Thói thường suy nghĩ của người đời thì “Gieo gió thì gặt bão“ khi nhìn thấy tai họa xảy đến cho ai đó. Một cách suy nghĩ tiêu cực, bất chấp nguyên nhân. Nhiều người thường suy đóan: người bị nạn do trời phạt. Hoặc cho rằng kiếp trước ăn ở không ra gì nên kiếp này phải đền trả. Câu chuyện mà Tin mừng hôm nay Thánh Luca đề cập đến cũng không ngòai “thành kiến“ ấy.
Tật xấu ấy của con người không phải chỉ hôm nay mới có mà đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước. Chúa Giêsu kịch liệt phản đối quan niệm đó: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải như thế đâu?“. Đức Giêsu phủ nhận những suy đóan rằng những người bị nạn là do Chúa phạt. Nhân chuyện những người Ga-li-lê bị PhiLaTô giết trong lúc dâng của lễ ở đền thờ, các nhà chú giải cho rằng những người này là những người yêu nước, chống lại chính quyền La Mã, bị phát hiện nên theo lệnh PhiLaTô, họ bị giết. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo người Do Thái:”Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy“. Đức Giêsu cũng nói đến tai họa tháp Si-lô-ê đổ làm mười tám người bị chết. Chỉ là một tai nạn xảy ra trong cuộc sống, những người không may ở đó không ai biết họ đã sống ra sao? Họ có tội lỗi gì hơn những người khác? Đó là cái nhìn của những người chuyên xét đóan, tự cho mình là người công chính. Đức Giêsu bác bỏ cái nhìn nông cạn này và tiếp tục lời cảnh báo: ”Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy“. Đối với Đức Kitô, những biến cố xảy ra trong cuộc đời đều là những cảnh báo cho con người . Nhìn những biến cố xảy ra nơi này nơi khác, với người này người khác, là cơ hội để mỗi người tự sám hối, vì ai trong chúng con cũng là người có tội.
Mùa Chay là thời gian Giáo hội dành cho mỗi người chúng con tự nhìn lại mình. Nhìn các biến cố trong cuộc đời mà ý thức thân phận mỏng dòn, yếu đuối của con người, từ đó nhận ra mình còn thiếu sót với Chúa và với anh em trong bổn phận. Người với vai trò làm cha mẹ, người ở vị trí là người con, người khác sống độc thân, ở bậc tu trì. Có người giữ trọng trách lãnh đạo trong Giáo hội, trong cộng đòan, trong xã hội, từng người có chu tòan bổn phận, trách nhiệm Chúa trao? Có “Vâng nghe lời Người“?, có thể hiện Di chúc Chúa để lại “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương“?
Nhìn lại bản thân, trong đời sống, con vẫn ít nhiều có suy nghĩ như những người biệt phái trong dân Do Thái ngày xưa, vẫn còn có thái độ xem thường người khác. Cho rằng mình tốt hơn người, nên được Chúa thương không phạt như những người chẳng may bị tai nạn, bị bách hại… Thái độ đó trong mùa Chay này, xin Chúa cho con biết từ bỏ. Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, Người không lên án, luận phạt ai biết sám hối ăn năn.
Xin cho con luôn biết sám hối trở về, đón nhận ơn tha thứ và bình an, để từ nay, như cây vả sau nhiều năm không kết trái, con biết thay đổi đời sống, cách sống đạo. Sẵn sàng trở về, hầu nảy sinh nhiều ơn ích cho bản thân. Con sẽ được đứng vững trước mặt Chúa, trước khi Người lại đến trong vinh quang. AMEN.
Chúng con vừa nghe một đoạn Tin Mừng do thánh sử Luca thuật lại.
Trong đoạn Tin Mừng này Thánh Luca nói với chúng ta về sự sám hối.
1. Chúng con vẫn nghe nói về sự sám hối, nhưng cha hỏi chúng con sám hối là gì? Ai trả lời cho cha nào?
- Thưa cha sám hối là ăn năn hối lỗi về tội lỗi của mình.
- Tốt! Rất tốt! Sám hối là ăn năn hối hận về tội lỗi của mình.
Nhưng muốn có được lòng sám hối thật sự thì điều kiện đầu tiên không thể thiếu đó là phải thấy được tội lỗi, thấy lỗi lầm của mình. Nói một cách đơn giản hơn là thấy được mình là người tội lỗi. Phải thấy được mình là người có tội thì mới sám hối được.
Có nhiều người khi vào toà cáo giải mà không biết mình có tội hay không. Chính vì thế mà họ nói: Con xét mình mà chẳng thấy con có tội gì.
Một người Dothái nọ muốn sống thánh thiện nên đến tham khảo ý kiến với một vị Rabbi. Vị Rabbi này hỏi:
- Từ trước tới nay anh sống thế nào ?
- Rất tốt, thưa ngài.
- Anh nói "rất tốt" nghĩa là làm sao?
- Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Con không kêu tên Chúa vô cớ. Con không tục hóa ngày Sabát. Con không bất kính với cha mẹ. Con không giết người. Con không bất trung với vợ tôi. Con không trộm cắp. Con không làm chứng dối. Con không thèm muốn của cải và vợ người khác…
Vị Rabbi nói:
- Tôi hiểu. Anh đã không vi phạm giới luật nào cả.
- Đúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp:
- Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không?
- Ngài hỏi vậy nghĩa là làm sao ạ?
- Nghĩa là anh có tôn kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa ngày Sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ không? Anh có tôn trọng và bảo vệ mạng sống của người khác không? Lần gần đây nhất anh nói với vợ rằng anh yêu nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho người nghèo không? Anh có bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có thường giúp đỡ người khác không? v.v… Nếu anh chưa làm được những điều này thì anh hãy sám hối và canh tân lối sống của anh.
Người Dothái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới giờ anh nghĩ rằng anh đâu phạm điều luật nào, nên anh không cần sám hối. Nhưng nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn: không làm những việc tốt mà luật chỉ dạy cũng cần phải sám hối ăn năn.
Hãy nhìn lại mình, nhìn lại cây vả đời mình: có phải là cây vả sinh nhiều hoa nhân đức, trái việc lành không? Hay chỉ là cây vả vô sinh chỉ ăn hại, và làm chật đất? Nếu là cây vả vô tích sự, thì hãy mau mắn sửa đổi và canh tân, nếu không muốn bị chủ vườn chặt bỏ.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khiêm nhường trước mặt Chúa. Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của Thánh Phaolô: "Những ai đang đứng vững hãy coi chừng kẻo té"(1Cor 13,12).
2. Nhưng làm sao để thấy được tội lỗi của mình hay làm sao biết được mình là người có tội?
* Ngày trước người Do thái cho rằng muốn biết ai là người có tội thì cứ căn cứ vào những dấu chỉ bên ngoài thí dụ như bị tai nạn, bị trừng phạt vvv
Tin Mừng hôm nay nói đến hai sự kiện: Một là việc Philatô giết một số người Gallilê - những người Galilê nói ở đây là những người đến Giêrusalem dâng lễ tế, có lẽ họ đã gây ra một vài hỗn loạn trong khuôn viên đền thờ, do đó đội binh Lamã ở trong đồn Antonia đã ra tay can thiệp và tàn sát tại chỗ không nương tay và sự kiện thứ hai là việc tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người trước đó.
Có phải những người đó có tội nên bị giết và bị đè chết như thế không?
Theo người Do thái thì quả là như vậy.
Nhưng thử hỏi Chúa có nghĩ như vậy không?
Theo như tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay thì Chúa đã không nghĩ như vậy mà Chúa lại coi đó như một cơ hội để gúp người ta cảnh tỉnh mà rà lại cuộc sống của mình. Đây chúng con hãy nghe lời của Chúa: "Không phải đâu nhưng nếu các ngươi không sám hối thì các ngươi cũng phải chết như vậy" (Lc 13,5)
Trước mặt Chúa, mọi người chúng ta đều có tội. Chẳng có ai hoàn toàn trong trắng vô tội trước mặt Chúa.
Một mục sư giảng về chiếc thang Giacóp. Cậu con trai ông ấy cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha là mình vừa mơ về câu chuyện đó.
- Sao, con mơ thấy gì?
- Con mơ thấy một chiếc thang bác lên tới tận tầng mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn và mỗi người phải lấy phấn viết hết các tội mình đã phạm lên các bậc của chiếc thang đó thì mới lên được.
- Hay thật! Rồi con thấy gì nữa? . - Con thấy con leo lên, nhứng chưa được bao xa thì con thấy có người leo xuống. - Ai vậy? . - Ba chứ ai. - Ba? - Thế ba leo xuống để làm gì? - Ba lấy thêm phấn!
3. Như vậy vấn đề còn lại là mỗi người phải thấy được tội lỗi của mình và can đảm sửa lại. Chúa rất ghét tội, nhưng luôn yêu thương tội nhân và sẵn lòng đổ tràn ơn tha thứ trên họ.
Có hai hành khách ngồi chung trong một chuyến xe lửa từ Tôrinô bên nước Ý tới thủ đô Paris của nước Pháp.
Vào một ngày mùa đông, bầu trời xanh xám không một tia sáng mặt trời, xe lửa chạy tới biên giới nước Pháp thì tuyết bắt đầu rơi. Bên ngoài thì trời giá lạnh, nhưng trong xe thì hơi ấm của lò sưởi rất dễ chịu. Thêm vào đó là tiếng máy đều đặn như tiếng nhạc ru ngủ cho cuộc hành trình thêm thoải mái. Một trong hai người khách tỏ vẻ băn khoăn lo lắng lạ thường, mỗi lần tới một nhà ga thì người ấy lại giựt mình đứng phắt lên, đến gần cửa nhìn nhà ga đọc lớn tên ga rồi ông trở về chiếc ghế ngồi và thở dài một cách thảm não. Sau nhiều trạm như thế, người bạn bên cạnh lên tiếng hỏi với tất cả sự quan tâm và tế nhị.
- Có điều gì làm ông khó chịu hoặc ông bị đau chăng? Ông ta thở dài một cách thảm não và nói:
- Tôi không đau ốm gì cả, chỉ có điều là tôi đã lấy chuyến xe đang chạy ngược chiều với hướng tôi định đi. Lẽ ra tôi phải xuống xe từ những trạm trước kia rồi để đổi sang chuyến xe khác, nhưng tôi không có can đảm bước xuống giữa làn mưa tuyết trắng, ngồi trong xe với hơi ấm thế này dễ chịu hơn.
Biết mình đang là người tiến trên con đường tội lỗi, thì phải quay về con đường thiện. Nếu không đủ can đảm cởi bỏ những thói quen cũ và những tiện nghi vui sướng tạm bợ của đời sống đang sống thì chắc chắc đích điểm mà mình muốn nhắm tới sẽ càng ngày càng bỏ xa mình. Than vãn thở dài nào có ích lợi gì đâu.
Thống hối cải tà quy chính là phải can đảm, đôi khi phải trả giá rất cao. Qua miệng các ngôn sứ, chúng ta biết Thiên Chúa rất nhân từ và đầy lòng thương xót luôn chờ đợi các tội nhân ăn năn thống hối trở về với Ngài.
Lạy chúa, xin ban cho con cánh cửa tình thương để con biết can đảm trở về với Chúa.
Xin ban cho con lòng khiêm nhượng để con biết nhìn nhận tội lỗi của con.
Xin ban cho sức mạnh để con biết mau mắn chỗi dậy sau khi sa ngã.
Xin hãy thay đổi sự cứng cỏi lòng chai dạ đá, để con chỉ biết ước muốn và thi hành những gì Chúa yêu thích nơi con mà thôi. Amen./
Có câu thơ viết rằng: “Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó Sao ta không tròn ngay tự trong tâm Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng” (Nguyễn Quang Vũ)
Con người là vậy, thường hay nhìn thấy khuyết điểm của người khác, và hay chê trách tha nhân. Có những người còn vui sướng khi thấy người khác gặp khổ đau. Họ không thông cảm, không đỡ nâng mà còn chì chiết những lời làm đau lòng nhau như những câu mà ta vẫn thường nghe: cho đáng đời, chắc nó ăn ở thế nào mới bị Trời phạt . . .! Họ là những người luôn nhìn đời bằng cái nhìn méo mó thiếu yêu thương. Tâm của họ đã không còn tròn nghĩa tình người nên mới nhìn đời, nhìn người một màu đen.
“Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó Sao ta không tròn ngay tự trong tâm”
Hãy học lấy bài học bao dung của đất mẹ. Đất luôn bao dung ôm ấp vạn vật. Đất gìn giữ bảo vệ, nuôi nấng mọi hạt giống chồi non.
“Đất ấp ôm cho mọi hạt nảy mầm Những chồi non tự vươn lên tìm ánh sáng”
Đồng thời, khi chúng ta có cái nhìn bao dung là chúng ta đang bao dung với chính mình. Vì “nhân vô thập toàn”, nên ai cũng từnglà tội nhân.Có biết bao đam mê tật xấu đã làm mất đi hình ảnh đẹp nơi con người chúng ta.Có biết bao lời nói như những mũi tên chúng ta đâm thấu trái tim anhem bạn bè. Có biết bao lời nói, việc làm chúng ta đã gieo vãi những đau khổ vào cho giađình và xã hội. Có rất nhiều lần chúng ta cũng từng nuối tiếc đểdặn với lòng mình rằng: Nếu có thể làm lại, chúng ta sẽ không làm như thế !
Người Việt Nam có câu: « Ai nên khôn mà không dại một lần ». Lầm lỗi, yếu đuối, thiếu sót là lẽ thường tình của thân phận con người. Điều quan yếu không phải chỉ nhìn nhận tội mình rồi than khóc tội mà là canh tân, khắc phục hậu quả việc mình đã gây ra. Nhất là biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Cuộc đời có vấp ngã, có lầm lỗi mới có kinh nghiệm để chiến thắng, để vượt qua những cám dỗ trong cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm,mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Hoa trái làsự thánh thiện. Hoa trái làviệc lành phúc đức. Hoa trái là đời sống công bằng bác ái. Hoa trái là đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch, đang khi còn ởgiữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức, đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhai, với kiếmtìm miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái, đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù?
Hãy nhận ra thân phận yếu đuối của mình mà biết cậy trông vào Chúa. Con người yếu đuối nhưng nhờ sức mạnh của Chúa chúng ta sẽ vượt qua. Chúa Giê-su đã từng chiến thắng cám dỗ nhờ niềm tin vào Thiên Chúa Cha. Ngài luôn cầu nguyện cùng Chúa Cha để thêm sức mạnh. Ngài cũng luôn chọn Chúa Cha làm lương thực cho Ngài hơn là những vật chất mau qua.
Nhiều người đã thất bại trước cám dỗ vì họ thiếu cầu nguyện và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Họ phạm tội và sống trong tội bởi họ chọn danh lợi thú trần gian hơn là Thiên Chúa. Họ đâu nghĩ rằng cuộc đời này sẽ qua đi thiên đàng mới là vĩnh cửu. Có lẽ lời Chúa hôm nay nhắn gửi riêng cho những ai đang ở trong tội lỗi, hãy thực lòng ăn năn sám hối kẻo phải chịu đau khổ đời này và cả đời sau.
Xincho mỗi người chúng ta luônbiết tin vào lòng nhân từ thương xót của Chúa để sámhối và quay trở về với Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết sinh hoa trái của lòng sám hối là những hy sinh, những việc lành chúng ta làm cho tha nhân. Amen
Người Do Thái xưa thường gán ghép hậu quả và nguyên nhân với nhau, và ngày nay người ta vẫn thường nghĩ thế, để kết luận trong phạm vi nhân quả. Về sự dữ, tội của nó nên nó bị như thế, còn ai thoát nạ tự mình coi là công chính. Chúa lại bảo khác: “Nếu không sám hối thì tất cả đều phải chết như vậy” (Lc 13, 5). Vậy nghĩ sao về luật nhân quả?
Gieo gì gặt nấy.
Thông thường, luật nhân quả vẫn là một biện chứng thuyết phục. Vì lẽ tự nhiên, gieo gì gặt nấy. Theo góc độ tự nhiên này, chẳng có ai phán xét cả, gieo lành thì được phước, gieo ác thì gặt lầy hoạ đời sau. Cứ theo lẽ tự nhiên ấy, có khi gặt ngay tại đời này, như người ta vẫn thường kết luận cho kẻ ác bị hoạ giáng nhãn tiền; còn không thấy ở đời này, người ta cũng nghĩ, “gieo gió thì gặt bão” ở kiếp sau va tin tưởng “ông Trời có mắt” hoặc “lưới trời lồng lộng, chạy đâu cho thoát”.
Dù sao, luật nhân quả cũng nhắc cho người ta cần cố gắng gieo điều lành để gặt những điều tốt không ở đời này thì cũng gặt hái được đời sau. Chỉ có điều, nếu áp dụng cách máy móc để kết luận về người khác hay về mình. Tai nạn giáng xuống như hình phạt dành cho người có tội, và người thoát nạn tự xem mình là người công chính, điều phán đoán đó thật sai lầm.
Không gieo mà phải gặt.
Biết bao tai ương ở trong cuộc đời này gây ra đau khổ cho người công chính, không thể theo luật nhân quả được. Điều chỉ có thể lý giải được là tội người này gây tác hoạ liên quan đến nhiều người khác. Vì lợi ích một nhóm người mà nhiều người phải rơi vào cảnh bi đát, mất nhà mất môi trường an lành để sống. Hậu quả của người người dân vô tội, thấp cổ bé miệng phải chịu, bởi cường quyền, ai sẽ trả lại sự công bằng cho họ?
Điều đó, không thể viện dẫn “gieo gì gặt nấy”, cần có một Đấng thẩm phán công minh xét xử, chứ không thể trong đợi luật nhân quả xa vời. Trước mắt cứ thấy: “Thấy ác nhân thịnh đạt hoài. Quả là chúng không nếm mùi tân khổ, chúng có thân hình mạnh mẽ phương phi, không hề vất vả như ai khác, chẳng bị tai ương giống người đời.” (Tv 73, 6). Câu chuyện của ông Gióp là một thử thách với người công chính, luôn bị tai ương và bạn bè cũng quay lưng, người công chính dường như bị bỏ rơi.
Chỉ khi tới cái chết, chân lý mới thấy lộ diện: “Dù sống trong danh vọng, con người cũng không hiểu biết gì, thật nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết.” (Tv 49, 21).
Thiên Chúa nhân lành.
Điều sau cùng của người công chính nhận ra là sự nhân lành của Thiên Chúa: “Làm mưa trên kẻ dữ cũng như người lành” (Mt 5, 45) trong lời dạy “Hãy yêu kẻ thù” (Mt 5, 38 – 48). Người công chính được mời gọi vượt qua những thử thách để sống đời công chính của mình, thêm một bước tiến nữa trong đời sống nhân hậu, cầu nguyện, hy sinh, thực hiện bác ái với kẻ ghét mình và thù địch với mình.
“Hãy nên trọn lành” Lời mời gọi của Chúa đối với người lành và người dữ, vì sau cùng mọi người sẽ gặp Chúa để chịu sự phán xét. Ở cuộc đời này, mỗi người đều được thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa cách này hay cách khác. Tiếng lương tâm, lời mách bảo của Chúa Thánh Thần luôn mời gọi để trở về với anh chị em, với Chúa trong thân tình. Cuộc sống luôn mở ra hạnh phúc và bình yên khi sống với nhau thật thà, tử tế, tha thứ và yêu thương. Một điều ai cũng nhận thấy, đó chính là lòng nhân từ của Chúa thể hiện.
Với mùa chay, tiếng Chúa luôn mời gọi trở về với Chúa, với anh chị em. Một đời sống yêu thương là một đời sống đáng sống và hưởng niềm vui hạnh phúc. Xin cho niềm vui Phục Sinh triển nở trong tâm hồn mỗi người chúng con.
Ai người tinh sạch trong dân? Chúng ta chung số, tội nhân giữa đời. Ăn năn hối cải gọi mời, Tránh xa cám dỗ, chơi bời hại thân. Bao người bị chết vong thân, Tháp cao đổ xuống, bao lần lầm than. Số người tội lỗi tràn lan, Thương đau chết thảm, thế gian tội tình. Không ai tội lỗi sạch tinh, Chỉ là số phận, chúng sinh phạm hèn. Chúa rằng cuộc sống muối men, Sinh hoa kết trái, đáng khen ở đời. Dụ ngôn cây vả một thời, Mong tìm trái vả, choáng nơi đất trồng. Không hoa không qủa không bông. Ba năm không trái, uổng công phí giờ Hãy đi chặt cắt chẳng chờ, Một năm vun tưới, đợi chờ xem sao. Bón phân đào đất xới cào, Mong cho sinh trái, dồi dào bội thu.
Mùa Chay là mùa sám hối và trở về. Trở về với Chúa là Cha nhân từ và đầy lòng thương xót. Truyện kể: Một cha sở thấy trong họ đạo có một người rất chăm đi nhà thờ, nhưng bỗng vắng mặt thời gian lâu. Cha tới thăm, gặp ông đang ngồi bên lò sưởi. Không nói năng chi, cha lẳng lặng gắp ra một cục than hồng để trên tảng đá. Hồi lâu, than nguội và tan dần. Người tín hữu cất tiếng phá vỡ bầu không khí nặng nề. Thưa cha, cha không phải nói lời nào hết. Ngày mai con sẽ đi lễ.
Mùa chay là cơ hội rất tốt để chúng ta tiến gần đến anh chị em và gần bên Chúa. Dụ ngôn cây vả trong vườn nho của bài phúc âm, đây là một hình ảnh rất thiết thực và cụ thể dễ hiểu. Ai gieo hạt cũng mong hạt nẩy mầm và sinh hoa kết trái. Làm bất cứ việc gì, chúng ta cũng mong có kết qủa tốt. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Ngài ban cho chúng ta biết bao hạt giống tốt để chúng ta sinh lời. Chúa ban cho chúng ta những ân huệ khác nhau tùy theo khả năng: Người mười nén bạc, kẻ năm nén và người hai nén. Chúa mong mỏi những nén bạc ân sủng đó được phát triển và nẩy sinh hoa trái.
Đôi khi chúng ta quên đi những ân sủng đã lãnh nhận. Chúng ta nghĩ rằng đó là của riêng chúng ta. Chúng ta sở hữu ân sủng theo ý thích của chúng ta. Cây vả trong vườn nho đã ba năm mà chưa sinh trái là thời gian chờ đợi hơi lâu. Theo các nhà nghiên cứu thực vật, cây vả là loại cây dễ trồng và có thể mọc lên bất cứ nơi nào. Cây vả trong bài Phúc âm là cây vả đặc biệt, được người ta vun trồng và chăm sóc cẩn thận nhưng không sinh hoa quả. Vìi thế, chủ vườn muốn cắt chặt, kẻo để nó choáng chỗ.
Hình ảnh cây vả là hình ảnh của dân Do Thái và cũng là hình ảnh của chúng ta. Chúng ta được mời gọi làm con Chúa, được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và hưởng nhờ các Bí Tích ân sủng. Chúng ta tự hỏi mình đã sinh ích gì cho bản thân, gia đình, xã hội và Giáo hội? Chúa ban ân sủng không phải để chúng ta hoang phí mà là để sinh ích chung. Chúa dậy: Nếu các ngươi không ăn năn hối cải thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt.
Mỗi người hãy tìm ra hướng trở về với Chúa, chúng ta hãy tìm biết mình đang ở đâu. Dầu có đi lạc bao xa, chúng ta vẫn có thể trở về sống đạo và nẩy sinh các hoa quả nhân đức. Chúng ta hãy tìm Chúa nơi chúng ta đã mất Chúa. Chúng ta đi vào sâu thẳm trong tâm hồn của chúng ta, chứ không phải nơi đâu khác. Đừng tìm đổ lỗi cho người khác hoặc tìm mình bên ngoài.
Mùa chay là cơ hội thuận tiện để chúng ta sống đạo và hành đạo thực sự. Như cây vả cần sự vun xới, chăm bón và thuốc thang để sinh hoa trái. Chúng ta hãy dùng thời gian mùa chay thánh này giúp sưởi ấm tâm hồn, qua việc sám hối ăn năn để tâm hồn của chúng ta nở hoa kết trái trên đường nhân đức.
Trên các phương tiện truyền thông và các trang mạng, người ta không ngừng đăng lên các bài viết về những tội phạm nguy hại đến tính mạng con người, thiệt hại đến tài sản… Những người này đang được mời gọi ra đầu thú để hưởng khoan hồng, được giảm án, để có cơ hội trở về với gia đình.
Hôm nay Đức Giêsu cũng mời gọi hết mọi người hãy sám hối, kể cả người mắc tội nhẹ. Ngài nói: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13, 2-3). Sau đó, Ngài cũng dùng dụ ngôn cây vả để truyền cho chúng ta biết rằng: Con người sống phải ra hoa kết trái bằng chính đời sống của mình, phải có sự trở về. Người chủ đến thăm vườn, thấy cây vả không kết trái, ông nói: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt đi, để làm gì cho hại đất?” (Lc 13,7). Lời của ông có vẻ lạnh lung, không gắn bó với những thành quả công sức mình và mọi người thợ đã bỏ ra để vun trồng, chăm sóc. Nhưng khi xét lại theo chuyên ngành thì lời ông nói cũng có lý vì để lại một cây không có trái thì chỉ hại đất, tốn phân, tốn công. Người thợ đã can thiệp, nài nỉ: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13, 8-9). Và ông chủ vườn đã để cây vả lại, điều này chứng tỏ lòng thương xót và kiên nhẫn của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hình ảnh ông chủ vườn. Ông vẫn chờ đợi để cây vả ra trái.
Với phép ẩn dụ, Đức Giêsu là người thợ, cây vả là chúng ta. Đức Giêsu luôn chờ đợi sự trở lại của những tâm hồn khiếm khuyết, tâm hồn đang thất vọng, khô khan và những tâm hồn đang mang ách nặng nề của thế gian. Bởi vậy, Ngài không ngừng cuốc xới, nhổ cỏ và bón phân cho ta qua Lời Chúa, lời giảng dạy và nhất là chính con người của Ngài nơi bí tích Thánh Thể. Cây muốn ra trái, trước hết phải được chăm sóc, vun xới, làm sạch cỏ dại, cây cỏ dại bên cạnh cây vả đang chiếm đất, hay cỏ dại đang leo lên thân cây. Tuy cỏ dại nhỏ bé nhưng là tác hại gây cho sức sống của cây, khiến cây không thể ra hoa kết trái. Có những cây ở trong tình trạng an toàn, lá xanh mơn mởn nhưng vẫn không sinh trái nên phải chặt nó đi. Thế nên, việc sám hối không dừng lại ở sự trở về hay chỉ sửa chữa những tội lỗi của mình, nhưng là tô điểm cho mình bằng những hành động yêu thương, chia sẻ với mọi người xung quanh. Đó là những hành động bắt đầu lại cuộc sống mới, cuộc sống yêu thương. Chúa không đến để nhìn một cái cây được quét trơn bóng bởi những vẻ đẹp thế gian, Ngài đến để tìm hoa quả chính là lối sống tốt đẹp với Thiên Chúa và tha nhân.
Mùa chay, mùa hối thúc chúng ta khiêm nhường thú nhận tội lỗi đã phạm mà ăn năn trở về với Chúa. Trở về để hưởng sự tha thứ. Con tim trở về là con tim đã nhổ bỏ những cỏ dại để được chăm sóc và sinh hoa kết trái.
Lạy Chúa, Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi chúng con trở về. Xin cho chúng con đang trên đường tội lỗi biết dừng lại cảm nghiệm tình yêu Chúa, nghe được tiếng thổn thức của Chúa gọi mà trở về nơi suối nguồn yêu thương của Chúa. Amen.
Đứng trước cái chết của người khác, có người đau buồn, hối tiếc nhưng có kẻ lại hả hê. Hôm nay, Thầy Giêsu nói về cái chết của những người bị tổng trấn Philatô giết và cái chết của những người bị tai nạn lao động. Những người còn sống đã tưởng rằng họ ít tội lỗi hơn kẻ đã chết nhưng Thầy Giêsu cảnh tỉnh họ: “Nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,5).
Mùa chay, Giáo hội không ngừng mời gọi con cái mình sám hối. Sám hối là gì? Đó là cảm thấy đau buồn, chán ghét tội đã phạm và quyết chí chừa cải (x.Từ điển công giáo. NXB Tôn giáo).
Để sám hối, ta phải xin ơn nhận biết mình có tội đồng thời nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho ta, để nhờ ơn Chúa, ta quyết sống đẹp lòng Thiên Chúa hơn. Ta đang được sống trong sự bình an, đó là cơ hội để ta ra sức sống tâm tình ăn năn sám hối, tin tưởng tín thác vào tình thương của Chúa. Cái chết đến bất ngờ, nếu ta không sẵn sàng thì sẽ “chết tươi ăn năn chẳng kịp”. Đứng trước cái chết của người khác, ta hãy học cách sống cho xứng đáng với tình thương của Chúa.
Thiên Chúa cho ta được làm người, được làm con Chúa để ta sống hạnh phúc với Ngài. Thiên Chúa không muốn cho ta sống cằn cỗi, èo uột nhưng muốn cho cây đời ta sinh hoa trái. Cây vả được trồng giữa vườn nho, nó lại chẳng sinh hoa trái gì. Ông chủ mong chờ suốt ba năm nhưng ba năm trời ông ra hái vả mà không có lấy một quả. Ông nói với người làm vườn là chặt nó đi, để làm gì cho hại đất (x.Lc 13,6-7). Trước quyết định của ông chủ, nếu là cây vả chắc chắn ta đã rất sợ hãi. Những lần ông chủ buồn bã, hụt hẫng vì chờ đợi vả sinh trái, ta có cảm thấy gì không? Ta trách cây vả vô dụng ư? Cây vả không làm hại vườn nho, nó có khả năng cho trái thơm ngon vì nó là giống tốt nhưng dù được hưởng đất đai màu mỡ nó vẫn không ra trái. Có nhiều khi ta cũng bỏ qua nhiều cơ hội để sinh hoa trái của tình bác ái. Đó là khi ta từ chối giúp đỡ một người anh em vì ta thấy mình quá bận rộn, ta từ chối đón tiếp người nghèo khó vì ta nghĩ mình cũng nghèo chẳng thể đèo bồng thêm ai; Hay khi ta vô cảm với nỗi đau khổ của người khác… Là con của Chúa, ta phải sống lệnh truyền của Chúa là hãy yêu thương nhau. Chúa Giêsu là người làm vườn đầy kiên nhẫn, Ngài đã xin với Chúa Cha cho ta thêm cơ hội để ta có thể sinh trái. Đừng để vụt mất cơ hội để sinh hoa trái thơm trái tốt, hãy đón nhận sự chăm sóc ân cần của Chúa Giêsu trong từng ngày sống.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã trồng con trên mảnh đất màu mỡ là Giáo hội. Xin giúp con mở lòng đón nhận sự chăm sóc của Chúa và Giáo hội, để con không ngừng làm việc lành phúc đức dâng tiến Chúa và chia sẻ với tha nhân tình thương của Chúa. Lạy Chúa! Chúa đã chết để dạy con sống yêu thương. Xin cho cây đời con có nhiều trái ngon. Amen.
Suốt dòng lịch sử cứu độ, lời kêu gọi sám hối không ngừng vang lên dưới mọi hình thức. Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa dùng miệng các ngôn sứ kêu gọi dân Do thái ăn năn sám hối trở về trung thành với lời Giao ước của Thiên Chúa. Đến thời Tân ước, khi bắt đầu công khai rao giảng Tin mừng, lời đầu tiên mà Đức Giêsu công bố đó là: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng” (MC . 1,15).
Ngày nay, trong Phụng vụ của Hội thánh, chúng ta thấy trước khi lãnh nhận các Bí tích, thì đều có nghi thức sám hối. Vậy để các tín hữu đón mừng đại lễ Phục sinh một cách hữu hiệu hơn, thì hằng năm Giáo hội thiết lập Mùa chay với 40 ngày, và dùng Lời Chúa để nhắc nhở các tín hữu sống tâm tình sám hối trở về, mà bài Tin Mừng hôm nay là một chứng từ cụ thể.
Đức Giêsu nhắc lại cho dân chúng hai biến cố xảy ra: biến cố thứ nhất, những người bị tháp Silôe sập xuống đè chết. Biến cố thứ hai, những người dân vô tội bị Philatô sát hại. Đối với Đức Giêsu, những gì xảy ra chung quanh chúng ta đều là những điểm báo mời gọi con người ăn năn sám hối và sửa mình để sống tốt hơn. “Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy” (Lc 13,5). Lời Chúa kêu gọi sám hối mang tính thời sự, và là một điều kiện cần thiết để lãnh nhận ân sủng.
Đức Giêsu dùng dụ ngôn cây vả trong Tin mừng, để minh họa cho chúng ta thấy rằng: lòng nhân từ và sự kiên nhẫn Thiên Chúa chờ đợi chúng ta trổ sinh hoa trái tốt lành. Hình ảnh cây vả đã ba năm không sinh trái, diễn tả sự lười biếng của con người. Kìa, ba năm nay, Ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy trái”. Và Đức Giêsu đóng vai như người làm vườn đầy lòng kiên nhẫn, với bao nỗi mong chờ trong tương lai, Ngài nói: “Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”.
Thật vậy, Thiên Chúa không ngừng vun xới, chăm bón chúng ta bằng ân sủng và tình thương tràn phủ của Ngài, như trồng cây nho quý. Thiên Chúa kỳ vọng nơi chúng ta sinh nhiều hoa trái là những nhân đức, những việc tốt lành, nhưng trong thực tế, mỗi người chúng ta hồi tâm xét mình lại trong đời sống đức tin, thời gian có qua đi, ân sủng và tình thương Chúa luôn ấp ủ, thế nhưng chúng ta có nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, làm cho những nén bạc Chúa trao sinh hoa kết trái như lòng Chúa mong ước không?.
Cây vả trong dụ ngôn nó rất sum xuê, không làm hại cây khác, nhưng nó làm hại đất, hút đất màu mỡ mà không sinh hoa kết trái. Tương tự như thế, nhiều người trong chúng ta đôi khi cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai bao giờ. Tôi là người thường đọc kinh dự lễ không bỏ sót ngày nào, điều đó tốt lắm!.
Thế nhưng, chúng ta đừng quên rằng: đạo Chúa không phải là việc tuân giữ các điều răn một cách tiêu cực: “Không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai…”, nhưng đạo Chúa là đạo yêu thương quan tâm chia sẻ, coi mọi người đều anh em với nhau con cùng một Cha trên trời.
Có thể chúng ta chưa bao giờ làm thiệt hại ai, nhưng chúng ta có dùng tiền của để cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người mình trần thân trụi áo mặc chưa? Chúng ta có dùng khả năng Chúa ban mà phục vụ vào những công việc chung hay phục vụ tha nhân một cách nhưng không chưa?
Có lẽ, chúng ta hài lòng vì đã được làm con Chúa, tự mãn vì mình đã giữ các giới răn Chúa từ thuở nhỏ, không làm phiền lòng ai… điều đó tốt lắm. Nhưng Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta đi xa hơn nữa, đó là sống đạo không phải là lo tránh tội mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện nữa. Ngược lại, nếu chúng ta lười biếng, làm phí phạm ơn Chúa ban, không làm những việc lành phúc đức… thì đừng quên lời đe dọa cuối cùng: “Nếu không sinh hoa kết quả, ông chủ cứ chặt nó đi”.
Thế thì, tại sao chúng ta phải sám hối? Thưa, vì tất cả chúng ta ảnh hưởng tội nguyên tổ nên đều có tội. Vua Đavít đã cảm nghiệm được điều này nên đã thưa lên cùng Chúa:
“Lạy Chúa, Ngài thấy cho lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, Đã mang tội khi mẹ mới hoài thai”.
Nhưng:
“Xin cho con biết hãm mình đền tội, để hưởng cứu chuộc Chúa thương ban. Vì dẫu cho tội lỗi có ngập tràn, nguồn thánh sủng còn chứa chan gấp mấy”. Thế nhưng mà, qua miệng tiên tri Isaia Chúa nói: “Dù tội các ngươi có đỏ như son, có đỏ thẫm tựa vải điều, nhưng lòng thương xót tha thứ của Ta vẫn tẩy trắng như tuyết” (Is 1,18).
Như vậy, chúng ta có thể nói rằng: lý do thứ nhất con người sám hối vì mình đã có tội. Lý do thứ hai, là do ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa dùng miệng tiên tri Êdêkiel nói lên điều đó: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn ăn sám hối và được sống”.
Anh chị em thân mến,
Mùa chay là mùa ân sủng. Là mùa trở về, Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới cuộc đời, làm những việc lành phúc đức. Biết đâu đây là Mùa chay cuối cùng của đời mình chăng?. Cho nên, mỗi người hãy biết lợi dụng thời gian Mùa chay thánh này, làm mới lại mối tương quan giữa ta với Chúa qua Bí tích Giải tội. Vì từ nơi Bí tích này, chúng ta cảm nhận được sự nhân từ, lòng thương xót kể cả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa mong mỏi chúng ta trở về với Ngài.
Đồng thời, từ nơi Bí tích Giải tội, chúng ta không chỉ được ơn thanh tẩy tội lỗi, mà còn được Chúa ban ơn trợ giúp để trổ sinh hoa trái trong đời sống đức tin. Hãy quyết tâm trở về với Chúa một cách thật lòng và chân thành làm hòa với anh chị em trong mối tương tốt đẹp với nhau. Xin cho mỗi người chúng ta tin tưởng vào lòng nhân từ, thương xót của Thiên Chúa, cố gắng hoàn thiện bản thân là trổ sinh nhiều hoa trái yêu thương cho đời mình và cho những người chung quanh. Amen.
Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay và hai Chúa nhật kế tiếp, nói cho chúng ta về con đường dẫn chúng ta đến hưởng vinh quang của Chúa. Con đường này có thể phân ra làm ba chặng:
Trước hết là sám hối Thứ đến là quay trở về với Chúa. Và sau cùng là lãnh nhận ơn tha thứ.
Hôm nay chúng ta nói với nhau về chặng đường thứ nhất.
Tuần sau chúng ta nói về sự trở về
Và tuần cuối cùng của Mùa Chay chúng ta nói với nhau về ơn tha thứ
Như vậy là chúng ta đã đi hết Mùa Chay để chúng ta được dón nhận niềm vui Phục Sinh.
Bây gờ chúng ta bước vào vấn đề hôm nay. Vấn đề sám hối.
Thế nào là sám hối?
Một cách thật đơn sơ chúng ta có thể trả lời như sau: Sám hối là hối hận về tội lỗi của mình và trở về với Thiên Chúa .
Như vậy muốn có được lòng sám hối thì điều kiện đầu tiên không thể thiếu đó là phải thấy được tội lỗi, lỗi lầm của mình. Nói một cách đơn giản hơn là thấy được mình là người tội lỗi.
a. Làm sao để biết được mình là người có tội?
* Ngày trước người Do thái cho rằng muốn biết ai là người có tội thì cứ căn cứ vào những dấu chỉ bên ngoài thì dụ như bị tai nạn, bị trừng phạt vvv
Tin Mừng hôm nay nói đến hai sự kiện: Một là việc Philatô giết một số người Gallilê – những người Galilê nói ở đây là những người đến Giêrusalem dâng lễ tế, chắc họ đã gây ra một vài hỗn loạn trong khuôn viên đền thờ, do đó đội binh La mã ở trong đồn Antonia đã ra tay can thiệp và tàn sát tại chỗ không nuơng tay và sự kiện thứ hai là việc tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người trước đó.
Phải chăng những người này có tội nên bị giết và bị chết như thế?
Đối với người Do thái thì quả là như vậy.
Nhưng với Chúa thì sao?
Chúa không khẳng định cũng như không phủ định nhưng Chúa muốn coi đó như một cơ hội để cho người ta cảnh tỉnh mà rà lại cuộc sống của mình. Đây ta hãy nghe lời của Chúa: “Không phải đâu nhưng nếu các ngươi không sám hối thì các ngươi cũng phải chết như vậy” (Lc 13,5)
* Đối với chúng ta hôm nay mỗi khi chúng ta thực hành sự sám hối, để lãnh nhận ơn hòa giải, thì chúng ta thường “xét” theo 10 điều răn của Chúa và sáu điều răn của Hội Thánh. Có nhiều người khi căn cứ vào những giới răn đó để xét mình thì thấy mình chẳng có sai phạm nào nghiêm trọng nên họ cảm thấy rất an tâm không cần phải sám hối.
Một ngày kia có hai người phụ nữ tìm đến một vị ẩn sĩ già để xin ông chỉ đạo cho mình.
Một người thấy mình là người có rất nhiều tội nặng nề…Bà tỏ ra rất đau buồn về những lỗi làm của bà.
Còn bà thứ hai thì vẫn thấy mình sống theo luật Chúa, không phạm tội, chẳng thấy mình có điều gì đáng trách nên rất hài lòng về những gì mình đang sống.
Sau khi nghe hai người bảy tỏ tâm hồn của mình, vị ẩn sĩ nói với người phụ nữ thứ nhất:
– Hỡi nữ tỳ của Thiên Chúa, con hãy đi ra ngoài hàng rào kia tìm một tảng đá thật to rồi cố mang về đây cho ta.
Sau đó Ngài quay sang phía người đàn bà thứ hai và bảo:
– Phần con, con không phạm tội gì nặng, nhưng con cũng hãy đi ra ngoài và kiếm cho ta một bao đầy đá sỏi nhỏ …. rồi cũng mang về đây cho ta.
Hai người vâng lời ra đi. Được một lúc sau thì họ trở về. Một bà vác một tảng đá rất to – một bà mang một bao đầy những hòn sỏi nhỏ.
Sau đó vị ẩn sĩ lại bảo người đàn bà tội lỗi:
– Con hãy đem tảng đá này đặt lại vào đúng vị trí của nó lúc nãy …..rồi hãy trở lại đây báo tin lại cho ta.
Ngài cũng bảo người đàn bà thứ hai y như vậy.
Rồi cả hai người lại quay ra. Người đàn bà có tội nặng rất dễ dàng đặt lại tảng đá lại vào đúng vị trí cũ của nó, còn người đàn bà thánh thiện thì không có cách nào làm được việc đó bởi vì bà không thể nhớ hết được những vị trí những viên sỏi nhỏ mà bà đã lượm lên khi nãy. Bà đành quay trở lại với bao sỏi trên vai. Bấy giờ vị ẩn sĩ mới cắt nghia cho họ nghe.
– Con thấy không, con đã đặt đúng tảng đá vào đúng vị trí của nó vì con biết rõ nó nằm ở chỗ nào.
Rồi ngài quay sang phía người phụ nữ thứ hai và nói:
– Phần con, con không thể đặt những viên sỏi này vào vị trí cũ trước đây của chúng vì con không biết đã nhặt chúng ở đâu. Đối với một người tội lỗi thì cũng như thế. Người phạm tội nặng vì dễ nhận ra tội của mình, thấy mình bị người khác khiển trách đồng thời thấy được cả lương tâm của mình lên án, cho nên họ dễ có thái độ khiêm tốn và dễ sửa lại lỗi lầm của mình. Còn những người phạm tội nhẹ thường thì khó thấy được tội lỗi của mình nên nhiều khi họ rất tự đắc, cảm thấy mình chẳng có gì cần phải hối cải sám hối…và từ đó họ dễ dàng đi đến thái độ tự mãn…Bởi vậy tội của họ vẫn còn…còn mãi.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khiêm nhường trước mặt Chúa. Tưởng cũng nên nhắc lại đây lời của Thánh Phaolô: “Những ai đang đứng vững hãy coi chừng kẻo té”(01Cor 10,12)
b. Rổi trong Tin Mừng hôm nay chúng ta còn được nghe về dụ ngôn cây vả không sinh trái. Cây vả này được rất nhiều đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó.
Chúa muốn nói với chúng ta điều gì qua dụ ngôn này? Hầu hết các nhà chú giải Kinh Thánh đều cho rằng Chúa muốn nói với chúng ta về lòng yêu thương của Ngài nhưng đồng thời Người cũng cảnh cáo mọi người rằng sự kiên nhẫn chờ đợi của Chúa là sự kiên nhẫn chờ đợi có giới hạn. Chúa yêu thương con người, đành cho con người thật nhiều ơn huệ như ông chủ vuờn nho dành cho cây vả. Thế nhưng thương yêu của Chúa không phải là tình yêu mù quáng. Như ông chủ có quyền đòi hỏi cây vả phải sinh trái, Thiên Chúa cũng có quyền đòi hỏi con người sống làm sao cho xứng với tình thương của Người như vậy. Chúa đỏi hỏi con người phải có quả. “Anh em hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Thánh Phaolô phụ họa thêm: “Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín,(Gat 5,22)
Xin được kết thúc bằng một câu chuyện. Câu chuyện này được cha Antony de Mello có kể lại trong tập sách có tựa đề “Tiếng hót của loài chim” của ngài. Câu truyện nói về tâm sự của một nhà hiền triết khi nhìn về cuộc sống đã qua của mình. Ông tâm sự như sau: “Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng say của tuổi trẻ, tôi thường nguyện xin Thiên Chúa ban cho được sức mạnh biến đổi thế giới này trở nên tốt hơn. Đến lúc tôi được nửa đời làm người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào. Tôi đổi lại lời cầu nguyện cho được thiết thực hơn:
– Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con được sức mạnh để đổi thay cuộc sống của những người con được dịp tiếp xúc hàng ngày, những người thân trong gia đình, những bạn bè quen thuộc. Nếu được như vậy thì con cũng thỏa mãn bằng lòng rồi.
Nhưng rồi giờ đây, khi tuổi đời sắp chấm dứt, tôi sắp từ giã trần gian để về với Đấng đã ban cho tôi sự sống, tôi ý thức sự ngông cuồng điên rồ của mình, tôi thay đổi lời cầu nguyện lại:
– Lạy Chúa, xin ban ơn cho con thay đổi chính đời sống con.
Nếu ngay từ thời thanh xuân tôi đã cầu nguyện như vậy, thì có lẽ, tôi sẽ không hối tiếc là mình đã sống một cuộc đời vô ích.
Vâng! – Lạy Chúa, xin ban ơn cho con thay đổi chính đời sống con. Nếu ngay từ hôm nay con biết sống như thế thì có lẽ sau này, con sẽ không hối tiếc là mình đã sống một cuộc đời vô ích.
Hai tuần I và II Mùa Chay cho ta hiểu ý nghĩa về thử thách, cám dỗ và sau cám dỗ là vinh quang của Đức Kitô. Với Chúa nhật III này, các bài đọc của Lời Chúa chú trọng vào một trọng tâm là phải ăn năn sám hối và sinh hoa kết quả bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.
Chúng ta đã khởi đầu Mùa Chay bằng nghi thức xức tro trên đầu, một nghi thức thật cụ thể để diễn tả một trong những mục tiêu của Mùa Chay, đó là sám hối và trở về. Trong tâm tình đó, hôm nay vào giữa Mùa Chay, một lần nữa, Mẹ Giáo hội mời gọi chúng ta tin tưởng vào lòng nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa để can đảm đứng dậy, sám hối về tất cả những yếu đuối lỡ lầm của chúng ta trong cuộc sống.
Trong bài Tin mừng hôm nay, khi dùng hai biến cố gây ra chết người làm bối cảnh cho giáo huấn của Ngài – Trước hết Đức Giêsu đã đánh đổ quan niệm cũ sai lầm trong Do thái giáo, coi những người chết vì bệnh tật, tai nạn, bị đàn áp… là những người tội lỗi – Rồi Ngài khẳng định rằng nếu không sám hối và sinh hoa kết quả – mà cứ chai lì ra, thì sẽ chịu hậu quả khốc liệt hơn những người chết trong hai biến cố trên – vì họ sẽ bị chính ÔNG CHỦ LOẠI BỎ VĨNH VIỄN. Ôâng chủ đây là ai ngoài Thiên Chúa và cây vả là ai ngoài Kitô hữu, những người mà Đức Kitô đã tái sinh và vun trồng bằng chính Thịt Máu Ngài.
Mùa Chay là cơ may Chúa ban cho để chúng ta hối cải như thánh Phaolô đã nói với tín hữu Côrintô:”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2Cr 6,2b). Ngay cả cuộc sống của chúng ta cũng chỉ là thời gian gia hạn Chúa ban do lòng thương xót của Ngài. Sau khi cánh cửa thời gian khép lại, chúng ta sẽ không còn cơ hội để hối cải và sinh hoa kết quả nữa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 3,1-15.
Dân Do thái là mối quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa. Tuần vừa qua, qua bài đọc 1, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn chọn ông Abraham để thành lập một dân mới, dân riêng của Ngài. Tuần này, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn nhờ ông Maisen để cứu dân ấy ra khỏi ách nô lệ của Ai cập và đưa họ vào Đất Hứa.
Khi ấy, Ôâng Maisen đang trốn trong sa mạc vì sợ vua Pharaon lùng bắt. Ôâng trông thấy bụi gai đang cháy bừng bừng mà không bị cháy rụi. Ôâng đến gần xem sao. Thiên Chúa hiện ra và gọi rõ tên ông và trao cho ông sứ mạng đưa dân ra khỏi Ai cập. Ôâng muốn hỏi tên Ngài, nhưng Thiên Chúa chỉ trả lời cho ông:”Ta là Đấng Hằng Hữu”.
Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu. Có nhiều lối giải thích kiểu nói này:,
– Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa.
– Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu, khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân Do thái: người ta sẽ hiểu Ngài là Đấng Giải thoát)
– Câu nói đó có thể dịch là “Ta là Đấng Hằng Hữu”.
– Cũng có thể dịch là “Ta là Đấng là”: ngược lại với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trá, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật (Carôlô).
+ Bài đọc 2: 1Cr 10,1-6.10-12.
Tín hữu Côrintô đã được rửa tội và thông hiệp Bí tích Thánh Thể, nên tưởng rằng mình đã được giải thoát khỏi mọi cám dỗ. Phải luôn đề phòng kẻo bị sa ngã. Thánh Phaolô so sánh cuộc xuất hành về trời của tín hữu ngày nay với cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa: mặc dầu được Chúa che chở, nhiều người đã gục ngã trước những thử thách ở sa mạc. Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do thái xưa, nhưng đừng bắt chước họ chiều theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại, hãy tin tưởng phó thác cho Chúa và ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Ngài.
+ Bài Tin mừng: Lc 13,1-9.
Người ta báo cho Đức Giêsu biết nguồn tin sốt dẻo: quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ trong đền thờ. Đức Giêsu không muốn bày tỏ ý kiến về luân lý, chính trị hay xã hội, mà nhân cơ hội này nhắc nhở cho mọi người: đứng trước những biến cố lớn nhỏ của cuộc sống, hãy nhìn ra những tín hiệu nhắc nhở hãy sám hối để được sống.
Trong dụ ngôn cây vả không sinh trái, Đức Giêsu nhấn mạnh đến những tai vạ sẽ đè lên trên dân tộc bất trung (MC 11,13). Vậy là Chúa mời gọi mọi người hãy sinh hoa trái của lòng sám hối. Phải biết rằng cuộc sống của chúng ta chỉ là một thời gian được gia hạn nên phải lợi dụng thời gian này mà sám hối.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. HAI SỰ KIỆN, MỘT Ý NGHĨA.
Hai sự kiện:
Đang lúc Đức Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn sám hối, thì có người thuật lại với Đức Giêsu câu chuyện rùng rợn về vụ quan tổng trấn Philatô giết hại những người Galilê đang khi họ dâng lề trong đền thờ. Có lẽ đây là một cuộc biểu tình của nhóm người quá khích đang cố dấy lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát.
Đưa ra tin sốt dẻo này, chắc người ta tưởng Đức Giêsu sẽ đồng tình truyên bố số phận của những người bị tàn sát và bị tháp đè bẹp ấy là đúng lắm và Ngài cũng rơi vào lối ngụy biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội nặng. Nhưng Đức Giêsu trả lời cho họ rằng người ta tạm thời chưa bị đau khổ là dấu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa.
Một ý nghĩa.
Người Do thái thường cho rằng những thử thách xẩy đến cho một người là như một sự trừng phạt kẻ đó. Nói cách khác, đau khổ là hình phạt của tội. Đối với Đức Giêsu, không có sự liên hệ nào giữa tai họa và tội lỗi. Trong phép lạ chữa cho người mù từ mới sinh, người ta hỏi Đức Giêsu: anh mù ấy do tội của anh hay của cha mẹ anh, thì Đức Giêsu trả lời rằng:”Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xẩy ra là để các việc Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh”.
Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại một sự kiện khác: 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết. Ngài khẳng định rằng đau khổ không phải do Thiên Chúa gửi đến. Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xẩy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của qui luật vạn vật… Thay vì buộc tội Chúa là “nguyên nhân đệ nhất” như các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị”, mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống lại sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Như vậy là Đức Giêsu không muốn trả lời thẳng vào câu hỏi mà họ muốn đặt ra: những người bị giết và bị đè chết là do tội mà ra. Nhân dịp này Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học không phải thuộc lãnh vực luân lý, chính trị hay xã hội mà là thuộc lãnh vực tôn giáo. Đức Giêsu phán:”Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Lời nói của Ngài có tính cách răn đe: nếu các ông không thay đổi cách sống. Ngài không có ý nói đến cái chết thể lý mà chúng ta thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính cách mầu nhiệm do tội lỗi gây ra: một sự hư mất đời đời. Như vậy, qua sự kiện một số người Galilê bị giết Đức Giêsu muốn nhắc nhở cho người Do thái và chúng ta là phải sám hối kẻo phải hư mất đời đời. II. DỤ NGÔN CÂY VẢ. Cây vả tại Palestine. Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn hối cải. Quả vả là thức ăn quen thuộc đối với người Do thái . Ở Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Đức Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hay gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị xét đoán tùy theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Trong dụ ngôn cây vả chúng ta thấy có những ẩn dụ:
– Người trồng cây vả là Tiên Chúa. – Cây vả là dân Do thái. – Người làm vườn là Đức Giêsu.
Cây vả không sinh trái.
Thế giới này phải đi trên con đường tiến hóa, tất cả cuộc tiến hóa nhằm sản sinh ra những cái gì có ích lợi, điều gì có ích sẽ cứ mạnh mẽ phát triển trên đường tiến hóa, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh ra gì cả thì để làm gì cho nó ăn hại đất ?
Cũng thế, cây vả Israel phải sinh hoa kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Israel, trong quá khứ dân đã nhận được nhiều ơn. Chúa trông đợi nơi họ sinh nhiều hoa trái, tức là sự trung thành với lề luật, sự phụng thờ sốt sắng và trong sạch… Kết quả không như Chúa mong muốn. Chúa có quyền bỏ dân Chúa đã kén chọn.
Nhưng Thiên Chúa chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu cho khoan giãn một thời gian, để Đức Giêsu sẽ chăm bón thêm bằng cách ban thêm nhiều ơn nhờ việc giáo huấn và các phép lạ… Nhưng Israel vẫn cố chấp không hoán cải để sinh hoa trái. Vì vậy, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ. Chính việc tàn phá Giêrusalem năm 70 là sự việc chứng thực điều đó.
Cơ may cuối cùng.
Một cây vả thường phải 3 năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa để sinh hoa quả nếu không sẽ bị chặt đi.
Dụ ngôn này muốn diễn tả Thiên Chúa chờ đợi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi ăn năn sám hối của Đức Giêsu, Đấng trung gian giầu lòng thương xót, nhưng nếu họ cứ cố chấp mà khoan giãn không chịu sám ghối, thì họ sẽ bị số phận như cây vả không trái.
Như vậy, đối với chúng ta, nếu chúng ta từ chối hết cơ may này đến cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa.
III. CHÚNG TA PHẢI KHẨN TRƯƠNG SÁM HỐI.
Mọi người phải sám hối.
Lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải sám hối, không trừ ai. Đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm, trộm cắp, nhưng trong dụ ngôn cây vả trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 13,1-9), lại là những người được coi là đạo đức, ngay chính, được mọi người kính trọng: những người biệt phái.
Vậy người tốt cũng phải sám hối sao ? Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin mừng này. Ôâng chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trái vả thì đâu còn là cây vả nữa, nó hoàn toàn trở nên vô ích.
Các Kitô hữu ít khi đặt cho mình câu hỏi sau đây: Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm ? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy “sinh trái” bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhăm đến mọi người (MC Carthy).
Khác biệt giữa thánh thiện và tội lỗi.
Người ta thường nói:”Nhân vô thập toàn”, không ai là con người hoàn hảo đến nỗi không còn điều gì phải sửa đổi. Đức Khổng Tử đã đưa ra một chương trình tổng quát để đào tạo con người, biến con người thành những hiền nhân quân tử và cao nhất là bậc thánh nhân, đó là TU THÂN.
Tu thân có nghĩa là sửa mình. Phải sửa mình cho nên tốt hơn theo phương châm của vua Thành Thang:Nhật nhật tân, hựu nhật tân”: ngày ngày mới, lại ngày mới hơn. Muốn sửa mình, cần phải xét mình để biết rõ con người mình.
Ông Trình Tử đã thực hiện việc xét mình hằng ngày khi ông nói:”Nhất nhật tam tỉnh ngô thân”: mỗi ngày ta phải xét mình ba lần.
Thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho tín hữu Côrintô là phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới. Con người mới đây là con người đã được tu thân, đã qua một quá trình biến đổi cho nên tốt hơn.
Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã nói:”Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.
Truyện: Hối cải hay không.
Chuyện cổ dân gian kể về hai người anh em nọ sống trong một ngôi làng miền Trung Ââu đã bị bắt quả tang ăn trộm cừu của dân làng. Hình phạt cho họ là bị khắc hai chữ “ST” trên trán. “ST” có nghĩa là Sheep Thief ! Ăên trộm cừu ! Dấu khắc này là dấu sẹo trên trán phải mang suốt đời.
Đối với người em hình phạt này là tiêu hủy cuộc đời còn lại của chú. Chú càng phạm thêm nhiều tội ác hơn. Và cuối cùng chú đã bị chết trong tù ! Trái lại, người anh đã ăn năn hối cải và hoàn toàn thay đổi cuộc sống, từ tên tội phạm đã trở nên người hoàn lương, và sau cùng trở nên thánh thiện. Anh giúp đỡ mọi người, trong làng ai cũng thương mến. Năm tháng trôi qua, những người lớn tuổi thuộc thế hệ của anh chết gần hết. Một ngày nọ những người du khách vào làng nhìn thấy chữ “ST” trên trán ông lão bèn thắc mắc. Họ hỏi những người trẻ trong làng, nhưng chẳng ai biết thực sự nó có nghĩa là gì. Ai cũng trả lời rằng:”Điều đó đã xẩy ra bao nhiêu năm về trước rồi ! Nhưng theo họ nghĩ, chữ “ST” trên trán ông lão là một chữ viết tắt của chữ “Saint” = “Thánh”.
Tiêu cực và tích cực.
Lời kêu gọi sám hối của Đức Giêsu hôm nay không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, nhưng là một lời kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như bổn phận. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu như không được giết hại người khác. Giáo lý của Chúa Kitô còn đòi buộc cả những điều tích cực: phải giúp đỡ tha nhân, yêu thương người nghèo khó. Thánh Giacôbê đã nói:”Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17).
Sám hối hay hối cải không chỉ là từ bỏ con đường xấu xa tội lỗi, trái lại sám hối cũng còn có nghĩa là không được như cũ mà phải tốt hơn, tấn tới hơn, nhân đức hơn và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng hơn. Do đó, một người sống cứ lừng khừng, tầm thường cũng đáng bị lên án như kẻ có tội vậy. Trái lại, một kẻ được gọi là sám hối thực sự không những xa lánh tội lỗi mà còn là con người có ích, trưởng thành.
Khi đọc dụ ngôn cây vả không sinh trái, chúng ta phải luôn theo nghĩa tích cực, nghĩa là không phải điều xấu điều ác đã không làm, nhưng là điều tốt, việc thiện đã bỏ qua. Người chủ vườn thất vọng không phải vì cây vả đã cho trái xấu xí hay độc hại, nhưng vì nó đã không sinh sản. Nó đã bị xét xử vì nó không sinh hoa trái. Bởi vậy, người sám hối là người phải đổi mới để mỗi ngày một nên tốt hơn:”Phải tiến bước trên con đường sám hối và của đổi mới, và phải qua cửa hẹp của thập giá, để thông ban hoa trái của ơn cứu độ cho người ta” (GLCG số 853 ; Lumen gentium đoạn 8).
Hãy tìm đến với Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật, trong đó có loài người chúng ta (x. St 2,4-8). Ngài là chủ của vũ trụ. Đã là chủ, Thiên Chúa có toàn quyền kiểm điểm mọi vật từ vô tri vô giác cho đến giống có sự sống như loài người, loài vật hay cây cối. Giống vật nào không vừa ý Ngài, hay đi sai đường hướng Ngài đã chỉ định, thì Ngài sẽ hủy bỏ đi. Phải tìm đến với Ngài để Ngài chỉ bảo cho biết phải sống như thế nào mới đẹp lòng Ngài. Ngài ở gần chúng ta chứ không xa xôi gì, Ngài ở sát cạnh chúng ta, luôn hiện diện bên chúng ta. Tiên sinh Chư Cát Võ Hầu viết:
Thiên tính tuyệt vô âm, Thương thương hà xứ tầm, Phi cao diệc phi Đó chi tại nhân tâm
Thiên Chúa vô hình vô tượng, Ngự trời xanh mà chẳng thể tìm ra. Tuy cao mà vẫn không xa, Tìm Ngài không gặp đó là tại tâm.
Chúa đã trồng chúng ta là cây vả trong lòng Giáo hội, Ngài luôn săn sóc cây vả này, Ngài mong cho nó sinh hoa kết quả. Vì vậy, sám hối là một việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống lầm lỡ đó. Hoặc chúng ta lại ru ngủ mình bằng ý tưởng “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình” !!!
Nhưng cuộc đời chúng ta kéo dài được bao nhiêu ? Người ta thường nói:Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, chết bất cứ lúc nào, ai biết được. Cái chết luôn gần kề, phải chuẩn bị cho kịp. Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không sinh trái trong bài Tin mừng là một lời cảnh cáo cho tất cả Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta:”Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(Mt 3,10 ; Lc 3,9).
Truyện: Cơ may cuối cùng.
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ôâng ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ:”Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu.
Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy. Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn (GM Arthur Tonne).
Nếu có người đặt câu hỏi: Hiện nay trong Giáo hội còn nhiều người tội lỗi mà Chúa không diệït hết đi ? Để giải đáp thắc mắc này, chúng ta cần nhớ đến lời người làm vườn thưa với ông chủ:”Thưa ông, xin để thêm một năm nữa, nếu nó không sinh trái, chúng ta sẽ chặt đi”. Vẫn biết trong Giáo hội có nhiều người tội lỗi, nhưng Chúa nhân lành vô cùng còn đợi chờ và hy vọng, họ sẽ ăn năn hối cải như người coi vườn cố để cây nọ cây kia một thời gian nữa với hy vọng nó sẽ sinh trái để bõ công trồng.
Đối với người thực tình sám hối thì không có gì là quá muộn. Chúa sẽ tạo điều kiện cho họ. Một cây vả sau 3 năm mà không sinh trái thì hầu như chẳng bao giờ sinh trái nữõa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Thiên Chúa bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ sa ngã chỗi dậy. Thiên Chúa chỉ cần con người có thiện chí muốn hối cải tùy theo sức của mình, còn bao nhiêu chúng ta trao trọn cho Chúa để Ngài cải hóa và hoàn thiện con người chúng ta để cho con người chúng ta sẽ trở nên có giá trị gấp trăm ngàn lần.
Để kết thúc, tôi xin mượn lời và câu chuyện cha Mark Link để diễn tả tư tưởng ấy trong những dòng sau đây: Có một bài thơ nói về một chiếc vĩ cầm cũ kỹ. Giống như chúng ta, nó cũng có một cơ may thứ hai. Hơn nữa, nó còn là hình ảnh câu chuyện của bạn, của tôi và của tình yêu Chúa dành cho chúng ta nữa. Hy vọng bài thơ ấy sẽ tác tác động đến tâm hồn các bạn và sẽ thôi thúc các bạn tham dự thánh lễ hôm nay với niềm tri ân và lòng yêu mến nhiều hơn thường lệ.
Truyện: cây vĩ cầm đáng giá.
Cây vĩ cầm bị nứt bể rồi lại được dán lại. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút cho nó làm gì. Nhưng ông ta vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
– Nào, thưa quí vị, ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây ? Một đồng, một đồng, rồi tới hai đồng, chỉ có hai đồng thôi sao ? Ai sẽ trả nó ba đồng đây ? À, một người trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng, không còn ai nữa sao ?
Bỗng nhiên từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau bụi chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại những sợi dây lỏng. Sau đó ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, y như những bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rải nói:
-Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm cũ kỹ này đây ?
Đoạn ông vừa cầm cây đàn lên vừa nói:
– Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên 2000 ? Hai ngàn rồi ! Có ai chịu tăng lên ba ngàn không ? Một người chịu giá 3000, hai người chịu giá 3000, và còn nữa !!!
Đám đông hồ hởi reo vui nhưng có vài người trong họ la lên:
– Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm ấy !
Lập tức có tiếng đáp lại:
– Chính nhờ đôi tay ông nhạc sĩ chạm vào đấy.
Quả thế nhiều người trong chúng ta đừng đi sai đường lạc lối, bị bầm dập vì tội lỗi và bị đám đông vô tâm rẻ rúng, khác nào cây vĩ cầm cũ mèm kia. Chỉ một tô cháo, một ly rượu, một cuộc chơi là đã đưa chúng ta sa chân hết lần này đến lần khác, và cuối cùng chúng ta hầu như bị hư hoại luôn. Nhưng vị Minh Sư đã đến, và lũ dân chúng khờ khạo hoàn toàn không thể hiểu nổi giá trị của linh hồn và sự đổi thay của nó, sau khi linh hồn đã được đôi tay của vị Minh Sư chạm đến (Tác giả vô danh) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật , năm C, tr 75-76).
Trong âm nhạc, dấu lặng không được biết đến nhưng lại thực sự quan trọng. Dấu lặng cần thiết để “lấy hơi” hoặc nghỉ ngơi để có thể diễn tấu tiếp, đôi khi chỉ là “dấu ngắt”, nhất là đối với ca sĩ, họ là người làm sống động các bài hát, ca sĩ xử lý hơi thở và giai điệu càng tốt thì bài hát càng hay. Không chỉ vậy, các dấu lặng có trường độ ngắn đôi khi tạo được nét độc đáo cho giai điệu.
Trong cuộc sống, người ta cũng rất cần thời gian nghỉ ngơi để lấy lại sức. Chúa Giêsu cũng bảo các môn đệ “hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (MC 6:31). Đó là “dấu lặng” cần thiết trong giai điệu cuộc sống – cả đời thường và tâm linh. Loại “dấu lặng” đặc trưng đó tuy “tĩnh” mà vẫn “động”, không hề “lặng” vì tinh thần vẫn hoạt động. Lòng thương xót của Chúa có vẻ tĩnh mà rất động. Kinh Thánh cho biết: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11:23).
Thiên Chúa chỉ muốn tình yêu chứ không cần thứ gì khác (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9; Tv 51:18; Hs 6:6). Ngài rất kiên nhẫn, Ngài cũng muốn chúng ta phải kiên nhẫn – với tha nhân và với chính mình. Kiên nhẫn hoặc nhẫn nại là trạng thái chịu đựng trong những lúc khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là can đảm và kiên trì đối mặt với điều trái ý mà không tỏ vẻ khó chịu, bồn chồn hoặc thất vọng. Kiên nhẫn là một đức tính giúp đạt sự thành công ở đời, đồng thời cũng là nhân đức trong đời sống tâm linh, là dấu-lặng-sống-động thể hiện lối sống nhân đức.
Khi kiên nhẫn, người ta chịu đựng một mình, người ta chủ động chứ không thụ động. Đó là sức mạnh tập trung cao độ của con người. Sự kiên nhẫn rất cần thiết vì là loại “cỏ quý” như bùa hộ mạng luôn đem theo bên mình, nhưng phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được, như Hellen Keller nhận định: “Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này”. Nghĩa là chúng ta phải có mục đích nào đó vượt trên những gì trần tục, khác hẳn với những người bình thường. Khác người chứ không lập dị hoặc dị hợm.
Kinh Thánh cho biết rằng ngày xưa, ông Môsê chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Bỗng nhiên Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng mà không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?” (Xh 3:3). Đức Chúa thấy ông lại xem, tiếng Thiên Chúa phát ra từ giữa bụi cây: “Môsê! Môsê!”. Ông thưa: “Dạ, tôi đây!” (Xh 3:4). Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là ĐẤT THÁNH” (Xh 3:5). Nơi nào có Thiên Chúa thì nơi đó là Linh Địa, là Đất Thánh, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69).
Sau đó, Thiên Chúa lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh 3:6). Ông Môsê phải che mặt đi, vì SỢ NHÌN PHẢI THIÊN CHÚA. Tại sao vậy? Không phải là Thiên Chúa dữ tợn hoặc dị dạng khó coi, mà Thiên Chúa là Đấng Thánh. Mắt phàm nhân không thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa – Đấng là Nguồn Sáng? Biết vậy nên Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút” (Xh 3:7-8). Thiên Chúa biết rõ mọi điều từ trong suy nghĩ của con người, Ngài thấu suốt mọi sự (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 MC b 7:35; 2 MC b 9:5; 2 MC b 12:22; 2 MC b 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), thực sự Ngài chỉ muốn chúng ta thật lòng và kiên trì kêu xin thì sẽ được toại nguyện.
Lúc đó, ông Môsê thân thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” (Xh 3:13). Thiên Chúa xác nhận với ông Môsê: “Ta là ĐẤNG HIỆN HỮU. Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em” (Xh 3:14). Không vòng vo. Trực tiếp. Chính xác. Rõ ràng. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (Xh 3:15).
Khi đọc đoạn Kinh Thánh này và biết rằng Thiên Chúa mà chúng ta đang tin kính và tôn thờ là ĐẤNG HIỆN HỮU, chắc chắn chúng ta thực sự hạnh phúc vì chúng ta đang có đức tin chính thống và sự tôn thờ đúng đắn, không mơ hồ hoặc dị đoan chi cả. Quả thật, XƯA NAY CHƯA MỘT THẦN LINH NÀO DÁM TỰ XƯNG NHƯ VẬY. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta đã xác định rõ ràng và chắc chăn: TA LÀ ĐẤNG HIỆN HỮU (Xh 3:14; Ga 8:28). Và Ngài cũng là ĐẤNG TỰ HỮU và HẰNG SỐNG. Hãy tạ ơn Chúa đã soi sáng cho chúng ta đi đúng Đường Chân Lý của Thiên Chúa Thật. Sự may mắn mầu nhiệm chứ không ngẫu nhiên.
Chắc hẳn như vậy nên Thánh Vịnh gia luôn tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Thế mà con người vẫn quá hèn yếu, luôn xin và muốn được toại nguyện, nhưng ít người còn biết nhớ ơn để mà tạ ơn. Phúc Âm đã đề cập một ví dụ điển hình: Mười người được ơn, nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa, mà người biết ơn đó lại là người ngoại đạo (x. Lc 17:11-18), chắc chắn CHÍN NGƯỜI VÔ ƠN BẠC NGHĨA KIA LÀ NGƯỜI CÓ ĐẠO – dù người đó ở cấp bậc nào, nói chung là những người mệnh danh Kitô hữu, đừng vội mạo nhận mà cho rằng người địa vị cao thì “ngon” hơn người ở địa vị thấp! Chính Chúa Giêsu đã đặt vấn đề: “Thế thì chín người kia đâu?”. Rất rõ ràng. Rất nghiêm túc. Rất thực tế. Rất nhẹ nhàng mà lại rất đau nhức – nhói buốt tận tủy xương!
Nhưng rồi mỗi khi gặp trắc trở, con người mới “giật mình” và lại hối cải: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4). Thiên Chúa luôn thông cảm và “chịu đựng” nên vẫn luôn nhân hậu và xót thương, Ngài “phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện” (Tv 103:6-7), bởi vì “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người CHẬM GIẬN và GIÀU TÌNH THƯƠNG” (Tv 103:8). Nhân loại không thể hiểu thấu kiểu yêu thương kỳ lạ như vậy: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11). Nếu không có lòng thương xót kỳ lạ như vậy của Thiên Chúa thì tất cả chúng ta cùng đường, hết đường sống, thực sự “tận cùng bảng số” (theo kiểu nói ngày nay).
Đối với Saolê, từ một người Pharisêu và “chuyên gia” về việc bách hại đạo, bỗng biến thành Phaolô nhiệt thành rao giảng về một Nhân Vật Quan Trọng (VIP) mà chính ông đã tìm mọi cách để triệt hạ. Nhưng rồi ông không thể im lặng mà phải nói ra: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1 Cr 10:1-4). Chữ “tất cả” và chữ “một” khác nhau hoàn toàn, thế nhưng lại không hề khác chút nào. Dù “thuận” hay “nghịch” cũng vẫn trong một tổng thể hài hòa.
Và rồi Thánh Phaolô nói thêm: “Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (1 Cr 10:5-6). Cuộc đời mỗi chúng ta cũng vậy, thất bại và đau khổ luôn là bài học quý giá, là dấu lặng cần thiết, dù dấu lặng đó dài hay ngắn. Đó chính là tiếng Chúa cảnh cáo để thức tỉnh chúng ta, vì Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố của cuộc đời. Chắc hẳn cố nhạc sư Hùng Lân đã cảm nghiệm điều đó nên ông viết trong bài thánh ca “Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử Loài Người” với ca từ đậm chất Đức Tin trong phần điệp khúc: “Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi. Từ thời hồng hoang tuổi đá, khi nhân loại như thú rừng, dần dà ngự trị thiên nhiên, không gian thời gian mấy trùng. Từ lúc bước vô trần gian cùng tiếng khóc oa oa, đời con Chúa đã an bài trong thiết tha”. Vâng tất cả đều được Thiên Chúa quan phòng và tiền định, dù chỉ là một sợi tóc mong manh và nhỏ nhoi.
Thiên Chúa là Dấu Lặng Vĩ Đại trong Tình Khúc Thương Xót. Ngài vẫn luôn kiên nhẫn chờ đợi tội nhân trở về với Ngài, đến nỗi người ta cảm thấy khó tin mà cho rằng “không hề có Thiên Chúa”. Mặc dù chúng ta không ngừng tái phạm, toàn hứa lèo, nhưng lòng thương xót của Ngài vẫn bao phủ tất cả, lớn hơn mọi tội lỗi của cả thế gian này (Nhật Ký Thánh Faustina, số 1485). Thánh Phaolô đã cảm nhận được sâu sắc về lòng thương xót của Chúa nên đã khuyên nhủ: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này” (1 Cr 10:10-11). Do đó, không ai dám mạo nhận bất cứ điều gì, vì “ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12). Không ảo tưởng và luôn tỉnh thức, đó là biết sống kiên nhẫn, biến mình thành một dấu lặng nhỏ trong trường ca Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Thánh sử Luca tường thuật rằng, vào một ngày nọ, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu hỏi lại: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?” (Lc 13:2). Tình trạng “tưởng mình hơn người” rất thường xảy ra trong ý nghĩ của chúng ta. Đó là ý tưởng “chết người”. Điều này gợi nhớ tới dụ ngôn hai người cùng lên Đền Thờ để cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Chúng ta quên (hoặc không muốn nhớ) rằng chính Chúa Giêsu đã minh định: “Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Lc 18:19). Xác định như vậy và biết mình chỉ là số-không-to-lớn-rỗng-tuếch để có thể đè bẹp “cái tôi tồi tệ” của mình.
Và Chúa Giêsu cũng đã cảnh báo: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13:3-5). Chúa Giêsu cảnh báo quá nhiều mà người ta vẫn không muốn lắng nghe, phải chăng người ta nghĩ rằng Ngài là người-thích-đùa chăng? Không, hoàn toàn Ngài không đùa, Ngài đang kiên nhẫn và chịu đựng đấy thôi. Chính sự kiên nhẫn của Ngài là lòng thương xót Ngài dành cho chúng ta vậy.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” (Lc 13:7). Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13:8-9). Ai xin chủ nhân trì hoãn việc đốn cây? Đó là Chúa Giêsu – Người Con Thừa Tự của Chủ Nhân. Chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa, đã chịu đau khổ và chịu chết để minh chứng Tình Yêu – Lòng Thương Xót, nhưng hầu như vô hiệu. Rồi Ngài lại mặc khải Thánh Tâm qua Thánh nữ Margaritta Maria Alacoque (1647-1690), và ngày nay là Lòng Thương Xót – được mặc khải qua Thánh nữ Maria Faustyna Kowalska (1905-1938). Quả thật, Thiên Chúa vô cùng kiên nhẫn vì yêu thương những thụ tạo khốn nạn là chính mỗi chúng ta!
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chúng con thật lòng xin lỗi Ngài vì chúng con quá tồi tệ mà vẫn ảo tưởng, xin biến đổi trái tim xơ cứng của chúng con để chúng con không phụ lòng kiên nhẫn và nhân từ của Ngài, đồng thời có thể phần nào đáp lại Tình Yêu bao la của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Trọng tâm của Mùa Chay là ăn năn sám hối, là cải tà quy chính, là thay đổi suy nghĩ và hành động, cả trong phạm vi cá nhân lẫn trong phạm vi gia đình, giáo xứ, giáo phận. Nếu chúng ta kiểm điểm một cách nghiêm túc thì chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta chưa làm được bao nhiêu, so với điều mà Thiên Chúa mong đợi.
Lời Chúa trong đoạn Sách Xuất Hành chúng ta đọc hôm nay cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng – vì yêu thương và quí trọng con cái Ít-ra-en- nên đã cứu thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai-cập. Lời Chúa trong đoạn Phúc Âm Lu-ca thì cho chúng ta biết Thiên Chúa mong đợi hoa trái sám hối ở các tín hữu. Hoa trái sám hối ấy không chỉ là những tâm tình đạo đức mà còn phải là những hành động cứu người, cứu xã hội, cứu thế giới.
Chúng ta được mời gọi nhìn sâu vào cõi lòng và cách sống của mình mà kịp thời thay đổi, để mỗi ngày mỗi tuần còn lại của Mùa Chay năm nay là một ngày, một tuần của sám hối, của sửa mình, của sinh hoa kết trái thánh thiện.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Xh 3, 1-8a.13-15): ‘Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.’ Trong những ngày ấy, Mô-sê chăn chiên cho ông nhạc là Giêt-rô, tư tế xứ Ma-đi-an. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Ho-reb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Mô-sê nói: “Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai không bị thiêu rụi”.
Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai Người gọi ông: “Mô-sê! Mô-sê!” Ông thưa: “Dạ con đây!” Chúa nói: “Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh”. Chúa lại nói: “Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi. Thiên Chúa của A-bra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ac, Thiên Chúa của Gia-cóp”. Mô-sê che mặt, vì không dám nhìn Thiên Chúa. Chúa nói: “Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật”.
Mô-sê thưa với Thiên Chúa rằng: “Này con sẽ đến với con cái Is-ra-el và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: ‘Tên Người là gì?’, con sẽ nói sao với họ?” Thiên Chúa nói với Môsê: “Ta là Đấng Tự Hữu”. Chúa nói: “Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: ‘Đấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em’ “.
Thiên Chúa lại nói với Mô-sê: “Ngươi sẽ bảo con cái Is-ra-el thế này: ‘Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của A-bra-ham, Thiên Chúa của I-sa-ac, Thiên Chúa của Gia-cóp sai tôi đến với anh em’. Đó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ”.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 10,1-6.10-12): “Đời sống dân chúng đối với Mô-sê trong hoang địa được viết ra để răn bảo chúng ta.” Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết điều này, là tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây, đi ngang qua biển và tất cả nhờ Môsê mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong lòng biển; tất cả đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Chúa, vì họ đã bị gục ngã trong hoang địa.
Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm, và đã vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt. Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong thời đại cuối cùng. Thế nên, ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 13,1-9): “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.” Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giê-su về việc quan Phi-la-tô giết mấy người Ga-li-lê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Ga-li-lê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Ga-li-lê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giê-ru-sa-lem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.
Ngài nói với họ dụ ngôn này: “Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: ‘Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!’ Nhưng anh ta đáp rằng: ‘Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi'”.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Xh 3, 1-8a.13-15) là một trong những đoạn văn hay nhất của Sách Xuất Hành, vì đoạn văn này tường thuật việc Thiên Chúa tự mạc khải mình cho nhân loại qua ông Mô-sê, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng việc làm:
Trước hết Thiên Chúa tỏ lộ Ngài là Đấng Thánh, Đấng Siêu Việt, Đấng Vô Hình, Đấng Tự Hũu mà con người không nhìn thấy, không thể tiếp cận trực tiếp (mà không phải chết!).
Thứ đến, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấng quan tâm đến cuộc sống của những người Ít-ra-en nên Người nghe thấy tiếng kêu than của họ.
Sau cùng Thiên Chúa mạc khải là Đấng không thể ngồi yên trước nỗi thống khổ của con dân Ít-ra-en nên nẩy ra sáng kiến cứu thoát, giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ Ai -cập, qua một chương trình và kế hoạch mà chính Người thực hiện qua trung gian và công cụ là ông Mô-sê, tôi tớ của Ngài.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 10,1-6.10-12) là những lời giãi bày chí lý của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm khuyên nhủ các tín hữu Cô-rin-tô hãy biết rút ra bài học bổ ích từ lịch sử của dân Chúa, từ cách sống của những người Ít-ra-en trong thời Xuất Hành được xem là cha ông của họ trong dòng dõi những kẻ tin vào Thiên Chúa.
Trong đoạn 1 Cr 10,1-6.10-12 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa đã ân cần và rộng tay ban phát nhiều ơn huệ như thế nào cho những người Ít-ra-en: Người đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai-cập, đã nuôi sống họ trong suốt 40 năm hành trình xuyên qua sa mạc về Đất Hứa, đã tỏ ra quyền năng và luôn hiện diện bên họ. Thế nhưng nhiều người trong số họ vẫn không tin vào tình thương và quyền năng của Người, vẫn lẩm bẩm than trách mỗi khi gặp khó khăn trở ngại, vẫn quay lưng lại với Người để đi tìm các tà thần…
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 13,1-9) là tường thuật của Lu-ca về hai quan điểm khác nhau trước một sự kiện cụ thể vừa xẩy ra. Sự kiện đó là những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết chết khi họ đang tiến hành việc dâng của lễ cho Thiên Chúa. Theo quan điểm của những người Do-thái (tiêu biểu là các kinh sư và Pha-ri-sêu) thì những người Ga-li-lê kia bị giết là vì họ là những người tội lỗi, nên bị Thiên Chúa trừng phạt (bằng bàn tay của Phi-la-tô). Còn theo Chúa Giê-su thì sự việc không thể giải thích như thế. Chúa Giê-su không đưa ra một giải thích nào mà chỉ nhân đó lên tiếng cảnh cáo những người Do-thái là hãy coi chừng: đừng kiêu căng, tự phụ mà xem thường và kết án người khác; đừng suy diễn lung tung theo sự hiểu biết hẹp hòi của mình mà vi phạm đến quyền bá chủ lịch sử của Thiên Chúa. Điều quan trọng mà Thiên Chúa mong đợi ở họ là họ phải có đời sống tốt lành, thánh thiện như Giới Răn và Lề Luật đã dạy. Chúa Giê-su kể dụ ngôn cây trồng trong vướn nho không sinh trái để khéo léo và tế nhị nhắc nhở họ điều quan trọng ấy.
Trong đoạn Phúc Âm Lc 13,1-9 này, Chúa Giê-su cho thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống con người, nhất là của những kẻ tin, là sinh hoa kết trái tức sám hối, khiêm nhường và tin vào Tin Mừng. Cây vả không sinh trái thì sớm muộn gì cũng sẽ bị chặt đi và ném vào lửa, vì nó sống chỉ làm hại đất. Kẻ tin không sinh trái thì sớm muộn gì cũng bị loại trừ vì những người ấy chỉ làm uổng công tình thương và quyền năng và ơn huệ của Thiên Chúa mà thôi!
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
(1) Nếu chúng ta chú ý vào bài đọc 1 thì sứ điệp của Lời Chúa sẽ là: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật… Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập.”
(2) Còn nếu chúng ta chú ý vào bài Phúc Âm thì sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sinh hoa kết trái trong đời sống đức tin vì chính Chúa Giê-su đã cảnh cáo: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”
Hai sứ điệp trên không hề mâu thuẫn nhau, trái lại bổ sung cho nhau vì thật ra không hoa quả sám hối nào tốt đẹp cho bằng những hành động giải thoát cứu vớt những người bé nhỏ và chịu thiệt thòi trong xã hội loài người.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
Là Đấng gần gũi với con dân của Người là Ít-ra-en và tất cả chúng ta; Người quan tâm chăm sóc, cứu vớt con dân của Người là Ít-ra-en và tất cả chúng ta. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng đòi hỏi mỗi một người phải sinh hoa trái tốt lành thánh thiện trong đời sống đức tin là tham gia vào việc giải thoát anh em đồng loại khỏi cảnh nô lệ. Năm Tân Phúc Âm hóa đời sống xã hội cũng nhằm mục đích tốt lành ấy.
4.2 Thực thi sứ điệp của Lời Chúa
Tôi xét mình xem
* Tôi có tuân phục thánh ý Chúa và thực thi sứ mệnh Chúa giao là bênh vực và giải thoát những người bị bất công và áp bức, như ông Mô-sê không?
* Tôi có biết rút ra bài học của lịch sử, của quá khứ mà sống biết ơn và gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô, như lời nhắn nhủ của Thánh Phao-lô không?
* Tôi có sống ăn năn sám hối, khiêm nhu và thánh thiện, như lời Chúa Giê-su nhắc nhở các kinh sư và Pha-ri-sêu trong Phúc Âm không?
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
5.1 «Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng! Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi dân, mọi nước trong thế giới hôm nay để ai nấy đều nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng luôn bênh vực những người nghèo khổ, bệnh tật, bị bất công và áp bức trong xã hội loài người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Dạ, tôi đây!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để các ngài noi gương bắt chước ông Mô-sê mà mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi và chu toàn sứ mạng giải cứu con người khỏi mọi cảnh áp bức, bóc lột, bất công!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Bây giờ, ngươi hãy đi!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết sử dụng tài năng, của cải và thời giờ Chúa ban cho mình, để giải thoát những người đang phải sống trong cảnh nô lệ hay ngục tù vì bất công xã hội.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả những người bênh vực công lý, xây dựng hòa bình và yêu thương giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia, để họ được ơn hăng say tích cực trong sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa đã giao cho.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
Lời Chúa trong Chúa Nhật tuần trước mời gọi chúng ta đến sự biến đổi qua đời sống cầu nguyện [Chúa Giêsu biến hình trong khi Ngài đang cầu nguyện]. Và Lời Chúa trong Chúa Nhật III Mùa Chay trình bày cho chúng ta hậu quả trong đời sống vĩnh cửu nếu chúng ta không thay đổi, không sám hối trước mạc khải của Thiên Chúa.
Bài đọc 1
hôm nay nói về việc Thiên Chúa kêu gọi Môsêđảm nhận sứ mệnh thay mặt Ngài dẫn dắt dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập. Trong đoạn trích từ sách Xuất Hành hôm nay, chúng ta tìm thấy mạc khải nền tảng về Thiên Chúa cho dân Israel và đỉnh cao củamạc khải này là tên của Thiên Chúa. Mạc khải tên cũng chính là mạc khải chính mình, vì tên diễn tả“nhân vị.” Khi một người cho người khác biết tên của mình là người đó muốn thiết lập quan hệ với người kia qua việc cho người đó biết mình là ai qua tên gọi. Thật vậy, tên để gọi, để nói lên “căn tính,” để thiết lập mối tương quan. Khi Thiên Chúa mạc khải tên của mình cho Môsê và dân Israel, Ngài muốn mạc khải cho họ biết Ngài là ai và Ngài muốn thiết lập một mối liên hệ giao ước với họ. Và tên của Thiên Chúa là: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3:14). Tên này nói đến sự hiện diện vĩnh hằng, là Đấng luôn hiện hữu, Đấng luôn ở trong “hiện tại.”Sự hiện hữu [hiện diện] của Ngài không phải là một sự hiện hữu của quá khứ hay của tương lai, nhưng luôn trong hiện tại.Không có khi nào Ngài không hiện hữu và gần gũi với chúng ta. Điều này khẳng định cho chúng ta chân lý này: Ngài luôn ở cùng chúng ta trong mọi giây phút. Đây chính là ý nghĩa của tên của Chúa Giêsu: Ngài sẽ được gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (x. Is 7:14; Mt 1:23). Chân lý này cũng là điều khuyến cáo chúng ta phải sống ngay lành trước nhan Thiên Chúa, vì mọi sự đều bày tỏ trước mắt Ngài: chúng ta có thể giấu người khác, ngay cả với những người thân nhất của chúng ta, nhưng chúng ta không thể giấu Thiên Chúa bất cứ điều gì.
Điểm thứ hai trong bài đọc 1 đáng để chúng ta suy gẫm là việc Thiên Chúa mạc khải chính mình cho Môsê trong khi ông đang làm công việc thường ngày của ông: chăn chiên. Chắc chắn một điều là ông đã nhìn thấy bụi gai nhiều lần vì bụi gai là vật quen thuộcmà ông nhìn thấy mỗi ngày. Nhưng hôm nay cái quen thuộc trở thành cái “ngoại thường”: Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi” (Xh 3:2). Điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Ý nghĩa của nó là: Thiên Chúa thường dùng những cái quen thuộc trong ngày sống của chúng ta để mạc khải mầu nhiệm của Ngài.Để nhận ra mầu nhiệm Thiên Chúa, chúng ta phải đi ra khỏi thái độ “làm theo thói quen” của thường ngày vàhọc để trở nên nhạy cảm với sự hiện diện của Thiên Chúa trong những cái bình thường của ngày sống.Hơn nữa, khi Thiên Chúa mạc khải chính mình cho ai, thì Ngài đồng thời mời gọi họ cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa mạc khải cho Môsê vì Ngài “đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật”(Xh 3:7-8a). Ngài mời gọiMôsê cộng tác với Ngài trong việc mang lại sự giải phóng khỏi nôlệ cho dân của Ngài. Cũng vậy, qua những công việc bình thường của ngày sống, Thiên Chúa mạc khải chính mình cho chúng ta và mời gọi chúng ta cộng tác vào công trình cứu độ của Ngài hầu làm cho gia đình [cộng đoàn], giáo xứ, Giáo Hội và thế giới ngày càng trở nên yêu thương hơn.
Cuối cùng, bài đọc 1 hôm nay chỉ ra cho chúng ta thái độcần thiết nhất khi đến với Chúa là sự cung kính. Chúng ta thấy Thiên Chúa đòi buộc Môsê: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh” (Xh 3:5). Thái độ của chúng ta khi đến với Chúa thế nào? Chúng ta có cung kính Ngài như Ngài đáng được cung kính không? Nhiều người trong chúng ta biện minh rằng: Chúa không cần vẻ bên ngoài, Chúa chỉđểýđến bên trong con tim của con người. Đúng là như thế. Tuy nhiên, chúng ta là một con người có hồn có xác, chúng ta phải đến với Chúa với vẻđẹp bên trong lẫn bền ngoài của một con người toàn diện. [Trừ trường hợp chúng ta không có đủđiều kiện đểchuẩn bịvẻ bề ngoài của mình cách chỉnh tề vì mình quá nghèo]. Chúng ta lấy một ví dụ trong cuộc sốngđể làm sáng tỏđiều chúng ta muốn nói: khi được mời đến gặp một người nổi tiếng hoặc có chức sắctrong xã hội và Giáo Hội, chúng ta có ăn mặc chỉnh tề không? Chắc chắn chúng ta không thể ăn mặc như đi dạo chơi để gặp họ. Chúng ta phải ăn mặc chỉnh tề trong những dịp như thế. Khi đi gặp những con người mà chúng ta đã tỏ ralịch sự trongvẻ bề ngoài để tỏ sự tôn trọng người khác, thì khi đến với Chúa chúng ta cũng phải có sự cung kính tương xứng, nếu không nói là chọn những gì đẹp nhất đểđến với Ngài. Ước mong chúng ta đến với Chúa với vẻđẹp bên ngoài thân xác và bên trong tâm hồn!
Như chúng ta đọc thấy trong bài đọc 1, câu chuyện về ơn gọi của Môsê xảy ra trong sa mạc, gần núi thánh của Thiên Chúa. Hình ảnh này là khởi đầu và đã gắn liền với lịch sử của dân Israel trong thời gian họ hành trình trong sa mạc: là thời gian của mạc khải và giao ước. Tuy nhiên, theo Thánh Phaolô, thời gian của Môsê và dân Israel trong sa mạc cũng là thời gian đầy bất tuân và phàn nàn Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết trong bài đọc 2: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cảđều vượt qua Biển Đỏ.Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê.Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng,tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô.Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cr 10:1-5). Những lời này của Thánh Phaolô nhằm mục đíchrăn dạy chúng ta đừng chiều theonhững dục vọng xấu xa (x. 1 Cr 10:6), hay đúng hơn những “bản năng tự nhiên” của mình. Chúng ta không nên lẩm bẩm kêu trách người khác và Thiên Chúa về những khó khăn và thử thách trong cuộc sống của chúng ta. Trong mọi thử thách phải cậy dựa vào Thiên Chúa hơn là vào sức của mình. Thánh Phaolô cảnh báo những ai tưởng mình đang đứng vững phải cẩn thận: “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12). Hãy khiêm nhường khi thành công và không thất vọng khi thất bại!
Bây giờ, chúng ta cùng nhau tập trung vào Bài Tin Mừng để lắng nghe, suy gẫm và đem ra thực hành những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ tìm thấy trong Tin Mừng của Thánh Luca. Sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay dạy các môn đệ Chúa Giêsu rằng: Thiên Chúa là Đấng đầy lòng thương xót, nhưng lòng thương xót của Ngài không mang tính “uỷ mị.” Ngài muốn tội nhân sám hối trước khi quá trễ. Bài Tin Mừng hôm nay gồm có hai phần: trong phần thứ nhất (Lc 13:1-5), Chúa Giêsu kêu gọi mọi người phải sám hối; phần hai (Lc 13:6-9) trình thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về cây vả không sinh hoa trái.
Theo niềm tin của người Do Thái thời đó, những ai gặp tai ương là những người tội lỗi bị Thiên Chúa trừng phạt. Chúa Giêsu mời gọi họ phải thay đổi lối suy nghĩ này. Họ không hoặc chưa gặp điều tai ương không phải là họ không có tội. Họ cũng như bao nhiêu người khác, cũng chia sẻ thân phận con người mỏng manh yếu đuối. Chúa Giêsu lặp lại điệp khúc sám hối hai lần: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13:3,5). Sự lặp lại này tạo nênbối cảnhcho câu hỏi của các môn đệvề việc chỉ một ít người được cứu độ (Lc 13:23) khi Chúa Giêsu nói cho họ biết phải qua cửa hẹp để vào Nước Thiên Chúa. Khi thuật lại hai trường hợp không may của những người Galilê bị Philatô giết và những người bị tháp Silôam đè chết (x. Lc 13:1,4), Thánh Luca muốn khuyến cáo các thành viên trong cộng đoàn của mình và chúng ta rằng: những điều không may xảy ra cho người khác chính làlời cảnh báo cho chúng ta phải thay đổi và cảnh giác mà nhiều lần chúng ta đã không nghe. Thật vậy, nhiều lầntrong cuộc sống, chúng ta cũng “cứng đầu,”không muốn thay đổi và sám hối. Chúng ta thấy hậu quả của những lỗi người kháctạo ra, nhưng chúng ta không muốn học.
Chúng ta nhắm mắt và sống cách bất cần. Ví dụ, chúng thấy hậu quả của những người bài bạc, rượu chè hoặc hút chích, hoặc những phản ứng khi nóng giận làm tổn thương người khác, hoặc sống một đời sống luân lý không lành mạnh, chúng ta trách họ. Nhưng rồi đến lượt mình, chúng ta lại rơi vào và sống mãi ở trong đó.Ởđây, Chúa Giêsu nói đến những cái chết bất ngờ của người khác để dạy các môn đệvà chúng ta phải sám hối và sẵn sàng cho việc phán xét [cho cái chết]. Nếu chúng ta không tha thứ, không hoà giải, nếu chúng ta giữ sự ghen tỵ và nóng giận trong lòng và chết bất ngờ trong tình trạng đó, chúng ta sẽ đi về đâu? Đừng chờ đến khi quá muộn để yêu thương và tha thứ; đừng chờ đến lúc quá muộn để nói lời yêu thương và làm những cử chỉ yêu thương cho người thân của mình!
Trong phần 1 của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy hình ảnh của một Đức Kitô rất cứng rắn trong lời mời gọi sám hối của mình. Nếu không sám hối, hậu quả không lường sẽ xảy ra cho họ. Hình ảnh này hoàn toàn trái ngược, hay đúng hơn được làm nhẹ đi trong phần 2. Theo các học giả Kinh Thánh, đây là dụ ngôn về lòng thương xót mà Luca sẽ khai triển trong những chương tiếp theo, nhất là trong ba dụ ngôn trong chương 15: mất đồng tiền, mất chiên và mất con. Dụ ngôn này mang lại cho người nghe trong cộng đoàn của Thánh Luca thời đó và chúng ta ngày hôm nay một sự an ủi khi chúng ta vấp ngã trên con đường theo Chúa. Tuy nhiên, nó cũng là một dụ ngôn mang tính khuyên răn cho những người hay chần chừ, trì hoãn việc thay đổi và sinh hoa trái tốt trong cuộc sống. Chúng ta có thuộc loại này không?
Dụ ngôn trong phần hai của bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta về cây vả không sinh hoa trái và người chủ muốn chặt bỏ nó: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vảnày tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’(Lc 13:6-7). Hình ảnh cây vả không sinh hoa trái là hình ảnh của người không sám hối. Tuy nhiên, điều đángan ủi cũng là thách đố cho chúng ta được tìm thấy trong câu: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13:8-9). Câu này hàm chứa hai điều: một mặt cây vả được cho thêm thời gian, được chăm sóc để sinh hoa trái vào mùa sau, nhưng mặt kháccây vả được đòi hỏi phải sinh hoa trái. Áp dụng vào trong cuộc sống của mình, chúng ta được Thiên Chúa cho thêm thời gianđể sám hối và sinh hoa trái. Nói cách cụ thể hơn, liệu chúng ta có thay đổi sau thánh lễ hôm nay không? Liệu chúng ta có sinh hoa trái tốt lành cho Chúa khi Ngài đến gặp chúng ta không? Khốn cho chúng ta nếu khi Ngài đến mà không thấy chúng ta sinh được hoa trái tốt lành, thánh thiện nào.
Cuối cùng, hình ảnh “ba năm”nói đến ba năm Chúa Giêsu rao giảng và nhiều người nghe Ngài: có người thay đổi và sinh hoa trái, nhưng cũng có người chống đối và giết chết Ngài. Chúng ta thuộc loại nào trong hai loại trên? Chúng ta không chỉ nghe Chúa Giêsu raogiảng ba năm. Nhiều người trong chúng ta đã năm năm, mười năm, hai mười năm, ba mươi năm hoặc tám mươi nămđã nghe Chúa Giêsu rao giảng mỗi ngày hoặc mỗi Chúa Nhật. Chúng ta có sinh được hoa trái tốt lành nào để dâng cho Chúa không? Hay là con người của mấy chục năm vềtrước vẫn là con người của chúng ta bây giờ: một con người luôn dễ dàng nóng giận của 40 năm về trước bây giờ vẫn như vậy, hoặc con người không tha thứ 60 năm về trước đến giờ vẫn chưa chịu tha thứ cho người khác.Hãy sám hối và sinh hoa trái tốt trước khi quá muộn!
Hành trình đời người nếu sánh ví như một cuộc giao chiến có quá đáng không, tại sao triết gia Sscorates không ngừng hô hoán mọi người hãy tự biết mình ? Trong đối nhân xử thế có liên quan gì đến binh pháp không, vì sao lời nhắc nhớ của Tôn Tử vẫn còn tồn tại nơi hậu thế: biết người biết ta, trăm trận trăm thắng ? Biết mình thông thái, hay nông cạn, nhầm lẫn mình tốt xấu, đơn sơ hay mưu mô, đúng là vấn đề nan giải ! Mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, mỗi chi thể có một hoạt động khác nhau, nhưng đã tạo cho trí phán đoán phong phú hơn, cuộc sống đang tiến dần tới chỗ tốt đẹp hơn. Biết mình, biết ta, hiểu mình hiểu bạn, vẫn đến từ quá trình tìm kiếm, đến từ những trải nghiệm dài lâu, tuỳ mỗi người, nhưng chắc hẳn không phải hoàn toàn do khả năng thiên phú.
Cứ sự thường, chúng ta vẫn cho rằng hiểu nông cạn, nhận định vấn đề không đúng, không chuẩn, là do ít học, do nhỏ dại, thực ra đúng sai, tốt xấu, còn tuỳ thuộc vào “cái tâm trong sáng” thế nào, nhất là phạm vi liên quan đến phúc, hoạ, sống, chết. Người xưa có câu: vụng dại mà tỏ ra thông thái thì không có gì phải sợ ; có chăng, tài giỏi đức độ, mà luôn khiêm tốn trong cái biết của họ mới đáng nể phục. Biết đến bằng cấp, biết đến sự hào nhoáng của một đối tượng, không phức tạp ; đụng chạm đến đến sự thật của một hoàn cảnh, một tâm hồn, là đụng đến tính thiêng liêng, hết sức tế nhị. Đâu phải cứ nghèo là do họ lười, không phải cứ giầu sang là tài giỏi, là do họ chăm chỉ làm ăn, đâu phải cứ đói là sẽ ăn vụng, hay túng thiếu họ sẽ làm liều!
Trang Tin-mừng hôm nay được Chúa Giêsu lý giải: những người bị Philatô giết, lấy gì chắc chắn mà nói do họ ngu dốt hay thiếu cẩn thận ; 18 người bị tháp Si-lô-e đè chết, đâu phải vì họ ăn ở thất đức hay tội lỗi ngập tràn. Nhận biết sự thật về mình: tai nạn, thiên tai, ung thư, già lão, chính là dấu hiệu của sự chết. Chẳng ai dại dột, tự nhiên lại lao đầu đi tìm cái chết, chẳng ai đủ khả năng né tránh được tai hoạ để sống mãi ở đời này. Chúa Giêsu đã nói lên một sự thật: “nếu các người không ăn năn hối cải, tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”. Ở Việt Nam hiện tại tuy không còn cảnh đô hộ giặc Tầu, hay nô lệ giặc Tây, không còn nội chiến từng ngày, không còn chuyện bi thảm: “trái mìn nổ chậm, người chết hai lần”. Nhưng vu khống, đổ vạ, bóp méo sự thật, giết chết danh dự, giết chết bao mạng người vô tội vì giả dối, vì lợi nhuận bất chính, vì thức phẩm bẩn, vô cùng phức tạp.
Ngày hôm nay không phải chỉ những người “khô khan đạo nguội”, suy nghĩ tiêu cực về tình người luôn méo mó với nhau, mà ngay cả những người đi lễ đọc kinh nhiều, còn cho rằng Chúa phạt kẻ có tội là đúng, là công bằng. Nhận biết sự thật: Chúa là tình yêu, Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống, nhất định không phải do tài sức của mình. Nhận biết sự thật, trước hết phải là người biết ý thức về thân phận giới hạn bất toàn của mình, nhận biết sự thật là gặp được Chúa, gặp được tha nhân trong các tương quan huynh đệ. Xung quanh ta nhiều người đang gặp tai nạn, đang bị khủng bố, hoặc bị quyền lực sự ác tấn công hãm hại, bị tháp đè chết, có phải vì họ mang dòng máu anh hùng, có phải vì họ là con thiêu thân, có phải do họ tội lỗi hơn chúng ta ? Qua thất bại và sự chết, người ta sẽ thấy xuất hiện một khao khát sống mãnh liệt hơn nơi tâm hồn mình, đó chính là câu trả lời cho hậu thế: cần phải sám hối ăn năn tội lỗi mình.
Khôn ngoan ở đời là tìm cách né tránh đau khổ, cẩn trọng những điều nguy hiểm, hầu giảm bớt được tai hoạ đáng tiếc xảy ra là cần thiết, nhưng tục ngữ có câu: trăm cái khôn dồn một cái, khôn ấy có phải là: người tính không bằng trời tính ? Chúa là Chân – Thiện -Mỹ, Ngài không có ý chỉ ta tìm né tránh đau khổ sự chết, Ngài không muốn ta dửng dưng, vô tâm vô cảm, trước tai hoạ ập đến, nhưng hãy tự biết mình có ác độc không, đã thực thi đức ái thế nào ? Sống chết là có thật, là sự thật, làm gì để được sống, làm gì để khỏi phải chết, và khi đã biết sống cho có ý nghĩa, cuộc sống ở hiện tại, tương lai, nhất định sẽ đúng ý Chúa, hạnh phúc theo ý Chúa. Sự thật mất lòng, kinh nghiệm đó ít nhiều chúng ta cũng đã gặp, còn sử dụng tự do đúng, sai, đẹp, đủ, là tuỳ thuộc vào mỗi chúng ta.
Khi đưa ra hình ảnh cây vả không sinh trái, thiết tưởng người Do-thái và cả chúng ta hôm nay cũng đã hiểu phần nào: sống chết là có thật, sống chết ở trong tay Chúa, nếu lòng nhân hậu của Thiên Chúa bao la, thì cơ hội mỗi người phải sám hối ăn năn để được sống không thể là giả dối. Nghe, hiểu và sống giáo huấn của Chúa Giêsu cần hơn là ngồi đó bình luận ai tội lỗi, ai khôn ngoan hơn. Cây vả được chăm sóc thì phải sinh hoa trái, tình yêu và ơn cứu độ được ban phát cho nhân loại tội lỗi là sự thật. Sám hối để nhận biết sự thật về mình, ăn năn thống hối về những lời nói việc làm “phải quấy” của mình không bao giờ dư thừa, ăn năn sám hối tội lỗi mình cũng là động lực để mỗi người biết sống đức ái Kitô. Xin Chúa chúc lành cho của mỗi người, hầu chúng ta nhận biết lòng nhận hậu của Chúa, biết không ngừng sám hối ăn năn về tội lỗi thiếu xót của mình, xứng đáng là môn đệ Đức Kitô. Amen.
Một trong những chủ đề chính yếu của Lời Chúa hôm nay là sám hối và canh tân đời sống. Đây là sứ điệp cốt lõi của Tin Mừng và là lời mời gọi chính yếu của Mùa Chay thánh. Khởi đầu sứ vụ rao giảng, Đức Giêsu mời gọi: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (MC 1,5).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu quả quyết hai lần rằng: “Tôi nói cho các ông biết… nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc 13,3.5).
Từ sám hối hay hoán cải trong tiếng Hy lạp là metanoia, có nghĩa là thay đổi tư tưởng, não trạng, cách suy nghĩ, ý thức và tâm trạng của một người. Giáo Hội dùng từ “sám hối” để nói về sự thay đổi tận căn của toàn bộ đời sống, là từ bỏ đời sống cũ, trở về với Thiên Chúa, trở thành một con người mới trong Chúa Kitô.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện nhất để mỗi người Kitô hữu sám hối và đổi mới con người mình. Đổi mới là quy luật của sự phát triển và tiến bộ. Chúng ta quan sát thiên nhiên trong những ngày mùa đông giá lạnh, cây cối trở nên cằn cỗi, trơ trụi và không còn sức sống. Nhưng khi mùa xuân về, khí trời ấp áp, cây cối bừng dậy sức sống, chúng đâm chồi nảy lộc, trổ hoa muôn màu sắc trông thật đẹp mắt. Thiên nhiên và sự sống xung quanh chúng ta thật kỳ diệu! Qua sự kiện này, chúng ta nhận thấy rằng đổi mới là quy luật của phát triển nơi thiên nhiên.
Trong Cựu Ước (bài đọc I), dân Do Thái phải chịu cảnh áp bức và nô lệ ở Ai Cập trong nhiều năm trời. Thiên Chúa thấy rõ cảnh khổ cực và lắng nghe tiếng kêu than của dân Người. Thiên Chúa giải thoát dân thoát cảnh nô lệ bằng việc sai ông Môsê đến, lãnh đạo dân xuất hành, vượt qua Biển Đỏ, sa mạc, tiến về đất hứa (x. Xh 3,1-15). Câu chuyện Xuất Hành muốn nói rằng: để thoát cảnh nô lệ và có một đời sống mới, họ phải từ bỏ đời sống cũ là kiếp nô lệ ở Ai Cập, lên đường đến một nơi mới, sống cuộc sống mới.
Đối với người Kitô hữu, sám hối và đổi mới là quy luật của sự tiến bộ và nên thánh. Vì thế, Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải đổi mới liên lỉ. Tuy nhiên, chúng ta thử hỏi rằng chúng ta cần phải đổi mới như thế nào?
Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ đổi mới ở bên ngoài như thay đổi dáng dấp, cách ăn mặc, hay nơi chốn sinh sống, nhưng phải đổi mới triệt để từ bên trong, đổi mới toàn bộ con người và đời sống của chúng ta.
Thánh Phaolô trình bày về sự đổi mới triệt để và toàn vẹn qua ba bước sau đây:
1- Bước I: đổi mới là cởi bỏ con người cũ
Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham hố lừa dối” (Ep 4,22). Theo ngài, cởi bỏ con người cũ là cởi bỏ “con người thuộc hạ giới,” con người sống theo xác thịt với những hành vi đó là: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống vậy (Gl 5,20-21).
Mùa Chay là cơ hội quý báu để chúng ta cởi bỏ con người cũ, từ bỏ các thói hư tật xấu trong chúng ta. Nếu không có thay đổi, chúng ta sẽ không có sự tiến bộ về nhân đức và sẽ không được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời.
2- Bước II: “Phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em” (Ep 4,23).
Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành với chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế.” Người uốn nắn chúng ta trở nên con người mới trong Chúa Kitô. Chúng ta cần Chúa Thánh Thần biến đổi tâm trí và con người yếu hèn của mình. Bởi vì, mọi sai lầm bắt nguồn từ suy nghĩ và thiếu hiểu biết của chúng ta đối với đường lối của Thiên Chúa. Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần biến đổi tâm thần, nghĩa là biến đổi tầm nhìn, tư tưởng, nghĩ suy của con người cũ, để có tầm nhìn và suy nghĩ của Thiên Chúa, hướng tới sự thật, trở nên con người mới, mạnh mẽ hơn, hăng say hơn và nhiệt thành hơn.
3- Bước III: Mặc lấy con người mới trong Chúa Kitô
“Anh em hãy mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24). Thánh Phaolô quả quyết rằng: “Quả thế, bất cứ ai trong anh em được Rửa tội để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,27). Ngài cũng mời gọi: “Anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô” (Rm 13,14).
Quả thế, Đức Giêsu là con người mới và kiểu mẫu cho chúng ta. Mỗi người Kitô hữu được tạo dựng và tiền định để trở nên giống Chúa Kitô. Nếu cởi bỏ con người cũ là lột bỏ những thói hư tật xấu, thì trở nên con người mới là mặc lấy Chúa Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Người, mặc lấy những tâm tình của Chúa Kitô, đó là lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và tha thứ cho nhau (x. Cl 3,12-14).
Vì thế, chúng ta được mời gọi từ bỏ đời sống cũ, mặc lấy đời sống mới bằng cách rèn luyện các nhân đức, thực hành những giá trị Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã dạy, sống như Chúa đã sống. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể được biến đổi toàn bộ con người chúng ta theo khuôn mẫu là Chúa Kitô, từ suy nghĩ, phán đoán, tình cảm, con tim, động lực sống và cả cách hành xử của chúng ta. Đó là con người mới, nhân cách mới, đời sống mới trong Chúa Kitô.
Lạy Chúa, Mùa Chay là mùa đổi mới. Xin cho mỗi người Kitô hữu biết sử dụng và sống thời gian Mùa Chay thánh này như là cơ hội để đổi mới chính mình, trở nên con người mới trong Chúa Kitô. Amen!
Bụi cây cháy mà không bị thiêu rụi. Đó là việc của Thiên Chúa làm chứ con người làm không được. Có bao giờ ta thấy cháy nhà hay cháy rừng chưa ? Ta thấy sau đám cháy chẳng còn thứ gì còn nguyên cả. Theo tôi, hình ảnh bụi cây cháy mà không bị thiêu rụi có thể cho ta hiểu về việc bố thí. Bố thí nghĩa là cho đi mà không bị hao hụt. Điều này cũng hơi khó hiểu. Thường thì ta sẽ nghĩ, cho đi ta sẽ bị hao, bị hụt chứ, sao lại không bị hao hụt là sao? Ta cùng tìm hiểu về việc này.
Bố thí là một trong ba việc lành phúc đức, đó là cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Đức Giê-su đã dạy về việc bố thí như sau: “Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống như bọn giả hình thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để cho người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. còn anh em, khi bố thí đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc bố thí của anh em được kín đáo. Và Cha của anh em Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả lại cho anh em” (x.Mt 6,2-4).
Ngày nay, ta thấy cũng có rất nhiều người làm việc bố thí; cũng không ít những người làm để cho người ta khen, ngay cả trong giới Linh Mục và Tu Sĩ. Nếu thật sự là như như vậy thì như Lời Đức Giê-su đã nói thì họ đã được phần thưởng rồi, nên Chúa sẽ không ban phần thưởng gì hết. Cũng có những người làm cách âm thầm, không cho ai biết. Như vậy, họ sẽ được lãnh phần thưởng từ Chúa.
Như thế là do mục đích ta làm là vì tiếng khen của người đời hay vì phần thưởng của Chúa, điều đó do ta lựa chọn và quyết định.
Theo thánh Lê-ô Cả Giáo Hoàng thì: “Hành động đạo đức này còn gọi là việc thương người; vì bao gồm nhiều cử chỉ đáng khen của lòng nhân ái. Như vậy, giữa các tín hữu, dù khả năng vật chất không đồng đều, nhưng tấm lòng có thể như nhau” (Trích Bài đọc 2, Thứ Năm sau Lễ tro, Kinh Sách”.
Còn theo thánh Gio-an Kim Khẩu, thì “Con đường sám hối thứ 4 là Bố thí. Việc này có hiệu lực rộng rãi”. Việc bố thí có hiệu lực rộng rãi thế nào? Đức Giê-su đã nói về hiệu lực rộng rãi của việc bố thí này vào ngày tận thế. Chúa sẽ xét xử mọi người chúng ta về vấn đề này. Hiệu lực rộng rãi đó là “Ta làm cho chính Chúa” và “ta sẽ được thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn từ tạo thiên lập địa” (x. Mt 25, 34; 40).
Việc đó xảy ra như sau: Khi Con Người đến trong vinh quang, có tất cả các Thiên Sứ theo hầu. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người và Người sẽ tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên với dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải; dê thì Người cho đứng bên trái. Bấy giờ người phán với những người đứng bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến mà thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các người từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát các người cho uống; Ta mình trần, các người cho mặc; ta đau yếu, các người đã viếng thăm; ta ngồi tù, các người đã đến hỏi han”.
Bấy giờ những người này thắc mắc, có bao giờ chúng tôi thấy…..Nhưng Chúa trả lời: “Mỗi lần các người làm cho một trong những kẻ bé mọn này của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta”. Và ngược lại thì “mỗi lần các người không làm….là các người đã không làm cho chính Ta. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp; còn những người công chính ra đi để được hưởng sự sống muôn đời”.
Hai nhóm người, hai số phận khác biệt. Điều này không do Chúa mà do mỗi người tự quyết định. Có khi ta xin Chúa: “Đừng xếp con vào hàng bên trái, nhưng vào bên hữu với chiên ngoan”. Mình có ngoan, có làm điều tốt gì cho ai đâu mà đòi, mà xin như thế. Chúa có muốn xếp cũng chẳng được. Có muốn xếp như thế thì ngày đời này, ngay bây giờ hãy sống tốt lành và thánh thiện; hãy làm việc lành mà giúp đỡ người khác đi. Khỏi cần xin, ngày sau chắc chắn ta sẽ được xếp vào hàng bên phải thôi.
Không thấy Chúa hỏi: con được rửa tội bao nhiêu năm; con đi lễ được bao nhiêu lần; con đọc kinh được bao nhiêu kinh? Cũng không thấy Chúa hỏi con là Giáo Hoàng; Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ hay Tổng Thống; mà chỉ hỏi về việc bố thí mà thôi.
Câu hỏi được đặt ra là: Vậy thì tôi rửa tội để làm gì; tôi đi lễ để làm gì; tôi đọc kinh để làm gì; tôi đi tu để làm gì ? Câu trả lời, đó là để ta nên thánh nên thiện và làm việc bố thí. Mà việc bố thí là “Thương người, giúp người” đó. Nếu Chúa có hỏi thì Chúa sẽ hỏi ta rằng: Con đã được rửa tội; con đã đi lễ nhiều; con đã đọc kinh nhiều; con là người tu trì, vậy thì con có nên thánh, nên thiện chưa; con có làm việc bố thí, thương người, giúp người như Ta đã dạy cho con không? Lúc đó, thì ta trả lời thế nào đây??
Nếu có, thì hạnh phúc cho ta biết dường nào. Nếu không thì khốn cho ta dường bao !!!
Trong Tin Mừng, có một người thanh niên hỏi Chúa về sự sống đời đời: “Lạy Thầy nhân lành, con phải làm gì để được sự sống đời đời?”. Chúa trả lời: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện thì hãy đi bán tài sản anh có và đem cho người nghèo. Anh sẽ được một kho tàng ở trên trời, rồi hãy theo Tôi”. Nghe lời đó, anh ta buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.( x.Mt 19, 16-22).
Chắc là anh ta không tin có đời sau? Tin chứ! Bởi tin nên anh ta mới hỏi Chúa phải làm gì để được sống đời đời mà. Quả thực anh ta tin nhưng anh ta vẫn mê của cải đời này hơn là hạnh phúc đời sau, nên anh ta không dám mạo hiểm đầu tư. Còn chúng ta, chúng ta có đức tin, chúng ta là người Công Giáo La-mã, chúng ta có dám mạo hiểm đầu tư không? Có dám cho đi không ?
Hôm nay, tôi trích Lời của Đức Giê-su và lời của các thánh chứ không phải là lời của tôi, để nói về việc bố thí, việc cho đi này. Nên chúng ta đừng sợ đầu tư, nhưng hãy gẫm xem hình ảnh “Bụi cây cháy mà không bị thiêu rụi”, để gia tăng lòng tin và sức mạnh giúp chúng ta bố thí, giúp chúng ta thương người và giúp người.
Nếu chúng ta làm việc bố thí theo Lời Chúa dạy, thì ta đã làm cho chính Chúa và việc ta làm đó sẽ không tàn lụi theo năm tháng, nhưng sẽ là một mối lợi to lớn cho chính ta ở đời sau. Nói các khác, ta dùng của cải chóng qua ở đời này mà mua lấy Nước thiên đàng cho ta.
Hơn nữa, bố thí, cho đi cũng có nghĩa là ăn năn sám hối của ta nữa. Một đàng là ta đền trả cho những ai mà ta đã cách này cách kia làm thiệt hại cho họ; ta đã chiếm cách bất công; ta đã hớt tay trên của họ; ta đã lợi dụng, đã bóc lột công sức của họ. Đàng khác là ta làm việc lành phúc đức, để lập công; để nên thánh, nên thiện.
Vậy ta hãy thực hành việc bố thí và cho đi; nói tóm là “Thương người” này trong Mùa Chay cũng như trong cuộc đời dương thế của ta, theo khả năng mình có.
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta không thể không biết đến việc thương người có 14 mối: thương xác 7 mối và thương hồn 7 mối. Đó là những việc làm cụ thể, được gọi là bố thí; là cho đi, là thương người đó.
Thương xác 7 mối: 1. Cho kẻ đói ăn; 2. Cho kẻ khát uống; 3. Cho kẻ rách rưới ăn mặc; 4. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; 5. Cho khách đỗ nhà; 6. Chuộc kẻ làm tôi; 7. Chôn xác kẻ chết.
Thương linh hồn 7 mối: 1. Lấy lời lành mà khuyên người; 2. Mở dạy kẻ mê muội; 3. An ủi kẻ âu lo; 4. Răn bảo kẻ có tội; 5. Tha kẻ dể ta; 6. Nhịn kẻ mất lòng ta; 7. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Tùy theo khả năng mình có mà ta làm được mối nào thì hay mối đó; làm càng nhiều càng tốt. Đời này, ta sẽ có được một tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng, siêu thoát khỏi của cải, danh vọng thế gian; đời sau ta sẽ có một kho tàng ở trên trời và được thừa hưởng sự sống trên thiên đàng vĩnh cửu.
Ta hãy mạnh mẽ tin rằng: Như “bụi cây cháy mà không rụi” thế nào thì việc bố thí của ta cũng sẽ không bị qua đi và không tàn lụi như thế.
Trong sứ điệp Mùa Chay 2019, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Trong Mùa Chay của mình, một lần nữa chúng ta lại muốn cùng đi trên một con đường, để mang đến cho thế giới niềm hy vọng của Chúa Ki-tô rằng, “nó sẽ được giải thoát , không còn phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, nhưng được cùng với con cái Thiên Chúa, chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8, 21). Chúng ta đừng để cho thời gian thuận tiện này trôi đi cách vô ích! Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa giúp sức để chúng ta biết chọn đi theo con đường hoán cải đích thực.” (Sứ điệp Mùa Chay 2019).
“Hoán cải” là thay đổi theo chiều hướng tốt. Hành động hoán cải nói lên một sự thay đổi đời sống: Bỏ một cung cách sống quen thuộc để nhận một cung cách sống mới tốt hơn; bỏ việc phục vụ mình một cách ích kỷ để phục vụ Thiên Chúa và phục vụ cộng đồng. Cuối cùng là bất cứ quyết định hoán cải hay đổi mới nào, dù làm theo cách nào, đều đưa con người tới gần hoặc kết hợp với sự sống của Thiên Chúa. Ý nghĩa cuối cùng của hoán cải hoàn toàn thuộc phạm vi tôn giáo; nó có nghĩa là thay đổi hướng đi, thay đổi con đường, bỏ đường tà trở lại đường chính, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước Tình Yêu, và dấn bước vào một cuộc sống mới. Cựu Ước coi hoán cải không chỉ là thay đổi tâm trí, mà là cả con người; không chỉ trong ý nghĩ mà cả trong hành động. Bước sang Tân Ước (MC 1, 14-15; Mt 4, 12-17; Lc 4, 14-15), hoán cải có 2 nghĩa: sám hối và canh tân (ăn năn hối hận, đổi mới, tin vào Tin Mừng) .
Ngoài chiều hướng luân lý (bỏ điều dữ làm điều lành), đặc biệt hoán cải còn có chiều hướng thần học. Chính chiều hướng thần học làm nền tảng cho chiều hướng luân lý. Một cách cơ bản, hoán cải không chỉ đơn thuần là sửa chữa những lầm lỗi thiếu sót của mình; mà còn phải biết nhìn lại mình để hiểu cho đúng mình là ai trước mặt Thiên Chúa, để có thể quy hướng về Người. Trên thực tế, con người luôn có khuynh hướng đánh giá mình quá cao nên không thể công chính trước mặt Thiên Chúa và đối với anh chị em. Vậy khi Ðức Giê-su, tiếp theo sau Thánh Gio-an Tẩy Giả, kêu gọi hoán cải, Người muốn chúng ta làm gì? Dựa vào những ý nghĩa trên đây, thấy quả thực hoán cải có hai khía cạnh: Một đàng hướng về quá khứ để hối hận đau buồn vì những lầm lỗi đã phạm (sám hối), một đàng hướng về Thiên Chúa nơi Ðức Ki-tô là Ðấng đã đến, đang đến và sẽ đến để đổi mới bản thân (canh tân).
Câu chuyện “mấy người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết cách tàn nhẫn được một số người kể lại với Đức Ki-tô” (Bài Tin Mừng CN III/MC năm C: Lc 13, 1-9) đặt ra một vấn nạn: Tại sao họ lại kể câu chuyện đó và họ kể với mục đích gì? Chắc chắn cũng lại là một cách “thử” để xem phản ứng của Đức Giê-su. Họ cho rằng mấy người ấy chết như vậy là đáng, vì tội chống lại chính quyền bảo hộ Rô-ma nên mới bị Tổng trấn Phi-la-tô giết. Cũng giống như câu chuyện ném đá “người đàn bà ngoại tình” (Ga 8, 1-11). Nếu Đức Giê-su không đồng ý ném đá thì vi phạm Lề Luật (luật Mô-sê cho phép ném đá cho đến chết những người đàn bà ngoại tình). Đồng ý ném đá thì lại đi ngược với luật của đế chế Rô-ma đang cai trị Do Thái (mà người đại biểu là Tổng trấn Phi-la-tô). Đồng ý hay không đồng ý, đằng nào cũng kẹt; và nếu gặp phải tay mơ thì sập bẫy là cái chắc. Nhưng Đức Ki-tô thì khác xa, chỉ với một câu nói ngắn gọn (“Ai trong các người sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”), Người đã lấy “gậy ông đập lưng ông” khiến đám kinh sư Pha-ri-sêu “tiu nghỉu như mèo bị cắt tai” âm thầm lủi mất tăm. Chính điều này cho thấy Đức Giê-su muốn dạy một bài học “đã là con người thì ai cũng có tội, không nhiều thì ít, chẳng nặng cũng nhẹ”, và vì thế, Người mới nói với người đàn bà ngoại tình: “Chị hãy về đi, và đừng phạm tội nữa” (ngụ ý: Tôi cứu chị vì lòng thương xót, chớ không phải vì chị không có tội).
Tương tự như vậy, câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã thẳng thắn trả lời đám người Do Thái (“Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.” – Lc 13, 2-3) với ngụ ý: Mấy người đó không phải chết vì tội lỗi hơn mọi người khác (nghĩa là cũng có tội), rồi Người nhấn mạnh: “nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (Lc 13, 5). Người còn dẫn chứng thêm: “Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.” Rõ ràng là con người thì ai cũng có tội, chẳng ai là hoàn toàn tinh tuyền thánh thiện. Duy có một điều là con người có nhận ra được tội lỗi của mình và có biết ăn năn hối cải hay không, mà thôi. Chính vì thế, nên sau khi phán dạy: “nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”, Đức Giê-su dùng một dụ ngôn cụ thể (“Cây vả không ra trái”) để dạy về việc sám hối. Vả là thứ cây rất dễ ra trái dù không được tưới bón đều đặn, vậy mà cây vả này được trồng trong vườn và được chăm bón cẩn thận, vẫn lì lợm không thèm ra trái, khiến ông chủ vườn phải phàn nàn và quyết định: “Đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái mà không thấy! Hãy chặt nó đi, để làm gì cho hại đất!” Người làm vườn đã can thiệp, xin ông chủ để cho cây vả sống thêm một năm nữa, để anh ta cố gắng chăm bón cho nó, hy vọng nó sẽ sinh trái vào năm tới. Dụ ngôn đem cây vả ví với người tội lỗi: Cây vả được chăm bón cẩn thận mà không sinh trái, nào có khác gì con người được sống trong tình yêu thương chan chứa của Ông Chủ Trời mà vẫn “không nghe Lời Người”. Rõ ràng ông chủ vườn là Thiên Chúa Cha và người làm vườn đích thị là Người Con. Ấy cũng bởi vì Người Con “không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5, 32).
Quả thực là “Tôi cứu chị vì lòng thương xót chớ không phải vì chị không có tội. Vậy chị hãy về đi và đừng phạm tội nữa.” Đừng phạm tội nữa tức là phải biết sám hối và hoán cải, và nếu không biết sám hối và canh tân thì: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 10; Lc 3, 9). Vấn đề đã rõ ràng: Hãy nhìn lại mình và sẵn sàng bước vào Mùa-Chay-Cuộc-Đời để ăn năn hối cải về những sai phạm mình đã vướng mắc. Đừng ảo tưởng mình hoàn toàn trong sạch, không tì vết và có thể đứng vững trước ba thù, bởi “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12). Tuy nhiên cũng đừng lo sợ thái quá để rồi rút cổ gục đầu trước những thử thách, vì “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng.” (1Cr 10, 13). Tắt một lời, hãy sẵn sàng thực hành Lời Chúa: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17)
Tóm lại, “Chúng ta đừng để cho thời gian thuận tiện này trôi đi cách vô ích! Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa giúp sức để chúng ta biết chọn đi theo con đường hoán cải đích thực. Chúng ta hãy để sự ích kỷ, để cái nhìn bị gắn chặt vào bản thân mình, lại đàng sau chúng ta, và hãy hướng về Đại Lễ Phục Sinh của Chúa Giê-su; những người anh chị em của chúng ta đang gặp cảnh khốn cùng nên trở thành những người thân cận của chúng ta, tức những người mà chúng ta chia sẻ với họ những kho tàng tinh thần và vật chất của mình. Và như thế, khi chúng ta đón nhận cuộc chiến thắng của Chúa Ki-tô trên tội lỗi và sự chết vào trong cuộc sống cụ thể của chúng ta, chúng ta cũng sẽ kéo được sức mạnh có sức biến đổi của Ngài xuống trên thế giới thụ tạo.” (Sứ điệp Mùa Chay 2019, Kết luận). Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Con biết rõ con là kẻ có tội, nhưng chẳng bao giờ con nhìn rõ được tội trạng của con. Chỉ có Chúa thấu suốt mọi sự và luôn sẵn sàng muốn hoà giải với con. Vâng “chính nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài”, con sẽ được hoà giải với Ngài, tự hoà giải chính mình và hoà giải với anh em của con. Cúi xin Chúa thương ban cho con “ơn nước mắt”, “ơn hoà giải”, để con biết “nhìn lại mình” mà sẵn sàng thống hối về tội lỗi con đã xúc phạm đến Chúa, đến anh em của con; đồng thời đổi mới con người của mình để xứng đáng là con cái của Chúa Cha và là bạn hữu (Ki-tô hữu) đích thực của Đức Giê su Ki-tô, Chúa chúng con. Ôi! “Lạy Chúa đoái thương nghe tiếng con phàn nàn. Con dốc lòng ăn năn, con sấp mình con xin hết lòng kêu van, xin Chúa thứ tha bao sai lầm tội lỗi. Con quyết lòng tự hối theo đường Chúa đi mà thôi….” (Tâm Bảo – “Giọt lệ thống hối” – TCCĐ).
Niềm vui và đau khổ, bình an và tai họa, ấm no và đói khát, không chỉ là những cụm từ đối nghịch nhau, nhưng so sánh ấy còn là dịp để mỗi người khám phá giá trị thật của hạnh phúc. Tình bè bạn cao quí nhất vẫn được nói tới là: phúc cùng hưởng, họa cùng chia. Cuộc tình sòng phẳng hơn cả trách nhiệm là: thân ai người ấy lo. Mâu thuẫn trong tư tưởng, hành động, giả dối trong suy nghĩ, bất trung thành với lời hứa, có phải là nguyên nhân đưa tới sự xấu, điều ác hay không ?
Từ xa xưa, dân gian vẫn cho rằng: ở hiền gặp lành, còn nghèo đói, bệnh tật, tai
họa, là do ăn ở thất đức ! Thực ra, tai nạn xảy ra có thể là do bất cẩn trong lao động, mỏi mệt vì cơ thể yếu đau, hoặc thiên tai bất ngờ ập đến, khách quan thì họ là nạn nhân đáng thương hơn đáng trách. Sự kiện những người Galilê bị quan tổng trấn giết hại, hẳn là một việc “nhạy cảm”. Chúa Giêsu không cho rằng họ thiếu cẩn thẩn, cũng không phải họ có tội nhiều hơn những người Galilê khác.
Đúng hơn, Chúa không cổ vũ bạo động, hay im lặng trước việc xấu, cũng chẳng phải lên án hành động giết người của Philatô, hay phản đối bất công vì 18 người bị tháp Silôe đè chết. Chúa quả quyết với những người hôm xưa và chúng ta hôm nay: “nếu các ngươi không ăn năn sám hối, các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy”. Lời cảnh báo về số phận của mỗi người, không phải là tìm né tránh đau khổ, tai họa, nhưng là lời nhắc nhớ lòng bao dung của Thiên Chúa, nên hãy mau thật lòng sám hối tội lỗi của mình.
Quy luật sống ở đời mọi người đều được bình đẳng: nghe, hiểu, biết, cả những lời khuyên hữu ích, song chỉ có những ai khôn ngoan mới nhận ra họ được yêu thương. Người ta có thể trở thành quỷ dữ hoặc thánh nhân, khi không chịu nghe, không muốn hiểu về những tai họa, về những phúc đức xảy ra nơi cuộc sống. Những đau khổ, tai họa dù bất ngờ hay hiển nhiên xảy đến, bao giờ cũng là lời cảnh tỉnh, nhắc nhớ lòng thương xót của Chúa dành cho chúng ta. Lòng nhân hậu và tha thứ của Thiên Chúa chỉ có ý nghĩa khi mỗi người biết khiêm tốn ăn năn sám hối về tội lỗi của mình.
Tục ngữ có câu: cười người hôm trước hôm sau người cười. Dù biết rằng, ai cũng có quyền tự do, hoặc có quyền cười khi thấy những gì “sai quấy”, “rởm đời”… Biến cố “bị giết chết” xem ra nóng hổi tính thời sự đối với người Do-thái, một do sự tàn ác của tổng trấn Philatô, một do tai họa bất ngờ ập tới, cả 2 đều dẫn đến sự thê thảm chết chóc. Có thể nhiều người muốn Chúa Giêsu cho một ý kiến “nên cười, hay nên khóc”, trước cái chết “bất ưng” ấy. Với ơn khôn ngoan, hẳn Chúa Giêsu đã chỉ cho mọi người biết đừng bao giờ cười trước sự đau khổ, tai họa, của kẻ khác. Đừng dửng dưng về tính thời sự, nhưng ai muốn thoát khỏi cảnh chết đời đời, hãy ăn năn sám hối trước tội lỗi của mình.
Mang thân phận yếu đuối tội lỗi, thiếu sót sai lầm, chưa phải là căn bệnh “hết thuốc chữa”, vì thế mà qua mỗi biến cố xấu xảy đến với mình, với anh chị em mình, đều là dịp để chúng ta nhận ra lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Chỉ khi ý thức về cách sống đức tin hiện tại ra sao, chúng ta mới biết thật lòng khóc thương tội lỗi, sai lầm của mình. Nhận ra lòng nhân hậu của Chúa, người ta sẽ biết cười, vì phần thưởng Thiên Chúa sẽ ban cho những ai thật lòng đã và đang sám hối ăn năn.
Khi đưa ra dụ ngôn cây vả không sinh trái, tưởng chừng không liên quan tới việc sống chết, vì cây vả không làm gì nên tội lỗi, không đấu tranh, không bất cẩn hay vô tình ? Đúng, cây vả không sinh hoa kết trái, đã 3 năm ông chủ kiên nhẫn trông chờ; người làm vườn vẫn xin chủ, cho cây vả được thêm ân huệ sống một năm nữa để ông vun xới, hy vọng nó sinh trái. Vấn đề sống chết, đó là quy luật, nhiều người cho rằng sớm muộn cũng phải đến, nhưng sống có ích hoặc sống vô ích là 2 điều hoàn toàn khác nhau.
Sách có câu: của cải có thể tự chúng tìm đến ta, nhưng sự khôn ngoan thì chúng ta phải tự tìm kiếm. Nghe để hiểu, để sống, chúng ta đều có cơ hội như nhau, nhưng biết quyết định chọn điều tốt đẹp cho mình, tùy thuộc tự do của mỗi người. Chúng ta có cảm thấy an toàn như cây vả chưa sinh trái hay không ? Chúng ta có tự hào là mình không làm điều xấu, chẳng gây thù hận gì đến ai ? Nhưng mỗi người Kitô hữu đừng quên làm điều tốt, đừng sống như người nghèo hèn trong khi nén bạc Chúa trao thì lại cất giấu. Các nhà tu đức cũng quan niệm rằng: khi không làm điều tốt cho đời, cho người anh chị em mình, nghĩa là ta đang vô tình tiếp thêm sức mạnh cho sự dữ tung hoành.
Đã được sinh ra làm người, trước hết và trên hết, ai cũng cần biết đến tình yêu thương của cha mẹ. Được sinh ra làm con Chúa và Hội Thánh, chúng ta không thể sống mà không nhận ra “lòng nhân hậu” của Thiên Chúa. Mỗi người Kitô hữu phải tự biết suy xét để nhận ra tội lỗi bất xứng của mình, thay vì ảo tưởng về sự bình an giả tạo để suy xét tội lỗi của người khác. Thấy sai lầm và lỗi tội của người khác mà không biết tâm hồn mình sạch hay dơ, chính là nguyên nhân khiến lòng ra kiêu ngạo, khinh người, đáng chết mà thôi. Thiên Chúa nhân từ và hay tha thứ, nhưng sám hối ăn năn về tnhững hiếu sót tội lỗi của mình, tùy thuộc mỗi chúng ta. Amen.
Có ai đó nói rằng: “tha thứ lớn nhất của đời người là khoan dung”. Vì khoan dung với người cũng chính là khoan dung với mình, giải thoát mình khỏi những sự giận dữ, căm tức, hận thù, tranh chấp…, nhờ đó mà cân bằng được cuộc sống của mình.
Điều đáng tiếc là con người lại thiếu lòng bao dung. Dường như chẳng mấy ai nhịn được một cái tức. Chẳng mấy ai kiềm lòng được một câu chửi. Rồi lời qua tiếng lại dẫn đến ẩu đả loại trừ lẫn nhau.
Người ta kể rằng: Một linh mục Công Giáo, một mục sư Tin Lành, và một giáo trưởng Do Thái, đang tranh luận rất sôi nổi về vấn đề thần học. Thình lình một Thiên Thần hiện ra giữa họ và nói:
– Thiên Chúa chúc lành cho các ngươi. Các ngươi hãy nói lên một ước nguyện về hòa bình và Thiên Chúa toàn năng sẽ chấp nhận.
Thế là vị mục sư Tin Lành liền khẩn cầu.
– Xin Chúa cho tất cả mọi người Công Giáo biến khỏi trái đất thân yêu này thì hòa bình sẽ trở lại tức khắc.
Vị linh mục Công Giáo thì cầu nguyện:
– Xin đừng để cho một người Tin Lành nào còn có mặt trên trái đất thân yêu này, và hòa bình sẽ trở lại.
Vị giáo trưởng Do Thái thì lại cúi đầu thinh lặng. Thấy thế Thiên Thần liền hỏi:
– Còn ngươi, hỡi giáo trưởng, ngươi không có ước nguyện nào ư?
Ông ta liền thưa:
– Vâng, tôi không có điều gì để xin nữa. Tôi chờ cho lời cầu của hai vị này được Chúa chấp nhận là tôi mãn nguyện rồi.
Thật thâm thúy cho người Do Thái. Không cầu điều gì mới chỉ cần hai lời cầu kia đều được thực hiện thì trên trái đất cũng chỉ còn một mình anh.
Chúng ta có một vì Thiên Chúa rất nhân hậu và rất mực khoan dung. Ngài có giận thì giận trong giây lát nhưng yêu thương thì suốt đời. Ngài vẫn đong đầy tình yêu cho người lành và cả người dữ để cải hóa họ ăn năn trở về. Ngài kiên nhẫn như người làm vườn vẫn tận tụy chăm sóc cây vả đề chờ cây ra trái đơm hoa cho dù phải chờ đợi hết năm này đến năm kia.
Cuộc sống này đầy những thị phi. Tránh sao khỏi những xung đột bất hòa trong lời nói và việc làm. Điều quan trọng là hãy có lòng bao dung với nhau. Hãy sống “chín bỏ làm mười”, vì “một điều nhịn bằng chín điều lành”. Xung đột rồi sẽ qua. Cơn nóng sẽ nguôi ngoai, hãy kiên tâm chịu đựng lẫn nhau để xây dựng một xã hội thân thiện yêu thương.
Cầu chúc cho mỗi người biết tin vào lòng nhân từ thương xót của Chúa để điều chỉnh bản thân nên giống Chúa trong cư xử và hành động. Xin cho mùa chay giúp chúng ta nhận ra anh em cũng đang kiên nhẫn với tội lỗi của ta thì chính chúng ta cũng hãy tha thứ và mở lòng bao dung đến với tha nhân. Amen.
Thứ Sáu, ngày 12/2 vừa qua, trên đường đến thăm Mexicô, Đức Thánh Cha Fancis đã có cuộc gặp với Thượng Phụ Karill, Giáo chủ Chính Thống Nga. Cuộc gặp này được coi là cuộc gặp lịch sử giữa hai nhà lãnh đạo Công Giáo và Chính Thống Nga sau hàng ngàn năm ly khai. Trên chuyến bay sau đó, Đức Cha cho biết, cuộc gặp này như cuộc gặp gỡ của hai anh em sau nhiều năm xa cách. Hai Ngài đã cùng ký kết một tuyên bố chung, nói lên khao khát tìm kiếm sự hoà giải và hiệp nhất. Sự kiện này diễn ra trong mùa chay, là dịp để chúng ta suy nghĩ về việc hoán cải, sám hối.
Nhìn nhận sai lầm thiếu sót của mình để nói lời xin lỗi và quyết tâm sửa sai không làm suy giảm phẩm giá của con người, nhưng lại làm tăng thêm giá trị cho con người. Tuy nhiên, dám nhìn nhận sai lầm thuộc về mình đã là điều khó, sám hối và sửa chữa sai lầm lại là điều khó hơn, nhất là khi người đó có một địa vị trong xã hội. Chúng ta có thể thấy, có những người lãnh đạo biết mình sai lầm mà không dám nhận lỗi, hoặc nếu phải nhận lỗi thì cũng tìm cách chống chữa cách này cách khác, hoặc đổ lỗi cho người khác. Không dám nhận sai lỗi của mình, nhưng ngược lại, người ta lại rất dễ nhìn thấy, tìm kiếm sai lỗi, lên án và kết tội anh em khi anh em có những sai lầm. Người ta làm như thế cốt để che lấp cái sai của mình.
Những người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay cũng có thái độ như vậy. Họ đến với Chúa Giêsu và kể cho Ngài nghe câu chuyện về những người bị Philatô giết khi đang dâng của lễ, với ý nói rằng: Những người bị giết kia hẳn phải là người tội lỗi lắm thì mới chết thảm như vậy. Chúa Giêsu đã không đồng ý với suy nghĩ của những người này. Ngài còn cho biết thêm, những người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết cũng không phải là những người tội lỗi. Người Do Thái cho rằng, tất cả những người bị tai nạn là những người tội lỗi bị Chúa trừng phạt. Nhưng Chúa cho biết, các biến cố ấy xảy ra là cơ hội, là tiếng nói để nhắc nhở mỗi người hãy sám hối và nếu không cũng sẽ phải chết thảm như thế.
Sám hối không chỉ là nhìn nhận sai lầm rồi nói lời xin lỗi, mà phải là một quyết tâm sửa sai, thay đổi từ suy nghĩ đến hành động (metanoia). Chỉ khi chúng ta chấp nhận thay đổi quan điểm, suy nghĩ của mình theo chiều hướng tốt thì chúng ta mới có thể đi đến những hành động tốt được. Chúa Giêsu kể dụ ngôn cây vả để nói đến điều đó: Người kia có một cây vả trồng trong vườn, đã ba năm ông chủ đến tìm trái, mà chỉ thấy toàn những cành lá xum xuê, ông ra lệnh cho đầy tớ chặt nó đi, không để nó choán đất; nhưng người làm vườn đã xin gia hạn cho nó một năm nữa, hy vọng nó sẽ ra trái, nếu không, ông chủ sẽ chặt nó đi. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta sinh những hoa trái tốt lành trong đời sống. Thiên Chúa không muốn thấy chúng ta giống như cây vả xum xuê cành lá, mà Ngài muốn nhìn thấy hoa trái trong đời sống đức tin của chúng ta, chứ không chỉ là những hình thức xum xuê bên ngoài. Thiên Chúa cũng cho con người nhiều cơ hội để sám hối và sinh hoa trái, giống như ông chủ chờ đợi hoa trái ở cây vả đã ba năm. Tuy nhiên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng có giới hạn. Nếu mỗi người không biết nắm bắt cơ hội Chúa cho để sinh trái, thì Thiên Chúa là ông chủ sẽ loại bỏ chúng ta, sẽ ném ta vào lò lửa.
Tại sao chúng ta phải sám hối ? Vì Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài không thể làm ngơ khi thấy chúng ta bị sự trói buộc của tội lỗi và làm nô lệ cho ma quỷ. Thiên Chúa muốn ra tay cứu độ chúng ta, với một điều kiện, là chúng ta phải nắm lấy tay Ngài. Giống như ngày xưa, Thiên Chúa đã nhìn thấy cảnh nô lệ nhục nhằn của dân Do Thái bên Aicập. Thiên Chúa hiện ra với ông Môsê trong bụi gai cháy lửa, đã gọi ông, sai ông đến với vua Pharaô và xin nhà vua cho phép đưa dân ra khỏi Aicập: Ta đã thấu rõ cảnh khổ cực của dân Ta, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than. Cũng từ nơi bụi gai, lần đầu tiên, Thiên Chúa tỏ cho ông Môsê Danh Thánh của Ngài. Danh của Ngài chính là quyền năng, là sức mạnh của Thiên Chúa và là Danh để cho mọi người kêu cầu qua muôn thế hệ.
Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nhắc lại cho dân Côrintô về những sự kiện quyền năng lạ lùng Thiên Chúa đã dùng để cứu dân Người ra khỏi Aicập. Tuy nhiên, trước lòng nhân từ của Thiên Chúa, dân Israen lại hay thay lòng đổi dạ. Họ đã nhiều lần thử thách Thiên Chúa và chọc giận Người bằng việc thất trung với những lời cam kết, chạy theo lối sống của dân ngoại. Thánh Phaolô đã rút ra kết luận rằng: Tất cả những biến cố xảy ra trong lịch sử là bài học răn dậy chúng ta đừng bao giờ chiều chuộng thân xác và dục vọng trong con người của mình, đừng để nó chỗi dậy làm chủ và điều khiển con người chúng ta. Khi dục vọng làm chủ, chúng sẽ không nâng chúng ta lên, nhưng sẽ dìm con người chúng ta xuống sâu trong sự lệ thuộc vào nó. Dục vọng, xác thịt, cùng với những tật xấu là những kẻ nội thù, nằm rình chờ trong chúng ta và sẽ tấn công chúng ta khi chúng ta mất cảnh giác bởi sự tự mãn, kiêu căng.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người dám nhìn nhận những sai lầm, thiếu sót của mình, can đảm để xin lỗi Chúa và làm hòa với anh chị em. Mỗi người hãy biết lợi dụng cơ hội mùa chay này để trổ sinh những hoa trái phúc đức là những việc làm tốt, những việc bác ái. Hãy hàn gắn lại mối tương quan của chúng ta với Chúa qua Bí tích Giải tội, để nơi tòa giải tội, chúng ta cảm nhận được sự nhân từ, lòng thương xót và cả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Qua Bí tích Giải tội, chúng ta không chỉ được tẩy rửa những tội lỗi, mà còn được ban ơn trợ giúp để trổ sinh hoa trái trong tâm hồn và trong cuộc sống. Hãy quyết tâm trở về với Chúa một cách thật lòng và quyết tâm chân thành trở lại làm hòa với anh chị em, nối lại mối quan hệ tốt đẹp. Hãy can đảm đi bước trước để gỡ bỏ những bất hòa, bất đồng. Hãy mạnh dạn đưa tay ra để bắt lấy tay nhau, xóa bỏ những giận hờn, thù oán, đừng để những sự nóng nảy làm đổ vỡ tình anh em, đừng để những lời nói hoặc hành động làm tổn thương anh em mình.
Hãy bắt đầu sám hối từ trong gia đình, từ nơi cha mẹ, nhìn lại trách nhiệm và bổn phận làm vợ làm chồng của mình. Hãy xét lại cách ăn ở, cư xử với nhau, những chỗ nào chưa tốt, cần khắc phục và làm cho tốt hơn. Các bậc làm cha mẹ hãy dám nói lời xin lỗi với nhau và kể cả nói lời xin lỗi con cái khi mình làm sai. Con cái và anh em hãy sám hối và quyết tâm xây dựng bầu khí gia đình ấm cúng, thuận hòa hơn, kính trên nhường dưới, tha thứ và thông cảm cho nhau.
Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót của Chúa, các bạn trẻ được mời gọi sám hối vì lối sống của nhiều người đã đi ngược lại với đức tin Công Giáo. Nhiều người đã để cho đức tin của mình chỉ còn như một ánh lửa leo lét, vàng vọt, không bùng cháy, cũng không chiếu tỏa soi sáng cho người khác được. Hãy nhận ra những sai lầm trong cách sống của mình, nhiều người đã để cuộc đời mình trôi nổi như cánh bèo vô định, không cố gắng học hỏi và trau dồi thêm giáo lý đức tin. Vì thế, đã không đứng vững được trước sự tấn công của ma quỷ và của xã hội hôm nay. Các bạn trẻ cũng cần sám hối vì lối sống ngông cuồng, kiêu ngạo của mình, đã đặt những thú vui, khoa học công danh lên trên cả Thiên Chúa và vì thế, cuộc đời của nhiều người mỗi ngày lại trở nên tăm tối hơn.
Cầu chúc cho mỗi người biết tin vào lòng nhân từ, thương xót của Chúa để điều chỉnh bản thân và trổ sinh nhiều hoa trái bác ái, yêu thương cho chính cuộc đời mình và cho thế giới hôm nay. Amen.
Issac Newton đặt vấn đề: “Nếu tôi có được khám phá giá trị nào, đó là nhờ chú y’ nhẫn nại hơn là bất kỳ tài năng nào tôi có”. Cato có cách so sánh cực cấp: “Nhẫn nại là đức tính lớn nhất trong mọi đức tính”. Nhẫn nại là kiên nhẫn, kiên trì, không bỏ cuộc, không quá nóng lòng chờ kết quả, bình tĩnh chờ thời cơ, nhẫn nhục chịu đựng khó khăn. Nhẫn nại cũng có nghĩa là nhịn nhục. Nhẫn nại là một nhân đức, là thứ “cỏ quý” luôn cần đem bên mình như “thần hộ mệnh” vậy.
Không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Thời gian là lúc Ngài nhẫn nại chờ đợi các tội nhân chúng ta biết ăn năn sám hối. Thiên Chúa kêu gọi ăn năn, chúng ta sám hối và xin lỗi Ngài, nhưng rồi chúng ta lại tái phạm, chúng ta lại ăn năn và Ngài lại tha thứ. Đối với phàm nhân chúng ta, chỉ “quá tam ba bận” là nhẫn nại lắm rồi, nói chi “70 lần 7” (Mt 18:22). Vâng, chắc chắn không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Vì thế mà ai cũng phải nhẫn nại với nhau, nhẫn nại tha thứ lẫn nhau. Đó là ơn gọi của mọi người, đặc biệt là đối với các Kitô hữu, và trong Mùa Chay này.
Trình thuật Xh 3:1-8a. 13-15 cho biết về ơn gọi và sứ vụ của ông Môsê.
Bấy giờ ông Môsê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. Ông Môsê nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tiến đến xem cảnh tượng kỳ lạ này. Từ giữa bụi cây, Thiên Chúa gọi ông và ông thưa: “Dạ, tôi đây”. Ngài phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Ngài lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp”. Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó là Thánh Địa. Ông Môsê đến Thánh Địa nhưng che mặt đi vì ông sợ – sợ nhìn phải Thiên Chúa.
Tại sao lại sợ nhìn thấy Thiên Chúa? Có lẽ vì đôi mắt phàm nhân không thể chịu nổi ánh sáng phát ra từ nơi Ngài. Đèn cao áp mà mắt thường nhìn còn thấy chói huống chi nhìn ánh mặt trời, mà ánh mặt trời cũng chỉ là ánh sáng của thụ tạo, không là gì so với ánh sáng phát ra từ Thiên Chúa. Vả lại, ông Môsê biết mình là phàm nhân bất xứng với Ngài. Thật đúng vậy. Và chúng ta cũng thế thôi.
Thiên Chúa chí thánh, nhưng Ngài yêu thương các sinh linh do Ngài tác tạo nên Ngài muốn ở với chúng ta, muốn cứu chúng ta, và muốn chúng ta được đồng hưởng vinh quang với Ngài. Các ngôn sứ là những người được Ngài tuyển chọn để “nối kết” với Ngài.
Một trong những người đại diện đó là ông Môsê. Thiên Chúa đã giao sứ mạng cho ông. Ngài nói với ông: “Ta đã THẤY RÕ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã NGHE tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta BIẾT các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống GIẢI THOÁT chúng khỏi tay người Ai-cập, và ĐƯA chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật”. Ông Môsê là người đảm trách việc hướng dẫn dân chúng tiến về Khu Trù Mật mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ.
Đặc biệt là chính Ngài đã mặc khải Thánh Danh của Ngài: Thiên Chúa tự hữu và hằng sinh. Ông Môsê thưa với Ngài: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?”. Ngài cho ông Môsê biết rạch ròi: “Ta là Đấng Hiện Hữu”. Rồi Ngài bảo ông Môsê nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em”. Ngài còn bảo ông Môsê nói thêm điều này với dân Ít-ra-en: “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”. Rõ ràng Thiên Chúa căn dặn phàm nhân phải kêu cầu Thánh Danh của Ngài, và Ngài sẽ lo liệu cho phù hợp với mỗi người. Đó là mầu nhiệm về sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Vâng, chúng ta không thể nào diễn tả đầy đủ về Thiên Chúa. Phàm ngôn quá ít, trí tuệ quá nhỏ. Chính Ngài đã hào phóng trao ban cho chúng ta mọi sự – từ vật chất đến tinh thần, ngay cả đau khổ cũng là tặng phẩm mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tất cả đều là mầu nhiệm. Phàm nhân chúng ta chỉ biết cúi đầu chúc tụng và cảm tạ Hồng Ân Thương Xót của Ngài, như tác giả Thánh Vịnh tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4).
Thiên Chúa không thiên vị bất cứ ai, kể cả tội nhân. Nhưng Ngài chú ý đặc biệt đối với những kẻ hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị đồng loại đối xử bất công: “Chúa phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:6-8).
Mãi mãi chúng ta không thể hiểu nổi Lòng Thương Xót của Ngài. Nếu chúng ta có quảng diễn theo cách này hoặc cách nọ, đó chỉ là một phần nhỏ có thể giúp nhau hiểu, và để rồi “liệu hồn” mà đối xử với nhau cho hợp tình hợp lý: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11).
Từ ngàn xưa, Đức Maria đã hân hoan xưng tụng: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Một sự thật minh nhiên, thật hơn cả sự thật. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (1 Cr 10:1-6). Tất cả chúng ta đều như nhau, thế nên chúng ta phải nên một trong Đức Kitô Giêsu. Không có cách khác để chúng ta chọn lựa.
Thiên Chúa nhẫn nại vì chúng ta, vậy chúng ta cũng phải nhẫn nại lẫn nhau, nhẫn nại với nhau và vì nhau. Không nhẫn nại là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì không thể tồn tại: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:10-12).
Thực thi lòng thương xót rất đơn giản, không cầu kỳ, không xa lạ như chúng ta tưởng. Chỉ cần chúng ta nhìn nhau bằng ánh mắt thân thiện là thể hiện lòng thương xót rồi. Nói lời ngọt ngào mà giả dối thì ích gì? Làm từ thiện khắp nơi mà không giúp đỡ người trong gia đình, như vậy không là giả hình thì là gì? Nhẫn nại lẫn nhau là một cách sống lòng thương xót. Nhưng… nói thì dễ, mà làm thì khó. Chúng ta phải thực sự nhẫn nại để tập sống nhẫn nại.
Nhẫn nại sám hối, nhẫn nại yêu thương, nhẫn nại chịu đựng,… nếu không thì chết chắc. Thiên Chúa vui tính và dễ tính, thật thà nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn, không nói đùa đâu đấy! Trình thuật Lc 13:1-9 cho chúng ta biết về “tình trạng” này.
Một hôm, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu nói ngay: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết y như vậy”. Điều kiện cách “nếu không… sẽ chết” như một điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại để cảnh báo những ai ảo tưởng, tự nhận mình “ngon” hơn người khác.
Trong đời thường, khi thấy người khác bị tai nạn hoặc tai ương, nếu nạn nhân là người “theo phe” với mình, người ta cho đó là “thánh giá Chúa gởi đến”; nhưng nếu nạn nhân “đối lập” với mình, người ta lại nói đó là “quả báo”, là “Chúa phạt”. Sự việc tương tự nhưng người ta nhìn bằng hai loại “mắt kính”. Cái “ý tưởng” của phàm nhân thật đáng sợ. Thế mà Thiên Chúa vẫn nhẫn nại, và Ngài tiếp tục im lặng.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn “cây vả không ra trái”. Ngài nói: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’. Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”. Dụ ngôn ngắn gọn nhưng súc tích, dễ hiểu, cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta.
Thời gian là sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Sự nhẫn nại đó là lòng thương xót của Ngài. Thật vậy, Ngài “không muốn kẻ gian ác PHẢI CHẾT, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và ĐƯỢC SỐNG” (Ed 33:11). Thiên Chúa nhẫn nại với chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta nhẫn nại với nhau: “Phúc thay những kẻ có lòng kiên trì” (Gc 5:11).
Lạy Chúa, xin giúp con biết Chúa và biết con để con tin yêu Ngài và ăn năn tội, nhờ đó mà con biết nhẫn nại với tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Chúng ta nhận biết không ai trong chúng ta muốn giữ những thứ vô dụng trong nhà, vừa choán chỗ vừa không còn sử dụng được, như những chiếc áo, chiếc quần đã rách, đôi giày, cái dù hay máy móc, dụng cụ đã hư hỏng. Nếu chúng ta đã cố gắng sửa mà vẫn không xử dụng được, thì chúng ta sẽ vất nó vào thùng rác để mua cái khác. Con người chúng ta, đặc biệt là những Ki-tô hữu được Chúa yêu thương ban nhiều ơn lành, trước mặt Thiên Chúa cũng thế. Vì yêu thương, Ngài sẽ làm mọi cách để dạy, sửa và giúp chúng ta ăn năn sám hối và thay đổi, trở nên những người tốt, và sinh sinh hoa trái tốt. Thiên Chúa muốn chúng ta là những con người hữu ích cho xã hội, và cho cộng đoàn giáo xứ mà chúng ta là một giáo dân. Thiên Chúa muốn chúng ta là những chi thể sống động và hữu ích trong Thân Thể Chúa Ki-tô. Thiên Chúa muốn chúng ta tin vào Ngài, yêu mến Ngài và làm những điều tốt cho tha nhân, làm những điều ích lợi cho cộng đồng. Bài Tin mừng cho chúng ta biết số phận cây vả vô dụng, không sinh trái, đã bị cắt đi để khỏi tốn công, choán chỗ và tránh thiệt hại cho cây khác, sau khi chủ đã cố gắng bằng mọi cách mà không thay đổi.
Các bài đọc lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng từ bi và thương xót, không muốn chúng ta sống trong đau khổ, bất hạnh, và dạy chúng ta phải biết nắm lấy cơ hội Chúa ban để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, và sinh hoa trái như lòng Chúa mong ước nơi mỗi người chúng ta.
Bài đọc I cho chúng ta biết Thiên Chúa động lòng thương xót dân của Ngài khi thấy họ sống trong đau khổ, và bị đối xử tàn nhẫn như những nô lệ bên Ai-cập. Thiên Chúa hiện ra với ông Mô-sê để tỏ ý định của Ngài, và sai ông đến với dân Israel, để chuẩn bị đưa họ ra khỏi đất nô lệ để vào Đất Hứa. Khi biết Thiên Chúa muốn chọn mình để lãnh đạo và hướng dẫn dân Israel ra khỏi Ai-cập, ông Mô-sê nhìn thấy trước hai sự khó khăn to lớn trong sứ vụ Thiên Chúa trao phó. Khó khăn to lớn thứ nhất, ông đang trốn tránh vua Pharao, người đang tìm giết ông, làm sao ông dám gặp và yêu cầu vua phóng thích dân Israel. Khó khăn to lớn thứ hai, dân Israel sẽ không tin ông, vì họ biết ông cô thân cô thế, một mình và chẳng có trong tay một sức mạnh nào cả. Để củng cố niềm tin và đánh tan sự sợ hãi của Mô-sê, Thiên Chúa đã thứ nhất cho ông chứng kiến một hiện tượng nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Thứ hai, Thiên Chúa mặc khải cho ông biết danh thánh của Ngài là Ðấng Tự Hữu. Và thứ ba Thiên Chúa hứa với ông “Ta sẽ ở với ngươi.” / Vì lòng xót thương, Thiên Chúa đã dùng Mô-sê làm phương cách để giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ lầm than khổ cực.
Trong bài đọc 2, Phaolô muốn các tín hữu nhìn lại biến cố Xuất Hành để rút ra những bài học cụ thể cho đời sống đức tin. Thánh Phao-lô cho chúng ta biết dù dân Israel đã được Thiên Chúa yêu thương, dùng quyền năng giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ, và dẫn đưa họ về Đất hứa, nhưng nhiều người trong họ đã vô ơn, phàn nàn kêu trách Chúa, và sau cùng, họ phải chết trước khi vào Đất Hứa. Giống như dân Israel trong biến cố Xuất Hành, thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng người tín hữu cũng đã được hưởng mọi ơn sủng từ Chúa Giê-su Ki-tô, nhưng những điều này không bảo đảm sẽ được phục sinh vinh hiển và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong vương quốc của Ngài, nếu chúng ta không biết dùng ơn sủng Chúa ban để luyện tập nhân đức, vượt qua mọi cám dỗ và cạm bẫy, để giữ vững đức tin vào Thiên Chúa, và sống trong ân sủng của Ngài, trở thành chi thể sống động và hữu ích cho thân thể.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở mọi người chúng ta phải biết nhìn các biến cố xảy ra trong cuộc đời và chung quanh, để nhận ra và học những điều quan trọng cho cuộc sống. Khi thấy những điều xấu và sự chết xảy ra cho người khác, đừng nghĩ là họ tội lỗi hơn mình, cho nên bị phạt, nhưng hãy biết sự chết, những điều xấu, điều dữ hay đau khổ, cũng có thể sẽ xảy ra cho mình, điều quan trọng là phải biết nhìn vào đời sống, ăn năn sám hối, cải thiện để sinh hoa kết trái tốt cho Thiên Chúa.
Ông bà anh chị em thân mến. Qua những bài KInh thánh, chúng ta nhận ra 2 bản tính của Thiên Chúa. Thứ nhất, Thiên Chúa yêu thương và từ bi, giàu lòng xót thương và nhẫn nại, và thứ hai, Thiên Chúa thưởng phạt cũng rất công bằng chính trực với tất cả mọi người. Thiên Chúa sẽ không thể dung túng tội lỗi, sự dữ. Ngài không thể im lặng cho tội lỗi và sự dữ gia tăng, hay để chúng ta trở nên vô dụng, đi xâu vào con đường đầy bóng tối tội lỗi và sự dữ. Vì yêu thương, Thiên Chúa ban nhiều ơn sủng, và qua nhiều người hay phương cách, để đánh động, cảnh tỉnh và kêu gọi chúng ta ăn năn quay trở về. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi như người cha chờ đợi người con hoàng đàng trở về, để tha thứ những yếu đuối, tội lỗi của chúng ta. Một điều chắc chắn là Thiên Chúa không muốn một ai trong chúng ta phải hư mất, vì Ngài đã tạo dựng nên chúng ta, nên Ngài kiên nhẫn chờ đợi trong yêu thương, được thể hiện qua lời kêu xin của người làm vườn trước cây vả không chịu sinh hoa trái: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
Ông bà anh chị em thân mến. Điều quan trọng mà chúng ta cần tự hỏi hôm nay: “Tôi là cây vả đang sinh hoa trái tốt, hay là một cây vả không sinh hoa trái?” “Hoa trái của cuộc sống tôi là gì?” “Cuộc sống của tôi có ích lợi gì cho xã hội, cho giáo xứ?” “Cuộc sống Ki-tô hữu của tôi mang lại hữu ích gì cho sự hiệp nhất, cho sự yêu thương và sống động trong Thân Thể Chúa Ki-tô?” “Tôi nhận ra nhiều ơn lành hồn xác Chúa ban, như cây nhiều lá xanh um tùm, nhưng tôi có sinh hoa trái tốt cho Chúa không?” / Mùa Chay là ân sủng của Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta, là thời gian giúp chúng ta nhìn vào đời sống Ki-tô hữu, để nhận ra tình trạng hiện tại ra sao. Thiên Chúa là Đấng từ bi ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác, và giàu thương xót trong rất nhiều đường lối. Một trong những đường lối của Chúa là cảnh tỉnh, kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, thay đổi cuộc sống. Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta tự do để chúng ta quyết định có sống lời dạy bảo của Chúa Giê-su, Người Làm Vườn hay không. Xin Chúa mở tâm hồn chúng ta để chúng ta biết nắm lấy cơ hội, lắng nghe lời Chúa kêu mời và sống lời Chúa dạy, để ngày mai cuộc sống của chúng ta bắt đầu nảy sinh hoa trái tốt cho Chúa, và như lòng Chúa mong ước.
Chủ đề Tin Mừng Chúa nhật III Mùa Chay là một chủ đề nói về sự dứt khoát, không do dự, không trù trừ, nếu muốn trở về với Thiên Chúa, thì không còn con đường nào khác hơn là sự sám hối ăn năn. Sám hối là một ân huệ cuối cùng, sau chót của đời người nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Tin Mừng hôm nay ( Lc 13, 1- 9) có hai phần chính:
Một là: Sự trả lời của Chúa Giêsu về số phận của kẻ tội lỗi. “Nếu không sám hối, thì sẽ chết hết.”( c 1 -5)
Hai là: Dụ ngôn cây vả không ra trái.( c 6 -9)
Chết ở đây không chỉ chết thân xác, mà chết đời đời. Qua sự việc tổng trấn phi-la-tô giết một số người Ga-li-lê, máu của họ hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Như vậy, theo người Dothai, cái chết của một số người Ga-li-lê bị Phi-la-tô giết chết là do tội lỗi của họ, nhưng, Chúa Giêsu thì không kết án qua cái chết thân xác. Vì, những người Ga-li-lê đang dâng lễ vật là những người lương thiện, tốt lành, công chính. Nhưng, họ vẫn bị sự trừng phạt bất nhân, tàn ác, của một vị quan ngoại bang cai trị họ. Chúng ta thấy, sự phán xét của Chúa Giêsu không dựa vào tiêu chí trần gian, chẳng hạn như thấy người ta chết vì tai nạn giao thông, hay một sự cố bất ngờ nào đó, thì cho là do họ làm ác phải chịu quả báo. Người đời thường hay đánh giá bên ngoài, sự đánh giá của phàm nhân, thường là tiêu cực, mang lại sự ác của lý lẽ con người. Vì vậy, ngay đó, Chúa Giêsu đã đưa một vụ việc đã xảy ra đối với mười tám người bị tháp Siloe đè chết, không phải vì họ có tội hơn những người khác ( c 4). Nhưng, là những cách thức chết về phần thân xác không phải là do họ tội lỗi, mà là do những tác động tiêu cực, như về kỹ thuật, hay nghề nghiệp, chết vì rủi ro do tai nạn chính mình, hoặc người khác gây ra do bất cẩn, hoặc cố ý, đều không phải do tội lỗi của chính nạn nhân.
Theo đó, điều quan trọng là không phải cái chết thân xác mà là chết tâm linh, chết đời đời. Vậy, muốn không phải chết đời đời, thì phải sám hối. Sám hối là một cơ hội tốt nhất cho phàm nhân để khỏi chết đời đời, sám hối và tin vào Đức Kitô là một động thái tích cực để được cứu thoát.
DỤ NGÔN CÂY VẢ KHÔNG RA TRÁI.
Theo đó, Ông Chủ chính là Chúa Cha, Người làm vườn là Chúa Giêsu, những cây vả không ra trái chính là những người tội lỗi chưa sám hối ăn năn. Lòng thương xót nơi Chúa Giêsu là: “ Người làm vườn “ cho “Ông Chủ” là Chúa Cha đã xin thời giờ cho kẻ tội lỗi sám hối. Nhưng, câu 9 thể hiện giờ sau chót, nếu kẻ tội lỗi không sám hối thì sẽ chết hết. Vì, cho biết: Lòng Thương Xót bởi Thiên Chúa cũng có giới hạn thời gian. Tuy vô biên, nhưng phàm nhân không thể trì hoãn.Vì, sự hữu hạn của phàm nhân cũng phải có thời giờ kết thúc, đó là giờ chết. Nếu được sám hối trước giờ chết, thì người ấy thật tốt lành.
Khởi đi từ bài đọc I ( Xh 3, 1-8a; 13 -15), Thiên Chúa tuyển chọn Môi-sen và sai ông đi làm ngôn sứ để Thiên Chúa giải thoát dân Ngài khỏi tay vua Ai-cập. Thiên Chúa cho biết Ngài là:” Đấng Hằng Hữu”. Theo đó, phàm nhân muốn được sống hằng hữu bên Thiên Chúa, thì phàm nhân phải được giải thoát,nếu muốn được giải thoát, mặc nhiên phải biết sám hối. Nếu không sẽ bị chết.
Bài đoc II ( 1Cr 10, 1-6 ;10 -12) thánh Phao-lô khuyên chúng ta đừng tự phụ và nhắc lại thời dân Dothai được cứu thoát bởi tay Thiên Chúa dùng Môi-sen dắt qua Biển Đỏ. Được cùng ăn một thức ăn linh thiêng, cùng uống một thức uống linh thiêng, tảng đá mà Môi-sen đã vâng lời Thiên Chúa, dùng gậy đập vào và nước đó là hình ảnh Đấng Cứu Thế Kitô sẽ là nguồn nước Hằng Sống vọt ra.
Theo đó, Bí Tích Rửa tội chính là hình bóng vượt qua Biển Đỏ của Tân Ứơc, để những ai đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội thì họ được nhấn chìm vào ân sủng bởi ơn cứu độ. Và như vậy, họ được giải thoát để trở nên dân riêng của Thiên Chúa. Như vậy, sám hối đối với người đã ”tin” vào Đức Kitô thì khác với những người chưa nhận biết Đức Kitô. Nhưng, những ai đã tin vào Đức Kitô mà không biết sám hối, thì kể ra họ bị nặng hơn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải biết sám hối để được cứu thoát. Xin cho những ai chưa thành tâm tìm kiếm Chúa được có cơ hội gặp Người, hầu đó chính là cách sám hối tốt nhất, để họ trở về với Thiên Chúa là Cha, là Đấng Hằng Hữu ./. Amen.
Thiên Chúa là Đấng giải phóng con người. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa không ngừng tìm cách đưa con người vượt thoát tình trạng nô lệ để bước vào đời sống tự do. Bài đọc thứ I hôm nay, được trích trong sách Xuất hành (3, 1-15), là bằng chứng hùng hồn cho khẳng định: Thiên Chúa là Đấng giải phóng.
Từ việc được Chúa giải phóng về mặt nhân trần.
Đó là thời gian người Dothái sống lầm than cùng cực trong thân phận nô lệ cho người Aicập. Những khía cạnh cơ bản của đời sống: kinh tế, chính trị, xã hội…, họ đều bị buộc phải lệ thuộc Aicập. Họ còn phải làm tôi mọi, phục dịch người Aicập từ vua đến dân.
Thiên Chúa quyết định giải phóng dân riêng của mình. Cuộc giải phóng này là cuộc giải phóng khỏi cảnh áp bức của đời sống, giải phóng khỏi mọi hình thức nô lệ về chính trị, kinh tế, xã hội… Tôi tạm gọi đây là cuộc “Thiên Chúa giải phóng về mặt nhân trần”.
Để khai mở công cuộc giải phóng mà Thiên Chúa đã dự liệu, Thiên Chúa bắt đầu trao ơn gọi cho ông Môsê: Một lần, khi đang chăn đàn chiên cừu trong hoang địa, dưới chân núi Khorep, bỗng dưng ông Môsê bắt gặp một cảnh tượng hùng vĩ, lạ thường chưa từng có: Một bụi gai bốc lửa hừng hực, nhưng bụi gai không hề bị thiêu rụi. Được thu hút bởi cảnh tượng tưởng chừng không thể có nhưng lại đang diễn ra, ông Môsê chạy tới xem cho rõ.
Chính lúc ông đang đến gần, Chúa gọi ông: “Môsê! Môsê!”. Chúa xưng danh mình là “Đấng Hiện Hữu” khi giao trọng trách cho ông: “Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob, sai tôi đến với anh em”.
Ngày ấy, Thiên Chúa tỏ mình là Đấng giải phóng. Bằng những lời tha thiết, triều mến, gây cảm động: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Aicập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Aicập”, Thiên Chúa cho thấy Thiên Chúa chính là Đấng yêu chuộng tự do. Người không thể chịu nổi, không bao giờ yên thân, khi con người bị cướp mất tự do. Thiên Chúa thực hiện cuộc giải phóng để trả tự do cho những kẻ Người yêu thương.
Qua những kiểu nói như nhân: “Ta đã thấy… Ta đã nghe…Ta biết… Ta xuống giải thoát…”, Chúa dùng chính ngôn ngữ và hình tượng của con người để diễn tả tấm lòng của Người. Đó là tấm lòng của một Thiên Chúa quan tâm, yêu thương, lắng nghe, triều mến. Người ở rất gần dân. Người là Thiên Chúa cảm thông nỗi đau của dân. Một Thiên Chúa rung động trước bất hạnh của con người. Một Thiên Chúa muốn giải thoát con người khỏi cảnh lầm than và ban tặng hạnh phúc, ban tặng sức sống, ban tặng tự do.
Thiên Chúa thực hiện nỗi lòng của mình bằng cách dùng cuộc xuất hành, đưa dân Dothái ra khỏi đất nô lệ Aicập, để bắt đầu hành trình đi tới miền đất tự do. Nhưng đó mới chỉ là cuộc giải phóng khỏi nô lệ của đời sống, khỏi nô lệ về kinh tế, chính trị, xã hội… Đó mới chỉ là cuộc giải phóng về mặt nhân trần.
Cuộc giải phóng về mặt nhân trần là hình bóng báo trước cuộc giải phóng tâm linh, giải phóng toàn vẹn để đưa con người vượt qua nô lệ tội lỗi, nô lệ sự dữ, tiến tới miền đất tự do là đời sống vĩnh cửu, đời sống dồi dào của chính Thiên Chúa, được thực hiện trong cuộc xuất hành của Chúa Kitô, khi Người vượt qua nỗi chết và phục sinh vinh hiển, toàn thắng.
Đến việc được Chúa giải phóng tâm linh.
Dân Dothái nói riêng, con người nói chung, vẫn không ra khỏi cảnh nô lệ. Khi được tự do điều khiển cuộc sống mình, người ta lại bị lôi kéo vào những hình thức nô lệ nguy hiểm hơn. Càng ngày con người càng sa đọa. Không còn bị ai bắt buộc, họ tự dấn mình vào những thứ nô lệ mới.
Thời các thủ lãnh, đến các tiên tri, đâu còn làm nô lệ bên Aicập, nhưng người ta bỏ Chúa, chạy theo tà thần, nhất là thần Baan. Người ta tôn thờ tiền bạc, của cải, thân xác, dục tính… Vì chúng, người ta sẵn sàng bỏ Chúa, bỏ mọi giá trị đạo đức thật…
Vẫn không dừng lại, xã hội thời chúng ta còn tệ hơn bao giờ hết. Quá nhiều hấp lực của hưởng thụ, thực dụng, kỹ thuật không chân chính, những kỹ nghệ tôn vinh thân xác, những trò gợi dục, những khoe khoang, những đam mê hạ cấp… lôi kéo, làm cho con người thời nay quên mọi giá trị tâm linh, giá trị nhân bản và căn bản làm thành con người đúng nghĩa.
Nền văn minh phát triển; mọi chiều kích của khoa học như đang vươn xa; nhiều phát minh mới; sáng kiến mới; tri thức mới…, nhưng không để đức tin hướng dẫn, sự phát triển trở thành què quặt, phá hoại nhân cách con người, lạm dụng những khát vọng mà con người đang có, đã tạo ra cho thế giới biết bao nhiêu sự chia rẻ, sự phân biệt. Từ đó, biết bao nhêu tội lỗi, biết bao nhiêu sự dữ… trổi dậy và có cơ hội lan xa.
Cách riêng Việt Nam: Mấy chục năm chiến tranh, người ta sống cơ cực, sống không tự do, chủ yếu bảo vệ mạng sống. Đến khi tự do, người Việt, nhất là kẻ có quyền, lại sống những hình nô lệ mới tinh vi hơn, nhưng cũng tăm tối hơn, đáng tởm hơn. Nhiều người trong chúng ta đang nô lệ tiền bạc, nô lệ của cải, nô lệ sắc dục, và mọi kiểu nô lệ hạ cấp…
Bởi không xóa được cảnh nô lệ, mà chỉ là chuyển từ nô lệ này đến nô lệ khác, cho nên thế giới cần một sự xuất hành mới, cần một cuộc giải phóng mới để mang lại tự do mới.
Đó không chỉ là một cuộc giải phóng để có tự do về kinh tế, chính trị, xã hội, nhưng là một cuộc giải phóng tâm linh, giải phóng toàn diện để từng người thực sự tự do nội tâm, một sự tự do thẳm sâu trong tâm hồn con người, một sự tự do cho phép ta không làm nô lệ, mà làm chủ những bản năng, những dục vọng, những đam mê xấu nơi con người của mình.
Một sự xuất hành mới, để tiến tới tự do mới, phải do Môsê mới dẫn đầu. Môsê mới chính là Đấng Thiên Chúa làm người mang tên Giêsu. Chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể ban ơn giải phóng toàn vẹn cho ta. Tôi gọi đó là sự giải phóng tâm linh. Chúng ta cần được Chúa giải phóng tâm linh của mình.
Muốn được giải phóng tâm linh, ta phải cộng tác. Là Kitô hữu, bạn và tôi không lạ gì lời mời gọi sám hối mà Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi. Chúng ta cộng tác bằng lòng sám hối. Sự sám hối phải quyết liệt, mạnh mẽ, bằng không, sự cứng cỏi trong lời dạy của Chúa, mà Tin Mừng hôm nay cho biết, sẽ trở thành hiện thực nguy hiểm cho chúng ta: “Nếu các ông không sám hối, các ông cũng sẽ chết như vậy”.
Tâm tình sám hối đòi mỗi chúng ta ý thức về tội lỗi của mình. Vì sao Chúa Giêsu lại nói: “Các ông tưởng rằng, mấy người Galilê bị Philatô giết, là những người tội lỗi hơn những người khác sao? Không phải thế.Chính các ông, nếu không sám hối, các ông cũng sẽ chết như vậy”? Là vì, con người có tội, nhưng không nhận ra mình có tội. Họ đã không hề có ý thức về tội lỗi của bản thân mình.
Khi không còn ý thức về tội lỗi, người ta phạm tội dễ dàng. Phạm mọi thứ tội, dù ghê tởm nhất, độc ác nhất, nhưng lương tâm vẫn vô sự, không hề cắn rứt. Ý thức về tội lỗi mà không còn, gian dối là chuyện “cơm bữa”. Giết hại nhau không là điều hiếm hoi. Người với người sống vô cảm mà vẫn thấy bình thường. Không còn ý thức tội lỗi, người ta phạm tội đầy dẫy, phạm tội thường xuyên, nhưng ngụy biện: nhiều kẻ còn ghê gớm hơn tôi… Có khi tự cho rằng, tôi thế này còn khá, còn tốt…
Ta cần làm sống lại ý thức về tội lỗi trong lương tâm Kitô hữu mà ta đang mang. Lợi dụng dịp mùa Chay, tức là lợi dụng thời gian thánh, nhờ ơn Chúa giúp, ta khơi dậy ý thức về tội lỗi trong ta. Ý thức về tội lỗi sẽ làm ta nhạy bén với tội, sẽ cho ta thái độ sợ tội, sẽ không dám liều phạm tội, sẽ biết đau đớn về tội lỗi đã phạm, sẽ lo ăn năn tội thường xuyên.
Trong buổi nói chuyện với các gia đình Mêxicô tại sân động Tuxtla Gutierrez hôm 15/02/2016 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dùng cụm từ: “đặt một trái tim mới” để nói về niềm hy vọng sau những gì tưởng như là cũ kỹ, mất mát, thất bại. Niềm hy vọng đó trước hết ở nơi Thiên Chúa, Ngài chờ, và đến lúc thấy không kết quả, Ngài “đặt một trái tim mới” để tiếp tục chờ: “Buổi chiều kia trong Vườn Eden, khi mọi sự xem ra không còn cứu vãn, Thiên Chúa Cha đã đặt một trái tim mới vào cặp vợ chồng trẻ ấy và nói với họ rằng mọi sự vẫn còn cứu vãn được. Khi dân Israel cảm thấy không thể tiếp tục cuộc hành trình qua hoang địa nữa, Thiên Chúa Cha đã đặt trái tim của Người vào đó bằng cách ban cho họ manna từ trời. Khi thời viên mãn đã tới, Thiên Chúa Cha đã đặt trái tim của Người vào đó bằng cách ban cho nhân loại hồng phúc trường cửu là Con Một của Người”. Niềm hy vọng đó cũng phải ở nơi mỗi con người để hằng ngày chúng ta biết “đặt trái tim mới”, niềm hy vọng mới vào những gì là cũ kỹ, là mất mát, là tội lỗi của chính chúng ta và cả người khác nữa.
I. NIỀM HY VỌNG CỦA THIÊN CHÚA
Thiên Chúa không thất vọng, không dừng bước, mà Ngài luôn “đặt trái tim mới” vào mọi sự để tiếp tục mong muốn và chờ đợi một kết quả tốt cho con người.
Trong bài đọc I: Xh 3, 1-8a.13-15
Khi dân Chúa làm nô lệ bên Ai Cập, Thiên Chúa không chịu nỗi cảnh thống khổ của họ, nên Ngài đã thổ lộ với Môsê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọ cai hành hạ. Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trễ sữa và mật”. Hành động đó chính là “trái tim mới” của Thiên Chúa. “Trái tim mới” này không phải chỉ một lần, mà là trong suốt dòng lịch sử của dân Do Thái cho đến hôm nay. “Trái tim mới” đó chính là Lòng Thương Xót của Chúa Cha.
Trong bài Tin Mừng: Lc 13, 1-9
“Trái tim mới” này được thể hiện rõ ràng nơi người làm vườn. Ông chủ đã đợi 3 năm rồi mà cây vả vẫn không sinh trái, nên ông có ý định chặt nó đi, nhưng người làm vườn đã xin: “Xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái”. “Năm nay nữa” không phải chỉ là một năm, mà là một điệp khúc lặp đi lặp lại để cho thấy người làm vườn cứ hy vọng, cứ chờ đợi mãi. Hình ảnh người làm vườn đó chính là Đức Giêsu, dung mạo thương xót của Thiên Chúa Cha.
Như vậy sự thật nơi Thiên Chúa được thể hiện rõ ràng qua lời Chúa hôm nay, Ngài luôn hy vọng, luôn chờ đợi, luôn tạo điều kiện, luôn “đặt trái tim mới” để chúng ta được giải thoát đến vùng đất “tràn trề sữa và mật”, được sinh hoa kết trái. Vì vậy mà Đức Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy nhìn những biến cố xung quanh như một lời nhắc nhở để sám hối, sửa đổi, kẻo không còn kịp nữa. Chúng ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại làm như vậy? Đức Thánh Cha đã trả lời: “Vì tên Người là tình yêu, tên Người là hồng ân, tên Người là tự hiến, tên Người là thương xót”.
II. CÂY VẢ VÀ ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
Đứng trước “trái tim mới”, niềm hy vọng mới và cũng là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, con người chúng ta có quyền hy vọng một một tương lai mới tốt đẹp hơn.
Để có một tương lai tốt đẹp hơn, chúng ta hãy nhìn vào hình ảnh cây vả trong bài Tin Mừng hôm nay để so sánh với chính mỗi người chúng ta.
Hình ảnh cây vả
Ông chủ nhìn thấy cây vả đã 3 năm rồi mà không sinh trái. Tại sao nó không sinh trái?
Yếu tố đầu tiên là dinh dưỡng cho cây. Nếu cây thiếu ánh sáng, thiếu đất và nước thì không bao giờ sinh trái, thậm chí là sẽ chết. Trong chế độ dinh dưỡng, ngoài yếu tố ánh sáng, đất, nước, còn phải thỉnh thoảng “tẩm bổ” cho cây bằng việc bón phân để nó thêm sức mạnh.
Ngoài chất dinh dưỡng, còn phải đề phòng sâu bọ, vì chính nó sẽ làm cho những chồi non là nơi để sinh hoa, kết trái bị dị tật hoặc héo khô.
Ngoài ra còn phải khai hoang kẻo những cây cỏ xung quanh sẽ che lấp hoặc ăn hết chất dinh dưỡng, làm cho cây không thể sinh hoa kết trái.
Ông chủ muốn chặt nó đi, nhưng người làm vườn đã xin ông chủ “cứ để nó lại” để anh ta chăm sóc, hy vọng năm sau nó sẽ có trái. Chắc chắn anh ta biết được những yếu tố làm cho cây vả không sinh trái, nên anh ta sẽ cố gắng khắc phục.
Đời sống đức tin
Cây vả là hình ảnh đức tin mỗi người chúng ta. Cho đến bây giờ nó vẫn chưa sinh trái, trái đèo đẹt hoặc rất ít…
Những yếu tố làm cho đời sống chúng ta chưa sinh hoa kết trái, trước hết là thiếu dinh dưỡng. Dinh dưỡng chính yếu của đời sống tâm linh là đời sống cầu nguyện, gắn bó với Chúa và năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể. Ngoài 2 nguồn dinh dưỡng chính yếu đó, còn phải bổ dưỡng thêm cho linh hồn bằng những việc đạo đức khác như lần chuỗi Mân Côi, đi đàng Thánh giá, đọc kinh Lòng Thương Xót…
Kế đến phải đề phòng yếu tố “sâu bọ” trong đời sống đức tin, kẻo nó “đục khoét” làm cho những mầm non ơn thánh bị hư hoại. Sâu bọ đây chính là những tội lỗi, nhất là tội nặng.
Sau cùng, những cây hoang, cỏ dại cũng góp phần “chen lấn” làm cho cây đức tin chúng ta không sinh trái. Những thứ hoang dại này chính là những đam mê, những tật xấu vẫn len lỏi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Phải nhổ bỏ tận gốc thì cây đức tin mới lớn mạnh. Còn nếu để nó sống chung thì chắc chắn nó sẽ lấn lướt làm cho đức tin chúng ta ngày càng yếu ớt và thậm chí là chết đi.
III. NIỀM HY VỌNG CHO CON NGƯỜI
Đời sống đức tin chúng ta chưa được tốt, chưa sinh hoa kết trái, nhưng Chúa không tiêu diệt chúng ta, Ngài vẫn cho chúng ta cơ hội, Ngài đang chờ đợi chúng ta.
Mùa Chay trong năm thánh Lòng Thương Xót này là cơ hội để chúng ta nói với Chúa: “Xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó”.
Đời sống đức tin không thể nào sinh hoa kết trái nếu không có một sự gắn bó với Chúa trong cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Vì vậy chúng ta hãy cố gắng cầu nguyện, nhất là giờ kinh chung nơi các gia đình ; siêng năng tham dự Thánh lễ, nhất là ngày Chúa Nhật.
Đời sống đức tin chúng ta sẽ bị tàn héo nếu sâu bọ là những tội lỗi cứ mãi tấn công. Hãy mau chóng đến với Bí tích Giải tội.
Đời sống đức tin chúng ta sẽ không phát triển được khi còn quá nhiều cỏ dại là những đam mê, những tật xấu. Hãy cố gắng loại bỏ đam mê và tật xấu; đồng thời hãy có những ước mơ cao đẹp, tập tành những thói quen tốt…
Có như vậy thì chắc chắn cây đức tin của chúng ta không phải năm sau, mà ngay bây giờ sẽ sinh hoa kết trái.
Chúa luôn tin tưởng và cho chúng ta cơ hội. Lòng Thương Xót Chúa luôn mở rộng cho chúng ta. Hãy sám hối để được sống và sống dồi dào!
Có những người muốn sống mà không được sống. Nhưng cũng có những người muốn chết mà không chết được. Có những cái chết do bệnh tật hoặc lý do nào đó của chính đương sự. Nhưng có những cái chết của người vô tội do người khác gây nên. Chúng ta giải thích vấn đề này thế nào?.
Tin mừng hôm nay kể: “Có những người thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philato giết mấy người Galile...trong khi họ đi lễ”. Chúa Giêsu không tố cáo sự giết người điên rồ của Philato, nhưng tuyên bố: “Các ông tưởng rằng mấy người Galile bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ư? Tôi nói với các ông: không phải thế. Nhưng nếu các ông không ăn năn hối cải, thì tất cả các ông cũng phải hủy diệt như vậy”.
Chúa Giêsu muốn nói gì về vấn đề này?Trong thực tế, chúng ta có thể chứng kiến những cuộc tấn công khủng bố hoặc nhiều sự kiện khác dường như gây ra những cái chết oan uổng, chẳng hạn như tháp Slloe, sụp đổ đè chết 18 người. Chúng ta tìm cách xác định lỗi xuất phát từ đâu và tố cáo thủ phạm. Chúng ta vừa tố cáo tội phạm lại vừa chia buồn cảm thông với các nạn nhân.
Chúng ta nghĩ thế là đúng, nhưng Chúa Giêsu lại nghĩ khác. Ngài không nói về lỗi lầm là do ai, Ngài chỉ nói về tội. Ngài nói với chúng ta rằng tội lỗi, tất cả chúng ta đều ở trong đó, và đó là tội lỗi chung cho toàn nhân loại, làm cho nhân loại phải chết. Nói cách khác, chúng ta vừa là tội nhân vừa là nạn nhân của cái chết mà chúng ta không muốn.
Đối với Chúa Giêsu, tội là gì?
Trước hết Ngài không nói về tội là chống lại Thiên Chúa, chống lại luật hoặc đạo đức luân lý. Ngài chỉ nói tội là những gì dẫn đến cái chết. Nói cách khác, đó là một hành động mà chúng ta phạm chống lại chính chúng ta: khi mọi người đều muốn sống, thì tội lại đi theo con đường của cái chết.
Chúa Giêsu nói: “Nếu các ông không ăn năn hối cải, thì tất cả các ông cũng phải hủy diệt như vậy”. Ăn năn hối cải, đó là quay trở lại. Đó là học cách phân biệt các hành vi mà tất cả chúng ta phạm đều dẫn đến cái chết. Đối với Chúa Giêsu, nhân loại bao gồm chỉ một thân thể:
- Nếu chúng ta cho rằng mình chỉ là nạn nhân và đổ lỗi cho người khác, thì chúng ta chỉ là anh em giả tạo với nhau và yêu nhau cũng giả tạo.
- Nhưng chúng ta có thể trở thành anh em thực sự với nhau, khi nhận ra rằng tất cả chúng ta đều có một phần tội lỗi và một phần là nạn nhân của tội lỗi dẫn nhân loại đến chết.
- Chúng ta là anh em thực sự với nhau, khi thay vì buộc tội lẫn nhau, chúng ta hãy giúp đỡ nhau phân biệt lỗi lầm của chúng ta và tìm đường quay trở về cuộc sống.
Tất cả chúng ta đều được mời gọi để sống. Chúng ta có thể hiểu lầm câu nói của Chúa Giêsu: “Nếu các ông không ăn năn hối cải, thì tất cả các ông cũng phải hủy diệt như vậy”. Chúng ta nghĩ rằng: nếu chúng ta ăn năn hối cải, chúng ta sẽ thoát khỏi cái chết. Chúng ta biết rõ, dù thế nào chăng nữa, tất cả chúng ta đều phải chết. Vì thế một số người lợi dụng tối đa để sống, thậm chí còn gây bất lợi cho người khác.
Đối với Chúa Giêsu, có 2 cách sống và chết. Ngài nói rằng nếu chúng ta không ăn năn hối cải, tất cả chúng ta sẽ chết như những người Galilê bị Philatô tàn sát:
- Chúng ta có thể sống như chết nếu đóng lại trong chính mình, bị giam cầm trong tội lỗi.
- Nhưng chúng ta có thể sống và chết vì tình yêu dành cho người khác, và đó là cái chết của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta khỏi cái chết. Như vậy, là Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết.
- Chúng ta có thể sống đau khổ, giống như thánh Phanxicô Assisi đã khóc vì Tình yêu không được yêu.
- Chúng ta có thể sống chịu đựng đau khổ để chia sẻ với những đau khổ của người khác.
Tưởng nhớ đến các nạn nhân các cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 tại Mỹ, Jacques Brel sáng tác một bài hát: "Nếu chúng ta chỉ có tình yêu”:
- Nếu chúng ta chỉ có tình yêu, thì chỉ một lý do duy nhất, đó là cho một bài hát và một sự giúp đỡ...
- Nếu chúng ta có tình yêu, thì chỉ để cầu nguyện cho những điều xấu xa của trái đất
- Nếu chúng ta có tình yêu, đó là để vạch ra một con đường và buộc vận mệnh ở mỗi ngã tư đường
- Nếu chúng ta chỉ có tình yêu thì đừng bao giờ nói chuyện với súng đạn...
- Không có gì ngoài sức mạnh tình yêu, đó là chúng ta sẽ có trong tay bạn bè là toàn thể thế giới!
Bài hát này có thể dẫn đến kết luận của bài Tin mừng hôm nay: Khi chúng ta chỉ có tình yêu, chính cái chết trở thành nguồn sống cho mọi người và cho cả nhân loại! Nói tóm lại, ai ai cũng muốn sống, nhưng hãy chọn sống thế nào cho tốt mà thôi! Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
Có người nghĩ cách đơn sơ rằng khi phạm tội thì đi xưng tội là xong, sau đó, về phạm tội lại, rồi xưng tiếp... Thế là cuộc sống của họ cứ đong đưa qua lại như người đu dây: phạm tội – rồi xưng tội, xưng tội – rồi phạm tội… Và cảnh đu dây kiểu này cứ tiếp diễn mãi suốt cả cuộc đời. Những người như thế chẳng biết sám hối là gì và họ cảm thấy không cần sám hối.
Không sám hối thì sẽ bị hủy diệt
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su lên án lối sống đạo theo kiểu đu dây đó. Ngài dạy rằng nếu ai không dứt khoát với tội lỗi, không thực lòng ăn năn sám hối thì sẽ bị hủy diệt, nghĩa là phải trầm luân đời đời trong hỏa ngục. Ngài mạnh mẽ lên án những người không sám hối, xuyên qua hai trường hợp sau đây.
Thứ nhất, “Khi có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng”, Chúa Giê-su liền nói: “Nếu các ngươi không sám hối, thì các ngươi cũng sẽ phải chết thảm như vậy!”
Thứ hai, nhân sự kiện có mười tám người bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết cách oan ức, Chúa Giê-su cảnh báo: “Nếu các ngươi không chịu sám hối, thì các ngươi cũng sẽ chết thảm như vậy!”
Từ đó, Chúa Giê-su dạy chúng ta biết rằng nếu ai không dứt khoát từ bỏ tội lỗi và ăn năn sám hối thì sẽ phải trầm luân trong hỏa ngục muôn đời.
Sám hối để cứu lấy mình
Nếu tôi biết mình có khối u ác tính đang trong giai đoạn đầu và có thể chuyển thành ung thư kết liễu đời tôi, tôi phải làm gì? Chắc chắn là tôi phải diệt khối u đó ngay, càng sớm càng tốt, không để nó hủy hoại đời mình.
Tội lỗi cũng là khối u ác tính có sức lây lan nhanh chóng và tàn phá dữ dội; sám hối là cắt bỏ khối u tội lỗi đó để cứu mình khỏi chết, như lời cảnh báo của Chúa Giê-su: "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt."
Nếu tôi là tài xế lái tàu nam bắc và dư biết rằng nếu mình lái tàu chạy trật đường rầy thì phải gánh lấy hậu quả vô cùng tai hại; thử hỏi: Tôi có điên rồ chạy trật đường rầy không? Hay là chăm chú lái tàu đi đúng đường để bảo toàn sinh mạng của mình và của bao người khác?
Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu chạy trật đường rầy nên phải lao xuống vực; sám hối là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết, như Chúa nhắn bảo hôm nay: "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt."
Nếu tôi làm ăn phi pháp, buôn bán hê-rô-in khối lượng lớn và biết rằng thế nào cũng bị phát hiện và phải chịu tử hình, thì tôi có tiếp tục làm điều phi pháp đưa mình đến chỗ chết, hay dứt khoát từ bỏ để tự cứu lấy mạng sống mình?
Phạm tội mà không chịu sám hối và dứt khoát từ bỏ tội lỗi… thì cũng giống như người tiếp tục buôn bán hê-rô-in mà không chịu bỏ nghề, mai đây ắt phải mang lấy án phạt đời đời như lời Chúa dạy: "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt."
Lạy Chúa Giê-su, Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để tạo cơ hội cho chúng con sám hối và sửa mình. Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất vọng vì không sinh trái mà lại sinh toàn gai góc… để rồi bị hủy diệt muôn đời.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại như cơ hội cuối cùng, để nhổ sạch tội lỗi, lập thêm công đức và sinh nhiều hoa trái tốt… Nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
Có mấy người hiếu kỳ đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện thời sự nổi bật: những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Những tưởng Người đồng quan điểm nghĩ họ bị giết là đúng người đúng tội. Ai dè Người đáp lại: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao?” (Lc 13,3-4). Bởi họ hiểu đó là hình phạt nhãn tiền, đáng kiếp cho kẻ tội lỗi, Chúa nào ác vậy? Trong cái nhìn sai lầm của con người biến Vua Tình Yêu thành quan án thật khiếp sợ. Trái lại Đức Giêsu muốn họ hãy nhìn vào chính họ, rờ lại chính mình, để xét mình và sám hối, thay đổi lối sống. Chúa mời gọi mỗi chúng con hôm nay trong mỗi biến cố, không phán xét theo cách nhìn trong hai câu chuyện trên đây mà kết tội cho người gặp nạn, nhưng phải luôn nhìn vào con người thật của mình để mà hoán cải, thay đổi đời sống nên mới trong Chúa.
Để cảnh báo thái độ bình chân như vại của họ, Đức Giêsu cảnh tỉnh họ bằng dụ ngôn cây vả không trái. Bực mình sốt ruột vì đã ba năm cây không chịu sinh trái, ông chủ giục người làm vườn chặt đi kẻo hại đất. Nhưng người làm vườn xin khất lại, gia hạn để có cơ hội chăm bón, hy vọng sang năm nó kết trái và không bị chặt đi. Phúc cho cây vả ấy quá nhỉ? Phải chăng cây vả ấy đích thực là tôi?
Thầy Giêsu ba năm rao giảng mà các ông ấy chưa sám hối? Ngày nay chúng con đọc và nghe Lời Chúa nhiều năm, chúng con đã thay đổi được gì chưa? “Chúa chờ ta, từ bao năm ta vẫn ngủ mê, từ bao năm quên lối đường về, Chúa vẫn chờ ta. Nghe trong tim như có tiếng gọi ta: Con hãy về với Cha đi! đừng chần chừ vì trời tối buông mau…” (thánh ca).
Tại sao Chúa kiên tâm chờ đợi chứ không “chặt đi”? Bởi vì Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi, Ngài là Đấng không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói. Nhưng làm sao để nghe được tiếng gọi yêu thương tha thiết ấy? Tôi ơi hãy trở về bên Chúa thật gần, ở bên Ngài, để cảm nhận được tình Ngài luôn yêu thương vỗ về từng phút giây. Trở về bên lòng Chúa, ánh sáng Chúa soi rọi vào ngõ ngách tâm can, sẽ nhận ra tội lụy, yếu đuối, giới hạn và con người thật của chính mình. Càng gần Chúa càng lo xét mình cẩn thận và mọi tội lỗi, những ngáng trở sẽ lộ trơ ra, càng cảm nhận tình yêu Chúa càng hối tiếc quay về cho mau. Trở về với Chúa cõi lòng ta thanh thản, an bình thư thái. Sống gắn bó mật thiết trong tình yêu Chúa sẽ hành động theo Thần Khí, tâm hồn hoan lạc và trổ sinh những hoa trái tốt lành nhờ Thần Khí Chúa.
Quyển sách từng làm say mê nhiều người trên thế giới mang tên Exodus nghĩa là Xuất Hành của tác giả Léon Uris. Quyển sách kể về cuộc hồi hương của người Do Thái ở khắp thế giới về quê hương là Palestine, sau Đệ Nhị Thế Chiến.
Quyển sách thuật lại câu chuyện cảm động xảy ra vào năm 1946 về 300 đứa trẻ Do Thái Bị người Anh giam giữ ở đảo Chypre nằm trong Địa Trung Hải, thuộc địa của nước Anh. Những đứa trẻ đã âm mưu trốn khỏi đảo để trở về Palestine. Đây là những đứa trẻ mồ côi còn sống sót trong những trại tập trung của Đức Quốc Xã, nhưng lại Bị người Anh giữ lại trên đảo vì lý do chính trị. Những đứa trẻ này được một thủ lĩnh người Do Thái tên là Ari Ben Canaan đưa lên chiếc tàu mang tên Exodus, dự định trốn khỏi đảo để về Palestine. Chiếc tàu đã Bị quân Anh chặn lại giữa Biển, Bắt quay về đảo. Nhưng 300 đứa trẻ cương quyết không quay trở lại.
Dưới sự lãnh đạo của Ari Ben Canaan, những đứa trẻ tuyên Bố nếu người Anh đụng đến con tàu, sẽ cho con tàu nổ tung. Vì thế, người Anh không dám đến gần chiếc tàu.
Trong khi đó, Báo chí khắp thế giới Bắt đầu lên tiếng ủng hộ những đứa trẻ trên tàu. Nhưng người Anh cương quyết không cho chiếc tàu ra đi.
Thủ lãnh Ari liền cho trẻ em trên chiếc tàu tự nguyện tuyệt thực cho đến khi họ được ra đi, em nào Bị ngất xỉu sẽ đưa lên Boong tàu cho mọi người nhìn thấy.
Tuyệt thực giờ thứ nhất: thế giới Bắt đầu lo ngại – Nhưng người Anh không đếm xỉa gì đến !
Tuyệt thực giờ thứ 26: 10 đứa trẻ Bị ngất xỉu được đưa lên Boong tàu – người Anh cũng không quan tâm.
Tuyệt thực giờ thứ 40: 60 đứa trẻ Bị ngất xỉu – người Anh cũng không đổi ý !
Tuyệt thực giờ thứ 81: 70 đứa trẻ ngất xỉu được đưa lên Boong tàu – người Anh vẫn im lặng !
Kế tiếp, thủ lãnh Ari tuyên Bố: “Nếu không cho chúng tôi ra đi, kể từ ngày mai, đúng 12 giờ trưa, 10 người tình nguyện tự sát mỗi ngày trên Boong tàu”.
Quả thật, đến lúc ấy, như một quả Bom nổ, cả thế giới xôn xao, Biểu tình khắp nơi để làm áp lực với người Anh. Cuối cùng, người Anh đã nhượng Bộ để con tàu Exodus được nhổ neo trở về vùng Đất Hứa Palestine.
Câu chuyện trên gợi lên câu chuyện về cuộc xuất hành của người Do Thái ra khỏi Ai Cập về Đất Hứa, được phụng vụ lời Chúa hôm nay trình Bày:
Bài trích sách xuất Hành thuật lại việc Thiên Chúa muốn giải thoát dân Do Thái khỏi kiếp nô lệ ở Ai Cập. Vì thế, qua Bụi gai rực lửa, Ngài kêu gọi Môisen và trao cho ông sứ mạng dẫn đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập để tiến vào Đất Hứa. Ông Môisen đã phải tranh đấu gian khổ với Pharaô để lãnh đạo cuộc xuất hành đưa dân ra khỏi Ai Cập và trải qua một cuộc hành trình đầy thử thách để tiến về Đất Hứa. Thiên Chúa luôn đồng hành với họ trên suốt cuộc hành trình.
Trong Bài trích thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô kể lại những Biến cố trong cuộc xuất hành ngày xưa do Môisen lãnh đạo: Vượt qua Biển Đỏ tượng trưng cho Phép Rửa; Uống nước từ tảng đá phun ra. Tảng Đá tượng trưng cho Đức Kitô; rồi những thử thách gian nan đã làm nhiều người gục ngã… Thánh Phaolô mời gọi chúng ta đi vào cuộc xuất hành mới: vượt qua con người cũ đầy dục vọng và những đam mê trần thế để tiến vào tình thương của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca diễn tả “cuộc xuất hành thiêng liêng”, xuất hành từ lòng sám hối ăn năn. Chúa Giêsu nêu lên hai Biến cố: thứ nhất, Philatô giết một số người Galilê ; thứ hai, 18 người Bị tháp Silôe đổ xuống đè chết. Hai Biến cố ấy không phải là sự “trừng phạt” của Thiên Chúa đối với người tội lỗi, nhưng là những “dấu chỉ” để nhắc nhở mọi người hãy ăn năn sám hối. Lòng sám hối chính là điểm khởi hành cho cuộc “xuất hành thiêng liêng” ấy.
Hình ảnh “cây vả không sinh trái” được để lại một năm trước khi Bị chặt đi, diễn tả tình thương và sự kiên nhẫn của Thiên Chúa dành cho các tội nhân. Ngài chờ đợi họ ăn năn hối cải và trở về với Ngài.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để đứng dậy từ những vấp ngã trong đời thường để lên đường đi vào “cuộc xuất hành mới” với lòng ăn năn sám hối để đi về với Chúa và anh em mình. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta, nhưng thời gian không đợi chờ chúng ta. Vì thế, hãy mau chóng chỗi dậy để trở về với tình thương tha thứ của Chúa.
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua Bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, Bằng không sẽ Bị giết chết. Các ngươi hãy suy nghĩ đi ! Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ Bắt đầu !”
Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy: Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên, có một điều quan trọng: Không ai Biết cây nến đời mình còn dài hay ngắn (TONNE).
Cuộc “xuất hành” của chúng ta hôm nay:
Cuộc “xuất hành” thiêng liêng và cao cả nhất là cuộc “xuất hành” của Chúa Giêsu: từ thân phận của một Thiên Chúa chí thánh, Ngài đã đến với thân phận tội lỗi của chúng ta và đồng hành với chúng ta trong kiếp sống làm người. Ngài mời gọi chúng ta hãy “xuất hành” đi ra khỏi con người cũ với những ích kỷ, lười Biếng, với những đam mê, dục vọng để trở nên con người mới. Chúa mời gọi chúng ta hãy Bước vào cuộc “xuất hành mới” đi ra khỏi “cái tôi” với tâm tình thống hối ăn năn, từ Bỏ tội lỗi để trở về với vòng tay nhân từ xót thương của Ngài.
Cuộc đời chúng ta là “cuộc xuất hành trong niềm tin”. Chúa mời gọi chúng ta hãy luôn trông cậy vào Chúa. Ngài sẽ giúp chúng ta “vượt qua” những thử thách và gian nan giữa lòng Biển cả trần gian ; Ngài sẽ che phủ chúng ta Bằng “Bóng mây yêu thương”. Ngài Bẻ Tấm Bánh đời mình để dưỡng nuôi chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, Ngài chính là “Môisen mới” đang dẫn dắt chúng ta đi về quê trời.
Trên sườn núi Long’s Peak ở Colorado, Hoa Kỳ có một cây đại thụ khổng lồ Bị tàn phá còn trơ lại mỗi một khúc thân. Theo các nhà thực vật học, cây đó đã được 400 tuổi. Trong đời sống dài suốt 4 thế kỷ, nó Bị sét đánh 14 lần và trải qua Biết Bao lần Bị Băng giá, giông Bão mà vẫn sống.
Về sau, nó Bị một đàn sâu đục khoét hết lớp vỏ này đến lớp vỏ khác, mỗi ngày gặm nhấm một chút liên tiếp không ngừng. Dần dần, cây cổ thụ trở nên mục ruỗng và ngã đổ. Cây cổ thụ chống chọi nổi với thời gian, với sấm sét, với giông tố, mà cuối cùng lại Bị những con sâu tí hon hạ gục. (DALE CARNEGIE).
Hôm nay, Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã !”. Cũng như cây vả không sinh trái được để lại mà không Bị chặt đi, Chúa luôn nhẫn nại chờ đợi chúng ta. Có thể chúng ta không Bị chiếc rìu “công thẳng” của Thiên Chúa đốn ngã, nhưng lại Bị những con sâu tí hon của những lỗi lầm khuyết điểm gặm nhấm từng ngày, làm tâm hồn ta mục ruỗng và gục ngã.
Chúa Giêsu là thân nho, chúng ta là cành nho. Cành nho phải gắn liền với thân nho thì mới sinh nhiều hoa trái. Có thể Chúa không chặt lìa chúng ta ra khỏi Thân Mình Ngài, nhưng tội lỗi như lưỡi dao sắc đang cắt đứt chúng ta ra khỏi tình thương của Ngài. Chúng ta hãy Bám chặt vào Chúa để tiếp nhận nguồn nhựa sống thần linh và trổ sinh hoa trái ân sủng dồi dào.
Trong mùa chay, chúng ta hãy ăn năn sám hối và mau chóng từ Bỏ mọi thói hư tật xấu mà trở về cùng Chúa. Chúa vẫn đang chờ đợi chúng ta.
Đọc Lc 13, Chuyện gì đã xảy ra với một số người Galilê? xảy ra ở đâu? 2. Đọc Lc 13,2-3. Đức Giêsu MC 3-C180
1. Đọc Lc 13, Chuyện gì đã xảy ra với một số người Galilê? xảy ra ở đâu?
2. Đọc Lc 13,2-3. Đức Giêsu nhắc nhở điều gì đối với những người kể lại chuyện đó?
3. Đọc Lc 13,4-5. Chuyện gì đã xảy ra cho mười tám người? Ở đâu? Lời nhắc nhở của Đức Giêsu có gì mới không?
4. Trồng cây vả trong vườn nho có phải là chuyện lạ không? Xem sách ngôn sứ Mi-kha 4,4; 1 Vua 5,5; Dacaria 3,10. Ở vườn địa đàng có trồng cây vả không?
5. "Ông ra tìm trái trên cây mà không thấy" (Lc 13,6): có mấy động từ trong câu này? Câu này được nhắc lại mấy lần trong bài Tin Mừng này? Đọc Lc 13,6-7 bạn thấy ông chủ mong đợi gì nơi cây vả?
6. Ông chủ vườn nho có phải là người nóng tính và tàn ác không khi ông đòi chặt cây vả? Đọc Lc 3,8-9.
7. Anh làm vườn xin gì với ông chủ? Anh ta có niềm hy vọng không? Anh ta có quá bao dung không?
8. Theo bạn, cuối cùng ông chủ có chấp nhận lời yêu cầu của anh làm vườn không? Cuối cùng cây vả có ra trái không?
9. Sau khi đọc dụ ngôn cây vả, bạn hãy cho một định nghĩa về hối cải?
CÂU HỎI SUY NIỆM:
Bạn có thấy mình cũng là một cây vả được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc không? Hãy nhớ lại những hy vọng Chúa đặt nơi bạn và những thất vọng bạn đã có lần gây ra. Bạn nghĩ gì về trái của cây vả đời bạn, có nhiều không, có ngon không?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Có những người đến gặp Đức Giêsu để kể cho Ngài chuyện quan Philatô trộn máu của một số người Galilê với máu của các lễ vật họ dâng. Hành vi độc ác này rất có thể là hình phạt của Philatô đối với những người Galilê muốn nổi loạn chống lại đế quốc Rôma đang đô hộ Ítraen. Họ có thể bị giết ngay trong Đền thờ lúc họ đang dâng lễ vật, hay bị giết lúc họ đang đến Đền thờ để dâng lễ vật (Lc 13,1).
2. Đức Giêsu đã không kết án Philatô tàn ác, cũng không hô hào mọi người đứng lên khởi nghĩa chống lại đế quốc Rôma. Ngài cũng không bảo những người Galilê bị giết là những kẻ có tội nặng nhất nên mới phải chịu hình phạt kinh khủng như vậy (Lc 13,2). Đức Giêsu coi biến cố đau thương này như một lời cảnh báo mạnh mẽ gửi đến mọi người, kêu gọi dân Ítraen mau hối cải để khỏi chịu chung số phận (Lc 13,3).
3. Trong Lc 13,4-5, chính Đức Giêsu lại kể cho những người đến gặp mình một câu chuyện khác về tai nạn đã xảy ra cho 18 người, khi tháp ở Siloam gần Giêrusalem bất ngờ đổ xuống trên họ. Một lần nữa, Ngài lại khẳng định những người này không phải là những người tội lỗi nhất ở Giêrusalem. Rồi Ngài lại đưa ra lời cảnh báo tương tự, kêu gọi mọi người mau hối cải để khỏi chịu chung số phận như những nạn nhân đó.
Nói chung, qua hai biến cố đau lòng xảy ra, Đức Giêsu chỉ muốn nhắc nhở những người đang nghe Ngài đừng tự mãn là mình thánh thiện nên không bị Chúa phạt, nhưng hãy nhớ: tất cả đều là tội nhân, tất cả đều cần hối cải.
4. Cây nho và cây vả là hai loại cây ăn trái quen thuộc đối với dân Ítraen. Hai loại cây này trở nên biểu tượng cho cảnh thanh bình, thịnh vượng, an cư lạc nghiệp. Được ở hay được ngồi “dưới bóng cây nho, cây vả của mình” là điều ai cũng mơ ước (1 Vua 5,5; Mi-kha 4,4). Bởi đó chuyện trồng cây vả trong vườn nho là chuyện có thể xảy ra. Trong vườn địa đàng cũng có cây vả (Sáng thế 3,7).
5. Có ba động từ trong câu Lc 13,6: ra ( = đến), tìm, và thấy. Câu này được nhắc lại ở Lc 13,7. Đọc Lc 13,6-7 ta thấy ông chủ có một cây vả trồng trong vườn nho của ông. Ông trồng nó để lấy trái. Trái là điều ông mong muốn khi trồng cây vả này. Ta không rõ ông đã trồng nó từ khi nào, chỉ biết lẽ ra nó phải có trái từ ba năm qua, nhưng lại không có. Ba năm liền, ông đều đến cây vả và tìm trái của nó, nhưng không thấy trái nào.
6. Sau khi kiên nhẫn chờ đợi trong ba năm, ông chủ thất vọng. Ông chia sẻ nỗi thất vọng ấy với anh làm vườn và ra lệnh cho anh chặt cây vả, để nó làm gì cho hại đất (Lc 13, 7). Như thế ông chủ không hề nóng tính hay tàn ác khi đưa ra quyết định này. Ông đã chịu đựng ba năm, đã hy vọng, đã chờ đợi trái của nó, và cây vả chẳng làm ông mãn nguyện. Ông không vui gì khi quyết định chặt cây vả mà ông đã trồng, nhưng ông muốn dành đất để làm việc khác.
7. Anh làm vườn còn chút hy vọng nơi cây vả và muốn cho nó một cơ hội cuối. Anh sẽ chăm bón cho nó cẩn thận, và chờ thêm một năm nữa, chỉ một năm thôi. Nếu nó sinh trái thì tốt quá, còn không thì anh sẽ chặt theo ý ông chủ (Lc 13, 8-9).
8. Bài Tin Mừng không cho ta biết ông chủ có chấp nhận lời anh làm vườn không. Ta cũng không biết rốt cục cây vả có ra trái như ông chủ mong đợi không. Nếu cây vả là tôi, thì chỉ tôi mới biết cây vả có ra trái hay không.
9. Hối cải là sinh trái (Lc 3,8-9). Sinh trái nhiều (Ga 15,2.5.8) và bền vững Ga 15,16).
NẾU KHÔNG CHỊU SÁM HỐI, CÁC ÔNG CŨNG SẼ CHẾT Y NHƯ VẬY
Kinh Thánh là một tiếng gọi liên lỉ, gọi con người trở về với Chúa vì đã lìa xa Ngài. Thiên Chúa luôn MC 3-C181
Kinh Thánh là một tiếng gọi liên lỉ, gọi con người trở về với Chúa vì đã lìa xa Ngài. Thiên Chúa luôn giàu lòng thương xót và không thể bỏ con người hư mất trong tội, vì Ngài đã tạo nên và yêu thương họ. Dù họ có phản bội, Ngài vẫn không bỏ rơi họ. Thiên Chúa vẫn trung thành dù con người thất tín.
Mùa Chay Thánh là thời thuận tiện, mời gọi chúng ta trở về với Chúa là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”.
Thiên Chúa phải sai Con Một của Người đến trần gian để cứu chúng ta, chứng tỏ tình yêu vô bờ của Người, Nhưng Người không thể cứu chúng ta mà không có chúng ta. Người đã dùng mọi phương tiện để kêu mời chúng ta trở về với Ngài, đến nỗi ban Người Con Một cho chúng ta. Như thế, chúng ta có thấy được lòng thương xót của Ngài đối với chúng ta không?
Dân Do Thái được xem như một dân cứng đầu cứng cổ nhưng Thiên Chúa vẫn nhẫn nại chờ đợi, kêu mời chúng trở về. Qua bao nhiêu thế kỷ, dân Do Thái vẫn luôn sa đi ngã lại trong tội ác, Người sai các tiên tri đến. Trước hết là Môsê. Chính Chúa bảo ông nói với dân: “Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacób sai tôi đến với anh em…” Chính Thiên Chúa chứ không ai khác đã sai Môsê đến cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập. Sáng kiến bắt nguồn từ Thiên Chúa. Các tiên tri khác như Amốt, Hôsê, Isaia hay Giêrêmia đều kêu gọi mọi người trở về.
Cũng trong Kinh Thánh, chúng ta thấy được bao nhiêu gương lành của những người tội lỗi ăn năn sám hối và thật tình trở về với Chúa. Dân thành Ninivê nghe lời tiên tri Giôna đã ăn chay và trở về với Chúa. Vua Đavít, sau khi đã nặng nề lỗi phạm, đã nghe theo lời tiên tri Nathan đã thật lòng sám hối và được thứ tha.
Chúa Giêsu khi bắt đầu cuộc rao giảng công khai đã kêu gọi: “Hãy ăn năn sám hối vì Nước trời đã gần đến”. Sứ mệnh của Ngài là cứu vớt những kẻ tội lỗi. Suốt mấy năm rao giảng Tin Mừng, Ngài không mỏi mệt kêu gọi họ.
Hôm nay, Giáo hội nhắc lại lời mời gọi ấy khẩn thiết hơn: “Nếu anh em không ăn năn sám hối, anh em sẽ chết hết”. Ngài cho thấy: những người bị giết chết hay những người chết vì tai nạn, không phải vì họ tội lỗi, nhưng những người cứng lòng không ăn năn sám hối mới đáng chết. Đây không chỉ là một lời kêu gọi mà một khẳng định cứng rắn cho chúng ta.
Chúa Giêsu không những kêu gọi mà chính Ngài đã đến kết thân với những kẻ tội lỗi để giúp họ trở về, Ngài đã bị đám Pharisêu khinh miệt vì đã lân la với hạng tội lỗi, ăn nhậu với chúng. Chúng ta có thể thấy kết quả của những cố gắng đó. Chúng ta quá quen với những khuôn mặt: Mađalêna, Giakêu, Matthêu, Phêrô, Phaolô.
Những người đó là ai? Là những người đầu tiên đã lỡ lầm, yếu đuối, nhưng họ đã trở về. Họ đã có can đảm dứt khoát với đời sống tội lỗi và đã nên thánh.
Trong lịch sử Giáo hội đã có một danh sách dài những đấng thánh từ xa trở về mà chúng ta cũng có quen biết một số: thánh Âu-Tinh, chân phước Charles de Foucauld, người sáng lập dòng tiểu đệ và biết bao nhiêu người khác… những người danh tiếng thế giới đã buông bỏ thế gian để trở về trong chuồng chiên của Chúa.
Còn chúng ta? Chúng ta có cần phải ăn năn sám hối không? Câu hỏi này xem ra thừa thãi nhưng rất quan trọng, vì trong chúng ta, nhiều người tưởng rằng mình không cần ăn năn sám hối vì không có tội gì quan trọng. Quan niệm như thế chứng tỏ họ không hiểu biết gì về cuộc sống tâm hồn, họ thuộc về hạng người không tốt cũng không xấu, không nóng cũng không lạnh, ươn ươn hâm hẩm… Và Chúa nói trong Sách Khải Huyền “Hạng người đó Ta sẽ mửa họ ra…”
Không ai trong chúng ta trọn lành cả, và những người tưởng mình không có tội gì lại là những người chất chứa nhiều tội mà không hay. Chúng tôi xin đan cử một ví dụ dễ hiểu: Có lẽ chúng ta đã sống kề cận những người xem ra đạo đức, nhưng chỉ có một điều không thích hợp đó là tính kiêu căng. Những người đó không bao giờ biết mình kiêu căng. Và chính những người này không bao giờ cảm thấy cần phải ăn năn sám hối. Và như thế họ càng lún sâu vào tính xấu của mình mà không hay biết.
Ai trong chúng ta không cần trở về với Chúa? Vì không nhiều thì ít, chúng ta vẫn còn những tật xấu, lắm khi là những tật xấu làm hại cả những người chung quanh mà không hay biết.
Ai là những người cảm thấy mình tội lỗi nhiều nhất? Chính là các thánh. Khi chúng ta mặc một chiếc áo trắng tinh, thì chỉ cần một vết mực nhỏ chúng ta cũng thấy. Một người mặc một chiếc áo bẩn thì dù có bôi thêm những vết bùn to cũng không thấy bẩn thêm. Nhưng thánh Phaolô cảnh báo chúng ta: “Ai thấy mình đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã”.
Tại sao Giuđa sống với Chúa một thời gian khá dài, ít nữa là ba năm, nghe Ngài giảng dạy hằng ngày, nhìn thấy nếp sống thánh thiện của Ngài mà lại ham tiền đến nỗi bán Thầy? Vì ông không bao giờ cảm thấy cần ăn năn sám hối. Lời cảnh báo thật mạnh mẽ ngày hôm nay chúng ta đã nghe: “Nếu anh em không ăn năn sám hối, anh em sẽ chết hết” có làm cho chúng ta suy nghĩ không?
Ăn năn sám hối để làm gì?
Để khỏi chết thôi sao? Hay để được thứ tha mà thôi? Ăn năn sám hối để trở nên con người mới, được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Chúng ta phải nên thánh, nên người hoàn thiện để khi Chúa đến, Chúa thấy chúng ta không gì đáng trách, tinh tuyền và thánh thiện. Mùa chay chính là lúc chúng ta bắt đầu lại một giai đoạn mới trong cuộc sống. Chúng ta phải tự giải thoát khỏi mọi xiềng xích tội lỗi để sống như con cái Thiên Chúa. Điều Chúa đang mong chờ nơi chúng ta. Chúa Giêsu không để chúng ta đi một mình trên con đường về Nước Trời. Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài biết chúng ta được dựng nên bằng gì và thân phận tro bụi của chúng ta không thể tự mình vươn lên đỉnh cao thánh thiện, vì thế, Ngài vẫn trung thành trong mối tình của Ngài. Ngài vẫn nuôi chúng ta bằng chính Thịt Máu thần linh của Ngài. Chúng ta cần thứ của ăn thần linh này để sống, để đi nốt quãng đời còn lại của chúng ta giữa muôn vàn gian khó. Chúng ta hãy vững tin vào tình yêu viên mãn của Ngài và cứ tiếp tục bước tới.
Xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn biết mình đang lâm hoàn cảnh bế tắc cần được giải thoát MC 3-C182
TMĐP- Xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn biết mình đang lâm hoàn cảnh bế tắc cần được giải thoát, cứu sống, cũng như tâm tình thống hối và niềm hy vọng của người con thứ hoang đàng trở về, để được bất ngờ nhận lòng thương vô bờ bến, và ơn tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa là Cha nhân hậu.
Các bài đọc và Tin Mừng trong chúa nhật hôm nay rất phong phú, vì tất cả nối kết uyển chuyển, kết hợp chặt chẽ và dẫn đến lời kêu gọi khẩn thiết của Mùa Chay: Hãy trở về, vì thời gian không còn nhiều .
Trong bài đọc một, lần đầu tiên Thiên Chúa Giavê mặc khải Tên của Ngài: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14), khi Môsê thắc mắc: nếu Ítraen hỏi con: “Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” (Xh 3,13).
Môsê thật có lý khi hỏi Tên Thiên Chúa, vì biết chắc các bậc kỳ lão đứng đầu dân Ítraen trên đất Ai Cập sẽ hạch hỏi ông nhân danh ai mà đến với họ, cậy dựa vào uy danh của người nào mà dám đưa ra chương trình dẫn toàn thể con cái Ítraen trốn khỏi đất nô lệ Ai Cập, mà về Đất Hứa?
Và kể từ giây phút Môsê được Thiên Chúa mặc khải Tên Ngài, thì Tên ấy đã trở thành bảo đảm tuyệt đối cho sứ vụ giải phóng Ítraen được Thiên Chúa trao phó và sai đi của ông, vì ông hiểu rõ Tên ấy có nghĩa: Thiên Chúa hằng có đời đời, vô thủy vô chung, vì Ta là Đấng Tự Hữu – tự mình mà có; Thiên Chúa luôn ở với và đồng hành với ông, như Lời Ngài hứa: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3,12), Thiên Chúa là Đấng trung tín và thương xót, vì “đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (Xh 3, 15).
Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cho chúng ta thấy tính duy nhất của Cựu Ước và Tân Ước, khi chỉ cho chúng ta chân lý mà không mấy người quan tâm, đó là “Tân Ước được ẩn dấu trong Cựu Ước và Cựu Ước được Tân Ước làm sáng tỏ”, nói cách khác, giữa hai Giao Ước có một sự kết hợp mật thiết, một liên kết thiết thân, như thánh Grêgôriô đã viết: “Cựu Ước là Lời Hứa, và Tân Ước thực hiện Lời Hứa; Cựu Ước loan báo cách kín đáo và Tân Ước công bố cách minh bạch, rõ ràng” như khi nhắc đến “phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển”, “thức ăn linh thiêng” rơi xuống từ trời, và “nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng” cho dân uống trên đường Vượt Qua, thánh tông đồ dân ngoại nhắc chúng ta bí tích Rửa Tội trong nước và Thánh Thần để trở thành người Kitô hữu, loan báo bí tích Thánh Thể là lương thực nuôi dưỡng linh hồn người tín hữu, và tuyên xưng “Tảng Đá chính là Đức Kitô” (1 Cr 10,4), Nguồn Sống mới của nhân loại.
Đến lượt Tin Mừng thì dường như chúng ta được đẩy lên chót vót của thời kỳ viên mãn, thời kỳ cuối cùng, thời kỳ cấp bách, ở đó mỗi người được mời gọi “hãy mau mắn đứng lên, hãy trở về với Thiên Chúa, vì tất cả đang đối diện với tử thần, đang sống bên sự chết, khi Đức Giêsu nêu lên hai biến cố đẫm máu trong dân, đó là “chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết”, cũng như chuyện “mười tám người kia bị tháp Siloác đổ xuống đè chết” (Lc 13, 1.4), mà Ngài dứt khóat khẳng định: những nạn nhân đã phải chịu số phận đau thương ấy không phải vì họ tội lỗi, hay mắc tội nặng hơn những người khác, và phủ nhận luận điệu: nạn nhân của những tai ương, tai họa là những người bị Thiên Chúa trừng phạt, báo oán, trả thù (x. Lc 13,2-5), nhưng Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh sự chết gần kề, sự kiện tử thần đang có mặt để nhắc nhở chúng ta phải gấp rút sám hối, vì thời gian không còn nhiều.
Thời gian không còn nhiều vì Nước Thiên Chúa đã gần kề; không còn nhiều, vì Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể và ở giữa chúng ta; không còn nhiều vì Thiên Chúa không còn nói với chúng ta qua các ngôn sứ của Ngài nhưng chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Thời gian không còn nhiều, vì tất cả những gì biết được ở Chúa Cha, thì Chúa Con đã nói hết với chúng ta, như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài: “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó Thầy đã nói với anh em khi còn ở với anh em”(Ga 14,24-25); và không còn nhiều vì những gì Thiên Chúa hứa với dân Ngài trong Cựu Ước thì nay đã được thực hiện trong thời đại của chúng ta, thời đại mà nhiều người mong ước được sống, nhưng đã không được sống; việc kỳ diệu Chúa làm mà nhiều người ao ước được thấy, nhưng đã không được thấy như chúng ta đang sống và đang được nhìn thấy tận mắt.
Nhưng trước quỹ thời gian không còn nhiều, trước những thách đố khó vượt qua và thử thách nguy hiểm trên đường trở về, Thiên Chúa sẵn lòng ban cho chúng ta rất nhiều ơn, vì biết chúng ta yếu đuối, như lời quả quyết của thánh Phaolô: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt qúa sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách qúa sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” 1 Cr 10, 13), miễn chúng ta biết siêng năng tôn vinh, ca ngợi danh Ngài, danh của Thiên Chúa, Đấng luôn ở với chúng ta như Môsê, tôi trung của Ngài hằng tin tưởng “nhân danh” và tha thiết kêu cầu.
Xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn biết mình đang trong tình trạng nguy kịch, đang lâm hoàn cảnh bế tắc cần được giải thoát, cứu sống, cũng như tâm tình thống hối và niềm hy vọng của người con thứ hoang đàng trước giây phút quyết định “đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15, 18-19), để được bất ngờ nhận lòng thương vô bờ bến, và ơn tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa là Cha nhân hậu, hay chạnh lòng xót thương con cái trên đường trở về.
Tin mừng Lc 13: 1-9: Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III mùa chay này giáo huấn Kitô hữu về việc thay đổi cuộc sống, 'hoán cải cuộc đời'. Chúa Giêsu mời gọi hoán cải là bước ra khỏi tội lỗi, can đảm chống lại những khuynh hướng xấu của bản thân và dấn thân theo những đòi hỏi của Tin mừng.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III mùa chay này giáo huấn Kitô hữu về việc thay đổi cuộc sống MC 3-C183
, 'hoán cải cuộc đời'. Chúa Giêsu mời gọi hoán cải là bước ra khỏi tội lỗi, can đảm chống lại những khuynh hướng xấu của bản thân và dấn thân theo những đòi hỏi của Tin mừng. Mùa chay là thời điều chỉnh, lập lại trật tự nội tâm và nghiêm túc khám phá những giá trị làm cho con người thăng tiến. Cần phải xác tín, lên đường không chần chờ với tất cả nỗ lực để hoán cải, canh tân cuộc sống.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Ex 3, 1-15
Bụi Gai Bốc Cháy
Thiên Chúa đã thấy cảnh khốn quẩn của dân Ngài bị phó mặc trên đất Ai Cập cho sự ức hiếp, và cái chết. Sau khi tỏ mình cho Môsê trên núi Sinai, Thiên Chúa trao phó cho ông sứ mạng giải phóng Israel.
Sợ bị quân của Pharaon vây bắt, Môsê trốn trong sa mạc Madian, chăn cừu cho cha vợ. Ông đã được thấy một thị kiến nhiệm màu: Bụi gai bốc cháy nhưng không bị thiêu rụi.
Thiên Chúa đã tỏ mình ra với ông: Ngài là Đấng Tự Hữu. Ngài trao phó ông sứ mạng giải phóng dân Ngài khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và dẫn đưa dân về miền Đất Hứa.
Với mỗi Kitô hữu, hình ảnh bụi gai bốc cháythắp sáng lên trong cuộc sống mỗi người niền tin tưởng, niềm hy vọng: Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Ngài ở cùng chúng ta, Ngài giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi biến chúng ta trở nên người tự do đích thực.
2. Bài đọc II: 1 Cr 10, 1-6. 10-12
Phải Cảnh Giác
Thánh Phaolô cảnh tỉnh những người tự mãn, tự phụ cho mình có sức mạnh không bị sa ngã trước những cám dỗ. Gợi nhớ lại những sự bất trung của dân Do Thái không đếm xỉa gì đến sự tốt lành của Thiên Chúa, Thánh Phaolô cho thấy cần phải thận trọng trong cuộc sống đừng ỷ lại, đừng tự phụ.
Trong số những người tín hữu tại Corintô, có một số người tự kiêu về bí tích thanh tẩy của mình, về việc tham dự vào Tiệc Mình Máu Chúa, để rồi tự cho mình có khả năng tránh được tất cả nguy hiểm sa ngã.
Thánh Phaolô khuyên bảo họ hãy dè chừng, hãy coi gương của những người Do thái ngày xưa tuy cùng được sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa nhưng nhiều kẻ đã phải chết, đã sống không đẹp lòng Chúa và phải chịu cảnh khốn khổ.
Mỗi Kitô hữu ngày nay, cần phải nhận ra sự yếu đuối của mình để đặt niền tin vào Thiên Chúa, vào ân sủng của các bí tích. Tránh xa sự tự mãn, chỉ biết cậy dựa vào sức mạnh cá nhân.
3. Tin mừng: Lc 13, 1-9
Sự Khẩn Thiết Của Việc Hoán Cải
Chúa Giêsu cảnh báo nghiêm khắc với các môn đệ và với mọi người về sự khẩn thiết của việc hoán cải và tính cần thiết của việc cảnh giác trước những nguy cơ sa ngã.
Dựa vào hai biến cố thảm thương: những người bị Philatô giết hại và những người bị tháp Silôê đè chết, Chúa Giêsu thúc giục người nghe hãy hoán cải, hãy sợ hãi những sự trừng phạt của Thiên Chúa giáng xuống trên con người.
Hoán cải luôn là điều khẩn thiết. Không thể dựa vào lòng khoan giãn nhân từ của Thiên Chúa để rồi từ chối hoán cải. Cây vả đã không sinh trái được thì sớm muộn gì cũng sẽ bị đốn bỏ.
Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng nhớ đừng quên rằng sự kiên nhẫn của Ngài là sự kiên nhẫn của một tình yêu có yêu cầu cao, đòi phải nỗ lực hoán cải, không ngừng canh tân cuộc sống, không được trì hoãn bất cứ gía nào, phải sinh hoa kết quả trong việc thay đổi lối sống.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Hoán cải, một cách nhìn mới về thực tại nhân sinh: Trước những biến cố đau thương của người khác, người ta dễ bị cám dỗ giải thích một cách thiếu bác ái. Như trường hợp những người bị Philatô giết chết, thì mọi người dễ dàng qui kết do bởi họ có tội nên bị án phạt như thế. Hay như trường hợp của anh mù bẩm sinh được Chúa Giêsu chữa sáng mắt cũng vậy, người ta cho rằng đó là hậu quả tội lỗi của anh hoặc của cha mẹ anh. Trong thực tế ngày nay cũng không hiếm những kiểu qui kết, giải thích như vậy. Chúng ta thường được nghe những lối giải thích: 'Trời phạt, trời có mắt'; ' Đáng đời'. Khi nhìn thấy những sự đau khổ, thất bại, bi thương của người khác, người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực hơn là tích cực. Còn khi chính mình gặp hoạn nạn thì lại than trách 'Trời không có mắt; Thiên Chúa bỏ rơi tôi'; 'tôi có tội tình gì đâu sao Trời lại phạt tôi?'… Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những biến cố sảy ra trong đời sống quanh ta. Một biến cố có thể giải thích bằng nhiều cách khác nhau tuỳ theo tâm lý, tính tình, trình độ của mỗi người. Khôn ngoan nhất chính là biến theo lời dạy của Chúa Giêsu: biết dựa vào các biến cố sảy ra để mà hoán cải không ngừng. " Đừng tưởng những người đó tội lỗi hơn các người khác. Không phải thế đâu. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải thì tất cả cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy." Quả vậy, nhìn người mà ngẫm đến ta, người ta bị như thế tôi không bị phải chăng là hồng ân Chúa dành cho tôi? Người ta bị như thế có ý nghĩa gì và nhất là mang lại bài học gì cho tôi? Để rồi chân nhận rằng tôi chẳng tốt lành hơn ai. Chính tôi phải hoán cải, phải thay đổi nếu không thì còn tệ hại hơn ai hết.
Như thế, hoán cải giúp mở ra một cái nhìn mới về những thực tại nhân sinh để thông cảm hơn, quảng đại hơn với tha nhân và nghiêm khắc sửa đổi bản thân mình hơn.
2. Hoán cải, một cách nhìn của hy vọng: Sau lời mời gọi phải hoán cải nếu không sẽ bị huỷ diệt, Chúa Giêsu trình bày dụ ngôn về cây vả không trái ông chủ muiốn chặt nhưng người ta điền xin cho thời gian để chăm sóc tốt hơn hy vọng sẽ có trái. Qua dụ ngôn này cho thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa, một mặt kêu gọi phải hoán cải mặt khác lại tạo điều kiện để con người có cơ hội hoán cải. Chính Thiên Chúa đã thấy sự khốn cùng của con người trong thảm cảnh của tội lỗi, sa đọa và sự chết, nên Ngài đã chủ động để Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến giải phóng và đưa con người vào trong sự tự do của con cái Chúa. Bài đọc I cho thấy tình yêu thương đó của Thiên Chúa khi Ngài trao phó cho Môsê sứ mạng giải phóng dân Israel ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập. Cũng tình thương hải hà ấy, Thiên Chúa đã trao phó sứ mạng giải phóng con người cho Đức Giêsu Kitô Con Một của Ngài. Như vậy, về phía Thiên Chúa thì Ngài luôn yêu thương mở ngỏ con đường yêu thương để đón nhận mọi người quay trở về vời Ngài. Vấn đề là từ phái con người có đáp trả tình yêu thương của Thiên Chúa hay không để mà sám hối quay trở về. Thiên Chúa không kết án, Thiên Chúa chỉ mời gọi hoán cải, nên hoán cải luôn là một niềm hy vọng. Vì nhờ hoán cải con người được sống và sống tốt hơn trong tình yêu Thiên Chúa.
Hoán cải không chỉ là đau buồn sám hối vì tội lỗi của mình, nhưng còn là một niềm hy vọng được sống, được làm lại cuộc đời. Hoán cải là một cách nhìn của hy vọng. Vậy nên, còn chần chờ gì nữa mà không hoán cải? Sai lầm ư, tội lỗi ư? Đừng lo âu buồn chán, that vọng! Hãy mau quay về Thiên Chúa đang chờ đợi, đang chăm sóc để chúng ta sinh hoa kết trái trong đời sống nhân đức.
3. Hoán cải, một cách nhìn thăng tiến: Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã khuyến cáo đừng ỷ lại, đừng tự phụ hãy ý tứ kẻo sa ngã. Lời nhắc nhở của Thánh Tông Đồ hàm ý nhắc nhở phải nhận ra sự yếu đuối, mỏng dòn của bản thân để nỗ lực cậy trông, bám vào ơn Chúa mà tiến tới. Và từ đó cũng giúp hiểu thêm một cách nhìm mới về sự hoán cải. Thánh Nhân khuyên nhủ đừng chiều theo dục vọng, đừng than trách mà bị diệt vong, nhưng hãy biến đổi. Không chiều theo dục vọng để tâm hồn thanh thoát vươn lên theo đường lối thánh ý Chúa. Không lẩm bẩm than trách để biết nhận ra tình thương của Thiên Chúa, để biết được những yếu đuối của bản thân ngỏ hầu toàn tâm, toàn ý sửa đổi cuộc sống theo những giá trị của Tin mừng. Không đi theo con người xác thịt mà đi theo tinh thần mới trong Đức Giêsu Kitô nghĩa là phải sống một đời sống mới trong ân sủng của Thiên Chúa. Từ bỏ hay không chiều theo xác thịt để sống đời sống mới trong Đức Kitô đó chính là hoán cải, là đổi đời, đúng hơn là 'lên đời'. Như thế, hoán cải là một sự thăng tiến đời sống.
Hoán cải phải đi đến kết quả là sinh hoa trái tốt tươi trong đời sống, nghĩa là thăng tiến được bản thân trên mọi khía cạnh nhân bản cũng như tâm linh. Còn nếu không biến đổi, không tốt hơn thì không phải là hoán cải mà chỉ là sự dậm chân tại chỗ.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa luôn yêu thương chờ đợi chúng ta là những tội nhân sám hối quay trở về với Ngài. Trong niềm tin tưởng vào tình yêu khoan dung của Thiên Chúa chúng ta cùng dâng lên Ngài những lời cầu xin.
1. Giáo Hội là nơi Chúa Giêsu Kitô bày tỏ tình yêu tha thứ cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội nhất là các vị chủ chăn luôn mang lấy tấm lòng từ bi hay thương xót của Chúa Giêsu Kitô.
2. Ngày nay nhiều người lầm đường lạc lối sa chân vào trong nhiều tệ nạn của xã hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những dự án, những chương trình của chính phủ về việc giải quyết những tệ nạn xã hội được phát triển tốt đẹp và những anh chị em lầm đường lạc lối sớm hoàn lương trở về với đời sống đúng phẩm giá làm người.
3. Hoán cải phải sinh hoa trái trong đời sống đạo đức. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết nỗ lực hoán cải cuộc sống theo thánh ý Chúa bằng việc từ bỏ những đam mê tật xấu và hang say sống theo những đòi hỏi của Tin mừng.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành, chúng con thật vui sướng đựơc làm con cái Chúa. Xin cho chúng con luôn đựơc Thánh Thần Chúa hướng dẫn để mau mắn sám hối khi lỗi lầm và không ngừng hoán cải thăng tiến cuộc sống theo Chúa Giêsu Kitô. Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Nếu hôm nay có người đến nói với bạn: “Anh chỉ còn đúng một năm nữa để sống thôi”, bạn sẽ làm MC 3-C184
Nếu hôm nay có người đến nói với bạn: “Anh chỉ còn đúng một năm nữa để sống thôi”, bạn sẽ làm gì trong năm cuối cùng đó của cuộc đời? Bạn sẽ tự nhủ: “Ồ, ta cứ sống đi đã. Lúc nào chết tính sau”, hay bạn sẽ tính toán: “Dẫu sao thì cũng còn 365 ngày nữa. Tới ngày thứ 300, ta bắt đầu chuẩn bị cũng còn kịp chán.”
Nếu đó là thái độ sống của bạn thì e rằng bạn đang sa lưới của Satan rồi. Một tinh thần lề mề và một thái độ trì hoãn sẽ mang lại biết bao tai hoạ. Để đến ngày mai những gì nên làm hôm nay là tự đánh mất tương lai của chính mình. Không có cám dỗ nào nguy hiểm cho bằng tư tưởng: “đời còn dài, ngày mai còn kịp”.
Một dụ ngôn kể lại việc ba quỷ con đến chào tướng quỷ là Satan trước khi lên trần gian tập sự. Chúng trình bày cho Satan những mưu đồ của mình trong việc phá huỷ hạnh phúc con người.
Quỷ con thứ nhất đến trình rằng: “Em sẽ bảo với người ta là không có Thiên Chúa đâu. Thế nên đừng lo phải đi nhà thờ nhà thánh gì cả.” Satan trả lời: “Như thế thì chẳng lừa được mấy người đâu, vì họ dư biết là có một Thượng đế, Đấng Tối cao trên muôn loài muôn vật.”
Quỷ con thứ hai vội tiến lên trình bày sách lược của mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương nên làm gì có chuyện Ngài dựng nên hoả ngục để hành hạ con người.” Nghe thế Satan trầm tư một chút rồi nói: “Nhưng cách này cũng chỉ lừa được một ít người thôi, vì người ta cũng dư biết Thiên Chúa là Đấng Công minh. Ngài sẽ thưởng phạt theo công phúc của họ. Thế nên mấy ai lại không hiểu là phải có hoả ngục để làm nơi chứa tội.”
Quỷ con thứ ba lại gần và tâu với thủ lãnh: “Em sẽ nói với loài người rằng không có gì phải vội vã cả, còn lâu Chúa mới trở lại.” Satan suy nghĩ, đoạn gật gù và nói: “Hay lắm, bằng cách đó ngươi sẽ tiêu diệt được hàng vạn linh hồn.”
Thế ra, không có sự lừa dối nào tai hại cho người ta bằng ý tưởng “thời gian còn nhiều”, để rồi cứ mãi đắm chìm trong đam mê tội lỗi, rối vợ rối chồng, hững hờ niềm tin, tôn thờ vật chất, sa lầy hưởng thụ. Và cuối cùng, như cây vả không sinh trái, bị chặt xuống và quăng vào lửa đời đời.
Thánh Anphongsô từng viết: “Ai cũng biết rằng mình sẽ chết, nhưng khốn thay! Nhiều người nghĩ rằng sự chết còn rất xa. Họ cho rằng những người già cả, ốm yếu mà còn sống được ba bốn năm nữa, huống chi là mình. Nhưng con hãy biết, đã có biết bao nhiêu người chết một cách bất ưng, khi họ đang ngồi, đang đi, đang ngủ… Có ai trong họ nghĩ rằng mình sẽ chết” (xem sách Chân Lý Đời Đời của Thánh Anphongsô).
Vị tông đồ dân ngoại từng nhắc nhở các cộng đoàn tiên khởi: “Khi người ta nói: Bình an và chắc chắn! Thì bấy giờ là lúc tiêu diệt thình lình ập xuống trên họ” (1 Tx 5:3). Thế nên hãy biết tỉnh thức, sám hối, và canh tân. Chính Chúa Giêsu cũng đã phán: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt” (Lc 13:3).
Sám hối không chỉ là công việc dừng chân trên con đường tội lỗi, nhưng còn là một ý thức về thời điểm hồng ân: “đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”. Sám hối là nhận rõ thời điểm của yêu thương tràn đầy. Tình thương dạt dào đến nỗi Thiên Chúa còn tạo thêm cơ hội và kiên nhẫn đợi chờ: “Xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân, may ra nó có quả chăng” (Lc 13-8-9a).
Có cảm nhận được tình Chúa yêu thương và nỗi mong chờ tha thiết của Ngài, con người sẽ có một cuộc sám hối đích thực. Sám hối là trở về trong yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu tự hiến và vị tha. Cảm nhận được tình yêu như thế sẽ làm phát sinh hoa trái là bao việc lành phúc đức.
“Dụ Ngôn Cây Vả” không những lên án thứ cây “ăn hại và làm choáng đất”, nhưng còn nói rõ yếu tố kết thành bản án. Đó là thứ cây “không sinh trái”. Thế nên sám hối không chỉ là việc thôi không phạm tội nữa, song còn là việc tô điểm tâm hồn bằng những hoa trái thiêng liêng. Thiên Chúa không đến để nhìn một cây vả trơn tru, không gai góc, nhưng Ngài đến là để tìm hoa quả nơi cành của nó.
“Xin để một năm nay nữa. Bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”. Thiên Chúa luôn cho tôi cơ hội làm lại cuộc đời. Ngài luôn mở lòng yêu thương mời gọi những ai sa ngã chỗi dậy. Thế nhưng cơ hội thì có hạn. Sẽ đến ngày chỉ còn một cơ hội cuối cùng. Nếu đời tôi còn một năm, hay một tháng, hoặc một ngày nữa thôi thì sao. Thật bất hạnh vô cùng khi tôi đánh mất cơ hội cuối cùng đó.
Vì không biết đâu là cơ hội cuối, nên tôi phải xem ngày hôm nay như là “lúc thuận tiện” để nhận ơn cứu độ đời mình. Nếu ngày mai Chúa còn cho sống, thì ngày mai vẫn là một cơ hội không nên đánh mất.
Thông thường, mỗi tối trước khi lên giường nghỉ đêm, chúng tôi hay đọc Kinh “Cầu Ơn Chết Lành”, xin được ghi lại dưới đây như một chia sẻ chân thành:
“Lạy Chúa con, con biết thật con sẽ chết. Có khi con chỉ còn sống được ít phút nữa mà thôi. Có khi đêm nay con vào giường nghỉ mà sáng mai chẳng còn chỗi dậy nữa. Cho nên Chúa dặn bảo con: dọn mình vào giường ngủ như là vào mồ chết vậy.
Lạy Chúa con, con biết thật đến giờ lâm chung, con sẽ ước ao chớ gì khi sống, con chẳng có phạm tội, lại hết lòng kính mến Chúa luôn. Lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Con ước ao sống và chết trong sự kính sợ Chúa. Ôi Chúa con, con xin phó dâng linh hồn con cho Chúa, vì Chúa đã mua nó giá rất cao. Xin chớ để nó ra vô phước mà chẳng nhờ đặng Máu Thánh Chúa đã đổ ra mà cứu chuộc nó.
Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp. Lạy Thánh Thiên thần hộ thủ. Lạy Thánh Bổn mạng con. Lạy các Thánh Nam Nữ trên Nước Thiên đàng. Xin hãy chuyển cầu cho con được sống trong sự kính sợ Chúa, chết trong sự yêu mến Chúa, và làm tôi Chúa ở đời này, hầu ngày sau được hưởng cùng Chúa và Đức Mẹ trên Thiên đàng. Amen. Giêsu, Maria, Giuse. Con xin dâng lòng con, trí khôn con, và sự sống con trong tay ba Đấng.
Giêsu, Maria, Giuse. Xin cho con được chết bằng an trong tay ba Đấng.”
Thiết tưởng, nếu mỗi tối, khi màn đêm buông xuống, trong không gian tĩnh mịch, với tâm tình cầu nguyện chân thành như trên, đời ta sẽ không thể không sinh hoa trái yêu thương. Và đương nhiên, hoa trái đó sẽ tồn tại cho đến muôn đời.
Tin mừng Lc 13: 1-9: Dụ ngôn cây vả cho ta thấy một Thiên Chúa ưu ái dành cho con người thấp hèn yếu đuối.
Suy Niệm
Chúng ta vừa nghe trình thuật Bài đọc I kể về một Thiên Chúa rất mực thương dân, Ngài đã chọn MC 3-C185
Chúng ta vừa nghe trình thuật Bài đọc I kể về một Thiên Chúa rất mực thương dân, Ngài đã chọn Môisen với kế hoạch giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập. Lúc bấy giờ, vì sợ Pharaô lùng bắt, Môisen trốn trong sa mạc và làm nghề chăn chiên. Đang khi chăn chiên, một hôm bỗng Môisen được diện kiến Thiên Chúa. Ngài hiện ra với hình ảnh một bụi gai rực lửa nhưng không bị cháy rụi. Ngài gọi đích danh Môisen và nói: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ của dân Ta… Ta xuống giải thoát chúng…”
Thiên Chúa dùng Môisen đưa dân vượt qua Biển Đỏ an toàn. Ngài là Đấng quan phòng, yêu thương đồng hành và dẫn dắt dân dưới hình cột mây ban ngày, cột lửa ban đêm. Nhưng Bài đọc II cho chúng ta biết dân chúng lại sống không đẹp lòng Thiên Chúa. Họ đã quỵ ngã trong sa mạc vì chiều theo những dục vọng xấu xa. Tuy nhiên, Chúa không buông bỏ dân mà tiếp tục kêu mời dân hoán cải.
Và rồi trong cuộc sống, mỗi khi nhận thấy có một tai ương, ôn dịch, chiến tranh, hoạn nạn hay một biến cố xảy ra với ai đó, người ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái như “Trời phạt nó”. Chẳng hạn, thời Chúa Giêsu, dân Do Thái bị đế quốc Rôma đô hộ. Nhiều người nổi dậy dùng vũ lực chống lại chính quyền Rôma và đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh giết chết. Theo quan điểm của họ, những người này chết là đáng tội. Còn mười tám người Do Thái bị tai nạn lao động, tháp Silôác đổ xuống đè chết đang khi được thuê đào đường dẫn nước cho quân Rôma đế quốc áp bức, nên cũng là đáng tội.
Thực ra, khi một biến cố xảy ra có thể là do hấp lực trái đất, sự mỏng giòn của kiếp người, những sai lầm không tránh được. Nên tai nạn xảy đến với ai thì không nhất thiết do họ có tội hơn những người khác; trong khi những người khác dễ nghĩ mình sạch tội nên vẫn còn bình yên. Không khéo điều này đưa người ta đến sự tự cao và an toàn giả tạo. Chúng ta đừng gán ghép bất hạnh, nghèo nàn với tội lỗi, hay thành công và giàu sang là được ban thưởng.
Chúa Giêsu coi biến cố đau thương của một sự việc tai nạn mất mát như một sứ điệp, một lời cảnh báo mạnh mẽ gửi đến mọi người, kêu gọi mau hối cải để khỏi chịu chung số phận: “Nếu các ngươi không hối cải, hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế”. Vì biết đâu chừng đây có thể là cơ hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống trên chúng ta. Vậy chúng ta cần hoán cải thế nào?
Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây vả được trồng trong vườn nho để ví về mỗi chúng ta. Một cây vả không có lợi về kinh tế lắm và cũng không có giá trị bằng cây nho, thế nhưng nó vẫn được trồng trong vườn nho. Dụ ngôn cây vả cho ta thấy một Thiên Chúa ưu ái dành cho con người thấp hèn yếu đuối. Ngài còn là người chủ vườn kiên nhẫn chờ đợi một năm, hai năm, rồi ba năm… Cây vả được đặc ân hơn, nhưng nó lại không tỏ ra xứng đáng được đặc ân đó.
“Nhất quá tam”, hay “quá tam ba bận” diễn tả sự kiên nhẫn chịu đựng của một người. Sau khi kiên nhẫn chờ đợi trong ba năm, ông chủ thất vọng vì cây vả không sinh trái nên ra lệnh cho chặt cây vả, để nó làm gì cho hại đất. Ông chủ không hề bốc đồng hay tàn ác khi đưa ra quyết định này. Ông đã chịu đựng ba năm, đã hy vọng, đã chờ đợi trái của nó, và cây vả chẳng làm ông mãn nguyện. Ông không vui gì khi quyết định chặt cây vả mà ông đã trồng, nhưng ông không muốn đầu tư cho một sự vô ích.
Anh làm vườn xin chủ gia hạn thêm một năm nữa thôi, vì anh còn chút hy vọng và muốn cho nó một cơ hội cuối. Anh sẽ chăm bón cẩn thận, và chờ đến mùa này năm sau. Anh kiên nhẫn, hy vọng nhưng cũng đòi hỏi cương quyết: nếu nó sinh trái thì tốt quá, còn không thì anh sẽ chặt theo ý ông chủ. Đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Ngài vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.
Cây vả ấy muốn nói về mỗi chúng ta, tự bản thân chúng ta mới biết kết cuộc của cây vả. Vì thế mà đoạn Tin Mừng để mở ngõ cho mỗi người chúng ta viết lên phần sau đó: liệu cây vả ấy có ra trái như ông chủ mong đợi không là phần quyết định của mỗi chúng ta.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được an phận. Vì thế mà một người được xem là tốt lành có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết. Rất nhiều người cảm thấy bằng lòng với chính mình khi đi lễ mỗi tuần, rước lễ hàng ngày, xưng tội hàng tháng, tham gia công tác giáo xứ và đóng góp vào nhà thờ thường xuyên nên không cần sám hối… Giây phút này đây, chúng ta cần tỉnh thức với câu nói của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12); Coi chừng, tới ngày phán xét, rất có thể họ sẽ bật ngửa khi nghe Chúa nói: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,23).
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi mà nhắm đến mọi người không trừ một ai. Sám hối và thay đổi đời sống cũ không chỉ là lời nhắc nhở xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Đây là lời kêu gọi nhắm đến mọi người. Người chủ muốn đốn cây vả không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như lý ra nó phải sinh. Một Kitô hữu mà sống không có Chúa Kitô thì không phải là Kitô hữu. Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn thực thi cái tốt, điều thiện. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu không được làm, mà Giáo lý Hội thánh Công Giáo còn đòi buộc cả những điều tích cực “Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì hãy làm cho người ta”.
Câu chuyện vào một đêm bão tuyết rơi lạnh lẽo, bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí xong, người thanh niên quay gót. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu là có nên mời người đó vào nghỉ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên vô gia cư mới qua đời. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy xấu hổ. Ông hối hận vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét. Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Chúng ta được thôi thúc phải hoán cải ngay lúc này, khi đang còn thời giờ mới kịp. Mùa Chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta, để trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ. Đừng để mùa Chay năm nay trôi qua vô ích.
Hôm nay ta sẽ rút ra hai bài học từ hai bài đọc. Bài học một từ bài đọc một. Bài học hai từ bài MC 3-C186
Hôm nay ta sẽ rút ra hai bài học từ hai bài đọc. Bài học một từ bài đọc một. Bài học hai từ bài đọc ba, tức bài Tin Mừng.
1. Bài học một.
Bài đọc I trong 5 Chúa nhật Mùa Chay cứ tuần tự thuật lại 5 giai đoạn trong lịch sử cứu độ, hay còn được hiểu là 5 giai đoạn trong cuộc hành trình loài người tìm gặp Chúa (1). Hôm nay tới giai đoạn của Môsê. Bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng để ý là Chúa không hiện ra với ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc (thật ra thời dân ở Ai Cập làm gì có đền thờ, nhưng chí ít cũng chọn một nơi “ngon” hơn một chút); và hay ho hơn nữa, Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông đang chăn cừu. Vậy là, Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi “phàm trần” và trong một sinh hoạt “phàm trần.”
Chúng ta có biết đặc điểm của người giáo dân được CĐ Vatican 2 kể ra là gì không? Hãy mở Hiến chế tín lý về Giáo Hội, chương 4, bàn về giáo dân, số 31, thấy ngay: “tính cách phàm trần (trần thế) là tính cách riêng biệt và đặc thù của người giáo dân” mà người giáo dân chiếm 99,99% Dân Chúa.
Vậy là, Chúa không bắt người giáo dân phải vào đền thờ mới gặp được Chúa. Sẽ có lúc Chúa đòi như thế, như hôm nay Chúa nhật ta đến Nhà Thờ (nhưng đó không phải là bài học ta rút từ bài đọc 1 hôm nay). Chúa cũng không đòi chúng ta phải ngưng công việc thường ngày, rồi quỳ đọc kinh cầu nguyện, bấy giờ Chúa mới hiện ra. Không. Ngài đã gặp Môse đang khi ông chăn cừu, trong sa mạc đất phàm.
Khi ở Chicago, ghé thăm văn phòng của một bà giáo dân làm việc cho giáo xứ, tôi ngạc nhiên thấy trong phòng bà lúc nào cũng có ngọn nến. Bà tới nơi làm việc, việc đầu tiên là đốt ngọn nến. Hỏi bà lý do, bà có sẵn ngay: nơi làm việc là nơi thánh.
Ta thử đọc lại câu chuyện Mô-sê: Hãy cởi dép ra vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh. Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Mà Chúa chẳng ngại gì hiện diện giữa nơi phàm trần, nơi mà người giáo dân sống và làm việc. Ta nghe thêm Công Đồng nói: “Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả dệt thành đời sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, (…) để họ thánh hoá thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình: tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác.”
Không cần thắp lên ngọn nến bằng sáp như bà kia khi đến nơi làm việc, nhưng cứ buôn bán lương thiện, chạy xe (ôm, xích lô, taxi, tải…) không ép giá, thi cử không quay cóp, dạy học theo lương tâm, làm các nghề sự nghiệp hành chánh công minh chính trực, chu toàn bổn phận cha mẹ, vợ chồng con cái trong gia đình…, ắt sẽ là những ngọn nến có khi còn sáng hơn ngọn nến sáp kia nhiều, vì được đốt bằng tim gan, xương máu của ta. Làm việc tận tuỵ sao không tiêu hao xương máu được !
Vậy là bài học một rút từ bài đọc một là ta hãy biến nơi phàm trần ta ở, chốn trần thế ta làm việc trở thành nơi thánh bằng cách để Chúa đến ở với ta.
2. Bài học hai
Bài học hai rút ra từ bài Tin Mừng. Bài Tin Mừng nhắc đến 2 biến cố đẫm máu, tuy thua xa các vụ bắn chết 50 người tại hai đền Hồi giáo bên New Zealand mới đây, hay không kêu to như vụ nổ ở thành phố cảng Thiên Tân Trung Quốc năm nào (12-8-2015), cũng không dã man như vụ giết 6 người tại Bình Phước 4 năm trước đây (7-7-2015), nhưng cũng gây kinh hãi: “Khi ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.” Vậy là họ bị giết ngay trong khu vực đền thờ, mới có máu chiên bò sát sinh hoà lẫn với máu của người bị giết. Đó là chuyện người ta kể cho Chúa nghe.
Đáp lại, Chúa kể cho họ nghe chuyện mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Nhà thờ Ngọc Lâm, tỉnh Thái Nguyên sáng 17-1-13 sập mái, chết mấy người, bị thương trên 5 chục. Cũng ghê ! Ta thử theo chân các nhà lịch sử Kinh Thánh để hiểu hơn một chút hai cuộc chết chóc mà Tin Mừng nhắc đến. (2)
Lúc đó Phi-la-tô, tên rất quen thuộc, vì ta có nhắc đến tên ông quan này trong kinh Tin Kính, Philatô có một quyết định rất tốt rằng Giê-ru-sa-lem cần có một hệ thống dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông quyết định xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một phần tiền của Đền Thờ. Nghe đến ý tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ vào việc không phải đền thờ (trần thế) cũng đủ khiến dân Do-thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Phi-la-tô cho lính của ông cải trang trà trộn với họ. Lính được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, lính xông vào dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng vì bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân người Galilê.
Còn về phần mười tám người bị tháp Si-lô-ê đổ xuống đè chết, cho đến nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Nhưng có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Phi-la-tô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì số tiền công họ lãnh đều là tiền của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó từ đền thờ, tức là một cách lấy trộm của Chúa. Khi tháp Si-lô-ê đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó, cho nên Chúa phạt nhãn tiền. Người Do-thái đã nghiêm khắc kết buộc “đau khổ” và “tội lỗi” với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: "Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?" (G 4,7) Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giê-su đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như người mù thủa mới sinh: “chẳng phải lỗi nó, chẳng phải tội cha mẹ nó.”
Mà thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Thánh vịnh nói: «Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân». Các Ki-tô hữu thời sơ khai, các thánh tử đạo, thường là những người hiền đức nhưng cuộc đời của họ nhiều khi gặp toàn nghịch cảnh, và có khi phải chết một cách thảm thiết. Chẳng hạn rất nhiều Ki-tô hữu bị Nê-rô cho sư tử xé xác và bị thiêu sống tập thể. Chính thánh Tê-rê-xa A-vi-la cũng gặp rất nhiều thử thách, đến nỗi bà phải than với Chúa: «Bây giờ con mới hiểu tại sao Chúa lại quá ít bạn như thế, vì Chúa thường đối xử với bạn thân thiết của Chúa như thế này đây!».
Cho nên khi nói về hai cuộc chết chóc trên, Chúa Giêsu muốn nói ngay, chẳng phải họ có tội mà họ chết đâu. Chúa Giê-su còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không chịu nhìn vào chết chóc đó mà ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt.
Trong thời Chúa Giêsu cũng như thời chúng ta, chúng ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái đối với người khác. Biết bao lần người ta đã nghe những lối giải thích bộc phát như sau: Trời phạt nó. Đó là án phạt của Chúa, hoặc chúng ta dễ lạm dụng kiểu nói “trời có mắt” để biện minh cho ý của chúng ta, để tạo cho mình mối quan tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác.
Và rồi chúng ta cũng dễ có cám dỗ ngược lại và gán ép cho Chúa những biến cố bất lợi xảy đến cho chính chúng ta: Trời bỏ tôi. Chúa làm ngơ giả điếc. Ngài trả thù mà... Đôi khi những biến cố đó chỉ là do những nguyên nhân thiên nhiên vô hồn (thời tiết, bệnh truyền nhiễm, tai biến tự nhiên...). Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những gì xảy đến cho ta.
Người khôn ngoan nhất là người -như Chúa Giêsu dạy- biết lợi dụng tất cả những gì xảy đến để hoán cải không ngừng, để tạ ơn Chúa khi gặp những biến cố may mắn, để xin cho tâm hồn vững mạnh và biết tùng phục ý Chúa khi gặp các biến cố xui xẻo. Như thế lời Kinh thánh sau đây sẽ nên trọn cho chúng ta: “Mọi sự đều góp phần sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa ” (Rm 8,28). Amen. -------------------------------------------------- (1) Bài đọc I các Chúa nhật Mùa Chay có một bố trí đặc biệt, không liên quan tới bài Tin Mừng, như các CN Thường Niên. Nó diễn đạt lại 5 giai đoạn của lịch sử cứu độ, CN I: Thời nguyên thủy; CN II: Thời Abraham; CN III: Thời Mô-sê; CN IV: Thời Đất Hứa ; CN V: Thời các ngôn sứ. (2) theo giải thích trong bài chia sẻ của cha Hàm
Trong bài Phúc Âm Lc 12,54-59 chúng ta hoàn cảnh khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là MC 3-C187
Trong bài Phúc Âm Lc 12,54-59 chúng ta hoàn cảnh khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là can đảm và kiên trì đối mặt với điều trái ý mà không tỏ vẻ khó chịu, bồn chồn hoặc thất vọng. Kiên nhẫn là một đức tính giúp đạt sự thành công ở đời, đồng thời cũng là nhân đức trong đời sống tâm linh.
Kiên nhẫn không phải là thụ động, mà là chủ động. Đó là sức mạnh tập trung của con người. Kiên nhẫn rất cần, nhưng phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được, như Hellen Keller nhận định: "Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này". Nghĩa là chúng ta phải có mục đích nào đó vượt trên những gì trần tục của những người bình thường.
Ngày xưa, ông Môsê chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Bỗng nhiên Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng mà không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?" (Xh 3:3). Đức Chúa thấy ông lại xem, tiếng Thiên Chúa phát ra từ giữa bụi cây: "Môsê! Môsê!". Ông thưa: "Dạ, tôi đây!" (Xh 3:4). Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là Đất Thánh" (Xh 3:5). Nơi nào có Thiên Chúa thì nơi đó là Đất Thánh, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Thiên Chúa lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Gia-cóp" (Xh 3:6). Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa. Tại sao? Không phải Thiên Chúa dữ tợn hoặc dị dạng khó coi, mà Thiên Chúa là Đấng Thánh. Mắt phàm nhân không thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa là Nguồn Sáng? Biết vậy, Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút" (Xh 3:7-8). Thiên Chúa biết rõ mọi điều từ trong suy nghĩ của con người, Người chỉ muốn chúng ta thật lòng và kiên trì kêu xin thì sẽ được toại nguyện.
Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?" (Xh 3:13). Thiên Chúa xác nhận với ông Môsê: "Ta là Đấng Hiện Hữu. Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em" (Xh 3:14). Không vòng vo. Chính xác. Rõ ràng. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: "Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia" (Xh 3:15).
Đọc đoạn Kinh thánh này và biết Thiên Chúa mà chúng ta đang tin kính và tôn thờ là ĐẤNG HIỆN HỮU, chắc chắn chúng ta thực sự hạnh phúc vì chúng ta đang có đức tin chính thống và sự tôn thờ đúng đắn. Quả thật, XƯA NAY CHƯA MỘT THẦN LINH NÀO DÁM TỰ XƯNG NHƯ VẬY. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta xác định rõ ràng: TA LÀ ĐẤNG HIỆN HỮU. Và Ngài cũng là ĐẤNG TỰ HỮU. Hãy tạ ơn Chúa đã soi sáng cho chúng ta đi đúng Đường Chân Lý của Thiên Chúa Thật!
Chắc hẳn vì vậy mà tác giả Thánh vịnh luôn tự nhủ: "Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người" (Tv 103:1-2). Thế mà con người vẫn quá hèn yếu, luôn xin và muốn được toại nguyện, nhưng ít người còn biết nhớ ơn. Phúc Âm nói tới ví dụ điển hình: Mười người được ơn, nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa, mà người biết ơn đó lại là người ngoại đạo (x. Lc 17:11-18), chắc chắn chín người vô ơn bạc nghĩa là người có đạo – dù người đó ở cấp bậc nào, nói chung là những người mệnh danh là Kitô hữu, đừng tưởng người địa vị cao thì "ngon" hơn người ở địa vị thấp! Chúa Giêsu đặt vấn đề: "Thế thì chín người kia đâu?". Rất rõ ràng. Rất nghiêm túc. Rất thực tế. Rất nhẹ nhàng mà lại rất đau – nhức buốt tận tủy xương!
Rồi khi gặp trắc trở, con người mới "giật mình" và lại hối cải: "Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà" (Tv 103:3-4). Thiên Chúa luôn thông cảm nên luôn nhân hậu và xót thương, Ngài "phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện" (Tv 103:6-7), bởi vì "Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương" (Tv 103:8). Nhân loại không thể hiểu thấu kiểu yêu thương kỳ lạ như vậy: "Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao" (Tv 103:11). Nếu không có lòng thương xót kỳ lạ như vậy của Thiên Chúa thì chúng ta cùng đường, hết đường sống – thời nay gọi là "tận cùng bảng số".
Từ một người Pharisêu và "chuyên gia" về việc bách hại đạo, Saolê bỗng biến thành Phaolô nhiệt thành rao giảng về Người mà chính ông đã tìm mọi cách để triệt hạ. Và rồi Thánh Phaolô không thể im lặng: "Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô" (1 Cr 10:1-4). Chữ "tất cả" và chữ "một" khác nhau hoàn toàn, thế nhưng lại không hề khác chút nào. Dù "thuận" hay "nghịch" cũng vẫn trong một tổng thể hài hòa.
Thánh Phaolô nói thêm: "Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta" (1 Cr 10:5-6). Cuộc đời chúng ta cũng vậy, thất bại và đau khổ là bài học quý giá. Đó là tiếng Chúa cảnh tỉnh chúng ta, vì Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố của cuộc đời. Chắc hẳn cố nhạc sư Hùng Lân đã cảm nghiệm điều đó nên ông viết trong bài thánh ca "Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử Loài Người" với ca từ đậm chất Đức Tin trong phần điệp khúc: "Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi. Từ thời hồng hoang tuổi đá, khi nhân loại như thú rừng, dần dà ngự trị thiên nhiên, không gian thời gian mấy trùng. Từ lúc bước vô trần gian cùng tiếng khóc oa oa, đời con Chúa đã an bài trong thiết tha".
Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn, đến nỗi người ta cho rằng "không hề có Thiên Chúa", dù chúng ta không ngừng tái phạm. Thánh Phaolô đã cảm nhận được lòng thương xót của Chúa nên đã khuyên nhủ: "Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này" (1 Cr 10:10-11). Bởi vậy, không ai dám mạo nhận điều gì, vì "ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã" (1 Cr 10:12). Không ảo tưởng và luôn tỉnh thức, đó là biết sống kiên nhẫn.
Một ngày nọ, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu hỏi lại: "Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?" (Lc 13:2). Tình trạng "tưởng mình hơn người" rất thường xảy ra trong ý nghĩ của chúng ta. Điều này gợi nhớ tới dụ ngôn hai người cùng lên Đền Thờ để cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Chúng ta quên (hoặc không muốn nhớ) rằng chính Chúa Giêsu đã minh định: "Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa" (Lc 18:19).
Chúa Giêsu cảnh báo: "Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy" (Lc 13:3-5). Chúa Giêsu cảnh báo quá nhiều mà người ta vẫn không muốn lắng nghe, phải chăng người ta nghĩ rằng Ngài là người-thích-đùa chăng? Không, hoàn toàn Ngài không đùa, Ngài đang kiên nhẫn chịu đựng!
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?" (Lc 13:7). Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi" (Lc 13:8-9). Ai xin chủ nhân trì hoãn việc đốn cây? Đó là Chúa Giêsu. Chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa, đã chịu đau khổ và chịu chết để minh chứng Tình Yêu, nhưng hầu như vô hiệu. Rồi Ngài lại mặc khải Thánh Tâm, và ngày nay là Lòng Thương Xót. Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi kiên nhẫn vì những thụ tạo khốn nạn là chính mỗi chúng ta!
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa, xin biến đổi trái tim xơ cứng của chúng con để chúng con không phụ lòng kiên nhẫn và nhân từ của Ngài, đồng thời có thể phần nao đáp lại Tình Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Tin mừng Lc 13: 1-9: Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình... nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn.
Trải dài dòng chảy lịch sử cứu độ, ta thấy Thiên Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót, Người MC 3-C188
Trải dài dòng chảy lịch sử cứu độ, ta thấy Thiên Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót, Người luôn cảm thông trước những nỗi khổ của con người và trước những nếp sống tội lỗi bất trung, Người luôn mong chờ sự hối hận ăn năn, từ bỏ tội lỗi trở về sống trong ân sủng và tình thương của Người.
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng lời kêu gọi thống hối: "Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến". Ngày nay, thông qua tiếng nói của Giáo Hội, chúng ta cũng được kêu gọi cùng một lời kêu gọi đó. Lời kêu gọi sám hối ở ngay trung tâm của Tin Mừng. Chúa Giêsu nói ra lời kêu gọi này, không chỉ cho những người tội lỗi, nhưng là cho những người tốt lành.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.
Với trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng thương xót và nhân ái.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Itraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Itraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận lời đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm 70 sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Ta thấy rằng trước tiên, Chúa dạy chúng ta đừng kết án ai, cũng đừng trách móc Chúa theo sự kiện xảy ra. Biết bao nhiêu người khi thấy một điều bất hạnh xảy đến cho mình hay cho những người mình yêu mến thì hay phàn nàn: Thật là bất công, tôi đã làm chi mà Chúa để cho tôi phải chịu như thế này? Trái lại, khi điều bất hạnh xảy đến cho những người mà họ không ưa thì câu nói ở cửa miệng thường là: Thật trời có mắt hay Chúa công bình vô cùng. Con người hay gán cho Thiên Chúa những gì họ nghĩ trong lòng họ. Thiên Chúa công bình vô cùng, nhưng suốt đời sống con người ở trần gian, Thiên Chúa vẫn là Cha nhân từ vô cùng. Người không thất vọng nhưng luôn chờ đợi những hoa quả tốt tươi trong đời sống con người. Chúa luôn ban ơn săn sóc và mong cho cuộc đời chúng ta đơm hoa kết trái.
Lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình... nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức... nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể "năm tới sẽ bị chặt đi".
"Đổi mới hay là chết". Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn kéo dài trong từng phút sống của cuộc đời ta.
Hẳn ta còn nhớ chuyện về Đavit,sau khi Đavít phạm tội ngoại tình và giết người, ông vẫn ung dung tự tại như không hề có gì xảy ra. Thế rồi, tiên tri Nathan được Chúa sai đến gặp ông và kể về chuyện bất công của một người hàng xóm nọ. Đavít nổi giận, ông đòi trừng trị tức khắc kẻ bất nhân. Lúc bấy giờ Nathan mới nói: "Con người bất nhân đó chính là ông".
Lúc bấy giờ Đavít mới chợt bừng tỉnh, ông nhận ra cái thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Chúng ta vốn mù quáng về mình nhưng lại nhạy cảm trước sự yếu đuối của người khác, đó là mầm móng của thái độ bất khoan dung. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là nhận ra thân phận tội lỗi của mình, nhưng thiết yếu là phải tin tưởng vào lượng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa. Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, chúng ta được mời gọi để thể hiện chính sự tha thứ và khoan dung với tha nhân. Quan hệ giữa người với người lúc đó sẽ không còn là "mắt đền mắt, răng đền răng" nữa, mà sẽ là thông cảm tha thứ. Cuộc sống xã hội sẽ không chỉ được điều khiển bởi thứ công bình có vay có trả, mà cần phải được xây dựng trên sự tha thứ, lòng quảng đại vô vị lợi.
Lời kêu gọi thống hối của Chúa Giêsu làm cho chúng ta bối rối, mà chúng ta thì không thích bị gây rắc rối. Chúng ta muốn cho cuộc sống của mình được yên ổn, một cuộc sống có thể chứa đựng nhiều sự ích kỷ. Có thể chúng ta không phạm phải một tội trọng nào, tuy nhiên, chúng ta có thể rất ích kỷ, rất hay đòi hỏi, rất thiếu sự quan tâm. Nhưng chúng ta lại không muốn hay biết, ít nhiều chúng ta đã làm bất cứ điều gì, theo bản chất này của chúng ta. Chúng ta được kêu gọi ra khỏi thói ích kỷ, để trở nên người biết quan tâm đến kẻ khác, và tập trung vào Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối... trước khi ra mắt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa.
Vậy muốn sống còn và được hưởng phúc đời đời với Chúa, chúng ta phải dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để ăn năn sám hối.
Các ông tưởng mấy người Galilê bị giết, khiến máu đổ hòa lẫn với tế vật đang dâng vì tội lỗi MC 3-C189
Các ông tưởng mấy người Galilê bị giết, khiến máu đổ hòa lẫn với tế vật đang dâng vì tội lỗi họ ư ? Không phải thế. Nếu các ông không sám hối thì cũng xẩy ra như thế. Cũng như 18 người bị tháp Siloác đổ xuống đè chết là đáng tội ư ? Không phải thế, nếu các ông không sám hối thì cũng chết như vậy (Lc.13:01-09).
Một nhà thiên văn mới sáng chế ra một chiếc kính viễn vọng. ông để trên sàn gác để đêm đêm nhìn ngắm tinh tú trên bầu trời. Một đêm kia ông khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bạn bè biết, thế là người ta ùn ùn kéo đến thưởng lãm và tán thưởng. Thế nhưng có một ông bác học già tuổi đến xem qua rồi ông lắc đầu. Ông xem rất kỹ, cuối cùng ông khám phá ra sợi chỉ xanh mắc vào ống kính. Ông nói với bạn :
– Hãy quan sát lại bộ kính của anh xem có gì trục trặc không.
Ống viễn vọng kính là hình ảnh cái nhìn của chúng ta. Chỉ vướng mắc một vật nhỏ vào là làm cho mắt chúng ta nhìn cảnh vật ra khác. Con mắt thiển cận nhìn cảnh vật ra đen tối, mờ ảo, con mắt sáng quác nhìn cảnh vật ra vĩ đại, quan trọng. Vì thế Chúa nhắc khéo: “Muốn nhìn cái đà trong con mắt anh em thì hãy lấy cái rác ra khỏi mắt mình trước đã”. Đừng “suy bụng ta ra bụng người”, nhìn mặt trăng và sợi chỉ hóa ra con rồng xanh, lấy lòng mình mà nhìn lòng người khác dễ bị lệch lạc lắm.
Quan niệm của Chúa thì khác, Ngài xác định họ không phải là kẻ tội lỗi, Ngài dùng những biến cố khác nhau như tiếng chuông mà cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính bản thân mình, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa. “Nếu các ngươi không ăn năn thìcũng sẽ bị chết thê thảm như thế”. Hãy biết đấm ngực mình mà ăn năn : “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Có như thế, những biến cố xẩy đến trong đời mới đem lại lợi ích cho chúng ta, mới cảnh tỉnh mình khỏi tình trạng tội lỗi. Chính những biến cố ấy là lời Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành thánh thiện.
Lạy Chúa, cây vả không sinh hoa trái sẽ bị chặt đi, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn kỹ, nghĩ kỹ, đến việc nở sinh hoa trái dồi dào, để không bị Chúa loại trừ.
Thói thường suy nghĩ của người đời thì “Gieo gió thì gặt bão “ hay “ Quả báo ”, khi biết tai họa MC 3-C190
Thói thường suy nghĩ của người đời thì “Gieo gió thì gặt bão “ hay “ Quả báo ”, khi biết tai họa xảy đến cho ai đó. Một cách suy nghĩ tiêu cực, bất chấp nguyên nhân. Nhiều người thường suy đóan : người bị nạn do trời phạt, hoặc cho rằng kiếp trước ăn ở không ra gì nên kiếp này phải đền trả. Câu chuyện mà Tin mừng hôm nay Thánh Luca đề cập đến cũng không ngòai “thành kiến “ ấy.
Tật xấu ấy của con người không phải chỉ hôm nay mới có mà đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước. Chúa Giêsu kịch liệt phản đối quan niệm đó: “ Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao ? Tôi nói cho các ông biết : Không phải như thế đâu ? “. Đức Giêsu phủ nhận những suy đóan rằng những người bị nạn là do Chúa phạt, nhân chuyện những người Ga-li-lê bị PhiLaTô giết, trong lúc dâng của lễ ở đền thờ. Các nhà chú giải cho rằng những người này là những người yêu nước, chống lại chính quyền La Mã, bị phát hiện nên theo lệnh PhiLaTô, họ bị giết. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo người Do Thái :”Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy “.
Đức Giêsu cũng nói đến tai họa tháp Si-lô-ê đổ làm mười tám người bị chết, chỉ là một tai nạn xảy ra trong cuộc sống. Những người không may ở đó, không ai biết họ đã sống ra sao? Họ có tội lỗi gì hơn những người khác? Đó là cái nhìn của những người chuyên xét đóan, tự cho mình là người công chính. Đức Giêsu bác bỏ cái nhìn nông cạn này và tiếp tục lời cảnh báo :” Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy “. Đối với Đức Kitô, những biến cố xảy ra trong cuộc đời đều là những cảnh báo cho con người. Nhìn những biến cố xảy ra nơi này nơi khác, với người này người khác, là cơ hội để mỗi người tự sám hối, vì ai trong chúng con cũng là người có tội .
Mùa Chay là thời gian Giáo hội dành cho mỗi người chúng con tự nhìn lại mình. Nhìn các biến cố trong cuộc đời mà ý thức thân phận mỏng dòn, yếu đuối của con người, từ đó nhận ra mình còn thiếu sót với Chúa và với anh em trong bổn phận. Người với vai trò làm cha mẹ, người ở vị trí là con, người khác sống độc thân, ở bậc tu trì. Có người giữ trọng trách lãnh đạo trong Giáo hội, trong cộng đòan, trong xã hội, từng người có chu tòan bổn phận, trách nhiệm Chúa trao? Có “Vâng nghe lời Người “? có thể hiện Di chúc Chúa để lại “ Hãy yêuthương như Thầy đã yêu thương “ ?
Nhìn lại bản thân, trong đời sống, con vẫn ít nhiều có suy nghĩ như những người biệt phái trong dân Do Thái ngày xưa, vẫn còn có thái độ xem thường người khác. Cho rằng mình tốt hơn người, nên được Chúa thương không phạt như những người chẳng may bị tai nạn, bị bách hại. . . Thái độ đó trong mùa Chay này, xin Chúa cho con biết từ bỏ. Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, Người không lên án, luận phạt ai biết sám hối ăn năn.
Xin cho con luôn biết sám hối trở về, đón nhận ơn tha thứ và bình an, để từ nay, như cây vả sau nhiều năm không kết trái, con biết thay đổi đời sống, cách sống, con sẽ không bị “ Chặt nó đi ”. Sẵn sàng trở về, hầu nảy sinh nhiều ơn ích cho bản thân. Con sẽ được đứng vững trước mặt Chúa, khi Người lại đến trong vinh quang. AMEN
Từ ba tuần nay, chiến tranh bùng nổ tại Ucraina, một phần đất của Liên Xô cũ. Quốc gia gây MC 3-C191
Từ ba tuần nay, chiến tranh bùng nổ tại Ucraina, một phần đất của Liên Xô cũ. Quốc gia gây hấn là Liên bang Nga. Đây là một cuộc chiến không cân sức, giữa một cường quốc và một đất nước nhỏ bé. Sau ba tuần kể từ khi chiến dịch quân sự do Nga phát động, máu người vô tội chảy khắp nơi. Hàng triệu người dân Ucraina phải rời bỏ nhà mình đang ở để đi lánh nạn ở các nước láng giềng. Không ai nghĩ máu chảy đầu rơi một cách thảm khốc trong một thế giới hiện đại và tự coi là văn minh. Đức Thánh Cha Phanxicô đã thân hành đến trước đại sứ Nga ở Rôma để phản đối chiến tranh và kêu gọi: hãy dừng lại. Cả thế giới đều chăm chú theo dõi cuộc chiến. Các tổ chức quốc tế đều can thiệp và mong muốn cuộc chiến tranh này sớm kết thúc. Con người đang huỷ diệt chính mình và huỷ diệt tương lai.
Với Đức tin và lòng phó thác nơi Thiên Chúa, người Kitô hữu chúng ta cùng cầu nguyện. Xin Chúa soi sáng các nhà lãnh đạo các quốc gia để cùng nhau đối thoại và xây dựng hoà bình. Lời Chúa của Chúa nhật thứ ba Mùa Chay giới thiệu với chúng ta: Thiên Chúa là Đấng cảm thương trước nỗi thống khổ của con người. Trong bụi gai rực lửa, Chúa tỏ cho ông Môisen biết ý định của Ngài, là sẽ giải phóng dân Do Thái, để đưa họ đến miền đất Ngài đã hứa cho ông Abraham và dòng dõi ông. Bài đọc I trích sách Sáng thế cho thấy đây là lần đầu tiên Thiên Chúa mạc khải cho con người về danh xưng của Ngài. Ngài vừa là “Đấng Tự Hữu”, có nghĩa là Đấng quyền năng, không phải do bất cứ ai tạo thành. Ngài cũng là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacóp, nghĩa là Đấng đã hành động trong lịch sử và đã thực hiện những điều tốt lành đối với các Tổ Phụ. Khi xưng mình là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacóp, Thiên Chúa diễn tả lòng từ bi của Ngài.
Nếu Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, thì con người phải sám hối để xứng đáng đón nhận lòng xót thương của Ngài. Lời mời gọi sám hối được nhắc đi nhắc lại bởi chính Chúa Giêsu. Sám hối là từ bỏ tội lỗi, chân thành canh tân đổi mới cuộc đời. Tâm lý thông thường, chúng ta hay để ý đến những điều xảy ra rồi bình luận theo cái nhìn thiên kiến của mình. Hai sự kiện được Chúa nêu, là sự kiện Philatô tàn sát những người Galilêa và tháp Siloê sập đổ đè chết người. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, những gì xảy ra chung quanh chúng ta đều là những lời cảnh báo và kêu gọi chúng ta hãy nhìn lại mình. Bên cạnh chúng ta, bất kỳ lúc nào cũng có thể có những Philatô tàn sát và những cây tháp đổ sập. Nơi khác trong Tin Mừng, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy luôn tỉnh thức sẵn sàng, vì không biết ngày nào giờ nào là lúc lâm chung của chúng ta. Những ai tỉnh thức và sám hối sẽ không bị bất ngờ khi Chúa đến.
Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Đó cũng là nội dung của Thánh vịnh 102 được hát trong phần Đáp ca. Ngài là Đấng nâng đỡ những người bị áp bức. Ngài giải phóng những người tù tội và ban ơn cho hết thảy chúng sinh. Mùa Chay nhắc cho chúng ta tình thương bao la của Chúa, đồng thời sám hối ăn năn để xin Chúa ban những ơn cần thiết, nhờ đó chúng ta có thể vượt qua những thử thách gian nan trên đường đời.
Thánh Phaolô nhìn sự kiện ra khỏi Ai cập với con mắt đức tin, để khẳng định: Chúa vẫn đang tiếp tục dẫn dắt chúng ta ra khỏi ách nô lệ của tội lỗi, không còn qua những trung gian hay phương tiện của thời Cựu ước xa xưa, nhưng nhờ Chúa Giêsu. Thời nào cũng vẫn có những người cứng lòng bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa. Người Kitô hữu phải học bài học của lịch sử, để nghiệm thấy rằng, mỗi chúng ta đều phải thận trọng khôn ngoan.
“Ta đã thấy nỗi thống khổ của dân Ta”. Chúng ta hãy cầu xin để nỗi thống khổ của những nạn nhân chiến tranh, ở Ucraina và trên thế giới, vang đến Chúa. Xin Ngài ra tay cứu giúp và ban cho thế giới được hoà bình. Đức Thánh Cha Phanxicô trong giờ đọc Kinh Truyền tin trưa Chúa nhật, ngày 13-3 vừa qua đã nói: “Với nỗi đau tận trái tim, tôi hợp với tiếng nói chung, kêu gọi hãy chấm dứt chiến tranh. Nhân danh Chúa, hãy lắng nghe tiếng kêu của những người đau khổ và chấm dứt các vụ đánh bom và tấn công! …Nhân danh Thiên Chúa, tôi kêu gọi: hãy dừng cuộc thảm sát này!”
Chiến tranh không phải là hình phạt của Thiên Chúa. Chiến tranh đến từ sự kiêu ngạo và ích kỷ của con người. Chiến tranh đi ngược lại với giáo huấn của Chúa Giêsu. Từ cuộc chiến tranh quân sự, chúng ta liên tưởng tới những xung đột trong gia đình, trong cộng đoàn và trong môi trường xã hội. Sám hối đích thực là cố gắng góp phần xoá bỏ những xung đột ấy, nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, “chậm giận …. Nếu không có lòng MC 3-C192
Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, “chậm giận và giàu tình thương” (Tv 102, 8). Nếu không có lòng Chúa xót thương thì tất cả chúng ta hầu như hết đường sống.
Thiên Chúa của Israel là Đấng nhân từ
Môsê, người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa xuất thân từ một gia tộc tư tế (x.Xh 2,1), và bản thân ông là tư tế (Tv 99,6) được Thiên Chúa phái đến giải cứu dân Ngài và truyền đạt cho dân mạc khải của Thiên Chúa là Cha nhân từ. Một nhiệm vụ mà ông cảm thấy mình không được trang bị đúng mức (x.Xh 4,10-17). Một hôm, Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng mà không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?” (Xh 3,3). Đức Chúa thấy ông lại xem liền gọi “Môsê! Môsê!”. Ông thưa: “Dạ, tôi đây!” (Xh 3,4). Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là ĐẤT THÁNH” (Xh 3,5).
Sau đó, Thiên Chúa lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Gia cóp” (Xh 3,6). Ông Môsê phải che mặt đi, vì SỢ NHÌN PHẢI THIÊN CHÚA. Tại sao vậy? Không phải là Thiên Chúa dữ tợn hoặc dị dạng khó nhìn, nhưng vì Thiên Chúa là Đấng Thánh. Mắt phàm nhân không thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Sáng được? Biết vậy nên Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút” (Xh 3,7-8).
Lúc đó, ông Môsê thân thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” (Xh 3,13). Thiên Chúa xác nhận với ông Môsê: “Ta là ĐẤNG HIỆN HỮU. Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em” (Xh 3,14). Không vòng vo. Trực tiếp. Chính xác. Rõ ràng. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (Xh 3,15).
Khi đọc đoạn Kinh Thánh này và biết rằng Thiên Chúa mà chúng ta đang tin kính và tôn thờ là Đấng nhân hậu từ bi.
Hãy mau hoán cải
Hai biến cố thời sự, một là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; hai là ngọn tháp tại Giêrusalem bị sụp đổ làm cho 18 người thiệt mạng; hai bi thảm khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời với Chúa Giêsu nghĩ rằng, tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, Chúa Giêsu phục hồi lại hình ảnh chân thực của Một Vì Thiên Chúa từ nhân, không muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai họa đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Chúa Giêsu kết luận: “Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy” (Lc 13,3.5). Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Người đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Ông chủ tượng trưng cho Chúa Cha và người làm vườn là hình ảnh của Chúa Giêsu, còn cây vả tượng trưng cho loài người vô cảm, khô cạn và cằn cỗi. Chúa Giêsu cầu khẩn Chúa Cha cho con người, xin Người chờ đợi và thêm chút thời gian, với ước mong những hoa trái tình yêu và công bình sẽ trổi lên trong nó. Cây vả mà ông chủ trong dụ ngôn muốn loại bỏ muốn nói đến một cuộc đời không sinh hoa trái, không biết cho đi, không biết làm việc lành. Ðó chính là biểu tượng của một người chỉ biết sống cho mình, trong sự đầy đủ, êm đềm và thoải mái của riêng họ, mà không để mắt, để tâm đến những người xung quanh, những người đang sống trong đau khổ, nghèo đói, và thiếu tiện nghi. Thái độ ích kỷ và không sinh hoa trái thiêng liêng này đi ngược lại với tình yêu lớn lao mà người làm vườn dành cho cây vả: bác ta kiên nhẫn, chờ dợi, dành thời gian và công sức cho nó. Bác ấy hứa với ông chủ sẽ chăm sóc đặc biệt cho cái cây đang gây thất vọng ấy.
Chúa nhân từ cho chúng ta thời gian để hoán cải. Dù nhiều lần trong đời, chúng ta là thứ cây cằn cỗi, không sinh hoa trái, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn và cho chúng ta cơ hội để thay đổi, để tiến bộ mỗi ngày trên nẻo đường thánh thiện. Nhưng việc gia hạn cho đến ngày cây ra trái cho thấy việc hoán cải là điều cấp bách. Người làm vườn nói với ông chủ: “Xin cứ để nó lại năm nay nữa” (Lc 13,8).
Vậy hãy sám hối ngay ngày hôm nay để đón nhận lòng nhân từ Chúa. Amen.
Trong các tài sản tinh thần của con người thì Tự Do là trên hết và cao quí nhất. Thiên Chúa đã MC 3-C193
Trong các tài sản tinh thần của con người thì Tự Do là trên hết và cao quí nhất. Thiên Chúa đã giải thoát dân Người khỏi ách nô lệ của Ai Cập thì hiển nhiên là Thiên Chúa yêu thương con người và dành phần tốt đẹp nhất cho họ. Nhưng, qua quá trình cuộc sống con người, có phải tất cả mọi người đều đạt tới và nắm giữ trọn vẹn Tự Do như Chúa đã ban cho không? Cuộc hội ngộ giữa Thiên Chúa và ông Maisen ở núi Horeb tại Sinai và cuộc di hành của dân Israel sau khi thoát cảnh nô lệ ở Ai Cập để đi đến Tự Do đích thực và hoàn toàn là một bài học quí giá cho chúng ta.
Bài suy niệm này chú trọng đến ý nghĩa cuộc hội ngộ giữa ông Maisen và Thiên Chúa ở trên núi Sinai với Luật Lệ và Tự Do.
SINAI: ĐẤT THANH, NÚI CỨU ĐỘ VÀ 10 ĐIỀU RĂN CHÚA
Bài đọc sách Xuất Hành hôm nay (3:1-8a.13-15) làm tôi nhớ lại dịp viếng Núi Sinai và Đan Viện Catherine trong một chuyến hành hương Jerusalem trước đây. Tôi còn nhớ rõ ràng kỷ niệm kỳ thú được đứng trên đất thánh ở núi Sinai, ngay chính chỗ mà Thiên Chúa đã cho nhân loại bộ luật 10 điều răn của Giao Ước.
Tôi cũng nhớ lại những lời vàng ngọc của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói tại Đan viện Catherine nằm trên đồi Sinai ngày 26 tháng 02 năm 2000, trong cuộc hành hương năm thánh lịch sử tại phần đất đã cứu chuộc chúng ta:
“Đã có biết bao nhiêu người tới đây trước chúng ta. Nơi đây, dân Chúa đã dựng lều cắm trại (Xh 19:2); nơi đây tiên tri Elijah đã trú ngụ trong hang (1 V 19:9); nơi đây, thánh Catherine tử đạo đã an nghỉ giấc ngàn thu; nơi đây biết bao nhiêu khách hành hương qua các thời đại đã leo lên chỗ mà thánh Gregory thành Nyssa gọi là “Núi Ước Vọng/ the mountain of desire” (The Life of Moses, II, 232); nơi đây có biết bao nhiêu thầy dòng qua nhiều thế hệ đã chiêm niệm và cầu nguyện.
“Chúng ta hãy khiêm tốn bước theo vết chân các ngài để đi tới ‘đất thánh’, nơi Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Jacob đã ủy thác cho ông Maisen giải thoát dân người” (Xh 3:5-8).
Chương 3 sách Xuất Hành là hình ảnh rất sống động của đất thánh có lẽ ai cũng biết. Qua nhiều thế kỷ, nhiều văn sĩ đã mô tả và chiêm niệm ý nghĩa thâm sâu của đất thánh và những địa danh thánh. Toàn vùng Sinai với vẻ đẹp thiên nhiên, núi đồi xanh tươi nhấp nhô và những tu viện cổ kính rêu phong vẫn còn hiện diện dưới chân núi, như đang âm thầm chứng dám rằng đây là đường mà Thiên Chúa đã đi qua để bước vào hành trình lịch sử nhân loại.
MAI SEN! ĐỪNG LẠI GẦN, HÃY CỞI DÉP KHỎI CHÂN
Phải chăng nhiệm vụ của Maisen đã rõ ràng khi ông tới núi Horeb là núi của Thiên Chúa lúc ông đang chăn giữ đàn chiên của nhạc phụ ông là Jethro, một tư tế xứ Midian (Xh 3:1ff). Núi Horeb có một ý nghĩa đặc biệt vì Thiên Chúa đã hiện ra ở đó và là nơi dân Israel dừng chân nghỉ mệt sau khi được giải thoát khỏi Ai Cập.
Thiên thần Chúa hiện ra với Maisen dưới hình thức ngọn lửa trong bụi cây. Bấy giờ Maisen thầm nghĩ: “Phải tránh qua một bên để nhìn cho rõ xem có gì ở trong bụi và tại sao lửa bốc lên trong bụi cây mà bụi cây lại không bị cháy.” Thấy ông ta né qua một bên để nhìn thì từ trong bụi cây Chúa lên tiếng gọi: “Maisen! Maisen!” Maisen sợ quá, biết là có người thấy mình và người đó phải biết mình và muốn mình cái gì đây. Ông bèn trả lời: “Thưa ngài, tôi đây”. Bấy giờ Chúa mới nói “Đừng đến gần, hãy cởi dép khỏi chân, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh” (Xh 3:2-5).
Maisen nghe thấy tên mình được gọi hai lần “Maisen! Maisen!”. Trong Kinh Thánh ít khi thấy có tên người nào được gọi hai lần, ngoài sách Sáng Thế (St 22:1), Abraham được gọi để hiến tế con trai đầu lòng: “Abraham! Abraham!” Đó là bước ngoặt chính và quan trọng trong đời ông. Chúa đã thử lòng chân thành của ông. Một dịp khác tên được gọi hai lần là Samuel (1Sm 3: 10): “Samuel! Samuel!” Samuel bèn lên tiếng: “Xin hãy nói, tôi tớ Chúa đang nghe.” Thời kỳ nghi hoặc của các Thẩm Phán đã gần kết thúc và thời kỳ Các Vua đang bắt đầu. Đó là dấu chỉ thời đại mới của Thiên Chúa đến với dân Người đã gần.
Maisen coi hiện tượng bụi cây bốc cháy như một biểu tượng về Thiên Chúa, về lịch sử và sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử. Nhưng lời Chúa phán cho Maisen từ trong bụi cây là một lệnh truyền Maisen không thể từ chối: “Maisen! Ngươi sẽ không thể đến với ta bằng cách lôi kéo ta đi theo đường của ngươi. Ngươi cũng không được liên hệ ta với những kế hoạch của ngươi. Ta muốn ngươi thi hành kế hoạch của ta. Không ai có thể mê hoặc để hòa nhập vào màu nhiệm của Thiên Chúa được. Ở đây, chính Thiên Chúa đã chọn và tìm kiếm Maisen ….. ở một nơi thích hợp. Chúa cũng sẽ làm như vậy đối với mỗi người chúng ta.
THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA
Đối với Thiên Chúa, không gian và thời gian là một và luôn luôn là hiện tại. Thiên Chúa biểu lộ Người cho ông Maisen ở một nơi đặc biệt bằng một phương cách cũng đặc biệt không có nghĩa là Thiên Chúa phải thi hành ý định của Người tại địa danh đó và bằng những phương cách đó. Chúng ta thường có khuynh hướng giới hạn Thiên Chúa theo không gian và thời gian nhất định, vì vậy sự hiểu biết của con người về quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúc cũng bị giới hạn.
Sự hiện diện của Thiên Chúa và quyền năng của Chúa Giêsu không bị giới hạn vào không gian và thời gian. Khả năng tuyệt vời và vô hạn của Thiên Chúa vượt qua mọi khoảng cách, biên giới, cấu trúc, và cả luật lệ của chúng ta cho thấy ý Chúa muốn chúng ta bất kỳ chúng ta ở đâu và khi nào, như Chúa đã nói với Maisen: “Đừng đến gần! Hãy cởi dép ra khỏi chân, vì ngươi đang đứng trên đất thánh.”
ĐÁ, NƯỚC, SUỐI, SA MẠC…
Trong Cựu Ước, chúng ta thường thấy nói đến Đá, Nước, Suối, Sa Mạc, Đồng Cỏ…như những biểu tượng, mà thánh Phao lô cũng viết trong thư gửi tín hữu Corinto (1 Cr 10:1-6.10-12): “....Tất cả đều ăn cùng một loại thức ăn thiêng liêng, cùng uống loại nước thiêng liêng, là nước chảy ra từ một tảng đá thiêng liêng đã đi theo họ; tảng đá đó chính là Đức Kitô. Nhưng không phải tất cả họ đều làm đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì có những người đã ngã gục nơi sa mạc.”
Thánh Phaolô ám chỉ Thiên Chúa là đá thiêng liêng đi theo dân và cho họ nước hằng sống. Luật Torah chỉ nói hòn đá là chỗ nước chảy ra. Trong chuyện truyền khẩu của các thầy cả rabbi Do Thái giáo thì lại phóng đại thành suối, đã theo dân Israel trong suốt cuộc di hành của họ. Thánh Phaolo dùng hình thức câu chuyện cho có vẻ văn chương: Ngài nói hòn đá này đã đi theo dân Israel và hướng dẫn họ trong sa mạc. Hòn đá này chính là chúa Kito, là nước hằng sống.
SỐ PHẬN DÂN CHÚA: GIỚI RĂN CHÚA VÀ CON NGƯỜI TỰ DO
Chúng ta hãy suy niệm lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói tại tu viện Thánh Catherine ở Sinai trong cuộc hành hương Năm Thánh vào tháng 2 năm 2000:
“Nơi đây trên núi Sinai này, sự thật của “Đấng là Thiên Chúa” đã trở thành nền tảng và bảo đảm cho Giao Ước. Ông Maisen đã đi vào ‘bóng tối có chiếu sáng’ (The Life of Moses, II 164), và đã được Thiên Chúa ban cho những giới luật do chính tay Người viết ra (Xh 31:18). Đó là luật gì? Là luật sống và luật tự do! Tại biển đỏ, dân chúng đã thấy rõ cuộc giải phóng quả là vĩ đại và phi thường. Họ đã thấy quyền lực và chữ tín của Thiên Chúa; họ đã khám phá ra Người là Thiên Chúa, là đấng đã thực sự giải phóng dân Người như đã hứa. Nhưng bây giờ, trên đỉnh cao của núi Sinai, cũng cùng một Thiên Chúa ấy đã niêm chặt tình yêu của Người bằng Giao Ước mà Người không bao giờ có thể bỏ được. Nếu dân chúng vâng theo lề luật của Người thì đời đời họ sẽ được tự do. Sách Xuất Hành và Giao Ước không chỉ là những biến cố ở quá khứ, nhưng đời đời sẽ là số phận của tất cả mọi dân Chúa!
“Mười điều răn không phải là những luật tiêu chuẩn có tính áp đặt của một bạo chúa. Nó đã được viết trên đá, nhưng trước đó nó cũng đã được ghi tạc trong tâm khảm con người như là luật phổ quát, có giá trị ở mọi không gian và thời gian mà con người khi sinh ra là đã có ý thức về nó rồi. Hôm nay cũng như mãi mãi, mười điều răn đó chỉ đưa ra những căn bản cho cuộc sống của mọi cá nhân, mọi xã hội và mọi quốc gia. Hôm nay cũng như mãi mãi về sau, nó là tương lai duy nhất của mọi gia đình. Nó sẽ cứu con người khỏi bị hủy giệt bởi chủ nghĩa vị kỷ, hận thù, ghen ghét và sai lạc. Nó lột mặt nạ những thần giả đã làm con người trở thành nô lệ: Yêu mình là loại trừ Thiên Chúa, ham mê quyền lực và lạc thú trần gian sẽ phá bỏ trật tự công lý và làm giảm giá trị nhân phẩm và tư cách của những người anh chị em láng giềng. Nếu chúng ta quay lưng chối bỏ những thần tượng giả dối đó và bước theo Thiên Chúa là đấng giải thoát dân Người và luôn luôn ở lại với họ, thì lúc đó chúng ta sẽ giống như Maisen, sau 40 ngày ở trên núi, ‘chiếu sáng vinh quang’ và ‘tỏa ánh sáng Thiên Chúa’. (Saint Gregory of Nyssa, The Life of Moses, II, 230).
“Giữ giới răn Chúa là trung thành với Thiên Chúa, cũng là trung thành với chính mình, với bản tính và những ước nguyện thâm sâu nhất của mình. Chừng nào gió còn thổi trên đồi Sinai thì còn nhắc nhở chúng ta là Thiên Chúa muốn được vinh danh trong sự lớn mạnh của muôn loài thụ tạo: ‘Gloria Dei, homo vivens.’ Với ý nghĩa đó, gió liên tục kêu gọi những người theo tôn giáo độc thần phụng sự gia đình nhân loại hãy cùng nhau đối thoại. Lúc đó trong Thiên Chúa, chúng ta có thể tìm thấy điểm hội ngộ, vì Thiên Chúa, -đấng tạo dựng vũ trụ và là Chúa lịch sử đầy quyền năng và lòng nhân ái- đến ngày tận thế, sẽ xét sử chúng ta bằng luật rất công bằng.”
ĐÔI LỜI KẾT: VÂNG LỜI TRONG TỰ DO
Những bài học ở núi Sinai này quả đã rõ ràng. Chúng ta hoàn toàn tự do để vâng theo những luật lệ của Thiên Chúa giống như Chúa Giê su đã vâng lời Đức Chúa Cha. Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa của ông Maisen trên núi Horeb ở Sinai nói lên điểm đặc thù và cũng là trung tâm điểm của đạo chúng ta là mầu nhiệm “vâng lời trong tự do”. Nó được Chúa Kito hoàn thành bằng sự vâng lời trọn vẹn, từ lúc Người hóa thân bắt đầu hiện diện trong bụng Đức Maria đến lúc sinh ra tại Bethlehem rồi kết thúc bằng cái chết trên thập giá ở đồi Golgotha. Nhưng chúng ta có noi gương Nguời hay không lại là một chuyện.
To be or not to be…That is the question!
Luật Chúa có tính cưỡng hành, nhưng cũng hoàn toàn tự do.
Phụng vụ Lời Chúa Mùa Chay hai tuần vừa qua nói về ý nghĩa của thử thách cám dỗ và vinh MC 3-C194
Phụng vụ Lời Chúa Mùa Chay hai tuần vừa qua nói về ý nghĩa của thử thách cám dỗ và vinh quang của Đức Kitô. Chúa nhật III, các bài đọc Kinh Thánh hướng về chủ đề ăn năn sám hối.
Ăn năn sám hối gồm hai giai đoạn. Ăn năn là cảm thấy ray rứt, bị giày vò vì lỗi lầm đã mắc phải. Cha Đắc Lộ giải thích: “Năn: thứ cỏ đắng; Ăn năn: ăn thứ cỏ đắng, theo lối nói ẩn dụ để chỉ sự thống hối” (Alexandre de Rhodes, Từ Điển Việt – Bồ – La, Roma, 1651). Ăn năn là nghĩ lại về bản thân mình, nhìn lại cuộc sống, nghĩ lại cách sống của mình trong nhiều môi trường khác nhau. Nghĩ lại và thấy mặt tốt mặt xấu của chính mình. Biết hối hận về những gì không tốt hay chưa tốt của bản thân, nơi cách mình sống. Con người vốn mỏng dòn yếu hèn và tội lỗi. Sám hối là quyết tâm thay đổi là thành tâm sửa chữa lỗi lầm, là cải thiện đời sống là canh tân tâm hồn là đổi mới tư duy là định hướng lại cách cư xử, là lên đường hoà giải với mình, với Chúa và với cộng đoàn.
Ăn năn sám hối là thấy sai và sửa sai.
Sai và sửa sai là một chuyện bình thường có tính quy luật. Bởi vì sai mà không sửa, sửa sai không kịp thời thì không những không có tiến bộ mà còn ngày càng lún sâu trong vực thẳm suy vong.Là con người, ai cũng có sai lầm, không trừ một ai. Chỉ có điều là có những người không có khả năng thấy được sai lầm, thậm chí còn cho rằng mình không thể phạm sai lầm, hoặc đã thấy mình sai lầm nhưng không chịu thừa nhận, hoặc có thừa nhận nhưng không chịu sửa chữa, hoặc có sửa chữa mà cũng không quyết tâm cho đến cùng.
Từ xưa, các bậc minh triết đã cho rằng việc thấy được sai lầm của bản thân mình, có dũng khí để công khai thừa nhận và có quyết tâm sửa chữa những sai lầm đó là những dấu chỉ của một con người chân chính, trung thực, đáng cho mọi người tin cậy và kính trọng.
Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể hai sự kiện:
– Sự kiện vụ án Philatô giết người vô tội, Chúa Giêsu không ủng hộ những người quá khích trong cuộc đấu tranh của họ chống lại Roma. Sứ điệp của Người luôn rõ ràng và rất tập trung: “Thời giờ đã hoàn tất, Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy ăn năm sám hối và tin vào Phúc Âm” (Mc 1,15). Chúa Giêsu cảnh tỉnh: “Nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy” (Lc 13,3.5).
– Sự kiện tháp Silôa đổ xuống đè chết mười tám người ở Giêrusalem. Cũng như trong trình thuật người mù bẩm sinh (Ga 9,2–3), Chúa Giêsu giải thích rằng “không phải vì anh ta,không phải vì cha mẹ anh ta đã phạm tội, mà anh ta sinh ra đã bị mù loà”. Ngài khẳng định nơi đây rằng, không ai trong bọn họ là nạn nhân của trừng phạt. Thiên Chúa không tìm trừng phạt mà là nâng dậy. Tuy nhiên, mỗi người chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Nhân hai sự kiện thời sự, những người nổi loạn bị Tổng trấn Philatô giết và mười tám người bị tháp Silôa đè chết, Chúa Giêsu cảnh báo người đương thời phải sám hối. Ngài mạnh mẽ quả quyết: “Nếu các ngươi không sám hối thì các ngươi cũng sẽ chết như vậy”.
Người Do Thái thời xưa quen nghĩ “ác giả ác báo”. Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng, những nạn nhân ấy là “ác giả” cho nên bị “ác báo”. Chúa Giêsu khuyên, đừng hồ đồ suy đoán về người khác, nhưng mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở, hãy xét lại lương tâm mình để lo sám hối. Ngài không vạch lá tìm sâu, không tìm những nguyên nhân tôn giáo, chính trị, kỹ thuật, càng không được kết tội ai. Trước những tai họa đó, Ngài nhấn mạnh cho chúng ta điều phải lo nhất là cái chết đời đời. Qua dụ ngôn cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu bảo mỗi người hãy tận dùng thời gian gia hạn mà Thiên Chúa đã ban cho mình để sớm lo sám hối. Điều quan trọng phải lo là xét tội mình, phải đấm ngực mình để sám hối và cải thiện chính mình.
Mùa Chay là mùa đặc biệt dành cho sự trở về của người biết thấy sai và sửa sai. Ăn năn sám hối bắt đầu từ nội tâm với những bước cụ thể sau đây.
Ý thức tội lỗi. Trong thâm sâu của cõi lòng, mỗi người thấy mình có tội, nhận ra tội lỗi của mình. Bản thân phán xét chính mình, nhận điều xấu mình đã làm. Đối với nhiều người, bước đầu tiên này đã là khó. Nhiều người trong thời đại hôm nay dù đã làm bao nhiêu điều xấu, vẫn không thấy mình có tội. Họ đã đánh mất ý thức tội lỗi, và đó là nguy cơ lớn nhất của nhân loại ngày nay.
Hối hận, đau buồn, ray rứt trong lòng vì những điều xấu mình đã làm. Sự đau buồn này là một liều thuốc đắng, chữa lành cho vết thương tội lỗi.
Gặp gỡ Thiên Chúa trong tin yêu. Khi đã lỡ phạm tội, nhiều người rất hối hận, vì yêu Chúa nên quyết tâm trở về. Mỗi người gặp gỡ Chúa, thú nhận tội lỗi với Chúa và xin Chúa tha thứ. Chắc chắn Chúa tha thứ và ban lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an.
Quyết tâm thú nhận tội lỗi của mình, không những với Chúa, mà còn với Giáo hội. Đến với Bí tích Hoà giải, biểu lộ sự chân thực của lòng thống hối.
Thực sự sửa đổi đời sống. Dứt khoát với tình trạng tội lỗi mà mình đang mắc phải. Giai đoạn này đòi hỏi sự hy sinh, chiến đấu với chính mình, làm chủ được chính mình. Chính vì thế mà cần rất nhiều ơn Chúa trợ giúp.
Ăn năn sám hối là chiều kích nền tảng của đời sống đức tin.
Có nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới nhận được ơn cứu độ và tình thương của Chúa. Có biết mình hay vấp ngã, con người mới dễ cảm thông với anh em. Như vậy, mến Chúa yêu người chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng của sám hối mà thôi. Sám hối là việc làm mỗi ngày, vì không ngày nào lại không có lỗi; không lỗi nhiều thì cũng lỗi ít, không lỗi nặng thì cũng lỗi nhẹ, không lỗi trong hành động thì cũng lỗi trong tư tưởng, lời nói…. Sám hối cũng là việc làm liên lỉ thường ngày vì không ai biết trước được mình sẽ chết khi nào, cách nào… Dụ ngôn cây vả nói lên lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, đồng thời cũng nói lên tính cấp bách của việc sám hối. Ăn năn sám hối để đón nhận tình thương tha thứ của Thiên Chúa và giao hoà cùng anh chị em.
Mỗi biến cố xảy đến trong đời đều mời gọi con người ăn năn sám hối trở về với Thiên Chúa để đón nhận tình thương tha thứ của Ngài.
Vua Ðavít phạm tội ngoại tình với bà Bát Seva là vợ của tướng Urigia. Sau khi phạm tội, nhà vua cố tình che đậy tội lỗi của mình. Nhà vua sai chồng bà đang ở ngoài mặt trận về nhà với vợ. Tuy nhiên tướng Urigia nhất định không chịu về nhà vì ông là một tướng lãnh chiến trường, muốn sống chết với binh sĩ ngoài mặt trận. Giấu giếm bằng cách này không được, vua Ðavít lại toan che đậy tội lỗi của mình bằng cách lập kế và để cho vị tướng Urigia bị chết ngoài trận địa. Thiên Chúa sai ngôn sứ Nathan đến để thức tỉnh lương tâm của nhà vua. Ðavít liền ăn năn hối lỗi, trở về với Chúa. Nhà vua thốt lên: Tôi đã đắc tội với Thiên Chúa (2Sm 12,13). Vua tỏ lòng ăn năn sám hối và viết nên Thánh vịnh 51: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài…Nhưng ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ” (c 3-6).
Kinh nghiệm đầu tiên mà Thánh Phêrô chia sẻ cho cộng đoàn Giáo Hội sơ khai là: anh em hãy sám hối. Ba lần chối Thầy vì yếu đuối bản thân chứ không phải vì không yêu mến Thầy. Phêrô đã biết lỗi lầm đó và ngài đã ăn năn bằng những giọt nước mắt sám hối chân thành. Phêrô đã sửa sai lầm bằng chính sự can đảm, thái độ hiên ngang,bằng một tình yêu nồng nàn với Thầy trong sứ vụ Tông Đồ của mình.Đối với Phêrô, sám hối là bước đi thứ nhất của hành trình lãnh nhận Thánh Thần. Không có sám hối thì không có ân huệ Thánh Thần. Đó là kinh nghiệm bản thân và cũng là gương sáng của Thánh Phêrô : “đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr 5,3). Gương sáng của Thánh Phêrô trước hết là gương sám hối, thấy sai và sửa sai đến cùng. Ngài muốn chia sẻ bài học thấm thía ấy với những người đang cùng mình giữ trọng trách mục tử.
Thánh Phaolô cũng bằng chính kinh nghiệm cuộc đời mình đã chia sẻ rằng : sám hối là làm hoà lại với Thiên Chúa. Phaolô, người lãnh đạo nhiệt thành bắt bớ Đạo Chúa, được ơn sám hối, đã sửa sai lỗi lầm, từ đó ngài làm hoà với Chúa để nên Tông Đồ dân ngoại. Theo Thánh Phaolô, tội lỗi đã phá huỷ những liên hệ hài hoà giữa con người với Thiên Chúa, sám hối là tái lập những liên hệ ấy. Thời gian sám hối là thời Thiên Chúa thi ân, thời Thiên Chúa cứu độ.
Mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về sai lầm bản thân, về sự đỗ vỡ, sự bất hoà. Hai người bạn trở nên lạnh nhạt, hai người tình bỗng hoá xa lạ, hai vợ chồng trở thành dửng dưng. Đỗ vở bất hoà sinh ra hiểu lầm, đau khổ, tiếc nuối. Khi đỗ vở, phía nào thấy sai để sửa chữa, phía nào yêu nhiều hơn sẽ chủ động tìm cách làm hoà, hàn gắn lại. Không ai không phạm sai lầm. Người ta chỉ khác nhau ở chỗ đối xử với sai lầm của mình như thế nào mà thôi.
Sám hối và canh tân, nhận ra sai lầm và sửa đổi không chỉ là việc làm trong Mùa Chay mà là suốt đời người.
Ðể có thể ăn năn sám hối, chúng ta phải cầu xin cho được ơn biết kính sợ Chúa, không phải sợ mà không dám đến gần Chúa, nhưng sợ làm điều mất lòng Chúa như sách Huấn ca dạy: “Kính sợ Chúa là bước đầu của khôn ngoan” (Hc1,14). Ơn biết kính sợ Chúa là cần thiết để được hưởng nhờ ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu chí thánh! Chúa là Ðấng nhân từ hay thương xót.Chúa ghét tội, nhưng lại thương kẻ có tội.Xin dạy con biết khiêm tốn nhận ra tội lỗi mình và khơi dậy tâm tình ăn năn sám hối hầu được Chúa thương tha thứ. Amen.
Thánh Phanxicô Xaviê nhắn nhủ: “Cần đốt lên lửa yêu thương, bởi vì có yêu thương thì tự MC 3-C195
Thánh Phanxicô Xaviê nhắn nhủ: “Cần đốt lên lửa yêu thương, bởi vì có yêu thương thì tự nhiên sẽ đối đãi tốt với mọi người, luôn nói những lời yêu thương, tâm hồn tự nhiên thu được rất nhiều kết quả.” Phải thực sự kiên trì mới có thể đốt được ngọn lửa đó. Kiên trì là một nhân đức, ai kiên trì là người có phúc. (x. Gc 1:12; 5:11) Kiên trì và kiên nhẫn có vẻ giống nhau, nhưng chúng lại khác nhau.
Kiên trì (perseverance) là bất chấp khó khăn và thất bại, người ta vẫn tiếp tục cố gắng hành động với hy vọng đạt mục đích. Có thể có những trường hợp đòi hỏi sự kiên nhẫn, nhưng không có nghĩa là người đó không cần hành động.
Kiên nhẫn (patience, constancy) – hoặc nhẫn nại – là khả năng chấp nhận sự chậm trễ hoặc sự rắc rối mà vẫn bình tĩnh. Kiên nhẫn là khi chịu đau đớn, đau khổ, bất hạnh và những tình huống khó khăn khác mà vẫn khoan dung vì yêu thương.
Tóm lại, Kiên Trì chứng tỏ quyết tâm cố gắng đạt mục đích, còn Kiên Nhẫn chứng tỏ lòng khoan dung hoặc sự bền bỉ trong lúc khó khăn.
Kiên trì cần thiết trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tâm linh – sám hối Mùa Chay. Kiên trì vẫn cần kiên nhẫn nữa. Isaac Newton đặt vấn đề: “Nếu tôi có được khám phá giá trị nào, đó là nhờ chú ý nhẫn nại hơn là bất kỳ tài năng nào tôi có.” Cato có cách so sánh cực cấp: “Nhẫn nại là đức tính lớn nhất trong mọi đức tính.” Nhẫn nại là nhẫn nhục chịu đựng khó khăn, quyết tâm kiên trì tới cùng, không bỏ cuộc, bình tĩnh chờ đợi. Nhẫn nại là thứ “cỏ quý” luôn cần đem bên mình như “thần hộ mệnh” vậy.
Chắc chắn không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Thời gian là lúc Ngài nhẫn nại chờ đợi các tội nhân chúng ta biết ăn năn sám hối. Ngài luôn mời gọi ăn năn, chúng ta sám hối và xin lỗi Ngài, nhưng rồi lại tái phạm, chúng ta lại ăn năn và Ngài lại tha thứ. Cứ thế! Đối với phàm nhân chúng ta, chỉ “quá tam ba bận” là quá rồi, nói chi “bảy mươi lần bảy.” (Mt 18:22) Vì thế mà ai cũng phải kiên trì yêu thương nhau, nhẫn nại tha thứ lẫn nhau. Đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu, nhất là mỗi dịp Mùa Chay – vì là “cơ hội thuận tiện” (x. 2 Cr 6:2b).
Thiên Chúa kêu gọi và trao sứ vụ cho ông Môsê. Trình thuật Xh 3:1-8a. 13-15 cho biết rằng, bấy giờ ông Môsê đang chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Ông Môsê nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tiến đến xem cảnh tượng kỳ lạ này. Từ giữa bụi cây, Thiên Chúa gọi ông và ông thưa, nhưng Ngài nói: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là ĐẤT THÁNH. Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp.” Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó là Thánh Địa.
Ông Môsê đến Thánh Địa nhưng ông che mặt đi vì ông sợ nhìn phải Thiên Chúa. Tại sao lại sợ nhìn thấy Thiên Chúa? Ông Môsê biết mình là phàm nhân bất xứng với Ngài. Vả lại, mắt phàm nhân không thể chịu nổi ánh sáng phát ra từ Thiên Chúa. Đèn cao áp mà mắt chúng ta nhìn còn thấy chói huống chi ánh mặt trời, mà ánh mặt trời cũng chỉ là ánh sáng của thụ tạo, chẳng đáng gì so với ánh sáng phát ra từ Thiên Chúa.
Mặc dù Ngài là Đấng chí thánh nhưng Ngài rất yêu thương các thụ tạo chúng ta, vì thế Ngài muốn ở với chúng ta, muốn cứu độ và muốn chúng ta được hưởng vinh quang với Ngài.
Các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để “nối kết” với Ngài. Một trong các vị đại diện đó là Môsê. Thiên Chúa giao sứ vụ và nói với ông: “Ta đã THẤY RÕ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã NGHE tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta BIẾT các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống GIẢI THOÁT chúng khỏi tay người Ai Cập, và ĐƯA chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật.”
Ông Môsê có trách nhiệm hướng dẫn dân chúng tiến về Khu Trù Mật mà Thiên Chúa đã hứa ban. Đặc biệt chính Ngài đã mặc khải Thánh Danh Ngài là Đấng tự hữu và hằng sinh. Ông Môsê thân thưa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Israel và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” Ngài cho biết rạch ròi: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Rồi Ngài bảo ông Môsê cho dân Israel biết điều này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em. Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia.” Rõ ràng Thiên Chúa căn dặn phàm nhân phải kêu cầu Thánh Danh của Ngài, và Ngài sẽ lo liệu cho phù hợp với mỗi người.
Đó là mầu nhiệm quan phòng và tiền định của Thiên Chúa, chúng ta không thể nào hiểu hết, và cũng không thể diễn tả đầy đủ về Ngài, bởi vì trí tuệ và phàm ngôn không thể chính xác. Nhưng Ngài vẫn luôn trao ban mọi sự – từ vật chất đến tinh thần, ngay cả đau khổ cũng là tặng phẩm, mặc dù chúng ta không thể hiểu. Tất cả là mầu nhiệm hồng ân. Là thụ tạo, chúng ta chỉ biết chúc tụng và cảm tạ Lòng Thương Xót của Ngài, như Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà.” (Tv 103:1-4)
Thiên Chúa nhân lành và công bình, không thiên tư tây vị ai – kể cả tội nhân xấu xa nhất. Ngài đặc biệt chú ý những kẻ hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị đồng loại đối xử bất công: “Chúa phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Israel thấy những kỳ công Người thực hiện. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương.” (Tv 103:6-8) Quả thật, mãi mãi chúng ta không thể hiểu nổi Lòng Thương Xót của Ngài.
Giả sử chúng ta có thể quảng diễn theo cách này hoặc cách nọ thì cũng chỉ là phần nhỏ giúp nhau hiểu, và để mà cố gắng đối xử với nhau cho hợp tình hợp lý, phần nào tương xứng với ân tình bao la khôn dò của Thiên Chúa: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.” (Tv 103:11) Thật là nhiệm mầu khôn ví!
Quả thật, chính Đức Maria đã hân hoan xưng tụng từ ngàn xưa: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:50) Đó là sự thật minh nhiên hơn cả sự thật. Thánh Phaolô dẫn chứng cụ thể: “Tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả CÙNG ĂN một thức ăn linh thiêng, tất cả CÙNG UỐNG một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.” (1 Cr 10:1-6)
Chắc chắn không có cách khác để chúng ta chọn lựa, bởi vì tất cả chúng ta đều như nhau thì cũng phải nên một trong Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa rất kiên trì và nhẫn nại vì chúng ta, vậy chúng ta cũng phải đối xử với nhau như vậy – cho nhau và vì nhau. Nếu không thì chỉ là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì không thể tồn tại: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai TƯỞNG mình đang đứng vững thì HÃY COI CHỪNG kẻo ngã.” (1 Cr 10:10-12)
Kiên trì và nhẫn nại lẫn nhau là một cách sống lòng thương xót, rất đơn giản, không cầu kỳ, không xa lạ, có thể chỉ cần nhìn nhau bằng ánh mắt thân thiện là thể hiện lòng thương xót rồi, thế nhưng điều đơn giản đó lại không dễ chút nào! Nói lời ngọt ngào mà giả dối thì ích gì? Làm từ thiện khắp nơi mà không giúp đỡ người trong gia đình, không là giả hình sao? Quả thật, chúng ta phải thực sự kiên để tập sống nhẫn nại, không chỉ với người khác, mà với cả chính mình.
Mọi động thái đều cần kiên trì: sám hối, yêu thương, cảm thông, chịu đựng, tha thứ,… không thể khác đựợc. Thiên Chúa vui tính, dễ tính và thật thà, nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn, cương trực, nghiêm túc. Điều đó được dẫn chứng qua trình thuật Lc 13:1-9.
Thánh sử Luca cho biết: Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu nói ngay: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết y như vậy.”
Điều kiện cách “nếu không… sẽ chết” như một điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại để cảnh báo về sự ảo tưởng, mạo nhận về sự tốt lành hoặc đạo đức hơn người.
Có điều “trái khoáy” này: Khi thấy ai bị tai nạn hoặc tai ương, nếu nạn nhân là người “cùng phe” với mình thì người ta cho đó là “thánh giá Chúa gởi đến,” nhưng nếu nạn nhân “khác phe” với mình thì người ta nói đó là “quả báo” hoặc “bị Trời phạt.” Cũng một sự việc nhưng người ta nhìn bằng hai loại “kính” khác nhau.
Thật đáng sợ với kiểu nghĩ của phàm nhân! Thế mà Thiên Chúa vẫn kiên trì, vẫn nhẫn nại, tiếp tục im lặng mà không xen vào chuyện của người đời. Khi thấy người ta lý luận lươn lẹo, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “cây vả không ra trái” để giáo huấn.
Ngài nói: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi’.” Dụ ngôn ngắn gọn nhưng súc tích, dễ hiểu, cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta, mặc dù chúng ta chẳng ra gì. Thế mà chúng ta vẫn chảnh và còn kiếm chuyện đủ kiểu.
Vì xót thương nên Thiên Chúa vẫn “nhẹ tay” với chúng ta. Thật vậy, Ngài “không muốn kẻ gian ác PHẢI CHẾT, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và ĐƯỢC SỐNG.” (Ed 33:11) Ngài kiên trì và nhẫn nại vì muốn chúng ta trở về với Ngài, đồng thời cũng biết nhẫn nại với nhau: “Phúc thay những kẻ có lòng kiên trì.” (Gc 5:11) Kiên trì trong mọi thứ – cả việc chung và việc riêng, kiên trì với tha nhân và với chính mình nữa – vì cũng có lúc chúng ta cảm thấy thất vọng về mình.
Nếu Thiên Chúa không kiên trì thương xót, chúng ta chết lâu rồi: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3) Ngài biết chúng ta là cát bụi, nhưng Ngài vẫn yêu quý vì là thụ tạo của Ngài, và “cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi.” (Mt 12:20) Thương nhiều, xót lắm, Ngài thực sự muốn chúng ta sám hối và quay về với Ngài càng sớm càng tốt. Mùa Chay là lúc thuận tiện nhất!
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin giúp chúng con nhận biết Ngài và nhận biết chính mình để chúng con trọn niềm tin yêu Ngài, ăn năn và đền tội, chứng minh lòng mến Chúa bằng cách kiên trì và nhẫn nại với mọi người. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tôi nghĩ bạn đã biết, trong ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, bạn và tôi đã nhận được hạt giống MC 3-C196
Tôi nghĩ bạn đã biết, trong ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, bạn và tôi đã nhận được hạt giống đức tin qua Phép Rửa. Nhưng hạt giống đức tin ấy không thể triển nở, và không thể tự nhiên lớn lên, tự nhiên trổ sinh những hoa trái thiêng liêng được, nhưng nó phải trải qua ít là ba giai đoạn sau đây:
1. Giai đoạn một: Hạt giống đức tin được ươm trồng, được nảy mầm...nhờ vào lòng đạo đức bình dân của mẹ, của cha, của ông, của bà, và qua những lời dạy dỗ rất ngắn gọn, rất đơn sơ nhưng vô cùng hiệu quả của các ngài, ví dụ: "Con cúi đầu ạ Chúa đi con;" "Chúa ở kia kìa, con cúi đầu chào Chúa đi." "Con làm dấu đi con, con đưa tay lên trán, nhân danh Cha, rồi bỏ xuống ngực, và Con, rồi con đưa qua bên vai trái, qua vai phải và đọc Thánh Thần, rồi con chắp tay lại, nói Amen!"
2. Giai đoạn hai: Cây đức tin được vun xới, được chăm bón, được tưới tắm, được uốn nắn và được cắt tỉa qua sự hướng dẫn và dạy dỗ của các Giáo Lý Viên, của các Sơ, của các Thầy và của các Cha.
3. Giai đoạn ba: Cây đức tin được lớn mạnh, được trưởng thành và sinh hoa kết quả, nhờ vào dòng máu của các thánh tử đạo, qua việc lắng nghe những Giáo Huấn của Giáo Hội, và nhờ vào việc lãnh nhận các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Mình Thánh Chúa, Bí Tích Thêm Sức và Bí Tích Giải tội.
Kinh nghiệm đời thường cho chúng ta thấy, khi những cây ăn trái trong vườn của chúng ta thiếu những chất dinh dưỡng như nước, ánh sáng mặt trời, phân bón, và không được người làm vườn cắt tỉa thường xuyên, thì chúng không thể nào sinh được những hoa trái to lớn và ngon ngọt được!
Cũng vậy, cây đức tin của mỗi Kitô Hữu mà thiếu đi những chất dinh dưỡng do chính người làm vườn là Chúa Giê-su cung cấp cho, đó là các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể, và thiếu đi sự cắt tỉa, tức là thiếu những lời giáo huấn, khuyên răn, dạy dỗ, ngăm đe ..của Mẹ Giáo Hội, của các Đấng Bản Quyền, của ông bà, của cha mẹ, thì tôi cam đoan, cây đức tin của bạn và của tôi, sẽ không thể nào sản sinh ra những hoa trái thiêng liêng có tên là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết (Gal 5:22-23).
Bạn có muốn cây đức tin của bạn trổ sinh được những hoa trái thiêng liêng thật ngon ngọt không? Nếu muốn thì xin hãy cố gắng:
1. Phải cho cây đức tin của chúng mình được hấp thụ thật nhiều nước và ánh sáng, bằng cách đến gần với Đức Giê-su Kitô, là nguồn ánh sáng và là nguồn ơn cứu độ (TV 27:1). Gần Ngài, cây đức tin của chúng mình sẽ không bao giờ phải lo bị thiếu nước. Và khi cây đức tin có đủ nước và ánh sáng thì nó sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết" (Ez 47:12).
2. Phải cho cây đức tin tháp nhập vào với thân cây, tức là bạn và tôi phải sống kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su Kitô, qua việc siêng năng tham dự thánh lễ, Chầu Thánh Thể, và rước Mình Máu Thánh Chúa, bởi Ngài đã khẳng định: "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được." (Ga 15:5) Thiếu Bí Tích Thánh Thể, cây đức tin của chúng mình chắc chắn sẽ bị khô héo và sẽ không thể nào sinh hoa trái được.
3. Khi cây đức tin của chúng mình bị vặt lá, bị cắt tỉa và bị uốn...bởi các thợ làm vườn của Chúa. Tức là khi chúng mình nghe những lời khuyên bảo, dạy dỗ, răn đe, và ngăn cấm của ông bà, cha mẹ, của Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế ... thì hãy bình tĩnh, kiên nhẫn và chịu khó lắng nghe, bởi vì các ngài làm như vậy chỉ vì yêu thương chúng mình, và là vì bổn phận trách nhiệm mà Chúa đã trao phó cho các ngài. Ông bà ta hay nói: "Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi" và Kinh Thánh cũng nói như vậy: " Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?" (Dt 12:5-7).
Bạn thân mến, nếu bạn và tôi cho cây đức tin của chúng mình (1) được hấp thụ nước, ánh sáng, (2) tháp nhập cây đức tin của chúng mình vào cây nho thật là Đức Kitô, và (3) kiên nhẫn, vui vẻ khi được các đấng các bậc sửa dạy, khiển trách, và ngăm đe ... thì cây đức tin của chúng mình mới trổ sinh được những hoa trái thiêng liêng, là những nhân đức của bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết...Bạn có tin không? Tôi thì tin chắc 100% như vậy!
Tháng Ba là tháng kính Thánh Cả Giu-se, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Nhân, và qua lời bầu cử của Mẹ Maria, xin Chúa chúc lành, gìn giữ và ban bình an cho bạn và cho những người thân yêu của bạn. Tôi cũng xin cầu chúc bạn một tuần lễ mới vui vẻ, mạnh khỏe và luôn sống trong ơn nghĩa của Chúa. Happy Lent!
Các bài đọc và Tin Mừng trong chúa nhật hôm nay rất phong phú, vì tất cả nối kết uyển chuyển, kết MC 3-C197
Các bài đọc và Tin Mừng trong chúa nhật hôm nay rất phong phú, vì tất cả nối kết uyển chuyển, kết hợp chặt chẽ và dẫn đến lời kêu gọi khẩn thiết của Mùa Chay: Hãy trở về, vì thời gian không còn nhiều .
Trong bài đọc một, lần đầu tiên Thiên Chúa Giavê mặc khải Tên của Ngài: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14), khi Môsê thắc mắc: nếu Ítraen hỏi con: “Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” (Xh 3,13).
Môsê thật có lý khi hỏi Tên Thiên Chúa, vì biết chắc các bậc kỳ lão đứng đầu dân Ítraen trên đất Ai Cập sẽ hạch hỏi ông nhân danh ai mà đến với họ, cậy dựa vào uy danh của người nào mà dám đưa ra chương trình dẫn toàn thể con cái Ítraen trốn khỏi đất nô lệ Ai Cập, mà về Đất Hứa?
Và kể từ giây phút Môsê được Thiên Chúa mặc khải Tên Ngài, thì Tên ấy đã trở thành bảo đảm tuyệt đối cho sứ vụ giải phóng Ítraen được Thiên Chúa trao phó và sai đi của ông, vì ông hiểu rõ Tên ấy có nghĩa: Thiên Chúa hằng có đời đời, vô thủy vô chung, vì Ta là Đấng Tự Hữu – tự mình mà có; Thiên Chúa luôn ở với và đồng hành với ông, như Lời Ngài hứa: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3,12), Thiên Chúa là Đấng trung tín và thương xót, vì “đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (Xh 3, 15).
Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cho chúng ta thấy tính duy nhất của Cựu Ước và Tân Ước, khi chỉ cho chúng ta chân lý mà không mấy người quan tâm, đó là “Tân Ước được ẩn dấu trong Cựu Ước và Cựu Ước được Tân Ước làm sáng tỏ”, nói cách khác, giữa hai Giao Ước có một sự kết hợp mật thiết, một liên kết thiết thân, như thánh Grêgôriô đã viết: “Cựu Ước là Lời Hứa, và Tân Ước thực hiện Lời Hứa; Cựu Ước loan báo cách kín đáo và Tân Ước công bố cách minh bạch, rõ ràng” như khi nhắc đến “phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển”, “thức ăn linh thiêng” rơi xuống từ trời, và “nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng” cho dân uống trên đường Vượt Qua, thánh tông đồ dân ngoại nhắc chúng ta bí tích Rửa Tội trong nước và Thánh Thần để trở thành người Kitô hữu, loan báo bí tích Thánh Thể là lương thực nuôi dưỡng linh hồn người tín hữu, và tuyên xưng “Tảng Đá chính là Đức Kitô” (1 Cr 10,4), Nguồn Sống mới của nhân loại.
Đến lượt Tin Mừng thì dường như chúng ta được đẩy lên chót vót của thời kỳ viên mãn, thời kỳ cuối cùng, thời kỳ cấp bách, ở đó mỗi người được mời gọi “hãy mau mắn đứng lên, hãy trở về với Thiên Chúa, vì tất cả đang đối diện với tử thần, đang sống bên sự chết, khi Đức Giêsu nêu lên hai biến cố đẫm máu trong dân, đó là “chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết”, cũng như chuyện “mười tám người kia bị tháp Siloác đổ xuống đè chết” (Lc 13, 1.4), mà Ngài dứt khóat khẳng định: những nạn nhân đã phải chịu số phận đau thương ấy không phải vì họ tội lỗi, hay mắc tội nặng hơn những người khác, và phủ nhận luận điệu: nạn nhân của những tai ương, tai họa là những người bị Thiên Chúa trừng phạt, báo oán, trả thù (x. Lc 13,2-5), nhưng Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh sự chết gần kề, sự kiện tử thần đang có mặt để nhắc nhở chúng ta phải gấp rút sám hối, vì thời gian không còn nhiều.
Thời gian không còn nhiều vì Nước Thiên Chúa đã gần kề; không còn nhiều, vì Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể và ở giữa chúng ta; không còn nhiều vì Thiên Chúa không còn nói với chúng ta qua các ngôn sứ của Ngài nhưng chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa đang nói với chúng ta. Thời gian không còn nhiều, vì tất cả những gì biết được ở Chúa Cha, thì Chúa Con đã nói hết với chúng ta, như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài: “Lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó Thầy đã nói với anh em khi còn ở với anh em”(Ga 14,24-25); và không còn nhiều vì những gì Thiên Chúa hứa với dân Ngài trong Cựu Ước thì nay đã được thực hiện trong thời đại của chúng ta, thời đại mà nhiều người mong ước được sống, nhưng đã không được sống; việc kỳ diệu Chúa làm mà nhiều người ao ước được thấy, nhưng đã không được thấy như chúng ta đang sống và đang được nhìn thấy tận mắt.
Nhưng trước quỹ thời gian không còn nhiều, trước những thách đố khó vượt qua và thử thách nguy hiểm trên đường trở về, Thiên Chúa sẵn lòng ban cho chúng ta rất nhiều ơn, vì biết chúng ta yếu đuối, như lời quả quyết của thánh Phaolô: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt qúa sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách qúa sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” 1 Cr 10, 13), miễn chúng ta biết siêng năng tôn vinh, ca ngợi danh Ngài, danh của Thiên Chúa, Đấng luôn ở với chúng ta như Môsê, tôi trung của Ngài hằng tin tưởng “nhân danh” và tha thiết kêu cầu.
Xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn biết mình đang trong tình trạng nguy kịch, đang lâm hoàn cảnh bế tắc cần được giải thoát, cứu sống, cũng như tâm tình thống hối và niềm hy vọng của người con thứ hoang đàng trước giây phút quyết định “đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15, 18-19), để được bất ngờ nhận lòng thương vô bờ bến, và ơn tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa là Cha nhân hậu, hay chạnh lòng xót thương con cái trên đường trở về.
Bộ phim “Con tàu Titanic” của đạo diễn James Cameron (phát hành năm 1997) từng gây xôn MC 3-C198
Bộ phim “Con tàu Titanic” của đạo diễn James Cameron (phát hành năm 1997) từng gây xôn xao dư luận thế giới. Trước hết vì đó là một siêu phẩm điện ảnh. Hai là vì nó gợi nhớ một thảm họa có thực đã xảy ra ngày 14 tháng 4 năm 1912 trên con tàu mang cùng tên, thảm họa lớn nhất trong lịch sử hàng hải. Vụ đắm tàu này đã cướp mất 1.517 sinh mạng và chỉ có 700 người được cứu thoát. Sau khi tai nạn xảy ra, có dư luận cho rằng trong lúc sơn vỏ tàu, một thợ sơn đã viết lên hàng chữ báng bổ: “Không có Thiên Chúa! Không có Giáo hoàng!” nên nó đã bị chìm ngay trong chuyến hải hành đầu tiên. Đồn đãi như thế, vô hình trung người ta cho Thiên Chúa là một kẻ báo thù tàn ác hèn hạ và tai ương là chính hình phạt của Người. Giờ đây, nghiên cứu lại xác tàu đang chìm dưới lòng đáy biển, các chuyên gia đã nhận thấy vỏ tàu làm bằng một thứ hợp kim rất dòn, dễ gãy. Nên khi đụng phải vào sườn một băng sơn, vỏ tàu đã không bị móp méo mà bể toạc, khiến ba giờ sau đó, tàu đã bị gãy đôi (hiện tượng hết sức họa hiếm) và chìm sâu vào lòng Đại Tây Dương giá lạnh.
Xưa nay vẫn thế, đứng trước tai ương, con người thường cho rằng đó là hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên tội lỗi, một điều Đức Giê-su kịch liệt bác bỏ trong bài Tin Mừng hôm nay.
1. Tai ương không phải là hình phạt tội lỗi
Đức Giê-su đã không sống một thời đại bình yên về mặt chính trị… Biến cố thiên hạ vừa kể lại với Người là chuyện thông thường: có lẽ là một cuộc nổi loạn của phái Zê-lốt (“Quá khích/Nhiệt thành”) chống lại chính quyền đô hộ Rô-ma. Ngay giữa buổi phụng vụ, vào chính lúc họ cầu xin Thiên Chúa trợ giúp bằng một hy lễ, thì đã bị cảnh binh của Tổng trấn Phi-la-tô tàn sát. Thiên hạ thuật lại sự kiện cho Đức Giê-su, hiển nhiên để Người tỏ rõ lập trường. Phải chăng Người sẽ kết án Phi-la-tô với cảnh binh của ông? sẽ kết án các tay gây rối vô trách nhiệm chỉ biết kéo lôi dân tình vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát? Ta phải ngạc nhiên mà nhận thấy rằng một lần nữa, Đức Giê-su sẽ từ chối bày tỏ lập trường trên phương diện trần thế, chính trị, mà lại giải thích biến cố trên bình diện tôn giáo. Tránh bày tỏ quan điểm về trách nhiệm của Phi-la-tô hay của các nạn nhân, Người sẽ nói đến tội lỗi và hoán cải: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn những người Ga-li-lê khác sao?” Vì não trạng thông thường vẫn nghĩ rằng tai ương xảy đến là một thứ hình phạt.
Đối với Đức Giê-su, chẳng có mối liên hệ giữa bất hạnh xảy đến và tội lỗi. “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội, khiến anh ta sinh ra đã bị mù”, Người sẽ nói thế một ngày kia (Ga 9,2-3). Việc tìm kiếm thủ phạm để tự đặt mình bên phía những kẻ công chính chỉ là một cách trấn an lương tâm quá dễ dãi. Bao giờ cũng là những kẻ khác trách nhiệm: hoặc quyền bính, hoặc hệ thống, hoặc xã hội! Không! “Nếu không chịu sám hối, các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Những kẻ đã đến để kết án Tổng trấn Phi-la-tô hay các nạn nhân, thì nay lại bị cáo giác. Dẹp tranh luận về “những kẻ khác” đi! Hãy trở lại chính lương tâm mình. Phải hoán cải! “Các ông dễ dàng kết án sự dữ tợn của Phi-la-tô, hãy xem chính các ông tham dự vào bạo lực ấy như thế nào”. Phải dám nói điều đó cùng với Đức Giê-su, vì lịch sử không ngừng chứng minh cho thấy: thay đổi các cơ cấu xã hội không đủ (bất công và bạo hành có trong mọi chế độ!)… chính quả tim con người cần phải thay đổi, phải “hoán cải”, để các cơ cấu nên tốt hơn.
Thế rồi, Đức Giê-su đích thân gợi lên một biến cố thời sự khác: trong khu ngoại ô thủ đô, một tòa nhà đổ sụp, giết nhiều gia đình. Và Người nêu lên cũng một câu hỏi: “Các ông tưởng họ mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao?” Không, đau khổ chẳng phải được Thiên Chúa “gởi đến”, tai ương chẳng phải là một hình phạt. Sự ác thể lý xảy đến với ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của các định luật vật chất hay đôi khi là do lòng ích kỷ độc ác của con người. Thay vì kết án Thiên Chúa, “Nguyên nhân Đệ nhất” như các triết gia bảo, ta nên chất vấn và tấn công các “nguyên nhân đệ nhị”, các nguyên nhân duy nhất nằm trong quyền lực của chúng ta. Từng chống lại sự ác, Đức Giê-su cũng yêu cầu chúng ta cũng phải chiến đấu khi đến lượt mình. Nhưng trước hết phải chiến đấu “trong chính mình”.
2. Tai ương là lời cảnh báo về cái chết đời đời
Vì theo Đức Giê-su, các biến cố đó là một lời cảnh báo: mọi người đều có tội, đều phải sám hối: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”. Như mọi ngôn sứ của Cựu Ước, Đức Giê-su trước hết là một nhà giảng đạo, chứ không phải là một tay dạy đời. Kiểu nói Người dùng thật đáng sợ. Phải chăng Người trở lại với não trạng thông thường (đau khổ= hình phạt) mà Người vừa từ chối? Chắc chắn không. Rõ ràng là Đức Giê-su không nói đến cùng một cái chết như cái chết thể lý mà những kẻ biểu tình hay các người gặp nạn tháp đổ đã chịu.
Đức Giê-su biết rõ người công chính cũng phải chết. Nhưng Người cố ý đặt mình trên một bình diện khác với bình diện nhân loại, chính trị, luân lý, xã hội… hầu đưa ra một “mạc khải” tôn giáo: Người quả quyết có một cái chết khác, mang tính vĩnh cửu mà ít ai nghĩ tới, nhưng riêng Người chẳng ngừng đề cập. “Nếu không hoán cải, các ông hết thảy cũng sẽ lãnh đủ…” không phải cái chết sinh học mà các ông có thể khám phá quanh mình mỗi ngày, nhưng là cái chết nhiệm mầu do tội lỗi gây nên… Đức Giê-su cho ta thấy rằng hết thảy loài người đều là tội nhân, nhưng tất cả cũng được cống hiến cơ hội hoán cải. Ai nấy hãy trở lại lương tâm mình: trước hết dĩ nhiên là Phi-la-tô, rồi những tay Ga-li-lê kháng chiến, mấy ông kiến trúc sư hay thợ nề dối ẩu, mọi ai tưởng mình ở ngoài cuộc Phán xét, và tôi… kẻ hẳn đang nghĩ mình thoát khỏi lời Đức Giê-su đe dọa, để tránh hóan cải…
Các nhà chú giải nhấn mạnh tính “triệt để” của Lu-ca: “Các ông cũng sẽ chết hết!” Nhưng xin lưu ý, sự dữ dội này của Đức Giê-su chính là để đưa chúng ta về lại mình, về lại sự hoán cải. Không phải Thiên Chúa kết án. Chính phàm nhân tự kết án mình chết vĩnh cửu. Sự dữ dội của Đức Giê-su, đó là sự dữ dội của một tình yêu thần linh đầy thương xót, không chịu được cảnh loài người đi đến chỗ bị tiêu diệt. Đức Giê-su đưa ra một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là một sứ điệp về Thiên Chúa, xin lập lại. Điều đó chẳng muốn nói Người dửng dưng trước các vấn đề của con người. Nhưng Người đặt mình trên mức độ “mạc khải”: Người tố giác cho thấy sự ác đích thật đối với chúng ta là gì. Trong mọi trường hợp, Người nhắc lại rằng không thể có thỏa hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi: ở mãi trong tội, đó là tự chuốc lấy một cái chết còn ghê gớm hơn cái chết do lưỡi gươm của quan tổng trấn hay đá đè của tháp Si-lô-ác!
3. Tai ương là lời mời gọi sinh hoa kết trái
Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn cây vả không sinh trái. Dụ ngôn này lấy lại những lời đe dọa cổ điển (x. Lc 3,8-9), nhưng báo trước một kỳ hạn cuối cùng. Chúng ta vẫn luôn luôn ở trên cùng chủ đề: cuộc Phán xét tối hậu! Các hành vi của con người không như nhau, chẳng tốt chẳng xấu, vô thưởng vô phạt. Chúng có một “kết quả”, một “hậu quả”! Quan niệm hiện thời cố gắng làm ta tin rằng khắp hoàn vũ đang xóa bỏ dần mọi “mặc cảm tội lỗi”: chẳng còn trách nhiệm trước Thiên Chúa… chẳng còn cấm kỵ, cấm đoán, lỗi phạm… hãy làm những gì bạn thích… Nhiều Ki-tô hữu xa dần tòa cáo giải. Đức Giê-su trái lại nói: “Hãy chặt thân cây cằn cỗi này đi”. Người không chỉ kết án “trái hư” mà còn kết án việc “trái thiếu”.
Tuy nhiên, dụ ngôn vẫn chứng tỏ lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa: “Nhưng người làm vườn đáp: Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới xung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”. Người làm vườn yêu thương cây cối của mình như thế, đó chính là Đức Giê-su. Người đã không đến vì những kẻ công chính mà vì những kẻ tội lỗi, đã kể mọi dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt đầy rẫy trong Tin Mừng thánh Lu-ca (Lc 15 chẳng hạn, xem bài tuần tới). Các đe dọa khi nãy trên miệng Người thành thử chỉ có mục đích duy nhất là đánh thức chúng ta. Thiên Chúa yêu thương kẻ tội lỗi. Thiên Chúa yêu tôi! Không nên đối chọi lòng thương xót với sự đòi hỏi, như triết gia vô thần Bertrand Russell đã từng làm thế khi so sánh Đức Giê-su với Đức Phật. Ông bảo Đức Phật thì từ bi còn Đức Giê-su hay lên giọng đe dọa hỏa ngục! Tình yêu bao giờ cũng đòi hỏi người được yêu phải từ bỏ điều ác, phải thực hành điều thiện. Con dao mổ của y sĩ giải phẫu bao giờ cũng gây đau đớn, nhưng đó là điều kiện để thoát hiểm. Chớ nên loại bỏ tiếng cuối cùng này: “Nếu không, ông sẽ chặt nó đi!” Mùa chay chính là mùa thuận tiện để sống Tin Mừng cách tận căn, triệt để. Bạn có nghĩ thế không? mục lục