Theo bài Phúc Âm hôm nay, thì chuyện quỷ nhập quấy phá con người là chuyện có thật. Và việc Chúa Giêsu trừ quỷ cũng là chuyện có thật. Những chuyện có thật đó đã xảy ra thời Chúa Giêsu, còn thời nay thì sao? Để trả lời câu hỏi này, phải đề cập đến một vấn đề rất phức tạp. Ở đây, tôi chỉ xin kể lại mấy sự kiện tôi gặp trong 3 tháng vừa qua, có liên quan đến vấn đề quỷ quấy phá. Cuối năm vừa qua, tức là cách đây chừng 3 tháng, tôi có một chuyến đi sang Rôma, trong thời gian bay từ Saigon đến Paris, một cô chiêu đãi viên người Pháp đã tâm sự rất lâu với tôi, về hiện tượng quỷ quấy phá ở làng của cô, theo lời cô kể lại là quỷ đập phá nhiều đồ đạc trong nhà người ta, quỷ quấy phá những đàn súc vật, bò, chiên vv... và quỷ gây chia rẻ trong xứ đạo của cô. Cô ta cũng kể lại những cách đã dùng để trừ những quỷ quấy phá đó và sau cùng cô xin tôi một lời khuyên để tránh được những quấy phá của ma quỷ. Những sự kiện đó, đã làm cho tôi có một vài suy nghĩ. Thế rồi, trong chuyến bay từ Paris trở về Saigon, tôi gặp thấy ở sân bay quốc tế Paris, một cuốn sách mới xuất bản, trong đó có nói nhiều về sự kiện quỷ đang quấy phá một số vùng ở nước Pháp. Đại khái một phần khá lớn giống như nội dung mà cô chiêu đãi viên đã nói với tôi trong chuyến bay trước đó. Đang khi ngồi trên máy bay đọc cuốn sách ấy, tôi đã hỏi một số người cùng đi, thì thấy người ta cũng bàn tán xôn xao về nội dung cuốn sách tôi đang đọc. Thế rồi cách đây mấy ngày, trong dịp các Đức giám mục gặp nhau tất niên ở Toà Tổng giám mục Saigon, tôi thấy một cuốn sách Đức Tổng mới nhận được từ Toà Thánh. Cuốn sách đó nói về sự trừ quỷ theo điều kiện của Toà Thánh, nghĩa là Toà Thánh mới ra một cuốn sách để hướng dẫn các Giám Mục, các linh mục trừ quỷ thế nào trong thời đại này. Như vậy tôi có thể nói, sự ma quỷ quấy phá con người là chuyện thật thời nay, và sự trừ quỷ cũng là một chuyện có thực thời nay được Toà Thánh công nhận. Nhưng quỷ thời nay quấy phá chúng ta thế nào? và chúng ta phải trừ ma quỷ thế nào? Cách đây mấy ngày, trong khi điện đàm với một người từ xa, người ấy đã nói với tôi về những hình thức ma quỷ đang quấy phá Hội Thánh dưới rất nhiều hình thức, có khi rất thô bạo, nhưng thường là rất tinh vi, và một trong những cách tinh vi, đó là chúng dần dần hướng dẫn chúng ta đi trệch hướng trong việc sống đạo. Chỉ cần đi trệch hướng thôi trong nếp sống đạo thôi, đó đã là một quấy phá tinh vi. Thí dụ bề ngoài chúng ta giữ cẩn thận thói tục, giữ đạo của địa phương, nhưng bên trong chúng ta xa Chúa, cũng chính vì thái độ như vậy mà thời xưa Chúa Giêsu trách dân Do Thái: “Dân này kính Ta bằng môi, bằng miệng, nhưng bên trong lòng chúng xa Ta”. Đó cũng là trệch hướng trong cách sống đạo: giữ công việc bề ngoài nhưng tâm tư bên trong thì không gặp Chúa. Rồi thí dụ chúng ta phấn đấu học giáo lý hết cuốn này đến cuối kia thuộc lòng, ngh chỉ học thuộc lòng thôi, còn sự rèn luyện tâm hồn mình để gặp được Chúa biết, để biết sợ tội, để biết phân biệt điều lành, điều ác thì lại không có. Đó là trệch hướng, mà cái nguy cơ của sự trệch hướng này, là chúng ta an tâm, chúng ta tưởng rằng như vậy là giữ đạo tốt. Rồi tôi thí dụ ngay ở đây, chúng ta có một hàng rào tốt đẹp đẽ mới xây, nhưng nhà thờ chúng ta chưa đẹp. Chúng ta mới đẹp bề ngoài, mà chúng ta chưa đẹp cái bên trong. Và thí dụ nữa, khi đàn và lời ca đi với nhau, nếu đàn che lấp đi tiếng hát thì cũng không đúng, nghĩa là chỉ cần trệch đi một chút, chúng ta sẽ mất đi vẻ đẹp, mất đi hài hoà, mất đi bên trong giá trị căn bản của nó. Chính vì thế mà trong những việc cuối năm, chúng ta xét lại nếp sống, chúng ta nên nhớ rằng: Satan đang hoạt động rất mạnh trong Hội Thánh. Nó có mặt trong họ đạo chúng ta. Nó có mặt ngay trong nhà thờ chúng ta lúc này để quấy phá, để đánh lạc hướng đi, để kéo chúng ta đi về những mục đích trần tục, những mục đích bề ngoài, rồi thúc đẩy chúng ta tin rằng như vậy là tốt rồi. Chúng ta hãy hứa với Chúa, hãy đi vào bên trong, trong thinh lặng cầu nguyện, trong thinh lặng chiêm ngưỡng Lời Chúa, trong thinh lặng chiêm ngắm thánh giá Chúa và mầu nhiệm Thánh Thể, để biết lắng nghe ý Chúa, để biết đón nhận sự sống của Chúa, để từ này tất cả những gì chúng sáng tạo sáng tạo, đều dựa trên sáng tạo của Chúa Cha, để từ nay những gì chúng ta cho là cứu độ, đều phải dựa trên ơn Cứu Độ của Đức Kitô, để từ nay tất cả những gì chúng ta cho là thánh hoá con người đều phải dựa trên sức mạnh của Chúa Thánh Linh. Phải xếp đặt lại trật tự trong tâm hồn mình, xếp đặt lại trật tự trong cộng đồng họ đạo chúng ta, đó là cách chúng ta hợp tác với Chúa, để trừ quỷ. Nếu không, chúng ta sẽ để cho Satan hướng dẫn một cách tinh vi, để rồi chúng ta tự huỷ. Bởi vì chúng ta không cảnh giác, bởi vì để rồi chúng ta không được hướng dẫn do Chúa, mà là do ý riêng mình, do những ảo tưởng, những hoang tưởng. Cuối năm, tôi xin lợi dụng dịp này, để thành khẩn chúc anh chị em, cá nhân cũng như cộng đoàn, một là sang năm mới trưởng thành hơn về các đức tính: đức tính con người, đức tính người công giáo, đức tính người tông đồ giáo dân. Hai là phát triển trình độ trí thức cao hơn: về đạo, về đời, hiểu rõ thế nào là Tin Mừng, hiểu rõ thế nào là Nước Trời, hiểu rõ thế nào là Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Sống Ba Ngôi trong đời sống thường của chúng ta. Và ba là khả năng thực hiện những điều Chúa muốn. Chúng ta dù biết nhiều, biết rộng, nhưng nếu thiếu khả năng thực hiện cũng chưa phải là đúng chương trình của Chúa. Xin theo gương thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, thực hiện giây phút hiện tại ngày hôm nay, với tất cả đức tin, đức mến của mình, hết lòng yêu mến Chúa hôm nay, hết lòng lợi dụng những dịp may lúc này, để từng bước, qua những việc lành nhỏ mọn, chúng ta đi về Nước Cha trên trời. Đơn sơ thôi, nhưng mà hãy làm ngay, làm trọn, làm tốt công việc ngày hôm nay, thì đó là khả năng thực hiện mà tôi chúc cho anh chị em. Xin Chúa Thánh Thần xuống dồi dào trên chúng ta, để chúng ta bắt đầu sang một năm mới, thiết lập một tương quan mới với Thiên Chúa, xây dựng những liên đới mới với đất nước, với đồng bào xung quanh và với thành phần dân Chúa trong địa phận, trong họ đạo chúng ta. Amen. Lễ Thêm sức tại Rạch Sâu ngày 11-02-1999
Mấy ngày nay, tôi đọc Xuân trên nhiều báo, tôi nghe Xuân ở nhiều đài, tôi gặp Xuân qua nhiều tiếp xúc. Cảm tưởng của tôi là: Xuân năm nay có nhiều niềm vui, nhưng cũng có rất nhiều lo âu trăn trở. Những gì đã được trình bày chính thức, như bộ mặt kinh tế, chiều kích văn hoá, thực đáng quan tâm, nhưng những gì không nói ra, như bộ mặt lương tâm, chiều kích thiêng liêng, lại đáng quan tâm hơn nhiều. Một mùa Xuân như thế đang làm chúng ta suy nghĩ. Càng đi sâu vào cuộc sống và càng nhìn sâu vào lòng người, chúng ta càng trưởng thành hơn về hiểu biết. Sự hiểu biết của riêng tôi không những đến từ thời sự bên ngoài, mà cũng đến từ đức tin bên trong. Tôi biết, tất cả những gì đang xảy ra đều mang ý nghĩa của chương trình Thiên Chúa cứu độ. Tôi hiểu, tất cả những gì là niềm vui và lo âu, thành công và thất bại, tin tưởng và nghi nan, không là một chuỗi những sự kiện vô hồn, nhưng là những sứ điệp kêu gọi chúng ta: Hãy biết trở về nội tâm, hãy biết nhận ra một điều căn bản, đó là sự đổi mới tâm hồn mình. Trong sự đổi mới này, điều quan trọng là hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần và ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Ngài. Ngài đang dẫn đưa chúng ta đi vào Nước Trời. Nước Trời là gì? Thưa là sự bước theo Đức Kitô trên con đường thực thi ý Chúa Cha, hiệp thông vào tình yêu Chúa Cha, và uốn nắn cuộc sống chúng ta theo tình yêu ấy. Nước Trời là sự để Chúa chữa lành, để Chúa đổi mới con người chúng ta. Đi về Nước Trời chính là đi về hạnh phúc sau cùng và đích thực. Bởi vì không gì hạnh phúc cho chúng ta bằng sự được Chúa yêu thương, được nên giống Chúa và được Chúa chia sẻ sự sống của Ngài cho chúng ta. Muốn đi về một Nước Trời như thế, chúng ta không thể thụ động. Chúng ta phải phấn đấu. Chúa phán: “Ai không vác thánh giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 38). Hãy nhìn những cây hoa Xuân. Sở dĩ hôm nay có được những hoa này, là vì chúng đã được trồng trọt, được chăm sóc bằng biết bao tình yêu và vất vả. Cũng thế, chúng ta sẽ chỉ có được vườn hoa tâm hồn thơm đẹp, nếu chúng ta chịu khó gieo trồng, chăm sóc, theo đúng những đòi hỏi của Nước Trời. Các thái độ, tư cách của chúng ta sẽ là những bông hoa toả sắc hương cứu độ, các tư tưởng của chúng ta sẽ là những trái thơm ngon mang sự sống cứu độ, nếu chúng ta trung thành gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Đức Kitô đã cứu độ chúng ta, không phải bằng những gì Ngài đã làm đã nói, cho bằng sự Ngài đã tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha là làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta làm chứng bằng cách mỗi người hãy cộng tác với Chúa, phấn đấu trở nên người tốt. Trưởng thành về nhân đức, thăng tiến về hiểu biết, và có nhiều lửa tình yêu phục vụ. Dịp Tết này, rất đông người đã cầu nguyện, sám hối, tạ ơn Chúa, và cũng rất đông người đã làm những việc bác ái, như hoà giải, phục vụ. Rất nhiều người đã hành hương đến nhà thờ, và cũng rất nhiều người đang hành hương đến những xóm nghèo, những nhà mồ côi, những người bệnh tất. Số người đón nhận Lời Chúa là rất lớn. Và số người đáp lại lời kêu gọi của Non Sông Tổ Quốc cũng rất đáng kể. Đó là những bước đi đầu năm có ý nghĩa. Cứ đi như thế thì việc đổi mới tâm hồn sẽ phát triển đúng hướng. Cứ đi như thế thì Nước Trời không còn xa. Chúng ta sẽ trở nên những tạo vật mới làm vinh quang Thiên Chúa. Với cái nhìn trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc mọi người một mùa Xuân thiêng liêng đầy hứa hẹn. Bài giảng thánh lễ đầu năm tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 14-02-99
Dịp tết vừa qua, tại giáo phận Long Xuyên, các đại diện các họ đạo đã quy tụ đông đủ, để mừng Xuân chung. Họ tĩnh tâm, chia sẻ, nghe huấn đức và dùng bữa thân mật với các vị đứng đầu giáo phận. Qua những tiếp xúc chung và riêng, tôi nhận thấy nguyện vọng tha thiết đầu tiên của giáo dân là mong có linh mục sống giữa họ, tiếp đó là một nguyện vọng khác cũng rất tha thiết, đó là muốn các linh mục của họ có nhiều khả năng giúp họ trở nên những tạo vật mới, theo thánh ý Chúa, để họ biết sống chứng tá cho Tin Mừng giữa thời điểm đầy chuyển biến của Việt Nam hôm nay. Những nguyện vọng đó là rất chính đáng. Ngày mùng hai Tết, tại thành phố Hồ Chí Minh, khi tiếp xúc với một số gia đình, tôi thấy họ cũng nuôi những nguyện vọng tương tự. Đó là những khát khao tự phát từ đáy lòng chân thực của họ. Ngày mùng ba Tết, tại thủ đô Hà Nội, khi gặp gỡ một số bạn trẻ, tôi thấy hai nguyện vọng trên được họ đặt ra thành vấn đề, với nhiều khía cạnh xã hội văn hoá và tôn giáo. Tôi tiếp thu những nguyện vọng trên như những tiếng gọi đầu Xuân. Tôi cảm nghiệm những tiếng gọi đó là khẩn thiết và nghiêm trọng. Đáp lại những tiếng gọi đó là việc không dễ. Tuy khó, nhưng việc gì làm được thì phải cố làm. Việc cần làm và có thể làm thiết tưởng là chính hàng giáo sĩ nhìn lại chính mình và có những quyết tâm mới. Việc đó càng nên coi là cần thiết, khi Mùa chay cuối cùng của thế kỷ 20 này đang mời gọi các môn đệ Đức Kitô hãy sám hối, sửa mình, chuẩn bị đi vào năm thánh 2000. Để gợi ý, tôi xin nêu lên hai việc cần thực hiện: Một là gẫm suy vài đoạn Kinh Thánh về bổn phận chủ chăn. Hai là cầu xin ơn sám hối và quyết định. I- Đọc lại Kinh Thánh Kinh Thánh có nhiều đoạn, nhiều câu nói về bổn phận chủ chăn. Ở đây chỉ xin trích dẫn vài đoạn nhỏ có tính cách răn đe và khuyên nhủ. Sách Giê-rê-mi-a. “Chúa phán: Khốn cho những người chăn chiên để đoàn chiên của Ta lạc mất và tan tác. Chúa là Thiên Chúa Israel đe phạt họ rằng: Các ngươi đã làm tan tác bầy chiên Ta, đã đuổi chúng đi, không chịu chăm sóc chúng. Vậy ta sẽ hỏi tội các ngươi về điều đó” (23, 1-2). Sách Ê-dê-ki-en. “Chúa phán cùng tôi rằng: Hỡi ngươi, hãy tố cáo các thủ lãnh dân Israel. Hãy nhân danh Chúa nói tiên tri phạt chúng như sau: Hỡi những người chăn dắt Israel, khốn cho các ngươi. Các ngươi chỉ lo cho bản thân, đang khi đúng lý ra các ngươi phải nghĩ đến đoàn chiên. Các ngươi uống sữa, mặc áo len và làm thịt các con chiên béo nhất. Các ngươi không bồi dưỡng các con chiên yếu, không chăm sóc các con chiên đau bệnh, không băng bó các con chiên bị thương, không tìm các con chiên bị mất, không dẫn các con chiên lạc trở về. Trái lại các ngươi chỉ hành hạ chúng. “Vì thiếu người chăn giữ, nên các chiên của Ta tan tác, làm mồi cho thú dữ. Chúng lang thang trên các đồi núi, phiêu bạt khắp mặt đất, mà không ai quan tâm đến chúng, không ai để ý đi tìm chúng… Vậy hỡi các kẻ chăn chiên, hãy nghe lời Ta là Thiên Chúa: Ta sẽ là thù địch của các ngươi. Ta sẽ đòi đoàn chiên của Ta. Ta sẽ không cho các ngươi chăn dắt chúng nữa. Vì các ngươi chỉ làm việc này để mưu lợi riêng, nên ta sẽ gỡ chúng ra khỏi miệng các ngươi. Chúng không còn là mồi cho các ngươi nữa” (34, 1-20). Thư I Thánh Phêrô. “Các ông hãy chăn dắt đoàn chiên Chúa trao phó cho các ông, không phải vì bị ép buộc, nhưng vì tự nguyện, không phải vì tư lợi xấu xa, nhưng vì hứng khởi của nhiệt tâm, không phải để trở thành quan chức đối với những người được Chúa trao phó, nhưng để trở thành gương mẫu cho đoàn chiên” (5, 1-3). Thư I thánh Phaolô gửi Côrintô. “Thiên Chúa không sai tôi đi để làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Phúc Âm, mà không dùng văn chương khéo léo gì, để thập giá Đức Kitô không trở nên hư vô. Tiếng nói của thập giá đối với những kẻ hư hỏng là điên dại, còn đối với những người được cứu rỗi thì là sức mạnh của Thiên Chúa. … Thiên Chúa đã dùng sự điên dại của thập giá mà cứu rỗi các tín hữu. Đối với chúng tôi, giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá chính là sức mạnh của Thiên Chúa và cũng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1, 17-24). Suy gẫm mấy đoạn Kinh Thánh trên đây, tôi thấy việc chăm sóc đoàn chiên là một bổn phận cực kỳ quan trọng. Chăm sóc thế nào? Thưa là giúp họ tin vào Đức Kitô, làm gương cho họ về sự tin vào Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô không phải chỉ là tin nhận có Đức Kitô, mà là gặp gỡ chính Đức Kitô. Gặp gỡ một cách bản thân và sống động. Gặp gỡ Đức Kitô là gặp gỡ một Đức Kitô cứu độ loài người. Người đã cứu độ bằng cách tuyệt đối tuân phục thánh ý Chúa Cha. Tuân phục đến cùng, là hiến tế mình trên thập giá, làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Gặp gỡ Đấng Cứu độ như thế chính là hiệp thông với nếp sống của Người, một nếp sống khiêm hạ, khó nghèo, đơn sơ, chôn vùi, tám mối phúc, phục vụ con người. Chính sự gặp gỡ hiệp thông như thế sẽ đón nhận lửa tình yêu của Đức Kitô và sẽ kéo chúng ta ra khỏi sự ác của kiêu căng và của các tội khác. Một nếp sống gặp gỡ hiệp thông như thế sẽ xoay quanh trung tâm điểm là Đức Kitô đã chịu chết và đã sống lại. Để có một nếp sống như thế thì không phải chỉ thuộc lòng nhiều kinh, lặp đi lặp lại các bài giáo lý, nhưng chủ yếu là phải rèn luyện mình thường xuyên bằng một đường lối tu đức thực sự tập trung vào Đức Kitô. Đó mới chính là cách sống đạo lành mạnh. Đó mới chính là sự chăm sóc mà người chủ chiên phải thực hiện đối với đoàn chiên. Những hiểu biết trên đây không những cần được rút ra từ Kinh Thánh, mà cũng cần được phong phú hoá từ những kinh nghiệm tu đức và mục vụ. II- Cầu xin ơn sám hối và quyết định. Những hiểu biết đúng đắn mà thôi chưa đủ để đổi mới con người chúng ta. Cần phải có ơn sám hối. Theo thánh Inhatiô, khi sám hối, chúng ta cần cầu xin 3 ơn sau đây: Một là ơn nhận ra tội lỗi của chúng ta và biết ghê tỏm những tội lỗi ấy. Kinh nghiệm cho thấy, rất nhiều khi chúng ta lầm lỗi, thiếu sót nặng nề trong bổn phận chăm sóc đoàn chiên, nhưng chúng ta không hề ray rứt gì. Lý do vì chúng ta thiếu ơn Chúa. Hai là ơn nhận ra tình hình mất trật tự trong đời sống thiêng liêng của chúng ta. Thiếu trật tự là thiếu nền tảng Phúc Âm, là hoạt động không do động lực Tin Mừng, là sống không giống Đức Kitô. Trên thực tế, đời sống chúng ta dễ sa vào tình trạng mất trật tự. Thí dụ những thứ đạo đức bệnh hoạn, máy móc, phô trương, những mục vụ trệch hướng, những dấn thân nông cạn, những nhận thức hẹp hòi, những nhân cách xuống cấp. Rất mất trật tự, thế nhưng chúng ta không nhận ra. Bởi vì chúng ta thiếu ơn Chúa. Ba là ơn hiểu biết những phù du giả dối thế tục. Thí dụ nuôi tham vọng, ưa tìm uy tín, xây dựng thanh thế, cuộc sống buông thả, chạy theo các ngẫu tượng. Biết bao lần chúng ta nạp mình cho những phù du đó như những con thiêu thân, mà không biết hổ thẹn. Bởi vì chúng ta thiếu ơn Chúa. Khi có ơn Chúa, chúng ta sẽ biết sám hối một cách thành thực. Từ đó sẽ có những quyết tâm đổi mới chính mình. Những quyết định loại đó phải chính xác và có thể thực hiện được. Theo tôi, thứ quyết định cần nhất là luôn ưu tiên chọn Chúa, luôn tuyệt đối tin vào Chúa Cha giàu tình yêu thương xót, luôn khiêm nhường gắn bó với sức mạnh cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, luôn ngoan ngoãn với ơn thánh hoá của Chúa Thánh Thần, luôn sống mầu nhiệm thánh giá với tinh thần tạ ơn mọi nơi mọi lúc, luôn sống kỷ luật, bác ái phục vụ và hy sinh với tinh thần trách nhiệm trong mọi trường hợp. Cách riêng luôn tìm cách đem lại cho đoàn chiên sự sống thực, sự sống dồi dào. “Ngay từ bây giờ, các con hãy thành thực trở về với Ta bằng tất cả tấm lòng của các con”. (Joel 2, 12). Chúa đang gọi chúng ta. Chúng ta hãy trở về với Chúa. Hãy trở về bổn phận chăm sóc đoàn chiên Chúa, với những nhiệt tình mới, với những sáng kiến mới, với những nhạy bén mới, với những hy vọng mới, nhất là với chính con người của chúng ta được Chúa đổi mới. Long Xuyên, ngày 25-02-1999
Châu Đốc có một nhà thờ mới đẹp đẽ, khang trang. Đó là một niềm vui lớn. Đây không phải chỉ là niềm vui riêng của giáo xứ Châu Đốc, mà cũng là niềm vui chung của thị xã và của giáo phận. Bởi vì nhà thờ mới này góp phần làm đẹp địa phương, và góp phần ổn định tâm tư mọi người công giáo. Một nhà thờ đẹp tất nhiên do nghệ thuật, kiến trúc. Nhưng nếu nhìn tổng thể, thì cái đẹp của một nhà thờ không đơn giản chỉ có thế. Cũng như một cánh đồng được gọi là cánh đồng dẹp, khi lúa ở đó mọc lên tươi tốt, thu hoạch cao. Tương tự cũng thế, một nhà thờ được gọi là đẹp thực sự, khi cộng đoàn ở đó được đào tạo tốt, trở thành một mùa lúa thiêng liêng, tốt về phẩm, cao về lượng. Nói như thế có nghĩa là cái đẹp nghệ thuật của một nhà thờ phải đi kèm với nhiều vẻ đẹp thiêng liêng. Một trong những vẻ đẹp đó, chính là sự tái sinh thiêng liêng. Sự tái sinh này luôn được nhấn mạnh trong phượng tự, trong giảng huấn, trong thánh ca, trong cầu nguyện. Đại khái là: Chúng ta phải lột bỏ con người cũ, để trở thành tạovật mới, con người mới, giữ điều răn mới, trung thành với giao ước mới, có sự sống mới, xứng đáng là người con ngoan thảo của Thiên Chúa là tình yêu. Mục đích trên đây phải chi phối tất cả mọi sự trong nhà thờ. Từ nhà chầu đến các tượng ảnh, các biểu tượng, cách trang trí, tất cả đều nhắc nhở về sự đổi mới con người. Từ linh mục chủ sự, giáo sĩ, đến các tu sĩ, giáo dân, người phục vụ trên cung thánh, người hát ở ca đoàn, người giữ trật tự… Tất cả đều phải khát khao mình được đổi mới và mọi người được đổi mới. Dấu chỉ đổi mới rõ ràng nhất là yêu thương nhau, kính trọng nhau, hoà thuận với nhau và sống tình liên đới chan hoà sâu sắc, trong tinh thần khiêm tốn, hy sinh quên mình. Đó là vẻ đẹp cuộc sống. Vẻ đẹp này phát xuất từ nội tâm. Một nội tâm biết thinh lặng lắng nghe Lời Chúa. Một nội tâm khiêm nhường khao khát đón nhận ơn Chúa. Một nội tâm nhận biết mình yếu đuối, hèn mọn, tội lỗi, hết lòng sám hối cậy tin nơi Chúa. Một nội tâm coi việc phục vụ đồng bào, nhất là đồng bào nghèo, chính là một niềm vui, một vinh dự, một bổn phận cao quý cho mình. Đó cũng là thánh lễ cuộc sống. Khi yêu thương nhau, thì chính lòng ta là thánh lễ. Khi hy sinh cho nhau, thì chính đời sống ta là thánh lễ. Khi biết sám hối sửa mình, thì chính con người ta là thánh lễ. Khi kết hợp tất cả những việc đó vào thánh giá Đức Kitô, thì chúng ta thờ phượng Chúa trong tinh thần và trong chân lý. Vài suy nghĩ trên đây thiết tưởng có thể trở thành những gợi ý hữu ích. Hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì nhà thờ mới và cầu nguyện cho các ân nhân, nhưng chúng ta cũng tha thiết cầu xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta được đổi mới tâm hồn. Hôm nay chúng ta coi nhà thờ mới là một vinh quang cho Chúa, nhưng chúng ta cũng ý thức rằng: Vinh quang thực của Chúa chính là những con người được đổi mới, có sự sống mới đầy Thánh Thần tình yêu. Hôm nay chúng ta nhớ tới Đức Mẹ Maria, thánh Giuse, thánh Bổn Mạng Laurensô, và hai thánh Quý Phụng, nhưng chúng ta phải quy hướng tất cả về trung tâm điểm là Đức Kitô. Chỉ có Đức Kitô là Đấng Cứu độ. “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng đến muôn thuở muôn đời”. Xin cầu chúc họ đạo Châu Đốc được dồi dào ơn đổi mới, để trở thành một cộng đoàn chứng nhân, xứng đáng là nơi bảo tồn gương sáng hai vị thánh tử đạo quý yêu của giáo phận Long Xuyên. Lễ khánh thành nhà thờ Châu Đốc ngày 23-03-1999
Đề tài nói chuyện của tôi trong buổi họp liên tu sĩ tháng 3 này là: “Chia sẻ vài suy nghĩ giúp các Dòng tu sống tinh thần sám hối”. Sở dĩ đề cập đến vấn đề này là vì những lý do sau đây: Sám hối chân thành là việc cần thiết trong Mùa Chay. Sám hối sâu xa là một vẻ đẹp hấp dẫn của người môn đệ Đức Kitô. Sám hối đúng nội dung là điều kiện để dòng tu phát triển. Nội dung chia sẻ gồm 3 phần: 1-- Sám hối về những gì chúng ta có thể đã hiểu sai và làm sai chương trình cứu độ của Chúa. 2-- Sám hối về những thiếu sót trong việc đào tạo chính mình và cộng đoàn của mình. 3-- Sám hối về những gì của Dòng đang và sẽ có thể làm cho Dòng sa sút. Cách trình bày sẽ là chia sẻ. Mà chia sẻ là trao gửi những gì riêng tư, như món quà thân tặng, chứ không dạy dỗ. I. Sám hối về những gì chúng ta có thể đã hiểu sai và làm sai chương trình cứu độ của Chúa. Chắc chắn các tu sĩ đã học biết về thần học cứu độ. Vì thế, tôi xin được miễn nói vấn đề này. Đàng khác, ở đây cũng không đủ thời gian để nói. Tôi chỉ xin được chia sẻ lộ trình Chúa dùng để dạy tôi về công trình cứu độ. Bài học đầu tiên là Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá và chặng đàng thánh giá. Một cách nào đó, Chúa đã nói với tôi từ những ảnh tượng đầy khổ đau đó. Nói âm thầm, nhưng rất rõ: “Để cứu độ con và nhân loại khỏi sự dữ và được sự sống tốt đẹp, Chúa Giêsu của con đã phải đau đớn rất nhiều, cầu nguyện rất nhiều trong yêu thương vô tận”. Bài học thứ hai là cuộc đời cha mẹ tôi. Một cách nào đó, cha mẹ tôi đã nói với tôi qua cuộc sống nhọc nhằn, phục vụ hy sinh của các ngài. Cũng nói âm thầm nhưng rất rõ: “Để cứu các con khỏi đói nghèo, dốt nát, lầm than, và để các con có được cuộc sống dồi dào, cha mẹ các con đã phải phấn đấu rất nhiều, cầu nguyện rất nhiều, hy sinh rất nhiều trong yêu thương quên mình”. Bài học thứ ba là Đức Mẹ Maria. Từ nhỏ, tôi đã thích nhìn ảnh Đức Mẹ sầu bi, ưa đọc kinh 7 sự thương khó Đức Mẹ. Từ những gần gũi ấy, tôi nghe Đức Mẹ dạy tôi. Mẹ nói nhẹ nhàng, nhưng rất rõ: “Để cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa, Mẹ luôn đi trên đường yêu mến tuân phục ý Chúa, dù phải khổ đau cả trong thân xác lẫn trong tâm hồn”. Bài học thứ bốn là cuộc sống thánh nữ Têrêxa thành Lisieux. Thánh nữ đã chọn con đường bé nhỏ và hiến dâng mình làm của lễ toàn thiêu cho Tình Yêu Chúa. Từ cuộc sống chấp nhận bé nhỏ và hy sinh cho Tình Yêu, thánh nữ đã nói với tôi: “Để cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa, chúng ta cần phải từ bỏ mình, phải hy sinh phục vụ nhiều, nhất là phải yêu mến trả đáp Tình yêu”. Bài học thứ năm là gương sáng các vị đạo đức đang đổi mới Hội thánh, như Charles de Foucauld, Petite Soeur Magdeleine de Jésus, Marthe Robin. Qua mọi tiếp xúc với các ngài, tôi như chỉ nhớ duy một lời khuyên: “Hãy chấp nhận tất cả, hãy sẵn sàng tất cả. Miễn sao thánh ý Chúa được thực hiện trong chúng ta và trong mọi tạo vật”. Những bài học sống động trên đây đã gây ấn tượng mạnh trong tôi về công trình cứu độ. Khi học thần học cứu độ và khi gẫm suy Lời Chúa trong Kinh Thánh về kế hoạch cứu độ, và qua kinh nghiệm mục vụ, tôi thấy công trình cứu độ của Chúa có những nét căn bản sau đây: Một là tuân phục ý Chúa Cha. Như lời tác giả thư Do Thái đã nói: “Cha đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã trao cho con một thân thể. Cha cũng chẳng thiết gì lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa:Lạy Cha, này con đây, con đến để thực thi ý Cha”. (Dt 10, 5-8) Hai là tự hạ phục vụ. Thánh Phaolô viết: “Người từ bỏ mình, nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình, mà vâng lời cho đến chết” (Phil 2, 6-11). Ba là yêu mến. Cũng thánh Phaolô đã quả quyết: “Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa đã chết vì chúng ta” (Rom 5, 5-8). Bốn là cầu nguyện. Phúc âm cho thấy: Chúa Giêsu cầu nguyện liên lỉ, đặc biệt là ở sa mạc 40 đêm ngày, trong vườn Cây Dầu và trên thánh giá. Năm là làm hết sức mình để thăng tiến đời sống. “Ta đến để nhân loại có sự sống , một sự sống dồi dào” (Ga 10, 10). Tôi coi 5 việc trên đây là những yếu tố chúng ta cũng phải thực hiện, để góp phần vào công trình cứu độ. Yếu tố nào trong 5 yếu tố trên cũng đòi chúng ta phải chết đi một cách nào đó. Từ trước đến nay, công trình cứu độ luôn luôn bị Satan quấy phá. Năm nay càng gần năm thánh 2000, hoạt động quấy phá của Satan ngày càng gia tăng. Theo tôi thấy, điều mà Satan đang cản trở nguồn ơn năm thánh hơn cả, là xúi giục chúng ta không lắng nghe tiếng Chúa gọi từ những khổ đau của thân phận con người và từ bổn phận người tu, nhưng lại rất nhạy bén với tiếng gọi của tinh thần thế tục, hướng về những gì xa rời 5 yếu tố căn bản trên. Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ. II. Sám hối về những thiếu sót trong việc đào tạo chính mình và cộng đoàn của mình. Ai cũng thấy hầu hết các dòng tu hiện nay tại Việt Nam đang tìm mọi cách để Phát triển. Việc xây cất, việc chiêu mộ, việc học hành nằm trong mục đích đó. Việc đào tạo tất nhiên rất được quan tâm. Đào tạo theo lý tưởng nào, đào tạo cách nào, đó là những vấn đế cụ thể thường được đặt ra cho mỗi dòng tu. Riêng tôi, với cái nhìn toàn thể, tôi xin đưa ra 3 gợi ý có thể áp dụng cho mọi dòng tu. Ba gợi ý đó là 3 đối tượng chúng ta cần phải để ý đào tạo, rèn luyện thường xuyên. Đối tượng thứ nhất là cái nhìn. Cái nhìn người tu của chúng ta phải là cái nhìn được soi sáng bởi đức tin, bởi Chúa Thánh Linh. Một cái nhìn như thế sẽ thấu qua những gì là hữu hình, để nhận ra được sự vô hình. Một cái nhìn như thế phải được đào tạo bằng Lời Chúa, bằng cầu nguyện, suy niệm, và bằng sự phấn đấu nội tâm, biết loại trừ ra khỏi ta các tư tưởng xấu, hoài niệm xấu, ước muốn xấu, thành kiến xấu, và biết đón nhận sự hiểu biết của Chúa, tâm tình của Chúa. Lúc đó, cái nhìn của chúng ta sẽ được Phúc-âm-hóa, chúng ta nhìn, nhưng là chính Chúa Giêsu nhìn trong con mắt của chúng ta. Xin kể ra đây một số cái nhìn của Chúa Giêsu, để chúng ta mơ ước được có cái nhìn như vậy. Chúa Giêsu nhìn đám đông trong đền thờ, thấy một bà góa nghèo bỏ vào thùng 2 đồng tiền nhỏ. Chúa nói: “Bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (Mc 12,41-43). Chúa Giêsu nhìn các trẻ nhỏ và nói: “Ai không đón nhận Nước Trời như những trẻ nhỏ, sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mc 10,15). Chúa Giêsu nhìn viên đội trưởng ngoại đạo, Người ngạc nhiên nói: “Tôi chưa thấy một người nào trong dân Israel có lòng tin như ông này” (Mt 8,10). Chúa Giêsu nhìn người phụ nữ tội lỗi và nói: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là vì chị đã yêu mến nhiều” (Lc 7,47). Tôi rất mừng khi nhìn vào cái nhìn của người tu mà thấy được trong đó bầu khí thinh lặng nội tâm, sự đơn sơ khiêm tốn hiền lành và thái độ đón tiếp. Một cái nhìn của người tu như thế chính là sự gặp gỡ cứu độ, dẫn tới nhiều giá trị thiêng liêng vô hình. Đối tượng thứ hai là sự tự do. Tôi hiểu sự tự do của người tu chúng ta chỉ nên dùng cho công trình cứu độ của Chúa. Vì thế đặc điểm của sự tự do người tu là không bao giờ đòi hỏi hưởng thụ, quyền lợi, tìm đạt ý riêng, nhưng luôn tìm thánh ý Chúa, và chấp nhận cuộc chiến đấu thiêng liêng. Dấu chỉ của một sự tự do như thế là luôn luôn sẵn sàng và khát khao Lời Chúa, luôn luôn thao thức thực thi ý Chúa, nhất là bằng 4 sự trở về sau đây dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần: Sự trở về của tôn giáo. Đó là từ một sự hiểu biết mơ hồ về Đức Kitô, sự tự do người tu trở về với sự hiểu biết chân thật Đức Kitô trong Phúc âm, một Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ, nền tảng của Kitô giáo chúng ta. Sự trở về của lý trí. Đó là từ một cách sống dựa trên những nguyên tắc khôn ngoan tự nhiên, sự tự do người tu tìm được nơi Lời Chúa những nguyên tắc hướng dẫn các lựa chọn và cách sống. Sự trở về của trái tim. Đó là từ một cuộc sống mất trật tự, sự tự do người tu trở về một cuộc sống kỷ luật, khắc kỷ, vâng lời và gắn bó với bổn phận. Sự trở về của huyền nhiệm. Đó là từ một cách gặp gỡ Chúa qua giáo lý, sự tự do người tu trở về một sự gặp gỡ sống động, trực tiếp qua cảm nghiệm nội tâm. Thánh Linh không áp đặt, chỉ đề nghị, thúc giục sự tự do của chúng ta. Khi sự tự do của chúng ta đón nhận, cộng tác với Người, chúng ta dần dần sẽ thấy các sự trở về của chúng ta rất âm thầm, rất nội tâm và rất thiết thực. Chúng ta có được đào tạo cho những sự trở về đó không? Đối tượng thứ ba là sự khôn ngoan. Khi nói tới sự khôn ngoan, tôi nghĩ nhiều đến các Dòng tu tại Việt Nam hiện nay. Tình hình không đơn giản. Dòng sẽ tồn tại và phát triển, nếu biết sống khôn ngoan. Trái lại, nếu không khôn ngoan, Dòng sẽ không có chỗ đứng, hoặc chỉ tồn tại một cách tù mù, lây lất. Sự khôn ngoan mà tôi muốn nói ở đây là sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Sự khôn ngoan này đã hướng dẫn Israel xưa qua lịch sử, đã hướng dẫn Đức Kitô trên con đường cứu độ, đã hướng dẫn Giáo Hội sơ khai trên đường rao giảng Tin Mừng. Hồi đó, dân Israel tưởng rằng họ sẽ bảo vệ được quốc gia họ, và trở nên dân tộc của Giao ước, nhờ con số đông đảo của mình, và nhờ quyền lực kinh tế, xã hội, chính trị của mình. Họ tưởng thế là khôn ngoan. Nhưng Chúa đã phế bỏ sự khôn ngoan đó. Chúa phán: “Không phải nhờ con số đông, cũng không phải nhờ quyền lực, nhưng nhờ Thánh Thần của Ta, mà các sự việc được thực hiện” (Za 4,6). Chúa xác định rõ Chúa sẽ chúc lành cho dân nhờ những người “nghèo khó trong Thánh Thần” (Mt 5,3). Chúa sẽ cứu dân nhờ những người đứng đầu, được gọi là đầy tớ, nhưng có Thánh Thần: “Đây là đầy tớ của Ta, Ta đặt trên nó Thánh Thần của Ta” (Is 42,1). Chúa Giêsu có thể cứu độ nhân loại bằng nhiều cách, nhưng do sự thúc đẩy của Thánh Thần đời đời, Đức Kitô đã tự dâng mình chịu chết trên thánh giá (xem DT 9,14). Các tông đồ, khi làm chứng cho Tin Mừng, đã luôn nhớ mình làm việc đó do ơn Chúa Thánh Thần. “Chúng tôi là những chứng nhân của các sự đó, chúng tôi và Thánh Thần mà Thiên Chúa ban cho những ai nghe lời Thiên Chúa” (Cv 5,32). Sự khôn ngoan được Chúa Thánh Thần hướng dẫn nơi Đức Mẹ Maria và thánh Giuse trong việc cộng tác vào công trình cứu độ là sự khôn ngoan rất khác với ý phần đông. Sự khó nghèo, chôn vùi, cam chịu khổ đau và dấn thân phục vụ một cách lặng lẽ âm thầm, kiên trì can đảm là những gì xem ra đang bị xa tránh, nhưng chính lại là những giá trị mà Chúa Thánh Thần muốn. Sự khôn ngoan của ơn Chúa Thánh Thần không miễn cho chúng ta việc học hành, tra cứu và nắm bắt các tình hình cụ thể. Vì thế, tôi mong ước các Dòng tăng cường hơn những kiến thức triết học, những kiến thức thần học, Kinh Thánh, những kiến thức về tu đức, đặc biệt là tu đức truyền giáo, cũng như sự hiểu biết sâu rộng về đất nước, dân tộc Việt Nam chúng ta. Sự khôn ngoan của ơn Chúa Thánh Thần rất cần cho chúng ta, không phải chỉ trong những lựa chọn đặc biệt, mà cũng trong đời thường. Người có sự khôn ngoan của ơn Chúa Thánh Thần sẽ biết cách đón nhận, cách trình bày, cách phục vụ, cách cho đi, cách xây dựng. Cái cách phải được coi là quan trọng. Nhiều khi cái cách mới là nơi người ta nhận biết chúng ta có ơn Chúa Thánh Thần hay không. Chẳng hạn cách tế nhị, cách khiêm nhường, cách sâu sắc, cách nhã nhặn lịch sự, cách gắn bó của lương tâm với trách nhiệm của mình, cách bình tĩnh tôn trọng sự thực, cách sáng tạo những liên đới Phúc Âm. Không thiếu trường hợp cách làm lại quan trọng hơn chính việc làm. Sự thực đó đòi chúng ta phải quan tâm đào tạo sự khôn ngoan của chúng ta về nhiều mặt nhờ ơn Chúa Thánh Thần. III. Sám hối về những gì của dòng đang và sẽ có thể làm cho dòng sa sút. Khi nêu lên tư tưởng trên đây, tôi muốn tỏ bày niềm lo âu của tôi về một ít Dòng tu, mà tôi cảm thấy là không ổn. Sự không ổn tôi nói ở đây là sự không ổn về tinh thần. Sự không ổn này xuất phát từ nhiều lý do, trong đó có 3 lý do, tôi cho là quan trọng. Lý do thứ nhất là xa rời đặc sủng truyền thống ban đầu. Khi xét về đặc sủng truyền thống ban đầu của một Dòng tu hiện nay ra sao, tôi thường để ý đến ba yếu tố: 1. Đặc sủng truyền thống chính thức nơi Đấng Sáng lập Dòng. Đặc sủng này dựa trên Kinh thánh và nhu cầu lịch sử cứu độ. Đặc sủng nơi Đấng sáng lập Dòng thường trong sáng, đơn sơ. 2. Các luật lệ, hiến pháp được soạn ra và những thói quen giữ các hiến pháp và luật lệ được trở thành cơ chế. Qua nhiều năm, nhiều người trong Dòng có thể đã để ý đến cơ chế đó hơn là đi sâu vào đặc sủng truyền thống ban đầu. 3. Tâm lý cộng đoàn. Tâm lý này gồm ý thức, tiềm thức, vô thức. Trong nhiều trường hợp, tâm lý này chưa được phúc âm hóa đầy đủ. Nhất là các lực lượng vô thức và tiềm thức. Những tâm lý như thế, dù là của cá nhân, dù là của tập thể, khó có thể hiểu được và nếm được đúng đặc sủng truyền thống ban đầu. Ấy thế mà nhiều khi những tâm lý đó lại góp ý, lại bỏ phiếu về sự đổi mới nhà Dòng. Kết quả, theo tôi, là đặc sủng truyền thống ban đầu bị xói mòn, bị che phủ. Lý do thứ hai là sự không ưu tiên chọn Chúa. Thiết tưởng mọi Dòng tu đều phải làm gương sáng về ưu tiên chọn Chúa. Đó phải là lẽ sống của Dòng. Ưu tiên chọn Chúa là ưu tiên học hỏi về Chúa. Một Thiên Chúa luôn vượt xa những gì chúng ta hiểu biết về Người. Ưu tiên chọn Chúa là ưu tiên lấy Lời Chúa và gương Đức Kitô làm chuẩn mực cho nếp sống của chúng ta, cho dù các chuẩn mực đó không được mọi người thế gian chấp nhận. Ưu tiên chọn Chúa là ưu tiên tìm Nước Trời, chứ không nhập nhằng cũng đồng thời đi tìm các ngẫu tượng. Ưu tiên chọn Chúa là ưu tiên tìm kế hoạch cứu độ mà Chúa muốn nơi cá nhân chúng ta và nhà Dòng chúng ta, cho dù kế hoạch đó rất khác với kế hoạch mà chúng ta dự tính. Ưu tiên chọn Chúa là ưu tiên sám hối với Chúa, và chấp nhận một cuộc giao tranh thiêng liêng ưu tiên với chính mình, để thuộc trọn về Chúa. Thiết tưởng một khi chúng ta ưu tiên chọn Chúa, thì chính Chúa sẽ lo cho chúng ta và Dòng của chúng ta. Trái lại, khi không ưu tiên chọn Chúa, chúng ta sẽ xa dần nguồn ơn thánh Chúa. Lý do thứ ba là một tình trạng tu có thể ít mang lại sự sống cho dân xung quanh và cũng ít làm gương sáng về một cuộc sống phấn đấu phục vụ. Sự sống nói đây có nhiều mức độ, như sự sống kinh tế, sự sống văn hóa, sự sống đạo đức, sự sống siêu nhiên. Sự sống nói đây cũng có nhiều dạng, như sống là phấn đấu để lập thân, sống là phải xoay xở vật lộn với muôn vàn trắc trở, để tới sự trưởng thành nhân bản, nhân đức, để vươn tới sự tăng trưởng trí thức, để có được nhiều khả năng phục vụ. Nếu người ta quen hiểu sự sống là như thế, mà nếu chẳng may người tu, Dòng tu lại được coi như một cuộc sống an nhàn, an ổn, dễ dàng thăng tiến, một cuộc sống ít phấn đấu và phục vụ, thì kết quả sẽ rất bất hạnh cho Dòng tu. *** Qua những gì tôi chia sẻ trong ba phần sám hối, các tu sĩ có thể thấy được lời kêu gọi sám hối ở đây, không nhắm mục đích ăn năn tội này lỗi nọ, cho bằng nhắm mục đích tìm về với Thiên Chúa, Đấng đã gọi ta. Hãy lắng nghe Người. Hãy khám phá Người là Thiên Chúa thế nào đối với chúng ta. Nhất là hãy biết đón nhận Người, chương trình cứu độ của Người và ơn thương xót của Người. Để rồi, ra sức làm chứng cho Thiên Chúa giàu lòng thương xót tại các địa phương của Việt Nam hôm nay. Để kết, tôi xin kể một sự việc thời sự đã và đang làm tôi suy nghĩ rất nhiều về những dạng chứng nhân của lòng thương xót. Tại thành phố Long Xuyên, trong bệnh viện Đa khoa, có một cơ sở từ thiện. Đứng đầu là một người đàn ông nhà quê, đạo Phật, tên là Phan Tấn Đạt, năm nay 75 tuổi, quen gọi là ông Ba. Trước đây, tôi được biết ông qua dư luận. Cách đây 2 tuần, tôi đến thăm ông tại cơ sở từ thiện. Qua tiếp xúc trực tiếp và đi thăm sinh hoạt của cơ sở từ thiện này, tôi được biết như sau: Cách đây 14 năm, chỗ này toàn cỏ rác. Vợ ông Ba tình nguyện đến đây dọn cỏ, để có chỗ làm từ thiện, giúp đỡ các bệnh nhân nghèo. Bà chỉ làm duy một việc là nấu nước sôi, để phục vụ các bệnh nhân. Bệnh viện cho bà nước, còn bao nhiêu thứ khác như củi, nồi, bình, thì bà phải tự lo. Sau ít tháng, bà dắt chồng bà là ông Ba đi theo. Được phép chính quyền, hai ông bà dọn dẹp chỗ đó, dựng lên một cái chòi, trong đặt một cái chõng, để ngủ nghỉ. Họ tiếp tục phục vụ bệnh nhân bằng cách cung cấp nước sôi miễn phí. Từ đó, dân gọi ông Ba là “ông Ba nước sôi”. Từ việc nhỏ đó, hai ông bà bước thêm một bước phục vụ nữa, là nấu cháo. Họ cung cấp cháo miễn phí cho các bệnh nhân. Sau nhiều tháng, khi thấy ông Ba được nhiều bệnh nhân tín nhiệm, chính quyền cho phép ông Ba được xây dựng một cơ sở từ thiện tại chính nơi ông đang dựng chòi. Với điều kiện: không được vận động và không biến thành 1 tổ chức. Lúc đó ông Ba chỉ có 1 triệu đồng. Hai ngày sau, ông dám khởi công, chỉ tin vào sức thiêng liêng, mà ông gọi là ơn trên phù giúp. Được tin ông Ba khởi công xây cất cơ sở từ thiện, dân chúng kéo đến, tự nguyện giúp đỡ. Người cho tiền, người chạy vật tư, người trộn hồ, vác gạch. Sau gần 1 tháng, cơ sở đã hoàn thành. Tốn phí 87 triệu. Thời giá lúc đó là to của. Tất cả đều do các người hảo tâm cho. Từ đó đến nay, ngôi nhà này được đặt tên là cơ sở từ thiện. Và ông Ba được dân chúng gọi là ông Ba từ thiện. Hoạt động thường xuyên ở đây là phục vụ các bệnh nhân nghèo, bằng cánh cung cấp miễn phí nước sôi, cháo, và bữa ăn. Mỗi ngày phải nấu 14 đến 15 giạ gạo, có khi lên tới 20 giạ. Tôi hỏi về những nguồn viện trợ, thì ông Ba cho biết: Không hề có một viện trợ nào của nước ngoài. Gạo, củi, thức ăn hàng ngày đều do bà con xung quanh cho. Cho đủ, cho dư, và cho để dự trữ lâu dài. Bà con nghe biết công việc từ thiện, thì tự ý cho. Cơ sở từ thiện không vận động. Tôi đi xem các kho dự trữ, thì thấy mênh mông, quá sự tôi đã tưởng tượng. Cơ sở có 2 xe hơi cũ, do ân nhân cho. Được sửa lại thành xe cứu thương. Dành để chở các bệnh nhân nghèo, và thi hài bệnh nhân về nhà. Số người tình nguyện đến cơ sở để phục vụ hằng ngày khoảng 30, cả nam cả nữ. Trong số này, có người nghèo, có người giàu. Sáng họ tới, chiều họ về. Mệt thì họ tạm nghỉ ở bất cứ chỗ nào trống, kể cả xó bếp, và các xó xỉnh dành để chất củi và gạo. Ba tài xế cũng ở trong thành phố, khi cần thì họ tới ngay. Phục vụ miễn phí. Dứt khoát không nhận thù lao. Tất cả mọi người phục vụ từ ông Ba cho đến các người bếp đều sống nghèo như nhau. Ai muốn thiền, tĩnh tâm, cầu nguyện, thì làm tư riêng. Cách nào, lúc nào chỗ nào tuỳ ý. Tôi hỏi ông Ba: “Các hoạt động từ thiện của ông Ba có dựa trên giáo lý nào không?”. Ông Ba trả lời: Có, giáo lý rất đơn sơ. Thế này: - “Mỗi ngày, tôi khấn nguyện với Trời Phật: Ngày hôm nay, suốt 24 tiếng đồng hồ, tôi nguyện làm hết sức mình để làm việc từ thiện, giúp các bệnh nhân, cho họ bớt khổ. - Phúc nhỏ cũng không bỏ. Tội nhỏ cũng không làm. - Tôi coi nhân loại, dân tộc là gia đình tôi”. Gạn hỏi mãi, ông Ba mới cho biết tên thực của ông. Bởi vì ông Ba muốn phục vụ bá tánh như một người vô danh. Thời gian 14 năm cũng đã quá đủ để thử thách niềm tin, niềm phó thác, và tấm lòng cảm thương chan hòa của ông Ba. Tôi ra về, bâng khuâng, Tôi nhớ hoài hình ảnh một ông già nhà quê, sống thanh bạch, đơn sơ, khó nghèo, giữa đám người tình nguyện âm thầm, với những phương tiện sống rất nghèo, phục vụ từ thiện với biết bao hy sinh mà vẫn thanh thản. Tại đây tôi cảm thấy mình bé nhỏ trước những gì cao cả linh thiêng. Cũng chính thời gian này, tôi đang đọc lại thông điệp Dominum Vivificantem và Redemptoris Missio. Trong các thông điệp này, Đức Thánh Cha Phaolô II dạy: Đức Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động mạnh ngoài ranh giới Hội Thánh Công giáo. Đây là một chân lý đáng chúng ta suy nghĩ, để chúng ta biết lo cho chính chúng ta: Hãy là những người tỉnh thức biết đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và cộng tác với Người. Kẻo lỡ ra chúng ta rơi vào cảnh thua kém lúc nào mà không hay. Chắc chắn chúng ta đã lãnh nhận nhiều, và rất có thể chúng ta chưa cho đi đủ và chưa phục vụ đủ. Thế mà, nhiều khi chúng ta vẫn tưởng là chẳng có gì đáng trách. Để rồi an tâm. Một thứ an tâm giả tạo. Lạy Chúa, xin thương cứu độ chúng con. Bài nói chuyện với Liên tu sĩ Tp. Hồ Chí Minh ngày 25-03-1999
Trong thánh lễ Truyền Dầu, hàng linh mục thường được chú ý một cách đặc biệt. Số linh mục đồng tế rất đông. Các ngài mặc phẩm phục thánh, ngồi trên cung thánh, được các bài thánh ca tung hô tán tụng, được nhiều lời cầu nguyện và nhiều nghi thức nhắc nhở để sống thánh thiện. Đề cao linh mục như vậy là một truyền thống tốt, có cơ sở đúng đắn. Tuy nhiên, giữa bầu khí đề cao đó, tự nhiên tôi nhớ tới hình ảnh Chúa Giêsu đang ngẩng mặt lên trời cầu nguyện:“Lạy Cha là Chúa trời đất, con chúc tụng Cha, vì những gì Cha giấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mặc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, Cha đã muốn điều đó, do lòng nhân hậu của Cha” (Mt 11, 25). Lời Chúa Giêsu trên đây đã cho tôi một cái nhìn mới. Cái nhìn mới này cho tôi thấy: Những người được Chúa mặc khải về ý Chúa và về chính Chúa, không phải là những người có quyền, có chức, mặc dầu đó là quyền chức thánh, mà là những kẻ bé mọn. Tôi không nghĩ rằng: Chúa khinh chê những người khôn ngoan thông thái, có quyền chức. Nhưng, như Chúa đã nói rõ, sở dĩ Chúa thương những kẻ bé mọn và tỏ mình ra cho họ, là vì Chúa muốn như vậy, Chúa muốn như vậy là do lòng nhân hậu Chúa. Lòng nhân hậu Chúa có khuynh hướng yêu thương kẻ bé mọn. Lòng nhân hậu Chúa thích gần gũi kẻ bé mọn. Lòng nhân hậu Chúa ưa tỏ mình ra cho kẻ bé mọn. Những kẻ bé mọn, mà Chúa yêu thương đặc biệt, mà Chúa chọn cách riêng để gần gũi và tỏ mình ra cho họ, là những con người khiêm tốn, nghèo khó, đơn sơ. Họ là những con người rất sợ làm mất lòng Chúa, rất sợ làm hại người khác, rất sợ sống sai sự thực. Họ rất xa sự tự phụ, tự tôn, tự đắc. Hơn nữa họ chẳng bao giờ dám nghĩ mình có công, có phúc, có đức, có tài, xứng đáng được Chúa cứu độ, và được trở thành dụng cụ cứu độ người khác. Họ xác tín: Họ phải phấn đấu chu toàn bổn phận với tất cả mọi phương tiện Chúa ban, nhưng đồng thời phải khiêm nhường sống trọn vẹn Lời Chúa dạy: “Nếu không có Thầy, chúng con không làm được gì” (Ga 15, 15). Những người bé mọn như thế có thể ở trong hàng giáo sĩ, và có thể ở trong bậc tu sĩ, bậc giáo dân, trong mọi tầng lớp dân thường. Khi được Chúa yêu thương, gần gũi và được Chúa chọn để Chúa tỏ mình ra, những người bé mọn đó sẽ là những đốm lửa thiêng liêng, những dòng suối thiêng liêng, những chất dầu thiêng liêng, âm thầm mà gây được nhiều kết quả có sức cứu độ. Nhận thức trên đây gợi lên trong lòng tôi một ước muốn về chỗ đứng trong Nước Trời. Chỗ đứng mà tôi mong muốn cho tôi trước mặt Chúa trong Nước Trời sẽ không phải là một chỗ giữa những người khôn ngoan thông thái, hay giữa những người có quyền có chức, mà là một chỗ giữa những người bé mọn. Có thể là tất cả các linh mục của tôi cũng đang mong muốn như vậy. Cũng có thể là tất cả anh chị em tu sĩ giáo dân cũng coi điều mong muốn đó là hợp lý. Nhưng sống bé mọn, khó nghèo là điều không dễ. Lo cho những kẻ nghèo khó, bé mọn thì tương đối dễ hơn là chính mình trở thành bé mọn, nghèo khó. Hơn nữa, tự nghĩ mình bé mọn, nghèo khó thì vẫn dễ hơn là mình được chính Chúa xếp vào loại khó nghèo bé mọn. Tuy khó, nhưng vẫn có thể thực hiện được. Cách thực hiện tốt nhất là thực thi Lời Chúa dạy sau đây: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29). Tuần thánh chính là thời gian thuận lợi nhất, để chúng ta học với Chúa Giêsu về khiêm nhường, về hiền lành, về khó nghèo, về bé mọn. Hãy học với Chúa Giêsu, nhất là hãy đón nhận từ Chúa Giêsu ơn trở nên môn đệ bé mọn của Chúa Cứu Thế, Đấng suốt đời làm gương về sự khiêm nhường của người con ngoan thảo đối với Chúa Cha trên trời. Lạy Chúa Giêsu khiêm nhường, xin thương cứu độ chúng con. Amen. Lễ Truyền Dầu Tại Nhà Thờ Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp, Ngày 30-03-99
Thánh lễ chiều thứ Năm tuần thánh tập trung vào tình yêu của Đấng Cứu Thế. Thánh Gioan tông đồ viết: “Chúa Giêsu vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình đang còn ở thế gian. Ngài đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1). Để làm chứng cho tình yêu đến cùng đó, Đức Kitô đã làm hai việc này: Một là lập Phép Thánh Thể, dấu chỉ của sự Người hiến tế chính mình, thân Người bị nộp, máu Người bị đổ ra. Hai là rửa chân cho các môn đệ, dấu chỉ của sự Người tự hạ phục vụ. Tình yêu đến cùng của Đức Kitô không dừng lại ở Bữa Tiệc ly, nhưng tiếp tục được chứng minh và lên tới đỉnh cao trong những giờ tới. Trong những giờ tới, Đức Kitô bước vào cuộc thương khó. Các cơn thử thách dữ dội về tình yêu khiêm nhường thi nhau giầy vò thân phận Người. Những ghen tương độc ác đến từ các thượng tế và kỳ lão. Những mị dân ác độc vô trách nhiệm đến từ vua quan. Những nông nổi nhẹ dạ ác độc đến từ dân chúng. Những tham ô ác độc đến từ Giuda, người thân tín. Những hèn nhát đến từ các môn đệ. Trong những giông gió dữ dằn đó, tình yêu khiêm nhường của Đức Kitô bị thách thức đến cực độ. Mặc dầu vậy, Đức Kitô vẫn yêu thương đến cùng, vẫn khiêm tốn đến cùng, vẫn hiến tế đến cùng. Để đáp lại muôn vàn khổ đau bất công đổ trên Người, Người chỉ nói một lời với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm, không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34). Hơn nữa, cho dù có lúc Đức Kitô cảm thấy như mình bị chính Đức Chúa Cha từ bỏ, Người vẫn một mực khiêm nhường phó thác: “Lạy Cha, xin đừng theo ý con, nhưng xin hãy làm theo ý Cha” (Lc 22, 42). Và sau cùng, Đức Kitô đã kết thúc cuộc đời trần gian đầy thử thách cam go bằng một lời vắn tắt khiêm nhường phó thác: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46). Tình yêu đến cùng của Đấng Cứu Thế là như vậy. Và đó mới là tình yêu có sức cứu độ. Hôm nay, kỷ niệm tình yêu cao cả đó, nếu chỉ nhớ lại mà thôi thì không đúng ý của Chúa Giêsu. Nhưng cần đem tình yêu xưa của Đức Kitô vào cuộc sống hôm nay. Trước hết hãy biết nhận ra Đức Kitô vẫn hiện diện trong các cộng đoàn, để tái diễn lại tình yêu của Người. Trong một cộng đoàn, khi chúng ta thấy có những người khiêm tốn phục vụ, có những người hy sinh chính mình, siêng cầu nguyện cho kẻ khác, có những người tha thứ bao dung, có những người luôn từ bỏ ý riêng, để tin cậy phó thác nơi Chúa, thì chúng ta hãy nhận ra chính Đức Kitô đang sống trong họ và đang làm chứng tình yêu của Người trong cộng đoàn. Qua những chứng nhân tình yêu khiêm nhường, Đức Kitô nhắc nhở lời Người dạy xưa: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau” (Ga 13, 35). Do đó, đem tình yêu xưa của Đức Kitô vào cuộc sống hôm nay còn là cố gắng thực thi lời Người dạy và theo gương Người đã nêu lên về tình yêu, Đức Kitô nhấn mạnh đến việc làm. Hãy làm như Đức kitô đã làm. Chúa dạy: “Thầy đã làm gương cho các con, để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13, 15). Nhất là vì Đức Kitô đã làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện và phó thác mình nơi Chúa Cha, thì chúng ta hãy làm như Người, với tất cả tâm tình được tác giả thư gởi Do Thái diễn tả: Chúa Giêsu dâng nước mắt và lời cầu nguyện cùng với tình yêu con thảo lên Chúa Cha, nên Chúa Giêsu đã được nhận lời (x. Dt 5, 7). Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương chúng con vô cùng. Xin thương giúp chúng con biết đón nhận tình yêu thương ấy, biết vâng lời Chúa mà làm theo gương Chúa. Amen. Thứ Năm Tuần Thánh Tại Nhà Thờ Chánh Toà Long Xuyên, Ngày 01-04-1999
Dịp Tĩnh tâm tháng này, tôi xin trình bày mấy nét chính của nội dung Công đồng Vatican II. Tôi chọn đề tài trên vì 3 lý do: Lý do thứ nhất là vì tháng vừa qua, khi nghe rao ý chỉ cầu nguyện tháng 03 in trong lịch Công giáo là: “Cầu cho mỗi người Kitô hữu cũng như các giáo hội địa phương biết luôn luôn theo tinh thần Cộng đồng Vatican II”, thì nhiều giáo dân và cả người ngoại giáo đã hỏi: Tinh thần Cộng đồng Vatican II là gì? Thực là bất ngờ nhận thấy không thiếu người, kể cả Linh mục, tu sĩ, đã không trả lời được. Lý do thứ hai là vì tháng vừa qua, một Đức Tổng Giám Mục nổi tiếng cực kỳ bảo thủ, không chịu tuân thủ Cộng đồng Vatican II đã từ trần. Đó là Đức Cha Marcel Lefèvre. Nhìn Ngài rồi lại nhìn vào chính mình ta, chúng ta nên tự xét mình, ta có thực sự tuân thủ Cộng đồng Vatican II không? Lý do thứ ba là vì tháng vừa qua, tôi nghe có một Linh mục ngoại quốc, sau khi đã tiếp xúc với một số Giám mục, Linh mục, tu sĩ và tham dự nhiều cuộc lễ tại Việt Nam đã có cảm tưởng là: Sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam rất sinh động, nhưng tiếc là chưa có bề sâu của Cộng đồng Vatican II. Ba lý do trên đây thiết tưởng đủ mạnh để thúc giục tôi nói, để thôi thúc anh chị em lắng nghe, và để mời gọi chúng ta cùng suy nghĩ. Tôi sẽ vắn gọn. Cộng đồng Vatican II đưa ra bốn đề tài chính: Đề tài thứ nhất là: HỘI THÁNH THAO THỨC VỚI SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO. Truyền giáo là bản chất của Hội thánh. Thế nhưng, sau gần 20 thế kỷ, ngay khi lúc Cộng đồng đang hợp, thì nhiều nơi trên thế giới không hề biết gì đến Tin mừng Cứu độ. Thí dụ: Trong 5 châu thì Châu Á đông dân nhất, sắp chiếm gần nữa dân số nhân loại. Nhưng hiện nay số người Công giáo chưa tới 4%. Rồi trên 5 châu hiện nay, có nhiều loại người mà người ta gọi là những thế giới chuyên môn, thí dụ, thế giới khoa học, thế giới văn học, thế giới nghệ thuật, thế giới chính trị, thế giới kinh tế; Các thế giới này hoạt động hầu như không hề biết đến Tin mừng Cứu độ. Trong tình hình như trên, Hội thánh không chỉ lo qui tụ những người đã Rửa tội, mà cũng phải lo đi rao giảng Tin mừng cho những ai chưa biết Tin mừng như lời Đức Kitô đã truyền. Khi nhận thức được tiếng gọi đó, thì bí tích Truyền chức nên được nhấn mạnh đến ý nghĩa là dụng cụ và dấu chỉ của sự sai đi rao giảng Tin mừng cho những người chưa biết Tin mừng. Do đó, Linh mục phải coi việc rao giảng Lời Chúa là Thừa tác vụ ưu tiên hàng đầu. Tình hình hiện nay kêu gọi mọi người trong Hội thánh phải thao thức đến việc truyền giáo. Tất cả mọi thành phần dân Chúa đều có trách nhiệm phục vụ cộng đoàn Hội thánh đã thành hình, đồng thời cũng có trách nhiệm xây dựng những cộng đoàn Hội thánh đang sinh ra. Đừng cho rằng: Hoàn cảnh hiện nay không thuận lợi, nên không thể nghĩ đến việc truyền giáo. Xin thưa: Hoàn cảnh hiện nay tuy khó khăn, nhưng cũng có nhiều mặt thuận lợi cho những ai có tinh thần truyền giáo, khôn khéo và năng động. Hoàn cảnh thời các Tông đồ còn khó gấp bội. Hoàn cảnh Việt Nam thời cha Alexandre de Rhodes cũng khó khăn gấp bội. Thế mà các Ngài đã hoạt động truyền giáo không ngơi nghĩ. Và kết quả không phải là nhỏ. Dù sao, câu hỏi đặt ra cho ta hôm nay là: Ta có thực sự quan tâm đến việc truyền giáo không? Đề tài thứ hai là:
HỘI THÁNH TẬP TRUNG VÀO ĐỨC KITÔ LÀ TRUNG-TÂM-ĐIỂM
Sách Tông đồ công vụ và các Thánh thư cho thấy sự thực quan trọng đó. Thế nhưng, dần dà, trung-tâm-điểm là Đức Kitô bị lu mờ. Có nơi đức tin được tập trung vào sự thuộc lòng các kinh, các chân lý đức tin và luân lý. Có nơi đức tin được tập trung vào sự vâng phục các kỷ luật chung của Hội thánh và riêng của cộng đoàn.. Có nơi đức tin được tập trung vào việc tôn sùng vị thánh này, Đấng thánh nọ. Đang khi đó, đức tin đích thực phải là tin vào Đức Kitô chiụ nạn và phục sinh. Đức Kitô không phải chỉ là gương mẫu, là Thầy dạy mà còn là chính sự sống của người tin. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống!”. Tin Đức Kitô là tham dự vào sự sống của Ngài, là hiệp thông mật thiết với Ngài, như hình ảnh cành cây với thân cây: “Ta là cây nho, chúng con là nhành!”. Tin Đức Kitô là có Đức Kitô trong mình như thánh Phaolô nói: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”. Để tập trung vào Đức kitô, chúng ta cần tăng cường cầu nguyện suy gẫm đời sống Đức Kitô, và học hỏi mạc khải của Đức Kitô. Tôi nghĩ rằng: Tín hữu nào, và cộng đoàn đức tin nào không đi vào chiều sâu của trung-tâm-điểm đó, sẽ khó tránh được suy thoái, mặc dù được sống trong những hoàn cảnh xã hội, chính trị, kinh tế thuận lợi. Dù sao câu hỏi đặt ra cho ta hôm nay là: Ta có thực sự tập trung tu đức và mục vụ của ta vào Đức kitô không?. Đề tài thứ ba là: HỘI THÁNH GỒM TOÀN THỂ DÂN THIÊN CHÚA. Trước Công đồng Vatican II người ta có thói quen nhìn Hội thánh chỉ là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và các Linh mục. Thấy cái nhìn như vậy là không đúng. Công đồng Vatican II đã xác định Hội thánh là toàn thể dân Thiên Chúa. Dân Thiên Chúa là mọi người đã được Rửa tội và tin vào Đức Kitô. Tất cả mọi người ấy đều có giá trị như nhau, đó là giá trị làm con Chúa. Tất cả mọi người ấy đều có tự do như nhau, đó là sự tự do mà Chúa Thánh Thần ban cho. Tất cả mọi người ấy đều có một ơn gọi như nhau, đó là ơn gọi nên thánh. Tất cả mọi người ấy đều có sứ mệnh như nhau, đó là sứ mệnh xây dựng Hội thánh. Tuy nhiên, trong dân Chúa phải có những thừa tác vụ, đó là các Đức Giám mục, các Linh mục, các Thầy sáu. Các vị ấy là những người phục vụ, những người được sai đi, những người nhận lãnh trách nhiệm quan trọng.. Các Ngài là những dụng cụ, những dấu chỉ. Các vị ấy cũng như toàn dân Chúa, đều phải luôn luôn trở về với Chúa. Các Ngài cũng như toàn dân Chúa đều phải trung thành, gắn bó với Phúc âm, với bí tích Thánh thể, và với Chúa Thánh Thần. Trong quan niệm mới này về Hội thánh, Công đồng đề cao vai trò giáo dân, và muốn cho vai trò giáo dân được phát huy mạnh mẽ. Cũng do quan niệm mới này về Hội thánh, Công đồng Vatican II khuyến khích tin thần đại kết giữa các Hội thánh cùng tin vào Đức Kitô và cổ võ tinh thần đối thoại với các tôn giáo khác và những người không tin. Một quan niệm như thế về Hội thánh sẽ không phù hợp với quan niệm về Hội thánh khép kín hình Kim-Tự-Tháp. Theo đó, Đức Giáo Hoàng truyền xuống cho các Đức Giám mục, các Đức Giám mục truyền xuống cho các Linh mục, các Linh mục truyền xuống cho các giáo dân. Đó là con đường mòn mà Công đồng Vatican II không còn thừa nhận. Thế nhưng, trong cách đối xử và làm việc, không thiếu người vẫn bảo vệ con đường mòn đó. Dù sao, câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm nay là: Chúng ta có xây dựng những mối dây liên đới đúng đắn trong phạm vi Hội thánh chúng ta, hợp với định nghĩa Hội thánh là dân Thiên Chúa không? Đề tài thứ bốn là: HỘI THÁNH NHẬN THỨC VỀ MỐI TƯƠNG-QUAN-MẬT-THIẾT GIỮA HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI. Hội thánh và thế giới cùng xuất phát từ một nguồn mạch, đó là Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc. Hội thánh và thế giới cùng được hướng dẫn về cùng một mục đích, đó là sống hạnh phúc do có công lý, bình an, yêu thương đoàn tụ trong gia đình một Cha chung trên trời. Hội thánh và thế giới cùng có những thành viên như nhau, đó là những con người, vừa là dân Chúa, vừa là công dân một nước. Như vậy một cách huyền nhiệm, thế giới đã thuộc về Chúa, về Đức kitô và về Hội thánh của Ngài. Do đó, mọi người trong thế giới và mọi giá trị của họ, bất cứ có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng, bất cứ thuộc tôn giáo nào đều có quyền được Hội thánh kính trọng. Hội thánh cần có liên hệ tốt với họ. Cũng vậy, các vấn đề của thế giới như nền hòa bình, sức khỏe, tình yêu, lao động, chính trị, kinh tế, văn hóa, thể thao... đều là những thực tại trần thế, làm nên một cánh đồng mênh mông của cuộc sống, mà Hội thánh không có quyền làm ngơ. Hội thánh là một mảnh của nhân loại được đặc ân có Tin mừng Cứu độ, thì Hội thánh phải đem Tin mừng ấy tưới cho cánh đồng muôn màu đó. Hội thánh phải cởi mở, dấn thân vào các thực tại trần thế. Các vấn đề cuộc sống phải được Hội thánh quan tâm. Hội thánh phải có mặt và góp phần giải quyết các vấn đề đang là những trăn trở của con người hôm nay. Không phải chỉ ra khỏi nhà thờ, người Kitô hữu mới nghĩ đến việc dấn thân như vậy, mà ngay trong các lời kinh, các bài thánh ca, cả đến phụng vụ cũng không được quên những nhịp tim đập của dân tộc mình, của đồng bào địa phương mình, với những niềm vui nỗi buồn của họ. Về điểm này, tôi thấy Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã rất cởi mở và sâu sắc. Trong dịp tiếp hàng Giáo sĩ Rôma ngày 14-2-1991 Đức Thánh Cha nói: “Hội thánh phải nhìn mình trong thế giới, và Hội thánh phải nhìn thế giới qua sứ mệnh của mình”. Trong tinh thần ấy, anh chị em và tôi phải nhìn giáo xứ và giáo phận của ta trong các tương quan với đồng bào của ta và với tổ quốc Việt Nam của ta, cũng như ta phải nhìn đồng bào và tổ quốc ta trong sứ mệnh dấn thân theo tinh thần Phúc âm của ta. Ta sống đức tin là sống “với” và sống “trong” địa phương này, đất nước này. Đức thánh Cha kêu gọi ta hãy để ý cái từ “với” và cái từ “trong”. Trên đây là những đề tài chính của Công đồng Vatican II. Tôi tóm lược lại theo nội dung trong cuốn: “Préparer aujourd'hui l'Eglise” của Đức Cha Gabriel Matagrin, Giám mục Grenoble. Tôi vẫn dùng 4 đề tài trên đây như thước đo, để đánh giá một giáo sĩ, một giáo xứ, một giáo phận. Và tất nhiên, đó cũng là những hướng đi, mà tôi cố gắng theo đuổi.
Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh và chết trên thánh giá trưa thứ Sáu tuần thánh, các môn đệ Chúa Giêsu đã sống những giờ phút thê thảm, bi đát, hãi hùng. Đi tìm Thầy, nhớ về Thầy, họ chỉ thấy một nấm mồ. Mọi hy vọng lành thánh xem ra đã tiêu tan, Sự ác đã thắng. Kiêu căng lên ngôi. Ghen ghét hận thù được ổn định. Chính trong hoàn cảnh bi đát đó, Chúa Giêsu đã sống lại, ra khỏi mồ. Chúa Giêsu đã hiện ra lúc với cá nhân, lúc với tập thể. Chính Người chủ động đến gặp họ, ngoài mọi dự đoán, khi họ đang ở trong nhà, khi họ đang đi ngoài đường. Dù với cách nào, Chúa phục sinh đã gây nên sự bỡ ngỡ và niềm vui khôn tả. Người không mang lại cho họ của cải, tiền bạc, hay lợi lộc nào trần gian. Chính họ cũng không đợi chờ những thứ đó. Điều mà Chúa Giêsu phục sinh đã mang lại cho họ, và làm cho họ sung sướng, đó là chính Người đã phục sinh. Chúa đã làm sống lại nơi họ niềm tin, niềm hy vọng, sự bình an, và tình yêu cứu độ. Đó là những quà tặng vô giá. Một chi tiết của biến cố Phục sinh đáng chúng ta chú ý, đó là tất cả những người được Chúa phục sinh tỏ mình ra, đều là những người sống bé mọn khiêm nhường. Từ Đức Mẹ Maria, cho đến các tông đồ và mấy bà đạo đức, họ đều đã cảm nghiệm thế nào là sợ hãi, tủi nhục, mong manh, yếu hèn, đổ vỡ, cô đơn, trống vắng. Một cách nào đó, họ đã nhiều lần phải chết đi chết lại trong lòng mình và trong đời mình. Thế nhưng, khi được gặp Chúa phục sinh, và khi đón nhận được ơn phục sinh, những người bé mọn đó đã trở thành những dụng cụ loan báo Tin Mừng. Họ ra đi tay không, khó nghèo, chỉ có lửa mến, đức tin, niềm hân hoan, và Thánh Thần của Chúa Kitô. Chỉ với thế thôi, họ đã khởi sự xây dựng một nền văn minh mới trên trái đất này: Nền văn minh của tình yêu Chúa Cứu Thế đã chịu nạn và đã phục sinh. Kết quả thực là tuyệt vời qua 20 thế kỷ. Những gì đã xảy ra xưa về biến cố Phục sinh, cũng đang xảy ra hôm nay. Chúng ta hãy nhìn vào thực tế cuộc đời của bản thân ta, của giáo phận ta, của Đất Nước ta. Không thiếu những trường hợp bao công trình và mơ ước tốt đã trở nên như những nấm mồ vắng lạnh. Không thiếu những nơi những lúc đầy sợ hãi, u hoài, thất vọng. Nhưng rồi, Chúa đã làm cho các sự lành được sống lại. Có thể nói biến cố Phục sinh vẫn đang tiếp tục xảy ra trong nhiều tâm hồn, trong nhiều cộng đoàn, với những hình thức khác nhau. Chắc chắn giờ đây mỗi người chúng ta đều mong ước gặp được Chúa phục sinh và đón nhận được ơn phục sinh của Người. Mong ước đó là chính đáng. Mong ước đó sẽ được thành đạt, miễn là chúng ta biết sống như mấy bà đạo đức và các tông đồ kể trong Phúc Âm hôm nay. Họ thực sự khát khao Chúa Giêsu. Họ thực sự đi tìm Chúa Giêsu. Họ thực sự tỉnh thức đợi chờ Chúa Giêsu. Họ thực sự mau lẹ từ bỏ ý riêng, làm theo lời Thiên Thần Chúa dạy. Họ thực sự coi Chúa Giêsu là Tin Mừng duy nhất của mình. Với những chia sẻ thân tình trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một lễ Phục sinh sốt sắng, một lễ Phục sinh sẽ mang lại nhiều ơn sống lại đang rất cần cho Hội thánh, cho Quê hương và cho nhân loại, nhất là cho riêng chúng ta. Vọng Phục Sinh tại Nhà Thờ Chánh Toà Long Xuyên đêm 03-04-1999
Ngày 30-4-1975 là ngày đánh dấu những sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngày đó chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Ngày đó khởi sự thống nhất Đất Nước trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải nói thiệt là ngày đó, Hội Thánh địa phương này đã rất dao động. Rất nhiều hoang mang bàng hoàng, rất nhiều lo âu. Chính trong hoàn cảnh đó, tôi đã được thụ phong Giám mục và được bổ nhiệm làm Phó Đức Cha Micae trong trọng trách lèo lái giáo phận Long Xuyên. Những ai trong Hội Thánh địa phương đã từng sống thực tế ngày 30-4-1975 chắc sẽ rất thông cảm với tôi, khi tôi nói rằng: Tôi nhận chức Giám mục và sự bổ nhiệm ngày 30-4-1975 là nhận một thánh giá rất nặng. Với thánh giá nặng trên vai, tôi đã chỉ quan tâm đến một điều, đó là tìm sự thực về thánh ý Chúa: Đâu là sự thực về thánh ý Chúa trong việc giới thiệu Đức Kitô giữa những chuyển biến mới. Đâu là sự thực về thánh ý Chúa trong việc làm sáng danh Chúa giữa nền văn hoá mới. Đâu là sự thực về thánh ý Chúa trong việc tìm cho Hội Thánh địa phương một chỗ đứng giữa xã hội mới. Đâu là sự thực về thánh ý Chúa trong việc góp phần nâng cao cuộc sống con người Việt Nam và trong việc góp phần giúp cho Đất Nước được an hoà an lạc. Khi đang thao thức đi tìm những sự thực về thánh ý Chúa như vậy, tôi thấy thánh ý Chúa lại là: Tiên vàn Hội Thánh địa phương và chính bản thân tôi phải được đổi mới, phải được tái-phúc-âm-hoá, phải được tái sinh. Mọi kế hoạch mục vụ và truyền giáo phải khởi đi từ đó. Tôi vâng ý Chúa như trên. Dần dần tôi thấy trong Hội Thánh địa phương xuất hiện ba tinh thần đạo đức sau đây: Một là tinh thần người con hiếu thảo đối với Thiên Chúa là Cha. Tinh thần này có đặc điểm là khiêm nhường tuân phục ý Chúa Cha. Hai là tinh thần người môn đệ Đức Kitô. Tinh thần này có đặc điểm là đi theo Đức Kitô, thực thi điều răn yêu thương, mà Đức Kitô truyền lại, với sự dấn thân phục vụ cứu độ con người. Ba là tinh thần tình nghĩa anh em của những người cùng là con Chúa. Tinh thần này có đặc điểm là hiệp nhất trong tình yêu tái sinh của Chúa Thánh Thần. Sau 24 năm cuộc đời Giám mục, cho đến hôm nay, tôi vẫn thấy việc đào tạo chính mình và nội bộ Hội Thánh địa phương là hết sức quan trọng, luôn luôn quan trọng. Phải tiếp tục đào tạo, phải thường xuyên đào tạo. Trong quá trình đào tạo, một điều nên chú ý là phải dứt khoát xác định Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa do Đức Kitô mặc khải trong Phúc Âm, chứ không phải một Thiên Chúa được tạo ra do truyền thống sai lầm, do dư luận vô trách nhiệm, hoặc do chính con người dốt nát tội lỗi của chúng ta. Điều xác định này đòi hỏi chúng ta phải học hỏi Phúc Âm nhiều hơn, phải tập sống Phúc Âm nhiều hơn. Ngày 30-4-1999 rất khác với ngày 30-4-1975. Hôm nay có nhiều đổi mới, nhiều triển vọng mới, nhưng cũng có những thách đố mới. Chính vì thế, mà khi nhìn về phía trước, tôi thấy việc đào tạo chính mình sẽ cần được nghiên cứu thêm, sao cho đáp ứng với thời điểm mới. Tôi coi đây là một sự thực về thánh ý Chúa. Với cái nhìn trên đây, tôi mừng kỷ niệm ngày thụ phong Giám mục của tôi với tâm tình cảm tạ và phó thác, để cùng với cộng đoàn thân yêu lại lên đường, thực thi thánh ý Chúa. Kỷ niệm 24 năm thụ phong Giám Mục tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 30-04-1999
Nhân dịp kỷ niệm ngày thụ phong Giám mục của tôi (30-04-1975), tôi xin chia sẻ về một ơn quan trọng, mà mọi người mục tử, dù là giám mục, dù là linh mục, đều phải hết sức quan tâm. Vì lý do sức khoẻ, tôi xin chia sẻ, dựa theo kinh nghiệm, chứ không dựa theo nghiên cứu. Hy vọng sự chia sẻ này, tuy nhỏ bé đơn sơ, cũng sẽ được coi như một sợi dây hiệp thông, để ca ngợi Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ơn mà tôi muốn nói ở đây là ơn tái sinh. Diễn tả ơn tái sinh. Ơn tái sinh có thể được diễn tả bằng hai yếu tố này: Yếu tố thứ nhất là sự xa lìa những gì tiêu cực, như tội lỗi, sai lầm, những tác hại tâm lý do các vết thương bởi các tiêu cực gây ra trong ta, và các khuynh hướng dẫn ta tới tiêu cực. Yếu tố thứ hai là sự đón nhận sự sống mới, sự sống đời đời. "Sự sống đời đời là: nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thực duy nhất, và Đấng Chúa Cha sai là Đức Kitô" (Ga 17,3). Trong ơn tái sinh, sự nhận biết này sẽ không ở trong lãnh vực lý thuyết, nhưng trong lãnh vực sống động thực sự. Sự sống Thiên Chúa tràn vào linh hồn, thấm nhập vào các tầng lớp tâm linh, giúp cho linh hồn cảm nhận được hầu như trực tiếp Thiên Chúa là tình yêu, một thứ tình yêu hết sức lạ lùng. Nếu gọi tình yêu ấy là tạo dựng, cứu độ, thánh hoá, hay là gì gì hết sức tốt đẹp, thì mọi thứ gọi đó vẫn còn quá yếu so với sự thực. Gặp gỡ tình yêu đó, linh hồn sẽ tự nhiên thấy Thiên Chúa là tất cả cho mình. Cùng với sự tái sinh vào sự sống Thiên Chúa, chúng ta sẽ được tái sinh vào nhiều thứ khác của Chúa, như: Tái sinh vào Lời Chúa, nhờ đó, chúng ta nếm được Lời Chúa là Lời ban sự sống đời đời. Tái sinh vào ý Chúa, nhờ đó, chúng ta nhận thấy được sự tuân phục ý Chúa chính là con đường duy nhất để nên thánh. Tái sinh vào tâm tình Chúa, nhờ đó, chúng ta được chia sẻ những thao thức của Chúa về Nước Trời, về phần rỗi các linh hồn. Tái sinh vào cái nhìn của Chúa, nhờ đó, chúng ta sẽ nhìn đời ta, sứ mệnh của ta, Hội thánh của ta, Đất Nước của ta với những cái nhìn mới, phù hợp với Phúc Âm. Tái sinh vào sự phân định của Chúa, nhờ đó, chúng ta sẽ biết phân định thiện ác, điều chính điều phụ, việc nên làm việc chưa nên làm. Tái sinh vào trái tim Chúa, nhờ đó, chúng ta biết cảm thương thân phận con người, số phận Hội thánh, những nỗi niềm u uất của biết bao người sống xa chân lý và tình yêu cứu độ. Tái sinh vào sự bình an của Chúa, nhờ đó, chúng ta nếm hưởng phần nào hạnh phúc đời đời ngay tự đời này. Ơn tái sinh như vừa được diễn tả sẽ không được thực hiện một lần, nhưng dần dần. Một phần cũng tùy ở thiện chí và khả năng đón nhận của mỗi người chúng ta. Đón nhận ơn tái sinh. Để đón nhận ơn tái sinh, chúng ta cần có thái độ khao khát, khó nghèo và khiêm nhường. Khao khát là hăm hở tìm Chúa, chờ đợi Chúa, chỉ vì Chúa là tất cả cho ta, chỉ vì ta muốn thuộc trọn về Chúa. Nghèo khó là nhận thức mình yếu đuối hèn mọn. Mình chẳng là gì, mình chẳng có gì, mình chẳng đáng gì. Khiêm nhường là sẵn sàng chấp nhận mọi sự Chúa muốn. Chúa muốn tái sinh ta lúc nào, cách nào, thì tùy ý Chúa. Phần chúng ta, chúng ta sẵn sàng cộng tác vào kế hoạch của Chúa. Người mục tử cộng tác vào kế hoạch tái sinh của Chúa bằng nhiều việc. Mấy việc sau đây được kể là cần thiết: Để hiểu biết Chúa, chúng ta phải quan tâm đến việc học hành những gì thuộc về Chúa. Nên học thêm các môn Kinh Thánh, Thần học, Giáo hội học, Giáo phụ học, Triết học, Công đồng, Tu đức. Để hiểu biết ý Chúa trong mục vụ và truyền giáo, chúng ta phải để ý đến các chuyển biến trong các tương quan giữa Phúc âm và xã hội, môi trường, con người, khoa học, văn hoá, chính trị, tâm lý, v.v. Không ai dạy về Chúa và ý Chúa hợp với sự thực cho bằng chính Chúa, nên đang khi học ở sách báo, thời sự, chúng ta luôn luôn sống tinh thần cầu nguyện. Hãy học ở các môn khoa, nhưng hãy biết hỏi Chúa Thánh Thần. Ngài là thần linh, soi đường chỉ lối. Để mến Chúa, chúng ta không có cách nào khác ngoài sự đón nhận lửa yêu mến của Chúa vào lòng chúng ta. Chúa sẽ đốt lên lửa yêu mến đó trong lòng ta bằng nhiều cách trong nhiều trường hợp. Thông thường là khi chúng ta dâng thánh lễ một cách sốt sắng, khi chúng ta khiêm tốn cầu nguyện, khi chúng ta thực tâm sám hối, khi chúng ta sống khổ chế từ bỏ mình, khi chúng ta làm việc bác ái, tận tụy chu toàn bổn phận. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn về người gieo giống. Trong dụ ngôn đó có mô tả các loại đất khác nhau. Các loại đất đó có thể áp dụng ở đây. Nếu chẳng may lòng ta là đất sỏi đá, là đất gai góc, thì ơn tái sinh sẽ không vào được lòng ta. Người mục tử tốt lành là người biết đón nhận ơn tái sinh, để càng ngày càng trở nên người mục tử mới, theo thánh ý Chúa. Với ơn tái sinh Chúa ban cho hầu như thường xuyên, người mục tử, khi biết đón nhận, sẽ biết ứng xử với những chuyển biến của thời cuộc. Và, nếu người mục tử tốt lành có ích cho cộng đoàn trong hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam lúc này là người làm được việc và được làm việc, thì ơn tái sinh do Chúa Thánh Thần sẽ mang theo nhiều ơn khôn ngoan và ơn tiên liệu, đó là những ơn người mục tử tại Việt Nam hôm nay rất cần đến. Trao chuyển ơn tái sinh. Người mục tử, khi đã có kinh nghiệm về ơn tái sinh nơi chính mình, sẽ dễ xác tín rằng: Nhiệm vụ mục vụ và truyền giáo của mình phải chú trọng đặc biệt đến việc làm sao cho mọi người thuộc về mình đón nhận được ơn tái sinh. Cha Piô, vị linh mục dòng Capucin, được nổi tiếng khắp thế giới, không phải chỉ vì ngài được in 5 dấu thánh, nhưng nhất là vì ngài là người trao chuyển ơn tái sinh cho rất nhiều người. Ngài thực hiện việc đó mỗi ngày một cách kỳ diệu lạ lùng. Bằng cách nào? Thưa bằng đời sống cầu nguyện và khổ đau hiến tế, bằng thánh lễ của ngài thực sự làm sống động lại trong ngài cuộc thương khó của Chúa Giêsu, bằng việc ngài ngồi toà giải tội, bằng sự ngài phục vụ yêu thương theo bổn phận bề trên trao phó. Một chi tiết thiết tưởng cũng nên nhắc lại ở đây, đó là ngài bị ma quỷ quấy phá đủ cách. Có khi satan đánh đập ngài, đe doạ ngài, và xúi người ta hiểu lầm ngài. Chứng tỏ rằng những người trao chuyển ơn tái sinh sẽ bị ma quỷ coi là kẻ thù. Họ sẽ phải hứng chịu vô vàn thử thách. Gương Cha Piô cho chúng ta thấy những người mục tử được ơn tái sinh và chăm lo cho nhân loại được ơn tái sinh sẽ làm ích vô vàn cho cộng đoàn mình, cho Hội thánh, cho quê hương, cho toàn thế giới. Điều khởi đầu trong việc trao chuyển ơn tái sinh là thấy được sự cần thiết và cấp bách phải tái sinh cộng đoàn của mình. Người nào, nhóm nào, xóm nào cần phải được ưu tiên tái sinh. Nhiều khi, chúng ta quá lạc quan về cộng đoàn của mình. Thấy một vài khởi sắc bên ngoài, chúng ta vội tưởng tình hình đạo đi lên, sẽ đi lên và mãi mãi đi lên. Xin hãy nhìn lại lịch sử các Giáo hội địa phương. Đã có thời, các giáo đoàn hồi các thánh tông đồ xưa đã lên rất mau, đã phát triển rất mạnh. Lúc đó, nhiều người tưởng rằng: Các giáo đoàn ấy, vì được tưới bằng chính máu của Chúa Giêsu và mồ hôi các thánh tông đồ, sẽ dứt khoát phải phát triển tốt đẹp mãi mãi. Nhưng nay còn gì? Đã có thời, từng trăm giáo phận đã được thiết lập ở Phi Châu thời các thánh giáo phụ, với từng triệu dân nô nức theo đạo Công giáo. Lúc đó, nhiều người tưởng rằng: Chẳng mấy chốc toàn thể lục địa Phi Châu sẽ công giáo hoá. Nhưng nay còn gì? Đã có thời, các nước Công giáo lâu đời ở Âu Châu đã rất ngoan đạo. Từ quê đến thành, hầu như toàn dân công giáo đều đi lễ Chúa nhật, và hầu như các nước đó đều vâng phục mọi chỉ dẫn của huấn quyền Hội thánh. Nhưng nay còn gì? Những kinh nghiệm trên đây cho thấy: Đạo ở mỗi địa phương có thể xuống dốc và suy sụp, nếu sự tái sinh không được đặt thành vấn đề thường xuyên. Đừng đặt quá trễ. Lạy Chúa, con tin cậy ở Chúa. Chỉ có Chúa mới làm cho con được tái sinh, thành thụ tạo mới. Con xin phó thác mình con và đời con cho Chúa. Amen. Bài nói chuyện với các Linh mục tu sĩ, tháng 5-1999
Đã từ lâu, tôi cố gắng tìm xem trên đời này, cái gì có khả năng làm sáng danh Chúa hơn cả, trên đời này cái gì là điều thánh ý Chúa muốn chúng ta thực hiện hơn hết để làm chứng cho Chúa. Khi tôi cố gắng tìm như vậy, tôi đã lắng nghe và quan sát. Tôi đã nghe và ghi nhận nhiều ý kiến. Có ý kiến cho rằng: Công trình có khả năng làm sáng danh Chúa hơn cả là xây dựng thánh đường, đài thánh, tháp chuông, khuôn viên nhà thờ, sao cho đẹp đẽ, nổi nang, thu hút. Có ý kiến cho rằng: Công trình có sức làm sáng danh đạo là tổ chức các cuộc lễ đạo, sao cho linh đình, quy tụ được số đông khác thường, có nhiều khách sang tham dự, trình diễn được nhiều vẻ đẹp tinh thần và vật chất tăng uy tín cá nhân và địa danh của mình. Có ý kiến cho rằng: Công trình có sức làm sáng danh Hội Thánh là đào tạo được cộng đoàn giáo xứ, sao cho có nề nếp, kỷ cương, nhiệt thành với nhà thờ, đề cao đức tin, bất chấp trở ngại khó khăn. Có ý kiến cho rằng công trình có sức làm sáng danh Công giáo là huấn luyện những người công giáo, để họ có trình độ học thức cao, có khả năng phục vụ tốt, dám nói sự thực, cho dù sự thực mình nói ra sẽ làm mất lòng nhiều người. Cùng với việc lắng nghe ý kiến, tôi cũng đã để ý quan sát. Khi quan sát, tôi thấy tận mắt thế này: Nhiều người nhiều nơi đã bỏ ra rất nhiều thì giờ, rất nhiều sức lực, rất nhiều lo âu vất vả cho những việc xây cất, cho những việc tổ chức, cho những việc học hành, cho những việc chạy đây chạy đó, cho những kế hoạch này nọ mang tính cách đấu tranh cạnh tranh. Tôi thấy tất cả những ý kiến trên đây cũng như các cố gắng thực hiện những ý kiến đó đều có những lý do của nó. Nhưng tất cả sẽ rất thiếu sót, nếu không ý thức đầy đủ và rõ rệt về Lời Chúa hôm nay. Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay (Ga 6 51-58) mặc khải thánh ý Chúa về công trình có khả năng làm sáng danh Chúa hơn hết. Tôi xin lược tóm như sau: Công trình làm sáng danh Chúa, mà Chúa muốn có, mà Chúa chấp nhận, đó là chính những con người sống động, khát khao sự sống đời đời. Họ giải quyết sự khát khao đó bằng việc tin vào Đức Kitô và đón nhận Đức Kitô. Đức Kitô là bánh ban sự sống Thiên Chúa. Sự sống Thiên Chúa là tình yêu hy sinh, tha thứ, phục vụ, hiến dâng, chia sẻ. Biểu tượng tình yêu đó là Chúa Giêsu khó nghèo trong máng cỏ Belem, là Chúa Giêsu hy sinh chịu đóng đinh trên thánh giá, là Chúa Giêsu khiêm tốn ẩn mình trong hình bánh rượu của phép Thánh Thể. Xin anh chị em đọc đi đọc lại Phúc âm thánh Gioan, và xin suy gẫm sâu những đoạn nói về Đức Kitô là Đấng ban sự sống Thiên Chúa, và sự sống Thiên Chúa là tình yêu. Những đoạn Phúc âm ấy, khi được nhập tâm, sẽ giải thoát chúng ta khỏi những sai lầm về mọi dự kiến làm sáng danh Chúa vẫn còn khá phổ biến trong Hội Thánh Việt Nam. Hôm nay, lúc này, với cái nhìn thấm nhuần Lời Chúa của thánh lễ Mình và Máu Đức Kitô, tôi gặp gỡ anh chị em giáo xứ Bò Ót này. Tôi thấy số người khao khát sự sống đời đời là hết sức đông. Tôi thấy phần đông anh chị em đều muốn giải quyết sự khao khát đó bằng cách tin vào Đức Kitô và đón nhận Đức Kitô là Đấng ban sự sống Thiên Chúa. Và tôi cũng thấy hầu như tất cả anh chị em đều ý thức rằng sự sống Thiên Chúa là tình yêu. Tuy nhiên, khi tôi tìm xem những ai có sự sống Thiên Chúa là tình yêu như gương Chúa Giêsu ở hang đá Belem, ở trên thánh giá, ở trong hình bánh, thì thú thực là tôi chưa thấy rõ, chưa thấy nhiều. Tôi xin nói thật như vậy, để anh chị em và chính tôi phải khiêm nhường hơn, phải cố gắng sống Lời Chúa một cách trung thực hơn, cụ thể hơn. Có như vậy, chúng ta mới là những công trình làm sáng danh Chúa, mà Chúa trông chờ. Xin Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức để chúng ta thực thi lời Chúa hôm nay. Lễ Thêm Sức tại Bò ót, ngày 6-6-1999
Kính gửi các linh mục, tu sĩ, giáo dân giáo phận Long Xuyên và các bạn hữu xa gần Tôi hân hoan chia sẻ tin vui: Ngày 18 tháng 6 năm 1999, Toà Thánh chính thức thông báo: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm hai linh mục Long Xuyên vào những trọng trách mới. Linh mục Giuse Trần Xuân Tiếu, 55 tuổi, Tổng Đại Diện, làm Giám Mục Phó Giáo phận Long Xuyên, với quyền thế vị. Linh mục Giuse Ngô Quang Kiệt, 47 tuổi, Thư Ký Toà Giám Mục, làm Giám Mục Chánh Toà Giáo phận Lạng Sơn. Chính phủ Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã đồng ý với những bổ nhiệm này. Đây là những sự kiện đặc biệt của Giáo Hội địa phương. Dịp này, chúng ta sẽ sống Tin Mừng thế nào? Tôi xin chia sẻ mấy gợi ý như sau, giúp chúng ta suy gẫm, và cầu nguyện. 1-- Một hình ảnh người đứng đầu Giáo Hội địa phương. Đọc Tông đồ công vụ và các thánh thư, chúng ta thấy các môn đệ Đức Kitô phụ trách các cộng đoàn là những bản lãnh có nhiều khác biệt, nhưng tất cả đều có 4 nét chung: a-- Các Ngài dâng phó cuộc đời cho danh Đức Kitô (Cv 15, 25-26). b-- Các Ngài diễn lại lịch sử Đức Kitô trong chính cuộc đời mình, theo cách thức riêng của mình (Cv 19, 11-12), nhất là trong sự cảm thương thân phận con người đau khổ. c-- Các Ngài đi về phía trước với một dự án về hướng đi của Giáo Hội địa phương, mà các Ngài phụ trách. Dự án quan trọng nhất là loan báo Tin Mừng (2Tim 4, 17-18, Cv 28, 23-31). d-- Các Ngài ngoan ngoãn vâng phục Thánh Linh, hợp tác với Thánh Linh: + Trong những sáng tạo để làm nên các tạo vật mới (2 Cor 5, 17). + Trong những công trình xây dựng các liên đới tốt đẹp (Rm 8,16). + Trong những đào tạo đi vào chiều sâu (Rm 8,6; Ga 5,22). + Trong những khám phá các sự lạ lùng Chúa làm nơi những người ngoài Hội Thánh (Cv 10, 44-46; Cv 11, 15-17). Những nét trên đây về người môn đệ Đức Kitô đứng đầu cộng đoàn sẽ thanh luyện và giải thoát não trạng chúng ta khỏi những ảo tưởng về quyền chức thánh. Hiểu rõ những đòi hỏi cao cả trên đây, chúng ta sẽ biết chia sẻ trách nhiệm những người đứng đầu cộng đoàn. Sự đi lên hoặc sự đi xuống của cộng đoàn một phần lớn tuỳ thuộc ở những người đứng đầu của họ có cố gắng thực hiện 4 điều kể trên hay không. 2-- Một hình ảnh thánh lễ thụ phong. Lễ Phong chức hai Tân Giám Mục sẽ được tổ chức gọn nhẹ tại Nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, 29-6-1999. Lễ này được thực hiện theo hướng đi tới năm Thánh 2000. Thông điệp “Thiên Niên Kỷ thứ Ba đang tới” (Tertio Millennio Adveniente) của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nêu lên nhiều điểm. Ở đây tôi lựa chọn 4 điểm thích hợp nhất sẽ hướng dẫn việc tổ chức lễ thụ phong. a-- Cần tránh những gì gọi là để làm chứng cho chân lý đức tin nhưng lại trở thành phản chứng và gương mù (số 33). Tôi muốn nói tới những hình thức lễ lạy biến chất, nặng về phô trương trình diễn, lễ hội hơn là lễ thánh, chú trọng đến gặp gỡ nhau hơn là gặp gỡ Đức Kitô, hoặc trình bày bộ mặt tôn giáo chỉ như một tổ chức, nhưng thiếu vắng Tin Mừng, hoặc lợi dụng thần thánh để tìm tư lợi, tôn sùng cá nhân quyền chức. b-- Diễn tả sự hiệp thông trong nội bộ và hiệp nhất với Đức Thánh Cha, Đấng nhân danh Chúa bổ nhiệm và sai đi(số 47). c-- Tập trung vào việc tuyên xưng Thiên Chúa là tình yêu, đề cao đức ái(số 50). d-- Tạo bầu khí cầu nguyện và tình nghĩa liên đới với những người thiếu thốn (số 51). Yếu tố địa phương cũng đáng quan tâm. Giáo phận Long Xuyên ở giữa một địa phương có nhiều tôn giáo, trong đó có tôn giáo mạnh về tinh thần dân tộc, tinh thần tu thân, tinh thần từ thiện, phát triển cộng đồng. Đây là những giá trị cao đẹp, góp phần không nhỏ vào văn hoá đồng bằng sông Cửu Long. Nếu Công giáo địa phương này, ngoài những giá trị riêng, cũng còn mạnh về những giá trị văn hoá địa phương, thì cộng đoàn chúng ta sẽ là một hiện diện thân thương, được chấp nhận và giúp đỡ giữa đại gia đình địa phương mến yêu này. Những điểm trên đây, khi được quan tâm tốt trong một thánh lễ, sẽ làm cho cuộc lễ được sốt sắng, phong phú về các giá trị thiêng liêng, gây dư âm về sự sống dồi dào đến từ Thiên Chúa. Nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên tương đối nhỏ, sân nhà thờ hẹp, nên số người dự lễ phong chức sẽ phải tự hạn chế. Để bù lại, tinh thần cuộc lễ sẽ đến từng họ đạo, từng gia đình trong giáo phận một cách sâu rộng. Từ ngày 22-6-1999 trở đi, tất cả các họ đạo trong giáo phận sẽ sốt sắng làm tuần bảy ngày tạ ơn và cầu nguyện. Xin Chúa ban cho giáo phận nói chung và hai Tân Giám Mục nói riêng được tinh thần của hai thánh tông đồ Phêrô Phaolô, luôn biết lắng nghe Đức Kitô, luôn đi theo Đức Kitô, luôn làm chứng cho Đức Kitô, nhất là bằng sự thực thi điều răn mới của Người. 3-- Một hình ảnh Giáo phận Lạng Sơn, nơi vị Tân Giám Mục trẻ nhất trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam được sai đến phục vụ. Giáo phận Lạng Sơn thuộc vùng thượng du, gồm tỉnh Lạng Sơn, tỉnh Cao Bằng và một phần tỉnh Hà Giang. 80% đất đai là rừng núi. Phần lớn dân cư là các dân tộc ít người. Số giáo dân dưới 5.000 người. Hầu hết là những người từ đồng bằng lên đó lập nghiệp đã nhiều năm nay. Họ sống rải rác. Nhiều tập tục. Nhiều khuynh hướng. Số giáo xứ là 16. Nhiều giáo xứ không còn nhà thờ, nhà xứ. Nhiều giáo xứ tuy còn nhà thờ, nhưng đã đổ nát. Có những giáo xứ chỉ còn vài chục giáo dân. Toàn giáo phận hiện nay chỉ có một linh mục trên 95 tuổi. Trong hoàn cảnh khó khăn, đa số các thành phần dân Chúa vẫn trung thành với đức tin theo truyền thống gia đình, tập thể. Vấn đề hôm nay phải sớm giải quyết là tạo nên một bầu khí hiệp nhất trên cơ sở Phúc Âm và Công Đồng Vaticăng II. Rất cần một làn gió tu đức truyền giáo mới và một phong cách mới của chứng nhân Tin Mừng. Tại địa bàn bao la này các giá trị về Nước Trời đang đợi được khám phá với cái nhìn cởi mở rực sáng lửa mến của Chúa Thánh Thần. Phải chăng đời sống đạo cũng nên được tân phúc âm hoá. Cần có thêm nhiều linh mục tu sĩ, đó là nhu cầu xem ra hợp lý, khẩn thiết và đều khắp. Nhưng phải chăng hễ có thêm nhiều linh mục tu sĩ thì tất nhiên Công giáo sẽ phát triển, nhất là chắc chắn số người sống Tin Mừng sẽ tăng lên? Lịch sử không chứng minh được điều đó. Cần suy nghĩ xa hơn. Nhìn hình ảnh Giáo phận Lạng Sơn, tự nhiên tôi nhớ lại tình hình nhiều Giáo Hội địa phương, mà tôi được nghe trong Thượng Hội Đồng Các Giám Mục Á Châu tại Rôma năm rồi(1998). Như Giáo Hội tại Trung Quốc, tại A-rập Sê-út, tại Pakistan, tại Myanmar. Nhiều tình hình rất đáng được nghiên cứu một cách đặc biệt và toàn diện. Trước những tình hình như thế này, Kinh Thánh dạy chúng ta hãy có một lựa chọn khôn ngoan. Sách Ông Gióp nêu lên lựa chọn đó. Đừng cố tìm những giải nghĩa hợp lý trong lý thuyết. Cũng đừng gắng tìm những giải pháp ưu việt cũng chỉ trong lý thuyết. Nhưng hãy bước vào thực tế lịch sử. Tại đây lúc này, với tất cả thực tại hiện có, tôi có thể làm gì để tận hiến cho Thiên Chúa của tôi. Tại đây lúc này, tôi sẽ dấn thân thế nào để phục vụ đồng bào của tôi bằng một tình yêu tối đa chân thành nhất. Rồi hãy nhảy vào dòng lịch sử một cách can đảm và hãy hoạt động bắt đầu từ bao nhiêu điều tốt lành sẵn có ở địa phương đáng trân trọng này. Luôn luôn với tình yêu thương chan hoà dành cho con người (Mc 8,2) và niềm tin tưởng phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa tình yêu. Trong tinh thần cầu nguyện và tỉnh thức (Lc 21, 36). Giáo phận Long Xuyên là một giáo phận biên giới phía Nam sẽ hỗ trợ Giáo phận Lạng Sơn là một giáo phận biên giới phía Bắc bằng tất cả những khả năng của mình. 4-- Một hình ảnh mới của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Tất nhiên, mỗi Giám Mục đều được chỉ định phục vụ một Giáo phận nhất định. Nhưng mỗi Giám Mục đều là người kế vị các thánh tông đồ. Mọi Giám Mục tại chức đều là thành viên của Hội Đồng Giám Mục Giáo Tỉnh và Toàn quốc. Sự đóng góp của mỗi thành viên trong Hội Đồng Giám Mục Giáo Tỉnh và Toàn quốc là rất quan trọng. Trong nhiều trường hợp, các Giám Mục trẻ, các Giám Mục phụ trách các giáo phận nhỏ, khi có năng lực, sẽ có nhiều cơ hội giúp ích chung cho Hội Đồng Giám Mục Giáo Tỉnh và Toàn quốc. Tôi không loại trừ hai người môn đệ Đức Kitô, Tân Giám Mục của chúng ta, ra khỏi hy vọng chính đáng ấy. Tôi coi sự bổ nhiệm hai Tân Giám mục từ Long Xuyên này là một dấu chỉ đáng suy nghĩ về thời đại mới. Thời đại này đòi Giáo Hội địa phương phải chú trọng nhiều đến việc đào tạo nhân sự lãnh đạo. Để bất cứ tình huống nào xảy tới, Giáo Hội địa phương đã có sẵn những nhân sự mới thích hợp. Thời đại này cũng cần Giáo Hội địa phương phải khôn khéo và tích cực hỗ trợ công việc ngoại giao của Tòa Thánh trong việc bổ nhiệm giám mục, nhất là khi quốc gia rất quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền và giữ quân bình giữa các thế lực tôn giáo trong nước và trong khu vực. Sự một linh mục trẻ của Long Xuyên, miền cực Nam, được Toà Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Lạng Sơn, miền cực Bắc, và được Nhà Nước Việt Nam chấp thuận mau lẹ là một biến cố có ý nghĩa lớn. Hy vọng từ nay các ranh giới cục bộ địa phương sẽ nhẹ đi, mở đường tiến tới một chân trời ích chung không ranh giới. Các ranh giới hẹp hòi vẫn còn tồn tại đó đây trong lòng dân tộc và cả trong lòng nội bộ Hội Thánh Việt Nam. Nhiều người công giáo vẫn để ý đến tư lợi hơn để ý đến lợi chung Hội Thánh. Hoặc chỉ để ý đến lợi ích trước mắt của Hội Thánh mà không để ý đến lợi ích sâu xa của Nước Trời. Chúng ta phải cố vượt qua. Và như thế, cùng với các vị Tân Giám Mục mới được bổ nhiệm trong những năm tháng vừa qua, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đang được thêm nhiều sức sống mới, dần dần mang tầm vóc mới. Hy vọng sẽ có nhiều khả năng phục vụ mới, thích hợp với thời điểm mới có nhiều chuyển biến quan trọng trong đạo ngoài đời, một thời điểm mà Công Giáo tại Á Châu, đặc biệt là tại khu vực Đông Nam Á, đang và sẽ gặp nhiều thách đố lớn. Nhìn vào Hội Đồng Giám Mục Việt Nam với các thành viên cũ mới, tôi thấy rất cần kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô mà cầu nguyện cho sự hiệp nhất trưởng thành, nhiệt thành và chân thành trong Hội Thánh Việt Nam, thao thức với ơn đổi mới, hướng về Nước Trời. “Xin cho tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,21) Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, chúng con chúc tụng Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con. Long Xuyên, ngày 19-6-1999
Trong thánh lễ, trước phần chia sẻ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, vị chủ tế cầm Mình Thánh, giơ lên và nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”. Những lời trên đây diễn tả một niềm tin, một tâm tình tuyên xưng. Người đầu tiên đã nói những lời đó là thánh Gioan Baotixita. Ngài nói mấy lời ấy để giới thiệu Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa hằng sống và cũng chính là Thiên Chúa làm người. Những lời này nói lên một chân lý rất khác với não trạng tôn giáo thời đó. Thời đó, qua những gì được nghe, được học về Chúa, người ta thường chỉ hiểu Chúa như một vua cao sang, một chúa quyền năng, một đấng thống trị, một thẩm phán thưởng phạt. Đó là chân lý phải tin. Từ chân lý này phát xuất ra hình ảnh đạo Chúa mang chiều hướng chinh phục, chiến thắng, quyền lực, đối kháng, loại trừ. Nay, Gioan Baotixita giới thiệu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa với một hình ảnh rất mới: “Đây Chiên Thiên Chúa”. Chiên là hình ảnh hiền lành, khiêm nhường. Hơn thế nữa, Chiên Thiên Chúa còn tự nguyện hy sinh gánh tội nhân loại, tự nguyện hy sinh chịu chết thay cho nhân loại, tự nguyện mang mọi khổ đau của nhân loại, như một hiến lễ tình yêu. Chiên Thiên Chúa là biểu tượng tình yêu, đầy cảm thương, đầy hy sinh, từ bỏ chính mình, để cứu độ nhân loại. Ngay sau đó, Đức Kitô đã đến, đã sống và đã chết đúng như Gioan Baotixita đã giới thiệu trước. Chính vì vậy, Đức Kitô đã trở nên Tin Mừng. Tôi nhìn Ngài là Tin Mừng yêu thương tôi. Tôi tin Ngài là Tin Mừng cứu độ tôi. Tôi đón nhận Ngài là Tin Mừng đem lại hạnh phúc cho tôi. Để cho Đức Kitô là Tin Mừng đích thực được đề cao, thánh Gioan Baotixita đã chủ ý tự hạ, “Tôi phải bé nhỏ lại, để Đức Kitô được nâng lên”. Đó là chủ trương của Gioan Baotixita. Và Ngài đã sống đúng với chủ trương mình đã chọn. Hôm nay, lễ thánh Gioan Baotixita, chúng ta đối chiếu Giáo hội chúng ta, cộng đoàn chúng ta và chính bản thân chúng ta với thánh Gioan Baotixita. Khi đới chiếu, tôi thấy có nhiều điều đáng mừng, đáng tạ ơn Chúa, và cũng có nhiều điều đáng lo ngại, đáng ăn năn sám hối. Điều đáng mừng nhất là có nhiều nơi, nhiều người đã và đang đề cao Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ. Họ đề cao bằng rao giảng đức ái, bằng chính nếp sống cảm thông hy sinh chia sẻ, bằng cả cái chết như một lễ tế của mình. Điều đáng lo ngại nhất là có nhiều người, nhiều nơi vẫn chỉ tuyên nhận bề ngoài hình thức Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ, nhưng trong lòng và thực tế đời sống vẫn đi tìm những tin mừng cứu độ ở quyền chức, tiền của, danh vọng và thú vui ích kỷ phù du. Xin Chúa thương ban cho Hội thánh chúng ta, họ đạo chúng ta, chính bản thân chúng ta được ơn trở về với Tin Mừng đích thực. Amen. Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, Long Xuyên, ngày 24-06-1999
Việc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm hai linh mục Long Xuyên làm Giám Mục để phục vụ hai giáo phận biên giới là một biến cố lớn có ý nghĩa. Lễ phong chức Giám Mục hôm nay trùng với lễ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô lại thêm ý nghĩa cho biến cố này. Tôi coi đây là một sứ điệp mục vụ cuối thế kỷ XX mà Chúa gởi cho Hội Thánh Việt Nam, cho giáo phận Long Xuyên và cách riêng cho hai Tân Giám Mục. Chúng tôi đón nhận sứ điệp này và đọc sứ điệp này trong ánh sáng và lửa yêu mến của Chúa Thánh Thần. Tôi xin phép chia sẻ ý chính của sứ điệp: đó là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ của Ngài: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần… Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Lời trên đây là lời sai đi. Với lời đó, xưa Chúa Giêsu sai các tông đồ đi. Với lời đó, hôm nay Chúa Giêsu sai hai Tân Giám Mục đi. Hãy đi làm chứng cho Đức Kitô đến tận cùng trái đất. Tận cùng trái đất là các ranh giới tận cùng về địa lý, các vùng sâu vùng xa, các vùng biên giới. Tận cùng trái đất là các ranh giới tận cùng về thời gian, cho đến tận cùng ngày, tận cùng tháng, tận cùng năm, tận cùng thế kỷ. Tận cùng trái đất là ranh giới tận cùng về thân phận con người, như các lớp người cùng khổ nhất, cô đơn nhất, bị nhục nhã nhất, bị thiệt thòi nhất. Phải cố gắng tới các địa chỉ tận cùng như trên, đó là hướng mục vụ mà Chúa Giêsu muốn hai Tân Giám Mục và chúng tôi nhắm tới trong thời điểm này. Tới các địa chỉ đó, để làm chứng cho Đức Kitô. Trong một thời điểm đang bị khủng hoảng về các giá trị, thì làm chứng cho Đức Kitô là trước hết làm chứng cho các giá trị chính đáng và khẩn cấp mà lương tâm con người đòi hỏi và Đức Kitô đã dạy. Có giá trị cao, có giá trị thấp, có giá trị là mục đích, có giá trị chỉ là phương tiện. Tất cả làm thành một cái thang nhiều bậc, phụ thuộc vào nhau. Cái thang các giá trị có sức thăng tiến con người sẽ tìm được nơi Đức Kitô. Lời Ngài, đời Ngài xây dựng một cái thang các giá trị hết sức nhân bản, mà bậc cao nhất là đức ái. Với lòng mến Chúa yêu người, chúng ta sẽ gặp được Đức Kitô. Ngài chính là Đấng cứu độ. Ngài chính là sự thực, là đường và là sự sống. Ngài chính là Tin mừng đích thực. Đức Kitô chính là Đấng chúng ta rao giảng, tuyên xưng và làm chứng cho đến tận cùng trái đất. Làm chứng cho Đức Kitô trong thời điểm này rất cần ơn Chúa Thánh Thần. Nhất là ơn biết sáng tạo một cách thông minh, ơn biết phục vụ một cách khôn ngoan, ơn biết phân định một cách sáng suốt, ơn biết tận hiến một cách can đảm. Hai hiền đệ thân yêu, Hai hiền đệ được sai đi vào một thời điểm có nhiều thách đố lớn. Hai hiền đệ đã ý thức sự sai đi ấy như một trách nhiệm, chứ không phải một quyền chức. Xin hai hiền đệ hãy ra đi trong hân hoan. Sẽ không thiếu thử thách. Sẽ phải phấn đấu rất nhiều với các khó khăn đủ loại. Nhất là sẽ phải phấn đấu cam go với chính bản thân mình, trong việc đào tạo chính mình và các nhân sự của mình. Nhưng hãy tin tưởng tiến về phía trước như hai thánh Phêrô và Phaolô. Giáo phận Long Xuyên và các bạn hữu xa gần sẽ nâng đỡ hai hiền đệ. Hội thánh Việt Nam chờ đợi rất nhiều nơi hai hiền đệ. Ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần sẽ xuống dồi dào trên hai hiền đệ. Hãy đón nhận để ra đi làm chứng cho Đức Kitô. Lễ Phong Chức 2 Giám Mục: Giuse Trần Xuân Tiếu và Giuse Ngô Quang Kiệt, Long Xuyên, ngày 29-6-1999
MỘT CÁCH CHÂN THỰC 04-07-1999 Lễ Tạ Ơn 2 Tân GM Tiếu và Kiệt Lễ Tạ Ơn 2 Tân GM Giuse Trần Xuân Tiếu và Giuse Ngô Quang Kiệt tại Long Xuyên, GB. Bùi-Tuần
“Thiên Chúa là tình yêu”, những lời đó chúng ta đã thường nghe, đã thường đọc, đã thường hát, đã thường tuyên xưng. Những lời đó là một sự thực cao cả rút ra từ Kinh Thánh. Đang khi ấy, hình như chúng ta chưa quen lắm với một sự thực cao cả khác cũng rút ra từ Kinh Thánh: “Thiên Chúa là sự khiêm nhường”. Đây là chân lý chính Chúa Giêsu đã mặc khải (Mt 11, 29). Yêu thương và khiêm nhường không phải chỉ là những đức tính của Thiên Chúa, mà chính là bản tính của Thiên Chúa. Bản tính đẹp đẽ này cần phải được tuyên xưng một cách đặc biệt lúc này, thời nay. Chúng ta tuyên xưng “Thiên Chúa đầy yêu thương và khiêm nhường”. Để rồi từ đó, chúng ta góp phần với Chúa vào việc xây dựng một Hội Thánh yêu thương và khiêm nhường. Nhất là để từ đó, chúng ta ra sức đào tạo mình trở thành những người con Chúa biết sống yêu thương và khiêm nhường, trong lời nói, việc làm, suy tưởng và ước muốn. Tôi rất mừng là hiện nay, nhiều nơi nhiều người đang coi yêu thương và khiêm nhường là những giá trị thiêng liêng, căn bản, cần thiết. Gặp họ, tiếp xúc với họ, tôi có cảm tưởng là yêu thương và khiêm nhường đã trở thành hơi thở tâm linh của họ. Họ thở ra, hít vào một thứ không khí yêu thương khiêm nhường phát xuất từ Thiên Chúa. Làn khí này thấm sâu vào con người của họ, đổi mới sự sống của họ. Nhờ đó, họ biết rung động và cảm thương trước tất cả những gì là yêu thương và khiêm nhường, dù âm thầm nhất xảy ra xung quanh họ. Và nhờ đó, họ biết sáng tạo ra những hình thức mới để giới thiệu dung mạo Hội thánh Chúa mặn mà vẻ đẹp yêu thương và khiêm nhường. Tất nhiên, yêu thương và khiêm nhường nói đây phải rất chân thực. Hiện nay môi trường sống đời sống đạo đang chịu nhiều áp lực của hận thù và kiêu căng. Đã hẳn nhân loại không thiếu yêu thương và khiêm nhường. Nhưng cái thực cái giả chen lẫn nhau. Nhiều khi cái giả lại nhiều hơn cái thực. Vì thế thời nay sống Tin Mừng và giới thiệu Tin Mừng về yêu thương khiêm nhường của Thiên Chúa phải rất tỉnh thức và can đảm. Tôi muốn yêu thương như Chúa yêu thương, thì tôi phải chấp nhận những hy sinh như một sự chết thường xuyên. Tôi muốn khiêm nhường như Chúa khiêm nhường, thì tôi cũng phải chấp nhận những từ bỏ như một sự chết thường ngày. Phải chết đi thường xuyên, thường ngày là chuyện không dễ chút nào. Nhưng thời nay, danh dự của Hội Thánh hệ tại ở những phấn đấu kiên trì và can đảm, để cho sự chân thực về yêu thương và khiêm nhường nơi các người con Chúa được trong sáng. Suốt đời Giám Mục của tôi đã rất tha thiết với những giá trị đó. Tôi tạ ơn Chúa vì những giá trị ấy đang đi vào nếp sống nhiều cộng đoàn, nhiều cá nhân. Tôi rất tạ ơn Chúa, vì những Tân Giám Mục của chúng ta có nhiều khả năng phát huy những giá trị đó. Tôi cũng rất tạ ơn Chúa, vì chúng ta có Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, là gương mẫu về yêu thương và khiêm nhường chân thực. Dù ở nơi đâu, dù ở cương vị nào, dù ở thời gian nào, chúng tôi luôn hiệp nhất với nhau, để cùng với anh chị em, làm chứng cho Thiên Chúa chúng ta bằng các giá trị cao cả vừa nhân bản vừa Phúc âm, đó là yêu thương và khiêm nhường trong chân thực. Lễ Tạ Ơn hai Tân Giám Mục Giuse Trần Xuân Tiếu và Giuse Ngô Quang Kiệt, Long Xuyê ngày 4-7-1999
Chỉ còn 5 tháng nữa là bước vào đại Năm thánh 2000. Để hưởng hồng ân Năm thánh, chúng ta cần chuẩn bị kỹ. Chuẩn bị không phải chỉ đơn giản bằng cách đọc kinh Năm thánh, hát ca Năm thánh, học tài liệu Năm thánh, coi mấy việc đó như một tấm vé lên tàu, để rồi bước vào một tổ chức Năm thánh như bước lên tàu, ung dung để tàu đưa mình tới kho tàng hồng ân Năm thánh. Không phải thế đâu. Chuẩn bị bước vào Năm thánh đòi hỏi nhiều nhọc nhằn, nhiều quyết tâm, nhiều cố gắng tu sửa chính mình. Tu sửa ở những điểm nào, thì mỗi người hãy nhìn vào chính mình, nghiêm túc kiểm thảo chính mình. Ở đây tôi chỉ xin nhắc lại một điểm chung và cũng là điểm chính của Năm thánh, đó là hãy làm cho niềm tin của ta vào Đức Kitô được trong sáng và sinh hoa trái tốt. Dựa theo các tài liệu Năm thánh và do nhu cầu tái phúc âm hoá và tân phúc âm hoá đang trở thành khẩn cấp, tôi xin nêu lên mấy việc cụ thể sau đây: Tin Đức Kitô theo hướng cứu độ. Tin Đức Kitô là tin nhận mạc khải của Đức Kitô về Thiên Chúa. Đức Kitô mạc khải Thiên Chúa là tình yêu xót thương. Đây là chính bản tính Thiên Chúa, chứ không phải chỉ là một đặc tính (I Ga 4,8). Tình yêu Chúa Kitô vượt qua đòi hỏi của sự công bằng. Người bước xuống để gần gũi những kẻ thấp hèn. Người đi tìm những người tội lỗi. Người yêu thương chúng ta, khi chúng ta còn chìm trong tội lỗi lầm lạc. Người gánh tội lỗi chúng ta. Người xoá tội chúng ta bằng máu của Người. Người chịu chết để chuộc đền tội lỗi chúng ta. Chúa là một tình yêu xót thương hết sức lạ lùng. Sự hiểu biết của chúng ta về tình yêu Chúa luôn là bé nhỏ, hạn hẹp, thiếu sót. Tin Đức Kitô là chấp nhận điều răn mới của Người. Đó là “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12). Người đã yêu thương chúng ta một cách vô cùng quảng đại, một cách nhưng không, một cách khiêm nhường, nhất là trong sự tha thứ. Để có một chút hình ảnh về sự Đức Kitô yêu thương nhân loại, chúng ta hãy ngắm nhìn Đức Kitô trong hang đá Belem, trong đời sống nghèo ở Nagiarét, trong cuộc khổ nạn từ vườn Cây Dầu tới núi Calvariô, trong Phép Thánh Thể. Tin Đức Kitô là tin nhận dấu chỉ mà Người đã chọn cho các môn đệ của Người. Dấu chỉ đó là yêu thương nhau, “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 13,35). Tin Đức Kitô là nhận thức rõ và đúng về tiêu chuẩn mà Người sẽ căn cứ vào để đánh giá mỗi người trong giờ phán xét. Tiêu chuẩn đó là tình yêu thương xót : Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống… (x. Mt 25, 31-46). Tin Đức Kitô là xác tín về sự phải kết hợp chặt chẽ với Người bằng sự chia sẻ lời Người, chia sẻ tâm tình của Người, chia sẻ cuộc khổ nạn của Người, để có thể được chia sẻ sự sống tình yêu Thiên Chúa của Người. “Hãy ở lại trong Thầy…” (Ga 15, 1-8). Tin Đức Kitô là học nơi Người tình yêu xót thương và khiêm nhường (Mt 11,29).“Đức Kitô vốn là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người còn hạ mình xuống vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá”(Pl 2,5-11). “Các con hãy có lòng thương xót, như Cha các con là Đấng xót thương” (Lc 6,36). Đốt nóng niềm tin. Những điều tôi kể trên đây chắc chắn là không đầy đủ đối với những người thông thái chuyên môn, nhưng thiết tưởng sẽ vừa sức đối với những người bé mọn đi theo con đường thơ ấu thiêng liêng như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Điều quan trọng là phải coi niềm tin đó như một hướng cứu độ trong tu đức, mục vụ và truyền giáo. Nhưng điều quan trọng hơn là phải đốt nóng lên niềm tin đó, và phải đốt nóng lên bằng lửa của Chúa Thánh Thần. Tôi ái ngại phải nói lên nhận xét này là: Nhiều người trong chúng ta đã và đang hoạt động tôn giáo, làm việc từ thiện xã hội, tưởng rằng đúng hướng, nhưng những hoạt động đó không chuyển tải sự sống tình yêu Thiên Chúa có sức đổi mới và cứu độ con người, xã hội. Nguyên do là vì những hoạt động đó không phát xuất từ lửa của Chúa Thánh Thần, không hướng về Nước Thiên Chúa. Chúng trống rỗng hoặc do động lực không thực sự vì danh Chúa. Vậy, làm thế nào để lửa của Chúa Thánh Thần đốt nóng lên trong ta niềm tin Đức Kitô, khiến niềm tin ấy cháy thành tình yêu xót thương đích thực? Thưa chúng ta không thể tạo ra lửa đó, nhưng chúng ta có thể có lửa đó, nhờ sự chúng ta biết đón nhận. Trước hết đón nhận bằng việc năng đọc Lời Chúa, năng chiêm ngắm dung mạo Chúa, năng gẫm suy đời Chúa, năng cầu xin ơn biết sống bác ái như Chúa muốn. Tiếp đến là đón nhận bằng việc năng học hỏi những gương sáng bác ái ở các thánh nhân, ở những người xung quanh và ở sách báo. Thêm vào đó là đón nhận bằng việc tiếp xúc với những người đau đớn thể xác, đau khổ tâm hồn, thiếu thốn nhiều mặt. Gặp họ, gần họ, chúng ta có thể sẽ khám phá thấy những tín hiệu Chúa gởi cho chúng ta qua những khổ đau thiếu thốn của họ. Việc chúng ta đến với họ có thể trở thành sự Chúa đến với chứng ta. Ngoài ra, chúng ta có thể đón nhận lửa Chúa Thánh Thần bằng những cố gắng thiện chí của chúng ta luôn khát khao được lửa tình yêu Thiên Chúa thiêu đốt, biến chúng ta thành của lễ hy sinh, để Nước Chúa tình yêu sớm ngự đến trong các tâm hồn. Sau cùng chúng ta lãnh nhận bằng việc chúng ta tỉnh thức phấn đấu thường xuyên với chính mình, để dập tắt trong nội tâm ta mọi nhen nhúm và ẩn dạng của các thứ lửa xấu xa: Đó là lửa tự ái, lửa thù hận, lửa háo danh, lửa cậy quyền ham chức, lửa mê vinh quang tiền bạc, lửa hiếu thắng phô trương, đặc biệt là lửa kiêu ngạo ghen tương, tự đắc cục bộ và tục hoá Tin Mừng. Các thứ lửa này đã và đang tung hoành trong nhiều cá nhân, nhiều cộng đoàn một cách tự do thoải mái. Chúng tàn phá tinh thần phúc âm một cách có hiệu quả hơn bất cứ cuộc bách hại nào. Đốt nóng tình người. Thời nay, chúng ta rất cần lửa Thánh Thần đốt nóng lên niềm tin vào tình yêu thương xót Chúa. Hơn nữa, chúng ta càng rất cần lửa thánh đó đốt nóng lên tình người, tình đồng bào, tình đồng đạo, để chúng ta biết yêu thương nhau và xót thương nhau. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lý để than phiền rằng: “Con người ngày nay dường như chống lại Thiên Chúa giàu lòng thương xót, thậm chí họ có khuynh hướng loại bỏ khái niệm lòng thương xót ra khỏi cuộc sống và ra khỏi lòng người. Từ ngữ và ý tưởng về lòng thương xót dường như làm cho con người khó chịu” (Thông điệp Dives in misericordia, dd số 2). Đức Thánh Cha đã rất tha thiết với việc rao giảng tình yêu thương xót. Tới đây tôi nhớ tới một chuyện nhỏ có liên quan đến vấn đề này. Trong thời gian họp Thượng Hội Đồng các Giám mục Á Châu tại Rôma năm rồi, 1998, đã xảy ra vụ giết người thê thảm ngay tại Vatican. Một hạ sĩ quan thuộc đội cận vệ Thuỵ Sĩ phục vụ Đức Giáo Hoàng đã bắn chết ông đại tá chỉ huy và vợ ông, rồi sau đó anh đã tự sát. Hôm sau tại nhà nguyện của đội cận vệ, ba chiếc quan tài được đặt bên nhau trước bàn thờ. Chính Đức Thánh Cha đã đến đó cầu nguyện cho ba người quá cố và chia buồn với các người thân cả bên bị giết cả bên ám sát. Cử chỉ bao dung này của Đức Thánh Cha đối với kẻ giết người và tự tử đó đã nêu lên một gương sáng gây cảm động và cảm phục, hướng dẫn mục vụ mới về tình xót thương của người mục tử nhân lành. Sẽ rất thiếu sót nếu tôi không nói lên một sự thực khủng khiếp mang tính cách cảnh giác, đó là hiện nay lực lượng Satan vô hình nhưng rất mạnh và ác độc đang quấy phá Hội Thánh và nhân loại bằng đủ mọi cách tinh vi, kể cả dưới nhãn hiệu đạo đức. Chỉ bằng cầu nguyện và khổ chế, chúng ta mới đối phó được mưu chước Satan quỉ quái luôn ngăn chặn chúng ta đón nhận lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần. Càng gần Năm thánh, Satan càng gieo rắc vào các tâm hồn và cộng đoàn các thứ nghi kỵ, hiểu lầm, thành kiến, chủ nghĩa cá nhân, tinh thần phe nhóm gây nên chia rẽ. Đang khi đó, Chúa tuôn đổ rất nhiều ơn xuống Hội Thánh và trần gian, chỉ mong có những người biết đón nhận, để cùng với Chúa làm cho Hội Thánh trở thành dấu chỉ của sự hiệp nhất cho một nhân loại đoàn kết yêu thương. Đó là sự thực. Chúng ta cần tỉnh táo. Để kết, tôi xin phép chia sẻ hai mơ ước.Tôi mơ ước trở nên một ngọn đèn nhỏ cháy lửa tình yêu. Ngọn đèn nhỏ này không có gì để cho, ngoài sự hiện diện của yêu thương trong âm thầm, chân thực, hiệp thông với lửa trái tim Chúa Giêsu. Tôi mơ ước các cộng đoàn đức tin của tôi trở thành những tổ ấm tình yêu, biết nhìn nhau bằng cái nhìn nhân ái, cùng nhau xây dựng nền văn minh tình thương, liên đới với nhau bằng cảm thương trong khiêm tốn và quảng đại, chia sẻ tình người tình Chúa cho mọi người mọi nơi. Với hai mơ ước bé nhỏ đó, ít ra tôi đã có một hướng sống Tin Mừng chuẩn bị bước vào đại Năm thánh 2000. Thiết tưởng nếu mỗi người chúng ta thực tình thực tâm cố gắng thực hiện hai mơ ước trên đây cho chính mình và cho cộng đoàn của mình, thì một cách nào đó, Năm thánh đã bắt đầu trong tâm hồn chúng ta. Báo Công Giáo & Dân Tộc
Đã từ lâu, tôi được nghe nói về những bước phát triển của cộng đoàn Kim Long. Tôi an tâm và vui mừng. Hôm nay được đến tận nơi, được nhìn thấy tận mắt những công trình phát triển, tôi thấy niềm vui của tôi là có lý do chính đáng, có nền tảng chính xác. Trong niềm vui này, chúng ta cùng nhau xây dựng sự hiệp nhất, hiệp thông giữa nội bộ cộng đoàn, giữa họ đạo này với họ đạo khác, với tất cả những người có thiện chí là đã giúp đỡ chúng ta. Nhất là trong niềm vui hôm nay, chúng ta hãy sốt sắng cảm tạ ơn Chúa. Khi cảm tạ ơn Chúa hôm nay, tôi nhìn cộng đoàn Kim Long với ánh sáng của bài Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe. tôi thấy là Chúa đã ban cho anh chị em, một số khả năng vật chất và tinh thần, ví như những nén bạc Chúa trao phó, và thực sự anh chị em đã khéo dùng, đã biết dùng những nén bạc Chúa ban cho, để sinh ra nhiều lợi lãi, trên nhiều phương diện. Hôm nay chúng ta vui mừng tạ ơn về những phát triển. Tôi cho rằng hôm nay, chúng ta kết thúc một giai đoạn phát triển, nhưng không vì thế mà chúng ta làm con đường dừng lại. Kết thúc một giai đoạn có nghĩa là mở sang một giai đoạn mới để có những phát triển mới. Khi tôi nói điều đó, tôi lại nhớ lại lời Phúc Âm hôm nay là: Chúa trao cho chúng ta những nén vàng, nén bạc, mà Phúc Âm gọi là gia sản của chủ. Trong thời gian sắp tới này, chúng ta cần phải phát triển, tận dụng một gia tài rất quý giá, Chúa trao ban cho họ đạo chúng ta. Nó giá trị hơn vàng bạc, hơn các cơ sở, hơn các tổ chức. Gia sản đó là gì? Thưa là Mình Thánh và Kinh Thánh. Đây là gia sản căn bản, nền tảng của đạo chúng ta. Về Kinh Thánh, chúng ta đã thường nghe Chúa phán: “Lời Ta là lời ban sự sống”, về Mình Thánh, chúng ta cũng đã nhiều lần nghe Chúa xác định: “Đây là Mình Ta. Đây là bánh hằng sống, ai ăn bánh này sẽ được trường sinh”. Ý thức điều đó, chúng ta, cá nhân cũng như tập thể, trên đường đi đón ơn thánh cứu độ, cần phải thiết lập với Mình Thánh và với Kinh Thánh, những liên hệ cung kính, sống động, thánh hoá và thường xuyên. Trước hết là phải thiết lập với Mình Thánh và Kinh Thánh những liên hệ cung kính, nghĩa là chúng ta cần phải dành cho Mình Thánh và Kinh Thánh một sự trân trọng cung kính, cả về thời gian, cả về nơi để, cả về cả về những đồ dùng có liên quan, cả về cung cách, đi lại, nói năng trước Mình Thánh và Kinh Thánh. Chúng ta cần phải bảo toàn sự thiêng thánh của Mình Thánh, của Kinh Thánh, bởi vì tôi thấy nhiều nơi đang mất dần đi giá trị thiêng thánh vốn có của Mình Thánh, của Kinh Thánh. Ngoài ra chúng ta cần phải thiết lập với Mình Thánh và Kinh Thánh, những liên hệ sống động, có nghĩa là, khi chúng ta lui tới Mình Thánh, khi chúng ta nghe và đọc Kinh Thánh, chúng ta đừng làm những việc đó như một thói quen, như một nghi thức, như một hình thức, mà hãy làm việc đó như một sự gặp gỡ Đức Kitô, một sự gặp gỡ có tính cách bản thân, có tính cách tư riêng, có tính cách mật thiết. Khi đọc Kinh Thánh, chầu Mình Thánh, dự thánh lễ, chúng ta luôn ý thức Chúa nhìn ta, ta nhìn Chúa. Chúa nói với ta, ta lắng nghe tiếng Chúa. Chúa ban ơn, chúng ta khiêm nhường đón nhận. Chúng ta gặp gỡ Đức Kitô với tất cả tâm trí của mình, với tất cả lòng khát khao yêu mến của ta. Như vậy, liên hệ của ta và Mình Thánh và Kinh Thánh, có tính cách sống động. Hơn nữa, những liên hệ của ta với Mình Thánh và Kinh Thánh, phải rất là thánh hoá, có nghĩa là, khi chúng ta đến với Mình Thánh và Kinh Thánh, chúng ta mong muốn một điều là Mình Thánh sẽ thánh hoá chúng ta, Kinh Thánh sẽ thánh hoá chúng ta, mà đúng như vậy. Ai lui tới Mình Thánh, ai siêng đọc và suy gẫm Kinh Thánh, sẽ thấy Chúa trực tiếp thanh luyện chúng ta. Chúa trực tiếp đào tạo chúng ta nên những tạo vật mới, nên những chứng nhân đích thực của Tin Mừng, nên những người Kitô hữu thật sự có tâm hồn. Và nhờ sự thánh hoá đó, chúng ta tất cả sẽ biết sống thân phận người con bé nhỏ hiếu thảo của Cha trên trời. Đó là thánh hoá sau cùng liên hệ của chúng ta với Mình Thánh và Kinh Thánh. Phải thường xuyên, nghĩa là phải siêng năng, phải chuyên cần, không có nghĩa là luôn luôn nằm trong tổ chức, nhưng chúng ta phải dành cho Mình Thánh và Kinh Thánh, những thời giờ mà chúng ta có thể, và cần phải bỏ ra. Chúng ta có thể đến với Mình Thánh và Kinh Thánh, trong tư cách tập thể, với từng nhóm trong gia đình, và tư riêng của ta, nghĩa là chúng ta phải thường xuyên coi Mình Thánh và Kinh Thánh, là của ăn cần thiết cho đời sống và linh hồn chúng ta. Tôi thấy nhiều gương thánh đã để lại về kết quả của những người năng lui tới Mình Thánh và Kinh Thánh. Một gương sáng mà tôi rất quý trọng và luôn đi theo, đó gương thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Têrêsa Hài đồng Giêsu chết lúc 24 tuổi, còn trẻ lắm, ít học lắm, nhưng Têrêsa luôn luôn lui tới Mình Thánh và Kinh Thánh, nhờ đó, Têrêsa đã khám phá ra con đường nên thánh độc đáo, và đang phát triển khắp thế giới hôm nay. Đó là con đường sống bé nhỏ, sống khiêm nhường, là con đường nên thánh bằng cách: luôn tìm chỗ rốt hết, chẳng bao giờ có tham vọng tìm những chỗ cao hơn, bất cứ về phương diện nào. Sống bé nhỏ, sống khiêm nhường, tìm chỗ rốt hết, luôn luôn phó thác nơi lòng thương xót Chúa, đó là điều Têrêsa đã được Mình Thánh và Kinh Thánh dạy cho, hướng dẫn cho, để hôm nay trở thành một con đường chung của Hội Thánh, và tôi tin rằng, con đường đó sẽ rất thích hợp thế kỷ XXI. Anh chị em thân mến, càng gần năm thánh năm 2000, chúng ta càng cần phải trở về với cái gì là căn bản, là nền tảng, và trở về với Mình Thánh, trở về với Kinh Thánh, là trở về với nền tảng. Khi trở về như vậy, chúng ta không bao giờ lo ngại đi sai đường. Trái lại, chúng ta đi đúng và Chúa muốn như vậy. Chúng ta đang sống trong một thời điểm rất nghiêm trọng, như ông đại diện giáo dân đã nói lúc nãy là: rất có nhiều nguy cơ và sức mạnh của ma quỷ, của thế gian, của xác thịt, là rất nặng, là rất mạnh bây giờ. Nếu chúng ta không dùng ơn thánh từ Mình Thánh, từ Kinh Thánh, từ nguồn mạch là chính Đức Kitô, thì chúng ta sẽ thua. Hội Thánh sẽ xuống dốc, sẽ suy thoái. Còn trái lại, nếu chúng ta trở về phát triển tài sản Chúa ban cho là Mình Thánh và Kinh Thánh, thì chúng ta vững tin Hội Thánh sẽ tiến lên, sẽ vững vàng. Một họ đạo có lòng sùng kính Mình Thánh chuyên cần Kinh Thánh, đó là một họ đạo đẹp đẽ, vững vàng, phát triển và trưởng thành. Đó là điều đôi kính chúc và cầu chúc và cho họ đạo Kim Long của anh chị em. Amen. Lễ Thêm sức tại xứ Kim Long, kinh D2 ngày 8-8-1999
Hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm hoạt động dòng Thánh Gia. Kỷ niệm này trùng hợp với lễ Đức Mẹ. Sự trùng hợp may mắn này gợi ý cho tôi nhìn ơn gọi đi tu dòng. Trong ơn kêu gọi, tuy hai ơn gọi đó có nhiều điểm khác nhau, nhưng về căn bản thì giống nhau. Vì thế, chúng ta sẽ nhìn ơn gọi của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã sống ơn gọi thế nào, để rồi chúng ta cũng cố gắng bắt chước Đức Mẹ, sống ơn gọi của chúng ta như vậy. Trước hết, Chúa kêu gọi Đức Mẹ, để Đức Mẹ yêu mến Chúa một cách trọn vẹn hơn, với một tình yêu mỗi ngày mỗi triển nở hơn, mỗi ngày mỗi trong sáng hơn, mỗi ngày mỗi dấn thân. Điểm chính mà ơn gọi nhắm vào là lòng mến, Chúa kêu gọi lòng mến, Chúa muốn bắt lòng mến, Chúa muốn lòng mến của Đức Mẹ phải hết sức đặc biệt, đó là điều thứ nhất chúng ta ghi nhận trong ơn gọi. Điều thứ hai là để đáp lại tiếng gọi của Chúa, mến Chúa hết lòng, Đức Mẹ đã hết sức yêu mến với tình mến tự nhiên của mình, nhưng dù cố gắng đến mức nào, Đức Mẹ vẫn cảm thấy tình mến tự nhiên của mình còn yếu ớt quá, còn mong manh quá, còn non yếu, quá còn hời hợi quá. Đức Mẹ không thể nào hài lòng với tình yêu tự nhiên đó được. Để giải quyết, Đức Mẹ đã xin Chúa ban cho mình chính lửa mến của Chúa, và Chúa đã ban cho Đức Mẹ lửa mến từ lòng thương xót Chúa. Đức Mẹ đã nhận lửa mến từ lòng thương xót Chúa, rồi từ đó Đức Mẹ mến Chúa, yêu người một cách nồng nàn hơn và nhất là siêu nhiên hơn, đó là điều thứ hai chúng ta để ý trong ơn gọi, tức là tình mến dâng hiến Chúa, vừa tự nhiên nhưng mà vừa rất siêu nhiên, bởi vì có tình mến của lòng thương xót Chúa chia sẻ cho Đức Mẹ. Điều thứ ba, với tình yêu được lửa mến của Thiên Chúa ban cho, Đức Mẹ đã gặp gỡ được chính Thiên Chúa. Đức Mẹ đã khám phá thấy Thiên Chúa chính là tình yêu, và tình yêu đó biến đổi Đức Mẹ. Đức Mẹ cảm thấy rằng, khi yêu mến Chúa với tình yêu Chúa ban cho, thì tình yêu đó biến đổi Đức Mẹ một cách sâu xa, biến đổi cách nhìn của Đức Mẹ. Đức Mẹ nhìn mình với một cái nhìn mới, không phải mình chẳng có gì, mình chẳng là gì, mình chẳng làm việc gì, mình chỉ là hạt cát bé nhỏ, là con số không. Nhưng Đức Mẹ thấy mình được biến đổi trong cái nhìn về cách đi theo Đức Kitô. Trước đây thì tưởng rằng, đi theo Đức Kitô thì phải làm cái này, làm cái kia, nhưng mà khi đã được tình yêu siêu nhiên biến đổi, thì ước muốn đó được biến đổi. Đi theo Đức Kitô chỉ là vâng phục thánh ý Chúa về chính mình, nếu Chúa muốn con làm cái này cách âm thầm, tôi phải làm cái đó cách âm thầm, đừng đòi hỏi gì cả. Đức Mẹ xưa đã sống âm thầm, ẩn dật, vô danh, mặc dầu Ngài là Mẹ Thiên Chúa. Cái nhìn về cách đi theo Đức Kitô, tương tự cái nhìn làm sáng danh Chúa. Sáng danh Chúa là gì? Sáng danh Chúa chỉ là làm đúng thánh ý Chúa có vậy thôi. Vậy khi yêu mến Chúa, yêu người ta, thì Đức Mẹ cảm thấy mình được biến đổi về mọi phương diện trong con người của mình, cả về sự phục vụ con người cũng vậy, được đổi mới hết. Điều mà tôi vừa chia sẻ gắn gọn thôi. Nó là hành trình ơn gọi. Một là gọi ta ta mến Chúa. Thứ hai là gọi ta phải cầu xin với Chúa, để Chúa ban lửa mến của Chúa cho ta, nếu không chúng ta không mến Chúa theo như Chúa muốn được. Và thứ ba là tình mến Chúa phải biến đổi ta, biến đổi tất cả con người của ta nên mới, nhất là trở nên những tạo vật khiêm tốn. Khi nhìn ơn gọi của Đức Mẹ như vậy, thì bây giờ chúng ta thấy Chúa gọi chúng ta đi tu, chúng ta cố năm bắt ba việc đó, ra sức nhìn vào điều chính của ơn gọi là lòng mến của ta. Trước tiên là lòng mến: “Con hãy yêu mến Chúa cách trọn vẹn hơn”, đó là căn bản. Rồi hãy tin rằng mình không thể mến Chúa bằng cách tự nhiên của mình, mà bằng lửa siêu nhiên của Chúa Thánh Thần ban cho, mà muốn như vậy phải cầu nguyện nhiều lắm, và thứ ba là phải biến đổi chính mình trở nên người mới. Tôi gọi ba điểm này là chiều kích thiêng liêng của một người tu. Hội Thánh bây giờ rất cần người tu sống căn cứ và mạnh mẽ trong chiều kích thiêng liêng đó. Học cho giỏi, sửa sang mọi sự cho đẹp, cũng là điều cần, nhưng mà chiều kích thiêng liêng là quan trọng nhất, nếu chúng ta có đủ mọi cái mà người đời có, nhưng thiếu chiều kích thiêng liêng trong ơn gọi thì kể là chúng ta quá thiếu. Thời nay Hội thánh đang trải qua một giai đoạn mà hình ảnh bài đọc hôm nay đã mô tả, là có lúc con rồng lan toả sức mạnh của mình ra, để muốn bắt Con Thiên Chúa, để phá hoại Hội Thánh, như bài chúng ta nghe lúc nãy. Chỉ có một cách đối phó lại con rồng đó, bằng sự chúng ta theo gương Đức Mẹ, theo chân Đức Mẹ đi vào rừng vắng để tu luyện đời mình, biến đổi cuộc đời mình trở nên yêu mến, yêu mến siêu nhiên, yêu mến biến đổi, có như vậy chúng ta mới có thể đối phó được với sức mạnh Satan đang muốn tàn phá Hội Thánh, đang muốn tàn phá Nước Trời. Với bốn việc chia sẻ trên đây, tôi cầu chúc anh chị em, nhất là những anh em khấn dòng và ao ước được vào dòng, hãy sống trọn vẹn, phong phú, mạnh mẽ ơn gọi của mình theo chiều hướng siêu nhiên, thiêng liêng mà tôi vừa trình bày. Chúng ta yếu đuối lắm, nhưng nếu chúng ta có thiện chí theo gương Đức Mẹ, sống khiêm nhường bé nhỏ, cầu nguyện với Chúa, đi vào rừng vắng nội tâm, để mà đón nhận ơn Chúa, để mà bảo vệ Con Chúa, để mà bảo vệ Hội Thánh, thì thế nào Chúa cũng sẽ ở với ta. Amen. Thánh lễ tại tu viện Thánh Gia, Cần Xay ngày 15-8-1999
Hôm nay, cùng với việc kính Đức Mẹ, Bổn Mạng nhà thờ Chánh Tòa, chúng ta cùng nhau kỷ niệm 25 năm linh mục của Đức Cha Phó Giuse (Trần Xuân Tiếu). Như anh chị em đang thấy, lễ kỷ niệm này diễn ra một cách đơn giản nhưng ấm cúng, tập trung vào suy niệm và cầu nguyện. Trong bầu khí thiêng liêng này, tôi muốn chia sẻ quan niệm của tôi về nền tảng ơn gọi Linh mục. Thực ra đây là nền tảng mọi ơn gọi Kitô hữu, nhưng các linh mục được kêu mời thấu hiểu nền tảng này một cách sâu sắc hơn, nhất là sống với nền tảng này một cách triệt để hơn. Vì thế, đối với linh mục, nền tảng này cần phải được nhấn mạnh như của riêng mình. Theo thiển ý của tôi, nền tảng ơn gọi linh mục có thể tóm tắt trong một lời của Đức Kitô trên thánh giá. Lời đó rất thê thảm, rất khẩn cấp, rất thiết tha, rất khiêm nhường, nghèo khó, đó là: “Ta Khát”. Để hiểu một cách đúng đắn lời Ta Khát của Đức Kitô như một chúc thư tâm huyết, tôi không có cách nào khác ngoài sự đứng bên Đức Mẹ dưới cây thánh giá, để cùng với Đức Mẹ chia sẻ tâm tình của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu khát là khát làm chứng cho tình yêu Chúa Cha giàu lòng thương xót. Mặc dù đã tận hiến trọn vẹn, đã cho đi tất cả, Chúa Giêsu vẫn khát được làm chứng hơn nữa cho tình yêu Chúa Cha, nếu còn cách nào khác mà Chúa Cha muốn. Chúa Giêsu khát là khát cho mọi người nói chung và các linh mục nói riêng cảm nghiệm được sức lôi kéo mạnh mẽ và ngọt ngào của tình yêu Chúa Cha, như Ngài đã cảm nhận, cho dù nhiều khi Ngài rơi vào cô đơn, khổ nhục. Chúa Giêsu khát là khát trở về với Chúa Cha, qui tụ và hướng mọi vinh quang về Chúa Cha, là Đấng đã sai Ngài đi để mạc khải về tình yêu giàu lòng thương xót vô biên vô bờ của Chúa Cha. Chúa Giêsu khát là khát cho mọi người nói chung và các linh mục nói riêng biết yêu thương nhau, như Chúa Cha đã yêu thương Ngài và yêu thương họ, với một sự chia sẻ sự sống thiêng liêng trọn hảo đời đời hạnh phúc xuất phát từ Thiên Chúa là Tình yêu. Khi biết nền tảng ơn gọi của mình là Lời Chúa “Ta Khát”, thì nền tảng đó cần được nội tâm hóa. Nội tâm hóa có nghĩa là sẽ không dừng ở sự biết đúng hiểu sâu, mà phải tiến tới sự biến đổi tâm tình của mình, sao cho tâm tình của mình trở nên thực nóng và thực sáng. Với ánh sáng mới và với sức nóng mới phát xuất từ trái tim Chúa Giêsu, con người chúng ta được nên mới, từ cái nhìn, ước muốn đến những chọn lựa. Trong công cuộc nội tâm hóa lời Chúa Ta Khát, chúng ta không thể coi nhẹ việc cầu nguyện, chiêm niệm và dâng thánh lễ một cách sốt sắng. Ở đây, tôi xin phép chia sẻ 3 kinh nghiệm của tôi: Một là Chúa Giêsu vẫn thì thầm nói vào lòng chúng ta lời Ta Khát, nhưng rất nhiều khi chúng ta vẫn dửng dưng, hoặc đón nhận một cách bất xứng. Hai là sự lắng nghe và đón nhận lời Ta Khát của Chúa bao giờ cũng đưa chúng ta đến sự chia sẻ những khổ đau của Chúa trên thánh giá. Vì thế người sống ơn gọi này sẽ phần nào sống cuộc tử đạo, một cuộc tử đạo không đổ máu, một cuộc tử đạo âm thầm, kéo dài kín đáo. Ba là đau khổ thánh giá đi kèm theo lời Ta Khát dễ mở lòng chúng ta và lòng người khác để đón tình yêu cứu độ một cách có hiệu quả hơn là bất cứ sự vui vẻ sung sướng nào. Với những quan niệm và kinh nghiệm vừa được chia sẻ, tôi nhìn con người linh mục không phải là người mang chức cao quyền trọng, mà là người được Chúa Kitô gọi đi theo Ngài một cách triệt để hơn, đến tận cây thánh giá, đến những giây phút sau cùng của trái tim hấp hối của Ngài, để rồi biết tiếp tục sống mãi lời Ta Khát của Ngài như một sứ điệp tu đức, mục vụ và truyền giáo. Tôi tin rằng Đức Cha Phó Giuse đã đi được một quãng đường dài như thế. Xin cảm tạ Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa cho Ngài, trong quãng đời linh mục còn lại, sẽ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để giúp đào tạo các ơn gọi, nhất là ơn gọi linh mục, theo đúng thánh ý Chúa. Hội Thánh của thế kỷ 21 rất cần các ơn gọi được đào tạo kỹ càng trên nền tảng lời “Ta Khát” của Đức Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Amen. Mừng Ngân Khánh, 25 năm Linh mục, Đức Cha Phó Giuse, ngày 22-08-1999
Trong việc sống đạo để trở thành Kitô hữu, để trở thành môn đệ Đức Kitô, chúng ta thường để ý nhiều đến việc học hỏi về Đức Kitô. Chúng ta học hỏi về Đức Kitô qua lớp giáo lý, qua các bài giảng, qua những giờ chia sẻ Lời Chúa, qua những giờ kinh phụng vụ, cầu nguyện. Nhiều người đã phấn đấu học hỏi về Đức Kitô. Những cố gắng và phấn đấu đó đáng ca ngợi. Tuy nhiên, nếu chỉ có thế mà thôi, thì chúng ta không có quyền tự hào, xưng mình là người hiểu biết Đức Kitô một cách đúng đắn, một cách sâu sắc, và đúng như thánh ý Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó. Trong những năm tháng Đức Kitô mặc xác phàm, hoạt động ở thế gian, thì biết bao nhiêu người đã sống bên cạnh Đức Kitô. Họ nhìn thấy Đức Kitô đi đứng chính mắt họ. Họ nghe thấy Đức Kitô chuyện trò giảng dạy bằng chính tai họ. Họ sờ vào Đức Kitô bằng chính bàn tay của họ. Họ chứng kiến các phép lạ của Đức Kitô bằng chính con người của họ, thế nhưng, phần đông đã không nhận ra Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ loài người, chỉ một nhóm rất nhỏ, và trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy rõ, chắc chắn chỉ có một người, người đó là môn đệ Phêrô. Môn đệ Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, là Đấng cứu độ trần gian”. Khi nghe lời tuyên xưng đó, Đức Kitô lập tức nói với Phêrô: “Điều mà con vừa nói, không phải máu thịt đã mạc khải cho con, mà là chính Cha trên trời đã mạc khải cho con”. Điều mà Đức Kitô vừa nói Phêrô, là một chân lý rất quan trọng. Ngài nói cho Phêrô. Ngài nói cho tôi. Ngài nói cho anh chị em tất cả. Chân lý đó, là khi muốn tìm hiểu về Đức Kitô, thì chúng ta tất nhiên cần dùng đến ánh sáng tự nhiên, thí dụ như ánh sáng của trí tuệ, thí dụ như ánh sáng của các lớp giáo lý, thí dụ như ánh sáng của những bài giảng, những người dạy giáo lý, dạy Phúc Am, hay là ánh sáng của những nhóm chia sẻ Lời Chúa, những ánh sáng đó, là tự nhiên cần thiết nhưng không đủ để giúp chúng ta nhận ra Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ. Cần phải có một thứ ánh sáng khác đến từ trên cao. Đấng đến từ trên trời, đến từ chính Đức Chúa Cha, đó là ánh sáng siêu nhiên, không có ánh sáng đó, chúng ta chỉ biết Đức Kitô bằng những quan hiện thông thường, nhưng không gặp được Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ chúng ta. Nhưng ánh sáng siêu nhiên đó, có phải ai muốn có là được không? Thưa không phải đâu, điều này cũng cần để ý, trong Phúc Âm Chúa nói rõ, Chúa giấu ánh sáng siêu nhiên đó, không cho những người thông thái, khôn ngoan biết mà chỉ ban cho những người bé nhỏ khiêm nhường. Đó là chân lý chúng ta phải nắm bắt, khi chúng ta có lòng khiêm nhường, khó nghèo nội tâm và có lòng khao khát tìm hiểu Đức Kitô, thì Cha trên trời sẽ cho chúng ta ánh sáng siêu nhiên của Ngài để chúng ta gặp được Đức Kitô, để cho chúng ta nhận ra Đức Kitô là tất cả của ta, để cho chúng ta có can đảm đi theo Đức Kitô, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ chúng ta. Thưa anh chị em, những lời chúng ta vừa chia sẻ, cũng là đường lối giúp chúng ta sống đạo, nó đơn sơ thôi, nhưng phải nắm bắt cho vững từng khâu, từng vấn đề. Thứ nhất: phải tập trung sự hiểu biết vào Đức Kitô, thì mới có thể là Kitô hữu, thì mới có thể là môn đệ Đức Kitô. Thứ hai: để hiểu biết Đức Kitô, chúng ta cần phải dùng tất cả mọi phương tiện tự nhiên, như học giáo lý, nghe giảng, chia sẻ Lời Chúa, đọc sách thiêng liêng, cầu nguyện. Những phương tiện đó cần, hữu ích. Thứ ba: là chúng ta đừng dừng lại đó. Khi chúng ta học, nghe giảng, phụng vụ, chia sẻ Lời Chúa, thì phải có tấm lòng khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó. Ngẩng mặt lên Chúa Cha, xin Chúa Cha ban ơn, mở lòng, soi trí, để chúng ta hiểu được Đức Kitô, bằng không chúng ta rất gần mà lại hoá xa, biết nhiều về Đức Kitô, chứ sự biết đó rất lạnh lùng, rất xơ cứng, chỉ là cái biết tầm thường, không đốt lên được trái tim ta ngọn lửa yêu mến, để chúng ta đi về Đức Kitô, để chúng ta có sức đi theo Đức Kitô, sống chết với Đức Kitô. Chúng ta đang thấy trong thế giới này, những khủng hoảng lớn: khủng hoảng về kinh tế, khủng hoảng về đời sống gia đình, khủng hoảng về văn hoá, khủng hoảng về tín ngưỡng. Trong tình trạng đầy khủng khoảng đó, tôi xin anh chị em hãy vững tin, là chỉ có Đức Kitô Đấng cứu độ chúng ta. Người sẽ cứu chúng ta ra khỏi tất cả các nguy cơ của những cơn khủng hoảng, đang tràn ngập vào đời sống gia đình, họ đạo, địa phương đất nước, Hội Thánh chúng ta, miễn là chúng ta biết học hỏi đúng đắn về Đức Kitô, với một tấm khiêm tốn, bé nhỏ và với một lòng cậy trông vào Chúa Cha. Xin anh chị em trong những tháng còn lại chuẩn bị năm thánh, hãy gắn bó hơn với Đức Kitô, hãy xin Đức Mẹ giúp cho chúng ta tiến gần hơn với Đức Kitô, hãy xin Chúa Cha ban ánh sáng của Ngài, để ánh sáng đó giúp cho chúng ta hiểu được Đức Kitô, để chúng ta thực sự gặp gỡ Đức Kitô, để chúng ta thực sự dâng hiến trọn vẹn đời mình cho Đức Kitô, và để cho chúng ta trở nên một người có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi”, để rồi từ đó cá nhân chúng ta, họ đạo chúng ta, sẽ trở thành chứng nhân của Đức Kitô giữa trần gian. Amen. Thêm sức tại Láng Sen, ngày 22-08-1999
Khi vừa tới xứ đạo Thanh Long này, tôi đã nhận thấy nhiều sự đổi mới, như sự đổi mới về cơ sở, đường đi, cầu cống, trường học, nhà xứ, nhà thờ, như sự đổi mới về các liên hệ, liên hệ trong nội bộ giáo xứ, liên hệ đạo đời, rồi như sự đổi mới về các sinh hoạt, sinh hoạt văn hoá, sinh hoạt bí tích, sinh hoạt giáo lý. Tất cả những đổi mới trên đây, được coi là kết quả của lòng nhiệt thành, và tinh thần hiệp nhất ở trong giáo xứ, từ cha sở đến các tu sĩ nam nữ, hội đồng giáo xứ, các đoàn thể và mọi thành phần giáo xứ. Đây cũng là kết quả của sự hỗ trợ, của xã hội và của các ân nhân xa gần. Nhưng chính những kết quả trên đây, là kết quả sâu xa của ơn thánh Chúa, và của sự cộng tác của giáo xứ với ơn thánh Chúa. Những kết quả tôi vừa vắn tắt kể ra, được tôi coi là những bước đầu của công cuộc tân Phúc Âm hoá, có nghĩa là công cuộc tân Phúc Âm hoá còn đòi nhiều bước tiến khác nữa. Vậy những bước tiến khác nữa, đang chờ chúng ta là những bước tiến nào? Thưa rất nhiều, nhưng hôm nay tôi chỉ xin nêu ra vài bước tiến, rút ra từ bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe. Bước tiến thứ nhất là: làm việc truyền giáo một cách đơn giản, tế nhị, nhưng hậu quả cao. Chúng ta vừa nghe trong Phúc Am, Philiphê đi tìm Nathanael, rồi dẫn ông ta đến Đức Kitô. Nathanael thắc mắc hỏi tại sao, thì Philiphê không trả lời, không giảng giải, mà chỉ nói vắn tắt: “Anh cứ đến mà xem”. Kết quả, là sau đó Nathanael đi theo Chúa. Như ta vừa thấy cách làm việc truyên giáo của Philiphê, là không lôi kéo đám đông, nhưng chỉ thuyết phục từng cá nhân, ông cũng không giảng dạy giáo lý, mà chỉ đơn giản là tôi đã gặp Đức Kitô, anh theo tôi đến gặp Ngài. Cách làm việc truyền giáo trên đây, đang được nhiều người áp dụng trong thời nay, kể cả tại Việt Nam này, và kết quả là khích lệ. Đưa cho một người bạn một băng nhạc, một cuốn sách, một tờ báo nào, rồi nói: “Bạn cứ lấy mà đọc, bạn cứ giữ mà nghe”. Không cắt nghĩa gì, nhưng trong lòng cầu nguyện cho họ: “Nếu bạn có thời giờ, bạn theo tôi đi tham quan những công việc từ thiện xã hội, mà người công giáo đang làm”. Cứ đến mà xem rồi cầu nguyện, Chúa sẽ làm. “Nếu bạn có thời giờ, hãy đi theo tôi, tham dự thánh lễ, tham dự một cuộc chia sẻ Lời Chúa”. Không nói thêm gì, cứ đến mà nghe. Thế rồi, trong lòng, mình cầu nguyện cho họ. Tôi đã thấy, có rất nhiều kết quả làm việc truyền giáo như vậy, rất tế nhị, rất lịch thiệp, rất kín đáo nhưng có nhiều chất lượng. Đấy là việc thứ nhất bài Phúc Âm hôm nay gợi lên, đó là làm việc truyền giáo từ cá nhân. Việc thứ hai: bài Phúc Âm hôm nay gợi lên: Trong công cuộc tân Phúc Âm hoá là gặp gỡ Đức Kitô một cách sống động, thân tình, như chúng ta vừa nghe trong bài Phúc Âm khi Nathanael đến gặp Đức Kitô, thì Nathanael tập trung vào con người của Đức Kitô. Ông sửng sốt, ngỡ ngàng vì thấy Đức Kitô thương mình dường đó. Đức Kitô nhìn thấy tôi từ rất xa. Đức Kitô quan tâm đến tôi từ lúc nào tôi không hay. Và từ cảm nghiệm được Chúa thương, Nathanael đã ngợi khen Đức Kitô. Hơn nữa, khi Nathanael gặp Đức Kitô ít nói với Đức Kitô, mà trái lại, lắng nghe Đức Kitô nói. Nathanael cũng không xin xỏ ơn gì với Đức Kitô, mà chờ đợi Đức Kitô soi sáng, và khi Đức Kitô soi sáng nội tâm, Nathanael đã tuyên xưng Thầy là Con Thiên Chúa. Đó là khám phá rất có ích lợi cho Nathanael, bởi vì từ đó, Nathanael thấy đời mình có một chỗ tựa, đời mình có một vị hướng dẫn, đời mình có một Đấng cứu độ, dù mình nguội lạnh, tội lỗi, yếu hèn. Luôn luôn nhìn vào Chúa Kitô là Con Thiên Chúa, đây là một điều mà thiết tưởng chúng ta phải bắt chước, khi gặp gỡ Đức Kitô như chính lúc này, gặp gỡ một cách sống động và thân tình, tập trung vào con người Đức Kitô, lắng nghe Đức Kitô, chờ đợi nơi Đức Kitô, và để nhìn thấy Đức Kitô là Đấng cứu độ duy nhất của mình. Bài học thứ ba gợi lên từ bài Phúc Âm hôm nay đó là: hai tông đồ đã đi về tương lai với một niềm cậy trông vững vàng. Chúng ta thấy Đức Kitô nói với hai môn đệ Nathanael và Philiphê rằng: “Sau này các con sẽ thấy nhiều sự lớn lao hơn, chúng con sẽ thấy trời mở ra, và sẽ thấy Con Người có những thiên thần lên xuống hầu hạ”. Với niềm tin đó, hai môn đệ đi về phía trước một cách vững vàng, bởi vì sau đó, hai môn đệ đã gặp biết bao thử thách bi đát, hãi hùng, thất bại, nhất là khi Đức Kitô chịu đóng đinh trên thánh giá. Nhưng mà tin vào lời Chúa dạy, cho nên sau cùng, hai ông đã được chứng kiến Đức Kitô sống lại và lên trời, cửa trời mở ra. Đây cũng là tân Phúc Âm hoá đời chúng ta, chúng ta hãy vững tin vào Lời Chúa. Lúc nãy khi cộng đoàn hát bài đáp ca: “Con đặt hy vọng vào Chúa, con luôn đặt hy vọng vào Chúa, con nương tựa nơi Chúa”, thì tôi thầm cầu nguyện cho tôi và cho anh chị em: là bước đi về phía trước tương lai của mình, với một niềm tin vững vàng, trời sẽ mở ra và nhìn thấy những sự lớn lao của Nước Trời, bởi vì chúng ta hy vọng vào Chúa. Anh chị em thân mến, Tôi vừa mới rút ra từ bài Phúc Âm hôm nay ba việc, mà tôi cho là quan trọng, trong việc tân Phúc Âm hoá đi sâu vào đời sống đạo. Một là hãy làm việc tông đồ cách tế nhị, dễ dàng, đơn giản. Hai là hãy chỉnh đốn lại sự gặp gỡ Đức Kitô sao cho sống động mật thiết. Ba là hãy đi về tương lai của mình với niềm tin sắt đá, hy vọng vào Đức Kitô. Tôi thấy phần đông các giáo xứ quan tâm nhiều đến các tổ chức, tổ chức hội đoàn, tổ chức sinh hoạt, đó là điều tốt. Nhưng không nên dừng lại đó, mà cần phải làm cho đời sống đạo đi vào chiều sâu, có một chiều kích thiêng liêng rất rộng, rất vững, để sau này, khi đi vào thế kỷ XXI đầy những thử thách, khó khăn, chúng ta vẫn sống được đức tin của chúng ta, trong công cuộc tân Phúc Âm hoá mà Đức Thánh Cha luôn kêu gọi. Xin Chúa Thánh Thần giúp cho chúng ta biết tiếp thu mấy điều vắn tắt, rút ra từ bài Phúc Âm hôm nay. Amen. Lễ Thêm sức tại xứ Thanh Long, kinh D1, 24-8-1999
Giáo xứ Trung Thành, là một địa điểm có lợi thế, để phát triển về kinh tế, văn hoá, và tôn giáo. Cùng với lợi thế đó, còn có tinh thần phấn đấu nhiệt thành của cộng đoàn, nên giáo xứ anh chị em đã có những bước phát triển đáng khen. Trước những bước phát triển đó, chúng ta có quyền vui mừng, phấn khởi. Tuy nhiên, chúng ta không được chủ quan, dám nghĩ là tình hình sẽ mãi mãi ổn định, sẽ mãi mãi đi lên, tương lai sẽ chẳng có biến cố gì bất ngờ, đáng lo ngại xảy tới, chúng ta đừng chủ quan. Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy chúng ta điều đó. Bài Phúc Âm hôm nay chủ yếu dạy chúng ta hãy tỉnh thức, vì sẽ có những biến cố bất ngờ xảy đến, vì tầm quan trọng của lời cảnh giác này, nên tôi sẽ triển khai nội dung bài Phúc Âm một cách vắn tắt và rõ ràng. Điều bất ngờ thứ nhất sẽ xảy ra cho chúng ta đó la: sự Chúa đến. Sự Chúa đến được hiểu như là sự chết. Chúa đến với từng người chúng ta, để chấm dứt cuộc sống trần gian, đưa chúng ta vào đời sau ở một chỗ xứng hợp với công phúc của mỗi người chúng ta. Sự Chúa đến còn được hiểu, là những biến cố giống như sự chết, biến cố chấm dứt một thời cơ, biến cố chấm dứt một kế hoạch, biến chấm dứt một sự nghiệp, một chương trình. Những sự chết, và những biến cố chấm dứt đó, sẽ xảy ra cách này, cách khác. Chúng ta không muốn nó xảy ra, đó là ý của chúng ta. Nhưng bài Phúc Âm hôm nay nói: sẽ có những bất ngờ xảy ra khi Chúa đến, nhất là những bất ngờ không những gây ngỡ ngàng trong tâm trí, mà còn ảnh hưởng lớn đến số phận đời đời của chúng ta. Điều bất ngờ thứ hai sẽ xảy đến, là cách Chúa khen thưởng. Theo bài Phúc Âm hôm nay, thì khi Chúa đến, những ai đang phân phát lương thực cho những người thiếu thốn, Chúa sẽ khen thưởng những người đó, bởi vì họ là nhân chứng của tình yêu cứu độ, bởi vì họ là nhân chứng của tình yêu phục vụ. Lương thực mà người ta phân phát ra, có thể hiểu về nhiều mặt khác nhau, lương thực cần cho thể xác như: cơm ăn, nước uống, áo mặc, thuốc men. Lương thực cần cho tinh thần như: việc học hành, giáo dục, gương sáng, người tốt. Lương thực cần cho đời sống thiêng liêng: như giáo lý, như cầu nguyện, như bí tích, như những gương đạo đức thánh thiện. Rồi lương thực cần thiết cho đời sống xã hội như: trật tự an ninh xã hội, môi trường liên đới xã hội, hài hoà đạo, đời. Khi chúng ta hiểu lương thực mà chúng ta có thể phân phát cho những người khác như vậy thì chúng ta sẽ thấy, bất cứ ai, trong cương vị nào, trong hoàn cảnh nào, vẫn có thể cung cấp lương thực cho những người chung quanh. Tôi thí dụ: một người liệt, nằm ở giường từng nhiều tháng, nhiều năm, khi cầu nguyện, khi dâng hy sinh đau khổ mình cho Chúa, để giúp cho gia đình mình, họ đạo mình, địa phương mình, được luôn tốt lành thánh thiện, thì người bệnh đó ,đã phân phát lương thực thiêng liêng một cách có hiệu quả hơn biết bao nhiêu người, và như vậy, chúng ta sẽ thấy rất bất ngờ, khi ra trước mặt Chúa. Có những người sống rất tấm thường, rất bình thường, rất nghèo khó coi như không cho gì cả, nhưng không chừng, họ đã cho đi rất nhiều, và trước mắt Chúa, họ là những vị đại thánh âm thầm. Vì khi Chúa đến, thấy họ đang cung cấp lương thực thiêng liêng cao quý cho biết bao nhiêu người. Điều bất ngờ thứ ba sẽ xảy tới, mà bài Phúc Âm hôm nay nói tới, đó là sự kiên trì bao dung của Chúa. Phúc Âm nói rằng: có những người nghĩ điều sai, làm điều xấu, họ tưởng rằng Chúa còn lâu mới tới, còn lâu tôi mới chết, rồi họ lợi dụng thời giờ, cuộc sống, tiền bạc, để say xưa, để bê bối, để áp bức. Chúa biết tất cả, nhưng Chúa kiên trì chờ đợi, Chúa không cản, không ngăn, không buồn thảm. Chúa luôn luôn tìm cách đưa họ về đường ngay chính. Nhưng Người đến cứu độ, Người sẽ ban ơn. Nếu ta tuyệt đối dứt khoát từ chối ơn Chúa, thì chính Ngài loại trừ ta ra ngoài ơn thánh, phải xuống hoả ngục. Nhưng bao giờ Chúa cũng bao dung, Chúa cũng chờ đợi, Chúa cũng muốn cứu mạng người về với Chúa, ngay trong giây phút sau cùng. Chính vì thế, chúng ta đừng kết án ai, việc đó là của Chúa. Anh chị em thân mến, Chúa là chủ thời gian. Chúa có thời gian của Chúa. Chúa có chương trình của Chúa. Chúa có cách phán xét của Chúa. Chúng ta hãy tin vào Ngài. Chúng ta luôn luôn cậy trông vào Thiên Chúa giàu lòng thương xót, mặc dầu chúng ta yếu đuối, hèn mọn, tội lỗi, nếu chúng ta khiêm nhường cậy trông như vậy, chúng ta sẽ được bình an khi Chúa đến. Điều bất ngờ đáng nói trong lúc này đối với chúng ta là: chúng ta đang được Thiên Chúa yêu thương, chúng ta đang được Thiên Chúa chúc lành, chúng ta đang được Thiên Chúa hướng dẫn và phục vụ, đó là điều rất có lợi, bởi vì chúng ta không đứng đáng chút nào, chúng ta hãy tạ ơn Chúa và hãy dùng ơn Chúa để yêu thương kẻ khác, phục vụ kẻ khác, tha thứ cho kẻ khác, chúc lành cho kẻ khác, có nghĩa là chúng ta cung cấp, phân phát lương thực Chúa ban cho những người chung quanh, những người thiếu thốn, để làm chứng chúng ta là môn đệ, làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Xin Chúa Thánh Thần, giúp cho chúng ta nắm bắt được ý Chúa nhắn gởi chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay, để chúng ta đi vào tương lai, dù có bất ngờ xảy tới điều gì đáng lo ngại, chúng ta vẫn giữ được niềm tin. Amen. Lễ thêm sức tại xứ Trung Thành, kinh 8, ngày 26-8-1999
Đã từ nhiều năm, họ đạo Cần Xây mong ước những đổi mới, đổi mới cơ sở, đổi mới tinh thần cộng đoàn. Những mong ước đó được các bề trên phụ trách trước đây thực hiện từng phần tuỳ theo hoàn cảnh và tuỳ theo khả năng. Nay những mong ước đó đang được thực hiện một cách sâu rộng. Nhờ sự nhiệt tâm và khôn khéo của cha sở mới, với tinh thần hưởng ứng và tham gia nhiệt tình của đông đảo các thành phần, họ đạo Cần Xây đã bước được một số bước tiến lớn trong việc đổi mới tâm hồn và bộ mặt họ đạo Trên đây là những thành công rất đáng kể. Nhưng đây cũng chỉ là những thành công ban đầu. Còn phải phấn đấu thêm, còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Thực vậy, hôm nay khởi công xây dựng nhà thờ mới là cũng khởi sự bắt đầu một chuỗi dài những phấn đấu mới. Trong chuỗi dài những phấn đấu mới đầy phức tạp này, tôi xin nêu ra một số phấn đấu để anh chị em cùng thông cảm. Trước hết là trong việc xây dựng nhà thờ mới, phải phấn đấu về tài chánh. Họ đạo anh chị em là một họ đạo nghèo, mà xây dựng một nhà thờ tuy chỉ bình thường cũng không thể thực hiện được bằng số tiền vài trăm triệu. Tôi biết là cha sở đã phải lo lắng nhiều, đã phải cầu cứu nơi này nơi kia. Tôi cũng biết là anh chị em trong họ đạo từ lớn tới nhỏ đã cố gắng góp phần của mình từng tuần từng tháng. Tôi cũng biết là rất nhiều ân nhân xa gần đã không ngại góp phần giúp đỡ họ đạo. Trong việc phấn đấu về tài chánh sẽ có nhiều phức tạp, sẽ có nhiều rủi ro, cho nên cần phải có một tinh thần can đảm kiên trì và một đức tin trong sáng. Ngoài vấn đề phấn đấu về mặt tài chánh, thì việc xây dựng một thánh đường đòi phải có sự phấn đấu về kỹ thuật, mỹ thuật tôn giáo. Nhà thờ không phải chỉ là nơi để nghe giảng dạy về Chúa, mà chính là nơi cần phải có những điều kiện thuận lợi để gặp gỡ chính Chúa qua Mình Thánh qua Kinh Thánh. Nhà thờ không phải chỉ là nơi dành cho việc cử hành các bí tích, tổ chức các lễ lạy, mà là nơi cần phải có một số điều kiện thuận lợi để hồi tâm, để cầu nguyện, để chiêm niệm. Nhà thờ không phải là nơi để trình bày những biểu hiện, những biểu tượng giúp chúng ta hướng về Chúa, nghĩ về Chúa, mà phải là nơi có những điều kiện thuận lợi để chúng ta trực diện với chính Đấng thiêng liêng vô hình. Khi hiểu được mục tiêu của việc xây dựng nhà thờ như thế, thì những người có trách nhiệm phải biết nghiên cứu và phải có một trình độ tương đối cao về kỹ thuật và mỹ thuật tôn giáo. Ngoài những phấn đấu trên đây, tôi nghĩ sẽ cần phải nói đến phấn đấu khác, đó là phấn đấu về mặt liên đới xã hội. Nhà thờ chúng ta không tách rời được khỏi địa phương, một địa phương đa số là không công giáo. Khi chúng ta xây dựng một thánh đường, chúng ta cần phải thấy thánh đường của chúng ta có một vị trí được trân trọng trước cái nhìn của đồng bào không công giáo. Muốn như vậy, thì việc xây cất sắp xếp nhà thờ nhà xứ phải được làm sao để những người ngoài công giáo tìm được ở nơi đây những giá trị về tình người, tình đồng bào, tình dân tộc, những gợi ý về đất nước, nhất là sự thương cảm dành cho những người túng thiếu nghèo nàn. Nếu họ đạo biết sắp xếp xây dựng nhà thờ nhà xứ trở thành những giếng nước ngọt thiêng liêng, những vườn hoa thiêng liêng, những làn gió mát thiêng liêng, thì họ đạo chúng ta, nhà thờ chúng ta sẽ có được một vị trí xứng đáng và sẽ trở thành gia sản của địa phương, của dân tộc, của đất nước, chứ không phải của riêng Hội Thánh Công giáo chúng ta. Sau cùng tôi thiết nghĩ là rất cần phải nhắc tới một phấn đấu khác rất quan trọng, đó là việc xây dựng nhà thờ phải nhắm vào mục đích đào tạo, tuyển chọn nhân sự, những nhân sự gọi là môn đệ Đức Kitô. Khi tôi nhìn việc xây dựng nhà thờ dưới ánh sáng của bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy là Chúa Giêsu đã muốn rằng khi chúng ta làm điều gì ích cho Hội Thánh, cho Nước Trời, thì việc quan trọng nhất, ích lợi nhất là đào tạo nhân sự, là đào tạo môn đệ Đức Kitô. Và trong việc đào tạo nhân sự, thì chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa nói là đào tạo trong trường thử thách, trong trường thánh giá. Chúa khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay là chính Đức Kitô, Đấng đào tạo cũng phải vác thánh giá đi trước, rồi những người được đào tạo cũng phải vác thánh giá của mình đi theo sau, không ai được miễn trừ luật khổ đau thử thách. Trong việc xây dựng một nhà thờ sẽ phát sinh ra biết bao thử thách, thử thách đó là sự mệt mỏi, sự thiếu thốn, sự va chạm, sự căng thẳng vv. Nếu chúng ta chấp nhận những thử thách đó và sống với những thử thách đó trong tinh thần yêu mến đi theo Đức Kitô, thì tất cả những sự thử thách đó sẽ đào tạo chúng ta trở thành những người môn đệ Đức Kitô, điều mà Đức Kitô hôm nay đã dứt khoát nói lên hình ảnh. Họ đạo Cần Xây anh chị em có thể là đi sau, bước sau, tiến sau, nhưng nếu chúng ta thực hiện những điều Chúa soi sáng cho chúng ta, thì chúng ta sẽ có những bước tiến đầy phẩm chất. Hôm nay chúng ta xin Chúa Thánh Thần, ơn sức mạnh, ơn khôn ngoan cho các con em chúng ta, nhưng đồng thời chúng ta cũng nài xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh và khôn ngoan, để chúng ta biết xây dựng, không phải chỉ là nhà thờ vật chất, mà là cộng đoàn, mà là tâm hồn, mà là gia đình tín hữu của chúng ta. Tôi tin rằng chúng ta khởi công trong ơn thánh, chúng ta sẽ thi công trong ơn thánh và sau này chúng ta sẽ kết thúc công trình cũng trong ơn thánh, miễn là chúng ta biết khiêm tốn, cậy trông phó thác vào ơn Chúa và làm hết sức của mình. Amen. Thêm sức tại nhà thờ Cần Xây, Chúa Nhật 29-8-1999
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, khi Chúa Thánh Thần ngự đến với Đức Kitô, thì Đức Kitô bắt đầu hoạt động, hoạt động của Đức Kitô được kể ra bằng những hoạt động tượng trưng: như là đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, giải thoát cho kẻ bị cầm tù, làm cho những người mù được thấy, trả lại vinh dự và tự do cho những người bị áp bức. Tất cả những hoạt động này được coi là những hoạt động khó. Khó không phải vì phải cố gắng, phải phấn đấu, mà khó ở những điểm sau đây. Một là những việc này có tính cách vị tha. Đức Kitô làm những việc đó chỉ nhắm vào lợi ích của người khác, chỉ nhắm vào vinh quang của Chúa Cha, không có một hậu ý nào tìm ích riêng cho chính mình, không có đổi chác. Rồi công việc này rất khó vì nó có tính cách dấn thân dấn thân. Dấn thân nghĩa là dấn mình vào những hoàn cảnh khó khăn, nguy cơ và đắp vào mình những rủi ro, nhận tất cả vì dấn thân cho lợi ích chung, cho lợi ích kẻ khác. Rồi những hoạt động trên đây còn khó ở chỗ là: nó có tính cách liên đới cao. Liên đới không có phải là tôi bố thí, tôi cho đi, tôi phục vụ cách đơn giản, mà liên đới có nghĩa là tôi chia sẻ số phận kẻ khác, tôi có trách nhiệm với kiếp người, những người khổ đau. Rồi sau cùng những hoạt động tôi vừa nói của Đức Kitô, còn khó ở tính cách sâu sắc của nó. Khi làm hoạt động bác ái kể trên, Đức Kitô đã vượt qua được cuộc sống đã qui định từ trước, bởi dư luận, bởi lợi ích chung, bởi bao nhiêu là lề luật, dư luận của xã hội nó qui định trước, còn Đức Kitô khi làm những việc bác ái đó, Ngài đã tiến sâu vào chân lý của Thiên Chúa, để khám phá thấy Thiên Chúa là tình yêu, mà con người là tạo vật được Thiên Chúa gọi, chia phần hạnh phúc với Thiên Chúa. Như vậy, Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy kết quả của sự Thánh Thần đến với Đức Kitô, là thúc đẩy Ngài hoạt động, là hướng dẫn Ngài hoạt động, mà hoạt động là làm những việc khó ở tính cách vị tha, dấn thân, liên đới và sâu sắc. Bây giờ đến lượt các tông đồ. Các tông đồ khi nhận được Thánh Thần, cũng đã ra đi hoạt động, và hoạt động của các tông đồ cũng là hoạt động khó khăn. Tông đồ Công vụ kể ra một số những khó khăn đó. Thí dụ: các tông đồ chúc lành cho những kẻ bắt bớ mình. Các tông đồ tha thứ cho những người xúc phạm đến mình. Các tông đồ dấn thân vào những nơi đầy bắt bớ, để rao giảng Phúc Am. Các tông đồ khiêm tốn nhận mình là phàm hèn, yếu đuối. Tất cả những hoạt động là rất khó, cũng vì tính cách vị tha, dấn thân, liên đới và sâu sắc. Những sự việc đã kể ra thời Đức Kitô, về các thánh tông đồ, cho phép tôi nghĩ rằng: để làm được những việc khó khăn về bác ái, về truyền giáo, về mục vụ, chúng ta nhất thiết phải có Chúa Thánh Thần, phải được Chúa Thánh Thần soi sáng, phải được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, phải được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chứ nếu không chúng ta chỉ nghe chính mình, chỉ theo dư luận mà không phải là động lực Chúa Thánh Thần, ánh sáng của Chúa Thánh Thần và đó chính là nguy cơ suy thoái lòng đạo. Anh chị em thân mến, khi suy nghĩ đến đây, tôi nhìn vào chính mình tôi, tôi thấy rằng có nhiều khi tôi đã làm những việc khó, nhưng không hoàn toàn đạo đức. Hơn nữa, cả những công việc không khó, tôi cũng đã làm một cách không trọn hảo. Ý thức mình như vậy, tôi đào trong tôi, trong vực thẳm tâm lý. trong vực thẳm tâm lý đó, tôi nhận biết tôi là ai, là kẻ yếu đuối, là kẻ tội lỗi. Rồi trong vực thẳm tâm lý đó, tôi sẽ cảm thương tất cả những ai yếu đuối như tôi. Khi nhìn lại quá trình như vậy, tôi thấy đó là một chuỗi ơn Chúa Thánh Thần, và trong chuỗi ơn Chúa Thánh Thần đó, tôi nhận ra ơn rất trọng là ơn biết mình. Theo kinh nghiệm của tôi, cái khó nhất, cái rất khó là biết mình, không phải biết mình theo ánh sáng dư luận, ánh sáng khoa học tự nhiên, của tự ái, mà là biết mình theo ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Nhiều khi chúng ta biết mình nông cạn, bởi vì không có ánh sáng của Chúa Thánh Thần, nhưng một khi có Chúa Thánh Thần soi dẫn, chúng ta khám phá thấy sự thực về chính mình, và sự thực đó, nhiều khi thê thảm, nhiều khi rất là nguy hại, không phải cho phần rỗi mình, mà cho lợi ích chung, cho Hội Thánh, cho cộng đoàn. Thực đáng ngại cho chúng ta, nếu chúng ta mất nhiều thời giờ, chăm chuyên tìm hiểu người khác, mà không chuyên cần tìm hiểu chính mình, bởi vì từ đó, sự sự sai lệch về mình, sẽ dẫn đưa đến nhiều tai hại, trong tu đức, trong nếp sống đạo, trong việc truyền giáo. Lúc nãy, ông đại diện họ đạo có mô tả họ đạo Ông Chưởng, tôi nghe, tôi thấy đúng, đúng phần nào thôi. Nó đúng ở bề mặt, còn bề sâu, về sự thực trước mặt Chúa, thì còn phải đi nữa với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Giáo lý về Chúa Thánh Thần không đủ soi sáng chúng ta. Nghi thức về Chúa Thánh Thần không đủ soi sáng chúng ta. Phải có chính Chúa Thánh Thần đến với ta, mà Chúa Thánh Thần chỉ đến với chúng ta, khi chúng ta khao khát, cầu nguyện, sám hối và sống khổ chế. Trong thánh lễ này, tôi cầu chúc họ đạo Ông Chưởng của anh chị em, được Chúa Thánh Thần đến, để soi sang, hướng dẫn đi vào hoạt động, từ sự biết mình, đến việc lành bác ái, đến việc rao giảng Tin Mừng trong thời điểm nhiều khó khăn. Amen. Lễ Thêm sức tại Ông Chưởng, ngày 30-08-1999
Thánh lễ giờ đây ở nhà thờ Bò Ot là một biến cố lớn. Mọi người đến đây đều vì linh mục Luy Nguyễn Hiếu Lễ, người mà chúng ta quen gọi một cách thân thương là Cha Ba. Cha Ba đã ra đi vĩnh viễn. Chúng ta qui tụ đông đảo, để tiễn biệt Ngài. Trong giờ phút thiêng liêng này, tôi nhìn lên Chúa Giêsu Kitô, để xin phép chia sẻ với anh chị em cảm nghĩ của tôi về Cha Ba. Cha Ba là một chứng nhân lịch sử. Suốt 92 năm tuổi đời, Cha đã chứng kiến rất nhiều chuyển biến. Từ Nam ra Bắc, rồi từ Bắc trở về Nam, Cha Ba đã có mặt trong nhiều công trình quan trọng làm nên những đổi thay mang tính cách quyết định cho Đất nước và Giáo Hội Việt Nam. Riêng 60 năm linh mục của Cha Ba đã có nhiều nét đẹp. Nếu phải nêu lên những nét đẹp nhất, thì tôi thấy mấy nét đặc biệt này. Trước hết là ý thức của Cha Ba về mục đích đời Linh mục của mình. Theo những gì Cha đã tâm sự với tôi, thì Cha đã nhận thức một cách rõ rệt và sâu sắc về mục đích đời linh mục của mình. Mục đích đó là rao giảng Tin Mừng. Đối với Cha Ba, rao giảng Tin Mừng là một niềm tự hào và là một bổn phận cần thiết (x. 1Cor 9,16). Xác tín về mục đích căn bản đó, Cha Ba luôn đi về phía trước với sự bình an và vui mừng trong Chúa Thánh Thần. Một khi thực sự tha thiết với Tin Mừng, người môn đệ Chúa sẽ nhận được sức mạnh và khôn ngoan để dấn thân cho Tin Mừng. Hoàn cảnh càng khó, dấn thân càng có ý nghĩa. Cũng vì tha thiết với mục đích Tin Mừng, Cha Ba đã rất gắn bó với các họ đạo được trao phó và đã luôn hiệp nhất với các vị Bản quyền địa phận. Những ai quen biết Cha Ba đều làm chứng về sự Cha Ba siêng năng phục vụ Lời Chúa và các Bí tích cho các giáo đoàn và về sự Cha Ba kính trọng vâng phục các Đấng Bề trên. Đặc biệt là Cha Ba rao giảng Tin Mừng cho mọi người mọi nơi bằng chính tư cách linh mục của mình. Tư cách linh mục là một hình ảnh rất đẹp của Cha Ba. Ngay thẳng trung thành với những nguyên tắc đời tu, chừng mực điều độ trong nếp sống, đứng đắn khiêm hạ trong các tiếp xúc, chín chắn tiết độ trong mọi phát biểu, đơn sơ nhiệm nhặt trong việc sử dụng các tiện nghi. Không kêu ca than trách, không chỉ trích ai, không kết án ai, không đòi hỏi gì, chỉ lo chu toàn bổn phận của mình một cách âm thầm. Luôn có mặt trong các buổi tĩnh tâm linh mục hàng tháng, để bồi dưỡng đào tạo chính mình. Dù chỉ thế thôi, thiết tưởng Cha Ba đã có một tư cách đạo đức và văn hoá rất đáng được trân trọng của người rao giảng Tin Mừng. Với những nét đẹp trên đây, Cha Ba đã thiết lập được nhiều liên đới đa dạng với xã hội Việt Nam trong nhiều chặng đường lịch sử khác nhau. Trong tất cả những liên đới đa dạng ấy, Cha Ba đã không ngừng gieo rắc đạo đức và văn hoá theo lương tâm của người tu chân chính. Bảo vệ, phát triển đạo đức và văn hoá, thiết tưởng đó là những cống hiến phải được mọi người suy nghĩ, ghi nhớ và ghi ơn. Kính thưa Cha Ba, Cha đã sống bình thường, nhưng không tầm thường. Miệng lưỡi Cha rất ít nói, nhưng tư cách linh mục của Cha đã nói rất nhiều. Tôi hiểu đời Cha. Suốt đời Cha là một chuyến đi về Thiên Chúa là Cha trên trời. Cha đã đi cùng với đồng bào. Cha đã đi chia sẻ lịch sử chung của dân tộc. Cha đã đi phục vụ Tin Mừng. Hôm nay, Cha đã tới đích. Xin thân ái chúc mừng Cha. Xin hết lòng ngợi khen ca tụng Chúa. Chúng ta sẽ lại gặp nhau trong vinh quang và tình yêu Thiên Chúa đời đời. Amen. Thánh lễ an táng linh mục Luy Gonzaga Nguyễn Hiếu Lễ, Tại nhà thờ Bò-Ot, ngày 24-9-1999
Nhìn lên cung thánh giờ đây, anh chị em thấy ba vị Giám mục của Long Xuyên. Một vị 92 tuổi, một vị 72 tuổi, một vị 55 tuổi. Rất ít thấy một giáo phận còn đủ ba thế hệ giám mục như thế này. Nhưng điều đáng nói hơn là cả ba thế hệ giám mục Long Xuyên đều theo đuổi những đường hướng mục vụ rất thích hợp cho việc chuẩn bị Năm thánh năm 2000. Khẩu hiệu của Đức Cha Micae mang lời nguyện chúc “Đức Kitô ở trong mọi người”. Khẩu hiệu của Đức Cha Gioan Baotixita bày tỏ lòng tha thiết với “Giới răn mới” của Đức Kitô. Khẩu hiệu của Đức Cha Giuse diễn tả tâm tình khẩn nguyện cho sự hiệp nhất theo lời cầu của Đức Kitô: “Để tất cả nên một”. Ba khẩu hiệu trên đây đã được chọn không phải cho sự thánh hoá tư riêng, nhưng để phục vụ lợi ích chung cho cộng đoàn. Vì thế sẽ có lợi cho cộng đoàn, nếu anh chị em nắm bắt được ít ra vài đặc điểm của đường hướng chung trên đây mà tôi gọi là tập trung vào Đức Kitô. Để nêu lên những việc quan trọng của đường hướng tập trung vào Đức Kitô, tôi xin dựa vào bài Phúc Âm hôm nay (Ga 1,47-51). Việc thứ nhất là hăm hở gặp gỡ Đức Kitô. Phúc Âm cho thấy ông Nathanael, khi vừa được ông Philipphê gọi, đã vội tìm đến gặp Đức Kitô. Chúng ta cũng hãy làm như vậy. Học giáo lý, nghe giảng về Đức Kitô là việc tốt cần làm. Gặp nhau để học hỏi về Đức Kitô là việc lành cần thực hiện. Nhưng việc cần thực hiện hơn hết là hãy gặp gỡ chính Đức Kitô. Gặp gỡ bằng sự cầu nguyện chung riêng. Gặp gỡ bằng việc suy gẫm Lời Chúa trong Phúc Âm. Gặp gỡ bằng việc chầu Mình Thánh và chịu Mình Thánh trong thánh lễ. Gặp gỡ bằng sự lắng nghe Đức Kitô nói trong lòng, qua các gương sáng và tiếp cận với các cảnh khốn khổ cùng cực. Gặp gỡ bằng sự đón nhận Đức Kitô đến với chúng ta qua các biến cố vui buồn, đặc biệt là qua những khổ đau của thánh giá. Hãy gặp gỡ Đức Kitô với tâm hồn khiêm nhường, khó nghèo, đơn sơ, mến thương, khao khát. Những hình thức gặp gỡ Đức Kitô mang ý hướng phô trương, sẽ chẳng bao giờ nhận ra được dung mạo thực của Đức Kitô, là tình yêu cứu độ giải phóng con người. Việc thứ hai là khiêm nhường tuyên xưng Đức Kitô. Theo Phúc Âm kể thì: Ông Nathanael, chỉ sau ít phút trao đổi với Đức Kitô, đã tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là vua Israel. Chúng ta cũng hãy làm tương tự như vậy. Hãy năng tuyên xưng Đức Kitô là Đấng cứu độ, là hy vọng, là đường, là sự thực và là sự sống của chúng ta. Tuyên xưng một cách tự ý, có thể không cần đến công thức, lễ nghi. Tuyên xưng Đức Kitô là đón nhận Đức Kitô với tất cả tình yêu dấn thân, với sự chấp nhận mọi hy sinh mà ý chí dấn thân đòi hỏi. Khi tuyên xưng Đức Kitô là Đấng cứu độ, tôi thường nghĩ đến Hội Thánh, đến giáo phận, đến chính tôi. Lúc đó, tuyên xưng Đức Kitô là Đấng cứu độ sẽ đồng nghĩa với việc cầu xin Chúa thương đổi mới tâm hồn chúng ta, thương dắt chúng ta ra khỏi thói quen kiêu căng, lười biếng, ích kỷ, thương ban cho chúng ta ơn biết mình, ơn sám hối, ơn đứng dậy, ơn biết yêu thương như Chúa yêu thương. Rồi hãy tuyên xưng Đức Kitô, là Đấng cứu độ trước mặt xã hội bằng chính đời sống mang thực chất đạo đức của chúng ta. Việc thứ ba là tỉnh thức cộng tác với Đức Kitô. Theo Phúc Âm thuật lại thì Đức Kitô đã cho ông Nathanael biết là ông sẽ thấy trời mở ra và sẽ thấy các thiên thần lên xuống trên Con Người. Tôi hiểu các thiên thần lên xuống là vì tuân lệnh Chúa Cha, hợp tác với Chúa Giêsu để xây dựng Nước Trời, theo sáng kiến của Thánh Thần Tình yêu. Đó là một gợi ý để chúng ta cũng hãy cộng tác với Đức Kitô như vậy. Công việc cộng tác này đòi một tinh thần tỉnh thức cao, biết nhìn xa trông rộng, biết phân định thánh ý Chúa và ý riêng ta, biết nắm bắt thời cơ. Bởi vì Nước Trời được thiết lập ngay giữa chúng ta. Mà chúng là là những người cụ thể sống trong thời gian cụ thể, trên mảnh đất cụ thể, giữa những hoàn cảnh xã hội, tôn giáo, văn hoá, kinh tế, chính trị cụ thể. Do đó để cộng tác tốt thì phải biết nghiên cứu và sáng tạo trong ơn Chúa Thánh Thần. Năm thánh sắp tới rồi. Nhìn vào mình, chúng ta thấy chúng ta còn rất xa lý tưởng thánh thiện. Thấy như thế là thấy đúng sự thực. Cái nhìn đó không là một xúc phạm đến Chúa, nhưng lại là một khởi đầu tốt để Chúa Giêsu Kitô kêu gọi chúng ta. Người đến gọi những ai tội lỗi. Người là Đấng cứu độ chúng ta. Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà chúng ta mới có thể đi đúng đường về Nhà Cha, mới có thể đi tới Nhà Cha, mới có thể gặp được chính Cha là tình yêu giàu lòng thương xót. Chúng ta xác tín như vậy, chúng ta cầu xin như vậy. Chúng ta rèn luyện mình như vậy. Chúng ta đi mãi trên con đường tập trung vào Đức Kitô như vậy. Lễ các Đức Tổng lãnh thiên thần, tại nhà thờ Long Xuyên, ngày 29-9-1999
Nói chung, mọi dòng tu đều muốn phục vụ giáo phận, không những trong tinh thần hiệp thông, mà còn dưới hình thức được sai đi của Đấng bản quyền giáo phận. Dựa vào các công việc cụ thể để đánh giá khả năng cộng tác của các dòng tu, tôi có vài nhận xét sau đây: Những lãnh vực có sự cộng tác của các dòng tu 1. Lãnh vực mục vụ: Trong các giáo xứ, nhiều tu sĩ đã cộng tác tốt với các hoạt động Bí tích, giáo lý, phụng vụ, hội đoàn... 2. Lãnh vực truyền giáo: Phương hướng mở ra về phí những người ngoài công giáo càng ngày càng xuất hiện rõ nơi nhiều dòng tu với những hoạt động khác nhau. 3. Lãnh vực tư tưởng: Một số dòng tu đã tìm được sức sống mới, khi dấn thân lo cho các người nghèo, tàn tật, phong cùi, các trẻ em gặp cảnh đổ vỡ gia đình, các người bị bỏ rơi, các nạn nhân của các tệ nạn xã hội... 4. Lãnh vực đào tạo: Nhiều tu sĩ có khả năng chuyên môn đang góp phần trong các nơi đào tạo, huấn luyện, như các chủng viện, các nơi tĩnh tâm, các khóa bồi dưỡng, các lớp hội thảo. Những dòng tu có những cộng tác cụ thể trong các lãnh vực như trên không những đã hội nhập vào sinh hoạt giáo phận, mà còn xây dựng được cho mình một vị trí tốt đề tồn tại và để phát triển. Rất tiếc là còn một số nhỏ dòng tu, qua nhiều năm, vẫn chưa làm chứng được là mình có nhiều khả năng cộng tác với giáo phận, ít là trong các lãnh vực kể trên. Những lý do là từ nhiều phía. Như thao thức tìm lợi ích cho dòng hơn tìm lợi ích cho giáo phận. Như đào tào theo hướng xây dựng chỗ đứng cho cá nhân và tập thể dòng hơn theo nhu cầu giáo phận. Như không khéo phối hợp luật dòng với luật xã hội và sinh hoát giáo phận. Những kết quả tốt có chiều sâu của cộng tác Không phải mọi hình thức cộng tác và phục vụ của dòng tu trong giáo phận đều sinh được những kết quả lý tưởng cho giáo phận. Theo kinh nghiệm tôi thấy, để các tu sĩ phục vụ cho giáo phận gây được kết quả thực sự tốt, họ không được thiếu điều kiện quan trọng này là: Chính các tu sĩ phải có một sự trưởng thành luôn luôn được phát triển. Trưởng thành về nhân bản, về trí thức, về nhạy bén xã hội, về đời sống thiêng liêng, về ý hướng tận hiến. Tất cả các sự trưởng thành này đều dựa trên nền tảng Đức Kitô và tỉnh thức thường xuyên đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, để tìm thực thi ý Chúa Cha. Nhờ vậy, sự cộng tác của dòng tu với giáo phận sẽ giúp nhiều cho giáo phận trong những cái nhìn tiên tri và trong những việc làm mang tính cách ngôn sứ. Nghĩa là áp dụng Lời Chúa một cách khôn ngoan, đáp ứng nhu cầu khẩn cấp của Nước Trời đúng lúc, đúng nơi, đúng hoàn cảnh, đúng hướng Tân-Phúc-Âm-hóa. Một sự cộng tác như thế sẽ đem lại cho những con người mình phục vụ sự sống thực, và sự sống đó là rất dồi dào. Rất mừng là một số dòng tu đã có được nhiều cộng tác mang chất lượm như vừa nói. Một số khác thì chưa, lý do là vì họ còn nhiều thiếu sót trong việc đào tạo nội bộ, nhất là về mặt linh đạo. Nên chú ý điều này: Nếu không nâng cao trình độ trí thức đạo, không khiêm nhường tỉnh thức phân định và không can đảm cải hóa nội tâm thì sẽ không loại trừ được những sai lầm về ơn gọi và về chương trình cứu độ của Chúa Giêsu Phục sinh. Trong một tình hình như thế, dòng tu sẽ rất tầm thường yếu kém trong việc góp phần đưa nhân loại vào trật tự của Thiên Chúa. Hơn nữ, không chừng họ sẽ vô tình cộng tác với các thế lực tục hóa gây nên việc thoái hóa tinh thần Phúc Âm. Viễn tượng cộng tác Phong trào tông đồ giáo dân ngày càng lớn mạnh. Họ có khả năng cộng tác ới các giám mục, linh mục trong nhiều lãnh vực. Kết quả được chứng minh là tốt. Phong trào phục hưng tinh thần tu trì trong các tôn giáo bạn tại Việt Nam đang đi lên. Hình thức tu tại gia cũng rất đáng kể. Các giá trị của người chân tu, như sự từ bỏ, tinh thần chiêm niệm, lòng thương cảm nhân ái, sự gắn bó với dân tộc... đang được vun trồng tốt tại nhều nơi ngoài Hội Thánh Công giáo. Tất cả những phong trào đạo đức trên đây đang góp phần làm nên dấu chỉ của thời đại hướng về thế kỷ XXI. Thế kỷ đang tới là một thế kỷ sẽ có nhiều khủng hoảng rất nguy hiểm. Tôi xác tín điều này: Sức mạnh cứu độ cho nhân loại và dân tộc thế kỷ XXI dứt khoát sẽ là đạo đức, một thứ đạo đức quân bình, lành mạnh. Các dòng tu được Chúa mời gọi hãy khiêm tốn cởi mở cộng tác ơ tất cả những tâm hồn đạo đức. Một số dòng đã nhạy bén với mời gọi này. Kết: Thách đố lớn nhất của các dòng tu thế kỷ XXI là khả năng mở ra, khả năng phân định và khả năng lựa chọn. Hãy mở rộng cái nhìn để biết mình, biết đời , biết thánh ý Chúa. Nhất là mở rộng cái tâm với tình bao dung của người con Thiên Chúa là Cha chung của mọi người. Cùng với việc mở ra là việc phân định tình hình mình đang sống. Thực tế thường có nhiều phức tạp. Tất nhiên phải phân định dưới ánh sáng Phúc Âm, nhưng không loại trừ phương cách triết học, khoa học và xã hội học. Sau phân định là chọn lựa phương án giải quyết khả thi, làm được và được làm. Tiếng nói thích hợp nhất của Tin Mừng trong thế kỷ XXI là yêu thương. Yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Yêu thương nhất là trong phát triển à trong các liên đới. Nếu chuẩn bị được như thế, các dòng tu chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho các giáo phận. Thiết tưởng đó cũng là niềm vui cho các dòng tu. HỌP HĐGM VIỆT NAM 1999 (Tại ĐCV Sao Biển Nha Trang 11-10-17-10-1999)
Sau nhiều tháng cân nhắc, chính phủ Ấn Độ đã chấp thuận yêu cầu của Toà Thánh. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sẽ được vào Ấn Độ để công bố tông huấn “Hội Thánh tại Á Châu”. Đây là bản văn đúc kết công việc của Thượng Hội Đồng các Giám Mục Á Châu đã được Đức Thánh Cha duyệt. Sự kiện Đức Thánh Cha được vào Ấn Độ lần này là một thách đố lớn cho Hội Thánh tại Á Châu. Nên biết Á Châu là một lục địa có nhiều tôn giáo truyền thống rất mạnh. Hầu như nước nào cũng gắn liền với một tôn giáo đã có công dựng nước và giữ nước. Tôn giáo đó thâm nhập sâu sắc vào nền văn hoá và chính trị của đất nước. Bộ mặt mỗi xã hội thường được giới thiệu bằng tên một tôn giáo mạnh, như Ấn Độ với Ấn giáo, Indonesia, Pakistan với Hồi giáo, Thái Lan, Lào, Campuchia với Phật giáo.Trong thực tế đó, xem ra thái độ chính trị của hầu hết các nước Á Châu đối với các tôn giáo thiểu số đều dựa trên cơ sở của bốn đánh giá này: Tổ chức thiểu số ấy có công đối với đất nước mình không? Tổ chức thiểu số ấy có cần cho dân tộc mình không? Tổ chức thiểu số ấy có quyền đối với Nhà nước mình không? Tổ chức thiểu số ấy có nguy hại gì cho xã hội mình không? Nhận thức về bốn thực tế đó thường đi kèm với chính sách bao dung của các tôn giáo truyền thống ôn hoà. Tại hầu hết các nước Á Châu, Công giáo là một thiểu số rất bé nhỏ. Trước một tình hình như thế, Hội Thánh Công giáo đã giới thiệu mình như thế nào. Từ Công đồng Vatican II đến nay, Hội Thánh tại Á Châu thường được giới thiệu bằng bộ mặt mang tính cách thăng tiến con người và xã hội. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII nhấn mạnh đến nhiệm vụ Phát triển. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đề cao sứ mạng xây dựng Hoà Bình. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cổ võ tinh thần Liên đới và Đối thoại. Các giới thiệu này được thực hiện bằng ngôn từ chủ trương và bằng các việc làm cụ thể. Kết quả không nhiều. Phải đợi đến Mẹ Têrêsa Calcutta. Mẹ giới thiệu Hội Thánh qua chính con người và đời sống của Mẹ. Chiêm niệm sâu, khó nghèo tột bậc, yêu thương chan hoà, dấn thân triệt để cho kẻ cùng cực, chân thành chọn chỗ rốt hết. Kết quả được chứng minh là tuyệt vời. Tại Ấn Độ dân chúng yêu thương Mẹ, nhiều vị lãnh đạo tôn giáo truyền thống có cảm tình với Mẹ, Nhà nước trân trọng Mẹ. Kinh nghiệm này cũng giống như nhiều kinh nghiệm nhỏ bé tại nhiều địa phương ở Việt Nam hiện nay. Tất cả các nhận thức trên đây đang giúp cho các giáo xứ, các dòng tu và các người đứng dầu cộng đoàn tại Việt Nam trong việc phân định tình hình và chọn lựa phương cách giới thiệu Tin Mừng. Nhiều thành kiến không tốt về Hội Thánh từ quá khứ để lại vẫn còn sâu đậm và rộng rãi trong nhiều địa phương xã hội Việt Nam. Trong bối cảnh đó, nếu xét về công, về cần, về quyền, về nguy hại, thì một số cá nhân, cộng đoàn công giáo sẽ có thể gặp không thiếu khó khăn trong phấn đấu dành cho mình một chỗ đứng được trân trọng. Nếu nhìn đạo theo cái nhìn Á đông là tu thân, trau tâm sửa tánh, thì ta đâu dám nói là mình luôn thực sự nêu gương sáng thánh thiện. Vì thế, sẽ là một ảo tưởng, nếu chúng ta tưởng rằng, việc Đức Thánh Cha đến Ấn Độ công bố tông huấn về Hội Thánh tại Á châu cũng như việc cử hành các lễ nghi Năm Thánh năm 2000 sẽ tự nó thay đổi được tình hình công giáo tại Á châu nói chung và tại Việt Nam nói riêng. Thiết nghĩ hai sự kiện đó sẽ chỉ giúp ích cho chúng ta, nếu chúng ta thực tâm trở về với Chúa. Trở về với Chúa là gặp gỡ Đức Kitô, để cùng với Người và trong Người, chúng ta sống đúng thiên chức người con bé nhỏ của Cha trên trời, luôn tuân phục ý Cha, bước đi đúng hướng Thánh Linh soi dẫn. Trở về với Chúa là trau tâm sửa tính theo Phúc Âm, sao cho con người và đời sống đạo đức chúng ta tự nó toả sáng, phát sóng. Trở về với Chúa là luôn luôn mở lòng trí ra một cách khiêm nhường và tin tưởng để đón nhận ánh sáng và lửa Chúa Thánh Linh. Hoạt động Chúa Thánh Linh trong ta lúc đó sẽ như một phép rửa mầu nhiệm đổi mới toàn diện con người chúng ta. Chúng ta sẽ biết thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, và biết yêu thương mọi người như Chúa yêu chúng ta. Chúng ta hết mình trở về với Chúa là chúng ta thuộc về Chúa , có thực chất Kitô hữu. Lúc đó, chúng ta thực sự ưu tiên tìm kiếm Nước Trời, rồi mọi sự khác Chúa sẽ lo cho chúng ta, như lời Chúa đã hứa (Mt 6,33). Trong việc trở về với Chúa, chúng ta đặc biệt trở về với giới răn mới của Đức Kitô. “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương chúng con” (Ga 13,34). Cũng trong tinh thần đó, chúng ta dứt khoát trở về với dấu chỉ chính thức người môn đệ Đức Kitô. “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau” (Ga 13,35). Mang trong mình dấu chỉ yêu thương, chúng ta luôn trở về học hỏi mẫu gương Chúa Giêsu. “Hãy học cùng Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Hiện nay, Satan đang ráo riết hung hăng cản ngăn việc trở về với Chúa theo đúng đường lối Phúc Âm như trên. Thực đáng sợ cho Hội Thánh, vì tại nhiều nơi trong chính Hội Thánh, Satan vẫn đang ung dung dùng hình thức đạo đức gieo rắc kiêu căng, hận thù, chia rẽ. Nó xúi giục con cái Chúa dửng dưng với Lời Chúa, với Mình Thánh Chúa và với sám hối trở về. Không thiếu người đi theo nó, phản đối lại khiêm nhương yêu thương. Hãy tỉnh thức cầu nguyện và chay tịnh để đón nhận ơn trở về. Đó là điều Đức Mẹ Maria tha thiết kêu gọi chúng ta, để chúng ta có thể cộng tác một cách hữu hiệu với Đức Thánh Cha trong việc loan báo Tin Mừng cho Á châu nói chung và cho Việt Nam nói riêng.
Nhiều cá nhân và cộng đoàn đang sa sút đạo đức. Một trong những nguyên nhân là vì người ta không còn biết sợ, đặc biệt là vì chính lương tâm đã mất khả năng sợ tội. Riêng nơi những người có đức tin, tình hình lương tâm cũng đang diễn biến phức tạp. Tâm tình kính sợ Chúa nhiều nơi đang nguội dần, nhận thức về sự Chúa phán xét đang yếu dần, cái nhìn về số phận đời sau đang mờ dần. Người ta thường chỉ sợ những khó khăn xảy ra cho cuộc sống, chứ không sợ những cản ngăn việc cải hoá chính mình để được sự sống mới, hầu có thể hưởng hạnh phúc với Chúa đời sau. Không biết sợ như thế sẽ là một thảm hoạ cho cá nhân và cho cộng đoàn. Trong đời sống tự nhiên, biết sợ là một khả năng thiên phú để tự vệ và để tồn tại. Trong đời sống thiêng liêng, biết sợ là một động lực quí giá để giữ mình cho trong sáng và để trở thành con người có ích cho xã hội. Biết sợ đúng những gì đáng phải sợ, đó là một nhu cầu của cuộc sống Phúc Âm. 1. Biết sợ những cảnh báo Phúc Âm về các tai hoạ sẽ xảy ra, do tội lỗi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra nhiều cảnh báo về các tai hoạ thuộc nhiều hình thức. Tất cả đều rất nghiêm trọng. Thí dụ những tai hoạ sau đây: Sẽ rơi vào cảnh héo tàn, cằn cỗi, như cây vả bị Chúa chúc dữ (Mc 11,2). Sẽ bị đuổi ra khỏi Nước Chúa, như những người được mời vào dự tiệc cưới mà dửng dưng bất cần (Lc 13,22). Sẽ bị chối từ không được gặp Chúa, như 5 người trinh nữ khờ dại (Mt 25,11-12). Sẽbị rút lại ơn Chúa đã ban, như người đầy tớ được trao nén bạc mà không làm ra lời (Lc 19,24). Sẽ bị tàn phá bình địa, như thành Giêrusalem bị huỷ diệt, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào (Lc 19,44). Sẽ bị ném xuống địa ngục, như những người bị Chúa kết án ngày phán xét chung (Mt 25,45). Nên coi những cảnh báo trên đây như gửi cho từng cộng đoàn và cho từng người chúng ta. Tai hoạ nào cũng rất đáng sợ. Lịch sử cho thấy tất cả các tai hoạ ấy đều đã xảy ra đó đây và cũng đang xảy ra nơi này nơi nọ. 2. Biết sợ những cảnh báo Phúc Âm về các thứ tội gây nên hình phạt nặng nề. Được nhắc đến nhiều nhất là những tội sau đây: Tội kiêu ngạo xâm phạm đến quyền tối cao tuyệt đối của Thiên Chúa. Như trường hợp Lucife, các tổ tông Adong-Evà, và như trường hợp các người Pharisêu kiêu hãnh tưởng mình đạo đức hơn người khác, chắc chắn mua được Nước Trời bằng công trạng của mình (Mt 23,1-26). Tội cứng lòng không biết xót thương kẻ khác. Xem dụ ngôn tên mắc nợ không biết thương xót (Mt 18,23) và số phận dành cho những người thiếu bổn phận liên đới đối với những người khổ cực (Mt 25,41-46). Tội lên mặt xét đoán người khác. Thấy cái rác trong con mắt người ta mà không thấy cái xà trong con mắt của mình (Mt 7,1-6). Tội lười biếng dửng dưng không tỉnh thức, không phấn đấu để phát triển ơn Chúa, nhất là không chịu sám hối (Mt 11,21-24). Không đón nhận và chăm sóc hạt giống tốt được Chúa gieo vào (Lc 8,11-14). Tội lạm dụng danh nghĩa Chúa, để làm theo ý riêng, phô trương hình thức, bỏ vạ cáo gian, hống hách bắt nạt kẻ khác (Mt 23,1-26). Có thể nói tất cả các thứ tội trên đây đều phát xuất từ cái tâm. Cái tâm ác, cái tâm kiêu, cái tâm hẹp hòi ích kỷ, cái tâm mất trật tự, cái tâm gian dối, cái tâm khép kín. Biết đâu các thứ tâm đó đều có mặt trong ta, cái nhiều cái ít. Nếu biết sợ và đặt ra cho mình nghi vấn đó, đề xét mình sám hối, thì chúng ta đã nắm được chìa khoá mở ra về một tương lai tươi sáng. 3. Biết sợ những cảnh báo Phúc Âm về những gì đi trệch thánh ý Chúa là hướng đi của cuộc đời. Đời ta có một hướng đi. Hướng đó là hướng đi về Nhà Cha trên trời. Mỗi bước đi phải là mỗi bước của người con thảo. Bước đi trong thiên chức được làm con Chúa trong Đức Kitô. Như Đức Kitô, chúng ta làm theo ý Cha, nói theo Lời Cha, thao thức những gì Cha thao thức, chỉ muốn những gì Cha muốn, qui hướng về Cha mọi danh dự và vinh quang từ trong đến ngoài. Tắt một lời, ý Chúa phải là lương thực của chúng ta, là điều làm cho chúng ta trở thành anh chị em với Đức Kitô (Mt 12,50). Sẽ rất nguy hiểm, nếu chúng ta không thực thi đúng ý Chúa Cha, cho dù những việc chúng ta làm mang tên là đạo đức. “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong những ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ đó sao? Bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi: Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”(Mt 7,21-23). Lời cảnh báo trên đây rất là nghiêm khắc và bất ngờ. Thực đáng sợ. Thực đáng suy nghĩ. Suy nghĩ để lo trau tâm sửa tính hơn là để lo chuyện quyền nọ chức kia. 4. Biết sợ những cảnh báo Phúc Âm về những bất ngờ trong sự được nhận vào Nước Trời. Tại nhiều nơi trong đạo, không thiếu người hay tự phụ khoe mình là đã làm việc lành nọ việc thiện kia. Nhưng Chúa Giêsu quả quyết: “Tôi nói cho các ngươi hay: Từ phương đông sang phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cưới cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacob trong Nước Trời. Còn con cái Nước Trời sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8,11). Nguyên do là vì những ai tự phụ, tự đắc, tự mãn, chỉ ở điểm kiêu ngạo đó thôi, cũng đã không giữ đúng đạo Phúc Âm. Họ tự ngăn cản họ thuộc về Nước Trời. Đang khi những người khác, tuy ít biết đạo và yếu đuối, nhưng khiêm tốn biết mình, sám hối, cậy trông. Họ sẽ được Chúa nhận vào Nước của Người. Tại nhiều nơi trong đạo, không ít người vẫn nhân danh đạo xây dựng uy tín, tìm cách nổi nang, ham hố danh vọng, lạm dụng danh nghĩa. Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Thầy bảo thật với anh em: Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,2). Theo cảnh báo trên dây, biết đâu chúng ta đang tự loại trừ chính mình ta. *** Sau khi nhận thức các cảnh báo, chúng ta thường hay đưa ra một giải pháp để trấn an, đó là cầu xin lòng thương xót Chúa. Nhưng chúng ta đừng quên điều này: cầu xin ơn thương xót sẽ chỉ thực sự là một lời cầu cứu, khi nó phát xuất thực sự bởi tình trạng thực sự biết sợ một hiểm nguy thực sự. Phải chấp nhận sự sợ đó một cách can đảm và khiêm tốn. Đó là một sự sợ lành mạnh giúp cho niềm tin vào lòng Chúa thương xót được có thực chất. Chúa muốn một niềm tin trần trụi, nghèo khó, khẩn thiết, sám hối, thanh luyện khỏi mọi kiêu kỳ đối với Chúa và đối với mọi người. Niềm tin như thế sẽ mở rộng lòng ta, để có thể đón nhận ơn thương xót của tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta rồi sẽ ra đi, bỏ lại tất cả, để về với Cha. Được thuộc về Cha, được ở bên Cha mã mãi, đó là hạnh phúc đời ta. Nhưng chúng ta không tự mình định đoạt được cho mình điều quan trọng đó. Chỉ Chúa mà thôi. Vì thế phải cộng tác với Chúa. Nhưng chúng ta có tự do không cộng tác với Chúa. Chúng ta có tự do nghĩ sai, chọn sai, nói sai, làm sai, đi sai. Chúng ta có tự do không tỉnh thức, không cầu nguyện, không sám hối. Kết quả sau cùng là chúng ta mất hạnh phúc được ở cùng Cha. Thành ra, cái đáng sợ nhất chính là sự không biết dùng tự do của chúng ta. Bài nói chuyện với các Linh mục tu sĩ, tháng 11-1999
Chúa Giêsu trong những giờ sau hết đã không vui. Tâm sự của Người đầy xao xuyến. Người an ủi các môn đệ, bởi vì Người thấy trước họ sẽ bị nhiều đau khổ. Chính Chúa Giêsu cũng rất lo buồn. Thánh sử Matthêu viết:“Người bắt đầu cảm thấy buồn sầu xao xuyến. Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng: Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt 26,37-38). Thánh sử Luca ghi thêm một chi tiết: “Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi. Nên càng khẩn thiết cầu xin. Mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Chỉ mấy hàng trên đây cũng đủ cho thấy nỗi lo buồn của Chúa Giêsu lúc đó là cực kỳ khủng khiếp. Chúa Giêsu hứa sự sống lại, nhưng Người thấy rõ trên con đường tới phục sinh, Người cũng như các môn đệ sẽ phải phấn đấu bước đi vất vả, cực nhọc, thậm chí phải chấp nhận một cái chết đau thương, cô đơn, tủi nhục, như một của lễ đền tội thay cho nhiều người. Xưa là như thế, còn nay thì sao? Trong những ngày cuối thế kỷ này, Chúa Giêsu trong Hội Thánh có những lo buồn xao xuyến không? Người có phải nói lên lời xưa thê thảm: “Tâmhồn Thầy buồn đến chết được” không? Tôi mong đừng có. Nhưng tôi sợ là có. Nhìn lại quá khứ, tôi thấy nhiều mất mát đau lòng. Các giáo đoàn của Hội Thánh sơ khai xưa rất phồn thịnh, nay đã bị chìm. Còn đâu những vẻ vang của các giáo đoàn Côrintô, Galát, Ephêsô, Philiphê, Thêxalônica? Các giáo phận nổi nang của thánh Augutinh và của Bắc Phi nay đã trôi vào thế giới không công giáo. Trận bão tranh chấp quyền lực đã cắt Hội Thánh ra hai mảng lớn không nhìn nhận nhau: Công giáo và Chính thống. Cuộc cải cách đã là dịp ra đi của nhiều miền nhiều nước, để gia nhập Tin Lành, tách lìa khỏi công giáo. Các cuộc cách mạng chính trị ở Pháp, Ý, đã khởi đầu đẩy Hội Thánh ra ngoài lãnh vực chính trị, xã hội ở khắp nơi. Hiện nay, tinh thần dửng dưng, tinh thần thực dụng, tinh thần tục hoá cũng là những cơn lũ lụt đang tàn phá đức tin và luân lý. Nhiều nơi có đạo, nhưng không giữ đạo. Công đồng Vatican II, các thượng Hội đồng, các cuộc di chuyển của Đức Giáo Hoàng vẫn không cản được sự bùng nổ những khủng hoảng đạo đức trong các gia đình và xã hội. Riêng tại lục địa đông dân nhất thế giới này, sau 20 thế kỷ, Á châu vẫn chưa bao giờ đã là một lục địa Kitô giáo. Hơn nữa tại đây hiện nay xem ra mọi nước đều không nhất thiết cần đến Hội Thánh công giáo để có thể phát triển kinh tế, văn hoá và đạo đức cho đất nước họ. Rõ ràng là sự phát triển Hội Thánh công giáo ở khắp nơi đặc biệt là tại Á châu đang gặp nhiều cản trở. Nguyên việc làm chứng Đức Kitô là Tin Mừng cứu độ cũng là điều rất khó cả trên lý thuyết lẫn trên thực hành. Nhưng, nếu cộng đoàn chúng ta nói chung và bản thân chúng ta nói riêng thực sự mang ánh sáng chân lý, lửa yêu thương nồng nàn, sống và làm đúng theo ý Chúa, thì dù hoạt động tôn giáo của chúng ta không mấy thành công do cản trở bên ngoài, chúng ta vẫn có quyền được an tâm. Trái lại, nếu không thành công là do lỗi lầm thiếu sót của chúng ta, thì chúng ta phải sợ. Điều đáng sợ nhất là chúng ta có nguy cơ bị chính Chúa ruồng bỏ. Tiên tri Giêrêmia, theo lệnh Chúa, đã cầm một chiếc bình sành, rồi trước mặt dân, đã đập tan chiếc bình sành ấy. Sau đó ông tuyên bố đại khái: Chúa cũng sẽ đập tan thành có đạo này như đập tan chiếc bình sành đây. Bởi vì thành này, tuy được Chúa thương ban nhiều ơn, vẫn mãi đi sai đường ngay chính, vẫn cố chấp làm những điều ghê tởm (Gr 19,1-15). Nếu không lầm, thì lời tiên tri đó đã và đang ứng nghiệm tại nhiều nơi trong Hội Thánh toàn cầu. Nhiều giáo hội điạ phương, nhiều giáo xứ, nhiều dòng tu cũng đã và đang tan vỡ. Tan vỡ như một sự Chứa từ bỏ, và như một sự tự huỷ. Nói chung, sớm muộn, Hội Thánh rồi sẽ được thanh luyện. Nơi thanh luyện sẽ là sa mạc. Đây là sa mạc giữa các dân tộc, một thứ sa mạc đã được nói tới trong sách tiên tri Hosea (2,16) và trong sách tiên tri Ezekiel (20,35). Tuy sống giữa các dân tộc, Hội Thánh sẽ như ở giữa sa mạc. Bị khinh chê, bị loại trừ, bị bách hại. Qua thử thách, một số người sẽ nên tốt hơn. Đặc biệt là một số sẽ được Chúa tuyển chọn. Chính nhờ những người này biết hiệp thông trung thành với mầu nhiệm thánh giá Chúa Giêsu, Hội Thánh tương lai sẽ phục sinh rạng rỡ. Tất nhiên sự phục sinh ấy sẽ nảy nở từ thánh giá. Thánh giá của sự quyết tâm khó nghèo. Thánh giá của sự can đảm sống khiêm nhường, kỷ luật. Thánh giá của tình yêu thương hy sinh, dấn thân, tha thứ. Thánh giá của sự tuyệt đối vâng phục ý Chúa Cha. Trước thánh giá ấy biết bao người sẽ lẫn trốn, khước từ. Phải chăng, nhìn cảnh đó, Chúa Giêsu trong Hội Thánh hôm nay cũng đang lâm vào cơn bồi hồi, lo buồn, xao xuyến. Báo Công Giáo & Dân Tộc, ngày 11--11-1999
Kinh Tiền Tụng II Mùa Vọng có câu: “Khi Chúa đến, Chúa sẽ thấy chúng con đang tỉnh thức cầu nguyện và hân hoan ca tụng Chúa”. Lời nguyện trên đây gợi lên trong tôi một chương trình chuẩn bị đón Chúa dịp lễ Sinh Nhật và Năm Thánh năm 2000. Có ba việc sẽ làm: Tỉnh thức, cầu nguyện và hân hoan ca tụng Chúa. Khái quát là thế. Ý thức khái quát đó đã là một hướng đi tốt, rõ, dựa trên nền tảng phụng vụ. Ba việc đó cần được thực hiện một cách cụ thể. Đang suy nghĩ như vậy, tôi có việc đi Huế, Hà Nội và Lạng Sơn. Tôi lên đường với tâm hồn nghèo khó và cầu nguyện. Lạy Chúa, xin dạy bảo con đường đi của Chúa. Và tôi đã nhận được những bài học hữu ích. Tỉnh thức Trong một ngày tại Huế, tôi đã hiểu thế nào là tỉnh thức, hiện nay. Tỉnh thức là nhạy bén, mau lẹ dấn thân phục vụ cứu độ. Nhu cầu phục vụ cứu độ tại đây là mênh mông khẩn cấp. Không thiếu việc cần làm và có thể làm. Chỗ nào cũng đợi chờ. Đợi chờ đủ thứ, nhất là tình thương ấm áp. Dù chút quà thôi, nhưng gói vào đó tình cảm chân thành trân trọng, cũng là một chia sẻ có sức làm vơi đi nỗi khổ. Gặp nhiều người tại đây, tôi cảm nhận được sự sâu sắc của tình liên đới, những quằn quại của biết bao cuộc đời mất mát. Đâu đâu cũng đầy những vết thương. Ở hai bờ sông Hương, ở các phố phường, ở các di tích lịch sử, ở các hộ dân, ở mỗi lòng người. Nhiều vết thương chất chồng lên nhau, lớp cũ lớp mới, thực là thê thảm. Thấy cảnh đó, tôi cảm được phục vụ cứu độ không chỉ là một mời gọi, mà chính là một trách nhiệm. Phục vụ cứu độ là đáp ứng đúng nhu cầu, bằng đúng việc, vào đúng lúc, với đúng cách. Khi hiểu phục vụ cứu độ là như vậy, tôi thấy, không riêng gì ở Huế, mà ở bất cứ đâu tại Việt Nam hôm nay, chúng ta vẫn có thể thực hiện được miễn là phải tỉnh thức nhạy bén, và biết nắm bắt. Một thí dụ: Phục vụ Hội Thánh và đồng bào bằng cách gieo rắc hòa bình, yêu thương đoàn kết, khiêm tốn, qua lời nói, việc làm và thái độ. Sự phục vụ như thế là trong tầm tay, ai cũng làm được, đâu cũng làm được. Nếu khi Chúa đến, Người thấy chúng ta đang tỉnh thức phục vụ ít là như thế, thì hạnh phúc cho chúng ta biết bao. Cầu nguyện Trong một ngày tại Hà Nội, tôi cũng đã học được cách cụ thể hóa việc cầu nguyện một cách thích hợp. Từ đầu Mùa Vọng, việc chầu Thánh Thể đã được thực hiện một cách đặc biệt khác thường tại giáo xứ Nhà thờ Chánh Toà. Suốt ngày thứ bảy mỗi tuần, Thánh Thể sẽ được để trên bàn thờ, để mọi người có thể tới chầu. Tự ý, không ép buộc. Am thầm, không ồn ào. Kết quả là rất phấn khỏi. Nhiều người đã tới cầu nguyện, suy gẫm, hồi tâm. Nhiều tâm hồn được hòa giải, nhiều cuộc đời đã được đổi mới. Gặp được sáng kiến trên đây, tôi càng xác tín thêm về sức mạnh thiêng liêng phát sinh từ việc chầu Thánh Thể một cách lặng lẽ. Thực vậy, khi năng gặp gỡ Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể một cách thân mật, chúng ta sẽ dần dần hiểu biết Chúa Giêsu, sẽ dần dần gắn bó với Chúa Giêsu, sẽ dần dần được chia sẻ tâm tình của Chúa Giêsu. Năng gặp gỡ Chúa Giêsu một cách thân mật, chúng ta sẽ biết thế nào là đóng đinh xác thịt mình vào thánh giá của Người. Người sẽ thôi thúc chúng ta trở về trong các lãnh vực luân lý, trí đức, đức tin và ơn gọi. Năng gặp gỡ Chúa Giêsu một cách thân mật, chúng ta sẽ được đổi mới bằng luật mới của Người. Luật này được viết không phải bằng mực, mà bằng Thánh Linh Chúa, không phải viết trên giấy, mà trên trái tim chúng ta (2 Cor 13,3). Bầu trời nội tâm của chúng ta sẽ được biến đổi, để từ đó chúng ta sẽ hướng về một trời mới, đất mới một cách quyết liệt và xác tín. Nếu khi Chúa đến, Người gặp chúng ta đang sống trong tinh thần cầu nguyện như thế, chắc Người sẽ rất hài lòng và sẽ nhìn nhận chúng ta là Kitô hữu đích thực. Hân hoan ca tụng Chúa Cũng chỉ một ngày tại Lạng Sơn, tôi đã hiểu thế nào là hân hoan ca tụng Chúa lúc này tại đây. Thực vậy, từ Đức Giám mục tới người giáo dân thường, mọi cá nhân và mọi cộng đoàn lớn nhỏ trong khắp Cao Bằng Lạng Sơn đều ca ngợi cảm tạ Chúa. Không phải chỉ bằng những thánh lễ, những thánh ca, mà còn bằng tất cả tâm hồn cộng tác vào ơn Chúa. Tâm hồn nhận ra những cái hữu hình và cái vô hình làm nên thực tại. Hân hoan ca ngợi Chúa là vui sống thực tại đó, mặc dù thực tại đòi nhiều phấn đấu. Hân hoan ca ngợi Chúa là can đảm phấn đấu trong sự vượt qua chính mình và trong mọi hy sinh. Vừa phấn đấu vừa đi về phía trước như một trường ca, gởi âm vang tới tận cõi thinh lặng hùng vĩ của những núi rừng. Cũng như bài ca Magnificat của Đức Mẹ có bề sâu của quá khứ, thì bài ca hân hoan ca ngợi Chúa của Lạng Sơn hiện nay cũng mang chiều kích thẳm sâu của khí phách xa xưa. Đã có những cuộc đời kiên cường như những viên gạch làm nên thành nội. Đã có những trái tim đẹp như nàng Tô Thị, mà tượng hôm nay còn đứng đó, như bóng tượng trải xuống mỗi ngày đều luôn mới. Hân hoan ca ngợi Chúa là cùng nhau vun tưới những hạt giống tốt. Những hạt giống tốt này là nếp sống hài hoà, cái nhìn cởi mở, tinh thần bao dung đoàn kết, nếp sống công bình bác ái, liên đới đạo đời, nhất là đức tin được đổi mới như một sự gặp gỡ sống động với Chúa. Hân hoan ca ngợi Chúa là cùng nhau thực hiện việc truyền giáo và tái truyền giáo. Truyền giáo bằng lòng nhân ái, và tái truyền giáo bằng sự nội tâm hóa Lời Chúa và hiện đại hóa Lời Chúa. Nếu khi Chúa đến, Người gặp thay chúng ta đang hân hoan ca tụng Chúa như vậy, thì Người sẽ ở lại với chúng ta. *** Chúa sẽ đến với tôi, với chúng ta. Chúng ta cần phải đón Người. Để đón Người, chúng ta không có khả năng thực hiện những việc lớn. Hãy an tâm làm những việc nhỏ, như ba việc trên. Đừng để mất dịp may. Nếu không đón Người, sợ rằng chúng ta sẽ đánh mất nguồn mạch cứu độ rất cần thiết cho chính chúng ta. Báo Công Giáo & Dân Tộc, ngày 06-12-1999
Chỉ trong 30 ngày, hai cơn đại hồng thủy đã tàn phá miền Trung. Tôi đã nghe và đã hai lần thấy. Điều đã kéo chú ý tôi nhiều nhất là các nơi đều nhận xét: Thực không ngờ, thực quá bất ngờ. Bất ngờ vì biến cố xảy tới quá mau, quá mạnh, gây nên những thiệt hại quá nặng, quá thê thảm. Từ nhận xét này, tôi nghĩ tới tương lai Giáo Hội Việt Nam nói chung và từng cộng đoàn đức tin tại Việt Nam nói riêng. Tôi tự hỏi: Liệu đây đó sẽ có xảy ra những bất ngờ gây nên mất mát trầm trọng không? Nếu bất ngờ lớn của ngày mai đang nhen nhúm từ những coi thường của hôm nay, thì tôi có thể dự đoán về những mất mát lớn ngày mai đang bắt nguồn từ những suy yếu của hôm nay. Dưới đây là vài nhận xét: Suy yếu về sức mạnh đa dạng của Hội Thánh điạ phương. Trong thư gởi giáo đoàn Ephêsô, thánh Phaolô kể ra 5 loại nhiệm vụ quan trọng làm nên sức mạnh của Hội Thánh: 1-. Tông đồ với việc thiết lập các giáo đoàn trên nền tảng Phúc Âm. 2-. Tiên tri với việc loan báo ý Chúa về hiện tại và tương lai. 3-. Truyền giáo với việc “ra khơi thả lưới” và “ra đồng gieo giống”. 4-. Chăn chiên với việc nuôi dưỡng đoàn chiên. 5-. Giảng dạy với việc giáo huấn đào tạo (Eph 4,11-13). Hội Thánh thời các thánh tông đồ gặp đủ mọi khó khăn nặng nề. Thiếu tự do, thiếu cơ sở, thiếu tiền bạc. Thế mà 5 nhiệm vụ trên đã được thực hiện tốt. Thực hiện của chúng ta hiện nay không được như thế, mặc dù các khó khăn của chúng ta không quá nặng như của các thánh tông đồ. Điều đáng chú ý là hiện nay xét về mặt được hâm mộ, thì chức vụ chăn chiên và các hình thức tham gia chức vụ đó càng ngày càng chiếm địa vị ưu tiên. Nhưng chức vụ ấy đang có chiều hướng tập trung vào việc tế lễ và những việc liên hệ đến bàn thờ và nhà thờ. Đang khi đó, 4 nhiệm vụ còn lại thì chìm nổi. Sự kiện trên ảnh hưởng đến sứ mạng của Hội Thánh, không những trong nội bộ, mà còn giữa lòng dân tộc. Sứ mạng của Hội Thánh là phải soi sáng cho mọi lương tâm về mọi lãnh vực. Cách soi sáng là trình bày ý kiến của mình một cách nhẹ nhàng, nghiêm túc và có chất lượng cao. Thánh Phaolô viết cho Philemon: “Mặc dù, nhờ kết hợp với Đức Kitô, tôi có đủ quyền để truyền cho anh làm điều anh phải làm. Nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để xin anh làm điều đó” (Plm1, 8-9). Thánh Phaolô đã soi sáng lương tâm một cách lịch sự, nhẹ nhàng. Thiết tưởng Hội Thánh của chúng ta không được xa lạ với các vấn đề con người và xã hội. Càng không được đứng ngoài các chuyển biến thế giới, khu vực, đất nước. Để có thể làm mem, làm đèn giữa đời một cách khôn ngoan. Nhưng, nếu không nâng đỡ tất cả 5 nhiệm vụ trên, Hội Thánh sẽ mòn mỏi, không những sẽ không chu toàn được sứ mạng của mình, mà còn sẽ như những con đường yếu, khi bị lũ lụt, sẽ bị sạt lở, đứt đoạn. Nên coi thực tế hôm nay là điều đáng ngại. Tính cục bộ phát triển Thêm vào đáng ngại trên đây, hiện tình cho thấy một đáng ngại khác. Trong thư gởi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô viết: “…Tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em. Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc Đức Kitô. Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư?” (1Cr.1,11-13). Tình hình cục bộ mà thánh Phaolô nói xưa ở thời ngài cũng đang xảy ra đó đây ở Việt Nam hôm nay. Thực ra, tình cảm dành cho gốc gác này, quan điểm kia, là điều dễ hiểu, khó tránh được .Nhưng khi những gắn bó cục bộ đó làm cho các thành phần Hội Thánh xa cách nhau, nhất là làm bớt đi nhiệt tình đối với lợi ích chung Hội Thánh, thì một tình hình như thế là không lành mạnh. Nó sẽ làm suy yếu Hội Thánh. Trái lại, những khác biệt, khi được sử dụng khéo, sẽ bổ túc cho nhau, và sẽ là một kho tàng quí giá cho Hội Thánh. Tiên tri Khác-gai đã cảnh báo: Các cộng đoàn gieo trồng nhiều, nhưng Chúa sẽ để cây cối của họ cằn cỗi héo tàn, mùa màng sẽ thất thu. Nguyên do là vì: “Nhà của Ta vẫn còn tan hoang, trong khi đó các ngươi ai nấy chỉ bận rộn lo cho nhà riêng của mình” (Kg 1,9). Lạm dụng Chúa và Hội Thánh Một hiện tượng nữa cũng đáng ngại, đó là thay vì tập trung vào việc phấn đấu với chính mình, trở về với Chúa, đổi mới chính mình, nhiều nơi vẫn quá bận tâm đến việc đấu tranh với kẻ khác nhân danh Chúa và Hội Thánh. Xưa, dân Israel bị quân Philitinh đánh, đã nghĩ ra một kế, đó là khiêng hòm bia thánh ra trận, cùng với hai người con của thầy cả Eli. Trận đầu thì thắng. Trận sau thì đại bại. Hai con thầy cả Eli bị giết. Hòm bia thánh bị quân Philitinh tịch thu, dân Israel bỏ chạy tán loạn (1Sm 4,1-11). Sự kiện này cho thấy Chúa không phục vụ những kế hoạch nhằm vào mục đích: Ta phải thắng, chúng phải thua. Chúa mong muốn chúng ta hãy tiên vàn tìm Nước Thiên Chúa trước đã, hãy ưu tiên trở về với Chúa một cách trọn vẹn đã. Sức mạnh thiêng liêng là ở đó. Nếu không thực thi điều quan trọng ấy, thì mặc dù coi như mạnh, chúng ta sẽ không được Chúa ở cùng, do đó kết quả sau cùng biết đâu giống trận đại bại của Israel. Hãy để Chúa thắng bằng cách chúng ta trở về với Chúa. Trở về với Chúa là trở về với căn tính người Kitô hữu, đó là gắn bó với Lời Đức Kitô, đi theo Đức Kitô, nên giống Đức Kitô. Trở về với Chúa là trở về với đặc điểm đích thực của người môn đệ Đức Kitô, đó là yêu thương nhau, như Chúa đã yêu thương chúng ta. Trở về với Chúa là trở về với ơn gọi trong phép rửa của ta, đó là sống trọn vẹn chức năng người con thảo của Cha trên trời, từ bỏ ma quỉ và tội lỗi, luôn để Chúa Thánh Thần đổi mới chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi mọi xiềng xích tội lỗi, đem lại tự do đích thực. Trở về với Chúa là trở về với đời sống nội tâm. Nhạt lạnh đời sống nội tâm Trong đời sống nội tâm, tôi để ý nhiều đến lời dạy sau đây của thánh Phaolô: “Vì Thiên Chúa xót thương tôi, tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo thói đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là thánh ý Thiên Chúa, cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,1-2). Đọc và suy gẫm từng câu của đoạn văn trên, rất có thể chúng ta sẽ thấy chúng ta chưa thực hiện được câu nào đến nơi đến chốn. Thậm chí chúng ta chưa bao giờ bắt đầu muốn thực hiện cả. Chứng tỏ rằng: nơi nhiều người chúng ta Lời Chúa chưa được nội tâm hoá, đời sống nội tâm của chúng ta vẫn nghèo nàn trống trải. Và đó chính là một yếu nhược trầm trọng. *** Thế kỷ tới là thế kỷ của những bùng nổ, Thế kỷ của những loại trừ, Thế kỷ của tốc độ, Thế kỷ của tục hoá và hưởng thụ, Thế kỷ của toàn cầu hoá, Thế kỷ của chủ nghĩa khu vực, Thế kỷ của nhiều thứ đại hồng thuỷ, hữu hình và vô hình. Hãy biết tiên đoán những biến cố có thể xảy ra. Những biến cố ấy có nhiều giá trị xây dựng và cũng không thiếu mầm mống phá hoại. Có nhiều cái được, nhưng cũng có nhiều cái mất. Đáng sợ nhất là được tất cả mà đánh mất chính mình. Hy vọng không xảy ra điều đó, nếu chúng ta tỉnh thức, khiêm nhường trở về với Chúa, dựa vào sức mạnh của Chúa, ở sự thực thi thánh ý Chúa. Xưa thánh Gioan Baotixita đã không có nhà để giảng và để chết. Ngài giảng trong hoang địa và bị chặt đầu trong tù. Xưa Chúa Giêsu Kitô đã không có nhà để sinh ra, để giảng dạy, và để chết. Hai Đấng đã chấp nhận khó nghèo vất vả, can đảm đến với các dân nghèo dân ngoại rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Trong tương lai cũng sẽ có những người bước theo hai Đấng như vậy tại Việt Nam. Đó là dự báo sau cùng. (Viết tại Huế) Báo Công Giáo & Dân Tộc, ngày 10-12-1999
Đêm Noel có những bài hát vui, những cảnh vui, những qui tụ vui. Nhưng giữa những ồn ào tấp nập này, tôi vẫn không hẳn được vui. Lòng tôi vẫn mang nặng những xót xa cơ cực của các nạn nhân lũ lụt miền Trung, mà tôi đã gặp. Họ đang lặng lẽ đương đầu với cái đói, cái rét, cái mệt mỏi của cuộc đời trần trụi. Lòng tôi vẫn mang nặng những cô đơn lo lắng của các người nợ nần túng thiếu, những người bệnh tật, những người hèn kém, những người bị loại trừ, mà tôi hằng ngày tiếp xúc. Họ luôn đi tìm một hy vọng, cho dù mong manh, nhưng các ngả đường xem ra đều bế tắc. Tâm trạng trên đây của tôi là một thức tỉnh. Với tâm trạng này, tôi đến với Chúa Giêsu. Tôi gặp Người trong hang đá. Tôi nhìn Người và Người nhìn tôi. Sự gặp gỡ bằng cái nhìn thân thương này cho tôi cảm được rằng: Chúa Giêsu không buồn vì tôi đến với Người trong tâm trạng không vui lắm. Trái lại Người đã đem tâm trạng của tôi hòa vào tâm tình của Người. Nhờ vậy, tôi cảm nghiệm được nhiều chân lý đạo đức, nhất là chân lý về sự chia sẻ. Tôi thấy việc đầu tiên Chúa Giêsu đã thực hiện khi xuống trần là chia sẻ những khổ đau của những người đau khổ. Chia sẻ bằng sự Người cũng chịu rét, chịu nghèo hèn, chịu thiếu thốn. Người cũng bị cô đơn, bị loại trừ. Người đã chào đời bằng tiếng khóc một hài nhi yếu đuối bé bỏng. Người đã vào đời bằng một thân phận người dân nghèo hèn không nhà cửa, không địa vị, không tài sản. Chính bằng sự chia sẻ can đảm đầy khiêm tốn, Đức Giêsu đã làm chứng Người là Con Thiên Chúa từ trời cao giáng trần. Chính bằng sự chia sẻ xả thân đầy hy sinh, Đức Giêsu đã cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là thiết thực thiết tha đến mức nào. Chính bằng sự chia sẻ dấn thân quên mình, dám chấp nhận bước vào cõi khổ của kiếp người, Đức Giêsu đã nâng con người lên địa vị làm con Chúa, đưa họ về Thiên Chúa tình yêu. Chính bằng sự chia sẻ đầy thân thương, Đức Giêsu đã ở giữa dân nghèo, cùng với dân nghèo, phấn đấu cho một cuộc đời tự do hơn, công bình hơn, nhân bản hơn, nhân phẩm hơn, nhân đạo hơn. Từ kinh nghiệm trên đây, tôi cho rằng: Sự chia sẻ những khổ đau của người nghèo hèn phải được coi là một việc đạo đức mang giá trị cao. Nếu việc đạo đức đó đã được Chúa Giêsu thực hiện ngay đêm Giáng Sinh, thì việc đạo đức đó cũng cần được chúng ta thực hiện, khi kỷ niệm Giáng Sinh của Người. Thiết tưởng, đó cũng là cái hồn của Năm Thánh năm 2000. Người ta thường nói: Hồn đất nước, hồn sông núi, hồn dân tộc, hồn thời đại. Nói Hồn là để chỉ sự sống và những giá trị cao quí nhất làm nên sự sống một nước, một dân, một thời. Hồn Năm Thánh cũng được hiểu theo hướng đó. Thực vậy, hồn Năm Thánh không phải chủ yếu là những bản kinh, những nghi thức, nhưng là hồn Phúc Âm chia sẻ sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Hồn Phúc Âm là tình yêu thương của Chúa Giêsu, một tình yêu thương được diễn tả bằng chia sẻ những khổ cực của những kẻ bị đọa đày, và bằng sự phục vụ, tha thứ, thăng tiến con người . Hồn Phúc Âm là chân lý của Chúa Giêsu, một chân lý nhân sinh soi cho lương tâm chúng ta thấy: Cội nguồn của ta là Thiên Chúa Tình yêu, đời của ta, dù thế nào đi nữa, vẫn được Chúa yêu thương, đợi chờ, miễn là chúng ta biết đi tìm Chúa và biết chia sẻ Tin Mừng với người khác. Hồn Phúc Âm là tin cậy và thực thi thánh ý Chúa Cha theo gương Đức Giêsu. Nhờ vậy chúng ta biến cuộc đời phục vụ, chia sẻ, hy sinh của chúng ta thành thánh lễ thờ phượng Thiên Chúa. Hồn Phúc Âm là sự đi theo hướng dẫn của Thần Linh Đức Kitô, để có những đổi mới và sáng tạo trong việc chia sẻ với đồng bào, đất nước trên mọi chặng đường lịch sử. Nếu Chúa muốn những đổi mới và sáng tạo sẽ được thực hiện theo tinh thần khiêm tốn, khó nghèo và chia sẻ của hang đá Belem, thì chúng ta hãy sẵng sàng với tâm hồn tạ ơn ca tụng Chúa. Thiết tưởng đó là dấu chỉ cho thấy chúng ta nên giống Chúa Kitô, và đó sẽ là kết quả đáng mong đợi nhất của Đại Năm Thánh năm 2000. Với những suy nghĩ trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một mùa Giáng sinh và một Năm Thánh đầy hồng ân Chúa. Bài giảng khai mạc Năm Thánh 2000, tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 24-12-1999
Đêm Noel, sau khi cử hành thánh lễ trọng thể tại nhà thờ Rạch Giá, tôi về nghỉ ở Trường các em Khuyết tật vùng quê, ven thị xã. Sáng sớm ngày 25, tôi dâng lễ tại nhà nguyện nhỏ của các nữ tu tại đó. Giúp lễ là 2 em câm điếc. Dự lễ là một nhóm nhỏ các giáo dân nhà quê khó nghèo. Trong giờ cảm ơn sau lễ, tôi đã nói nhiều với Chúa về Hội Thánh địa phương. Tự nhiên, tâm sự của tôi với Chúa đã xoay quanh cảnh nghèo nàn yếu đuối. Tình hình nhân sự già. Trước hết tôi chia sẻ với Chúa về tình hình nhân sự “già”, trong đó có tôi. Với tình hình này, tôi lo ngại Hội Thánh sẽ yếu. Để trả lời, Chúa đã cho tôi nhớ lại ông Giacaria và bà Isave thân sinh thánh Gioan Baotixita, bổn mạng tôi. Hai ông bà đã cao niên, quá tuổi sinh con. Ấy thế mà đã sinh hạ được một tiên tri ngoại hạng. Chúa còn cho tôi nhớ lại bà goá Rút, cụ bà Naômi và ông già Bôát. Các ngài đều thuộc loại không có chút hy vọng nào cho tương lai. Thế nhưng họ đã mở ra cho Israel một thời kỳ mới có liên hệ mật thiết đến sự ra đời của Đấng cứu thế sau này (Mt 1,5). Rõ ràng là Chúa có thể dùng tuổi già để làm nên nhiều sự sống mới. Từ nhắc nhở này, tôi nghĩ tới một số nhân vật hiện nay, như l’abbé Pierre, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Những vị già này đang đánh thức nhân loại bằng lời nói, việc làm và bản lãnh Phúc Âm. Biết bao người, và biết bao dân tộc đã nhờ các ngài mà thức tỉnh. Những vị già này là những người canh thức, để báo cho thế kỷ biết cái gì cần được bảo vệ, cái gì cần phải bỏ, cái gì cần phải mới. Tình hình thiếu hụt nhân sự. Nhưng còn tình hình thiếu nhân sự một cách trầm trọng thì sao. Chắc vì thế Hội Thánh sẽ phải yếu. Tôi không ngại nói với Chúa suy nghĩ bi quan ấy. Để trả lời, Chúa đem trí nhớ của tôi trở về xa xưa, thời Ghêđêon. Trong trận đánh quân Mađian, tướng lãnh này dùng một đạo binh gần 30 ngàn quân. Chúa bảo ông số đó quá đông. Ông cho 20 ngàn rút lui, chỉ giữ lại 10 ngàn. Chúa bảo ông số đó vẫn còn đông. Vâng lời Chúa, ông chỉ giữ lại 300 lính. Với số nhỏ này, ông đã đánh bại đối phương (Thủ lãnh 7,2-22). Từ chuyện xưa ấy, tôi nhìn sang các cộng đoàn cơ bản đang hoạt động đó đây trong Hội Thánh tại các điạ phương. Họ chỉ là những nhóm nhỏ, nhưng được đào tạo kỹ, giàu ơn Chúa Thánh Linh. Họ chú trọng đến phẩm chất hơn là số lượng. Họ biết phân định cái gì là nhu cầu và cái gì là khát vọng, cái gì là phương tiện và cái gì là mục đích, cái gì là chính và cái gì là phụ. Họ khôn khéo nối kết hoạt động của họ vào hệ thống các hoạt động tốt tại địa phương. Họ coi là thiêng liêng những việc góp phần phục vụ thăng tiến địa phương. Họ dùng chính những nguồn lực tại chỗ, nhất là nội lực của đám đông dân nghèo, để đưa địa phương lên. Âm thầm mà hữu hiệu, các nhóm nhỏ đó đang đẩy lùi các lực lượng phá hoại đạo đức và văn hoá, gây được bầu khí hài hoà lành mạnh cho địa phương. Tình hình thiếu phương tiện. Luôn tiện, tôi cũng thành thực trình bày với Chúa về tình hình thiếu thốn phương tiện. Tôi sợ, nếu tình hình như thế kéo dài, Hội Thánh sẽ không phát triển được. Để trả lời, Chúa chỉ cho tôi thấy chuyện người thanh niên Đavít dám đương đầu với tên khổng lồ Gôliát. Tên khổng lồ này cao khoẻ, mặc áo giáp, đội nón sắt, tay cầm kiếm. Gôliát ngạo nghễ thách thức toàn dân Israel. Dân Israel hoảng sợ. Chính vua Saun cũng kinh hãi. Nhưng một mình chàng trai Đavít đã dám đương đầu. Phương tiện anh dùng rất thô sơ. Mặc áo thường, đầu trần, một tay cầm gậy, một tay cầm một chiếc túi để 5 cục đá lượm được bên bờ suối. Chỉ với phương tiện thô sơ tối thiểu đó, Đavít đã đánh gục tên khổng lồ và chặt đầu hắn bằng chính thanh gươm của hắn (Samuel 17). Từ chuyện xưa đó, tôi nhìn vào hiện tại. Tôi cũng đã và đang thấy những tình hình còn ghê gớm hơn Gôliát. Hôm nay, Gôliát là tình hình kết tụ những cái xấu như thù hận, chia rẽ, dửng dưng, khô khan, cứng lòng, tục hoá, ăn chơi bê bối. Chúng đã và đang thách đố nhiều nơi Hội Thánh. Trong tình hình đó, đã xuất hiện một số nhỏ tông đồ. Họ là giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân. Họ thiếu thốn, khó nghèo. Phương tiện trong tay chỉ là khí giới thiêng liêng của Chúa. Đặc biệt họ có lửa, lửa mến Chúa, lửa thương người, lửa lời Chúa, lửa đức tin, lửa khiêm nhường. Chỉ với phương tiện đó, họ đã làm tan dần tình hình Gôliát. Tình hình bị áp bức. Chưa hết, tôi cũng nói với Chúa về tình hình một số nơi trong Hội Thánh đang bị áp bức. Họ gặp khó khăn về những quyền lợi căn bản chính đáng. Chúa trả lời tôi bằng cách cho tôi nhớ lại bài ca về người tôi tớ Chúa trong tiên tri Isaia. Ngài bị khinh bỉ, bị coi là đồ phế thải, là con người của những đau đớn, bị nghiền nát, bị bắt giam, bị lên án… Nhưng rồi ngài sẽ thành đạt (Is 52,13-). Rồi, tôi nhìn lên chính Chúa Giêsu trong hang đá Belem, và trên thánh giá ở Núi Sọ. Người cũng như người đầy tớ, và còn quá hơn người nô lệ. Nhưng đó chính là những thánh lễ đền tội thay cho nhân loại, để đem ơn phục sinh đến các linh hồn. Từ những tình hình trên đây, tôi kiếm tìm những môn đệ Đức Giêsu trong thời đại này. Và tôi đã gặp. Họ đang âm thầm sống khổ, sống nghèo, sống nhịn nhục, với biết bao thánh giá lớn nhỏ. Nhìn họ, tôi cảm thấy mình quá kém cỏi. Tôi coi họ như những thánh lễ sống động. Tôi nhìn họ như một thứ bí tích. Họ như đám lửa giữa bụi gai, mà Maisen đã thấy xưa. Họ như linh hồn của xóm làng. Bởi vì họ đầy sự sống thiêng liêng. Họ là máng Chúa dùng để chuyển tải ơn thánh cứu độ xuống cho nhân loại. Xem ra, Chúa Thánh Linh đang dùng họ, để phác hoạ một mô hình mới cho nòng cốt của Hội Thánh ở thời kỳ mới. Đó là hình thức lều trại, nghĩa là nghèo, nhẹ nhàng, di động, sẵn sàng ra đi. Không gò bó vào một cơ chế cố định, không phô trương, ồn ào, không nặng nề về quyền về chức. Nhưng chú trọng nhiều hơn đến việc phát triển chiều kích xã hội và nội tâm. Tình hình bản thân yếu đuối. Sau cùng, tôi nói với Chúa về tình hình yếu đuối, hèn kém, thiếu sót của tôi. Tôi xin Chúa thương xót tôi, và đừng vì những tội lỗi và những kém cỏi của tôi, mà để cho Hội Thánh phải suy yếu. Để trả lời, Chúa an ủi tôi bằng những lời thánh Phaolô: “Hãy coi đến việc anh em được kêu gọi. Hẳn không có mấy người khôn ngoan theo xác thịt, không mấy người quyền thế, không mấy người tôn quí… Những điều thế gian coi là yếu đuối, thì Thiên Chúa đã chọn…” (1Cor 1,26-28). Lời thánh tông đồ sáng rực trong tôi, làm tôi tưởng nhớ đến một lời của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu: “Tôi sẽ đến bên Chúa với hai bàn tay không”. Đúng như thế. Tôi chẳng có công trạng gì. Hơn thế nữa, tôi còn là một người khuyết tật thiêng liêng. Bỗng chốc, tôi nhận thấy Năm Thánh đã được khai mạc trong tôi. Chúa đã mở Năm Thánh cho tôi, bằng việc Chúa mở trí khôn tôi ra, mở tấm lòng tôi ra, mở trí nhớ tôi ra, mở trí vẽ tôi ra. Tôi gặp được Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Người đến không phải để cứu người lành mạnh, thánh thiện. Nhưng Người đến để cứu người bệnh tật, tội lỗi, trong đó có tôi. Đó là Tin Mừng đầu tiên tôi đã cảm nhận một cách sâu sắc ngày đầu Năm Thánh. Xin cảm tạ và ca tụng Chúa đến muôn đời. Bài nói chuyện với liên tu sĩ thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30-12-1999
Năm Thánh đòi chúng ta phải hoán cải. Nghĩa là chúng ta phải đổi mới chính mình. Đổi mới ở nhiều lãnh vực: Trong suy nghĩ, trong đánh giá, trong ước muốn, trong chọn lựa, trong phong cách. Đặc biệt phải đổi mới cách giới thiệu Tin Mừng, sao cho hữu hiệu hơn trong thời kỳ mới, đúng như ý Chúa. Để thực hiện việc đổi mới này, trước hết chúng ta phải có nhận thức rộng rãi về các chuyển biến thực tế trong xã hội, văn hoá, kinh tế có liên hệ mật thiết đến nhân sinh. Để rồi qua đó chúng ta lắng nghe nhu cầu và khát vọng thầm kín sâu xa của thời đại. Lắng nghe đó gợi lên thao thức về một trách nhiệm. Trách nhiệm phải đồng với nhu cầu và khát vọng của con người thời đại, nhất là phải góp phần kiếm tìm những gì có thể đáp ứng khát vọng và nhu cầu ấy. Cách góp phần tốt nhất là chính mình chúng ta phải phấn đấu nên người tốt hơn, mới hơn, sống thích hợp hơn với thời kỳ mới, có ích hơn cho xã hội đang chuyển biến mau lẹ. Riêng đối với tôi, tôi thực hiện tất cả các việc trên đây dựa trên tiêu chuẩn Lời Chúa và gặp gỡ Chúa. Hành trình. Như thế, việc đổi mới là một hành trình dài. Hành trình này là một chuyến đi tìm kiếm. Phải rảo bước như nhóm mục đồng đến hang đá xưa. Phải lên đường như ba đạo sĩ từ phương đông đến Belem xưa. Phải đi, phải về như hai môn đệ trên đường Emau-Giêrusalem xưa. Những hành trình ấy gồm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là nắm bắt tình hình. Họ trao đổi với nhau. Đề tài là thời sự bên ngoài về những gì xảy ra lúc ấy có liên quan đến Đấng cứu thế. Thêm vào đó là thời sự nội tâm của mỗi người, như những cảm nghĩ, những xao xuyến, băn khoăn và hy vọng. Giai đoạn thứ hai là gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Nhóm mục đồng và nhóm đạo sĩ gặp được Đức Kitô là chính Ngôi Lời, một Ngôi Lời không nói lên tiếng, nhưng nói bằng chính mình. Hai môn đệ trên đường Emau gặp Đức Kitô cùng đồng hành và cắt nghĩa Kinh Thánh cho họ. Chúa mở trí khôn họ, đốt nóng trái tim họ, chỉ cho họ đường hướng phải chọn. Giai đoạn thứ ba là trở về cộng đồng của mình, để kể lại những gì mình đã thấy. Họ thấy Tin Mừng nơi Đức Kitô đã được chính Đức Kitô giới thiệu bằng cách sống hiền lành, khiêm nhường, gần gũi với con người và chia sẻ thân phận những người nghèo khổ, yếu đuối. Tin Mừng không phải chủ yếu là những giáo lý, nhưng là chính Đức Kitô yêu thương, từ bỏ mình, dấn thân cứu đời. Sự gặp gỡ một Đức Kitô như thế đã giải thoát họ khỏi những gánh nặng sợ hãi tạo ra do cơ chế các lề luật lỗi thời và các trung gian nhân sự hẹp hòi. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã cho họ một chiếc phao thiêng liêng, nhẹ nhàng mà hữu hiệu, để họ bám vào mà bơi lội giữa biển đời sóng gió. Họ được đổi mới. Sự đổi mới ấy đã đáp ứng nhu cầu và khát vọng sâu xa của họ, giúp họ sống niềm tin một cách đơn sơ thực chất và giúp cho đời họ có một ý nghĩa cao đẹp, đầy hy vọng. Khám phá. Khi áp dụng mẫu gương xưa vào cuộc đời mục vụ hôm nay, tôi thấy hành trình kiếm tìm đổi mới là hành trình rất dài luôn phải tiếp tục. Phải biết mình kém, phải bắt đầu lại. Càng đi càng khám phá được nhiều điều thú vị. Thực vậy, theo dõi thời sự những dấu chỉ về Nước Trời trong nhân loại nói chung và tại Việt Nam nói riêng, tôi nhận ra nhiều người tốt việc tốt trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Chân thiện mỹ không bị nhốt trong ranh giới một dân tộc, một tôn giáo, một nền văn hoá. Khắp nơi vẫn lấp lánh những gương sáng về những giá trị thiêng liêng cao cả, như khiêm nhường, bao dung, tinh thần trách nhiệm, chân thành, trung thực, bác ái, công bình, chiêm niệm, dũng cảm. Khi lắng nghe nhu cầu và khát vọng của hồn dân tộc Việt Nam, của hồn văn hoá Việt Nam, của hồn thời đại tại Việt Nam, tôi cảm nhận được từ sâu thẳm những thao thức sôi sục về phát huy và sáng tạo chân thiện mỹ. Mục đích là cho con người và cuộc đời được tốt đẹp hơn về mọi mặt, hợp với chuyển biến của lịch sử. Điều làm tôi ngỡ ngàng hơn cả, đó là con người thời nay không còn dễ được thuyết phục bởi những lý thuyết hứa hẹn,những hội nghị long trọng, những cuộc lễ lớn, những nghi thức và biểu tượng đẹp. Trái lại, yếu tố chinh phục họ nhất chính là những con người sống quyết liệt với những giá trị cao. Họ đi tìm những người như thế. Cái phao đời họ là những người như vậy. Theo tôi, những người có giá trị cao hơn hết đang được đa số khâm phục chính là những ai luôn phấn đấu tự đào tạo nên người có bản lãnh, biết phân định thực hư, dám từ bỏ mình vì ích chung, đầy lửa thương cảm đối với con người, nhất là đối với kẻ nghèo khổ. Đôi khi tôi có cảm tưởng thứ tình yêu được tôi luyện bằng hy sinh có một vận tốc thiêng liêng tựa như ánh sáng, và có thể tạo ra một thứ năng lượng tâm lý khổng lồ. Chính những người mang lửa đó sẽ góp phần lớn trong việc đổi mới Đất Nước và Hội Thánh. Tế nhị. Những gương sáng như vậy sẽ là những bản tin thời sự có giá trị về Nước Trời. Với những giá trị cao cả thiêng liêng, họ tham gia vào việc phong phú hoá hồn một thời đại, hồn một nền văn hoá, hồn một dân tộc. Sự hiện diện của họ là đa dạng. Cho dù sự hiện diện ấy là âm thầm như của Chúa Giêsu trong hang đá Belem, nó cũng vẫn là máng chuyển tải ơn thánh, có khả năng đánh thức lương tâm con người. Những người công giáo địa phận tôi là một thiểu số bé nhỏ sống giữa một vùng đông dân cư mộ đạo. Khối dân cư đáng kính này thuộc nhiều tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo Hoà Hảo. Hằng ngày trong dân vẫn luôn chuyển những dư luận tốt về các tôn giáo bạn. Thời sự là những tin người tốt việc tốt đối với gia đình, địa phương, đồng bào, đất nước. Sống đạo của họ hầu như không căn cứ vào những khuôn khổ cử hành lễ lạy bề ngoài, nhưng căn cứ vào cầu nguyện, liên đới, tương thân tương ái và tu thân chay tịnh. Họ gắn bó với dân tộc, và nhạy bén với các hình thức hiếu thảo đối với tổ tiên, đất nước. Trong một thực tế như vậy, việc giới thiệu Đức Kitô và Hội Thánh Người phải được thực hiện một cách khôn khéo, tế nhị, hài hoà. Tôi có kinh nghiệm này: Khi những giá trị thiêng liêng chung của hồn thời đại, của hồn dân tộc, của hồn văn hoá được coi như những giá trị căn bản do Thánh Linh thổi vào, thì việc dùng những giá trị chung đó để giới thiệu Tin Mừng trong xã hội ta là một chọn lựa bước đầu thích hợp. Đó là một cách rất tốt dọn đường cho Đức Kitô và làm cho người ta có thiện cảm với Hội Thánh. Tất nhiên những giá trị chung đó không thay thế được những giá trị riêng của người môn đệ Đức Kitô, mà chúng ta luôn tự hào. Cách giới thiệu Tin Mừng bằng chính con người và đời sống mang những giá trị như thế đòi nhiều đổi mới nội tâm và phong cách. Sự đổi mới này cần được thực hiện một cách cụ thể ít nhất ở cấp cộng đoàn nhỏ. Khó đấy, những phải ráng làm. Tình hình nội tâm đa số đồng bào Việt Nam hôm nay đang có những chuyển biến đi tìm những giá trị cao. Nếu sự đổi mới của chúng ta không là sự đổi mới chính mình, dựa trên Lời Chúa và gặp gỡ Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, là đường, là sự thực và là sự sống, thì tôi sợ những chọn lựa giới thiệu Tin Mừng của chúng ta sẽ nghèo nàn giá trị Phúc Âm, sẽ không đúng ý Chúa. Lúc đó biết đâu chúng ta sẽ đầu tư thời giờ và của cải vào những việc vô bổ. Trái lại, một sự đổi mới chính mình có chất lượng cao sẽ là một anh hùng ca, giới thiệu mùa xuân chiến thắng của Nước Trời đang tới, góp phần đem lại bình an hạnh phúc cho đồng bào Việt Nam ta. Long Xuyên, ngày 8-01-2000
Một đặc điểm của Tết Việt Nam là cây mùa xuân. Cây Mùa Xuân có tính cách gia đình và xã: 28-01-2000 Bùi-Tuần 737
Một đặc điểm của Tết Việt Nam là cây mùa xuân. Cây Mùa Xuân có tính cách gia đình và xã hội. Nó được đặt ở nơi có nhiều người thấy. Cây mùa xuân phải là cây xanh tươi, nhiều cành, nhiều hoa. Tôi cũng tính dựng một cây mùa xuân. Trong lòng tôi. Cho riêng tôi. Nhưng nếu được nhiều người biết thì tôi rất mừng. Bởi vì đó cũng là một hình thức chào chúc xuân, chia sẻ hương xuân, thân tặng tình xuân. Cây mùa xuân của tôi được đặt tên là Phát triển. Không dám tham lam phát triển nhiều thứ, tôi chỉ nhắm vào mấy thứ sau này. Tôi gọi chúng bằng tên Hoa, cho thoang thoảng hương sắc mùa xuân. Hoa Lời Chúa. Đọc Lời Chúa, nghiên cứu Lời Chúa, học Lời Chúa là những việc tốt, nhưng không đủ. Cần phải mang Lời Chúa trong lòng, để Lời Chúa hướng dẫn, hoán cải tâm hồn. Nhất là dùng Lời Chúa chạm vào cuộc sống và những kinh nghiệm cuộc đời. Từ đụng chạm đó sẽ loé ra những tia sáng mới để có những sáng tạo cho cách sống đạo, cách dạy đạo, cách giảng đạo được thích hợp hơn, hữu hiệu hơn. Nhất là phải dùng Lời Chúa làm chuẩn mực để phân định và đánh giá. Thánh Phaolô dạy: “Anh em đừng có rập theo thói đời này. Nhưng hãy biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Chúa, cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm 12,2). Để có thể nhận ra ý Chúa thì tất nhiên phải dựa trên tiêu chuẩn Lời Chúa. Hoa nội tâm. Phải lặn sâu vào nơi thầm lặng nhất của tâm hồn. Ở đó để suy niệm, để lắng nghe tiếng Chúa, để cân nhắc, để chọn lựa. Chỗ đó phải là nơi có tự do thiêng liêng nhất. Không bị áp lực của dư luận, của các thành kiến, của các đam mê xấu. Chính ở chỗ thẳm sâu đó, tâm hồn sẽ được Thánh Linh dạy dỗ. Như Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, mà Chúa Cha sai đến nhân danh Ta, sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều mà Ta đã nói với anh em” (Ga 14,26). “Khi nào Thánh Thần đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thực toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, thì Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16,13). Hoa dấn thân. Tôi gọi là hoa dấn thân những thương cảm và chăm sóc đặc biệt dành cho loại người thường bị xã hội bỏ rơi. Chúa Giêsu đã nhắc đến họ trong dụ ngôn “Mời dự tiệc trong Nước Trời”. “Hãy mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây” (Lc 14,21). Với những lời trên đây, Chúa Giêsu không bảo chúng ta phải quay lưng lại những người giàu sang đầy đủ. Nhưng khuyên chúng ta hãy có những quan tâm ưu tiên và những phục vụ khẩn cấp dành cho những người bị loại trừ. Loại bị loại trừ không chỉ gồm 4 thứ người mà Phúc Âm nói ở trên, tức là nghèo túng, tàn tật, đui mù, què quặt, mà còn gồm những người dốt nát, bê bối, bê tha, tội lỗi. Thiết tưởng, nếu Hội Thánh địa phương cố gắng mở ra được hướng trên đây thì hình ảnh Hội Thánh sẽ có một vẻ đẹp độc đáo, toả hương, có sức thuyết phục. Hoa tình thương. “Ta ban cho các con một điều răn mới là hãy thương yêu nhau, như Ta đã yêu thương các con. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Ta là các con thương yêu nhau” (Ga 13,34-35). Lời Chúa Giêsu dạy trên đây là rất quan trọng. Phải coi đó là giá trị căn bản. Xem ra nhiều tín hữu vẫn muốn tránh né. Nhưng nhiều nơi đã có những sáng tạo đáng kể để thực thi điều răn mới của Chúa Giêsu. Một trong những sáng tạo đáng ngợi khen nhất là phấn đấu đào tạo nhân sự cho cộng đoàn mình thương mến. Đào tạo nhân sự có nhiều chuyên môn trong phục vụ, nhiều khôn ngoan trong ứng xử, nhiều sâu rộng trong kiến thức, nhiều sáng suốt trong lựa chọn, nhiều ý chí trong thực hiện. Thương yêu cộng đoàn cơ sở, giáo xứ, giáo phận, xã hội địa phương, thì phải cố gắng đào tạo nhân sự cho họ. Hoa khiêm nhường. Khiêm tốn là đức tính đẹp thuộc nhân bản, thuộc văn hoá dân tộc, thuộc mọi tôn giáo. Riêng công giáo càng coi trọng đức khiêm nhường. Tôi vẫn xác tín điều này: Mình có rất nhiều giới hạn trong hiểu biết. Ngay sự biết mình cũng rất giới hạn. Phương chi biết người khác, biết Hội Thánh, biết xã hội, nhất là biết Chúa. Ngoài ra, mình có nhiều giới hạn trong thực hiện. Đến như thánh Phaolô tông đồ cũng đã phải thú nhận: “Điều tôi muốn thì tôi không làm. Còn điều tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,14). Nhiều khi nói về bản thân, chúng ta dễ tỏ ra khiêm nhường. Nhưng khi nói về tập thể và cơ chế của chúng ta, chúng ta không ngại tỏ vẻ tự đắc, tự kiêu. Thái độ đó vẫn chưa phải khiêm nhường. Cần chỉnh đốn lại. Thái độ khiêm nhường hay nhất là luôn luôn nói với Chúa lời “Xin vâng” và lời “Tạ ơn” như Đức Mẹ xưa. *** Trên đây là vài nét về hình ảnh cây Mùa Xuân “Phát triển” của tôi. Tôi phác hoạ vào buổi chiều mùa đông. Có thể nó mang nhiều gợi nhớ về quá khứ và gợi ý về tương lai. Nhưng chắc chắn cây Phát triển này có niềm hy vọng của Mùa Xuân thiêng liêng. Mùa xuân này là của riêng mỗi người. Nó bắt đầu từ mỗi ngày chúng ta đang sống. Nó trẻ trung hoá cuộc đời bằng một chiều kích đạo đức đón nhận sức sống Mùa Xuân từ Thiên Chúa. Long Xuyên, ngày 28-01-2000
Trong những ngày này, báo chí, truyền thanh và truyền hình đưa ra rất nhiều hình ảnh. Đặc biệt là các hình ảnh của những người đã và đang góp phần xây dựng đất nước. Nhiều hình ảnh được lặp đi lặp lại. Nhưng rồi qua đi rất mau. Tôi tự hỏi, hình ảnh nào còn ở lại trong lòng người dân. Có nghĩa là loại người nào đã gây được nhiều mộ mến. Nếu tôi không lầm, thì đó là loại người được minh chứng là đã và đang chịu đau khổ cùng với những ai khổ đau. Họ là những người chịu đau khổ thay cho người khác.Họ là những người chịu đau khổ đi tìm hạnh phúc cho tha nhân. Họ đau khổ cùng với. Họ đau khổ thay cho. Họ đau khổ đi tìm. Bởi vì họ yêu thương. Họ có một vẻ đẹp quyến rũ. Không do ngoại hình, nhưng do tình thương nằm trong liên đới. Liên đới đó được diễn tả bằng khổ đau. Khi đem nhận định trên đây áp dụng vào lãnh vực tôn giáo, tôi cũng thấy như vậy. Hằng ngày có nhiều thứ hình ảnh được trưng bày. Hình ảnh người dâng thánh lễ, hình ảnh người hành hương, hình ảnh người cầu nguyện, hình ảnh người giảng dạy, hình ảnh người dâng cúng, hình ảnh người làm từ thiện. Nhưng hình ảnh gợi cảm nhất vẫn là hình ảnh người hy sinh, dấn thân, chịu đau khổ thay cho người khác, chịu đau khổ cùng với những ai đau khổ, chịu đau khổ đi tìm an bình phát triển cho quê hương và Hội thánh. Nếu cần đặt tên cho những người như thế bằng một từ của Kinh Thánh, thì có thể gọi họ là người đầy tớ khổ đau. Người đầy tớ khổ đau Tiên tri Isaia mô tả khổ đau là vận mạng người đầy tớ Đức Giavê. Bài ca thứ tư, đoạn 53, trình bày hình ảnh đó. “Ngài bị khinh khi, bị coi là đồ phế thải của người đời. Con người đau đớn và bệnh tật. Ngài như một kẻ, nếu gặp chúng tôi, thì lo giấu mặt. Ngài bị khinh dể, và chúng tôi đã chẳng thèm đếm xỉa”. Lý do khiến Ngài chịu đau khổ là lòng thương của Ngài muốn đền tội thay cho chúng ta. “Chính các bệnh tật của chúng tôi, Ngài đã mang lấy. Chính các đau khổ của chúng tôi, Ngài đã vác. “Ngài đã bị đâm vì những ngỗ nghịch của chúng tôi và vì tội vạ của chúng tôi, Ngài đã bị nghiền tán. Đã giáng xuống Ngài hình phạt, để đổi lấy an bình cho chúng tôi. Nhờ những vết thương Ngài chịu, chúng tôi mới được phương được lành. “... Giavê để Ngài phải luỵ vì tội vạ hết thảy chúng tôi” (Is 53,3-6). Một lý do nữa khiến Ngài chấp nhận khổ đau là để kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được nên trọn. “Giavê đã ái mộ kẻ Người để chọ bị nghiền nát. Và đã cho hồi phục kẻ đã hiến mình làm hy sinh tạ tội. Ngài sẽ được thấy dòng giống, sẽ thọ trường sinh. Và ý định Giavê nhờ Ngài sẽ nên trọn” (Is 53,9). Tất cả những lời tiên tri của Isaia về người đầy tớ đau khổ đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô đến như người đầy tớ. Bởi vì Người là tình yêu phục vụ. Người đến không để được phục vụ, mà để phục vụ. Phục vụ một cách khiêm nhường như người đầy tớ. Phục vụ để vâng lời Chúa Cha. Phục vụ vì yêu thương nhân loại. Tuy phục vụ như thế, Chúa Giêsu đã chịu biết bao khổ đau, do thái đổ dửng dưng, chống đối, hiềm khích, ghen tương của chính dân Người. Sau cùng, “Người đã đi ra, vác thánh giá, đi lên núi Golgotha, ở đó họ đóng đinh Người” (Ga 19,7). Lý do khiến Người chịu đau khổ như thế là vì Người dấn thân gánh tội thiên hạ, đền tội thay cho nhân loại, chịu khổ cùng với tất cả những ai phải sống cảnh khổ đau. Vì thế Người trở nên nguồn an ủi cho mọi người lâm cảnh khổ đau. Lý do mạnh nhất chính là tâm tình vâng phục ý Chúa Cha. “Người đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết trên thánh giá” (Ph 2,8). Do sự bất tuân của một người mà bao người đã bị liệt vào hàng tội nhân. Cũng vậy, vì sự vâng phục của một người, nhiều người sẽ được liệt vào hàng công chính” (Rm 5,19). “Dẫu là con, Người đã phải đau khổ dãi dầu, mà dạy cho biết vâng phục. Và một khi đã hoàn thành, Người đã nên nguyên nhân cứu rỗi đời đời cho những ai vâng phục Người” (Dt 5,8-10).. Chịu đau khổ thay cho, chịu đau khổ cùng với những ai đau khổ, chịu đau khổ để vâng phục Thiên Chúa, đó là những hình ảnh đẹp của Tin Mừng. Những hình ảnh đẹp đó đã được loan báo từ Cựu Ước đến Tân Ước. Thử hỏi xem: Những hình ảnh như thế có dễ tìm được trong cộng đoàn chúng ta không? Nhất là những hình ảnh như thế có được nhận thấy nơi chính bản thân chúng ta không? Tỉnh thức và phân định. Càng ngày, hình ảnh người đầy tớ khổ đau trong Hội Thánh càng mang nhiều hình thức khác nhau. Nhưng chắc chắn không phải mọi phục vụ của người đầy tớ đều đúng ý Chúa. Cũng như chắc chắn không phải mọi khổ đau của người đầy tớ đều mang ý nghĩa cứu độ. Vì thế mà cần phải biết tỉnh thức và phân định. Nhiều khi phục vụ của ta không được Chúa chấp nhận, hoặc vì nội dung không đúng ý Chúa, hoặc vì cách phục vụ không hợp ý Chúa, hoặc vì thời gian trái với ý Chúa. Thí dụ: Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi, Người cho ba môn đệ thấy vinh quang của Người. Nhưng Người truyền cho các môn đệ đừng nói ra với ai về sự lạ mới thấy, cho tới ngày Người kết thúc cuộc đời trần thế. Có nghĩa là phục vụ tốt là phải phục vụ đúng thời gian Chúa muốn (x. Mt 17,1-9). Khi Chúa Giêsu dạy cầu nguyện, bố thí và ăn chay, Người truyền dạy phải thực hiện ba việc đó một cách kín đáo, không phô trương. Có nghĩa là phục vụ tốt là phải phục vụ đúng cách Chúa dạy (x. Mt 6,1-18). Khi Chúa Giêsu tỏ cho các tông đồ biết Người sẽ nạp mình chịu chết, thì thánh Phêrô can Người đừng làm như vậy. Thánh Phêrô coi ý kiến của mình là một nội dung phục vụ. Nhưng Chúa mắng Phêrô và cho ý kiến của Phêrô là do Satan. Có nghĩa là phục vụ tốt là phải phục vụ đúng nội dung Chúa chọn (x. Mt 16,21-23). Vài chi tiết trên đây cho thấy chúng ta cần phải năng xem xét bổn phận phục vụ của chúng ta. Phục vụ như người đầy tớ mà còn phải thế. Phương chi phục vụ như kẻ cầm quyền. Riêng về đau khổ, chúng ta cần phải tỉnh thức và phân định một cách trưởng thành, sáng suốt hơn. Đôi khi chúng ta phải đau khổ rất nhiều vì những lý do khác nhau, kể cả lý do bị bắt bớ, bị ngược đãi vì Phúc Âm. Nhưng sau đó nếu chúng ta dễ dàng khoe khoang những chuyện ấy, thì có thể sẽ làm cho đau khổ của ta mất đi giá trị thiêng liêng cao quí của nó. Những hào quang thế tục sẽ đến tước lột khỏi ta những gì là tham gia vào thánh giá thực của Đức Kitô, để trả lại cho ta cái tầm thường của mọi vinh quang tầm thường. Đôi khi chúng ta cũng đau khổ do cộng đoàn chống đối, dửng dưng, trì trệ. Nhưng nếu chúng ta dễ dàng đổ lỗi cho người khác và cho hoàn cảnh, thì đau khổ của ta sẽ mất đi sức sống cứu độ. Bởi vì đau khổ luôn mang tiềm năng giáo dục, đào tạo và sáng tạo. Nó đánh thức ta. Nó thanh luyện ta. Nó đào tạo ta. Nó mở ra cho ta những con đường mới. Nếu lúc đó chúng ta thực sự chịu khổ đau thay cho người khác và chịu khổ đau cùng với những người khổ đau, để quyết tâm tìm vâng phục ý Chúa trong sám hối cầu nguyện và phấn đấu, thì Chúa sẽ thương cứu ta và cứu cộng đoàn của ta. Đôi khi chúng ta khổ đau vì cảnh nghèo túng, dốt nát, chia rẽ và bế tắc của gia đình, thôn xóm chúng ta. Nhưng nếu chúng ta dễ dàng kêu trách số phận, mà không chịu khó cố gắng xây dựng hòa bình và phát triển, nhất là không nhờ ánh sáng và sức mạnh của Chúa, để biết đau khổ thay cho người khác và biết đau khổ với người khác, thì đau khổ có thể đẩy đưa chúng ta vào con đường cô đơn thất vọng và liều lĩnh. Lúc đó cuộc sống sẽ là một chuỗi mắt xích trói chúng ta vào những bất hạnh. Trái lại, biết đau khổ trong yêu thương sẽ là đau khổ mà vẫn hân hoan và cao thượng. *** Năm Thánh này nhắm đổi mới con người và cộng đoàn. Sức mạnh đổi mới xem ra sẽ ít đến từ những điểm ồn ào. Nhưng sức mạnh đổi mới sẽ đến từ Thiên Chúa một cách lặng lẽ, qua những người âm thầm vác thánh giá đi theo Đức Kitô. Những người dám chịu đau khổ thay cho người khác. Những người vui lòng chịu đau khổ cùng với những người khổ đau. Những người hy sinh chịu đau khổ vì yêu thương phục vụ Chúa. Những người dấn thân vào đau khổ vì yêu thương phục vụ đồng bào. Những người mang thánh giá thực của Chúa Giêsu. Họ là những hình ảnh đẹp của Tin Mừng. Họ sống là sống hân hoan làm chứng cho tình yêu phục vụ, cho dù phải đau khổ và chết trên thánh giá. Họ là những người có khả năng loan báo Tin Mừng tại Việt Nam hôm nay. Long Xuyên, ngày 29-01-2000
Ngày đầu Xuân, lời được nói nhiều nhất là lời Hạnh phúc, chữ được viết nhiều nhất là chữ Hạnh phúc, cầu mong lớn nhất là cầu mong Hạnh phúc. Những hiện tượng trên đây chứng tỏ tư tưởng Hạnh phúc luôn dính liền với con người, khát vọng Hạnh phúc luôn thúc đẩy suốt hành trình đời người. Hạnh phúc là một cõi mơ rất rộng, với một nội dung rất trống. Khi đi vào cụ thể, mỗi người sẽ đi theo những con đường có thể khác nhau, và sẽ có những kinh nghiệm có thể khác nhau. Đối với riêng tôi, mọi con đường hạnh phúc đều được chọn trong ánh sáng Lời Chúa, và do đó mọi kinh nghiệm về hạnh phúc cũng được xác nghiệm trên tiêu chuẩn Lời Chúa. Vì thế tôi xin phép được chia sẻ về hai con đường tôi chọn, với đôi chút kinh nghiệm. Con đường thứ nhất dẫn tới hạnh phúc là phấn đấu nội tâm. Khi phấn đấu nội tâm để giải thoát mình khỏi những gì không phải là công chính, và để được trưởng thành về sự công chính , con người sẽ cảm thấy rất hạnh phúc. Hạnh phúc là kết quả của phấn đấu nội tâm. Kinh Thánh nói: “Hạnh phúc cho những ai đi trong luật của Chúa” (Tv 119 (118). “Chúc tụng Thiên Chúa là Đấng đã luyện bàn tay tôi trở nên thiện chiến, đã luyện những ngón tay tôi phấn đấu” (Tv 144). Sự công chính, mà cuộc chiến đấu nội tâm nhắm tới, phải là sự công chính Chúa dạy. Chúa dạy “Nếu sự công chính của chúng con không vượt trên sự công chính của các luật sĩ và các biệt phái, thì các con sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Sự công chính trổi vượt, mà Chúa Giêsu dạy trên đây, chính là tám mối phúc. Tôi thường hình dung tám mối phúc như tám con sông chuyển tải ơn thánh vào lòng người và vào lịch sử. Để đào tám con sông đó, chúng ta phải vất vả phấn đấu. Thí dụ phải phấn đấu trút bỏ những cằn cỗi, thành kiến, cứng đọng và lười biếng, để nên người sinh động, biết khao khát tìm sự thật. Phải phấn đấu rèn luyện tu thân, để nên người có nội quan sắc bén, nội tâm phong phú, nội lực gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Phải phấn đấu học hỏi, tập tành, nghiên cứu, để nên người biết yêu thương và phục vụ bằng đúng việc, đúng cách, đúng nhu cầu phúc âm ở thời điểm nay và ở địa phương này. Những phấn đấu vất vả như thế sẽ bẻ gẫy trong ta các xiềng xích tính mê nết xấu, sẽ phá đổ trong ta những bức tường kiêu căng, thành kiến, ghen ghét, ích kỷ. Chúng sẽ giúp chúng ta trưởng thành về nhân bản và đạo đức. Chúng sẽ đem lại cho ta sự tự do đích thực của con cái Chúa. Nhất là chúng đưa ta đến hạnh phúc, một thứ hạnh phúc sâu xa, sâu lắng, sâu thẳm được chia sẻ từ hạnh phúc cứu độ của Chúa Giêsu. Con đường thứ hai dẫn tới hạnh phúc là tin tưởng vào Thiên Chúa giàu tình yêu thương xót. Kinh Thánh nói: “Hạnh phúc cho ai đặt hy vọng nơi Thiên Chúa” (Tv 146 (145). Kinh nghiệm cho thấy Chúa luôn luôn nâng đỡ những ai cậy trông nơi Người. Chúa nâng đỡ chúng ta, không phải là sẽ ban cho chúng ta những gì chúng ta thích, nhưng là sẽ dạy chúng ta thực hiện những gì Chúa muốn, bởi vì những gì Chúa muốn sẽ đem lại hạnh phúc thực cho chúng ta. Thực thi ý Chúa là điều hết sức quan trọng của việc tin cậy nơi Chúa. Chúa Giêsu phán: “Thầy đến, không phải để làm theo ý Thầy, nhưng để làm theo ý Cha Thầy” (Ga 6,38). “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). Thánh ý Chúa chắc chắn nhất là yêu thương, bác ái. “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Chúa không những đã yêu thương chúng ta, mà còn xót thương chúng ta, xót thương đến cùng. Khi tin vào Chúa xót thương, để rồi cũng xót thương kẻ khác như Chúa xót thương chúng ta, chúng ta sẽ cảm được hạnh phúc, một thứ hạnh phúc ngọt ngào, đầy bình an, vượt trên mọi thứ hạnh phúc, mà trần gian tôn vinh tìm kiếm, một thứ hạnh phúc vượt trên không gian và thời gian, hòa nhập vào hạnh phúc của Thiên Chúa Ba Ngôi. Hạnh Phúc trên đây giúp tôi có một thái độ phải phát triển mỗi ngày, thái độ đó là luôn luôn khó khăn khiêm nhường tỉnh thức để đón nhận: Đón nhận Chúa đến viếng thăm, đón nhận ơn Chúa soi sáng, đón nhận kế hoạch Chúa dùng để cứu độ Hội Thánh và Quê Hương lúc này, đón nhận các biến cố Chúa gửi đến để thanh luyện lòng đạo của chúng ta. Tới đây tôi nhớ lại một ý của thánh Augutinh. Đại khái Ngài nói: Nếu chẳng may một tai họa khủng khiếp xảy tới phá huỷ mọi sự trên trái đất này, chỉ còn sót lại cuốn Kinh Thánh, thì tôi vẫn còn đường đi tìm hạnh phúc. Nếu chẳng may cuốn Kinh Thánh đó bị cháy tất cả, chỉ còn sót lại một trang, thì tôi vẫn còn đường đi tìm hạnh phúc. Nếu chẳng may các dòng chữ trong đó cũng bị mờ đi, chỉ còn một dòng “Thiên Chúa là tình yêu thương xót”, thì tôi vẫn sung sướng tìm được con đường dẫn tới hạnh phúc. Với những kinh nghiệm và với những xác tín về hai con đường Lời Chúa trên đây, tôi thân ái cầu chúc mọi người và từng người một năm Canh Thìn đầy hạnh phúc trong Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta.
Thánh lễ đồng tế long trọng thường được mở đầu bằng một cuộc rước. Đi đầu là thánh giá . Sau thánh giá là đoàn đồng tế và vị chủ tế. Khi tham dự những cuộc rước như vậy, tôi hay nhớ lại cảnh Chúa Giêsu đi lên núi Sọ, Chúa Giêsu vác thánh giá đi trước. Theo sau là nhóm người thân. Có một lúc, Chúa Giêsu quay lại, thấy nhóm này đang khóc. Người liền nói với họ rằng: “Đừng khóc Ta. Hãy khóc chính mình và con cháu của các con… Cây xanh tươi tốt mà còn bị thế này. Huống hồ cây khô”(Lc 23,28-31). Qua gợi nhớ này, tôi gặp thấy Chúa Giêsu hôm nay. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang vác thánh giá. Với thánh giá trên vai, Người đi giữa nhân loại,và trong Hội Thánh. Theo sau Người là đoàn môn đệ. Người cũng nói với họ những lời xưa. Tôi tham gia đoàn môn đệ đó, và được nghe lời Chúa. Nên có một vài cảm nghiệm nội tâm. Cảm nghiệm sâu đậm nhất là thế này: Chúa Giêsu muốn các môn đệ Người đừng dừng lại ở nghi lễ rước thánh giá, nhưng hãy thực sự đi theo Người đang vác thánh giá giữa lịch sử hôm nay. Theo cái nhìn của đức tin, thì lịch sử hôm nay vẫn là một quãng đường của lịch sử cứu độ. Con người hôm nay vẫn cần được cứu độ. Họ cần được cứu khỏi những lực lượng sự ác. Họ cần được giúp đỡ để tham gia vào sự sống đời đời. Giai đoạn này có nhiều thuận lợi cho công trình cứu độ, nhưng cũng có rất nhiều cản ngăn chương trình cứu độ. Ba kẻ thù thiêng liêng vẫn mạnh, và xem ra mạnh hơn trước. Vì thế vai trò cứu độ của Chúa Giêsu cần được đề cao. Để chiến thắng lực lượng sự ác và đưa con người về sự sống đời đời, Chúa Giêsu đã dùng một khí giới riêng. Khí giới riêng đó là thánh giá. Chúa muốn các môn đệ Chúa cũng hãy dùng khí giới thiêng liêng ấy. Trước hết thánh giá là từ bỏ mình, bước theo Đức Kitô. Chúa phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Điều Chúa đòi không có gì ghê gớm cả. Đơn sơ là thế này: Hãy rũ bỏ ý riêng và những bất mãn về thực tại của mình, bình tĩnh sống một cách tốt đẹp nhất theo khả năng của mình trong thực tại đó, với tinh thần trách nhiệm và liên đới. Trên con đường cứu độ, không phải những chỗ thênh thang sẽ là nơi chiến thắng sự ác. Nhưng chỗ nào có nhiều khó khăn coi như không thể vượt qua lại là chỗ sức mạnh Chúa xuất hiện chiến thắng nhờ thánh giá cứu độ. Cũng vì thế mà thánh giá cứu độ kêu gọi một việc coi như chính yếu. Việc đó là sám hối. Trên đường vác thánh giá, Chúa Giêsu bảo các người thân: “Đừng khóc Ta, hãy khóc chính mình và con cháu của các con”. Khóc ở đây có nghĩa là sám hối. Sám hối chủ yếu là hoán cải. Tất nhiên có nhiều điều phải hoán cải. Nhưng với người môn đệ Chúa, điều cần hoán cải hơn cả thiết tưởng chính là cái nhìn. Bởi vì chính từ những cái nhìn sẽ phát sinh ra ý muốn, lời nói và hành động. Chúa Giêsu dạy: “Khi con mắt lành mạnh, thì toàn thân đều sáng. Khi con mắt đau bệnh, thì toàn thân sẽ mờ tối” (Lc 11,34). Con mắt đau bệnh là cái nhìn sai trái, cái nhìn hẹp hòi thành kiến, cái nhìn ghen tương ích kỷ, cái nhìn ham muốn tham lam, cái nhìn soi bói bắt bẻ, cái nhìn tự mãn kiêu căng... Phải sám hối những cái nhìn như vậy. Hãy hoán cải bằng cách học hỏi Lời Chúa, thông hiệp vào cái nhìn của trái tim Chúa và khiêm tốn trước thực tại khách quan. Hoán cải cái nhìn cá nhân là việc tương đối khó. Hoán cải cái nhìn tập thể là việc còn khó hơn gấp bội. Những khó khăn đó là những thánh giá mà người môn đệ đi theo Chúa Giêsu phải vác một cách kiên trì và trung tín. Thêm vào đó, thánh giá còn kêu gọi dấn thân, để mỗi người chúng ta trở thành cây xanh trổ sinh hoa trái, cho dù gặp trắc trở. Trên đường vác thánh giá, Chúa bảo các người thân: “Cây xanh mà còn bị thế này, huống hồ cây khô”. Với những lời ấy, Chúa dạy các môn đệ đừng quá để ý đến việc tránh né những cơn bắt bớ và những đau đớn cực khổ. Nhưng hãy lo cho mình và con cháu mình luôn là cây xanh tươi tốt. Những cơn khốn khó sẽ phải tới. Chính Chúa Giêsu cũng không tránh được. Nhưng những người là cây xanh sẽ biết dùng những dịp đo, để cùng với Chúa Giêsu tạo nên những sự sống mới mang giá trị cao, có sức cứu độ cho mình, cho Hội Thánh và cho nhân loại. Để luôn là cây xanh tươi tốt, chúng ta phải tìm nhựa sống thiêng liêng nơi Lời Chúa, nơi phép Thánh Thể, nơi Chúa Ba Ngôi. Những viêc đạo đức đó là rất căn bản, nhưng sẽ không miễn cho chúng ta khỏi phải học hành, nắm bắt tình hình, nghiên cứu và sáng tạo. Cảm nghiệm và những suy nghĩ trên đây đang tạo nên một bầu khí tĩnh tâm, giúp cho các môn đệ Chúa sống Năm Thánh và sống những kỷ niệm thụ phong. Năm Thánh kêu gọi trở về với thánh giá cứu độ. Các kỷ niệm thụ phong cũng mời gọi nhìn lên thánh giá cứu độ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng thánh giá mà cứu chuộc chúng con, xin thương ban cho chúng con ơn biết sống mầu nhiệm thánh giá, hôm nay và mãi mãi. Amen. Long Xuyên, ngày 21-02-2000
Phúc Âm thánh Gioan kể rằng: “Một hôm ông Gioan (Baotixita) đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,35-36). Tôi tự hỏi: Do đâu thánh Gioan Baotixita đã nhận ra Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa? Có thể thưa: Do nội quan của Gioan Baotixita. Ngài có một thứ cảm quan thiêng liêng nhạy bén trong nội tâm Ngài. Cảm quan này hoàn toàn trút bỏ được cái tôi và mọi dục vọng xấu, nhưng đầy thao thức về Nước Trời, nên cảm nhận được một vẻ đẹp lạ lùng nơi Đức Giêsu, mặc dầu vẻ đẹp đó ẩn dạng dưới một dáng người nghèo nơi Đức Giêsu. Với ơn Chúa Thánh Thần, nội quan đó đã dễ dàng nhận ra sự cao cả nơi Đức Giêsu. Thánh sử Gioan kể tiếp: “Hai môn đệ Gioan nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: Các anh tìm gì thế? Họ đáp: Thưa Thầy, Thầy ở đâu? Người bảo họ: Hãy đến mà xem. Họ đã đến xem chỗ Người ở. Họ đã ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,37-39). Tôi cũng tự hỏi: Do đâu hai môn đệ thánh Gioan Baotixita đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng họ mong chờ trên đường tìm tu thân cứu độ? Có thể thưa: Cũng do cái nhìn của nội quan từ bên trong tâm hồn các ông. Thực vậy, khi đến chỗ Chúa Giêsu ở, chắc chắn các ông chỉ thấy một căn nhà nghèo nàn, một nếp sống đơn sơ. Mắt họ chỉ thấy thế. Nhưng nội quan họ đã thực sự rung động, khi khám phá thấy bao giá trị cao quí ẩn tàng dưới những cảnh bề ngoài nghèo hèn. Nội quan các ông đã nhìn sâu vào thực tại, đã nắm bắt đúng sự thực. Không do lý luận, mà là do sự nhạy cảm của một trạng thái tâm hồn tĩnh lặng, đơn sơ, luôn khát khao sự thực. Khi gặp được sự thực cao quí, thì lòng rung động một cách hồn nhiên, biểu hiện một sự gặp gỡ tự do thanh khiết. Từ hai trường hợp trên đây được kể trong Phúc Âm, tôi đi tìm những hoạt động của nội quan trong cuộc sống. Kết quả của những gì tôi kiếm tìm là rất giới hạn. Nhưng nó vẫn nói lên được vài nhận định. Với nội quan nghèo nàn hời hợt, người làm nghệ thuật sẽ cằn cỗi trong sáng tạo. Nếu nội quan căng phồng bởi cái tôi tự mãn, người học Triết sẽ tự đặt ra những hàng rào thành kiến, cản trở nội quan gặp được sự thực. Nếu nội quan chỉ biết rung động qua những rung động của dư luận, lương tâm sẽ dễ bị qui định bởi vô số sai lầm. Nếu nội quan chỉ quen sống với những so sánh, tình hình đạo đức sẽ trở thành bãi chiến trường của các xung đột cạnh tranh. Nếu nội quan chỉ vận hành theo các lý luận của sự khôn ngoan hoàn toàn thế tục, sức sống Kitô giáo sẽ bị kẹt vào những khuôn mẫu hẹp hòi, không thể nào mở ra được về cõi trời mênh mông của Tin Mừng. Nếu nội quan chỉ tìm an tâm, an nhàn, người hoạt động tôn giáo sẽ không ngại tự bọc mình bằng những lý thuyết rườm rà cũ kỹ, rồi đóng lại tất cả các cửa trí khôn, để khỏi thấy và nghe những chuyển biến của thực tại. Nội quan cá nhân bị đui mù là một mất mát lớn cho cá nhân và cho xã hội. Nội quan tập thể bị thui chột là một đại hoạ cho lịch sử của cả một Hội Thánh địa phương và của cả một dân tộc. Khi chúng ta quen nhìn mọi sự mọi người dưới ánh sáng Lời Chúa và với tình yêu của Chúa, chúng ta sẽ dần dần hiểu thế nào là một nội quan, mà người môn đệ Đức Kitô cần phải có. Với nội quan này, người môn đệ Chúa sẽ có một cái nhìn mới về Quê Hương, về đồng bào, về thời cuộc, về Hội Thánh. Nhất là với nội quan này, người được Chúa sai đi vào ngày hôm nay, đến địa phương này, sẽ thấy sứ vụ của mình là phải yêu thương và phục vụ mọi người một cách khiêm nhường, tế nhị, như Đức Giêsu, Đấng yêu thương và phục vụ chúng ta. Một nội quan được tôi luyện bởi ánh sáng Lời Chúa và tình yêu của trái tim Chúa sẽ dễ đón nhận kế hoạch cứu độ của Chúa dành cho Hội Thánh và Quê Hương chúng ta. Kế hoạch cứu độ đó vẫn là Tình yêu . Nó đòi chúng ta phải tích cực góp phần mình vào việc thực hiện yêu thương và phục vụ của Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Nó đòi chúng ta phải dấn thân vào hành trình người đầy tớ Đức Giave, mà tiên tri Isaia đã loan báo xưa. Nó đòi chúng ta phải ra đi truyền giáo, như người ra khơi thả lưới, và như người ra ruộng gieo giống trồng cây. Mong rằng Năm Thánh 2000 sẽ là dịp tốt để mỗi người chúng ta chăm sóc nội quan của mình, nhất là bằng sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, để có thể nói được như thánh Phaolô: “Đối với tôi, sự sống là chính Đức Kitô” (Phil 1,21). Lúc đó, nội quan chúng ta sẽ rất nhạy bén trước các giá trị Phúc Am, và sẽ sẵn sàng thực thi thánh ý Chúa một cách hân hoan, dù trong những hoàn cảnh bi đát. Long Xuyên, ngày 25-02-2000
Năm thánh kêu gọi chúng ta hoán cải chính mình. Việc hoán cải này có 2 nét chính. Nét thứ nhất là nét nội tâm. Nét nội tâm Tiên tri Giôen kêu gọi: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: Lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta. Hãy ăn chay, khóc lóc và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi. Bởi vì Chúa từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương” (Ge 2,12-13). Với cách nói trên đây, lời kêu gọi trở về với Chúa rõ ràng nhắm vào nội tâm. Chúng ta trở về với Chúa từ nội tâm mình, bằng sự hoán cải chính nội tâm ta. Nói tới nội tâm, tôi thấy không gì bí nhiệm cho bằng nội tâm. Chẳng nội tâm nào giống nội tâm nào. Do đó, việc nội tâm của mỗi người trở về với Chúa là chuyện riêng tư. Chuyện riêng tư đó có thể kể lại, để chia sẻ, chứ không để làm mẫu. Nhưng từ những riêng tư ấy, mỗi người chúng ta vẫn có thể gặp được một cái gì đó thích hợp cho mình. Trong nhận thức ấy, tôi xin kể một chứng từ. Để dễ kể lại, tôi tạm đặt tôi vào chuyện, thay cho tác giả. Vắn tắt như sau: Trong 4 Phúc Am, tôi thích đọc Phúc Am thánh Gioan hơn cả. Và trong toàn bộ Phúc Am thánh Gioan, tôi thích suy gẫm những lời “Thầy là...” hơn cả. Từ đoạn 6 đến đoạn 12, tôi gặp lời “Thầy là” đến 12 lần. “Thầy là bánh trường sinh” (Ga 6,35) “Thầy là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41) “Thầy là bánh hằng sống từ trời xuống” (Ga 6,51) “Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12; 9,5; 7,12,46) “Thầy là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7) “Thầy là cửa” (Ga 10,9) “Thầy là mục tử tốt lành” (Ga 10,11.14) “Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25) “Thầy là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6) “Thầy là cây nho thật” (Ga 15,1) “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,51) Khi đọc những lời trên đây, tôi có cảm tưởng là Chúa Giêsu nói trực tiếp với tôi. Đúng ra, đó không là cảm tưởng, mà chính là gặp gỡ. Một gặp gỡ bản thân, sống động và thân mật. Trong những gặp gỡ đó, Chúa tỏ ra “Thầy là...” mà không cắt nghĩa gì. Nhưng lời “Thầy là” đi sâu vào nội tâm tôi, khiến tôi nhìn thấy Chúa một cách mới mẻ. Tự nhiên tôi được thu hút mãnh liệt vào Chúa. Sự thu hút ấy trở thành một sự gắn bó thiêng liêng thân mật. Đó là bước đầu của sự trở về nội tâm. Từ đây Chúa Giêsu trở thành giao ước mới trọn vẹn của tôi. Người là tất cả hạnh phúc đời tôi. Với Người tôi trở về với Thiên Chúa Cha, trong sự hoan lạc của Chúa Thánh Thần. Trên đường trở về với Cha, tôi luôn luôn nhìn thây Chúa Giêsu trong nội tâm tôi. Người mang dung mạo yêu thương và phục vụ. Người dạy tôi về Thiên Chúa yêu thương và phục vụ. Người sai tôi di yêu thương và phục vụ một cách cụ thể ở một địa phương nhất định và ở một thời gian nhất định. Đó là nét thứ hai của việc hoán cải. Nét thời sự Chúa bảo tôi hãy trở về nhiệm vụ. Trở về với nhiệm vụ của tôi lúc này, tại đây, chứ không phải trở về với nhiệm vụ của người khác hoặc của tôi nhưng đã qua rồi, hoặc một nhiệm vụ nào mơ tưởng ở ngày mai và tại chỗ khác. Nhiệm vụ của tôi hôm nay tại đây là chăm sóc đoàn chiên, đi tìm chiên lạc, là ra khơi thả lưới, là ra đồng gieo hạt giống vào ruộng. Nhất là nhiệm vụ chu toàn các việc âm thầm, thường ngày. Phúc Am thánh Matthêu kể lại ba lời Chúa Giêsu khuyên về ba việc nên thực hiện âm thầm. 1. “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy... Vậy, khi bố thí, dừng có khua chiêng đánh trống như bọn đạo đức giả... Hãy bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh em bố thí được kín đáo. Và Cha anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,1-4). 2. “Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả... Hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,5-6). 3. “Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả... Hảy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy ngoại trừ Cha của các anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh em Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh em” (Mt 6,16-18). Ngoài ba việc đạo đức trên đây, còn bao việc khác chúng ta làm thường ngày. Tuy một cách âm thầm lặng lẽ, nhưng với tất cả tình yêu và với tinh thần phục vụ cao nhất. Nhiều việc lành chỉ nên để một Chúa biết. Người thấu suốt mọi việc trong thầm kín. Bởi vì Người cũng là Đấng ẩn dật trong những gì bé mọn nhất, bình thường nhất, để rồi sẽ nâng cao mọi kẻ khiêm nhường (Lc 1,52). Thánh Phaolô viết: “Đây là thời Thiên Chúa ban ơn, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cor 6,2). Trở về sống tốt với thời sự hôm nay mà ta đang sống và sống tốt ở tại chỗ này nơi ta đang phục vụ, chính là đón nhận ngày Chúa ban ơn, ngày Chúa cứu độ. Long Xuyên, ngày 3-3-2000
Năm Thánh được chú ý bởi những việc khác thường dễ thấy. Như một số cử hành khác thường, một số hành hương khác thường, một số kinh đọc khác thường. Những việc trên đây được kể là tốt. Nhưng nếu coi Năm Thánh là năm nhằm mục đích cứu độ và đổi mới, thì đừng quên những việc bình thường khó thấy. Kinh nghiệm cho thấy, việc cứu độ và đổi mới thường là kết quả của sự thực hiện những việc bình thường khó thấy, suốt chuỗi dài những ngày thường. Với nhận thức đó, tôi nghĩ rằng: Suốt những ngày thường trong Năm Thánh này, chúng ta cố gắng làm những việc bình thường nhưng với chất lượng cao. Một trong những việc đó là khám phá ra những cái mới mẻ của Tin Mừng hôm nay, để rồi thực hiện . Với ánh sáng Lời Chúa và tình yêu Chúa, khi chăm chú nhìn Việt Nam hôm nay, chúng ta có thể khám phá thấy nhiều mới mẻ của Tin Mừng. Dưới đây là một ví dụ. Bắt chước Chúa Giêsu yêu thương và phục vụ. Từ lâu nay, đường hướng mục vụ và truyền giáo nhiều nơi hiện lên khá rõ. Đường hướng đó là yêu thương và phục vụ. Lựa chọn này đặt nền móng trên Phúc Âm, đáp ứng đúng nhu cầu khẩn cấp của thực tại. Nhu cầu Phúc Âm khẩn cấp tại Việt Nam hôm nay là làm chứng cho Thiên Chúa bằng sức mạnh thiêng liêng. Theo tôi, sức hấp dẫn thiêng liêng đưa người ta về với Chúa sẽ không phải từ bản thân ta, nhưng từ sự chúng ta vâng lời Đức Kitô, bước theo Đức Kitô, bắt chước Đức Kitô, kết hợp với Đức Kitô. Đức Kitô đã yêu thương và phục vụ để đổi mới cứu độ nhân loại thế nào thì chúng ta cũng thực hiện như vậy. Yêu thương chân thành, phục vụ khiêm tốn đến độ hy sinh trên thánh giá. Tới đây, tôi nghĩ tới lời thánh Phaolô quả quyết : “Tất cả lề luật được nên trọn trong điều răn duy nhất là: Ngươi phải yêu mến tha nhân như chính mình” (Gl 5,14). Lời thánh Phêrô sau đây sẽ giúp cho việc yêu thương và phục vụ chọn được cách thực hiện tốt nhất: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Hình ảnh sống động nhất nói lên yêu thương và phục vu một cách khiêm nhường là việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ chiều thứ năm Tuần Thánh. Rửa xong, Chúa phán : “Nếu Thầy là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm cho nhau như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15). Bắt chước Chúa trong yêu thương và phục vu còn đòi tâm tình cảm thương và xót thương. Một sự cảm thương và xót thương không thiếu vắng tâm thức sẵn sàng hy sinh, chấp nhận một sự chia sẻ nào đó thân phận những người mà mình yêu thương và phục vụ. Nhiều khi chúng ta yêu thương và phục vụ, nhưng đã không gieo vào lòng người hạt giống Tin Mừng như một hy vọng tươi xanh. Nguyên do có thể là vì yêu thương và phục vu đó chưa thực sự gắn bó với gốc rễ là Đức Kitô. Trái lại, khi ta yêu thương và phục vu với Đức Kitô, trong Đức Kitô, như Đức Kitô, thì dù bị hiểu lầm và bị chống đối, những việc chúng ta làm sẽ không trở nên vô ích. Nhiều khi các cản trở lại có lợi cho mục vụ, truyền giáo và cho chính bản thân ta. Bản thân ta sẽ được thanh luyện, để rồi từ đó có thể ta sẽ nhận ra được lời mời gọi của chúa Giêsu là: Bắt chước Người dùng những phương tiện rất nghèo nhưng chất lượng thiêng liêng rất cao. Bắt chước Chúa Giêsu dùng những phương tiện nghèo. Những phương tiện mà Chúa Giêsu đã dùng để giảng dạy là hang đá Bêlem, là cuộc sống âm thầm tại Nagiarét và sau cùng là thánh giá. Những phương tiện ấy, nếu được gọi bằng các tên đạo đức, thì sẽ là khó nghèo, từ bỏ, chôn vùi, bị bắt bớ, bị nhục nhã, bị cực hình, bị loại trừ, bị tử hình. Những phương tiện đó không bao giờ sẽ cũ và lỗi thời. Nếu tôi nhận Đức Kitô là mẫu gương duy nhất, thì không những tôi vâng theo những gì Người truyền buộc tôi làm, mà tôi cũng sẽ vâng theo những gì Người chỉ mời gọi tôi chấp nhận. Vâng theo như vậy là chắc chắn nhất cho tôi. Lúc đó, những việc vâng theo ấy sẽ không còn là của tôi hèn mọn riêng rẽ, mà là của tôi có sự sống Đức Kitô. Những việc như thế sẽ luôn luôn chuyển tải sức thiêng. Kết quả có thể không thấy được lúc này và tại đây như chúng ta muốn, nhưng chắc chắn sẽ hiệu nghiệm theo cách Chúa muốn. Dám áp dụng đường hướng yêu thương và phục vụ với những phương tiện nghèo vào những nơi và những thời coi như rất bất lợi, đó là một mới mẻ có sức thuyết phục của Tin Mừng. Và càng là một mới mẻ hết sức tốt đẹp, khi việc thực hiện ấy đang thực sự dọn đường để Nước Trời đi vào những nơi và thời điểm cực kỳ khó khăn tại Việt Nam hôm nay. Bí quyết của những mới mẻ như thế của Tin Mừng là rất đơn sơ. Đó là bắt chước Chúa Giêsu, Đấng cứu độ của chúng ta. Bắt chước Người không phải là sao chép một mẫu gương, mà chủ yếu là đón chính Người vào tâm hồn ta, để Người trở nên sự sống của ta. Thần Linh của Người sẽ hướng dẫn ta, để ta yêu thương và phục vụ một cách sáng tạo. Dù với những phương tiện nghèo, việc làm chứng cho Tin Mừng như thế đang là một bài ca mới gây vang vọng trong từng triệu tâm hồn. Long Xuyên, ngày 10-3-2000
Thời đại mới này đang chứng kiến nhiều khám phá mới. Một trong những khám phá mới rất quan trọng là khám phá ra sức mạnh to lớn của những cái cực nhỏ, những cái không tỏ hiện, những cái siêu hình. Loại khám phá mới này cũng đang được ghi nhận trong lãnh vực tôn giáo. Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay đang cho thấy sức mạnh phát triển quan trọng không hẳn là những việc lớn lao dễ thấy, mà là những việc bé nhỏ khó thấy. Những việc bé nhỏ khó thấy đó là sự hiện diện của những chứng nhân tình yêu giữa đời thường , nhất là giữa những người nghèo khổ. Nói một cách cụ thể, đó là sự hiện diện của những chứng nhân âm thầm như thánh Giuse xưa. Thánh Giuse xưa là một chứng nhân của tình yêu. Có thể nói, Chứng từ của Ngài gồm hai phần: phần vô hình và phần hữu hình. Phần vô hình của chứng từ nơi ngài là tình yêu và hy sinh. Trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hòan cảnh, mọi việc, thánh Giuse sống trọn vẹn tình yêu đối với Chúa. Ngài mến Chúa hết lòng, hết sức thực hiện thánh ý Chúa. Cùng với tình yêu trung thành, Ngài chịu mọi hy sinh vì Chúa, và dâng mọi vất vả, mọi trái ý, mọi phấn đấu cho Chúa. Ngài là con người của qui chiếu. Trong mọi sự Ngài đều qui chiếu về Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Âm thầm bảo vệ các Ngài, âm thầm lắng nghe ý Chúa trong việc phục vụ các Ngài, âm thầm chia sẻ đường lối cứu độ của các Ngài. Tất cả hy sinh, tất cả tình yêu nơi Ngài đều lặng lẽ. Nhưng Chúa thấy rõ. Và Chúa nhận tình yêu và hy sinh đó, đem hòa trộn vào tình yêu và hy sinh của Chúa Giêsu, để cứu độ loài người. Phần hữu hình của chứng từ nơi thánh Giuse là cuộc sống đơn sơ giữa những người nghèo. Ngài chia sẻ thân phận dân thường bằng cách làm việc cần cù, bằng sự chia sẻ tình nghĩa, bằng những giây liên đới kính trọng, hài hòa với mọi người xung quanh. Đối với Ngài, yêu thương không phải là nói nên lời yêu thương, cũng không phải chỉ là phục vụ, mà chủ yếu là sống với. Sống với một cách thực sự bằng tất cả ý nghĩa sâu xa nhất của từ sống với. Sống với như một nhập thể mà Chúa Giêsu đã thực hiện . Với cách sống với, thánh Giuse không ngại chấp nhận những chỗ hèn mọn nhất, nguy hiểm nhất, đòi nhiều từ bỏ nhất. Đối với Ngài, tìm kiếm vinh quang cho mình là điều tối kỵ. Nhìn cách sống chứng từ trên đây của thánh Giuse, chúng ta thấy một vẻ bề ngòai đơn sơ âm thầm, nhưng đàng sau là cả một thế giới vô hình thiêng liêng đẹp đẽ, tỏa ra một sức mạnh thiêng liêng mạnh mẽ khác thường. Một cái nhìn, một lời nói, một cử chỉ của Ngài, tất cả đều bé nhỏ, đơn sơ, nhẹ nhàng. Coi như thoáng qua, coi như vô tình. Nhưng chúng rơi vào tiềm thức những người xung quanh. Chúng tác động âm thầm trong lương tâm con người. Chúng như một tiếng gọi, như một đánh thức, như một cảm hóa, như một hiệp thông. Bởi vì chúng có Thiên Chúa tình yêu hiện diện. Trong những chuyến đi mục vụ, tôi đã gặp được nhiều chứng nhân đủ lọai. Nhưng những chứng nhân đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng mạnh chính là những người làm chứng cho tình yêu bằng hai phần vô hình và hữu hình như thánh Giuse. Họ sống giữa những người không công giáo. Họ hòa mình vào cuộc sống những người khổ đau, những người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Họ luôn luôn tập sống cầu nguyện, tập sống từ bỏ, tập sống lao động cần cù, tập sống yêu thương chan hòa. Họ luôn luôn đào tạo chính mình và nhóm của mình, để trở thành những chứng nhân tình yêu giữa quê hương hôm nay. Họ rất biết thời điểm này cần có những chứng nhân âm thầm, nhưng thông minh, khôn ngoan, can đảm và sáng tạo. Họ sống Lời Chúa một cách rất cụ thể. Lời Chúa biến đổi họ. Họ là những bài ca mới, mà thánh vương Đavid hay nói tới. Họ là dấu chỉ và là nhắc nhở của Thiên Chúa tình yêu. Chính qua những chứng nhân này, mà Năm Thánh đang phát triển ơn thánh cứu độ một cách mạnh mẽ và sâu xa trong Hội Thánh Việt Nam hôm nay. Lễ Thánh Giuse, ngày 19-3-2000
Báo trước, đó là một việc không họa hiếm trong lịch sử cứu độ. Chính Chúa Giêsu đã thực hiện nhiều việc báo trước. Người báo trước Người sẽ từ đau khổ đi tới phục sinh. Trái lại, Người báo trước thành Giêrusalem se từ tình trạng ổn định đi xuống tình trạng bị tàn phá. Việc báo trước thê thảm này xảy ra trong trường hợp Người khóc thương thành Giêrusalem. “Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương mà nói: "Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm" (Lc 19:41-44). Chúa Giêsu khóc, đó là điều rất khác thường. Lần này chuyện đó diễn ra công khai. Nó mang tính cách tiên tri. Nước mắt của Chúa báo trước một tương lai khủng khiếp. Là người Israel, Người trọng kính, mến yêu kinh thành. Người thấy thành đô đang phô vẻ tự hào vinh quang với bao công trình kiến trúc, văn hóa, tôn giáo của nhiều thế hệ và với cuộc sống ổn định của dân thành. Nhưng Người thấy trước sẽ có ngày tất cả phải bị tàn phá. Giêrusalem bị tàn phá vì những nguyên nhân sâu xa về tôn giáo. Đọc kỹ đoạn Phúc âm trên, chúng ta thấy hai nguyên nhân: Nguyên nhân thứ nhất là vì Giêrusalem đã không đáp lại sứ điệp hòa bình của Chúa. Sứ điệp hòa bình được công bố trong chính cuộc sống và giáo lý của Chúa Kitô. Người đến với chủ trương xây dựng một cộng đoàn bình an, yêu thương. Người không áp đặt, không dùng sức mạnh. Người chỉ muốn cảm hóa bằng một cuộc sống hiền lành khiêm nhường, yêu thương phục vụ. Người chủ trương dùng nhân đức đẩy lùi tội lỗi, “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm”. Sự bình an mà Chúa Giêsu muốn xây dựng cho Giêrusalem là cảnh sinh sống lo làm ăn thay vì lo đấu đá nhau. Cảnh sống đó được tiên tri Isaia báo xưa: “Họ sẽ lấy gươm đao đúc thành cày cuốc, đem giáo mác mài ra lưỡi hái lưỡi liềm” (Is 2,4). Hơn nữa, cảnh sống an bình còn là cảnh sống hòa hợp, thân thương giữa những người trước kia thù địch. Cảnh đó cũng được tiên báo trong Isaia “Bấy giờ sói sẽ ở chung với chiên, hổ sẽ nằm bên dê, bò và sư tử sẽ được nuôi chung với nhau” (Is 11,6). Cảnh an bình như trên là là một dự kiến. Chúa muốn dân Chúa cùng với Chúa thực hiện, kiên trì từng bước. Dân Chúa phải chủ động bước trước, bước hoài tới bước sau cùng. Thế nhưng Giêrusalem đã không chịu làm như vậy. Nguyên nhân thứ hai là vì Giêrusalem đã không đón tiếp những cuộc Chúa đến viếng thăm. Chúa Giêsu đến với họ, không phải để cứu họ ra khỏi cuộc sống phức tạp, nhưng để mời gọi họ cùng Người đi vào thực tại cuộc sống đời này.Trong đó, Người sẽ cùng họ biến đổi những cái xấu thành những cái tốt, những cái coi như vô ích thành những cái hữu ích, những cái hèn mọn thành những cái cao quí. Bằng cách dấn thân vào cuộc đời như thế, Chúa Giêsu muốn làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. Một tình yêu thương xót có sức chiến thắng hận thù. Một tình yêu khiêm nhường có sức vượt thắng kiêu căng. Một tình yêu đầy sinh lực có sức làm cho sự chết nảy sinh ra sự sống rực rỡ vinh quang. Đức Kitô đã đi sâu vào thực tế cuộc đời như một cuộc phấn đấu quyết liệt của tình yêu. “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến bằng lòng chịu chết trên thánh giá. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người” (Pl 2,7-8). Thiên Chúa đã sai nhiều tiên tri đến thăm thành Gierusalem,sau cùng Thiên Chúa sai chính Con Một Mình đến. Với các cuộc viếng thăm đó, Chúa muốn dạy Giêrusalem sống yêu thương một cách khiêm nhường quảng đại bao dung. Nhưng chính đó là điều Giêrusalem khước từ. Họ không đón nhận Chúa đến viếng thăm với mục đích dạy họ bài học như thế. Họ không tiếp nhận sứ điệp hòa bình. Những chọn lựa đó của họ sẽ đưa họ đến thảm họa: Thành bị tàn phá. Chúa Giêsu thấy trước. Người buồn bã khóc thương. Nhìn Chúa khóc thương, tôi cảm thấy gần lại bên Chúa. Tôi cảm thấy Chúa Giêsu mặc khải hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu cao cả. Người là tình yêu khiêm nhường. Biết rõ con cái mình đã chọn lựa sai. Nhưng Chúa khiêm nhường, tôn trọng sự tự do chọn lựa đó, cho dù sự lựa chọn ấy nghịch lại với Chúa. Chúa rất đau khổ, đợi chờ con cái nghĩ lại. Người là tình yêu thương xót. Người hiệp thông sâu sắc vơí các diễn biến lịch sử của con cái Người. Thấy thành sẽ bị tàn phá do lỗi lầm họ gây nên, Chúa rất xót thương. Chúa coi những tàn phá kia sẽ là tiếng gọi hữu hiệu để con cái trở về. Người là tình yêu khôn ngoan. Người báo trước những gì sẽ xảy ra cho con cái trong tương lai. Đặc biệt là những tai họa được Người báo trước bằng cảnh giác và bằng nước mắt. Hôm nay, tôi cũng cảm thấy Chúa Giêsu đang khóc. Người khóc cho tôi, cho cộng đoàn tôi, cho Hội Thánh của tôi. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sám hối về quá khứ. Còn Chúa Giêsu thì khóc cho tương lai. Những cảm nhận trên đây dẫn đưa tôi bước thêm nữa trên đường trở về với Chúa. Càng bước trên con đường trở về, tôi càng xác tín: Trở về là một ơn Chúa ban. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đến muôn đời. 30-3-2000
Trong Năm Thánh, để được ơn tòan xá, chúng ta cần lãnh bí tích xá giải, quyết tâm chừa tội và dứt bỏ hoàn toàn mọi dính bén với bất cứ tội nào, dù là tội nhẹ. Như thế có nghĩa là Năm Thánh muốn chúng ta để ý gỡ mình cho khỏi tội một cách quyết liệt. Tội đặt ra nhiều vấn đề. Ở đây tôi chỉ xin trình bày một số nguyên nhân dẫn đến tội, để chúng ta thấy việc gỡ mình cho khỏi tội không là việc đơn giản. Thiếu khả năng hiểu biết. Nhiều khi chúng ta lỗi phạm, vì chúng ta sai lầm, không nhìn thấy rõ sự thực về tội. Sở dĩ chúng ta không nhìn thấy rõ, chính bởi vì bầu trời nội tâm trong ta, cũng như bầu trời tôn giáo xã hội, gia đình bao bọc xung quanh ta bị ô nhiễm bởi nhiều thứ sai lầm và tính mê nết xấu. Những thứ này như những đám mây mù, tạo nên những vùng u tối. Trong điều kiện đó, lòng trí ta khó nhìn thấy rõ phải trái khách quan. Để hiểu thêm tình trạng đó, chúng ta hãy đọc Kinh Thánh. Kinh Thánh kể ra nhiều thứ tiêu cực nơi nhân loại. Nếu xếp các tiêu cực thành loại theo trách nhiệm, thì có thể thấy ba loại này: tiêu cực cá nhân, tiêu cực tập thể, tiêu cực cơ chế. Về tiêu cực cá nhân, Phúc Âm thánh Marcô kê ra một danh sách 12 thứ (Mc 7,2), thư gởi giáo đoàn Galata nêu ra 14 thứ (Gl 5,19-21), thư gởi giáo đoàn Rôma nói tới 24 thứ (Rm 1,28-31). Về tiêu cực tập thể, Phúc Âm nói tới những thứ đạo đức giả của giới Biệt phái, Kinh sĩ. Cả một chương dài của Phúc Âm thánh Matthêu đã vạch ra khá nhiều tiêu cực cụ thể của tập thể đó (Mt 23,1-36). Về tiêu cực cơ chế, trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chỉ rõ nhiều chi tiết thiếu sót của luật và truyền thống. Chẳng hạn, một loạt những lời Chúa phê phán luật: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng:... Còn Thầy, Thầy bảo anh em: ...” (Mt 5,21-48). Ba loại tiêu cực trên đây thường liên kết với nhau. Chúng là những lực lượng phá hoại. Chúng không hoạt động một cách rõ ràng, nhưng âm ỉ. Chúng dần dà tạo nên trong con người một thứ não trạng không lành mạnh, sản sinh ra những cái nhìn không chính xác, những cách đánh giá lệch lạc, những hệ thống giá trị sai, những lý tưởng trệch hướng. Cá nhân sai, tập thể sai, nhưng khi được cảnh báo, họ vẫn không dễ nhận là mình sai. Hậu quả là những sai lầm đó đưa tới sai phạm. Tội có thể được tha, nhưng khi các sai lầm đưa tới tội vẫn tồn tại ung dung, thì vấn đề gỡ mình ra khỏi tội xem ra vẫn còn nguyên vẹn. Thiếu khả năng từ bỏ. Nhiều khi biết rõ mình sai, thực sự muốn gỡ mình ra khỏi tội và sai lầm, thế mà không gỡ được. Nguyên do vì thiếu khả năng từ bỏ. Đây là một thảm kịch đã được thánh Phaolô diễn tả một cách chân thành: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm nô lệ cho tội lỗi. Thực vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu. Vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại làm... Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thực vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi” (Rm 7,14-20). “Tội ở trong tôi”, đó là một áp lực khủng khiếp. Gánh nặng của tội, gánh nặng của sự yếu đuối, những gánh nặng đó vô hình, nhưng nhiều khi đẩy ta vào nhận thức khốn cùng và cảm nghiệm cô đơn thất vọng. Thiếu khả năng khiêm nhường Phạm tội vì kiêu căng là trường hợp thường xảy ra. Phúc Âm hay nhắc đến Pharisêu và Kinh sĩ. Họ tự hào với tài chuyên môn cắt nghĩa luật đạo. Họ hiên ngang với những nghi thức đạo và lễ đạo của họ. Họ phô trương những hình thức giữ đạo bề ngoài của họ. Chính những thứ đó giúp họ xây dựng uy tín. Quyền lợi của họ, hào quang của họ tuỳ thuộc ở những thứ đó. Vì thế, khi thấy Chúa Giêsu muốn sửa lại lối giữ đạo của họ, họ liền phản đối dữ dội. Các lý lẽ Chúa Giêsu đưa ra đầy thuyết phục, họ không trả đáp lại được. Nhưng, thay vì bỏ ý riêng để vâng phục ý Chúa, họ phẫn nộ, căm ghét và tìm cách giết Chúa (Mt 12,14). Địa vị của mình thế này, không lẽ mình chịu thua. Nguyên do sâu xa là đó. Thiếu khả năng khiêm nhường đã dẫn họ đến tội ác. Cũng vì thiếu khả năng khiêm nhường, họ dám dùng chính việc thờ phượng Chúa để khoe khoang mình và để kết án người khác. “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (Lc 17,9-11). Thiếu khả năng yêu thương. Đọc Cựu Ước, chúng ta thấy vua Pharaon đã nghe ông Moisen nài xin, sau đó đã được ông Moisen cho thấy nhiều dấu lạ. Vua Pharaon bắt đầu có vẻ nhượng bộ, nhưng sau cùng đã cố chấp chọn một lập trường cứng rắn. Kinh Thánh nói là lòng vua đã ra cứng (Xh 4,21; 7,3 vv...). Nguyên do lòng ra cứng là vì thiếu khả năng yêu thương. Đọc Tân Ước, chúng ta thấy các Pharisêu đả kích Chúa Giêsu chữa bệnh ngày Sabát. Chúa biện minh bằng lý do nhân đạo, lý do thần học, lý do đạo đức tôn giáo. Nhưng càng nghe Chúa cắt nghĩa, lòng họ càng cứng lại. Nguyên do lòng cứng lại cũng là vì thiếu khả năng yêu thương. Để che giấu tình trạng yếu kém đó, họ tìm ẩn trú vào luật nọ luật kia. Thiếu khả năng yêu thương là nguyên do dẫn tới nhiều thứ tội. Theo thánh Augustinh, phải yêu thương mà không yêu thương là phạm tội. Phải yêu thương nhiều mà yêu thương ít cũng là phạm tội. (De jerfectione justitia VI, 15). Mà hễ có tội, thì phải gánh chịu hình phạt. Người phú hộ không thương giúp người hành khất Ladarô đã bị kết án xuống hoả ngục đời đời (Lc 16,19-31). Đến ngày phán xét chung, tất cả mọi người sẽ bị phán xét trên khả năng yêu thương. Chính Chúa Giêsu khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm sự lành cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). “Mỗi lần các ngươi đã không làm sự lành cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta đây. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muốn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống đời đời” (Mt 25,45-46). *** Mấy sự kiện trên đây rút ra từ Kinh Thánh nhắc nhở chúng ta điều này: Muốn gỡ mình ra khỏi tội một cách chân thành, chúng ta không nên chỉ ngừng lại ở việc ăn năn tội và xưng tội, nhưng còn phải đi xa hơn nữa. Đi xa hơn là đi tới việc huấn luyện đào tạo chính mình. Việc huấn luyện đào tạo này phải rất công phu, thường xuyên, bền bỉ. Vậy chúng ta hãy tự hỏi mình: Hằng ngày, chúng ta đã làm gì để rèn luyện khả năng hiểu biết, khả năng từ bỏ, khả năng khiêm nhường, khả năng yêu thương? Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Long Xuyên, ngày 31-3-2000
Những ngày gần Tuần Thánh, tôi hay suy nghĩ về những chọn lựa của Chúa Giêsu trong chương trình cứu chuộc nhân loại. Những chọn lựa ấy quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng, vượt mọi suy tính của óc khôn ngoan con người. Ngay cả đến người thân cận nhất của Chúa Giêsu là thánh Phêrô, cũng phải sửng sốt, ngỡ ngàng. Thánh Phêrô đã thẳng thắn chống lại. Nếu gọi đây là mâu thuẫn giữa thánh Phêrô và Chúa Giêsu, thì mâu thuẫn như vậy đã xảy ra trong ba trường hợp. Mâu thuẫn về đường lối cứu độ. Phúc Âm thánh Marcô kể lại “Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày, sẽ sống lại. Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người. Nhưng, khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đàng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,31-33). Qua lời kể trên, chúng ta thấy: Con đường Chúa Giêsu sẽ đi là rất đau khổ. Người biết trước và Người chấp nhận. Vì mến Thầy, thánh Phêrô đã cản ngăn ý định đó. Không những Chúa Giêsu không nghe, không khen, mà còn mắng trách Phêrô. Chưa bao giờ Người dùng từ Satan để mắng ai. Chỉ có lần này. Chứng tỏ rằng: Đi vào tử nạn là một chọn lựa của Người cực kỳ quan trọng, bởi vì đó là ý Chúa Cha, để chứng tỏ tình yêu giàu lòng thương xót vô biên vô bờ. Chọn lựa giải pháp hy sinh vì tình yêu là dứt khoát. Mâu thuẫn về phong cách phục vụ. Phúc Âm thánh Gioan kể: “Trong một bữa ăn, Chúa Giêsu đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Người đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy, Người đến chỗ ông Simon Phêrô, ông liền thưa với Người: Thưa Thầy, Thầy mà lại rửa chân cho con sao? Chúa Giêsu trả lời: Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu. Ông Phêrô lại thưa: Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu. Đức Giêsu đáp: Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy” (Ga 13,3-8). Qua đoạn Kinh Thánh trên, chúng ta thấy: Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ phong cách phục vụ. Phục vụ như người đầy tờ. Phục vụ như người bề dưới, cho dù mình ở bậc trên. Đây cũng là một sáng kiến bất ngờ. Thánh Phêrô nhất định không chịu. Cũng vì kính trọng Thầy: thánh Phêrô chỉ vâng, khi Chúa đe, nếu Ngài bất tuân, Chúa sẽ loại trừ Ngài. Chứng tỏ rằng: Khiêm nhường là phong cách chuẩn mực, Chúa muốn các môn đệ Người thực hiện khi phục vụ. Chọn lựa đó là nhất định không thay đổi được. Mâu thuẫn về cách đối phó với cuộc bách hại. Phúc Âm thánh Gioan kể: “... Đức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kít-rôn. Ở đó có một thửa vườn. Người cùng với các môn đệ đi vào... Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisêu. Họ mang theo đèn đuốc và khí giới.. Ông Simon-Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y... Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: Hãy xỏ gươm vào vỏ. Chén đắng Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống” (Ga 18,1-11). Qua những sự việc trên, chúng ta thấy: Chúa muốn dạy các môn đệ phải nhẫn nhục hiền hoà. Khi bị bách hại vì đức tin, đức ái, không được dùng bạo lực để đối phó. Đối phó mà Chúa muốn là hiền hoà nhẫn nhục. Chủ trương đó là một sáng kiến mới lạ, khác với phản ứng tự nhiên của con người. Thánh Phêrô đã phản ứng theo toan tính tự nhiên. Đó là bạo lực đáp trả bạo lực. Chúa Giêsu không cho phép Phêrô tiếp tục cách đối phó ấy. Hiền hoà nhẫn nhục là một chọn lực quyết liệt của Chúa Giêsu. Phải triệt để áp dụng. *** Suy nghĩ ba trường hợp trên đây, tôi rất thông cảm với thánh Phêrô. Bởi vì tôi cũng thế thôi. Có thể nói, tất cả chúng ta cũng hơn kém như Ngài. Chúng ta, cá nhân cũng như tập thể, thường nuôi trong mình một hình ảnh Thiên Chúa đầy quyền năng, uy lực. Chẳng hạn: Thiên Chúa là Đấng tối cao nắm trong tay mọi hiệu nghiệm, mọi chiến thắng, Thiên Chúa là vua cao sang, dư sức đánh bại mọi quân thù, đè bẹp mọi vương quốc chống lại Người. Chúng ta thường nghĩ vinh quang Thiên Chúa là các thành công như thế. Nhưng Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu mạc khải, chính là người cha giàu tình yêu thương xót. Cha trên trời rất thương loài người, mặc dầu bao người lầm lỗi. Người thương chúng ta, khi chúng ta còn trong tội lỗi. Người thương chúng ta, trước khi chúng ta nhận biết Người. Chính vì thế, mà trong mọi chi tiết của công trình cứu độ, Người luôn luôn chọn những gì là đẹp nhất và quí nhất của tình yêu: Như hiền hoà, nhẫn nhục, khiêm nhường, hy sinh. Hình ảnh Người đưa ra để cắt nghĩa là hạt lúa. Hạt lúa phải chịu ném xuống đất, phải chịu chôn vùi, phải chịu thối đi, thì mới nẩy mầm, sinh ra cây, và trổ hoa, kết trái. Chúa thông suốt mọi sự. Người biết cái gì là tốt cho chương trình cứu độ. Hãy theo ý Người. Thánh Phêrô cứ tưởng mình can đảm, và phải tỏ ra mình can đảm theo kiểu thế gian. Ngài coi ý nghĩ của mình là đúng. Ngài đi vào dinh Philatô để tìm cách cứu Thầy. Thế rồi, vừa gặp mấy người tầm thường chất vấn, Phêrô đã hoảng sợ, đâm ra chối Thầy. Bấy giờ, rơi xuống vực thẳm yếu đuối, Ngài mới rõ đi theo ý riêng mình là đi sai. Bấy giờ Ngài mới nhận ra ơn cứu độ sẽ chỉ đến với Ngài, nếu Ngài vâng phục ý Chúa, cậy tin vào Chúa. Từ đây, thánh Phêrô đã thực sự vượt qua mọi mâu thuẫn. Ngài hoàn toàn thực hiện ý Chúa. Ngài đã trở thành người đứng đầu Giáo Hội. Long Xuyên, ngày 7-4-2000
Trong mọi bước, có một bước rất được để ý. Đó là cái bước qua cõi đời này, để tiến vào cõi đời sau. Bước lúc đó sẽ là một bước quyết liệt. Bước quyết liệt ấy là cái chết. Chúa Giêsu đã có bước quyết liệt ấy. Nhưng cái chết của Người còn mang một số tình tiết rất lạ lùng. Chết trong cô đơn. Các sách Phúc Âm đều thuật lại những giờ phút sau cùng của Chúa Giêsu. Đó là những khoảnh khắc cô đơn kinh hoàng. Trong vườn Cây Dầu, khi cầu nguyện: “Người cảm thấy hãi hùng xao xuyến” (Mc 14,32). Trước đó, Người đã nói với các môn đệ: “Anh em sẽ phân tán mỗi người mỗi nơi, và để Thầy cô đơn một mình” (Ga 17,32). Thực vậy, khi Người bị bắt: “Các môn đệ đã bỏ Người mà trốn hết” (Mc 14,49). Trong hấp hối, Chúa Giêsu cảm thấy như chính Chúa Cha cũng ruồng bỏ Người. “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Cha nỡ bỏ con?” (Mc 15,34). Chết trong đau khổ. Đau khổ của Chúa Giêsu trong những giờ sau cùng thực là ghê gớm. Trước hết là những khổ đau về thể xác. Những gì chính Chúa Giêsu báo trước đều đã xảy ra. “Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và kinh sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Người, và sẽ nộp Người cho dân Ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết chết Người” (Mc 10,33-34). Cùng với khổ đau về thể xác là bao nỗi đau khổ về tâm hồn. Trong dinh Philatô, Người nghe đám đông hô hoán: “Hãy đóng đinh nó vào thập giá” (Mc 15,6-15). Khi bị treo lên rồi, Người bị đủ thứ người chê cười. “Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người”, “Các Thượng tế và kinh sĩ cũng chế diễu Người”, “Cả những tên cùng bị đóng đinh với Người cũng thách thức Người” (Mc 15,29-32). Chết trong vâng phục. Cái chết đau đớn, cái chết cô đơn đã đến vơi Chúa Giêsu như một chén rất đắng. Chúa Cha trao, thì Người xin vâng. Nhưng không vì thế mà bớt được đau khổ. Trong vườn Cây Dầu, Người than thở: “Cha ơi, Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14,36). Và thực sự “Chúa Giêsu đã hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Ph 2,8). Khi nhìn cái chết cực kỳ đau thương của Chúa Giêsu, tôi tự hỏi: Chúa Giêsu chịu chết như thế, vì mục đích gì? Câu Chúa Giêsu trả lời tổng trấn Philatô đã soi sáng cho tôi: “Tôi đã sinh ra và đến trong thế gian vì điều này, đó là làm chứng cho sự thực” (Ga 18,37). Riêng đối với tôi, với cái chết đau thương, Chúa Giêsu đã làm chứng một cách sống động, thiết tha, cho một số sự thực ngàn đời sau đây: Sự thực là tất cả mọi người đều cần được ơn cứu độ. Thực vậy, không xét theo thần học, mà chỉ xét theo lịch sử, chúng ta cũng thấy được: Cái chết của Chúa Giêsu mãi mãi tố cáo những sai lầm và những tội ác. Xung quanh cái chết của Người, có biết bao nhiêu sai lầm được hợp lý hoá, có biết bao nhiêu tội ác được hợp pháp hoá. Sai lầm và tội ác cá nhân, kết hợp với sai lầm và tội ác tập thể, cộng thêm sai lầm và tội ác cơ chế đã làm nên một sức mạnh sự dữ khủng khiếp. Tôn giáo bị biến chất, lãnh đạo tôn giáo bị tha hoá, quần chúng trôi nổi, bám vào tập tục. Sự tha hoá như thế không chấm dứt ở thời Chúa Giêsu. Tất cả đều cần được cứu độ. Sự thực là Đấng cứu độ chính là Đức Giêsu. Thực vậy, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Con Người đến không để người ta phục vụ, nhưng để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,46). Người chết để đền thay. Người chết để kêu gọi ăn năn sám hối. Người chết để mọi người tìm được hy vọng cứu độ. Người chết để bất cứ ai cùng chết với Người sẽ được cùng Người phục sinh vinh hiển. Chết với Người là sám hối từ bỏ tội lỗi, đó là chết đi một cách thiêng liêng. Sự thực là công việc cứu độ luôn là một mầu nhiệm của sự khiêm tốn, của sự vâng phục, của tình yêu thương xót, của sự chết và của phục sinh vinh quang. Mầu nhiệm ấy được mạc khải dần dần trong lịch sử từng người, trong cộng đoàn, trong Hội thánh địa phương, và trong toàn thể Nước Trời. Chúng ta thấy được phần nào mầu nhiệm ấy trong những người đã đón nhận được ơn cứu độ trong lộ trình Chúa vác thánh giá cho tới Núi Sọ. Họ là những người khiêm nhường, giàu lòng xót thương. Bà Vêrônica và các người phụ nữ khóc thương Chúa. Ông Simon vác thập giá đỡ cho Chúa. Kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa. Viên đại đội trưởng đã tuyên xưng Chúa. Và tất nhiên là thánh Phêrô sám hối. Đặc biệt là Đức Mẹ Maria và những người thân đi theo Chúa. Kinh nghiệm cho tôi thấy. Có những làn ranh phân cách sai lầm và chân lý. Cũng có những làn ranh phân cách tội lỗi và nhân đức. Làn ranh khá rõ. Ấy thế mà bao người đã không bước qua được làn ranh kia để đi lên chân lý và nhân đức. Đang khi đó, đau đớn thay, bao người đang tốt lại bước qua làn ranh đó để xuống nơi tội lỗi và sai lầm. Một bước hết sức quan trọng và cũng đầy những hậu quả nghiêm trọng. Vấn đề sẽ không giải quyết được, nếu không cậy vào Đấng cứu độ chúng ta là Chúa Giêsu. Người đã cứu độ chúng ta không phải bằng con đường sung sướng, thênh thang thoải mái, nhưng bằng chính cái chết đau thương của Người. Chúng ta, dù thế nào đi nữa, vẫn có thể đón nhận được ơn cứu độ của Chúa, nếu chúng ta khiêm nhường nhận mình cần được cứu độ, thành thực sám hối và có thiện chí ôm lấy thực chất của Tin Mừng. Thực chất Tin Mừng là chính Chúa Giêsu đã chịu nạn và đã phục sinh. Thực chất Tin Mừng là đi theo Chúa Giêsu, cùng với Chúa Giêsu chân thành phục vụ con người. Thực chất Tin Mừng là cùng với Chúa Giêsu cố gắng biến chính mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha. Thực chất Tin Mừng là luôn thực thi ý Chúa để đi về với Cha trên trời. Đó là những bước quyết liệt, phần nào giống như sự chết. Khó đấy, nhưng sẽ thực hiện được, nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Long Xuyên, ngày 14-4-2000
Các bài Phúc Âm thuật lại sự Chúa Giêsu sống lại đều rất đơn sơ, vắn gọn. Khi suy gẫm, nhìn ngắm khung cảnh đêm Chúa Phục Sinh được kể trong Phúc Am, tôi thấy xuất hiện những yếu tố mới lạ: Yếu tố mới lạ thứ nhất là về nhân sự được Chúa dùng. Những người đầu tiên được Chúa chọn để loan báo Tin Mừng không phải là đám đông, nhưng là vài nhóm nhỏ. Nhóm ba phụ nữ, đứng đầu là Maria Mađalena. Nhóm hai môn đệ là Phêrô và Gioan. Nhóm 11 môn đệ. Họ là những người khiêm tốn, nhiệt thành. Có người trước đây đã rất tội lỗi. Yếu tố mới lạ thứ hai là về nơi Chúa hẹn gặp. Nơi Chúa Giêsu Phục Sinh hẹn gặp các nhóm không phải là đền thờ, mà là căn nhà thường. Căn nhà đó là một căn nhà gia đình, thuộc diện nhà dân, ở giữa đám dân thường. Chủ nhà là người dân thường. Yếu tố mới lạ thứ ba là về cung cách Chúa gặp gỡ. Cung cách gặp gỡ của Chúa Phục Sinh đã không ồn ào, trịnh trọng, đắc thắng, nhưng rất thân mật, đơn sơ, âm thầm, khiêm tốn. Yếu tố mới lạ thứ tư là về nội dung đàm đạo. Nội dung đàm đạo không đề cập gì tới những dụ ngôn, những luật lệ, nhưng chỉ tập trung vào chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa đã sống lại. Và để được sống lại vinh hiển, Người đã phải đi qua con đường thánh giá. Hành trình Phục Sinh đó chính là con đường Tin Mừng, và Chúa Giêsu chính là Tin Mừng. Người là Đấng cứu độ. Người đem lại sự sống đời đời, sự sống trường sinh. Bốn yếu tố mới lạ trong đêm Phục Sinh, mà tôi vừa trình bày, gợi ý cho tôi nhận ra những chuyển biến đang xảy ra tại nhiều nơi trong Hội Thánh Việt Nam từ ít lâu nay. Những chuyển biến mới là thế này: Một là đang xuất hiện những nhóm nhỏ chuyên chăm cầu nguyện và loan báo Tin Mừng. Họ tự ý, tự nguyện. Họ thuộc mọi thành phần những người sống giữa đời. Nhiều người là những tân tòng. Tất cả đều khiêm tốn và nhiệt thành. Hai là đang xuất hiện dạng “Hội Thánh gia đình”. Các gia đình giữa đời trở thành một thứ đền thờ, một thứ Hội Thánh. Họ cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa trong nhà họ, trong nếp sống gia đình họ. Ba là đang xuất hiện cung cách loan báo Tin Mừng một cách đơn sơ nhẹ nhàng, nhưng sống động và linh động. Nhiều người loan báo Tin Mừng một cách thân mật trong những gặp gỡ, trong các liên hệ, trong chính thái độ sống. Chính Chúa Giêsu Phục Sinh sống âm thầm trong họ và toả sáng qua họ, trong đời sống phục vụ con người và xã hội của họ. Bốn là đang xuất hiện sự trở về căn bản của Tin Mừng. Tin Mừng là chính Chúa Giêsu. Người là tình yêu phục vụ và cứu độ. Người đã chết vì ta. Người đã phục sinh và đang ở bên ta. Nhìn tình hình sống đạo tại Việt Nam hôm nay, tôi thấy bốn yếu tố trên đây đang phát triển, mặc dù có những cản ngăn từ nhiều phía. Bốn yếu tố mới này sẽ góp phần đáng kể vào việc Tân-Phúc-Âm-hoá. Với bốn yếu tố này, Chúa Thánh Thần đang thổi vào Hội Thánh Việt Nam một luồng gió mới. Nơi nào biết cộng tác với Chúa Thánh Thần, nơi đó đang sáng lên mùa Phục Sinh rạng rỡ. Như vậy, từng người chúng ta, từng gia đình chúng ta, đều được mời gọi tham gia tích cực vào việc sống Tin Mừng và loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh cuộc sống thực tế của mình. Khi tích cực như thế, chúng ta từng bước đi vào sự phục sinh của chúng ta. Sự phục sinh sẽ được thực hiện mọi ngày, trong chính đời thường. Khi đời thường của ta biết tự do chọn đi theo Chúa Giêsu phục sinh. Người đang hiện diện giữa thực tại cuộc sống chúng ta đầy thử thách cam go. Chúng ta tin vào Chúa Giêsu phục sinh. Chúng ta sống niềm tin này với lòng hoan lạc và với cái nhìn cởi mở. Hãy cầu nguyện cho nhau và cho toàn thể Hội Thánh Việt Nam một mùa Phục Sinh theo thánh ý Chúa. Bài giảng của Đức Cha Gioan B. Bùi-Tuần, trong thánh lễ đêm Phục Sinh tại nhà thờ Chánh Toà Long Xuyên, ngày 14-04-2000
Khi Chúa Giêsu ra mắt dân chúng lần đầu tiên, Người đã tự giới thiệu mình là kẻ được Chúa Thánh Thần sai đi. “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã xức dầu cho tôi. Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4, 18). Được Thiên Chúa từ trời sai đi, đó là một tư cách căn bản, mà Chúa Giêsu thường xuyên tuyên bố khi đi rao giảng. Trong Phúc Âm Thánh Gioan, chúng ta gặp được ít là 26 lần Chúa Giêsu diễn tả tâm tình “được sai đi” của mình. Như những lời sau đây: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga 4, 34). “Thầy từ trời xuống, không phải để làm theo ý riêng của Thầy, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga 6, 38). “Không ai có thể đến với Thầy, nếu Cha Thầy là Đấng đã sai Thầy, không lôi kéo họ” (Ga 6,44). Khi Chúa Giêsu mặc khải sự Người được sai đi, và nhấn mạnh điều đó nhiều lần, Người muốn chúng ta thấy một sự thật sâu thẳm, rất cần cho đời sống đạo chúng ta. Sự thật đó là phải gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu được sai đi đã luôn gắn bó với Đấng sai Người, thì chúng ta được Chúa Giêsu sai đi cũng phải luôn gắn bó với Người. Gắn bó này phải là mật thiết, phải là thường xuyên. Gắn bó mật thiết và thường xuyên này sẽ là một đổi mới chính mình, để có thể nói: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Phl 1, 21). Đặc điểm của người được sai đi gắn bó với Đức Kitô là ưu tiên rao giảng Đức Kitô, chứ không phải gì khác. Là thao thức với Nước Trời của Đức Kitô, chứ không tìm thành công nào khác. Là bước theo Đức Kitô thực thi ý Chúa Cha, chứ không phải tìm ý riêng mình. Nhất là trung thành triệt để với di chúc của Đức Kitô. Di chúc của Đức Kitô trong bữa tiệc ly có ba yếu tố: Điều răn yêu thương, Bí tích Thánh Thể, Bí tích Truyền Chức Thánh. Trung thành với ba yếu tố này là phải tìm hiểu sâu xa giá trị ba yếu tố đó, là phải nắm vững nội dung ba yếu tố đó, là phải sống ba yếu tố đó một cách có chất lượng cao. Một cách sống có chất lượng cao là thực sự khiêm nhường trong niềm tin yêu, khi sống ba yếu tố kể trên. Thí dụ: Chúng ta thực thi những yêu cầu của giới luật yêu thương “như khí cụ bình an của Chúa”, dù phải chấp nhận nhiều đòi hỏi khó. Đôi khi đòi hỏi coi như không hợp lý, nhưng chúng ta vẫn vâng giữ. Bởi chưng chúng ta tin Chúa, vì yêu thương, nên đã truyền dạy điều răn quan trọng này. Chúng ta tôn thờ Mình Thánh, lui tới nhà thờ, lo cho nhà Chúa, dù phải vất vả. Đôi khi vất vả coi như không hợp lý, nhưng chúng ta vẫn vâng vượt qua. Bởi chưng chúng ta tin Chúa, vì yêu thương, nên đã để lại lương thực bổ ích này. Chúng ta kính trọng các Linh mục, Giám mục, dù các ngài có nhiều giới hạn. Đôi khi giới hạn coi như quá mức, nhưng chúng ta vẫn hiệp thông quí mến.Bởi chưng chúng ta tin Chúa, vì yêu thương, nên đã sai các ngài vào thời điểm này của Hội Thánh. Nếu có đức tin mạnh, nhưng lại thiếu khiêm nhường nhận mình chỉ là “Chiếc bình dễ vỡ” (2 Cor 4,7), và nếu có nhiều hoạt động bác ái xã hội, nhưng lại thiếu khiêm nhường đối với tiếng Chúa gọi “phải đổi mới hằng ngày con người bên trong của mình” (2 Cor, 4,16), thì tôi sợ đó không phải là cách gắn bó thực sự với Đức Kitô, cũng không phải là cách sống đức tin và đức mến có chất lượng cao. Với nhận thức ấy, người được sai đi sẽ làm hết sức mình, để gắn bó với Chúa Giêsu, nhất là khi làm các bí tích và khi giảng dạy. Các phương tiện Chúa lập ra để chuyển tải sự sống thiêng liêng không thể là phương tiện vô hồn. Chính sự sống thiêng liêng cũng là một dòng chảy thông minh. Nếu dòng chảy đó bị chặn lại, đưa vào một khuôn khổ phục vụ tư lợi, thì dòng chảy thông minh ấy sẽ rẽ sang lối khác, để lại người đó, cộng đoàn đó, địa phương đó trong cảnh khô cằn tơi tả. Biết như vậy, chúng ta càng khiêm tốn. Kẻ được sai đi cũng như những người đón nhận kẻ được sai đến đều nhận biết mình hèn yếu. Tất cả sẽ cùng nhau nhìn vào Chúa, cùng nhau tin tưởng nơi Người, cùng nhau gắn bó với Người, cùng nhau tuyên xưng lời Người: “Nếu không có Cha, chúng con không làm được gì” (Ga 15, 5). Thiết tưởng đó là bí quyết thành công của đời sống đạo, của mọi hoạt động mục vụ và truyền giáo của chúng ta. Thánh lễ Truyền Dầu tại Nhà thờ Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp, ngày 18-4-2000