Bài Tin Mừng CN 4 mùa chay (C) cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài MC 4-C201
Bài Tin Mừng CN 4 mùa chay (C) cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài yêu thương hết mọi người, một tình yêu bao la không bờ bến, tình yêu vô vị lợi, không so đo tính toán, không phân biệt sang hèn, không phân biệt màu da tiếng nói; không phân biệt tội phúc. Chúa sẵn sàng đón tiếp hết thảy những ai đến với Người.
Tin Mừng Thánh Lc đã cho ta thấy rõ: “Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người” (Lc 15,1).
Chứng tỏ Chúa Giêsu là Đấng cứu độ, Ngài đã không ngần ngại tiếp đón hết mọi người, tiếp đón cả những con người tội lỗi, hơn thế nữa, Ngài còn ăn uống với họ, để cảm hóa họ, dạy cho họ biết chân lý, bỏ đường tội lỗi, quay trở về với Thiên Chúa, sống công chính để được hưởng ơn cứu độ của Ngài.
Còn những người Pharisêu và các Kinh Sư tự cho mình là công chính, không cần nghe Chúa Giêsu giảng dạy. Họ sống tách biệt với mọi người, nhất là những người thu thuế và người tội lỗi thì họ lại càng xa cách. Vì thế, thấy Chúa Giêsu đón tiếp những người tội lỗi đến nghe Người giảng dạy thì họ lẩm bẩm kêu trách Chúa: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. (Lc 15,2).
Nhân cơ hội ấy, Chúa Giêsu đã dạy cho họ bài học, Ngài làm cho họ phải tẩy não, loại bỏ lối suy nghĩ cổ hủ, lối sống bảo thủ và tự nãn, tự cho mình là tốt, khinh bỉ người đồng đạo, đồng hương. Qua dụ ngôn Người Cha nhân hậu, Chúa Giêsu cũng mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, chậm bất bình và hết mực khoan dung.
Trong dụ ngôn “người cha nhân hậu”, Thánh Sử Luca muốn diễn tả ba khuôn mặt: Người Cha tiêu biểu cho Thiên Chúa; người con cả tượng trưng cho nhóm Pharisêu và các Kinh Sư; còn người con thứ tượng trưng cho con người tội lỗi.
Người Cha: Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa qua người cha mà Thánh Luca trình bày. Đặc điểm của người Cha này tôn trọng tự do của con cái, có lòng yêu thương và quảng đại sẵn sàng tha thứ, kiên nhẫn chờ đợi, luôn luôn hy vọng. những người con tội lỗi ăn năn sám hối mà quay trở về nhà cha. Trước hành vi của đứa con thứ muốn được tự do lo liệu cuộc sống của mình và tự do sử dụng của cải, người cha không phản đối, không ngăn cản, chấp nhận chia gia tài cho các con mà ông đã chắt chiu nhiều năm, không so đo tính toán thiệt hơn. Dù ông biết là nó không tôn trọng ông và như vậy cũng có thể gây nguy hiểm cho con, nhưng ông vẫn thương để cho con quyền tự do lựa chọn, để con mình ra đi, chấp nhận quyết định của nó. Ông hy vọng nó sẽ chịu khó làm ăn, gặp nhiều may mắn, cuộc sống được ấm no hạnh phúc. Khi người con thứ đã ra đi, người cha ngày đêm thương nhớ, trông chờ đến mất ăn, mất ngủ vì con.
Thiên Chúa cũng yêu thương, luôn tôn trọng tự do của con người. Ngài để con người hoàn toàn tự do hành động, tự do quyết định theo ý riêng. Nhưng vì yêu thương, Thiên Chúa luôn để mắt nhìn, xem xét mọi lời nói và hành động của con người. Thiên Chúa không can thiệp vào đời sống riêng tư của con người, nhưng Thiên Chúa mời gọi con người tích cực cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo và cứu chuộc của Ngài.
Người con thứ: Anh ta được sống trong một gia đình bề thế, không phải làm lụng vất vả, được yêu thương, được tôn trọng, được yên vui hạnh phúc… Nhưng anh ta lại nghĩ quẩn, anh cho rằng sống trong nhà cha, anh không được tự do làm việc và sử dụng của cải theo ý mình, nên anh đã xin với cha: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng” (Lc 15, 12). Người cha đã đồng ý chia của cải cho các con. Thế rồi nó thu góp của cải và trẩy đi phương xa, không muốn cha xen vào cuộc sống riêng tư của mình, để mình được tự do ăn chơi, tiêu sài nên anh quyết định ra đi. Việc ra đi của người con là một sự xúc phạm rất nặng, đó không phải chỉ là hành động thiếu tôn trọng, mà là sự phản bội. Đó là sự bạc ác, cắt đứt tận căn mối dây liên hệ tình phụ tử, từ bỏ người cha đã hết mực yêu thương anh, từ bỏ tình ruột thịt, từ bỏ mái ấm gia đình nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng… Anh ta ra đi đến một nơi xa xôi, ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình” (Lc 15, 13). Chỉ trong thời gian ngắn anh ta đã tiêu sài phung phi hết số gia tài mà anh đã đem theo. Nhưng cuộc đời đâu có đơn giản như anh nghĩ, người ta chỉ thân và làm bạn với anh khi anh có tiền của, khi hết tiền chẳng ai làm bạn với anh. Anh đem tiền của vào chốn ăn chơi, nướng vào cờ bạc đỏ đen, tửu sắc, nhà hàng quán xá, hộp đêm thì biết bao nhiêu cho vừa, tục ngữ Việt Nam có câu “miệng ăn núi lở”. Và cuối cùng anh cũng trắng tay, bạn bè xa tránh, anh phải sống trong cảnh cô đơn, buồn tủi. Nguyễn Đơn Giản trong bài thơ “Thú lỗi” có câu:
“còn tiền, còn bạn, còn tình
hết tiền, hết bạn, một mình bơ vơ”.
Gặp cơn túng quẫn anh phải đi chăn heo thuê, anh phải sống trong điều kiện tồi tệ. Hơn thế nữa, anh ta còn “ao ước” được ăn thức ăn dành cho heo, để nhét cho đầy bụng cũng chẳng ai cho. Anh ta bị khinh miệt, ăn mặc bẩn thỉu, mất hết phẩm giá của một con người.
Quá khổ cực, bị dồn đến tận chân tường, nên “anh ta hồi tâm và tự nhủ: biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư, gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói” (Lc 15,17) nên anh ta quyết định trở về. Trước khi quyết định trở về với cha, anh ta chuẩn bị sẵn một bài rất chu đáo để thưa với cha “thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa, xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15, 19). Khi đã thuộc bài, anh ta quyết định đứng lên trở về cùng cha.
Người thanh niên ra đi trong sự kiêu hãnh, tự do, mang theo nhiều của cải, ăn mặc lịch sự. Sau một thời gian ăn chơi, anh đã mất tất cả. Anh ta trở về mang theo những con số không: không tự do; không tiền bạc; không bạn bè; không sức khỏe; không dày dép; không danh dự…
Anh ta còn đi thất thểu từ đàng xa “Thì người cha đã trông hấy. Ông trạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20). Cha anh đã chờ đợi anh từ ngày anh bỏ nhà ra đi, nên anh còn đi từ đàng xa ông đã trông thấy, chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để. Cử chỉ của người cha thật là bao dung, đại lượng, không một lời trách mắng, tha thứ vô điều kiện. Ông cũng không để ý để nghe con xin lỗi và trình bày sự thể, anh ta chưa nói hết câu mà anh đã chuẩn bị sẵn: “thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa …”. Người cha không cần trình bày dài dòng, chỉ cần hành vi sám hối quay trở về là quá đủ rồi. Nên anh chưa nói hết câu người cha đã ngắt lời và thúc dục các đầy tớ: “mau mang áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cho cậu” (Lc 15, 22). Cậu con trai của ông đã mất tất cả: mất tiền bạc; mất tự do; mất phẩm giá… Vì tình thương nên người cha sai đầy tớ lấy áo đẹp nhất mặc cho cậu, xỏ nhẫn, xỏ dép vào chân để phục hồi phẩm giá cho anh mà anh đã đánh mất khi bỏ nhà ra đi. Rồi ông ra lệnh mở tiệc ăn mừng. “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15, 24).
Người con cả: Ích kỷ, hẹp hòi, so đo tính toán, hờn giận, ghen ghét, tự phụ, biết tin em trở về thì anh khó chịu, thấy đàn hát nhảy múa, tiệc tùng linh đình thì “nổi giận không chịu vào nhà” (Lc 15, 28). Anh không chấp nhận ngay cả đứa em ruột của mình, khi nó phải cố gắng vùng dậy trong vũng bùn tội lỗi, của các tệ nạn xã hội để trở về với cha và với anh. Nhưng người anh lại không chấp nhận sự đoàn tụ của gia đình. Thực ra xét về mặt tình cảm anh cũng chẳng hơn gì người con thứ, cũng đối xử cạn tàu ráo máng với cha của anh. Anh không bao giờ trái lệnh cha chỉ là để cầu lợi, anh hăng say làm việc là vì nghĩ đến một gia tài kích sù mà anh được kế thừa, anh còn nghĩ đến sự hưởng thụ, anh mơ tới “một con bê béo để ăn mừng với bạn bè” (Lc 15,29). Nhìn hình thức bên ngoài, thì anh là người con cả gương mẫu: vâng lời, cung kính, trung thành, không lầm lỗi. Nhưng khi đối diện của người cha đón em trở về, một cú sốc bao phủ anh, bỗng chốc anh bị lột mặt nạ ngay giữa ban ngày, để lộ chân tướng của một kẻ kiêu ngạo, hận thù, độc ác, tham lam, ích kỷ, những điều lâu nay anh đã cẩn thận giấu kín. Anh sống bên cạnh cha “hầu hạ cha” (Lc 15, 29), nhưng trong lòng anh thật xa cách người cha, xa đến nỗi hờn giận, oán trách cha, vì cha đối xử tốt với em mình, xa đến nỗi không nhận cả em ruột của mình “còn thằng con của cha đó” (Lc 15,30), muốn giết chết, muốn loại trừ cả ruột thịt máu mủ của mình… Người con cả đã không cùng cha để xây dựng hạnh phúc gia đình, không muốn giúp đứa em hư hỏng và dạy dỗ cho nó nên người, muốn phá vỡ tất cả. Thái độ đó đã đưa anh đến chỗ ngụp lặn trong sự căm tức, buồn chán, hờn giận, ghen ghét.
Dụ ngôn “người Cha nhân hậu” đã để lại cho chúng ta một bài học vô cùng quý giá. Chúng ta được sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà Cha của chúng ta, được hưởng tình yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, được tôn trọng, được sống tự do và được hạnh phúc. Thế mà chúng ta không nhận ra, chúng ta lại bỏ nhà ra đi, tưởng rằng được tự do hơn, được mọi người tôn trọng hơn, được hạnh phúc hơn. Nhưng thực tế, đọc dụ ngôn “người cha nhân hậu” chúng ta mới thấy rõ. Bỏ nhà ra đi là đánh mất sự liên đới, không được hưởng tình yêu thương, mất tự do, mất phẩm giá, phải làm nô lệ, đi chăn heo, phải khổ sở, phải ăn đói mặc rách, tức là làm nô lệ cho tội lỗi. Trong mùa chay thánh này, chúng ta cũng hãy hồi tâm, nhìn lại mình, mà quyết tâm đứng lên và trở về với Chúa, để được hưởng tình yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, để chúng ta được tự do hơn khi ta sống thánh ý Chúa, để được phục hồi phẩm giá là con cái Chúa. Mỗi khi chúng ta ăn năn hối cải quay trở về nhà Cha, chúng ta được Thiên Chúa là Cha luôn quảng đại, tha thứ hết mọi lỗi lầm thiếu xót của chúng ta. Ngài mở rộng vòng tay từ ái đón nhận chúng ta về nhà Cha trên trời và mở tiệc ăn mừng, thật là một bữa tiệc “agape”, bữa tiệc của tình thương. Và “trên trời cũng thế , ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,7).
Trong con người chúng ta, chúng ta không chỉ mang khuôn mặt của người con hoang đàng, mà nhiều khi chúng ta cũng mang bộ mặt của người con cả, bộ mặt của những người Pha-ri-sêu và của các kinh sư, sống hình thức, tự cho mình là tốt. Chúng ta tưởng rằng mình thánh thiện, công chính, không bỏ nhà đi xa, nhưng tấm lòng của chúng ta sống xa cách Chúa, không đọc kinh cầu nguyện, không đi lễ, không giúp đỡ tha nhân mỗi khi họ cần, không trái lệnh Cha nhưng sống ích kỷ, hẹp hòi, hờn giận, ghen ghét, oán thù không muốn người khác bằng mình, khinh chê đồng loại. Oán trách Chúa vì đã đón tiếp những người tội lỗi.
Lạy Chúa, Chúng con cũng là những người con hoang đàng, bỏ nhà Cha ra đi, sống xa lìa tình thương của Cha, chúng con đánh mất nhân phẩm, mất tự do, phải làm nô lệ cho tội lỗi, nô lệ cho ma quỷ. Xin Chúa ban ơn giúp chúng con biết hồi tâm suy nghĩ, ăn năn hối cải, quyết tâm trở về cùng Chúa là Cha nhân từ, để chúng con được sống tự do trong tình yêu Chúa, được làm con Chúa, được sống hạnh phúc trong nhà Cha trên Trời. Amen.
Qua tường thuật của Luca chúng ta thấy đứa con thứ không muốn ở trong gia đình, dù ở đó nó có tình thương, sự quan tâm chăm sóc của mọi người, có đầy đủ mọi thứ… Thực sự ra không phải nó không muốn ở nhà, cho bằng nó muốn một thứ tự do theo nó tưởng tượng là sẽ thoải mái, là sẽ đem đến cho nó niềm vui và hạnh phúc hơn là ở nhà của cha mình.
Để rồi, sâu xa thế giới riêng tư của đứa con thứ chính là tìm thỏa mãn những đam mê thấp hèn của nó: “Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Người anh cả còn biết cặn kẽ hơn về đứa em của mình: “nuốt hết của cải của cha với bọn điếm”.
Hậu quả
Hậu quả của việc rời khỏi gia đình và sống phóng đãng là “lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ”. Từ một con người muốn tự do trở thành tên nô lệ. Từ một kẻ thỏa mãn những đam mê nhục dục như một con heo trở thành tên thèm khát những thứ của heo ăn… Anh ta đã mất tất cả: Tiền bạc, nhà cửa, tự do và nhân phẩm của mình.
II. NGƯỜI CHA NHÂN HẬU
Bỏ qua tâm trạng của người cha đứng trước lời đề nghị chia gia tài của đứa con khi cha còn đang sống; việc chiều chiều ra ngõ đứng ngóng đứa con quay trở về; việc chịu những lời đàm tiếu của bà con lối xóm vì có đứa con hư hỏng; nhất là nỗi đau đớn của người cha khi không dạy dỗ được đứa con của mình… Chúng ta hãy nhìn thái độ của ông khi đứa con trở về.
Thấy nó tự đằng xa
Luca tường thuật “Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy”. Nghĩa là ông luôn dõi mắt theo đứa con của mình. Tuổi già, mắt mờ, nhưng khi thấy bóng dáng đó tự đằng xa thì ông biết chắc là con trai của mình chứ không ai khác. Hình bóng đó không phải chỉ lờ mờ qua đôi mắt, mà nó ghi khắc trong óc, trong tim, hay như lời của tiên tri Isaia: “Tã đã ghi khắc tên con trong bàn tay Ta, con là của Ta” (x.Is 49, 16).
Chạy ra, ôm cổ và hôn…
Khi thấy bóng dáng đứa con tự đằng xa, người cha đã “chạy ra, ôm cổ anh ta, hôn lấy hôn để”. Một cảnh tượng khi chứng kiến, chắc có lẽ ít ai cầm được nước mắt. Bước chân của người cha này không còn lanh lẹ nữa, và có thể phải vấp té nhiều lần mới đến được chỗ đứa con. Chính ông đã chạy đến để đón lấy đứa con, vì ông sợ nó không dám vào nhà, vì ông sợ nó sẽ chạy mất. Ông ta đã “ôm cổ anh ta, hôn lấy hôn để”, chứng tỏ rằng ông đã tha thứ cho nó.
Mặc áo, xỏ nhẫn và mang dép
Khi thấy đứa con trở về, “người cha liền bảo các đầy tớ rằng: Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu”. Những thứ này, ông đã chuẩn bị trước vì ông biết có ngày con ông sẽ trở về. Và khi trở về nó sẽ trở nên tàn tạ, mất nhân phẩm, và không còn tự do.
Ông chuẩn bị áo mới, vì chiếc áo là vật che thân. Bị người khác lột trần là sự xúc phạm nặng nề đến nhân phẩm, giống như Chúa Giêsu. Ở đây không ai lột trần đứa con, mà chính nó đã làm cho chiếc áo của mình trở nên rách nát vì nó không biết bảo vệ nhân phẩm của nó. Nó đã lao đầu vào những đam mê thấp hèn. Mỗi lần như vậy là một lần nó làm cho chiếc áo của nó trở nên rách thêm một chỗ, và từ từ rách mướp.
Ông chuẩn bị nhẫn ngay khi đứa con ra đi. Nó tự quyết định ra đi, nghĩa là từ đây nó sẽ mất tư cách làm con. Ra ngoài đời, nó sẽ là một kẻ mồ côi. Mồ côi không phải vì mất cha mất mẹ, mà vì nó muốn tự tách mình ra khỏi gia đình. Bên ngoài xã hội, nó mới thấy không ai thương mình bằng cha bằng mẹ, không ai lo lắng cho mình bằng mẹ bằng cha. Những lúc nó đau bệnh, những lúc nó đói… nó mới thấy đươc rằng mình đã đánh mất đi một thứ quý giá nhất chính là tư cách làm con. Nhưng người cha sẵn sàng trao lại cho nó chiếc nhẫn mới. Ông công nhận nó mãi mãi là con của ông.
Chỉ có nô lệ, người làm mướn mới đi chân không. Còn ông chủ, và người tự do thì chân mang dẹp. Đứa con này đã mất tự do, đã phải đi làm công cho người ta. Ra khỏi gia đình, nó tưởng nó được tự do, nhưng thực sự nó đã trở thành tên nô lệ vì nó tìm tự do không đúng đắn. Chính cái gọi là tự do để thỏa mãn những thứ nó muốn đã ràng buộc đến nỗi nó thèm ăn thức ăn của heo cũng không được. Nhưng người cha đã chuẩn bị đôi dép mới cho nó ở nhà. Nghĩa là trong gia đình, lúc nào nó cũng là chủ, cũng được tự do, dĩ nhiên là phải có khuôn phép của nó.
III. LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA
Chúng ta nhận ra được lòng thương xót của Thiên Chúa qua hình ảnh người cha nhân hậu trong dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người cha này luôn muốn dành sự tốt đẹp nhất cho mọi con cái của mình. Tuy nhiên, ông cũng tôn trọng tự do của nó. Ông để nó có quyền định đoạt cuộc đời của nó; muốn ở với ông hay không là quyền của nó. Nhưng ông biết một khi nó ra đi nó sẽ mất tất cả. Lòng thương xót của ông càng rõ ràng hơn khi đứa con bắt đầu ra đi, là lúc người cha chuẩn bị cho ngày nó trở về.
Đứng trước sự nhân hậu của người cha cũng chính là lòng thương xót của Chúa, chúng ta không kết án người con hoang đàng hay bất cứ một anh em nào, vì thấp thoáng nơi hình ảnh người con đó có bóng dáng của mỗi chúng ta.
Không phải một lần, mà rất nhiều lần chúng ta đã chạy theo những đam mê, những tự do cá nhân để rời khỏi vòng tay ấm áp của người cha chính là Thiên Chúa.
Nhiều người trong chúng ta đã có kinh nghiệm hụt hẫng, mất mát, bơ vơ, tội lỗi… khi thỏa mãn những đam mê của mình, và đã tìm về với Cha qua Bí tích Giải tội, để Người “mặc cho ta hồng ân cứu độ, choàng cho ta đức chính trực công minh”.
Nhưng cũng có nhiều người vẫn chưa chịu bỏ kiếp đi hoang, hoặc cứ nuôi ý tưởng “đi một lần cho biết”. Người con hoang đàng đã kịp suy nghĩ để trở về với Cha. Nhưng liệu với những đam mê, những hấp dẫn của cuộc sống hôm nay, chúng ta có kịp “bỏ kiếp đi hoang”, hay cứ mãi quay cuồng trong tội lỗi.
Mùa Chay trong năm Thánh Lòng Thương Xót là dịp để mỗi chúng ta, nhất là các bạn trẻ biết dừng lại với ý tưởng “đi hoang” của mình, để biết “ở nhà” với Cha. Vì không ai và không gì có thể đem đến cho ta tự do và hạnh phúc cho bằng Cha và “nhà” của Cha. Những ai đã lỡ lầm trót đi hoang, thì hãy quay về, vì Chúa như người Cha nhân hậu đang chờ để “mặc cho ta hồng ân cứu độ”.
“Lạy Cha, con con đã xúc phạm đến Trời và đến Cha, con không xứng đáng làm con Cha nữa. Nhưng xin Cha hãy thương xót con!”
Tuần rồi, dựa trên Lời Chúa Giêsu: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị hủy diệt” MC 4-C203
Tuần rồi, dựa trên Lời Chúa Giêsu: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị hủy diệt”, chúng ta đề nghị nhau, mỗi người tự tin nơi bản thân, để hun đúc nghị lực, hun đúc ý chí, trở về với Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta hướng tới một đề nghị cao quý hơn, làm cơ sở cho sự ăn năn thống hối, đó là: Hãy cậy dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa, mà trở về với Người. Một mặt tin vào khả năng sám hối của chính mình, nhưng mặt khác, hãy nhớ lại lòng thương xót của Chúa để làm cho nghị lực nơi ta dồi dào hơn, ý chí mạnh mẽ hơn.
Tình thương của Thiên Chúa là một tình yêu chờ đợi, tình yêu tha thứ. Chỉ cần con người mở lòng ra đón nhận là gặp được tình yêu đó thôi. Dụ ngôn người cha nhân hậu được suy niệm trong Chúa nhật thứ IV mùa Chay này là bằng chứng cho tình yêu ấy.
Một người cha có hai đứa con. Một hôm đứa con thứ đòi chia gia tài cho nó. Thế là gói trọn gia tài cha chia cho, người con thứ đã quên tất cả tình yêu, sự chiều chuộng của cha, bỏ đi biệt tăm. Thái độ bỏ đi ấy cho thấy lòng phản bội của người con thứ.
Từ bỏ cha đã vậy, anh còn lao mình vào những trò chơi xa xỉ, đầy tội lỗi. Cuối cùng, không còn một đồng nào dính túi. Vậy điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Anh ta trở thành một kẻ tự đánh mất hết giá trị con người của mình: đói quá, đi xin người ta để được chăn heo!
Nhưng giá trị của một con người bị đánh mất ấy vẫn chưa dừng, nó càng tuột dốc và lao nhanh. Nó lao tới một nỗi nhục lớn hơn: thọc tay vào máng heo ăn, lấy cám heo bỏ vào miệng, muốn cùng ăn chung với heo, vậy mà một miếng, người ta cũng không cho.
Đọc Tin Mừng, tôi thấy thánh Luca dùng danh từ còn nặng nề hơn hai từ “cám heo”, để diễn tả nỗi nhục nhã quá sức, không thể tưởng tượng. Một nỗi nhục khôn cùng: “cặn bã”. Thánh Luca viết: “Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho”!
Đó là bài học đáng giá để ta lưu tâm suy nghĩ. Vì khi lìa bỏ Chúa, trầm mình trong tội lỗi, khoái lạc, dục vọng, người ta chỉ chuốc lấy nỗi nhục nhã ê chề, chuốc lấy sự mất bình an không thể có gì bù đắp được.
Nỗi nhục nhã này quá lớn. Nó cướp mất tất cả những gì là nhân vị của một con người. Biến kẻ lao mình vào làm bạn với nó trở nên ngang hàng với thú vật. Thậm chí còn không bằng. Bởi muốn ngang hàng với thú khi cùng ăn “cặn bã” với nó mà “cũng không ai cho”.
Nhưng rất may cho người con thứ. Anh có một người cha quá nhân từ, để trong lúc ngặt nghèo này, anh còn có chỗ mà dựa dẫm. Tình yêu của người cha nung nấu nghị lực và làm sống lại ý chí nơi người con thứ. Đó là sức mạnh vững chắc để anh tìm về gặp cha của anh.
Người con thứ có dư kinh nghiệm về lòng yêu thương của cha. Người con thứ biết rằng, dù anh có bỏ cha, bỏ nhà ra đi, sống một đời sống bê tha tội lỗi, thì tình yêu nơi cha của anh còn lớn hơn, mạnh hơn mọi sự phản bội, mọi vong ân, mọi tội lỗi mà anh đã gây ra.
Trong khi người con thứ ngụp lặn trong thế giới tự do xấu xa của riêng mình, người cha vẫn một lòng chờ đợi không mệt mỏi, một lòng hy vọng nơi con không hề hối tiếc. Rồi khi người con nghịch phản ấy trở về, từ đàng xa, người cha đã nhìn thấy con trai ông trước khi nó nhìn thấy cha nó. Người cha không hề nhớ tội của con mà chỉ nhớ con. Người cha không mảy may nghĩ tới việc con làm, điều con sống, mà chỉ nhất mực tha thứ. Con trai mình còn chưa kịp nói một lời xin lỗi, người cha đã đon đả đón chào.
Kinh nghiệm lớn lao về tình yêu của cha, đúng hơn, người con thứ quá kinh nghiệm về một biển trời yêu thương, anh đã cậy dựa vào biển trời yêu thương ấy mà có đủ sức mạnh để hồi tâm, đủ can đảm và nghị lực trở về cùng cha. Tình yêu của người cha chính là ý chí, là nghị lực của đứa con. Trong cơn tủi nhục ê chề, người con thứ đã hối hận. Và trong cơn hối hận, người con thứ nhìn thấy tình yêu của cha sáng như ngọn hải đăng rọi chiếu tâm hồn anh, để với ngọn đèn tình yêu ấy, lòng anh bừng lên ý chí trở về với cha. Phúc thật cho người con thứ vì lòng cha yêu anh. Hình ảnh người cha vô cùng nhân hậu ấy, chính là Thiên Chúa. Hai người con chính là hình ảnh của chúng ta. Nơi bản thân mỗi người mang vóc dáng của cả hai người con. Có lúc mình trung thành lắm, nhưng cũng có lúc chẳng trung thành chút nào.
Nhưng với hình ảnh người con thứ là một bài học lớn về ý chí, nghị lực và sự hồi tâm, ta hãy học lấy mà nhận ra tình yêu cao vời vợi của Thiên Chúa, một tình yêu không hề so đo, tính toán, nhưng luôn là tình yêu chung thủy, rộng lượng và khoang dung đến mức chúng ta không thể hiểu nổi, chỉ có thể cảm nghiệm và cố gắng sống sao cho xứng đáng…
Tình yêu của người cha trong dụ ngôn đã nắn đúc nên nghị lực, rèn lại ý chí nơi người con thứ. Cũng vậy, tình yêu của Thiên Chúa hãy là chỗ dựa của chúng ta, làm dậy lên ý chí và nghị lực cho cả một kiếp sống làm người của mình. Vì phúc thật của người con trong dụ ngôn, cũng chính là phúc thật của bạn và tôi trong thân phận mong manh của một kiếp người: phúc thật cho chúng ta vì Thiên Chúa yêu chúng ta.
Vậy, nhận lãnh mối phúc ấy, dù biết rằng, đã nhiều lần mình yếu lòng, nhiều lúc không đủ nghị lực thắng cám dỗ, bạn và tôi hãy nhớ lại dụ ngôn người cha nhân hậu này, để khám phá lại lòng thương xót của Chúa mà cậy dựa vào lòng thương xót ấy, trở về với Người.
Chính khi ta hồi tâm nhớ lại lòng Chúa yêu thương, rồi tin tưởng, cậy dựa vào tình yêu ấy, chắc chắn, tâm hồn mình sẽ tăng thêm nghị lực, giàu thêm ý chí, giúp ta can đảm làm lại tương quan với Chúa và với anh em, bằng sự nỗ lực xa tránh cám dỗ, xa tránh dịp tội.
Chỉ cần trở về với Chúa, qua việc lãnh nhận bí tích giao hòa, Chúa sẽ tha thứ hết. Không chỉ tha thứ, Người còn quên hết quá khứ của ta, giống như người cha tha thứ và đón nhận đứa con hư hỏng của mình.
Phúc thật cho bạn và cho tôi, vì Chúa yêu chúng ta!
Câu chuyện chúng con vừa nghe chúng con có thấy hay không? - Hay quá đi mất! Đây là câu MC 4-C204
Câu chuyện chúng con vừa nghe chúng con có thấy hay không? - Hay quá đi mất!
Đây là câu chuyện về một gia đình. Gia đình này có một người cha và hai người con. Theo ý của Chúa trong bài dụ ngôn thì rõ ràng là cả hai người con này đều là những người đáng trách.
Câu chuyện xảy ra xem ra có vẻ rất bất ngờ.
Hai anh em cùng chung một cha. Người em bỏ nhà ra đi vì anh ta quyết định sống cuộc sống riêng của anh ta.
Sau thời gian một mình một cõi, sống buông thả say sưa tiêu hết tiền bạc mình có, thì cuộc sống anh ta rơi vào tình trạng hết sức bi đát. Hết tiền hết bạc thì hết bạn bè, hết mọi thứ mà anh ta mơ tưởng như trước khi bỏ nhà ra đi. Lần đầu tiên trong đời anh ta phải giáp mặt với những cảnh phũ phàng và nhiều đau khổ như thế. Anh ta phải đi làm nghề chăn heo, muốn được ăn những thứ heo ăn cho đỡ đói nhưng cũng không được. Thật là một thảm hoạ.
Rất may là anh ta đã biết nghĩ lại. Anh ta đã hiểu được lỗi lầm của mình. Anh ta hiểu thật rõ những gì anh ta đã làm mất. Và anh ta quyết định trở về nhà. Thái độ lúc này của anh ta thật khiêm tốn và xem chừng có cả một chút sợ hãi. Anh ta xưng thú tội trước mặt người đang giơ tay đón nhận anh. Người ấy chính là cha anh. Người cha đã tha thứ và ban lại cho anh danh nghĩa là con, và ôm chặt anh trong vòng tay yêu thương của mình.
Chúng con thấy người cha đó là một người cha thế nào? Thật là tuyệt vời. Không một lời trách móc. Không một cử chỉ buồn lòng. Trái lại còn hoan hỉ vui vẻ tổ chức tiệc tùng mừng anh trở về.
Câu chuyện được tiếp tục như sau: Người anh cả đi làm về và khi nghe biết những gì đang xảy ra trong nhà. Anh nổi giận. Anh trả lời với người cha đến yêu cầu anh tham gia vào cuộc vui: "Con làm việc như một kẻ làm thuê, con vâng lệnh cha thế mà cha chẳng cho con cái gì đặc biệt cả. Nhưng đứa con của cha kia đã bỏ cha mà ra đi nay trở về, thì cha mở tiệc ăn mừng để đón tiếp anh ta ".
Anh con cả này là một kẻ không tự xem mình như con cái mà chỉ là một kẻ làm thuê. Người cha kia không phải là cha của anh ta nhưng là một ông chủ. Một ông chủ khắt khe, đòi hỏi, chỉ biết ra lệnh.
Và khi người cha trả lời: "Con ơi, con luôn luôn ở với cha và bao giờ cha cũng cho con dư đầy mọi sự. Đối với con, lúc nào cũng là tiệc ăn mừng cả. Nhưng em con đã mất đi và nay tìm lại được. Chẳng phải là chuyện bình thường khi chúng ta vui mừng và mở tiệc vì chúng ta lại được đoàn tụ ư?".
2. Cha hỏi chúng con, Chúa Giêsu kể câu chuyện này để làm gì?
Để nhắc nhở chúng ta nhớ lại địa vị làm con của mình. Phải, chúng ta là con của Thiên Chúa nhờ ân sủng Ngài ban cho ta chứ không phải nhờ tuân giữ luật lệ. Thiên Chúa ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng biết nhìn ranhững gì chúng ta có, những gì chúng ta nhận được.
Như hai người con đều làm phiền lòng người cha. Xét cho cùng, chúng ta cũng thường làm phiền lòng Thiên Chúa như thế.
Là những người con đáng lý ra chúng phải hiểu rõ về cha của mình. Thế nhưng cả hai đã không làm được điều đó. Chính vì thế mà cách cư xử của cả hai người con đối với Cha mình có nhiều điều tắc trách.
Như vậy câu chuyện cho chúng ta thấy: Mọi tội lỗi chúng ta phạm ít nhiều đều bắt nguồn từ chỗ chúng ta còn thiếu sự hiểu biết về tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Có một cậu bé tự cho mình là đứa trẻ bất hạnh nhất thế giới này. Trong con mắt của bạn bè, cậu là kẻ nhát gan, yếu đuối. Trên nét mặt cậu thường lộ vẻ sợ hãi. Cậu thở phì phò giống người ta kẻo bễ vậy. Khi bị cô giáo gọi đứng dậy đọc bài hay trả lời câu hỏi, đôi chân cậu lập tức run rẩy, môi liên tục mấp máy. Đương nhiên, cậu trả lời ấp úng và đứt quãng. Cuối cùng, cậu đỏ mặt xấu hổ quay về chỗ ngồi. Nếu cậu có một gương mặt đẹp, thì người khác có thể cảm tình với cậu một chút. Nhưng khi bạn thương hại nhìn cậu ta, thì bạn có thể nhìn thấy hàm răng hô xấu xí của cậu. Vào một ngày mùa xuân, bố cậu bé xin nhà hàng xóm một ít cây giống. Bố cậu muốn trồng chúng trước nhà. Ông bảo các con, mỗi đứa trồng một cây. Ông còn hứa với chúng, cây của ai lớn nhanh nhất, người đó sẽ được ông tặng cho một món quà giá trị. Cậu bé ấy cũng muốn nhận được món quà.
Nhưng khi nhìn thấy anh chị em hào hứng chạy đi, chạy lại tưới nước cho cây, không hiểu tại sao, trong đầu cậu lại nảy sinh ý nghĩ kỳ quặc: cậu mong cái cây mình trồng, mau chóng chết đi. Vì thế, cậu chỉ tưới nước cho cây hai lần, rồi sau đó bỏ mặc nó.
Một tuần sau, khi xem cái cây mình trồng, cậu bé ngạc nhiên khi phát hiện ra nó không những không héo úa, mà còn mọc ra mấy cái lá xanh nõn nà. So với những các cây mà anh chị em cậu trồng, dường như nó còn tươi tốt hơn và tràn đầy sức sống hơn. Bố cậu thực hiện đúng lời hứa, mua cho cậu một món quà mà cậu thích nhất. Đồng thời, ông còn nói với cậu, cứ xem cách cậu trồng cây, thì sau này chắc chắn cậu sẽ trở thành một nhà thực vật học xuất sắc.
Từ đó trở đi, cậu bé dần dần trở nên lạc quan.
Vào một buổi tối, cậu bé trằn trọc không sao ngủ được. Nhìn ánh trăng vằng vặc ngoài sân, cậu chợt nhớ đến câu nói của thầy giáo dạy sinh vật: thực vật thường lớn lên vào lúc trời tối. Cậu nghĩ bụng, tại sao mình không xem thử xem cái cây mình trồng lớn như thế nào nhỉ? Khi cậu rón rén đi ra ngoài sân. Cậu nhìn thấy bố đang dùng gáo tưới nước cho cái cây cậu trồng. Ngay lập tức, cậu hiểu ra tất cả. Hóa ra, bố cậu âm thầm bón phân cho cây cậu trồng.
Cậu trở về phòng ngủ, gục mặt xuống giương mặc cho nước mắt chảy đầm đìa trên khuôn mặt.
Thấm thoắt mấy chục năm đã trôi qua. Cậu bé với đôi chân tập tễnh ấy, mặc dù đã không trở thành một nhà thực vật học như ước nguyện của người cha, nhưng lại trở thành tổng thống của nước Mỹ. Tên của ông là Franklin Roosevelt.
(1) Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giê-su mà nghe Người. (2) Còn những người thuộc phái Pha-ri-sêu và các Kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. (3) Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này. (11) “Một người kia có hai con trai. (12) Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. (13) Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. (14) Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, (15) nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. (16) Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. (17) Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho Cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! (18) Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với Người: ”Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, (19) chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. (20) Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. (21) Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...” (22) Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. (23) Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! (24) Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại. Đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng. (25) Lúc ấy người con cả của ông đang ờ ngoài đồng. Khi anh ta về gần nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, (26) liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì. (27) Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. (28) Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. (29) Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con ăn mừng với bạn bè. (30) Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng !”. (31) Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. (32) Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
2. Ý CHÍNH:
Trong bài Tin mừng hôm nay đoạn mở đầu (c 1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo là MC 4-C205
Trong bài Tin mừng hôm nay đoạn mở đầu (c 1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo là chính dụ ngôn trình bày về lòng từ bi nhân hậu của một người cha (c 11-32), gồm hai phần chính như sau:
- THÁI ĐỘ BAO DUNG CỦA NGƯỜI CHA ĐỐI VỚI ĐỨA CON THỨ: thể hiện qua các hành động sẵn sàng chia gia tài theo yêu cầu của đứa con ngay khi ông còn sống, nôn nóng chờ mong đứa con đi hoang trở về, chạnh lòng xót thương khi vừa thấy con từ xa và sẵn sàng tha thứ trước khi nó kịp thú tội, lập tức trả lại địa vị làm con, tổ chức bữa tiệc mừng con hoang trở về.
- THÁI ĐỘ HẸP HÒI CỦA CON TRƯỞNG: Sau khi biết em đã trở về nhà và được cha không những không trừng phạt mà còn mở tiệc ăn mừng, thì người con trưởng đã tỏ thái độ hẹp hòi và ganh tị: Không thèm vào nhà, trách cha thiên vị đứa em bất hiếu, đã đối xử bất công với anh là đứa con hiếu thảo. Cuối cùng người cha đã ra gặp và giải tỏa những lời trách móc của người con cả. Ông khuyên anh hãy noi gương ông để bao dung với đứa em tội lỗi vì: “Em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
+ Một người kia có hai con trai: Đây là dụ ngôn chỉ có trong Tin mừng Lu-ca, nói lên lòng bao dung của một người cha ám chỉ Thiên Chúa, đối với đứa con hoang đàng bất hiếu, ám chỉ các người thu thuế tội lỗi.
- C 14-16:
+ Đi ở cho một người dân trong vùng: Đứa con thứ này đã rơi vào hòan cảnh túng cực: tự bán mình làm nô lệ cho người dân ngoại và bị người này sai đi chăn heo. Heo là con vật bị Luật Mô-sê coi là nhơ uế, vì được dân ngọai dùng làm lễ vật cúng tế cho thần minh của họ (x. Đnl 14,8).
+ Ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho: Thân phận của anh ta giờ đây không bằng loài heo nhơ bẩn!
- C 17-20a:
+ Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ...: Hòan cảnh đói khổ làm cho đứa con thứ phải xét lại hành động sai trái của mình.
+ Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha: Anh trở về không phải do thương nhớ cha, mà chỉ là một hành động có tính tóan và đầy vụ lợi! Dụ ngôn đã không nhấn mạnh đến sự ăn năn sám hối của người con thứ mà chỉ muốn đề cao tình thương bao dung của người cha.
- C 20b-24:
+ Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để: Động từ “chạnh lòng thương” là lý do giải thích các hành động sau đó. Động từ nầy tìm thấy trong trình thuật bà góa thành Na-im (7,3) và câu chuyện người Sa-ma-ri-ta-nô nhân lành (10:33). Trong cả ba trường hợp này, “chạnh lòng thương” nên đã cứu sống người sắp chết hoặc tái sinh người đã chết. Cái hôn biểu lộ tình thương tha thứ. Tình thương này được diễn tả qua sự kiện: Ngay khi đứa con còn ở đàng xa, ông đã trông thấy và chủ động chạy ra ôm hôn con để biểu lộ sự tha thứ vô điều kiện, tha ngay trước khi nó kịp nói lời thú tội.
+ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây...: Người cha không muốn nghe đứa con nói hết câu xin lỗi, đã sẵn sàng ban cho nó quá điều nó dám mong ước. Ý nghĩa của việc xỏ “nhẫn”, mặc “áo”mới (x. St 41:42) cho thấy người cha đã trả lại địa vị làm con, dù anh ta chỉ dám xin trở thành người làm công cho cha. “Giết bò béo” (St 18,7) cho thấy niềm vui tột đỉnh của người cha muốn chia sẻ niềm vui với người khác.
+ Chân đi dép: ám chỉ một người tự do, khác với nô lệ phải đi chân đất. Vậy, người cha đã đón nhận lại đứa con tội lỗi trong niềm vui lớn lao; đồng thời phục hồi lại cho nó quyền làm con, vì có người cha nào lại không xót thương con cái mình (x. Tv 103:13).
- C 25-28:
+ Người con cả: Tượng trưng cho các đầu mục dân Do thái.
+ nổi giận và không chịu vào nhà: Anh nổi giận vì nghĩ rằng cha đã cư xử bất công với anh. Anh từ chối vào nhà để tỏ thái độ phản đối cách cư xử bao dung của cha, khi ông không những đón nhận thằng con bất hiếu mà còn mở tiệc để ăn mừng nó trở về.
- C 29-30:
+ Còn thằng con của cha đó: Người con cả không coi người kia là em mình nên dùng cách nói khinh dể, giống như người Pha-ri-sêu đã khinh dể người thu thuế trong dụ ngôn “hai người lên Đền thờ cầu nguyện” (x. Lc 18,11).
- C 31-32:
+ Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con: Người cha nhắc cho anh con cả ý thức về tình yêu bao la của ông mà anh ta vẫn luôn được hưởng.
+ Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ: Người cha mời gọi anh con cả hãy bước vào ngôi nhà tình thương của cha, cùng chia sẻ niềm vui với cha khi đứa em tội lỗi của anh ta hồi tâm trở về.
+ “Em con đây”: Ong chỉnh lại lối xưng hô khinh miệt của người anh: “Thằng con của cha đó” bằng từ yêu thương “Em con đây”.
Các người Pha-ri-sêu và Kinh sư được đánh giá là những người có lòng đạo đức, thể hiện qua việc siêng năng ăn chay cầu nguyện và làm phúc bố thí (x. Mt 6,2.5.16). Họ am tường và tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết, nhất là luật về ngày Hưu lễ (nghỉ việc ngày Sabát), luật Thanh tẩy (rửa tay, rửa bình, rửa các đồ đồng, tắm rửa...). Về giáo lý họ cũng tin như Đức Giê-su đã giảng: tin có thiên thần (x. Cv 23,6-8), tin linh hồn bất tử và thân xác lòai người sau này sẽ sống lại…
* VỀ KHUYẾT ĐIỂM:
Đức Giê-su đã nhiều lần lên tiếng sửa dạy và thậm chí còn nặng lời quở trách họ về thói đạo đức giả. Chẳng hạn: Họ chỉ giữ Luật theo hình thức bề ngoài; Tranh nhau ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc và ghế đầu trong hội đường; Ăn mặc lụng thụng để được người ta kính trọng (x. Mt 23,5-6); Tự hào vì đã tuân giữ Lề luật; Tự mãn về sự hiểu biết Luật và khinh thường dân chúng dốt nát; Dẫn đường mù quáng và có thái độ cố chấp khi đề cao truyền thống và luật truyền khẩu, mà quên đi các điều chính yếu của Luật (x. Mt 23,23); Bắt dân chúng tuân giữ các điều khỏan Lề Luật trong từng chi tiết đang khi chính họ lại không hề tuân giữ (x. MC 12,38-40).
HỎI 2) THÁI ĐỘ CỦA CÁC PHA-RI-SÊU VÀ KINH SƯ ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊ-SU THẾ NÀO?
ĐÁP: Vì không nhận Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai (x. MC 11,27-33), nên họ thường dò xét, gài bẫy để thử thách và tìm bắt lỗi Người. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ vụ Thiên Sai (x. MC 8,11). Họ xuyên tạc các phép lạ Người làm để dân chúng đừng tin theo Người và không gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập (x. MC 3,23-30). Cuối cùng họ liên kết với đảng Hê-rô-đê, và Thượng Hội Đồng Do thái ở Giê-ru-sa-lem để bắt Đức Giê-su và kết án tử hình cho Người cách bất công (x. Lc 22,47-53; 23,1-7.18-25). Họ tiếp tục chế giễu Người khi treo Người trên cây thập giá (x. Lc 23,35). Tuy nhiên, trong số các Pha-ri-sêu cũng có một số người tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và sau này đã trở thành môn đệ của Người như: Ông Ni-cô-đê-mô (x. Ga 3,1), Ga-ma-li-en (x. Cv 5,34-39) và nhất là tông đồ Phao-lô (x. Cv 22,3).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG CHA BAO DUNG:
RI-SỚT PIN-ĐEO (Richard Pindell) có viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là ĐE-VÍT (David). Cậu ta đã nghe theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực, cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội và cho cậu được về nhà sum họp với cha mẹ như trước. Nội dung lá thư ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng lòng tha thứ và chấp nhận cho con về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé !”.
Vài ngày sau, Đe-vít lên xe lửa để trở về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển đến gần nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé Đe-vít: Lúc thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua nhà, trái tim Đe-vít đập nhanh hơn. Cậu quay sang người ngồi cạnh và ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp cháu việc này không ạ?” Được ông ta đồng ý, cậu nói: “Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây táo ấy và cho cháu biết trên cành cây ấy có cột một miếng vải trắng nào không nhé ?”. Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, Đe-vít nhắm mắt lại rồi run giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành cây táo cạnh nhà cháu không ạ?” Ông ta sửng sốt trả lời rằng: “Ô, này cậu bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải trắng cả !”
Thì ra sợ con trai không nhìn thấy giải vải trắng, ông bố của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu tình thương tha thứ để cậu yên tâm trở về.
2) LÒNG MẸ THƯƠNG CON THỂ HIỆN RA SAO ?
Một cô bé 5 tuổi đang ngồi trong lòng mẹ, chợt lên tiếng hỏi: “Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy được lòng mẹ không ?”. Bà mẹ đáp: “Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem con thấy gì trong đó ?” Cô bé nhướng mắt chăm chú nhìn vào đôi mắt của mẹ, rồi em sung sướng kêu lên: “Mẹ ơi ! Con đã nhìn thấy lòng mẹ thương con rồi. Trong mắt mẹ, con chỉ nhìn thấy duy một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ !”.
Đối với bà mẹ thì đứa con là tất cả. Mỗi người chúng ta cũng là con do Chúa sinh thành và rất mực yêu thương chúng ta.
3) CẢM NGHIỆM TÌNH THƯƠNG CỦA CHA GIÚP CON DỄ HOÁN CẢI:
GAN-DHI kể rằng khi ông được 15 tuổi, ông đã phạm tội ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông cảm thấy áy náy nên quyết định đến thú tội với cha mình. Ông lấy ra một tờ giấy, viết lên đó tội ăn cắp mình đã làm và xin cha tha thứ. Cuối thư ông cũng hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bị bệnh phải nằm trên giường. Gan-dhi tiến lại đưa tờ giấy thứ tội cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha đã ngồi dậy, cầm tờ giấy đọc, trong lúc ông đang đọc thì Gan-dhi thấy hai dòng lệ từ đôi mắt cha chảy xuống. Gan-dhi cũng không cầm được nước mắt. Cuối cùng khi đọc xong, người cha đã không hề nổi giận và cũng chẳng nói lời trách móc. Ông ôm chầm lấy con và cảm thấy sung sướng vì con mình đã biết hối hận về hành động xấu đã làm.
Cảm nghiệm được tình yêu thương tha tội của cha là một cảm nghiệm rất sâu sắc. Sau này Gan-dhi viết: "Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về một tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó mà thôi".
4) THA THỨ LÀ QUÊN MỌI TỘI KẺ KHÁC ĐÃ XÚC PHẠM ĐẾN MÌNH:
Một bà già nọ không mấy ngày là không đến gõ cửa gặp cha xứ, kể cho ngài nghe những giấc mơ của bà. Một hôm bà cho biết đêm qua Chúa lại hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng tiếp tục đến quấy rầy nữa, cha xứ bảo: ”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, thì bà hãy hỏi Chúa: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ? Sau đó bà mới được tới đây kể lại cho tôi nghe nhé”. Rồi mấy ngày sau đó không thấy bà già ấy đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì kế hay của mình. Nhưng một tuần sau thì thấy bà quay trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con. - Thế bà có nhớ hỏi Chúa điều tôi đã dặn bà không ? - Thưa cha có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp: - Thế bà đã hỏi Chúa thế nào ? - Thì con hỏi y như Cha đã bảo:”Cha xứ con có tội gì nặng nhất” ?
Cha xứ càng hồi hộp thêm: - Vậy Chúa có trả lời không ? - Có chứ .
Bây giờ thì cha xứ bắt đầu lo lắng thật sự. Cha gặng hỏi: - Chúa nói sao ? - Chúa nói: ”Ta đã quên hết rồi”.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm. (Kể theo ĐHY Phanxicô X. Nguyễn văn Thuận)
3. THẢO LUẬN:
1) Trong bốn việc phải làm khi đi xưng tội như: xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội và đền tội, thì điều nào là quan trọng nhất để được giao hòa với Chúa ? Tại sao ?
2) Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta sẽ ăn năn sám hối tội nào cụ thể nhất và sám hối bằng cách nào ?
4. SUY NIỆM:
Tin mừng CN 4 Mùa Chay hôm nay cho thấy tình thương bao dung của Thiên Chúa đối với các tội nhân (15,1-32): Thiên Chúa như một người Cha từ bi nhân hậu luôn “chạnh lòng thương” và sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho con cái lòai người như Thánh vịnh 135 đã ca tụng tình thương của Chúa như sau: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“. Dụ ngôn hôm nay cho thấy thái độ của ba nhân vật chính trong dụ ngôn để từ đó chúng ta biết mình phải làm gì:
1) Thái độ sám hối quyết tâm trở về của đứa con thứ tội lỗi (15,12-19): Tội của đứa con thứ là tội bất hiếu khi đòi cha chia gia tài cho mình ngay khi cha còn sống. Sau đó anh ta đã bỏ nhà đi hoang và ăn chơi phóng đãng tiêu tán hết số tiền của cha. Đến khi anh lâm cảnh đói rách thì anh phải đi làm thuê làm mướn và bị người chủ dân ngoại khinh dể và đối xử tệ hơn một con heo. Chính sự cùng khổ đã khiến anh hồi tâm suy nghĩ và giúp anh quyết tâm đứng dậy quay về xin lỗi cha, với ước mong được cha đối xử như một người làm công thôi. Câu“Đứng lên, đi về cùng cha” cho thấy thái độ dứt khoát với quá khứ tội lỗi để về với người cha thân yêu.
2) Thái độ bao dung của người cha nhân hậu (15,20-24): Về phần người cha, sau khi đứa con thứ ra đi, ông buồn sầu nhớ thương, ngày ngày ngóng nhìn ra cổng chờ mong nó mau quay về nhà. Khi thấy bóng con từ xa, ông đã nhận ra nó và “chạnh lòng thương”: Ông không trách mắng hay trừng phạt con, mà chạy tới ôm chầm lấy cổ nó hôn lấy hôn để, rồi mau mắn trả lại địa vị làm con cho nó khi truyền gia nhân thay áo mới cho nó, đeo nhẫn vào ngón tay, xỏ giầy vào chân và mở tiệc mời bạn bè hàng xóm đến ăn mừng đứa con, với lý do: “Tưởng nó đã chết mà nay sống lại, tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con hoang đàng, nói lên tình thương bao dung của cha.
3) Thái độ hẹp hòi của người con trưởng (15,25-32): Người anh trưởng từ ngoài đồng trở về gần đến nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về và đã được cha không những tha tội mà còn mở tiệc ăn mừng. Anh ta tỏ thái độ giận cha bằng cách không thèm đi vào nhà. Khi gặp được cha, anh đã chỉ trích lối hành xử của cha mà anh cho là bất công không thể chấp nhận được (15,29). Thái độ giận dỗi của anh khiến người cha phải xuống nước năn nỉ và cố gắng giải thích cho anh hiểu và cảm thông với mình: ”Tất cả những gì của cha đều là của con “ (Lc 13,31). Dụ ngôn kết thúc bằng lời của người cha khuyên con hãy có lòng bao dung với đứa em lầm lỗi: “Vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Chính lòng nhân hậu, yêu thương và không chấp nhất tội lỗi của đứa con đi hoang đã khiến người cha quên đi mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng đã gây ra, mà chỉ còn thấy trước mặt là đứa con yêu mà ông hằng mong nó mau trở về, đứa con ông tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, cho đàn ca múa hát, để ăn mừng nó trở về.
Còn thái độ của người anh cả khi đi làm về, nghe tiếng đàn hát ăn mừng đứa em mới trở về được cha mừng rỡ hân hoan, nên chẳng những anh không vui mà còn tỏ thái độ hờn trách khiến cha phải ra phân trần, năn nỉ và mời anh ta vào trong nhà với ông để gặp lại đứa em "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với anh con cả rằng: "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31).
Qua câu chuyện về tình thương tha thứ của người cha, ta thấy tình thương của Thiên Chúa Cha thật quảng đại, “chậm bất bình và hết sức khoan dung”, một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn sẵn sàng tha thứ. Tình thương bao la của Thiên Chúa đã được bài Thánh thi diễn tả như sau: "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 135).
4) Làm gì để đáp lại Lòng Chúa Thương Xót ?:
+ Dụ ngôn người cha bao dung và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Chúa đã yêu thương chúng ta với tình yêu bao la như một người cha nhân hậu, sẵn sàng tha thứ tội lỗi chúng ta là con cái của Ngài: Ngài tha thứ không mệt mỏi, tha vô điều kiện và tha luôn mãi !
+ Chúa phán: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng hóa nên trắng như tuyết. có thắm tựa vải điều, cũng nên trắng như bông” (Is 1,18): Dù tội của chúng ta có nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn sâu nặng hơn gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng sám hối và quyết tâm trở về.
+ Thiên Chúa tôn trọng sự tự do ra đi và chờ đợi sự tự do trở về của chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để đáp lại tình thương bao dung của Thiên Chúa ? Cần cấp thời sám hối ăn năn quay về làm hòa với Chúa và lãnh ơn giao hòa trong phép Giải tội; Hãy đáp lại lòng thương xót của Thiên Chúa bằng việc thương xót những người đau khổ và quảng đại tha thứ lỗi lầm cho tha nhân; Hãy quan tâm giúp người thân trong gia đình và bạn bè đang lạc xa Chúa để họ mau hồi tâm trở về để nhận được ơn tha thứ của Chúa.
5. LỜI CẦU:
- LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA CỦA CON. Con xin cảm tạ Cha đầy lòng từ bi nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con Một Cha là Chúa Giê-su đến thế gian để dạy loài người chúng con nhận biết Cha là Thiên Chúa giàu lòng từ bi nhân hậu. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng con hiểu được Cha đang mời gọi các tội nhân trong đó có chúng con mau quay về làm hòa với Cha.
- LẠY CHA, thật đáng tiếc khi có những người cha trong gia đình và trong cộng đoàn... chưa thể hiện được tình thương bao dung của Cha, nên đã trình bày về Cha như một “ông chủ” chỉ muốn trừng phạt để làm cho họ khiếp sợ phải hồi tâm sám hối. Có những người cha trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã dùng bạo lực đe nẹt con cái khi chúng phạm tội... Xin Cha cho các người cha biết yêu thương con cái giống như Cha. Nhờ đó các tội nhân sẽ cảm nghiệm được tình thương bao dung của cha và sớm quay về giao hòa với Cha trong Mùa Chay này.
Thấm thoắt chúng ta đã đi quá nửa quãng đường mùa Chay và hướng về mầu nhiệm Phục Sinh MC 4-C206
Thấm thoắt chúng ta đã đi quá nửa quãng đường mùa Chay và hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Phụng vụ Lời Chúa của những Chúa Nhật sau cùng này đưa chúng ta dần tới chiêm ngưỡng một khởi đầu mới do sự phục sinh của Chúa Ki-tô đem lại cho ta. Sự sống mới ấy được diễn tả qua những bài đọc hôm nay. Bắt đầu là câu chuyện về Đất Hứa của dân Ít-ra-en, khi họ khởi sự đời sống mới tại Ca-na-an, không còn ăn man-na nữa, nhưng dùng những thổ sản trong xứ. Qua bài đọc 2, thánh Phao-lô trình bày cái nhìn thần học về đời sống mới của Ki-tô hữu: Thiên Chúa đã cho chúng ta được hòa giải với Người, nhờ Đức Ki-tô. Thứ ba, với câu chuyện dụ ngôn quen thuộc nhưng đầy cảm động về người cha nhân hậu đón nhận đứa con hoang đàng trở về, mỗi người chúng ta đều được mời gọi lãnh nhận sự hòa giải để sống lại mối tương quan với Chúa và anh chị em.
Trước hết chúng ta hãy xem cuộc sống mới của dân Ít-ra-en khi họ vào đất Ca-na-an sau bốn mươi năm lang thang trong sa mạc. “Sau khi tôi trung Đức Chúa là ông Mô-sê qua đời, Đức Chúa phán với con ông Nun là ông Giô-suê, phụ tá của ông Mô-sê: ‘Mô-sê, tôi trung của Ta, đã chết. Vậy bây giờ, ngươi hãy trỗi dậy! Và cùng với tất cả dân này, qua sông Gio-đan, mà vào đất Ta ban cho chúng, tức là con cái Ít-ra-en’” (Gs 1:1-2). Đó là thời gian khởi đầu cuộc sống mới của dân Chúa. Vậy có gì giúp chúng ta nhận ra đây là cuộc sống mới? Suốt thời gian trên đường về Đất Hứa, dân Chúa đã sống nhờ sự hỗ trợ trực tiếp của bàn tay Thiên Chúa. Họ ăn man-na bởi trời, uống nước vọt ra từ tảng đá, được Thiên Chúa giúp thắng các dân tộc họ đi qua, và đức tin vào Thiên Chúa của họ mỗi ngày được củng cố thêm. Nếu muốn tìm một hình ảnh để so sánh, có lẽ chúng ta nên mượn lại hình ảnh thánh Phao-lô đã dùng để mô tả đời sống đức tin của các anh em tân tòng: khi còn non yếu, họ uống sữa đức tin; khi đã trưởng thành, họ ăn đồ đặc của đức tin (1 Cr 3:2; Dt 5:12-13). Cũng vậy, đời sống vật chất của Ít-ra-en thay đổi từng ngày: từ thời gian hôm sau lễ Vượt Qua đến hôm sau nữa và cuối cùng là năm ấy, từ ăn bánh không men đến ăn thổ sản trong xứ và sau cùng là ăn hoa màu của đất Ca-na-an. Hình ảnh về sự thay đổi nếp sống vật chất biểu tượng cho sự thay đổi đời sống đức tin của họ vào Thiên Chúa.
Tiếp đến, theo suy tư thần học của thánh Phao-lô, sự thay đổi từ cái cũ sang cái mới nơi Ki-tô hữu chúng ta chính là trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người (2 Cr 5:18). Thánh Phao-lô nêu lên thời điểm phân chia cũ và mới. Ngài viết: “Phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”. Đúng vậy, khi chúng ta ở trong Đức Ki-tô có nghĩa là chúng ta ở trong công cuộc cứu độ của Người thì thân phận của ta được biến đổi, từ thọ tạo cũ nô lệ cho tội lỗi trở thành thụ tạo mới làm con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên thánh tông đồ không muốn nói rằng sự thay đổi ấy sẽ giữ nguyên mãi, nhưng là sự thay đổi khởi đầu cho một tiến trình phải tiếp tục trở nên giống Chúa Ki-tô cho đến khi ta thở hơi cuối đời! Vì thế, ngài không ngại năn nỉ chúng ta: “”Vậy nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa”. Tóm lại, cuộc hòa giải với Thiên Chúa tuy đã được Chúa Ki-tô khởi xướng, nhưng bổn phận của ta là vẫn phải tiếp tục sống tinh thần hòa giải ấy, nên mỗi khi tội lỗi biến ta thành kẻ thù của Thiên Chúa thì ta phải mau mắn đến với bí tích Giải tội để được hòa giải với Chúa và anh chị em.
Sự sống mới được diễn tả sống động hơn cả, đó là trong câu chuyện dụ ngôn đứa con hoang đàng, hoặc đúng hơn, là dụ ngôn người cha đầy lòng thương xót. Trong câu chuyện, chúng ta gặp ba nhân vật chính: người cha, anh con cả và thằng con thứ. Người cha thì chẳng có gì cần thay đổi vì bản chất nhân hậu và giàu lòng thương xót của ông. Anh con cả thì có thể thay đổi thái độ đối với cha và em của anh nếu anh thực lòng muốn thay đổi não trạng. Nhưng thằng con thứ thì thay đổi rõ ràng không thể chối cãi. Anh ta đã thay đổi từ thân phận đứa con được chiều đãi trong gia đình thành đứa con hoang đàng phung phí hết tài sản, từ chăn ấm nệm êm thành một đứa chăn heo “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho”. Vậy mà những đau khổ thể xác và việc hồi tâm sám hối đã giúp anh “đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đang gọi là con cha nữa’”! Thế là anh được thay đổi hoàn toàn: được phục hồi phận làm con (mặc áo đẹp, đeo nhẫn, xỏ dép) và được sống hạnh phúc trong tình gia đình (mở tiệc ăn mừng). Từ thân phận tội lỗi, xa lạ với gia đình, anh đã tìm lại được những gì đã mất!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Bài học sứ điệp Lời Chúa hôm nay quả thực rõ ràng. Dĩ nhiên trong mỗi người chúng ta đều có hình ảnh của cả hai cậu con, có khi chúng ta là anh con cả, có khi là thằng con thứ, nhưng nói chung cả hai đều phải sám hối và phải thay đổi não trạng (metanoia). Muốn trở nên giống Chúa Ki-tô, chúng ta luôn luôn phải cởi bỏ con người cũ (tội lỗi) để mặc lấy con người mới thánh thiện. Mùa Chay là thời gian để cái kén thiêng liêng của ta âm thầm thay đổi nhờ sám hối và ân sủng Chúa, để mai mốt cái kén xấu xí sẽ biến thành con bướm đầy sắc màu rực rỡ của đời sống mới trong Thần Khí Chúa Ki-tô vậy!
Năm thánh Lòng Thương Xót Chúa càng làm chúng ta cảm nghiệm sâu xa về dụ ngôn người Cha MC 4-C207
Năm thánh Lòng Thương Xót Chúa càng làm chúng ta cảm nghiệm sâu xa về dụ ngôn người Cha nhân từ. Người Cha không đi tìm con như đi tìm con chiên lạc.Nhưng lòng người Cha lúc nào cũng ngong ngóng người con út trở về. Tôn trọng sự tự do của con, người Cha vẫn luôn mong con mình trở về với mình. Dụ ngôn này gợi cho chúng ta cái thực tế của cuộc đời.Mất con, xa con, chưa thấy con, người Cha người Mẹ nào lại không nôn nóng trông chờ. Ở đây, trong dụ ngôn này, người con chưa kịp thấy Cha thì Cha đã thấy con. Sự độc đáo, kỳ diệu nằm ở chỗ này. Câu chuyện dụ ngôn hôm nay minh họa cho chúng ta về bí tích hòa giải. Chúa mời chúng ta sám hối, trở về…
Đọc Tin mừng của thánh Luca, chúng ta nhận ra một cách rõ ràng lòng nhân từ của Chúa: con chiên lạc, đồng bạc bị mất. Không quản ngại ngùng, không sợ khó khăn, nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội trèo đèo, lội suối đi tìm con chiên lạc; người đàn bà, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa tình thương cũng đối xử với những tội nhân như thế. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, hạnh phúc của người Cha lớn lao thế nào khi người con út trở về. Người Cha mở tiệc linh đình để ăn mừng người con hư, người con hoang đàng trở về khiến chúng ta hiểu rõ lòng thương xót của Chúa và hiểu ý nghĩa đặc biệt của bí tích hòa giải. Người Cha tha thứ cho đứa con hư đốn với tất cả tình thương, không tính toán, không so đo. Bữa tiệc linh đình: hạ bò tơ béo và tặng ban cho đứa con út những đồ quí giá càng làm nổi bật tấm lòng cao thượng và tình thương vô biên của người Cha. Quyết định quay trở về, quyết tâm hối cải, thay đổi cuộc sống và xin Cha tha thứ những lỗi lầm của mình là mẫu mực cho chúng ta trở lại với Chúa trong bí tích hòa giải.Thực tế, trong những thế kỷ đầu, lễ tro là dịp để tội nhân xưng thú tội lỗi với Chúa qua Đức Giám Mục. Hối nhân sẽ nhận tro trên đầu, được phát áo nhặm, tội nhân sẽ được ghi vào danh sách của các hối nhân. Đức Giám Mục sẽ ra việc đền tội và tội nhân sẽ làm việc đền tội trong suốt Mùa Chay. Ngày nay, hình thức ấy không còn nữa, bí tích hòa giải sẽ giúp hối nhân quay trở về với Chúa khi họ thật lòng ăn năn sám hối và quyết tâm đổi mới, thay đổi lối sống, từ bỏ tội lỗi, tính hư, nết xấu để làm hòa với Chúa và với anh chị em của mình.
Việc người con út trở về là niềm vui thực sự. Nhưng người anh cả mới là đích nhắm của mọi người, bởi vì xem ra người con cả là người con mẫu mực, anh không ăn chơi đàng điếm, không phung phí của cải, lúc nào cũng chăm chỉ làm việc. Tuy nhiên, biến cố người em út trở về mới làm lộ bộ mặt thật của anh bởi vì anh ở nhà nhưng lòng anh lại xa Cha. Anh không thể hiểu được lòng tốt: nhân từ, chạnh thương và tha thứ của Cha. Anh cho rằng Cha nhu nhược, bất công đối với anh. Hạ con bê béo để ăn mừng em của anh đi hoang trở về. Còn anh không được Cha làm một con dê nhỏ để lai rai nhậu nhoẹt với chúng bạn. Nên, anh không thể vui với Cha và càng lại không vui với người em. Người anh đã dùng ngôn từ thật tệ “ thằng con của Cha đó …” ( Lc 15, 30 ). Một câu nói thật thiếu nhân bản, thiếu tình thương! Tại sao anh không gọi là em của con mà lại thằng con của Cha ! Thật mỉa mai, thật đau khổ. Anh không chịu vào nhà. Hóa ra, cả hai đều ở ngoài Cha, ở trong nhà mà lại như ở ngoài nhà vì cả hai anh em đều không ở trong con tim của Cha. Người em út không thấy hạnh phúc ở bên Cha, nên đã ra đi phương xa. Người con cả không cảm thấy hạnh phúc với Cha, nên không vào nhà vì thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm. Mùa chay trong năm thánh Lòng Thương Xót của Chúa, giúp chúng ta hiểu rõ: cả hai, con cả, con út đều phải sám hối, trở về, vào nhà…Tuy nhiên, muốn trở về, muốn thay đổi, đòi hỏi mỗi người đều phải can đảm, khiêm nhường, hiền lành để ngoan ngoãn trở về với Cha. Sám hối là nhìn lên Chúa để thấy con người quá khiếm khuyết, cần thay đổi để càng ngày càng hoàn thiện hơn. Sám hối là nhìn vào đổi mắt hiền từ của Chúa để có thái độ như Phêrô là ăn năn, khóc lóc và thật lòng trở về với Chúa, thay đổi cuộc sống. Thiên Chúa giầu lòng thương xót, Ngài luôn kiên nhẫn chờ đợi con người, chờ đợi mỗi người quay trở về với Ngài…
Niềm vui vì người con hư đã trở về. Trên trời, Thiên Chúa vui mừng vì một tội nhân ăn năn hối cải. Người Cha là chính Thiên Chúa đã giơ đôi tay ôm chầm lấy đứa con hoang trở về. Thiên Chúa thật sung sướng khi chúng ta sống đúng thánh ý của Ngài. Thiên Chúa giầu lòng thương xót vì tình thương lớn lao, vô biên, tuyệt mỹ của Ngài. Năm thánh Lòng Thương Xót của Chúa là cơ hội tốt giúp chúng ta nhận ra tình thương vô biên của Chúa và quyết tâm trở về với Chúa, làm mới cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mau mắn chỗi dậy mỗi lần sa ngã, xin cho chúng con xác tín sâu xa tình thương vô biên của Chúa để chúng con thật tâm quay trở về với Chúa như người con hoang đàng đã nghĩ lại, và quyết tâm thay đổi, quyết tâm trở về và xin được cha tha thứ. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao cả người con cả và con thứ đều phải quay trở về ? 2.Tại sao người con thứ lại đòi Cha chia gia tài cho mình ? 3.Tại sao người con cả lại gọi em của mình là thằng con của Cha ? 4.Thái độ của người con cả thế nào ? tại sao anh lại không chịu vào nhà ? 5.Mọi sự của Cha là của con nghĩa là sao ?
Trước khi bắt đầu cuộc đời Rao Giảng Tin Mừng, Đức Kitô đã được Chúa Thánh Thần thúc: MC 4-C208
Trước khi bắt đầu cuộc đời Rao Giảng Tin Mừng, Đức Kitô đã được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đi vào Hoang Địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Ngài cảm thấy đói. Lợi dụng cơn đói đang hoành hành trong thân xác của Ngài, quỉ vương Xatan đã xuất hiện, mon men lại gần với ba chiêu bài (Mt 4, 1-11):
- Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy biến những viên đá sỏi nầy thành bánh mà ăn,
- Nếu Ông cần thuyết phục đoàn lũ quần chúng đông đảo đi theo và nghe lời Ông, hãy nhào lộn từ chóp đỉnh Đền Thờ…Mọi người lúc bấy giờ sẽ vỗ tay hoan hô, chúc tụng và ngưỡng mộ,
- Nếu Ông cần những phương tiện như vàng bạc, danh vọng và quyền lực, để mở mang bờ cõi và lấn chiếm các thuộc địa cho Nước Trời, hãy sụp lạy sát đất trước mặt tôi.
Từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người tín hữu, không trừ sót một ai, cũng đang ngày ngày được gọi mời đi lại con đường của Đức Kitô. Trong từng lời ăn, tiếng nói và hơi thở, phải chăng chúng ta cũng có thể can trường khẳng định như Thánh Phaolô:
- “Tôi sống, nhưng không phải là tôi. Chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 30),
- “Sống đối với tôi là Đức Kitô” (Pl 1, 21),
- “Tôi đang bổ túc những gì đang thiếu sót trong con người của Đức Kitô” (Cl 1, 24).
Một cách đặc biệt, giống như Ngài, chúng ta đang thực thi ba tác vụ “Vương đế, Ngôn sứ và Tư tế”, để nối dài và mở rộng sứ mệnh hay là công trình của Ngài, trong mọi hang cùng ngõ hẻm của nhân loại (Mt 28, 19): “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”
Chính vì lý do này, ngày hôm nay, cũng như trải dài qua các thời đại, cùng với Hội Thánh, mỗi người trong chúng ta đang được Chúa Thánh Thần thúc đẩy và hướng dẫn, để đi vào Hoang địa. Ở đó, giống như Đức Kitô, chúng ta sẽ bị quỉ vương Xatan cám dỗ, trong ba lãnh vực khác nhau:
THỨ NHẤT là những cám dỗ trong vai trò làm “Vương đế”.
Thay vì lắng nghe và thực hiện Lời Chúa: “Ai lớn nhất trong anh em, là người nhỏ nhất, Thầy đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ…”, phải chăng chúng ta đang ngày ngày đi lại lối mòn của Gioan và Giacôbê, muốn được “ngồi bên hữu và bên tả của Thầy, trên Nước Trời”?
Chúng ta đang bị cám dỗ “làm phép lạ hóa đá thành bánh”, để vinh thân phì gia hay là tiến cử bạn bè thiết cốt vào những vị trí quan trọng.
Thay vì sở hữu hóa thái độ của Đức Kitô: “Thầy không kết án ai cả”, chúng ta đang làm tất cả mọi điều trái ngược lại, là “thấy hạt bụi nho nhỏ trong con mắt của anh chị em hai bên cạnh, và không bao giờ nhận ra cái xà đang nằm chình inh giữa con mắt của bản thân mình”. Ngoài ra, khi người anh chị em có một vài lỗi lầm hoặc sơ sót, phản ứng tự động của chúng ta là phê phán, tố cáo, loại trừ, tẩy chay, cắt đứt mọi quan hệ…
Nói tóm lại, chúng ta nhập khẩu vào Nước Trời những thói tục “làm vương đế” của thế gian, của quỉ vương Xatan. Chúng ta đang tuyên xưng bằng mồm miệng Đức tin vào Đức Kitô, nhưng có bao giờ chúng ta can đảm soi bóng lòng mình vào tấm gương của đời Ngài, và hỏi Ngài: Con đang sử dụng đồng tiền của ai? Của các vì vua chúa trong thế gian, đang tranh giành nhau “ngồi trên ăn trước”, hay là của Đức Kitô đang bị đóng đinh và hấp hối trên Thánh Giá?
THỨ HAI là những cám dỗ, đang đe dọa vai trò làm “Ngôn Sứ”của chúng ta.
Trong lòng Hội Thánh, làm Ngôn sứ có nghĩa là gì, nếu không phải là đi lại con đường của Thánh Gioang Tiền Hô: “Ngài phải lớn lên, còn tôi càng ngày càng trở nên bé nhỏ”. Một cách cụ thể, làm Ngôn sứ là trùng tuyên Lời Chúa khắp mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh, trước mặt mọi người, xuyên qua tất cả bốn lãnh vực sinh hoạt là hành động và tư duy, xúc động và quan hệ trao đổi qua lại.
Nếu cần, người Ngôn sứ luôn luôn sẵn sàng đưa tay cho địch thù trói lại và dẫn độ vào ngục tù tăm tối hay là bị đày ải đến tận những nơi rừng thiêng nước độc, như các Tiên tri Êlya, Giêrêmia, Đanien…
Ai làm Ngôn Sứ cho Tin Mừng Thứ Tha của Thiên Chúa Ngôi Cha, cho bằng Đức Kitô trên Thánh Giá: “Xin Cha tha cho họ, vì họ lầm, chẳng biết…”. Cũng vì đảm nhiệm vai trò làm Ngôn sứ, Thánh Gioang Tẩy giả đã bị mất đầu, khi lên tiếng vạch trần những hành vi lượn lẹo, thiếu cương thường đạo lý của vua Hêrođê.
Thay vì làm xướng ngôn viên cho Lời Chúa, trong những hoàn cảnh có lợi, cũng như bất lợi, chúng ta đua đòi những trò chơi ảo thuật như: “vinh thăng và háo thắng, chiêng trống rùm beng, áo quần lòe lẹt, chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13, 1). Trong mỗi đường đi nước bước, Quỉ vương Satan luôn luôn rình rập, khuyến khích mỗi người trong chúng ta thao tác những trò chơi ảo thuật, là nhào lộn từ đỉnh cao của Đền Thờ, để mọi người xa gần vỗ tay hoan hô, ngợi khen, chúc tụng, với những văn thư khen thưởng thuộc nhiều cấp bậc chính quyền lớn bé khác nhau.
THỨ BA là những cám dỗ đang ngày ngày tấn công vai trò làm tư tế của Hội Thánh và của mỗi đồ đệ đi theo Đức Kitô.
Phải chăng tất cả chúng ta chỉ là những cánh tay tiếp tục và nối dài sứ mệnh làm tư tế của Đức Kitô? Ở trên Bàn Thờ Thánh Giá, Ngài vừa là Người Dâng Lễ, vừa là Của Lễ Toàn Thiêu, trước mặt của Thiên Chúa Ngôi Cha. Ngài đang câu bàu Hồng Ân Thứ Tha cho toàn thể anh chị em của mình, trong lòng nhận loại. Vàng bạc, hương đèn, trâu bò, gà vịt và bao nhiêu ngôi đền nguy nga tráng lệ, làm bằng gạch đá hay là xi măng cốt sắt… có nghĩa là gì, trước Mình và Máu của Con Chiên Thiên Chúa?
Bao lâu tâm hồn chúng ta chưa phải là Cung Đền ngự trị của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta đang sụp lạy, trước con bò vàng, do chúng ta làm nên, với bao nhiêu đặc ân, đặc huệ, do quỉ vương Xatan ban phát.
Nói một cách vắn gọn, bao lâu chúng ta chưa ngày ngày chết và sống lại với Đức Kitô, những công trình hào nhoáng, lòe loẹt bên ngoài, do chúng ta xây dựng lên, với mồ hôi và xương máu của anh chị em đồng hương và đồng loại, chúng ta chỉ là những tên lý hình đang quất roi sắt vào lưng của Đức Kitô, trên những chặng đường vác Thánh Giá, leo lên ngọn đồi Gôngôtha.
***
Nhận diện ba loại cám dỗ trên đây đang ngày ngày rình rập và đe dọa Hội Thánh, cũng như mỗi người trong chúng ta, vẫn còn chưa đủ. Chúng ta còn phải đối diện vấn đề, một cách hiên ngang và can trường, trong cuộc sống Đức Tin hằng ngày của chúng ta.
Đối diện có nghĩa là lắng nghe và thực hiện Lời Chúa. Phải chăng đó là cách làm của Đức Kitô, mỗi lần phải đương đầu với quỉ vương Xatan, trong Hoang địa ( Mt 4, 1-11) ?
Lời thứ nhất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ Lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
Lời thứ hai: “Người chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.
Lời thứ ba: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của người, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Phải chăng ngày hôm nay, trong thời đại Nghìn Năm Thứ Ba, Lời Chúa vẫn còn là khuôn vàng thước ngọc, cho Hội Thánh và cho mỗi một người tín hữu trong chúng ta?
Nhân vật chính của dụ ngôn này là ai? Trong hai đứa con, đứa con nào là nhân vật mà ta cần MC 4-C209
1. Nhân vật chính của dụ ngôn này là ai? Trong hai đứa con, đứa con nào là nhân vật mà ta cần để ý hơn? Đọc Lc 15,1-3.
2. Đâu là những hành vi bất hiếu của người con thứ? Tội bất hiếu bị xử như thế nào? Đọc Đnl 21,18-21. Người con thứ được chia mấy phần sản nghiệp của người cha? Đọc Đnl 21,15-17.
3. Đâu là tình cảnh khốn cùng nhục nhã ê chề của người con thứ sau khi bỏ nhà ra đi? Người Do-thái coi heo là con vật như thế nào? Đọc Lêvi 11,7; 1 Mcb 1,47-49.
4. Đọc Lc 15,17-20a. Bạn có tin người con thứ ăn năn thật sự không, hay anh ta trở về chỉ vì bụng đói?
5. Đọc Lc 15,17-21. Bạn có thấy những bước chính của Bí Tích Giải Tội (Hòa Giải) ở đây không?
6. Người con thứ trở về nhà cha có dễ không? Đâu là những điều anh có thể phải hứng chịu?
7. Đọc Lc 15,25-30. Đâu là tội của người con cả?
8. Người con cả chấp nhận vào nhà cha có dễ không? Để vào nhà, anh phải thay đổi điều gì?
9. Đọc cả bài Phúc âm, cho biết đâu là những hành vi thương xót, tha thứ của ông đối với người con thứ và người con cả?
CÂU HỎI SUY NIỆM:
Bạn nghĩ gì về người cha trong dụ ngôn này? Ông có phải là người nhu nhược, nuông chiều các con? Hãy đặt một tựa đề cho bài Phúc âm này.
PHẦN TRẢ LỜI
1. Nhân vật chính trong dụ ngôn này là Người Cha. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cho thấy tấm lòng bao dung của Người Cha đối với cả hai đứa con. Trước đây dụ ngôn này thường được gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng,” như thế tập trung vào đứa con thứ hơn. Thật ra trong dụ ngôn này, người con cả mới là điểm nhấn. Đức Giêsu nói ba dụ ngôn trong chương 15 của Tin Mừng Luca nhắm vào các người Pharisêu và kinh sư đang xầm xì chống đối Ngài, vì thấy Ngài gần gũi những người thu thuế và tội lỗi (Lc 15, 1-3). Nơi người con cả, ta nhận ra hình ảnh các ông Pharisêu và kinh sư.
2. Tội bất hiếu của người con thứ: anh đòi cha chia gia sản cho mình ngay khi cha còn sống (thường chỉ chia sau khi cha qua đời); anh đã bỏ nhà ra đi, lãng quên nhiệm vụ làm con; anh làm gia đình mất uy tín và thể diện; cuối cùng anh đã phung phí toàn bộ tài sản đó vào chuyện ăn chơi đàng điếm. Một đứa con bất hiếu có thể bị ném đá cho chết (Đnl 21,18-21).
Theo sách Đệ nhị luật 21,15-17, người con cả được hưởng hai phần ba tài sản của người cha, như thế người con thứ được một phần ba.
3. Sau khi bỏ nhà cha ra đi, người con thứ đã tiêu hết sạch tài sản. Rồi khi một nạn đói kinh khủng ập tới, anh phải đi chăn heo cho một người dân ngoại, dù heo là con vật bị người Do-thái coi là hết sức ô uế (Lêvi 11,7; 1 Mcb 1,47-49). Nhưng nghề chăn heo không giải quyết được cơn đói cồn cào, anh vẫn thèm đồ ăn của heo mà không ai cho. Cuối cùng, anh thấy mình có thể chết đói (Lc 15,14-17).
4. Đọc Lc 15,17-20a ta thấy người con thứ có lòng ăn năn thật sự. Anh muốn đứng lên và đi về cùng cha (câu 18), và anh đã làm như thế (câu 20). Anh ý thức về tội mình phạm đến Trời và đến cha (câu 18). Anh thấy sự nặng nề của tội mình đã phạm, nên anh không mong mình được cha nhận lại làm con, chỉ mong được làm công cho cha thôi (câu 19). Tuy nhiên, lòng ăn năn của anh cũng pha yếu tố tự nhiên: anh muốn trở về với cha để có đủ đồ ăn, tránh khỏi bị chết đói. Có thể nói đây là một kiểu ăn năn tội cách chẳng trọn.
5. Đọc Lc 15,17-21 ta có thể thấy một số nét của bí tích Hòa giải ở đây, với những bước như sau. Câu 17: hồi tâm và xét mình, nhận ra tình trạng tồi tệ hiện nay của mình. Câu 18 và 19: quyết tâm trở về với cha và xưng tội với cha. Lòng thống hối và dốc lòng chừa được biểu lộ qua việc chỉ xin làm công cho cha thôi, thay vì làm con. Câu 20: thực hành điều đã quyết định, đi xưng tội. Câu 21: xưng tội, thấy tội nặng nề, thấy mình bất xứng.
6. Cuộc trở về với cha của người con thứ không hề dễ dàng. Anh phải can đảm mới dám trở về, bởi lẽ anh có thể bị cha từ chối và xua đuổi, có thể bị người anh không chấp nhận (và điều đó đã thực sự xảy ra!), có thể bị làng xóm cười chê, có thể bị những người làm công coi thường. Anh phải dám chịu nhục khi trở về trong tình trạng thân tàn ma dại, khác hẳn với lúc ra đi.
7. Người con cả tự hào là người “bao nhiêu năm hầu hạ cha, chẳng bao giờ trái lệnh” (câu 29). Anh ở gần cha, anh không bỏ nhà ra đi như đứa em, nhưng lòng anh lại xa cha. Khi cha vui vì con thứ trở về, thì anh lại buồn giận. Anh ghen tỵ và thấy cha không công bằng khi một đứa con có hiếu như anh lại chưa hề được cha cho một con dê nhỏ, còn thằng em bất hiếu lại được cha giết bê béo ăn mừng khi nó trở về (câu 29-30). Đứa em đã bỏ nhà ra đi, còn anh bây giờ “không chịu vào nhà” (câu 28). Anh không muốn tham dự bữa tiệc vui do cha tết đãi. Anh không muốn chia sẻ niềm vui của người em. Anh đã hỗn với cha khi gọi em mình là “thằng con của cha đó” (câu 30). Người con thứ đã phạm tội bỏ nhà ra đi, còn người con cả đã phạm tội không chịu vào nhà. Cả hai đều bị đói nếu cứ đứng ở ngoài nhà cha.
8. Để vào nhà dự tiệc mừng đứa em, người con cả cần có trái tim bao dung của người cha, cần vui với niềm vui của cha. Anh phải coi đứa em thật là em của mình, chứ không phải là kẻ trở về để chiếm thêm tài sản. Đi từ giận dữ từ khước đến chấp nhận yêu thương là một con đường dài…
9. Người cha thấy con thứ từ đàng xa, chạnh lòng thương, chạy lại, ôm hôn (câu 20). Dù con tội lỗi, người cha vẫn nhìn nhận đứa con thứ là con của mình và cho anh mọi sự trong tư cách là con (câu 22-23). Mở tiệc ăn mừng là quyết định của người cha (các câu 23,24,29 và 32). Người cha còn hạ mình đi ra để năn nỉ người con cả vào nhà (câu 28). Trước cơn giận dữ và sự hỗn hào của con cả (câu 29-30), người cha vẫn ôn tồn giải thích lý do khiến mình cư xử như thế (câu 31-32).
Sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu là “cứu vớt những gì đã hư mất”. Ngài không ngại hòa mình MC 4-C210
Sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu là “cứu vớt những gì đã hư mất”. Ngài không ngại hòa mình với hạng người tội lỗi và ăn nhậu với họ, làm xốn mắt những ông Pharisêu. Các ông này tự xem mình như người công chính và khinh miệt những người tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu cho họ biết rằng, Ngài không như họ. Ngài dùng nhiều dụ ngôn để chứng minh rằng
Thiên Chúa vẫn thương những người tội lỗi và muốn cứu vớt họ.
Thánh Luca đã gom lại trong một chương những dụ ngôn về lòng thương bao dung của Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta chỉ chú trọng đến dụ ngôn người cha nhân hậu mà thôi.
Ai trong chúng ta cũng quá quen thuộc với dụ ngôn này, vì thế chúng ta có cảm tưởng là đã biết rồi. Nhiều người còn cho là nhàm chán. Nhưng lời Chúa vẫn luôn mới đối với tâm hồn muốn tìm Chúa. Cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đi sâu vào Lời Chúa và tìm thấy những gì cần thiết cho cuộc sống hôm nay.
Dụ ngôn chứa đựng rất nhiều bài học “sống” cho chúng ta.
Gia đình của chàng thanh niên phung phá này là một gia đình khá giả, chỉ có ba cha con. Không thấy nói đến bà mẹ. Người phụ nữ Do Thái nắm một vai trò rất khiêm tốn. Tất cả đều do quyết định của người chủ gia đình. Hay là bà mẹ đã qua đời. Hai đứa con trai lớn lên, thiếu tình mẹ. Vì thế đứa con trai út đã trở thành “ngông”, không muốn ở nhà với cha, ra sống giữa đời tự do hơn và vui hơn.
Theo tục lệ Do Thái, khi con đã trưởng thành, đủ mười tám tuổi, có quyền xin chia gia tài. (Ở Việt Nam không có quuyền đó). Người cha, dù có thương con, chắc không muốn cho con mình rời xa mái gia đình, cũng phải chiều theo ý con thôi.
Đứa con út, khi đã nắm tiền trong tay, tha hồ tung hoành.
Khi sa cơ thất thế, mới biết mình “ngông”, nhưng không còn cách nào, phải đi làm thuê để sống. Chúa Giêsu đã chú ý đến từng chi tiết.
Nó không thể làm thuê cho người Do Thái vì nạn đói đang hoành hành, không ai mướn. Anh phải xin làm thuê cho một người giàu trong vùng, không phải là người Do Thái. Đó là một sự nhục nhã đối với một người Do Thái.
Nó làm việc gì?
Chăn heo. Đây lại là một điều nhục nhã lớn lao hơn, vì đối với người Do Thái, con heo là một con vật ô uế hơn bất cứ con vật nào. Chạm tới con heo là nhiễm uế, thế mà nó phải chăn heo, dọn chuồng heo… Tình cảnh của chàng thanh niên này thật đốn mạt! Như thế là tận cùng! Đốn mạt hơn nữa, là anh muốn ăn của heo ăn mà không ai cho.
Xưa kia, cậu là một chàng thanh niên giàu có, một công tử, hôm nay là một tên đầy tớ chăn heo. Không có cái nhục nào bằng!
Trong cảnh nghèo nàn cơ cực như thế, anh mới hồi tưởng lại cảnh gia đình, đến cuộc sống ấm no ở gia đình. Anh quyết định trở về nhà.
Quyết định của anh không trong sạch cho lắm vì nó bị thúc đẩy bởi cơn đói và sự nhục nhã khôn cùng chứ không do tình yêu.
Điều này càng làm nổi bật lòng nhân hậu và tình thương của người cha. Ông không cần biết điều gì khác, ông chỉ vui mừng vì con ông đã trở về. Tình thương của ông là vô điều kiện.
Chính người cha đi đến với con trước. Ông chạnh lòng thương, ông chạy ra, ôm lấy con, hôn lấy hôn để. Chúa Giêsu muốn nói đến từng chi tiết để chúng ta thấy được tình thương của Cha chúng ta. Cha trên trời thương chúng ta như thế đấy, chúng ta có nghĩ đến tình thương đó không? Chắc cũng có nhưng nhiều lúc chỉ nhớ qua loa, không chú ý bao nhiêu.
Biết và chú ý là hai điều khác nhau. Vì thế mà chúng ta không cảm thấy hạnh phúc và không hiểu được hạnh phúc của mình. Đôi khi, trong những lúc yên lặng, chúng ta nên nhìn lại khuôn mặt đáng yêu của Cha trên trời. Chúng ta sẽ thấy êm đềm và an ủi. Trầm lắng để chìm sâu vào tình yêu của Cha, đó là một niềm hạnh phúc lớn cho chúng ta.
Cuộc hội ngộ cảm động làm sao!
“Mau đem áo đẹp nhất cho con ta” vì con ta không còn là một tên đầy tớ nghèo mạt tả tơi nữa. “Hãy xỏ nhẫn vào ngón tay cho cậu”. Tại sao lại chú ý đến chiếc nhẫn? (Theo tục lệ Do Thái, những gia đình quyền quí luôn làm một chiếc nhẫn cho con cái, trên đó có khắc tên của gia đình. Mất chiếc nhẫn đó là mất quyền làm con, không được bước chân vô nhà). Người cha để ý đến chiếc nhẫn, không thấy trên tay cậu. Nó đã bán đi mất rồi. Nó không còn quyền làm con nữa, vì thế, ông trao cho con chiếc nhẫn khác tức là trả lại cho đứa con sa đọa của ông quyền làm con trong gia đình.
Ông mở tiệc ăn mừng. Sự trở về của đứa con phung phá đã trở thành niềm vui cho gia đình, và hàng xóm được mời đến chia vui. Đúng như Chúa Giêsu nói: “Cả thiên đàng vui mừng khi một người tội lỗi trở về”.
Niềm vui này là niềm vui của tình yêu. Vì nhờ tình yêu mới giúp ta tìm lại được niềm vui. Chúng ta có biết, khi chúng ta trở về, Cha trên trời vui như thế nào không? Nếu chúng ta không thuộc về hạng đứa con phung phá, chúng ta hãy tìm hết cách để kêu gọi những người anh em, những người đang sống “đối nghịch với thập giá” trở về với Cha. Hay chúng ta giống như người con cả, thấy Cha mừng vì em mình trở về lại tức giận? Đó là thái độ của Pharisêu, tự cho mình là công chính và chà đạp người tội lỗi “thằng con khốn nạn kia của cha”.
Chúa Giêsu muốn cho mấy ông Pharisêu thấy rằng người tội lỗi không là đồ bỏ đi mà là đối tượng của tình yêu luôn cứu vớt của Cha trên trời.
Đứng trước thái độ cự tuyệt của người con cả, người cha lại ra năn nỉ anh, mời gọi anh vào niềm vui của sự tha thứ. Ông cho thấy rằng của cải không là cái gì quan trọng “mọi sự của cha là của con”, con đâu mất mát gì đâu! Nhưng đối với cha, đứa con của cha mới đáng giá. Chúng ta có thấy giá trị của chúng ta trước mặt Cha trên trời không?
Chúng ta chỉ là tro bụi, hơn nữa, chúng ta tội lỗi xấu xa, thế nhưng Cha trên trời luôn năn nỉ chúng ta.
Sự độ lượng và lòng nhẫn nại của người cha đã đem lại một nguồn vui mới là hai anh em được hòa thuận với nhau. Ở trần gian này có được bao nhiêu người cha độ lượng như thế? Hơn thế nữa, Ngài dám ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài để hòa giải những đứa con ngỗ nghịch với Ngài, để chúng ta được hoàn toàn hạnh phúc với Ngài.
Làm sao tạ ơn Cha cho hết được!
Và đền đáp lại tình thương vô bờ bến của Cha, chúng ta “hãy trở nên trọn lành như Cha trên trời, để mọi người nhìn thấy những việc làm của chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời”.
Niềm vui của chúng ta là được đoàn tụ quanh Cha để tạ ơn Cha cùng với Chúa Giêsu. Người Cha kia đã giết con bê béo để ăn mừng, Cha trên trời cho chúng ta ăn chính Con Một của Ngài để chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài và tận hưởng niềm vui bất tận trong nhà Cha muôn đời: “Ta đến để niềm vui của anh em được trọn vẹn”.
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình MC 4-C211
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài.
Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng… Kiếp sống sa đọa đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả các áo trong nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ đón rước con trở về.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc … Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về?
Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác làm động lực thúc đẩy anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người cha. Phải, nếu không tin vào tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chết, là "mất đi". Tình yêu Thiên Chúa đã mở ra lối thoát, đã cảm hóa con người tội lỗi. Không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người. Tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, tin rằng mình luôn có một chỗ trong Trái Tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống.
Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mọi mơ ước của chúng ta: "Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự" (Rm 5,20)
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là "tìm lại được", là "sống lại". Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa sâu xa của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp ông việc nầy việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc. Một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở. Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: "em con đã chết, nay lại sống" thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: "thằng con của cha kia…"
Con của cha chứ không phải em của con. Anh tự loại mình ra khỏi gia đình. Anh kể công với cha anh như một người làm thuê, như một người tôi tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: "Bao nhiêu năm qua con đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh cha, thế mà…" Dù không bỏ cha, bỏ nhà ra đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa con sống hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt mà chẳng gần lòng.
Thưa anh chị em,
Chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Làm sao người con của Cha lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Làm sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng, chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và cho anh chị em khám phá ra tình yêu của Chúa ngay giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên Chúa như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Thánh lễ thực hiện điều đó: ngay tại đây, trong lúc nầy, chúng ta, những người con đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ. Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với Ngài và với anh em một nhà.
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
1. Một tín hiệu không vui
Từ ngoài đồng về, người con cả nổi giận, không chịu vào nhà, và người cha đã phải ra tận nơi MC 4-C212
Từ ngoài đồng về, người con cả nổi giận, không chịu vào nhà, và người cha đã phải ra tận nơi để năn nỉ cậu. Hai tình huống được đặt ra ở đây:
- Người con cả có vào nhà không? - Vào hay không vào, đàng nào tốt hơn?
1.1.Tình huống một: không vào nhà, để rồi lại bỏ nhà ra đi
Có người cho rằng anh không chịu vào nhà. Anh không chịu vào, vì anh không thể tha thứ cho người em. Anh không chịu vào, vì sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm, bị chia sẻ. Anh không chịu vào, vì anh không hiểu được tấm lòng của người cha.
Hơn nữa, anh còn kết án người cha. Anh kết án cha bất công và keo kiệt. Kết án cha bất công khi anh nói: cha coi, thằng con của cha đó, một thằng ăn chơi đàng điếm trở về thì cha lại ăn mừng. Kết án cha keo kiệt khi anh phàn nàn: cha chẳng cho con lấy một con dê con để vui với bạn bè, còn giờ đây cha lại cho giết cả một con bê béo để mừng thằng con bất hiếu trở về. Như vậy đủ lý do để chúng ta kết luận: người con cả bỏ nhà ra đi.
Người con cả bỏ nhà ra đi, nói lên “niềm vui của Thiên Chúa, hình như không có lúc nào được trọn vẹn khi ở giữa Dân Người”. Một kết thúc làm cho chúng ta suy nghĩ: Thiên Chúa là như thế đó, nỗi khỗ tâm của Thiên Chúa là như thế đó.
1.2.Tình huống hai: người con cả vào nhà và ở lại với người cha.
Một kết luận xem ra có hậu, nhưng thực sự có hậu không?
Chúng ta trở lại với người con thứ, người con hoang đàng trong dụ ngôn. Từ khi người con hoang đàng trở về, mọi sự đều thay đổi. Những người làm công yêu cậu chủ, yêu cậu chủ rồi yêu luôn cả công việc cậu chủ giao phó. Vì yêu cậu chủ, nên yêu luôn cả ông chủ, vì khám phá ra lòng nhân hậu của ông chủ mà suốt cả bao năm dưới quyền người con cả, họ không thấy được điều đó. Từ đây, những người làm công có một cái nhìn so sánh giữa người con thứ và người con cả. Họ càng thương người con thứ bao nhiêu thì lại càng hận người con cả bấy nhiêu. Đứng trước tình cảnh đó, người con cả sẽ phản ứng ra rao? Liệu anh có thể kiềm chế được tính ghen tương đã nằm sâu trong lòng cậu không?
Thật vô cùng khó! Vì lúc đầu, chỉ có người cha vui mừng vì cậu em trở về mà anh đã tức điên lên rồi, phương chi, giờ đây người cha vui mừng không những vì cậu em trở về, mà cả những người làm công cũng trở thành những người con trong nhà, được hưởng những quyền lợi như một người con trong gia đình.
Như vậy, chắc chắn sự ghen tương sẽ bùng nổ và chúng ta biết hậu quả của ghen tương sẽ dẫn tới đâu. Chuyện xảy ra vào thế kỷ 16 tại Ấn Độ: trong triều đình có hai viên quan, mỗi người một tính xấu. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam. Ngày kia, nhà vua có một sáng kiến để sửa đổi những tính xấu đó. Nhà vua cho triệu hai viên quan vào triều đình, cho biết sẽ trọng thưởng họ vì đã phục vụ lâu năm. Hai ông có thể xin gì tùy thích,
nhưng người đầu tiên mở miệng xin, chỉ được những gì mình muốn. Còn người thứ hai sẽ được gấp đôi. Những giây phút nặng nề trôi nhưng không ai mở miệng trước. Người tham lam nghĩ trong lòng rằng nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước, để người kia được gấp đôi.
Vì thế không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, nhà vua phải đề nghị người ganh tị nói trước. Người ganh tị lẩm nhẩm: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi, nên ông tâu với vua: tôi xin chặt đứt một cánh tay. Ông ta sung sướng với ý nghĩ: người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Thật là ngớ ngẩn! Hại ai không hại, lại hại chính thân mình. Kẻ ganh tỵ là như thế đó! 2. Điểm dừng của dụ ngôn “người con hoang đàng” trong Tin Mừng Sau buổi tiệc hôm đó, cuộc sống của người con thứ sẽ ra sao?
Phải chăng lại âm thầm tiếp tục như những ngày tháng trước khi bỏ nhà ra đi? Phải chăng câu chuyện dừng lại ở đây?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy đọc lại quyết tâm của cậu ta: “thôi ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
Một lời cầu xin ân huệ và cũng là một quyết tâm: “xin coi con như một người làm công cho cha thôi”. Trở về và được phục vụ cha như một người làm công, được như thế cũng là mãn nguyện rồi. Thế là từ nay các quyền lợi, các ưu đãi dành cho một người con trong nhà, anh không dám nghĩ tới nữa. Giờ đây chỉ còn một việc phải làm là phục vụ và phục vụ hết mình. Quyết tâm này không những làm người cha xúc động, mà nó còn mang một ý nghĩa vô cùng lớn đối với những người làm công.
Với bao chua cay đau xót, với bao tủi hổ ê chề, khi phải đi chăn heo cho người ngoại bang, nhờ đó mà giờ đây anh có một cái nhìn khác về cuộc sống. Nơi nhà cha cậu, cậu luôn sát cánh bên cạnh những người làm công. Cậu ân cần thăm hỏi từng người một. Cậu đồng cảm với những hành vi, mỗi cái nhìn, cũng như những phản ứng của những người làm công. Nhất là cậu giúp những người làm công tìm được một ý nghĩa, một niềm vui trong cuộc sống.
Cuối năm đó tính sổ lại, người cha vô cùng ngạc nhiên, tại sao cũng một thời gian như nhau, với số người làm công như nhau, mà hoa lợi lại tăng nhiều như vậy. Người cha khám phá ra rằng: chính là do cậu chủ. Cậu chủ thương mến những người làm công, và những người làm công thương mến cậu chủ. Trước đây, khi làm việc, những người làm công chỉ mong cho mau hết ngày để tính công, nhưng giờ đây, họ cố làm cho hết việc chớ không phải hết giờ. Và với số hoa lợi bỗng nhiên dư ra như vậy, ông chủ lại chia sẻ cho những người làm công. Được quan tâm, được nâng đỡ, những người làm công lại mến chủ hơn. Càng mến chủ, họ lại càng làm việc tích cực hơn, và cứ như thế, ông chủ càng ngày càng vui hơn. Ông chủ vui hơn không phải vì tài sản càng ngày càng lớn hơn, nhưng vui hơn, vì giờ đây, nhờ chính đứa con đi hoang trở về, anh đã cảm hóa, anh đã biến đổi những người làm công trở thành những người con thực sự trong gia đình của người cha. Đây mới là điểm dừng của dụ ngôn “người con hoang đàng”. Amen.
Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa để rồi vững tin cho mình và vững tin cho MC 4-C213
Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa để rồi vững tin cho mình và vững tin cho anh chị em, cho dù tất cả đều sống trong tội lỗi nhưng tình yêu Thiên Chúa dư đủ để cứu độ tất cả.
Tuần trước Phụng vụ lời Chúa là mời gọi cấp thiết phải hoán cải cuộc sống thì tuần này phụng vụ Lời Chúa lại là lời mời gọi phải giao hòa với Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha nhân lành luôn sẵn sàng chờ đón người con hoang đàng trở về. Luôn tha thứ và phục hồi mọi phẩm gía và quyền lợi cho đứa con hư trở về. Trở về giao hòa với Thiên Chúa là trở về trong vòng tay ấu yếm của Người để nghe được Người nói với chúng ta: Đây là con của Ta.
I. Tìm hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Gs 5, 9-12
Lễ Vượt Qua Đầu Tiên Tại Đất Thánh
Những Người Do Thái đã đến được miền Đất Hứa. Thời gian dài qua sa mạc đã kết thúc. Lần đầu tiên họ cử hành lễ Vượt Qua trong niềm vui sướng hoan hỉ.
Dưới sự hướng dẫn của Giôsuê, người kế vị Môsê, dân Do Thái đã vượt qua Giođan và tiến vào Canaan, tên cũ của Palestina.
Dân chúng mừng lễ vượt qua để tạ ơn Thiên Chúa đã giải phóng họ khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và dẫn đưa họ vào miền đất phì nhiêu. Cuộc sống của họ giờ đây đã được bảo đảm và có hòa bình.
Với Kitô hữu, lễ Vượt Qua hay Phục Sinh luôn mang tính hiện tại. Đây không phải là chuyện đã qua bây giờ ngồi nhớ lại, nhưng với ân sủng bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận, Kitô hữu thực sự đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ tội lỗi và đi vào Nước Trời, miền Đất Hứa trong tư cách con cái Chúa, để từ đây luôn sống trong hoan lạc và hạnh phúc.
2. Bài đọc II: 2 Cr 5, 17-21
Giao Hoà Với Thiên Chúa
Trong đoạn trích thư thứ hai gửi Tín hữu Corintô này, Thánh Phaolô minh chứng sự tốt lành khôn cùng của Thiên Chúa đã muốn giao hòa nhân loại với Người bằng việc hiến dâng chính người Con Một của mình. Đây là sứ điệp của niềm vui, nhân loại được Chúa yêu thương giao hòa, tha thứ và quên đi mọi tội lỗi.
Đúng ra Thiên Chúa không phải giao hòa với thế gian, chính thế gian, chính con người mới phải giao hòa với Thiên Chúa vì con người bội phản lại Ngài. Nhưng với lòng thương xót vô bờ bến, Thiên Chúa đã chấp nhận chủ động giao hòa với nhân loại.
Để thực hiện việc giao hòa này Thiên Chúa đã cho Con Một của Ngài là Đức Giêsu, Đấng không hề biết tội đến liên đới với tội lỗi nhân loại bằng việc hiến dâng chính mình trên thập giá để cứu chuộc và đền thay tội lỗi nhân loại, làm cho con người được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sứ mạng giao hòa này, Đức Giêsu Kitô đã trao phó cho Giáo Hội của Người, cho các vị lãnh đạo, các linh mục, nhưng cũng cho tất cả mọi Kitô hữu. Chúng ta những Kitô hữu hôm nay phải biết quan tâm lo lắng làm sao để anh chị em chung quang cũng được ôm ấp trong lòng thương xót của Thiên Chúa, cùng với mình được giao hòa với Thiên Chúa.
3. Tin mừng: Lc 15, 1-32
Dụ Ngôn Người Cha Nhân Hậu
Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy ngay trong sự khốn khổ của kẻ tội nhân xuất hiện khuân mặt từ ái của Thiên Chúa: Ngài là một Người Cha giàu lòng thương xót, chỉ biết đón nhận và tha thứ.
Trả lời cho những định kiến sai lầm của những người Biệt phái, Chúa Giêsu trình bày một dụ ngôn nổi tiếng về lòng thương xót, đặc biệt lòng thương xót của người cha dành cho đứa con hoang đàng.
Vượt trên sự phản bội và vô ý thức của người tội lỗi, Thiên Chúa cho thấy lòng thương xót đáng kinh ngạc của Người. Luôn luôn sẵn lòng tha thứ tất cả và còn hơn nữa làm cho tọi nhân có cơ hội quay trở lại và nên công chính.
Lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn ưu ái dành cho mỗi người chúng ta. Kitô hữu có biết đón nhận lòng thương xót của Chúa để trở về khi lỗi lầm hay không? Và đồng thời có biết hiệp thông với Chúa với Giáo Hội trong niềm vui khi một người anh em biết quay trở về với bàn tiệc gia đình Thiên Chúa không? Mỗi người có biết tha thứ và trở nên những thừa tác viên của sứ mạng giao hòa không?
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Giao hòa là chân nhận Thiên Chúa là Cha nhân lành: Không biết khi đòi chia gia tài người con thứ ngoài việc thấy cha mình là người giàu có, thương con chiều con có nhận thấy cha mình là người cha thực sự nhân hậu, giàu lòng tha thứ hay không? Nhưng khi anh hết tiền, bị đói thì anh nhớ đến cha, đến sự đối đãi tử tế mà cha anh dành cho những người đầy tớ. Nên anh quyết định về nhà, anh không dám mơ đến việc cha anh sẽ tha thứ cho anh, mà chỉ mong sao được làm đấy tớ trong nhà thôi vì như thế sẽ không còn bị đói nữa. Nhưng chuyện kỳ diệu đã đến với anh! Người cha vẫn luôn mong ngóng anh trở về, không chỉ tha thứ mà còn phục hồi lại phẩm ghía người con cho anh. Với người cha anh như đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình yêu thương, lòng tha thứ đã bật lên thành niềm vui sướng nơi người cha. Ông là một người cha đầy lòng nhân hậu. Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn cho mọi người nhận biết được Thiên Chúa là Người Cha Nhân Lành. Thiên Chúa là Cha Nhân Lành khi chủ động giao hòa cùng con cái tội lỗi; Người là Cha Nhân Lành khi sẵn lòng tha thứ và làm cho con cái nên công chính hơn. Giao hòa không dừng lại ở việc xin lỗi, sợ bị Thiên Chúa giáng phạt mà giao hòa là phải nhận ra Thiên Chúa quả thực là người Cha Nhân lành hay tha thứ, chậm bất bình và giàu lòng khoan dung.
2. Giao hòa là biết đón nhận anh chị em: Trong khi người cha vui sướng vì người con hoang đàng trở về thì người anh lại tỏ ra bất bình giận dữ trước niềm vui của cha. Anh không chấp nhận tha thứ và vui đón người em trở về. Anh trở nên so bì với người em, ganh tức với em và oán trách cả cha mình. Quả thật theo tâm lý thường tình thì đa số mọi người sẽ có phản ứng như người anh cả. Tâm lý này thường tình đến độ tất cả đều cho phản ứng ấy là đúng. Có tội thì bị phạt, làm sai thì bị mắng, phung phá thì bị cúp viện trợ là lẽ tất nhiên. Không ai chê trách gì người anh và cũng chẳng ai oán trách người cha nếu như ông từ chối đón nhận đứa con hoang đàng. Thận chí sẽ có người chê ông xử sự như vậy là ngu dại, là làm cớ cho con cái coi thường. Ở đây mới thấy đựơc tình Chúa bao la biết bao. Dụ ngôn này đã giúp khám phá chân dung tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Và tình yêu ấy cũng đòi buộc mọi người phải biết yêu như Ngài. Ngài đã chủ động giao hòa để mọi người chúng ta cũng chủ động giao hòa với những anh chị em xúc phạm đến chúng ta. Không thể coi người anh là người thảo hiếu nếu chỉ biết răm rắp tuân hành ý cha mình mà không biết chia sẻ tình yêu với cha, không biết thương mến tha thứ cho em mình.
Dụ ngôn nhắc nhở Kitô hữu rằng giao hòa không phải chỉ là thái độ của chúng ta đối với Thiên Chúa mà còn là việc cùng với Ngài giao hòa với anh em của mình nhất là khi họ là những tội nhân. Làm sao là con cái Chúa là Cha Nhân Lành khi mà chúng ta khinh thường anh chị em mình, tránh xa những người đang ngụp lặn trong tội lỗi. Nói như Thánh phaolô, chính Kitô hữu được Thiên Chúa trao phó sứ mạng giao hòa; được Thiên Chúa đặt trên môi miệng lời giao hòa. Vì thế, giao hòa là phải biết đón nhận anh chị em mình.
3. Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa: Dụ ngôn người cha nhân hậu cho chúng ta khám phá ra tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại, đặc biệt là người tội lỗi. Dù muốn hay không thì tình trạng tội lỗi luôn đẩy con người vào trong thảm trạng của kiếp nô lệ, nô lệ cho dục vọng tội lỗi, nô lệ cho ma quỉ và kết cục là phải chết. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa thậtt lớn lao biết bao khi Ngài đã sai Đức Giêsu Kitô đến để cứu độ, để giải phóng. Tình yêu của Thiên Chúa đựơc thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Người đã hết lòng chăm lo cho tội nhân, tìm kiếm và mới gọi người tội lỗi trở về. Hơn tất cả Người đã hy sinh mạng sống Người để đền thay tội lỗi nhân loại. Khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa làm cho chúng ta tràn đầy tin tưởng để rồi quyết tâm quay trở về giao hòa với Thiên Chúa. Chúng ta biết rõ thân phậntội lỗi của mình, biết rõ tình trạng nô lệ của bản thân và khao khát đựơc tự do như thế nào. Nhưng chúng ta không bi quan thất vọng vì Thiên Chúa không chê bỏ chúng ta nhưng trái lại còn yêu thương hơn bao giờ hết. Tình yêu ấy thúc bách chúng ta trở về với Ngài, tình yêu ấy giải phóng chúng ta và đưa vào tình trạng tự do của con cái Chúa. Người con hoang đàng trở về chỉ mong được làm gia nhân cho cha để có cái ăn, nghĩa là cách nào đó vẫn thiếu tự do, nhưng người cha đã tha thứ tất cả, đã phục hồi tư cách phẩm giá người con cho anh. Mỗi tội nhân chúng ta cũng vậy đựơc Chúa Cha yêu thương tha thứ qua sự hy sinh của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng thực sự trở nên con cái dấu yêu của Chúa Cha, đồng thừa tự với Người.
Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa để rồi vững tin cho mình và vững tin cho anh chị em, cho dù tất cả đều sống trong tội lỗi nhưng tình yêu Thiên Chúa dư đủ để cứu độ tất cả.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn yêu thương tha thứ và đón nhận con cái lầm lạc trở về với mình. Tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài chúng ta cùng dầng lời cầu nguyện.
1. Giáo Hội qua các vị chủ chăn được Chúa Giêsu Kitô uỷ thác sứ mạng giao hòa nhân loại với Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, Các Đức Giám mục và các linh mục của chúng ta luôn mang lấy tình yêu mục tử của Chúa Giêsu Kitô để chu toàn sứ mạng hoà giải tội nhân của mình.
2. Trên thế giới ngày nay vẫn còn biết bao đau thương, di họa của chiến tranh và lòng hận thù. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các dân tộc, các Quốc gia đang trong tình trạng chiến tranh biết ngồi lại với nhau, hoà giải với nhau để mọi người được vui hưởng nền hòa bình thực sự.
3. Mỗi người chúng ta cách này cách khác đều là những tội nhân, những người con hoang đàng trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu mến bí tích Giao hòa, để thành tâm sám hối trở về với Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha Nhận hậu, chúng con cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương tha thứ và chờ đợi chúng con từ bỏ tội lỗi và con đường lầm lạc để trở về với Chúa. Xin gia tăng đức tin, lòng cậy trông và lòng mến Chúa nơi chúng con để chúng con thực sự biết hồi tâm quay trở về nên những người con chí ái của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
Suy niệm:
Theo truyền thống phụng vụ của Giáo hội Công Giáo, Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật của MC 4-C214
Theo truyền thống phụng vụ của Giáo hội Công Giáo, Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật của niềm vui, hay còn gọi là Chúa Nhật Letare. Letare là chữ đầu của bài Ca Nhập Lễ trích từ sách ngôn sứ Isaia 66,10-11: “Vui lên nào Giêrusalem hỡi…”. Niềm vui của Chúa Nhật IV Mùa Chay là đã đi được nửa chặng đường của việc giữ Mùa Chay Thánh…
Bài đọc I mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đã cho Dân Người tiến vào đất mà Thiên Chúa đã hứa. Một kỷ nguyên mới bắt đầu đối với dân Do Thái. Niềm vui ấy được tiến triển trong Tân ước. Bài đọc II cho chúng ta thấy, nhờ Chúa Kitô mà con người được hòa giải với Thiên Chúa Cha.
Thực ra, người cha người mẹ nào cũng mong muốn con cái thành người, sống đúng với Đạo Trời. Đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của cha mẹ chứ chưa nghĩ về việc con cái có thể phụng dưỡng được mình hay không. Câu chuyện Tin mừng hôm nay cho chúng ta hình ảnh về một gia đình người cha nhân hậu đối xử với hai đứa con trai đáng cho chúng ta liên hệ về chính mình.
Theo truyền thống văn hóa Á Châu, con cái chỉ đề cập đến việc chia gia tài khi cha mẹ đã qua đời, hoặc nếu khi cha mẹ còn sống thì chính người cha người mẹ muốn chia gia sản cho con cái mới là lẽ thường. Còn việc con cái đề nghị cha mẹ chia gia tài ngay lúc các ngài còn sống thì chẳng khác gì trù cho cha mẹ chết, và sẽ bị xem là nghịch tử. Dầu vậy, người cha trong đoạn Tin mừng vẫn rất mực thương con, sẵn sàng chấp nhận đề nghị của con, ông chia cho cả hai đứa con.
Nhận được gia tài, thay vì phụng dưỡng cha, người con thứ để mặc người cha già lủi thủi ở nhà. Nó trẩy đi phương xa ăn chơi trác táng. Đến khi hết tiền hết bạc, nó phải chăn heo, loại động vật mà văn hóa Do Thái xem là dơ bẩn và họ không chăn heo và cũng không ăn thịt heo bao giờ. Người con thứ lâm vào cảnh cùng khốn của mình, không chỉ về phương diện vật chất mà còn cả về phương diện phẩm giá: “Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.” Hậu quả của việc phung phí gia sản đã dẫn người con đến sự cùng tận của kiếp người, sống không ra người.
Người con thứ dự tính trở về mái nhà của cha không phải vì thương cha mà là vì miếng ăn: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” Lúc gặp khốn cùng, con người mới nghĩ về Thiên Chúa, chạy đến với Ngài. Nhưng lắm khi những điều con người ta suy tính trong lòng chỉ là vụ lợi, việc cất bước trở về chẳng có gì là cao thượng. Dẫu vậy, Thiên Chúa chấp nhận một cuộc trở về không hoàn hảo, vì Ngài có thể vẽ đường thẳng từ những đường cong.
Lẽ thường của một người cha hẳn là rất giận đứa con, có thể không nhìn mặt, hay ít ra cũng chửi cho nó một trận. Nhưng người cha trong câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta cảm nghiệm về một Thiên Chúa nhân từ đến tột cùng. “Anh ta còn ở đằng xa, cha anh chợt trông thấy, liền động lòng thương” Từ khi đứa con ra đi khỏi nhà cha, hằng ngày người cha tựa cửa mong ngóng đứa con trở về, và còn ra cả góc phố đi đi lại lại trông đợi con và hy vọng con sẽ quay về. Vì thế, khi thấy bóng dáng của người con còn thấp thoáng từ xa, ông đã trông thấy. Đoạn Tin mừng mô tả người cha “chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Đâu rồi một người cha theo văn hóa Đông Phương với định kiến “kính nhi viễn chi”, nào là phải có vẻ mặt cương quyết, khuôn phép uy nghiêm, cử chỉ từ tốn. Nhưng không, người cha chạy tới ôm con như một đứa trẻ chờ mẹ đi chợ về, tiếng nói của con tim khiến ông bỏ qua mọi khuôn phép vốn có.
Người con thứ dự định một bài diễn văn thật dài gồm hai phần: phần thứ nhất là “con đáng tội với trời và với cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”, và phần thứ hai là “xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Quả thật, tục ngữ có câu: “Áo mặc sao qua khỏi đầu”, “Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Nhưng dầu người con cái trong gia đình có như thế nào thì đối với cha mẹ, con vẫn là con, vẫn là đứa trẻ non nớt mà mình phải bao bọc. Chính vì thế mà người cha đã cắt ngang, không cho anh nói phần thứ hai để tránh cho anh sự nhục nhã, và cũng để cho thấy lòng tha thứ vô điều kiện của ông đối với con mình. Còn tế nhị hơn nữa, ông phục hồi lại địa vị làm con của người con thứ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!” Việc người con trở về đáng để vui mừng: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Ông sẵn sang thứ tha để mở cánh cửa cho con mình trở thành một con người mới, có một khởi đầu lại.
Liệu người cha có thiên vị tình thương dành cho người con thứ không? Người con cả nghĩ như thế, nên anh căm phẩn trách cứ cha. Hẳn là chúng ta cũng đồng cảm với người anh. Nhưng cùng nghe kỹ lại xem: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè”. Những lời trách cứ này là những lời đạo mạo của người Pharisêu tự kiêu xem mình tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, coi mình tốt lành và sẵn sàng lên án tội lỗi của người khác một cách không thương tiếc. Người con cả sống với cha nhưng anh đâu coi ông là cha của mình mà như tương quan ông chủ với đầy tớ, vâng lời cha mà như là thi hành lệnh của chủ, sống với cha mà đếm từng năm tháng, và kể công trách móc cha.
Tệ hơn nữa, anh dùng từ “còn thằng con của cha kia”, vì tính ghen tỵ nhỏ nhen, anh sẵn sàng cắt đứt tình anh em với người em mình khi nó hoạn nạn, điều này cũng đồng nghĩa với việc anh cắt đứt tình cha con. Anh đang ở nhà đó, nhưng lòng anh đã ra đi, vì thế anh cũng cần phải sám hối và quay về.
Cách xử sự của người cha dành cho người con thứ đi hoang thế nào thì ông cũng xử sự bao dung với đứa con cả ganh tỵ như thế. Với giọng nhất mực trìu mến, người cha nói với con đầy tâm tình: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con”. Đây là một lời đầy tế nhị để nhắc khéo cho cậu rằng ông cần “tình cha con” chứ không phải là “nghĩa chủ tớ”. Ông yêu thương, chẳng tiếc gì với con thứ, thì cũng vậy, những gì của ông cũng là của con cả.
Xét mình trong mùa Chay Thánh này, chúng ta nhận thấy dáng vấp của chúng ta trong hình ảnh của người con thứ. Được sống trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa qua gia đình, xóm làng, đồng nghiệp, giáo xứ, nhưng chúng ta vẫn cố tình “đi hoang” khi chúng ta làm biếng cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ, lại phạm tội trọng mất lòng Chúa. Có khi chúng ta thấy dáng vấp của chúng ta nơi người con cả kiêu ngạo, ích kỷ, xét đoán, nói xấu, ghen ghét anh chị em mình. Nhiều lúc chúng ta cũng tưởng rằng mình đang giữ đạo rất tốt, tham dự Thánh lễ Chúa nhật đều đặn, giữ Mười Điều Răn chỉ vì sợ Chúa phạt… Chúng ta cần nhìn lại thái độ sống của mình với Chúa trong tương quan cha-con hơn là nghĩ đến việc xét xử, bằng không chúng ta chỉ sống giữ luật vì sợ sệt hơn là yêu mến.
Người cha năn nỉ người con cả bước vào tham dự niềm vui đoàn tụ. Vậy chúng ta hãy tự trả lời cho câu hỏi: Người con cả có chịu bước vào nhà không? Mùa Chay là mùa hoán cải, mùa trở về. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta mạnh dạn đứng dậy và quyết tâm trở về với Chúa, làm hòa với anh chị em, nối lại sự nguội lạnh trong đời sống gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, giữa tình anh chị em với nhau. Amen.
Đã nhiều lần chúng ta nghe về người con hoang đàng, về người cha nhân từ. Hôm nay chúng ta MC 4-C215
Đã nhiều lần chúng ta nghe về người con hoang đàng, về người cha nhân từ. Hôm nay chúng ta để mắt tới người con cả trong dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu mà chỉ một mình thánh Luca ghi lại, với 2 câu hỏi: (1) Tại sao lại để mắt tới người con cả? (2) Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ, thái độ như người con cả này?
1. Tại sao lại để mắt tới người con cả?
- Vì mỗi người chúng ta có dáng dấp giống anh ta. Anh ta đi làm về, nghe trong nhà đàn ca múa hát. Anh khoát tay dò hỏi một đứa ở, nó cho biết cha của anh đang bày tiệc mừng đứa con đi hoang mới về. Anh nổi giận, không thèm vào nhà. Người cha phải ra tận nơi để dỗ dành anh ta. Anh phân phô hơn thiệt –rất có lý- khiến người cha đứng nghe từ đầu đến cuối (khác người con thứ không cho nói…): “Đã bao năm, con ở với cha, chẳng trái lệnh cha điều nào. Thế mà có bao giờ cha thí cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn đâu? Vậy mà khi cái thằng con của cha kia đã ngốn hết gia tài của cha cùng với gái làng chơi, thì nay trở về cha lại làm thịt bò tơ béo để ăn mừng nó!” Lập luận lý lẽ của người con cả này không xa lạ gì với chúng ta lắm đâu –nếu một ngày nào chúng ta nhận ra rằng Chúa cũng cứu, cũng cho vào thiên đàng những người chưa theo đạo, hoặc những người theo đạo mà chẳng lễ lạy gì, hay tệ hơn nữa, như lời Chúa nói:”Tôi nói thật cho các ông: những người thu thuế, tội lỗi, đĩ điếm, sẽ vào Nước Trời trước các ông”.
Chúng ta, những người đạo gốc –đi lễ hàng ngày, hoặc ít ra cũng giữ lễ Chúa nhật, giữ trọn 10 điều luật của Chúa– chịu thương chịu khó dậy sớm đi lễ, tối đến đọc kinh, theo Chúa trọn đạo, vậy mà Chúa thình thoảng cũng cư xử dửng dưng, thử thách này nọ ; còn một số kẻ khác ăn no ngủ kỹ, hoặc 10 điều răn thì lỗi cả chục…, tự do phóng túng…, ấy vậy mà cuối cùng Chúa lại cư xử với họ thật nồng hậu. Cái ấm ức làm sao không có được (ở đây tôi không nói họ phải có điều kiện như thế nào thì Chúa mới đoái thương, nhưng mình nghĩ cho dù họ hội đủ điều kiện, thì cùng lắm tha thứ, cho qua là xong – chứ đây lại là tiếp đãi linh đình ra như thể khuyến khích đi hoang!).
Hoạ sĩ thiên tài Rembrandt đã hiểu thật hay ý hướng sâu sắc của bài dụ ngôn hôm nay, nên vẽ bức tranh này như sau: “Người con thứ ở trong bóng tối, đang quì, quay lưng với khán giả, khuôn mặt vùi giấu trong lòng người cha… Còn người cha là một cụ già đáng kính, toả sáng, tuy cặp mắt đã loà vì khóc nhiều . Hai bàn tay run rẩy vẫn đặt tì trên vai chàng trai như để giữ anh ta lại. Một nhân vật khác –con cả– đứng đó, người nghiêng một bên, nhắm một mắt, tất cả thái độ của anh ta như toát ra lời trách móc người cha yếu đuối, nhu nhược. Mái tóc của anh làm nổi rõ vầng trán hẹp, cặp lông mày nhướng lên, đôi môi mím lại, chẳng đẹp gì… và hai bàn tay co quắp như diễn tả sự nhờm tởm của toàn thân trước cảnh cha già bạc nhược! Còn từ trong bóng tối, Rembrandt vẽ hai người đầy tớ, những nhân vật phụ nhưng dáng vẻ láu cá như đang cố rình xem chuyện gì sẽ xảy ra giữa cha con họ.
Đó, thái độ của chúng ta, -tôi không vơ đũa cẳ nắm-, nhưng hầu như phần đông chúng ta, trong đó có tôi, đều dễ có thái độ như người con cả: khó chịu, tức tối khi Chúa đối xử nhân từ với những người xem ra tội lỗi.
2. Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ và thái độ như người con cả này?
Ngoài câu trả lời căn bản là đừng ganh tị với lòng nhân lành của Chúa -như câu ông chủ trả lời trong dụ ngôn những người thợ làm vườn nho, sau một ngày làm công, ai nấy đều được 1 đồng, khiến người làm từ sáng sớm ghen tức với kẻ chỉ làm được mỗi một giờ! Người chủ nói: “Hay là anh ghen tị với tôi vì tôi xử nhân từ với họ?” Ngoài câu trả lời này, thì dựa theo đoạn thoại của hai cha con trong dụ ngôn này: người con cả nói: “Thằng con của cha” (ra điều như chẳng liên hệ gì đến mình) – đáp lại, người cha nói: “Đứa em của con” (ừ, thì dẫu sao nó cũng là em của con) khác với “con của cha”. Làm anh (làm chị) thì phải quảng đại, có đại ca, đại huynh nào mà không rộng lượng với đàn em không? Vậy thì trong mức độ nào đó, chúng ta, những người đạo gốc là đàn anh đàn chị trong đức tin đối với người khác (người chưa Đạo)… hoặc nếu cùng một đức tin, thì ta cũng là đàn anh trong sự trung tín vì ta không đi hoang, ở nhà với cha. Hãy coi họ như là em (đứa em của con) để dễ có quảng đại mừng vui vì đàn em trở về.
Truyện 1001 đêm của Ba Tư có kể lại câu chuyện này: Có hai anh em nhà kia bắt trói được thủ phạm giết chết người cha của mình. Ra toà, thủ phạm thú nhận tội lỗi, nên luật "mắt đền mắt, mạng đền mạng" được áp dụng. Nhưng trước khi xử, hắn ta xin ân huệ cuối cùng là được trở về nhà trong 3 ngày để giải quyết một vấn đề liên hệ tới người cháu đã được giao phó cho hắn chăm sóc từ nhỏ. Hắn hứa sau 3 ngày sẽ trở lại để chịu tử hình. Quan toà và dân xem chừng không tin. Thì giữa đám đông có một bàn tay giơ lên: “Tôi xin bảo đảm lời cam kết của tử tội, nếu 3 ngày sau hắn không trở lại thì cứ xử tử tôi thay hắn!” Tên tử tội được tự do 3 ngày để giải quyết việc gia đình. Hết hạn, y… trở lại để chịu tử hình. Trước khi bị hành quyết, y nói lớn: “Tôi đã giải quyết xong việc riêng, giờ đây tôi trở lại chịu tội, tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta không nói được rằng chữ trung tín không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau lời phát biểu của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cũng đứng ra tuyên bố: “Tôi đứng ra bảo lãnh vì tôi không muốn người ta nói rằng lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa.” Nghe hai lời tuyên bố trên, cả đám đông thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi thể hiện những gì là cao quí trong lòng người. Bỗng từ giữa đám đông, hai người con trai của người cha đã bị giết tiến ra thưa với quan toà: “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không còn nói được rằng: Lòng khoan dung tha thứ không còn có trên mặt đất này nữa.”
Toàn câu chuyện không liên hệ gì lắm tới bài Tin Mừng, nhưng 3 lời tuyên bố của 3 người trong câu chuyện lại gắn chặt với điều chúng ta rút ra từ Tin Mừng. Người con cả (là chúng ta đây) đã có ít ra được chữ “trung tín” (vì ở mãi với cha), nay nếu thêm lòng “quảng đại” nữa, thì sẽ dễ dàng vui mừng đón nhận sự “khoan dung tha thứ” của Người Cha đối với đứa em.
Xin Chúa giúp chúng ta giàu lòng quảng đại để vững tin vào một Thiên Chúa không những toàn năng, mà nhân từ nữa. Kinh Tin Kính mà chúng ta sắp tuyên xưng –một Thiên Chúa là CHA toàn năng, tuy không nói nhân từ, nhưng chữ CHA đã bao gồm lòng nhân từ trong đó mà suốt cả chiều dài kinh Tin Kính chúng ta tiếp tục tuyên xưng lòng nhân của Chúa đối với con người hèn yếu chúng ta. Amen.
Để hiểu rõ dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được đọc trong Chúa nhật IV Mùa Chay, cần liên kết MC 4-C216
Để hiểu rõ dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được đọc trong Chúa nhật IV Mùa Chay, cần liên kết với hai dụ ngôn khác cùng được ghi lại ở chương 15 của Tin Mừng theo thánh Luca, tức là dụ ngôn con chiên lạc và dụ ngôn đồng bạc của bà goá bị mất. Cả ba dụ ngôn này đều có một điểm chung. Đó là mất và tìm thấy. Con chiên, đồng bạc và người con thứ, cả ba đều bị mất và đã được tìm thấy. Ba hình ảnh này diễn tả ba lãnh vực: đồ vật, sinh vật và con người. Đối với Thiên Chúa, mọi sự đều quý giá và được Ngài yêu thương.
Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là một trong những áng văn chương tuyệt vời của Kinh Thánh. Nó diễn tả thân phận nghèo hèn tột cùng của tội nhân. Hơn thế nữa, nó diễn tả gương mặt nhân hậu giàu lòng bao dung thương xót của Thiên Chúa. Khi người con thứ hối hận trở về, đó không chỉ là một con người trở lại, mà còn tình yêu đã đánh mất cũng được hồi phục, mối liên hệ thân tình cha – con được tái lập. Tình thương của Thiên Chúa mênh mông và toả sáng, mỗi khi tội nhân sám hối quay về. Niềm vui vỡ oà, khi con người sám hối ăn năn. Thiên đàng sẽ tràn ngập niềm vui. Thiên Chúa thết tiệc để đón những người trở về.
“Khi nó còn ở đàng xa, người cha đã thấy và chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”. Không còn từ nào hay hơn để diễn tả tâm trạng một người cha đã nhiều năm trông ngóng con trở về, dù đó lại là một đứa bất hiếu bỏ nhà ra đi. Người cha này cũng tôn trọng tự do của con, khi nó đòi chia gia tài để đi làm ăn với nhiều tham vọng và ảo tưởng hão huyền. Giờ đây, khi nó trở về với thân xác tàn tạ, cũng người cha ấy lại đón chào với tình thương còn lớn hơn lúc nó bỏ nhà đi hoang.
Khi nghĩ mình đã đủ lông đủ cánh để bay vào đời, người con thứ muốn ra đi, vì nó nghĩ cha và anh sẽ là những chướng ngại cho hành trình vào đời. Sau những tháng năm xa nhà, bôn ba bon chen giữa chợ đời, thực tế làm anh ta mở mắt. Cuộc đời không phải lúc nào cũng màu hồng. Lương tâm đã làm anh tỉnh ngộ. Dẫu biết rằng cuộc trở về sẽ gặp rất nhiều trở ngại và lời đàm tiếu của hàng xóm láng giềng, anh ta vẫn quyết định lên đường. Thiên Chúa là người Cha. Ngài luôn muốn chia sẻ cho chúng ta hạnh phúc và niềm vui của Ngài. Chúng ta nhiều khi lại không nghĩ thế, vì cho rằng Ngài kiểm soát và ràng buộc chúng ta. Nhiều người đã muốn bứt mình ra khỏi vòng tay yêu thương của Chúa, nghĩ rằng không có Chúa sẽ thoải mái và sung sướng hơn. Hơn một lần cuộc đời nghiệt ngã đã làm chúng ta vỡ mộng.
Câu chuyện dụ ngôn tạo nên những tình huống đối lập, để cho thấy những bất hạnh của con người khi họ muốn xa lìa Thiên Chúa. Người con thứ vội vàng thu góp tất cả tài sản được chia rồi trảy đi phương xa, sống phóng đãng phung phí tài sản của mình. Anh không sai khi nghĩ rằng anh có quyền sử dụng tài sản được chia. Nhưng nghĩ rằng anh thực sự hạnh phúc khi tự do, thì đó lại là một ảo tưởng hão huyền. Và, kết quả hoàn toàn khác: anh sa cơ lỡ vận đến nỗi muốn xin đậu muồng là thứ người ta dùng để nuôi heo cũng chẳng ai cho.
“Biết bao người làm công cho cha ta…”. Người con hoang đàng hồi tưởng về tuổi thơ của mình. Nhà cha đâu có thiếu thốn. Đó là anh tự bỏ nhà ra đi với những ảo tưởng tham vọng. Khi trở về trong tâm tình Mùa Chay, chúng ta nhớ lại những điều tốt đẹp Chúa đã làm cho mình, đồng thời nhận ra những vô ơn, bất kính đối với Chúa, qua lời nói, tư tưởng và việc làm của chúng ta: tại sao Chúa tốt với tôi như thế, mà tôi lại không vâng lời Ngài?
Trở về là một quyết tâm. Trở về cũng đòi can đảm mạnh mẽ, để dứt mình ra khỏi mọi ràng buộc và mặc cảm đang tìm cách níu kéo chúng ta. Quyết định trở về là chiến thắng bản thân, để thoát ra khỏi bóng tối, vươn mình ra ánh sáng, với xác tín Chúa đang chờ đợi và Ngài sẵn sàng giang rộng vòng tay để ôm lấy chúng ta.
Người Do thái, sau 40 năm hành trình sa mạc đã đến đất hứa. Họ đã trở về nơi mà Chúa hứa cho cha ông họ. Về đất hứa là chấm dứt cảnh tha hương để từ nay định cư bền vững. Mọi cuộc trở về đều có một đích điểm, đó là quê hương, là về với gia đình.
Thánh Phaolô năn nỉ chúng ta: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa!”. Mỗi người trong chúng ta hãy tự vấn lương tâm: tôi là người con cả hay người con thứ trong câu chuyện cuộc đời? Người cha trong câu chuyện dụ ngôn một lúc mất cả hai người con: đứa thì bỏ nhà đi hoang, đứa thì sống với cha mà lòng nó xa lắc xa lơ, đầy ghen tỵ, bon chen tính toán. Là người con nào, chúng ta cũng phải trở về để đón nhận ơn tha thứ của Chúa, cùng với niềm vui và an bình. Khi trở về, chúng ta như đã bị lạc mất và nay được Chúa tìm thấy chúng ta.
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều … ! Loáng thoáng tựa vần thơ MC 4-C217
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều … ! Loáng thoáng tựa vần thơ, là một câu hỏi cũng đúng, “Xuân Diệu” thật tài tình, khi ông đặt để những cảm xúc cháy bỏng vào lòng người, quả là tinh vi: nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu … Tình quê hương, tình gia đình xã hội, tình đôi lứa, thật tuyệt vời, ai cũng có tự do trải nghiệm, dẫu rằng cái đẹp, và niềm lâng lâng hạnh phúc nơi tâm tư mỗi người, mỗi hoàn cảnh không giống nhau. Thật khó hiểu hoặc bất công vô lý, thì đúng hơn, tại sao lại nói: mồ côi mẹ liếm lá gặp xương. Trong khi mọi người vẫn hiểu, thiếu tình cha, con cháu sẽ gặp nhiều nguy hiểm: con không cha như nhà không nóc. Nếu quy trách nhiệm con hư hỏng hay bất trị, là do bậc làm cha làm mẹ chưa quan tâm chăm sóc giáo dục, chưa sống gương sáng đức tin cho con cháu, chưa giúp chúng hiểu đâu là tình là lý, có thể không quá đáng.
Để hướng tới một gia đình hạnh phúc, Chúa Giêsu mở ra tầm nhìn mới, bừng lên trong tâm trí người ta sự tê tái, rung rinh, trước dụ ngôn: “người cha nhân hậu”. “Tình là thế”, cái tình, cao hơn cái lý, dụ ngôn không có ý minh định đúng, sai, không phá hỏng nề nếp gia phong của gia đình, xã hội, nhưng làm sáng rõ tấm lòng bao dung nơi cha già. Người con thứ tự tin, xin cha chia gia tài rồi đi xa, cha không ngăn cản khi con thứ đòi quyền được sống tự do, người anh cả, chăm chỉ làm việc, không có dấu hiệu gì đáng trách cả. Tình và lý, theo cách nói các chuyên gia: muốn thành công ở đời này, phải biết cách ứng xử với mọi người và mọi chuyện. Tình và lý hiểu theo quan niệm giầu kiến thức lắm kinh nghiệm: sống trên đời, người khôn ngoan đều phải hiểu rằng, làm người nên biết điểm dừng, biết mềm nắn rắn buông.
Yêu và được yêu, cho và nhận, không tính toán hơn thiệt, tạm hiểu, giây phút đó người ta đủ vui để cảm nhận: tài được sử dụng, tình được hả hê. Ai cũng có quyền tận hưởng hạnh phúc khi sống nơi trần thế này, cha mẹ yêu thương con, nhưng chúng có hiểu, có nhận ra chúng được yêu, hay chúng đang bị mất tự do ? Người xưa nói rằng: nước mắt tuôn chảy từ trái tim chứ không phải trí não, tình yêu thương đến từ lý trí mới thực sự giá trị. Cha già không sai gia nhân đi tìm con, không có nghĩa là ông không thương con, hay bất cần đứa con hư hỏng. Lời nhắc nhớ: té ngã phải biết đứng dạy, lỗi tội, rất cần được thứ tha, nhưng trước hết phải biết hối lỗi, quay trở về với tình yêu thương. Khổ đau, bất hạnh, tội lỗi đáng chết, vẫn có thuốc chữa trị, nếu người ta thật tình ăn năn sám hối, làm mới lại cuộc đời.
“Chúa nhật mầu”, mầu yêu thương, chúng ta được mời gọi đọc và suy gẫm về dụ ngôn “người cha nhân hậu”, qua đó ta sớm nhận biết vị trí của mình là con trưởng hay con thứ, trong gia đình nhân loại hôm nay. Có phải người cha trong dụ ngôn vẫn đang âm thầm cầu nguyện, dang rộng vòng tay yêu thương: tha thứ, khích lệ, xỏ nhẫn, mang giầy mới, làm thịt bê béo ăn mừng ? Xuân Diệu nói: Đố ai sống được mà không yêu, không nhớ không thương một kẻ nào ? Cha ông chúng ta thì nói: Đố ai đếm được vì sao, đố ai đếm được công lao sinh thành. Tình là thế, cuộc đời có vui buồn, có thành công thất bại: chỉ có tình yêu là vĩnh viễn, chỉ có cha mẹ là yêu con vô điều kiện, cả thế giới này, phải có điều kiện họ mới yêu con. Tình là thế, ai qua sông kẻ ấy phải luỵ đò, áo mặc sao qua khỏi đầu, tính chất đẹp của người cha trong dụ ngôn hôm nay là thật lòng yêu thương, cha già đã thu phục được cả hai con.
Công bằng của xã hội từ xa xưa là thưởng kẻ có công và luận phạt kẻ có tội, công bằng mà chúa nhật mầu hồng muốn nói hôm nay: hãy yêu thương, “hãy mở tiệc ăn mừng, vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Tình là thế: con đi hoang, con chăm chỉ, cũng là con, bậc sinh thành có chậm, có cù lần, các ngài vẫn là cha là mẹ, đạo làm người, đạo làm con Chúa, không thể tồn tại nếu ai đó làm phai mờ đức yêu thương. Giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc đời mỗi người là khác nhau, có thể ta sẽ hét lên tại sao không ai hiểu tôi, thực ra, bạn phải đấm ngực mà nói, tại sao tôi lại mẫu thuẫn với chính mình về tình yêu thương ? Hai người con, họ chỉ hiểu tâm tính họ thật xấu xa, khi đã nghe cha nói lời yêu chân tình: “mọi sự của cha là của con, nhưng phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.
Tình là thế, cuộc đời mỗi người dài ngắn không phải là vấn đề, quan trọng là chúng ta đã học, đã đọc được gì, và đang sống thế nào với số vốn mình có ? Người thành công không phải là không có thất bại, thành công, hạnh phúc, ở chỗ ta biết đứng dạy sau lần vấp ngã. Không gian tham cờ bạc rượu chè, hút sách, cũng chưa ai gọi bạn là thánh. Chẳng ai vội khắt khe gọi bạn là quỷ ma, khi bạn không đến nhà thờ cầu nguyện. Kinh nghiệm trường đời vẫn cho ta một sự thật: người thành công, chẳng ai tính ở điểm xuất phát, nhưng sẽ thắng ở bước ngoặt cuộc đời. Phong độ nhất thời, đẳng cấp là mãi mãi, nhưng tình yêu mới là thực sự trường tồn, vì trong yêu thương, có quảng đại tha thứ, có sám hối ăn năn, có Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót. Amen.
Những người biệt phái và kinh sư vẫn coi khinh những người thu thuế và tội lỗi, khi thấy Chúa Giêsu MC 4-C218
Những người biệt phái và kinh sư vẫn coi khinh những người thu thuế và tội lỗi, khi thấy Chúa Giêsu lui tới với những hạng người đó thì họ xầm xì khó chịu. Trước cái nhìn ngặt nghèo của nhóm biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu nêu lên dụ ngôn Thiên Chúa như “Người cha nhân hậu”. Đó là người cha chấp nhận chia gia tài để người con thứ ra đi, dù biết nó sẽ rơi vào cảnh sa đà, trụy lạc, nhưng tin nó sẽ quay về sau khi vỡ mộng. Thế nên người cha từng ngày mong nó sẽ trở về, và chuẩn bị mọi thứ để đón rước. Thông thường, cha mẹ chỉ chuẩn bị đón rước và ăn mừng đứa con sắp thành tài, sắp thăng quan tiến chức; chứ ai lại mừng cho một thằng nghịch tử; một đứa con bất hiếu bao giờ!
Đúng như người cha dự đoán, sau một thời gian “sống phóng đãng, phung phí hết tài sản”, rơi vào cảnh cùng cực, người con đã hồi tâm chuyển ý, thấy mình quá đắc tội với cha nên đã quay về. Tưởng đâu cha sẽ trách mắng, nghiêm phạt, ai ngờ khi vừa thấy bóng dáng con từ xa, thì ông động lòng thương, chạy ra ôm chầm lấy anh và hôn lấy hôn để. Lòng yêu thương và chờ đợi từng ngày khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng. Ông thật là một người cha phung phí vì đã chia gia tài cho một đứa con còn non lòng trẻ dạ. Và giờ đây ông lại đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng cho con. Hơn nữa còn vui mừng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát để ăn mừng. Một cuộc đón tiếp quá nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Ông đã phung phí tình yêu thương cách quá độ đến mức vô lý. Đúng là “Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hề biết đến.” (Pascal).
Người anh cả đi làm về thấy cảnh tượng như vậy liền nổi giận, không chịu vào nhà, nặng lời trách móc cha già, vì hành xử như vậy là bất công với anh ta. Anh cho cha thấy bao nhiêu công lao của mình đối với cha mà chưa từng được khen thưởng, đang khi “thằng con của cha đó”, nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì lại ăn mừng. Anh không thể vui với cha, nên càng không thể vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm. Anh đối chọi với cha và không muốn vào nhà để gặp em. Anh nghĩ cha đã sai lầm khi thưởng kẻ đáng phạt mà không thưởng người đáng công.
Người cha phải ra tận cổng phân trần và năn nỉ anh ta vào nhà chung vui với ông “vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Nhưng xem ra người anh không chấp nhận cho em trở về, vì sợ chiếm mất những gì thuộc về mình. Người cha đã khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31). Hoá ra cả hai người con khác nhau về cách sống bên ngoài nhưng lại rất giống nhau về tâm thế bên trong, vì cả hai đều ở ngoài trái tim của cha, người con thứ vô tình, mà người con cả cũng vô tâm, không cảm nhận được tình yêu thương của cha mà chỉ muốn sống thỏa mãn theo ý riêng mình. Cả hai đều có lối sống như người làm công chứ không phải làm con. Người anh xem ra còn nặng tội hơn em, vì không chấp nhận cha mà cũng không chấp nhận em. Người anh cả phải chăng đại diện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Người cha có hai đứa con thật éo le. Người con thứ có vẻ như tượng trưng cho lối sống của những kẻ đang chạy theo của cải vật chất, đang tôn thờ ngẫu tượng, suy tôn vị lãnh tụ lên làm Chúa. Đó cũng là những người đang mất dần đức tin, không còn sống hiệp thông trong Giáo hội; là những người trẻ bỏ gia đình đi bụi đời; là những thanh niên đang chạy theo tiền tài danh vọng; là những thiếu niên đang nghiện ngập và lo tìm thỏa mãn đam mê dục vọng.
Phải chăng người anh cả tượng trưng cho những người giữ đạo để cho mình được an thân yên vị, chứ không vì tình yêu mến. Không có tình yêu với Chúa nên cũng chẳng có tình yêu với nhau, nên không gần gũi, không thân thiện, không chia sẻ, không cảm thông, và càng không muốn tha thứ. Người con cả phải chăng là những tín hữu xưng mình là đạo dòng nhưng lại lười biếng, tự ái, kiêu căng, ích kỷ?
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ngài yêu chúng ta bằng một thứ tình yêu mà lý trí không tài nào hiểu được. Hãy để cho tim mình ra mềm mại và tan chảy trước tình yêu cao siêu đó. Hãy vào hưởng niềm vui của một đứa con hiếu thảo với Cha và đầy tình huynh đệ với nhau.
Cầu nguyện
Lạy Cha là Thiên Chúa tình yêu! dù con đã bao lần sa lạc và lầm lỡ, nhưng Cha vẫn luôn nâng đỡ thứ tha, con cảm thấy bước chân Cha vội vã, khi ra đón đứa con sa ngã trở về.
Cha chẳng nề khi thân con ô uế, giang tay ôm ấp với tình thương tràn trề, vẫn như thuở đầu con từng được yêu quí, nhưng vì bất hiếu con đã bỏ ra đi.
Cha chẳng chấp tội nặng con đã phạm, mà lại vui làm tiệc đám linh đình, để cho thấy vẫn một tình cha con, chẳng có gì làm sứt mẻ hao mòn.
Tình thương Cha chẳng thể nào sánh ví, thế mà lại có những lần con ganh tị, khi có người trong sa lạc trở về, con lại tìm mọi cách để khinh chê, không đón nhận vì sợ mình lép vế.
Con quên rằng tình Cha luôn thi thố, mỗi người có một chỗ trong tim Cha, Cha yêu con chỉ vì con là con, cho dù con ngoan hiền hay hư hỏng.
Xem ra con cũng như người anh cả, ở trong nhà nhưng tấm lòng lạc xa, chưa hiểu nổi mối tình Cha sâu thẳm, mà chỉ nhắm tới công bằng và hợp lý, không biết cho đi và bao dung nhân hậu, đúng là bản thân con vẫn còn thô lậu.
Xin cho con một trái tim cháy sáng, để biết sống tình yêu Cha vô hạn, một trái tim tha thứ rất dịu dàng. một cách ứng xử nhẹ nhàng và thanh thoát, để tạo an bình và hạnh phúc hòa chan. Amen.
Không gì vui bằng niềm vui của tâm hồn thống hối được hòa giải với Thiên Chúa khi rời toà MC 4-C219
Không gì vui bằng niềm vui của tâm hồn thống hối được hòa giải với Thiên Chúa khi rời toà giải tội, niềm vui của “tay bắt mặt mừng” được hòa giải với anh em sau tháng năm dài lãnh đạm, lạnh lùng, không một lời thăm hỏi, chia sẻ, hiệp thông, và niềm vui của trái tim không còn u uất hằn học, cay đắng nguyền rủa, lên án chính mình.
Các bài đọc của chúa nhật giữa Mùa Chay hướng chúng ta về niềm vui này, niềm vui “thế gian được hòa giải với Thiên Chúa” nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu Kitô, vì Thiên Chúa “không còn chấp tội nhân loại nữa” (2 Cr 5, 19), niềm vui mọi người được hòa giải với nhau “nhân danh Đức Giêsu”, vì “Đấng chẳng hề biết tội lỗi là gì” đã tự nguyện biến thành “hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5, 21).
Và qua dụ ngôn “người cha nhân hậu” trong Tin Mừng Luca (x. Lc 15, 11-32), Đức Giêsu đã chứng thực đây là niềm vui lớn không gì có thể so sánh, vì là niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui từ trái tim Thiên Chúa là người cha nhân hậu tuôn chảy chan hòa vào quả tim của người con hoang đàng thống hối trở về.
Thực vậy, không chỉ người con thứ chết lặng vì vui, không nói lên lời vì mừng, khi toàn bộ kế họach, dự tính đều thình lình thay đổi, bất ngờ được thay thế: thình lình thay đổi vì anh đã chuẩn bị những lời thú tội, nhưng vừa thấy anh từ đàng xa, cha đã chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để, không cho anh nói dù một lời xin lỗi (x. Lc 15,20); bất ngờ được thay thế, vì anh nghĩ: với tội lỗi tầy trời cùng lắm anh sẽ chỉ được nhận trở vào nhà như người làm công (x. Lc 15,19), nhưng cha anh đã vội vàng bảo đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu” (Lc 15, 22).
Không chỉ người con thứ vui mừng, người cha cũng sung sướng, hạnh phúc vô cùng, khi phấn khởi truyền cho gia nhân mở tiệc linh đình, mời hết bà con làng nước đến chung vui, mừng cậu út trở về, và gặp ai, tim ông cũng rộn ràng muốn nói: Hãy vui với tôi, “vì con tôi đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,24).
Sở dĩ người Kitô hữu không ngừng được Thiên Chúa kêu gọi: “Hãy vui lên trong Chúa!”, vì họ là những người sống trong niềm vui được hòa giải với Thiên Chúa, với anh em và với chính mình; vì tương quan của họ với Thiên Chúa là tương quan Cha Con, tương quan với mọi người là tương quan anh chị em, con cùng một Cha trên trời, trong cùng một gia đình Thiên Chúa. Và những tương quan tràn đầy hạnh phúc ấy được bảo đảm bởi Đức Giêsu, Đấng đã lấy máu mình để hòa giải Thiên Chúa với loài người, và mọi người với nhau. Hơn nữa, niềm vui hòa giải này tròn đầy, trọn vẹn, vì hòa giải vô điều kiện, hòa giải vĩnh viễn, như người cha nhân hậu trong Tin Mừng đã không đặt ra cho con bất cứ điều kiện nào, không ép con phải thoả đáng bất cứ đòi hỏi nào, không cằn nhằn, trách móc con dù một lời ngắn ngủi. Trái lại, tình cha bao la đã bao phủ đời con giông bão, ôm trọn thân con tiều tụy và đổi mới toàn bộ cuộc đời con khi mặc cho y phục lộng lẫy chỉ dành cho con cái, đeo cho con nhẫn qúy chỉ dành cho người thừa tự.
Tóm lại, trong câu chuyện hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa, thì người vui nhất vẫn là Thiên Chúa, vì Ngài biết rõ giá trị của con người, bởi chính Ngài đã dựng nên chúng ta, như cha mẹ yêu thương con cái hơn con cái yêu thương cha mẹ, vì cha mẹ biết rõ giá trị của người con mà mình đã sinh ra hơn bất cứ người nào trên thế gian.
Vì thế, khi chiêm ngắm người cha nhân hậu của Đức Giêsu trong Tin Mừng, chúng ta không còn khả thể hay lý do chê trách người cha vì ông đã quá nhân hậu, thương xót, như người con cả đã bực bội, giận dỗi khi biết cha mở tiệc ăn mừng em cậu trở về sau năm tháng dài sa đọa, hoang đàng, phung phá (x. 1Lc 15,23-30), bởi tình cha hôm ấy đã không thưởng công lối sống trụy lạc, nhưng thưởng công những bước chân trở về của con; ơn cha hôm ấy đã không tuôn đổ trên tội lỗi, nhưng tràn trề xuống cõi lòng thống hối, ăn năn của con; nước mắt cha hôm ấy đã không nức nở khóc những dữ dằn, hung tợn, nhưng trào dâng niềm hạnh phúc con mình được sống, được “thay da đổi thịt”, vì đó là thời điểm của lòng thương xót, là cơ hội của ơn cứu độ, là ngày Thiên Chúa mở lượng từ bi, nhân hậu trên dân Ngài, mà không là ngày thịnh nộ, ngày trừng phạt, ngày giáng họa, báo thù.
Và đó chính là nền tảng vững chắc bảo đảm niềm vui không bao giờ héo úa, khô cạn ở người Kitô hữu, người được giao hòa với Thiên Chúa, với anh em và với chính mình nhờ Danh và trong Máu Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ vô cùng từ bi, nhân hậu, “hay chạnh lòng xót thương”
Ở đời, lòng bao dung, sự tha thứ luôn là một điều không thể thiếu trong tình yêu và cuộc sống. Bao MC 4-C220
Ở đời, lòng bao dung, sự tha thứ luôn là một điều không thể thiếu trong tình yêu và cuộc sống. Bao dung cũng là mở cánh cửa tương lai cho chình mình. Vì ai trong đời mà không có những bước đi sai lầm, những việc làm lầm lỗi.
Thế nên, chúng ta cần phải tập sống lòng bao dung và tha thứ cho nhau. Bao dung khi ai đó vô tình va phải chúng ta ngoài đường phố, thay vì cáu gắt hãy nở nụ cười thật tươi để đáp lại. Bao dung là khi chúng ta bị người khác hiểu nhầm nhưng không tỏ ra tức giận, mà bình tĩnh giảng giải, để cả hai tìm được tiếng nói chung. Bao dung là khi người cha giang rộng vòng tay ôm lấy đứa con hoang đàng sau những chuỗi ngày lang thang, nay đã ân hận trở về.
Nhân vật Chí Phèo trong truyện của Nam Cao là sản phẩm của xã hội thiếu lòng bao dung. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Nhưng trong thâm tâm Chí Phèo luôn muốn hướng thiện. Tiếc rằng, xã hội không cho Chí Phèo con đường trở về làm người tự tế. Cuối cùng Chí Phèo chết trong tội lỗi và chỉ để lại câu nói: “Ai cho tao làm người lương thiện?”.
Lời Chúa qua dụ ngôn Người Cha nhân hậu đã mặc khải cho chúng ta về lòng Thương Xót và bao dung của Thiên Chúa. Một người cha có hai con. Cha yêu thương cả hai. Nhưng cả hai xem ra đều phụ lòng cha. Người con cả chăm chỉ, cần cù nhưng lại tham quyền, tham lợi và ích kỷ. Anh đã từng thốt lên rằng: “Cha coi, đã bao năm nay con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con bê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn mừng”.
Người con thứ thuộc loại “bán trời không văn tự”. Anh đã hoang phí cả gia sản lẫn cuộc đời đến bạc nhược tinh thần và thể xác. Cuộc sống thác loạn đã làm cho anh tan gia bại sản, thân xác tiều tụy, anh chỉ còn biết chăn heo để sống qua ngày.
Cha vẫn im lặng. Sự im lặng này không đồng nghĩa với việc đồng ý cách sống của hai con. Cha im lặng vì tôn trọng tự do của hai con. Cha không kết án ai. Cha không muốn mất đi bất kỳ người con nào. Khi người con thứ ra đi. Cha hằng ngày mong ngóng chờ con trở vể. Chỉ cần nó trở về là cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của nó rồi. Khi người con cả bộc lộ bản tính thật của mình. Coi con bê béo hơn cả tình cảm cha con và tình nghĩa anh em. Cha vẫn từ tốn, dịu ngọt với anh. Cha muốn anh hãy vui với phận mình, và nhất là hãy vui vì luôn được sống trong tình thương của cha.
Hai người con trong phúc âm dường như vẫn lúc ẩn lúc hiện trong con ngừơi chúng ta. Chúa cho chúng ta được tự do thừa hưởng một gia sản rất qúy báu và phong phú đó chính là sự sống làm người. Thế nhưng, có những lúc chúng ta đã hoang phí cuộc đời trong những đam mê lầm lạc, trong những vui thú mau qua. Có những lúc chúng ta thường hay xét nét, ganh tỵ và đòi hỏi Chúa trả công cho chúng ta. Có những lúc chúng ta thất vọng chán chường vì yếu đuối lầm lỗi. Có những lúc chúng ta coi trọng đồng tiền mà bán rẻ lương tậm. Chúa vẫn không chấp nhất tội chúng ta. Chúa không kết án chúng ta. Chúa vẫn im lặng. Chúa mong chúng ta sớm nhận ra tình thương của Chúa để hồi tâm trở về cùng Chúa. Sự chờ đợi của Chúa là vô tận. Tình thương của Chúa là vô biên. Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi và rộng lòng tha thứ hết mọi lỗi lầm của chúng ta.
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy chọn lựa lại cách sống sao phù hợp với đạo lý làm con cái của Chúa. Hãy tập sống trong sự quan phòng, xếp đặt của Chúa. Hãy tin tưởng phó thác cậy trông vào Chúa để chúng ta luôn vui với phận mình. Nhất là hãy biết noi gương Chúa để xót thương kẻ cơ hàn và lấy lòng nhân hậu mà đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu lòng thương xót và từ bi luôn gìn giữ chúng ta trong hồng ân của Chúa và giúp chúng ta luôn sống theo tinh thần của phúc âm: mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Amen
Sau hai cuộc thế chiến, con người đã mệt mỏi và sợ hãi về sự tàn phá của chiến tranh. Trong thế MC 4-C221
Sau hai cuộc thế chiến, con người đã mệt mỏi và sợ hãi về sự tàn phá của chiến tranh. Trong thế kỷ 21 này, chẳng ai nghĩ rằng sẽ có những cuộc chiến tranh đầy bạo lực và thảm sát như thế nữa. Chính người dân Ucraina không tin là có chiến tranh. Khi chiến sự xảy ra vài ngày, không ít người nghĩ rằng, đó chỉ là những điều xảy ra trong giấc mơ thôi, và những điều tồi tệ ấy sẽ chấm dứt khi tỉnh giấc. Nhưng sự thực cuộc chiến đã diễn ra một tháng rồi, và dường như chưa thấy hồi kết.
Cuộc chiến tranh nào cũng tấn công và làm tổn hại đến toàn diện con người, cả về thể lý lẫn tâm hồn. Chiến tranh chỉ tạo ra hận thù, và gia tăng sự trả thù. Chiến tranh diễn ra càng lâu, sự hận thù càng trở nên sâu sắc, người trong cuộc lúc nào cũng chỉ nghĩ tới sự trả thù mà thôi.
Ở giữa sự hỗn loạn này, vẫn một câu hỏi quen thuộc được đặt ra: Thiên Chúa ở đâu, mà để cho những sự dữ ngang nhiên hoành hành thế này? Chúng ta tìm đâu ra một câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này? Trong sách Tin Mừng, chúng ta có thể tìm thấy một câu trả lời ngắn gọn của Đức Giê-su: Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất ra những ý định xấu.[1] Chúng ta có thể tự hỏi: Phải chăng từ trong thâm tâm xấu xa, con người đã phát động những cuộc chiến tranh xâm lược?
Chắc chắn, trước khi cuộc chiến xảy ra ở bên ngoài, nó đã khởi sự và nổ ra ở bên trong thâm tâm con người rồi. Cuộc chiến xảy ra vì sự ích kỷ, tự mãn, tự cao tự đại của con người. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay Năm C,[2] chúng ta thấy nguyên nhân của các cuộc xung đột khởi đi từ sự mất trật tự trong lòng con người. Nơi hình ảnh hai người con, chúng ta thấy hình bóng của chính mình – dường như con người thích gây chiến, hơn là khao khát xây dựng hòa bình.
Ở nơi người con thứ, nhiều lúc chúng ta muốn nổi loạn – một sự tự do muốn làm gì thì làm. Chúng ta đề cao tự do cá nhân và chống lại sự giám sát đến từ bên ngoài. Sự tự do mất trật tự này không dẫn chúng ta đến hạnh phúc đích thực, mà chỉ làm cho cuộc sống của ta trở nên bế tắc và gặp nhiều tai họa hơn. Đôi khi, chúng ta tưởng tượng rằng chỉ cần có một cú hích nào đó, tôi có thể làm được những điều lớn lao: Giá như tôi có thể đi khỏi nhà; Giá như tôi đừng có trách nhiệm với một gia đình…. Giống như người con thứ, chúng ta đang xây dựng cuộc sống của mình trên những điều ảo tưởng „giá như thế này, giá như thế nọ”. Thực vậy, không ít người có được nhiều tài sản một cách nhanh chóng, nhưng thiếu một lối sống lành mạnh, không sớm thì muộn sẽ gặp tai họa.
Như người con cả, đôi lúc chúng ta sống trong sự nhỏ nhen, ghen tỵ và tự mãn.
“Tôi đã phục vụ ông nhiều năm nay, và tôi chưa bao giờ làm trái lệnh” (câu 29c). Nếu người con thứ tự cắt đứt mối quan hệ với gia đình, để chạy theo đam mê của riêng mình, thì giờ đây, người anh cả công khai rằng mình cũng đã đoạn tình cha con. Anh ta đang sống với cha bằng sự trả giá, giống như một người làm thuê, chứ không sống tình con thảo của một người con.
Người con cả thừa nhận rằng anh ta có thể tìm thấy niềm vui bằng cách tổ chức một bữa tiệc với bạn bè của mình, chứ không thể tìm thấy niềm vui khi thấy em trai mình trở về từ cõi chết. „Còn thằng con của ông đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (câu 30). Người anh cả cho rằng, em trai mình đã tiêu tiền của mình cho gái mại dâm, nhưng chính anh không biết em trai mình đã tiêu tiền như thế nào. Anh chỉ muốn ném em trai mình trong bóng tối tồi tệ nhất có thể.
Chúng ta có thể thấy, người anh cả đã cố gắng giành tình yêu của người cha, nhưng chưa bao giờ anh tin là cha yêu mình. Và có lẽ cũng chưa bao giờ, anh yêu cha thực lòng. Anh là người thích tìm lỗi của người khác để chỉ trích và lên án. Nếu có binh quyền trong tay, chắc chắn anh sẵn sàng phát động một cuộc chiến loại trừ em mình rồi!
Chính khi coi thường em trai và từ chối vào nhà, người anh cả đã tự biến mình thành người xa lạ, không chỉ với em trai mà còn với cha của mình nữa. Hành động của người anh cả có ý tuyên bố rằng anh đã đoạn tuyệt với gia đình – một hành động gây sốc không kém gì đối với người em, khi bỏ nhà ra đi.
Ngược lại với thái độ dẫn đến cuộc xung đột và gây ra sự đổ vỡ của hai người con trai, người cha nhân hậu là người kiến tạo hòa bình.
Khi người con thứ trở về, ông đã mở tiệc ăn mừng. Khi nhận thấy người con cả không bao giờ coi người con thứ là em trai của mình, ông đã kiên nhẫn sửa lại sự khước từ, và tuyên bố „đây là em của con.”(câu 32). Khi người con cả từ chối vào nhà để tham gia bữa tiệc, người cha không lên tiếng trách mắng, nhưng thay vào đó cầu xin anh thay đổi ý định (câu 28).
Hình ảnh người cha nhận hậu cho chúng ta một hình mẫu về người chữa lành vết thương. Người cha đã tỏ tình thương cho người con thứ, và trao tình mến thương cho người con cả. Người cha trấn an người anh cả rằng, sự hiện diện của người em không ảnh hưởng đến tình cảm của cha dành cho con, cũng như cả quyền thừa kế của con nữa. Cả hai anh em đều được quý trọng và được yêu thương.
Chúng ta lưu ý rằng, Đức Giê-su kể dụ ngôn này để đáp lại lời phàn nàn của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, những người đã phàn nàn rằng: Tại sao ông lại tiếp đón và dùng bữa với những người tội lỗi? (câu 2). Những người Pha-ri-sêu luôn tự hào và tự mãn về lối sống đạo đức của mình. Giống như người anh cả, họ sẵn sàng gây chiến và loại bỏ người khác ra bên ngoài. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa dành cho người tội nhân, dạy cho chúng ta hiểu rằng: không một ai có quyền vạch ra những ranh giới để loại trừ người khác ra khỏi tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa.
Như vậy, „thay vì đổi lỗi sự dữ cho Thiên Chúa, Đức Giê-su nói chúng ta phải nhìn vào bên trong: chính tội lỗi tạo ra sự chết; chính sự ích kỷ của chúng ta đã làm rạn nứt các mối quan hệ; chính những lựa chọn sai lầm và bạo lực của chúng ta đã gây ra sự dữ…”[3]
Phải chăng chiến tranh hay hòa bình đều xuất phát từ trong con tim của mỗi người?
…………….. [1] Cái gì làm cho con người ra ô uế? (Mc 7,21-22). [2] Ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong đó có ”Dụ ngôn người cha nhân hậu” (Lc 15,1-3, 11-32). [3] Trích từ Kinh Truyền Tin 20/03 của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô: Ở đâu có tình huynh đệ, sự dữ không còn quyền lực (https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2022-03/kinh-truyen-tin-o-dau-co-tinh-huynh-de-su-du-khong-con-quyen-luc.html ).
Những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người. Còn những MC 4-C222
Những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người. Còn những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này tiếp đón phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giêsu mới kể cho họ nghe dụ ngôn về người cha nhân hậu để nói cho họ biết về lòng thương xót của Thiên Chúa. Thầy Giêsu mời gọi mỗi người nhận ra tình trạng tội lỗi của mình và hãy biết trở về với Thiên Chúa để đón nhận tình thương vô bờ bến của Người. Dù là người con thứ hay người con cả, mỗi người đều được mời gọi mở lòng ra trước tình thương vô điều kiện của người cha nhân hậu là Thiên Chúa (x. Lc 15, 1-3. 11-32).
Thầy Giêsu kể rằng: “Một người kia có hai người con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Trước lời đề nghị của con, ông cảm thấy như thế nào? Hẳn là ông đã buồn phiền lắm, nhưng ông vẫn chiều ý con. Ông chia của cải cho hai con. Sau khi được lãnh phần gia tài, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Hết tiền hết bạc, anh lâm cảnh túng thiếu, trong vùng ấy lại xảy ra một nạn đói khủng khiếp, nên anh phải đi ở đợ cho người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Đời là thế. Từ chỗ là một công tử nhà giàu, tiền bạc rủng rỉnh, anh bị đẩy xuống làm thằng đầy tớ, đi chăn heo cho người ta. Áo quần đã đem bán, anh chỉ còn khoác trên mình tấm vải rách nát. Có người quen nào nhìn thấy anh không? Chắc là không có. May mà ở đây không ai quen biết anh, gặp người quen thì xấu hổ đến chết mất. Từ mâm cơm đầy rượu thịt, anh bị đẩy xuống cái máng heo ăn. Anh muốn lấy đồ ăn của heo mà nhét cho đầy bụng mà cũng chẳng ai cho.Những tháng ngày ăn chơi thỏa thích, anh không hề nhớ đến người cha già, không nhớ đến mái nhà của mình. Chỉ đến khi anh nhìn lại tình trạng bi đát của mình, anh mới nhớ đến cha mình, tự so sánh mình với đám làm công cho cha mình. Cơn đói hành hạ anh, gợi nhắc anh về mâm cơm của cha mình. “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại phải chết đói! Thôi ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
Trở về nhà trong tình trạng tồi tàn, nhếch nhác ấy, có lẽ anh đã phải cúi gằm mặt xuống mà bước, không dám ngoảnh mặt nhìn ai. Nếu có ai nhìn thấy anh thì chắc có lẽ họ cũng chẳng nhận ra anh nữa. Kể từ ngày anh khăn gói ra đi, người cha già vẫn ngóng trông anh. Hôm nay cũng như những ngày dài đã qua, ông vẫn ngóng trông con mỏi mòn. Vừa thấy anh ở đằng xa, ông đã nhận ra ngay và chạy ra đón. Dù con có ở trong tình trạng nào thì người cha vẫn nhận ra, vì ông hằng cưu mang nó trong lòng. Thấy con, ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm chầm anh ta và hôn lấy hôn để. Anh liền thú tội với cha, và người không để anh nói hết câu mà vội sai gia nhân: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng.
Sự trở về của một người từ cõi chết quả là đáng mừng, hơn nữa đó lại là người con được cha hết dạ thương yêu. Người cha không giấu nổi niềm hạnh phúc. Ông cũng muốn cho tất cả mọi người chia sẻ niềm vui ấy. Thế nhưng, người con cả đã không vui, không bằng lòng khi cha mình đón tiếp thằng em cách linh đình như vậy. Cậu không chịu vào nhà. Cha cậu phải ra năn nỉ. Cậu trách cha nhiều điều mà cậu nghĩ là cha đã đối xử bất công, nhưng cha cậu đã ôn tồn bảo cậu: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15, 31-32).
Ở bên cha, lắng nghe lời cha và nhận ra mình là con, đó cũng là niềm hạnh phúc lớn lao.
Khi thấy những người thu thuế lui tới với Đức Giêsu, các kinh sư và những người Pharisêu xầm xì MC 4-C223
Khi thấy những người thu thuế lui tới với Đức Giêsu, các kinh sư và những người Pharisêu xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15, 2). Thấy vậy, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Đó là câu chuyện về một người cha đầy lòng nhân hậu, yêu thương con cách nhưng không. Người cha ấy luôn dành những điều tốt đẹp nhất cho con của mình, nhất là sau khi con sa ngã, người cha ấy đã phục hồi phẩm giá làm con cho con của mình. Đeo nhẫn vào tay, xỏ dép, mặc áo đẹp nhất và mở tiệc ăn mừng là lời công bố công khai cho mọi người biết về việc phục hồi ấy. Người cha trong câu chuyện đó chính là Thiên Chúa của chúng ta.
Trước hết, chúng ta có thể thấy, tất cả những người tội lỗi đều là con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng Mêsia, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Thật dễ hiểu khi chúng ta thấy hình ảnh Đức Giêsu vui vẻ ăn uống, đón tiếp người tội lỗi. Trong các cuộc rao giảng Tin Mừng, nhiều lần Đức Giêsu nói chuyện, vào nhà người tội lỗi, ăn uống và ở lại nhà của họ. Chẳng hạn như câu chuyện của ông Gia kêu, của Matthêu, hay của người phụ nữ bên bờ giếng Giacop với Đức Giêsu. Người đã từng khẳng định: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2, 17). Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chúng ta- con cái Thiên Chúa và là những người tội lỗi.
Chúng ta có thể thấy rõ nét vui mừng khôn xiết của người cha trong câu chuyện trên. Ông hoàn toàn tôn trọng con của mình. Khi nó đi sai đường, ông không từ luôn hay bỏ mặc. Ông luôn trông ngóng, đợi chờ nó trở về. Ông sẵn sàng mở tiệc ăn mừng, phục hồi phẩm giá làm con cho con của ông. Bởi đối với ông: “Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15, 32). Khi đọc câu chuyện này, chắc hẳn trong chúng ta ai cũng hiểu rằng, người cha mà Đức Giêsu nói đến trong câu chuyện của Ngài chính là Thiên Chúa Cha. Tuy nhiên, chúng ta đang đứng ở vị trí vai trò nào? Là người con Cả hay người con Thứ?
Nếu là người con Thứ, chúng ta hãy biết hồi tâm trở về, tin tưởng vào tình thương và sự tha thứ của cha mình, nhìn nhận mọi lỗi lầm của mình và thưa lên rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đang được làm con cha nữa…” (Lc 15, 21). Như người cha trong câu chuyện, Thiên Chúa của chúng ta chẳng cần nghe chúng ta xưng thú hết đã tha thứ mọi lỗi lầm cho chúng ta. Người không chỉ tha mà còn phục hồi cho chúng ta phẩm giá được làm con cái của Ngài. Bởi để cứu chúng ta, đến như Con Một Người cũng chẳng tiếc. Điều quan trọng là chúng ta dám đứng lên và trở về cùng cha.
Nếu là người con Cả, chúng ta hãy tự xét lại thái độ sống của mình. Phải chăng chúng ta cũng chỉ tự xem mình là người làm công cho Cha mà thôi. Vì tự xem mình là người làm công nên chúng ta không dám xin, không dám nói với Cha về những nhu cầu hay mong ước của chúng ta. Và chúng ta chẳng thể đón nhận tình thương Cha dành cho một người anh em tội lỗi của chúng ta trở về. Câu chuyện của người con Cả và cha của anh đang để ngỏ. Chúng ta không biết kết quả là người anh Cả có chịu vào nhà cùng cha hay không? Vậy, chúng ta được mời gọi kể tiếp câu chuyện trên bằng chính cuộc đời của mình khi mỗi ngày nhìn lại để thay đổi, nhìn lại để sám hối.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng có kinh nghiệm của người con Cả và người con Thứ. Cuộc sống làm người là một hồng ân lớn lao. Nó càng lớn lao hơn khi chúng ta biết khám phá và trân quý tình thương yêu vô bờ bến Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Cả người con Cả và người con Thứ đều được cha yêu thương. Mỗi người trong kinh nghiệm của mình, chúng ta đang từng bước khám phá ra dung mạo của Cha cách khác nhau. Từ đó mỗi người sẽ có thái độ và cách sống khác nhau. Trong tất cả các chọn lựa, chúng ta hãy luôn biết chọn cho mình thái độ hồi tâm trở về mỗi ngày.
Bằng dụ ngôn mô tả chuyện cảnh gia đình và tình cha con Chúa Giêsu dùng để diễn tả tình yêu MC 4-C224
Bằng dụ ngôn mô tả chuyện cảnh gia đình và tình cha con Chúa Giêsu dùng để diễn tả tình yêu quảng đại, hào phóng bao la của Thiên Chúa là Cha đối với nhân loại nói chung và từng người chúng ta là con nói riêng.
Người con thứ ra đi
Là người con thứ được ưu đãi nuông chiều trong một gia đình khá giả. Vừa lớn lên, chân trời xa thẳm như chỉ có bình minh, một tương lai trải dài trước mắt mời mọc và lôi cuốn cậu thoát ly. Vì ở nhà cha mẹ, dù có tình thương và của cải đầy đủ mấy đi nữa thì vẫn còn anh trưởng chứ đâu đến lượt cậu. Một con chim khuyên ở trong chiếc lồng son thiếp vàng, dù dư gạo trứng cũng không sướng bằng một bầu trời thênh thang rộng lớn. Cậu quyết định xin chia gia tài. Chiều lòng cậu, cha cậu đồng ý và cậu ra đi.
Người con trưởng ở nhà
Người con trưởng tuy ở hằng ở cùng cha, nhưng rất khác cha. Anh đánh mất chính mình, khi tưởng là con trưởng mà lại tự nhận mình là kẻ làm tôi “con đã làm tôi cha” (Lc 15,29), đánh mất em, em mình mà anh gọi là “thằng con con của cha kia” (Lc 15,30). Anh tự khinh dể mình, loại trừ người em ruột. Lời người cha nói: “Con hằng ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con” (Lc 15,31) anh đâu có cảm nhận được. Và giờ đây anh tố cáo cha đã không bao giờ cho anh một con dê con để mừng lễ với bạn bè. Tội nghiệp người cha! Một đứa con bỏ nhà, đứa kia thì lại đã không bao giờ gần gũi cha thực sự! Ông đã mất cả hai thằng con.
Tình cha chan hòa trên các con
Người cha, từ ngày con thứ bỏ nhà ra đi, ông thương con, ngày ngày ra ngóng con trở về. Thật là cảm động: “Khi nó còn ở đàng xa, cha nó trông thấy nó, ông động lòng thương” (Lc 15, 20). Ông là người thấy con trước khi nó còn ở đàng xa. Ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Lòng thương xót của người cha tràn đầy, vô điều kiện và được biểu lộ ra trước khi đứa con xưng thú lỗi lầm: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha” (Lc 15,19). Những lời trên tan biến trong sự tha thứ. Thằng con hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó. Với trái tim của một người cha, ông không coi mình bị xúc phạm, không giận con hay bắt thằng con đã làm bao điều khiến ông tủi hờn phải trả giá. Ông không có nghe và xét đến lời xưng thú của con trai mình. Không, không, con trai của cha, lời cha ngắt lời con, người cha kêu lên, tiếng kêu xóa sạch lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: “phải ăn tiệc và vui mừng “(Lc 15, 32). “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15, 22-24). Ông chỉ quan tâm một điều là tìm được con đã mất nay trở về bình an mạnh khỏe, phải mở tiệc ăn mừng.
Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con khiến chúng ta liên tưởng tới Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế. Thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằn : “Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất! … Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước. Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Người trước các tội nhân, Người ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời…Ôi khoảnh khắc tuyệt với ! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc !” (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
Người con trưởng hằng ở nhà với cha, mọi sự của cha anh là của anh như lời người cha nói và đương nhiên là anh ruột của người em bỏ nhà ra đi. Thế mà lại con mình là kẻ “làm tôi”. Anh hạ thấp phẩm giá mình xuống thành kẻ hầu hạ ăn lương. Người con thứ đã nghĩ rằng anh ta đáng phạt vì các tội của mình. Người anh cả chờ đợi một phần thưởng cho các phục vụ của anh ta. Cái khổ đau của người cha giống nỗi khổ đau của Thiên Chúa, khi chúng ta rời xa, hay bởi vì chúng ta ở xa hoặc vì chúng ta ở gần nhưng lại không gần. Người anh cả cũng cần phải trở về.
Cái lý luận của người cha là lý luận của Thiên Chúa giầu lòng thương xót. Người cha phục hồi phẩm giá làm con khi sai đầy tớ: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu” (x. Lc 15, 22-23) và phục hồi luôn phẩm giá làm anh trưởng bằng cách mở tiệc mừng vì “em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (x. Lc 15,32). Vì nếu không có em thứ trở về thì cũng chẳng có anh trưởng. Niềm vui lớn nhất đối với người cha trong dụ ngôn là trông thấy các con ông bình an mạnh khỏe và nhận nhau là anh em.
Vậy, tất cả chúng ta tội lỗi cũng như những người tin rằng mình công chình hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
Tháng 1 năm 2022, trên Vietcatholic.net, có giới thiệu những tác phẩm mới của Cha Nguyễn Tầm MC 4-C225
Tháng 1 năm 2022, trên Vietcatholic.net, có giới thiệu những tác phẩm mới của Cha Nguyễn Tầm Thường (vietcatholic.net/News/Home/Article/273498). Phải nhờ người quen tận bên… Mỹ đặt mua, tôi có được 5 cuốn sách mới của ngài: “Phúc âm trong dụ ngôn” 3 tập, “Hãy đi bình an” và “Ngoài cửa Nhà thờ”.
Trong tập 2, Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được tác giả phân tích và suy niệm sâu sắc qua 11 đoản khúc với 114 trang sách, từ trang 155-269.
Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay kể về dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần và dừng lại để suy niệm về hình ảnh người con cả.
“Dọc theo Phúc âm, hình ảnh người con cả dấp dáng trong cách đi, cách đứng của các Biệt Phái, Kinh Sư, Thông Luật. Người con cả ở trong nhà mà xa cha. Như Biệt Phái ở trong Đền thờ mà xa Thiên Chúa. Họ kết án người khác. Họ xa lánh người có tội. Người con cả ở đây cũng kết án người em. Biệt Phái dựa vào nhân đức của mình, như người con cả cậy vào công việc của nó. Giống người con cả là luôn nghĩ đến mình, anh ta không có niềm vui, những Biệt Phái cũng vậy” (trang 211).
Đây là dụ ngôn “hai” người con hoang đàng chứ không phải là một. Khác nhau là kẻ ở, người đi. Biết đâu kẻ ở, lại là chủ đề độc đáo hơn người đi. Vì thân xác trong nhà mà tâm hồn thì đi xa.
Ở ngoài
Hai đứa cùng về, một đứa vào trong nhà, một đứa dừng lại bên ngoài. Trong giây phút quan trọng của tiệc chung vui này, chuyện xảy ra là đứa đã lâu cha không gặp bây giờ gặp. Đứa vẫn hàng ngày gặp, bây giờ không.
Dụ ngôn hơn hai nghìn năm trước mà vẫn quá gần như ngày hôm nay. Lời dụ ngôn này hôm nay vẫn đang xảy ra. Trong kinh nghiệm thực tế chứng tỏ: Có anh trong đoàn thể này thì không có tôi… ngày giỗ của bố mẹ, mà có đứa con này thì đứa kia không đến. Người ta tránh nhau trong nhiều sinh hoạt tôn giáo của một cộng đoàn. Tự bản chất Giáo hội là hiệp thông. Chuyện kẻ ở trong, người đứng ngoài là chuyện giữa chiên với chiên, giữa chiên với chủ chăn.
Hỏi xem chuyện gì
“Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.”
Có thật sự người con cả không biết chuyện gì không? Nếu không biết thì vào xem, cần đi nhanh hơn, cần bước vào nhà. Có ai đi xa, về gần đến nhà mình, thấy nhân viên y tế đang ở cổng, rồi đứng xa xa chờ hỏi xem có chuyện gì không? Họ phải vội vã chạy vào ngay xem chuyện gì xảy ra. Thái độ của người con cả ở đây có vấn đề. Lý do anh ta không vào vì người em về. Anh ta đề phòng không vào ngay. Nếu vào, thấy em làm sao chạy ra? Nếu vào thấy cha vui mừng, làm sao anh ta hân hoan? Điều này dễ hiểu, vì dựa vào thực tế, hôm nay vẫn thế. Cùng trong Giáo hội nhưng chị đi nhà thờ này, tôi đi nhà thờ kia. Anh ở đoàn thể này tôi sang đoàn thể khác. Anh trong ca đoàn này tôi ngừng tham gia. Bao lần người ta dò la cách này, cách khác để tránh mặt nhau. Giả vờ không thấy. Thật sự họ biết ông bà ấy vào cửa bắc, họ đi cửa nam.
Người con cả đợi bao lâu thì gặp người đầy tớ? Dụ ngôn không nói rõ. Điều này quan trọng, vì thời gian đứng đợi càng dài thì những biến chuyển xáo trộn tâm hồn càng tăng.
Nổi giận “Em cậu đã về”. Lời báo tin ngắn ngủi mà sao nặng quá sức vác. Người anh cả nổi giận vì tin này. Có nghĩa là từ lúc người con thứ ra đi, thì người anh ở lại sống khắc khoải. Anh ta nơm nớp lo âu ngày em về. Mong có ngày nghe tin em nó chết. Sợ, hồi hộp tự nghĩ, biết đâu có ngày nó về. Làm sao người con cả bình an sống nếu nghĩ như thế. Xét thế thì đời người con cả khổ quá. Sống không niềm vui. Em anh ta khổ ở đằng xa. Anh ta khổ trong nhà. Em lạnh vì không áo che thân. Anh ta lạnh vì hồn mang áo giáp quá dầy nhặm.
“Cha cậu đã làm thịt con bê béo”; “Vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ”.
Người con cả nổi giận vì 3 lý do đó. 3 lý do này làm cho người cha vui bao nhiêu thì lại là tai ương cho người con cả bấy nhiêu.
Cha cậu năn nỉ
Về điểm này, nhiều cha mẹ hôm nay có kinh nghiệm. Nhiều bậc phụ huynh khổ sở vì con. Tại sao phải năn nỉ khi người con sai. Đấy là nỗi đau của bậc làm cha mẹ trong xã hội hôm nay.
Lỗi phạm lớn của người con cả trong lời nói ở đây là: “thằng con của cha đó”. Vậy anh ta là con ai? Anh ta không nói ‘em của con’. Anh ta từ chối tình huynh đệ. Trong một lời nói, người con cả xúc phạm cả hai người là với cha và với người em. Anh ta nói về một quá khứ u uẩn “Đã bao nhiều năm trời con hầu hạ cha….”. Anh ta kể với cha công lao làm việc của anh như người Pharisiêu kề về việc lành mình làm trong đền thờ… Người Pharisiêu “ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập” (Lc 18,12). Tại sao việc làm như thế mà lại không có công đức?
Người cha trả lời
“Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”. Người con cả thiếu trưởng thành. Nhất là qua câu trả lời, người cha cho biết tất cả của cải của cha là của anh. Tất cả là của anh sao cứ ấm ức, ganh tỵ. Điều đó nói lên anh ta không có liên hệ với cha và không biết cha mình. Gần mà rất xa.
“Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Người cha chữa lành lại liên hệ của người con cả nhất định luôn cách xa trong tình nghĩa gia đình.
Người đọc không biết là người con cả sẽ vào nhà vì nghe lời cha hay đứng ngoài. Anh ta im lặng. Câu chuyện buông xuống thành một con đường dài rất thẳng, không có câu trả lời. con đường ấy thẳng nhưng trải những tiếng gọi cong co. Người đọc dụ ngôn không biết những gì sẽ xảy ra sau đó. Thánh Luca kết thúc dụ ngôn bằng sự im lặng của người con cả. Sự im lặng ấy mở ra một dụ ngôn mới. Dụ ngôn mới ấy mang tên gọi là: “Vào hay không vào?”. Khi dùng im lặng để gởi đến một suy nghĩ, thì lời mong đợi cũng cần đến sự im lặng để trả lời. Nếu bạn là người con cả, trong hoàn cảnh này, bạn vào hay không vào? Chỉ cần mình bạn biết. (x. đoản khúc 4).
Người con cả là hình ảnh người Biệt Phái
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Người con cả là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh. Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có? Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Tôi chẳng thích chút nào về người con cả với ý thức trách nhiệm cao, chăm chỉ làm việc, trung thành với gia đình nhưng lại chẳng học được lòng nhân hậu của cha. Lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế sao?
Hoá ra, cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu tha thứ cho em.
Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người Biệt phái, Luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “không như thằng con của cha”. Tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
“Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Người cha, hình ảnh Thiên Chúa
Khi chia gia tài cho con, lòng cha đau đớn vô cùng. Vì tôn trọng tự do của con chứ không vì cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải quá, muộn phiền quá vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con lối xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái. Cha mẹ mắc cỡ không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha.
Người cha đã tha thứ cho con thứ trước khi con tự thú. Cha vui “vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.
Người cha cũng nói với người con cả bằng cung giọng thật trìu mến:“Con à, lúc nào con cũng ở với cha.Tất cả những gì của cha đều là của con…Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc. Cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt rồi nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức nên lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Sám hối là trở về với tình Chúa, với tình anh em. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui và sự sống.
Người con cả chỉ có thể vào nhà khi trái tim được thanh tẩy bằng nhân đức. Để vào được căn nhà, người con cả cần sám hối. Anh ta cần thanh tẩy tâm hồn để bình an trước đã. Anh ta phải buông cho rơi đi những tháng ngày tức tối. Anh ta phải giã từ bóng đêm im lặng tính toán. Anh ta phải rộng lượng có thể phải chia bớt đất đai cho người em lập nghiệp. Sám hối và thanh tẩy không phải cứ nghĩ tới là thành hoa trái.
Lạy Chúa, con thấy bây giờ là nếu trái tim con không thanh tẩy thì cuộc sống này không vui. Xin Chúa ban ơn thanh tẩy để con được sống bình an với anh em. “Như nai rừng mong tìm về suối nước trong, hồn con cũng xin mong được gần Ngài, Lạy Chúa” (Tv 42,2). Và con biết, Chúa chờ con. Amen.
“Chúng ta phải ăn tiệc, phải vui mừng, vì em con đây đã chết nay lại sống; đã mất mà nay lại tìm thấy”(Lc 15,32).
Hôm nay, là Chúa Nhật Hồng, nên chủ Tế mặc áo lễ Hồng. Màu Hồng là màu của sự vui mừng MC 4-C226
Hôm nay, là Chúa Nhật Hồng, nên chủ Tế mặc áo lễ Hồng. Màu Hồng là màu của sự vui mừng. Tại sao chúng ta lại vui mừng? Chúng ta vui mừng vì chúng ta đã chết vì tội lỗi, nhưng nhờ Đức Ki-tô, chúng ta lại được sống. Chúng ta vui mừng vì những anh chị em của chúng ta đã ăn năn thống hồi mà trở về hoà giải với Chúa, coi như đã mất nay lại tìm thấy.
Quả thật, chúng ta như người con hoang đàng, ăn năn thống hối trở về với Chúa và cũng như người anh cả, người hằng ở với Chúa nhưng chỉ với thân xác; chỉ với tâm tình của một người làm công, chứ không phải như một người con- ăn năn trở về bằng cách không ghen tị, không ghen ghét, nhưng đón nhận những người ăn năn thống hối trở về giao hoà với Chúa.
Dù là người con nào đi chăng nữa, chúng ta hãy vui mừng, vì “Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được giao hoà với Người. Người không còn chấp tội họ nữa”(x.2Cor 5,19). Để chúng ta lãnh nhận được lòng nhân hậu của Chúa, chúng ta phải hoà giải với Chúa; chúng ta phải hoán cải, thống hối và trở về với Chúa. Điều này được Đức Giê-su diễn tả cách tuyệt vời qua dụ ngôn “Người cha nhân hậu”.
“Bị ảo ảnh tự do mê hoặc, người con thứ bỏ nhà cha ra đi. Sau khi tiêu tán hết tài sản, nó rơi vào tình trạng khốn quẫn. Nó hết sức nhục nhã, vì phải đi chăn heo và tệ hơn nữa, ước muốn được ăn cám heo ăn mà không có. Nó liền nghĩ lại, hối hận và quyết định thú nhận tội lỗi với Cha. Nó lên đường trở về. Người Cha bao dung và vui mừng đón con. Đó là những nét tiêu biểu của tiến trình hoán cải.
“Áo đẹp, nhẫn sang và đại tiệc là những biểu hiện của một đời sống mới, trong sạch, xứng đáng và tràn ngập niềm vui. Đó là cuộc sống của người trở về giao hoà với Thiên Chúa và Hội Thánh là gia đình của mình.
“Chỉ trái tim của Đức Ki-tô, Đấng thấu suốt tình yêu sâu thẳm của Chúa Cha mới mặc khải cho chúng ta đại dương từ ái của Thiên Chúa một cách đơn sơ và tươi đẹp như thế”(x.GLCG, số 1439).
Con người chúng ta cũng vậy. Chúng ta cũng bịảo ảnh tự do mê hoặc, chúng ta bỏ nhà; chúng ta bỏ Chúa ra đi. Sau khi đã tiêu tán hết tài sản; sau khi bị cùng cực; bị rơi vào tình trạng khốn khổ; bị nhục nhã, chúng ta mới hối hận. Xưa kia ở nhà với Chúa, chúng ta được ăn sung mặc sướng; giờ không có gì bỏ vào miệng; xưa làm tí việc còn lẩm bẩm kêu ca, nay phải đi làm mướn; phải chăn heo; phải làm lụm vất vả. Thôi thì, quay trở về nhà Cha sướng hơn; dù không xứng đáng là con, nhưng ít ra cũng là một người làm công cũng còn sướng chán.
Người ta bảo “Sướng quá rửng mỡ”; sung sướng không muốn, muốn tự do, muốn phây phây. Cứ ra đời thì biết, “không làm thì treo mỏ” thôi. Con người của chúng ta là thế. Chúa sẽ cho chúng ta được toại nguyện, cứđi đi rồi sẽ biết; “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” mà. Chúa cũng để cho chúng ta tự do; để chúng ta khỏi càm ràm, rồi tự nguyện, tự giác trở về. Chúa sẵn sàng dang rộng đôi tay cho chúng ta bước ra và cũng dang rộng cánh tay đón chúng ta trở về.
Trở về giao hoà với Thiên Chúa, chúng ta được mặc áo đẹp; được đeo nhẫn sang và dựđại tiệc. Áo đẹp đó là Áo Hồng; áo của hồng ân tha thứ; Nhẫn sang đó là huy hiệu của một người con cái Chúa và Đại tiệc đó là Tiệc Cưới Con Chiên. Chúng ta sẽ sống trong đại dương của lòng thương xót Chúa; chúng ta sống trong niềm vui.
Thật vậy, “Đức Giê-su muốn rằng trong kinh nguyện, đời sống và hoạt động, Hội Thánh phải trọn vẹn là dấu chỉ và khí cụơn tha thứ và giao hoà mà Người đã mua được bằng giá máu của Người. Tuy nhiên, Người uỷ thác quyền giải tội cho thừa tác vụ tông đồ. Người tông đồ được uỷ thác “Thừa tác vụ giao hoà”, được sai đi “nhân danh Đức Ki-tô” và qua người tông đồ, “chính Thiên Chúa khuyên bảo và nài nỉ: “Hãy giao hoà với Thiên Chúa”(x. GLCG, số 1442).
Mùa Chay là thời điểm thích hợp nhất cho việc hoán cải, trở về và giao hoà với Thiên Chúa. Vậy, chúng ta hãy hoán cải; hãy ăn năn thống hối và hãy giao hoà với Thiên Chúa. Nếu chúng ta là người con hoang đàng, chúng ta hãy từ bỏ những ham mê trần thế; của cải, danh vọng; bỏ đi những tham vọng, kiêu căng mà trở về với Chúa. Nếu chúng ta là người con cả, chúng ta hãy từ bỏ những đố kị và ganh ghét; bỏ đi tính cách của một người làm công và hãy sống với tư cách của một người con trong gia đình.
Có như thế, chúng ta sẽ luôn được mặc áo đẹp; luôn được đeo nhẫn sang và luôn được tràn đầy vui mừng, bình an khi sống trong sạch, đơn sơ và tươi đẹp trong đại dương của lòng thương xót Chúa. Khi chúng ta sống Chúa Nhật Hồng, thì cuộc sống của chúng ta cũng sẽ vui và cuộc đời của chúng ta sẽ Hồng luôn đấy thưa bạn.
Thánh José Escriva nói: “Những sa ngã của anh em, những cú ngã của một đứa trẻ, làm cho Thiên MC 4-C227
Thánh José Escriva nói: “Những sa ngã của anh em, những cú ngã của một đứa trẻ, làm cho Thiên Chúa, Hiền Phụ của anh em, thấy rằng Ngài cần phải chăm sóc anh em hơn nữa. Mỗi ngày, khi Ngài đỡ nâng anh em lên khỏi mặt đất, anh em hãy ôm chặt lấy Ngài bằng tất cả sức lực của mình và hãy tựa cái đầu khốn cùng của mình vào lồng ngực của Ngài đang rộng mở đến độ trở nên hoàn toàn ‘điên dại’ vì nhịp đập Thánh Tâm rất đáng mến.”
Tình Chúa là thế. Chúng ta không biết nói gì hơn, vì ngoài tầm hiểu của trí tuệ phàm nhân. Dù tội có đỏ như son cũng hóa trắng như tuyết, hoặc có thẫm như vải điều cũng trở nên trắng như bông. (Is 1:18) Với điều kiện đơn giản: Sám hối chân thành.
Ngài biết chúng ta hứa lắm, quên nhiều. Ngài chẳng chấp lách gì. Tử tội Dimas cả đời bê tha, chỉ một lời cầu xin cũng đủ xóa mọi dấu vết tội lỗi: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Và ngay hôm đó ông được theo Chúa Giêsu vào Thiên Đàng.
Thật vậy, Thánh Thérèse Lisieux nói: “Nếu như vào giờ chết, tội nhân xấu xa nhất trần gian biết sám hối và trút hơi thở cuối cùng trong một hành vi yêu mến, cho dù rất nhiều ơn thánh người ấy đã lạm dụng và rất nhiều tội lỗi người ấy đã sai phạm có cản trở đi nữa, Thiên Chúa vẫn tiếp nhận tội nhân ấy vào lòng thương xót của Ngài.” Đừng bao giờ thất vọng! Mỗi tích tắc là hồng ân của Thiên Chúa. Mỗi hơi thở là hồng ân của Ngài. Nếu không khí chỉ đặc hoặc loãng thêm một chút thôi, nhân loại chết ngay chứ đừng nói chi là thiếu không khí.
Tác giả sách Giảng Viên xác định: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người.” (Gv 3:14) Lòng Thương Xót của Chúa không ngừng dàn trải theo thời gian, từ thuở hồng hoang tới kỳ tận thế. Nếu Lòng Thương Xót ngưng một chút thì chúng ta hóa thành hư vô ngay.
Chính Đức Chúa nói với ông Giôsuê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai Cập.” (Gs 5:9) Kinh Thánh cho biết: “Con cái Israel đóng trại ở Ghingan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giêrikhô. Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn manna nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Israel không còn có manna nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Canaan.” (Gs 5:10-12)
Dân chúng không còn phải dùng thứ manna nhạt nhẽo nữa, mà họ được dùng những sản phẩm của miền đất trù mật sản sinh. Có được hạnh phúc đó là hưởng nhờ lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Ngày nay, chúng ta cũng ổn định hơn, mặc dù khó khăn vẫn còn và nỗi đau đại dịch chưa mờ nhạt. Vì thế, tín nhân cần phải noi gương Thánh Vịnh gia tuyên xưng: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.” (Tv 34:2-3) Đồng thời phải rao truyền và mời gọi người khác cùng tôn vinh Ngài: “Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng.” (Tv 34:4-5)
Đó chính là trách nhiệm của chúng ta – loài thụ tạo của Thiên Chúa. Đó cũng là điều chúng ta phải xác tín và làm chứng: “Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.” (Tv 34:6-7) Không ai lại không từng cảm nghiệm được hồng ân thương xót của Thiên Chúa, thậm chí là hằng ngày: Còn thức dậy mỗi sáng là nhờ hồng ân thương xót rồi.
Với thời gian, không gì có thể bền vững. Cái gì mới rồi sẽ cũ. Con người cũng vậy. Tuy nhiên, tình trạng “cũ” của Kitô hữu không phải là thể lý, mà là tinh thần. Chúng ta “cũ” vì sa ngã, vì lầm lạc, vì tội lỗi. Không gì có thể “đánh bóng” được linh hồn của chúng ta, chỉ có Bửu Huyết của Đấng Cứu Thế mới có thể “đánh bóng” được linh hồn chúng ta mà thôi.
Thánh Phaolô nói: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải.” (2 Cr 5:17-18) Thật là diễm phúc cho chúng ta, dù chỉ là những tội nhân xấu xa vô cùng. Niềm hạnh phúc đó còn tăng thêm gấp bội, như Thánh Phaolô xác nhận: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải.” (2 Cr 5:19)
Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận, đồng thời cũng vừa truyền lệnh vừa nài xin: “Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5:20-21) Ngài đau khổ để chúng ta hạnh phúc, ngài chịu chết để chúng ta được sống và sống dồi dào.
Trình thuật Lc 15:11-32 là dụ ngôn nổi bật nhất trong ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Một hôm, những người thu thuế và những người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” (Lc 15:2) Đúng là những kẻ ảo tưởng, lòng đầy dao găm, đầy tính đố kỵ và ghen tỵ. Biết bọn họ đang tức tối, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu.”
Một người cha có hai con trai, người con thứ xin chia phần tài sản, rồi đi ăn chơi xả láng, vung tay quá trán mà không cần biết đến ngày mai. Khi đã phung phá hết sạch thì gặp lúc trong vùng ấy xảy ra nạn đói, thế là anh ta bắt đầu túng thiếu, dở khóc dở cười, đành phải đi ở đợ và chăn heo cho một người dân trong vùng. Người khôn, của khó, anh ta đói meo, ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng mà cũng chẳng ai cho. Tủi nhục vô cùng, nhưng lực bất tòng tâm.
Anh ta chợt hồi tâm, nghĩ tới những người làm công cho cha được cơm dư gạo thừa, mà mình phải chịu đói khát. Cố gắng vượt qua mặc cảm, anh ta quyết định quay về xin lỗi cha, can đảm thú tội và nói không còn đáng gọi là con, chỉ xin cha coi mình như một người làm công, khổ mấy cũng cam chịu.
Thế nhưng hoàn toàn trái ngược với điều anh ta suy đoán, người cha lại bảo các đầy tớ đem áo đẹp cho anh ta mặc, xỏ nhẫn vào tay, xỏ dép vào chân. Người cha còn cho người đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để mở tiệc ăn mừng, đặc biệt là ông còn vui mừng tuyên bố: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Tiếng đàn hát tưng bừng như lễ hội vì tiệc mừng bắt đầu khai mạc.
Người con cả trở về từ ngoài đồng, anh ta nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa nên hỏi xem có chuyện gì, người ta nói người em đã về và được người cha mở tiệc ăn mừng. Máu nóng bốc tới chỏm đầu, người anh nhất định không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ thì anh ta so đo, nói rằng bao nhiêu năm qua chưa bao giờ có được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè, còn thằng em đi hoang với bọn điếm, nay trở về lại được ăn mừng.
Rất tâm lý và hiểu ý con trai nên người cha giải thích: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã CHẾT mà nay lại SỐNG, đã MẤT mà nay lại TÌM THẤY.” Chắc hẳn khi nghe cha nói vậy, anh ta vô cùng xấu hổ, và không thể không xin lỗi cha.
Đối với người con thứ, rõ ràng anh ta sai lầm và tội lỗi, khỏi phải bàn. Mỗi khi đề cập dụ ngôn này, ai cũng chỉ nhắm “mũi dùi” vào người con thứ, và anh ta bị “chết tên” với cái nickname là “đứa con hoang đàng.” Còn về người anh cả, người ta không nghĩ là anh ta cũng sai lầm và có tội. Làm anh là làm lớn, mà làm lớn thì có SAI cũng thành ĐÚNG. Có thể chúng ta cũng thường mạo nhận là “anh hai” để xỉa xói, lấn át hoặc chỉ trích người khác, không nhận mình sai lầm, chỉ muốn mọi người biết mình là đúng, nói gì cũng trúng.
Thật ra tội của người con cả có thể còn to hơn tội của người con thứ. Tại sao? Vì anh ta xúc phạm tới cả người cha và người em. Anh ta tự nhận là mình ngoan ngoãn hầu hạ cha, nhưng lại phản đối hành động nhân từ của người cha khi đón nhận em của anh ta. Rõ ràng anh ta vừa xúc phạm tới Tình Phụ Tử vừa xúc phạm tới Tình Huynh Đệ. Tình máu mủ ruột rà mà người con trưởng không cần biết đến. Đúng là tội tày trời mà!
Chưa hết, người con trưởng còn ích kỷ vì sợ thằng em hoang đàng kia “đụng chạm” đến quyền lợi của mình – tức là phần tài sản của anh ta. Thế nên anh ta cũng cảm thấy bất an. Chúng ta cũng ngấm ngầm “sợ” kiểu người con trưởng, mặc dù chẳng nói ra.
Người con thứ không thương cha, người con trưởng không thương cả cha và em. Thằng nào cũng ích kỷ, là đứa con “trời đánh” mà thôi. Mặc dù vậy, người cha vẫn hết lòng thương xót cả hai người con, trước sau như một. Chính người cha đã hòa giải và nối nhịp cầu yêu thương giữa đôi bờ ích kỷ của hai người con. Chúng ta cũng phải nối nhịp tình với nhau, bằng cách làm theo lời dạy của Chúa Giêsu: “Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc 6:36)
Đó là bài học thương xót. Lòng Chúa Thương Xót có từ đời đời, nhưng Giờ Thương Xót có hạn. Và giờ ấy đã điểm, ai đón nhận và thực thi thì mới được Thiên Chúa xót thương. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, đặc biệt là mọi quyền hành đều được Chúa Cha trao hết cho Ngài rồi.
Như chúng ta đã biết, việc lên dây đàn là điều cần làm thường xuyên đối với các loại đàn dây như piano, mangdoline, guitar, đàn tranh, đàn kìm,… Phải làm ngay khi dây đàn chùng, không đúng cao độ chuẩn theo nguyên lý âm nhạc. Tương tự, tình cảm con người cũng sai nhịp lạc cung theo thời gian, và cũng cần thiết phải chấn chỉnh kịp thời. Đó là khoảnh khắc quan trọng: Ăn năn, đứng dậy, bước đi, trở về với Chúa và với nhau.
Phàm nhân là loài “nhân vô thập toàn.” Ai cũng bất chính và cần phải sám hối. Người lầm lỗi có can đảm trở về, nhưng người nhà có can đảm chấp nhận hay không lại là vấn đề khác. Người ta xin lỗi, mình có tha hay không, đó mới là vấn đề. Nhà văn Nam Cao có truyện “Chí Phèo” đề cập vấn đề này. Chí Phèo muốn làm người lương thiện mà người ta không cho anh ta cơ hội làm lại cuộc đời. Đó là “làn ranh mong manh” mà chúng ta phải xem lại. Tục ngữ có câu: “Có thương thì xương chẳng còn.” Thực sự rất “nhức nhối” và cần phải suy tư nhiều, nhất là trong Mùa Chay này.
Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con, xin tha thứ cho con, vì con có cả tội của người con trưởng và người con thứ. Xin giúp con biết hoán cải để trở nên khí cụ bình an và yêu thương của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.