Ngày 14/09: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ

Thứ sáu - 13/09/2024 23:01
Ngày 14/09: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
Ngày 14/09: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
Ngày 14/09: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ

Lời Chúa: Ds 21,4b-9 ; Pl 2,6-11 ; Ga 3,13-17


Trích trong http://doithuong02.topcities.com

14/09-1: CUỘC ĐỜI LÀ CÂY THẬP GIÁ.. 2
14/09-2: NHÌN ĐÚNG CÁCH.. 2
14/09-3. Phải Được Giương Cao. 3
14/09-4. Thánh giá, con đường vâng phục – Lm. Trần Thanh Sơn. 4
14/09-5. DÙNG CHÍNH ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT ĐỂ GIẢI THOÁT KHỎI ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT-JKN.. 5
14/09-6. Chúa đã dùng cây thập giá mà cứu chuộc thế gian. 7
14/09-7:Chuyện: THÁNH GIÁ CỦA ĐỜI TA.. 8
14/09-8: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ.. 8
14/09-9:THÁNH GIÁ.. 10
14/09-10: KỶ VẬT THÁNH GIÁ.. 12
14/09-11: TỪ THẬP GIÁ ĐẾN THÁNH GIÁ.. 13
14/09-12: LỄ KÍNH THÁNH GIÁ CHÚA GIÊSU.. 14
14/09-13: DẤU THÁNH GIÁ.. 15
14/09-14: Kính Thánh Giá Chúa Giêsu. 15
14/09-15: Lễ Suy Tôn Thánh Giá. 16
14/09-16:: Lễ Kính Tôn Vinh Thánh Giá. 17
14/09-17: Quyển Sách Cao Siêu Nhất 18
14/09-18: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ.. 18
14/09-19: CON ĐƯỜNG SỐNG.. 19
14/09-20:  THÁNH GIÁ ĐEM LẠI ƠN CỨU ĐỘ.. 20
14/09-21: MẦU NHIỆM THẬP GIÁ.. 22
14/09-22:  Học yêu Thánh Giá. 23
14/09-23: CHÓP ĐỈNH CỦA SỰ ĐAU KHỔ! 24
14/09-24: Ba cuộc đời - ba cách chết 25
14/09-25: Vinh Quang Thánh Giá. 26
14/09-26: LỜI MỜI KHÓ.. 27
14/09-27: Một nhà thông thái nằm mơ. 29
14/09-28: Một biến cố hết sức quan trọng. 30
14/09-29: Nhà Dòng Cistaciens. 31
14/09-30: NƠI thẬP GIÁ, CHÚA ChA nÓI VỚI CHÚNg tA MỌI SỰ.. 32
14/09-31: Thánh Giá Chúa là nguồn phúc vinh. 35
14/09-32: Thánh giá, biểu tượng tình yêu Thiên Chúa. 36
14/09-33: THÁNH GIÁ LÀ NGUỒN TÌNH YÊU VÀ HY VỌNG.. 37
14/09-34: BIẾN THẬP GIÁ NÊN THÁNH GIÁ BAN ƠN CỨU ĐỘ.. 38
14/09-35: Lễ Suy tôn Thánh Giá. 40
14/09-36: Thập Giá, con đường về trời 42
14/09-37: Suy tôn Thánh Giá. 43
14/09-38: Lễ suy tôn Thánh Giá. 44
14/09-39: Thánh Giá, tình yêu bừng sức sống. 45
14/09-40: Sùng kính hay là vác thập giá. 47
14/09-41: Thập Giá và cuộc sống. 47
14/09-42: Nhờ Thánh Giá hướng dẫn. 48
14/09-43:  Suy niệm của JM. 49
14/09-44: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một 50
14/09-45: THÁNH GIÁ, DẤU ẤN TÌNH YÊU KHẢI HOÀN.. 50
14/09-46: NHÌN LÊN THÁNH GIÁ.. 52
14/09-47: VINH QUANG THẬP GIÁ.. 54
14/09-48: THẬP GIÁ NỞ HOA.. 56
14/09-49: "LẠY CHÚA, CHÚNG CON TÔN THỜ THÁNH GIÁ CHÚA.. 57
14/09-50: 58
14/09-51:  14/09-52: 14/09-53: 14/09-54: 14/09-55: 14/09-56: 14/09-57: 14/09-58: 14/09-59: 14/09-60: 58

---------------------------------

 

14/09-1: CUỘC ĐỜI LÀ CÂY THẬP GIÁ

 

Người Công giáo Việt Nam thường treo ảnh của người thân đã qua đời trong nhà. Các tấm ảnh: 14/09-1


Người Công giáo Việt Nam thường treo ảnh của người thân đã qua đời trong nhà. Các tấm ảnh được treo, luôn luôn là hình ảnh lúc sinh thời của người ấy. Không ai treo ảnh bị chết. Một lý do thật đơn giản: người ấy có chết đâu. Họ chỉ qua đời thôi. Họ đang sống ở một đời khác, một thể dạng khác và chỉ có ai đã qua đời mới biết rõ. Nhưng người Công giáo lại treo hình Chúa chịu chết suốt hơn 2000 năm qua. Chắc chắn Giáo Hội không tuyên truyền cho sự chết, mà Giáo Hội muốn nói cái chết là cái đã đến, và sẽ đến chỉ là một nhịp của sự sống chứ không còn là một sự tuyệt vọng bất tử nữa. Từ khi Chúa Giêsu bẻ gãy sự chết và trỗi dậy vinh quang thì cái chết không còn là mối đe dọa khiến người ta sẵn sàng làm mọi sự dù là gian manh độc ác, để được sống. Cái chết chỉ là một dấu lặng trong bản nhạc hoan ca của sự sống Chúa Giêsu mà bất kỳ ai trong nhân loại này cũng có thể nhận bản nhạc oai hùng đó là của mình khi chân thành nhìn nhận Giêsu là Cứu Chúa của mình. Nên Thập Tự Giá đã trở nên một biểu tượng của sự sống chứ không phải dấu hiệu của sự chết. Một biểu tượng hạnh phúc rất người. Khi mới lớn, tôi hay bị các anh chị mắng: "Mày nhìn cái gì cũng thấy màu hồng, trong khi cuộc đời này đen như mõm chó!" Khi lớn lên một chút nữa, tôi thấy lời ấy có phần đúng, vì bao nhiêu nỗ lực của tôi, của bạn bè tôi bị người ta chà đạp lên. Bao tiếng kêu oan, oán hờn bất công như rơi phải lỗ đen vũ trụ... May mắn cho tôi, vì là người Công giáo, tôi thấy cây Thập Tự Giá đóng đinh Chúa Giêsu treo trên vách nhà, đã giết chết Chúa, nhưng có cầm giữ được Người đâu? Người đã sống lại. Lúc đó tôi lại thấy nhìn cuộc đời màu hồng hay màu đan đều chẳng có lý, mà nhìn cuộc đời là cây Thập Tự Giá là đúng nhất. Thập Tự Giá đau thương và chết chóc. Thập Tự Giá con người chất lên vai nhau và đổ dồn cho Chúa. Mang Thập Tự Giá vì yêu thương, vì hận thù. Dựng Thập Tự Già vì báo oán, vì thứ tha. Thập Tự Giá có cả chua ngọt đắng cay. Nhưng hơn cả Thập Tự Giá có Con Thiên Chúa đã chết trong cô đơn và đã sống lại, đang hiện diện giữa lòng tôi và cộng đoàn. Thập Tự Giá là biểu tượng hạnh phúc là thế đó. Một bên là con người vất vả trong đau khổ để thoát khỏi bế tắc đã vô tình và cố ý tạo ra thánh giá cho nhau. Một bên là Thiên Chúa làm cho độc ác của con người trở nên vô nghĩa với sự phục sinh vinh hiển của nhân loại trong Chúa Giêsu Kitô.

Lễ Suy Tôn Thánh Giá, 2002 _ AN THANH, CSsR.

---------------------------------

 

14/09-2: NHÌN ĐÚNG CÁCH

 

Alexander Solzhenisyn kể về thời gian đen tối của đời ông, khi mọi hy vọng như biến mất: 14/09-2


Alexander Solzhenisyn kể về thời gian đen tối của đời ông, khi mọi hy vọng như biến mất. Là một tù nhân trong trại tù Nga, ông làm việc nặng nhọc 12 giờ mỗi ngày. Ông lại thiếu dinh dưỡng nên bị bệnh trầm trọng. Thực ra, bác sĩ đã tiên đoán cái chết của ông. Một trưa nọ, ông đang xúc cát giữa trời nắng, ông ngã gục xuống. Ông nghĩ rằng lính gác sẽ đến đánh ông chết cho xong. Ông không thiết sống, không thể sống nữa.
Ngay lúc đó, một tù nhân người Công Giáo chạy nhanh tới Alex. Với chiếc gậy đang chống, anh bạn vẽ hình Thánh Giá trên cát, chỉ cho Alex xem rồi vội xoá đi trước khi lính gác nhìn thấy. Lập tức, Alex cảm thấy một tia hy vọng trong lòng. Ông đã lấy hết sức để cố gắng trải qua ngày cực khổ đó và nhiều tháng tiếp sau. Alex đã được cứu thoát trong ngày đó nhờ nhìn vào cây Thánh Giá của Chúa Giêsu. Sự nhắc nhớ chớp nhoáng về tình yêu của Chúa đã đem lại sức mạnh để tiếp tục kiên trì.
Trong bài đọc I, Dân Ich Diên cảm thấu sự nóng bỏng của cát dưới chân và của khí thở, nên họ kêu trách Chúa và Mai Sen. Sách Dân Số kể: "Mệt mỏi vì cuộc hành trình, họ phàn nàn vì đưa họ ra khỏi Ai Cập." Sau khi dân bị phạt, bị rắn độc cắn, Chúa bảo Mai Sen làm con rắn đồng treo lên cột. Ai bị rắn cắn nhìn lên rắn đồng thì được khỏi.
Từ cổ xưa, hình con rắn treo đã nên biểu tượng cho ngành thuốc. Thời xưa, nọc rắn dùng trong y thuật. Thật sự, nọc rắn có thể chữa bệnh hay giết chết.
Rắn treo trên cột trong Cựu Ước là tượng trưng cho Thánh Giá trong Tân Ước. Thánh Giá cũng có thể cứu sống hay đánh bại, tùy theo cách thế chúng ta nhìn. Như trong trường hợp của Alex, ông có thể nhìn hình thánh giá tượng trưng cho những cực khổ mà ông hầu như không mang nổi. Hoặc ông nhìn đó như dấu hiệu tình yêu của Chúa.
Không cần cố gắng bao nhiêu chúng ta cũng thấy nhan nhản thánh giá trong đời sống, như thời tiết quá nóng hay lạnh, mưa hay nắng, thân xác yếu mệt, mất tiền của, mất việc làm, mất người thân... Chúng ta có thể nhìn những đau khổ theo tự nhiên hay nhìn với con mắt đức tin. Lo nghĩ theo tự nhiên sẽ đưa chúng ta đến chán nản, thất vọng, quên sinh. Nhìn những thánh giá theo đức tin sẽ được Chúa ban ơn giải thoát.
Làm sao để nhìn theo đức tin? Chúng ta hãy nhớ đến Thánh Giá Chúa Giêsu trên đồi Can Vê. Hãy suy tưởng những hình khổ đó có nghĩa gì đối với Chúa. Con đường thương khó là cả một sụp đổ của những gì muốn làm, là sự thiện Ngài muốn thực hiện dường như bị chà đạp bởi đầu óc ngang ngạnh, thiển cận của con người, là sự bất lực đầu hàng trước quyền lực sự dữ.
Mặc dù thế, Thánh Giá Chúa lại là chiến thắng. Lòng nhân từ của Chúa không thể bị đánh trẹo bởi sự dữ. Dù tội lỗi lớn lao đến đâu, lòng thương xót của Chúa vẫn tha thứ. Dù mây mù có dầy đặc tăm tối đến đâu, mặt trời vẫn chiếu sáng. Chúa Giêsu đã trải qua đêm tăm tối nhất để chúng ta cố gắng làm gì có thể trong những lúc thử thách và cuối cùng công chính sẽ chiến thắng. Không phải chỉ có Thánh Giá Chúa mới chiến thắng, cả những thánh giá của chúng ta cũng là cơ hội để chiến thắng.
Nếu thiếu đức tin, những thánh giá đó trở nên nặng nề, khó có thể mang được và dần dần nó sẽ đánh quỵ chúng ta. Với đức tin, chúng ta sẽ nhìn thánh giá như dấu chứng tình yêu, tình yêu Chúa đối với chúng ta và tình yêu chúng ta đối với Chúa. Chúa Giêsu đã chia sẻ kiếp người đau khổ để chiến thắng và đem lại sức mạnh cho chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta trải qua những đau khổ để theo Chúa.
 

14/09-3. Phải Được Giương Cao

Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ khi vào nhà thờ, nhìn lên thánh giá, thấy một người: 14/09-3

Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ khi vào nhà thờ, nhìn lên thánh giá, thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa. Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy?
Một số nơi đã đặt tượng Chúa Phục Sinh trên thánh giá. Hẳn nhà thờ sẽ tươi hơn, ít gây sốc hơn, mầu nhiệm phục sinh được nổi bật hơn...
Nhưng chúng ta vẫn không được quên Chúa chịu đóng đinh. Không có cái chết ấy thì cũng chẳng có ơn cứu độ. Không có thánh giá thì cũng chẳng có phục sinh.
Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập. Chúng ta suy tôn chính Đấng đi đóng đinh vào thánh giá. Ngài là Đấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người, là "Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết, nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu: Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian người Con Một, Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em. Đau khổ và cái chết là cái giá phải trả cho một tình yêu. Tình yêu lớn nhất là tình yêu hiến mạng.
Thập giá là một thất bại của Tình Yêu.
Quà tặng của Cha bị loài người từ khước: Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh.
Quà tặng của Con bị loài người rẻ rúng: Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba.
Thiên Chúa thất bại vì Ngài khiêm tốn. Ngài để cho con người có tự do chối từ. Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối...
Nhưng thập giá lại là một thành công của Tình Yêu.
Nơi thập giá, tội ác con người lên đến cao điểm. Cũng nơi thập giá, Tình Yêu Thiên Chúa lên đến tột cùng.
Và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết, ánh sáng thắng bóng tối, tha thứ thắng hận thù.
Cha không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá, nhưng đưa Ngài ra khỏi nấm mồ hiu quạnh.
Thất bại của thập giá đã biến thành chiến thắng.
Thập giá trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời.
Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo.
Thánh Giá có mặt cả trên nến phục sinh.
Thánh Giá ở trên thân xác ta, mỗi lần ta làm dấu, nhưng Thánh Giá còn ở với người Kitô hữu suốt đời: "Ai muốn theo Tôi hãy vác thánh giá mình mà theo Tôi".
Đừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa. Đừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái.
Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội, dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiệm.
Ước gì chúng ta thấy được ý nghĩa của khổ đau nhờ tin tưởng nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đứng trước những thất bại và khổ đau trong cuộc sống, bạn thường có thái độ nào (chán nản, bực tức, nổi loạn, đón nhận, phấn đấu vượt qua...)? Có khi nào nhờ thất bại và khổ đau mà bạn thấy mình lớn lên không?
Có khi nào bạn chấp nhận một chút hy sinh, một chút đau khổ, để người khác được hạnh phúc không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả, đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con, và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá, bao lâu tuỳ ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau. Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha, đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha, lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha, chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối, nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý, nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi. (Karl Rahner)
 

14/09-4. Thánh giá, con đường vâng phục – Lm. Trần Thanh Sơn

Hàng ngày khi đọc báo, xem truyền hình và ngay cả trên đường phố, chúng ta thấy nhan nhản: 14/09-4

Hàng ngày khi đọc báo, xem truyền hình và ngay cả trên đường phố, chúng ta thấy nhan nhản những bảng quảng cáo, cùng với biết bao lời hay, ý đẹp để giới thiệu cho các sản phẩm: nào là 3 trong 1, nào là ngon bổ rẻ, nào là tiện lợi, nhanh chóng, nào là số 1 thế giới… và còn nhiều rất nhiều lời khác nữa. Trong khi đó, khi mời gọi các môn đệ và từng người chúng ta theo Ngài, Đức Giêsu lại nói: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Ta” (Mt 16, 24). Thật đúng là một lời mời gọi khác thường, bởi vì trước mắt mọi người, thập giá thì có gì hay đâu, hay nói theo cách nói của thánh Phaolô: “thập giá là một sự điên rồ đối với dân ngoại, và là một điều ô nhục đối với người Do thái” (1 Cr 1, 23). Thế nhưng, chính ngang qua con đường thập giá đó, Đức Giêsu đã đem lại ơn cứu độ muôn đời cho từng người chúng ta, như lời Ngài nói với Nicôđêmô: “Cũng như Môisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để những ai tin Người thì không bị tiêu diệt muôn đời”.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn được cùng quý ông bà anh chị em dành thời giờ để suy niệm về hai khía cạnh của mầu nhiệm thập giá: Vâng phục, con đường của thánh giá và Thánh giá, con đường đưa tới sự sống, để từ đó, chúng ta rút ra bài học cho bản thân từng người chúng ta.
1. Vâng phục, con đường của thánh giá:
Thời đại hôm nay, do quá chú trọng đến tự do cá nhân, nên khi nói đến hai chữ: “Vâng phục” người ta thường nghĩ rằng điều này làm cho chúng ta mất tự do. Mặt khác, nhìn bên ngoài, vâng phục còn có vẻ như là cách sống của trẻ con, những con người yếu đuối, chưa trưởng thành. Tuy nhiên, sự vâng phục mà Lời Chúa hôm nay muốn nói đến đó là sự vâng phục trong lòng tin và tình yêu. Một sự vâng phục trong tự do mà chỉ có những tâm hồn mạnh mẽ, và thực sự trưởng thành mới có thể thực hiện được.
Đó chính là sự vâng phục mà Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã sống suốt cuộc đời mình, như lời thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Philipphê mà chúng ta vừa nghe: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình … Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Vâng, Đức Giêsu đã “hủy bỏ chính mình… và tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Ngài đã sẵn sàng chết trên cách ô nhục trên thập giá, cho dù Ngài hoàn toàn có thể tránh khỏi được. Điều đó cho thấy sự mạnh mẽ, và tình yêu tuyệt vời mà Ngài dành cho chúng ta, một tình yêu đi cho đến cùng (x. Ga 13, 1).
Vâng phục của Đức Giêsu, chính là sự biểu hiện của những tâm hồn mạnh mẽ, tự do và trưởng thành, như lời Ngài nói: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10, 18). Đức Giêsu đã hoàn toàn tự do khi vâng ý Cha, hiến dâng mạng sống của Ngài, vì Ngài biết rõ đây là con đường đem đến ơn cứu độ cho chúng ta. Và như thế, ý của Cha cũng chính là quyết định trong tự do của Đức Giêsu.
Vâng phục còn là con đường của tình yêu, bởi vì khi vâng ý Cha đi con đường thập giá, Đức Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ tình yêu tuyệt vời mà Ngài dành cho chúng ta, bởi lẽ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Chính trong tình yêu, sự vâng phục không còn là gánh nặng, nhưng trở nên nhẹ nhàng và là phương thế diễn tả chân thành, cụ thể nhất của tình yêu.
Chính nhờ sự vâng phục đó, Đức Giêsu đã biến thập giá từ một biểu tượng của sự ô nhục, và là một trong những hình phạt dã man nhất mà con người dành cho nhau, trở thành cây Thánh giá, biểu tượng cho sức mạnh của tình yêu và sự sống. Một tình yêu và sự sống phát xuất từ Thiên Chúa và tiếp tục tuôn chảy đến cho từng người chúng ta hôm nay.
2. Thánh giá, cây sự sống:
Nhờ sự vâng phục của Đức Giêsu, Thánh giá đã trở nên một biểu tượng cho sự sống. Điều này đã được báo trước qua hình ảnh con rắn đồng treo trong hoang địa thời Xuất hành. Lúc đó, trong cuộc hành trình về Đất Hứa, mặc cho Thiên Chúa đã ban biết bao nhiêu ơn lành và gìn giữ họ suốt quãng đường dài trong sa mạc, dân Do thái vẫn không ngừng kêu trách Chúa và Môisen: “Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa”. Họ đã kêu trách, chống đối lại Thiên Chúa, hay nói cách khác, họ đã không còn tuân phục Thiên Chúa. Như thế, họ đã đi vào “vết xe cũ” mà Nguyên tổ đã đi trong vườn Địa đàng năm xưa, khi đưa tay hái trái cây Thiên Chúa cấm, và hậu quả của sự bất tuân thật rõ ràng: “Bởi đó Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người”.
Bất tuân đã đưa đến sự chết. Do đó, để lấy lại sự sống, con đường duy nhất là chính là sự vâng phục. Ý thức điều đó, họ đã chạy đến với Môisen, và thưa rằng: “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn”. Lúc đó, Chúa đã phán cùng Môisen: “Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống”. Như thế, việc những kẻ bị rắn cắn được cứu sống không phải do sức mạnh của con rắn đồng, nhưng chính là do lòng tin tưởng và vâng phục của họ đối với Thiên Chúa, thể hiện qua việc vâng lời Người mà nhìn lên con rắn đồng. Thiên Chúa sẵn sàng bỏ qua những lỗi lầm, những bướng bỉnh, cố chấp của chúng ta, miễn là chúng ta thành tâm quay trở lại với Ngài.
3. Sống mầu nhiệm Thánh giá:
Họp nhau cùng với toàn thể Giáo Hội suy tôn Thánh Giá hôm nay, không phải chúng ta suy tôn một khúc gỗ, hay kính nhớ một hình phạt, nhưng là cơ hội để chúng ta chiêm ngắm tình yêu tuyệt vời của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Một tình yêu được thể hiện qua sự vâng phục hoàn toàn của Ngài đối với Thánh Ý Chúa Cha, một sự “vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Nhờ đó, Đức Giêsu đã biến thập giá thành Thánh giá đem lại ơn cứu độ cho chúng ta.
Không chỉ chiêm ngắm, ngang qua lời Chúa hôm nay, Giáo hội cũng mời gọi từng người chúng ta đi lại con đường Đức Giêsu đã đi, con đường của sự vâng phục. Trước hết, đó là sự sẵn sàng vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Đứng trước mỗi một biến cố vui buồn trong cuộc sống thường ngày, chúng ta hãy suy nghĩ, cầu nguyện để tìm ra ý Chúa và can đảm thi hành. Vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa là sẵn sàng sống theo sự thật, bởi vì chính Đức Giêsu đã khẳng định rằng: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14, 6a). Sự thật đó là Lời Chúa trong Kinh Thánh, là lời giáo huấn của hàng Giáo phẩm, của cha mẹ, thầy cô, những người có trách nhiệm hướng dẫn chúng ta. Sự thật đó còn có thể đến từ bạn bè, từ những em nhỏ, và cả những người không tin có Thiên Chúa nữa. Chúng ta cần sẵn sàng sống theo Sự thật, theo Chân lý, cho dù Sự thật đó đến từ nơi đâu. Chúng ta hãy khiêm tốn mở rộng cõi lòng để đón nhận Chân lý và sống công chính.
Nếu trong từng gia đình, từng cộng đoàn, mỗi người đều hết lòng vâng phục và sống theo Sự thật, tôi tin chắc rằng, gia đình và cộng đoàn của chúng ta sẽ nhận được sự sống vĩnh cửu phát xuất từ cây Thánh Giá của Đức Giêsu mà chúng ta mừng kính hôm nay. Amen.

 

14/09-5. DÙNG CHÍNH ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT ĐỂ GIẢI THOÁT KHỎI ĐAU KHỔ VÀ SỰ CHẾT-JKN


Câu hỏi gợi ý:

 

Đức Giêsu nói Ngài từ «trời» xuống. Vậy «trời» ở đây là gì? Có phải là không gian bao la: 14/09-5


1. Đức Giêsu nói Ngài từ «trời» xuống. Vậy «trời» ở đây là gì? Có phải là không gian bao la với hàng tỷ tỷ tinh tú không?
2. «Con Người phải được giương cao» nghĩa là gì? Đức Giêsu đã dùng cách gì để cứu con người khỏi đau khổ và đem lại hạnh phúc cho họ? Nếu Ngài dùng cách ấy, thì đó có phải là cách tối ưu và hữu hiệu nhất không?
Suy tư gợi ý:
1. «Không ai đã lên trời, ngoại trừ Đấng từ trời xuống»
Chữ «trời» xuất hiện rất nhiều lần trong tất cả các sách Kinh Thánh. Nó chỉ một thực tại căn bản của tôn giáo, của đời sống tâm linh. Nhưng «trời» là gì? - Bình thường, người ta hay nghĩ trời là không gian bao la vô tận, trong đó chứa hàng tỷ tỷ tinh tú hay thiên thể như mặt trời, trái đất, trăng sao. Nghĩ như vậy thì hoàn toàn không sai, vì đó là nghĩa chính, nghĩa đen, nghĩa vật chất của chữ «trời». Nhưng «trời» thường được nói đến trong Kinh Thánh không có ý nghĩa vật chất như vậy. Chữ «trời» với ý nghĩa vật chất chỉ là dấu chỉ, là hình ảnh tượng trưng cho một cảnh giới tâm linh tuy vô hình đối với con mắt vật chất của con người, nhưng lại có thật, thậm chí còn thật hơn cả thế giới vật chất này nữa. Thế giới vật chất này tuy kéo dài hàng tỉ năm, nhưng vẫn là một cái gì hữu hạn cả về không gian lẫn thời gian: trải rộng trong một khoảng không gian nào đó nhất định, có thời điểm sinh ra và có thời điểm bị tiêu diệt. Khi đã bị tiêu diệt, thì sự hiện hữu của nó chỉ tương tự như một hình bóng, một giấc mơ thoảng qua, tương tự như hiện nay ta nghĩ về sự hiện hữu của những ngôi sao đã tắt, hay những nền văn minh cổ đại mà người ta khám phá được những di tích của chúng dưới lòng đất. Chúng hiện hữu mà có vẻ như không hiện hữu, chẳng khác bao nhiêu so với những giấc mơ trong đêm!
Cảnh giới tâm linh là cảnh giới của Thiên Chúa, của các thiên thần, mà những người có đời sống tâm linh phát triển có thể cảm nghiệm được phần nào, chẳng hạn các nhà thần bí như Phaolô (x. 2Cr 12,2), Gioan Thánh Giá, Têrêxa Avila, Meister Eckhart, hay các Kitô hữu thánh thiện khác. Đó là cảnh giới của sự sống vĩnh cửu mà thánh Phaolô mô tả: «Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người» (1Cr 2,9). Người bình thường không hề có một kinh nghiệm nào về cảnh giới này, cũng chẳng có thể tưởng tượng ra được, vì nó vượt ra khỏi tất cả mọi khả năng tưởng tượng của con người, tương tự như một người mù bẩm sinh không thể có một quan niệm hay tưởng tượng nào đúng đắn về màu sắc và ánh sáng. Cảnh giới này tồn tại muôn đời, nó hoàn toàn không liên quan gì với không gian hay thời gian mà chúng ta thường quan niệm. Nói theo triết lý Ấn Độ, nó nhỏ đến nỗi một hạt bụi cũng đủ chứa nó trọn vẹn, nhưng nó cũng lớn đến nỗi cả vũ trụ bao la này cũng không chứa nổi nó. Đức Giêsu «về trời» hay «thăng thiên» là trở về với cảnh giới tâm linh này, nơi Ngài đã từ đó mà đến.
Cảnh giới tâm linh sâu thẳm và vô tận này không ở đâu xa, nó hiện diện ngay trong tâm hồn chúng ta, nhưng nếu không có đời sống tâm linh sâu xa, chúng ta chẳng hề cảm nghiệm được. Ba Ngôi Thiên Chúa, Đức Giêsu hiện diện thật sự trong cảnh giới này. Theo lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay, thì Ngài là người duy nhất đã từ cảnh giới tâm linh này đến với con người. Và Ngài đến trần gian này là để giúp chúng ta khám phá, thưởng nếm và dẫn chúng ta vào sống trong cảnh giới tâm linh bất diệt này. Chỉ khi nào khám phá và thưởng nếm cảnh giới tâm linh này, con người mới giải thoát được mọi đau khổ, mới cảm nghiệm được thế nào là hạnh phúc chân thật, thứ hạnh phúc không ai có thể lấy mất được.
2. «Con Người phải được giương cao…»
Để giúp con người đi vào đời sống tâm linh, là đời sống của Thiên Chúa, hay sự sống đời đời, thì Đức Giêsu phải «được giương cao», tương tự như con rắn đồng ở trong sa mạc thời Môsê, khi được giương cao lên, ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó thì được chữa lành. Hình ảnh con rắn đồng được giương cao quả là đầy ý nghĩa. Tình trạng bị rắn cắn đau đớn và có thể chết người tượng trưng cho sự đau khổ tột cùng của con người. Thiên Chúa đã lấy ngay hình con rắn để trị bệnh rắn cắn, nghĩa là lấy chính đau khổ để diệt đau khổ: đó là một hình thức «dĩ độc trị độc». Khi con rắn «được giương cao» thì nó trị được sự đau đớn do rắn cắn, điều đó có nghĩa là khi người ta hiểu được giá trị của đau khổ, khiến họ tự nguyện chấp nhận đau khổ, thì sự chấp nhận đó có thể tiêu diệt được đau khổ, chẳng những cho mình, mà cho cả người khác. Việc con rắn «được giương cao», theo cách hiểu truyền thống, là hình ảnh Đức Giêsu bị treo lên cao khỏi mặt đất, hay bị treo trên thập giá, nghĩa là Ngài đã tự nguyện chấp nhận sự đau khổ cùng tột của con người. Nhờ đó, Ngài đem lại ơn cứu độ hay sự giải thoát khỏi đau khổ cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Đây là một bài học về một định luật trong cuộc sống: Đau khổ của con người có thể được hóa giải bằng chính việc vui lòng hay tự nguyện chấp nhận tất cả những đau khổ xảy đến với mình. Thật vậy, khi ta không còn sợ hãi đau khổ, mà sẵn sàng vui vẻ đón nhận khi nó đến với mình, thì nó bỗng mất đi hoặc bớt đi khả năng gây đau khổ. Trái lại, càng sợ đau khổ, càng muốn tránh né nó, thì nó lại càng tăng khả năng gây khổ hơn. Chính vì thế, kinh nghiệm dân gian về định luật này được tóm lại trong câu: «Ghét của nào, Trời trao của nấy»: càng ghét đau khổ, thì càng hấp dẫn đau khổ đến với mình. Về hạnh phúc cũng có phần tương tự như vậy. Càng quan tâm tới hạnh phúc của mình, càng khao khát tìm hạnh phúc, thì hạnh phúc dường như càng xa khỏi tầm tay của mình. Càng không nghĩ tới nó, không quan tâm tới nó, thì dường như nó càng dễ đến gần mình hơn, và vào trong tầm tay của mình.
Đau khổ và hạnh phúc là cái gì liên quan rất mật thiết với «cái tôi» của ta. Càng coi «cái tôi» của mình là quan trọng, càng quan tâm hay chú ý tới nó, thì càng nhạy cảm với đau khổ, càng dễ đau khổ, càng thấy bị «mất mình», «vong thân». Trái lại, càng coi «cái tôi» của mình không là gì cả, càng ít quan tâm tới nó, thì càng dễ cảm nhận được hạnh phúc. Đây quả là một nghịch lý của sự sống. Càng sống ích kỷ, càng chỉ nghĩ đến mình, ta càng đánh mất mình, càng thấy cuộc đời là vô nghĩa, và càng đau khổ. Trái lại, càng quên mình, nhất là càng sống vị tha, ta càng thấy cuộc sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Đức Giêsu có nói về nghịch lý này: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Còn thánh Phanxicô Khó Khăn thì nói: «Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân» (Kinh Hòa Bình).
Vui lòng hay tự nguyện chấp nhận đau khổ, mất mát, thiệt thòi, nhục nhã là một hình thức xả kỷ, quên mình, «tự hủy», đó là một hình thức «được giương cao», «được treo lên». Đây chính là con đường dẫn đến giải thoát mà Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta, và Ngài đã làm gương cho chúng ta: «Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự» (Pl 2,6-8). Như vậy, Ngài đã lấy chính đau khổ của mình để diệt đau khổ cho nhân loại, lấy sự tự hạ mình để nâng con người lên, lấy cái chết của mình để đem lại sự sống cho con người. Thánh Phêrô viết: «Vì Người mang vào mình những vết thương mà anh em được chữa lành» (1Pr 2,24). Đó là cách Ngài diệt đau khổ và đem lại hạnh phúc cho chúng ta.
3. «… để ai tin vào Người thì được sống muôn đời»
Bài Tin Mừng viết: «Con Người phải được giương cao, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời». «Được giương cao» ở đây có nghĩa là «được treo lên», là tự nguyện chịu đau khổ và chết. Ngài đau khổ để con người hạnh phúc. Ngài chết để con người được sống. Nhưng thực ra, con người vẫn đang đau khổ và vẫn chết về mặt tâm linh. Con người chỉ hưởng được ích lợi của sự đau khổ và sự chết của Ngài khi họ tin vào Ngài. Tin vào Ngài nghĩa là gì? Chắc chắn không phải chỉ là sự tuyên bố chấp nhận Ngài là Con Thiên Chúa hay là Đấng Cứu Độ, mà là một thái độ sống chứng tỏ mình chấp nhận điều ấy. Tin rằng Ngài đã đau khổ và đã chết để đem lại ơn cứu độ hay hạnh phúc và sự sống cho nhân loại, nghĩa là tin rằng cách Ngài làm là cách tốt nhất để đem lại hạnh phúc và sự sống cho mình và mọi người. Nếu thật sự tin như thế, ta sẽ áp dụng cách đó vào trong đời sống của mình, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ xảy đến, sống xả kỷ, quên mình, để nhờ đó chẳng những chính ta được hạnh phúc và còn đem lại hạnh phúc cho người khác nữa. Đó cũng chính là cách để đi vào cảnh giới tâm linh vĩnh cửu, vào sự sống đời đời mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã dùng đau khổ để giải phóng nhân loại khỏi đau khổ, đã quên đi hạnh phúc của chính bản thân để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Nếu Ngài đã dùng cách đó, ắt đó phải là cách tối ưu và khôn ngoan nhất để giải thoát khỏi đau khổ và đem lại hạnh phúc. Do đó, nếu con tin Đức Giêsu, ắt con cũng phải bắt chước Ngài sử dụng cách đó để tự giải thoát khỏi đau khổ và tìm đến hạnh phúc, đời này cũng như đời sau.

-------------------------------

 

14/09-6. Chúa đã dùng cây thập giá mà cứu chuộc thế gian


- Lm Trần Bình Trọng

 

Hôm nay Giáo hội mừng lễ suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa: 14/09-6


Hôm nay Giáo hội mừng lễ suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá mang tới sự thất vọng, tai hoạ và sự chết. Đàng khác Thánh giá mang lại nguồn hi vọng, toàn thắng và sự sống. Trước khi Chúa Cứu thế đến, thánh giá là một hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Ki-tô giáo. Đó chính là điều mà Thánh Phao-lô đã khẳng định: Rao giảng Đức Ki-tô chịu đóng đanh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (Gl 1:23-24).
Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường về đất hứa. Khi dân chúng trách oán Người, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho Môi-sen làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên cây gậy đồng thì được chữa khỏi. Chúa Giê-su coi cái việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người sẽ không bị huỷ diệt (Ga 3:18). Người Ki-tô giáo không thể tin vào Chúa Ki-tô mà lại chối bỏ thánh giá. Chối bỏ thánh giá, họ không còn phải người Ki-tô giáo. Người tín hữu phải tôn vinh Thánh giá như là phương tiện cứu rỗi. Người tín hữu phải hãnh diện vì biểu hiệu Thánh giá. Tuy nhiên họ không được dừng lại ở thánh giá mà phải vượt qua thánh giá và tìm cho ra ý nghĩa của việc mang vác thánh giá. Thánh giá không phải là viêc mời gọi sống phản nhân bản. Thánh Gio-an Newman đã đặt bút viết: Thập giá Chúa Ki-tô đã khiến cho những giá trị nhân bản phải được xét lại, bằng cách bày tỏ một tình yêu mạnh đến nỗi đã san bằng cái hố giữa cái chết và sự sống.
Thánh lễ hôm nay nhắc nhở cho ta về cái nền tảng của đức tin: qua thánh giá thì có triều thiên, triều thiên cứu rỗi, triều thiên đợi những ai chạy đường đời. Đối với ta người tín hữu, Thánh giá đã trở nên biểu hiệu của tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa dành cho loài người. Chúng ta hãy cầu nguyện:
Lạy Chúa, con xin cảm tạ đội ơn Chúa đã đến chịu khổ hình và chịu chết trên Thập giá vì lội lỗi con, để cho con được sống. Xin Chúa tha thứ những lần con đóng thêm đanh nhọn vào mình Chúa bằng tội lỗi con. Xin tha thứ những lần con phàn nàn kếu trách Chúa và còn hận Chúa vì thánh giá con phải mang vác. Xin tha thứ những lần con không an ủi nâng đỡ những người kiệt sức vì thánh giá họ phải mang vác.
Xin Chúa là sức mạnh và là nguồn hi vọng của con khi con phải mang thánh giá về bệnh tật, đau khổ phần xác, khi con phải mang vác thánh giá của sự lo âu, bối rối, khi con phải vác thánh giá của cảnh cô đơn, thất vọng, khi con mang thánh giá của sự hiểu lầm và nghi kỵ, khi con phải vác thánh giá của cảnh ghen ghét và hận thù, khi con mang thánh giá của cảnh gia đình chia ly, phân tán và đổ vỡ.
Lạy Chúa, xin ban ơn nhẫn nại và lòng can đảm để con chấp nhận thánh giá trong cuộc sống. Xin ban cho con ơn khôn ngoan để con tìm cho ra ý nghĩa và mục đích của việc mang vác thánh giá. Xin đổ tràn đầy tình yêu vào tâm hồn con để con có thể biến đổi thánh giá là dụng cụ của hình phạt tội lỗi thành dụng cụ toàn thắng tội lỗi và sự chết và đem lại ơn cứu độ muôn đời.
Lạy Chúa, xin hãy đến ngự trị trong tâm hồn con. Xin Chúa là sức mạnh, là niềm vui, niềm hi vọng, là lẽ sống và là gia nghiệp đời con.

-------------------------------

 

14/09-7:Chuyện: THÁNH GIÁ CỦA ĐỜI TA

 

Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa: 14/09-7


Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: "Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận". Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa định hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào hồi nãy và con đã bỏ lại, dựng ở vách tường của cửa hàng".
Thánh Gio-an Ma-ri-a Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: “Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái". Thập Giá Chúa Giê-su là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu". Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giê-su đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.

Trích từ Lẽ Sống

---------------------------------

 

14/09-8: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ

 

Theo Lịch Phụng Vụ Công Giáo, ngày 14 tháng 9 là Lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ kính. Thánh Giá: 14/09-8


Theo Lịch Phụng Vụ Công Giáo, ngày 14 tháng 9 là Lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ kính. Thánh Giá là ảnh tượng được tôn kính, sùng mộ và rất thân thuộc trong đời sống của người Ki-tô-hữu. Nhưng, vì quá quen thuộc nên người tín hữu có thể giảm bớt hoặc mất đi sự quan tâm. Ngay cả dấu Thánh Giá, vì “làm” hoài, nên lắm lúc cũng chỉ được giáo hữu “làm dấu” qua loa lấy lệ, không còn ý nghĩa cao quý về suy tôn châu báu mà Chúa Giê-su Đấng Cứu Thế đã để lại dưới thế trần. May thay, năm nay 2003, Lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 lại nhằm vào Chúa Nhật 24B, là cơ hội thuận tiện để quý giáo hữu sốt sắng hiệp thông thực hiện việc đạo đức tôn vinh Thánh Giá một cách có ý thức trọn vẹn.
Để góp phần tham gia Phụng Vụ, người viết xin chia sẻ đôi điều học hỏi về Thánh Giá và giáo huấn của Giáo Hội về Suy Tôn Thánh Giá. Ví dụ đơn giản: Trong Thánh Lễ 14 tháng 9 vị chủ tế mặc lễ phục màu đỏ cũng là dấu chỉ nhắc nhớ đến Chúa Giê-su Ki-tô đã đổ máu mình ra trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
THÁNH GIÁ TRONG ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC
Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Ki-tô giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo Hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như giáo phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Ki-tô hữu đều làm dấu Thánh Giá.” Người Ki-tô-hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành.
Vì biết lòng mến mộ Thánh Giá gia tăng lòng đạo đức, ảnh hưởng đến việc mở mang Ki-tô-giáo, các vua chúa quan quyền, từ các hoàng đế Rô-ma đến quan chức tại Trung Đông, đã tìm đủ mọi cách hầu xóa bỏ niềm tin vào Thánh Giá. Hơn hai thế kỷ đầu theo niên lịch công nguyên, Ki-tô giáo bị đàn áp và bách hại kịch liệt. Vua Adriano ( 76 – 138 ), khi lên ngôi hoàng đế Rô-ma ( 117 – 138 ) đã ra lệnh triệt hạ hay phá hủy các di tích về Đức Giê-su Ki-tô Cứu Thế, như nơi Chịu Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng. Khoảng năm 135, ông còn cho xây nhiều đền thờ bụt thần tại trên Mộ Thánh của Đức Ki-tô và chôn giấu Thánh Giá Chúa Giê-su chịu đóng đinh, không cho giáo hữu tôn kính.
Trong khi đó, tại Giê-ru-sa-lem, Giáo Hội lại đi tiên phong trong các lễ nghi và nghi thức phụng vụ liên quan đến Đấng Cứu Thế.
Mãi đến thế kỷ thứ tư, thời vua Constantino ( khoảng từ 270, 280 đến 337 ), làm hoàng đế Rô-ma ( 306 – 337 ). Sau khi nhờ phép lạ Thập Giá mà đại thắng quân xâm lăng của Maxentio, vua ban hành lệnh tự do tôn giáo, dẹp bỏ đàn áp bắt bớ Ki-tô giáo. Ông trở lại đạo và bà Helena, mẹ vua, cũng trở lại đạo Công Giáo. Vì lòng kính mến Chúa Giê-su Cứu Thế và nhiệt thành sùng mộ Thánh Giá, năm 326, dù đã 80 tuổi, bà cũng thân hành qua Thánh Địa, cộng tác chặt chẽ với Đức Cha Macario, Giám Mục thành Giê-ru-sa-lem, để cho tiến hành tìm các nơi Thánh, di tích sau hết của cuộc đời Chúa Cứu Thế.
Nhờ các nguồn thông tin có cơ sở, bà cho tiến hành đào bới về khảo cổ tại chân núi Calvario và, đã lần lượt tìm được các di tích về Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng Chúa Giê-su trong Mộ. Thành công lớn lao nhất là tìm được ba cây Thập Giá. Theo nghiên cứu Phụng Vụ về Thánh Địa, cha Jaud cho biết nhờ phép lạ cứu sống một bệnh nhân đang hấp hối và một người đã chết được sống lại, khi mỗi người chạm đến gỗ Thánh, Đức Giám Mục Macario xác định thập giá thực trên đó Chúa Giê-su đã bị đóng đinh và gọi là Thánh Giá.
Khi tìm được di tích Thánh, bà Helena cho xây cất hai Đền Thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh. Lễ khánh thành và cung hiến hai Đền Thờ này được tổ chức trọng thể tại Giê-ru-sa-lem vào hai ngày 13 và 14-9 để mừng Đền thờ Calvario và Mộ Thánh. Vào năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được chia ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo Hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopolis được phần gỗ Thánh lớn hơn và phần lớn còn lại được lưu niệm tại Giáo Hội Giê-ru-sa-lem. Trong Giáo Hội Tây Phương, Lễ tìm được Thánh Giá mừng kính vào ngày 3 tháng 5, còn ở Giê-ru-sa-lem thì vẫn giữ vào ngày 14 tháng 9.
Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giê-ru-sa-lem vào 14.9.629 như chứng tích sau:
Vào thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba-tư, Khosroès 1 ( 531 – 579 ), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Rô-ma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giê-ru-sa-lem. Ông Heraclius ( 575 – 641 ), một vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopolis ngày 3.10.610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 ( 610 – 641 ). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên vào ngày 12.12.627. Ông rượt đuổi Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.
Theo cha Jaud, năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantinopolis, rồi từ đó rước khải hoàn về Giê-ru-sa-lem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào Đền Thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế, nhưng khi vác Thập Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Đức Zacharias, Giáo chủ Giê-ru-sa-lem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Đức Giê-su.” Nhà vua nghe theo, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius vác Thập Giá gỗ vào Đền Thờ. Với gỗ Thập Giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát... ( Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950 ).

Vì thế, tại Giê-ru-sa-lem, Đức Giám Mục đã cử hành trọng thể Lễ Suy Tôn Thánh Giá, ngày 14 tháng 9 năm 629, mà sau này trở thành Lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 ngày nay.

GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH VỀ SUY TÔN THÁNH GIÁ

1. Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, việc suy tôn Thánh Giá:

a. Minh chứng Đức Tin qua gương Mẹ Ma-ri-a. “Khi chứng kiến Chúa Giê-su bị treo trên Thập giá, đức tin của Mẹ không bao giờ dao động vì Mẹ tin rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa của Ngài cứu chuộc nhân loại.” ( GLGHCG số 149 ).
b. Cổ võ sự thống hối và tôn thờ Thiên Chúa, như được ghi trong Sách Công Vụ Tông Đồ: “Khi nói cùng toàn thể nhà Ít-ra-en, Phê-rô quả quyết: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên Thập giá thì Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài là Chúa và là Đức Ki-tô.” ( Cv 2, 36; GLGHCG số 440 ).
c. Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất, như lời Thánh Phao-lô Tông Đồ: “Chúa Ki-tô bị treo trên Thập giá thu hút mọi người đến với Ngài” ( Ga 12, 32; GL 160 ), “lôi cuốn hết thảy cùng hiệp nhất với nhau.” ( GLGHCG số 542 ).
d. Tuyên rao Nước Chúa trị đến. Lời ca tôn vinh gỗ Thập Giá Vexilla Regis Thứ Sáu Tuần Thánh ghi lại: “Chính nhờ cây Thánh Giá của Chúa Ki-tô mà Nước Thiên Chúa được thiết lập cách dứt khoát.. Thiên Chúa đã cai trị từ trên cây gỗ này” ( GLGHCG số 550 ).
e. Thánh Giá là bằng chứng Chúa Giê-su tiếp tục bênh vực cho chúng ta trên Nước Trời. Thánh Phao-lô nói: “Sự nâng lên trên cây Thập Giá ngụ ý và báo trước việc Chúa lên Trời. Ngài là Đấng ra trước Thiên Chúa để bênh vực chúng ta” ( Dt 9, 24; GLGHCG số 662 ).
2. Theo Công Đồng Vatican 2 ( 1962 – 65 ), suy tôn Thánh Giá hướng đến:
a. Mầu nhiệm Phục Sinh. “Sau khi chịu chết trên Thập giá, Đức Ki-tô đã Phục Sinh” ( GH, “Nhờ Đức Ki-tô chịu đóng đinh và sống lại, thế gian đã được giải thoát” ( MV số 2 ).
b. Thánh Lễ. Mỗi lần hy tế Thập giá được cử hành trên bàn thờ, "Chúa Ki-tô, chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế” ( 1 Cr 5, 7 ) thì công trình cứu chuộc được thực hiện” ( GH số 3 ).
c. Ơn Cứu Độ. “Nhờ Người đã hoàn tất công trình cứu chuộc trên Thập giá, mang lại cho con người Ơn Cứu Độ và tự do” ( TD, 11 ).
d. Hòa giải. “Đức Ki-tô đã hòa giải con người với Chúa Cha bằng Thập Giá” ( MV số 78 ).
e. Vác Thánh Giá theo chân Chúa Giê-su. “Tưởng niệm Thập Giá và sự Phục Sinh của Đức Ki-tô, người tín hữu vác thập giá mình bước theo Chúa Giê-su” ( TD số 4; GH số 41 ).
Ghi chú: GH = Hiến chế “Tín Lý về Giáo Hội”; MV = Hiến chế “Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay”; TD = Tuyên ngôn về “Tự Do Tôn Giáo”.

DẤU THÁNH GIÁ

Suy tôn Thánh Giá có ý nghĩa nhất là suy gẫm và làm đấu Thánh Giá cách sốt sắng. Như đã ghi ở trên, điềm đã xảy đến đem lại chiến thắng cho hoàng đế Rô-ma Constantino là “một dấu chỉ lạ về Thập Giá”. Khi phải tuyên chiến với quân của Maxentio xâm lược nước Ý, vua Constantino ( 306 – 337 ) đã nhìn thấy xuất hiện trên trời điềm lạ “một thập giá sáng ngời” với lời phán: “Dưới dấu chỉ này, người sẽ chiến thắng – In hoc signo vinces”. Vua ra lệnh giương cao “dấu Thánh Giá – signum Crucis” làm cờ hiệu và đã chiến thắng quân Maxentio tại chân tường Rô-ma, gần cầu Milvian, vào ngày 28.10.312. Vua nhìn nhận đó là “dấu chỉ Thiên Chúa ban ơn”, nên đã ra lệnh dep bỏ bắt đạo và truyền loan “Ki-tô-giáo là tôn giáo chính thức của hoàng triều Rô-ma.”
Theo Phụng Vụ, Thánh Giá được tôn vinh trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Thông thường, khi làm dấu Thánh Giá trên mình, người Ki-tô hữu đọc: “Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” Nhưng, có nhiều trường hợp làm dấu Thánh Giá mà không đọc Kinh dấu Thánh Giá, như trong Thánh Lễ với câu: “Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa”, và sau Kinh Cáo Mình: “Xin Thiên Chúa toàn năng...” Hoặc, trước khi đọc Phúc Âm, vị Chủ Tế hoặc Phó Tế làm dấu Thánh Giá nhỏ trên khởi đầu Tin Mừng, rồi làm dấu Thánh Giá nhỏ trên trán, trên môi miệng và trên ngực. Hoặc, trong Phụng Vụ Giờ Kinh khi đọc “Lạy Chúa, xin hãy phù trợ chúng tôi – Deus in adjutorium nostrum intende”, hay khởi đầu các bài “Magnificat”, “Benedictus”, hay “Nunc Dimitis”, hoặc làm một Thánh Giá nhỏ trên môi khi đọc: “Lạy Chúa xin mở môi con ra – Domine labia mea aperies”.

Kỹ sư TRẦN VĂN TRÍ ( Hoa Kỳ ) 9.2003

-------------------------------

 

14/09-9:THÁNH GIÁ

 

Tôi nhìn thấy Thánh Giá mỗi ngày. Tôi nghe nói về Thánh Giá rất thường. Thánh Giá trên: 14/09-9


Tôi nhìn thấy Thánh Giá mỗi ngày. Tôi nghe nói về Thánh Giá rất thường. Thánh Giá trên tháp chuông, Thánh Giá trên Bàn Thờ, Thánh Giá bán trong tiệm, Thánh Giá ngoài nghĩa trang. Thanh giá trên đường đá, Thánh Giá trong nghệ thuật, Thánh Giá trong thi ca. Thánh Giá ở khắp nơi... Nhưng Thánh Giá là gì ? Để tìm câu trả lời không phải là điều đơn giản. Có nhiều ý nghĩa khác nhau về Thánh Giá. Tùy theo mỗi người mà Thánh Giá có giá trị knác biệt.
Thánh Giá bằng vàng thì giá trị hơn bằng gỗ. Thánh Giá bằng vàng cũng tùy theo to nhỏ mà giá đắt hay rẻ. Người mua trả giá để được bớt. Ngươi bán thì lại mong giá cao. Người có tiền thì mua Thánh Giá vàng tốt. Kẻ ít tiền thì mua vàng kém chất lượng. Họ lừa nhau, không cẩn thận thì mua phải Thánh Giá vàng giả. Ai cũng muốn Thánh Giá vàng. Họ vất vả, đam mê kiếm tiền để tích trữ loại Thánh Giá này. Khi mất thi đau khổ tiếc xót. Thánh Giá là đơn vị kinh tế để ấn định tiền bạc. Thánh Giá xác định sự giàu có.
Thánh Giá cũng được dùng đề trang điểm. Họ đeo từng chùm Thánh Giá trên vành tai, bên mái tóc nhuộm xanh đỏ. Người thích thì không sao, người không ưa thì lúc đó kẻ đeo Thánh Giá bị khinh bỉ. Có người thích trang điểm bằng Thánh Giá trên dây chuyền vàng. Họ đeo Thánh Giá ở dạ hội, ở tiệc cưới, ở các buổi tiếp tân. Lúc đó, giá trị của Thánh Giá là làm cho mình thêm đẹp. Họ dùng Thánh Giá để kéo kẻ khác chú ý đến mình. Và cũng có những Thánh Giá ờ vùng ngực hở hang, lúc ấy, Thánh Giá nằm trong duyên cớ của những rung cảm cám dỗ. Người có Thánh Giá để trang điểm thì hãnh diện. Kẻ không có thì thèm muốn. Thánh Giá lúc này là xúi bẩy của lòng tham.
Thánh Giá ở ngoài nghĩa trang thì vắng lặng, ít ai nhìn. Thánh Giá bị mưa lạnh, bị nắng gay gắt, trong khi Thánh Giá vàng đeo trên ngực thì được người ta săn sóc, giữ gìn cẩn thận. Thánh Giá ở ngoài nghĩa trang có thể gãy đổ từ lâu nhưng chẳng ai để ý. Nhưng nếu Chúa ở trên Thánh Giá đó thì Ngài được tự do ngắm mây trời. Có cái hoang lạnh của buổi chiều mưa phùn, nhưng cũng có thể có tiếng hót của một cánh chim nào đó dừng chân hát vui. Có thể là sương rơi, là gió bão, nhưng Chúa không ngột ngạt vì hương phấn như những Thánh Giá vàng trên ngực, trên cổ của con người. Thánh Giá ngoài nghĩa trang thì không được săn sóc nhưng Chúa có được tự do để thảnh thơi nhìn hoa nở, nhìn nắng bay. Thánh Giá trên dây chuyền để trang điểm thì Chúa bị người ta nhìn, và nhiều khi nhìn bằng những ánh mắt thiếu trong sạch.
Cũng có nơi Thánh Giá được dùng để xuống đường. Họ vác Thánn Giá không phải để lên đồi chịu đóng đinh, nhưng để đi biểu tình và đòi đóng đinh kẻ khác. Thánh Giá với khẩu hiệu, Thánn Giá với những bàn tay nắm chặt hận thù. Thánh Giá đằng đằng trước mũi súng. Thánh Giá để đánh nhau. Thánh Giá bây giờ là phương tiện tranh đấu. Nếu Chúa nằm trên Thánh Giá đó chắc Chúa sợ lắm. Suốt cuộc đời, Ngài chỉ dạy các môn đệ của Ngài cách chết chứ chẳng bao giờ dạy cách chiến đầu. Các nhà lãnh tụ dạy kẻ theo họ chiến thuật tranh giành ảnh hưởng. Họ phải biết làm sao để áp đặt kẻ thù. Họ phải học cácn tiêu diệt đối phương. Thầy Giê-su chỉ dạy môn sinn của mình phải chuẩn bị chết ( Mt 21 – 12, 13 ). \/ì thế, khi Thánh Giá bị vác xuống đường biểu tình, chắc hẳn Chúa phải luống cuống lắm vì Ngài nào có biết gì.
Có Thánh Giá trên lầu chuông gỗ, có Thánh Giá trong bảo tàng viện. Thánh Giá trên lầu chuông thi có khi phủ bụi mờ, mạng nhện che kín. Thánh Giá không có người săn sóc, nhưng chiều chiều có tiếng chuông phổ nhạc, sáng sáng có lời chuông đưa kinh. Con người bỏ Chúa phủ bụi, nhưng lại có đàn bồ câu bay về đậu xuống chuyện trò. Thánh Giá trong bảo tàng viện là Thánh Giá quý, họ canh giữ cẩn thận. Nhưng khi được con người canh giữ cẩn thận, thì Chúa trên Thánh Giá có nhiều lo âu: người ta rình mò ăn cắp, vì thế Thánh Giá được đặt trong lồng kính. Nếu Chúa ở đó chắc ngột ngạt vì bị giam hãm. Ngày ngày, hàng ngàn con mắt đi qua dòm ngó. Nếu Chúa ở đó, chắc Chúa bối rối lắm: Chúa trên Thánh Giá mà được loài người gìn giữ quý hóa lại là một cõi tù đày.
Người Ki-tô hữu nhận Thánh Giá để phân biệt mình với người thuộc các tôn giáo khác. Giữa những người Ki-tô hữu với nhau, Tu Sĩ lại đeo Thánh Giá để phân biệt họ không phải là Giáo Dân. Giữa các Tu Sĩ với nhau, Thánh Giá cũng được dùng để phân biệt trên nhẫn bạc, trên gậy cầm để nói ai là Thầy Thượng Phẩm và ai chỉ là Tu Sĩ thường ! Như vậy, Thánh Giá còn được dùng để làm dấu hiệu phân biệt.
Những ngày còn sống, Chúa lao tác mệt nhọc, nhưng không phải để xây Đền Thờ. Chúa vất vả đi mòn lối trên bụi đường Ga-li-lê nhưng không phải để may cờ, dán bích chương hầu loan báo một tôn giáo mới. Chúa xây dựng Nước Thiên Chúa trong tim con người: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ Thầy: ấy là anh em có lòng thương mến lẫn nhau” ( Ga 13, 35 ) Tình yêu vô hình, không nhin thấy thì Chúa lại bảo lấy làm dầu hiệu cho ngưới ta nhìn. Còn Thánh Giá hữu hình, ai cũng nhìn được thì Chúa lại chẳng chọn làm dấu hiệu !
Trên đường từ Giê-ru-sa-lem lên Núi Sọ, có rất nhiều người nhìn Chúa vác Thánh Giá, có nhiều kẻ đã được thứa hưởng ân huệ của Ngài, được Ngài chữa bệnh, được Ngài nuôi ăn, nhưng họ không vác Thánh Giá đỡ Ngài. Không một môn đệ nào ghé vai gánh cho Thầy mình đỡ mỏi. Chúa đã nhiều lần quỵ ngã vi yếu sức. Kẻ vác Thánh Giá cho Ngài là Si-mon, người xứ Ky-rê-nê ( Lc 23, 26 ). Phúc Âm không hề nói là ông Si-mon đã được thừa hưởng đặc ân gì của Chúa cả. Và có thể ông ta là một người ngoại giáo. Đời là vậy, có nhiều kẻ theo Chúa nhưng để Chúa vác Thánh Giá một mình. Có kẻ trên danh nghĩa không là người theo Chúa nhưng lại nhờ họ mà Chúa đỡ khổ !
Có nhiều loại Thánh Giá: Thánh Giá để trang điểm. Thánh Giá là đơn vị kinh tế tính bằng tiền bạc. Thánh Giá là phương tiện tranh đấu. Thánh Giá có thể làm duyên cớ cho lòng thèm muốn tham lam. Thánh Giá có thể để lôi cuốn quyến rũ người khác. Thánh Giá có thể bị quên lãng ngoài cánh đồng. Thánh Giá cũng được gìn giữ cẩn thận trong tủ sắt khoá kín. Thánh Giá để phân biệt chức vị trong xã hội. Một câu hỏi mà có quá nhiều câu trả lời đúng, thì câu trả lời thường là sai, câu trả lời đúng nhất chỉ có một. Không bao giờ có hai cái đẹp nhất, cũng như chẳng thể bao giờ cả hai đều đúng nhất.
Người ta không thể tranh luận về Thánh Giá. Kẻ dùng Thánh Giá làm phương tiện tranh đấu không thể chấp nhận Thánh Giá là để đóng đinh mình. Kẻ muốn lấy Thánh Giá để làm dáng, thì đối với họ, Thánh Giá chỉ có nghĩa khi dùng để trang đíểm. Ai chọn Thánh Giá để phân biết mình với kẻ khác tôn giáo thì Thánh Giá mang màu sắc một ký hiệu. Mỗi người nhìn Thánh Giá một cách khác nhau. Giá trị của Thánh Giá thuộc về cái nhìn của họ.
Đức Ki-tô nói về Thánh Giá như sau: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình, vác Thánh Giá của mình mỗi ngày mà theo Thầy” ( Lc 9, 23 ). Vác Thánh Giá để đi theo một người chứ không phải để thoả mãn tò mò về một người. Như thế, Thánh Giá không phải là một định nghĩa để hiểu biết bằng trí tuệ. Mà phải hiểu bằng lối sống. Bởi đó, kẻ không theo Ngài thì sự hiểu biết tri thức về Thánh Giá chẳng có ý nghĩa gì. Kẻ đã theo Ngài thì không cần tìm định nghĩa cho Thánh Giá. Vì đã theo Ngài thì biết Thánh Giá là gi rồi. “Về phần tôi, ước chi tôi đừng có vinh quang nơi một điều gì, trừ phi là nơi thập giá của Chúa chúng ta” ( Gl 6, 14 ).
Tôi nói với người ta về Thánh Giá. Tôi cũng nghe kẻ khác nói với tôi về Thánh Giá. Tôi nhìn Thánh Giá mỗi ngày mà đâu thấy vinh quang ? Cuộc sống vẫn đầy dẫy những trầm luân của nó. Như vậy, Thánh Giá nào mới cho tôi hy vọng ? Giữa bao nhiêu loại thập giá, Thánh Phao-lô chọn có một. Đó là thập giá của chúng ta.
Như thế, không phải thập giá nào cũng có vinh quang. Điều ấy cũng hàm ý là có nhiều thánh giá giả thì người ta sẽ hiểu được vấn đề sau đây. Vấn đề là người ta phàn nàn về Thánh Giá. Khi gặp điều bất hạnh, người ta hay nói: Đời tôi khổ quá ! Chúa gửi Thánh Giá cho tôi ! Sách Tin Mừng kể rằng Chúa bị điệu ra công trường, bị nhổ vào mặt, bị sỉ nhục, bị tát, bi đội vòng gai, bị cười. Người ta làm thập giá bắt Ngài vác đi, rồi đóng đinh Ngài trên thập giá đó ( Mc. 15, 16 – 20; Mt. 27, 27 – 31; Ga 19, 1 – 3 ). Như thế, thập giá trong ý nghĩa bất hạnh là sản phẩm của con người. Con người đã có sáng kiến chế ra thập giá để đóng đinh Chúa. Nếu thập giá là sản phẩm của con người thì phải nói con người đã gởi thập giá cho Chúa, chứ Chúa làm gì có thập giá mà gởi cho con người ?

Trích LỜI HẰNG SỐNG tháng 7.1997

-------------------------------

 

14/09-10: KỶ VẬT THÁNH GIÁ

 

Tết Trung Thu là một trong những dịp đặc biệt để người ta biếu xén quà cáp cho nhau. Không biết thói: 14/09-10


Tết Trung Thu là một trong những dịp đặc biệt để người ta biếu xén quà cáp cho nhau. Không biết thói quen tặng quà đã có từ bao giờ và văn hóa tặng quà đã hình thành ra sao ? Trong thực tế, có những món quà chỉ dừng lại ở giá trị vật chất, nhưng có nhiều món quà lại chứa đựng một giá trị tinh thần và rồi trở thành kỷ vật mang ý nghĩa đặc biệt đối với một ai đó. Lễ suy tôn Thánh Giá hôm nay nhắc nhở Ki-tô hữu chúng ta về một kỷ vật vô cùng quý giá: Thánh Giá Chúa Ki-tô. Khi nâng niu một kỷ vật người ta thường có những cảm giác thật khó tả, hôm nay Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá để được dìu sâu vào Mầu nhiệm.
Thánh Giá nhắc nhớ hoán cải
Nhìn lên Thánh Giá là nhìn lên Đức Giê-su chịu đóng đinh để thấm thía từng lời từng chữ trong tin mừng hôm nay: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một" ( Ga 3, 16 ). Cách trao ban của Thiên Chúa chẳng giống như cách thức thường tình của người ta. Người đã chọn con đường bình thường đến không ngờ để được gần gũi con người và yêu thương con người.
Một bạn trẻ tâm sự với tôi về những ký ức của thời tuổi thơ vẫn nhắc nhớ mời gọi bạn sống trong hiện tại sao cho xứng đáng: Hình ảnh của bà nội tảo tần vì con vì cháu, những cơn bệnh làm cho cha sa sút cả thể xác lẫn tinh thần, rồi những gánh nặng khó khăn trĩu trên vai me... Tất cả những hình ảnh đó khiến bạn không thể vì lý do gì mà lơ là hay quên đi trách nhiệm của mình.
Tình yêu đáp trả tình yêu là thế. Chẳng lẽ khi nhìn lên Thánh Giá, nhìn lên Đấng đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ... Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" ( Pl 2, 7 – 8 ) chúng ta lại không cảm nhận được tình yêu lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người. Chẳng lẽ tình yêu ấy không vượt xa những tình cảm gia đình ruột thịt, để rồi không chỉ mời gọi ta sống có trách nhiệm với những người thân yêu mà còn nhắc nhở ta phải biết yêu thương ngay cả địch thù. Nhìn lên Thánh Giá, ta sẽ thấy vang lên trong thâm tâm lời mời gọi của Đức Giê-su khi bắt đầu sứ vụ công khai: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" ( Mc 1, 15 ). Như thế, biết nhìn lên Thánh Giá là đã bắt đầu bước đi trên hành trình hoán cải.
Thánh Giá gọi mời hiến dâng
Trong thư gửi giáo đoàn Phi-líp-phê, Thánh Phao-lô đã chỉ ra rằng vì Đức Giê-su đã biết vâng phục đến mức hạ mình và hy sinh nên "Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu" ( Pl 2, 9 ). Cuộc Phục Sinh và lên trời vinh hiển của Người chính là hoa trái của một đời vâng phục và hiến dâng. Như thế, mỗi khi nhìn lên Thánh Giá ta sẽ học được nơi Đức Giê-su bài học vâng phục và nhất là nhận được nơi Người sức mạnh để can đảm đáp lại lời mời gọi: "Hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy" ( Lc 9, 23 ).
Dịp tĩnh tâm mừng Lễ Thánh Nữ Mô-ni-ca vừa qua tại Giáo Xứ nọ, một bà mẹ trẻ đã chia sẻ rằng Thánh Giá hằng ngày mà chị phải vác nặng tới... 70 ký, và ai cũng hiểu đó chính là ông chồng của chị. Nếu như ai cũng cứ cắm cúi vác Thánh Giá của mình thì có lẽ sẽ cảm thấy thật nặng nề, nhưng nếu mỗi người chúng ta biết nhìn lên Thánh Giá Chúa thì mọi thứ sẽ mang một ý nghĩa khác.
Tuần trước, trên báo Tuổi Trẻ có mẩu tin anh bạn trẻ Trương Quang Trung quê ở Quảng Ngãi với bảy năm bán báo để nuôi người em tên Thành ăn học và đã tốt nghiệp đại học... Và còn rất nhiều những cuộc đời âm thầm hy sinh như thế ở ngay bên cạnh ta. Thật đáng trân trọng những tấm lòng sẵn sàng hy sinh tất cả để vun đắp ước mơ không phải cho chính mình. Phải chăng họ đã biết chọn và đi theo con đường hiến dâng của Thầy Giê-su ?
Thánh Giá ban Ơn Cứu Độ
Thánh Giá Đức Giê-su dẫn dắt chúng ta đi từng bước một: từ yêu đến tin rồi hoán cải và dâng hiến. Phải tìm ở đâu nguồn sức sống và nghị lực để bước đi trên hành trình đó ? Nhìn lên Thánh Giá chúng ta thêm xác tín rằng tin vào Đức Giê-su và bước đi theo Người thì sẽ được sống muôn đời. Bởi Ơn Cứu Độ là chính Đức Ki-tô, Đấng "là con đường, là sự thật và là sự sống" ( Ga 14, 6 ). Tin yêu cuộc sống và chấp nhận hoàn cảnh theo gương Đức Giê-su không chỉ đem lại cho ta sự bình an và lạc quan trong hiện tại mà còn bảo đảm hạnh phúc đời đời như lời Người hứa: "Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" ( Ga 6, 40 ).
Như thế, Thánh Giá không phải là một thất bại đối với Đức Giê-su cũng không là điều sỉ nhục của người Ki-tô hữu, nhưng là cờ hiệu của những người chiến thắng. Chiến thắng chính mình để canh tân đời sống, chiến thắng nghịch cảnh để yêu thương phục vụ, chiến thắng thế gian để sống cho Nước Trời. Vòng hoa dành cho người chiến thắng chính là vòng hoa Cứu Độ.
Tóm lại, hoán cải là cánh cửa còn hy sinh lại là con đường đưa con người đến Ơn Cứu Độ. Đó chính là hành trình mà Thánh Giá Chúa Ki-tô dẫn ta đi vào và đưa ta đi tới. Đó chính là ý nghĩa mà kỷ vật Thánh Giá đem lại cho đời Ki-tô hữu. Chớ gì dấu Thánh Giá mà chúng ta ghi trên mình rất nhiều lần trong ngày không chỉ là lời tuyên xưng vào tình yêu tự hiến của Thiên Chúa qua Đức Giê-su mà còn là lời cam kết dâng hiến cuộc đời mình theo gương Người, đồng thời cũng là lời cầu xin cho được ơn tận hiến trên hành trình Đức Tin.

Lm. KIỀU CÔNG TÙNG

-------------------------------

 

14/09-11: TỪ THẬP GIÁ ĐẾN THÁNH GIÁ

 

Suy niệm lễ Suy tôn Thánh Giá, tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình: 14/09-11


Suy niệm lễ Suy tôn Thánh Giá, tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” ( Mc 8, 34 ). Thập giá đâu phải chuyện đùa, đâu phải cứ muốn vác là kê vai vác. Muốn vác phải bỏ mình ! Chính vì thế, lời ấy trở thành một thử thách, còn hơn thế, là một thách thức lớn trong đời ta. Từ bỏ đã khó, từ bỏ chính mình lại càng khó. Nhưng Chúa không dừng ở đó, Người mời gọi ta đi xa hơn để theo Người: Từ bỏ chính mình vác thập giá. Lời Chúa quả là một đòi hỏi quyết liệt.
Suy nghĩ về lời mời gọi “Ai muốn theo Ta...” như thế, tôi lại đọc sứ điệp Giới Trẻ lần thứ 15. Ngay từ đầu số 1 của sứ điệp, bằng những lời lẽ của một người cha đầy tình cảm, thân thiện và trìu mến, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 viết cho các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ thân mến, cách đây 15 năm ( trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ lần thứ 1 năm 1985 ), cha đã trao cho các con cây Thánh Giá lớn bằng gỗ và mời gọi các con đem đi khắp thế giới như DẤU CHỈ TÌNH YÊU của Chúa Giê-su đối với nhân loại, và để loan báo cho mọi người rằng chỉ nơi Đức Giê-su tử nạn và phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc, kể từ ngày đó, nhờ những cánh tay và những tâm hồn quảng đại, cây Thánh Giá này đã trải qua một cuộc hành hương dài không ngưng nghỉ qua các lục địa, hầu chứng tỏ rằng Thánh Giá luôn đồng hành với người trẻ và người trẻ luôn đồng hành với Thánh Giá”.
“DẤU CHỈ TÌNH YÊU” ! Đúng vậy, có hình tượng nào là biểu tượng của tình yêu lớn lao bằng Thánh Giá, có lý lẽ nào là bằng chứng hùng hồn của tình yêu cho bằng Thánh Giá. Chỉ có Thánh Giá mới là dấu chỉ tình yêu đúng nghĩa nhất, trọn vẹn nhất: Tình yêu của một người chết thay cho muôn người qua muôn thế hệ. Hơn thế nữa, tình yêu của một vì Thiên Chúa quyền năng đã làm người chết thay cho loài người.
Vì thế, chỉ có thánh giá mới là lẽ sống và hướng sống mà con người phải học lấy để sống và yêu. Cũng chính vì thế, chỉ có Thánh Giá, không chỉ cây Thánh Giá của Đức Thánh Cha trao – đúng hơn, cây Thánh Giá ấy là biểu trưng cho một tình yêu Thánh Giá mà Chúa Ki-tô thắp lên trong lòng người – mới xứng đáng được các bạn trẻ lãnh nhận và mang đi khắp thế giới, loan báo cho mọi người: “Chỉ nơi Chúa Ki-tô Thương Khó và Phục Sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc”.
Cũng vậy, chỉ có Thánh Giá Chúa Ki-tô, chỉ có tình yêu Thánh Giá Chúa Ki-tô thắp trong tâm hồn, mới đồng hành với người trẻ trên mọi nẻo đường cuộc sống, và người trẻ đồng hành với Thánh Giá để hô to trên khắp trần gian về một tình yêu Thánh Giá bằng lời và bằng đời chứng tá, thậm chí cả mạng sống để làm chứng tá. Hiểu lời Đức Thánh Cha như thế, tôi cũng muốn ngỏ với bạn dù ở lứa tuổi nào: Tình yêu Thánh Giá là một tình yêu mà chúng ta có được nhờ lãnh nhận từ nơi Chúa Ki-tô. Tình yêu ấy phải được thắp trong cuộc đời bằng cả cuộc đời của bạn, của tôi. Nếu được Thánh Giá đồng hành, can đảm chấp nhận để Thánh Giá đồng hành và cùng đồng hành với Thánh Giá, ấy chính là lúc bạn và tôi đang hướng về Chúa Ki-tô để làm trọn lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Bởi vậy, dẫu Lời Chúa là một đòi hỏi quyết liệt, và quyết liệt đến mức tưởng như vượt quá sức, thì Giáo Hội một khi lãnh nhận Lời ấy, qua vị Cha chung, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lôà, vẫn tiếp tục mời gọi ta tháp nhập thập giá cuộc đời mình vào Tình yêu của Thánh Giá Chúa Ki-tô để không chỉ Thánh Giá Chúa Ki-tô, mà chính ta từ nay phải là dấu chỉ của tình yêu Thánh Giá sau khi được tình yêu Thánh Giá Chúa Ki-tô thánh hóa.
Trở nên dấu chỉ, ta sẽ nói cho mọi người rằng: Dẫu lời mời gọi bước theo Chúa có quyết liệt đến đâu, ta vẫn có thể vượt qua, vẫn có thể trung thành, miễn là ta chấp nhận Đức Tin, chấp nhận phó thác chính mình nơi tình yêu Thánh Giá Chúa Ki-tô. Chỉ có Đức Tin mới làm cho ta đủ sức gánh lấy thập giá cả đời mình. Đức Tin chính là đôi mắt của tâm hồn để nhìn Chúa Ki-tô đi trước trên đường thập giá mà bước theo sau.
Nếu hiểu thập giá là nỗi chông chênh, là nước mắt, là bệnh tật, là đớn đau trong đời, là tình yêu vắng bóng và cô đơn, “buốt giá lên ngôi”..., thì dẫu cho người có Đức Tin hay không có Đức Tin, đều phải chấp nhận vác lấy trong từng ngày sống của mình.
Nhưng nếu tôi tin, tôi sẽ yêu mến cây thập giá của đời mình hơn. Đức Tin sẽ cho tôi cảm nhận thập giá dễ chịu hơn, vừa sức hơn. Nếu tôi tin, tôi sẽ hiểu rất rõ rằng, cùng với Chúa Ki-tô, Đấng đã dùng Thánh Giá để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, sẽ làm cho thập giá đời tôi thành Thánh Giá.
Và thập giá cuộc đời chỉ là giới hạn, sẽ được tình yêu Thánh Giá của Chúa Ki-tô thánh hóa, để những gì chỉ là giới hạn trong cuộc đời mang lấy giá trị vĩnh cửu. Khi tin vững như thế, khi yêu mến Thánh Giá Chúa Ki-tô, và chấp nhận bước theo Người như thế, thái độ chấp nhận ấy, chính là câu trả lời cho lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình...”
Tắt một lời, Khi chấp nhận đồng hành cùng Thánh Giá, là đang hướng tới lời mời gọi của Chúa: “Ai muốn theo Ta....” Nhưng khi lòng chấp nhận tin nơi tình yêu Thánh Giá và dám phó thác cho tình yêu Thánh Giá Chúa Ki-tô, để từng ngày sống ta bước đi với Người, để tình yêu Thánh Giá của Người thánh hóa thập giá đời ta, biến thập giá ấy thành Thánh Giá mang ơn cứu độ và cứu chuộc, lúc ấy ta không chỉ hướng tới lời mời gọi của Chúa nhưng là đang thực thi lời mời gọi ấy. Vì lúc ấy chính là lúc ta chấp nhận vác Thánh Giá với Người cách dứt khoát nhất. Và khi chấp nhận vác Thánh Giá như thế, cũng chính là lúc ta chấp nhận từ bỏ mình cách triệt để nhất.
Lm. VŨ XUÂN HẠNH

---------------------------------

 

14/09-12: LỄ KÍNH THÁNH GIÁ CHÚA GIÊSU

 

Chosroes, vua Batư, sau khi xâm lược Ai cập và trọn miền Phi Châu thuộc Roma, đã chiếm: 14/09-12


Chosroes, vua Batư, sau khi xâm lược Ai cập và trọn miền Phi Châu thuộc Roma, đã chiếm Giêrusalem, giết hàng ngàn người Kitô hữu và chuyển về vương quốc của ông gia sản quí báu nhất là Thánh giá thật mà thánh nữ Hêlôna tìm lại được và đăt trên núi Canvê. Dầu vậy Chostòes đã tỏ lòng tôn kính đặc biệt cây thánh giá này. Ông không dám nhìn cây thánh giá để trần, cũng không cho tháo gỡ bao che mà thánh nữ Hêlena đã học. Dân Batư cùng chung một niềm kính sợ. Họ nói rằng: Thiên Chúa của người Kitô hữu đã tới với quê hương họ và không nên chọc giận Ngài.
Hoàng đế Hêrachiô đã tới vương quốc hai lần để cầu hòa với vua Chosròes. Nhưng nhà vua Batư  đã ngạo mạn đưa ra điều kiện cho các vị đặc sứ:
- “Trước hết nhà vua các ngươi phải từ bỏ đức Kitô và thờ lạy mặt trời như chúng tôi. Sau đó chúng tôi sẽ hoà hoãn với ông ta”.
Thái độ trịch thượng này đã làm cho các Kitô hữu phải kinh ngạc. Hoàng đế nổi giận, Ngài nói với các sĩ quan rằng: mình sẽ đổ tới giọt máu cuối cùng để trả thù cho tội phạm sự thánh này. Hàng giáo sĩ các tu viện và mỗi Kitô hữu đều rộng tay góp của giúp hoàng đế thực hiện cuộc thánh chiến. Một đạo binh được thành lập nhanh chóng. Sau khi cầu khẩn sự trợ giúp của trời cao, Ngài đã vào Batư và ba lần bắt Chosròes phải tẩu thoát. Nhưng kẻ bại trận thay vì nghĩ tới chuyện cầu hòa, lại đưa người con thứ là Medarsèr lên ngôi. Người con trưởng của ông là Siròes nổi giận đã âm mưu sát hại em lẫn cha mình. Bắt được họ đang trên đường tẩu thoát, hắn bèn thực hiện ý định, Chorròes bị hốt tù và chết đói sau khi phải chứng kiến tận mắt Mêdarsèr cùng với các con bị thắt cổ chết.
 Siròes chiếm giữ ngai vàng Ba Tư và xin cầu hoà với Hoàng đế Hêrachiô. Hoàng đế ưng thuận với điều kiện là hắn phải trả lại thập giá và phóng thích các Kitô hữu bị bắt làm nô lệ.
Thánh giá thật đã được tìm lại sau 14 năm rơi vào tay người Ba Tư. Hoàng đế trở về Constantinople cùng với thánh tích. Toàn dân cam đuốc sáng và nhành Ô-lui đi đón thánh giá. Muà xuân năm sau, hoàng đế Hêrachiô đích thân đáp tàu đi đặt di sản quí báu trở lại chỗ cũ. Tới Giêrusalem, Ngài vác thánh giá trên vai tiến tới nhà thờ trên đồi Canvê. Một phép lạ lẫy lừng thánh hóa biến cố này. Trong khi hoàng đế đang tiến lên giữa bầu khí thinh lặng đầy cung kính, bỗng Ngài cảm thấy không thể tiến tới được nữa. Ngài bày tỏ nỗi kinh ngạc với thượng tế Jachatia bên cạnh. Vị giáo phụ trả lời:
- “Thưa hoàng thượng, Ngài mặc cẩm bào trong khi Chúa Giêsu ăn mặc khó nghèo rảo qua các đường phố của thành này để tiến tới lễ hy sinh. Người đã đội mão gai mà đầu hoàng thượng lại đội triều thiên sang trọng. Người đi chân không còn hoàng thượng chân xỏ giầy.
Cảm động vì những lời này, hoàng đế Hêrachiô đã biết được sự thật và cởi bỏ mọi đồ trang sức sang trọng đi chân không. Từ đó, Ngài đã dễ dàng đi hết con đường và đặt thánh gía vào chỗ người Batư đã lấy đi.
Còn nhiều phép lạ nữa chúng minh sức mạnh của gỗ thánh giá. Nhưng chính biến cố kể trên đã là đối tượng của lễ kính thánh giá Chúa Kitô.

-------------------------------

 

14/09-13: DẤU THÁNH GIÁ

 

Câu truyện dưới đây được thuật lại bởi một người lính đã từng tham gia vào cuộc chiến tranh Nam: 14/09-13


Câu truyện dưới đây được thuật lại bởi một người lính đã từng tham gia vào cuộc chiến tranh Nam Bắc tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ ( 1861 – 1865 ), một cuộc chiến giằng dai và làm chết hại biết bao người anh em trong cùng một nước, vốn dĩ cũng cùng là các Ki-tô hữu.
Hôm ấy, tại một tiền đồn nơi hỏa tuyến, như mọi ngày, các đội lính canh phòng đều được nghiêm lệnh từ cấp chỉ huy cho phép bắn chết ngay những ai khả nghi muốn vượt qua lằn ranh phân đôi hai phe mà lại không nói đúng được mật lệnh đã quy định riêng cho từng ngày.
Vào lúc nửa đêm, có một bóng đen xuất hiện, lính trong đồn quát hỏi ngay: “Ai đó ?” Người lạ rụt rè trả lời: “Một người bạn, một người anh em !” Lính canh lại hỏi tiếp mật lệnh là gì, người ấy lung túng: “Không, tôi nào có biết câu mật khẩu nào, tôi vừa vượt tuyến thoát khỏi phía bên kia để xin đầu hàng phía các anh bên này, tôi không muốn tiếp tục bắn giết chính anh em của mình nữa mà thôi !”
Người lính canh vốn có lòng nhân hậu nhưng lại hết sức tuân thủ nghiêm lệnh, anh bèn bảo nạn nhân: “Đã có lệnh phải bắn bỏ ngay những ai không biết mật lệnh. Một là anh quay trở lại bên kia, hai là anh chỉ còn có nước sửa soạn dọn mình chờ chết thôi ! Lạy Chúa, xin Ngài hãy cứu anh ta nếu anh ta là một người lương thiện...”
Người lạ mặt nghe vậy thì đành tuyệt vọng, quỳ ngay xuống bên chiến hào, đưa tay run run làm Dấu Thánh Giá để sẵn sàng chờ đợi viên đạn oan nghiệt sẽ kết liễu mạng sống...
Điều bất ngờ xảy ra là, anh lính canh khi thấy thế thì vội buông súng, nhảy qua hàng rào kẽm gai, chạy đến dìu người lính đối phương đứng dậy rồi lại kéo anh ta chạy thật nhanh về chiến tuyến của mình. Anh lính vắn tắt giải thích cho người vừa thoát chết: “Lạy Chúa tôi, may quá, anh có ngờ được không ? Mật lệnh ngày hôm nay chỉ huy chúng tôi đã ban hành chính là... làm Dấu Thánh Giá !”

Trích NỐI LỬA CHO ĐỜI số 2

---------------------------------

 

14/09-14: Kính Thánh Giá Chúa Giêsu


Ga 3,13-17

* lịch sử

 

Lễ Suy Tôn Thánh Giá hôm nay bắt nguồn từ Giêrusalem. Ngày 3.9.335 người ta long trọng: 14/09-14


Lễ Suy Tôn Thánh Giá hôm nay bắt nguồn từ Giêrusalem.
Ngày 3.9.335 người ta long trọng cung hiến đại thánh đường ANASTASIS do hoàng đế Constantin ra lệnh cho xây trên mồ của Chúa Giêsu. Ngày 13.9 cũng là ngày kỷ niệm tìm được Thánh Giá thật. Ngày 14.9, một ngày sau cuộc thánh hiến thánh đường mới để cho dân chúng lần đầu tiên đến tôn thờ, kính viếng.
Sau này, người ta liên kết thánh lễ này với việc hoàng đế Heraclius chiếm lại được thánh giá thật vào năm 628 ; trong một trận chiến, người Ba Tư theo Hồi Giáo đã chiến thắng và lấy đi cây Thánh Giá này. Hera clius phải chiến đấu cật lực để đem Thánh Giá trả về chỗ cũ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Bài Tin Mừng nói đến con rắn đồng thời sa mạc. Con rắn đồng ấy là hình ảnh tiên trưng cho chính Chúa Giêsu là Đấng sẽ được treo lên Thập giá. Ai tin vào Ngài và ngước nhìn lên Ngài thì sẽ được cứu độ.
Ý tưởng chính của Lời Chúa hôm nay là: tội lỗi của con người - lòng nhân từ của Thiên Chúa - Thiên Chúa dùng những phương tiện (mà cao quý nhất là chính Chúa Giêsu) để tha thứ và cứu độ loài người.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu mời Nicôđêmô và chúng ta nhìn lên Thánh giá. Nhìn lên Thánh giá, chúng ta sẽ thấy gì ? Thấy tội lỗi của chúng ta ; thấy tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa ; và nếu cái nhìn của chúng ta thấm đượm lòng sám hối, tin tưởng và mến yêu thì chúng ta sẽ được ơn cứu độ.
2. Hình con rắn đồng đã được loài người dùng làm biểu tượng cho ngành Dược. Ngày xưa trong sa mạc, con rắn đồng đã cứu dân Israel khỏi chết thì ngày nay các dược phẩm cũng cứu loài người khỏi nhiều thứ bệnh tật. Nhưng con rắn đồng ngày xưa và những dược phẩm ngày nay cũng chỉ là một chút bóng mờ của chính Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Chúa Giêsu trên thập giá mới là linh dược chữa trị mọi thứ bệnh tật và cái chết của linh hồn. Khi ta bệnh, ta tìm thuốc uống. Khi linh hồn ta bệnh, ta có tìm đến thập giá Chúa Giêsu không ?
3. Kỹ sư Frank Denton được giao nhiệm vụ thiết kế những bộ y phục đặc biệt cho những nhà phi hành vũ trụ. Một trong những phần quan trọng nhất của mỗi bộ y phục này là một ống dây cung cấp dưỡng khí cho các nhà phi hành. Khi thiết kế xong ông đặt tên cho 2 bộ y phục của 2 phi hành gia ấy, một là J 3.16 và bộ kia là J 3,17. Đó chính là 2 câu trong bài Tin Mừng hôm nay: Ga 3,16 là “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Còn Ga 3,17 là “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Ý của nhà thiết kế này là cầu mong cho cuộc du hành vũ trụ của các phi hành gia được an toàn nhờ sự che chở của Chúa: cũng như những bộ y phục đặc biệt cung cấp dưỡng khí rất cần thiết để giúp các nhà phi hành có thể đi từ vệ tinh mẹ đến vệ tinh con thế nào, thì Chúa Giêsu cũng rất quan trọng và cần thiết để giúp mỗi người chúng ta đi từ đất lên đến trời (Kể theo Mark Link, Sunday homilies, Year B).
4. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16)
Đã nhiều lần con ngước nhìn Thập giá, để rồi thấy hiện diện một Tình yêu. Nhưng tận sâu thẳm tâm hồn, vẫn chẳng cảm nhận Tình yêu ấy dành cho con, vì chưa nhận ra tình yêu ấy chính là bao giọt mồ hôi của cha, sự dịu hiền chăm sóc của mẹ, mối quan tâm của thầy của bạn, và tình thương của bao người xung quanh.
Lạy Chúa là Đấng yêu thương, xin cho con biết mỗi nghĩa cử yêu thương con làm đều có giá trị thánh hóa con và mọi người, để tiếp tục qua con, mọi người nhận ra Tình yêu Chúa (Hosanna)

5. Mầm khác:

-------------------------------

 

14/09-15: Lễ Suy Tôn Thánh Giá


Ngày 14.9: Lễ Suy Tôn Thánh Giá

"Con Người phải bị giương cao lên…" Jn 3:14

 

Hình ảnh ‘Thập Giá’ chúng ta thấy khắp đó dây….. từ nhà thờ đến nhà riêng… Chúng ta còn thấy những thánh: 14/09-15


Hình ảnh ‘Thập Giá’ chúng ta thấy khắp đó dây….. từ nhà thờ đến nhà riêng… Chúng ta còn thấy những thánh giá ở những nơi công cộng như Đài Tưởng Niệm, Các Trường Công Giáo, Bệnh Viện Công Giáo và trong các phòng ốc của những nơi nầy… cho đến những Nghĩa Trang... Đó là chưa kể đến những thánh giá đắt tiền mà người ta mua và mang nơi cổ hay cài trên túi áo…

Ngoài ra trên các đuờng phố, xa lộ, thỉnh thoảng chúng ta thấy những thánh giá với những cành bông xung quanh như nhắc nhớ người lái xe hay kẻ qua lại nơi đây tai nạn đã xảy ra….

Có lẽ Thánh Giá luôn theo gắn liền với con người cho đến một lúc nào đó người ta sẽ đặt cây thánh giá nhỏ trong lồng bàn tay của chúng ta hay trên cỗ quan khi chúng ta lìa đời. Dù tin hay không tin vào Thiên Chúa, thánh giá luôn xuất hiện đó đây…

Qua cái chết trên Thập Tự Chúa Giêsu đã kéo ’Nhân Loại’ lên cùng Ngài. Qua những Thánh Giá chúng ta thấy khắp đó đây có phải là biểu tượng của sự ‘hy sinh’ cao cả của Chúa Giêsu không? Hay Thập Giá với cái nhìn của chúng ta chỉ là những dụng cụ để trang trí nhà cửa, phòng ốc hay trang sức nơi chính mình?

Lời Nguyện:

Lạy Chúa xin cho những thánh giá chúng con mang hay trang sức trên con người luôn nhắc nhở chúng con sống chứng nhân can trường cho Sự Chết và Phục Sinh của Chúa. Xin cho thánh giá cứu độ của Chúa là sức hút, có thể lôi kéo nhân loại, qua trung gian của mỗi Kitô hữu, đến nguồn ơn cứu rỗi là sự sống vĩnh cửu muôn đời.

LM Francis Lý Văn Ca

-------------------------------

 

14/09-16:: Lễ Kính Tôn Vinh Thánh Giá.


Ngày 14 tháng 9: Lễ Kính Tôn Vinh Thánh Giá.

VietCatholic News (14/09/2004 )

 

Thánh Nữ Hoàng Helena, mẹ của Hoàng đế Constantin, đã quả quyết là đã tìm được cây Thánh Giá: 14/09-16


Thánh Nữ Hoàng Helena, mẹ của Hoàng đế Constantin, đã quả quyết là đã tìm được cây Thánh Giá thật mà Chúa đã bị đóng đinh trên đồi Calvary ở Jerusalem. Với sự trợ giúp của người con Hoàng đế, một ngôi thánh đường đồ sộ được xây trên đồi Calvary. Ngôi thánh đường này được cung hiến là “Thánh Đường Phục Sinh” vào ngày 14 tháng 9 năm 335. Bởi vậy ngày này được chọn làm ngày lễ “Tôn Vinh Thánh Giá” mà nghi lễ bao gồm việc trưng bày thánh tích của Thánh giá thật. Việc trưng bày này nói lên sự vinh quang tột đỉnh của Thánh Gía bởi vì nhờ Thánh giá này mà sự sống đã chiến thắng được sự chết.

Lễ tôn vinh Thánh Giá được sùng kính tại Constantinople vào đầu thế kỷ thứ bảy vì khi quân Hồi giáo Persia đánh chiếm thành Jerusalem và đã mang chiếc Thánh Giá thật về xứ như một chiến lợi phẩm. Thời gian sau Hoàng đế Heraclius đã đánh thắng quân Persia và đã mang Thánh Giá về Constantinople thay vì về Jerusalem. Từ đó ngày lễ này được phổ biến trong Giáo Hội và gổ của cây Thánh Giá được chiết ra để phân phát cho các Giáo Hội khắp nơi trên hoàn cầu tôn kính.

Báo tin về việc chịu chết trên cây Thánh Giá, Chúa Giêsu ban cho chúng ta một bảo đảm chắc chắn về sự sống đời đời: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.”(Ga 12,32)
Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác

-------------------------------

 

14/09-17: Quyển Sách Cao Siêu Nhất


VietCatholic News (14/09/2004 )

 

Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống: 14/09-17


Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.

Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa.

Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: "Ðây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận".

Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Ðây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng".

Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Ðức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái".

Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu". Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...

Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.

Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

-------------------------------

 

14/09-18: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ


Jn 3,13-17

 

Năm 1825 một trận bão lớn đã xảy ra tại thành phố Macao, nhà thờ Chánh tòa nguy nga nhìn: 14/09-18


Năm 1825 một trận bão lớn đã xảy ra tại thành phố Macao, nhà thờ Chánh tòa nguy nga nhìn xuống hải cảng được người Bồ Đào Nha xây cất đã bị trận bão làm đổ nát hoang tàn. Tuy nhiên, như một phép lạ, mặt tiền của ngôi thánh đường vẫn còn nguyên vẹn và cây Thánh giá bằng đồng vẫn còn đứng vững. Khi ông John Browin toàn quyền Hồng công đến thăm viếng cảnh tượng, ông phải sửng sốt khi nhận ra điều đó. Tối hôm ấy,  ông đã ghi lại những dòng sau đây: "Tôi được vinh dự trông thấy Thập giá Chúa ki tô, Thập giá vẫn đứng vững qua mọi đỗ vỡ của thời gian. tất cả ánh sáng của lịch sử đều qui tụ nơi Thập giá vinh quang " . Đã gần hai ngàn năm qua , kể từ khi lính Lamã cưỡng bách Chúa Giêsu vác Thập giả của Ngài đi xuyên qua con đường chật hẹp ở Jerusalem. Khi Ngài vấp ngã, họ đã cưỡng bách một người qua đường vác đỡ Thánh giá của Ngài để tiến tới một nơi gọi là Núi sọ . Thập giá ấy đã trở thành biểu tượng của một tôn giáo có hơn một tỷ rưỡi tín đồ: có mặt trên 220 xứ sở và lãnh thổ trên khắp mặt đất này. Dựa theo những dữ kiện được ghi lại trong sách Tin mừng, Bác sĩ Wiham Esworì tại bệnh viện Midio bên Hoa kỳ đã nghiên cứu về hình phạt Thập giá. Ong ghi nhận rằng cho dẫu người Lamã không phát minh ra hình phạt Thập giá, họ cũng đã hoàn bị nó thà nh một hình thức tra tấn xử tử có sức tạo ra một cái chết chậm rãi đớn đau nhất.  Thập giá vốn vẫn là cách thức xử tử dã man nhất dành cho người nô lệ ngoại quốc và các nhà cách mạng cũng như những người phạm tội ác. Luật Lamã thường bảo vệ người công dân của họ khỏi bị treo trên Thập giá, thật ra  tử hình Thập giá đã được người Assiry đã dùng vào thế kỷ VII trước Công nguyên. Nhưng hình phạt này chỉ đạt tới sự dã man tột cùng của nó do sáng kiến của người La mã mà thôi. Nạn nhân bị đóng đinh treo trên Thập giá thường chết vì nghẹt thở, đây hẳn phải là cách xử tử dã man nhất trong nhân loại. Thế nhưng, kỳ diệu thay Thiên Chúa đã biến Thập giá thành biểu tượng tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Hôm nay 14.9.1999, lễ Suy Tôn Thánh giá, chúng ta được mời gọi ôn lại ý nghĩa ấy nơi cái chết của chua Giêsu trên Thập giá. Thời các Tông đồ người Do thái cho rằng rao giảng Thập giá là điều chướng kỳ , còn người Hy Lạp lại cho đó là một thứ ngu xuẩn. Ngày nay,  dĩ nhiên không có hình phạt nào để cho con người đáng ca tụng. Nếu con người bị treo lên Thập giá, mặc dù con người đó là một tội nhân khủng khiếp cách mấy đi nữa, thì hình phạt đó vẫn là một hành động dã man đi ngược lại nhân tính con người. Thập giá và muôn vàn hình thức tinh vi khác của thập giá vẫn còn tiếp tục áp dụng cho người đồng loại của mình thì đó là một hành động dã man. Trong ý nghĩa ấy,  Thập giá Chúa Kitô là tuyệt đỉnh và là nơi qui tụ của mọi Thập giá mà loài người phải gánh chịu về sự độc ác của người đồng loại mình nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, chính sự độc ác dã man của hình phạt Thập giá mà khi đón nhận Thập giá ấy,  Chúa Giêsu đón nhận để thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người. Chỉ có tình yêu mới có thể là ý nghĩa của sự hy sinh và hy sinh cho đến cùng của con người. Thập giá là biểu tượng đặc thù của Kitô giáo, bởi vì Kitô giáo là đạo của tình yêu. Suy tôn Thập giá không có nghĩa là đề cao một hình phạt hay để vui thỏa một cách bệnh hoạn ở trong khổ đau vật chất, mà chính là ca ngợi tình yêu của Đấng đã hy sinh vì người mình yêu. Nơi Thập giá không những tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện  một cách trọn vẹn, cũng nơi Thập giá chân lý về con người. được tỏ bày một cách trong sáng nhất.  Con người chỉ có thể  là người, nghĩa là chỉ có thể sống cho ra người khi hiến  thân hy sinh vô vị lợi mà thôi.  Thập giá là chân lý của chúng ta, Thập giá là lẽ khôn ngoan củ a chúng ta, Thập giá là lẽ sống của chủng ta, Thập giá là sức mạnh của chúng ta. Nguyện xin Chúa hướng dẫn  chúng ta đi trên con đường Thập giá của Ngài. Amen:

---------------------------------

 

14/09-19: CON ĐƯỜNG SỐNG


Lễ Suy Tôn Thánh Giá

Ds 21:4b-9
Ga 3:13-17
Pl 2:6-11

 

Ai cũng muốn sống hạnh phúc.  Bởi thế con người cố chiếm hữu càng nhiều càng tốt.  Càng: 14/09-19


Ai cũng muốn sống hạnh phúc.  Bởi thế con người cố chiếm hữu càng nhiều càng tốt.  Càng vinh thân phì da, càng hạnh phúc.  Thực tế hạnh phúc vẫn ngoài tầm tay.  Chính vì thế, hôm nay Đức Giêsu muốn mạc khải một con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực cho toàn thể nhân loại.
Dân Do thái đã trải qua những giây phúc kinh hoàng khi “Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân.  Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ítraen phải chết.” (Ds 21:6)  Trong cơn bấn loạn đó, họ chỉ muốn trở về cuộc sống hạnh phúc bình thường.  Nhưng làm sao hạnh phúc nếu không được cứu  ?  Bởi vậy, họ đến năn nỉ ông Môsê: “Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi.” (Ds 21:7)    Hạnh phúc đã trở về với họ khi Đức Chúa truyền cho ông “làm một con rắn và treo lên cây cột.  Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” (Ds 21:8)
Con rắn đã trở thành dấu chỉ cứu độ.  Nhờ dấu chỉ đó dân Chúa đã được cứu sống.  Nhưng đó mới chỉ là dấu chỉ.  Nguồn ơn cứu độ toàn thể nhân loại chỉ có thể tìm thấy nơi Đức Giêsu Kitô.  Thực vậy, “như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3:14-15)  Người Do thái không bao giờ tin con rắn có sức cứu thoát.  Con rắn chỉ giúp họ hướng mắt nhìn lên tới Chúa mà thôi.
Khác với con rắn, chính Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ.  Người là thực tại đã được dấu chỉ từ thời Môsê tiên báo.  Con rắn chỉ thu hút ánh mắt những người Do Thái lâm nạn.  Còn Đức Giêsu lôi kéo mọi người lên với Chúa (x. Ga 12:32).  Nhờ đó họ đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên chúa và anh em đồng loại.  Thánh giá Người tượng trưng cho cuộc kết hiệp hoàn toàn với Đức Kitô. 
Suốt Tân Ước, biết bao nhiêu đoạn nói về cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.  Tất cả chỉ vì Thiên Chúa quá yêu thương nhân loại.  Đức Giêsu đã chọn một lối chết nhục nhã nhất  (1 Cr 1:18, 23; Dt 12:2), hầu cứu con người khỏi thứ lề luật bị nguyền rủa (Gl 3:10-13).   Càng khắt khe, lề luật càng bất lực.  Hơn nữa, thánh giá còn trở thành khí cụ giải thoát con người khỏi nô lệ thế gian và tội lỗi (Rm 6:6) và phương thế giúp họ canh tân chính mình (Gl 3:1; 6:14).  Nhờ thánh giá, chúng ta trở nên những tạo vật mới, con người mới, thừa kế Nước Trời với Con Thiên Chúa làm người (Gl 6:15-16).  Bởi đấy, nhờ Đức giêsu, thánh giá trở thành phương tiện hòa giải nhân loại sa ngã và tội lỗi với Thiên Chúa chí thánh (Ep 2:16; Clù 1:20; 2:14).
Sau cùng, Thánh giá là một biến cố huyền nhiệm tượng trưng toàn thể công cuộc cứu độ của Đức Kitô và việc công bố ơn cứu độ cho toàn thế giới.  Nhờ khổ giá, Đức Giêsu đã hoàn thành toàn thể công trình cứu độ của Giavê trong Cựu ước.  Đó là lối sống trọn tình trọn nghĩa Con Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.  Thánh giá là điểm then chốt trong lịch sử, vì toàn thể lịch sử nhân loại xưa nay tìm được ý nghĩa (New Catholic Encyclopedia 2003:391).  Nếu không có Đức Giêsu chết trên Thánh giá, khổ giá mỗi người sẽ trở thành vô nghĩa.  Bể khổ sẽ là nơi đầy đọa con người mà thôi.
Trái lại, ai tin vào Đấng chịu đóng đinh, Thánh giá sẽ là con đường dẫn tới vinh quang.  Quả thực, “ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3:15)  Tin vào Người sẽ không chìm ngập trong bể khổ.  Vì tình yêu Thiên Chúa là sức mạnh đem lại sự sống cho trần gian.  Đúng vậy, “Thiên chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3:16)  Làm sao có thể tin nổi một con người chết trần trụi trên khổ giá lại là nguồn sống cho toàn thể vũ trụ ?  Nhưng nếu tin Thiên Chúa, không thể không nhớ tới lời ngôn sứ Isaia nói về người đầy tớ đau khổ đã thí mạng sống làm của lễ đền tội.  Người đầy tớ đó đến thế gian “không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10:45)  Cái chết của Đức Giêsu là một sự tự nguyện hi sinh mạng sống một cách anh hùng cho muôn người được cứu độ (Ga 10:17-18; 18:4-8; 19:11; Pl 2:8).   Như thế, việc tôn vinh Đức giêsu trên Thánh giá nhắc lại thần học về người tôi tớ Thiên Chúa trong ngôn sứ Isaia 52:13; 53:11-12.
Theo thánh Gioan và Phaolô, Đức Giêsu hi sinh để trở thành hiến tế vượt qua (1 Cr 5:7), một hiến tế khiến Đức Giêsu trở về với Chúa Cha và mở đường cho tội nhân cải tà qui chính.  Hành trình cứu độ từ trần giới về với Chúa Cha (Ga 13:1) ngang qua cái chết, sự phục sinh và thăng thiên ngay vào lúc mừng lễ Vượt qua của người Do thái, vì năm đó Người là chiên vượt qua đích thực (Ga 19:33-36).
Cái chết của Đức Giêsu làm thành một hiến tế giao ước (x. Stk 15; Xh 24:8; Mc 14:24).  Nhờ đó, Người đem về cho Chúa Cha một dân mới tẩy sạch trong máu Người, hiệp nhất với Thiên chúa thành anh em ruột thịt với Người.  Khi chịu đóng đinh Đức Giêsu đã đổ máu đào không phải để Thiên chúa nguôi cơn giận, nhưng để phục hồi địa vị làm con Thiên Chúa cho con người.  Như thế, nhờ Thánh giá, một gia đình đã được thành lập.  Trong đó, Thiên chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau.  Cảnh đoàn tụ đẹp như mơ.  Tất cả đều nhờ sức mạnh cây Thánh giá.
Hơn nữa, Đức Giêsu đã thiết lập được một vương quốc trong Máu Người (Tt 2:14).  Như vị vua Thiên sai, Đức giêsu bắt đầu cai trị cả vũ trụ từ ngai vàng thánh giá.  Người đã bị quân lính chế diễu là vua (Ga 19:2-3).  Với một thái độ đầy tính cách biểu tượng, Philatô đã tôn phong Người làm vua trên trên toàn dân (Ga 19:13-15).  Người đã tuyên bố quyền vua đích thực trước mặt ông. (Ga 18:33-38).  Người bị đóng đinh dưới tước hiệu là vua vũ trụ (Ga 19:19-20)
Tóm lại, trên đỉnh đồi Canvê, Đức Giêsu đã xuất hiện như người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, linh mục thượng phẩm trở về với Chúa Cha trong hiến tế vượt qua, trung gian giao ước mới, vua thiên sai cai trị khắp vương quốc tư tế là Giáo hội.

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP

---------------------------------

 

14/09-20:  THÁNH GIÁ ĐEM LẠI ƠN CỨU ĐỘ


1. KHÔNG AI ĐÃ LÊN TRỜI, NGOẠI TRỪ ĐẤNG TỪ TRỜI XUỐNG

 

Chữ “trơi” xuất hiện rất nhiều lần trong tất cả các sách Kinh Thánh. Nó chỉ một thực tại căn bản của: 14/09-20


Chữ “trơi” xuất hiện rất nhiều lần trong tất cả các sách Kinh Thánh. Nó chỉ một thực tại căn bản của tôn giáo, của đời sống tâm linh. Nhưng “trời” là gì ? Bình thường, người ta hay nghĩ trời là không gian bao la vô tận, trong đó chứa hàng tỷ tỷ tinh tú hay thiên thể như mặt trời, trái đất, trăng sao. Nghĩ như vậy thì hoàn toàn không sai, vì đó là nghĩa chính, nghĩa đen, nghĩa vật chất của chữ “trời’”. Nhưng “trời” thường được nói đến trong Kinh Thánh không có ý nghĩa vật chất như vậy. Chữ “trời” với ý nghĩa vật chất chỉ là dấu chỉ, là hình ảnh tượng trưng cho một cảnh giới tâm linh tuy vô hình đối với con mắt vật chất của con người, nhưng lại có thật, thậm chí còn thật hơn cả thế giới vật chất này nữa.
Thế giới vật chất này tuy kéo dài hàng tỉ năm, nhưng vẫn là một cái gì hữu hạn cả về không gian lẫn thời gian: trải rộng trong một khoảng không gian nào đó nhất định, có thời điểm sinh ra và có thời điểm bị tiêu diệt. Khi đã bị tiêu diệt, thì sự hiện hữu của nó chỉ tương tự như một hình bóng, một giấc mơ thoảng qua, tương tự như hiện nay ta nghĩ về sự hiện hữu của những ngôi sao đã tắt, hay những nền văn minh cổ đại mà người ta khám phá được những di tích của chúng dưới lòng đất. Chúng hiện hữu mà có vẻ như không hiện hữu, chẳng khác bao nhiêu so với những giấc mơ trong đêm !
Cảnh giới tâm linh là cảnh giới của Thiên Chúa, của các thiên thần, mà những người có đời sống tâm linh phát triển có thể cảm nghiệm được phần nào, chẳng hạn các nhà thần bí như Phao-lô ( x. 2 Cr 12, 2 ), Gio-an Thánh Giá, Tê-rê-xa Avila, Meister Eckhart, hay các Ki-tô hữu thánh thiện khác. Đó là cảnh giới của sự sống vĩnh cửu mà Thánh Phao-lô mô tả: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” ( 1 Cr 2, 9 ). Người bình thường không hề có một kinh nghiệm nào về cảnh giới này, cũng chẳng có thể tưởng tượng ra được, vì nó vượt ra khỏi tất cả mọi khả năng tưởng tượng của con người, tương tự như một người mù bẩm sinh không thể có một quan niệm hay tưởng tượng nào đúng đắn về màu sắc và ánh sáng. Cảnh giới này tồn tại muôn đời, nó hoàn toàn không liên quan gì với không gian hay thời gian mà chúng ta thường quan niệm. Nói theo triết lý Ấn-độ, nó nhỏ đến nỗi một hạt bụi cũng đủ chứa nó trọn vẹn, nhưng nó cũng lớn đến nỗi cả vũ trụ bao la này cũng không chứa nổi nó. Đức Giê-su “về trời” hay “thăng thiên” là trở về với cảnh giới tâm linh này, nơi Ngài đã từ đó mà đến.
Cảnh giới tâm linh sâu thẳm và vô tận này không ở đâu xa, nó hiện diện ngay trong tâm hồn chúng ta, nhưng nếu không có đời sống tâm linh sâu xa, chúng ta chẳng hề cảm nghiệm được. Ba Ngôi Thiên Chúa, Đức Giê-su hiện diện thật sự trong cảnh giới này. Theo lời Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay, thì Ngài là người duy nhất đã từ cảnh giới tâm linh này đến với con người. Và Ngài đến trần gian này là để giúp chúng ta khám phá, thưởng nếm và dẫn chúng ta vào sống trong cảnh giới tâm linh bất diệt này. Chỉ khi nào khám phá và thưởng nếm cảnh giới tâm linh này, con người mới giải thoát được mọi đau khổ, mới cảm nghiệm được thế nào là hạnh phúc chân thật, thứ hạnh phúc không ai có thể lấy mất được.
2. CON NGƯỜI PHẢI ĐƯỢC GIƯƠNG CAO...
Để giúp con người đi vào đời sống tâm linh, là đời sống của Thiên Chúa, hay sự sống đời đời, thì Đức Giê-su phải “được giương cao”, tương tự như con rắn đồng ở trong sa mạc thời Mô-sê, khi được giương cao lên, ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó thì được chữa lành. Hình ảnh con rắn đồng được giương cao quả là đầy ý nghĩa. Tình trạng bị rắn cắn đau đớn và có thể chết người tượng trưng cho sự đau khổ tột cùng của con người.
Thiên Chúa đã lấy ngay hình con rắn để trị bệnh rắn cắn, nghĩa là lấy chính đau khổ để diệt đau khổ: đó là một hình thức “dĩ độc trị độc”. Khi con rắn “được giương cao” thì nó trị được sự đau đớn do rắn cắn, điều đó có nghĩa là khi người ta hiểu được giá trị của đau khổ, khiến họ tự nguyện chấp nhận đau khổ, thì sự chấp nhận đó có thể tiêu diệt được đau khổ, chẳng những cho mình, mà cho cả người khác. Việc con rắn “được giương cao”, theo cách hiểu truyền thống, là hình ảnh Đức Giê-su bị treo lên cao khỏi mặt đất, hay bị treo trên thập giá, nghĩa là Ngài đã tự nguyện chấp nhận sự đau khổ cùng tột của con người. Nhờ đó, Ngài đem lại ơn cứu độ hay sự giải thoát khỏi đau khổ cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Đây là một bài học về một định luật trong cuộc sống: Đau khổ của con người có thể được hóa giải bằng chính việc vui lòng hay tự nguyện chấp nhận tất cả những đau khổ xảy đến với mình.
Thật vậy, khi ta không còn sợ hãi đau khổ, mà sẵn sàng vui vẻ đón nhận khi nó đến với mình, thì nó bỗng mất đi hoặc bớt đi khả năng gây đau khổ. Trái lại, càng sợ đau khổ, càng muốn tránh né nó, thì nó lại càng tăng khả năng gây khổ hơn. Chính vì thế, kinh nghiệm dân gian về định luật này được tóm lại trong câu: “Ghét của nào, Trời trao của nấy”: càng ghét đau khổ, thì càng hấp dẫn đau khổ đến với mình. Về hạnh phúc cũng có phần tương tự như vậy. Càng quan tâm tới hạnh phúc của mình, càng khao khát tìm hạnh phúc, thì hạnh phúc dường như càng xa khỏi tầm tay của mình. Càng không nghĩ tới nó, không quan tâm tới nó, thì dường như nó càng dễ đến gần mình hơn, và vào trong tầm tay của mình.
Đau khổ và hạnh phúc là cái gì liên quan rất mật thiết với “cái tôi” của ta. Càng coi “cái tôi” của mình là quan trọng, càng quan tâm hay chú ý tới nó, thì càng nhạy cảm với đau khổ, càng dễ đau khổ, càng thấy bị “mất mình”, “vong thân”. Trái lại, càng coi “cái tôi” của mình không là gì cả, càng ít quan tâm tới nó, thì càng dễ cảm nhận được hạnh phúc. Đây quả là một nghịch lý của sự sống.
Càng sống ích kỷ, càng chỉ nghĩ đến mình, ta càng đánh mất mình, càng thấy cuộc đời là vô nghĩa, và càng đau khổ. Trái lại, càng quên mình, nhất là càng sống vị tha, ta càng thấy cuộc sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Đức Giê-su có nói về nghịch lý này: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” ( Ga 12, 25 ). Còn Thánh Phan-xi-cô Khó Khăn thì nói: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” ( Kinh Hòa Bình ).
Vui lòng hay tự nguyện chấp nhận đau khổ, mất mát, thiệt thòi, nhục nhã là một hình thức xả kỷ, quên mình, “tự hủy”, đó là một hình thức “được giương cao”, “được treo lên”. Đây chính là con đường dẫn đến giải thoát mà Đức Giê-su đã chỉ cho chúng ta, và Ngài đã làm gương cho chúng ta: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” ( Pl 2, 6 – 8 ).
Như vậy, Ngài đã lấy chính đau khổ của mình để diệt đau khổ cho nhân loại, lấy sự tự hạ mình để nâng con người lên, lấy cái chết của mình để đem lại sự sống cho con người. Thánh Phê-rô viết: “Vì Người mang vào mình những vết thương mà anh em được chữa lành” ( 1 Pr 2, 24 ). Đó là cách Ngài diệt đau khổ và đem lại hạnh phúc cho chúng ta.
3. …ĐỂ AI TIN VÀO NGƯỜI THÌ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI
Bài Tin Mừng viết: “Con Người phải được giương cao, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời». “Được giương cao” ở đây có nghĩa là “được treo lên”, là tự nguyện chịu đau khổ và chết. Ngài đau khổ để con người hạnh phúc. Ngài chết để con người được sống. Nhưng thực ra, con người vẫn đang đau khổ và vẫn chết về mặt tâm linh. Con người chỉ hưởng được ích lợi của sự đau khổ và sự chết của Ngài khi họ tin vào Ngài. Tin vào Ngài nghĩa là gì ? Chắc chắn không phải chỉ là sự tuyên bố chấp nhận Ngài là Con Thiên Chúa hay là Đấng Cứu Độ, mà là một thái độ sống chứng tỏ mình chấp nhận điều ấy.
Tin rằng Ngài đã đau khổ và đã chết để đem lại ơn cứu độ hay hạnh phúc và sự sống cho nhân loại, nghĩa là tin rằng cách Ngài làm là cách tốt nhất để đem lại hạnh phúc và sự sống cho mình và mọi người. Nếu thật sự tin như thế, ta sẽ áp dụng cách đó vào trong đời sống của mình, nghĩa là sẵn sàng chấp nhận mọi đau khổ xảy đến, sống xả kỷ, quên mình, để nhờ đó chẳng những chính ta được hạnh phúc và còn đem lại hạnh phúc cho người khác nữa. Đó cũng chính là cách để đi vào cảnh giới tâm linh vĩnh cửu, vào sự sống đời đời mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài.
Lạy Cha, Đức Giê-su đã dùng đau khổ để giải phóng nhân loại khỏi đau khổ, đã quên đi hạnh phúc của chính bản thân để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Nếu Ngài đã dùng cách đó, ắt đó phải là cách tối ưu và khôn ngoan nhất để giải thoát khỏi đau khổ và đem lại hạnh phúc. Do đó, nếu con tin Đức Giê-su, ắt con cũng phải bắt chước Ngài sử dụng cách đó để tự giải thoát khỏi đau khổ và tìm đến hạnh phúc, đời này cũng như đời sau.

Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT

---------------------------------

 

14/09-21: MẦU NHIỆM THẬP GIÁ 


CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN - LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ

 

 Thánh Gioan trình bày mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể bằng một cặp song đối về chuyển động lên-: 14/09-21


Thánh Gioan trình bày mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể bằng một cặp song đối về chuyển động lên-xuống: “Không ai đã lên trời, ngọai trừ Con Người, Đấng từ trời xuống ”(Ga  3, 13), theo một phương thức vẫn thường thấy trong Tin Mừng thứ bốn (Ánh sáng- bóng tối/ Thần Khí- xác thịt/ Trời cao- thế gian/ Tình yêu- thù hận/ Tin- không tin…). Khi sử dụng hình thức này, tác giả vừa muốn nhấn mạnh một chủ đề vừa mời gọi mỗi người phải có một chọn lựa. Và chọn lựa này quyết định số phận đời đời của họ.
Hình ảnh lên-xuống cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Người nối kết trời và đất; Người xuống trần gian để dẫn đưa con người lên với Chúa Cha; Người giao hòa giữa con người và Thiên Chúa. Người nắm giữ tất cả hiểu biết về trời cao để thông đạt cho con người. Hình ảnh lên cao được gợi lên bằng câu chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước (Ds 21, 8- 9). Khi được đưa lên cao trên thập giá cũng chính là lúc Chúa Giêsu được tôn vinh và trở thành suối nguồn của ơn cứu chuộc ban xuống cho con người. Chính trong ý nghĩa này mà Chúa Giêsu nói tiếp: “Phần tôi, một khi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12, 32).
Thánh Phaolô đã khai triển một chủ đề suy tư sâu xa về thập giá. Ngài rao giảng về thập giá như là “sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1, 23- 24). Sự khôn ngoan thể hiện ở việc Chúa dùng thập giá, một nghịch lí đối với thế gian, để mặc khải về Thiên Chúa: Thiên Chúa Tình Yêu, Thiên Chúa Tự Hủy. Tiếp tục đào sâu ý nghĩa cứu độ từ thập giá, thánh Phaolô cũng nói tới chiều đi lên và chiều đi xuống của mặc khải thập giá trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (c. 9) “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (c.8).
Suy tôn Thánh giá Chúa, chúng ta cùng cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được tham dự vào mầu nhiệm tình yêu của Chúa. Trong mầu nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của những đau khổ nữa, nhưng mang một ý nghĩa mới vì được kết hợp với thập giá Chúa Kitô.
Cầu nguyện: Muôn lạy Chúa Kitô, chúng con tôn thờ và chúc tụng Chúa, đã dùng cây thập giá mà cứu chuộc trần gian.
Gợi ý chia sẻ:
- Ý nghĩa lên-xuống trong trình thuật Tin mừng có những gợi ý nào cho việc sống đức tin của bạn?
- Điều gì trong Tin Mừng đánh động bạn nhất?

   Lm. Giuse Ngô Quang Trung, Long Xuyên.

---------------------------------

 

14/09-22:  Học yêu Thánh Giá


Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Tình cờ tôi nghe bài hát "học yêu Thánh Giá", từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia. 14/09-22


Tình cờ tôi nghe bài hát "học yêu Thánh Giá", từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia.
Lời ca ngắn gọn mà sâu sắc, giai điệu nhẹ nhàng cho tôi cảm nhận sâu lắng về tình yêu Thánh Giá Chúa Giêsu.
“Thánh Giá là chữ T.
Người nằm giang tay chữ Y.
Là tình yêu, yêu đến tận cùng.
Yêu nhân gian chiều ngang.
Yêu đời mình chiều sâu.
Yêu Chúa là chiều cao.
Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu”.

Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng.
Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y. Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống. Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha "đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô "Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa" ( Pl 2,6-11).
Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi "con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh".
Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat 6,14 để hân hoan hát lên: "Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta".
Kinh Tiền Tụng đã chú giải: "Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con".
Thánh Bonaventura viết: "Thánh Giá là cây tòan hảo, được thánh hóa bởi Máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon". Cây Thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ, hoa trái tràn đầy trong lời trong kinh 'A Rất Thánh Giá': "Khen cây thánh giá ở giữa rừng phàm, nên giống báu lành, nên cây sang trọng, nên đơn linh nghiệm, nên tàu vượt qua biển hiểm thế nầy....Cây thánh giá tốt lành rất mực dìm dà êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình. Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả. Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa Cả đóng đinh trên cây thánh giá".
Tại bãi biển Copacabana tối thứ sáu 26-7-2013 đi Đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giảng Thập giá là: "Một tình yêu tuyệt vời khi đi vào tội lỗi của chúng ta và tha thứ cho nó, đi vào đau khổ của chúng ta và cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng. Đó là một tình yêu đi vào cái chết để chiến thắng nó và cứu vớt chúng ta. Thập giá của Chúa Kitô chất chứa tất cả tình yêu của Thiên Chúa, lòng thương xót vô biên của Ngài. Đây là một tình yêu mà chúng ta có thể đặt vào đó tất cả niềm tin của chúng ta, nơi chúng ta có thể tin tưởng. Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, chúng ta hãy phó thác vào Người một cách trọn vẹn! (x. Ánh Sáng Đức Tin, 16). Chỉ trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta mới có thể tìm thấy phần rỗi và ơn cứu độ. Với Ngài, sự dữ sự đau khổ và cái chết không còn quyền thế, bởi vì Ngài cho chúng ta hy vọng và sự sống: Ngài đã biến Thập giá từ một công cụ của sự thù ghét, sự thất bại và sự chết thành một dấu chứng của tình yêu, sự khải hoàn và sự sống".
Đức Thánh Cha nhắc lại sự kiện vào cuối Năm Thánh Cứu Độ 1984, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã muốn tín thác Thập Giá Chúa cho người trẻ và ngài nói: "Các con hãy đem Thánh Giá vào trong thế giới như dấu chỉ tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ nơi Chúa Kitô chết và phục sinh, mới có sự cứu rỗi và ơn cứu độ" (Diễn văn với giới trẻ, 22 tháng 4 năm 1984). Kể từ đó, Thập Giá đã rong ruổi qua mọi đại lục, và đi qua các thế giới khác nhau nhất của cuộc sống con người, hầu như được thấm nhập bởi các tình trạng sống của biết bao nhiêu người trẻ đã trông thấy và đã mang Thập Giá đó. Không có ai đụng tới Thập Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính mình, và không đem một cái gì đó của Thập Giá Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của mình.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì "Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người" (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.Thánh Phaolô có một ước muốn: "Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô" (Gl 6,14).
Chúa Giêsu chết trên thập giá, muốn minh chứng rằng Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Nơi thập giá,Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là một tình yêu ở dạng thức cao nhất:Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình Yêu tự hiến trọn vẹn của Thiên Chúa. Yêu là hiến tế, là hy sinh chính mình. Hiến dâng chính mình vì thiện ích của kẻ khác. Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như là sự đền bù vì ơn cứu độ nhân loại.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúng ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.

---------------------------------

 

14/09-23: CHÓP ĐỈNH CỦA SỰ ĐAU KHỔ!


P. Trần Đình Phan Tiến
Kính thưa quý vị!

 

Suy tư về Thánh giá là suy tư về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu KITÔ, Con Thiên Chúa làm Người. Vì: 14/09-23


Suy tư về Thánh giá là suy tư về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu KITÔ, Con Thiên Chúa làm Người. Vì thế, không ai có thể suy cùng, hiểu tận một mầu nhiệm quá lớn lao đối với nhân loại, là mầu nhiệm Thập giá.
Vâng! Bản thân Thập giá không có gì để suy tôn, nhưng chúng ta suy tôn về một mầu nhiệm của đau khổ, nơi đó Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại. Tại sao Thiên Chúa lại muốn cứu độ con người qua mầu nhiệm Thập giá ? Thưa, chúng ta hãy so sánh hai vấn đề: ĐAU KHỔ và TÌNH YÊU.
Tình yêu càng lớn, đau khổ càng nhiều. Đó là quy luật, mà từ khi biết có tình yêu , người ta đã biết điều nầy. Bởi vì khi yêu, người ta mới đủ nghị lực cũng như can đảm để gánh lấy đau khổ. Còn nếu thiếu hương vị của tình yêu, người ta không thể gánh lấy đau khổ đến cùng.
Vâng! Với ý nghĩa đó, con người đôi lúc rất sợ "yêu", bởi vì giá trị của tình yêu gắn liền với đau khổ. Nhưng khởi nguyên, Thiên Chúa không tạo ra đau khổ, đau khổ chỉ có mặt khi có sự đối nghịch với Thiên Chúa. Như vậy, cho thấy, đau khổ là hệ lụy của sự chống lại Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu được Thiên Chúa là sự hoan lạc vô biên, vì tận cùng của sự sống không phải là đau khổ. Như vậy, có mâu thuẫn khi nói: "Thiên Chúa là tình yêu"? Thưa hoàn toàn không. Bởi vì , nơi Thiên Chúa không có sự đau khổ, vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống. Đau khổ chỉ gắn liền với cái chết, chết tâm linh và chết thân xác.
Như vậy, vấn đề cứ quẩn quanh, lúc thì nói: Tình yêu gắn liền với đau khổ. Lúc thì nói: Đau khổ gắn liền với cái chết. Và người ta thường nói: "Chỉ có cái chết mới hết khổ". Như vậy, hệ lụy của đau khổ chỉ có nơi thân xác?! Còn linh hồn thì sao?! Thưa, linh hồn chính là bảo tồn của sự sống. Ai cũng biết, sự sống nơi thế gian không là vĩnh cửu. Vậy sự sống vĩnh cửu ở đâu, nếu như không ở nơi có Thiên Chúa hiện hữu? Nhưng: "Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người , Đấng từ trời mà xuống" (Ga 3,13). Như vậy, vấn đề nằm ở nơi: "Đấng từ trời mà xuống".
"Đấng từ trời mà xuống" đã gánh lấy đau khổ cho nhân loại. Như vậy, tình yêu được nối kết và hiện hữu giữa nhân loại, nhờ "Đấng từ trời mà xuống". Nên chi, chúng ta nói: "Thập giá là nơi tình yêu ngự trị", bởi vì Thập giá không còn đơn thuần là nơi biểu thị sự đau khổ đơn phương. Mà là nơi đã có "Tình yêu" đồng hành. Vì đau khổ và nhục nhã nơi Thập giá đã được Thiên Chúa đóng ấn bởi Người Con Một của Thiên Chúa là đấng cứu chuộc Giêsu-Kitô. Vì: "Như ông Môi-sen đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy" (c 14). Để làm gì? Thưa , "để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (c15).
Từ đó, tình yêu được gắn kết với đau khổ, vì tình yêu đã tự nguyện gánh lấy đau khổ. Đau khổ không chỉ là án phạt của nhân loại, mà là nơi đó tình yêu đã song hành. Như vậy, Thập giá là nơi sự chết đã được "đóng đinh" nhân danh Đấng từ trời mà xuống. Đồng nghĩa, mọi sự khổ đau của nhân loại cũng được đóng đinh vào Thập giá, khi chúng ta nhìn lên Đấng đã được đóng đinh, được treo lên, được đâm thâu, chúng ta tin vào Người thì chúng ta được cứu độ.
Tình yêu và đau khổ không còn mâu thuẫn với nhau nữa, mà là đã song hành với nhau. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đã biểu lộ rõ ràng tình yêu của Ngài cho nhân loại. Chúa Giêsu không còn mãi trên Thập giá với sự chết của nhân loại. Nhưng từ đó, Người đã biểu dương quyền sống của Thiên Chúa và Đấng là Con Thiên Chúa cho mọi kẻ tin vào Người.
Như vậy, có thể nói tình yêu và đau khổ đã được Đấng từ trời mà xuống quân bình bởi sự hóa giải của Người. Từ đó , chúng ta nhận thấy rằng: Chóp đỉnh của Đau khổ chính là Thập giá. Nhưng Thiên Chúa đã dạy cho chúng ta rằng: Đau khổ của Thập gía sinh ra hoa trái, vì nơi đó không còn là sự trừng phạt của Thiên Chúa, mà là nơi đó tình yêu của Thiên Chúa đã biểu lộ và chuẩn nhận.
Con Rắn Đồng ngày xưa là biểu tượng của sự tha thứ của Thiên Chúa, nó chỉ là một vật tượng trưng về lòng xót thương của Thiên Chúa, chứ nó không phải là linh vật, nó không có sức mạnh cứu độ, nó chỉ nhờ vào Lời phán dạy Thiên Chúa mà thôi!
Nhưng Đấng từ trời mà xuống được giương lên trên Thập giá thì tất cả nhân loại được "cứu", từ đó Thập giá và sự đau khổ của nó không còn là sự đau khổ đơn thuần, mà là nơi tình y6eu ngự trị. Vì vậy, nơi đó được gọi là THÁNH GIÁ nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian. Chúng ta hãy đến mà thờ lạy.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Amen./.

---------------------------------

 

14/09-24: Ba cuộc đời - ba cách chết


Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

 

Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá: 14/09-24


Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giê-su ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?
Trước hết đó là Thầy Giê-su, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian. Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: "yêu thương và phục vụ" cho người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại "mọi sự đã hoàn tất" và nói cùng Chúa Cha "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha".
Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: "Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi". Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giê-su, anh chỉ mơ ước Thầy Giê-su nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.
Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giê-su, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.
Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời. Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường. Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen./.

-------------------------------

 

14/09-25: Vinh Quang Thánh Giá


Nữ tu Maria-Madalena Phạm Thị Huy, OP

 

Hôm nay Hội thánh cử hành lễ Suy tôn Thánh Giá. Thánh Anrê, giám mục Cơrêta, nói với chúng ta: 14/09-25


Hôm nay Hội thánh cử hành lễ Suy tôn Thánh Giá. Thánh Anrê, giám mục Cơrêta, nói với chúng ta về lý do mừng lễ này: "Chúng ta mừng lễ Thánh Giá và cùng với Đấng chịu đóng đinh, chúng ta được đưa lên cao". (Bài đọc 2, Kinh Sách).
Vì sao chúng ta mừng lễ Thánh giá và bởi đâu, chúng ta được đưa lên cao?
Nơi Thánh giá, Hội thánh gẫm suy và chiêm ngắm mầu nhiệm cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện qua việc Chúa Con nhập thể. Trên thập giá, Người Con đã đi đến tận cùng thân phận con người trong sự vâng phục Thánh Ý Cha một cách toàn vẹn. Để bởi cái chết cứu độ và sự phục sinh vinh hiển của ngài, Người Con ấy, Đức Giêsu Kitô, đền tạ sự công bình của Thiên Chúa Cha và bày tỏ tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa Cha cho con người. Trên Thánh giá, Đức Giêsu Kitô giang rộng đôi tay ôm lấy cả trần gian tội lụy này và đưa kiếp người hèn mọn của chúng ta vào trong cung lòng của Thiên Chúa Cha trong một đời sống mới.
Quả vậy, Lời Chúa nói với chúng ta hôm nay:
Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người, thì được sống muôn đời. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ" (Ga 3:13-17).
Thánh Giá vừa là sự đau khổ nhưng cũng là chiến tích của Thiên Chúa. Vì chính từ Thánh Giá, nguồn ơn cứu độ được ban cho chúng ta. Thập giá đã chiến thắng thần chết, chiến thắng địa ngục. Nhưng nhìn ở một góc độ, thì thập giá quả là một nỗi kinh hoàng khiến chúng ta sợ hãi. Nỗi kinh hoàng mà chúng ta vẫn gặp đó đây trên hành trình cuộc đời: đau khổ, tội lỗi, sự ác, bất công, tàn bạo và tận cùng là cái chết. Tấm thân trần trụi của Đấng treo trên thập giá mãi mãi hằn sâu những dấu tích ấy. Nếu không nhìn bằng đôi mắt đức tin, đâu dễ gì để thấy nơi thập giá ấy, dấu tích một Thiên Chúa yêu thương, yêu đến cùng đồng thời cũng là lời tố cáo tội lỗi một cách mạnh mẽ nhất. Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI nói với chúng ta:
Hãy nhìn sâu hơn nữa vào dấu chỉ này (Thánh giá), đẩy mạnh ta hướng cái nhìn đến sự nguy hiểm cũng như mọi việc làm cực kỳ tàn ác mà con người có thể gây ra. Đồng thời, thánh giá khiến ta nhìn lên Thiên Chúa, Đấng mạnh mẽ hơn, mạnh mẽ trong chính sự yếu hèn của Người, và ta thấy mình được Thiên Chúa yêu thương. (Từng ngày với Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô, ngày 1-4 tháng 9)
Lạy Chúa, từng ngày, rất nhiều lần chúng con làm dấu Thánh Giá như lời tuyên xưng vào mầu nhiệm Thánh Giá. Xin cho chúng con, nhất là những khi gặp đau khổ, càng thấu hiểu sâu xa mầu nhiệm cứu độ của Chúa trên cuộc đời chúng con. Và khi mang dấu Thánh Giá trên mình, chúng con biết để cho Thiên Chúa hiển thị qua đời sống trong sạch tránh xa tội lỗi, một lối sống can trường nhưng khiêm tốn, một cách sống liên đới, quảng đại, trung thành dấn bước trong yêu thương.

-------------------------------

 

14/09-26: LỜI MỜI KHÓ


Anmai, CSsR

"Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo" (Lc 9, 23)

 

Ở đời ! Có chăng người ta sẽ hăng hái bước đi theo ai đó, đi tìm điều gì đó nhẹ nhàng và thênh thang, êm: 14/09-26


Ở đời ! Có chăng người ta sẽ hăng hái bước đi theo ai đó, đi tìm điều gì đó nhẹ nhàng và thênh thang, êm ái và dịu chàng chứ chẳng ai đời lại muốn đi tìm cái khổ, cái khó cả.
Thoạt đầu, xem ra lời mời gọi khó nghe và nghịch lý nhưng ở khi đối diện với thực tại của cuộc đời, ai cũng có cây thập giá của đời mình. Và nếu như ai vui lòng vác những đau khổ, những vất vả thì đến cuối cuộc đời, đến cuối chặng đường sẽ cảm thấy lòng thanh thản và được hưởng vinh quang cùng với Đấng đã vui lòng vâng phục Chúa Cha.
Thập giá, từ xưa đó chính là dấu chỉ, là biểu tượng, là hình ảnh, là dụng cụ để người ta thi hành án tử cho tên tử tội. Với Chúa Giêsu cũng vậy, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi cây thập giá khi thi hành án. Án tử người ta dành cho Chúa Giêsu cũng chỉ vì cái tội kiêu ngạo. Cũng vì loại trừ, vì khước từ một Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Độ trần gian cho nhân loại, những người Do Thái thời Chúa Giêsu đã tìm đủ mọi cách để khử trừ Đấng đó ra khỏi cuộc đời này khi có dịp.
Cái tội kiêu ngạo đẩy con người vào con đường chết đó không phải có vào thời Chúa Giêsu nhưng nó đã có từ khi con người xuất hiện. Chính ông bà nguyên tổ đã đẩy Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình vì tưởng rằng sau khi ăn trái cấm như lời con rắn dữ mời gọi họ sẽ hơn Thiên Chúa.
Vẫn là cái tội kiêu ngạo không chấp nhận thân phận thụ tạo của mình.
Trong cái thân phận là thụ tạo, điều chính yếu, điều căn cốt nhất mà con người phải nhận ra đó chính là mình chẳng là gì cả, tất cả là nhờ Chúa và bởi Chúa. Khi ý thức như vậy, con người sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và thanh thản. Và ngược lại, khi con người không nhận ra căn cốt của đời mình thì con người sẽ nổi loạn để rồi lại bất phục tùng và cảm thấy mệt mỏi khi phải vác thập giá của đời mình.
Trong dòng chảy lịch sử cứu độ, những khuôn mặt, nhưng hình ảnh của những con người đau khổ vẫn còn đó như là bài học cho những ai bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Những khuôn mặt đó, nhìn thấy quả là đau khổ bởi lẽ không còn gì đau khổ hơn nhưng những người đó vẫn đi theo Chúa cho đến cùng.
Khuôn mặt sáng, khuôn mặt đẹp mà ta nhìn ngắm phải chăng là khuôn mặt của ông Giob. Đọc lại cuộc đời của ông. Nỗi đau tột cùng của ông sẽ không đau lắm khi ông là người bình thường mà lại rơi vào cảnh mất mát, đau thương cả tinh thần lẫn thể xác. Nỗi đau càng giày vò ông khi cuộc đời của ông đang sống trong vinh quang, trong phú quý và có thể nói là đỉnh, là điều mà nhiều người mơ ước với cái cơ nghiệp, con đàn cháu đống cùng với đàn súc vật thật đông. Nỗi đau sâu hoẵm đó nó khoét đời ông và thử thách niềm tin của ông khi những người bạn đến thách thức ông. Đau hơn nữa đó chính là lời phỉ báng, lời kém tin của người vợ của ông. Nhưng, trong những thử thách đó, lòng ông vẫn đơn thành: "Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về lòng đất cũng trần truồng. Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Người muốn sao nên vậy: xin chúc tụng danh Chúa. Mình biết đón nhận ơn lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?" (G 1,21 ; 2,10b)
Lịch sử lại cứ trôi và cuộc đời vẫn chảy. Ta lại bắt gặp hình ảnh của người môn đệ đã hoàn thành cách xuất sắc khi bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá.
Nhìn, nghe, đọc những trang giấy trong sách Thánh, ta sẽ thấy những đau khổ của người môn đệ đau khổ đến tột cùng là Đức Trinh Nữ Maria. Thấy thôi chứ không cảm được đau khổ mà Mẹ phải chịu.
Thập giá ập đến ngay cuộc đời của Mẹ khi Mẹ nhận lời sứ thần truyền là mang thai Đấng Cứu Độ. Sẽ bị ném đá theo luật Do Thái ngay khi người ta truy tầm ra rằng thiếu nữ Maria không có chồng mà lại có mang. Thoát được án tử sau khi Giuse nhận Mẹ về làm vợ. Cuộc đời đâu êm ả như bao người suy và bao nhiêu người nghĩ. Tưởng chừng một màu hồng tươi đẹp trải suốt trên cuộc đời của Mẹ nhưng đâu được như thế ! Đau khổ cứ như cuộn, cứ như ôm lấy cuộc đời của Mẹ. Đau khổ đó cuộc vào đời Mẹ cho đến tận cùng đó chính là đỉnh đồi Canvê. Không còn nỗi nhục và nỗi đau nào cho bằng con mình vô tội lại chịu chết treo cùng với hai người có tội. Vô cớ, oan khiên nhưng đành phải chấp nhận bởi lòng người gian ác.
Mẹ đã thưa hai tiếng xin vâng cho đến cuối cuộc đời.
Và sẽ là một thiếu sót lớn hay nói cách khác là sẽ vô nghĩa khi không chiêm ngắm con người chịu treo trên thập giá để mang lại ơn cứu độ cho con người. Ơn cứu độ cho nhân loại khởi nguồn từ con người đã hoàn toàn vâng phục chịu chết treo trên thập giá như người mang trọng tội.
Thư gửi tín hữu Philip đã diễn tả:
"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)

Chúa Giêsu, dù ở cái địa vị vinh quang nhưng lại trút bỏ và vâng phục và chết một cách nhục nhã. Còn ta, ta là ai mà ta lại tưởng mình thế này thế kia để ta lại muốn một lần nữa treo Chúa Giêsu - Đấng Cứu Độ trần gian - trên thập giá.
Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi,
Ngài phán bảo: "Hỡi người trần thế, trở về cát bụi đi !"
Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi !
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.
Lạy Chúa, xin trở lại ! Ngài đợi đến bao giờ ?
Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây. (Tv 89,3-4.5-6.12)
Lời mời gọi bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá mãi mãi vẫn là lời mời gọi luôn luôn mới và giá trị trên cuộc đời của ta. Lời mời gọi đó quả là khó chứ không phải dễ dàng bước theo. Khi và chỉ khi ta nhìn nhận thật phận tôi đòi của chúng ta, thân phận thụ tạo của chúng ta thì khi ấy chúng ta lại nhẹ nhàng và thanh thản để đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi. Và, khi vâng phục đến tột đỉnh vác thập giá đời mình thì dĩ nhiên ta cũng sẽ được hưởng phần phúc cứu độ mà Đấng Cứu Độ trần gian bị treo trên thập giá đã hứa ban cho những ai ngày mỗi ngày bước đi theo Ngài.
 

14/09-27: Một nhà thông thái nằm mơ

Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên: 14/09-27

Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.
Phải, Thánh Giá là chữ hay nhất gồm tóm những bài học hay nhất, của một dòng chữ hay nhất, của một trang hay nhất, của một cuốn sách hay nhất. Vậy Thánh Giá là gì? Chắc chắn ta không nhìn và giải thích về mặt thể lý: 2 thanh gỗ, sắt, đồng, chì, vàng, bạc đóng vào nhau thành hình chữ thập, dù có gắn ảnh chuộc tội hay không.
Thánh Giá là tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.
Trước hết, Thánh Giá là tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: "Tình yêu Thiên Chúa cốt tại điều này là không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước nhưng chính là Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa biểu hiện qua việc Ngài đã sai Con Một Ngài vào trong thế gian để làm của lễ đền tội chúng ta". Như thế, tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu nhưng không, vô vị lợi. Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta tốt hay vì Ngài cần chúng ta, nhưng chỉ vì Chúa tốt lành vô song. Tiên tri Giêrêmia đã nói rất cảm động: "Ta đã yêu con bằng tình yêu muôn đời, bởi thế Ta đã giữ bền ân nghĩa với con" (Giêrêmia 31,3). Thánh Augustin cũng nói: "Nguồn nước có được lợi gì khi kẻ khát nước đến uống ở đó, mặt trời có lợi gì khi con mắt được ánh sáng chiếu tới". Nhà thần học Don Scot dòng Phanxicô, vào thế kỷ 14 còn nói mạnh hơn: "Giả thiết loài người không phạm tội thì vì yêu ta Chúa cũng có thể làm người và chịu nạn chịu chết". Giả thiết vậy để kích thích ta thêm lòng đạo đức, đào sâu thêm huyền nhiệm tình yêu, chứ thực tế loài người đã phạm tội và Chúa đã sai con Ngài xuống thế gian thật để cứu chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài, mà cao điểm là cuộc khổ nạn và chết trên thập giá. Trước một tình yêu cao cả và vô vị lợi như thế sao ta lại dễ thất vọng chán nản mỗi khi gặp thử thách? Là con cái Chúa, là tu sỹ, nhất là tu sỹ Mến Thánh Giá lại ngã lòng mỗi khi Chúa muốn chúng ta chia sẻ Thánh Giá với Ngài? Phải chăng ta còn quá ích kỷ trong việc mến yêu Chúa? Ta yêu Ngài chỉ vì ta cần đến Ngài chẳng khác gì coi Ngài như cái vòi nước, khi cần thì đến vặn dùng, xong lại đóng sập lại ngay. Một nhà mục sư Tin Lành giảng về câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: 2 gia đình, 1 Công giáo, 1 Tin lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có 5 người con, ông bà Tin lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo: Cả 2 ta cùng thờ một Chúa Giavê, một Chúa Kitô, tuy là 2 Hội Thánh nhưng chúng ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu, còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi 1 cô hoặc 1 cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.
- Con cả là một cậu trai tuấn tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.
- Con thứ là một cô gái xinh đẹp đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lại cho đi đứa con chỉ vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.
- Con thứ ba là cậu trai tàn tật, què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con tàn tật, làm sao coi được.
- Con thứ tư là một cô thiếu nữ 10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nụ cười, cả dáng đi đều giống hệt như bà.
- Con thứ 5 là cậu trai út, 4 tuổi, suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả
Nhà mục sư cao giọng: Con người thân thiết nhau đến thế mà người có 5 con không thể cho ông bạn 1 đứa. Thế mà Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có 1 người con vô cùng quý hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ mà cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.
Chúng ta nghĩ sao về tình yêu Chúa đối với ta và tình mến ta với Chúa. Lạy Chúa, xin tha thứ cho nỗi vong ân bội nghĩa của chúng con!
Cũng vì thế mà đứng trước Thánh Giá chúng con vẫn không một chút mủi lòng. Vì không cảm hết được tình yêu Chúa đã tự triệt tiêu mình vì chúng con. Chúng con mang Thánh Giá trong mình mà chúng con lại mau mắn xua đuổi Thánh Giá đi xa dù chỉ là một Thánh Giá nhỏ nhẹ - một chút nhức đầu sổ mũi, một lời nói đùa cợt, một sự góp ý xây dựng đã đủ làm con phản ứng gay gắt, đỏ mày đỏ mặt, cử chỉ thô bạo, lắm lúc còn ấm ức tìm cách báo thù.
Ôi thật là lạ lùng! Thế mà con còn dám hãnh diện vì mình là người yêu Thánh Giá. Lạy Chúa, nghĩ lại chúng con thật đáng xấu hổ thẹn thùng. Thật đáng Chúa quở trách: Bọn này thờ ta bằng môi bằng miệng. Chúng con thật đáng liệt vào hạng ngoại giáo, thu thuế và bọn Biệt phái trong Phúc Âm.
Cũng vì không cảm hết được tình Chúa yêu con đến triệt tiêu mình cho con, nên con thường mắc bệnh chủ quan và luôn nhìn và phóng đại đau khổ mình mà không biết nhìn đến những thánh giá kẻ khác. Đau khổ mình thì dùng kính hiển vi mà phóng đại để tủi thân, để phàn nàn, để than trách. Còn đau khổ kẻ khác thì lại coi nhẹ, cho là việc nhà giàu đứt tay, không đáng kể. Ôi thật là ích kỷ! Sao con không nhìn lên Thánh Giá với những đau khổ dữ dằn hồn xác của Chúa đã gánh chịu cho con và cho tha nhân con. Tự hào là những người yêu Thánh Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha nhân? Thánh Têrêxa Avila thì nói: "Hoặc đau khổ hoặc chết". Thánh Mađalêna de Passi: "Không chết nhưng xin đau khổ mãi mãi". Thánh Rosa Lima: "Lấy vòng gai có mũi nhọn đội lên đầu, vác cây khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo 2 tay lên khổ giá để kết hợp với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa. Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì lạikhiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng môi bằng miệng. Nhà văn Montalenebat viết trong cuốn "Các đan sỹ Phơng Tây" miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi xuống đất. Ở đó tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi. Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi, nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cái đinh màu xám, những vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa. Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc - Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao? Lạy Chúa, xin cho con can đảm như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó./.

ĐGM. Phaolô Maria Cao Đình Thuyên

-------------------------------

 

14/09-28: Một biến cố hết sức quan trọng

 

Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành vào hôm nay 14/9 hằng năm nhắc nhở cho ta một biến cố hết: 14/09-28


Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành vào hôm nay 14/9 hằng năm nhắc nhở cho ta một biến cố hết sức quan trọng. Đó là biến cố Đức Giêsu, Chúa chúng ta, bị treo trên cây thập tự như một tội nhân bị án tử. Nhưng tội nhân đó đã không bị khuất phục trước cái chết nhục nhã đó, mà từ cõi chết Ngài đã sống lại vinh quang toàn thắng. Như vậy, suy tôn Thánh Giá không phải là đề cao một hình phạt hay để vui thỏa một cách bệnh hoạn trong các đau khổ vật chất, mà là ca ngợi tình yêu vô biên của Đấng đã hy sinh vì người mình yêu. Nơi Thánh Giá không những tình yêu Thiên Chúa được thể hiện một cách trọn vẹn. Cũng nơi Thánh Giá chân lý về con người được tỏ bày một cách trong sáng nhất, vì con người chỉ là con người và chỉ có thể sống cho ra người khi họ biết hiến thân vô vị lợi. Nhưng ý nghĩa đó đã dần dần lu mờ đi trong đời sống người Kitô hữu. Thay vì nhìn Thánh Giá như một dấu hiệu, như một ngọn cờ bách chiến bách thắng để giúp mình can đảm hiến thân hy sinh theo gương Chúa Giêsu, để cứu rỗi thế gian, để giải phóng đồng loại, chúng ta lại thường biến Thánh Giá, như đồ trang sức, đồ trang trí phòng ốc để trang điểm con người.
Ta nên nhớ Giáo Hội thiết lập lễ Suy Tôn Thánh Giá không những chỉ là để biểu lộ lòng tôn kính đối với cây gỗ đã được hạnh phúc mang thân xác Con Chúa trong ngày cuối đời, cây gỗ đã được sử dụng làm phương tiện để cứu rỗi nhân loại, mà còn để chúng ta biết Thánh Giá chính là biểu tượng của lòng tin. Tin ở một đường hướng, một giải pháp. Đường hướng đó chính Chúa Kitô đã tự chọn để cứu độ, để giải phóng chúng ta. Đướng hướng đó, giải pháp đó chính là bước đi qua hy sinh gian khổ, đi qua Thánh Giá để rồi đến sự sống lại, sự toàn thắng.
Như thế, mầu nhiệm Thánh Giá là một mầu nhiệm cơ bản. Công đồng Vatican II đã đề cập đến trong nhiều bản văn, nhất là trong Hiến chế Tông Đồ Giáo Dân. Công đồng nói: Những kẻ có lòng tin như thế hy vọng sẽ được Chúa mạc khải cho như Chúa đã thương mạc khải cho con cái Ngài, nhờ lòng trí họ luôn tưởng nhớ đến Thánh Giá và sự Phục Sinh của Đức Kitô (số 15).
Kitô hữu là những kẻ tin ở Chúa, mong mỏi được làm như Chúa, được hưởng như Chúa Kitô. Vậy thì tất nhiên họ cũng phải luôn cắm mắt vào Thánh Giá của Chúa như một mục tiêu, một đường hướng. Muốn sống lại như Ngài, muốn thành công như Ngài, muốn vinh quang như Ngài, họ phải kinh qua Thánh Giá, phải chấp nhận hy sinh gian khổ như Ngài. Thánh Matthêu viết: Con Người sẽ bị nộp trong tay người ta, họ sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mt 17, 22).
Là mầu nhiệm cơ bản, nhưng mầu nhiệm Thánh Giá không đi một mình. Nó luôn đi kèm theo mầu nhiệm Phục Sinh. Đường Thánh Giá không chỉ dừng lại ở chặng 14 - chôn xác Chúa. Chôn xác của Chúa không phải là chặng cuối cùng mà chính là sự sống lại, lên Trời của Ngài.
Người Kitô hữu đã tin vào Chúa, vào mầu nhiệm Thánh Giá, vào mầu nhiệm Phục Sinh, vì thế đáng lý họ phải là những kẻ dám hy sinh, dám dấn thân hơn ai hết. Bởi vì đã tin chắc kinh qua hy sinh gian khổ, thì nhất định sẽ đi đến toàn thắng, đến vinh quang. Người Kitô hữu mà không dám chấp nhận hy sinh để xây dựng Nước Trời, để xây dựng xã hội thì đó chỉ là người mang danh Kitô hữu thôi, chứ chưa phải là môn đệ thật của Chúa Giêsu Kitô, chưa phải là kẻ được đổi mới và có khả năng đổi mới.
Nói người rồi nghĩ đến ta: Là những người mang danh hiệu Tu sỹ Mến Thánh Giá, chúng ta đã thực sự có một tầm nhìn đúng về mình chưa? Chúng ta đã thực sự là những người mến Thánh Giá, là những người sẵn sàng hy sinh, phấn khởi dành dật Thánh Giá để cùng với Chúa mà cứu rỗi các linh hồn, mà xây dựng cộng đoàn, xây dựng Giáo Hội chưa?
Thánh Giá với Chúa Kitô đã trở thành quy luật cho sự đổi mới, cho mọi thành công. Thế thì ai chưa dám hy sinh, chưa vui đón gian khổ, đó chính là những người chỉ muốn chuốc lấy thất bại, chỉ muốn nằm lỳ trong tình trạng khô cứng...
Một công chúa được ơn gọi vào dòng. Cô đến gõ cửa một Dòng Mến Thánh Giá và xin nhập hộ. Bà mẹ Bề trên thấy một công chúa, một người đã từng sống trong cảnh sung sướng đầy đủ nên ngần ngại. Nhưng để chối từ cách khéo, bà đã dẫn cô đi tham quan các nhà trong dòng: nhà học, nhà ngủ, nhà thờ, nhà ăn...
Năm 1627, khi Cha Đắc lộ đến khởi đầu cuộc giảng đạo ở Việt Nam ta, Ngài dựng một cây Thánh Giá lớn trên quả núi cao nhìn xuống Cửa Bạng. Đâu xa cũng nhìn thấy Thánh Giá. 300 năm giảng đạo là 300 năm máu chảy đầu rơi. 13 vạn người đã hy sinh xương máu, liều mất mạng sống mình để cứu lấy anh em.
Lạy Chúa, thật Thánh Giá là luật khó hiểu, các môn đệ Chúa đã bực bội can ngăn. Nhưng đó là mầu nhiệm tình thương, mầu nhiệm cứu độ, là nguồn gốc sự sống. Xin Chúa giúp chúng con thấu hiểu và can đảm vác thập giá hằng ngày để theo Chúa, để cùng thưa với Chúa như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Lạy Chúa Giêsu của con, Chúa đã làm việc đủ rồi. Chúa đã khóc đủ 33 năm sống trên nơi khổ ải này, hôm nay Chúa hãy nghỉ, đến lượt con đi chiến đấu và chịu đau khổ (Têrêxa Hài Đồng Giêsu)./.

ĐGM. Phaolô Maria Cao Đình Thuyên

-------------------------------

 

14/09-29: Nhà Dòng Cistaciens

 

Nhà Dòng Cistaciens cũ ở Oliva gần Danzier trên biển Baltique có một nhà nguyện. Đặc sắc của nó là có: 14/09-29


Nhà Dòng Cistaciens cũ ở Oliva gần Danzier trên biển Baltique có một nhà nguyện. Đặc sắc của nó là có một cây Oliva lạ lùng. Thân cây là một ống chì to có rất nhiều chi nhánh và lá to nhỏ bằng đồng. Cây ấy được thông với một ống dẫn thủy đêm ngày luôn tung tóe ra muôn vàn tia nước rất đẹp. Ngày nay nó đã mất tích vì tai họa chiến tranh. Nhưng khắp Giáo Hội trong các nguyện đường, thánh đường của ta lại còn có một thứ cây trên mọi thứ cây lạ lùng hơn gấp bội - lạ lùng vì cái tuổi thời gian của nó: đã hơn 2000 năm nay mà vẫn tươi xanh mãnh liệt như hôm qua và sẽ ngày càng phát triển mãi cho đến tận thế - lạ lùng nữa vì những hiệu quả vô cùng sung mãn và tác động hữu hiệu trên toàn cõi nhân loại. Thứ cây lạ lùng ta đã thấy, đã dùng và đã nếm qua bao nhiêu ảnh hưởng tốt đẹp của nó. Thứ cây lạ lùng ấy chính là cây Thánh Giá của Chúa, thứ cây mà hôm nay cùng toàn thể Giáo Hội ta đang trọng thể suy tôn và sốt sáng ngưỡng vọng.
Để chúng ta thêm lòng yêu mến cây Thánh Giá lạ lùng đó và để thu nhiều kết quả tốt đẹp bổ ích cho đời sống hằng ngày, giờ đây ta cùng nhau suy về 2 cái tia đặc sắc hơn của nó: Cây Thánh Giá tràn chảy tình thương cho nhân loại; Cây Thánh Giá tuôn đổ nguồn sinh lực cho ta.
1/ Cây Thánh Giá chính là biểu hiệu rõ rệt nhất của tình Chúa yêu ta. Chính người đã nói: "Không ai yêu bạn mình cho bằng kẻ hy sinh mạng sống vì bạn", thì đây chính Chúa tự nguyện xác minh lời đó trước nhất: Chúa đã chết thay cho nhân loại. Ôi, ai trong chúng ta khi chăm chú nhìn lên Thánh Giá mà không cảm thấy được điều đó. Lời Dym Bossence nói: Sao? Không phải chính ở Thánh Giá mà Đức Giêsu, Đấng cứu chuộc, đã dâng hiến lên trước tòa Chúa Cha, không phải những của lễ vô linh tính mà chính là xác Thánh của Người để làm của lễ đền tội cho ta. Không phải chính ở trên Thánh Giá mà Ngài đã giao hòa ta cùng Thiên Chúa bằng sự tẩy sạch tâm hồn ta với dòng máu đào của Ngài ư? Loài người đã phản nghịch với Thiên Chúa. Phép công thẳng Chúa đang sẵn sàng tràn đổ xuống để gìm họ xuống vực thẳm hỏa ngục với ma quỷ mà họ đã cam tâm làm nô lệ và học đòi những thái độ láo xược của chúng. Nhưng căng mình trên Thánh Giá, là bàn thờ, Người đã dùng máu đào để chuộc cái tội kiêu căng cho loài người và Người đã giăng tay tinh khiết ngăn cản cơn oai nộ của Chúa Cha, biến oai nộ thành một dòng suối tình vô tận. Ôi! hy sinh cao cả, ôi tình yêu lạ lùng. Lạy Chúa Giêsu con Thiên Chúa là chính Thiên Chúa, Chúa đã yêu tôi chính lúc tôi còn phản bội lại với Chúa. Sau khi đã chuốc đủ mọi nhuốc hỗ, đã chịu đủ mọi cực hình, đã phải hấp hối chết trong vườn Giệt, đã bị Giuđa phản bội, các môn đệ bỏ rơi, đã bị giam hãm, bị khạc nhổ, đã bị tát tai, đã bị bỏ vạ, bị đánh đòn đóng mão gai, bị chế nhạo, bị lột áo, và như để cho toàn nhân loại thấy rõ thì Chúa lại treo lên một cách ô nhục trên Thánh Giá giữa 2 tên đạo tặc để cứu rỗi tôi, cứu rỗi nhân loại. Ôi! Mầu nhiệm thay! Trách gì mà Thánh Phaolô khi suy đến đã dám táo bạo gọi đó là một sự điên cuồng của tình yêu! Người ta kể, một triết gia đã phải loay hoay nhiều với cái tham vọng muốn tóm gọn cả một cuốn sách vào một trang, rồi cả trang ấy vào chỉ 1 câu, và nữa, cả câu ấy vào chỉ 1 chữ! Nhà triết học đã không thể, nhưng Chúa đã làm, Chúa đã tóm gọn vào một tiếng tất cả mọi mầu nhiệm của đạo, mọi giáo lý của Phúc Âm thư, mọi chương trình của phần rỗi nơi tình yêu của Thiên Chúa: Tiếng ấy là Thánh Giá. Tôi không còn phải bỡ ngỡ nữa khi thấy các Thánh đã say sưa yêu mến Thánh Giá, say sưa đến quên ăn quên ngủ, say sưa đến vui lòng bỏ hết mọi vinh hoa phú quý, đến cả dòng máu đào mình cũng không từ, là vì các Ngài đã đọc được ở cuốn sách lạ lùng ấy cả một tình yêu mênh mông vô hạn đang bao trùm lấy các Ngài.
2/ Thánh Giá nói lên tình yêu vô tận của Chúa và đồng thời Thánh Giá cũng làm nổi bật cuộc chiến thắng oanh liệt của Ngài - "Dominum regnarit a ligino". Vừa tắt thở trên Thánh Giá, Chúa đã tiêu diệt được quyền lực của hỏa ngục, uy thế của bụt thần và cả lòng kiêu căng của nhân loại. Phải, từ ngày cây Thánh Giá được dựng lên trên trái đất, hỏa ngục đã bị mất mặt. Chúng không còn uy hiếp được loài người một cách tự do như tới nay nữa. Là vì với cây Thánh Giá, loài người đã có một lợi thế vô cùng sắc bén và hữu hiệu bảo đảm thắng lợi hoàn toàn cho họ. Và ở đâu bóng cây Thánh Giá tỏa đến là ở đó ma quỷ phải rút lui. Ma quỷ hỏa ngục đã phải rút lui thì bụt thần, con đẻ của nó, còn có nghĩa lý gì! Và thế là nhân loại được giải phóng! Và dần dần thế giới đã quay về gục đầu trước một người Do Thái bị đóng đinh. Ôi, thật lạ lùng! Bị hành hung, bị khinh rẻ khi còn tại thế, Chúa Giêsu lại bắt đầu thống trị khi tắt thở trên Thánh Giá. Cái giáo lý siêu phàm của Ngài lẽ ra làm Ngài được sùng bái khắp nơi thì lại làm Ngài phải chịu treo trên thập giá. Và cái thập giá ô nhục đáng thiên hạ khinh chê thì lại làm Ngài được tôn kính khắp nơi. Ngài vừa giăng tay ra trên Thánh Giá, mọi người đã vội vả đón nhận ấp yêu: Thật là hạt miến quẳng xuống đất bị thối rửa để làm mọc lên muôn vàn cây khác xanh tươi. Phải chăng lời tiên báo Chúa đã thực hiện: Ngày nào treo Ta lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta. Thánh Giá đã lan rộng khắp nơi, khi khiêm tốn hiền từ trong khung cảnh nhỏ hẹp gia đình, khi oai vệ hiên ngang giữa trời xanh lồng lộng. Thánh Giá đã đập tan mọi bóng tối lầm lạc. Thánh Giá đã tỏa ánh sáng chân lý, nhân đức tự do, danh dự văn minh cho trần thế - Thánh Giá vạch cho ta một con đường đơn giản để đến quê Trời. Cũng vì thế mà nhân loại xô nhau về với Thánh Giá. Theo Jean Drias: Nhân loại thi nhau hàng phục Thánh Giá. Rồi họ say sưa, họ trìu mến, họ sống chết với Thánh Giá, và rõ ràng nhất là các tu sỹ Mến Thánh Giá. Bởi vì đúng như tên mà đấng sáng lập đã chọn, Hội Dòng này luôn sống trong tinh thần khổ chế hy sinh vì tình yêu. Họ tha thiết yêu Chúa Jésus chịu đóng đinh trên Thánh Giá, Đấng đã thí mạng sống và tình yêu cho Chúa Cha và nhân loại. Họ yêu Thánh Giá của Người và sẵn lòng đón nhận Thánh Giá của bản thân với xác tín là hoàn tất nơi thân xác những gì còn thiếu trong các nổi khổ đau Chúa Kitô phải chịu trong thân mình Ngài là Giáo Hội. Họ say mê gắn bó với thập giá là nhằm để đạt tới sự hiểu biết, yêu mến và hiến thân trọn vẹn cho Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh qua sự suy niệm và noi theo cuộc đời lữ thứ lữ sinh của Người. Như vậy, tức là đáp ứng lời mời gọi thông dự vào tinh thần trung gian và tiếp nối sứ mạng cứu độ của Chúa Kitô - bằng việc cầu nguyện và đời sống thánh thiện, nhằm giúp hoán cải lương dân và các tín hữu tội lỗi, nhất là nhằm phục vụ thế giới, giới trẻ trong các lãnh vực văn hóa xã hội, y tế, luân lý, đức tin.
Là những tu sỹ Mến Thánh Giá, chúng ta phải can đảm hội nhập vào đoàn hùng binh của Chúa Giêsu để tiếp nối công cuộc cứu độ của Ngài. Hãy góp nhặt những Thánh Giá nhỏ nhẹ rải rác trong đời sống để kết vào Thánh Giá Chúa Giêsu làm ta có thể thưa với Chúa Giêsu như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu: Lạy Chúa Giêsu của con, Chúa đã làm việc đủ rồi. Chúa đã khóc đủ 33 năm sống trên nơi khổ ải. Hôm nay Chúa hãy nghỉ, đến lượt con đi chiến đấu và chịu đau khổ. Amen./.
ĐGM. Phaolô Maria Cao Đình Thuyên

Nguồn lamhong.org

-------------------------------

 

14/09-30: NƠI thẬP GIÁ, CHÚA ChA nÓI VỚI CHÚNg tA MỌI SỰ 


(Gioan 3,13-17 – Suy Tôn Thánh Giá)

1.- Ngữ cảnh

 

Chỉ TM IV nói đến Nicôđêmô, một thành viên quan trọng trong Phái Pharisêu - rất có thể cũng là: 14/09-30


Chỉ TM IV nói đến Nicôđêmô, một thành viên quan trọng trong Phái Pharisêu - rất có thể cũng là một thành viên của Thượng Hội Đồng -. Ông đã tận dụng bóng đêm để đến gặp Đức Giêsu, có thể cũng vì đêm là thời gian yên tĩnh và an bình. Ông đại diện cho người Israel, với trái tim vẫn còn tinh trong, đang đi tìm ánh sáng và xác tín rằng vị Rabbi đến từ Nadarét, “một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến”, có thể chỉ cho ông thấy ánh sáng.
Ông đã đến và ra đi trong đêm, và chúng ta vẫn tự hỏi là từ cuộc đối thoại với Đức Giêsu, ông đã khám phá ra điều gì, vì tác giả Gioan không nói.
Chúng ta sẽ lại gặp ông giữa các thượng tế tại Giêrusalem đang tranh luận với nhau xem có thể loại trừ Đức Giêsu cách nào. Nicôđêmô im lặng lắng nghe rồi đã gây chuyện với họ: “Lề Luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?”. Nhưng họ đã mỉa mai ông: “Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả” (Ga 7,51-52). Nicôđêmô thật quá chân thành và lương thiện để làm thành viên của một nhóm xảo trá!
Chúng ta gặp lại ông lần cuối cùng với Giôxếp Arimathê: họ tẩm liệm thi hài Đức Giêsu bằng dầu thơm, bọc bằng khăn liệm rồi đặt vào trong mộ (Ga 19,39-40).

2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu nhắc lại quá khứ (3,14-15);
2) Đức Giêsu đưa vào Tin Mừng hôm nay (3,16-17).

3.- Vài điểm chú giải
- Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
- ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.  
- Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapan ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapan được diễn tả ra thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
- đã ban (16): Động từ didonai, “cho; ban [tặng]”, không chỉ nhắm đến cuộc Nhập Thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với paradidonai, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didonai ở Gl 1,4.
- Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellein này song song với “ban” ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26. Tác giả Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không phân biệt: pempein (26 lần) và apostellein (18 lần).
- Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong TM IV thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
- không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
- được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).

3.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu nhắc lại quá khứ (14-15)
Đức Giêsu nhắc lại cho Nicôđêmô một biến cố đã xảy ra trong cuộc Xuất Hành, biến cố này Người biết rất rõ, vì là “vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến”: con rắn đồng Môsê đã đúc và giương cao trong sa mạc (x. Ds 21,4-9), và Người bình luận tích đó rằng tích đó tượng trưng cho những gì sắp xảy ra cho Người. Con Người sắp được giương cao trên thập giá để tất cả những ai nhìn lên Người thì sẽ được cứu.
Nicôđêmô đã không hiểu điều Đức Giêsu ám chỉ khi Người nói “ông cần được sinh lại bởi trên”, bây giờ lại càng ngỡ ngàng khi nghe nói đến việc “giương cao Con Người”. Ông ngạc nhiên và có lẽ cũng buồn nữa. Ông im lặng lắng nghe, chứ không biết hỏi thế nào nữa. Ông chưa được soi sáng bởi ánh sáng Phục Sinh, nên những gì ông đang được nghe lúc này là mầu nhiệm không sao dò thấu đối với ông. Ông chưa hiểu được rằng “Tin vào Đấng được giương cao” có nghĩa là đưa mắt nhìn lên “Đấng Chịu đóng đinh”, là Chúa Kitô bị đóng đinh trên thập giá, và dựa vào Người mà đo lường mọi quyết định của ông, để cho Người hướng dẫn các quyết định của ông. “Đưa mắt nhìn lên Đấng Chịu đóng đinh” chính là coi Người là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. “Đưa mắt nhìn lên Đấng Chịu đóng đinh” như thế cũng có nghĩa là phải từ bỏ nhiều thứ, hy sinh nhiều chuyện. Tác giả TM IV nói rằng một ngày nào đó người ta “sẽ nhìn lên Đấng họ đã dâm thâu” (Ga 19,37). Vào ngày đó, Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập trên trần gian.

* Đức Giêsu đưa vào Tin Mừng hôm nay (16-17)
Trong phần thứ hai, Đức Giêsu nói về Tin Mừng của ngày hôm nay: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, Người đến không phải để lên án thế gian, nhưng để cứu thế gian. Thiên Chúa chọn con người, Thiên Chúa đứng về phía con người.
Đây là một câu nói có sức trấn an, một mạc khải phải làm cho lòng chúng ta tràn ngập niềm vui và cậy trông. Tuy nhiên, mạc khải này có thể bị phi bác bởi nhiều bản văn Tin Mừng khác cho thấy Thiên Chúa và Đức Giêsu như là những thẩm phán nghiêm khắc (x. Mt 13,31-42; 25,31-46…), nếu không được giải thích đúng đắn. Mt dùng các hình ảnh giới thiệu Thiên Chúa như là thẩm phán là để nhắc các độc giả nhớ rằng phải nghiêm túc quan tâm đến đời sống. Tuy nhiên, hình ảnh này cần được bổ túc bởi hình ảnh “án xử của Thiên Chúa” trong TM IV.
Đời sống của chúng ta sẽ được mở dần ra cho tới cùng, bởi ánh sáng của Thiên Chúa, và ánh sáng này sẽ cho thấy thời gian chúng ta đã sống thể theo “án xử của Người” và thời gian chúng ta đã phung phí vì đã sống theo “án xử của loài người”. Nhưng “án xử” này không chỉ kết luận đơn giản bằng một lời tuyên án là có tội hay vô tội. Điều này không ích lợi gì. Án xử chúng ta cần nhất, án xử sẽ cứu chúng ta, đó là án xử Thiên Chúa đi qua hôm nay, một án xử sẽ ngăn cản chúng ta phí mất đời sống chúng ta. TM IV nhấn mạnh trên án xử này.
Tác giả không bao giờ nói đến “phán xét chung [cuối cùng]” và không bao giờ bảo rằng Thiên Chúa sẽ kết án chúng ta (c. 17) bởi vì Thiên Chúa chỉ muốn cho chúng ta được cứu độ. Ở xa hơn, ngài nhắc lại một lời nói khác của Đức Giêsu: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian” (Ga 12,47).

+ Kết luận
          Chính cái nhìn chúng ta nhận ra nơi bản văn (Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cứu độ) giúp chúng ta hiểu lời đọc trong Kinh Tin Kính: “Người sẽ đến để phán xét”. Người đến từ đâu? Từ cây thánh giá, từ Phục Sinh: Cây thánh giá lật ngược các giá trị của chúng ta, và giúp chúng ta có thể lật ngược thất bại thành chiến thắng, nô lệ thành quyền bính, nghèo khó thành giàu có, mất mát thành lời lãi, thấp hèn thành vinh quang, tử vong thành tái sinh. Cây thập giá phải là chuẩn mực giúp chúng ta đo lường thành công hay thất bại trong cuộc đời. Chính án xử của Đức Giêsu Chịu đóng đinh sẽ nói lên sự thật về lịch sử loài người. Chỉ duy án xử này của Người mà chúng ta phải “sợ hãi”. 
Bài Tin Mừng này mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng vị Thiên Chúa trên thập giá và thúc bách chúng ta đi đến một câu đáp trả bằng tình yêu.

4.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta đọc trong Tin Mừng Gioan rằng Thiên Chúa mạc khải vinh quang lớn lao nhất của Ngài ra khi Con của Ngài được giương cao trên thập giá. Điều này sẽ gây ngạc nhiên cho những ai đã nghĩ rằng vinh quang của Thiên Chúa trước tiên và tốt nhất phải được mạc khải ra qua các phép lạ, quyền lực vô biên của Ngài. Trên Núi Sọ, Chúa Cha đã nói cho chúng ta cách rõ ràng nhất Ngài yêu thương chúng ta đến độ nào. Núi Sọ cất đi mọi tấm khăn có thể ngăn cản chúng ta thấy được gương mặt của Thiên Chúa.
2. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không? Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
3. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn sóc khác, Người Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được Chúa Cha ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho chúng ta từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng chịu đóng đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả thuyết hay một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
Chúng ta suy ngẫm một đoạn bài giảng của thánh Antôn Pađôva: “Chúa Cha đã gửi Con của Ngài đến với chúng ta, là “ân ban tuyệt vời, ân ban hoàn hảo” (Ga 1,17). Ân ban tuyệt vời, không gì có thể vượt qua; ân ban hoàn hảo, ta không thể thêm gì vào nữa. Chúa Kitô là ân ban tuyệt vời bởi vì Đấng mà Chúa Cha ban cho chúng ta như thế là Con Ngài, tối cao, vĩnh cửu như Ngài. Chúa Kitô là ân ban hoàn hảo; như thánh Phaolô đã nói, “Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32)… Ngài đã ban cho chúng ta Đấng là “đầu Hội Thánh” (Ep 5,23). Ngài đã không thể nào ban thêm gì nữa cho chúng ta. Chúa Kitô là ân ban hoàn hảo bởi vì, khi ban Người cho chúng ta, Chúa Cha đã nhờ Người mà đưa mọi sự tới mức hoàn hảo”.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

---------------------------------

 

14/09-31: Thánh Giá Chúa là nguồn phúc vinh


LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ

 (Ga 3, 13-17)

 

Ngày 14 tháng 9, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa với niềm: 14/09-31


Ngày 14 tháng 9, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa với niềm vui vì được cứu độ. Ngày hôm nay, Thánh Giá được trình bày cho các tín hữu không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để tự hào và không có khóc lóc. Lễ này khởi đi từ hai sự kiện lớn là khánh thành là cung hiến đền thờ Calvario và Mộ Thánh ở Thánh Địa do bà Helena, mẹ vua Constantin (khoảng năm 270, 280 đến 337 ), hoàng đế Roma cho xây cất năm 335. Ngày 14 tháng 9 còn là ngày mừng vì tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326.
Cuộc chiến thắng của người Kitô giáo trước quân Ba Tư vào thế kỷ thứ VII, giúp tìm lại Thánh Giá Chúa và cung nghinh về Giêrusalem là sự kiện thứ hai. Từ đó, ở Giêrusalem có lễ Suy Tôn Thánh Giá vào ngày 14 tháng 9. Tuy nhiên với dòng thời gian, lễ này có một ý nghĩa riêng, vì được cử hành với niềm vui của mầu nhiệm Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, được Đức Kitô dùng để cứu độ thế gian.
Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để « tán dương » Đức Kitô: « Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh quang » (Pl 2, 8 -11). Thánh Gioan lại đề cập đến Thập Giá là khí cụ để cứu độ con người: « Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời » (Ga 3, 14).
Như thế, Thánh Giá là Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, Thánh Giá ban tặng cho nhân loại ơn sủng và ơn tha thứ. Nên « chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại ; chính Người giải thoát và cứu độ ta » (Ca nhập lễ).
Giáo hội cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa, nhờ Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa về trời cao, vứt bỏ sau lưng tội lỗi thế gian để đạt tới sự thiện trên trời. Chúng ta hát mừng Chúa sống lại hiển vinh, vì bởi cây Thánh Giá niêm hân hoan tràn ngập khắp địa cầu. Còn hạnh phúc nào hơn từ cây Thánh Giá ; vì chính nhờ cây Thánh Giá, nguồn vinh phúc, ơn cứu độ chúng ta được phục hồi. Thật vậy, nếu không có cây Thánh Giá, Đức Kitô đã không bị đóng đinh, sự sống đã không bị treo lên gỗ giá, máu và nước, nguồn suối trường sinh đã không chảy ra từ cành sườn để rửa sạch tội lỗi thế nhân, bộ mặt kẻ tội lỗi đã không bị lột trần, chúng ta sẽ không được tự do và không được hưởng nhờ ơn phúc từ cây sự sống. Nếu như không có Thánh Giá, thiên đàng không được mở, sự chết không bị chôn vùi, mọi thủ đoạn của hỏa ngục sẽ không được phơi bày ra. Thánh Giá thật cao cả và quí giá biết bao. Cao cả, vì Đức Kitô đã chiến thằng khải hoàn trước mọi đau khổ, Thánh Giá phát sinh sự thiện với biết bao kỳ công. Quí giá, vì Thánh Giá vừa là sự khổ đau vừa là khí giáp của Thiên Chúa. Là khổ đau, vì chính nhờ cây thánh giá Đức Giêsu đã hoàn toàn chịu chết ; là khí giáp, vì ma quỉ đã bị tổn thương và đánh bại, sự chết đã bị Đức Giêsu tiêu diệt vĩnh viễn; cửa Hỏa ngục bị đập tan và Thánh Giá trở nên ơn cứu độ cho toàn thế giới. Thánh Giá được gọi là vinh quang của Đức Kitô, và tán dương Người. Chúng ta nhìn thấy nơi Thánh Giá, chén của ao ước và tất cả mọi khổ đau mà Đức Kitô đã phải chịu vì chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

---------------------------------

 

14/09-32: Thánh giá, biểu tượng tình yêu Thiên Chúa


CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Gio-an 3:13-17)

 

Có thể nói đây là tâm điểm sứ điệp Tin Mừng Gio-an muốn gửi đến toàn thể nhân loại:  Thiên Chúa: 14/09-32


Có thể nói đây là tâm điểm sứ điệp Tin Mừng Gio-an muốn gửi đến toàn thể nhân loại:  Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.  Nội dung sứ điệp rõ ràng và đơn giản vậy thôi.  Nhưng địa điểm để sứ điệp này thể hiện hoàn toàn cũng quan trọng không kém.  Địa điểm ấy chính là trên Thánh giá, nơi Chúa Giê-su đã chịu chết để minh chứng tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại vĩ đại như thế nào.  Vì thế, suy tôn Thánh giá là điều tất nhiên chúng ta phải làm.
          Chính Chúa Giê-su đã lấy chuyện con rắn đồng mà ông Mô-sê treo lên cao trong sa mạc để áp dụng vào cái chết cứu độ trên thập giá của Người.  Hình ảnh dân Ít-ra-en ngày xưa đã bị rắn độc giết hại trong sa mạc biểu tượng cho nhân loại đang bị tội lỗi hủy hoại trong sa mạc thế giới này.  Cho nên, như con rắn đồng được treo cao giữa trại Ít-ra-en đã cứu mạng sống dân Do-thái thế nào, thì Chúa Giê-su cũng được giương cao trên thập giá để cứu độ nhân loại như vậy.  Do đó, chúng ta hiểu được cùng một ý nghĩa của hai câu nói trong Kinh Thánh:  “Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”, và “Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Dân số 21:8 và Gio-an 3:16). 
          Trong Cựu Ước, vì yêu thương dân Ít-ra-en, Thiên Chúa đã truyền cho ông Mô-sê làm một con rắn bằng đồng và treo lên cột cao.  Việc này không thể nói hết được những chiều kích dài rộng cao sâu của tình yêu Thiên Chúa.  Còn trong thời Tân Ước, khi Thiên Chúa “ban Con Một”, hành động này đã cho chúng ta hiểu được mức độ tình yêu của Người, là  khi Thiên Chúa “giương cao” Con Một trên thập giá, thì đó là tuyệt đỉnh tình yêu của Người rồi!  Thiên Chúa đã dùng Thập giá làm thước đo lường mức độ tình yêu của Người, tình yêu được trả giá bằng cái chết nhục nhã của Chúa Giê-su.  Khi yêu, người yêu càng sẵn sàng chịu nhục nhã cay đắng bao nhiêu thì chứng tỏ tình yêu của người ấy càng lớn lao bấy nhiêu.  Chính Đấng Ki-tô bị đóng đinh thập giá là “điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận” (1 Cô-rin-tô 1:23) đã chứng minh cho tình yêu bao la và vô điều kiện của Thiên Chúa đối với nhân loại.  Đọc lại bài đọc 2 trích thư Phi-líp-phê 2:6-11, chúng ta cảm nhận được rõ ràng mức độ tình yêu gia tăng của Thiên Chúa qua việc Chúa Ki-tô “trút bỏ vinh quang”, từ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa đi dần xuống tận cùng thân phận con người là chết nhục như tên nô lệ trên thập giá.  Diễn tả ấy của thánh Phao-lô là gì nếu không phải là muốn ngầm nói lên vai trò của thập giá là biểu tượng tình yêu Thiên Chúa?  Thập giá là tận cùng của ô nhục thì đồng thời cũng nói lên tột đỉnh tình yêu!
          Trong cuộc đời này, thực khó mà tin vào tình yêu, ngoại trừ những tình yêu chúng ta được mắt thấy tai nghe, thí dụ những hy sinh vất vả của cha mẹ cho chúng ta “thấy” tình yêu các ngài dành cho chúng ta.  Thiên Chúa đã nhiều lần nói với chúng ta trong Kinh Thánh rằng Người yêu thương chúng ta.  Nhưng hôm nay, Người nói tiếng yêu không phải bằng chữ viết hay lời nói nữa, mà bằng cái chết của Con Một và bằng Thánh giá, một biểu tượng Tình Yêu của Người.  Vì thế, ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đòi chúng ta phải suy tôn biểu tượng Tình Yêu ấy, vì nó nhắc nhở chúng ta về sứ điệp cao cả nhất của Người, là Người yêu thương chúng ta và trao nộp Con của Người để chuộc tội chúng ta và biến đổi thân phận chúng ta.
Sống sứ điệp Tin Mừng
          Thời ông Mô-sê, “hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống”.  Sự sống thể xác đã quý như vậy, huống chi sự sống linh hồn và sự sống đời đời!  Để được sống đời đời, chúng ta không chỉ “nhìn” vào Chúa Giê-su với đôi mắt bàng quan như nhìn một nhân vật lịch sử, nhưng còn phải “tin” vào Người nữa.  Lòng tin đưa chúng ta vào một quan hệ cá nhân, để quan hệ ấy giúp chúng ta nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa Ki-tô.  Thánh Phao-lô chẳng muốn biết chuyện gì khác ngoài “Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cô-rin-tô 2:2), cho nên Thánh giá không phải là ô nhục, mà là vinh dự của ngài.  Ngài đã suy tôn Thánh giá của Chúa và suy tôn Thánh giá của ngài nữa.  Còn chúng ta?        

  Lm. Đa-minh Trần đình Nhi


---------------------------------

 

14/09-33: THÁNH GIÁ LÀ NGUỒN TÌNH YÊU VÀ HY VỌNG


(LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Ngày nay, chúng ta thấy Thánh Giá được treo khắp nơi, nào là: Nhà Thờ, Nhà Nguyện, nhà tư; ở: 14/09-33


Ngày nay, chúng ta thấy Thánh Giá được treo khắp nơi, nào là: Nhà Thờ, Nhà Nguyện, nhà tư; ở Nghĩa Trang, trên nấm mộ...; Thánh Giá còn xuất hiện trên áo, trong khăn và khắc trên gỗ, trên đá...; người ta cũng đeo Thánh Giá trên cổ, trên tay...
Tất cả những điều đó diễn tả niềm tin, sự tôn thờ của của người Công Giáo, bởi vì, Thánh Giá là niềm vinh dự, là sự toàn thắng, là ơn cứu chuộc, là sự sống, là niềm hy vọng của chúng ta.
Khi người Công Giáo tôn thờ Thánh Giá, chắc chắn không chỉ đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải lưu ký một kỷ niệm buồn gợi lại sự đau khổ và chết chóc...
Nhưng Thánh Giá là tất cả, là trọn vẹn niềm tin, là niềm hy vọng duy nhất của chúng ta.
Tại sao vậy? Thưa! Vì chính nhờ Cây Thánh Giá, mà chúng ta được cứu độ.
Như vậy, khi tôn thờ Thánh Giá, chúng ta suy tôn tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cứu độ và mang lại cho chúng ta niềm hy vọng phục sinh.
 Tôn thờ Thánh Giá là suy tôn tình yêu của Thiên Chúa
Khởi đi từ việc: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Từ “đến nỗi” cho thấy: Thiên Chúa đã yêu quá nhiều, yêu vô bờ và bao la, nhưng chưa thỏa lòng, nên còn một món quà duy nhất, cao quý, là tất cả của Thiên Chúa, nhưng Người sẵn lòng trao tặng cho nhân loại, đó chính là Đức Giêsu.
Khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã làm toát lên sự khiêm nhường tột cùng khi vâng lời Thiên Chúa Cha và yêu nhân loại tha thiết, nên Ngài: “...vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8). Vì là hiện thân của Thiên Chúa, Đấng Giàu Lòng Thương Xót, nên cả cuộc đời và lời rao giảng của Ngài đều nhằm diễn tả bản chất tình yêu của Thiên Chúa cho con người. Đỉnh cao của mặc khải này chính là cuộc hiến tế trên Thánh Giá. Thật vậy: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13); “Họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,7-8).
Không chỉ trao ban tình yêu cách phổ quát, mà Ngài còn ban riêng cho mỗi người, khiến ai cũng cảm nghiệm được tình yêu cứu độ mà Đức Giêsu dành cho. Quả thật, Ngài là "Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gl 2, 20). Không phải yêu có thời gian và số lượng, mà là tình yêu trường cửu: "Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương" (Gr 31, 3); và: "Ta quyết chẳng đoạn tình dứt nghĩa, quyết không hề bội tín thất trung" (Tv 89, 34).
Quả thật, Thiên Chúa đã buộc Mình vào một tình yêu muôn thuở; Người tự tước đoạt tự do của Mình vì yêu thương chúng ta. Đây là ý nghĩa sâu sắc của Giao Ước mà trong Chúa Kitô, nơi Thánh Giá, đã trở nên "mới mẻ và sống động". 
Vì thế, đây là lý do thứ nhất để chúng ta suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô.
Suy tôn Thánh Giá, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cứu độ
Lý do thứ hai chính là vì niềm hy vọng và ơn cứu độ của chúng ta nơi Thánh Giá.
Trong Cựu Ước, chúng ta thấy hình ảnh tiên trưng về Thánh Giá và ơn cứu độ qua cây gậy và con rắn đồng được treo lên.
Bài đọc I trình thuật việc ông Môsê dẫn dân ra khỏi Aicập và trên đường trở về Đất Hứa, dân Israel phải trải qua hành trình trong sa mạc. Trên hành trình ấy, dân đã nhiều lần bất trung, kêu trách Đức Chúa và trút tội lên đầu Môsê. Trước tình cảnh đó, Thiên Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện và cắn chết nhiều người. Thấy được sự bất trung và cảm nghiệm sâu xa về tội của mình đã phạm, toàn dân đồng loạt kêu cầu Môsê xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống" (Ds 21, 8). 
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã minh nhiên xác định hình ảnh này chính là Ngài khi nói: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15).
Thật vậy, mang trong mình niềm tin vào Thiên Chúa và ơn cứu độ ngang qua Đức Giêsu, hẳn chúng ta không bao giờ được phép chối bỏ Thánh Giá bằng bất cứ giá nào. Ngược lại, luôn luôn hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa như bảo chứng của ơn cứu độ, bởi vì chính Đức Giêsu đã chọn Thánh Giá làm giá chuộc muôn người. Nhờ cây Thánh Giá, Đức Giêsu đã giải thoát thế gian khỏi xiềng xích tội lỗi, để từ nay, tội lỗi không còn quyền chi đối với Ngài và tất cả những người tin vào Ngài cũng được hưởng nhờ ân huệ đó.
Nếu từ cái chết trên Thánh Giá, Đức Giêsu đã phục sinh, thì chúng ta cũng qua đau khổ, ắt chúng ta có niềm hy vọng được phục sinh như Ngài.
Nếu xưa kia, từ Cây Trái Cấm, mà Tổ Tiên loài người đã sa ngã, cửa Thiên Đàng đóng lại, thì nay nhờ Cây Sự Sống chính là Thánh Giá, cửa Thiên Đàng được mở ra và đón nhận tất cả những ai tin vào Cây Trường Sinh.
Như thế, Thánh Giá là biểu trưng cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa và của những ai đón nhận như nguồn ơn cứu độ. Đây chính là nghịch lý của Thiên Chúa và của cả chúng ta, vì: “Dân Do thái thì đòi phép lạ, dân Hy lạp thì tìm lý lẽ cao siêu; còn chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô trên Thập giá [...]. Thế nhưng, đối với ai được gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, thì đó là một vị cứu tinh với quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa” (x. 1Cr 1,18-25).
Suy tôn Thánh Giá, chúng ta học được bài học thứ tha
Cuối cùng, khi suy tôn Thánh Giá, chúng ta được mời gọi hãy: “yêu thương như Thầy đã yêu thương” (x. Ga 13,3-35). Yêu như thầy là phục vụ vô vị lợi. Yêu như Thầy là hiến thân cho người mình yêu, không phân biệt bạn hay thù (x. Lc 6, 27-35). Yêu như Thầy cũng là tập sống bao dung, tha thứ, không xét đoán, giận hờn và luôn hướng tới sự thiện trọn hảo: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, bởi vì: "Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" (Cl 3:12-13). 
Như vậy, yêu Chúa thì cũng phải yêu người. Lệnh truyền này không thể tách rời nhau. Nó luôn kết hợp với nhau cách chặt chẽ như thể thanh ngang và thanh dọc của Thánh Giá.
Kết hợp cả hai mới thành Thánh Giá, thì mến Chúa và yêu người phải luôn luôn sát cánh bên nhau không thể tách rời.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Xin Thánh Giá Chúa rợp bóng trên cuộc đời chúng con, để chúng con được ơn cứu độ. Xin cũng cho chúng con học được bài học tha thứ của Chúa ngang qua Thánh Giá. Amen.

---------------------------------

 

14/09-34: BIẾN THẬP GIÁ NÊN THÁNH GIÁ BAN ƠN CỨU ĐỘ


LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ

Ds 21,4b-9 ; Pl 2,6-11 ; Ga 3,13-17
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 3,14-21
Khi ấy Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: (13) Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. (14) Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.

2. Ý CHÍNH:

 

Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên: 14/09-34


Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau:
Để cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai. Nhờ chấp nhận cái chết đau thương trên thập giá để đền tội thay và giao hòa loài người với Thiên Chúa. Từ đây, những ai muốn được ơn cứu độ phải có mấy điều kiện sau: Một là phải được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần. Hai là phải tin Đức Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay, mà con rắn đồng thời Mô-sê là hình bóng. Ba là phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 14-15: + Ni-cô-đê-mô: Một người vị vọng trong dân Do Thái, là thành viên của Công Nghị tại Giê-ru-sa-lem. Ông muốn tìm hiểu về con người và giáo lý của Đức Giê-su, nhưng vẫn trong trạng thái dè dặt. Sau này ông đã can đảm bênh vực Đức Giê-su trong Công Nghị (x. Ga 7,50-52; 12,32). Và khi an táng Người, ông đã can đảm gia nhập vào hàng ngũ các môn đệ của Đức Giê-su (x. Ga19,39). + Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc: Khi được cứu thoát khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập, dân Do Thái thay vì biết ơn Chúa và Mô-sê, họ lại kêu ca trách móc khi phải chịu kham khổ. Họ thà quay lại làm nô lệ cho dân Ai-Cập, miễn là hằng ngày được ngồi bên nồi thịt và được ăn uống no nê, còn hơn là được tự do mà bị đói khát thiếu thốn giữa nơi sa mạc hoang vu. Chúa đã trừng phạt họ về tội vô ơn bạc nghĩa ấy. Họ đã bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Bấy giờ họ mới hồi tâm sám hối và cầu xin Mô-sê để nhờ ông cầu xin Đức Chúa tha tội cho họ. Đức Chúa đã tha và truyền đúc tượng một con rắn bằng đồng, treo lên cây cột để ai bị rắn cắn mà tin cậy vào tình thương tha thứ của Đức Chúa, thể hiện qua việc nhìn lên con rắn đồng này, thì sẽ được cứu sống (x. Ds 21,8-9). + Con Người: là một hình ảnh được ngôn sứ Đa-ni-en nhìn thấy trong giấc chiêm bao. Con Người nói đây là một nhân vật được Đức Chúa tuyển chọn và trao cho sứ mạng cai trị muôn dân trong sự công minh chính trực (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su nhiều lần đã tự xưng là Con Người theo nghĩa này (x. Mt 8,20; 12,32). + Cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời: Đức Giê-su đã tiên báo Người sẽ được nâng lên khỏi mặt đất, bị treo trên cây thập giá, giống như con rắn đồng thời Mô-sê xưa, để giao hòa tội nhân với Đức Chúa và nên dấu chỉ ơn cứu độ cho loài người. Người cũng được nâng lên trong vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là được tôn vinh trong Thiên Chúa (x. Ga 3,13; 6,62), để kéo mọi tín hữu lên trời hưởng hạnh phúc với Người (x. Ga 8,28; 12,32-34).
- C 16-18: + Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một: Thánh Gio-an đã khẳng định nhiều lần: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Người thể hiện tình yêu qua việc ban Con Một yêu dấu cho thế gian. Thế gian chính là tất cả mọi loài thụ tạo, đặc biệt là loài người. Sự ban tặng này, gợi lên hình ảnh tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã vâng lời Đức Chúa, hiến dâng con trai độc nhất là I-sa-ác làm của lễ toàn thiêu tiến dâng Đức Chúa (St 22,2-13). + Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời: Điều kiện để được ơn cứu độ là phải tin vào Đức Giê-su - Con Một Thiên Chúa, là Đấng ban ơn cứu độ cho loài người. Ơn cứu độ là ơn tha thứ mọi tội lỗi, xóa bỏ hình phạt đáng chịu vì tội, và sau này được sống lại trong ngày tận thế để được hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời với Chúa.
4. CÂU HỎI: 1) Con rắn trong sa mạc thời kỳ Xuất Hành của Cựu Ước, liên quan thế nào với việc Đức Giê-su chịu chết trên thánh giá thời Tân Ước ? 2) Ngày nay nếu muốn được ơn cứu độ do Đức Giê-su, các tín hữu phải có những điều kiện nào? 3) Tin vào Con Thiên Chúa cụ thể đòi chúng ta phải làm gì? Tin như vậy sẽ mang lại những ơn ích gì ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3,15)
2. CÂU CHUYỆN: RẮN ĐỒNG TRONG SA MẠC
Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô vào lúc đêm tối, Đức Giê-su đã đề cập đến con rắn đồng đã được Mô-sê treo trên cây cột, như một biểu hiệu tình thương của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của dân Ít-ra-en. Tình thương ấy sẽ còn được biểu lộ qua việc Đức Giê-su bị giương cao trên cây thập giá, để những ai tin nơi Người, nhìn lên cây thập giá là biểu hiệu tình yêu tột đỉnh của Người, thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người cứu độ và được tham phần sự sống muôn đời của Người (Ga 3,14-15). Thánh Gio-an đã tóm kết như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
3. SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su là rắn đồng thời Tân Ước:
Đã từ lâu, hình ảnh một con rắn cuộn tròn quanh một cây gậy đã được ngành y dược thế giới chọn làm biểu tượng. Hình ảnh con rắn y dược này cũng giống như con rắn đồng thời kỳ Xuất Hành đựoc Đức Giê-su đề cập trong Tin Mừng hôm nay. Khi con cháu Gia-cóp được Mô-sê cứu khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập đi vào hoang địa trong cuộc hành trình về Miền Đất Hứa, họ đã phải trải qua cuộc sống gian khổ trong sa mạc nóng bức khô cằn, không bánh ăn, thiếu nước uống, không thịt thà rau thơm như khi con sống tại Ai cập trước đó… Họ đã kêu trách Đức Chúa và Mô-sê đã đầy đọa làm khổ họ và hè nhau quay trở về Ai Cập, sẵn sàng chịu làm nô lệ cho người Ai Cập, miễn là có bánh ăn, nước uống và hằng ngày ngồi bên nồi thịt thơm ngon …. Làm như vậy, họ đã phạm tội vô ơn bạc nghĩa với Đức Chúa, nên họ đã bị trừng phạt đích đáng: Ho9j đã bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Khi dân It-ra-en nhận thức ra tội lỗi của họ đã gây ra hình phạt như vậy thì họ đã xin Mô-sê cầu cùng Đức Chúa nguôi cơn giận. Đức Chúa đã sẵn sàng tha thứ và Chúa đã truyền cho Mô-sê đúc một con rắn bằng đồng, treo trên một cây cột, để làm biểu tượng ơn tha thứ tội lỗi. Đế những ai bị rắn cấn lẽ ra phải chết, nhưng nếu biết nhìn lên hình con rắn đồng và kêu cầu Đức Chúa tha tội thì sẽ được Người cứu khỏi chết.
Tuy nhiên con rắn đồng thời Xuất Hành chỉ là hình bóng của Đức Giê-su trong thời Tân Ước. Đức Giê-su đã được Chúa Cha sai đến làm Đấng Cứu Thế hay Đấng Thiên Sai. Người đã mở ra một con đường cứu độ cho dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Con đường Chúa Giê-su chọn đi là đường hẹp, leo dốc với nhiều chông gai và ít người muốn đi. Đây là con đường thánh giá mà Đức Giê-su đã trải qua để đền tội thay cho loài người chúng ta. Chính khi chịu chết trên thánh giá, Đức Giê-su đã trở thành linh dược chữa lành mọi tội lỗi và tật nguyền của chúng ta. Từ cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu, nước rửa tội đã chảy ra để tẩy rửa tội lỗi chúng ta và nhiều người. Rồi từ cạnh sườn bị đâm thâu, Máu bí tích Thánh Thể đã chảy ra để ban sự sống đời đời cho những ai tin cậy hiệp thông rước lễ trong Thánh lễ.
2) Phân biệt thập giá với Thánh Giá:
Thập giá là một hình khổ bằng gỗ được đóng lại thành hình thữ thập. Đây là hình khổ được người Rô-ma thường dùng để trừng phạt hành hình tử tội: Kẻ tử tội sau khi vác cây khổ giá đến nơi hành hình, sẽ bị lột trần và bị đóng đinh chân tay vào thập giá rồi được treo lên. Họ sẽ bị nhìn đói nhịn khát cho đến chết. Đây là hình phạt nặng nề nhất dành cho người nô lệ dám làm loạn chống lại quân Rô-ma, hay dành cho các tội nhân dân thường phạm trọng án cướp của giết người… Đức Giê-su đã bị các đầu mục dân Do Thái ganh ghét thù hằn bắt nộp cho quan Phi-la-tô người Rô-ma, và làm áp lực đòi ông này phải kết án tử hình thập giá cho Người bằng cách đồng thanh la to rằng: “Đóng đinh nó vào thập giá ! Đóng đinh nó vào thập giá !” (Mt 27,22-23).
Đức Giê-su đã chấp nhận con đường thập giá theo thánh ý Chúa Cha và mời gọi các môn đệ chấp nhận đi con đường này qua câu nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Chính khi chịu chết treo trên thập giá, Đức Giê-su đã có thể đền tội thay cho nhân loại chúng ta và là biểu tượng ban ơn cứu độ trong thời Tân Ước. Từ đây thập giá hình khổ của Đức Giê-su đã trở thành Thánh Giá đáng tôn thờ. Chính nhờ cây thánh giá này mà nhân loại chúng ta đã được hưởng lời hứa ban ơn cứu độ. Do đó, trong nghi thức suy tôn Thánh Giá tại các nhà thờ vào chiều Thứ Sau Tuần Thánh, Linh mục chủ sự sẽ cầm cây Thánh giá có tượng Chúa chịu nạn, giơ lên cho mọi người thấy và nói: “Đây là cây thánh giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian”. Cộng đoàn quỳ gối thưa chung: “Chúng ta hãy đến thờ lạy”.
3)Tập vác Thánh Giá trong cuộc sống hằng ngày:
Mỗi tín hữu chúng ta đều được Chúa Giê-su mời gọi hãy bỏ mình, nghĩa là bỏ đi cái tôi ích kỷ tự ái cao, là từ bỏ nhừng thói hư tật xấu mang mắc phải… để vác thánh giá mình hằng ngày mà theo chân Người. Thánh giá mỗi người chúng ta phải mang vác chính là những việc bổn phận hằng ngày phải kiếm tiền về lo cho gia đình, việc phục vụ cho cộng đoàn. Thập giá còn là những tai ương bệnh tật hay thất bại trái với ý muốn, là những bệnh nhận liệt giường trong gia đình, hay người chồng và vợ con khó nết luôn gây sự bực bội cho mình…
Chúa Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Nếu mỗi tín hữu chúng ta cũng biết noi gương Chúa đón nhận các gian nan thử thách, chịu đựng các điều trái ý… Đó là chúng ta đang đi con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Chúa Giê-su. Ước gì mỗi lần phải chịu đựng đau khổ, thất bại, rủi ro… chúng ta hãy noi gương Chúa Giê-su để dâng một lời cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha. Con xin chịu đựng sự đau khổ này để đền tội con và cầu cho một người thân đang đi con đường lầm lạc, sớm được ơn trở về giao hòa với Cha”.
4. THẢO LUẬN: Làm thề nào để thể hiện đức tin khi gặp nhừng điều trái ý, những thất bại hay những điều cực lòng trong cuộc sống… hầu biến các điều ấy trở thành phương thế giúp chúng ta thanh luyện và nhận được ơn cứu độ của Chúa ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi lần chúng lỡ sa ngã phạm tội, xin Chúa cho chúng con biết tin cậy phó thác trong tình thương bao dung của Chúa, và dọn mình lãnh nhân ơn giao hòa trong bí tích giải tội. Xin cho chúng con năng nhìn lên thánh giá Chúa là nguồn ơn cứu độ độc nhất của chúng con. Xin giúp chúng con năng đi chặng đàng thánh giá, hằng ngày đọc kinh Mân côi với phần suy niệm năm sự thương để cảm nghiệm được tình Chúa yêu con, giúp con quyết tâm chừa cải tội lỗi và các thói hư. Nhờ đó, chúng con xứng đáng nhận được ơn Chúa tha thứ tội lỗi, được Chúa Thánh Thần biến đổi nên con ngoan của Chúa Cha, nên môn đệ đích thật của Chúa Giê-su, và nên anh chị em của mọi người trong cộng đoàn Hội Thánh.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH – HHTM

------------------------------

 

14/09-35: Lễ Suy tôn Thánh Giá

 

Ý nghĩa của đau khổ được lồng trong hình ảnh rất quen thuộc đối với Ki-tô hữu, đó là thánh giá: 14/09-35


Ý nghĩa của đau khổ được lồng trong hình ảnh rất quen thuộc đối với Ki-tô hữu, đó là thánh giá.  Tuy nhiên ý nghĩa nguyên thủy của Thánh giá là ý nghĩa cứu độ, theo đó Giáo Hội dành một lễ đặc biệt để ta có thể suy tôn sự cao trọng của thập giá Chúa Ki-tô.  Chính Chúa Giê-su đã cho ta thấy ý nghĩa cứu độ này khi Người phán:  “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15).  Thêm vào đó, suy niệm của thánh Phao-lô giúp ta hiểu rõ hơn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
1.  Câu truyện cứu sống trong sa mạc (bài đọc Cựu Ước – Ds 21:4b-9)
          Mặc dù dân Ít-ra-en được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập và hành trình về Đất hứa, họ vẫn không hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, kêu trách Người và vị lãnh đạo là ông Mô-sê về đời sống cực khổ trong sa mạc.  Để cảnh tỉnh họ, Chúa để cho rắn độc cắn nhiều người phải chết.  Sợ hãi trước cái chết, họ lại chạy đến xin ông Mô-sê khẩn cầu Chúa cứu họ.  Theo lệnh Chúa, ông làm một con rắn bằng đồng, treo lên cao ở giữa trại để bất cứ ai bị rắn cắn chỉ cần nhìn lên nó sẽ được Chúa cứu khỏi chết.
          Câu truyện lịch sử này gợi lại cho ta lịch sử cứu độ Thiên Chúa thực hiện qua Chúa Giê-su Ki-tô.  Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê làm một con rắn bằng đồng rồi “treo lên một cây cột.  Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.  Đã từ lâu, biểu tượng của y khoa là một con rắn được treo trên cây cột  khiến ta liên tưởng đến câu truyện ông Mô-sê treo con rắn đồng lên cột cao để chữa lành những người bị rắn độc cắn.  Con rắn và cây cột trong sa mạc chỉ là một biểu tượng giúp gợi lên lòng tin vào Chúa nơi dân Ít-ra-en.  Khi người ta nhìn lên đó và có lòng tin vào Chúa thì Người sẽ cứu họ khỏi cái chết do nọc độc của rắn lửa.  Đó là câu truyện con rắn đồng trong sa mạc.  Chúa Giê-su đã lấy câu truyện ấy để áp dụng cho chính mình.  Người dùng hình ảnh ấy để so sánh với sứ mệnh cứu độ Người sẽ hoàn tất:  “Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đởi”.
          Sau khi được Thiên Chúa tạo dựng, con người đã không vâng phục Thiên Chúa.  Họ để cho con rắn Xa-tan quỷ quyệt đánh lừa, nhả vào con người họ nọc độc của nó là tội lỗi và gây nên cái chết thể xác cũng như phần hồn (Rm 5:12; 1 Cr 15:55).  Từ đó, thế giới trở thành một sa mạc và toàn thể nhân loại đều bị nhuốm nọc độc của Xa-tan, nên phải chịu đau khổ và phải chết vĩnh viễn nếu không được cứu chữa.  Tuy nhiên Thiên Chúa có kế hoạch để cứu độ nhân loại.  Người có thể treo lên một con rắn đồng khác.  Nhưng như thế con người khó nhận ra được tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa.  Do đó, Người đã chọn một cách thức quả thực nhiệm mầu, là sai chính Con Một Người xuống trần gian, để Con Một Người được giương lên cao cho ai nấy nhận biết Chúa yêu thương nhân loại đến mức nào (Ga 3:16).
          Cây cột do ông Mô-sê dựng trong sa mạc chỉ để “giương cao” con rắn lên cho mọi người nhìn thấy.  Còn cây thập giá để “giương cao” Chúa Ki-tô lên mang ý nghĩa sâu xa hơn vô cùng.  Nó gắn liên với sự đau đớn và nhục nhã Chúa Ki-tô phải chịu.  Nó thay thế cho cây biết lành biết dữ trong vườn địa đàng và nảy sinh hoa quả cứu độ cho loài người.
2.  Thập giá là thước đo sự vâng phục của Chúa Ki-tô (bài đọc Tân Ước – Pl 2:6-11)
          Suy niệm về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh Phao-lô đã đặc biệt đề cao vai trò của Chúa Ki-tô, nhất là việc Người trút bỏ vinh quang Thiên Chúa đến làm người giữa nhân loại.  Với lời lẽ của đoạn thư đã trở thành bài thánh thi của Giáo Hội sơ khai, thánh Phao-lô khai triển sự vâng phục của Chúa Ki-tô qua từng hành vi diễn tả con đường Thiên Chúa đến cứu độ nhân loại.  Trước hết là hành vi Chúa Ki-tô trút bỏ địa vị và vinh quang Thiên Chúa để xuống thế làm người.  “Sống như người trần thế”, Chúa Ki-tô đã sống đời hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa.  Mức độ vâng phục ở đây là Người “bằng lòng chịu chết”.  Tuy nhiên vẫn chưa có thể đo lường được cao độ vâng phục của Chúa Ki-tô bằng duy cái chết mà thôi.  Do đó, thánh Phao-lô đã nói thêm về cái chết ấy phải như thế nào để cho ta thấy Chúa Ki-tô đã vâng phục một cách hoàn toàn tuyệt đối.  Thời ấy, không có cái chết nào nhục nhã hơn cái chết bị đóng đinh vào thập giá, là “điều ô nhục không thể chấp nhận đối với người Do-thái” (1 Cr 1:23).  Vậy mà Chúa Ki-tô đã vui lòng chịu chết với một cái chết chẳng có người Do-thái nào muốn chết như thế.  Thập giá đã xác định cái chết của Chúa Giê-su, không phải cái chết bình thường, nhưng cái chết ô nhục nhất.  Cho nên chính thập giá đã chứng tỏ sự vâng phục của Chúa Ki-tô là vâng phục tuyệt đối và có khả năng đền bù tội bất tuân của A-đam xưa.  Hơn nữa, hiệu quả của sự vâng phục tuyệt đối này cũng được minh chứng do việc Chúa Cha đã siêu tôn Đức Giê-su Ki-tô:  “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người…”
          Nếu thực sự hiểu được thập giá là mức độ đo lường sự vâng phục của Chúa Ki-tô, thì ta hãy trở về với chính mình để xét lại sự vâng phục của ta đối với Thiên Chúa.  Đời ta quả thực có quá nhiều thập giá, nhưng lấy thập giá để xét xem mình có thực sự vâng phục Chúa trong mọi sự hay không thì ít khi nào, trái lại thường là những lúc ta dễ dàng kêu trách Chúa như dân Ít-ra-en xưa.
3.  “Để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (bài Tin Mừng – Ga 3:13-17)
          Chúa Ki-tô đã được “giương cao” trong thế giới sa mạc này không phải chỉ như một biến cố lịch sử, nhưng như nguồn ơn cứu độ.  Thánh giá gắn liền với cuộc đời và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su, từ khi sinh ra tại Bê-lem cho đến lúc tắt thở trên đồi Sọ.  Thánh giá là điểm kết thúc cuộc Thương khó của Người, nhưng cũng là điểm khởi đầu cho một cuộc Tạo Dựng Mới.  “Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19:30).  “Lúc khởi đầu” cuộc sáng tạo, Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước mênh mang (St 1:2).  Giờ đây, “Lúc khởi đầu” cuộc Sáng Tạo Mới, Chúa Ki-tô “trao ban Thần Khí” để sản sinh một nhân loại mới gồm những người được kêu gọi, cứu chuộc và dự phần gia nghiệp Thiên Chúa.
          Thập giá Chúa Ki-tô là dấu chỉ cứu độ.  Nhưng nhận ra Đấng cứu độ là bước ta phải tiến tới, vì nếu không, thập giá sẽ là dấu chỉ vô nghĩa giống như bao người đeo thánh giá như một món trang sức mà không biết đến ý nghĩa cứu độ.  Nói khác đi, thánh giá phải đưa ta tới Chúa Ki-tô, Đấng bị đóng đinh trên thập giá.  Mục đích của thánh giá là giúp ta tin vào Chúa Ki-tô để được sống muôn đời.  Thánh giá trở thành con đường đưa ta đến sự sống muôn đời.  Trên đường ấy, ta được Chúa Ki-tô, người Hướng đạo và đồng hành, cùng đi với ta, cùng chia sẻ khổ đau với ta.  Trên đường ấy, ta được mời gọi “trở nên đồng hình đồng dạng” với Chúa Ki-tô (Pl 3:10).  “Tin vào Người” đòi hỏi ta phải “chịu đóng đinh” với Người.  Thánh Phao-lô đã giảng giải về việc đóng đinh này.  Ngài viết cho tín hữu Ga-lát:  “Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” (Gl 6:14).  Những lời này cho ta thấy hai chiều kích của đời sống Ki-tô hữu.  Thập giá Chúa Ki-tô đòi hỏi ta trước hết phải “đóng đinh thế gian vào thập giá”, nghĩa là phải bỏ đi những gì thuộc về thế gian, tội lỗi và ma quỷ.  Ngược lại, trong chiều kích tích cực, ta phải “đóng đinh chính mình” vào thập giá Chúa Ki-tô, để được kết hiệp với Chúa Ki-tô, sống theo giáo lý và gương mẫu của Người, nhất là sống trong sự vâng phục Thiên Chúa như con cái Người, trở nên tạo vật mới do ơn cứu độ Chúa Ki-tô chịu đóng đinh đem lại (Gl 6:15).
4.  Sống Lời Chúa
          Chúa Ki-tô chịu đóng đinh trên thập giá có lẽ là hình ảnh ta gặp thấy nhiều nhất, trong nhà thờ, trong phòng ngủ tại tư gia, trên tường, trên ngực…  Thánh giá quá quen thuộc đến độ ta dễ dàng quên mất ý nghĩa đích thực của nó là ơn cứu độ.  Giáo Hội suy tôn Thánh giá là vì muốn nhắc nhở ta hãy suy niệm ý nghĩa cao cả của nó.  Nhưng hơn thế nữa, ta được mời gọi hãy đến với Đấng đã dùng Thánh giá để cứu chuộc muôn người, hãy “cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá”, hãy “sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2:19-20). 
Suy nghĩ:  Tôi hiểu ý nghĩa của Thánh giá như thế nào?  Tôi có thường suy nghĩ về mục đích của Thánh giá là để cứu độ tôi không?  Nếu thế, tôi có cảm tạ Chúa về sức mạnh của thánh giá và thấy mình được hãnh diện chung phần thánh giá với Chúa Ki-tô không?  Những thí dụ cụ thể nào trong cuộc sống nói lên việc tôi kết hiệp với Chúa Ki-tô chịu đóng đinh?
Cầu nguyện:  Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá để cứu chuộc loài người.  Xin cho chúng con mai sau được hưởng nhờ quả phúc cây thập giá, mà ngày nay chúng con vẫn một lòng yêu mến suy tôn.  Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  A-men.  (Lời nguyện Nhập lễ, lễ Suy tôn Thánh giá).

Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

------------------------------

 

14/09-36: Thập Giá, con đường về trời

 

Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khuôn mặt, bất kỳ lúc nào cũng có thể ngước nhìn lên trời: 14/09-36


Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khuôn mặt, bất kỳ lúc nào cũng có thể ngước nhìn lên trời. Khi thức cũng như khi ngủ, và ngay cả khi đã bị chôn vùi trong lòng đất, mặt chúng ta cũng vẫn còn hướng lên trời. Vậy hướng lên trời để làm gì? Tôi xin thưa là để chúng ta nhớ rằng chúng ta còn có một người Cha đang mong chờ chúng ta, cũng như để chúng ta xác tín rằng Nước Trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Vậy thì để tìm về với Chúa, để đạt tới quê hương Nước Trời, chúng ta phải làm gì?
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa đã xác quyết: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Thế nhưng con đường ấy như thế nào? Phải chăng là một con đường ngợp những cánh hoa. Tôi xin thưa không phải là như thế, nhưng là một con đường vừa khúc khuỷ, vừa nhỏ bé mà ít người muốn đặt chân vào. Và cụ thể hơn nữa, đó là con đường đau khổ, con đường thập giá như lời Người đã xác quyết: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Đó là con đường duy nhất, rẽ ngang vào một lối khác, chắc chắn thế nào chúng ta cũng bị lạc.
Thực vậy, muốn được vào Nước Trời, chúng ta phải có công nghiệp, mà muốn có công nghiệp, chúng ta phải vác lấy thập giá mình. Công nghiệp của chúng ta mặc dù là nhỏ bé nhưng lại là một sự cộng tác cần thiết cho chính bản thân chúng ta được cứu rỗi. Bởi đó chúng ta đừng vội lẩm bẩm kêu trách mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách. Trái lại hãy coi đó là một diễm phúc vì được làm chính việc của Chúa, vì được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Hơn nữa những khổ đau chúng ta phải chịu trong cuộc sống hiện tại, sẽ không thể nào sánh ví được với hạnh phúc trường tồn vĩnh cửu mà chúng ta sẽ được đón nhận trên quê hương Nước Trời.
Có một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng vắng, ngày đêm không lúc nào ra khỏi chiếc lều ẩm thấp và chật hẹp. Ấy là chưa kể đến những hình khổ mà thầy dùng để đánh tội. Ngày kia có mấy người quý phái đến thăm, họ hết sức ngạc nhiên khi thấy thầy hãm mình một cách nghiêm ngặt. Họ hỏi thầy làm sao mà thầy có thể chịu đựng nổi. Thầy bèn chỉ vào một kẽ nứt bằng bàn tay trên vách núi và nói: Chính cái đó đã giúp đỡ tôi. Vì mỗi khi thân xác tôi muốn nổi loạn, thì qua kẽ nứt ấy tôi nhìn thấy bầu trời, và qua bầu trời tôi nhớ tới quê hương vĩnh cửu và đích thật của tôi.
Thực vậy, những giọt nước mắt ngày hôm nay nhỏ xuống, thì ngày mai sẽ kết thành những trái chín của hạnh phúc Nước Trời, bởi vì nhờ những giọt nước mắt khổ đau ấy mà chúng ta trở nên giống Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người. Bởi vì chính Ngài đã long trọng công bố: Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an.

------------------------------

 

14/09-37: Suy tôn Thánh Giá


 – Radio Veritas Asia

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục: 14/09-37


Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục công giáo tại bang Carolina vào Tuần Thánh.
Để giúp các tín hữu trong giáo xứ suy niệm về mầu nhiệm thập giá, linh mục này cho dựng một cây thập giá cao to, bằng gỗ sơn đen ngay trong sân nhà thờ. Chẳng may trong ngày hôm đó, có người xưng mình là đại diện cho hãng du lịch trong vùng gọi điện thoại đến khiếu nại. Lý do như sau: khách du lịch đi qua trước nhà thờ không thích nhìn thấy cây thập giá đen thui này, họ muốn xem những gì vui tươi hơn. Đó là câu chuyện của đời này ở bên Hoa Kỳ. Nhiều người đã quên hay cố quên mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin, nhưng không phải chỉ là chuyện đời này mà thôi, ngay từ thời xa xưa, thời các thánh tông đồ cũng đã xảy ra như thế. Thánh Phaolô đã thốt lên rằng: "Nhiều người sống nghịch lại thập giá Chúa. Họ chỉ sống theo cái bụng, chạy theo lợi lộc, ham vui". Thập giá Chúa còn có ý nghĩa gì đối với người Kitô hôm nay chăng?
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh từ trời xuống của chính mình như là Con Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời, ngoài trừ Con Người, Đấng từ trời xuống". Tự nó, thập giá là chặng dưới đất và thực tại đau buồn do con người tạo ra, nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó thì cần phải đóng đinh Con Thiên Chúa vào đó, cần phải hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn từ trên cao, trong cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian và chịu chết treo trên thập giá, để biến dấu chỉ của sự trừng phạt trở thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. "Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, như con rắn đồng của Môsê, để ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời". Chúa muốn ông Nicôđêmô nhìn về thập giá từ trên cao theo cái nhìn của chính Chúa, và lúc đó con người sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa dùng thập giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái Pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.
Mỗi người Kitô chúng ta hôm nay, nhân ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
Lạy Chúa,
Xin thương dạy con hiểu biết, đón nhận và sống mầu nhiệm thập giá trong chính đời sống của con. Xin cho con một tâm hồn quảng đại, không chạy trốn trước lời mời gọi của thập giá Chúa, nhưng sẵn sàng để cho cuộc đời con được đóng đinh vào thập giá với Chúa, trở thành của lễ hy sinh, giúp anh chị em nhận ra tình yêu Chúa.

---------------------------------

 

14/09-38: Lễ suy tôn Thánh Giá


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

 

Đã là người, không ai tránh khỏi thập giá. Thập giá có thể làm tê liệt hoặc hủy hoại con người, nhưng: 14/09-38


Đã là người, không ai tránh khỏi thập giá. Thập giá có thể làm tê liệt hoặc hủy hoại con người, nhưng nó cũng có thể là phương tiện giúp người ta nhận ra sự thực về chính mình, giúp người ta gần gũi và tùy thuộc Thiên Chúa hơn.
1) Thập Giá
Khi một người đang đi xe trên đường, gặp một cây lớn nằm vắt ngang; việc đưa chiếc xe vượt qua cản trở này là một vất vả với họ; cây nằm ngang đường đúng là “thập giá”. Tùy cây đó lớn nhỏ mà người ta có thể vượt qua chướng ngại đó hay không. Chuyện cái cây vắt ngang đường chỉ là một hình ảnh, “thập giá” cũng có thể là “cây” mà người ta đã ấn trên vai Đức Giêsu, và bắt Ngài vác ra gò Sọ, nơi mà chẳng ai muốn cho mình. Trên đường đời, có bao nhiêu cản trở vắt ngang; nó có thể là những bệnh tật, những thất bại trong đường công danh sự nghiệp, điều không được như ý trên đường tình duyên.
Thập giá đã hủy diệt nhiều người, nếu người ta không vượt qua được mà cũng không sẵn sàng chấp nhận thập giá. Có nhiều người cảm thấy bất hạnh khi gặp những bệnh nan y, thế nhưng cũng có những người chấp nhận bệnh hoạn, và vui sống trong hoàn cảnh của mình. Có những người mắc bệnh phong, nhưng vẫn vui trong tình trạng và hoàn cảnh của họ; họ còn lạc quan hơn nhiều người không mắc bệnh gì.
Vượt qua cái cây đổ ngang trên đường, là điều có thể làm được. Tránh khỏi thập giá người ta ấn trên vai như trường hợp Đức Giêsu bị dẫn trên đường đến gò Golgotha, là điều không thể. Có lúc người ta vượt qua thập giá, nhưng có lúc người ta phải chấp nhận thập giá; chấp nhận thập giá cũng là một cách vượt qua thập giá. Đức Giêsu là người đã vượt qua thập giá bằng cách chấp nhận; và các Kitô hữu anh hùng tử đạo cũng là những người đã noi gương Đức Giêsu, vượt qua thập giá bằng cách chấp nhận; các ngài đã lãnh nhành thiên tuế.
2) Thập Giá của Đức Giêsu
Thời Đức Giêsu, người Do Thái sống dưới ách thống trị của người Roma, hình phạt chết treo thập giá là một điều khủng khiếp, một mối nhục. Người Roma không bị kết án chết trần truồng trên thập giá. Án thập giá chỉ dành cho những dân bị trị. Án thập giá là án ô nhục nhất giữa những hình phạt dành cho tội nhân. Đức Giêsu đã bị thi hành án ở gò Sọ, gần thành Yêrusalem, bên đường đi. Sở dĩ những người lãnh án bị hành hình nơi có người qua lại như thế, là nhằm răn dạy những người còn sống: nếu họ hành xử như vậy, họ cũng sẽ bị hình phạt như thế. Những người cầm quyền mong rằng, khi người ta nhìn thấy cảnh khủng khiếp của những tội nhân tử hình như vậy, người ta sẽ khiếp sợ mà không phạm tội nữa.
Đức Giêsu đã bị chết treo thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài bị người ta liệt vào đồng hàng với những người tệ nhất trên đời. Hình phạt tử hình thập giá cho Ngài như cao điểm thập giá trong đời Ngài, tuy nhiên thập giá đã không thiếu trong suốt đời Đức Giêsu. Sinh trong một gia đình nghèo, thiếu điều kiện sống và ăn học, cũng là thập giá đối với nhiều người; sống trong một làng nghèo, với nhiều người, cũng là một thập giá. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu đã bị nhiều người chống đối; Ngài bị người ta cho là người mất trí, một kẻ lộng ngôn phạm thượng, một kẻ thuộc phe quỷ vì lấy quyền của tướng quỷ mà trừ quỷ, một tội nhân. Bao nhiêu chống đối, bao nhiêu bất lợi trên đời: đó cũng là những thập giá đối với Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã không bị hủy diệt bởi dư luận, bởi thế lực phàm trần. Người ta có thể vu oan giá họa cho Ngài, người ta có thể giết Ngài, nhưng người ta không thể bắt Ngài khuất phục. Ngài là con người tự do với tất cả: tự do với tiền bạc, tự do với dư luận khen chê, tự do với mọi thế lực hãm hại Ngài. Ngài vẫn cố sống cho ra người, trong mọi hoàn cảnh, và sống yêu thương. Tất cả những hoàn cảnh và thái độ của người ta đối với Ngài, vẫn không thay đổi được thái độ thẳm sâu của Ngài đối với mọi người: yêu thương. Ngài yêu thương tất cả con người, thông cảm với những giới hạn của con người, ngay cả đối với những người thù ghét và giết chết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”.
3) Thập giá tôi luyện con người
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Đường gian nan, sông khúc khuỷu, mới biết tay đua giỏi. “Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Con người ta lộ diện mình là ai, khi gặp những lúc gian nan sóng gió. Trước khi đưa một vật tưởng là vàng mà không phải là vàng thật vào lửa, người ta có thể lầm tưởng nó là vàng thật; nhưng một khi đưa nó vào lửa, lửa giúp người ta nhận ra sự thật: nếu là vàng thật nó sẽ không biến đổi, còn nếu là vàng giả thì nó sẽ biến đổi màu.
Thập giá giúp con người biết rõ về mình, biết mình là ai. Thập giá giúp mình nhận ra mình thật mong manh mỏng dòn, và cần Thiên Chúa giúp để có thể vượt qua những sóng gió chông gai trên đường đời. Thập giá, đối với những ai thuộc về Thiên Chúa, có thể giúp con người cậy dựa vào Thiên Chúa, tùy thuộc Thiên Chúa, gần gũi Thiên Chúa, thuộc trọn về Thiên Chúa hơn.
Thập giá không phải luôn luôn đến từ sự dữ, nhưng giả sử nếu nó do sự dữ thì con người vẫn chiến thắng sự dữ nhờ vào Thiên Chúa, như Đức Giêsu đã chiến thắng sự dữ nhờ Thiên Chúa. “Khi con người bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”. Chính khi sự dữ giết được Đức Giêsu, thì lúc đó nó chiến bại. Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu. Thiên Chúa chiến thắng sự dữ. Những ai kết hiệp với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa, thì sẽ chiến thắng sự dữ, vì Thiên Chúa chiến thắng sự dữ qua chính người đó.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Bạn có kinh nghiệm thập giá làm hủy hoại con người không? Xin chia sẻ.
 Thập giá có khi nào làm người ta thăng hoa không? Xin bạn chia sẻ quan điểm và kinh nghiệm.

---------------------------------

 

14/09-39: Thánh Giá, tình yêu bừng sức sống


(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

 

Nhìn lên thánh giá, suy nghĩ nông cạn và non nớt của loài người dễ cho rằng, đó là một thất bại: 14/09-39


Nhìn lên thánh giá, suy nghĩ nông cạn và non nớt của loài người dễ cho rằng, đó là một thất bại to lớn. Người ta cũng dễ dàng nghĩ rằng, dấu vết của Thánh Giá chẳng qua chỉ là những kỷ niệm về một cái chết nhục nhã của một con người mà các Kitô hữu coi là vị lãnh đạo của mình, còn ghi lại nơi đời sống các Kitô hữu.
Suy nghĩ như thế là hời hợt, là dốt nát trước nội dung của bài học mà Thánh Giá gợi lại. Thực ra, đối với Kitô hữu, Thánh giá chính là hiện thân, là sự thành công lớn lao của một tình yêu vừa tận cùng vừa bất tận. Nói đúng hơn, đó là sự tận cùng của một tình yêu bất tận. Đó là một tình yêu vượt hết mọi rào cảng, vượt thắng tất cả sự tàn nhẫn và tội ác của con người. Đó là một tình yêu hạ mình, một tình yêu mà Thiên Chúa là Chúa trời đất đã hiến dâng chính mình để cứu lấy con người.
Nhìn lên Thánh Giá, các Kitô hữu không chỉ ôn lại một kỷ niệm, nhưng còn thấm thía nỗi đau trong tâm hồn, vì họ nhận ra dấu vết khủng khiếp do tội lỗi chính mình gây ra. Từ giữa bóng đêm tội lỗi ấy, lại tuôn trào sức sống Phục Sinh khơi nguồn từ Thánh Giá Chúa Kitô.
I. TỪ THÁNH GIÁ BỪNG LÊN ƠN PHỤC SINH
Mừng lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa, ngắm nhìn Thánh Giá Chúa, ta chỉ thấy một nỗi im lặng bao trùm. Nhưng chính trong ý nghĩa của thinh lặng Thánh Giá, ta lại nghe bằng chính nội tâm mình tiếng gào thét của một sức mạnh vô cùng: sức mạnh của một Tình Yêu đời đời bền vững. Sức mạnh của Tình Yêu trường cửu làm bừng lên ơn Phục Sinh giữa những tăm tối của nỗi chết chóc.
Ngay buổi chiều ngày Phục sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ. Sau khi ban bình an, “Chúa cho các ông xem tay và cạnh sườn” của mình. Cho xem tay và cạnh sườn cũng đồng nghĩa với việc Chúa cho xem dấu vết kinh hoàng của Thánh Giá. Nhưng buổi chiều hôm Phục Sinh, thánh Tôma lại vắng nhà. Ông đã tỏ dấu nghi ngờ và đòi kiểm chứng sự kiện Phục Sinh. Đúng một tuần lễ sau, Chúa Phục Sinh đã đáp ứng đòi hỏi và giải tỏa nghi ngờ của thánh Tôma. Người hiện ra và bảo: “Tôma, đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Trước dấu chứng hùng hồn của Thánh Giá trên thân thể Đấng Phục Sinh, thánh Tôma chỉ còn biết run rẫy, cúi đầu thú nhận: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 19-31).
Chúa Kitô đã phục sinh. Nhưng Chúa chỉ phục sinh sau Thánh Giá. Vì thế, sự Phục Sinh dù vinh hiển và khải hoàn đến đâu, vẫn không thể xóa nhòa bất cứ một dấu ấn nào của Thánh Giá trên thân thể Đấng Phục Sinh. Nơi Chúa Kitô, hội tụ cả hai: Thánh Giá và Phục Sinh. Để có Phục Sinh cần có Thánh Giá. Như vậy, trước Phục Sinh đã có Thánh Giá. Thánh Giá đi trước và Phục Sinh đi sau, làm thành cuộc Vượt Qua có một không hai trong lịch sử, làm nên lịch sử và thánh hóa lịch sử. Thánh Giá khơi nguồn ơn Phục Sinh. Từ Thánh Giá, bừng lên ánh sáng chói ngời của ơn Phục Sinh. Bởi Đấng đã ngang qua Thánh Giá vào Phục Sinh vẫn khắc sâu dấu Thánh Giá nơi thân thể mình dù đã phục sinh, vì vậy, Thánh Giá:
- Không bao giờ mai một trên bàn thờ, trong từng hiến lễ. Chính vì thế, Chúa Kitô vẫn tiếp tục dâng hy tế của mình để tuôn trào ơn Phục Sinh mỗi khi dân Chúa cử hành mầu nhiệm Vượt Qua.
- Không bao giờ mai một trong Hội Thánh. Chính vì thế, Hội Thánh từ ngàn xưa, vẫn không ngừng đón nhận những thử thách và ngày càng lớn lên trong mọi thử thách ấy.
- Không bao giờ mai một trong nhân loại. Chính vì thế, nhân loại vẫn gánh lấy sức nặng của chính mình để tồn tại, để phát triển.
- Không bao giờ mai một trong lịch sử. Chính vì thế, lịch sử còn đó rất nhiều vết máu loan vương vãi, sẽ còn tiếp tục loan máu để gầy dựng một trang sử không phải cho quốc gia này, thế lực kia, dân tộc nọ, nhưng là một trang sử Thánh, chứa đựng ơn cứu độ loài người.
- Không bao giờ mai một trong sự sống của thụ tạo. Chính vì thế, "nếu thụ tạo đã từng ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm 8, 19), sẽ còn tiếp tục “rên xiết và quằng quại đau đớn như sắp sinh nở” (Rm 8, 22) cho đến ngày chuyển vào “trời mới đất mới” (Kh 21, 1).
- Không bao giờ mai một trong đời người. Chính vì thế, đời người vẫn còn đó nhiều đau đớn, ưu phiền, tang tóc…
Và mãi mãi sẽ không bao giờ mai một. Nhân loại vẫn còn, thụ tạo vẫn còn, vẫn còn đó dấu ấn vô cùng của Thánh Giá.
Nếu Chúa Kitô đã phục sinh ngang qua Thánh Giá, chúng ta cũng sẽ như Chúa của mình, sẽ phải đón nhận Thánh Giá, rồi vào vinh quang Phục Sinh. Bước theo Chúa, vác Thánh Giá để đến Phục Sinh, đó là hành trình tất yếu, sẽ không bao giờ vắng bóng trong đời người.
Vì thế, dấu vết kinh hoàng của Thánh Giá trên thân thể Đấng Phục Sinh còn là một nhắc nhở cho ta về khuôn mặt tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu, Thiên Chúa đã cúi mình thật sâu trong thân phận con người để ta được diễm phúc làm con Thiên Chúa.
II. THÁNH GIÁ, BÀI CA TUYỆT MỸ CỦA TÌNH YÊU
Mãi mãi, dấu Thánh Giá vẫn không bao giờ mai một trong Hội Thánh nói riêng và trong nhân loại nói chung, để bất cứ nơi đâu, nếu nhìn thấy bóng dáng Thánh Giá, người ta nhận ra rằng, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu chung thủy, vẫn mãi mãi hiện diện giữa lòng đời. Đó là bài ca tuyệt mỹ của tình yêu tuyệt đối.
Thánh Gioan đã ghi nhận lời của Chúa Giêsu, cũng chính là ghi nhận lời của Tình Yêu không cùng ấy: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin ở Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3, 16). “Yêu… đến nỗi đã ban”, Cụm từ tuy đơn giản nhưng khắc họa sự lớn lao hết sức của tình yêu, đủ nói lên tất cả sức mạnh, tất cả sự tha thiết, tất cả sự mãnh liệt của một tấm lòng yêu thương. Còn hơn cả một lòng yêu thương mà chúng ta vẫn bắt gặp nơi nhiều anh chị em, bởi Đấng đã “Yêu… đến nỗi đã ban” ấy không phải là tình yêu con người dành cho nhau, nhưng là tình yêu của Đấng Tạo Thành dành cho thụ tạo của mình. Đó là Tình Yêu của Thiên Chúa hiến dâng cho loài người. Và tình yêu mà Thiên Chúa đã trao hiến ấy, không phải là cái gì bên ngoài Thiên Chúa, nhưng là chính bản thân Thiên Chúa, là chính Đấng phát xuất từ giữa cung lòng Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, là hiện thân khôn tả của tình yêu vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người.
Vì thế, khuôn mặt thập giá của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn nhất, là tiếng nói mạnh mẽ nhất, là nét bút tuyệt vời nhất, là vết khắc sâu sắc nhất về một tình yêu bền vững có một không hai trong lịch sử nhân loại, tình yêu của Thiên Chúa từ trời cao dành cho người trần thế. Bởi vậy, cái chết của Con Người chịu đóng đinh kia, cho thấy chiến thắng của tình yêu siêu phàm. Cái chết uy hùng kia biểu dương một tình yêu mạnh hơn sự chết, có sức tiêu diệt hận thù và làm phát sinh từ trong cái chết của tội lỗi loài người một nguồn sống vô tận cho cả loài người.
Nơi Thánh Giá, chúng ta nhận ra rằng, chính khi tội ác của con người lên đến cao điểm, thì cũng là lúc tình yêu của Thiên Chúa dâng cao tột cùng. Nơi Thánh Giá, tình yêu chiến thắng tội ác; sự sống chiến thắng sự chết; ánh sáng chiến thắng bóng tối; tha thứ chiến thắng hận thù. Đó cũng chính là phương tiện mà loài người dùng để khử trừ Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mình, lại được Thiên Chúa dùng để quay lại cứu độ loài người.
Vì thế, Thánh Giá, nơi Thiên Chúa hiến trao Con Một mình, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian, lại chính là nơi cứu chữa cả một đoàn con đông đảo trên khắp trần gian. Và Thánh Giá, nơi sĩ nhục không gì bằng, lại trở nên vinh quang vô cùng cho tất cả những ai tin. Bởi tất cả những ai tin, sẽ thuộc về Chúa Kitô và sẽ được Người cứu thoát như chính Người đã từng tuyên bố: “Chúa Cha yêu thương Người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời” (Ga 3, 35-36).
III. KẾT LUẬN
Hôm nay, tôn thờ Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vô cùng, vì Người đã yêu thương ta đến nỗi không còn kể mình nữa, miễn là ta được sống. Muôn đời, Thánh Giá là bài ca tuyệt mỹ của một Tình Yêu tuyệt đối: THIÊN CHÚA YÊU CON NGƯỜI. Thiên Chúa yêu đến nỗi “đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin ở Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Chúa Giêsu đã chấp nhận chết và chết trên Thánh Giá. Đó là lời nói cuối cùng, vô giá của tình yêu. Bởi “không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Vì thế, tình yêu mà Chúa Giêsu diễn tả qua Thánh giá là một tình yêu không còn bất cứ cái gì sánh ví. Thánh Giá, mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa, là cuốn sách giá trị tuyệt đối, mà ở đó, những trang sách viết đầy hai chữ “TÌNH YÊU”. Cuốn sách ấy mở ra cho con người ơn bình an vô cùng, khiến con người hạnh phúc và reo vui vì được giải thoát.
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa. Chúng con ca tụng Tình Yêu diệu kỳ của Chúa đã làm cho chúng con được tái sinh trong sự sống. Xin cho chúng con luôn ý thức Tình Yêu mà Chúa dành cho chúng con, để chúng con sống suốt đời cho Tình Yêu của Chúa, và ngày càng xứng đáng với mối tình siêu nhiên ấy.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con điều khó khăn trên mọi điều khó khăn, đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Chúa trong mọi nỗi khổ đau của đời con. Xin cho con đủ sức và lâu bền đi trên chính con đường Thánh Giá mà Chúa trao, để chúng con được thấy tình yêu chia sẻ và nâng đỡ của Chúa trong suốt mọi chặng đường Thánh Giá của cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, xin cho mỗi lần nhìn lên Thánh Giá là một lần chúng con ý thức ngày một hơn lòng thương xót của Chúa vẫn bao trùm lấy cuộc đời chúng con, để biết cảm tạ Chúa bằng lòng yêu thương anh em xung quanh suốt đời chúng con. Amen.

---------------------------------

 

14/09-40: Sùng kính hay là vác thập giá

 

Tôi không rõ việc sùng kính thập giá Đức Kitô khởi sự từ đâu và vào thời gian nào, nhưng chắc chắn: 14/09-40


Tôi không rõ việc sùng kính thập giá Đức Kitô khởi sự từ đâu và vào thời gian nào, nhưng chắc chắn việc đó phải có từ thời hoàng đế Constantin, hay nói rõ hơn từ năm 335 là năm mà truyền thuyết cho rằng đã tìm lại được thập giá Đức Kitô; và nhân biến cố đó, hoàng đế đã cho xây một thánh đường ngay chính nơi mộ Đức Kitô, ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 là để kỷ niệm ngày cung hiến ngôi thánh đường này.
Như vậy, việc sùng kính thập giá quả đã có từ lâu đời, nhưng cũng không phải là một truyền thống có từ ban đầu. Vậy thì từ ban đầu thập giá có ý nghĩa gì?
Tôi xin thưa, ngay từ ban đầu thập giá đã là dấu chỉ của hồng ân cứu độ:
- Như Maisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Đồng thời thập giá còn là dấu chỉ của một tình yêu to lớn mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Cũng như thập giá là dấu chỉ của người môn đệ Chúa:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Đối với người môn đệ Đức Kitô thì không có gì là vinh dự ngoài thập giá, bởi vì nhờ thập giá mà chúng ta được giải thoát, được cứu độ. Nhưng vinh dự vì thập giá nghĩa là gì? Phải chăng, là vì chúng ta có thập giá như là một kỷ vật châu báu, quí giá hơn vàng bạc. Nếu thế thì chẳng lẽ Đức Kitô lại làm giàu cho chúng ta với cây thập giá của Ngài sao?
Hẳn là không. Nhưng phải nhìn nhận rằng, chúng ta nhiều khi đã lợi dụng thập giá Chúa để làm giàu. Thánh giá trở nên một đồ vật cho người ta buôn bán: Nào thánh giá vàng, thánh giá bạc và như thế thánh giá trở thành phương tiện để người ta khoe khoang, vinh dự khi ấy không còn là vinh dự được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá máu của Ngài. Làm như thế thánh giá trở nên một đồ vật quí giá chứ không phải là một kỷ vật nhắc nhở cái chết của Chúa. Và kẻ đeo thánh giá đó không cần phải tin Đức Kitô, lại càng không thể làm môn đệ của Ngài vì người môn đệ chân chính của Ngài là phải luôn vác thập giá trên vai, và nhất là phải chịu đóng đinh vào đó vì yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Đã hơn hai ngàn năm nay, người ta đã tạo ra biết bao kiểu thánh giá, to có nhỏ có và thánh giá đã có mặt ở khắp mọi nơi, nhưng càng ngày càng ít người chịu vác thánh giá trên vai và càng ít người hơn nữa chịu đóng đinh vào đó. Đáng buồn nhất là có những kẻ không ngần ngại đóng đinh người khác hay bắt kẻ khác vác những thánh giá nặng nề, đang khi chính mình vẫn đưa miệng hôn kính thánh giá.
Đức Kitô mời gọi chúng ta tình nguyện vác thập giá đi theo Ngài, nhưng chính Ngài cũng vác thập giá của mình mà đi trước chúng ta. Không bao giờ Ngài chất thập giá trên vai kẻ khác. Còn chúng ta, nhiều khi đã không chịu vác thập giá của mình thì chớ, mà lại còn chồng chất trên vai những người nghèo khổ và bé mọn, những người mà bình thường thập giá của họ đã nặng nề, mà không một ai giúp đỡ như Simong, mà không ai lau mặt cho như Veronica thuở trước.
Nay đã đến lúc phải đặt thập giá vào đúng vị trí của nó, nghĩa là trên vai mỗi người chúng ta. Bởi đó, việc hôn kính thánh giá không quan trọng bằng việc vác thập giá, và việc suy tôn thánh giá cũng chẳng lợi ích gì nếu không sẵn sàng chịu đóng đinh mình vào thập giá.

---------------------------------

 

14/09-41: Thập Giá và cuộc sống

 

Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta? Chúng ta thường thấy: nơi ơi bản: 14/09-41


Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta?
Chúng ta thường thấy: nơi ơi bản thân, Thập giá được dùng làm đồ trang sức chúng ta đeo trên tai, trên cổ. Trong mỗi gia đình đều có một bàn thờ. Và trên bàn thờ ấy, chính giữa thường là cây thập giá, vì đó là vị trí chúng ta lấy làm ưng ý nhất. Tại giáo xứ, chúng ta nhìn thấy thập giá trên tháp chuông, trên cung thánh hay trên những phần mộ.
Thập giá đã quá quen thuộc với chúng ta ngày từ hồi còn tấm bé. Chúng ta không thể diễn tả niềm tin Kitô giáo mà không cần đến cây Thập giá. Thế nhưng, còn trong cuộc sống thì sao?
Phải thành thật mà nói: nhiều khi Thập giá đã làm cho chúng ta run sợ và chúng ta đã tìm mọi cách để lẩn tránh. Thập giá dường như đã trở nên một cái gì thù địch, trái ngược với bản tính và niềm hạnh phúc của chúng ta.
Thế nhưng, kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào lẩn tránh khỏi Thập giá, bởi vì Thập giá là một cái gì nằm sẵn trong thân phận con người. Sự chọn lựa của chúng ta không phải là có hay không có Thập giá, nhưng là có biết vác Thập giá mình cho nên hay không mà thôi. Bởi vì Thập giá sẽ đem lại nhiều lợi ích nếu chúng ta biết vác lấy vì lòng yêu mến Chúa.
Thực vậy, đứng trước thập giá, Chúa Giêsu đã có một thái độ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Phúc âm kể lại rằng:
Bấy giờ Chúa Giêsu và các môn đệ đang ở Giêricô, cách thủ đô Giêrusalem khoảng bốn mươi cây số, mà ngày lễ Vượt qua thì lại sắp tới, từng đoàn người hành hương hát vang những câu thánh vịnh. Và rồi một lần nữa Chúa Giêsu nói trước cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài:
- Này Ta lên Giêrusalem, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ ngoại. Họ sẽ khạc nhổ, đánh đòn và sẽ giết chết Ngài.
Các môn đệ không muốn tin vào điều ấy. Lên Giêrusalem giữa một tình hình căng thẳng như lúc này, thì quả là một việc điên khùng và dại dột, nếu không muốn nói đó là một hành động tự sát, bởi vì đã từ lâu, bọn biệt phái và luật sĩ tại đó đã quyết định giết Chúa Giêsu.
Thế nhưng, các ông lại không đủ can đảm can ngăn Chúa Giêsu, bởi vì đã một lần Phêrô lên tiếng:
- Ước gì Thày không phải như vậy đâu.
Và ông đã bị Ngài quở trách nặng lời:
- Hỡi Satan hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc thuộc về thế gian, mà chẳng biết chi đến những việc thuộc về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước những khổ đau và cái chết nhục nhã Ngài sẽ phải chịu, thế mà Ngài vẫn cương quyết đi lên Giêrusalem.
Cuộc hành trình đi lên Giêrusalem phải chăng chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Còn thái độ của các môn đệ, phải chăng cũng chính là thái độ của chúng ta.
Thực vậy, cuộc đời chúng ta thì chất đầy những khổ đau và lo lắng: nào đau ốm bệnh tật, nào hận thù chiến tranh, nào nghèo túng khổ cực… Chúng ta cảm thấy như bất lực, không thể nào giải quyết được. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã can đảm bước đi và Ngài đã bước đi cho tới cùng, bởi vì sau thập giá sẽ là vinh quang phục sinh.
Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh mà thôi.
Một bà thì cô độc, chỉ có một mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích. Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.
Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:
- Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta không phải chỉ suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ, mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Bên trên những gai nhọn là cánh hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.

---------------------------------

 

14/09-42: Nhờ Thánh Giá hướng dẫn.

 

Phi trường mới ở Pittsburgh, Penssylvania, là một trong những phi trường lớn nhất và được trang: 14/09-42


Phi trường mới ở Pittsburgh, Penssylvania, là một trong những phi trường lớn nhất và được trang bị đầy đủ nhất ở Hoa Kỳ. Chỉ một vài giây trong thời gian bay từ phi trường là nhà thờ Hiệp Nhất, trên đường thẳng với một trong những đường bay bận rộn nhất của phi trường. Một vài phản lực cơ bay quá thấp trên nhà thờ đến nỗi giáo dân sợ ngọn tháp nhà thờ bay đi mất. Người ta quyết định đặt một Thánh giá cao 3m bằng đèn điện quang ngay ở ngọn tháp là điểm cao nhất của khu vực. Một phi công đã nhìn nhận rằng: “Hầu hết chúng tôi đều dùng ánh sáng Thánh giá làm biển chỉ đường tới phi trường”.
Hôm nay, chúng ta cử hành điều được gọi là chiến thắng của Thánh giá. Hãy lưu ý là chúng ta tôn vinh Thánh giá hơn là tượng chiụ nạn. Thánh giá không còn thân xác Chúa Kitô treo trên đó, còn tượng chịu nạn thì có mang thân xác Ngài. Tại sao chúng ta tôn vinh thánh giá hơn là tượng chịu nạn? Bởi vì các Kitô hữu tiên khởi chỉ tôn vinh thánh giá, họ muốn đưa ra chân lý cao cả là Chúa Kitô đã chiến thắng nhờ thánh giá, Ngài không còn bị đóng đinh vào đó nữa, bởi sự phục sinh, không những Ngài chỗi dậy khỏi mồ mà còn làm cho thánh giá thành dấu chỉ chiến thắng.
Trong năm thế kỷ đầu của Kitô giáo, Chúa Kitô rất ít được tiêu biểu trên thánh giá, và không còn đau khổ, chết chóc và thất bại, nhưng là chiến thăng, sinh động, vinh quang. Cánh tay Ngài giang rộng ra, nhưng không còn đinh sắt để mời gọi mọi người, và cầu nguyện cho tất cả chúng ta.
Còn lý do khác nữa chúng ta tôn vinh thánh giá là các Kitô hữu tiên khởi quay mặt về hướng Đông khi cầu nguyện, vì đó là hướng mà họ mong đơi Chúa Kitô trở lại. Dần dần thay vì quay mặt về hướng đông, họ quay về thánh giá là biễu tượng ơn cứu độ chúng ta, và họ cảm thấy là họ quay về đúng hứơng. Và họ thực hành như vậy.
Thánh giá là cột trụ chỉ dẫn cho họ và cũng là cho chúng ta. Thánh giá chiếu sáng của ngọn tháp nhà thờ Hiệp Nhất ở Pittsburgh là cột trụ hứơng dẫn cho các phi công khởi hành và trở lại phi trường. Thánh giá cũng hứơng dẫn cho bạn và cho tôi khi chúng ta khởi sự và hoàn tất bất cứ côngviệc nào dù nhỏ hay lớn.
Khi thánh giá hứơng dẫn chúng ta, thì chúng ta có thể chắc chắn là mình ở trên đường ngay thẳng, để chúng ta thật là đang “ở trên con tàu thiêng liêng”. Hãy khởi sự và kết thúc mọi công việc với Thánh gía chiến thắng và rồi mỗi phận sự sẽ là một chiến thắng, thành công. Chúng ta bắt đầu Thánh lễ này với dấu thánh giá, chúng ta sẽ kết thúc thánh lễ này với dấu thánh giá. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa mọi sự chúng ta làm trong và nhờ lễ vật hiến tế này của Chúa Kitô. Ngài đã chiến thắng nhờ thánh giá đó. Chúng ta sẽ chiến thắng nhờ thánh giá đó, biểu tượng vẻ vang cho những thành công của chúng ta hôm nay và vào ngày tận cùng.
Đó là tinh thần của các Kitô hữu tiên khởi, tinh thần của công đồng Vatican II, mà muốn chúng ta làm nổi bật sự phục sinh. Trong tinh thần đó, chúng ta có thể làm mọi sự. Chúa Kitô chiến thắng ở với chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

---------------------------------

 

14/09-43:  Suy niệm của JM.


SUY TÔN THÁNH GIÁ

 

Thập giá nhắc đến một nghịch lý này: Chính lúc hạ mình xuống cùng cực, Con Người được nâng lên: 14/09-43


Thập giá nhắc đến một nghịch lý này: Chính lúc hạ mình xuống cùng cực, Con Người được nâng lên, được tôn vinh. Lúc Người bị kết án tử hình, thế gian lại được cứu độ.
Bài ca của Thánh Phaolô
Thập giá tới độ thấp nhất trong âm điệu của bài ca trong thơ gởi giáo đoàn Philíphê. Âm điệu của Con Thiên Chúa đời đời tự hạ mình xuống làm người, rồi lại tiến hành được tôn vinh trở về với vinh quang Thiên Chúa. Trung tâm thập giá là phụng vụ, khổ hình là dụng cụ tối cao đem ơn cứu chuộc đến cho loài người. Thập gía mang nặng ý nghĩa sự dữ cùng cực của chúng ta và vì Đức Giêsu đã chịu treo vào nó là dấu chỉ ơn cứu độ chúng ta.
Tôn vinh
Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Kitô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những người nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giêsu, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giêsu trên thập giá.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa: Đức Giêsu là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giêsu, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền năng của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.
Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta:
Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Kitô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.

---------------------------------

 

14/09-44: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một


Suy niệm:

 

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ: 14/09-44


Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ XVII đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông.
Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một:
Loài người càng tội lỗi Chúa càng yêu thương, yêu thương đến nỗi trao ban hết những gì thuộc về mình là Người Con duy nhất. Tình thương ấy được cụ thể hóa bằng việc Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá. Trên thập giá Chúa đã giải nghĩa yêu thương. Một tình yêu quá cao vời vượt quá sức mường tượng của con người. Thế nên chỉ có hành động, những hy sinh cụ thể mới cảm hóa được lòng người hầu mong cứu họ thoát khỏi cảnh tội lỗi. Chính vì thế, thập giá đã trở thành Thánh Giá; Thánh Giá trở thành biểu tượng tình yêu cứu độ, biểu tượng của sự sống, của vinh quang. Vì thập giá được đón nhận trong tình yêu thì thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.
Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá là dịp nhắc nhớ mỗi chúng ta hãy tạ ơn tình Chúa cao vời. Đồng thời nhắc chúng ta cũng biết sống hy sinh cho tha nhân, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp, hy sinh chịu thiệt thân để bảo vệ đức tin. Và nhất là hãy biết yêu người như Chúa yêu ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương: Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.

---------------------------------

 

14/09-45: THÁNH GIÁ, DẤU ẤN TÌNH YÊU KHẢI HOÀN

 

Sáng thứ năm 17.7.2014, công an Ôn Châu ( Wenzhou ) cưa cây Thánh Giá ở Nhà Thờ Cứu Chuộc 14/09-45


"Sáng thứ năm 17.7.2014, công an Ôn Châu ( Wenzhou ) cưa cây Thánh Giá ở Nhà Thờ Cứu Chuộc, các nhân chứng cho biết, họ đã dẹp đoàn biểu tình Giáo Dân xung quanh Nhà Thờ. Rồi ngày 21.7.2014, hàng trăm công an đã thất bại khi gỡ bỏ Thánh Giá trong cuộc đối đầu với Giá o Dân khiến hơn 50 người bị thương. Hôm thứ ba, công an ở thành phố Hàng Châu ( Hangzhou ) đã hạ cây Thánh Giá ở Nhà Thờ, theo một nhân viên quản lý Nhà Thờ cho biết.
Sau khi vụ đụng độ ở Nhà Thờ Cứu Chuộc vào tháng bảy, Giáo Dân đã thay phiên nhau canh gác Nhà Thờ. Nhưng sau khi lãnh đạo Nhà Thờ, ông Zhang Zhengchuang, đạt được thỏa thuận với chính quyền địa phương thì các cơ quan chức năng lấy các chìa khóa Nhà Thờ và phong tỏa khu vực.
Hôm thứ năm, không giống như trong cuộc đối đầu đẫm máu hồi tháng bảy, nhân viên an ninh gần 200 người, bao gồm cả công an mặc thường phục, không mang vũ khí khi họ bao vây Nhà Thờ. “Chúng tôi không thể đi vào Nhà Thờ, vì họ giữ chìa khóa,” một Giáo Dân chứng kiến sự việc họ gỡ bỏ Thánh Giá cho biết. “Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung bên ngoài, hát thánh ca và cầu nguyện.” Một Giáo Dân không dám nêu tên vì sợ chính quyền trả thù, nói rằng hơn 200 Kitô hữu đã tụ tập bên ngoài Nhà Thờ Cứu Chuộc vào sáng thứ năm…
 Từ đầu năm nay, chính quyền tỉnh Chiết Giang ( Zhejiang ) đã thực hiện chiến dịch chống lại các công trình kiến trúc của Nhà Thờ. Tuy nhiên, theo một tài liệu nội bộ của chính phủ, chiến dịch được nhắm đặc biệt đến các tòa nhà và các biểu tượng Kitô giáo, trong đó có Thánh Giá. Nhiều Nhà Thờ đã nhận được lệnh sẽ bị phá hủy hoặc thông báo phải gỡ bỏ Thánh Giá, không chỉ các Nhà Thờ thuộc “Giáo Hội Thầm Lặng” từ chối sự kiểm soát của chính quyền.
Trong tháng tư năm 2014, Nhà Thờ Sanjiang ở Ôn Châu đã bị phá bỏ, bất chấp sự phản đối từ các Kitô hữu địa phương. Trong tháng sáu, Nhà Thờ Cứu Chuộc cùng với hai chục Nhà Thờ Tin Lành khác ở Ôn Châu cũng đã nhận được thông báo từ chính quyền địa phương là phải gỡ bỏ Thánh Giá.
“Lòng tôi thực sự rất buồn khi chứng kiến cảnh này”, một Kitô hữu cũng tên là Zhang, người đi trong đoàn và canh thức qua đêm tại Nhà Thờ nói. Tại đây, một Kitô hữu khác cũng cho biết: “Nhiều người đã khóc và cầu nguyện khi họ nhìn thấy Thánh Giá bị hạ xuống.” ( Kiki Zhao, Sinosphere, Ucan ).
Cây thập tự kết hợp vuông góc hai trục tung và hoành, dọc và ngang, chiều cao và chiều rộng. Đồng thời cây thập tự hội tụ hai chiều kích khác nhau của cuộc đời. Qua cuộc khổ nạn, chịu chết và phục sinh, Đức Giêsu thánh hóa cây thập tự trở nên Thánh Giá, biểu tượng cao quý vô ngần của Kitô giáo. Cây Thánh Giá hàm chứa biết bao ý nghĩa sâu sắc, đã trường tồn hơn hai ngàn năm và sẽ còn tiếp tục được tôn kính mãi mãi, dù đã và đang trải qua bao thách đố, bị phá hoại, trừ khử, chống báng và xúc phạm.
Giao hòa
Trục tung, chiều dọc của Thánh Giá từ dưới đất hướng thẳng lên trời cao, giúp Kitô hữu luôn ý thức công cuộc cứu độ của Đức Giêsu đã từ trời cao xuống thế làm người, chịu nạn và đã Phục Sinh về trời: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời mà xuống” ( Ga 3, 13 ).
Với Giao Ước Mới bằng mầu nhiệm Thánh Giá, Người tái thiết lại mối tương quan, giao hòa, liên kết giữa Thiên Chúa và con người, mà từ ngàn xưa Ađam và Eva đã phá vỡ, chia cách, xa lìa. Thánh Phaolô hân hoan ngợi khen: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian” ( Gl 6, 14 ).
Bằng chính máu của mình với thập giá, Đức Giêsu đã tái lập Giao Ước mới vĩnh cửu cho con người được đoàn tụ về với cội nguồn, là Thiên Chúa: “Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh mẽ hơn cả máu Aben” ( Dt 12, 24 ).
Chí ái
Với trục hoành, chiều ngang, Đức Giêsu giang hai cánh tay ôm lấy toàn thể nhân loại, không phân biệt xấu tốt, lành dữ, thân hay thù. Người chí ái, chí nhân, ôm lấy tất cả niềm vui lẫn đau khổ của kiếp nhân sinh, lẫn hy vọng và thất vọng. “Khi nào tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên cùng tôi” ( Ga 12, 32 ).
Còn tình yêu nào quý giá hơn chết cho người mình yêu, như Đức Giêsu đã toàn tâm hiến thân: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” ( Ga 15, 13 ). Để có thể đón nhận tình yêu tuyệt vời ấy, hồng ân cứu độ, cuộc sống viên mãn, mọi người cần phải ngước mắt nhìn lên, phó thác, đặt hẳn niềm trông cậy vào Đức Giêsu.“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3, 14 – 15 ).
Tin vào Người, đồng nghĩa thoát khỏi sự kềm tỏa của xác thịt, thế gian và ma quỷ, người Kitô hữu tích cực thể hiện niềm tin sống động qua việc bỏ mình, vác thập giá cùng đồng hành, chịu đóng đinh thân xác với Người.“Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” ( Rm 6, 6 ).
Chiến thắng
In hoc signo vinces, ( HIS ) với dấu chỉ này con sẽ chiến thắng. Khẩu hiệu của Hoàng Đế Constantine Cả đã nhận, khi ông thị kiến trên trời, vẫn là sự thật vĩnh cửu, mà không có ai bác bỏ được. Thánh Giá Đức Giêsu là chiến thắng vĩ đại vô song, chiến thắng xác thịt, chiến thắng cám dỗ ma quỷ và sự chết, vì Người khiêm tốn, trung kiên vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa Cha, chịu chết thay cho nhân loại. “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” ( Pl 2, 8 – 9 ).
Người chiến thắng vẻ vang, khi gánh tội trần gian, chịu chết khổ nhục cho con người, để con người được trở nên công chính, hưởng ơn cứu độ, như Thánh Phêrô xác quyết: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính” ( 1 Pr 2, 24 ).
Hội Thánh được sinh ra trên Thánh Giá. Hội Thánh lớn lên bằng tiếp tục sự thương khó Chúa Giêsu đến tận thế. Con lầm lạc, nếu tin vào tiền bạc, ngoại giao, quyền thế, vận động” ( Đường Hy Vọng, số 258 ).
Lạy Chúa Giêsu, Người đã khải hoàn phục sinh từ cõi chết, kính xin Người thương xót, ban hồng ân cho chúng con can đảm bước theo đường Thánh Giá hàng ngày, hoàn toàn bỏ mình, đóng đinh tính xác thịt và chịu chết, hầu được phục sinh với Người mãi mãi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã can trường đồng hành với Con Mẹ trên Via Dolorosa, Đường Thánh Giá. Khấn xin Mẹ cùng đồng hành với chúng con trên đường hy vọng. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

---------------------------------

 

14/09-46: NHÌN LÊN THÁNH GIÁ

 

Bài đọc 1 sách Dân Số kể chuyện, dân Do Thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông: 14/09-46


Bài đọc 1 sách Dân Số kể chuyện, dân Do Thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ?…” Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.
Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt Lịch Sử Cứu Độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc ( Ds 21, 6 ), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống ( St 3 ), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô ( Ga 3, 14 ) và vươn xa tới tận thời cánh chung ( Kh 12, 7 – 10 ).
Dịp hành hương Thánh Địa tháng 5 vừa rồi, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh Giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh Địa và dâng lễ tại Nhà Nguyện trên núi.
1.      Núi Nebo
Núi Nebo là một dãy núi ở vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu Ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêrikhô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cả cổ thành Giêrusalem.
Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêrikhô để nhìn về Đất Hứa. Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, Isaac và Giacóp rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi ! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó ! Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor ( Đnl 34, 4 – 6 ).
Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi nào. Một vài truyền thống Hồi Giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ lại cho là ở Maqam El-Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêrikhô 11km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ Kinh của Cựu Ước không.
Theo sách Maccabê ( 2 Mcb 2, 4 – 7 ): Ngôn Sứ Giêrêmia đã giấu Nhà Tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.
Ngày 20.3.2000, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh Địa. Ngài đã trồng một cây ôliu bên cạnh Nhà Thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.
Ngày 9.5.2009, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đến thăm nơi này, đọc bài diễn văn và hướng nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.
Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh Giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn ( Ds 21, 4 – 9 ) và là Thánh Giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh ( Ga 3, 14 ).
Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi Nhà Thờ và một Tu Viện vào năm 1933. Ngôi Nhà Thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế Nhà Thờ theo phong cách một Vương Cung Thánh Đường ( Basilic ). Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà Thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của Nhà Thờ.
Trong ngôi Nhà Nguyện hiện đại được xây dựng để bảo vệ nơi này và cũng dùng để thờ phượng Thiên Chúa, người ta có thể nhìn thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.
2.      Tại sao lại treo con rắn ?
Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ ( St 3, 1 – 7 ), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Ađam nghi ngờ Thiên Chúa: Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu ! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng: Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình. Đó là nghĩ rằng: Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chếhắc chắn ngươi sẽ phải chết ( St 2, 17 ).
Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến, chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa: kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa, đó là để cho mình bị rắn cắn, đó là mang nọc độc vào người.
3 . Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” ?
Trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có hai cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; "cột rắn": một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.
Bài đọc 1 là “lời tiên báo” của sách Dân Số, một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thập Giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời ( x. Ga 3, 16 ). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người chúng ta, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.
Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, Đức Giêsu, ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ: Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá. Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” ( Rm 8, 3 ) và Ngài “đồng hóa mình với tội” ( 2 Cr 5, 21; Gl 3, 13 ).
Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô: “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” ( Rm 7, 13 ). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo Thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, ( chứ không phải báo trước ) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người ( Mc 8, 31 ).
Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:
-        Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo, lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
-        Đầu đội mạo gai của Người, tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính, và hành động theo thú tính; và cạnh sườn của Người bị đâm thủng, thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực; và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng, là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, Tình Yêu, Lòng Thương Xót, sự Thiện, sự Hiền Lành và cả Sự Sống nữa, của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng !
4 . Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành ?
Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống. Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” ( Ga 19, 37 ) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.
Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các Giáo Phụ gọi là Cây Sự Sống, vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.
Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Thì giờ đây, sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại ( bài đọc 2 ).
Vì tình yêu vâng phục của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Thiên Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên thập giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên cho Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì những người mình yêu".
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế. Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng Thánh Giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn Tình Yêu, Sự Sống của Chúa Kitô.

 Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

------------------------------

 

14/09-47: VINH QUANG THẬP GIÁ

 

Ngày xưa, thập giá là nhục hình ghê rợn nhất dành cho các tử tội. Chúa Giêsu cũng đã phải chịu: 14/09-47


Ngày xưa, thập giá là nhục hình ghê rợn nhất dành cho các tử tội. Chúa Giêsu cũng đã phải chịu nhục hình này vì người ta liệt Ngài vào dạng tương tự “dân anh chị khét tiếng” hoặc “tội phạm nguy hiểm”. Nhưng với Đức Kitô, thế cờ bị Ngài đảo ngược, chính thập-giá-khổ-đau đó lại trở thành “đòn bẩy”, là đường tới vinh quang, là lối vào ánh sáng, là vũ khí chiến thắng. Thập giá được Ngài biến thành biểu tượng cứu độ và là phương cách giải thoát. Một Saolê đã từng bách hại “tới bến” đối với những ai yêu mến Thánh Giá, nhưng nhờ cú ngã ngựa, bị mù mắt thể lý mà lại sáng mắt tâm linh, rồi trở thành một Phaolô “không giống ai” với niềm ước mong: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” ( Gl 6, 14 ).
 Việt ngữ thật kỳ diệu, có thể hiểu THÁNH GIÁ là cái GIÁ để NÊN THÁNH. Đó là điều mà Đức Giêsu Kitô đã xác định: “Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi thì không xứng với Tôi, không thể làm môn đệ của Tôi” ( Mt 10, 38; Lc 14, 27 ).
Hơn 1.600 năm sau, Đức Giám Mục Pierre Lambert de la Motte ( 1624 – 1679, Hội Thừa Sai Pháp ) cũng hóa thành “dị nhân”, không giống ai khi ngài quyết tâm chỉ yêu mến Thánh Giá mà thôi, bằng chứng là ngài đã lập Dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam – bắt đầu từ Hải Phòng ( Bắc Việt ). Xưa cũng như nay, bất cứ ai thích Thánh Giá đều bị coi là “ngược đời” hoặc “điên loạn”. Thế nhưng Đức Kitô đã khuyến cáo chúng ta phải “mình ên vác thập giá mà theo Ngài” ( x. Mt 16, 24 ). Thật là “căng” dữ nghen ! Quả thật, phải thực sự tin tưởng và can đảm mới có thể bước trên Đường Thập Giá – liên lỉ từng giây phút chứ không chỉ trong thoáng chốc, trong vài ngày hoặc vài tháng.
Thập giá là dụng cụ để xử tử phạm nhân mà người Phênixi đã dùng trước tiên, sau đó người Rôma cũng dùng, nhưng chỉ dùng hình phạt này cho kẻ nô lệ, dân bị trị, những người thấp hèn và những kẻ phạm các tội nặng nhất như trộm cướp, ít khi áp dụng cho công dân Rôma. Về thập giá, nhà hùng biện trứ danh Cicéron ( Rôma ) đã mô tả là “cực hình ghê rợn và độc ác nhất” ( crudelissimum et teterrimum supplicium ).
Theo nhiều nhà nghiên cứu Kinh Thánh, cây Thánh Giá được làm bằng gỗ tùng rất nặng, thanh dọc dài 4,5m, thanh ngang dài 2,5m, cả Thập Giá nặng khoảng 100kg. Vác kéo lê thì giảm sức nặng khoảng 30kg. Như vậy, Chúa Giêsu còn chịu sức nặng 70kg đè trên thân xác đã yếu ớt vì đòn vọt, vác khệ nệ trên con đường dài 700m, và Ngài đã phải ngã quỵ 3 lần. Thông thường, khoảng giữa thập giá có một miếng gỗ để tội nhân tì mông vào cho dễ đóng đinh, và đóng mỗi chân một đinh. Ngày nay các nhà kỹ thuật đã đưa miếng gỗ đó xuống làm đế đỡ chân và hai chân đóng chụm lại, đó vì tính mỹ thuật – tức là để nhìn cho “đẹp mắt” mà thôi.
Chúa Giêsu chịu hàm oan và đau khổ tột cùng trên Chặng Đàng Thánh Giá. Cuộc đời mỗi Kitô hữu cũng là Hành trình Thập Giá, có rất nhiều thứ xấu xa trong mỗi chúng ta để chúng ta phải cố gắng “chết” vì yêu mến Đức Kitô. Hành trình đó là hành trình tử đạo liên lỉ, rất cần ngước nhìn lên Chúa Giêsu bị treo trên Thánh Giá như dân Ítraen xưa ngước nhìn lên conrắn đồng để được chữa lành ( Ga 3, 13 – 15 ).
Trình thuật Ds 21, 4 – 9 cho biết: Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Êđôm, trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ítraen mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này”. Vì họ cứng đầu cứng cổ, Đức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ítraen phải chết.
Ngày nay, chúng ta cũng chẳng hơn gì dân Ítraen xưa, thậm chí còn ngang bướng và tinh vi hơn nhiều. Ca dao Việt Nam nói: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, Khi nóng thì cứ trái tai mà sờ”. Có lẽ chúng ta quen “xin – cho” nên cứ mở miệng cầu nguyện là xin này, xin nọ, xin tới tấp, xin đủ thứ, Chúa nghe không kịp mà vẫn bị đầy lỗ tai. Chúa cũng mệt với lũ phàm nhân lắm ! Chúng xin được thì cười trừ rồi thôi, xin không được thì quay ngoắt 180 độ, đôi khi còn dám ngang nhiên trách “trời mù” nữa đấy. To gan thật!
Dân xưa ngang ngược đến nỗi bỏ Chúa, đi đúc bò vàng mà tôn thờ. Nhưng họ chịu khổ hết xiết, đành quay về với Chúa. Họ đến năn nỉ với ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi”. Ông Môsê thương tình mà khẩn cầu Thiên Chúa cho dân thoát ách tai ương. Thiên Chúa giàu lòng thương xót liền nói với ông Môsê: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”. Ông Môsê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Quả thật, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu sống ngay.
Chúng ta ngày nay có nhiều loại “bò vàng” lắm, đủ cỡ và đủ kiểu. Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã có kinh nghiệm “xương máu” về chuyện tôn thờ ngẫu tượng: Mê tiền, ham lợi, ưa “chảnh”, khoái chức, đòi quyền,... Đó là chưa nói đến đắm chìm trong tội lỗi đấy ! Chu choa, nhiều kiểu lắm, nhiều dạng lắm, nhiều mức độ lắm ! Và cuối cùng, chúng ta gặp đau khổ, đành quay về với Chúa, nhưng rồi chẳng được bao lâu, chúng ta lại như con ngựa quen đường cũ. Thế mà Thiên Chúa vẫn thương xót và tha thứ. Vô cùng may mắn cho chúng ta. Nhưng quả thật, chúng ta không thể nào hiểu nổi lòng thương xót của Ngài !
 Tác giả Thánh Vịnh bày tỏ Thánh Ý Chúa từ xưa: “Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo, lắng tai đón nhận lời lẽ miệng tôi. Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ, công bố điều huyền bí thuở xa xưa” ( Tv 78, 1 – 2 ). Thiên Chúa biết phàm nhân chúng ta là những “hạt bụi nhỏ nhoi” nhưng lại vô cùng kiêu ngạo. Tuy nhiên, Ngài vẫn yêu thương, khuyên nhủ, dỗ dành, chỉ mong chúng ta nhận biết và tôn thờ Ngài là Thiên Chúa toàn năng duy nhất.
Tuy nhiên, phàm nhân chúng ta có cái đầu cứng và đầy máu kiêu ngạo, khoái đi đường tắt hơn đi đường chính. Nhưng rồi cũng có lúc “giật mình” khi phải đương đầu với đau khổ: “Khi Chúa giết họ, họ mới đi tìm Chúa, mới trở lại và mau mắn kiếm Người, mới nhớ rằng: Thiên Chúa là núi đá họ ẩn thân, Thiên Chúa Tối Cao là Đấng cứu chuộc họ” ( Tv 78, 34 – 35 ).
Lúc đau khổ thì tỏ vẻ chân thành hối lỗi, nhưng lúc an bình thì lại thích nổi loạn, nói hay mà làm chẳng ra gì, Thiên Chúa biết chúng ta lọc lừa mà Ngài vẫn xót thương: “Miệng họ phỉnh phờ Chúa, lưỡi họ lừa dối Người; còn lòng dạ chẳng chút gì gắn bó, chẳng trung thành giữ giao ước của Người. Nhưng Người vẫn xót thương, thứ tha, không tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí” ( Tv 78, 36 – 38 ). Nhưng rồi sẽ có ngày Thiên Chúa không còn dành thời gian chờ đợi chúng ta sám hối nữa. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại cuối cùng, thời gian thương xót cuối cùng, ai không sám hối và không chân thành tín thác vào Đức Kitô thì hậu quả sẽ thê thảm đời đời !
Thánh nữ Faustina nhận định: “Mọi sự bắt đầu bằng Lòng Thương Xót của Ngài và cũng kết thúc bằng Lòng Thương Xót của Ngài. Mọi ân sủng tuôn chảy từ Lòng Thương Xót của Ngài, và những giờ khắc cuối cùng đầy tràn Lòng Thương Xót của Ngài. Đừng để ai nghi ngờ lòng nhân hậu của Thiên Chúa; mặc dù tội lỗi của con người đen tối như màn đêm, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vẫn mạnh hơn nỗi đau khổ của chúng ta” ( Nhật Ký, số 1506 ).
Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” ( Pl 2, 2 – 8 ). Trí tuệ và lý luận của chúng ta không thể phân tích để hiểu hết tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, có tất cả những gì cao quý nhất, thế mà Ngài lại bỏ tất cả, thậm chí là thí mạng, để tìm kiếm và cứu chúng ta đem về cho Chúa Cha.
Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” ( Pl 2, 9 – 11 ). Ngược lại, ai không chân nhận Đức Giêsu Kitô là Thiên-Chúa-nhập-thể-làm-người thì chắc chắn không được Ngài đưa về Quê Trời vĩnh hằng: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” ( Ga 3, 18 ). Thánh Gioan đã cho chúng ta biết chắc chắn có sự sống đời đời ( x. 1 Ga 5, 13 ).
Thập giá là vinh quang, là chiến thắng, chứ không là thất bại như loài người suy tưởng. Thi sĩ kiêm kịch tác gia Pièrre Corneille ( 1606 – 1684, Pháp quốc ) đã có nhận xét thú vị và rất đúng: “Chiến đấu càng gian nan, khải hoàn càng vinh quang”. Thật vậy, cuộc sống cho chúng ta thấy rằng không có niềm hạnh phúc nào mà lại không có dấu vết của sự đau khổ.
Truyện “Hoàng tử và Thanh kiếm” kể thế này: Một hôm, Vua Charles V kêu hoàng tử đến và cho quyền lựa chọn. Trên bàn, nhà vua đặt một thanh kiếm và một triều thiên. Vua cha hỏi: “Con chọn cái nào ?” Chần chừ một lúc, hoàng tử cầm lấy thanh kiếm. Thấy lạ, vua cha hỏi: “Sao con lại chọn thanh kiếm ?” Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện và đáp: “Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được triều thiên kia”. Câu chuyện ngắn gọn nhưng mang ý nghĩa thâm thúy, cho thấy rằng đau khổ luôn đi trước hạnh phúc.
Một hôm, khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” ( Ga 3, 13 – 15 ). Chính Chúa Giêsu đã xác định việc tin vào Ngài là mối phúc, vì ai tin Ngài sẽ được lên trời với Ngài.
Và rồi chính Chúa Giêsu lại tiếp tục xác định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” ( Ga 3, 16 – 17 ). Rõ ràng rồi, không còn gì khả nghi nữa. Tuy nhiên, tin Chúa Giêsu thì phải kiên trì đồng hành với Ngài hết chặng đường thập giá: Một nhánh vươn lên trời đưa chúng ta đến với Chúa Cha, qua Đức Giêsu Kitô; một nhánh đưa chúng ta đến với tha nhân, nhất là những người hèn mọn và đau khổ nhất. Không thể tách rời hai nhánh của thập giá.
Ước gì mỗi chúng ta luôn tâm niệm: THÁNH GIÁ là cái GIÁ để NÊN THÁNH.
Lạy Chúa Kitô, chúng con xin tôn vinh Thánh Giá bằng cách chấp nhận đau khổ hằng ngày để vinh danh Thiên Chúa, để cứu các linh hồn và để đền tội của chúng con. Xin cho chúng con được nên một với Ngài trong Mầu Nhiệm Thập Giá. Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU
 

14/09-48: THẬP GIÁ NỞ HOA

Không biết từ bao giờ, thập giá bắt đầu xuất hiện trong cuộc sống nhân loại. Có lẽ ngay từ lúc mới lọt: 14/09-48

Không biết từ bao giờ, thập giá bắt đầu xuất hiện trong cuộc sống nhân loại. Có lẽ ngay từ lúc mới lọt lòng mẹ, đứa trẻ khóc vì biết rằng kể từ đây mình bắt đầu vác thập giá. Cuộc đời không gì khác hơn là cuộc khổ nạn. Ai ai cũng có một cây thập giá riêng biệt trên vai của mình. Và tất nhiên, thập giá của ai vừa vai người nấy. Nói vậy cũng có nghĩa chẳng ai có thể vác thập giá cho ai. Thập giá gắn liền với đời sống con người là vậy. Còn sống là còn vác, cho đến khi nào lên đến đỉnh đồi Canvê và trút hơi thở ở đó, thập giá mới chính thức rời khỏi đời sống. Thánh giá sẽ thành khổ giá nếu như không đón nhận thập giá đời mình cách tích cực. Ngược lại, thập giá sẽ trổ hoa với những ai can đảm bước đi đến cùng theo chân Đức Giêsu trên đường khổ giá.
Nếu nói thập giá không thể tách rời đời sống nhân loại. Làm người cũng có nghĩa là vác thập giá, thì con người chỉ có thể gánh vác thập giá cho nhau ở thời điểm nào đó, giai đoạn nào đó mà thôi. Không ai có thể từ chối thập giá đời mình và cũng chẳng ai có thể hy sinh gánh vác thập giá thay thế cho người khác cả đời được. Có yêu thương nhau lắm cũng chỉ là ghé vai gánh vác dùm ai đó, thay cho ai đó… một đoạn đường, một vài khoảnh khắc mà thôi.
          Tại sao vậy ? Vì tất cả chúng ta đều là con người. Đã là người cũng có nghĩa là tội nhân. Không ai công chính, chẳng ai vẹn toàn cả. Thập giá là gì nếu không phải chính là hành trình làm người mà chúng ta được trao phó sứ mệnh khi hiện diện trên trần gian. Thập giá cuộc đời còn gì khác hơn là hành trình làm người của chúng ta qua từng giai đoạn, từng khoảnh khắc. Thập giá thật ra chỉ là những thách đố, cam go, gian lao, vất vả hay khổ cực mà chúng ta cần phải vượt qua để hoàn thiện và phát triển chính mình mà thôi. Thánh giá cuộc đời cũng chính là thập giá làm người.
          Ngoài ra vẫn còn những loại thập giá mà người khác đem lại cho ta. Đó là những trái ý, những phiền toái, những ý riêng, những xúc phạm... Cho dù thập giá nào đi nữa thì con người cũng chẳng thích. Chẳng ai muốn vác thập giá cả. Chẳng qua không từ khước được thì đành nín nhịn thôi. Như đã nói, ai bước đi trên đường khổ giá với tâm tình hướng thiện, chắc chắn thập giá của họ sẽ trổ hoa, đó là sự phục sinh, vinh quang bất diệt. Nước mắt khổ giá lúc này đã trổ hoa chân lý.
          Chỉ có Đức Giêsu là Đấng vô tội, Ngài mới có thể vác thập giá thay cho nhân loại. Đó là thập giá của sự bất toàn, và tội lỗi mà con người vấp phạm. Đức Giêsu đã gánh hết trên vai của mình để cứu chuộc nhân loại. Chỉ cần tin vào Người, chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ: “Như ông Mô sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15)
          Chính vì yêu thương nhân loại lầm than khổ cực trong tội lỗi, bất trung Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Ngài đến vác thập giá, chịu chết thay cho muôn người để chuộc mọi tội lỗi. Chỉ Con Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài mới có thể làm được điều ấy. Chỉ có Đấng vô tội mới có thể chết thay cho kẻ có tội. Chỉ có Đấng vô tội mới có thể vác thay cho kẻ có tội. Nói vậy, nhân loại là kẻ diễm phúc nhất.
          Vậy mà biết bao người vẫn không tin và không đón nhận. Thiên Chúa đâu dựng nên nhân loại, trao thánh giá cho họ, rồi để họ bị hủy diệt. Nhưng thánh giá xuất hiện là chính con người tự tạo ra khi bất tuân lệnh Chúa, sống tự do, buông thả theo đam mê, dục vọng và ý muốn riêng mình.
          Hôm nay Giáo hội hân hoan suy tôn thánh giá là để kêu gọi con cái biết ý thức đón nhận thập giá đời mình với tâm tình tin tưởng, cậy trông, phó thác… bước đi theo chân Đức Giêsu đến cùng cho dẫu có phải gặp gian nan, thử thách. Vì thánh giá không phải là gánh nặng, cũng chẳng phải là hình phạt, mà là khí cụ để hoàn thiện mình, trở nên con cái tinh tuyền của Thiên Chúa.
          Lạy Chúa, biết rằng đã làm người, con không thể tránh khỏi thập giá, nhưng không biết bao lần, chỉ mỗi cây thánh giá ấy, con hết cất lên rồi hạ xuống, đổi qua đổi lại… trong chán chường, mệt mỏi. Thánh giá nào đâu là khổ giá, nếu như con hiểu rằng đó chính là phương thuốc giúp con nên trọn lành. Xin giúp con, giả như vác thập giá đời mình chưa nổi, thì đừng nên chuốc thêm thánh giá cho ai. Ước gì, mỗi người trên thế giới biết ghé vai vác thập giá giúp người cho dẫu chỉ một đoạn đường, thì nước mắt khổ đau sẽ đâu còn rơi nhiều đến thế. Xin giúp con, đừng bao giờ phàn nàn từ chối thập giá Chúa gửi đến, nhưng hãy biết san sẻ gánh nặng cho tha nhân bên cạnh: yếu sức, nghèo nàn, bất hạnh hơn con.
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
 

14/09-49: "LẠY CHÚA, CHÚNG CON TÔN THỜ THÁNH GIÁ CHÚA

Lễ suy tôn Thánh Giá 14.9.2015 ( Ga 3, 13-17 )
 

Ngày 14 tháng 9 hàng năm, Phụng Vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá 14/09-49

Ngày 14 tháng 9 hàng năm, Phụng Vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa với niềm vui vì được ơn cứu độ. Ngày này, Thánh Giá được trình bày cho các tín hữu không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để tự hào và không có khóc lóc.
Lễ này khởi đi từ hai sự kiện lớn là khánh thành, cung hiến Đền Thờ Calvario và Mộ Thánh ở Thánh Địa do bà Helena, mẹ vua Constantin ( khoảng năm 270, 280 đến 337 ), hoàng đế Roma cho xây cất năm 335. Ngày 14 tháng 9 còn là ngày mừng vì Thánh Giá thực được tìm thấy vào 14 tháng 9 năm 326. Cuộc chiến thắng của người Kitô giáo trước quân Ba Tư vào thế kỷ thứ VII, giúp tìm lại Thánh Giá Chúa và cung nghinh về Giêrusalem là sự kiện thứ hai. Từ đó, ở Giêrusalem có lễ Suy Tôn Thánh Giá vào ngày 14 tháng 9.
Tuy nhiên với dòng thời gian, lễ này có một ý nghĩa riêng, vì được cử hành với niềm vui của mầu nhiệm Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, được Đức Kitô dùng để cứu độ thế gian. Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để "tán dương" Đức Kitô: "Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu" ( Pl 2, 8-11 ). Theo Thánh Gioan thì Thánh Giá là khí cụ để cứu độ con người: "Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời" ( Ga 3, 14 ).
Như thế, Thánh Giá là Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, Thánh Giá ban tặng cho nhân loại ơn sủng và ơn tha thứ. Nên "chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta" ( Ca nhập lễ ).
Khi kính thờ lạy Thánh Giá Chúa, chúng ta hát: Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa… vì nhờ gỗ này mà cả vũ trụ được hân hoan. Tại sao vậy ?
Thưa: Vì với khí giới của riêng mình là gỗ Thánh Giá, Chúa Giêsu đã chiến thắng cách diệu kỳ. Người đã chiến thắng ma quỉ bằng phương cách do chính ma quỉ dùng để chiến thắng thế gian. Một người phụ nữ, với một cây và cái chết, là những phương tiện và khí cụ làm con người thất bại. Người nữ ấy là Evà đã không còn biết đến Ađam; cây ấy là cây trái cấm, và bản án tử hình đến với người đầu tiên. Đức Maria đã thay thế Evà; gỗ Thánh Giá đã thay cây biết lành biết dữ; sự chết của Chúa Giêsu Kitô đã chuộc lại cái chết của Ađam. Ma quỷ đã bị đánh bại bởi cùng một phương tiện mà nó đã chiến thắng. Ma quỷ đã dùng cây trái cấm để quật ngã Ađam, Chúa Giêsu Kitô đã dùng gỗ Thánh Giá để đánh bại quỷ ma. Cây trái cấm đã ném con người vào vực thẳm, nay Chúa dùng gỗ Thánh Giá kéo con người lên. Cây trái cấm đã làm cho con người mất đi tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa, tống con người vào ngục; nay gỗ Thánh Giá tước lấy vũ khí của ma quỷ đã chiến thắng con người, giúp con người vượt qua trần thế. Cái chết của Ađam đã kéo theo con cháu mình là kẻ sinh sau ông; sự chết của Chúa Giêsu Kitô mang lại Sự Sống cho những kẻ sinh ra trước Người.
Nhờ những ân huệ và công nghiệp từ cây Thập Giá, chúng ta đã từ cái chết đến cõi trường sinh. Thiên Chúa chiến đấu, còn vương niệm chiến thắng chúng ta nhận lãnh. Gỗ Thánh Giá đã mang lại chiến thắng cho chúng ta; chiến thắng mà không phải chiến đấu, không phải dàn trận, vũ khí không dính máu, chúng ta không bị thương vong nhưng lại giành chiến thắng: Từ đó chiến thắng là của chúng ta, hãy để niềm vui dâng trào như những người lính, hát bài ca chiến thắng để ngợi khen Thiên Chúa: "Sự chết đã bị vùi trong toàn thắng. Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu ? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu ?" ( 1Cr 15, 54-55 ).
Giáo hội cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa, nhờ Đấng bị đóng đinh, chúng ta được đưa về trời cao, vứt bỏ sau lưng tội lỗi thế gian để đạt tới sự thiện trên Trời. Chúng ta hát mừng Chúa sống lại hiển vinh, vì bởi cây Thánh Giá niêm hân hoan tràn ngập khắp địa cầu. Còn hạnh phúc nào hơn từ cây Thánh Giá; vì chính nhờ gỗ Thánh Giá, nguồn vinh phúc, Ơn Cứu Độ chúng ta được phục hồi. Thật vậy, nếu không có cây Thánh Giá, Đức Kitô đã không bị đóng đinh, sự sống đã không bị treo lên gỗ giá, máu và nước, nguồn suối trường sinh đã không chảy ra từ cành sườn để rửa sạch tội lỗi thế nhân, bộ mặt kẻ tội lỗi đã không bị lột trần, chúng ta sẽ không được tự do và không được hưởng nhờ ơn phúc từ cây sự sống. Nếu như không có Thánh Giá, thiên đàng không được mở, sự chết không bị chôn vùi, mọi thủ đoạn của hỏa ngục sẽ không được phơi bày ra.
Thánh Giá thật cao cả và quý giá biết bao. Cao cả, vì Đức Kitô đã chiến thắng khải hoàn trước mọi đau khổ, Thánh Giá phát sinh sự thiện với biết bao kỳ công. Quí giá, vì Thánh Giá vừa là sự khổ đau vừa là khí giáp của Thiên Chúa. Là khổ đau, vì chính nhờ cây Thánh Giá Đức Giêsu đã hoàn toàn chịu chết; là khí giáp, vì ma quỷ đã bị tổn thương và đánh bại, sự chết đã bị Đức Giêsu tiêu diệt vĩnh viễn; cửa hỏa ngục bị đập tan và Thánh Giá trở nên ơn cứu độ cho toàn thế giới. Thánh Giá được gọi là vinh quang của Đức Kitô, và tán dương Người. Chúng ta nhìn thấy nơi Thánh Giá, chén của giao ước và tất cả mọi khổ đau mà Đức Kitô đã phải chịu vì chúng ta.
Đây là những lợi ích mà chúng ta có được từ cây Thập Giá; Thánh Giá là cờ vua cả toàn thắng đã cứu chúng ta cho khỏi tay ma quỷ, là vũ khí chông lại tội lỗi, là thanh gươm sắc bén Chúa Giêsu dùng để chiến thắng con rắn xưa. Thánh Giá là ý Chúa Cha, là vinh quang của Chúa Con độc nhất, là chiến thắng của Thánh Thần Thiên Chúa, là niềm vinh dự của các Thiên Thần, là sự an toàn của Giáo Hội, là bức tường thành của các vị thánh, niềm tự hào của thánh Phaolô, là ánh sáng chiếu soi trên toàn thế giới.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ

---------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây