn giản thế này: Hai môn đệ thánh Gioan Tẩy Giả đến với Chúa và hỏi Chúa rằng: “Thầy ở đâu?”. Đức Kitô đã trả lời: “Hãy đến mà xem”. Hai môn đệ đã đến nơi Đức Kitô ở. Họ đã chứng kiến tận mắt nơi chốn Ngài ở, chỗ Ngài cầu nguyện, chỗ Ngài làm việc, chỗ Ngài tiếp khách, chỗ Ngài ăn uống, chỗ Ngài nghỉ ngơi. Họ đã chứng kiến tận mắt cung cách sống của Đức Kitô: cách Ngài tiếp xúc, cách Ngài nói năng, cách Ngài ăn uống, cách Ngài phản ứng. Họ cũng thấy tận mắt những cái gì thuộc về tính người và tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô, và qua đó thấy được phương hướng đời Đức Kitô qua những thao thức, qua những vui buồn, qua những tính toán, qua những lo toan của Đức Kitô. Chỉ sau một ngày một đêm, hai môn đệ ấy đã đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác, từ mến phục này đến mến phục khác. Họ khám phá thấy nơi Đức Kitô những giá trị tuyệt vời, làm cho Đức Kitô có một bản lãnh cao, một nhân cách đáng phục, một phẩm cách đáng kính. Nghèo nhưng giàu tư cách, khiêm nhường nhưng đầy tình văn hoá, đơn sơ nhưng làm cho người ta phải kính trọng. Chỉ một ngày một đêm nhìn tận mắt cách sống của Đức Kitô, hai môn đệ đã được thuyết phục, đã bỏ hết mọi sự và tình nguyện đi theo Đức Kitô. Khi Chúa Giêsu đã lên trời, khẩu hiệu “Hãy đến mà xem” vẫn được tiếp tục thực hiện. Những người ngoài công giáo đã được mời gọi hãy đến mà xem các cộng đoàn đức tin. Họ đã đến và họ đã thấy cách cầu nguyện của những cộng đoàn Hội Thánh sơ khai là rất sốt sắng, tập trung vào sự ca tụng Thiên Chúa. Không xin khỏi bị bắt bớ, không xin khỏi bệnh, không xin của cải. Cầu nguyện chủ yếu là ca tụng, tạ ơn Thiên Chúa. Rồi người ta cũng đã nhận thấy bầu khí của cộng đoàn. Các thành phần đối với nhau tình nghĩa chan hoà, chia sẻ của cải, phục vụ lẫn nhau, tha thứ cho nhau. Rồi họ cũng nhận thấy đức tính nhân bản của cộng đoàn, mọi người cần cù làm ăn, chuyên chăm trau dồi văn hoá. Họ đã đến và đã thấy những giá trị ấy của những cộng đoàn đức tin. Họ đã mến phục. Nhiều người đã trở lại đạo Công giáo. Hiện nay cho đến bây giờ: “Hãy đến mà xem”, vẫn còn là một khẩu hiệu đang được thực hiện và gây được nhiều kết quả tốt. Tháng trước đây trong dịp ghé lại Paris, tôi có hỏi thăm về một tu đoàn mới, thì người ta trả lời: Xin Đức Cha cứ đến mà xem. Tôi đã đến với một nhóm của tu đoàn đó. Người ta dẫn tôi đến một căn nhà giữa một khu phố rộng lớn của Paris nổi tiếng là khu phố ăn chơi, tôi lên gác thì thấy một căn phòng nhỏ để Mình Thánh Chúa, và luôn luôn có những người quỳ chầu Mình Thánh đêm ngày thay phiên nhau. Tôi hỏi: Đây là những người nào? thì họ nói: Đây là những người thuộc về tu đoàn, nhưng một phần khá lớn là những người tình nguyện. Vì thấy ảnh hưởng của tu đoàn nên họ tình nguyện đến chầu Mình Thánh. Tôi bước xuống tầng trệt, thì đây là một quán ăn không sang không nghèo, nhưng rất lịch sự. Một nét đặc biệt trong quán ăn này là những người hầu bàn lại là những linh mục trẻ của tu đoàn, quần đen, sơ-mi xanh, đeo thánh giá. Trước khi xuống phục vụ bàn ăn cho các khách, các linh mục đó đã viếng Mình Thánh, đã suy gẫm. Họ rất ít nói, cần lắm mới nói, nói nhẹ nhàng rất lịch sự. Ai cũng cho các vị linh mục trẻ đó là những người của văn hoá, những người của Thiên Chúa. Rất nhiều người đã đến ăn ở quán ăn này, chính tôi cũng đã thử. Tôi đã cảm thấy một bầu khí cầu nguyện trong chính quán ăn của các linh mục trẻ đó. Và cho đến bây giờ, một trong những hình ảnh đẹp nhất còn ghi lại trong tôi từ chuyến đi vừa qua, là hình ảnh những linh mục trẻ ở quán ăn đó. Sở dĩ họ gây được ảnh hưởng lớn như vậy là vì họ có văn hoá, họ có đời sống nội tâm rất sâu. Cứ đến mà xem rồi thấy mình bị thuyết phục bởi những chứng từ sống động Phúc Âm. Tôi cũng đã hỏi thăm về một nơi tĩnh tâm, người ta cũng trả lời tôi: Xin Đức Cha cứ đến mà xem. Tôi đến, và tôi thấy từng căn phòng, từng dãy nhà, từng người trong đó, đều có những nét văn hoá và tinh thần cầu nguyện. Văn hoá về môi trường, văn hoá về nghệ thuật và khoa học, văn hoá về tính cách dân tộc, văn hoá về giá trị Phúc Âm. Đến rồi thấy và rồi tôi có một cảm tình đặc biệt với nơi tĩnh tâm đó. “Hãy đến mà xem”. Giờ đây, nhìn vào cộng đoàn chúng ta, chúng ta có thể gởi tới những người xa gần lời kêu gọi: “Hãy đến mà xem” không ? Hãy đến xem nhà thờ chúng tôi với những người đang dự lễ và sinh hoạt trong nhà thờ này. Hãy đến xem nhà xứ chúng tôi với nếp sống của những người trong nhà xứ chúng tôi. Hãy đến xem cộng đoàn giáo xứ chúng tôi với những người sống đạo công bình thế nào, bác ái thế nào, lương thiện thế nào, văn hoá thế nào. Chúng ta có đủ sẵn sàng để gởi đi lời kêu gọi như Đức Kitô “Hãy đến mà xem” không? Và nhất là chúng ta có thể nói với chính Đức Kitô: Lạy Chúa, hãy đến mà xem. Xem chính lòng con, xem chính nội tâm của chúng con. Tôi nghĩ rằng nhiều người sẽ được Chúa Giêsu khen, sau khi Chúa đến và xem. Chúa sẽ nói : “Phúc cho các con, những đầy tớ trung tín và khôn ngoan”. Nhưng tôi e ngại biết đâu sau khi Chúa đến và xem chúng ta, nhất là kiểm tra tâm hồn chúng ta, Chúa lại nói như trong Phúc Âm: “Ta không biết các ngươi là ai”. Với những suy nghĩ trên đây, tôi cầu mong mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm chính mình, cộng đoàn của mình, để rồi biết cách cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần trong việc đổi mới chính mình, cộng đoàn của mình trong năm mới này. Xin Chúa Thánh Linh, Đấng thánh hoá, Đấng đổi mới, giúp đỡ chúng ta trong công trình đổi mới mà Ngài vốn tha thiết. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Kitô Vua, Kinh A-2, ngày 04-01-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu đã phán: “Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng mà để kêu gọi những người tội lỗi”. Khi suy gẫm lời Chúa phán trên đây, tôi đã thưa với Chúa rằng: Con cảm tạ Chúa vì những lời Chúa vừa nói, bởi vì đây là một chân lý rất ngọt ngào giúp cho con sống ơn gọi của con. Giờ đây tôi muốn chia sẻ vắn tắt với anh em, Lời Chúa phán trên đây đã giúp tôi sống ơn gọi thế nào. Thực vậy, suy gẫm Lời Chúa phán trên đây và làm mục vụ theo Lời Chúa phán trên đây, đã giúp cho tôi khám phá thấy một số sự thực rất cần thiết. Sự thực thứ nhất mà tôi khám phá thấy, đó là khám phá thấy mình tội lỗi. Khi Chúa gọi tôi đi vào đời tu, khi Chúa gọi tôi lên chức linh mục, thì không phải Chúa gọi tôi vì tôi là người công chính, nhưng vì tôi là kẻ tội lỗi. Xưa cũng vậy và nay còn như vậy, không bao giờ tôi thoát lìa được thân phận kẻ tội lỗi. Và khi tôi quên cái nhận thức đó, thì Chúa đánh thức tâm trạng của tôi, bằng cách làm cho tôi nhớ lại những thiếu sót này, những yếu đuối kia, để luôn luôn tôi sẽ nhớ rằng trong ơn gọi đi vào đời tu, trong ơn gọi làm linh mục, có ơn gọi giúp cho mình nhận thức mình là kẻ tội lỗi được Chúa gọi. Và nhận thức đó cần phải làm mới lại mỗi ngày. Vì thế đầu thánh lễ, khi nhận mình tội lỗi, tôi nhận thức đó là một ơn trong ơn gọi đi vào đời tu, trong ơn gọi làm linh mục. Trước khi dâng lễ theo tư cách là linh mục, tôi phải nhận thức tôi là kẻ tội lỗi được Chúa gọi chứ không phải tôi là kẻ công chính. Nhận thức đó giúp cho chúng ta đi vào mầu nhiệm Phục sinh và ơn gọi làm linh mục. Ngoài ra, còn một khám phá thứ hai mà Lời Chúa phán trên đây đã giúp tôi, đó là tôi thấy một sự thực: Khi Đức Kitô đến với tôi thì Người đã đến với dung mạo là Đấng Cứu độ, có một nét đặc biệt giàu lòng thương xót. Khi Ngài gọi tôi đi vào đời tu, vào chức linh mục, thì Ngài đến gọi tôi dưới dung mạo Đấng Cứu chuộc. Để tôi biết rằng: cũng như tôi là kẻ tội lỗi được Chúa thương xoá tội, thì bây giờ tôi đi vào đời tu, tôi làm linh mục cũng là để cộng tác vào ơn cứu độ. Có nghĩa là tôi luôn luôn phải phản ánh dung mạo của Đức Kitô Cứu độ với nét đặc biệt giàu lòng thương xót. Sự thực này, tôi cũng cần phải làm mới lại, cho nó sống động, cho nó có thể cảm nghiệm được. Mỗi lần dâng lễ, khi giới thiệu Đức Kitô trong tấm bánh “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”, tôi lại nhìn thấy Đức Kitô đến với tôi, gọi tôi và luôn luôn nói rằng: Cha xoá tội con trước đã, con cần được Cha xoá tội của con trước khi con nhân danh cha xoá tội kẻ khác bởi vì con vẫn là kẻ có tội cần được cứu độ, cần được xoá tội. Khám phá thứ ba mà Lời Chúa hôm nay giúp tôi thực hiện, đó là khám phá thấy sự thực này: Chúa muốn những kẻ Chúa gọi cần phải trở nên giống Chúa ở nét biết xót thương những kẻ có tội, biết xót thương những người yếu đuối, biết xót thương những kẻ cơ cực. Đây là một nét đặc biệt của Đức Kitô Cứu độ. Ngài tỏ ra quyền năng của Ngài, không phải bằng những phép lạ lẫy lừng mà bằng lòng thương xót thứ tha. Ngài tỏ ra sự cứu độ của Ngài, không phải bằng những gì bề ngoài bắt buộc, mà bằng lòng bao dung cảm thương tha thứ. Thì cũng vậy, Chúa muốn cho chúng ta, những người được gọi vào chức linh mục sau này, cần phải học ở trái tim nhân lành của Chúa, biết yêu thương, biết cảm thông và biết tha thứ cho những người tội lỗi. Ba khám phá trên đây đưa tới ba sự thực tôi vừa chia sẻ đã được củng cố bởi những kinh nghiệm mục vụ của tôi. Những kinh nghiệm đó xác định rằng: Những ai làm mục vụ với một chiều kích Lời Chúa, nhận thức mình tội lỗi, nhận thức Đức Kitô là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót, và luôn luôn có một lòng thương xót với những kẻ khốn cùng tội lỗi, thì những người như vậy thường đạt được những thành công lớn trong mục vụ. Trái lại, ai không theo Lời Chúa dạy trên đây, để rồi làm mục vụ theo kiểu phô trương, cậy mình, tự đắc vv... hay là giới thiệu Đức Kitô khác với dung mạo thực của Đức Kitô Cứu độ, giàu lòng thương xót, thì thường gặp những thất bại, không phải là thất bại bề ngoài, nhưng là thất bại trong việc thuyết phục giúp cho người ta trở về với Chúa. Từ những kinh nghiệm đó, khi tôi làm linh hướng giúp các chủng sinh nhận biết ơn gọi của mình, tôi cũng thường dựa vào ba điều đó như ba dấu chỉ. Chủng sinh nào nhận biết mình tội lỗi, có lòng khiêm tốn, đó là dấu chỉ thứ nhất. Chủng sinh nào biết gặp gỡ Đức Kitô dưới dung mạo Ngài là Đấng Cứu độ giàu lòng thương xót, đó là dấu chỉ thứ hai. Chủng sinh nào có một tấm lòng yêu thương, xót thương đối với những kẻ tội lỗi khốn cùng đó là dấu chỉ thứ ba. Và tôi coi ba dấu chỉ đó như là dấu chỉ của ơn gọi. Nếu chủng sinh nào tự đắc cho mình là công chính, nếu chủng sinh nào chỉ nhìn Đức Kitô như một người làm phép lạ, quyền năng, nếu chủng sinh nào cứng cỏi, không biết rung động cảm thương những người đau khổ tội lỗi yếu hèn, thì thường thường được tôi coi là không đủ dấu chỉ có ơn gọi làm linh mục. Cũng từ những kinh nghiệm đó, tôi thấy rằng vấn đề bồi dưỡng tu đức bây giờ cho các linh mục, cho các chủng sinh cần phải xoáy sâu vào ba điểm đó. Phải luôn luôn ý thức mình tội lỗi cần được Chúa cứu độ, phải luôn luôn nhìn Đức Kitô là Đấng Cứu độ của mình, của Hội Thánh, phải luôn luôn xin Chúa giúp cho mình có một tấm lòng yêu thương chan hoà như Chúa. Tu đức linh mục, tu đức chủng sinh cần nhấn mạnh những điểm đó, cần xoáy sâu vào những điểm đó. Tôi nghĩ đó cũng là con đường giúp chúng ta thành công trong mục vụ sau này. Hiện nay chúng ta đang đi trên con đường tới Năm Thánh năm 2000. Đức Giáo Hoàng kêu gọi chúng ta nhìn vào Đức Kitô như trung tâm điểm của sứ điệp Tin Mừng. Đức Kitô Cứu độ, giàu lòng thương xót, đó là Tin mừng lớn nhất mà chúng ta phải tuyên xưng, chúng ta phải rao giảng, chúng ta phải làm chứng. Và Đức Kitô Cứu độ giàu lòng thương xót chính là Nước Trời. Đó là Nước Trời mà Hội Thánh và chúng ta cần phải đi tới. Nếu đạt được những điều đó, thì đúng là chúng ta sống ơn gọi trên Lời Chúa phán hôm nay. Amen. Thánh Lễ tại Đại Chủng Viện Sao Biển, Nha Trang, ngày 18-01-1997.+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dạy: Đừng để ánh sáng trong thùng kín, nhưng hãy đặt ánh sáng trên giá đèn. Lời Chúa dạy trên đây gợi ý cho tôi nghĩ tới đức tin và văn hoá. Đức tin là một thứ ánh sáng mặc khải. Ánh sáng này, nếu muốn gây được nhiều ảnh hưởng tốt gần xa, cần phải được đặt trên một cái giá đã có sẵn đèn. Theo tôi, giá đèn đó chính là văn hoá. Tôi hiểu: Văn hoá là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần hướng dẫn các ứng xử của con người, thúc đẩy việc phát huy những nhân tố “người”, và do đó giúp cho con người có những chuẩn mực để xây dựng và phát triển xã hội. Vì văn hoá là một kho tàng chứa nhiều giá trị quan trọng như thế, nên vai trò của văn hoá càng ngày càng lớn. Từng người, từng gia đình, từng cộng đoàn sẽ được đánh giá theo trình độ văn hoá, hơn là theo của cải, chức quyền và ý thức hệ. Kinh nghiệm cũng đang cho thấy sức mạnh có thể đổi mới các xã hội chính là sức mạnh văn hoá, chứ không phải sức mạnh chỉ của kinh tế và chỉ của tôn giáo. Cũng vì thế, một đức tin không phiên dịch ra thành các nét đẹp của văn hoá, đức tin đó sẽ mãi chỉ là chuyện tư riêng. Trái lại, một đức tin được diễn tả ra văn hoá, được tuyên xưng bằng văn hoá, được cử hành qua văn hoá, sẽ góp phần không nhỏ trong việc xây dựng xã hội và phát huy con người. Để gọi là đôi chút gợi ý, xin anh chị em nhìn qua thánh lễ hôm nay, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên này. Chủ yếu của thánh lễ giờ đây là cái nhìn đức tin đối với Chúa và đối với đồng bào. Đây là một đức tin mang nặng chiều kích tâm linh, nhưng được diễn tả qua những giá trị văn hoá có thể cảm nhận được: Có những vẻ đẹp của văn hoá môi trường ở xung quanh nhà thờ và ở khuôn viên nhà thờ. Có những vẻ đẹp của văn hoá dân tộc ở cách kiến trúc, cách trang trí trên cung thánh, ở âm điệu ca nhạc trong thánh lễ. Có những vẻ đẹp của văn hoá khoa học trong các hệ thống âm thanh, ánh sáng, nhất là trong cách tổ chức lễ, có trật tự, có ăn khớp, có chính xác. Có những vẻ đẹp của văn hoá nhân văn ở bầu khí lịch sự, tế nhị, bác ái, trong đó mỗi người đều được kính trọng, và mỗi người đều biết tự trọng, tự thức, tự hiểu trách nhiệm của mình đối với cuộc lễ. Có những nét đẹp của văn hoá thánh kinh, ở thái độ cộng đoàn tập trung cầu nguyện, tạ ơn Chúa, trân trọng lắng nghe Lời Chúa, thinh lặng suy gẫm Lời Chúa và sốt sắng hiệp thông với Hội Thánh. Đây là một đức tin được biểu lộ qua những vẻ đẹp của các loại hình văn hoá, nơi con người, nơi cộng đoàn, nơi môi trường, nơi nghi lễ và bầu khí phụng vụ. Thiết tưởng đức tin này sẽ được dễ hiểu như một tin mừng có nhiều khả năng thăng tiến con người về nhiều mặt, nhất là về mặt tâm linh. Giờ đây, khi dâng thánh lễ trong một bầu khí văn hoá này, tôi cảm nghiệm được những tâm tình dâng lên cao và mở rộng ra. Dâng lên cao có nghĩa là khiêm tốn đi lên Thiên Chúa, để ca tụng và yêu mến Ngài là Đấng tác tạo mọi vẻ đẹp. Mở rộng ra có nghĩa là hân hoan gặp gỡ đồng bào là những người cùng sống trên một cơ sở văn hoá Việt Nam. Cũng vì thế mà tôi nghĩ rằng, đối với giáo sĩ chúng tôi, mục vụ đức tin không tách rời khỏi mục vụ văn hoá. Nhất là khi văn hoá là cái vô hình còn lại lúc người ta quên đi tất cả, và là cái thiêng liêng vẫn thiếu lúc người ta đã học được tất cả. Gần 160 linh mục đang đồng tế với hai giám mục chúng tôi, trên cung thánh đây, rất ý thức điều đó. Xin anh chị em cộng tác với chúng tôi, để cùng nhau thực hiện ý thức ấy một cách tốt đẹp nhất. Thiết tưởng đây là một cách rất thích hợp để làm chứng cho đức tin trong thời đại mới này. Lễ Đồng Tế tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 30-01-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Cảm nghiệm đầu tiên khi tôi tới cộng đoàn bé nhỏ này là sự ngạc nhiên. Ngạc nhiên về những vẻ đẹp vật chất nơi thánh đường được trùng tu, nơi nhà xứ được nâng cấp, nơi khuôn viên nhà xứ được làm mới lại. Tôi càng ngạc nhiên hơn vì những vẻ đẹp tinh thần, ở sự hiện diện đông đảo và sốt sắng của cộng đoàn họ đạo, của đại biểu các cộng đoàn xa gần và nhất là sự hiện diện của các vị tăng ni, các đồng bào tôn giáo bạn. Sự ngạc nhiên này thúc đẩy tôi, nhân dịp ngày cuối năm, hãy đánh giá tình hình sống đạo của cộng đoàn bé nhỏ này. Muốn đánh giá một cá nhân, một tập thể, thì cần phải dựa trên những tiêu chuẩn vững chắc. Muốn đánh giá họ đạo này, tôi cũng phải có những tiêu chuẩn vững chắc. Tôi trình bày ý nguyện của tôi với Chúa, xem Chúa muốn tôi đánh giá cộng đoàn anh chị em đây theo tiêu chuẩn nào. Chúa soi sáng cho tôi là hãy đánh giá theo tiêu chuẩn rút ra được từ bài Phúc Âm hôm nay. Tiêu chuẩn thứ nhất, là thái độ tâm hồn bên trong khi thực thi những nghi thức tôn giáo bên ngoài. Chúng ta vừa nghe bài Phúc Âm, Đức Mẹ đã thực hành một số nghi thức tôn giáo bên ngoài như đến nhà thờ, như dâng con kèm theo đôi chim gáy. Những nghi thức tôn giáo bề ngoài đó là tốt, là nên làm, là cần làm. Nhưng giá trị của nó trước mặt Chúa không phải là nghi thức bề ngoài, mà là tâm tình bên trong. Khi Đức Mẹ đến nhà thờ dâng con, dâng của lễ, thì tâm hồn bên trong của Đức Mẹ là rất khiêm tốn, là chân thành đi đến Chúa, là chân thành vâng phục lề luật của Chúa. Còn chúng ta bây giờ thì sao? Tôi nghĩ là chúng ta đang theo gương Đức Mẹ, chúng ta thực thi một số nghi thức tôn giáo bề ngoài, như nghi thức Thêm sức, nghi thức Rước lễ Bao đồng vv... Những nghi thức đó là cần trong một đời sống xã hội, nhưng quan trọng là chúng ta không làm một cách máy móc, không làm vì câu nệ, không làm vì vụ lợi khoe khoang, mà chúng ta làm vì tâm thức thờ phượng. Chúng ta thực tình mến yêu Chúa, chúng ta khiêm tốn trước mặt Đấng Tối Cao và chúng ta khiêm tốn chân thành đối với nhau. Vì thế những nghi thức mà chúng ta đang thực hiện ngay trong thánh lễ này đều có giá trị trước mặt Chúa. Chúa đang nhìn thấu suốt mọi tâm tư trong tâm hồn chúng ta. Chúa không bỏ sót một giọt tình yêu nào mà chúng ta đang dâng lên Ngài, mà chúng ta đang chia sẻ cho người chung quanh, mặc dù giọt tình thương đó rất kín đáo, rất âm thầm, rất nhỏ mọn. Cái quý là thái độ bên trong tâm hồn kèm theo những nghi thức bề ngoài. Tiêu chuẩn thứ hai, là thái độ lắng nghe ý Chúa, đón nhận ý Chúa, gẫm suy ý Chúa và thực thi ý Chúa. Chúng ta vừa nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Đức Mẹ lắng nghe ý Chúa qua tiên tri Simêon. Chúa không phán trực tiếp, nhưng Chúa nói qua một nhân vật, là tiên tri Simêon. Chúa cho Đức Mẹ biết, khi cộng tác với Chúa trong kế hoạch cứu độ, thì con đường cộng tác ấy sẽ có ánh sáng và cũng đầy bóng tối, có vinh quang và cũng đầy đau khổ. Trái tim Mẹ sẽ chịu một vết thương đau bởi một nhát gươm đâm thấu suốt. Sẽ có những cái Mẹ thấy được trước, mà cũng có những cái bất ngờ Mẹ chẳng thấy trước. Mẹ sẽ phải ra đi trong một quãng đường dài tăm tối. Đức Mẹ đã được nghe ý Chúa như vậy và Đức Mẹ đã khiêm tốn đón nhận. Đón nhận rồi suy gẫm trong lòng, rồi cố gắng thực thi ý Chúa trọn tình trọn nghĩa. Chúng ta thì sao? Tôi nghĩ là chúng ta đang theo gương Đức Mẹ khi chúng ta đến đây, và khi chúng ta cầu nguyện ở nhà. Chúng ta không nói nhiều với Chúa. Nhưng chúng ta lắng nghe Chúa, để rồi xin vâng theo thánh ý Chúa. Đó là thái độ đạo đức đánh giá chúng ta về cách sống đạo. Tiêu chuẩn thứ ba, là thái độ sống đạo giữa đời thường, với những bước tiến về khôn ngoan, về sức mạnh, về ơn nghĩa Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay nói rằng, Đức Mẹ đưa Chúa Giêsu về Nagiarét. Càng ngày, Thánh gia càng đi những bước tiến đầy khôn ngoan, đầy ân sủng, đầy sức mạnh. Điều này giúp cho chúng ta hiểu rằng sống đạo trong đời thường là biết phát triển, là có những bước tiến. Tôi nghĩ rằng Đức Mẹ, Thánh Giuse và Chúa Giêsu ở Nagiarét đã có những bước tiến cả về đời sống vật chất. Tuy nghèo, nhưng không phải là quá thiếu thốn phải đi ăn xin, vay mượn. Thánh gia đã phấn đấu để tự mình có đủ ăn, đủ mặc, sống xứng với nhân phẩm của mình, không là gánh nặng cho những người chung quanh, hơn nữa còn có khả năng giúp xóm, giúp làng. Thánh gia là một gia đình gia giáo, có văn hoá, có chỗ đứng trong nghề nghiệp, trong xã hội, vì thế mới có uy tín. Nghĩa là Đức Mẹ đã nhìn thấy những bước tiến của gia đình mình về nhiều góc độ, nhất là về sự khôn ngoan, về ân sủng, về sức mạnh kiên cường. Còn chúng ta thì sao? Tôi nghĩ là chúng ta cũng đang theo gương Đức Mẹ sống đạo giữa đời thường bằng những việc nhỏ, bằng những bước đi nhỏ, bằng những dự án nhỏ. Nhưng luôn luôn nhằm tới sự phát triển, với những bước đi lên về mọi mặt khác nhau. Có sự khôn ngoan, có kiên cường, có ơn Chúa. Như vậy chúng ta đang là nhân chứng của Chúa giữa đời. Qua ba tiêu chuẩn trên đây, tôi đánh giá cộng đoàn anh chị em là tốt, là rất đáng khen. Điều mà tôi mong muốn nhất cho anh chị em trong năm mới này là hãy nhắm vào sự phát triển. Phát triển tinh thần đạo giữa đời, biết sống đạo giữa đời thường. Khôn ngoan tìm kiếm cách nào để phát triển nhân sự, biết đào tạo nhân sự để làm sao mỗi con người chúng ta trở nên giống hình ảnh của Đức Kitô, của Thánh gia, chiếu sáng sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chiếu sáng ân sủng của Thiên Chúa, chiếu sáng sức mạnh của Thiên Chúa giữa đời thường. Hãy phát triển những gì Chúa ban cho chúng ta: thời giờ, tài năng, bạn bè, thời sự. Chẳng hạn như cuộc lễ hôm nay, chính lúc này cũng soi sáng cho chúng ta biết ý Chúa về năm tới của chúng ta. Chúng ta nghe Phúc Âm, và cũng xem những gương sáng chung quanh để, căn cứ vào đó, chúng ta dù già hay trẻ, dù ở đây hay ở chỗ khác, mọi người hãy phấn đấu tiến lên. Chứ không đứng một chỗ, chứ không tụt hậu, chứ không giật lùi. Luôn luôn có ý thức tiến lên như cuộc sống mà Đức Mẹ đã chứng kiến ở Nagiarét. Sang năm mới, tôi cầu chúc cho anh chị em những gì mà tôi vừa chia sẻ. Tôi cầu nguyện cho tất cả mọi người, xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi, cho tất cả những người thân thiết của chúng ta, cho đất nước chúng ta, cho dân tộc đồng bào chúng ta thuộc bất cứ tôn giáo nào, để có một quyết tâm, sang năm mới, đạt được những bước tiến mới trong vấn đề phát triển, nhất là phát triển đạo đức. Amen. Lễ Thêm Sức tại họ đạo Lấp Vò, ngày 02-02-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Thánh lễ hôm nay có thêm ba nghi thức khác thường. Trước lễ, có nghi thức làm phép đèn cầy, theo thông lệ “Lễ Nến”. Tiếp đó, có nghi thức dâng các em nhỏ cho Chúa. Sau giảng, sẽ có nghi thức làm phép “Tàng cốt đường”, đặt ngay sau 14 chặng đàng thánh giá. Đây là nơi để tro những người quá cố, đây đúng là chốn an nghỉ trân trọng, đợi ngày sống lại. Ba nghi thức trên đây gợi ý cho tôi nghĩ tới hành trình cuộc đời. Thời gian từ thuở sinh ra cho đến lúc chết là một chuyến đi quan trọng. Một người, nếu khi sinh ra đã được dâng cho Chúa, và khi chết, lại được về với Chúa, thì hạnh phúc biết bao. Để được hạnh phúc đó, người ta phải đi đúng đường, chọn đúng hướng. Sự gì sẽ soi dẫn những bước đi của chúng ta? Thưa ngọn đèn đức tin. Ngọn đèn đức tin nơi mỗi người chúng ta hiện giờ ra sao? Và phải làm gì để đức tin nơi ta trở thành ngọn đèn thực sự sáng? Đó là hai câu hỏi tôi xin đặt ra cho lương tâm từng người. Trước hết đức tin nơi chúng ta hiện giờ ra sao? ở đây tôi chỉ tạm đưa ra vài dạng tin, để anh chị em có thể tự xem xét và tự nhận ra đức tin nơi mình thuộc dạng nào. Có thứ tin là tin nhận. Nghĩa là chấp nhận có Chúa và chấp nhận những gì Chúa dạy, chỉ thế thôi. Có thứ tin là tin cậy. Nghĩa là tin vào Chúa là Đấng thương xót quyền năng, và hết lòng cậy trông nơi Ngài. Có thứ tin là tin mến. Nghĩa là tin Chúa là tình yêu cứu độ, và đón nhận tình yêu cứu độ ấy bằng lòng mến của mình. Có thứ tin là tin theo. Nghĩa là tin Chúa là Cha, nên đi theo Ngài, làm theo ý Ngài, sống theo gương Ngài. Tin theo như thế đòi hỏi phải từ bỏ chính mình, phải hy sinh nhiều, phải phấn đấu nhiều, phải tỉnh thức nhiều. So sánh những thứ tin trên đây, chúng ta sẽ có cảm tưởng như thấy 4 ngọn đèn. Có ngọn đèn rất mờ. Có ngọn đèn sáng thường. Có ngọn đèn sáng khá. Và có ngọn đèn rất sáng. Chúng ta hy vọng ngọn đèn đức tin soi dẫn những bước đi trên đường đời của mỗi người chúng ta đừng quá mờ, nhất là đừng tắt, nhưng vẫn sáng. Chúng ta mong như thế. Nhưng tôi biết ước mong đó của chúng ta, mặc dầu là tốt, sẽ chỉ thành đạt được với một số điều kiện căn bản. Và đây là trả lời cho câu hỏi thứ hai đã được đặt ra : Trước hết phải biết coi đức tin là một kho tàng quý giá Chúa ban tặng nhưng không. Phải biết lấy làm quý. Phải năng cảm tạ Chúa vì ơn ban đó. Phải cẩn thận gìn giữ kho tàng quý giá ấy bằng cách thực thi những gì đức tin truyền dạy. Hãy nhớ lời thánh Giacôbê: “Một đức tin không có việc làm sẽ là một đức tin chết”. (Gc 2,27) Một điều kiện nữa, mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nhấn mạnh, đó là thái độ khiêm nhường, nhận mình bé nhỏ, nghèo nàn về đường thiêng liêng. Chúa Giêsu nói: “Lạy Cha, là Chúa trời đất, Con chúc tụng Cha vì đã giấu điều đó cho những người khôn ngoan thông thái, và đã mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt 11,25). Thánh ý Chúa, nhất là dung mạo Chúa là những gì thuộc một đức tin, mà Chúa chỉ tỏ ra cho những tâm hồn thực sự khiêm tốn. Một điều kiện nữa không thể bỏ qua, là phải cầu xin ơn đức tin. Đức tin không phải là kết quả của những dốc lòng, của những cố gắng học hành. Đức tin, khi được hiểu là sự gặp gỡ Chúa, sự thông hiệp với Chúa, thì chỉ Chúa mới làm cho chúng ta được. Chúa Giêsu nói: “Không ai biết được Con nếu không phải là Cha; và không ai biết được Cha, nếu không phải là Con và những kẻ Con muốn mạc khải cho” (Mt 11,27). Giờ đây, tôi nhìn lên Đức Kitô, và tôi nghe tiếng Ngài kêu gọi: “Hãy đến với Ta, hỡi tất cả những ai đang vất vả vì bao gánh nặng, Ta sẽ đỡ nâng an ủi” (Mt 11,28). Tôi tin vào lời Ngài. Tôi tin vào chính Ngài. Nên tôi đến với Ngài. Nên tôi đi theo Ngài. Trên suốt cuộc đời với bao gánh nặng, nhất là gánh nặng của thân phận con người tội lỗi. Niềm tin này sẽ là ngọn đèn sáng, cùng với Đức Mẹ, hướng dẫn tôi vượt qua những thử thách trên trọn hành trình cuộc sống như 14 chặng thánh giá, để tới ngày an nghỉ trong ơn phục sinh đầy hoan lạc ngọt ngào của Chúa. Amen. Lễ tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 02-02-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Những ngày đầu xuân xa xưa, khi tôi còn rất trẻ, tôi có ước mơ đổi mới thế giới. Những ngày xuân gần đây, khi tôi đã đứng tuổi, tôi có ước mơ đổi mới quê hương và Hội Thánh tại quê hương. Nhưng ngày xuân này, khi tôi khởi sự già, tôi chỉ ước mơ đổi mới chính mình. Tất nhiên đổi mới nói đây là đổi mới tâm hồn. Sẽ chẳng có gì lạ cả, bởi vì đổi mới tâm hồn, mà tôi nhắm tới, là phát huy thêm nơi tôi những khả năng “người” mà ai cũng có. Trước hết là khả năng hiện diện với chính mình. Có nghĩa là biết đi vào nội tâm, để nhận ra ý nghĩa đời mình, kiểm tra hướng đi mình chọn, cân đo trách nhiệm mình gánh. Biết phản tỉnh, để suy nghĩ chính những suy nghĩ của mình, từ quan niệm đến phán đoán, từ phân tích đến tổng hợp, từ những hiểu biết rời rạc đến những hiểu biết có hệ thống, để rồi từ đó vận dụng cho những sáng tạo trong các lĩnh vực. Sao cho danh xứng với thực, thuật hợp với luật, hành đúng với tri. Phát triển khả năng suy nghĩ là một đòi hỏi bức thiết. Con người sẽ xuống cấp, nếu lười suy nghĩ, nếu không thể tự mình suy nghĩ, nếu suy nghĩ của mình chỉ là những từ ngữ vay mượn của người khác. Sẽ là một thảm hoạ cho chính mình, khi cảm thấy trống vắng những lúc phải đối diện với chính mình. Sẽ là một sự nghèo nàn đáng ngại, khi không nếm được và không rút tỉa được những tinh tuý ẩn đàng sau vô số những điều mình thấy, mình nghe, mình đọc. Phát huy khả năng hiện diện với chính mình là điều phải làm và có thể làm trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tiếp đến là khả năng hiện diện với thiên nhiên và xã hội. Thiên nhiên và xã hội là những toàn khối lớn, con người chỉ là một thành phần nhỏ. Phải kể là đạo đức, khi nhận thức được những liên đới qua lại giữa mình với xã hội và thiên nhiên, khi biết ngạc nhiên trước những giá trị mới của nhân loại, khi biết rung cảm với những biến chuyển của xã hội, khi biết có trách nhiệm trong việc bảo vệ và làm đẹp môi trường. Có thể nói vận mệnh của mình nằm trong vận mệnh của xã hội và thiên nhiên. Bởi vì tất cả đều liên hệ với nhau, tương tác sang nhau, bồi đắp cho nhau, chuyển hoá lẫn nhau, thấm nhập vào nhau. Nếu mình cố gắng hiện diện như một ngọn đèn công lý, tình thương và sự thực, thì bóng tối sự ác sẽ giảm bớt, ánh sáng sự lành sẽ lan ra. Nhiều người đã chứng minh họ có khả năng hiện diện như thế. Hơn nữa, họ đã chứng minh khả năng hiện diện đó đã luôn luôn được phát triển. Đó là những mẫu gương mời gọi tôi. Rồi đến khả năng hiện diện với những người khác. Tất nhiên hiện diện nói đây phải là loại được xây dựng bằng những kính trọng, những cảm thông, những phục vụ, những yêu thương, những tha thứ. Đây là chuyện của lý trí, nhưng nhất là của con tim. Phải coi chừng, đừng để trái tim mình trở nên cằn cỗi, xơ cứng, chai đá, lạnh lùng trước những vui buồn của những người xung quanh. Phải coi chừng, đừng để trái tim mình trở thành quá chật hẹp, chỉ đủ chỗ cho chiếc bàn thờ tôn vinh cái tôi ích kỷ. Kiên nhẫn, bao dung, cảm thông, thương xót và yêu thương là những mầm non có sẵn trong trái tim. Nhưng phải chăm sóc. Nhờ gẫm suy, chiêm niệm và tập luyện, nhiều người đã phát triển thành công những mầm non đó. Trong cuốn “Đức Đạt-lai-lạt-ma nói về Đức Chúa Giêsu” (1996), vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo Tây Tạng đã suy gẫm lời Chúa Giêsu dạy: “Con hãy yêu thương kẻ thù của con” (Mt 5,38-48). Ngài đã chia sẻ tiến trình suy gẫm của ngài, để đi sâu vào Lời Chúa. Rồi ngài kết luận: Phát huy được tình thương đối với kẻ thù như Lời Chúa dạy chính là một lễ vật mà Chúa ưa thích hơn cả sự cầu nguyện. Phát huy khả năng hiện diện với những ngưới khác bằng bác ái, đó là dấu chỉ chắc chắn nhất của những ai thuộc về Đức Kitô. Và đó cũng là bảo đảm chắc chắn nhất cho phần rỗi, bởi vì trong ngày phán xét, Chúa sẽ căn cứ vào bác ái để phân loại người lành kẻ dữ. Thế thì phải phát huy hơn nữa, phát huy không ngừng khả năng đó. Sau cùng là khả năng hiện diện với Thiên Chúa. Thường xuyên tôi đi tìm Chúa, thường xuyên tôi gọi tên Ngài. Tôi đã nhận ra Ngài trong những người hiền lành, khiêm nhường, xây dựng hoà bình và gieo rắc yêu thương. Tôi đã nhận ra Ngài trong những người thao thức cho sự phát triển niềm tin và hy vọng. Tôi đã nhận ra Ngài trong những người hướng cộng đoàn của mình về tương lai, không phải bằng những áp đặt, và những hứa hẹn, mà bằng đời sống đạo đức, bằng sức mạnh nội tâm, để họ tự mình sáng tạo, tự mình vươn lên. Tôi đã nhận ra Ngài trong những người biết xây dựng đoàn kết với sự kính trọng những khác biệt. Tôi đã nhận ra Ngài trong những người biết khai thác những tài năng của mình, những thời giờ của mình, cho công ích. Tôi đã nhận ra Ngài nơi những người biết nhìn thấy trước những thời cơ và những nguy cơ, biết hành động trước cho Nước Trời, như người canh thức trung tín và khôn ngoan. Tôi đã nhận ra Ngài trong những người nghèo khổ khiêm hạ cần cù. Tôi đã nhận ra Ngài khi tôi tưởng nhớ đến các bậc tổ tiên và các đấng sinh thành. Tôi đã gặp được Ngài, và cảm nghiệm được lòng nhân hậu của Ngài trong những tình huống thời sự phức tạp nhất. Cả trong khổ đau cũng có một con đường dẫn tới Ngài, và lúc đó khổ đau không là thất bại, mà là thánh giá báo hiệu phục sinh. Nhất là tôi đã gặp được Ngài và cảm nghiệm được thấm thía về Ngài, khi tôi chân thành sám hối và chân thành tìm về với Phúc Âm. Dù với những kinh nghiệm trên đây, tôi nghĩ rằng khả năng hiện diện với Chúa là một kho tàng tôi chưa biết hết, chưa khai thác hết. Cần phát huy thêm. *** Ngày xuân, tôi nhìn vào bốn khả năng hiện diện của tôi. Và tôi thấy phát huy bốn khả năng này là một nhu cầu của ơn gọi làm người, chứ chưa nói là nhu cầu của ơn gọi làm môn đệ Đức Kitô. Phát huy bốn khả năng đó chính là việc đổi mới chính mình, có ảnh hưởng đến việc đổi mới xã hội và Giáo Hội. Ước mơ đầu năm của tôi là đơn sơ nhưng chân thành như thế đấy. Xin chia sẻ như một hiện diện bé nhỏ đón chào Mùa Xuân Đất Nước tôi. Báo Công Giáo Và Dân Tộc, Xuân 07-02-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám mục phó giáo phận Long Xuyên
Ngày mồng một Tết, chúng ta đến nhà thờ, để dâng lễ, dâng tâm tình tạ ơn và dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa. Việc làm này được coi là hợp tình, hợp lý, hợp văn hoá cổ truyền. Nó cũng là một dấu chỉ đáng mừng cho một đất nước đang phát triển. Bởi vì, đang khi đẩy mạnh việc phát triển về nhiều mặt, như xã hội, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật ..., dân tộc ta không quên phát triển về mặt thiêng liêng, coi yếu tố này là quan trọng cho việc phát triển cân bằng con người toàn diện. Sự phát triển chiều kích tâm linh nơi con người Việt Nam đang tăng lên đều khắp một cách rõ rệt trong những ngày Tết, qua các nghi thức lễ bái nhớ về cội nguồn, được thực hiện trong các gia đình và trong các nơi thờ tự. Hiện tượng này xem ra có chiều hướng phát triển rộng sâu và dài lâu. Hiện tượng này là tự phát, như được thúc đẩy từ một động lực tâm lý bên trong con người. Những thúc đẩy này là một tiềm năng phong phú, sẽ gây được nhiều kết quả tốt, nếu được hướng dẫn và giáo dục. Hướng dẫn tới một mục đích cao đẹp, và giáo dục bằng những cách đạo đức thích hợp. Trước hết, theo tôi, mục đích cao đẹp, mà Chúa muốn chúng ta đi tới, nhờ những thúc đẩy thiêng liêng, đó là “trở nên một con người biết nhận lãnh từ một Đấng khác, để rồi biết cho những người khác”. “Đấng khác”, mà tôi đến để nhận lãnh, chính là Thiên Chúa của tôi. Nhận lãnh thánh ý Người. Nhận lãnh Thánh Linh của Người. Nhận lãnh tình yêu của Người. Tôi nhận lãnh bằng việc hiến dâng. Không phải là dâng lễ, dâng của mà thôi, mà là dâng chính bản thân mình. Như lời Ngôi Hai đã nói với Chúa Cha: “Những lễ vật toàn thiêu và những lễ vật đền tội đã không được Cha chấp nhận. Bấy giờ Con đã nói: “Này Con xin đến, để thi hành thánh ý Cha” (Dt 5,7). Thánh Phaolô tông đồ cũng khuyên chúng ta điều đó: “Tôi khuyên anh chị em hãy dâng chính bản thân mình làm lễ tế sống động, thánh thiện. Đó chính là việc thờ phượng thiêng liêng, đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Dâng mình như thế là việc không phải chỉ thực hiện một lần, mà là phải tiếp tục và làm mới lại từng ngày, để tới chỗ đạt được điều Chúa Giêsu dạy: “Các con hãy ở trong Thầy, như Thầy ở trong các con. Chúa Cha yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu các con như vậy. Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga, 15,9). ở lại trong tình yêu Chúa Giêsu không có nghĩa là thụ động, an nghỉ. Nhưng là mang tình yêu Chúa ra đi dấn thân phục vụ những người xung quanh và đồng bào mình. Phục vụ một cách đạo đức, vị tha, và như lời thánh Phaolô dạy: “Với lòng lân mẫn, xót thương, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng, chịu đựng lẫn nhau, tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Tới được mô hình đạo đức trên đây là tới được một mục đích cao đẹp. Để tới đó, thiết tưởng chúng ta cần tự giáo dục mình. Bằng cách nào? Thưa bằng việc hàng ngày tập thói quen nhìn lên Đức Kitô để có được những lựa chọn tốt, hợp với luật bác ái của Người. Những phục vụ có tình yêu chân thành, đồng thời có khiêm tốn, có từ bỏ vị kỷ, nhất là hướng về những đối tượng bị loại trừ, bao giờ cũng là những lựa chọn đúng và tốt. Trái lại những phục vụ hoặc thiếu tình yêu chân thành, hoặc có tính cách khoe khoang, vị kỷ, tham vọng, vụ lợi, tự hào tự đắc, phải coi là những lựa chọn không đúng, không tốt. Sống buông thả, lười suy nghĩ, thích hưởng thụ, trốn tránh phục vụ, không phấn đấu với chính mình để nâng cao khả năng phục vụ, đó là những lựa chọn dứt khoát sai, chúng ta phải khắc phục. Trên đây là một hướng phát triển và một cách phát triển chiều kích thiêng liêng trong con người. Đơn sơ thế thôi. Đây là một đề nghị rõ rệt chân thành. Đây là một cầu chúc thiết tha thân ái. Đây là một con đường phát triển tôi muốn cùng mọi người đi vào trong năm mới đầy hy vọng này. Xin Thiên Chúa nhân lành ở với chúng ta mọi ngày mọi lúc trên con đường phát triển. Thánh Lễ tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, Mồng Một Tết Đinh Sửu, ngày 07-02-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hôm nay, tới thăm giáo xứ Thánh Tâm, tôi đã nhìn thấy nhiều công trình mới về tôn giáo cũng như về xã hội, tại họ nhà xứ cũng như tại hai họ lẻ. Tôi cho đây là những việc làm đúng, những việc làm tốt. Tôi vui mừng về những kết quả đó. Sở dĩ, tôi đánh giá anh chị em theo những việc làm là vì tôi muốn theo gương Đức Kitô. Trong Phúc Âm thánh Matthêu, Đức Kitô cho thấy Ngài đánh giá từng người chúng ta, từng cộng đoàn chúng ta theo những việc chúng ta làm hơn là những gì chúng ta đã học. Bây giờ, trong niềm vui được nhìn thấy những công trình mới tại đây, tôi muốn nhắn nhủ anh chị em về một loạt những việc làm mà Đức Kitô thường nhấn mạnh khi kiểm điểm chúng ta. Loại việc làm thứ nhất mà Chúa Giêsu nhấn mạnh là những việc làm thuộc về đường lối và cửa vào. Chúa Giêsu phán: Các con hãy đi vào cửa hẹp và đi vào đường nhỏ bởi vì cửa rộng đường lớn sẽ đưa tới sự hư hỏng . Tất nhiên anh chị em hiểu cửa và đường ở đây là nghĩa bóng. Qua những lời trên đây, Chúa dạy chúng ta hãy có những lựa chọn mang tính cách phấn đấu với chính mình. Cần có những lựa chọn mang tính cách kỷ luật kỷ cương đối với chính mình. Không nên để mình buông thả, quá dễ dàng, không có đường lối. Hãy đi vào con đường mà Đức Kitô đã đi trước. Con đường có những thánh giá, có những thử thách, có những khó khăn. Hãy đi vào con đường hẹp và đi vào con đường nhỏ, vì đó là cửa và đường dẫn tới phần rỗi. Loại việc làm thứ hai mà Đức Kitô nhấn mạnh, là những việc làm thuộc về cách đối xử với người khác. Chúa Giêsu đưa ra một luật rất dễ hiểu: Những gì chúng con muốn kẻ khác làm cho chúng con thì chúng con hãy làm việc đó cho kẻ khác. Còn những gì chúng con không muốn người ta làm cho chúng con thì chúng con đừng làm cho kẻ khác. Qua những lời trên đây Chúa dạy chúng ta phải có những việc làm tế nhị, nhạy bén đối với những kẻ khác. Đừng nhìn cái rác trong mắt kẻ khác mà quên cái xà trong chính mắt chúng ta. Đừng xét đoán người khác kẻo chính mình sẽ bị đoán xét. Những câu này rất đơn giản nhưng có tính cách quyết định trong ngày phán xét. Bởi vì trong ngày phán xét, Chúa sẽ căn cứ vào những việc chúng ta làm cho kẻ khác để đánh giá và phân loại chúng ta. Chẳng hạn, tinh thần hiệp thông giữa ba họ của xứ đạo chúng ta, sự liên đới giữa các thành phần trong gia đình với nhau, có theo gương Đức Kitô dạy không? Loại việc làm thứ ba mà Chúa Giêsu nhấn mạnh là những việc làm thuộc về thái độ khi thực hành những việc đạo đức. Chúa dạy: Khi chúng con cầu nguyện thì hãy vào phòng kín đóng cửa lại, cầu nguyện với Cha trên trời, Người sẽ hiểu thấu tâm can chúng con. Khi chúng con làm việc lành bố thí cho kẻ khác thì tay trái làm mà tay phải đừng biết. Khi chúng con ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu đừng tỏ mặt buồn phiền. Có nghĩa là Chúa Giêsu dạy chúng ta khi làm những việc đạo đức thì làm với một thái độ khiêm tốn kín đáo, tránh khoe khoang, tránh phô trương. Đó là những việc làm mà Chúa muốn chúng ta thực hiện trong những việc đạo đức thông thường của chúng ta. Loại việc làm thứ bốn mà Chúa Giêsu nhấn mạnh là những việc làm có liên quan đến thánh ý Chúa. Chúa phán: Trong ngày phán xét có nhiều người sẽ nói với Thầy rằng trước đây nhân danh Thầy tôi đã làm nhiều phép lạ, nhân danh Thầy tôi đã nói tiên tri, nhân danh Thầy tôi đã trừ quỷ. Nhưng Thầy sẽ trả lời với họ rằng: Ta không biết các ngươi là ai, bởi vì các ngươi làm những việc đó không do thánh ý của Thầy sai khiến, tức là những việc làm mà do ý riêng của mình. Vậy thánh ý Chúa là gì? Thánh ý Chúa là yêu thương nhau, phục vụ lẫn nhau một cách vị tha. Thánh ý Chúa là khi đến bàn thờ dâng lễ mà còn bất hoà với ai thì hãy trở về làm hoà đã rồi trở lại dâng lễ sau. Thánh ý Chúa là hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Thánh ý Chúa là hãy tìm Nước Thiên Chúa trước rồi mọi sự khác Chúa sẽ ban cho sau. Tôi vừa nhắc qua một số những việc làm mà Chúa Giêsu nhấn mạnh trong Phúc Âm thánh Matthêu. Chính những việc làm đó xây dựng phẩm cách người có đạo, phẩm cách người môn đệ Đức Kitô. Điều tôi vừa nói chắc hẳn anh chị em đã nghe trong các bài giảng, đã được học trong các bài giáo lý, đã được trao đổi trong các giờ chia sẻ Lời Chúa. Điều quan trọng là thực hành. Đức Kitô luôn luôn nhấn mạnh đến thực hành. Ngài không phán xét chúng ta về những gì chúng ta đã học, nhưng phán xét chúng ta về những gì chúng ta phải thực hành. phải thực hành những điều chúng ta biết, những điều chúng ta đã nghe, thì mới có công phúc trước mặt Chúa. Nhìn khu vườn trước cửa nhà cha xứ, tôi thấy một cây mai rất lớn nhiều cành nhiều hoa. Tôi nghĩ rằng, tôi cũng như mọi người khác, sẽ đánh giá cây mai đó không phải vì gốc nó to lớn, cũng không phải vì nó có nhiều cành, mà vì nó có nhiều chùm hoa. Người ta đánh giá cây theo hoa, theo trái. Tôi mong rằng, cũng như cây mai trước nhà cha xứ mỗi một năm sinh ra nhiều chùm bông đẹp, thì họ đạo chúng ta cũng vậy. Không phải vì họ đạo có một số tuổi cao, cũng không phải vì việc bề ngoài coi như tốt đẹp, mà vì những hoa thiêng liêng trong lòng chúng ta, những việc đẹp lòng Thiên Chúa, những việc mà Đức Kitô đã căn dặn ở trong Phúc Âm hôm nay. Tôi mong rằng xứ đạo chúng ta sẽ phát triển những bông hoa thiêng liêng, mỗi năm mỗi mới, mỗi năm mỗi nhiều, để cho con em chúng ta sau này có một nếp sống đẹp theo gương của người lớn. Các con em của chúng ta chỉ có thể nên người tốt, khi biết tập tành, khi biết thực hành. Nếu một đứa nhỏ ngày nào cũng thấy cha mẹ mình cầu nguyện và cùng cầu nguyện với cha mẹ, thì việc thực hành đó sẽ làm nên nếp sống, xây dựng toà nhà đức tin. Nếu nó chỉ học mà không thực hành, không tập tành, thì như Đức Kitô nói, nhà tuy đẹp đấy, nhưng khi có bão mưa lớn, nhà đó sẽ sụp, bởi vì nó không có nền. Nền phải xây dựng bằng việc làm, bằng thực hành, bằng tập tành mỗi ngày. Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta hiểu và giúp cho tư tưởng của Đức Kitô thấm sâu vào chúng ta. Đó là điều tôi mong đợi nhiều nhất, khi tôi nhìn vào tương lai không thiếu những thử thách đang đợi chờ con em chúng ta và chính chúng ta. Amen. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Thánh Tâm, Kinh B2, ngày 14-02-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Cuối năm 1994, khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhìn lại quá khứ Giáo Hội Công Giáo, Ngài đã công nhận 20 thế kỷ qua của Hội Thánh Công Giáo đã có nhiều chứng từ và gương sáng, nhưng cũng không thiếu những cách suy nghĩ và những cách hành động đã trở thành những hình thức phản chứng và gương xấu (Tông Thư “Tiến Tới Thiên Niên kỷ Thứ Ba”, số 33). Cái nhìn trên đây của Đức Thánh Cha đã kéo được nhiều chú ý trân trọng, bởi vì nó chân thành khiêm tốn trong sự thực về mình. Cuối năm 1996, khi Hội Đồng Giám Mục Pháp trình bày tình hình Giáo Hội tại Pháp, các ngài đã nêu lên tính cách khủng hoảng do ba hiện tượng lớn: giảm sút việc thực hành tôn giáo, đánh mất ký ức về Kitô giáo, khó khăn để vươn lên (Thư của Hội Đồng Giám Mục Pháp gửi các người công giáo Pháp, 06-11-1996, II, A, 1). Cái nhìn trên đây của Hội Đồng Giám Mục Pháp đã gây nhiều ngạc nhiên đầy thiện cảm, bởi vì nó lương thiện và can đảm trong việc lượng giá chính mình. Hai cái nhìn trên đây, một về quá khứ, và một về hiện tại, gợi ý cho chúng ta nhớ lại những thái độ tạ ơn trong Kinh Thánh. Như thái độ của vua Đavít qua các thánh vịnh và như thái độ của Đức Mẹ Maria qua kinh Magnificat. Các đấng ấy vừa hân hoan ca tụng Thiên Chúa quyền năng giàu lòng thương xót, vừa khiêm tốn nhìn nhận thân phận hèn yếu của mình. Giờ đây, chúng ta chọn thái độ như thế để cử hành thánh lễ kỷ niệm trọng đại này. kỷ niệm gần 300 năm thành lập họ đạo và 100 năm xây dựng thánh đường thứ 8 là một dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về ơn gọi làm người công giáo. Điều cần làm không phải là kiểm điểm quá khứ, cho bằng xem xét hiện tại để hướng về tương lai: Hiện tại mới là quan trọng. Chúng ta hiện đang sống ơn gọi làm người công giáo như thế nào ? Theo Đức Hồng Y Carlo Martini, thì “Người công giáo là người tin vào Đức Chúa Giêsu, Đấng mạc khải Thiên Chúa là Cha, để rồi cùng với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, người ta trở thành con Thiên Chúa, dấn thân đi theo Tin Mừng” (Cardinal Martini, A l'écoute de coeur, Albin Michel, 1995, trang 103). Trong định nghĩa trên đây điều căn bản chính là mặc khải Tin Mừng. Mặc khải Tin Mừng được ghi lại trong Kinh Thánh. Mặc khải Tin Mừng được hiện thân nơi Đức Kitô. Mặc khải Tin Mừng được sống động trong lịch sử Hội Thánh. Mặc khải Tin Mừng được thời sự hoá trong những người tốt việc tốt và các biến cố hiện nay mang tính cách cứu độ. Như thế, hiểu được mặc khải Tin Mừng không phải việc dễ. Cảm nghiệm được mặc khải Tin Mừng càng không phải việc thường. Sống theo mặc khải Tin Mừng lại càng không phải việc khôn ngoan loài người. Tuy nhiên, khi nhìn xuống cuối nhà thờ này, tự nhiên tôi cảm thấy sáng rực lên trong tôi niềm hy vọng. Bởi vì tôi thấy trong gian cuối nhà thờ có một nhà nguyện nhỏ xinh, nơi đây đặt Mình Thánh trong hào quang suốt ngày đêm, trên một bàn thờ mang văn hoá dân tộc, dưới hàng chữ: Thiên Chúa là Tình Yêu. Tôi biết là giáo dân họ đạo thay phiên nhau tới đây 24 trên 24 tiếng đồng hồ, để chiêm niệm, để suy gẫm, để cầu nguyện, để đón nhận mặc khải Tin Mừng, điều mà Chúa chỉ dành cho những tâm hồn khiêm tốn, từ bỏ mình, khát khao tìm kiếm Chúa và cầu nguyện trong thinh lặng. Niềm hy vọng của tôi được tăng thêm, khi tôi thấy: Ngoài việc sống đạo trong nhà thờ một cách sâu sắc, anh chị em còn sống đạo ngoài nhà thờ một cách nhiệt thành, qua phong cách sống lương thiện, hiền lành khiêm nhường, những hoạt động phục vụ vị tha, gần gũi với đồng bào xung quanh, dấn thân chia sẻ thân phận người nghèo và tích cực đồng hành với dân tộc. Tôi xác tín rằng nhờ thái độ tỉnh thức bên cạnh Thiên Chúa ẩn dật trong hình bánh, trong lịch sử và trong kẻ nghèo, anh chị em càng ngày càng sẽ khám phá được những cái mới của mặc khải Tin Mừng. Kết quả sẽ là tâm hồn được đổi mới, quan điểm được đổi mới, nếp sống được đổi mới, theo mô hình Đức Kitô. Đó là mục đích chính của phúc âm hoá, dọn đường đón nhận Nước Thiên Chúa là Nước Tình Yêu. Với những suy nghĩ trên đây, tôi xin hợp ý với họ đạo Chợ Quán dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn cùng với chính bản thân chúng ta, để thánh lễ hôm nay lại trở thành một khởi đầu mới cho một tương lai tốt đẹp. Thánh Lễ tại nhà thờ Chợ Quán, ngày 16-02-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Nhìn qua nhà xứ mới và tình hình họ đạo, tôi biết giáo xứ Kiên Lương là một cộng đoàn mạnh đã có nhiều kết quả mới trong những năm vừa qua. Tôi nghĩ rằng trong tương lai giáo xứ Kiên Lương sẽ có một địa vị quan trọng hơn về mục vụ và về truyền giáo. Sự xây dựng cộng đoàn, sự phát triển cộng đoàn cần phải dựa trên một nền tảng thiêng liêng vững chắc. Nền tảng thiêng liêng vững chắc mà tôi nói ở đây chính là Lời Chúa. Lời Chúa thì có nhiều, nhưng ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến bốn Lời Chúa, coi như những lời quan trọng trong việc phát triển cộng đoàn đức tin. Lời thứ nhất là lời dạy chúng ta hãy trở nên khiêm tốn bé nhỏ. Chúa Giêsu phán: “Nếu chúng con không trở nên những trẻ thơ bé nhỏ, chúng con sẽ không được vào Nước Trời”. Qua lời nói trên đây, Chúa Giêsu muốn chúng ta luôn cảnh giác với một khuynh hướng tự nhiên và với những chước cám dỗ của Satan. Chúa không muốn chúng ta tự đắc, tự đại, khoe khoang, phô trương. Chúa muốn chúng ta luôn tránh xa sự kiêu căng, sự nâng mình lên, sự kéo chú ý người khác, để tìm tiếng khen cho riêng mình. Chúng ta luôn nhớ Nước Trời là một hạt giống chỉ mọc lên trong mảnh đất khiêm tốn. Cũng như lời sách thánh mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ hai, Đức Kitô đem Tin Mừng cho những người nghèo khó, tức là những tâm hồn khiêm tốn biết mình bé nhỏ thích sống âm thầm ẩn dật. Lời Chúa thứ hai là lời Chúa khuyên mời chúng ta hãy biết đón nhận những người bình thường khiêm tốn nghèo khó. Chúa phán: Khi chúng con đón nhận những kẻ bé nhỏ vì danh Thầy thì Thầy cho rằng chúng con đón nhận chính Thầy. Qua lời này, Chúa dạy chúng ta hãy biết đón nhận những người vào nhà thờ, những người xin gia nhập giáo xứ. Hãy đón nhận tất cả mọi người thiện chí, cách riêng những kẻ khó nghèo, những người không nơi nương tựa, không có chức, không có quyền, không có của, không có tiếng nói, không có danh vọng. Hãy biết đón nhận và càng phải biết đón nhận những người mà Chúa gọi là những người bé nhỏ. Khi tôi đến họ đạo, khi tôi nhìn một nhà thờ, tôi quan sát cách đón nhận những người vào nhà thờ, xem có ai bị xua đuổi không? Xem có phải chỉ những người có chức, có quyền, có của mới được đón nhận không? Cách đối xử đón nhận là rất quan trọng để phát triển cộng đoàn đức tin Lời Chúa thứ ba là lời Chúa dạy chúng ta đi tìm những người lầm lạc. Chúa phán: Nếu một người có một trăm con chiên mà trong đó có một con đi lạc, thì người đó bỏ 99 con chiên ở lại, để đi tìm một con đã lạc. Khi đã tìm được nó, thì ôm nó vào lòng, vác nó trên vai. Thầy nói thực: Khi một người trở lại, thì cả thiên đàng đều vui mừng, hơn là 99 người công chính không cần trở lại. Và Chúa cũng nói: Thầy đến, không phải để đi tìm những người công chính, mà để đi tìm những người đau yếu tội lỗi. Trong một cộng đoàn cũng vậy, chúng ta cần phải có một thái độ bao dung, quan tâm đến những người dửng dưng, những người đi lầm, những người đi lạc. Họ không phải là một đối tượng để chúng ta kết án, để chúng ta loại trừ, mà trái lại họ là những đối tượng cần đến lòng thương xót của chúng ta hơn. Lời Chúa thứ bốn đó là sự cầu nguyện chung. Chúa phán: Khi hai ba người chúng con cầu nguyện thì Thầy ở giữa chúng con. Qua lời dạy trên đây, Chúa muốn chúng ta năng cầu nguyện chung, cầu nguyện trong gia đình, cầu nguyện nhóm, cầu nguyện tại nhà thờ. Hãy cầu nguyện chung với nhau. Cầu nguyện thực, chứ không phải chỉ là thuộc lòng, chứ không phải một cách máy móc, theo tục lệ. Cầu nguyện là lắng nghe ý Chúa. Cầu nguyện là gặp gỡ Chúa. Và như vậy, khi cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy Chúa đến với ta và ta sẽ được đổi mới trong tâm hồn. Tôi thiết nghĩ bốn lời Chúa dạy trên đây chính là nền tảng của họ đạo. Nếu chúng ta có nhà thờ mới, nếu chúng ta có nhà xứ đẹp, nếu chúng ta có các sinh hoạt tôn giáo sầm uất, điều đó đáng mừng, nhưng cần phải có những sinh hoạt và những não trạng hợp với bốn lời Chúa trên đây. Bốn lời Chúa trên đây phải trở thành hơi thở, phải trở thành thao thức, phải trở thành sự sống và trở thành những động lực của chúng ta. Có như vậy họ đạo mới phát triển và vững bền. Cho dù chẳng may có một lúc nào đó, nhà thờ sẽ tan đi, nhà xứ không còn nữa, họ đạo không còn sinh hoạt sầm uất như trước, nhưng mỗi người chúng ta vẫn sống bốn lời Chúa trên đây một cách sâu sắc thì cộng đoàn vẫn phát triển sâu và mạnh. Tôi nhấn mạnh điều đó, bởi vì chúng ta không biết được những gì sẽ xảy ra. Chúng ta cần phải xây dựng cộng đoàn trên Lời Chúa, đi sâu vào Lời Chúa, chỉ Lời Chúa mới xây dựng được cộng đoàn. Chính Chúa là Đấng xây dựng Hội Thánh, còn chúng ta là những dụng cụ phải bám vào Lời Chúa dạy. Xin các phụ huynh nhớ lấy bốn lời Chúa, mà tôi vừa nhắc nhở, để cho chính anh chị em là những người lớn, biết sống sâu sắc chân thực bốn lời Chúa dạy trên, để làm gương cho các con em mình là những đang đi vào một cuộc đời đầy rắc rối, đầy những nguy cơ về đức tin. Chúng cần phải có những gương sáng của những người mang Chúa Kitô trong lòng mình, những người dám sống chết cho Lời Chúa. Nếu không nhìn thấy những gương sáng đó, các em có thể sẽ dần dần làm mất đức tin, để rồi cuộc sống đầy những nguy cơ sẽ đẩy các em ra ngoài Hội Thánh. Xin Chúa Thánh Linh hôm nay giúp cho mỗi người chúng ta biết đi sâu vào Lời Chúa. Xin Người làm cho Lời Chúa thấm nhuần vào chúng ta, để chúng ta biết chiêm nghiệm Đức Kitô trong Hội Thánh, trong Kinh Thánh, trong gương các thánh hầu chúng ta xây dựng giáo đoàn của mình mỗi ngày mỗi vững mạnh. Amen. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Kiên Lương, ngày 17-02-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Tôi đã đến họ đạo xa xôi này nhiều lần để dâng thánh lễ. Lần đầu tiên chỗ này là một căn nhà tồi tàn tăm tối. Sau một thời gian, căn nhà đó đã được thay thế bởi một thánh đường tương đối xứng đáng. Hôm nay, ngôi thánh đường đó vì xuống cấp đã bị huỷ bỏ, để rồi sẽ được thay thế bởi một ngôi thánh đường khác. Chúng ta biết rằng việc xây dựng một ngôi thánh đường mới trong hoàn cảnh bây giờ là một công trình đòi nhiều vất vả và gặp phải nhiều khó khăn đủ loại. Tự nhiên chẳng ai muốn rước gánh nặng đó vào cho mình, nhưng chỉ vì ích chung . Ích chung đây không phải chỉ là ích chung về tôn giáo mà cũng là ích chung về xã hội. Nghĩa là việc xây dựng thánh đường này chỉ được thực hiện sau khi nhiều chương trình khác về xã hội đã được thực hiện trước. Tôi muốn nói ở đây về những chương trình, mà cha sở và họ đạo này đã thực hiện trong việc nâng cao trình độ văn hoá cho các con em, từ những lớp nhỏ cho đến cao đẳng, cho đến đại học. Sau các việc đó, hôm nay mới khởi sự xây dựng thánh đường. Tôi coi đó là một việc hợp lý, không những hợp lý, mà còn đáng hoan nghênh, đáng được nâng đỡ. Riêng tôi khi nhìn vào chỗ này sắp được xây dựng thánh đường mới, tôi có ba xác tín. Thứ nhất tôi xác tín rằng nơi đây sẽ là nơi ca tụng Thiên Chúa Tình Yêu, một Thiên Chúa là Tình Yêu, một tình yêu rất gần chúng ta, một tình yêu ở giữa chúng ta, một tình yêu cứu độ chúng ta, một tình yêu không loại trừ ai. Như thế thánh đường không phải là một đối tượng để chúng ta sợ hãi, để chúng ta phải canh chừng. Nhưng trái lại, nếu Thiên Chúa là Tình Yêu được ca tụng nơi đây, thì đó là một dấu chỉ Chúa ban ơn lành cho địa phương ta. Thứ hai tôi xác tín rằng nơi đây, trong nhà thờ mới sắp được xây dựng, sẽ là nơi loan báo mọi người được Chúa yêu thương. Mọi người không phân biệt có đạo hay không có đạo, người lành cũng như người chưa lành, nhất là những kẻ bé mọn, những người nghèo túng, những người không có chức có quyền có của, những người không có tiếng nói trong xã hội, những người đó được Chúa yêu thương. Nơi đây sẽ là nơi loan báo Tin Mừng ấy. Thứ ba tôi xác tín rằng nơi đây, trong nhà thờ mới này, sẽ là nơi khuyến khích mọi người yêu thương nhau, đoàn kết với nhau, thăng tiến lẫn nhau. Người nào cũng cần cho nhau, người nào cũng có khả năng để bổ túc cho nhau. Nếu đây là một nơi khuyến khích người ta yêu thương nhau, đoàn kết với nhau, thăng tiến cho nhau thì đó là một Tin Mừng không những cho cộng đoàn đức tin mà cũng cho tất cả mọi đồng bào trong địa phương chúng ta. Ba xác tín trên đây chính là động lực của tôi và thiết tưởng cũng là động lực của các cha, hội đồng giáo xứ và anh chị em ở đây khi xây dựng ngôi thánh đường này. Đêm rồi, tôi mở Phúc Âm thánh Matthêu ra đọc chương 24 thì có một đoạn viết đại khái như sau: Thời ông Noe, đang khi người ta ăn uống, xây dựng, cưới hỏi thì bất thình lình trời đổ mưa xuống làm cho lụt và trôi đi tất cả. Rồi thời ông Lót, cũng đang khi mọi người ăn uống vui vẻ, xây dựng và tổ chức linh đình đám nọ đám kia thì bất thình lình trời mưa lửa xuống tàn phá hết tất cả. Rồi Chúa Giêsu nói: Giờ Con Người đến cũng bất thình lình như vậy để tra vấn các việc người ta làm. Tôi đọc đoạn văn này, tôi có nói với Chúa Giêsu rằng: Chúa dạy chúng con điều đó là rất đúng. Con xin cam đoan với Chúa rằng: bất cứ lúc nào Chúa đến với chúng con, khi chúng con xây dựng ngôi thánh đường này, để kiểm tra mục đích của chúng con thì Chúa cũng sẽ thấy chúng con xây dựng ngôi thánh đường này vì ba xác tín. Một là để ca tụng Chúa là Tình Yêu. Hai là để loan báo mọi người được Chúa yêu thương. Ba là để khuyến khích mọi người hãy yêu thương nhau. Ba mục đích đó là đúng Phúc Âm. Xin Chúa nhận ba mục đích đó, ba động lực đó và xin chúc lành cho chúng con, bởi vì chúng con không tìm một tư lợi nào, mà chỉ vì danh Chúa, chỉ vì Nước Trời, chỉ vì lợi ích cho các linh hồn. Rồi tôi phó thác mọi sự cho Chúa. Khi bước vào chỗ này để dâng thánh lễ, tôi đọc thấy một khẩu hiệu lớn treo kia “Sẽ là một bài ca mới”. Khẩu hiệu đó gợi ý cho tôi nghĩ rằng Chúa đang nghe một bài ca mới trong tâm hồn chúng ta. Ngôi thánh đường mới sẽ là một bài ca mới, và tâm tình của chúng ta ca ngợi Thiên Chúa Tình Yêu, loan báo Tin Mừng mọi người được Chúa yêu thương, khuyến khích mọi người yêu thương đoàn kết với nhau, đó cũng là những bài ca mới. Tôi mong rằng những bài ca mới này sẽ tiếp tục mãi đêm ngày trong khi khởi công xây dựng cho đến hoàn thành, cho đến mãi mãi, để rồi như tôi nói, bất cứ lúc nào nhất là khi chúng ta qua đi, nếu Chúa kiểm tra lại việc chúng ta làm, Chúa sẽ thấy tất cả là vì danh Chúa, tất cả là vì hạnh phúc của đồng bào con cái Chúa mà thôi. Amen. Lễ Thêm Sức và Đặt Viên Đá Đầu Tiên, tại nhà thờ Hoà Giang, ngày 17-02-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Khi so sánh họ đạo Hà Tiên hôm nay với họ đạo Hà Tiên những năm trước đây, tôi thấy có những khác biệt rất đáng khen ngợi. Một trong những khác biệt đáng khen ngợi đó, là ngôi thánh đường đang được xây dựng, một công trình lớn, một công trình đẹp, một công trình có tầm cỡ, để có khả năng đồng hành với một Hà Tiên đang dấn bước trên đường phát triển. Ngôi thánh đường đang được xây dựng đây gợi ý cho tôi nghĩ tới những việc xây dựng khác, âm thầm hơn, thường xuyên hơn, nhưng cũng quyết liệt hơn, đó là việc xây dựng Nước Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta. Theo Phúc Âm thì Nước Thiên Chúa ví như men. Men là một thứ bé nhỏ nhưng đem lại hậu quả lớn. Bởi vì khi men được pha trộn với bột và bột đó được nướng lên, thì nó trở thành những tấm bánh ngon và bổ. Nước Thiên Chúa cũng ví như muối. Muối cũng là một thứ bé nhỏ nhưng công hiệu rất lớn. Bởi vì khi muối được pha trộn với đồ ăn, thì đồ ăn đó trở nên ngon và bổ dưỡng. Nước Thiên Chúa cũng ví như hạt giống tốt. Hạt giống cũng là một thứ rất bé nhỏ nhưng lại sinh công hiệu lớn. Bởi vì khi hạt giống được gieo trồng dưới đất, nó sẽ mọc lên trở thành cây, sinh hoa sinh trái. Với hình ảnh men, muối, hạt giống, Nước Trời được trình bày như một sức mạnh có khả năng gây chuyển biến tốt, có khả năng gây ảnh hưởng tốt. Men, muối và hạt giống tốt cụ thể là cái gì? Thưa, là tấm lòng tốt, là phong cách sống tốt, là những việc làm tốt. Cái lành cái tốt mà chúng ta thấy ở đây trong Nước Trời có tính cách xã hội, có tính cách liên đới. Thí dụ: Sự thật thà trong lời nói, sự lương thiện trong phán đoán, sự bao dung trong cư xử, tính lịch sự nhã nhặn hiền từ trong cách ăn cách nói, cách đi cách đứng vv... Những nhân đức xã hội phản ánh ra sức mạnh của Nước Trời. Chính vì thế, tôi thấy nhiều nơi trong các họ đạo, ngoài việc học hỏi giáo lý, chia sẻ Lời Chúa, cũng đã nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng những nhân đức xã hội. Bởi vì qua những nhân đức xã hội, Nước Trời được dễ thấy và dễ gây ảnh hưởng tốt. Tại họ đạo Hà Tiên này, tôi biết là cha sở cũng như anh chị em đã xây dựng được những liên hệ tốt với những chùa chiền chung quanh, với đồng bào ở mảnh đất này. Và do tính cách xã hội như thế nhóm công giáo bé nhỏ chúng ta đây được địa phương kính nể, được địa phương yêu mến, được địa phương nâng đỡ. Trong thánh lễ hôm nay tôi nhìn thấy một số đồng bào đến từ các hòn đảo. Những anh chị em ở ngoài hòn không được may mắn có lễ, không được may mắn thường xuyên gặp linh mục, nhưng luôn luôn sống như men, như muối, như hạt giống tốt, và như thế đời thường của anh chị em đã giãi toả ra một thứ Nước Trời. Sở dĩ hôm nay anh chị em có mặt trong thánh lễ này cũng vì sức mạnh của Nước Trời trong tâm hồn anh chị em, một Nước Trời bé nhỏ như hạt giống âm thầm như men, và khiêm tốn như muối, nhưng nhờ ơn Chúa càng ngày càng phát triển mạnh. Với một vài suy nghĩ trên đây, tôi cầu chúc họ đạo Hà Tiên với những hòn đảo chung quanh, cố làm sao giữ được Nước Trời trong lòng mình, với những đức tính có tính cách xã hội cộng với niềm tin, niềm cậy và đức mến đối với Thiên Chúa. Anh chị em hãy sống theo như khả năng anh chị em có được. Chúa không đòi những gì quá sức anh chị em. Hãy sống dưới con mắt của Thiên Chúa tình yêu. Hãy sống lương thiện. Hãy sống hài hoà. Hãy sống phấn đấu để có những thành quả về nhân sinh, để có những vẻ đẹp về nhân văn, để có những thăng tiến về nhân sự. Có được như vậy, Nước Trời trong anh chị em sẽ dần dần phát triển, và nơi đây tại Hà Tiên tốt đẹp, Hội Thánh chúng ta sẽ góp một phần không nhỏ trong tương lai của địa phương và của đất nước. Amen. Lễ Thêm Sức tại nhà thờ Hà Tiên, ngày 18-02-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Hôm nay, Chúa Giêsu giảng một điều quan trọng trong giáo lý của Ngài. Điều quan trọng đó là sự tha thứ. Giáo lý về sự tha thứ rất đơn giản, rất dễ hiểu. Hỏi tại sao phải tha thứ thì có thể trả lời: Khi ta tha thứ, thì ta sẽ được Chúa thứ tha. Hỏi phải tha thứ bao nhiêu lần thì có thể trả lời: Số lần tha thứ là vô hạn định, như lời Đức Kitô nói trong bài Phúc Âm hôm nay: “Không phải chỉ tha thứ bảy lần mà là bảy mươi bảy lần”. Cách nói đó có ý nghĩa là: vô hạn định, tha luôn mãi, tha hoài hoài, tha không có một giới hạn nhất định. Hỏi phải tha thứ cho những ai thì có thể trả lời: phải tha thứ cho bất cứ ai, dù người đó ở trong gia đình, ở trong xóm ngõ, ở trong xã hội, dù người đó là chính xã hội, dù người đó là chính Hội Thánh, dù người đó là chính mình ta, và có thể người đó là chính Thiên Chúa. Bởi vì Chúa nhiều khi cũng làm cho chúng ta bực mình, vì những điều răn của Ngài; Hội Thánh nhiều khi cũng làm chúng ta bực mình, vì những răn đe của Hội Thánh; chính mình ta cũng làm ta bực mình, bởi vì chúng ta yếu đuối không làm sự mình muốn được. Nếu hỏi tha thứ những gì thì có thể nói là: Tha thứ cho bất cứ sự gì. Tôi thấy nhiều khi không phải những lỗi lầm, những khó tính của người khác làm chúng ta bực mình, mà nhiều khi những thành công của họ, những cái may mắn của họ lại làm mất lòng ta. Rồi biết bao nhiêu lần chúng ta buồn kẻ khác, không phải vì những chuyện người ta có ý làm, mà chỉ vì khác tính nhau. Trên đây là rất dễ hiểu. Giáo lý về tha thứ rất đơn sơ rất vắn gọn, nhưng rất quan trọng vì có liên quan đến phần rỗi. Tôi có cảm tưởng là nếu một người nào đó chỉ hiểu được giáo lý này và cố gắng thực thi cặn kẽ, thì người đó chắc chắn sẽ được Chúa thương đời này và đời sau, mặc dù họ có nhiều khiếm khuyết. Việc giáo dục đào tạo chính mình và những kẻ thuộc về mình, để có được một trái tim bao dung tha thứ là rất quan trọng. ở đây, tôi chỉ nhắc lại một phương cách mà thôi, đó là năng suy gẫm Lời Chúa dạy về việc phải thứ tha. Một lý do được Chúa đưa ra nhiều lần, đó là nếu ta có tha thứ thì ta mới được thứ tha. Cứ suy đi nghĩ lại Lời Chúa dạy đó, để cho lòng chúng ta mềm ra, để chúng ta biết tha thứ một cách quảng đại cho những người xung quanh, tha thứ cho xã hội, tha thứ cho Hội Thánh, tha thứ cho cả Thiên Chúa đất trời, tha thứ cho chính mình ta. Ta có tha thứ thì ta mới được thứ tha. Một lý do khác, cũng từ Lời Chúa: Nếu chúng con đến bàn thờ dâng lễ mà chợt nhớ mình bất hoà với ai thì hãy về làm hoà tha thứ với họ trước, rồi sẽ trở lại dâng lễ sau. Có nghĩa là tha thứ làm hoà còn quan trọng hơn là đi dự lễ, hơn là xin lễ, hơn là những lễ vật ta dâng cho Chúa. Một lý do khác cũng từ Lời Chúa: Thầy cho chúng con một điều răn mới là chúng con thương yêu nhau. Thương yêu phục vụ, thương yêu tha thứ, thương yêu thông cảm, đó là dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô. Một lý do nữa cũng trong Lời Chúa: Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành, Đấng ban mưa xuống, làm cho mặt trời mọc lên trên khắp kẻ lành kẻ dữ không phân biệt ai. Chúng ta suy gẫm những lời Chúa như vậy trong thinh lặng và trong tinh thần cầu nguyện thì Lời Chúa dần dần uốn nắn lòng ta. Và tâm hồn ta dần dần được cải biến, dần dần trở nên trái tim Đức Kitô hiền lành, khiêm tốn và bao dung yêu thương chan hoà. Bí quyết truyền giáo như ở vùng này đây chính là trái tim. Khi trái tim biết phục vụ, biết yêu thương vị tha, biết tha thứ, thì đó là Tin Mừng, đó là dấu chỉ môn đệ Đức Kitô, đó là cách làm phong phú nền văn hoá dân tộc, đó là một cách phản ánh chân dung người Cha trên trời giàu lòng thương xót. Tập quen làm sao cho trái tim của chúng ta biết thứ tha. Tôi cũng nghĩ rằng một con người thánh là con người có nhiều khả năng tha thứ. Ai có nhiều khả năng tha thứ thì người đó sẽ là người hơn, người đó sẽ là môn đệ Đức Kitô hơn, người đó sẽ là thánh hơn. Trái lại, một người nếu chỉ đi lễ đọc kinh, làm những việc từ thiện xã hội, nhưng thiếu khả năng tha thứ, hay chấp nhất, ti tiện hẹp hòi, người đó chưa phải là môn đệ Đức Kitô, chưa phải là thánh. Thước đo sự thánh thiện chính là khả năng tha thứ. Nhất là trong những trường hợp coi như không thể tha thứ được mà mình vẫn tha thứ, thì đó là những dấu chỉ có sức thuyết phục. Ông đại diện họ đạo vừa trình bày với chúng tôi về những công việc từ thiện, những công việc xã hội, những công việc giáo dục mà họ đạo đã làm. Và ông đã thêm rằng họ đạo vẫn còn nhiều thiếu sót, cần được tha thứ. Tôi cũng cần nói với anh chị em giống như vậy. Chúng tôi giám mục, linh mục, tu sĩ cũng đã cố gắng rất nhiều trong các lãnh vực, nhưng vẫn nhìn nhận rằng chúng tôi chưa làm hết bổn phận của chúng tôi, nhất là trong vấn đề giáo dục đào tạo chính mình để có một trái tim có nhiều khả năng tha thứ như Đức Kitô muốn. Cho nên tất cả anh chị em cùng với chúng tôi, hãy xin Chúa thứ tha, xin Ngài đổi mới trái tim chúng ta để chúng ta trở nên con Chúa, chứng nhân tình yêu, như lúc nãy cộng đoàn đã hát trong ca nhập lễ, một tình yêu biết thông cảm, biết liên đới và nhất là biết thứ tha. Xin Chúa Thánh Linh là tình yêu, hôm nay ngự xuống trong tâm hồn chúng ta và biến đổi chúng ta. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Mong Thọ, ngày 04-03-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu phán: Ai giữ và dạy người khác giữ những luật đạo thì được kể là những kẻ cao cả trong Nước Trời. Qua Lời Chúa dạy trên đây, Chúa Giêsu có ý dạy chúng ta là Ngài quý trọng những kẻ thực hành. Thực vậy học giáo lý là điều tốt, hiểu giáo lý cũng là điều tốt, thuộc lòng giáo lý cũng là điều hay, nhưng thực hành giáo lý mới là điều tốt nhất. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến thực hành. Thực hành là điều quan trọng. Thực hành là điều Chúa đòi hỏi vì có ích lợi, không phải ích lợi cho Chúa mà ích lợi cho chính chúng ta. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến sự thực hành. Ngài đã dùng nhiều cách khác nhau, nhiều lời răn bảo khác nhau. Thí dụ trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa coi những kẻ thực hành là những người cao cả trong Nước Trời. Rồi chỗ khác thì Chúa ví những kẻ thực hành như những hành người khôn ngoan. Chúa nói: Những kẻ thực hành Lời Chúa thì giống như người khôn xây nhà trên nền đá, để khi trời có dông gió nổi lên, thác nước có tràn vào, nhà đó vẫn tồn tại. Trái lại những người chỉ biết Lời Chúa mà không thực hành thì giống như người ngu dại xây nhà trên cát, khi nước mưa đổ xuống, thác lũ tràn vào, dông gió nổi lên, thì nhà đó sụp đổ. Có lần Chúa Giêsu ví những kẻ thực hành như những kẻ được chọn vào Nước Trời. Chúa phán: “Không phải những kẻ kêu: Lạy Chúa, lạy Chúa, sẽ được vào Nước Trời nhưng chỉ có những ai thực hành Lời Chúa dạy mới được vào Nước Trời”. Rồi chúng ta hãy nghĩ lại những lời Chúa Giêsu phán về ngày phán xét chung. Chúa Giêsu lấy sự thực hành như một tiêu chuẩn, như một thước đo để đánh giá từng người, để chọn tựng người. Chúa hỏi: Khi gặp kẻ đói con có cho họ ăn không? Khi gặp kẻ khát con có cho họ uống không? Khi họ đau yếu con có đến viếng thăm không? Chúa để ý đến việc lành cụ thể. Như vậy chúng ta có thể hiểu rằng: Đạo của Đức Kitô là đạo nhắm vào thực hành chứ không phải là một đạo đề cao lý thuyết. Cho nên học đạo thì phải hành đạo. Biết giáo lý thì phải thực thi giáo lý. Khi chúng ta đã nhận định thực hành là điều quan trọng, là điều Chúa đòi hỏi, thì có một câu hỏi tất nhiên có thể đặt ra ở đây. Câu hỏi đó là: Chúng ta sẽ thực hành những việc gì ưu tiên và thực hành thế nào? Ơn gọi làm người con Chúa đòi thực hành hai loại việc này: Một là thực hành những việc có tính cách đón nhận ơn cứu độ từ Đức Kitô. Hai là thực hành những việc có tính cách chia sẻ ơn cứu độ cho những người chung quanh. Để thực hành những việc có tính cách đón nhận ơn cứu độ Đức Kitô, chúng ta phải tỉnh táo lắm, chúng ta phải khôn ngoan lắm, chúng ta phải khiêm tốn lắm. Bởi vì Chúa ban ơn cứu độ cho chúng ta qua nhiều ngả đường khác nhau, qua nhiều hình thức khác nhau. Có ơn thì ban thường xuyên, có ơn thì ban bất ngờ, có ơn qua những thành công và có ơn qua những thất bại. Ta phải tỉnh thức, ta phải khiêm tốn, ta phải khôn ngoan, thì mới đón nhận được. Tôi thí dụ ngay trong ngày hôm nay đây, Chúa đang ban ơn cứu độ cho chúng ta qua bài Phúc Âm, qua thánh lễ này, qua những người môn đệ Đức Kitô là chúng tôi ở trên bàn thờ, qua bầu không khí cộng đoàn ở đây, qua những gì chúng ta đã nghe đã gặp trong phố phường, trong gia đình. Biết bao nhiêu ngả đường Chúa đến ban ơn. Nhưng chỉ những người tỉnh thức, những người khiêm tốn, những người khôn ngoan biết đón chờ, mới gặp và đón nhận được ơn Chúa. Đây là vấn đề đón nhận ơn Chúa. Còn thực hành những việc có tính cách chia sẻ ơn Chúa mà mình đã lãnh nhận thì cũng phải quảng đại lắm, cũng phải khiêm tốn lắm. Bởi vì chúng ta thấy ngay trong thực tế họ đạo chúng ta, có những người chia sẻ ơn cứu độ Chúa ban cho mình, qua sự tham gia các việc trong họ đạo, trong xóm làng, trong phố phường, trong gia đình, trong nhà trường, và bằng sự quảng đại cho đi đất đai, của cải, thời giờ, sức lực, kiến thức, cung cách sống tốt, lời nói có nội dung tốt, gương sáng việc lành vv... Với cái nhìn và nhận thức trên đây, tôi quan sát họ đạo Rạch Giá, và tôi có thể vui mừng tạ ơn Chúa vì nhận thấy họ đạo anh chị em đúng là một cộng đoàn thực hành. Không chỉ là học hỏi mà còn nhấn mạnh đến thực hành. Thực hành một cách tỉnh táo trong những việc có tính cách đón nhận ơn Chúa và biết quảng đại chia sẻ những ơn Chúa ban cho mình. Tôi đã gặp gỡ, tôi đã lắng nghe, và tôi cảm phục biết bao nhiêu người trong họ đạo anh chị em đã cống hiến đời mình, cống hiến thời giờ của mình, cống hiến của cải của mình để tham gia công việc mở Nước Trời trong giữa hoàn cảnh có thuận lợi mà cũng có nhiều khó khăn. Với nhận định đó, với cái nhìn đó, tôi xin cảm tạ Chúa với anh chị em và cầu mong rằng: Họ đạo Rạch Giá sẽ tiếp tục phát huy khía cạnh thực hành Lời Chúa. Bằng cách là biết tỉnh táo hơn trong công việc đón nhận ơn Chúa, và bằng cách quảng đại nhiều hơn trong việc chia sẻ ơn cứu độ Chúa đã ban cho mình. Khi đọc lời “Xin Chúa thương xót chúng con”, tôi đã hết sức cầu xin cho chính mình, cho chúng tôi và cho anh chị em biết nhờ sự hối cải, để đón nhận ơn Chúa nhiều hơn. Qua con đường khiêm tốn hối cải, Chúa sẽ ban cho chúng ta ơn trở về với Chúa. Và một khi đã có ơn trở về với Chúa, trái tim chúng ta sẽ được đổi mới, sẽ được tái tạo như bài ca cộng đoàn lúc nãy đã hát: Thần Khí Chúa, Thần Khí tác tạo và đổi mới chúng ta. Và một khi đã được đổi mới do ơn trở lại Chúa ban cho, chúng ta sẽ biết đón nhận và chia sẻ một cách khôn ngoan trong bất cứ hoàn cảnh nào dù khó khăn đến mấy. Xin Chúa Thánh Linh giúp cho chúng ta biết sống ơn gọi người môn đệ Đức Kitô biết đón nhận và biết chia sẻ. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Rạch Giá, ngày 05-03-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Phúc Âm hôm nay phác hoạ đại cương cuộc xung đột giữa quyền lực Thiên Chúa và quyền lực quỷ Satan. Quyền lực của Thiên Chúa nhằm mục đích cứu con người khỏi đàng tội lỗi và đưa họ vào đàng lành, để sau cùng con người được lên thiên đàng chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa Tình Yêu. Còn quyền lực của quỷ dữ Satan thì nhằm mục đích đưa con người tránh xa đàng lành, đi vào đàng tội, để sau cùng đẩy con người xuống hoả ngục trầm luân, chịu chung hình phạt với quỷ Satan, là nguồn độc ác. Quyền lực của ma quỷ thường được thực hành dưới hai phương án mà bài Phúc Âm hôm nay đã phác hoạ. Phương án thứ nhất là đích thân ma quỷ nhập vào con người, biến con người thành nhà của quỷ. quỷ chiếm đoạt tâm tư, ý muốn, tình cảm con người, làm cho con người mất đi tính người để trở thành tính quỷ. Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy có một số người bị quỷ nhập như vậy. Phương án thứ hai là quỷ không đích thân nhập vào con người, nhưng quỷ gieo rắc tinh thần xấu vào con người, đem tinh thần độc ác của nó pha trộn vào tư tưởng, ước muốn, tâm tình của con người, để dần dần biến đổi con người trở thành dụng cụ của nó. Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy kế hoạch thứ hai này đã được quỷ thực hiện nơi những người đả kích Đức Kitô. Họ giải thích việc Đức Giêsu trừ quỷ một cách ác độc. Họ nói rằng Đức Kitô dùng quyền của quỷ cả Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. Đó là một cách giải thích ác độc, do tinh thần ác độc của ma quỷ gieo vào con người đó. Chúa Giêsu đã đối phó với quyền lực ma quỷ thế nào. Trong bài Phúc Âm hôm nay chúng ta đã thấy. Đối với phương án thứ nhất là trường hợp nhưng người bị quỷ nhập, thì xem ra Chúa đối phó một cách dễ dàng. Bởi vì chính người bị quỷ nhập, khi tỉnh cũng rất muốn được Chúa Giêsu cứu khỏi. Gia đình họ cũng van xin Chúa Giêsu cứu. Tất cả xã hội đạo đời cũng muốn Chúa Giêsu cứu. Thành ra Chúa Giêsu rất dễ cứu những người bị quỷ ám. Còn trường hợp thứ hai thì xem ra khó khăn hơn. Trong những trường hợp mà tinh thần của quỷ dữ ám vào người ta, thì những người đó nhiều khi không nhận ra mình đang mang tinh thần của quỷ dữ. Không nhận ra nên muốn bảo trì tinh thần đó. Nhiều khi tuy nhận ra nhưng không cầu xin Chúa giúp cho mình thoát khỏi và cũng không phấn đấu để thoát khỏi tinh thần đó. Không có sự cộng tác của họ và của xã hội. Thành ra Chúa Giêsu chỉ làm thế này thôi là khuyên bảo, răn đe để thuyết phục rồi dần dần chính họ phải xin ơn cứu độ. Thành ra những người bị tinh thần ma quỷ ám vào thường rất khó được cứu độ. Hiện nay chúng ta thấy cách ma quỷ phá quấy Nước Trời thường là theo phương án thứ hai. Phương án thứ nhất là nhập vào con người bây giờ hầu không còn nữa, vì nó lố bịch, vì nó trơ trẽn, vì nó rõ quá đi. Nhưng phương án thứ hai thì ma quỷ hiện nay đang thi hành một cách tinh vi, một cách khôn khéo, một cách thông minh. Chính vì vậy con người dễ đồng minh với ma quỷ muốn bảo vệ tinh thần đó. Không thống hối, không xin ơn trở về thì làm sao Chúa cứu độ được họ. Nơi xứ đạo anh chị em, tôi nhận thấy có những dấu chỉ về sự tinh thần Chúa đang hoạt động rất mạnh. Tuy nhiên, tôi cũng thấy ma quỷ đang dùng phương án này phương án nọ để kéo anh chị em xa đàng lành. Điều này là tất nhiên thôi, ở đâu cũng vậy, thời nào cũng thế, luôn luôn có tinh thần lành luôn luôn có tinh thần dữ, hai lực lượng đó đấu tranh với nhau. Ăn thua là ở sự chúng ta biết đối phó. Đừng bỡ ngỡ gì. Tôi nói lại ăn thua là sự chúng ta đối phó. Đối phó bằng cách nào? Đơn giản thôi. Lúc nãy đầu thánh lễ chúng ta đã cầu nguyện: “Xin Chúa thương xót chúng con”, và trong kinh Vinh Danh, chúng ta cũng đã hát: “Chúa xoá tội trần gian xin thương xót chúng con, Chúa xoá tội trần gian xin nhậm lời chúng con cầu khẩn”. Những lời cầu như thế là những cách đối phó. Chúng ta yếu đuối lắm, chúng ta tối tăm lắm. Nhưng Chúa ban cho chúng ta một điểm tựa, một sức mạnh, đó là Đức Kitô Cứu độ. Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Chúa là Đấng xoá tội trần gian, xin Ngài xoá tội chúng ta, xin Ngài nhậm lời chúng ta. Chúng ta cầu xin với hai điều kiện này: Một là khiêm tốn tin tưởng vào Chúa một cách tuyệt đối. Hai là luôn luôn cảm tạ lòng thương xót Chúa. Tôi vẫn làm như vậy. Tôi không có một bí quyết nào đặc biệt cả, tôi luôn cầu xin: “Lạy Đức Kitô là Đấng xoá tội trần gian, xin thương xót con. Lạy Đức Kitô là Đấng xoá tội trần gian, xin nhậm lời con cầu khẩn”. Hãy cầu nguyện như những người trong Phúc Âm bị quỷ ám, bị tàn tật, bị bệnh nặng đã cầu xin với Chúa. Họ chỉ cầu xin rằng: “Lạy Thầy xin thương xót con”. Và khi cầu như vậy họ luôn luôn tin tưởng vào Đức Kitô, Ngài giàu lòng thương xót, Ngài nhiều quyền năng. Đủ rồi. Rồi khi cầu nguyện, chúng ta đừng quên áp dụng lời chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ hai lúc nãy: là cầu nguyện với Chúa Thánh Linh, là cầu nguyện để tuân phục thánh ý Chúa, để ý Chúa được nên trọn trong chúng ta. Cầu nguyện trong tinh thần của Thánh Linh: biết mến yêu, biết tạ ơn, biết tin tưởng, biết phó thác. Có nhiều dấu chỉ Nước Trời đang đến nơi anh chị em. Bài Phúc Âm hôm nay Chúa nói một câu, giúp tôi lạc quan về xứ đạo anh chị em. Chúa nói rằng: “Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ được thì đó là dấu Nước Trời đang đến với anh chị em”. Tôi thấy anh chị em đang được ngón tay Thiên Chúa dùng để đẩy trừ ma quỷ. Ngón tay Thiên Chúa ở trong tinh thần của anh chị em. Trước hết là tinh thần khiêm tốn. Từ trước đến giờ và qua phát biểu của ông đại diện, anh chị em nhận mình có những khuyết điểm. Nhận như vậy là một điều khiêm tốn. Rồi anh chị em có tinh thần phấn đấu. Xứ đạo anh chị em nghèo, xứ đạo anh chị em bị ràng buộc nhiều vào truyền thống chưa được phúc âm hoá nhưng anh chị em đã phấn đấu để dần dần tân phúc âm hoá những truyền thống đó. Rồi anh chị em có tinh thần cầu nguyện. Lúc nãy tôi thấy anh chị em trước lễ đã dọn mình bằng việc cầu nguyện với những lời kinh thắm thiết. Đó là một thói quen tốt biểu lộ tinh thần cầu nguyện. Tôi tưởng đó là những việc Chúa đang dùng như ngón tay của Chúa để xua đuổi những tinh thần xấu trong họ đạo. Và đó là dấu chỉ Nước Trời đang đến với anh chị em. Hãy dùng việc lành để đẩy lùi sự dữ. Hãy dùng tinh thần của Thánh Linh để đẩy lùi tinh thần của quỷ dữ Satan. Đó là dấu chỉ của Nước Trời đang đến. Cầu xin Chúa Thánh Linh trong thánh lễ này giúp cho anh chị em luôn luôn có một thái độ quyết liệt, biết đấu tranh với quỷ dữ Satan bằng những việc lành, dù nhỏ, nhưng đầy tinh thần tin, mến và cậy trông. Amen. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Bắc Xuyên, Kinh E1, ngày 06-03-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại chuyện một quan chức nhà vua đến với Chúa Giêsu, xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho con trai ông đau bệnh. Chúa đã thương và con trai ông đã được lành mạnh. Câu chuyện không dừng lại ở đó, bởi vì sau đó cả gia đình vị quan chức ấy đã trở lại, tin theo Đức Kitô. Suy gẫm bài Phúc Âm hôm nay, tôi đã tuyên xưng Đức Kitô là Đấng Cứu độ, Ngài vừa cứu phần hồn vừa cứu phần xác, vừa cứu người bệnh vừa cứu cả gia đình người bệnh. Tôi đã cảm tạ Đức Kitô Đấng Cứu độ loài người. Trong tâm tình con thảo, tôi đã nói với Chúa Giêsu rằng: Chúng con cũng đang bị đau bệnh, bệnh phần xác bệnh phần hồn. Chúng con đã cầu xin với Chúa thương chữa bệnh chúng con. Nhưng xem ra Chúa không nghe lời chúng con cầu nguyện, Chúa vẫn để chúng con ở trong tình trạng khổ đau yếu đuối. Tại sao vậy? Nhất là chúng con cũng cầu xin với tất cả lòng tin, vì danh Chúa, chớ không phải vì tư lợi chúng con. Chúa đem trí khôn tôi nhớ lại cảnh Chúa Giêsu bị hấp hối trong vườn cây dầu. Thấy cảnh đớn đau đang gần đến. Chúa Giêsu xin Chúa Cha cứu Ngài khỏi uống chén đắng, nhưng Chúa Giêsu đã thêm lời này: “Xin đừng theo ý Con nhưng xin theo ý Cha mọi đàng”. Và thực sự Đức Kitô đã phải uống chén đắng. Ngài đã phải bước vào cuộc tử nạn với biết bao nhục nhã, với biết bao đớn đau. Sau cùng Ngài đã sống lại. Với sự Chúa nhắc nhở trên đây, tôi hiểu là trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là trong những hoàn cảnh đau khổ, chúng ta hãy cứ cầu nguyện, hãy cứ xin Chúa cứu ta khỏi những cảnh đó, nhưng đồng thời cũng hãy sẵn sàng tuân phục thánh ý Chúa. Ý Chúa rõ ràng nhất, chắc chắn nhất đó là biết đón nhận Nước Trời và biết cùng với Đức Kitô xây dựng Nước Trời. Mà Nước Trời là cái gì? Thưa, nói chung Nước Trời là tinh thần hoà bình, tinh thần công lý, tinh thần bác ái, khả năng biết rõ chính mình, khả năng biết phấn đấu để sống lương thiện, khả năng biết yêu thương người khác, biết bao dung đối với người khác, khả năng biết tha thứ, biết phục vụ những người chung quanh, khả năng biết bén nhạy để sống liên đới với những hoàn cảnh cụ thể trong đời thường. Đó là những đức tính tốt mà Chúa vẫn luôn luôn sẵn sàng ban tặng cho mỗi người chúng ta. Chúa đã ban mầm mống những đức tính đó trong mỗi người. Khi ta cầu xin cho những đức tính đó phát triển, thì ơn Chúa sẽ giúp chúng phát triển nhiều khi một cách rất bất ngờ, ngoài những tính toán của chúng ta. Vì thế phải luôn sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy điều đó. Ai ngờ một người vô đạo, lại được Đức Kitô tiếp một cách thân thương như vậy. Đâu có ngờ Đức Kitô lại làm phép lạ cho gia đình ông một cách dễ dàng như thế. Nước Trời bao giờ cũng đến lớn hơn sự ta ước muốn và sự ta tính toán. Vì thế cần phải luôn có một thái độ đón nhận ý Chúa, cộng tác với ý Chúa. Tôi coi cộng đoàn giáo xứ ở đây là một giáo xứ ổn định, trật tư,ề nề nếp. Chúng ta hãy biết ơn tất cả mọi người, nhất là những vị linh mục đã có công xây dựng nề nếp trong họ đạo. Tôi nói với Chúa rằng: Xin Chúa giúp cho anh chị em cộng đoàn này luôn biết tuân phục thánh ý Chúa, để nếu có một ngày nào đó, vì lợi ích của Nước Trời, anh chị em phải bước vào một hoàn cảnh khác với nề nếp cũ của mình, thì cũng sẵn sàng. Chúng ta đã biết rằng, nhờ có cuộc tử nạn của Đức Kitô cho nên thánh Phêrô mới nhận ra sự yếu đuối của mình. Và nếu Chúa Giêsu không ngã trên đường vác thánh giá, thì làm sao lại nổi dậy một dung mạo của Simon, của bà Vêrônica, là những người can đảm biết nâng đỡ Đức Kitô trong những bước đường cùng. Và nếu Chúa Giêsu không chịu đóng đinh trên thập giá, thì người ta làm sao có thể hiểu được tình yêu của Ngài, một tình yêu tha thứ, biết kéo từ dưới thẳm sâu lên một vị thánh không ai ngờ, đó là người ăn trộm đóng đinh bên hữu Chúa. phải có những thử thách, phải có những bất ổn, để rồi đức tin mới trưởng thành. Giáo phận chúng ta, Hội Thánh Việt Nam chúng ta, cộng đoàn giáo xứ chúng ta ổn định trật tự nề nếp là rất tốt. Nhưng luôn sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa. Đón nhận những cơn thử thách để giúp chúng ta biết bén nhạy hơn, biết năng động hơn, biết trưởng thành hơn. Nếu Đức Kitô không về trời sớm, để các tông đồ trở nên bơ vơ, thì làm sao các tông đồ có thể trưởng thành, biết phấn đấu, lăn lộn giữa những đau khổ thử thách tư bề để trở nên chứng nhân cho Tin Mừng. Cho nên bao giờ trong cầu nguyện, trong ước mong dù thánh thiện nhất, cũng phải có sẵn một điều là xin vâng thánh ý Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết thích nghi và biết phấn đấu cho Nước Trời trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì những ơn Chúa đã ban cho giáo xứ, nhưng đồng thời chúng ta vẫn cầu xin Chúa cho chúng ta luôn biết đón nhận thánh ý Chúa, thực thi thánh ý Chúa. Lễ Thêm Sức tại giáo xứ Tân Hải, Kinh C2, ngày 10-03-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần. Thế nhưng, Ngài đã bị các vị lãnh đạo tôn giáo của Ngài kết án. Họ đã loại trừ Ngài nhân danh luật đạo. Họ đã mưu giết Ngài vì mục đích tôn vinh Thiên Chúa! Lỗi lầm lịch sử này là một thảm kịch. Nó xảy ra không chỉ một lần và không phải chỉ dưới một hình thức. Nghĩa là có nhiều việc làm nhân danh Chúa mà làm hại Chúa. Có nhiều công trình thực hiện vì mục đích tôn vinh Thiên Chúa lại bị Thiên Chúa từ bỏ. Chúa Giêsu đã khẳng định như thế: “Ngày ấy, sẽ có nhiều người kêu cùng Chúa rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi đã chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm phép lạ sao? Bấy giờ Thầy sẽ trả lời họ rằng: Ta không hề biết các ngươi. Hãy đi khỏi đây, hỡi những kẻ gian ác” (Mt 7,22). Như vậy là có những người nhân danh Chúa mà làm nhiều việc coi như lành thánh, nhưng lại bị Chúa xếp vào loại gian ác, không được vào Nước Trời. Thế thì những ai sẽ được vào Nước Trời? Chúa Giêsu nói rõ: “Chỉ những ai làm theo ý Cha Thầy trên trời mới được vào Nước Trời” (Mt 7,21). Biết đúng ý Chúa, và thực hành ý Chúa, đó là điều kiện để vào Nước Trời. Chúa muốn chúng ta thực hành nhiều điều như giáo lý dạy. Nhưng có một điều phải được kể là quan trọng nhất, chắc chắn nhất, Chúa muốn chúng ta thực hiện ưu tiên, đó là giới luật yêu thương. “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới, là chúng con thương yêu nhau. Thầy đã yêu thương chúng con thế nào, chúng con cũng phải thương yêu nhau như vậy. Người ta sẽ nhận biết chúng con là môn đệ Thầy ở sự chúng con biết thương yêu nhau” (Ga 13,34-35). Yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, đó là đặc điểm đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu. phải chăng yêu thương như thế cũng là con đường tôn vinh Thiên Chúa? Chắc chắn là như vậy. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha hãy tôn vinh Con Cha, để Con Cha lại tôn vinh Cha” (Ga 17,1). Sau lời cầu ấy, Chúa Giêsu đã bước vào cuộc thương khó, tới cảnh tử nạn trước khi phục sinh... Tất cả chỉ vì yêu thương. Ngài hợp ý với Chúa Cha về tình yêu thương đối với nhân loại. Có thể nói con đường Chúa Cha tôn vinh Ngài, cũng như con đường Ngài tôn vinh Chúa Cha, chính là con đường tình yêu làm chứng cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Để hiểu, ít là đôi chút, về con đường tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta nên nhận định sơ qua tình yêu, mà Chúa Giêsu đã thực hiện trong ba ngày tuần thánh. 1. Ngài là tình yêu gánh tội trần gian. Ngài vừa là con chiên vẹn sạch tinh tuyền, tự nguyện chịu sát tế để đền tội nhân loại. Ngài vừa là Chúa chiên lành, tự hiến mình chết thay cho đoàn chiên. “Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Đấng Cứu chuộc, phải đổ máu mình ra để đền tội cho nhân loại” (Rm 3,21). Qua việc đền tội này, Chúa Giêsu cho thấy quyền lực quỷ dữ là rất mạnh, thế giới sự ác là rất lớn. Ngài đẩy lùi chúng bằng thánh giá, tượng trưng cho tình yêu chấp nhận hy sinh. 2. Ngài là tình yêu liên đới với những kẻ khốn cùng. Ngài đã bị bắt oan, bị kết án oan, bị chết oan, bị xếp vào hạng người mà cả quyền đời quyền đạo cùng nhau loại trừ. Ngài muốn liên đới với những người bị khinh, bị nhục, bị khổ. Ngài cùng chịu số phận như họ. Để họ có thể tìm được tình yêu hy vọng ngay trong số phận đen tối của mình. Cùng chịu khổ nhục, đó là một cách chia sẻ, mà không phải ai cũng muốn và dám thực hiện. 3. Ngài là tình yêu đón nhận những người bị coi như đồ bỏ. kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa Giêsu là con người không còn một giá trị nào. Lý lịch xấu. Thành tích xấu. Đạo đức dưới số âm. Thế mà lương tâm anh đã được Chúa đánh thức vào phút chót. Anh đã biểu lộ một số tâm tình khiêm tốn, thương người, khao khát hạnh phúc đời sau. Anh đã được Chúa hứa cho vào thiên đàng ngay hôm ấy. Một cách nào đó, anh đã được phong thánh. Chính Chúa Giêsu, trên ngai toà thánh giá, đã nhân danh Đấng Cứu độ, thánh hoá anh. 4. Ngài là tình yêu cởi mở với những kẻ mà cơ chế tôn giáo coi thường. Ông Simon đã vác đỡ thánh giá cho Chúa Giêsu. Bà Vêrônica đã đón đường lau mặt cho Ngài trên đường Ngài bị điệu đến pháp trường. Bà Madalena đứng dưới chân thánh giá Chúa, sau này lo việc táng xác Ngài, cũng như đi tìm xác Ngài. Viên sĩ quan tuyên xưng Chúa Giêsu là kẻ vô tội. Họ là ai? Họ là những người mà cơ chế tôn giáo hồi đó coi thường, và có thể là khinh thường. 5. Ngài là tình yêu thánh hoá trong chân lý. Các tông đồ, nhất là thánh Phêrô, trước đây tưởng mình tốt lành, kiên cường, trung tín. Nhưng cuộc Chúa Giêsu chịu nạn là một thử thách đối với các ngài. Các ngài đã tỏ lộ rõ bộ diện thực của mình. Cũng rất yếu đuối: bỏ trốn Chúa, chối Chúa, bán Chúa. Sự thực được phơi bày. Để rồi các ngài nhận thức được rằng: chính các ngài cần được tha thứ, cần được cứu độ. Khiêm tốn biết mình tội lỗi yếu hèn, đó là chân lý dọn đường đón nhận ơn thánh hoá. 6. Ngài là tình yêu đánh thức lương tâm. thảm kịch Chúa Giêsu bị quyền lực đạo đời kết án là một câu hỏi đặt ra cho nhiều lương tâm. bản án mà các quyền lực dành cho Chúa Giêsu đã trở thành bản án cho chính các quyền lực ấy. bản án này tố cáo cái gian, cái ác, cái ghen ghét cái sai lầm, vẫn hiện diện trong các người của xã hội và của tôn giáo. Sự nhẫn nhục, hiền lành chịu đựng những oan ức nơi các nạn nhân cũng chính là một cách đánh thức lương tâm nhân loại. Nhờ đó, bao người đã sám hối, trở về, đổi mới. 7. Ngài là tình yêu tha thứ. Trên Thánh giá, Chúa Giêsu đã cầu xin với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết việc họ làm”. Ngài đã tha thứ những gì không thể tha thứ được. Ngài đã tha thứ cho mọi người, miễn là họ biết đón nhận ơn tha thứ. Ngài tha tội, và xoá mọi mặc cảm bởi tội, làm cho người có tội trở nên tốt hơn khi chưa phạm tội. Đến nỗi Hội Thánh đã có lần thốt lên: “Tội hồng phúc” (Felix culpa), khi nói về những ai biết đón nhận ơn tha thứ, ơn cứu độ của Đức Kitô. 8. Ngài là tình yêu huấn luyện phấn đấu. Chúa Giêsu rất thương các môn đệ của Ngài. Nhưng Ngài đã không cưng chiều. Với cuộc tử nạn, Ngài đã đưa các môn đệ vào những thử thách đớn đau. Và rồi, sau khi sống lại, Ngài đã về trời, để các môn đệ ở lại trần gian. Các môn đệ phải tự mình xoay xở, tự mình phấn đấu, tự mình thích nghi, để lập thân, để trưởng thành, để xây dựng các cộng đoàn, để rao giảng Tin Mừng trong những hoàn cảnh phải nói là rất khó. Có Thánh Linh của Chúa Kitô soi sáng hỗ trợ, các môn đệ đã phấn đấu với mọi nghịch cảnh và với chính mình. Phấu đấu trong hân hoan và tin yêu vô vàn. 9. Ngài là tình yêu xây dựng hiệp nhất. Chúa Giêsu rất thiết tha với sự hiệp nhất. Ngài cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Ngài muốn xoá bỏ mọi ranh giới tạo nên do những quan điểm hẹp hòi. Ngài mở ra một tầm nhìn mới mẻ rộng rãi về quan niệm tôn giáo của Ngài: Nước chung của mọi người là Nước Trời. Cha chung của mọi người là Cha trên trời. Luật chung của mọi người là luật yêu thương. Đặc điểm chung của các môn đệ Ngài là bác ái phục vụ. Đấng Cứu độ và trung gian chung của mọi người là chính Ngài. *** Nhìn sơ qua một số những hoạt động trên của Đức Kitô, tôi thấy tình yêu của Ngài là một ngọn đèn pha chiếu soi con đường tôn vinh Thiên Chúa. Tôi thấy ở đâu có bác ái, ở đó có tôn vinh Thiên Chúa. Một cộng đoàn gồm nhiều người tài giỏi sẽ không tôn vinh Thiên Chúa cho bằng một cộng đoàn mà mọi người sống đậm tình liên đới. Một xã hội gồm toàn những cá nhân giàu sang sẽ không tôn vinh Thiên Chúa cho bằng một xã hội gồm những trái tim biết yêu thương, chia sẻ, giàu khả năng kính trọng nhau với những khác biệt, và cùng nhau phấn đấu cho lợi ích chung. Một nốt nhạc không làm nên một bài ca. Cũng thế, bài ca sống động tôn vinh Thiên Chúa là một liên đới đẹp giữa nhiều cuộc đời, giữa nhiều thân phận. Chỉ có tình yêu mới làm nên được liên đới ấy. Tất nhiên tình yêu ấy phải biết sáng tạo. Tình yêu của Đức Kitô là một mô hình tuyệt vời, luôn luôn mới, không ngừng dẫn tới phục sinh. Nhìn chung quanh đây, tôi thấy nhiều người đang sống ơn tình yêu Chúa Giêsu. kẻ thì đón nhận. Người thì chia sẻ. Với những vẻ đẹp muôn mầu, họ rất đông, trong Công giáo và ngoài Công giáo. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều người như thế đã xuất hiện từ đám đông hầu như không biết đạo Chúa. Họ hiểu bác ái một cách đơn sơ, nhưng họ thực hành bác ái một cách cặn kẽ không thể ngờ được. Nên nhớ rằng: Thực hành mới là quan trọng. Cởi mở trước những bất ngờ như thế với lòng cảm tạ cũng là cách tôn vinh Thiên Chúa. Thực ra, trên những ngả đường tôn vinh Thiên Chúa đã và đang xảy ra nhiều bất ngờ, ngoài mọi cơ chế, ngoài mọi tính toán. Những công trình tôn vinh Thiên Chúa đẹp nhất thiết tưởng là những con người tốt, luôn phấn đấu với chính mình để có lòng từ nhân, biết làm việc từ thiện, luôn từ bỏ chính mình, thường xuyên đi vào Nước Trời bằng những bước đi âm thầm của những môn đệ Đức Kitô. Bước đi nhỏ thôi, nhưng mang vẻ đẹp của tình yêu và niềm tin. Bài nói chuyện với liên Tu Sĩ, thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20-03-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong các thánh lễ “Truyền Dầu”, người ta có thói quen nhắc tới chức linh mục, để ca tụng Chúa đã thành lập Bí tích Truyền chức thánh và để cầu nguyện cho các linh mục. Trong thánh lễ Truyền Dầu hôm nay, tôi cũng nhắc tới chức linh mục, nhưng với nhiều lo âu. Bởi vì tình hình xã hội cũng như tình hình tôn giáo có rất nhiều chuyển biến phức tạp, đặt ra cho linh mục nhiều đòi hỏi nặng nề. Một trong những đòi hỏi đó là khả năng giới thiệu Đức Kitô cho xã hội Việt Nam hôm nay. Tôi nghĩ rằng giới thiệu Đức Kitô cho xã hội hôm nay không phải chỉ là bổn phận của các linh mục, mà cũng là bổn phận của các tu sĩ, của các giáo dân. Nó là bổn phận riêng của từng cá nhân tín hữu, nó cũng là bổn phận chung của từng cộng đoàn đức tin. Tất cả đều có bổn phận. Tất cả đều phải có khả năng. Mà khả năng là chuyện không dễ. Chính vì thế mà phải quan tâm đào tạo. Nhân dịp thánh lễ hôm nay có đông linh mục, tu sĩ và giáo dân, tôi muốn nói tới một cách giới thiệu Đức Kitô, mà tôi cho là phổ thông nhất và cũng hữu hiệu nhất trong thời nay. Mục đích để chúng ta cùng quan tâm tăng cường đào tạo cách đó cho có nhiều khả năng. Cách đó là chính con người chúng ta với những đặc điểm của người môn đệ Đức Kitô. Người môn đệ Đức Kitô phải có những đặc điểm nào ? ở đây, tôi chỉ nhắc tới hai đặc điểm, mà Đức Kitô đã nhấn mạnh. Đặc điểm thứ nhất của người môn đệ Đức Kitô là tinh thần từ bỏ. Chúa Giêsu phán: “Nếu ai muốn là môn đệ Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24). Ngài khẳng định: “Ai không từ bỏ tất cả những gì mình có, sẽ không thể là môn đệ Thầy” (Lc 14,33). Từ bỏ nói đây là dứt lìa những dính bén xấu, những ham muốn bất chính, không phải đối với những của cải vật chất, mà cũng đối với những của cải tinh thần, như danh vọng, uy tín, ý riêng. Từ bỏ là ra khỏi cái tôi ích kỷ, bỏ con người cũ, trở nên con người mới (x. Col 3, 9-10). Từ bỏ là chấp nhận hy sinh, khiêm tốn chôn vùi, như lời Chúa dạy:"Nếu hạt giống rơi xuống đất mà thối đi, nó sẽ nảy sinh hoa trái” (Ga 12,24). Từ bỏ như thế là để gắn bó chặt chẽ với thánh ý Chúa, như Chúa Giêsu đã nói: “Không phải theo ý con, nhưng theo ý Cha mà thôi” (Lc 22,42). Từ bỏ như thế là để tập trung vào Đức Kitô, chính nhờ Người, với Người và trong Người, và vì Người mà chúng ta sống và hoạt động. Từ bỏ như thế là để sống phục vụ vị tha, không tìm vui sướng nào ngoài vui sướng được liên kết mật thiết với Đức Kitô, như lời Ngài phán: “Thầy là cây nho, các con là ngành” (Ga 15,5). Đặc điểm thứ hai của người môn đệ Đức Kitô là tinh thần bác ái. Chúa Giêsu phán: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy là chúng con thương yêu nhau” (Ga 13,35). Tình yêu thương đối với nhau phải là tình yêu thương giống tình yêu thương của chính Chúa Giêsu dành cho chúng ta. “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con” (Ga 15,12). Suốt cuộc đời Đức Kitô là một sứ điệp tình yêu. Chính bản thân Ngài là một lời yêu. Tình Ngài xót thương. Tình Ngài cứu độ. Tình Ngài chữa lành. Tình Ngài tha thứ. Tình Ngài phục sinh. Ngài thương ta, khi ta chưa biết Ngài. Ngài yêu ta, khi ta còn trong tội lỗi. Ngài thương ta, đến nỗi đã thí mạng sống vì ta: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Người ... không phải để xét xử thế gian, nhưng để nhờ Ngài mà thế gian được cứu” (Ga 3, 16-17). Trên đây là sơ lược về tình yêu bác ái và vị tha từ bỏ. Với hai đặc điểm này, con người môn đệ Đức Kitô sẽ là chứng nhân sống động của Tin Mừng Cứu độ, Tin Mừng Phục sinh, họ sẽ có khả năng giới thiệu Đức Kitô một cách có sức thuyết phục, họ sẽ là một thứ dầu thánh thiêng liêng, đem lại ơn ích cho mọi người. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho mọi người chúng ta, đặc biệt là ban cho các linh mục của chúng ta, được ơn biết cộng tác với Chúa trong việc huấn luyện mình, đào tạo mình thường xuyên và kỹ lưỡng về hai đặc điểm quan trọng nói trên. Được như vậy, Tin Mừng sẽ dễ được loan truyền và dễ được chấp nhận tại Việt Nam hôm nay. Lễ Truyền Dầu tại nhà thờ giáo xứ Trinh Vương, Kinh A1, ngày 25-03-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Trong thánh lễ tối thứ năm Tuần thánh, chúng ta học được rất nhiều điều qua gương Chúa Giêsu để lại. Thí dụ: giới luật yêu thương, sự vâng phục thánh ý Chúa Cha, sự khiêm nhường, sự từ bỏ mình dấn thân hy sinh, sự tỉnh thức và cầu nguyện, Bí tích Thánh Thể, Bí tích Truyền chức thánh,v.v... Mỗi người chúng ta hãy tự chọn cho mình một trong những đề tài đó, hoặc một đề tài khác thuộc về Tuần thánh, để suy gẫm. Riêng tôi, tôi chọn đề tài: Đón nhận con đường cứu độ của Chúa Giêsu. Nói đúng ra, tôi không chọn cho tôi, mà chính Chúa chọn cho tôi. Bởi vì ít ngày nay tôi bị ray rứt không nguôi bởi niềm khát vọng này là: Cần đón nhận Đức Kitô Cứu độ và con đường Ngài chọn, mặc dầu con đường Ngài chọn không hợp với mong muốn của hầu như tất cả mọi người. Phúc Âm cho thấy rõ điều đó. Để cứu độ loài người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã có những chọn lựa nào? Ngài đã chọn những vật liệu rất bé mọn tầm thường, đó là tấm bánh mì và chút rượu nho, để lập Bí tích Thánh Thể, hầu ở lại một cách mầu nhiệm giữa con cái loài người. Ngài đã chọn những con người rất tầm thường, mộc mạc, yếu đuối, đó là 12 môn đệ, để qua Bí tích Truyền chức, họ trở thành những cột trụ của Hội Thánh Ngài. Ngài đã chọn cách diễn tả rất mực khiêm nhường, đó là quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, rồi tự ý bước vào cuộc khổ nạn, để làm chứng tình yêu Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài đã chọn những cảnh bi đát cực kỳ đau thương, đó là cảnh Ngài cô đơn, cảnh Ngài bị mọi người từ bỏ, cảnh Ngài bị kết án và chết nhục nhã, để làm chứng về ơn gọi làm con Chúa là phải luôn luôn làm theo ý Chúa, luôn luôn tin vào ý Chúa. Ngài đã chọn con đường đen tối suy sụp, hầu như tuyệt vọng, đó là cảnh các công trình đạo đức của Ngài đã xây dựng hầu như hoàn toàn bị tàn phá, dân chúng quay lưng lại, các môn đệ bỏ trốn, các quyền lực đời đạo và quỷ dữ cùng nhau chôn vùi uy tín Ngài. Ngài chọn con đường đó để làm gì ? Thưa để đi vào giây phút Phục sinh. Tất cả những lựa chọn đó là rất bất ngờ, là rất khó hiểu, là rất khác với ý muốn của những kẻ tin theo Ngài. Chính Thánh Phêrô, người mà Ngài đặt làm Giáo Hoàng thứ nhất, cũng phản đối sự lựa chọn khiêm tốn và đau khổ của Ngài. Nhưng Ngài vẫn chọn, bởi vì con đường Ngài chọn là con đường diễn tả tình yêu thương xót của Chúa Cha và niềm tin tuyệt đối vào Chúa Cha, chứ không phải con đường diễn tả quyền lực chiến thắng, quyền lực trừng phạt, và niềm tự hào về mình. Thời Chúa Giêsu là như thế. Thời chúng ta xem ra cũng vẫn như vậy. Hiện nay, trong việc bênh đạo, truyền đạo và giữ đạo, chúng ta thấy nhiều thứ lựa chọn khác nhau. Những lựa chọn đó có phản ánh đúng tinh thần Phúc Âm đã được Đức Kitô thực hiện trong những lựa chọn của Ngài trên đường cứu chuộc làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa không ? Trong việc xem xét để trả lời, chúng ta nên giữ hai thái độ này: Một là tránh xét xử những kẻ khác. Hãy để Chúa đoán xét. Chỉ mình Chúa mới có thiên quyền đoán xét. Nhất là tránh kết án, bởi vì Chúa dạy như vậy, và thường những kết án của chúng ta dễ mắc những sai phạm về công bình, bác ái và khiêm nhường. Hai là hãy tập trung vào việc xem xét chính mình. Hãy hồi tâm, hãy tĩnh tâm, hãy tìm thinh lặng nội tâm, hãy đối diện với một mình Chúa Giêsu. Hãy nhìn ngắm Ngài đang chịu khổ nạn. Rồi từ Ngài sẽ có ánh sáng cho ta thấy những lựa chọn của ta có giống những lựa chọn của Ngài không. Những lúc như vậy, không chừng chúng ta sẽ khám phá ra một sự thật phũ phàng: kẻ đang chống Chúa chính là chúng ta. Chống Chúa ở chỗ chúng ta, trên thực tế, vẫn theo đuổi những quan điểm, những việc làm và những dự định không hợp với mô hình Đức Kitô. Nên nhớ rằng: Chúng ta chỉ có một Thầy, Thầy đó là Đức Kitô. Chúng ta chỉ có một Tin Mừng, Tin Mừng đó là Đức Kitô. Với những chia sẻ trên đây, tôi hy vọng mọi người hãy cầu nguyện cho nhau và cho chính mình, để được ơn sáng suốt, khôn ngoan và ơn can đảm, biết nhận ra con đường cứu độ của Chúa trong thời điểm hiện nay, biết đón nhận con đường đó, và biết cộng tác vào con đường đó. Lễ Thứ Năm Tuần Thánh tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 27-03-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Lễ Phục sinh là một kỷ niệm lớn. Một kỷ niệm để nhớ lại. Một kỷ niệm để vui mừng. Trong lễ này, có nhiều cách nhớ lại, có nhiều cách vui mừng. Một trong nhiều cách đó là đến gặp chính Đức Kitô. Ngài đã sống lại. Nhưng Ngài còn ở lại một cách vô hình giữa chúng ta. Hãy đến gặp Ngài. Vì Ngài rất muốn. Trong gặp gỡ thân mật giữa cõi lòng thanh vắng, Đức Kitô sẽ cho thấy: Điều quan trọng trong lễ Phục sinh không phải là nhớ đến Ngài, cũng không phải là mừng Ngài, nhưng là mỗi người hãy lo cho chính mình được phục sinh. Phục sinh là một hành trình. Đời ta dài bao nhiêu, hành trình phục sinh cũng dài bấy nhiêu. Phục sinh là một hành trình đầy khó khăn. Đường đời pha trộn nhiều cái thiện với nhiều cái ác. Chính bản thân mỗi người cũng mang trong mình nhiều tiềm năng tốt và nhiều xu hướng xấu. Vì thế: Cần có những nhận định đúng,
Cần có những ước mơ tốt,
Cần có những chọn lựa thực hành thích hợp,
Cần có những phấn đấu kiên trì. Xin phép chia sẻ một vài kinh nghiệm về những điểm nêu trên. 1-- Để có được những nhận định đúng trong suốt hành trình cuộc đời, chúng ta cần thường xuyên làm sống lại sứ điệp ban đầu. Sứ điệp đó là “mến Chúa và yêu người”. Sứ điệp này được Chúa ghi vào lòng mỗi người, dưới nhiều dạng khác nhau. Nó dần dần được rõ nét nhờ giáo dục và tiếp xúc. Sứ điệp này là tiếng gọi từ nội tâm. Nó làm nên niềm hứng khởi để xây dựng những tương quan. Nó làm cho cuộc đời có ý nghĩa cao đẹp. Nó làm cho cuộc sống có một hướng đi đúng đắn. Sứ điệp căn cốt này không luôn rực sáng. Nó có thể bị che phủ, và bị chôn vùi bởi những sứ điệp giả dối tạo nên do thế giới quỷ dữ và các đam mê xấu. Cần làm sống lại sứ điệp ban đầu và căn cốt của Chúa bằng chính Lời Chúa ghi trong Kinh Thánh, bằng Lời Chúa được hiện thân nơi Đức Kitô, và bằng Lời Chúa được sống động trong Hội Thánh. 2-- Cùng với những nhận định đúng, chúng ta cần làm sống lại những ước mơ tốt. Ước mơ tốt là khát vọng được mến Chúa và yêu người như thánh ý Chúa, như gương Đức Kitô để lại. Những ước mơ thánh thiện đó nhiều khi chỉ xuất hiện thoáng qua, hời hợt, không ăn rễ sâu vào tiềm thức và vô thức. Chúng nhạt nhoà, yếu sức. Cần phải thường xuyên làm sống lại. Chiêm niệm, cầu nguyện và cởi mở nhìn vào những gương sáng xung quanh để đánh thức những ước mơ tốt. Đó cũng là một điều kiện cần của hành trình phục sinh. 3-- Nhưng nếu ước mơ tốt chỉ vẫn mãi là những ước mơ tốt không đưa tới thực hành, thì sẽ không thể phục sinh được chính mình. Cần có những thực hành cụ thể được chọn lựa thích hợp. Biết lãnh nhận sự tốt một cách khiêm tốn, kể cả từ những người hèn mọn nhất. Biết cho đi sự tốt một cách vị tha, kể cả trong những phục vụ kéo nhiều chú ý. Biết vui mừng một cách chân thành khi thấy người khác thành công. Biết xót xa một cách sâu sắc khi thấy người khác phải thiếu thốn, khổ đau. Biết chấp nhận những yếu đuối của mình một cách từ tốn, nhất là khi những yếu đuối ấy bị phê phán khắt khe. Những thực hành cụ thể với tinh thần như thế đòi nhiều khôn ngoan. Chúa Thánh Thần sẽ ban ơn khôn ngoan đó cho những ai đặt mình trong tay Ngài. Vì thế cần phải phục sinh thường xuyên thái độ ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần. 4-- Sau cùng, cho dù có những nhận định đúng, những ước mơ tốt, những thực hành được chọn lựa một cách khôn ngoan thích hợp, nếu thiếu tinh thần phấn đấu kiên trì, hành trình phục sinh cũng sẽ có thể bị đứt quãng, sẽ không dứt điểm. Vì thế cần làm sống lại tinh thần phấn đấu. Bằng cách luôn đốt nóng lên tình yêu, luôn thắp sáng lên niềm tin. Hãy nhìn vào chính Đức Kitô, nói lời “xin vâng” một cách vô điều kiện. Nếu vấp ngã, hãy đứng dậy và tiếp tục đi. Nếu rơi vào những bế tắc, hãy vẫn luôn tìm về Chúa bằng tình mến Chúa thiết tha và yêu người vị tha. phải luôn phấn đấu, để luôn vượt qua sự ác. Trên đây là một thoáng nhìn phục sinh. Nếu phục sinh là một hành trình, thì chúng ta có đang trên hành trình đó không? Hy vọng là có. Hôm nay, gặp Đức Kitô Phục sinh và nhìn Đức Kitô Phục sinh, tôi nói với Ngài rằng: “Trước đây con đã bắt đầu, hôm nay con bắt đầu lại, ngày mai và suốt đời, con vẫn bắt đầu lại mãi. Hành trình phục sinh của con là một chuỗi dài những bắt đầu. Xin Chúa thương xót con. Xin cảm tạ Chúa muôn đời”. Lễ Phục Sinh tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 29-03-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Cách đây mấy ngày, khi đến Mỹ Luông thăm Cha Giuse trên giường bệnh, tôi đã nói với Cha rằng: Cha đang được nhiều ơn Chúa, thí dụ ơn biết trước hầu như chắc chắn thời điểm Cha sẽ ra đi, và thí dụ ơn biết vượt qua những đau đớn của chứng ung thư một cách bình tĩnh. Hôm ấy, Cha Giuse đã nghe tôi nói, và chúng tôi đã cảm tạ Chúa. Hôm nay trong thánh lễ an táng Cha Giuse, tôi muốn nói lên một ơn đặc biệt Chúa đã ban cho Cha. Không phải để Cha nghe, nhưng để mọi người cùng nghe, cùng suy nghĩ, và rồi cùng Cha tạ ơn Chúa với tâm tình tạm biệt Cha. Ơn đặc biệt, mà tôi muốn nêu lên ở đây, đó là ơn khôn ngoan, mà Cha Giuse đã khao khát, đã kiếm tìm, đã cầu xin, đã lãnh nhận và đã sử dụng suốt đời của mình, nhất là trong những năm phục vụ họ đạo Mỹ Luông này. Tôi cho là sẽ rất thiếu sót, nếu nói về ơn khôn ngoan chỉ trong một bài giảng, nhất là trong bài giảng thánh lễ an táng buộc phải vắn gọn. Vì thế, tôi chỉ xin trích ra vài nét đậm, mà họ đạo Mỹ Luông nói riêng và mọi người thương mến Cha Giuse nói chung, nên ghi nhớ như những kỷ niệm đẹp làm nên chân dung Cha Giuse. Nét đẹp thứ nhất là Cha đã khôn khéo làm cho họ đạo trở thành một cộng đồng cơ bản, tự nguyện và tự lực. Sự thúc đẩy không đến từ bên ngoài, nhưng xuất phát từ bên trong. Mỗi người đều tự nguyện. Mỗi nhóm đều tự túc. Tất cả đều mong muốn đáp ứng nhu cầu ơn gọi của phép Rửa tội. Tất cả đều khao khát sống Lời Chúa, và gắn bó với Hội Thánh, qua trung gian họ đạo, mà đứng đầu là linh mục. Tự nguyện để rồi tự lực, cộng đồng họ đạo trở thành nguồn sinh lực thiêng liêng. Mọi người hợp tác với nhau, cùng nhau tham gia tích cực vào đời sống đạo và đời sống xã hội. Cha Giuse nhiều lần đã trao đổi với tôi về mô hình họ đạo như thế. Cha đã thực hiện, Cha đã thành công. Sự thành công này là một bằng chứng về ơn khôn ngoan Chúa ban cho Cha. Nét đẹp thứ hai là Cha đã khôn khéo chú trọng phát triển về mặt tâm linh nơi bản thân mình và trong địa phương của mình. Không phải là Cha ít chú trọng đến việc nâng cao đời sống vật chất của người dân lên. Nhưng theo tôi thấy, đối với Cha Giuse, phát triển không nên chỉ là tăng trưởng kinh tế, mà là phải phát triển con người, nhất là về mặt tinh thần. Vì thế, Cha đã quan tâm đặc biệt đến việc phát triển những giá trị lớn về mặt tâm linh, như tinh thần bác ái, tinh thần liên đới, tinh thần trách nhiệm, tinh thần công bình. Chính những giá trị tâm linh này đang tháo gỡ và ngăn chặn nhiều nguyên nhân đưa tới các tệ nạn xã hội làm băng hoại con người. Và khi Cha Giuse phát triển những giá trị tâm linh này trong địa phương, Cha đã gặp gỡ được các tôn giáo bạn, để rồi, sự phát triển các giá trị tâm linh sẽ là một thông điệp chung cao quý của dân tộc, trong đó các tôn giáo giữ một vai trò không nhỏ. Tôi thấy Cha Giuse ở đây không những được giáo dân mến thương, mà cũng được chính quyền địa phương và các tôn giáo bạn dành cho nhiều tình cảm tốt và lòng tín nhiệm. Sự kiện này nói lên rất nhiều về ơn khôn ngoan nơi Cha trong việc loan báo Tin Mừng. Nét đẹp thứ ba là Cha đã khôn khéo rút ra từ hiện tại nhiều cái tốt, và xây dựng hiện tại bằng nhiều việc tốt. Tôi thấy Cha Giuse không hề tiếc nuối quá khứ, Cha cũng không hề ảo tưởng về tương lai, Cha càng không có thói quen than trách hiện tại. Cha coi hiện tại là thời điểm, mà Chúa sai Cha đi vào. Cha tin Chúa hiện diện trong thời điểm hiện tại. Với niềm lạc quan đó, Cha Giuse đã làm được nhiều việc có lợi cho họ đạo, cho địa phận, cho địa phương. Những việc có lợi là rất nhiều. Đáng kể nhất là việc chuyển hoá được nhiều định kiến lỗi thời và sai lạc về truyền giáo, và về giữ đạo, để trở về với Đức Kitô và Phúc Âm của Người. Nét đẹp thứ bốn là chân thành nhận biết mình yếu kém về mọi mặt, nên từng ngày phấn đấu để phục vụ tốt hơn, và từng ngày chuẩn bị để ra đi. Tôi thấy Cha Giuse coi sự ra đi của mình cũng là một cách phục vụ các linh hồn. Và cho đến những giờ phút sau cùng trước khi ra đi, Cha vẫn nghĩ tới họ đạo, Cha vẫn phấn đấu với những cơn đau, để phục vụ mọi người, dù chỉ bằng một nụ cười nhân ái, một cái nhìn thân thương, một cái bắt tay gởi gắm. Cha phục vụ bằng tình thương, Cha phục vụ bằng thánh giá, Cha phục vụ bằng sự từ bỏ chính mình, Cha phục vụ bằng niềm tin đơn sơ phó thác. Với mấy nét trên đây, tôi đã vẽ lại chân dung tinh thần của Cha Giuse. Có thể là còn nhiều thiếu sót. Tuy thế, đây cũng là dịp để mọi người chúng ta suy nghĩ về ơn khôn ngoan nơi một người môn đệ Đức Kitô trong xã hội Việt Nam hôm nay. Chúng ta cầu nguyện cho Cha Giuse. Chúng ta cũng xin Cha Giuse cầu nguyện cho chúng ta. Lễ An Táng LM.Giuse Nguyễn Mạnh Khải, tại nhà thờ Mỹ Luông, ngày 12-04-1997. + GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Tháng 3 vừa rồi, trong dịp tĩnh tâm tháng của các linh mục tu sĩ giáo phận Long Xuyên, tôi đã chia sẻ về đề tài “Hãy tỉnh thức”. Tôi còn nhớ, hôm đó, tại tu viện Phanxicô Cù Lao Giêng, Cha Phaolô Đỗ ngồi ở hàng ghế đầu. Cha ghi chép nội dung chia sẻ một cách kỹ lưỡng, và tỏ ra đăm chiêu suy nghĩ. Mấy ngày nay, với cái chết quá bất ngờ, Cha Phaolô đã chia sẻ cho tôi cũng một nội dung đó. Cha nói âm thầm trong tâm trí tôi. Tôi đã ghi lại. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Và giờ đây, trong thánh lễ an táng Cha, tôi chia sẻ lại ít điều. Mong rằng, thân nhân của Cha, họ đạo Cồn Phước của Cha, và các linh mục tu sĩ, bạn bè của Cha sẽ coi những chia sẻ này như những nhắn gửi thân thương. Cha Phaolô nhắn mọi người chúng ta duy một điều này, là “Hãy tỉnh thức” như lời Chúa Giêsu đã nhiều lần dạy bảo. Đi vào cụ thể, Cha chỉ vào ba điểm sau đây, như ba giá trị mới đưa vào thánh lễ, để loan báo Tin Mừng. Trước hết hãy tỉnh thức thực hiện tốt việc hy sinh đời mình, coi đây là một yếu tố cần của thánh lễ. Chúa dạy điều đó trong cái chết của Cha. Thực vậy, sáng thứ bảy vừa qua, dịp lễ an táng Cha Sở Mỹ Luông, Cha Phaolô đã mặc áo lễ, đã cùng đoàn đồng tế gần 100 vị tiến lên cung thánh, đã về chỗ của mình. Cha tỏ ra khoẻ mạnh, bình thường. Nhưng khi thánh lễ vừa khởi sự, Cha bắt đầu gục xuống. Lập tức, Cha được khiêng ra khỏi nhà thờ để được chăm sóc. Chỉ 10 phút sau, cơn đau tim đã làm Cha tắt thở. Cha khởi sự thánh lễ bàn thờ trong nhà thờ. Nhưng Cha chết trong thánh lễ cuộc đời, ngoài nhà thờ. Với cái chết của Cha, Chúa muốn nói với chúng ta về một thứ thánh lễ, mà Chúa đòi hỏi. Đó là thánh lễ dâng hiến chính bản thân mình, một thứ thánh lễ làm bằng hy sinh, bằng từ bỏ mình. Tất nhiên Chúa trọng thánh lễ bàn thờ. Nhưng Chúa đòi phải kèm theo đó một thứ thánh lễ cuộc đời, một thứ thánh lễ chỉ là tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa, chỉ là phục vụ tuyệt đối vị tha, chỉ là tuyệt đối vì mến Chúa yêu người. Cách đây 51 năm, cha Phanxicô Trương Bửu Diệp, quê ở họ đạo Cồn Phước này, đã dâng thứ thánh lễ đó. Hiệu quả của thứ thánh lễ ngài đã dâng đang như là một cánh đồng nở rộ càng ngày càng mở rộng. Hôm nay, cũng tại họ đạo Cồn Phước này, Chúa dùng cái chết của Cha Sở Phaolô, để đề cao thứ thánh lễ ấy. Thứ thánh lễ này là một giá trị lớn, mà những người sống tinh thần truyền giáo cần tỉnh thức thực hiện nơi chính mình như một sứ điệp loan báo Tin Mừng. Thêm vào đó là hãy tỉnh thức thực hiện tốt tinh thần liên đới tự nguyện, coi đó như một yếu tố của thánh lễ. Chúa cũng dạy điều đó trong cái chết của Cha Phaolô. Thực vậy, thứ bảy vừa qua, theo chương trình lễ an táng Cha Sở Mỹ Luông, thì trước khi hạ huyệt, chính cha Phaolô sẽ đọc bài tiễn biệt Cha Giuse. Nhưng khi chưa kịp đọc, thì Cha Phaolô đã chết. Tuy nhiên, cái chết của Cha Phaolô đã nói nhiều hơn bất cứ bài điếu văn nào. Nó là một bài giảng không lời. Nó gây ấn tượng mạnh, xoáy sâu vào các tâm hồn. Nó gây tiếng vang xa kêu gọi các lương tâm suy nghĩ. Cuộc sống của Cha và cái chết của Cha là những chứng từ về một tình liên đới mặn mà giữa ngài với các linh mục, giữa ngài với các cộng đoàn họ đạo, giữa ngài với địa phương và với địa phận. Trong một vùng mà đại đa số đồng bào có cái nhìn thiêng liêng, không hướng nhiều về nơi thờ tự và các lễ nghi thờ tự, cho bằng hướng cả về cái tâm con người, thì tình liên đới này của Cha là một giá trị lớn đẹp hơn bất cứ lễ nghi nào, có sức đánh động lòng người hơn bất cứ bài giảng nào. Sau cùng, hãy tỉnh thức thực hiện tốt tinh thần hiệp thông trong họ đạo, phải coi đó là một yếu tố cần của thánh lễ. Yếu tố trên đây đã được nhận thấy rất rõ ngay sáng thứ bảy vừa qua. Hôm đó, tôi đã tới nhà xứ Cồn Phước rất sớm, chỉ ít phút sau khi xác Cha Phaolô được đưa về. Ngay lúc đó, tôi đã thấy một quang cảnh đầy xúc động. Già trẻ lớn bé kéo tới nhà Cha. Ngơ ngác, bàng hoàng. Không chỉ là hiệp thông, mà là tình nghĩa, mà là gắn bó thiết tha. Như một gia đình. Như một quy tụ gia tộc. Nhìn cảnh đó, tôi có cảm tưởng tham dự một thánh lễ, mà chính giáo dân họ đạo đang là chủ sự, một thánh lễ của Cha Phaolô đang được tiếp tục nơi giáo dân họ đạo. Trên đây là vài điều, mà mấy ngày nay, Cha Phaolô và tôi đã chia sẻ với nhau về lời Chúa dạy: “Hãy tỉnh thức”. Như vậy, cái chết của Cha mang một ý nghĩa lớn. Cha ra đi quá đột ngột, không kịp nói một lời nào, nhưng cái chết của Cha thực sự đã nói rất nhiều. Cha ra đi quá bất ngờ, không để lại một chúc thư nào, nhưng thực sự chính cái chết của Cha là một chúc thư. Chúc thư về sự tỉnh thức sống thánh lễ trong hoàn cảnh hôm nay. Xin cảm ơn Cha. Xin Chúa thương Cha. Xin Chúa thương xót tất cả chúng ta . Lễ An Táng LM.Phaolô Nguyễn Ngọc Đỗ, tại nhà thờ Cồn Phước, ngày 15-04-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Xây dựng một nhà thờ là làm một việc quan trọng, có nhiều đòi hỏi và thường gặp nhiều khó khăn. Đó là một sự thực ở bất cứ thời nào, ở bất cứ nơi nào. Chỉ tháng Tư này thôi, những cha đang bận xây dựng nhà thờ đã đến cho tôi biết một số những khó khăn đang gặp phải. Thí dụ: Khó khăn về giấy tờ, khó khăn về tiền bạc, khó khăn về thợ làm, khó khăn về thời tiết. Đó là những khó khăn nhất định, thêm vào đó còn có những khó khăn bất ngờ. Khi nhận thức được như vậy, tôi rất thông cảm với cha sở Hòn Đất ở đây. Tôi ca ngợi sự can đảm của ngài, lòng nhiệt thành của họ đạo, sự thuận tình của Chính phủ và Chính quyền địa phương cũng như lòng quảng đại, sự giúp đỡ tận tình của quý ân nhân xa gần. Hôm nay tôi chỉ cầu chúc cho anh chị em một ơn, một ơn mà Phúc Âm hôm nay vừa nói tới. Đó là ơn bình an, ơn hoà bình. Trong Phúc Âm, Chúa nói: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con” (Ga 14,27). Tôi cầu xin Chúa Kitô hôm nay, giờ đây, nói lại lời đó với họ đạo Hòn Đất này: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con”, bình an cho ngày khởi công hôm nay, bình an cho suốt thời kỳ thi công, bình an mãi mãi cho họ đạo, cho cộng đoàn chúng ta. Ơn bình an này không miễn cho chúng ta khỏi phải vất vả, cũng không có nghĩa là nhờ đó chúng ta được may mắn khác thường. Nhưng ơn bình an này giúp cho chúng ta tránh được tội lỗi và những rủi ro không cần thiết. Thêm vào đó, ơn bình an sẽ giúp cho chúng ta hưởng được bầu khí công bình và sự yêu thương. Nhất là ơn bình an giúp chúng ta gặp được Đức Kitô. Bởi vì chúng ta làm công việc này là để tuyên xưng Ngài, để thờ phượng Ngài, để gặp gỡ Ngài, để lắng nghe ý của Ngài. Muốn đón nhận ơn bình an mà Chúa sẽ ban cho chúng ta, chúng ta cần phải có một số điều kiện. Số điều kiện đó cũng được chỉ định trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa nói: “Để thế gian biết rằng Thầy tin mến Cha Thầy, thì Thầy làm tất cả mọi sự mà Cha Thầy mong muốn” (Ga 14,31). Câu này có hai điều: Một là ý hướng làm việc luôn phải quy về sự tuyên xưng lòng chúng ta tin mến Cha trên trời. Ý hướng đó phải thực trong sáng. Hôm nay đây, ngồi đây, rồi sẽ làm nhà thờ với bao nhiêu vất vả, chúng ta luôn chỉ có một ý hướng này là: Chúng ta làm, chúng ta vất vả để làm chứng lòng tin mến của ta đối với Cha trên trời. Ý hướng đó phải thực trong sạch, đừng để pha trộn ý hướng thế tục. Điều thứ hai trong câu Chúa nói là nội dung và cách làm phải luôn luôn hợp thánh ý Chúa. Làm nhà thờ kiểu nào, cỡ nào, với kinh phí bao nhiêu, tất cả những công trình như vậy cần phải bàn hỏi với Chúa, cần phải cân nhắc trong một lương tâm muốn đẹp lòng Chúa, muốn mưu ích cho những đồng bào xung quanh. Nội dung làm, cách làm, phải thực sự hợp với ý Chúa. Tôi nghĩ là chúng ta chỉ làm tương đối thôi, bởi vì chúng ta không có cách nào khác, sau khi đã bàn hỏi với nhau, sau khi đã cầu nguyện với Chúa. Chúng ta có những chọn lựa, có những quyết định, nhưng luôn luôn phải có ý làm những gì Chúa muốn mà thôi. Lúc nãy, ngay từ ban đầu, tôi thấy anh chị em đã chuẩn bị rất kỹ, nhất là hệ thống âm thanh, ấy thế mà, bất ngờ đã có những trục trặc về âm thanh. Qua sự cố này, tôi thấy rằng mặc dù chúng ta chuẩn bị rất kỹ từng chi tiết, chúng ta cũng đừng tự hào. Hãy trông cậy vào Chúa, Hãy biết chấp nhận thánh ý Chúa. Có như vậy, việc chúng ta làm mới trở nên một ý nghĩa dâng hiến trọn vẹn. Nhiều khi chúng ta mong muốn thành công nhưng Chúa lại gửi cho thất bại. Nhưng thất bại đó lại trở nên thành công, bởi vì chúng ta qua thất bại mà gặp được Chúa, mà biết trở về với Chúa. Tôi chỉ dẫn đưa một vài tư tưởng trong bài Phúc Âm hôm nay để anh chị em biết đón nhận ơn bình an. Ơn bình an có điều kiện: Ý hướng phải trong sáng, nội dung và cách làm phải hợp với ý Chúa. Chia sẻ trên đây sẽ giúp anh chị em tiến hành công việc xây dựng nhà thờ bên ngoài và xây dựng nhà thờ bên trong. Xin Chúa luôn luôn đồng hành với anh chị em. Amen. Lễ khởi công xây dựng nhà thờ Hòn Đất, Kiên Giang, ngày 29-04-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.
Thời nay là thời kinh tế thị trường, thời cạnh tranh. Nhiều hàng hoá được trưng bày. Nhiều lý thuyết được phổ biến. Nhiều mẫu người được giới thiệu. Xã hội càng ngày càng đa dạng về cuộc sống, về sắc hình và về nhu cầu. Một tình hình như thế mời gọi người ta so sánh, đánh giá những gì mình thấy. Nhất là khi phải chọn lựa, thì sự so sánh và đánh giá là việc tất nhiên phải có. Hướng đi trên đây cũng đang được nhận thấy trong xã hội đối với các giá trị tôn giáo, các việc làm của tôn giáo, các người của tôn giáo. Từ lâu rồi và đặc biệt là lúc này, một câu hỏi thường được đặt ra: Tôn giáo này, hoặc một việc làm như thế của tôn giáo nọ, hoặc người ấy của tôn giáo đó có sinh được lợi ích gì cho địa phương chúng ta không ? Đặt ra những câu hỏi như thế là việc tự do của mỗi người. Nhưng trả lời những câu hỏi đó sẽ không phải là một việc, mà người ta được lương tâm cho phép tự do muốn nói gì thì nói. Tuy nhiên, những câu hỏi như thế nên được coi là dịp, để người hoạt động tôn giáo lắng nghe dư luận, xem xét tình hình và kiểm tra lại chính mình. Đối với nhiều người, những câu hỏi như thế còn là những thôi thúc nội tâm, đưa họ trở về với Chúa và gặp gỡ Chúa. Tôi đã hỏi Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con phải thế nào, để những việc con làm và chính bản thân con được Chúa chấp nhận và nhờ đó sẽ sinh lợi cho địa phương, mà con phục vụ ?” Câu trả lời luôn nghe thấy là “Hãy làm đúng theo thánh ý Chúa, xứng danh người môn đệ Đức Kitô”. Chỉ câu trả lời đó mà thôi. Đó là một chỉ hướng. phải đi vào thế giới nội tại của chính mình, đem nó thuận theo thánh ý Chúa, trên nguyên tắc và trên thực tế, tìm trong mặc khải Kinh Thánh, trong lịch sử truyền giáo, và trong các biến cố đang làm nên các dấu chỉ thời đại. Mấy điểm cần chọn Có một số điểm rất rõ ràng, mà thánh ý Chúa muốn người môn đệ Đức Kitô thực hiện. Xin nhấn mạnh mấy điểm sau đây: 1-- Bác ái. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau” (Ga 13,15). 2-- Từ bỏ mình. “Ai muốn làm môn đệ Thầy, hãy từ bỏ mình ...” (Mt 16,24). 3-- Tỉnh thức và cầu nguyện. “Các con hãy tỉnh thức ...” (Mt 24,25). 4-- Loan báo Tin Mừng. “Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân” (Mt 28,19). Theo Phúc Âm thánh Matthêu, thì tất cả những điểm trên đây phải được thực hiện bằng hành động. Nhưng trên thực tế, những hành động cụ thể sẽ là những hành động nào, hành động lúc nào, hành động cách nào, hành động nơi nào. Đó là chuyện, mà duy chỉ một mình lý thuyết và thiện chí sẽ không giải quyết được. Cần phải thêm vào đó một số đức tính, như sự khôn ngoan Phúc Âm, sự nhạy bén tông đồ, tính thực tế của tuổi thơ ấu thiêng liêng, tính dấn thân của Công đồng Vatican II. Với những đức tính này, người môn đệ Đức Kitô sẽ có thể thực hiện bốn đặc điểm trên một cách hiệu quả trong nhiều loại hành động. Chẳng hạn trong việc rất thường như việc ăn uống, người ta có thể làm chứng được một cách dễ dàng tinh thần bác ái, tinh thần từ bỏ mình, tinh thần tỉnh thức cầu nguyện, và tinh thần truyền giáo. Tuy nhiên, được như vậy, tất nhiên trong tâm hồn, người môn đệ Đức Kitô đã phải có sẵn một yếu tố căn bản, đó là lửa tình yêu, được chia sẻ từ Đức Kitô. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). “Thầy là cây nho các con là ngành” (Ga 15, 1). - Đó là một tình yêu giàu lòng thương xót, nhất là đối với những kẻ bé mọn, nghèo khổ, yếu đuối. - Đó là một tình yêu khám phá, biết đánh thức những tiềm năng tốt nơi mọi người thiện chí, nhất là nơi những con người bị xếp vào loại bỏ đi. - Đó là một tình yêu quan phòng, biết nhìn xa về tương lai, để sắp xếp cho thời gian tới được phát triển tốt. - Đó là một tình yêu sáng tạo, biết tìm tòi để có những sản sinh mới về chân thiện mỹ. - Đó là một tình yêu phục vụ, không ngại nhập thế và không sợ hạ mình xuống để bắt chước Chúa Giêsu: “ Thầy đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mt 20,28). Rất quan tâm đến tình yêu phục vụ Phục vụ là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, vào đúng lúc, ở đúng nơi, với đúng cách. Thí dụ ở Nadarét, phục vụ của Chúa Giêsu là một sự hiện diện dễ thương, ân cần. Phục vụ của Ngài trong ba năm công khai là đi rao giảng và làm phép lạ. Nhưng Ngài rao giảng tuỳ nơi, tuỳ lúc và tuỳ trình độ người nghe. Ngài làm phép lạ cũng tuỳ lúc, tuỳ người, tuỳ nơi. Phục vụ của Ngài trong tuần thánh là tự nguyện đi vào cuộc tử nạn để tới phục sinh. Phục vụ của Ngài hiện nay là sự hiện diện mầu nhiệm của Ngài thông qua nhiều cách, như Kinh Thánh, các Bí tích, Hội Thánh và phần nào qua các thực tại trần thế. Như thế là để phục vụ tốt cần phải có thiện chí, khả năng, sự thông minh phân định và sự khôn ngoan sát từng mỗi thực tế. Mọi thực tế đều rất phức tạp. Nhất là khi thực tế là những con người. Mỗi con người là mỗi vũ trụ. Mỗi địa phương là mỗi lịch sử. Thí dụ, tuy là thuốc bổ, nhưng cho uống không đúng thuốc, không đúng liều lượng, không đúng lúc, không đúng bệnh, thuốc bổ đó sẽ gây nhiều thiệt hại. Tương tự cũng thế về các loại phục vụ. Cần có nhiều kinh nghiệm về từng cuộc sống. Sống là sống với những người khác, sống là sống nhờ môi trường, sống là sống trong một hệ thống hoàn cảnh xã hội, tâm lý, kinh tế, văn hoá đầy chuyển biến phức tạp. Có cảm nghiệm về cuộc sống như thế, mới thấy phục vụ không thể đơn giản và không nên liều lĩnh, thiếu tế nhị. Mỗi người có thời của mình. Mỗi việc có giờ của nó. Nhạy bén hay không nhạy bén với thời gian tính có thể giúp thành công hay gây nên thất bại. Tuy vậy, người môn đệ Đức Kitô có thể phục vụ tốt trong mọi lúc và ở mọi nơi bằng những việc như sau: 1- Gắn bó thiết tha với bổn phận hằng ngày của mình bằng sự siêng năng cầu nguyện và suy niệm kinh “Lạy Cha”, để tình mến Chúa yêu người được nhận lãnh và cho đi mỗi ngày mỗi nhiều hơn và hợp thánh ý Chúa hơn. 2- Bước trên đường đời với hành trang lòng nhân ái, biết kính trọng và thương yêu những kẻ khổ đau. Họ rất đông. Họ ở chung quanh đây. Họ đợi chờ người môn đệ Đức Kitô. 3- Có những cái nhìn đồng cảm với các vấn đề sôi động thiết thân trong cuộc sống của đồng bào mình. 4- Biết năng động và linh động trong khả năng của mình dùng các hình thức văn hoá, nghệ thuật, khoa học, xã hội, và tôn giáo để khơi dậy cái bản chất thiện trong lòng con người, đồng thời cảnh báo những nguy cơ đang xô đẩy con người đến chỗ tự huỷ. 5- Biết dấn thân đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người, bằng những việc nhỏ nhưng luôn luôn có tình yêu thương chân thành, luôn luôn có sự từ bỏ mình thực sự. 6- Nơi ở của mình, nhất là chính bản thân mình trở thành điểm gặp gỡ của các tâm hồn đi tìm sự bình an, chân lý, và niềm hy vọng. Đặc biệt phải khiêm tốn Người phục vụ là người thường được ưa thích. Nhưng đừng quên điều này: phục vụ mà kiêu căng sẽ không là phục vụ của người môn đệ Đức Kitô. Phục vụ với lòng tự cao tự đại là một xúc phạm. Phục vụ mà tưởng rằng chỉ là cho đi mà không là nhận lãnh cũng là một sai lầm. Phục vụ mà cho rằng chỉ có mình là đúng, là tốt, là cần, sẽ là một thảm hoạ. Nhưng phục vụ với một dáng vẻ khiêm nhường câu nệ hình thức cũng rất xa lạ với Phúc Âm. Thứ phục vụ có khả năng truyền tải Tin Mừng sẽ rất khiêm tốn một cách chân thành hồn nhiên. - Khiêm tốn như tấm men (Lc 13,20), không những chấp nhận số phận mình là phải tan đi, mà còn khao khát được tan đi. Nó vui mừng khi được hoà vào bột để biến bột thành bánh thơm ngon. - Khiêm tốn như hạt giống gieo xuống đất (Ga 12, 23). Nó sung sướng vì được chôn vùi và được thối đi, để sẽ có những sản sinh mới là cây, là hoa, là trái. - Khiêm tốn như những người đầy tớ bé nhỏ mà Chúa nói trong Phúc Âm: “Chúng con là những đầy tớ vô ích, chúng con đã làm những việc chúng con phải làm” (Lc 17, 10). - Khiêm tốn như một người yếu đuối, mà thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm nơi chính mình. “Tôi muốn làm sự lành, nhưng tôi lại không thực hiện được ý muốn đó. Sự lành tôi muốn thì tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7, 18-19). - Khiêm tốn như chính Đức Kitô, tự hạ đến bậc thang cuối cùng của thân phận con người. Phục vụ của người môn đệ Đức Kitô có thể được đời đạo khen ngợi và cũng có thể bị trong đạo ngoài đời chê trách. Trong mọi trường hợp, hãy khiêm nhường nhìn lên Chúa. Đoạn thư sau đây của thánh tông đồ Phaolô sẽ giúp chúng ta thấy phục vụ của ta có thể trở thành phục sinh. “Anh chị em hãy coi tôi là môn đệ Đức Kitô và là người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa. Đức tính mà chủ đòi hỏi trước hết ở người quản lý là lòng trung thành. Phần tôi, dù có bị anh chị em hay toà án thế gian xét xử, tôi cũng không cho là quan trọng. Chính tôi, tôi không tự xét xử cho tôi. Lương tâm tôi không khiển trách tôi điều gì, nhưng không phải vì thế mà tôi dám cho mình là công chính. Đấng xét xử tôi là Thiên Chúa. Bởi vậy, anh chị em đừng vội xét xử. Hãy đợi Chúa đến. Chúa sẽ đưa ra ánh sáng tất cả những gì là mờ ám đen tối, sẽ tỏ ra những ý định thầm kín của các tâm hồn; lúc đó ai nấy sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đúng với công phúc của mình” (1 Cr 4, 1-5). Thiết tưởng, ngay trong thái độ trên đây, người môn đệ Đức Kitô đã tỏ ra rất tỉnh thức cầu nguyện, thực sự từ bỏ mình, nhiệt tâm bác ái và loan báo Tin Mừng trong niềm hân hoan tin tưởng tìm được ngay giữa đời thường. Một cuộc sống hợp thánh ý Chúa như vậy chắc chắn sẽ là cuộc sống sinh nhiều lợi ích cho mọi tâm hồn. Điều quan trọng nhất ở đây là phải hết sức cố gắng để sống được như vậy. Kỷ Niệm ngày Thụ Phong Giám Mục 30-04-1975 - 30-04-1997.
+ GB. BÙI-TUẦN, Giám Mục phó giáo phận Long Xuyên.