Suy Niệm Tin Mừng 7 Vọng & PS1 ABC Bài 51-100 Chúa đã sống lại rồi
--------------------------------------------------------
Phúc Âm Năm A:
Phúc Âm: Ga 20,1-9: "Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo
Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
Phúc Âm Năm B: Mc 16,1-8: "Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta". Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: "Các người đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nazarét chịu đóng đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Ðây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy đi nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước". Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi. - Ðó là Lời Chúa.
----------------
PS1-51. PHỤ NỮ.. 2
PS1-52. CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 5
PS1-53. Ngôi mộ trống –JKN.. 9
PS1-54. Chúa Kitô phục sinh - Lm. JB Nguyễn Minh Hùng. 12
PS1-55. Đức Giêsu đã sống lại - Lm. VIKINI 14
PS1-56. Suy Niệm của Lm. Trọng Hương. 17
PS1-57. Vọng PS.- Chúa là Ánh Sáng Cứu Độ- Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi 19
PS1-58. Vọng PS.- Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết - Lm. Đan Vinh. 20
PS1-59. Như tạo vật mới - Lm. Minh Vận, CMC.. 28
PS1-60. Ngài ở đâu ? - Sr. Maryann Bích-Đàm, MTGQN.. 31
PS1-61. Ơn Phục Sinh - Lm. Thu Băng, CMC.. 33
PS1-62. Ngôi mộ trống - Ts.Trần Duyệt 35
PS1-63. Đức tin - Lm. Hồng Uy Linh, CMC.. 37
PS1-64. Bạn hãy sống lại từ bây giờ - Huyền Đồng. 39
PS1-65. Tại sao Chúa hiện ra với Mai Đệ Liên trước các tông đồ?. 41
PS1-66. Tin nhận, sống với và làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh. 43
PS1-67. Chúa đã Phục Sinh... cho ai?. 46
PS1-68. CHÚA SỐNG LẠI THẬT.. 48
PS1-69. Thiên Chúa đã chiến thắng sự dữ. 53
PS1-70. CÔNG BỐ ƠN PHỤC SINH.. 54
PS1-71. Phục Sinh: NGÀY THỨ NHẤT. 57
PS1-72. ĐỪNG HOẢNG SỢ – ĐTC Gioan-Phaolo 2. 59
PS1-73. Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết -Lm. Đan Vinh. 61
PS1-74. CỘNG ĐOÀN PHỤC SINH - Gm. Ngô Quang Kiệt 69
PS1-75. MỘT LỜI MỜI GỌI XÁC TÍN VÀ ĐỔI ĐỜI 70
PS1-76. SỨC SỐNG MỚI – CON NGƯỜI MỚI 72
PS1-77. CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI, HA-LÊ-LUI-A ! 76
PS1-78. VƯỢT QUA MỚI, MỘT CUỘC ĐỔI ĐỜI TRỌN VẸN.. 78
PS1-79: SUY NIỆM - (NCK) 79
PS1-80: Phát hiện ra dấu tích của Sự Phục sinh: Giêrônimô Nguyễn Văn Nội 82
PS1-81: ĐỨC KITÔ SỐNG LẠI LÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA NIỀM TIN.. 84
PS1-82: VƯƠNG QUYỀN CỦA THIÊN CHÚA LÀ TUYỆT ĐỐI 87
PS1-83: ÁNH SÁNG CỦA “NGÀY THỨ NHẤT” Ga 20,11-18. 90
PS1-84: HRK/93- PHỤC SINH.. 91
PS1-85: NTGT/116- NIỀM HY VỌNG.. 94
PS1-86: PV/214- LÒNG TIN.. 96
PS1-87: PV/217- LÒNG TIN.. 98
PS1-88: SCĐ/224- THĂM MỘ.. 99
PS1-89: SCĐ/225- CỨU RỖI 101
PS1-90: SCĐ/ 228- VƯỢT QUA.. 102
PS1-91: Ngày Giao ước hiệu lực - Phaolô Ngô Suốt 104
PS1-92: Chúa Giêsu Nagiarét Sống Luôn Mãi 105
PS1-93: Người đã trỗi dậy rồi 107
PS1-94: Niềm tin vào Chúa Phục Sinh. 110
PS1-95: Chúa Phục sinh: nền tảng đức tin công giáo. 112
PS1-96: Chúa đã sống lại rồi – Alléluia. 114
PS1-97: Chúng ta hãy vui mừng. 116
PS1-98: SỰ BIẾN ĐỔI KỲ DIỆU - Mark Link S.J. 118
PS1-99: HÂY VUI LÊN - Gm. Arthur Tonne. 121
PS1-100: Lễ Vượt Qua Của Chúng Ta. 122
-----------------------------
Lễ Vọng Phục Sinh của ĐTC Phanxicô
Chuyển dịch: Khắc Bá, SJ - CTV Vatican News
Sau ngày Sabbath (Mt 28: 1), những người phụ nữ đã đi đến ngôi mộ. Đây là cách Tin Mừng của PS1-51
Sau ngày Sabbath (Mt 28: 1), những người phụ nữ đã đi đến ngôi mộ. Đây là cách Tin Mừng của Đêm Vọng thánh thiêng này bắt đầu: với ngày Sa-bát. Trong Tam Nhật Thánh, chúng ta thường có xu hướng bỏ qua ngày này bởi ta đang háo hức chờ đợi bước chuyển từ mầu nhiệm Thánh Giá của ngày Thứ Sáu sang lời hoan ca Alleluia của Chúa Nhật Phục Sinh. Tuy nhiên, năm nay, chúng ta đang trải nghiệm, hơn bao giờ hết, sự im lặng lớn lao của Thứ Bảy Thánh. Chúng ta có thể tưởng tượng mình ở vị trí của những phụ nữ vào ngày đó. Giống như chúng ta bây giờ, trước mắt họ là một thảm cảnh đau thương, một bi kịch xảy ra quá bất ngờ. Họ đã nhìn thấy sự chết và nó đè nặng lên trái tim họ. Nỗi đau xen lẫn nỗi sợ hãi: liệu họ có chịu chung số phận với Thầy mình? Rồi sau đó là nỗi sợ về viễn tượng tương lai và tất cả những gì cần phải được xây dựng lại. Một ký ức đau đớn, một niềm hy vọng bị cắt cụt. Giống như chúng ta bây giờ, đối với họ, đó là giờ phút đen tối nhất.
Tuy nhiên, trong tình huống này, những người phụ nữ không cho phép mình bị tê liệt. Họ không chịu khuất phục trước sự ảm đạm của đau khổ và tiếc nuối; họ không tự thu mình lại, hay trốn chạy khỏi thực tại. Họ đang làm một việc rất đơn sơ nhưng lại phi thường: chuẩn bị các hương liệu ở nhà để xức xác Chúa Giê-su. Họ không ngừng yêu thương; từ trong đêm tối của cõi lòng, họ thắp lên một ngọn lửa thương xót. Mẹ Maria của chúng ta đã trải qua ngày Thứ Bảy đó. Đó là ngày xứng đáng dành để tôn vinh mẹ, trong tâm tình nguyện cầu và hy vọng. Mẹ đã đáp lại nỗi buồn bằng niềm tin vào Thiên Chúa. Những người phụ nữ này không thể ngờ được rằng, từ trong bóng tối của ngày Sa-bát đó, chính họ đang thực hiện những sự chuẩn bị cho“Bình minh của ngày thứ nhất trong tuần”, ngày sẽ thay đổi lịch sử. Như hạt giống bị chôn vùi trong lòng đất, Đức Giêsu chuẩn bị làm cho đời sống mới được nở hoa trong thế giới này; và những người phụ nữ đó, bằng lời cầu nguyện và tình yêu, đã giúp tạo nên đoá hoa hy vọng đó. Trong những ngày buồn thảm này, có biết bao người cũng đã và đang làm những điều mà những phụ nữ kia đã thực hiện, đó là gieo hạt mầm hy vọng, với những cử chỉ bé nhỏ của lòng quan tâm, của tình thường và lời cầu nguyện.
Rạng sáng, những người phụ nữ đi đến ngôi mộ. Thiên thần nói với họ: “Đừng sợ. Ngài không ở đây; vì Ngài đã sống lại”(câu 5-6). Họ nghe thấy những lời của sự sống ngay cả khi họ đang đứng trước một ngôi mộ… Và sau đó họ gặp Đức Giê-su, đấng ban tặng tất mọi niềm hy vọng, Đấng xác chuẩn thông điệp và nói: “Đừng sợ”(câu 10). Đừng sợ, đừng lui bước trước sợ hãi: Đây là thông điệp của hy vọng. Nó được gửi đến chúng ta hôm nay. Đây là những lời mà Thiên Chúa lặp lại với chúng ta ngay trong đêm nay.
Đêm nay, chúng ta được trao một quyền cơ bản mà không bao giờ bị lấy mất: quyền hy vọng. Đó là niềm hy vọng hy sống động và mới mẻ đến từ Thiên Chúa. Đó không phải là thứ lạc quan tếu; nó không phải là một cái vỗ nhẹ vào lưng hay một lời khích lệ trống rỗng. Đó là một món quà từ thiên đường, thứ mà chúng ta không thể tự mình kiếm được. Trong những tuần này, chúng ta đã lặp đi lặp lại rằng ‘tất cả sẽ ổn thôi’. Đó là những lời nói bén rễ từ nét đẹp nhân bản và thúc đẩy những câu khích lệ nổi lên từ cõi lòng chúng ta. Nhưng khi ngày tháng trôi qua và nỗi sợ hãi tăng lên, ngay cả niềm hy vọng táo bạo nhất cũng có thể tan biến. Niềm hy vọng của Đức Giê-su mang lại thì rất khác. Ngài gieo vào lòng chúng ta niềm tin rằng Thiên Chúa có thể biến mọi thứ trở nên tốt lành, vì chưng ngay cả từ ngôi mộ Ngài cũng đã mang lại sự sống.
Ngôi mộ là nơi không ai bước vào. Nhưng Chúa Giêsu trỗi dậy vì chúng ta; Ngài đã sống lại cho chúng ta, để mang lại sự sống từ nơi của sự chết, để khởi đầu một lịch sử mới ở chính nơi bị chèn bởi tảng đá. Đấng đã lăn hòn đá bịt kín lối vào ngôi mộ cũng có thể loại bỏ những viên đá trong trái tim chúng ta. Vì vậy, chúng ta đừng nhụt chí; chúng ta đừng đặt tảng đá chắn mất niềm hy vọng. Chúng ta có thể và phải hy vọng vì Thiên Chúa là Đấng thành tín. Ngài không bỏ rơi chúng ta; Ngài đã viếng thăm ta và đã bước vào những cảnh huống đau thương, thống khổ và chết chóc của chúng ta. Ánh sáng của Ngài xua tan bóng tối của ngôi mộ; hôm nay Ngài muốn ánh sáng đó xuyên qua cả những góc tối nhất trong cuộc sống chúng ta. Thưa quý anh chị em, ngay cả khi chúng ta đã chôn vùi niềm hy vọng trong trái tim mình, chúng ta cũng đừng từ bỏ, vì Thiên Chúa vẫn luôn lớn hơn. Bóng tối và sự chết không có lời cuối cùng. Hãy mạnh mẽ lên, vì với Chúa không có gì là hư mất!
Lòng can đảm. Đây là một cụm từ thường được Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng. Chỉ một lần những người khác dùng cụm từ này để khích một người đang cần giúp đỡ: Hãy can đảm đứng dậy, Ngài đang gọi anh đó! (Mc 10:49). Chính Người, Đấng Phục Sinh, đã nâng chúng ta lên trong những lúc cần thiết. Trên hành trình cuộc sống, nếu ta cảm thấy yếu đuối, mỏng dòn, hoặc sa ngã, xin đừng sợ, Thiên Chúa sẽ đưa tay giúp đỡ và nói với ta: “Dũng cảm lên!”. Tựa như Don Abbondio (trong tiểu thuyết của Manzoni), chúng ta cũng có thể nói “can đảm chẳng phải là điều gì bạn có thể tự trao cho mình”(I Promessi Sposi, XXV). Đúng, ta không thể tặng nó cho chính mình, nhưng ta có thể nhận nó như một món quà. Tất cả những gì ta phải làm là mở lòng cầu nguyện và nhẹ nhàng lăn đi tảng đá chặn lối vào trái tim của ta để ánh sáng của Chúa Giê-su có thể rọi vào. Ta chỉ cần kêu cầu Ngài: “lạy Chúa Giêsu, hãy đến với con giữa nỗi sợ hãi này, và nói với con rằng: Hãy can đảm!”Có Ngài, ôi lạy Chúa, chúng con sẽ chịu thử thách nhưng không bị lung lay. Và, dù cho bất cứ nỗi buồn nào, chúng con sẽ được củng cố trong hy vọng, vì có Ngài, thập giá cũng dẫn đến sự phục sinh, bởi Ngài ở cùng chúng con trong màn đêm u tối; Ngài chính là sự vững vàng giữa những điều không chắc chắn của chúng con; Ngài là lời nói phát ra trong cơn thinh lặng của chúng con; và không gì có thể lấy đi tình yêu Ngài dành cho chúng con.
Đây là sứ điệp Phục Sinh, sứ điệp của hy vọng. Sứ điệp này chứa một phần nữa, đó là sứ mạng được sai đi. Đức Giê-se bảo các phụ nữ:“Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê”(Mt 28:10). Thiên thần đã báo trước: “Người đi Ga-li-lê trước các ông”(Câu 7). Chúa đi trước chúng ta. Thật đáng khích lệ khi biết rằng Ngài đi trước chúng ta trong cuộc sống và trong cái chết; Ngài đến Galilê trước chúng ta. Với Đức Giê-su và các môn đệ, nơi này gợi nhớ tới cuộc sống hàng ngày, tới gia đình và công việc. Chúa Giêsu muốn chúng ta mang lại hy vọng ở đó, cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đối với các môn đệ, Galilê cũng là nơi đáng nhớ, vì đó là nơi đầu tiên họ được kêu gọi. Trở về Galilê có nghĩa là nhớ rằng chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi. Chúng ta cần tiếp tục cuộc hành trình, nhắc nhở bản thân rằng chúng ta được sinh ra và tái sinh nhờ một lời mời gọi được trao tặng nhưng không cho chúng ta vì tình yêu. Đây luôn là điểm mà chúng ta luôn có thể làm mới lại, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng và thử thách.
Nhưng còn hơn thế nữa. Galilê là khu vực xa nhất tính từ chỗ họ đang ở, tức từ Jerusalem. Và không chỉ về mặt địa lý. Galilê cũng là nơi cách xa sự thánh thiêng của Thành Thánh nhất. Đó là khu vực của những người thuộc các tôn giáo khác nhau sinh sống: đó là “Galilee của Dân Ngoại” (Mt 4:15). Chúa Giêsu sai họ đến đó và yêu cầu họ bắt đầu lại từ đó. Điều này nói gì với chúng ta? Nó nói rằng thông điệp hy vọng không nên bị giới hạn vào những chốn thánh thiêng của riêng chúng ta, mà cần được mang đến cho mọi người. Bởi vì tất cả mọi người đang cần sự trấn an, và nếu chúng ta, những người đã chạm được vào “Lời của sự sống”(1Ga 1: 1), không trao ban sự trấn an đó thì ai sẽ làm thay? Đẹp biết bao khi trở thành những Kitô hữu mang đến sự an ủi, trở thành người mang vác gánh nặng của người khác, và thành người khích lệ: đó là những sứ giả của sự sống trong thời điểm chết chóc! Ước gì chúng ta có thể mang lời ca sự sống đến mọi thứ‘Galilee’, mọi khu vực của gia đình nhân loại mà tất cả chúng ta thuộc về và là một phần của chúng ta, vì tất cả chúng ta đều là anh chị em. Chúng ta hãy làm cho những kêu gào của sự chết phải im lặng; cho mọi thứ chiến tranh phải dừng lại! Ước gì chúng ta có thể ngừng sản xuất và buôn bán vũ khí, vì chúng ta cần lương thực chứ không phải súng ống! Hãy kết thúc việc phá thai và giết hại người vô tội. Ước gì trái tim của những người dư dả có đủ sự cởi mở để trao ban các nhu cầu thiết yếu vào những đôi tay trống trơn của người nghèo.
Sau hết, những phụ nữ đó đã níu giữ chân Chúa Giê-su (Mt 28: 9). Đó là đôi chân đã đi rất xa để gặp gỡ chúng ta: đến tận mức đi vào và trỗi dậy từ ngôi mộ. Những phụ nữ ôm lấy đôi chân đã giẫm đạp cái chết và đã mở ra con đường hy vọng. Hôm nay, như những người lữ hành tìm kiếm hy vọng, chúng con muốn bám vào Ngài, lạy Đức Giê-su Phục Sinh! Chúng con quay lưng với cái chết và mở rộng trái tim cho Ngài, vì chính Ngài là Sự Sống.
12/4/2020
-----------------------------
PS1-52. CHÚA NHẬT PHỤC SINH
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI:HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG
Nếu có một người nào đó nói với bạn:"chết rồi sẽ sống lại",chắc bạn sẽ bỉu môi,suy nghĩ và có khi hoang mang chưa dám tin ,vì đức tin bạn yếu hay bạn chưa có lòng tin .Và đây,có một câu chuyện thật một trăm phần trăm đã xẩy ra cách đây 2003 năm trong lịch sử nhân loại.Đức Giêsu Kitô đã đến trần gian,sống với trần gian,sống cho trần gian,hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi . Ba năm Chúa Giêsu đi giảng đạo ,Người đã kết nạp các môn đệ ,giáo dục,cắt nghĩa,giải thích cho các môn đệ nhiều điều; sau cùng tới thời đã định,Người đã chấp nhận ý Thiên Chúa Cha, chịu chết treo trên thập hình tự giá dù rằng Ngài hoàn toàn vô tội, con người đã chôn Ngài trong mồ đá, nhưng sau ba ngày Người đã sống lại đúng như lời Ngài đã loan báo trước…Đó là biến cố vô cùng quan trọng đã làm đảo lộn lịch sử nhân loại,xôn xao dư luận từ 2003 năm nay và chắc chắn còn tiếp tục mãi cho đến ngày tận thế …"Ta là sự sống lại và là sự sống;ai tin Ta,sẽ không chết đời đời "(Ga 11,25a.26)
I. VẪN LÀ CÁI NGỚ NGẨN CỦA CÁC MÔN ĐỆ ,CỦA DÂN DO THÁI VÀ NHIỀU NGƯỜI:
Chúa Giêsu sau thời gian ẩn dật ở Nagiarét với cha mẹ Người ;ba năm đi rao giảng công
Khai,Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Người ,Chúa đã giảng dậy,uốn nắn,giải thích, cắt nghĩa cho các môn đệ nhiều điều,Chúa đã làm rất nhiều phép lạ trước mặt các môn đệ để củng cố lời nói của Ngài như Chúa Giêsu đã làm cho nước hóa thành rượu ngon trong tiệc cưới Cana (Ga 2,1-11),làm cho bánh hóa nhiều để nuôi nhiều ngàn người(Mt 14,13-21),làm cho kẻ chết sống lại (Mc 5,21-43),Lc 7,11-12 ; 11,1-14 ) vv…Chúa đã trừ quỉ,chữa lành nhiều bệnh hoạn tật nguyền.
Nhưng phép lạ lớn nhất vẫn là phép lạ chính Người đã chết thật trên thập giá,đã được an táng trong mồ ,chỉ ba ngày sau tự Ngài đã sống lại như lời Ngài đã loan báo trước (Ga 20,31 ) .Các môn đệ còn mê muội không hiểu gì về biến cố lớn lao ấy vì rằng Thánh Thần chưa mở trí cho các môn đệ. Vâng,trước khi thực hiện thánh ý Chúa cha cứu đời ,Chúa Giêsu đã nói gần,nói xa với các môn đệ. Nhưng lòng trí các môn đệ vẫn nặng nề chưa làm sao hiểu nổi,các môn đệ cũng xin Chúa Giêsu giải thích thêm nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa. Các môn đệ cứ tưởng rằng Thầy mình sẽ khôi phục lại nước Israen theo kiểu trần gian,để mỗi một môn đệ sẽ trở nên công hầu khanh tướng trong vương quốc của thầy Giêsu .Các môn đệ vẫn còn cái óc xưng hùng xưng bá . Các ông cứ tưởng rằng thầy Giêsu sẽ làm Vua như kiểucác vua thế trần. Thế nên,mới có chuyện bà mẹ hai con ông Giêbêđê tới xin xỏ với Chúa Giêsu cho một đức con ngồi bên tả và một đứa ngồi bên hữu Chúa .Thế mới có chuyện,Phêrô vị thủ lãnh các tông đồ vừa tuyên xưng Thầy là Đức Kitô,con Thiên Chúa hằng sống ,được Chúa khen tặng ,nhưng khi nghe Thầy Giêsu loan báo ý định chịu chết cứu đời .Phêrô đã vội vã cản đường Chúa Giêsu.Đúng là các môn đệ đã chẳng hiểu tí gì về con đường của Chúa phải đi ,không hiểu gì về ý định của Chúa là phải tuân phục ý Chúa Cha:"Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta"(Ga 4,32 )."Người đã hạ mình xuống, Vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá "( Pl 2,8 ).Chúa Giêsu đã chết và được Philatô ban tử thi cho ông Giuse ,một nghị viên quê ở Arimathia chôn cất .(Mc 15,42-46) và (Ga 19,38-42 ).
Tuy nhiên biến cố mồ trống từ tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần đã làm mọi người hoang mang, nhất là các bà phụ nữ ra thăm mộ từ sáng sớm ,trong đó có cả Phêrô ,vị lãnh đạo Giáo Hội .Quả thực hiện tương hoang sơ của ngày thứ nhất theo sách khởi nguyên,là một sự trống vắng,mông lung .Ngày thứ nhất ấy đã được khỏa lấp bằng ngày thứ nhất phục sinh khi Chúa Giêsu từ trong kẻ chết sống lại .Người ta có thể nhất trí với nhau rằng nếu mọi việc đều bình thản,nghĩa là khi Maria Mađalêna,vài phụ nữ khác,Phêrô và Gioan ra mộ và thấy xác Chúa Giêsu vẫn còn nguyên nằm đó thì không có Tin Mừng phục sinh,không có tin được loan truyền,loan báo .Nhưng mọi sự đều khác:
Sự kiện mồ trống(Mt 28,1-8).Chúa hiện ra với Maria(Ga 20,11-18)… Các môn đệ ngay chính lúc đó vẫn chưa hiểu nổi lời Thánh kinh:"Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết " (Ga 20,9; Cv 2,24-31 , 13,32-37 ) .Vì thế,các người Do Thái và nhiều người khác lại càng tỏ ra mù tịt về biến cố Chúa Giêsu sống lại .Các vị lãnh đạo Do Thái,dân Do Thái và nhân
Loại tưởng rằng đã giết được Chúa Giêsu,tưởng rằng đã loại trừ được Chúa Giêsu là họ đã chiến thắng .Họ có biết đâu:"Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần.Ngài đã trở thành bất tử ".Các người Do Thái,các tư tế,thượng tế,biệt phái và nhiều người khác đã ấm ớ như bọn lính được các quan chức cho tiền để tung ra tin giật gân,hầu mập mờ đánh lận con đen:"Lính canh lãnh tiền và được dậy sao thì làm như vậy " (Mt 28,11-15 ),nhưng nhân loại có hiểu đâu:"…Nếu Đức Kitô đã không sống lại,thì việc anh em tin cũng hão huyền "(1co 15,12-17 ).
II . GIOAN ĐÃ TIN ,CÁC NGƯỜI PHỤ NỮ CŨNG ĐÃ TIN …
Gioan,người môn đệ Chúa Giêsu yêu,đã ngồi kề ở ngực Chúa trong bữa tiệc ly ,khi chạy tới mộ trước Phêrô ,thấy khăn liệm đã được cuộn lại,khăn phủ đầu để một nơi gọn gàng,Gioan liền tin. (Ga 20,5-8 ). Gioan đã có cái nhạy cảm từ con tim vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ cho ông nhận ra sự kiện huyền diệu ấy .Gioan đã nhận ra ngay dấu chỉ của sự kiện phục sinh:Chúa Giêsu phải sống lại từ cõi chết .Thân xác của Chúa Giêsu theo lời Thánh kinh phải đi vào cõi vinh quang,cõi vĩnh hằng .Nó không thể là thân xác trở lại cuộc sống trần thế bình thường như con bà goá thành Naim, con gái ông Giarô và Lazarô được Chúa Giêsu lam cho sống lại .Nhưng thân xác của Chúa Giêsu lúc này đây sẽ trở nên khác hẳn như thánh Phaolô so sánh:"Khi bị an táng,nó là một thân xác vật
chất,nhưng khi sống lại,nó sẽ trở thành một thân thể tinh thần " (1co 15,37.42- 44).Gioan đã có trực giác rất nhạy bén vì người vào mồ trước không phải là Maria Mađalêna,không phải là Gioan mà là Phêrô vị thủ lãnh các tông đồ .Trực giác của Gioan chỉ ra rằng tin thấy chưa đủ mà phải phát phải phát xuất tự tình yêu .Gioan đã sống trong tình yêu tuyệt đối,nên ông đã nhận ra Chúa sống lại trước hết mọi người vì ông tin có sự sống đang ở đó,rằng tình yêu không chết,tình yêu rất sống động.
Phêrô đã thấy tất cả sự việc ,Maria đã thấy tảng đá đậy mồ bị đẩy ra ngoài nhưng cả Phêrô,cả Maria Mađalêna vẫn chưa hiểu gì về lời Thánh kinh đã nói trước. Vâng,Gioan đã thấy và đã tin .Rồi từ sự kiện của lòng tin .Phêrô cũng đã từ từ được ơn soi sáng và Ông cũng nhận ra Chúa đã sống lại. Còn Maria Mađalêna ,sau cái sự kiện mồ trống,sau ánh sáng lu mờ,còn xám xịt của buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần:tảng đá bị lăn ra và dầu thơm hương liệu còn ở trong tay .Maria Mađa-Lêna đã không kịp xoay sở khi Chúa hiện ra với bà ,và bà cứ tưởng là người làm vườn ,khi Chúa âu yếm kêu tên bà và bà đã nhận ra Chúa phục sinh:"Rabboni "(Lạy Thầy ) .Chúa phục sinh đã nói với bà:"Hãy về loan bao với anh em Ta …" hoặc khi các ngươi phụ nữ ramộ thì có một người mặc áo trắng và nói với các bà rằng:"Tại sao cácbà tìm kẻ sống giữa kẻ chết.."(Lc 24,5 ).
Tất cả như bừng tỉnh sau một giấc mơ dài nhuộm mầu u tối .Dưới lăng kính của ánh bình minh .Gioan Phêrô , Mađalêna và các người phụ nữ đa õnhận ra Chúa phục sinh với con tim,với đức tin của mình.
III. TIN MỪNG PHỤC SINH VẪN LUÔN LÀ THÁCH ĐỐ:
Người ta cứ tưởng rằng giết được Chúa Giêsu là mọi sự đã chấm dứt .Người ta vẫn hão huyền,vẫn mơ mộng:Có người đã tin,có người còn mập mờ,có người không tin .Đã hơn hai ngàn năm,biến cố phục sinh vẫn luôn là thách đố dai dẳng. Người ta vẫn mập mờ như buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần khi Mađalêna ra mộ:đáng lẽ ra xác Chúa vẫn còn ở đó,nhưng những gì Maria Mađalêna nắm bắt được là sự vắng mặt,chỉ thế thôi ! 2003 đã trôi qua,nhưng nhiều người vẫân chưa bừng tỉnh,họ vẫn như còn sống trong một cơn mơ dài không lối thoát . Có nhữngngười tưởng Chúa đã chết và như thế là chấm dứt tất cả, chính vì thế có nhà thần học đã viết:"Dieu est mort "(Thiên Chúa đã chết ) . Tuy nhiên , dựa vào lời Chúa ,chính Chúa đã nói:"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của người sống"(Mc 12,18-27) hoặc "Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất không chết đi ,thì nó trơ trọi một mình;nhưng nếu nó chết đi,nó mới sai hoa kết trái "(Ga 12,24 ). Nhưng chính khi loan báo thương khó với các môn đệ tới ba lần,Chúa Giêsu đã quả quyết:"…Chúa chết ,sau ba ngày sẽ sống lại "(Mc 8,31;9,31:10,34 ).
Mừng lễ phục sinh hôm nay,chúng ta không được hạnh phúc như Phêrô,như Gioan và Maria Mađalêna đã thấy tảng đá được lăn ra,khăn liệm,khăn phủ đầu và mồ trống .
Tuy nhiên chúng ta còn hạnh phúc hơn vì chúng ta có lòng tin:chúng ta tin Chúa phục sinh vẫn luôn ở với ta bây giờ và mãi mãi.Chúng ta cùng với thánh Phaolô thốt lên lời này:"Nếu Đức Kitô đã không sống lại,thì việc anh em tin cũng hão huyền "(1co 15,12-17 ).Chúa Giêsu đã sống lại ,alléluia ..và Người đã"đi trước các môn đệ tới Galilêa "(Mc 16,7). Chúa phục sinh vẫn đợi mọi người chúng ta ở mọi thời,mọi nơi và Người truyền lệnh cho các môn đệ và mọi người:"Hãy loan truyền Tin Mừng phục sinh ". Chúa phục sinh hứa:"Và này Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho tới tận thế "(Mt 28,20 ).
Hãy làm chứng cho Chúa phục sinh nhờ ánh sáng phục sinh tràn ngập tâm hồn.Alléluia.
Lm Giuse Nguyễn hưng Lợi DCCT
-----------------------------
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
2. Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em v”n còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi v”n sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại v”n là một biến cố hiện sinh, v”n có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tùy thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng d”n cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự hủy: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó v”n mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá hủy, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá hủy, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá hủy «cái tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hóa thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quí, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thủy khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
-----------------------------
Chiếm vị trí quan trọng trong Kitô giáo, mầu nhiệm Phục sinh trở thành mầu nhiệm trung tâm của niềm hy vọng vĩnh cửu mà loài người mong đợi. Bởi thế không lạ gì thời gian cử hành mầu nhiệm Phục sinh là thời gian cao điểm của cả năm phụng vụ. Vì là mầu nhiệm cao cả, lễ Phục sinh trở thành Đại lễ mà không lễ nào có thể vượt qua.
Nhưng không phải chỉ có phụng vụ mới nhấn mạnh tầm quan trọng của lễ Phục sinh. Đúng hơn, phụng vụ chỉ dựa trên những gì đã được mạc khải, vì thế ta hãy nhìn lại chính lời mạc khải của Chúa từ trong Thánh Kinh, nhất là nơi các sách Tin Mừng như nền tảng của đời sống Giáo Hội để mà suy nghĩ, để cầu nguyện và để sống.
Chỉ nơi bốn sách Tin Mừng mà thôi, ta đã có đến 131 câu đề cập đến biến cố Phục sinh, kể từ lúc các phụ nữ đi thăm mồ từ sáng sớm, đã phát hiện ra ngôi mộ trống và được báo cho biết Chúa đã sống lại, đến biến cố thăng thiên. Sách Công vụ Tông đồ và các thư Tân Ước còn cung cấp thêm 160 câu về đề tài Phục Sinh của Chúa chúng ta. Chỉ riêng thánh Phaolô đã có 22 lần nhắc đến.
Không ai phủ nhận rằng, mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô là mầu nhiệm có tầm quan trọng. Vì khởi đi từ mầu nhiệm này, Con Thiên Chúa làm người. Phải có một con người - Thiên Chúa ấy, thì hôm nay mới có Đại lễ Vượt qua thánh thiện này. Biến cố giáng sinh còn là một sự kiện lịch sử quan trọng, không chỉ vì biến cố ấy trở thành cái mốc quan trọng của thời gian, nhờ đó loài người biết được năm tháng ngày giờ, nhưng biến cố nhập thể còn quan trọng hơn nhiều trong niềm tin vào một dòng lịch sử có bàn tay Thiên Chúa đang điều khiển từng ngày, để hướng d”n, lèo lái mọi biến cố lịch sử theo ý Ngài: lịch sử cứu độ. Chính biến cố nhập thể ấy, đã làm cho lịch sử cứu độ lật sang trang mới. Và Đấng Phục Sinh hôm nay là trung tâm của cả dòng lịch sử đang trôi giữa mọi chiều kích lịch sử của con người. Bởi thế, không ai còn nghi ngờ rằng, mầu nhiệm Nhập thể và Giáng sinh là mầu nhiệm rất quang trọng. Thế nhưng mầu nhiệm quan trọng ấy chỉ được nhắc đến ít hơn nhiều so với mầu nhiệmVượt qua.
Vì sao sự Phục sinh của Chúa Kitô lại quan trọng như thế? Là bởi vì Kitô giáo không bao giờ là một mớ lý thuyết trừu tượng, nhằm cung cấp một hệ thống giáo điều hay tín lý. Nhưng Kitô giáo trước tiên là một phẩm vị, là một lẽ sống, là chân lý được cụ thể nơi một con người. Con người ấy cũng chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, sống trong trần gian và dạy người ta phải sống các giá trị cao cả, các giá trị mang chiều kích thánh thiên hướng về Thiên Chúa: "phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo"; "phúc cho các người là người hiền lành"; "phúc cho các ngươi là những người phải chịu đau khổ"; "phúc cho các ngươi là những người ao ước trọn lành"; "phúc cho các ngươi vì các ngươi biết xót thương"; "phúc cho các ngươi vì đã giữ lòng trong sạch"; "phúc cho các ngươi là người mang lại bình an"; "phúc cho các ngươi vì lẽ đạo mà bị bắt bớ"...
Vì Kitô giáo đặt trung tâm vào Chúa Kitô, bởi thế tất cả những gì là chân lý Kitô giáo phải thuộc về một chân lý nguồn, chân lý mà từ đó phát xuất mọi lẽ sống. Do đó, những giá trị cao cả hướng về Thiên Chúa được tóm gọn trong các mối phúc ấy, đã bị người đời đóng đinh cùng với Đấng đã từng giảng dạy nó. Và hôm nay, hay cho hết mọi thời, nếu loài người đã đóng đi Giêsu, thì những giá trị mà Giêsu rao giảng cũng đã chết một cái chết đáng thương như chính Giêsu vậy. Nhưng không, Giêsu đã chiến thắng. Giêsu là một con người rất bình thường, nhưng cũng là một Thiên Chúa mà tình yêu của Người có sức cứu độ diệu kỳ. Vì thế, một khi Giêsu đã bước ra khỏi mồ, đã toàn thắng, đã khải hoàn phục sinh, thì tất cả những giá trị cao cả mà Giêsu đã rao giảng, đã sống, và đã chết cho nó, trở thành những giá trị vĩnh cửu, những giá trị mà tất cả những ai nghe theo và sống, sẽ mang trong mình chiều kích phục sinh như chính Giêsu, Đức Chúa chúng ta.
Bởi thế, nếu giáo thuyết của Chúa Giêsu có cao đến đâu, siêu phàm cách mấy, nhưng bản thân Người không phục sinh, Người chỉ là một kẻ nói dối, một tên bịp bợm. Và những giáo thuyết ấy sẽ không có bất cứ một giá trị nào. Nhưng hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại và v”n đang sống, sống đến muôn đời, cho nên nếu Kitô giáo là chân lý cụ thể nơi một con người mang tên Giêsu, và chính Đấng mang tên Giêsu là trung tâm của Kitô giáo, thì giáo thuyết của Người là một giáo thuyết tuyệt đối, một giáo thuyết chứa chan niềm an ủi, niềm hy vọng và vĩnh cửu.
Tắt một lời: Đối với Kitô giáo, chỉ có Chúa Kitô, nhờ Chúa Kitô, và trong Chúa Kitô, mọi giá trị của cuộc sống trở thành vĩnh cửu. Trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô, Kitô giáo mãi mãi đặt niềm hy vọng cánh chung của mình nơi Người. Bởi thế mà Phục sinh trở thành Đại lễ, và niềm tin phục sinh chiếm chỗ quan trọng trong mọi sinh hoạt của đời sống Giáo Hội, đi từ Lời mạc khải của Thánh Kinh, đến phụng vụ, và đến từng ngõ ngách của đời sống riêng tư nơi mỗi Kitô hữu. Vì nói như thánh Phaolô: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì đã đặt tin tưởng và một chuyện hảo huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, ta v”n mang tội lỗi ở trong mình, không ai có thể giải cứu được, không ai đưa ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa kitô không sống lại, thập giá chỉ là dấu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát, cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt (1Cr 15, 12 tt).
Lạy Đấng Phục Sinh là Đức Chúa chúng con tôn thờ, chúng con tin Chúa và hy vọng vào Chúa, vì chỉ có Chúa, Đấng Phục Sinh duy nhất mới có thể đưa chúng con đến với Thiên Chúa. Xin ban bình an cho chúng con, để dù vác thập giá nặng nề đến đâu, dù thập giá có làm chúng con ngã xuống vì hết sức, vì tàn hơi, chúng con v”n can đảm đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa, Đấng Phục sinh vinh hiển đang đổ tràn ơn Phục sinh trong cuộc đời chúng con.
-----------------------------
1. “Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng. Và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, như thế là chúng tôi chống lại Thiên Chúa” (1Cor. 15, 14-15).
Thánh Phaolô thật rõ ràng, thật quả quyết về Đức Giêsu đã sống lại, nếu Người không sống:PS1-55
Thánh Phaolô thật rõ ràng, thật quả quyết về Đức Giêsu đã sống lại, nếu Người không sống lại thì Phaolô và tất cả các tông đồ, các tín hữu thời đó vừa phạm tội ác chống lại Thiên Chúa, vừa bị người đời bắt bớ, đánh đập, tù ngục và đóng đinh giết đi. Các tông đồ chịu chết vì điều giả dối đó để làm gì ? Để chịu khốn nạn hơn hết mọi người sao ? Và giả dối thì tất nhiên, Giáo hội không thể xuất hiện và tồn tại bền vững cho đến ngày nay được. Nhưng chính vì Đức Kitô đã sống lại, đã tiếp xúc với các tông đồ, các ông đã trông thấy, ăn uống, đã đụng chạm đến Người, đã nhận nhiệm vụ Người trao phó đi giảng dạy muôn dân, cho muôn dân tin mà được cứu độ, được sống lại, giải thoát họ khỏi cái chết kinh khủng ngàn thu. Chính vì Đức Kitô sống lại, Phaolô đã bỏ đường bắt đạo, trở lại giảng đạo, giảng sự sống lại của Đức Kitô, ông đã sống chết vì Đức Kitô, đã chịu trăm ngàn khổ cực, đã chịu đóng đinh như Đức Kitô để rao giảng Đức Kitô sống lại cho muôn dân được sống lại với Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu bị bắt, bị xét xử, bị đóng đinh chết trên thập giá, thì các tông đồ bỏ trốn, tinh thần các ông đã chết, khi các ông nghe tin mồ trống, các ông cũng khủng hoảng, vì lính canh mồ đang phao tin các môn đệ đã lấy trộm xác. Đó là án tử hình đang đeo vào cổ các ông. Luật thời đó kết án tử hình kẻ trộm cắp. Nhưng khi gặp Đức Giêsu sống lại, các ông đã trở nên dũng mạnh, can trường đứng trước công trường rao giảng Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại cho toàn dân đang dự lễ tại đền thánh Giêrusalem (Cv. 2,14-4,31). Các ông còn vui mừng khi bị điệu ra trước thượng hội đồng Do thái để chịu xét xử tù ngục, đánh đòn, chịu khổ vì Đức Kitô. Tuy nhiên, người ta v”n thắc mắc: Sự sống lại của Đức Kitô quan trọng như vậy, đã thay đổi cuộc sống của các tông đồ như vậy, đã lôi cuốn dân chúng đồng thời với các ông trở lại như vậy, để xây dựng Giáo hội tồn tại vững bền như vậy, tại sao bốn thánh sử chỉ kể lại vắn tắt hai ba lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ thôi ? Còn về cuộc chịu chết khổ nạn của Đức Giêsu thì các ngài viết rất dài và đầy đủ chi tiết.
2. Thánh Marcô chỉ viết 8 câu kể tên 3 bà đi thăm mộ và hoảng sợ khi vào trong mộ thấy một thanh niên mặc áo trắng nói: Đức Giêsu Nagiareth …. đã chỗi dậy rồi …”.
Thánh Luca kể hai lần Chúa hiện ra: Một lần hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, một lần hiện ra với các tông đồ, Người chúc bình an cho các ông rồi cho các ông rờ xem chân tay có xương thịt rõ ràng, chứ không phải ma, và ăn trước mặt các ông. Rồi Người dạy dỗ và mở trí các ông hiểu Kinh Thánh ứng nghiệm về Người. Người truyền cho các ông đi rao giảng cho muôn dân, rồi Người được rước lên trời.
Thánh Matthêu chỉ kể vắn tắt Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, rồi hiện ra với 11 môn đệ. Ngài nhấn mạnh đến việc các thượng tế lừa đảo, bảo lính canh mồ phao tin các môn đệ lấy trộm xác.
Thánh Gioan kể dài hơn: Chúa hiện ra ba lần: trước hết với Maria Madalena, và hai lần với các môn đệ: một lần không có ông Tôma, lần sau có cả Tôma, và đoạn 21 cuối do các môn đệ Gioan kể thêm Đức Giêsu hiện ra ở biển hồ Tiberia lúc các ông đánh cá. Người nướng cá cho các ông ăn và hỏi ba lần Phêrô “Con có yêu mến Thầy không ?”.
Thánh Gioan cũng thêm một chi tiết khá tế nhị: Phêrô và Gioan chạy ra mộ khi vào mộ, ông thấy những băng vải và khăn che đầu Đức Giêsu cuốn lại và xếp riêng ra một nơi, chứng tỏ: Không ai đưa xác đi đâu và Đức Giêsu đã sống lại đàng hoàng mới có sự sắp xếp như vậy.
3. Sở dĩ các ngài viết vắn tắt về sự sống lại của Đức Giêsu, có lẽ vì những lý do sau:
Thứ nhất: Sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại mà Người đã cho Lagiarô hay con trai bà góa thành Naim và con gái ông Giairô chết được sống lại ở đời này, rồi lại chết. Sự sống lại của Đức Giêsu là sự sống đời đời: “Người không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm. 6, 9). Thân xác Người trở nên vinh hiển: “Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Phil. 3, 21). “Thiên Chúa còn đặt mọi thù địch dưới chân Người, thù địch cuối cùng là sự chết” (1Cor. 15, 25-26). Như vậy Người đã chiến thắng sự chết. Cho nên không thể dùng ngôn ngữ trần gian nào diễn tả sự sống lại huyền diệu của Đức Giêsu được. Các ngài chỉ có thể kể: Người hiện ra đúng như Người lúc bị đóng đinh, có xương thịt, có lỗ đinh đóng chân tay và cạnh sườn, có ăn nói, dậy dỗ, trao quyền rao giảng Tin mừng, chứ không như bóng ma quái. Đồng thời Người lại giống như thần thiêng, không bị lệ thuộc vật chất, Người hiện ra gặp các ông mọi nơi, mọi chỗ dù cửa nhà đóng kín. Thật lạ lùng mãnh liệt đối với các ông. Cho nên chỉ kể thế là đủ.
Thứ hai: Các tông đồ đã trực diện hiển nhiên trước sự sống lại diệu huyền của Chúa, đâu cần phải sống lâu bên Chúa mới nhận ra Người sống lại. Các ông tiếp xúc trực tiếp với Người bằng tất cả mọi giác quan: tai, mắt, miệng lưỡi, chân tay, lòng trí và cả tâm hồn với mọi cảm tính từ hoảng sợ, nghi ngờ đến vui mừng, yêu mến tha thiết, từ đời sống lo âu đến đời sống bình thường, từ chốn ẩn lánh kín đáo đến công trường trước đông đảo quần chúng, hơn nữa chính Chúa còn mở trí cho các ông thấu hiểu các sách luật Môisê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh, Thánh Kinh đã ứng nghiệm về Người (Lc. 24, 44-45). Chính các tông đồ là những cuốn sách sống động cho muôn dân hơn muôn vàn sách viết chữ. Chính các ông là những chứng nhân trực tiếp rõ ràng nhất bằng lời giảng, bằng đời sống, bằng gương lành, và bằng chính những cái chết anh dũng của các ngài, nhất là bằng ân sủng của Chúa Con, bằng tình yêu của Chúa Cha và bằng tác động của Chúa Thánh Thần. Những người có thiện tâm đều tin vững vàng Đức Giêsu đã sống lại thật. Kẻ cố chấp, ác tâm thì dù biết mọi chi tiết rõ ràng, như quân dữ, họ cũng viện mọi lẽ để không tin Người.
Thứ ba: Như Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Người chết còn biết không ?”. Người đáp: “Nếu Ta nói: Người chết còn biết, thì sợ con cháu hiếu thảo liền chết theo ông cha, nếu Ta nói người chết không còn biết nữa, thì sợ con cháu bất hiếu, cha mẹ chết bỏ không chôn” (Khổng Tử gia ngữ: Trí tự VIII.)
Cũng vậy, nếu Chúa không sống lại, hay vật chất hóa sự sống lại của Chúa bằng xương bằng thịt cho người ta thấy luôn luôn, thì người ta không còn tin Chúa bởi trời xuống nữa. Người ta chết là hết, hay người ta tìm được thuốc trường sinh, thì người ta không cần Thiên Chúa nữa. Người ta sẽ sống thoải mái theo thú tính của mình và chắc chắn thế giới này sẽ nguy hiểm kinh khủng vì ai cũng lo giành dựt, xâm chiếm về cho mình hưởng thụ.
Nếu Đức Giêsu sống lại hoàn toàn vô hình, các tông đồ không thấy Người sống lại thì chắc các ông sẽ không thể tin Người sống lại, do đó, các ông đâu còn dám chết đi để làm chứng Người sống lại.
Cho nên Đức Giêsu đã xuống thế gian làm người để chết đi và sống lại cho người ta thấy tình thương bao la hữu hình của Người để người ta kính mến Người, và lên trời vô hình để người ta tin Người là Thiên Chúa hằng sống.
Lạy Chúa Giêsu, Người đã sống lại thật. Alleluia. Chúng con phấn khởi vui mừng. Alleluia. Chúng con cảm tạ và tung hô Chúa muôn đời. Alleluia.
-----------------------------
A. Hạt giống...
Bằng cách viết rất súc tích với những ý tưởng sâu sắc chứa đựng trong những chi tiết được chọn lựa rất kỹ, Thánh Gioan muốn mô tả hành trình đức tin của 3 nhân vật trong bài tường thuật này: Maria Mađalêna, Phêrô và “người môn đệ kia” (tức tông đồ Gioan).
- Khi ấy là “sáng sớm khi trời còn tối”: họ v”n còn ở trong đêm tối chưa hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu, nhưng đã là lúc sáng sớm rồi, bình minh sắp tỏa sáng.
- “Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”: “địa chỉ” của Chúa Giêsu là một điều được Tin Mừng Ga lưu ý nhiều lần. Ngay từ đầu quyển Tin Mừng, hai môn đệ đầu tiên đã hỏi “Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?” (1,38). Đến phần cuối quyền Tin Mừng, câu hỏi “Thầy ở đâu ?” lại được lặp lại. Các môn đệ Chúa Giêsu luôn muốn biết “địa chỉ” của Ngài.
- Cả 3 nhân vật trong chuyện này đều “chạy”: Mađalêna chạy tìm Simon-Phêrô, ông này cùng với Gioan “cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn”. Họ “chạy” để làm chi ? Để tìm đến “địa chỉ” Chúa Giêsu. Đây là cuộc hành trình của đức tin.
- Thiên Chúa đã đặt sẵn những dấu chỉ giúp họ tìm, đó là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm còn đó được xếp gọn gàng và những lời tiên báo của Thánh Kinh. Nhưng chỉ một mình “môn đệ kia” đã đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ ấy nên “đã thấy và đã tin”. Gioan đã tìm được “địa chỉ” của Chúa Giêsu. Thực ra, nhiều lần Chúa Giêsu đã ám chỉ đến “địa chỉ” này (“Thầy về cùng Cha Thầy”: xem Ga 7,33-34 8,21 13,33) nhưng các môn đệ v”n chưa hiểu. Hôm nay Gioan đã hiểu: Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa.
B. ... nẩy mầm.
1. Khi mọi sự quanh ta hầu như tối đen và chỉ có một tia sáng hy vọng còn le lói, thì ta làm gì: đứng đó mà than khóc, hay nhanh chân chạy tới nguồn ánh sáng ?
2. Thế giới hôm nay cũng giống như một màn đêm tăm tối: nhiều người không có đức tin, không hy vọng, không yêu thương. Thế nhưng không hẳn tối đen hoàn toàn, v”n còn một vài tia sáng của đức tin, của hy vọng và của yêu thương. Hãy lạc quan nhận ra những tia sáng đó, hãy chỉ cho mọi người thấy những tia sáng đó và hãy khuyến khích mọi người cùng ta chạy tới.
3. Đoạn Tin Mừng này đã được cải biên thành một vỡ tuồng do một nhóm học sinh công giáo trình diễn. Vỡ tuồng như sau:
- Một học sinh chạy tới hỏi một nhóm bạn học sinh khác: “Chúa Giêsu đâu rồi ? Ai đã đem Chúa Giêsu đi đâu rồi ?”. Mọi người ngơ ngác, sau đó ai nấy đều lần lượt trả lời “Tôi không có ! Tôi không biết !”. Rồi cả nhóm cặm cụi tìm kiếm trong và quanh ngôi mộ của Ngài.
- Từ một góc sân khấu, một học sinh lên tiếng: “Đừng tìm ở đó vô ích. Chúa Giêsu đang ở với mẹ tôi ở nhà tôi đấy. Mỗi khi tôi giúp mẹ một tay thì khuôn mặt rạng rỡ của Chúa Giêsu hiện lên trong nụ cười của mẹ”.
- Từ một góc khác, một học sinh khác cũng lên tiếng: “Chúa Giêsu đang ở trong Nhà thờ đấy. Mỗi khi tôi dự lễ, tôi được nghe Ngài nói trong Tin Mừng và được ấp ủ Ngài trong lòng lúc rước lễ”.
- Từ góc thứ ba, học sinh thứ ba tiếp lời: “Chúa Giêsu ở trong lớp học. Mỗi khi tôi giúp chỉ bài cho một bạn chưa hiểu là tôi gặp Ngài”.
- Phía dưới sân khấu, nhiều khán giả dần dần cũng bị cuốn hút, mỗi người chỉ ra địa chỉ của Chúa Giêsu phục sinh mà họ khám phá được.... (Trích báo Our Family, Lent 1997, Canada).
4. Trước vành móng ngựa, bị can đã tự thú tất cả tội lỗi của mình. Cuộc sống đã không cho phép anh dìm mình mãi trong tội lỗi nữa. Ôi, cũng không thể dửng dưng với cuộc sống còn đầy những ganh ghét và đố kỵ của mình. Chẳng lẽ khi cùng đường bí lối tôi mới dám đối diện với sự thật của chính mình, mới chỗi dậy mà về cùng Cha sao ?
Tôi như người ngủ mê cần chỗi dậy để được thấy vinh quang phục sinh của Người.
Lạy Chúa, xin chiếu tỏa vinh quang Chúa trên chúng con. (Epphata)
-----------------------------
Đêm nay như có một cái gì lạ lạ và vô cùng kỳ diệu: Cây nến phục sinh tượng trưng cho Chúa Kitô, Đấng mang ơn cứu độ cho nhân loại, đã vinh thắng, xé tan màn đêm u tối bao trùm. Cây nến phục sinh được trân trọng rước lên cung thánh với ba lần tung hô, khác giọng: Ánh sáng Chúa Kitô. Cây nến là hình ảnh Chúa Kitô phục sinh. Nến phục sinh được cung nghinh lên chỗ xứng đáng nhất, được xông hương và linh mục hoặc phó tế công bố Tin Mừng phục sinh. Cây nến phục sinh là cây nến mẹ, bùng cháy trong đêm, lửa được đốt lên từ nghi thức làm phép lửa đầu lễ. Lửa từ cây nến mẹ được thắp sáng mọi cây nến trong nhà thờ. Hình ảnh này biểu trưng cho Chúa Giêsu phục sinh, Ngài là ánh sáng bùng lên trong đêm đen, d”n đưa nhân loại mới về nước trời.
Chúa Kitô phục sinh là Đấng cứu độ, là Đấng giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài là tình yêu, một tình yêu vô vị lợi, vô cùng cao vời đến nỗi ca vịnh 88 đã cất lên:" Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi". Tình yêu của Đức Kitô phục sinh có một sức mạnh lạ lùng là" Kéo mọi người lên cùng Chúa Giêsu cứu độ ". Tình yêu của Đức Kitô là tình yêu tự hiến, hy sinh, từ bỏ, tất cả cho người mình yêu:" Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống"( Ga 15, 13 ).
Chúa Kitô phục sinh đã phá tan đêm đen u tối, đã phá tan xiềng xích tội lỗi. Tình yêu của Đức Kitô phục sinh là muôn dân thiên hạ, muôn nước trên thế giới. Tình yêu của Chúa Giêsu phục sinh là sự chấp nhận khổ đau để hy sinh hiến mình trên thập giá mà cứu rỗi nhân loại yếu hèn, tội lỗi. Tình yêu của Chúa Kitô phục sinh sẽ không bao giờ vụt tắt vì tình yêu của Ngài vô lượng vô biên. Chúa Kitô phục sinh sẽ chiếu soi mọi người, d”n đưa con người đi trên con đường về quê trời. Tình yêu là ánh sáng của Chúa Kitô phục sinh. Chúa sẽ d”n đưa chúng ta như thánh vịnh 23 đã viết:" Dù bước đi trong thng lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi". Chúa Kitô phục sinh là ánh sáng cứu độ không bao giờ tắt. Ta hãy chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa Kitô phục sinh.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin chiếu soi trần gian còn đang mò m”m bước đi trong đêm đen, u tối, trong phong ba bão táp và mây đen phủ lấp.
-----------------------------
I.Tìm hiểu Lời Chúa
1) Ý chính: Đức Giêsu Nadarét đã chỗi dậy từ trong cõi chết.
Vào sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần, ba phụ nữ thân tín với Đức Giêsu rủ nhau thăm mồ để xức dầu thơm cho Người. Khi đến nơi thì hòn đá lớn chắn ngoài cửa mồ đã được lăn qua một bên, các bà vào mồ và khiếp sợ khi thấy một thanh niên mặc áo trắng đang ngồi đó. Sau khi trấn an các bà, anh ta đã thông báo về sự Phục Sinh của Đức Giêsu rồi trao cho các bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh ấy cho Phêrô và các tông đồ khác, và lệnh truyền của Đức Giêsu là họ phải lập tức đi về Galilê gặp Người. Sau đó, các bà đã chạy khỏi mồ với tâm trạng sợ hãi và không dám nói với bất cứ ai về những điều vừa chứng kiến.
2) Chú thích:
- Vừa hết ngày sa-bát, bà Maria Mácđala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ (Mc 16,1-2).
+ Vừa hết ngày sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, bắt đầu ban đêm của ngày mới là ngày thứ nhất trong tuần.
+ Mácđala: là một thị trấn nằm về phía Tây, ven Biển Hồ Ghennêxarét. Vì có nhiều bà Maria, nên để phân biệt , người ta thêm tên quê cũ Mácđala và gọi bà là Maria Mácđala. Trong Tin Mừng, Maria Mácđala là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi tại nhà người Pharisêu (x. c 7,37-48). Bà là một trong những người đầu tiên đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1; Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Trước đó bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu (x. Mc 15,40). Bà có mặt khi mai táng Đức Giêsu và đã quan tâm tới nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47).
+ Bà Maria Mácđala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê: Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc các bà đi viếng mộ Đức Giêsu. Mátthêu kể tên 2 bà (x. Mt 28,1), Máccô thì kể tên 3 bà, Luca còn thêm bà Gioanna và các bà khác (x. Lc 24,10). Riêng Gioan chỉ thuật lại việc có liên quan đến bà Maria Mácđala. Cả 4 Tin Mừng đều kể tên bà Maria Mácđala, cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Giáo Hội thời sơ khai.
+ Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu: Vì thời gian an táng Đức Giêsu quá ngắn và việc an táng được thực hiện vội vã, nên thiếu sót việc xức dầu thơm ướp xác Đức Giêsu . Do đó, mấy phụ nữ này phải mua dầu thơm để xức trên thi hài của Người theo phong tục Do Thái.
Thắc mắc: Việc an táng Đức Giêsu đã được các tác giả sách Tin Mừng thuật lại thế nào ?
Giải đáp: Vì Đức Giêsu chết vào giờ thứ chín tức 3 giờ chiều ngày thứ sáu áp lễ Vượt Qua trùng với ngày sabát (x. Mc 15,34.37) . Như vậy thời gian dành cho việc mai táng chỉ còn 3 tiếng đồng hồ trước khi bắt đầu ngày sabát . Vì luật Môsê qui định cấm an táng người chết vào ngày sabát (x. Ga 19,31), và phải tháo xác tử tội bị chết treo trên thập giá xuống mai táng trước khi mặt trời lặn (x. Đnl 21,22-23). Vậy, sau khi Đức Giêsu tắt thở , một môn đệ Đức Giêsu tên là Giôxép, đứng ra xin Philatô cho phép mai táng Người. Được quan Tổng trấn chấp thuận, Giôxép cùng với môn đệ Nicôđêmô đã hạ xác Đức Giêsu xuống khỏi thập giá. Ông Nicôđêmô mang theo chừng một trăm cân mộc trộn với trầm hương. Các ông lấy vải tẩm thuốc thơm mà quấn xác Đức Giêsu theo tục lệ an táng của dân Do Thái và mai táng Đức Giêsu trong một ngôi mộ mới chưa chôn cất ai (x. Ga 19,38-41). Đây là ngôi mộ bằng đá của ông Giôxép, được ông đồng ý nhường để an táng Đức Giêsu (X. Mt 27,60).
+ Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay ngày thứ nhất trong tuần được gọi là Chúa Nhật. Sánh tinh sương khi mặt trời mới mọc là khoảng 6 giờ sáng.
- Các bà bảo nhau "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây ?" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm (Mc 16,3-4):
+ Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây ? Ngôi mộ an táng Đức Giêsu là một mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. Đây là mộ của ông Giôxép người thành Arimathê, một người giàu sang và cũng là một môn đệ của Đức Giêsu (x. Mt 27,57-60). Trong khi bình thường lẽ ra Người phải bị chôn trong một ngôi mộ tập thể dành riêng cho các tử tội.
+ Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là vị thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó .
- Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: " Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì ! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này !"
+ Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Ao dài trắng ám chỉ người đó là một thiên thần . Vị này thay mặt Đức Giêsu loan Tin Mừng Chúa đã phục sinh, và còn trao sứ mệnh cho các bà phải đi loan báo tin ấy cho Phêrô và các môn đệ khác.
+ Các bà hoảng sợ: Hoảng sợ vì tưởng người mặc áo trắng là ma hiện hình.
+ Đức Giêsu Nadarét bị đóng đinh: Đức Giêsu quê tại làng Nadarét nên Người được gọi là Giêsu Nadarét. Đấng phục sinh đánh bại thần chết cũng chính là Đấng đã từng bị đóng đinh và chịu chết treo trên thập giá !
+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giêsu đã sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại rồi.
+ Chỗ đã đặt Người đây này !: Thiên Thần khẳng định ngôi mộ chôn xác Đức Giêsu bây giờ đã trống rỗng, vì Người đã sống lại rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian thời gian như một phàm nhân nữa.
- Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng: "Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông". Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá (Mc 16,7-8):
+ Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giêsu ngay từ sáng sớm, các bà này đã mua dầu thơm để xức cho Đức Giêsu. Nhưng Người đã sống lại, nên thiên thần đề nghị các bà đi báo tin vui cho các tông đồ rằng Người đã sống lại. Trong câu này, Phêrô được thiên thần nêu rõ tên, để tỏ lòng tôn trọng ông là đầu nhóm 12 tông đồ.
+ Người sẽ đến Galilê trước các ông: Đức Giêsu trước đó đã nói tiên tri: "Sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em" (Mc 14,28). Giờ đây Đức Giêsu thực hiện lời Người đã báo trước. Galilê là miền đất truyền giáo, vì tại đây có rất đông dân ngoại sống l”n lộn với dân Do Thái.
+ Các bà chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía: Các bà run sợ vì đã gặp một vị thiên thần của Thiên Chúa.
+ Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá: Máccô muốn đề cao vai trò của các tông đồ trong sứ mệnh loan Tin Mừng. Riêng về phần các bà, do tính khí khác thường, không làm chủ được sự sợ hãi và dễ bị hoang mang dao động...nên không chu toàn sứ mệnh được trao. Vì thế, ngày nay Giáo Hội luôn theo truyền thống từ thời các tông đồ, là không truyền chức linh mục cho chị em phụ nữ. Công việc phù hợp với bản năng người phụ nữ là phục vụ hậu cần, và dâng của cải để tích cực cộng tác vào công cuộc truyền giáo của Hội Thánh.
Thắc mắc 1: So sánh thân xác của Đức Giêsu sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào ? Thân xác của các người được Đức Giêsu làm phép lạ cho hồi sinh như: ông Ladarô, con trai bà góa thành Nain hay con gái ông Giaia có giống với thân xác loài người sẽ sống lại vào ngày tận thế không?
Giải đáp:
+ Đức Giêsu sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giêsu đã chịu tử nạn vào chiều thứ sáu tuần thánh, như Người đã chứng minh bằng việc cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho Tôma nhìn xem dấu đinh ở bàn tay, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Người (x. Ga 20,25. 27-29). Người cũng chứng minh mình là người có xương thịt, khi nói với các môn đệ: "Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ? Nhìn chân tay Thầy coi, Chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây ? Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông v”n chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: Ở đây anh em có gì ăn không ? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông" (Lc 24,38-43).
+ Nhưng thân xác của Chúa Giêsu Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Maria Mácđala gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Emmau cùng đi và nói chuyện với Đức Giêsu suốt quảng đường dài 60 chặng (khoảng 30 cây số), mà không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa đóng kín để vào trong nhà hiện ra với tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc hiện ra lúc lại đột nhiên biến mất (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh hiện diện ở khắp nơi . Chẳng hạn: dù không có mặt nhưng Người v”n nghe được yêu cầu của Tôma và sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi ấy (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giêsu Phục Sinh đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng không thể xác định được Người đang ở nơi nào trên trời (x. Lc 24,51; Pl 2,9-11).
+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giêsu làm phép lạ hồi sinh như: Ong Ladarô chết và được chôn 4 ngày trong mồ (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Nain chết và đang mang đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Giaia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giêsu cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại tiếp tục bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giêsu Phục Sinh. Nghĩa là thân xác người lành sẽ sống lại, giống như trải qua một bước nhẩy vọt để bước vào cuộc sống mới vô cùng cao quí. Đó là thân xác của sự vinh quang, không có thể bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
Thắc mắc 2: "Phép Rửa Mới trong cái chết" mà Đức Giêsu loan báo với các môn đệ trước khi người chịu khổ nạn là phép gì ? Tại sao lại gọi là phép Rửa ? Ai lập Phép Rửa Tội và người chịu phép Rửa Tội sẽ nhận được ơn gì ? Người chịu phép Rửa Tội có bổn phận ăn ở thế nào ? Trong Thánh Lễ Vọng Phục Sinh, các lễ nghi liên quan đến phép Rửa Tội là những nghi lễ gì và có ý nghĩa thế nào ?
Giải đáp:
+ Phép Rửa được Đức Giêsu lãnh nhận nơi Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan là hình bóng của Phép Rửa Mới "trong cái chết" mà người sẽ phải trải qua, để ban Ơn Cứu Độ cho loài người. Phép Rửa Mới này chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người, như Người đã nói: "Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !" (Lc 12,50).
+ Khi chịu phép Rửa của Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã được dìm toàn thân trong dòng nước sông, sau đó được trồi lên khỏi nước, và được Thánh Thần lấy hình chim câu đậu xuống trên Người, để xức dầu thiêng liêng tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai. Rồi có tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống công nhận Người là "Con rất yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha" (x. Mt 3,16-17). Cũng thế, trong cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu đã được môn đệ an táng trong mồ và đến ngày thứ ba sống lại. Rồi Người hiện ra thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ và trao sứ mệnh đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (X. Mt 28,19), "làm chứng cho Người tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (x. Cv 1,8).
+ Phép Rửa Tội do Đức Giêsu thiết lập, là sự tái sinh bởi Nước và Thánh Thần (x. Ga 3,5), làm cho người tín hữu trở nên con Thiên Chúa (x. 1 Ga 3,1-2). Chính khi được dìm trong dòng nước (tượng trưng sự chết), và được trồi lên mặt nước (tượng trưng sự sống lại), thì các tín hữu sẽ được đầy ơn Thánh Thần để trở nên con Thiên Chúa và anh em của mọi người (x. Gl 3,27). Họ có bổn phận phải kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu trong mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh: "Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được cùng sống với Người... Anh em hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu" (x. Rm 6,8.11).
+ Trong Lễ Đêm Vọng Phục Sinh, cùng với các dự tòng, các tín hữu cũng lặp lại lời hứa khi chịu phép Rửa Tội là: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ ma quỉ và từ bỏ hết những sự dữ thuộc về ma quỉ, rồi phải tuyên xưng đức Tin vào Chúa Ba Ngôi, vào Đức Kitô và Hội Thánh (x. Ga 3,3-8; Mt 28,19-20; Mc 16,16). Trong Bí Tích Rửa Tội, người dự tòng được dìm mình trong giếng nước Rửa Tội (x. Cv 8,38) hay được đổ nước trên đầu (x.Điđakhê 7,3), tượng trưng cho sự chết và an táng của Đức Giêsu. Nhờ đó, họ sẽ được tha tội Tổ Tông Truyền, và mọi tội riêng đã phạm nhờ công nghiệp Đức Giêsu (x. Rm 6,6). Sau đó họ được đưa ra khỏi nước, tượng trưng sự sống lại (x. Rm 6,11), họ được gia nhập vào Hội Thánh, qua việc mặc tấm áo trắng tinh, được lãnh ơn Thánh Thần qua cử chỉ đặt tay (x. Cv 8,17; 19,6), được xức dầu (Chrisma) để trở thành Kitô hữu, tay cầm cây nến được nhận ánh sáng từ nến Phục Sinh, tượng trưng Đức Kitô sống lại (x. Mt 25,1; Lc 12,35). Họ được rước lên gần gian cung thánh để tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau cùng họ được cầu chúc ra đi bình an và đầy niềm vui phục sinh để nên chứng nhân cho Đức Giêsu trước mặt người đời và d”n đưa họ trở về làm con cái Thiên Chúa.
II. Học sống Lời Chúa
1)Đức Giêsu đã sống lại, không còn ở đây nữa (Mc 16,6):
- Câu chuyện: Con cánh quýt.
Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (HollyWood) tên Sơ-siu đơ Mi-ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bổng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tung tăng đùa giỡn với nhau trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn bò lên mạn thuyền cạnh ghế ông ngồi, và nằm im như chết. Đơ Mi-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Mi-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy nó như đã bị chết khô. Rồi bổng chốc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiết đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng từ từ lộ ra . Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn kia. Đơ Mi-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.
- Suy niệm:
+ Ai trong chúng ta cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt , với sự phục sinh của Đức Giêsu: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giêsu cũng bị chết treo trên cây thập giá . Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giêsu cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết đến tình trạng sống lại sau chưa đầy 3 ngày. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giêsu cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra sau khi Người sống lại và hiện ra tiếp xúc nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giêsu sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó...
+ "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại": Đây là lời tuyên xưng đức tin của các tín hữu trong kinh tin kính. Vào ngày tận thế, thân xác chúng ta sẽ trở nên giống như thân xác Đức Giêsu phục sinh, nghĩa là có tính siêu việt và thiêng liêng. Trời Mới Đất Mới sẽ xuất hiện khi Đức Giêsu, Vua Mêsia xuất hiện để phán xét chung nhân loại vào ngày tận thế. Ngày ấy mọi người đều được Thiên Chúa cho sống lại. Nhưng những ai tin và sống đức tin qua hành động yêu thương phục vụ người đói khát, ở trần, đau yếu, ở tù... thì sẽ được Vua Giêsu Thẩm Phán xét xử khoan dung và ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời. Còn những kẻ cố chấp trong sự bất tín của mình , ăn ở thất nhân ác đức và cam tâm làm tay sai cho ma quỉ , thể hiện qua thái độ ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, không sẵn lòng giúp đỡ và phục vụ tha nhân...thì sẽ bị phạt phải vào trong hỏa ngục đời đời, nơi dành riêng cho ma quỉ và những kẻ đi theo chúng. Do đó, sự thưởng phạt sau này có liên quan mật thiết với cuộc sống hiện tại ta đang sống. Vậy trong Mùa Phục Sinh, mỗi người chúng ta quyết tâm làm gì để được liệt vào hàng ngũ các con chiên ngoan và xứng đáng được nghe lời Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời ?
2- Anh em hãy ăn ở như con cái Ánh sáng (Ep 5,8):
- Câu chuyện:
Một hôm, một lái buôn An Độ ngồi ăn chung với vị linh mục thừa sai, tự nhiên ông ta nhìn vào mặt vị này và lên tiếng hỏi như sau: "Tôi cứ thắc mắc không hiểu ngài đã thoa chất gì lên mặt, mà lúc nào tôi cũng thấy mặt Ngài rạng rỡ vui tươi ?". Vị linh mục lấy làm ngạc nhiên trả lời rằng: "Tôi chẳng thoa chất gì lên mặt cả !" Nhưng ông lái buôn An Độ lại khẳng định thêm khi nói: 'Chắc là có. Tôi chắc chắn là có mà ! Tôi thấy hầu hết những người tin Chúa Giêsu đều có vẻ mặt tươi sáng rạng rỡ như ông vậy. Tôi đã trông thấy họ ở nhiều thành phố như Agra, Surát và ngay cả tại thành phố Bombay này nữa !" Bất chợt vị linh mục đã hiểu ra và đã trả lời ông lái buôn kia như sau: "Bây giờ thì tôi đã hiểu ông muốn nói gì rồi. Đó là sự rạng rỡ tươi vui trên mặt của chúng tôi. Thực ra sự tươi vui rạng rỡ này không phải do thoa chất gì lên mặt, nhưng nó phát ra từ trong tâm hồn. Đó chính là sự phản chiếu ánh sáng tin yêu trong lòng người tín hữu chúng tôi".
- Câu hỏi thảo luận: Bí tích Rửa tội do Đức Giêsu lập gồm hai yếu tố: Bên ngoài là sự tẩy rửa bằng sự dìm mình trong dòng nước sông, và bên trong được tái sinh nên con Thiên Chúa bởi ơn Thánh Thần. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, là người đã chịu phép Rửa Tội, nhưng chúng ta đã được tái sinh thực sự, trở nên con yêu dấu của Thiên Chúa chưa ? chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời ?
Đáp: Một người chỉ thực sự được tái sinh làm con Thiên Chúa bởi quyền năng Thánh Thần, khi biểu lộ ra ngoài bằng những hành động sau đây:
+ Đối với Thiên Chúa: Họ luôn chu toàn bổn phận hiếu thảo qua việc siêng năng cầu nguyện kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và lãnh nhận các phép Bí Tích để nhận được ơn thánh hóa; Luôn lắng nghe lời Chúa, suy niệm và xin vâng ý Chúa; Tuân giữ 10 giới răn của Chúa và 6 điều luật Hội Thánh; Thực hành các nhân đức để làm đẹp lòng Thiên Chúa.
+ Đối với tha nhân: Sống hiền hòa khiêm tốn noi gương Đức Giêsu; Sống vị tha bác ái và dấn thân phục vụ để nên giống Người. Trong Mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta cần khám phá ra tật xấu nghiêm trọng nhất nơi mình để chừa cải. Ngoài ra , mỗi người chúng ta quyết tâm sẽ làm một việc tốt như: Thăm một bệnh nhân liệt giường và giúp họ có thêm phương tiện chữa bệnh theo khả năng của mình, chia sẻ cơm bánh cho một người đang bị đói khát ; An ủi động viên một người đang gặp đau khổ về thể xác cũng như tinh thần...
III. Hiệp sống nguyện cầu
1) Lạy Chúa Giêsu, Nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Trong những lúc ấy, con cảm thấy như bị húa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong ! Nhưng lạy Chúa, con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội hèn nhát chạy trốn và chối không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nh”n, bị dân chúng đòi kết án tử hình thập gía, bị kẻ thù xỉ vã mắng nhiếc khi bị treo trên cây thập tự, cảm thấy bị Chúa Cha bỏ rơi... Trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa đã không nản lòng thất vọng, nhưng v”n một lòng tin tưởng và luôn phó thác cậy trông .Và quả thật, nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy từ trong mồ và được Chúa Cha tôn vinh, đã mang lại ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin cho chúng con sẵn sàng chịu đựng đau khổ như thánh giá Chúa gửi đến. Nhờ đó, một khi cùng chết với Chúa thì hy vọng chúng con sẽ cùng được sống lại với Chúa sau này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Khi sa ngã phạm tội, khi mắc phải những thói hư tật xấu như kêu căng tự mãn, ích kỷ hại nhân, mê đắm xác thịt , gây gỗ khó ưa, ăn nhậu say sỉn, giận hờn ganh ghét, lười biếng việc đạo, chơi bời nghiện hút... là chúng con đang bị chết về phần tinh thần, đang ở dưới quyền lực của ma quỉ và sự gian ác tối tăm. Xin Mẹ giúp chúng con sớm ăn năn sám hối, quyết tâm chừa cải các thói hư tật xấu, bằng việc khiêm nhường xưng thú tội lỗi của chúng con nơi tòa giải tội, quyết tâm xa lánh dịp tội và làm việc đền tội cân xứng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được sống lại trong ơn nghĩa Chúa và sau này được hưởng hạnh phúc với Chúa trên Thiên Đàng.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
-----------------------------
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh. Đây là một sự kiện xác thực đã được lịch sử minh chứng tường tận, không ai có thể chối cãi được. Qua bài sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Sử Luca đã quả quyết: "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những việc Chúa Kitô đã thực hiện trong nước Do Thái và tại Jerusalem, Người là Đấng người ta đã giết chết khi treo Người trên Thập Giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và đã hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là những nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại".
Cũng chính trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Sử Gioan đã tường thuật sự kiện lịch sử này: Phêrô và Gioan, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến, sau khi nghe Maria Madalena cho biết: "Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Thế là hai vị chạy ra mồ, cúi xuống xem và đi vào trong mồ, không còn thấy xác Chúa mà chỉ còn thấy khăn liệm xác, bấy giờ các ông mới tin, bởi lẽ các ông chưa hiểu rằng, theo Thánh Kinh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. Nếu chúng ta đọc tiếp đoạn Tin Mừng này, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện ra với Thánh Nữ Madalena khi hai Tông Đồ trở về nhà, lúc bà còn ngồi lại bên mồ mà khóc. Chính Thánh Sử Gioan còn thuật lại ba lần Chúa hiện ra với các Tông Đồ. Lần thứ nhất, chiều tối lúc các Tông Đồ đang hội họp trong một nơi, cửa v”n đóng kín vì sợ người Do Thái, Chúa hiện đến đứng giữa các ông và phán: "Bình an cho các con!" Lần hai, vì Tôma lúc đó vắng mặt, được các Tông Đồ thuật lại, nhưng ông không tin. Tám hôm sau, các Tông Đồ cũng đang hội họp trong phòng đóng kín khi có mặt Tôma, Chúa hiện đến và phán với các ông: "Bình an cho các con!" Rồi Người bảo Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, xem có phải tay Thầy không, lại cũng thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nữa, hãy vững tin!" Bấy giờ Tôma sung sướng kêu lên: "Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi!" Chúa Giêsu đáp: "Hỡi Tôma! Vì con trông thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai chẳng xem thấy mà cũng tin!" Tin Mừng còn thuật lại lần thứ ba Chúa hiện ra với các môn đệ trên bờ biển Tiberia, rồi sách Tông Đồ Công Vụ còn thuật lại việc Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường đi về làng Emau, cùng ăn uống và đàm đạo dạy dỗ các ông nhiều điều. Như thế, mọi lời tiên tri từ ngàn xưa đã nói về Người đều đã được ứng nghiệm.
I. Xác tín ơn Phục Sinh vinh hiển
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta được diễm phúc hơn cả các Thánh Tông Đồ, như lời Chúa đã phán với Thánh Tôma: "Vì con thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai chẳng xem thấy mà vốn vững niềm tin". Bởi vì: "Tất cả những ai đặt niềm tin vào Chúa Kitô, thì nhờ danh Người mà được ơn tha tội, được cứu độ và đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời".
Nhờ Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh làm bảo đảm vững chắc, chúng ta xác tín rằng: Chúng ta cũng sẽ được phục sinh vinh hiển với Chúa Kitô. Khi đó, chúng ta như một tạo vật mới, được nên giống như Chúa, để cũng được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu và đồng hiển trị với Chúa trong Vương Quốc vinh quang bất diệt của Người.
Để hiểu được phần nào mầu nhiệm Phục Sinh chúng ta sẽ được, khi chúng ta trở nên một tạo vật mới của Chúa; chúng ta lấy một ví dụ trong thiên nhiên: Khi con tằm đã đủ ngày đầy tháng, người ta đặt nó bám trên tấm phên tre kết thêm những cọng rơm, phơi dưới ánh nắng trong ngày đẹp trời. Con tằm nhả tơ trong bụng và từ từ kết thành một tổ kén bằng tơ lụa vàng óng ánh tuyệt đẹp dưới ánh nắng. Khi xong nhiệm vụ, con tằm rút mình nằm trong tổ kén một thời gian, khi đó được gọi là con nhộng. Sau chu kỳ, con nhộng biến thái thành con nhài có cánh bay được, mà người ta gọi là con bướm, con nhài hay con bướm cắn tổ bay ra sinh trứng và nở thành những con tằm con... Cũng vậy, khi thân xác chúng ta được phục sinh, chúng ta cũng trở thành một tạo vật mới tương tự. Còn hơn nữa, thân xác chúng ta được nên giống thân xác vinh hiển của Chúa Kitô, nó có thể thấu nhập tựa ánh sáng chiếu qua thủy tinh, như chính Chúa Kitô đã thấu nhập và hiện ra với các Tông Đồ trong phòng v”n đóng kín.
II. Từ cõi chết tới nguồn sống
Chúa Kitô đã vượt qua từ cõi chết tới nguồn sống, nghĩa là để được phục sinh vinh hiển, Ngài đã phải lãnh nhận mọi khổ thống trong cuộc khổ nạn và cái chết ô nhục, như một lễ hy sinh hiến tế dâng lên Chúa Cha, đền tạ phép công bình Thiên Chúa bị xúc phạm và trở nên Giá Ơn Cứu Độ cho nhân loại.
Để được xứng đáng hưởng Ơn Phục Sinh như Chúa, được lãnh Ơn Cứu Độ và đồng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa; chúng ta cũng phải sẵn sàng lãnh nhận mọi đau thương thử thách, phải chiến đấu can trường, cho tới lúc đạt được chiến thắng trong vinh quang, để được cùng với Chúa khải hoàn tiến về quê hương hạnh phúc, nơi mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được, hạnh phúc Chúa đã dành cho con cái trung thành của Chúa.
Như hạt lúa miến, cần phải chịu chôn vùi và chịu mục nát dưới lòng đất, mới có thể vươn lên thành cây xanh tươi đầy sức sống, trổ sinh bông hạt.
Như Chúa Cứu Thế, phải chịu muôn vàn đau thương, chịu chết ô nhục trên Thập Giá, mới nên Giá Cứu Chuộc chúng ta. Chúng ta cũng phải cùng với Chúa vượt qua: "Từ thập giá tới vinh quang", từ cõi chết tới nguồn sống. Vì theo lời Thánh Phanxicô: "Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".
III. Một tấm gương anh dũng
Đây một tấm gương anh dũng: Ngày 22.9.1922, một nhóm 52 người Công Giáo đã chịu tử đạo tại Nhật Bản. Trong đoàn các Vị Tu”n Giáo anh dũng đó, có một bà mẹ với cậu bé trai mới lên 4 tuổi tên là Ignatiô. Một năm trước đó, Cha Spinola đã ban Phép Thánh Tẩy cho em; lúc này chính Cha cũng đang chờ án chết. Ngài muốn gởi đến đoàn Anh Hùng đang chờ án tử hình những lời nhắn nhủ sau cùng của Vị Chủ Chăn. Thấy bà mẹ mà không thấy đứa con, Cha hỏi em bé ở đâu. Tức khắc, bà mẹ bồng con dơ lên cao cho Vị Chủ Chăn trông thấy. Bà nói:
- Thưa cha, cháu đây. Cháu sắp chết với con và cháu hạnh phúc lắm rồi.
Rồi bà nói với con: "Con ơi, hãy nhìn xem vị Linh Mục đã biến con thành con Thiên Chúa, con hãy xin ngài ban phép lành cho con".
Bé Ignatiô với bộ đồ mới tinh trắng toát, đôi tay chắp lại, dáng vẻ sốt mến như Thiên Thần, cúi đầu lãnh phép lành. Mọi người hiện diện nơi pháp trường thấy thế òa lên khóc. Nhiều chiếc đầu bị chém lăn lóc dưới chân em bé, kể cả chiếc đầu của mẹ em. Em v”n không tỏ vẻ khiếp đản, trái lại còn tỏ ra rất anh dũng. Em quì xuống giữa vũng máu đào và nghiêng đầu, giơ cổ cho tên đao phủ chém.
Kết Luận
Lạy Chúa, xin thêm Đức Tin cho chúng con, để nhờ đó cuộc sống chúng con được biến đổi, bản thân chúng con được siêu thăng và trở nên một tạo vật mới. Chớ gì Đức Tin của chúng con đáng được Chúa chúc phúc, vì chúng con không chỉ dựa vào điều mắt thấy tai nghe, nhưng là do niềm xác tín vào Lời Chúa mạc khải, bằng tất cả lòng yêu mến Chúa thiết tha, xứng với nghĩa vụ chúng con là con cái ngoan thảo của Chúa.
Trích Dongcong.net
Lm. Minh Vận, CMC
-----------------------------
Trong tác phẩm "Lời Kinh Của Ếch" cha Melo tưởng tượng ra câu chuyện như sau:
Một người đàn bà nọ rất đạo đức, sáng nào cũng đến nhà thờ thật sớm để cầu nguyện và chịu lễ. Trên đường bà gặp rất nhiều người qua lại, kẻ giàu người nghèo đều có, và ngay cả những người hành khất bên đường xin bố thí. Nhưng vì mải mê trong lời cầu nguyện, bà đi một mạch đến nhà thờ. Ngày nọ, không rõ vì lý do gì, khi đến nhà thờ bà thấy cửa đóng kín, bà cố gắng gõ nhưng cửa v”n đóng chặt. Trong nỗi thất vọng chờ đợi, bà ngước nhìn lên cao và bỗng thấy có một biểu ngữ lớn với hàng chữ: "Ta đang ở ngoài kia". Tỉnh giấc, bà mới hay đây chỉ là một giấc mơ chiêm bao, nhưng bà hết sức lo sợ và có những suy nghi thật miên man...
Câu chuyện trên đây phần nào đã gợi lên cho chúng ta một ý nghĩ: Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở đâu? Ngài đang ở đây trong chúng ta, ở ngoài kia trong những người nghèo khổ mà đôi khi chúng ta không biết. Như Maria Mađalêna, nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu, người Thầy đáng kính của mình, mà bà đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ lúc trời mờ sáng để trở thành người nữ đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ: "Người ta đã cất Chúa khỏi mồ, mà chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu".
Động lực nào đã thúc đẩy Maria Mađalêna đưa Tin Mừng Chúa sống lại cho anh em. Bà đã thấy gì mà bà đã tin? Bà thấy ngôi mộ trống và với niềm tin chưa dứt khoát vì nghĩ rằng ai đã đem xác Thầy đi, nhưng nhờ Phêrô và Gioan, niềm tin vào sự phục sinh càng xác tín hơn. Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan, người được Thầy yêu dấu đã đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh Kinh ghi nhận phản ứng của Gioan: "Ông đã thấy và ông tin" (Gio 20:8). Qua hình ảnh của Maria Mađalêna và hai môn đệ cho chúng ta thấy rằng: lòng mến càng vững mạnh thì lòng tin càng gia tăng. Gioan đã thấy gì? Phải chăng ông tin vào sự tiên báo Phục Sinh của Đức Giêsu đã thành sự thật? Điều mà Gioan đã xác tín ngay khi bước chân vào mộ chính là Đức Giêsu đã phục sinh. Chắc chắn niềm tin này không dừng nơi ngôi mộ trống để rồi buồn phiền tự hỏi "Ngài ở đâu?" Nhờ tình yêu chân thành đối với Thầy mình mà Gioan đã mạnh dạn loan báo chính Ngài đã sống lại. Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, mang niềm vui và hy vọng chiến thắng trên mọi đau khổ, chết chóc và thất vọng của con người bởi vì tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt đá của khổ đau, u sầu và tuyệt vọng, nhưng Đấng đã toàn thắng khải hoàn trong vinh quang.
Ước gì Lời Chúa hôm nay tác động trong chúng ta một tình yêu mãnh liệt để chúng ta vững tin vào mầu nhiệm Phục Sinh. Như thánh Phaolô đã nói: "Nếu Đức Giêsu không sống lại, thì niềm tin của chúng ta chỉ là hão huyền". Tất cả cuộc sống của chúng ta đều xây dựng trên niềm tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu. Tất cả những nỗ lực xây dựng công bằng bác ái của chúng ta chỉ có ý nghĩa bởi vì chúng ta tin vào sự sống lại.
Nguyện cho niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu luôn là động lực giúp chúng ta tin tưởng tiến bước trong cuộc lữ hành trần gian này, để rồi chúng ta mang tình yêu nơi Chúa Giêsu Phục Sinh đến cho tha nhân. Chính trong đêm vọng Phục Sinh, từ ánh sáng Chúa Phục Sinh, sẽ được lan toả cho mọi người ánh sáng Niềm Tin. Ánh sáng đó sẽ khơi dậy niềm tin vào sự sống mai hậu và xua tan mọi bóng đêm của hận thù, chia rẽ và chiến tranh trên thế giới ngày nay.
NS. Trái Tim Đức Mẹ
Sr. Maryann Bích-Đàm, MTGQN
-----------------------------
Ngày đầu tuần, Maria Madalena đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đã để xác Thầy ơn đâu". Simon và môn đệ kia đi ra đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ, và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để l”n với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Thánh Kinh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. Đó là lời Chúa.
Anh chị em thân mến,
Hàng năm chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng đại lễ Phục sinh, mừng biến cố Chúa Kittô sống lại để phục hồi chúng ta trong ơn nghĩa tử. Đây là dịp tốt để chúng ta suy tư về sự phục sinh của mình. Mỗi người chúng ta có hai biến cố phục sinh: Phục sinh với Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy và phục sinh viên mãn trong ngày chúng ta cùng sống lại trong vinh quang.
1. Phục sinh trong Bí Tích Rừa tội.
Thực vậy, khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta được phục hồi ơn làm con Thiên Chúa, được quyền hưởng gia nghiệp nước trời, được sống lại trong ơn nghĩa Chúa. Ơn Phục sinh này là cửa ngõ đón nhận chúng ta vào nhà Giáo hội, được biến đổi từ con người không có ơn nghĩa Chúa, đến tình trạng làm con, được gọi Chúa là Cha và được toàn thể các thánh trên trời và mọi phần tử Giáo hội trần gian là anh chị em. Cũng qua Bí tích này chúng ta được hiệp nhập với mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, được thừa hưởng kho tàng ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội, được có khả năng làm việc lành đáng thưởng công và có một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần (Glcg.1262). Chúng ta có thường xuyên cảm tạ Chúa vì ơn trọng này không?
2. Phục sinh trong Bí Tích hòa giải:
Lại nữa, qua Bí tích Hòa giải, chúng ta được ơn trở về mỗi khi chúng ta dại dột phạm tội mất lòng Chúa. Nhờ Bí Tích này, chúng ta không những được làm hòa với Thiên Chúa, mà lại còn được thêm ơn thánh để bền lòng chiến đấu với những cơn thử thách mới. Như thế mỗi lần lãnh nhận Bí tích Hòa giải lại là một lần chúng ta cử hành lễ Phục sinh, tái diễn việc sống lại từ cõi chết tinh thần.
3. Phục sinh trong ngày tận thế.
Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng vững vàng "xác loài người sống lại để hưởng vui sự sống đời sau". Điều này chứng tỏ chúng ta đang mong đợi một cuộc sống mới vĩnh cửu, mà Thiên Chúa vĩnh viễn ban lại cho chúng ta sự phục sinh bất diệt của thân xác, một cuộc sống lại kỳ diệu giống như cuộc sống lại với thân xác vinh quang của Đức Kitô, một thân xác linh thánh vượt trên cả vật chất.
Lễ Phục sinh thật là một cơ hội quí báu và thích hợp để chúng ta hướng về gia đình thiên quốc, hướng về sự sống vĩnh cửu quê trời. Khi nhắc lại cho mình tới nơi hạnh phúc ấy, chúng ta nhắc lại trách nhiệm của mình là làm sao sống xứng đáng với nghĩa vụ làm con dân nước trời ? Phải sống theo lời mời gọi "trọn hảo hơn" của tin mừng. Không chỉ làm lợi cho cuộc đời trần thế, mà phải dành dụm cho sự sống ngày sau "Hãy lợi dụng của đời này mà mua lấy nước thiên đàng". Chúng ta hãy kiểm xem trong gia đình ai là người khao khát tìm kiếm sự sống lại? Ai là người biết đặt nước Thiên Chúa trên tất cả những lo lắng trần thế?
Xin Mẹ Maria, Mẹ Chúa Phục sinh chúc lành cho gia đình anh chị em và ban cho chúng ta ơn biết lợi dụng mùa thánh thiện này để nhớ đến ơn cứu sống Chúa Phục sinh dành cho chúng ta.
Trích dongcong.net
Lm. Thu Băng, CMC
-----------------------------
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”. Thôi thì hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ, oan kiên và tất tưởi của cuộc sống. Quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ, phản kháng, và bản án bất công đã đưa Ngài đến cái chết. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ conỮ (Mt 27:46). Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Hãy ngủ yên.
Câu chuyện tưởng đã yên, nhưng mới sáng ngày thứ nhất trong tuần đã bị khua động trở lại. Ngài đã không ngủ yên. Ngài đã chỗi dậy và ra khỏi mồ. Maria Mađalêna và một số phụ nữ đã phát hiện ra rằng ngôi mộ đã trở thành trống rỗng, và thân xác Giêsu đã không còn trong đó nữa. Thế là một lần nữa, những thiếu phụ này lại bị xúc động và sợ hãi: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Ngài ở đâuỮ (Gio 20:2). Điều này cũng làm cho các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, càng thêm hoang mang sợ hãi hơn. Phêrô và Gioan cũng đã bị lôi cuốn, và muốn tìm ra sự thật.
Những nhân chứng ấy không ai khác là Maria Mađalêna và một số phụ nữ, Phêrô và Gioan, những người mà liên hệ mật thiết với Đức Kitô đã được nói đến nhiều trong Tin Mừng (x Gio 20:1-10).
Thời gian là buổi sáng phục sinh, khi mà người, vật còn đang ngái ngủ. Khi ánh bình minh vừa ló rạng. Vào thời điểm ấy, ta mường tượng các phụ nữ kia đang âm thầm và lặng lẽ bước đi trong sương mai, và những con gió thoảng buổi sáng đang làm họ se lạnh. Những cơn gió mát, nhẹ nhàng và thoang thoảng.
Không gian là ngôi mộ trống bên triền đồi Golgotha. Nơi mà buổi chiều thứ Sáu thảm sầu, một tử thi đã được chôn cất vội vàng.
Và Chúa Giêsu đã sống lại. Biến cố này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin này, và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin này. Nhưng đối với những người như chúng ta, những chứng từ ấy phải chăng v”n còn là một nghi vấn! Và những chứng từ ấy có nghĩa gì trong cuộc sống đạo của mỗi Kitô hữu?
Có cần phải tình cảm và xúc động như Maria Mađalêna và những phụ nữ đã có mặt trong buổi sáng phục sinh không: “Thưa ông, nếu ông mang Ngài đi đâu, xin làm ơn chỉ cho tôi chỗ ông đã đặt Ngài để nhận Ngài lạiỮ (Gio 20:15).
Cuộc sống đạo, cuộc sống tâm linh đôi lúc cũng cần được nuôi dưỡng bởi những động lực và thôi thúc tình cảm như thế. Có lúc chúng ta cần phải xúc động khi tham dự những nghi lễ sốt sắng. Cũng có lúc chúng ta cần phải để lòng mình lắng đọng khi gối quì một mình trong thinh lặng tại một góc của giáo đường. Và cũng có lúc chúng ta phải để cho lòng mình thổn thức một niềm cảm xúc trước những vẻ đẹp và sự cuốn hút của Thiên Chúa qua những người, những vật, mà chúng ta đụng chạm tới.
Có cần phải hăm hở và nhiệt tình như Phêrô, như Gioan đã nhanh chân chạy ra mộ để tìm ra những dấu hiệu của cuộc phục sinh không: “Phêrô và môn đệ kia bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Ông không vào trong nhưng cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đấtỮ (Gio 20:3-5).
Đời nội tâm nếu chỉ dựa vào những rung động của tình cảm sẽ dễ trở thành mê tín, dị đoan, nhìn Chúa Giêsu mà lại tưởng là người làm vườn. Hoặc ngược lại, nhìn người làm vườn mà lại cho là Chúa Giêsu, như trường hợp của Maria Mađalêna. Niềm tin, ngoài những yếu tố tình cảm cũng đòi hỏi những dấu hiệu khả tín và dựa vào những lý luận hợp lý. Có lẽ vì phản ứng tự nhiên ấy mà cả Phêrô l”n Gioan đã hăm hở chạy ra mộ.
Nhưng có lẽ ít ai để ý và dành cho ngôi mộ trống kia một chỗ xứng hợp trong biến cố phục sinh. Phải chi ngôi mộ ấy đã bị phá hủy ngay đêm thứ Sáu do lính của La Mã thì mọi chuyện đã đổi chiều. Hoặc phải chăng đám lính canh của các Thượng Tế gửi tới v”n còn đang thức khi nhóm phụ nữ đến mộ thì sự việc cũng lại khác hẳn. Nhưng ngôi mộ mà xác thân của Giêsu đã được mai táng, và từ ngôi mộ ấy, Chúa đã sống lại v”n còn đó, trống vắng, và lạnh lùng. Người ta chỉ tìm được những giây băng, vải cuốn, và khăn liện. Chính vì vậy nên nó đã trở thành một dấu chỉ đầy ý nghĩa của biến cố phục sinh.
Ngôi mộ trống cho ta một ý niệm về thái độ dứt khoát với quá khứ. Đức Kitô đã để lại tất cả những gì thuộc về thế giới kẻ chết như khăn liệm và băng quấn lại cho thế giới của sự chết. Ngài đã ra khỏi mộ và không trở lại. Thân xác Ngài giờ đây là thân xác thần linh, thân xác có thể vào nhà nơi các môn đệ Ngài trong lúc v”n cửa đóng, then cài. Và đó là ý nghĩa của sống lại, của phục sinh.
Ngôi mộ trống còn là một dấu chỉ để con người suy về quá khứ. Một quá khứ với những đa mê và dục vọng. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta sẽ không ngoái nhìn lại quá khứ và không nên tiếc nuối những gì mình đã bỏ lại. Nếu Thiên Chúa có nhìn đến ta lúc này, thì Ngài sẽ nhìn thấy một tinh thần vượt thoát từ mồ sâu tội lỗi. Và nếu con người có nhìn đến ta, thì họ sẽ chỉ thấy một chiếc khăn liệm gói trọn quá khứ, và hiện tại là sự đổi mới hoàn toàn.
Không luyến tiếc, không ngoảnh mặt lại với quá khứ, nhất là quá khứ từng làm cho con người hư hỏng và sa lầy trong vòng tội lụy, là thái độ mà Chúa Giêsu Phục Sinh muốn thấy nơi mỗi Kitô hữu. Họ cần phải dứt khoát với quá khứ ấy, nếu muốn cùng Ngài phục sinh như Tông Đồ Phaolô đã khẳng định: “Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng Ngài phục sinhỮ (Rom 6:5).
Cuộc đời và cuộc sống mỗi Kitô hữu cũng phải như ngôi mộ trống ngày phục sinh. Có nghĩa là chúng ta phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, và sự sống lại của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Để được thế, trước hết ngôi mộ tâm linh này phải đón nhận Chúa Giêsu Tử Giá bằng những chứng từ cuộc sống, và để Ngài làm cho nở hoa, phục sinh trong quyền lực Thiên Chúa. Như vậy, mỗi khi có ai nhìn vào ngôi mộ tâm linh ấy, tức là linh hồn của mỗi Kitô hữu, họ sẽ khám phá ra không phải là những người giầu tình cảm đạo đức, những người thông thạo giáo lý, hiểu biết; nhưng hơn thế, họ nhận ra một Chúa Giêsu phục sinh và vinh hiển.
Ngôi mộ trống v”n không nói nhiều. Ngôi mộ trống cũng v”n im lìm một chỗ không di chuyển. Và ngôi mộ trống cũng v”n chỉ là một ngôi mộ trống. Nhưng hình ảnh của nó gắn liền với buổi sáng phục sinh, với Maria Mađalêna, với Phêrô và Gioan, và tất cả những ai đang tin vào Con Thiên Chúa - Đấng xóa tội trần gian - đã chịu cực hình thập giá, và được mai táng trong đó. Và cũng từ ngôi mộ ấy, Ngài phục sinh vinh hiển.
Cuộc đời tôi, cuộc hành trình tâm linh của tôi cũng cần phải giống như ngôi mộ trống kia, để tất cả những ai tò mò nhìn vào cũng nhận ra Chúa đã phục sinh.
Trích dongcong.net T.s.Trần Duyệt
-----------------------------
Tại một nhà nguyện kia, giáo dân tụ họp cầu nguyện xin mưa sau những ngày hạn hán. Khi vị linh mục ra giảng đài để chủ toạ buổi cầu nguyện thì thấy giáo dân thiếu một điều kiện để xin mưa. Đó là đức tin. Vị linh mục hỏi mọi người, tương tự như câu hỏi cho tân tòng ngày lễ Phục sinh: Anh chị em đến đây để xin gì? Thưa cha, chúng con đến đây để xin mưa. Vậy tôi xin hỏi anh chị em ở đây có ai mang dù che mưa không? Dạ thưa không.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy nếu mọi người mang dù theo thì chứng tỏ họ có đức tin mạnh. Đức tin là điều kiện cần thiết để Chúa làm sự lạ cho những ai kêu cầu Ngài. Trong bài tin mừng hôm nay Thánh Gioan đã tin Chúa sống lại khi thấy tất cả khăn liệm của Ngài được xếp gọn nơi mồ đá. Một số các môn đệ bị Chúa Kitô đã quở trách vì các ông không tin những lời các chứng nhân loan báo về việc Chúa sống lại. Tin là điều kiện để được ơn cứu rỗi, khi Chúa sai các tông đồ đi rao giảng và rửa tội cho muôn dân.
Nhờ ơn bí tích rửa tội mỗi người chúng ta cũng được ơn đức tin. Với đức tin đó, chúng ta những điều vượt trí khôn loài người như tin các mầu nhiệm trong đạo. Chúng ta nhìn thấy sự quan phòng của Chúa trong mọi biến cố. Và phần thưởng của chúng ta chính là nhìn thấy những gì mình tin hơn là tin những gì mình thấy.
Trái với người tin là người đa nghi. Người đa nghi chỉ mong thấy mới tin. Họ chỉ tin những gì mình thấy, nếu không thấy thì không tin. Những người ấy giống như trường hợp ông Tôma. Ông chỉ muốn nhìn xem Chúa tận mắt và sờ tận tay Ngài mới tin. Chúa đã hiện ra và khiển trách sự cứng lòng của ông và nói, "Phúc cho những ai không thấy mà tin."
Đối với chúng ta thì cuộc sống của người tín hữu là một cuộc sống đức tin, một cuộc lữ hành đức tin. Tin khi vâng theo thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Tin khi chúng ta nhắm mắt phó thác cuộc đời cho Chúa khi vui cũng khi khi buồn. Với đức tin đó cho dù là một đức tin nhỏ bé thôi, thì đức tin đó cũng bảo đảm cho chúng ta sự sống đời đời. Nếu chúng ta có một đức tin lớn lao hơn thì chúng ta còn thể đem cả thiên đàng ngự xuống vào lòng chúng ta. Đó là niềm tin vào Chúa Giêsu thánh thể khi chúng ta tiếp rước khi tham dự thánh lễ vào Chúa Nhật. Xin Đức Mẹ thông ban cho chúng ta một chút đức tin của Mẹ khi chúng ta tiếp rước Chúa vào lòng lát nữa đây. Có Chúa ở với chúng ta sẽ được sự sống đời đời như Chúa hứa, " Ta là bánh hằng sống.Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời."
Trích dongcong.net
Lm. Hồng Uy Linh, CMC
-----------------------------
Easter Sunday/The Resurrection of the Lord
Lời Chúa cho hôm nay: Bạn hãy sống lại từ bây giờ
* You must to rise from now *
* Bài đọc 1: Cv. 10, 34; 37- 43= Bài giảng của ông Phêrô: Chúng tôi đã ăn uống với Ngài sau khi Ngài sống lại:
The speech that Saint Peter gave at the house of Cornelius: We ate and drank with Him after He rose from the dead.
* Bài đọc 2: Col. 3, 1- 4= Hãy tìm kiếm những sự ở trên, nơi Đức Kitô đang ngự. Phần thưởng ta sẽ nhận khi Đức Giêsu trở lại.
Seek what is above, where Christ is. The reward we will receive is that Jesus returns at the end of time.
* Bài Tin Mừng (Gospel): Ga.20, 1- 9 = Ngài đã sống lạị từ cõi chết: Bà Maria Mácđala người đầu tiên làm chứng cho sự sống lại của Chúa.
He had to rise from the dead. Mary of Magdala the first to give witness to the resurrection.
A. Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Bài Tin Mừng thánh Gioan viết: "...lúc trời còn tối, bà Maria Mác-đa-la đi đến mộ, thấy tảng đá lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Kitô thương mến." Bà là người đầu tiên đã can đảm đến ngôi mộ trống, trước đó bà đứng duới chân thập giá và dự cuộc mai táng Chúa Giêsu; bà đã bị 7 quỉ ám. Tôi đã học được nhân đức nào nơi bà? Hãy kể vài cách sống đạo của tôi đã làm.
"Mary of Magdala came to the tomb early in the morning....She ran and went to Simon Peter and..." (Ga. 20, 1- 2 )
2/ Câu cuối bài này viết: Người Môn đệ kia...kẻ tới trước cũng đi vào: "Ông đã thấy và tin. Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết." Ngôi mộ trống và đồ liệm chỉ là những dấu chỉ mà môn đệ đã tin vào Chúa đã sống lại. Còn bạn hôm nay đã thấy bao biến cố, dấu chỉ bạn có thay đổi gì? Xin chia sẻ những gì bạn thấy Chúa đang hoạt động trong thế giới này?
The other disciple also went in,...he saw and believed. They did not understand the Sripture...from the dead. (Ga. 20, 8 - 9)
3/ Trong bài giảng ông Phêrô đã hùng hồn nói: "Còn chúng tôi đây xin làm chứng về những việc người đã làm trong cả vùng dân Do Thái...Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy." Trong gia đình và xã hội hôm nay rất cần tôi mến Chúa bằng việc làm. Hãy nói lên sự can đảm của tôi trong hành động?
We are witnesses of all in the country of the Jews...This Man God raised on the third day... (Công vụ 10, 39- 40)
4/ Thánh Phaolô đã khẳng định rõ: "Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa." Đời sống của người tín hữu ở đời này là một đời sống ẩn dấu của đời sống mới đang biểu lộ sống lại vinh quang. Bạn có cảm nhận được gì? Cần nói lên vài điều mình cảm nghiệm.
For you have died, and your life is hidden with Christ in God ( Col. 3, 3 )
B. Câu Kinh Thánh đánh động tôi Sống lại với Chúa tuần này: ( The Best God's Word )
Sự sống mới của anh em đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa.
Your life is hidden with Christ in God (Col. 3, 3 )
C. Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Phục sinh cho Gia đình: ( So what am I doing / For Action )
1/ Tôi có thể chọn trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống.
2/ Bạn cần thay quyết tâm thay đổi ngay nếp sống cũ như: bỏ hẳn uống bia, rượu quá nhiều !!!
D. Tôi dựa vào Lời Chúa để cầu nguyện và thực Sống lời tôi cầu xin: (I pray and practice/ Pray in Action)
a/ Lạy Cha, theo Kinh Thánh Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết. Xin cho con cũng được từ bỏ con người cũ cùng với các đam mê tật xấu, để sống lại với Chúa trong gia đình ngay từ hôm nay.
b/ Thánh Phêrô đã mạnh mẽ rao giảng: còn tôi đây xin làm chứng về những việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái. Xin giúp con can đảm làm chứng nhân cho Tin Mừng bằng phục vụ anh em.
Hoa thơm cỏ lạ: Cần: Người tầm thường để làm việc phi thường. Wanted: Ordinary people to do extraordinary work
Huyền Đồng
-----------------------------
- Lm Trần Bình Trọng, USA
Cv 10:34, 37-43; Cl 3:1-4; Ga 20:1-9
Dân tộc nào cũng có những câu chuyện thần thoại, càng thần thoại nếu trí tưởng tượng của họ càng giàu. Tuy nhiên câu chuyện của một người đã chết đi ba ngày, rồi tự mình sống lại, là một câu chuyện khó tin, vượt sức tưởng tượng của loài người. Đối với những người không tin, thì đó chỉ là một câu chuyện hoang đường, không hơn, không kém. Tuy nhiên câu chuyện Đấng Cứu thế chết đi sống lại đã được các tiên tri loan báo cả ngàn năm trước, và chính Chúa cứu thế cũng tự loan báo. Để tẩy chay lời tiên tri về việc Đấng cứu thế phục sinh, những kẻ kết án Chúa đã sai quân lính canh mộ Chúa hầu tránh cái âm mưu có thể xẩy ra do môn đệ lấy trộm xác Chúa, rồi phao tin là Thày mình đã sống lại.
Việc Chúa phục sinh từ cõi chết là một biến cố quan trọng không những trong lịch sử Kitô giáo, mà còn có một chỗ đứng đáng kể trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên cả thành Giêrusalem đều mê ngủ trước biến cố phục sinh của Chúa, và mọi sinh hoạt trong thành đều diễn ra bình thường. Còn các môn đệ Chúa thì hoang mang, không biết đâu là thực hư. Tất cả họ đều bị khủng hoảng trầm trọng, không con hi vọng gì nữa. Tâm trí họ bị rối loạn vì những khiếp sợ và bực mình. Họ khiếp sợ vì người Do Thái bách hại. Họ bực mình vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng.
Chỉ có bà Maria Mađalêna, có tên Việt là Mai Đệ Liên, là người đầu tiên đã xuất hiện đi ra khỏi nơi trú ẩn để tìm Chúa. Bà ta quá sầu khổ về cảnh đóng đinh của Thày mình, nên khi thấy mồ trống, bà ta không còn nghĩ gì khác, mà chỉ nghĩ về việc người ta đã lấy trộm xác Chúa. Mađalêna là người đầu tiên thấy Chúa sống lại, nhưng không nhận ra Người. Bà tưởng đó là người làm vườn cho tới khi Chúa gọi bà bằng tên Maria (Ga 20:16). Đến đây bà vội vã đi về kể cho Phê-rô và Gio-an là xác Chúa không còn ở trong mồ nữa.
Thật là một điều khó tin khi Mađalêna được coi là người đầu tiên loan báo tin mừng Chúa sống lại. Tuy bà ta không ý thức được rằng mình đã được chọn để loan báo cho hoàn cầu việc Chúa phục sinh. Làm sao Chúa hiện ra với bà, một người tội lỗi có lòng ăn năn sám hối, trước khi hiện ra với các môn đệ? Đó là vì bà đã ra viếng mộ Chúa trước tiên.
Cuối Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay được thêm một ý tưởng rất quan trọng: Trước đó họ chưa hiểu rằng, theo Thánh kinh, Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết (Ga 9:20). Chính ông Phêrô đã không hiểu tại sao khăn liệm xác lại được để riêng một bên. Việc đối diện với Chúa phục sinh đã đổi hẳn tất cả. Bây giờ họ thấy, và họ tin. Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay ghi lại: Trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại (Cv 10: 41).
Cũng như các tông đồ, cũng như Mađalêna, ta cũng có những lần hồ nghi về việc Chúa sống lại. Có những khi ta cảm thấy những giờ phút tuyệt vọng, chán chường, những ngày giờ, những năm tháng mà tâm hồn bị bóng tối bao phủ. Ta cảm thấy như là Chúa đi vắng, và không còn gì để bám víu. Tuy nhiên cũng như Mađalêna, cũng như Phêrô và Gio-an, ta v”n phải đi tìm Chúa, ngay cả khi ta cảm thấy khó tin vào Chúa. Chúa v”n ở đó chờ đợi ta. Chúa v”n đến với ta trong đời sống hằng ngày. Ta sẽ khó lòng tìm thấy Chúa nếu ta quá bận tâm lo lắng về những sự vật trần thế, nếu ta mê đắm theo đuổi những chuyện viển vông.
Phục sinh là thời giờ mà ta phải tìm ra câu trả lời cho những thắc mắc và khắc khoải của loài người:
* Ta đang tìm kiếm những gì ?
* Có phải ta tìm Chúa và sự công chính của Nước Người hay không?
* Cái lẽ sống và cùng đích của đời sống ta là gì ?
* Đâu là chỗ ta có thể bám víu khi mất đi của cải và người thân yêu ?
* Ai là người có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn ?
* Và ai là người có thể đem lại ý nghĩa cho cuộc sống ?
NS Dân Chúa Mỹ Châu
Lm Trần Bình Trọng, USA
-----------------------------
- Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Nói theo tình cảm tôn giáo thì Lễ Chúa Giáng Sinh được coi là Lễ Lớn nhất của Kitô giáo. Nhưng nói theo nội dung niềm tin (Giáo lý Thánh Kinh, Thần học) thì Lễ Chúa Phục Sinh mới là Lễ Trọng nhất của Công giáo, Tin Lành và Chính thống. Vì Lễ Chúa Phục Sinh mang một ý nghĩa cao trọng và đầy đủ nhất của mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người, tức của Chương trình Cứu độ chúng sinh của Thiên Chúa.
I. Lắng nghe Lời Chúa
1. Bài đọc 1: Cv 10, 34a.37-43. 2. Bài đọc 2: Cl 3,1-4. 3. Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9.
II. Tìm hiểu Lời Chúa
1.Bài đọc 1: Cv 10,34a.37-43: Là chứng từ hay bài giảng của Phêrô về Đức Giêsu: Người đã xuất thân từ Nadarét, được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, đi tới đâu là thi ân giáng phúc tới đó và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bị treo và chết trên cây gỗ, nhưng ngày thứ ba đã được Thiên Chúa làm cho trỗi dậy và xuất hiện tỏ tường trước nhiều chứng nhân. Chính Đức Giêsu Phục sinh ấy đã truyền cho các môn đệ đi rao giảng cho dân, làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội.
2. Bài đọc 2: Cl 3,1-4: Là lời khuyên chân tình của Phaolô dành cho tín hữu Côlôxê: đã được trỗi dậy -nhờ bí tích Thánh Tẩy- cùng với Đức Kitô, nên anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc về hạ giới.
3. Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9: Là tường trình của Gioan về những gì đã xẩy ra vào buổi sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần: Maria Mácđala đi đến mộ chôn cất Đức Giêsu thì thấy tảng đá chắn cửa mộ đã lăn ra một bên, bà liền chạy về. Gặp Phêrô và Gioan, bà báo tin: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ". Hai môn đệ chạy tới mộ và thấy đúng là xác Đức Giêsu không còn ở trong đó và họ chỉ thấy những băng vải và khăn che đầu được cuốn lại và xếp riêng ra một nơi. Gioan thấy thế thì tin ngay là Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết.
4. Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay: Đức Giêsu đã Phục Sinh!
4.1 Tin nhận Đức Giêsu Phục Sinh: Sứ điệp về Chúa Giêsu Phục Sinh thật đơn giản, có thể nói là quá đơn giản, nhưng cũng vô cùng khó tin. Ngôi mộ trống và những băng vải và khăn che đầu của Đức Giêsu còn để lại trong mộ chưa đủ sức chứng minh rằng Người đã phục sinh từ cõi chết. Nhưng với riêng Gioan, môn đệ được Đức Giêsu yêu thương cách đặc biệt thì bấy nhiêu chứng cứ cũng đã đủ để ông tin vào sự kiện có một không hai trong lịch sử. Còn đối với các môn đệ và những người đương thời thì chứng cứ ấy chưa đủ sức thuyết phục. Cùng lắm, người ta chỉ có thể kết luận được rằng: thân xác Đức Giêsu đã được lấy ra khỏi ngôi mộ mà người ta đã chôn cất Người trong đó và được chuyển đến một nơi nào khác mà các môn đệ không hề biết! Chứng cứ mang tính quyết định và quan trọng nhất của sự kiện Phục Sinh là việc chính Đức Giêsu đã hiện ra với rất nhiều người mà Phêrô đã làm chứng tại nhà ông Cornêliô, mà các sách Phúc âm đều ghi lại. Chứng cứ quan trọng ấy còn được cả một truyền thống ngôn sứ củng cố và đã được chính Đức Giêsu đã tiên báo khi còn sống và nhất là trong những ngày cận kề Cuộc Thương Khó. Đối với những người đồng thời với các tông đồ và với các thế hệ tiếp sau như chúng ta thì chứng cứ ấy còn được củng cố bởi cách sống, cách rao giảng và cách làm chứng của các tông đồ và của các cộng đoàn tín hữu đầu tiên, không chỉ ở Palestin mà ở cả Roma, Côrintô, Philíphê, Galát...Vì thế mà niềm tin Kitô giáo có tính "tông truyền"tức là do các tông đồ lưu truyền lại.
Cùng với Giáo hội và các tín hữu khắp hoàn cầu, một lần nữa, chúng ta hãy đón nhận sứ điệp Phục Sinh. Hãy củng cố niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Phục sinh. Hãy không ngừng suy niệm về ý nghĩa thâm sâu của Mầu nhiệm Phục Sinh. Đức Giêsu được Thiên Chúa cho Phục Sinh có nghĩa là Thiên Chúa đã đứng ra bênh vực, minh oan và đền bù cho những thiệt thòi mà Đức Giêsu đã chịu, vì vâng phục Thiên Chúa và yêu thương nhân loại. Đức Giêsu được Thiên Chúa cho Phục Sinh có nghĩa là Thiên Chúa đã tưởng thưởng cho những hy sinh lớn lao mà Đức Giêsu đã vui vẻ chấp nhận, vì vâng phục Thiên Chúa và yêu thương nhân loại. Đức Giêsu được Thiên Chúa cho Phục Sinh có nghĩa là Thiên Chúa đã siêu tôn Người và đặt Người làm Chúa Tể vũ trụ vạn vật. Đức Giêsu được Thiên Chúa cho Phục Sinh còn có nghĩa là Thiên Chúa đã sẵn sàng thứ tha hết mọi yếu đuối, thiếu sót, lỗi lầm và phản bội của con người vì máu Đức Giêsu đã đổ ra để cứu chuộc mọi người. Đức Giêsu được Thiên Chúa cho Phục Sinh, sau cùng, có nghĩa là cách sống và cách chết cũng như mọi lời nói, mọi việc làm của Người làm đẹp lòng Thiên Chúa và đáng chúng ta noi gương bắt chước.
4.2 Sống với Chúa Giêsu Phục Sinh: Tin nhận Chúa Giêsu phục sinh mới chỉ là bước đầu của một tiến trình dài lâu và vô cùng phong phú. Niềm tin ấy phải d”n chúng ta vào cuộc sống với Người. Thật vậy nếu chúng ta chỉ đón nhận Đấng Phục sinh mà không sống với Người thì chưa thể coi là đầy đủ. Vì Danh Xưng chính xác nhất của Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở cùng loài người. Thiên Chúa của Kitô giáo là Đấng sống vì và sống với con người. Hơn nữa, trước khi về Trời Đức Giêsu đã long trọng cam kết với các môn đệ: "Này đây, Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế"(Mt 28,20). Đó là lời hứa chắc như đinh đóng cột của Đấng Phục Sinh. Dựa vào lời hứa ấy chúng ta có thể sống với Người mọi giây mọi phút, như giữa hai người bạn thân thiết. Ở đây chúng ta thấy ý nghĩa sâu sắc của câu châm ngôn của người Tây phương: "Anh hãy nói cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai?"
Sống với Đấng Phục Sinh, chúng ta sẽ được Người truyền tinh thần và sức sống thần linh của Người cho chúng ta. Sống với Đấng Phục Sinh, chúng ta sẽ được tràn đầy Thần Khí của Thiên Chúa là Thần Khí của Khôn Ngoan và Sức Mạnh. Sống với Đấng Phục Sinh, chúng ta sẽ đủ sức đương đầu với mọi thử thách cám dỗ. Sống với Đấng Phục Sinh, chúng ta sẽ biết sống tự hiến cho tha nhân, phục vụ những người nghèo hèn, bị thiệt thòi và lãng quên trong cộng đoàn và xã hội.
Sống với Đấng Phục Sinh là chúng ta tôn vinh Người là Chúa, xem Người là bạn thân thiết gần gũi nhất của chúng ta. Do đó mọi chuyện lớn nhỏ của cá nhân, gia đình, cộng đoàn chúng ta đều bàn bạc với Chúa và tham khảo ý Người. Và trong mọi chuyện lớn nhỏ của cá nhân, gia đình và cộng đoàn, chúng ta sẽ noi gương bắt chước Người: "Lương thực của Thày là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thày và hoàn tất công trình của Người" (Ga 4,34).
4.3 Làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh: Tin nhận Chúa Giêsu Phục Sinh và sống với Người sẽ d”n chúng ta đến việc làm chứng cho Người như các tông đồ và các tín hữu đầu tiên đã làm. Nhưng ngày nay làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh là làm thế nào? Ngày nay chúng ta làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh cũng chẳng khác chi các tông đồ và tín hữu đã làm chứng cho Người ngày xưa, nghĩa là chúng ta phải nói cho người chung quanh biết Đức Giêsu là Đấng Thánh, là Sứ Giả của Thiên Chúa, là Đấng Cứu Chuộc mà các dân tộc hằng chờ mong.
Chúng ta làm chứng bằng lời nói, việc làm và bằng cả cuộc sống của chúng ta. Từ trong suy nghĩ cho đến lời nói, việc làm chúng ta phải cho thấy chúng ta chỉ có một cuộc sống đức tin thống nhất hài hòa, tỏa sáng, dịu hiền nhưng mãnh liệt. Chúng ta đừng quên rằng ngày nay con người, nhất là người trẻ, không còn tin vào những lời nói "xuông" nữa, vì cả trong đạo lần ngoài đời, người ta đã được cho ăn "bánh vẽ" quá nhiều rồi! Chỉ có cách sống trong sáng, siêu thoát, vô vị lợi, nhiệt thành, thánh thiện và gần gũi mới thu hút, cảm hóa, thuyết phục được các tâm hồn.
III. Sống Lời Chúa
Bằng cách sống phục vụ và hữu ích, tôi cố gắng hiện-tại-hóa (actuali-zation) lời Thánh Kinh về Đức Giêsu: "Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó" (Cv 10,38).
IV. Cầu nguyện với Lời Chúa
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con tin nhận Chúa Giêsu Kitô, Con Cha là Đấng đã xuất thân từ Nadarét, đã được Thiên Chúa dùng Thánh Thần mà tấn phong, đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, đã bị người Do Thái kết án và giết chết trên cây thập giá và đã được Cha cho trỗi dậy từ cõi chết để làm thẩm phán xét xử kẻ sống và kẻ chết... và đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Chúng con tin là Chúa Giêsu Phục Sinh hằng ở bên chúng con, sống với chúng con như lời Người đã hứa. Chúng con tin là Chúa Giêsu Phục Sinh truyền lệnh cho chúng con đi rao giảng và làm chứng cho Người.
Chúng con xin Cha ban cho chúng con một đức tin vững mạnh, một đời sống mật thiết gắn bó với Chúa Giêsu Phục Sinh, Con Cha, Chúa chúng con và một cách sống sinh động phản ánh các điều chúng con tin, cậy và mến.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
-----------------------------
Cv 10, 34.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
Một trong hai tác phẩm bất tử của đại văn hào Lev Tôn-xtoi có tên là Phục Sinh (BOCKRECEHIE). Cuốn tiểu thuyết này nói đến tiến trình của hai biến cố phục sinh. Biến cố phục sinh thứ nhất xảy ra ở tại một làng quê. Theo tục lệ của Chính Thống giáo, sau khi dự thánh lễ đêm Phục Sinh, từng cặp chào mừng nhau. Một người xướng: “Chúa Kitô đã sống lại”, và người kia đáp: “Người đã sống lại thật”; rồi hai người ôm hôn ba lần để trao niềm vui cho nhau. Chính lễ nghi này đã khiến ông hoàng Nê-kli-u-đốp, trong một lần về thôn quê, ôm hôn người hầu gái của bà cô mình và xuất thần cảm nhận tình yêu. Trong khoảnh khắc thánh thiện ấy, _tình yêu đã đạt đến tuyệt đỉnh, nơi không còn mảy may gì là suy nghĩ, là xác thịt, mà chỉ là sự hợp nhất giữa hai ngườiỴ.
Cũng vì giây phút thần thiêng ấy mà cô hầu Ca-ta-ri-na đã trở thành người tình một đêm của ông hoàng kia, để rồi ông trở về thành phố mà không còn bận tâm gì đến hành vi của mình trong cái đêm Phục Sinh nông thôn ấy. Biến cố phục sinh thứ hai xảy ra nhiều năm sau đó. Ông hoàng Nê-kli-u-đốp ngồi ghế bồi thẩm đoàn để xem người ta kết tội một cô gái thứ dân phạm một tội không rõ rệt. Cô gái ấy chính là Ca-ta-ri-na mà ông hoàng đã ân ái một đêm rồi xóa đi trong ký ức. Ông nhận ra rằng hành động vô trách nhiệm của mình đã đẩy cô gái xuống vực thẳm và giờ đây bị kết án oan. Lương tâm bừng dậy, ông đã bỏ lại tất cả, theo cô gái suốt hành trình đi đày đến tận Xi-bê-ri và chia sẻ mọi cơ cực của những kẻ tù đày... để rồi cuối cùng đã xin được ân xá cho Ca-ta-ri-na, và cũng là ân xá cho tâm hồn mình. Tiến trình Phục Sinh thứ hai này là đoạn đường dài nhất trong 600 trang sách.Hôm nay, một ngày lễ Phục Sinh nữa lại trở về với nhân loại. Cũng lại câu chuyện của người phụ nữ tên là Maria từ tảng sáng đi đến mồ để khám phá ngôi mộ trống. Rồi mọi người tín hữu khắp địa cầu hát vang: “Alleluia, Chúa đã sống lại rồi!”. Nhưng phải chăng lại một lần nữa Chúa Nhật Phục Sinh là niềm lâng lâng của một ngày rồi đâu lại vào đấy?
Nếu như thế thì cũng chỉ là Phục Sinh của đêm đen trong một ngôi làng thôn quê hôm xưa giữa một ông hoàng và một cô hầu gái... Phấn khởi đấy, vui tươi đấy, nhưng rồi chẳng thay đổi được gì. Chính cuộc Phục Sinh thứ hai kia mới là điều cần nói tới.Bài phúc âm thánh Gioan mà Giáo Hội cho đọc ngày lễ này chỉ nói đến ngôi mộ, cùng với khăn liệm... Điều mà các tông đồ gặp chỉ là một ngôi mộ trống, chứ không phải là Chúa Kitô phục sinh. Điều đã làm cho họ trở thành những Kitô hữu nhiệt thành không phải là một Đức Kitô ở bên ngoài mà là một Đức Kitô đã sống lại bên trong họ. Vì sao tôi có thể nói thế? Tại vì thánh Gioan đã viết một câu rất ngắn nhưng âm vang thật dài: “Ông đã thấy và ông đã tin”.Chữ “tin” trong Phúc Âm Thánh Gioan là cả một khung trời. Không phải như tôi tin ở Pháp có tháp Eiffel, tin ở Mỹ có một người thu nhập bằng tất cả dân Việt Nam cộng lại, tin ở Ý có người tìm ra thuốc trị ung thư. Những điều tin ấy chẳng đụng chạm gì đến bản thân tôi, đến ngôi nhà lụp xụp, đến đồng lương ít ỏi, đến căn bệnh nhức mỏi của tôi... Và cuộc đời của tôi v”n thế, dù có tin hay không.
Trái lại, đức tin của thánh Gioan chính là một sự sống thay đổi cả đời ông, và chỉ có Đấng Phục Sinh trong ông mới khiến cho ông thấy cuộc đời mình không còn như cũ nữa.Xét cho cùng, đối với bạn và tôi, những gì người khác kể về Đức Kitô phục sinh - dù cho người ấy có thánh thiện và khả kính đến đâu - thì cũng không quan trọng mấy. Điều họ trình bày rốt cục cũng chỉ là một ngôi mộ trống. Điều thật sự quan trọng là Đức Kitô phải sống lại trong bạn và trong tôi, bởi vì nếu Ngài sống lại cho mọi người mà không sống lại trong tôi thì Phục Sinh chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi cả, và niềm tin của tôi đối với Chúa cũng chẳng khác gì tôi tin có một ông tư bản giàu sụ bên Mỹ bên Tây. Nhưng làm sao để cho Ngài sống lại trong bản thân mình? Thánh Phaolô đã nhắn nhủ với giáo đoàn Cô-lô-xê: “Anh em đã chết, và sự sống mới của anh em đang tiềm tàng nơi Đức KitôỮ. Vấn đề là ở đấy. Tôi đã theo đạo bao nhiêu năm, nhưng tôi đã chết chưa? Nếu tôi chưa chết thì làm sao tôi có được sự sống mới? Tôi v”n sống bằng toan tính của mình, bằng đầu óc của mình, bằng khôn ngoan của mình, hay tôi đã trao phó hết mọi sự cho Thiên Chúa? Tôi có xét mình để thấy bao nhiêu điều lỗi phạm mình đã từng làm chưa? Tôi có vui lòng ưng thuận bước theo con đường Xi-bê-ri mà Chúa d”n tôi đi chăng? Và con đường phục sinh ấy không chỉ giới hạn một đêm mà kéo dài qua bao năm tháng.
Ngược lại, nếu Ngài đã phục sinh trong tôi thì có gì thay đổi?Ta trở lại với tiểu thuyết Phục Sinh của Lev Tôn-xtoi. Ông hoàng Nê-kli-u-đốp đã thông qua hành trình cam go đến với miền giá lạnh Xi-bê-ri, đã đối diện với đau khổ, đã chứng kiến cảnh tù đày phi nhân... để rồi ông thực sự phục sinh. Chương cuối cùng của cuốn sách trứ danh kia hầu như dành trọn vẹn cho những trích d”n Phúc Âm, trước khi kết thúc bằng câu sau đây:”Kể từ đêm hôm ấy, một cuộc sống mới khởi sự cho Nê-kli-u-đốp, không phải vì điều kiện sống của ông đã thay đổi, nhưng bởi vì kể từ giây phút ấy, mọi biến cố trong cuộc đời đều mang một ý nghĩa khác.ỮMọi biến cố trong cuộc đời tôi mang một ý nghĩa khác: đấy là thước đo để biết xem Thiên Chúa đã phục sinh trong bản thân tôi hay chưa.
Trần Duy Nhiên
-----------------------------
Một tập tục dễ mến ở trong Giáo hội Đông phương đã diễn tả một cách đơn sơ và tuyệt đẹp sứ điệp Phục Sinh. Khi hai người gặp nhau vào Chúa Nhật Phục Sinh, một người chào: “Chúa đã sống lạiỮ, và người kia đáp lại:”Ngài đã sống lại thật.Ữ _Sống lại thậtỴ có nghĩa là Chúa Giêsu đang sống, đang khoẻ mạnh và tự do tuần hành trên mặt đất. Ngài đang thong dong trên những xa lộ, núi đồi và sông rạch, trên những công viên và bãi biển, trên những bến xe và phi trường, trong những bệnh xá và nhà tù, trong những tư thất và nơi làm việc của chúng ta. Ngài tự do đi đứng trong vũ trụ, không có gì cản trở Ngài được và không có người anh hùng nào như thế cả trong quá khứ l”n hiện tại và mãi mãi trong tương lai. Chúa Giêsu đang sống giữa thời đại chúng ta. Ngài đang ở trong cuộc sống chúng ta.
BƯỚC ĐI HIÊN NGANG
Đó là niềm tin Kitô hữu ngay từ thuở ban sơ của Giáo hội. Ngày nay nếu một đức tin không có gì khác biệt thì không phải là đức tin chút nào. Một người đồng hành với Chúa Phục Sinh trong cuộc sống thì khác với một người mà đối với họ Thiên Chúa chỉ là một danh xưng, một khuôn mặt để thuyết giảng, một bức tranh treo trên tường hay một cây thánh giá đeo vào cổ. Một người Công giáo sống mùa Phục Sinh là một người không bao giờ quên rằng Chúa Phục Sinh là một người bạn luôn đồng hành với họ. Một khi chúng ta bắt đầu cố gắng sống nhãn quan đó thì Phục Sinh phải có một ảnh hưởng cơ bản hơn hết trong cuộc sống chúng ta, nhằm tác động và tô màu cho hết mọi sắc thái đời sống chúng ta. Vấn đề không còn là chúng ta phải tránh việc lỗi phạm giới răn thứ sáu hay thứ chín, cho dù điều đó quan trọng đến đâu. Đúng hơn, chúng ta phải cố gắng tối đa, để rồi xắn tay áo lên, chúng ta có thể đồng hành với Chúa Phục Sinh. Khi chúng ta sẵn sàng như thế, chúng ta sẽ hiên ngang lên đường để giải quyết hết mọi vấn nạn một cách đúng đắn như thế. Nói tắt một lời, tất cả ý nghĩa Phục Sinh nằm ỡ trong những tương quan - tương quan giữa mình với Chúa và giữa mình với tha nhân.
SỰ PHỤC SINH ĐANG XẢY RA NGÀY HÔM NAY
T.S. Eliot trong tác phẩm Dry Salvages đã mô tả đặc điểm thế giới tiến bộ ngày nay là một thế giới mà trong đó người ta có kinh nghiệm nhưng thiếu ý thức. Giòng chữ đó khiến ngưòi đọc phải suy nghĩ. Chúng ta càng suy tư về những chữ đó của Eliot, chúng ta càng ngạc nhiên và thắc mắc không biết có phải ý nghĩa hai chữ “Phục SinhỮ đã xảy ra trong chiều hướng ngược lại hay không? Chúng ta hiểu rất rõ ý nghĩa Phục Sinh nhưng chúng ta không có chút kinh nghiệm về biến cố Phục Sinh. Suy diễn như thế, chúng ta muốn nói lên điều gì đây? Chúng ta rất quen thuộc với câu chuyện Phục Sinh. Chúng ta đã được giáo dục về ý nghĩa Phục Sinh như thế nào. Chúng ta đã thuộc lòng câu chuyện đó. Phục Sinh đã là một phần trong đời sống Kitô hữu chúng ta, bao lâu chúng ta còn tưởng nhớ tới. Và bởi vì câu chuyện đã quá quen thuộc, nên việc nghĩ tới biến cố Phục Sinh như là một câu chuyện lịch sử thì qua ư dễ dàng, vì đó là điều đã xảy ra trong quá khứ xa xưa rồi. Thực rất khó cho chúng ta để có một chút kinh nghiệm về biến cố Phục Sinh - kinh nghiệm thực sự, sống động và ngay tại đây, nơi mà chúng ta đang sống bây giờ, trong giây phút hiện tại.
Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: Chúa Giêsu gìờ đây đang ở đâu trong cuộc sống chúng ta? Có phải Ngài là Đấng đã sống trong quá khứ và giờ đây Ngài đang ngự trị ở trên kia, nơi xa thăm thẳm, ẩn kín ở chốn Thiên đàng cao xanh vời vợi? Có phải đó là nơi Chúa Giêsu chúng ta ở không? Hay chúng ta nên nghĩ rằng Ngài đang ở rất gần gũi chúng ta còn gần hơn chính hơi thở chúng ta nữa? Chúng ta có liên hệ với Ngài như một người bà con xa xa hay như một kẻ rất thân cận với chúng ta, thân cận còn hơn chính nhịp đập của con tim chúng ta? Chúng ta có tìm thấy Chúa Giêsu trong nhân cách mỗi một người mà chúng ta gặp gỡ không? Có phải Ngài là Đấng đang cho chúng ta sức mạnh nội tâm để đương đầu với bao khó khăn trong cuộc sống ngõ hầu trở thành sung mãn hơn là thực trạng mà chúng ta đang trải qua bây giờ đây không? Ngài có phải là Đấng mà chúng ta đã tìm gặp trong sự tha thứ được trao đi và nhận lại? Ngài có ở trong niềm vui và tiếng cười của cuộc sống chúng ta không? Ngài có ở trong tiếng rên la và những giòng lệ của chúng ta? Ngài có ở trong niềm khát vọng của chúng ta để rồi cuộc sống chúng ta trở nên ân cần hơn, lịch sự hơn và dễ mến hơn đối với người khác? Chúa Giêsu Phục Sinh của chúng ta có được tìm thấy trong cách thức mà chúng ta sinh sống, hoạt động, vui đùa và cầu nguyện không? Phục Sinh có trở nên chìa khóa cho toàn bộ cuộc sống chúng ta bây giờ và về sau không? Đó là những vấn nạn thật lớn lao. Không có vấn nạn nào lớn hơn nữa. Chúng ta đã được lớn lên và được giáo dục trong một mùa Phục Sinh thuộc về quá khứ xa xôi. Chúng ta biết được câu chuyện đó đã xảy ra từ thời xa xưa rồi. Nhưng chúng ta không được giáo dục về mùa Phục Sinh hiện đang xảy ra. Chúng ta đã được giáo dục về ý nghĩa Phục Sinh mà không có chút kinh nghiệm về Phục Sinh.
PHỤC SINH Ở KHẮP NƠI
Người ta kể lại câu chuyện sau đây: Ở sau cửa kiếng của một gian hàng bày bán ảnh tượng, một bức tranh rất lớn phác họa lại biến cố tử nạn trên thập giá đập mạnh vào mắt người qua kẻ lại. Một ông già dừng chân để ngắm xem và một em bé đi ngang qua đó cũng dừng lại để xem. Ông già muốn trắc nghiệm kiến thức tôn giáo của em bé nên hỏi: “Thật là một bức tượng tuyệt đẹp, nhưng cháu có thể nói cho bác biết về những nhân vật ở trong bức tượng đó không?” Em bé chỉ vào những khuôn mặt khác nhau trong bức tượng và trả lời: “Đây là Chúa Giêsu bị treo trên thánh giá và kìa là Mẹ Ngài đang đứng cạnh thánh giá. Còn người đàn bà khóc lóc kia là Maria Mađalêna; bà đang quì gối dưới chân thánh giá. Người đàn ông đứng gần đó là Thánh Gioan. Những người khác còn lại là những binh lính. Họ là những kẻ đã giết chết Chúa Giêsu.” Ông già rất cảm phục. Ông gật đầu tán thưởng và bắt đầu dời gót ra đi. Nhưng trước khi tới khúc rẽ, ông già nghe những bước chân chạy đuổi theo. Thì ra đó là em bé đang chạy theo ông, vừa chạy vừa thở có vẻ khẩn trương lắm. Em nói: “Thưa bác, cháu quên nói với bác một điều quan trọng hơn hết. Đó là Chúa Giêsu đã sống lại vào ngày thứ ba.” Em bé nói đúng. Phục Sinh là biến cố lớn lao nhất. Thỉnh thoảng chúng ta thường nghe người ta nói là Thánh Lễ ở khắp nơi. Chúng ta đều biết Thánh lễ từ đâu đến và ý nghĩa của Thánh Lễ như thế nào. Tuy nhiên, điều đó không hoàn toàn đúng. Chính mầu nhiệm Phục Sinh - chứ không phải Thánh Lễ - mới ở khắp nơi. Thánh Lễ chỉ là một sự biểu lộ lớn lao về đức tin chúng ta ở trong mầu nhiệm Phục Sinh.
QUÁ KHÓ ĐỂ NẮM BẮT
Chúng ta hiểu Phục Sinh như thế nào? Phải chăng phần đông chúng ta đã liên kết Phục Sinh với những thứ bánh kẹo đặc biệt bày bán cho mùa Phục Sinh? Chúng ta không chống đối gì về điều đó cả. Những bánh kẹo đó cũng tốt thôi, bao lâu chúng liên kết chúng ta với niềm vui, sự bình an và đời sống mới phát sinh từ mùa Phục Sinh. Chúng ta hoàn toàn tán thành những thứ đó bao lâu chúng không lôi cuốn chúng ta tách khỏi điều cơ bản là Chúa Giêsu “đã sống lại thật” và đó là điều vĩ đại hơn hết.
Mùa Phục Sinh đích thực không phải là những thứ bánh kẹo đặc biệt dành cho mùa đó, chắc chắn rồi. Chúng ta có thể thưởng thức những thứ đó, không thành vấn đề. Những thứ đó không phải là mối de dọa cho sự bình an trong tâm hồn chúng ta. Nhưng một Đức Giêsu đang tự do thư thả đi lại trên trần thế nầy - một Đức Giêsu đang dong ruổi ở trong tư thất chúng ta, ở nơi làm việc của chúng ta, ở nơi hò hẹn và trong những hành lang chốn quyền quí, ở Wall Street tại Nữu Ước, ở trong những buổi họp quan trọng của các hội đồng quản trị công tư sở, ở trong những bàn ăn tại các gia đình - đó là một Đức Giêsu thiết tưởng đã làm cho chúng ta sợ hãi nhất. Đức Giêsu đó đã làm cho chúng ta khó chịu nhất. Đức Giêsu đó thật quá khó để nắm bắt. Đức Giêsu đó không làm cho chúng ta thích thú, vì Ngài quá thân cận với đời sống tiện nghi của chúng ta. Chúng ta thích Ngài đi khỏi những nơi đó, đi thật xa để chúng ta khỏi bị quấy rầy, bởi vì Ngài không phải là một người thân cận với chúng ta trên căn bản tương giao một đối một. Mặt khác, nếu Chúa Phục Sinh được thấy ở trong phòng khách hỗn độn của chúng ta như vị khách quí, ở trong những cuộc thảo luận sôi nổi trong các buổi họp của hội đồng quản trị như một vị cố vấn, ở trong tư gia chúng ta như Thiên Chúa của tình yêu để chỉ cho chúng ta đường hướng yêu thương, sự dịu hiền và lòng trắc ẩn, chắc chắn nhãn quan đó đã mang lại sức mạnh và ân sủng khiến cuộc sống chúng ta khoác một bộ mặt khác hẵn và thay đổi toàn bộ lối tiếp cận của chúng ta về cuộc sống và cách sống.
CƠN CÁM DỖ LỚN LAO
Vâng, sự hiện diện của Thiên Chúa Phục Sinh phải là ân sủng hết sức ngạc nhiên nhất trong hết mọi ân sủng của Chúa. Chắc chắn đó là dấu hiệu lớn lao nhất của tình yêu Ngài. Ngay cả Thiên Chúa toàn năng đã không thể ban phát cho chúng ta một tặng phẩm lớn lao hơn là chính Con Ngài. Phải chăng chúng ta đã thường không nói: “Điều đáng kể không phải là những gì chúng ta có hay chúng ta đã xuất phát từ đâu ra mà là chúng ta đang tương giao với aì?”Chăc chắn sự thân mật trong tương giao đã mang lại sự nhức nhối. Cũng thế, đó là sự thân mật mà Chúa mong muốn ở nơi chúng ta một cách say đắm. Tuy nhiên cơn cám dỗ lớn lao đã trở thành một biệt lệ rất đáng quan ngại trong trường hợp nầy. Đó là cơn cám dỗ cầm giữ Thiên Chúa Phục Sinh ở nơi bước đường cùng, ở một vị trí thật xa xôi, ở một nơi hết sức an toàn. Vì vậy chúng ta cảm thấy thoải mái khi khóa chặt Chúa ở trong thánh đường, ở nơi nhà tạm, khi đi rước Thánh Thể& nhưng không cho Chúa ở ngoài những nơi đó, ở trong thế giới hiện thực của cuộc sống, chẳng khác nào ở bên trong và ở bên ngoài bốn bức tường của giáo đường là hai thế giới khác biệt. Chúng ta thích cầm giữ Thiên Chúa Phục Sinh ở trong nhà thờ. Ở đó chúng ta không gặp rắc rối nào đối với Chúa.
Nhưng một khi ở bên ngoài thánh đường, chúng ta rơi vào tình trạng chối Chúa. Cơn cám dỗ lúc bấy giờ là mọi chuyện v”n được tiếp diễn như thường, hầu như Chúa chưa bao giờ sống lại từ trong kẻ chết. Vậy Chúa Giêsu có thể dễ trở thành một tiện ích cho chúng ta - Ngài là Đấng mà chúng ta tìm tới khi bị nguy cấp, khi bị hỏng cuộc một cách toàn diện. Ngài là Đấng mà chúng ta qui trách cho hết mọi thất vọng chán chường xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Ngài là Đấng mà chúng ta lôi ra khi cần làm phép rửa, phép thêm sức, hay trong những dịp quan hôn tang tế hoặc những trường hợp tương tự như thế. Kỳ dư, Ngài trở thành vô nghĩa. Theo lời của Nietsche trong tác phẩm Madman, Chúa Giêsu đã chết mất rồi, chết cho thế giới hiện thực của chúng ta rồi. Vì vậy, Phục Sinh mang ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục Sinh là tất cả hay chỉ có ý nghĩa chút chút hoặc không gì hết?
Sứ điệp của Phục Sinh là Chúa Giêsu đang sống và thong dong tuần hành trên trần thế, đầy sức sống và đang ban phát sự sống cho những ai dám đồng hành với Ngài. Và đồng hành với Chúa có nghĩa là Ngài sẽ không bao giờ hổ thẹn hay bối rối về bất cứ điều gì chúng ta làm. Ngài không bao giờ buông bỏ chúng ta. Ngài không bao giờ rời xa và bỏ mặc chúng ta, ngay cả khi chúng ta rơi xuống hố sâu tội lỗi.
THÁCH ĐỐ LỚN LAO
Phục Sinh là một thách đố lớn lao. Đó là Phục Sinh đang xảy ra bây giờ đây. Đó là Chúa Giêsu đang sống trong cuộc sống chúng ta - hiện tại và nơi đây. Đó là linh đạo lớn lao của mầu nhiệm Phục Sinh. Chúng ta rất cần đến linh đạo đó, bởi vì nếu không, chúng ta sẽ cố vật lộn để làm cho đời sống Kitô hữu mang một ý nghĩa. Do đó, sự thách đố lớn lao là “nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân”(mỗi ngày một trở nên mới hơn), để chứng nghiệm sự hiện hữu sống động của Chúa Giêsu. Không có sự thách đố nào khác ở trên đời nầy - cho dù có ý nghĩa tới đâu - có thể làm cho sự thách đố lớn lao kia thoát ra ngoài con tim và khối óc chúng ta. Cuối cùng, cuộc sống chúng ta sẽ tiếp diễn đều đặn như trước kia duy chỉ khác biệt ở điểm nầy là giờ đây chúng ta v”n sống như thế đó nhưng với một tinh thần mới. Vì chưng cuộc sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa Phục Sinh thêm vào một chiều kích sâu sắc mới cho mỗi một việc chúng ta làm hay mỗi một lời chúng ta nói.
Phỏng theo bài suy niệm “JESUS AT LARGE IN THE WORLD” của cha Vincent Travers O.P. trong sách “IN STEP WITH GOD” (Đồng Hành Với Chúa).
Hương Vĩnh
-----------------------------
Chúa Giêsu Kitô đã sống lại thật rồi, Alleluia, Alleluia!
Cuộc khải hoàn vinh hiển của đức Giêsu Kitô từ trong cõi chết chính là lời tuyên bố oai hùng của Thiên Chúa.Vì Thiên Chúa đã mở ra một trận tuyến bất ngờ đánh thốc ngay vào giữa lòng quân thù, bằng một đòn chí tử, khiến chúng hết đường xoay xở và phải chịu khuât phục một lần cho mãi mãi. Bất ngờ vì quỷ dữ đã không biết dược thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha. Chúng từng cám dỗ đức Giêsu Con Một Thiên Chúa nên chìu theo ý riêng mình: biến đá nên bánh, biểu dương uy quyền và thần phục ma quỷ. Thế nhưng đức Giêsu đã kịch liệt phản bác tất cả những lôi cuốn ấy để trung thành với tôn ý của Thiên Chúa Cha, dù điều đó bắt Ngài phải hy sinh từ bỏ ý riêng mình. Với một con người luôn sống hào hùng vì chưa hề bị bắt bí, sống hoàn toàn phó thác với tràn trề hy vọng như đức Giêsu, ma quỷ không thể cám dỗ Ngài đi vào tuyệt vọng quyên sinh. Xong chính cái chết vô cùng nhuốc hổ trên cây thập tự lại là tôn ý nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha, đức Giêsu đã không muốn đón nhận, nhưng vì yêu thương Chúa Cha và yêu thương loài người, Ngài đã can đảm chấp nhận chịu giương lên cao như con rắn đồng, trở nên dấu chỉ của ơn cứu độ đích thật duy nhất cho muôn người thuộc mọi thế hệ.Cuộc phục sinh khải hoàn từ trong cõi chết của đức Giêsu chiếu tỏa một nguồn hy vọng tràn lan đến mọi tâm hồn. Ngài là mặt trời Công Chính đã bừng lên để xua tan bóng tối của quyền lực Sự Dữ nơi loài người. Bình minh mới của thời đại cứu độ và giải thoát đã đến với gia đình nhân loại. Từ nay con người không còn bị tê liệt vì giá buốt của bóng tối tội lỗi, nhưng tình thương vô bờ của Thiên Chúa sẽ sưoi ấm tâm hồn mọi người, nho boi quyen nang siêu vuot cua Thiên Chúa đã chiến thắng Sự Dữ đến muôn ngàn đời.
Lm. Phêrô Trần Văn Trợ SJ
-----------------------------
Ga 20, 1-9
Trong bản đồ Châu Âu cổ ngày xưa, người ta vẽ toàn thể lục địa và một phần Đại Tây Dương. Khi ra ngoài biển khơi, nhiều nơi chưa thám hiểm và chưa biết hết, người ta vẽ những con rồng và đề hàng chữ "rồng sống ở đây". Có đúng người thời đó tin vào sự hiện hữu của rồng và chúng ở những nơi chưa ai biết tới Nếu người nào đó muốn mạo hiểm ra chỗ chưa người lui tới, họ có thực sự gặp được rồng? Những người vẽ bản đồ liệu có coi những điều họ vẽ là một sự kiện, rồng sống ở ngoài biển khơi xa mù? Thời đó người ta còn tin trái đất dẹp, bằng phẳng, bệnh tật là do ma quỷ hành hạ! Ở vùng Salem (nước Hoa Kỳ) khi mới đến định cư, người ta tin một số đàn bà có ma thuật, thường xuyên tiếp xúc với quỷ thần. Lịch sử kể lại họ đã thiêu sống một số người mà họ đã gán cho đã thực hành nghề nghiệp như vậy. Ngày nay, chúng ta coi những chuyện như vậy là mê tín, cổ hủ, không ai tin nữa. Tuy nhiên v”n còn một số người cổ võ bói toán và dị đoan. Họ v”n sống trong niềm tin ấy, và xem chúng như những chân lý.
Vậy biến cố phục sinh của Chúa Giêsu thì sao? Nó có phải là sự kiện có thật? Một điều đã xảy ra trong thế giới vật lý? Hay lại dính líu vào niềm tin ngây thơ của dân bán khai, mang dáng dấp "con rồng" huyền thoại? Lấy gì làm bằng cứ Chúa đã sống lại? Và những bằng cứ đó có đủ thoả mãn tiêu chuẩn về sự thật cho trí óc tân thời? Tại sao chúng ta lại phải tin vào lời những kẻ bán khai mà văn hoá, niềm tin của họ chúng ta vừa bác bỏ? Hơn nữa đám người khai truyện, truyền tụng nó cho đến ngày hôm nay như chúng ta vừa công bố trong thánh lễ, lại không phải là những bộ óc lớn, những tư tưởng gia trong thời đại họ, họ chẳng làm được việc lạ lùng nào như xây kim tự tháp, vườn treo Babylon cho thế giới ngưỡng mộ.
Thực tế phần đông họ là những kẻ thấp cổ bé miệng, những người thua thiệt nhất trong xã hội đương thời. Và các câu chuyện họ kể về sự phục sinh của Chúa mang tính chất rất lộn xộn. Ngày nay nghe lại chúng ta không thể nắm bắt rõ ràng được điều gì thực sự đã xảy ra. Năm ba câu chuyện chồng chất lên nhau, thiếu hẳn sự mạch lạc. Chẳng có chuyện nào Chúa sống lại hiện ra với những kẻ không tin. Chỉ những môn đệ và các phụ nữ đạo đức được chứng kiến Chúa phục sinh mà thôi. Hình như Phúc âm được viết ra cho những người đã tin. Còn hạng người khác thì sao, chẳng lẽ Lời Chúa không dành cho họ nữa sao? Chẳng chuyện nào kể lại người vô tín tình cờ gặp Chúa Phục sinh! Rõ ràng phúc âm không liệt kê các chứng nhân trung lập hay vô tư, chỉ các môn đệ Chúa Giêsu mới được nghe và kể lại chuyện Chúa phục sinh. Lúc này họ cũng chỉ loan báo cho chúng ta, những kẻ tin chứ không hề cho kẻ vô tín ngưỡng. Cho nên chuyện Chúa phục sinh là nhằm củng cố đức tin của chúng ta, khuyến khích chúng ta tìm hiểu và gặp gỡ Chúa sống lại như Ngài đã hiện ra với các tông đồ. Điều mà chúng ta phải tin hôm nay cũng là một Chúa Giêsu như thuở xưa lúc Ngài tỏ mình ra cho các môn đệ. Ngõ hầu lòng tin của chúng ta vững mạnh và mọi người có thể sống bằng đức tin ấy.Cứ như Phúc âm theo thánh Gioan, Chúa sống lại khởi sự từ tảng sáng, lúc trời còn tối. Dĩ nhiên nó đã mang ý nghĩa một ngày mới. Nhưng chưa hoàn toàn là thanh thiên bạch nhật, vì trời v”n còn tối. Cô Maria Macdala hãy còn phải mò m”m trong bóng đêm, tất cả những gì cô biết được là Thầy yêu dấu của mình đã chết thực sự, được mai táng tại vườn này, nhưng bây giờ xác Ngài không còn ở đây nữa. Rất nhiều người trong chúng ta cũng có những kinh nghiệm tương tự. Người thân qua đi, đám tang nghiêm trang, trịnh trọng.
Ngày ngày chúng ta ra viếng mộ, đọc kinh, cầu nguyện cho người xấu số, tưởng nhớ lại các kỷ niệm được sống với họ, và xót xa khóc thương. Tất cả chỉ có vậy, còn trong vòng tăm tối, hoặc những cuộc vật lộn khác, như hôn nhân tan vỡ, gia đình phân tán, bệnh tật, già yếu, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, toàn là những tối tăm, không ngõ thoát. Mồ mả ở khắp bốn chung quanh, chỉ còn biết ngồi mà than khóc giống như cô Maria Macdala: "Họ đã lấy xác Thầy khỏi mộ và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu!" Nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta cũng phải đặt câu hỏi bâng khuâng như vậy. Cho nên, niềm tin v”n là chiếc neo lôi kéo chúng ta về với thực tại thiêng liêng cũng như trần thế. Từ đó mọi người sẽ được chiêm ngưỡng dung nhan Chúa phục sinh. Chúa sống lại không phải để trả thù những người vô tín đã hành xich Ngài, mà chính yếu ban hy vọng cho loài người cùng khốn. Tin để mà được xem thấy. Đó là câu châm ngôn của các tín hữu trên khắp hoàn cầu. Khi được nghe Maria báo tin, lập tức Phêrô và người môn đệ khác chạy ra mồ. Phêrô chạy chậm hơn, bị người môn đệ vô danh bỏ lại sau. Điều gì khiến Phêrô chạy chậm? Có lẽ vì tuổi tác chăng?
Theo ý kiến tôi thì không hẳn như vậy. Thánh Gioan ghi lại chi tiết này vì mục tiêu khác, tế nhị hơn chăng? Theo ý kiến thánh nhân thì chính ký ức phản bội đã làm cho ông chạy chậm lại. Ông lưỡng lự vì đã phạm tội đối với Thầy. Cũng như chúng ta ngày nay ký ức quá khứ nhiều khi làm chúng ta e ngại, không dám hăng hái tham gia vào những công việc tông đồ, hữu ích cho tha nhân và cộng đồng địa phương. Có lẽ chúng ta lo sợ thiên hạ đánh giá mình giả hình, không thành thật! Nhưng nếu tin chắc việc sống lại là có thật và Chúa Phục Sinh đang sống thì thái độ của chúng ta phải là tuyệt đối trung thành, không bóng mây nghi hoặc. Và Đức tin đó thúc đẩy chúng ta đặt vấn đề với các quyền bính, các cơ cấu đoàn hội, các quốc gia và ngay cả với Giáo hội khi những tổ chức này không đạt yêu cầu về công lý, tình yêu, khoan dung và thương cảm mà Chúa Giêsu đã rao giảng và dạy dỗ (nhân tiện xin nhắc lại bốn cột trụ của hoà bình trong Thông điệp Pacem in terris của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan XXIII là sự thật, công lý, tình thương, và tự do). Trước hoàn cảnh hiện tại của thế giới, những người tin Chúa Phục Sinh có rất nhiều công việc phải làm, trong hầu hết mọi lãnh vực của cuộc sống nhân sinh. Tại sao còn chiến tranh cụ thể như ở Iraq? Tại sao còn phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ? Tại sao còn bất công trong việc làm lương bổng? Tại sao không đối xử đồng đều ngay trong các tổ chức của Hội thánh?
Tại sao lấy bạo tàn đáp trả tàn bạo rồi nói rằng: "Đích đáng?". Tại sao ăn ở bất công nhân danh từ bi, bác ái? Tại sao người bóc lột người rồi hô to "toàn cầu hoá"? Trăm ngàn câu khác tương tự đòi hỏi lương tâm người tin Chúa Phục Sinh phải trả lời rõ ràng, dứt khoát. Bằng không, Chúa Giêsu v”n chưa sống lại cho thế giới và xã hội. Chúa v”n chưa có thể hiện ra với Khanan, Caipha, Philatô và những người Do thái không tin.Nếu như Phêrô chạy tới mồ và được ơn tin kính, thì ông phải nhìn thế gian bằng chiếc lăng kính mà Thần Khí Chúa sống lại vừa ban cho ông. Ông không thể nhìn và xét đoán sự vật theo chiều hướng cũ. Não trạng ông phải hoàn toàn mới mẻ, đầy sự thật, tin yêu: "Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ" (1Cor 5,8). Hôm nay, chúng ta v”n còn phải nhìn vào ngôi mộ trống, liệu có được ơn soi sáng để tin yêu Chúa đã sống lại? Liệu chúng ta có dám bắt chước Phêrô chấp nhận sự tha thứ, tuyên xưng lòng trung thành và ra đi rao giảng Tin mừng Phục Sinh cho thế giới? Liệu chúng ta có thành thực thứ tha cho anh em, những kẻ đã xúc phạm đến mình cách này hay cách khác? Liệu chúng ta có dám công bố Tin mừng Phục Sinh cho các đối thủ của mình, cho kẻ đói ăn, khát uống, quần áo cho những ai rách rưới, rét mướt? Bàn tiệc Thánh thể hôm nay phải là điểm chính yếu công bố ơn Phục Sinh, quà tặng rộng rãi cho mọi người: Đời sống mới trong Đức Ki-tô vinh hiển. Nó thúc đẩy chúng ta đi đến với những người xa lạ, thâu nhận họ về làm con Chúa.
Dĩ nhiên ngôi mộ trống còn vô số thắc mắc, nghi vấn cho nhiều linh hồn. Nhưng đức tin của các tín hữu có nhiệm vụ giải toả những nghi nan đó bằng cách thực sự thay đổi cuộc sống của mình.Ngoài Phêrô, còn có một nhân vật khác cũng chạy đến mồ. Trong bài đọc hôm nay, ông được gọi là "người môn đệ khác", nhưng ở nhiều chỗ thánh Gioan gọi ông là: "người môn đệ được Chúa yêu". Ông là ai? Không ai biết đích xác. Không tên, ông có thể là nam hay nữ, đại diện cho mọi hạng giáo dân. Chúng ta cũng được Chúa yêu, và cũng có thể là người môn đệ đó. Người môn đệ vô danh này, thực tế, giữ vị trí đặc biệt trong Phúc âm của tác giả Gioan. Ông nhìn vào mồ, thấy những giây băng và là kẻ đầu tiên tin Chúa đã sống lại. Linh cảm của ông thật nhạy bén vì ông hằng được Chúa yêu dấu. Tình yêu xem ra là một phương tiện hữu hiệu để tin Chúa Phục Sinh. Thiếu tình yêu không ai có thể tin vào chuyện "rồng nhang" như có thật. Cho nên tình yêu là cần thiết để tin kính Chúa đã Phục Sinh. Mỗi người tín hữu cũng đã từng có những kinh nghiệm về Thiên Chúa yêu thương mình, qua sự sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tình yêu sẽ giúp chúng ta trông thấy những sự thật mà kẻ khác không hề thấy được. "Người môn đệ khác" đã giúp đỡ các tín hữu nhìn được tỏ tường biến cố siêu nhiên. Xin đừng quên lãng điều đó, để có thể nhận ra rằng mình luôn được Thiên Chúa yêu thương và thứ tha. Bổn phận của chúng ta là phải đáp trả tình thương đó, bằng đời sống công chính và thánh thiện. Ăn ở buông tuồng, phóng túng là phản bội. Rồi chúng ta cũng phải nhìn thế giới bằng con mắt tin yêu đó, cải tạo nó thành nơi ở hạnh phúc cho mọi người.
Tình yêu là dấu chỉ chúng ta tin Chúa sống lại. Chúng ta sẽ hành động theo dấu chứng này. Khoa học chẳng thể chứng minh Chúa phục sinh. Nhưng đối với chúng ta điều đó không có nghĩa là biến cố đó không có thực, trái lại, nó cũng rất cụ thể và xác thực như các kinh nghiệm hằng ngày.Vậy thì hôm nay mỗi người giáo dân phải chạy ra nơi an táng Chúa, nhìn vào mồ trống và vào tâm hồn tăm tối của mình, tin cậy vào tình yêu hải hà Chúa ban, tự hỏi: "Tôi đã được trông thấy chi trong ánh sáng đức tin? Tôi đã cảm nghiệm ra sao đời sống mới Chúa ban? Và tôi sẽ chia sẻ sức sống này với ai?" Xin Chúa Giêsu phục sinh chiếu soi tôn nhan Ngài trên mọi tín hữu. Amen. Alleluia.
Lm. Jude Siciliano, OP.
-----------------------------
Ngày Đức Giê-su phục sinh là ngày thứ nhất trong tuần lễ của người Do thái. Ngày thứ nhất trong tuần nhắc ta nhớ lại ngày đầu tiên trong lịch sử thế giới. Thuở ấy chưa có con người, cũng chưa có thế giới. Vũ trụ chỉ là một khối hỗn mang, một cõi u mê mờ mờ ảo ảo. Thánh Thần Chúa xuất hiện bay là là trên mặt nước và lập tức vũ trụ được định hình: sáng tối phân biệt, núi đồi mọc lên, biển khơi sóng vỗ. Thế giới mặc lấy hình dáng rõ ràng và có sự sống. Đó chính là ngày thứ nhất của thế giới, ngày Chúa sáng tạo vũ trụ.
Tương tự như thế, khi Đức Giê-su chịu chết, tâm hồn các môn đệ như một khối hỗn mang vô định hình. Cả một bầu trời sụp đổ. Những mộng ước không thành. Những dự tính tan theo mây khói. Niềm tin chao đảo. Các ông chìm đắm trong một nỗi buồn chán mênh mông pha l”n hoài nghi, thất vọng. Các ông bơ vơ như người lạc đường, mất phương hướng, không còn biết đi về đâu.
Nhưng khi Đức Giê-su phục sinh, mọi sự bắt đầu lại ở một khởi điểm mới. Được tiếp xúc với Đức Kitô phục sinh, tâm hồn các ông cảm nghiệm một sức mạnh tươi mới chưa bao giờ có. Tâm hồn Tô-ma đang cứng cỏi vì hoài nghi bỗng trở nên mềm mại ngoan ngoãn và tràn đầy tin tưởng. Hai môn đệ Em-mau mệt mỏi muốn bỏ cuộc nhận được sức mạnh hăng hái tiếp tục lên đường dù giữa đêm khuya. Ma-đa-lê-na đang than thở khóc lóc bỗng bật lên tiếng reo cười. Phê-rô bị dày vò vì tội lỗi phản bội nhận được ơn tha thứ ngọt ngào vỗ về. Gio-an đang quay quắt vì nhớ thương được niềm vui tràn đầy khi gặp lại người Thầy yêu quý. Tất cả các môn đệ bối rối hoang mang như bầy ong vỡ tổ nhận được ơn bình an. Cả một thế giới hỗn mang giờ đây trở nên trật tự, có đường nét rõ rệt.
Sau khi Đức Giê-su tắt thở, thân xác các Tông đồ tuy còn sống mà tâm hồn như đã chết. Khi an táng Đức Giê-su trong huyệt đá, các ông cũng an táng tâm hồn mình trong những nấm mồ buồn sầu, nghi ngờ, đau khổ, mệt mỏi, thất vọng. Đức Giê-su phục sinh đã phá tung các phiến đá lấp cửa mộ. Người phá tan ngôi mộ buồn sầu, cho tâm hồn các ông phục sinh trong niềm vui. Người phá tan ngôi mộ nghi ngờ, cho tâm hồn các ông phục sinh trong đức tin vững mạnh. Người phá tan ngôi mộ đau khổ, cho tâm hồn các ông phục sinh trong hạnh phúc vô biên. Người phá tan ngôi mộ tuyệt vọng, cho tâm hồn các ông phục sinh trong niềm hi vọng tràn đầy. Đức Giê- su đã phục sinh các tâm hồn.
Tình trạng tâm hồn ta cũng giống như tình trạng tâm hồn các Tông đồ trong ngày Chúa chịu chết. Những thất bại, những khổ đau, những nghi nan, những chán chường, những khó khăn trong cuộc sống giống như những nấm mồ giam kín hồn ta trong thế giới sự chết. Làm sao ta có thể thoát ra ? Ta phải gặp gỡ Đức Kitô phục sinh.
Thật vậy, cuộc phục sinh tâm hồn của các Tông đồ đến từ những cuộc gặp gỡ với Đức Kitô Phục sinh. Các ngài đã cùng ăn uống, trò chuyện, tiếp xúc thân mật với Đức Kitô. Còn cảnh nào thân thương hơn cảnh Thầy trò quây quần bên bếp lửa, cùng nướng cá, nướng bánh ? Còn cảnh nào ấm cúng hơn cảnh Thầy trò chia sẻ với nhau bữa cơm chiều thanh đạm ? Còn cảnh nào đẹp hơn cảnh một buổi sáng bên bờ hồ, Đức Giê-su đã hỏi Phê-rô: Con có mến Thầy không ? Những gặp gỡ thân mật ấy đã đổ vào tâm hồn các ông một nguồn sống mới đầy tình yêu và hi vọng. Các ông được sinh lại trong ân phúc. Ngày ấy thực là ngày thứ nhất, ngày đầu tiên của cuộc sống mới trong ân nghĩa Chúa Phục Sinh.
Tôi cũng phải đến gặp gỡ Đức Kitô phục sinh. Gặp gỡ Người trong thánh lễ. Gặp gỡ Người trong các bí tích. Gặp gỡ Người trong các giờ cầu nguyện. Gặp gỡ Người khi thăm viếng những anh em bệnh tật. Gặp gỡ Người khi chia sẻ vật chất và tinh thần với những anh em túng thiếu. Những cuộc gặp gỡ đó sẽ khiến tâm hồn tôi được phục sinh. Đức Kitô sẽ đưa bản thân tôi, gia đình tôi, xứ đạo tôi, giáo phận tôi và đất nước tôi vào một đời sống mới, một đời sống chan hoà niềm bình an, niềm tin yêu và niềm hi vọng.
Hôm nay, một số anh chị em tân tòng sẽ được lãnh nhận phép rửa tội. Chúa sẽ rửa tâm hồn anh chị em sạch mọi tội lỗi. Chúa sẽ ban cho tâm hồn anh chị em một sự sống mới: sự sống của con cái Chúa. Hôm nay, anh chị em thực sự bắt đầu ngày thứ nhất trong đời sống mới của linh hồn. Xin chúc mừng anh chị em. Chúng tôi hân hoan đón nhận anh chị em gia nhập vào gia đình Đức Kitô.
Sau cùng, tôi thân ái cầu chúc tất cả anh chị em một mùa Phục sinh tràn đầy ơn Chúa và niềm vui.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Nghi nan, buồn chán, đau khổ, thất bại là những cái chết dần mòn. Hiện nay trong bạn đang có những cái chết nào ?
2- Mùa Phục sinh năm nay, còn những khúc mắc nào ngăn cản tâm hồn bạn sống lại với Chúa ?
3- Gặp gỡ Đức Kitô phục sinh là việc quan trọng nhất giúp bạn đổimới cuộc đời. Trong mùa Phục Sinh này, bạn quyết tâm làm gì để gặp được Đức Kitô phục sinh ?
Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt
-----------------------------
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Đêm Vọng Phục
1. “Đừng hoảng sợ, các bà tìm Đức Giêsu Nadareth, Đấng bị đóng đinh chứ gì. Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa” (Mc 16,6)
Ngày thứ nhất sau Sabbath lúc mặt trời mọc, như được tường thuật trongTin Mừng, một nhóm người nữ đi đến mộ để kính viếng xác Chúa Giêsu, Đấng, vì bị đóng đinh ngày thứ Sáu, đã được quấn vải cách hối hả và đặt trong mộ. Các bà tìm Người, nhưng không gặp Người: Người không còn ở tại chỗ người ta đã đặt Người. Tất cả những gì còn lại về Người là những dấu của sự chôn cất: mộ trống, những băng vải, khăn liệm. Dầu sao, các người nữ hoảng hốt khi thấy “một thanh niên, mặc áo trắng”, nói với các bà: “Người đã chỗi dậy, không còn đây nữa”.Tin tức gây hốt hoảng này, được dự định thay đổi giòng lịch sử, từ giây phút này trở đi tiếp tục vang dội từ thế hệ này qua thế hệ khác: một lời công bố xưa, nhưng v”n mới mẽ. Tin đó một lần nữa gây tiếng vang trong Vọng Phục sinh này, mẹ của tất cả các lễ vọng, và chính lúc này trải dài khắp mặt đất.
2. Ôi mầu nhiệm thẩm sâu của Đêm Thánh này! Đêm mà chúng ta sống lại biến cố lạ lùng Phục sinh. Nếu Chúa Kitô bị giữ làm tù nhân của ngôi mộ, thì nhân loại và tất cả tạo vật, nói được, sẽ mất ý nghĩa. Nhưng lạy Chúa Kitô, Chúa đã sống lại thật sự.Những lời Kinh Thánh chúng ta vừa nghe đọc trong Phụng vụ Lời được nên trọn và thực hiện qua mọi giai đoạn của toàn thể chương trình cứu rỗi. Lúc bắt đầu Sáng tạo, “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp”(St 1:31). Với Abraham Chúa đã hứa:” mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi” (St 22: 18). Ở đây lại đề nghị một trong những chủ đề xưa nhất của truyền thống Do thái, mạc khải ý nghĩa của sự Xuất hành khi “Chúa cứu dân Israel khỏi tay quân Ai cập” ( Xh 14: 30). Những lời hứa của các ngôn sứ tiếp tục nên trọn trong thời đại chúng ta: “Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta.. . “ (Ez. 36: 27).
3. Trong đêm Phục sinh này mọi sự bắt đầu trở lại, tạo vật lấy lại ý nghĩa đích thực của nó trong chưong trình cứu rỗi. Giống nhu một sự bắt đàu mới lịch sử và vũ trụ. Bởi vì Chúa Kitô đã sống lại, “mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cor 15:20). Chúa Kitô, “Adam cuối cùng”, đã trở thành “thần khì ban sự sống” (1 Cor 15: 45).Cũng chính tội của tổ tiên chúng ta được hát trong bài Công bố Phục sinh như là “tội có phúc”, “Ôi tội hồng phúc, vì đã đáng được Đấng Cứu chuộc cao sang như thế!” Nơi nào tội tràn trề, thì ân sủng lại càng tràn trề hơn nữa, và “ viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường” (Thánh vịnh đáp ca) của một toà nhà thiêng liêng không hề bị phá hủy. Trong Đêm Thánh này một dân mới được sinh ra, Thiên Chúa đã đóng ấn với họ một giao ước vĩnh cửu trong máu của Ngôi Lời nhập thể, chịu đóng đinh và sống lại.
4. Người ta trở thành một phần tử của dân được cứu chuộc nhờ Bí tích Rửa tội. Như Tông đồ Phaolo nhắc chúng ta trong thư gởi tín hữu Roma:”Vì được dìm vào trong cái chết của Người qua bí tích Rửa tội, chúng ta đã cùng được mai táng với Người, bỡi thế cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới “(6:4).Lời khuyên này đặc biệt danh cho các anh chị, hỡi những tân tòng rất thân yêu, trong một giây lát nữa, Mẹ Giáo hội sẽ ban cho các anh chị ân huệ cao cả của sự sống thần linh..Từ những miền khác nhau Chúa quan phòng đã đưa anh chị tới đây, tại mộ thánh Pherôo, để nhận lãnh những Bí tích gia nhập Kitô giáo: Rửa tội, Thên sức và Thánh Thể. Khi đi vào nhà Chúa theo con đường này, anh chị sẽ được hiến thánh với dầu hoan lạc và ăn bánh bởi Trời. Được quyên năng Chúa Thánh Thần nâng đỡ, anh chị em sẽ vững bền trong đức tin của anh chị em vào Chúa Kitô, và can đảm loan truyền Tin Mừng của Người.
5. Hỡi anh chị em rất thân mến tập trung ở đây! Trong một vài phút nữa chúng ta cũng được kết hợp với những tân tòng để lập lại những lời hứa Rửa tội của chúng ta. Chúng ta sẽ lại từ bỏ ma quĩ và tất cả những việc ma quĩ để cương quyết theo Chúa và việc làm cứu rỗi của Người. Bằng cách này, chúng ta sẽ dấn thân vững mạnh hơn sống một đời sống tin mừng. Lạy Mẹ Maria, chứng nhân vui mừng Phục sinh, xin giúp chúng con tất cả sống “một sự sống mới”, xin làm cho mỗi người chúng con ý thức rằng, vì đã đóng đinh “con người cũ” chúng con với Chúa Kitô, chúng con phải cônh nhận và cư xử như những con người mới, những người “sống cho Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô” ( x. Rm 6:4,11).Amen, Alleluia!
-----------------------------
Đêm Vọng Phục Sinh BMc 16, 1-8I.
Tìm hiểu Lời Chúa
1) Ý chính: Đức Giêsu Nadarét đã chỗi dậy từ trong cõi chết. Vào sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần, ba phụ nữ thân tín với Đức Giêsu rủ nhau thăm mồ để xức dầu thơm cho Người. Khi đến nơi thì hòn đá lớn chắn ngoài cửa mồ đã được lăn qua một bên, các bà vào mồ và khiếp sợ khi thấy một thanh niên mặc áo trắng đang ngồi đó. Sau khi trấn an các bà, anh ta đã thông báo về sự Phục Sinh của Đức Giêsu rồi trao cho các bà sứ mệnh đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh ấy cho Phêrô và các tông đồ khác, và lệnh truyền của Đức Giêsu là họ phải lập tức đi về Galilê gặp Người. Sau đó, các bà đã chạy khỏi mồ với tâm trạng sợ hãi và không dám nói với bất cứ ai về những điều vừa chứng kiến.
2) Chú thích:- Vừa hết ngày sa-bát, bà Maria Mácđala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ (Mc 16,1-2).
+ Vừa hết ngày sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, bắt đầu ban đêm của ngày mới là ngày thứ nhất trong tuần.
+ Mácđala: là một thị trấn nằm về phía Tây, ven Biển Hồ Ghennêxarét. Vì có nhiều bà Maria, nên để phân biệt , người ta thêm tên quê cũ Mácđala và gọi bà là Maria Mácđala. Trong Tin Mừng, Maria Mácđala là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi tại nhà người Pharisêu (x. c 7,37-48). Bà là một trong những người đầu tiên đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1; Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Trước đó bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu (x. Mc 15,40). Bà có mặt khi mai táng Đức Giêsu và đã quan tâm tới nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47).+ Bà Maria Mácđala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê: Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc các bà đi viếng mộ Đức Giêsu. Mátthêu kể tên 2 bà (x. Mt 28,1), Máccô thì kể tên 3 bà, Luca còn thêm bà Gioanna và các bà khác (x. Lc 24,10). Riêng Gioan chỉ thuật lại việc có liên quan đến bà Maria Mácđala. Cả 4 Tin Mừng đều kể tên bà Maria Mácđala, cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Giáo Hội thời sơ khai.
+ Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu: Vì thời gian an táng Đức Giêsu quá ngắn và việc an táng được thực hiện vội vã, nên thiếu sót việc xức dầu thơm ướp xác Đức Giêsu . Do đó, mấy phụ nữ này phải mua dầu thơm để xức trên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. Thắc mắc: Việc an táng Đức Giêsu đã được các tác giả sách Tin Mừng thuật lại thế nào ?Giải đáp: Vì Đức Giêsu chết vào giờ thứ chín tức 3 giờ chiều ngày thứ sáu áp lễ Vượt Qua trùng với ngày sabát (x. Mc 15,34.37) . Như vậy thời gian dành cho việc mai táng chỉ còn 3 tiếng đồng hồ trước khi bắt đầu ngày sabát . Vì luật Môsê qui định cấm an táng người chết vào ngày sabát (x. Ga 19,31), và phải tháo xác tử tội bị chết treo trên thập giá xuống mai táng trước khi mặt trời lặn (x. Đnl 21,22-23). Vậy, sau khi Đức Giêsu tắt thở , một môn đệ Đức Giêsu tên là Giôxép, đứng ra xin Philatô cho phép mai táng Người. Được quan Tổng trấn chấp thuận, Giôxép cùng với môn đệ Nicôđêmô đã hạ xác Đức Giêsu xuống khỏi thập giá. Ông Nicôđêmô mang theo chừng một trăm cân mộc trộn với trầm hương. Các ông lấy vải tẩm thuốc thơm mà quấn xác Đức Giêsu theo tục lệ an táng của dân Do Thái và mai táng Đức Giêsu trong một ngôi mộ mới chưa chôn cất ai (x. Ga 19,38-41). Đây là ngôi mộ bằng đá của ông Giôxép, được ông đồng ý nhường để an táng Đức Giêsu (X. Mt 27,60).
+ Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay ngày thứ nhất trong tuần được gọi là Chúa Nhật. Sánh tinh sương khi mặt trời mới mọc là khoảng 6 giờ sáng.- Các bà bảo nhau "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây ?" Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm (Mc 16,3-4):
+ Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây ? Ngôi mộ an táng Đức Giêsu là một mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. Đây là mộ của ông Giôxép người thành Arimathê, một người giàu sang và cũng là một môn đệ của Đức Giêsu (x. Mt 27,57-60). Trong khi bình thường lẽ ra Người phải bị chôn trong một ngôi mộ tập thể dành riêng cho các tử tội.
+ Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là vị thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó .- Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: " Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì ! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này !"
+ Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Ao dài trắng ám chỉ người đó là một thiên thần . Vị này thay mặt Đức Giêsu loan Tin Mừng Chúa đã phục sinh, và còn trao sứ mệnh cho các bà phải đi loan báo tin ấy cho Phêrô và các môn đệ khác.+ Các bà hoảng sợ: Hoảng sợ vì tưởng người mặc áo trắng là ma hiện hình.
+ Đức Giêsu Nadarét bị đóng đinh: Đức Giêsu quê tại làng Nadarét nên Người được gọi là Giêsu Nadarét. Đấng phục sinh đánh bại thần chết cũng chính là Đấng đã từng bị đóng đinh và chịu chết treo trên thập giá !+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giêsu đã sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại rồi.
+ Chỗ đã đặt Người đây này !: Thiên Thần khẳng định ngôi mộ chôn xác Đức Giêsu bây giờ đã trống rỗng, vì Người đã sống lại rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian thời gian như một phàm nhân nữa.- Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng: "Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông". Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá (Mc 16,7-8):
+ Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giêsu ngay từ sáng sớm, các bà này đã mua dầu thơm để xức cho Đức Giêsu. Nhưng Người đã sống lại, nên thiên thần đề nghị các bà đi báo tin vui cho các tông đồ rằng Người đã sống lại. Trong câu này, Phêrô được thiên thần nêu rõ tên, để tỏ lòng tôn trọng ông là đầu nhóm 12 tông đồ.
+ Người sẽ đến Galilê trước các ông: Đức Giêsu trước đó đã nói tiên tri: "Sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em" (Mc 14,28). Giờ đây Đức Giêsu thực hiện lời Người đã báo trước. Galilê là miền đất truyền giáo, vì tại đây có rất đông dân ngoại sống lẫn lộn với dân Do Thái.
+ Các bà chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía: Các bà run sợ vì đã gặp một vị thiên thần của Thiên Chúa.
+ Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá: Máccô muốn đề cao vai trò của các tông đồ trong sứ mệnh loan Tin Mừng. Riêng về phần các bà, do tính khí khác thường, không làm chủ được sự sợ hãi và dễ bị hoang mang dao động...nên không chu toàn sứ mệnh được trao. Vì thế, ngày nay Giáo Hội luôn theo truyền thống từ thời các tông đồ, là không truyền chức linh mục cho chị em phụ nữ. Công việc phù hợp với bản năng người phụ nữ là phục vụ hậu cần, và dâng của cải để tích cực cộng tác vào công cuộc truyền giáo của Hội Thánh.Thắc mắc 1: So sánh thân xác của Đức Giêsu sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào ? Thân xác của các người được Đức Giêsu làm phép lạ cho hồi sinh như: ông Ladarô, con trai bà góa thành Nain hay con gái ông Giaia có giống với thân xác loài người sẽ sống lại vào ngày tận thế không ?Giải đáp:
+ Đức Giêsu sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giêsu đã chịu tử nạn vào chiều thứ sáu tuần thánh, như Người đã chứng minh bằng việc cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho Tôma nhìn xem dấu đinh ở bàn tay, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Người (x. Ga 20,25. 27-29). Người cũng chứng minh mình là người có xương thịt, khi nói với các môn đệ: "Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ? Nhìn chân tay Thầy coi, Chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây ? Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: Ở đây anh em có gì ăn không ? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông" (Lc 24,38-43).
+ Nhưng thân xác của Chúa Giêsu Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Maria Mácđala gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Emmau cùng đi và nói chuyện với Đức Giêsu suốt quảng đường dài 60 chặng (khoảng 30 cây số), mà không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa đóng kín để vào trong nhà hiện ra với tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc hiện ra lúc lại đột nhiên biến mất (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh hiện diện ở khắp nơi . Chẳng hạn: dù không có mặt nhưng Người vẫn nghe được yêu cầu của Tôma và sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi ấy (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giêsu Phục Sinh đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng không thể xác định được Người đang ở nơi nào trên trời (x. Lc 24,51; Pl 2,9-11).
+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giêsu làm phép lạ hồi sinh như: Ong Ladarô chết và được chôn 4 ngày trong mồ (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Nain chết và đang mang đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Giaia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giêsu cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại tiếp tục bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giêsu Phục Sinh. Nghĩa là thân xác người lành sẽ sống lại, giống như trải qua một bước nhẩy vọt để bước vào cuộc sống mới vô cùng cao quí. Đó là thân xác của sự vinh quang, không có thể bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
Thắc mắc 2: "Phép Rửa Mới trong cái chết" mà Đức Giêsu loan báo với các môn đệ trước khi người chịu khổ nạn là phép gì ? Tại sao lại gọi là phép Rửa ? Ai lập Phép Rửa Tội và người chịu phép Rửa Tội sẽ nhận được ơn gì ? Người chịu phép Rửa Tội có bổn phận ăn ở thế nào ? Trong Thánh Lễ Vọng Phục Sinh, các lễ nghi liên quan đến phép Rửa Tội là những nghi lễ gì và có ý nghĩa thế nào ? Giải đáp:
+ Phép Rửa được Đức Giêsu lãnh nhận nơi Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan là hình bóng của Phép Rửa Mới "trong cái chết" mà người sẽ phải trải qua, để ban Ơn Cứu Độ cho loài người. Phép Rửa Mới này chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Người, như Người đã nói: "Thầy còn một phép Rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất !" (Lc 12,50).
+ Khi chịu phép Rửa của Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã được dìm toàn thân trong dòng nước sông, sau đó được trồi lên khỏi nước, và được Thánh Thần lấy hình chim câu đậu xuống trên Người, để xức dầu thiêng liêng tấn phong Người làm Đấng Thiên Sai. Rồi có tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống công nhận Người là "Con rất yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha" (x. Mt 3,16-17). Cũng thế, trong cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu đã được môn đệ an táng trong mồ và đến ngày thứ ba sống lại. Rồi Người hiện ra thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ và trao sứ mệnh đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (X. Mt 28,19), "làm chứng cho Người tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (x. Cv 1,8).
+ Phép Rửa Tội do Đức Giêsu thiết lập, là sự tái sinh bởi Nước và Thánh Thần (x. Ga 3,5), làm cho người tín hữu trở nên con Thiên Chúa (x. 1 Ga 3,1-2). Chính khi được dìm trong dòng nước (tượng trưng sự chết), và được trồi lên mặt nước (tượng trưng sự sống lại), thì các tín hữu sẽ được đầy ơn Thánh Thần để trở nên con Thiên Chúa và anh em của mọi người (x. Gl 3,27). Họ có bổn phận phải kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu trong mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh: "Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ được cùng sống với Người... Anh em hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu" (x. Rm 6,8.11).
+ Trong Lễ Đêm Vọng Phục Sinh, cùng với các dự tòng, các tín hữu cũng lặp lại lời hứa khi chịu phép Rửa Tội là: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ ma quỉ và từ bỏ hết những sự dữ thuộc về ma quỉ, rồi phải tuyên xưng đức Tin vào Chúa Ba Ngôi, vào Đức Kitô và Hội Thánh (x. Ga 3,3-8; Mt 28,19-20; Mc 16,16). Trong Bí Tích Rửa Tội, người dự tòng được dìm mình trong giếng nước Rửa Tội (x. Cv 8,38) hay được đổ nước trên đầu (x.Điđakhê 7,3), tượng trưng cho sự chết và an táng của Đức Giêsu. Nhờ đó, họ sẽ được tha tội Tổ Tông Truyền, và mọi tội riêng đã phạm nhờ công nghiệp Đức Giêsu (x. Rm 6,6). Sau đó họ được đưa ra khỏi nước, tượng trưng sự sống lại (x. Rm 6,11), họ được gia nhập vào Hội Thánh, qua việc mặc tấm áo trắng tinh, được lãnh ơn Thánh Thần qua cử chỉ đặt tay (x. Cv 8,17; 19,6), được xức dầu (Chrisma) để trở thành Kitô hữu, tay cầm cây nến được nhận ánh sáng từ nến Phục Sinh, tượng trưng Đức Kitô sống lại (x. Mt 25,1; Lc 12,35). Họ được rước lên gần gian cung thánh để tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau cùng họ được cầu chúc ra đi bình an và đầy niềm vui phục sinh để nên chứng nhân cho Đức Giêsu trước mặt người đời và dẫn đưa họ trở về làm con cái Thiên Chúa.II. Học sống Lời Chúa1)Đức Giêsu đã sống lại, không còn ở đây nữa (Mc 16,6):
- Câu chuyện: Con cánh quýt.Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (HollyWood) tên Sơ-siu đơ Mi-ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bổng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tung tăng đùa giỡn với nhau trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn bò lên mạn thuyền cạnh ghế ông ngồi, và nằm im như chết. Đơ Mi-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Mi-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy nó như đã bị chết khô. Rồi bổng chốc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiết đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng từ từ lộ ra . Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn kia. Đơ Mi-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.- Suy niệm:
+ Ai trong chúng ta cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt , với sự phục sinh của Đức Giêsu: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giêsu cũng bị chết treo trên cây thập giá . Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giêsu cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết đến tình trạng sống lại sau chưa đầy 3 ngày. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giêsu cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra sau khi Người sống lại và hiện ra tiếp xúc nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giêsu sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó...
+ "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại": Đây là lời tuyên xưng đức tin của các tín hữu trong kinh tin kính. Vào ngày tận thế, thân xác chúng ta sẽ trở nên giống như thân xác Đức Giêsu phục sinh, nghĩa là có tính siêu việt và thiêng liêng. Trời Mới Đất Mới sẽ xuất hiện khi Đức Giêsu, Vua Mêsia xuất hiện để phán xét chung nhân loại vào ngày tận thế. Ngày ấy mọi người đều được Thiên Chúa cho sống lại. Nhưng những ai tin và sống đức tin qua hành động yêu thương phục vụ người đói khát, ở trần, đau yếu, ở tù... thì sẽ được Vua Giêsu Thẩm Phán xét xử khoan dung và ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời. Còn những kẻ cố chấp trong sự bất tín của mình , ăn ở thất nhân ác đức và cam tâm làm tay sai cho ma quỉ , thể hiện qua thái độ ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, không sẵn lòng giúp đỡ và phục vụ tha nhân...thì sẽ bị phạt phải vào trong hỏa ngục đời đời, nơi dành riêng cho ma quỉ và những kẻ đi theo chúng. Do đó, sự thưởng phạt sau này có liên quan mật thiết với cuộc sống hiện tại ta đang sống. Vậy trong Mùa Phục Sinh, mỗi người chúng ta quyết tâm làm gì để được liệt vào hàng ngũ các con chiên ngoan và xứng đáng được nghe lời Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời ?
2- Anh em hãy ăn ở như con cái Ánh sáng (Ep 5,8):- Câu chuyện:Một hôm, một lái buôn An Độ ngồi ăn chung với vị linh mục thừa sai, tự nhiên ông ta nhìn vào mặt vị này và lên tiếng hỏi như sau: "Tôi cứ thắc mắc không hiểu ngài đã thoa chất gì lên mặt, mà lúc nào tôi cũng thấy mặt Ngài rạng rỡ vui tươi ?". Vị linh mục lấy làm ngạc nhiên trả lời rằng: "Tôi chẳng thoa chất gì lên mặt cả !" Nhưng ông lái buôn An Độ lại khẳng định thêm khi nói: 'Chắc là có. Tôi chắc chắn là có mà ! Tôi thấy hầu hết những người tin Chúa Giêsu đều có vẻ mặt tươi sáng rạng rỡ như ông vậy. Tôi đã trông thấy họ ở nhiều thành phố như Agra, Surát và ngay cả tại thành phố Bombay này nữa !" Bất chợt vị linh mục đã hiểu ra và đã trả lời ông lái buôn kia như sau: "Bây giờ thì tôi đã hiểu ông muốn nói gì rồi. Đó là sự rạng rỡ tươi vui trên mặt của chúng tôi. Thực ra sự tươi vui rạng rỡ này không phải do thoa chất gì lên mặt, nhưng nó phát ra từ trong tâm hồn. Đó chính là sự phản chiếu ánh sáng tin yêu trong lòng người tín hữu chúng tôi".- Câu hỏi thảo luận: Bí tích Rửa tội do Đức Giêsu lập gồm hai yếu tố: Bên ngoài là sự tẩy rửa bằng sự dìm mình trong dòng nước sông, và bên trong được tái sinh nên con Thiên Chúa bởi ơn Thánh Thần. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, là người đã chịu phép Rửa Tội, nhưng chúng ta đã được tái sinh thực sự, trở nên con yêu dấu của Thiên Chúa chưa ? chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời ?Đáp: Một người chỉ thực sự được tái sinh làm con Thiên Chúa bởi quyền năng Thánh Thần, khi biểu lộ ra ngoài bằng những hành động sau đây:
+ Đối với Thiên Chúa: Họ luôn chu toàn bổn phận hiếu thảo qua việc siêng năng cầu nguyện kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và lãnh nhận các phép Bí Tích để nhận được ơn thánh hóa; Luôn lắng nghe lời Chúa, suy niệm và xin vâng ý Chúa; Tuân giữ 10 giới răn của Chúa và 6 điều luật Hội Thánh; Thực hành các nhân đức để làm đẹp lòng Thiên Chúa.
+ Đối với tha nhân: Sống hiền hòa khiêm tốn noi gương Đức Giêsu; Sống vị tha bác ái và dấn thân phục vụ để nên giống Người. Trong Mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta cần khám phá ra tật xấu nghiêm trọng nhất nơi mình để chừa cải. Ngoài ra , mỗi người chúng ta quyết tâm sẽ làm một việc tốt như: Thăm một bệnh nhân liệt giường và giúp họ có thêm phương tiện chữa bệnh theo khả năng của mình, chia sẻ cơm bánh cho một người đang bị đói khát ; An ủi động viên một người đang gặp đau khổ về thể xác cũng như tinh thần...III. Hiệp sống nguyện cầu
1) Lạy Chúa Giêsu, Nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Trong những lúc ấy, con cảm thấy như bị húa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong ! Nhưng lạy Chúa, con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội hèn nhát chạy trốn và chối không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi kết án tử hình thập gía, bị kẻ thù xỉ vã mắng nhiếc khi bị treo trên cây thập tự, cảm thấy bị Chúa Cha bỏ rơi... Trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa đã không nản lòng thất vọng, nhưng vẫn một lòng tin tưởng và luôn phó thác cậy trông .Và quả thật, nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy từ trong mồ và được Chúa Cha tôn vinh, đã mang lại ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin cho chúng con sẵn sàng chịu đựng đau khổ như thánh giá Chúa gửi đến. Nhờ đó, một khi cùng chết với Chúa thì hy vọng chúng con sẽ cùng được sống lại với Chúa sau này.X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Khi sa ngã phạm tội, khi mắc phải những thói hư tật xấu như kêu căng tự mãn, ích kỷ hại nhân, mê đắm xác thịt , gây gỗ khó ưa, ăn nhậu say sỉn, giận hờn ganh ghét, lười biếng việc đạo, chơi bời nghiện hút... là chúng con đang bị chết về phần tinh thần, đang ở dưới quyền lực của ma quỉ và sự gian ác tối tăm. Xin Mẹ giúp chúng con sớm ăn năn sám hối, quyết tâm chừa cải các thói hư tật xấu, bằng việc khiêm nhường xưng thú tội lỗi của chúng con nơi tòa giải tội, quyết tâm xa lánh dịp tội và làm việc đền tội cân xứng. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được sống lại trong ơn nghĩa Chúa và sau này được hưởng hạnh phúc với Chúa trên Thiên Đàng.X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Lm. Đan Vinh
-----------------------------
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai. Căn cứ vào các Sách Tin Mừng và nhất là sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có mấy đặc điểm sau:
Đó là cộng đoàn cầu nguyện. Hoàn cảnh ban đầu với những cộng đoàn bé nhỏ, những con người yếu đuối. Kỷ niệm về Đức Ki-tô, người Thầy thân thương còn quá tươi mới, quá đậm nét. Đó là lý do khiến các tín hữu sơ khai tha thiết họp nhau cầu nguyện. Những buổi cầu nguyện là những buổi ôn lại kỷ niệm của Thầy Chí Thánh. Các ngài bẻ bánh để tái diễn cử chỉ thân thương của Thầy. Các ngài kể cho nhau nghe những lời nói và những việc làm của Thầy để ghi tâm khắc cốt. Khao khát sự hiện diện của Thầy đã làm cho lời cầu nguyện của các ngài trở nên sống động. Và Đức Ki-tô Phục Sinh vẫn thường đến an ủi các ngài trong các buổi cầu nguyện ấy.
Đó là cộng đoàn Đức Tin. Các ngài quây quần sống bên nhau vì cùng chung một niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh. Niềm tin ấy rất mãnh liệt vì các ngài đã được tận mắt nhìn thấy Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là lý trí mà còn ảnh hưởng tới cả cuộc sống. Niềm tin ấy không chỉ biểu lộ trong những giờ cầu nguyện mà còn đi sâu và thực hiện cụ thể trong những chọn lựa, trong những sinh hoạt đời thường.
Cộng đoàn đóng vai trò gìn giữ, bồi dưỡng và phục hồi Đức Tin. Như trường hợp của Tông Đồ Tô-ma. Ông tìm lại được Đức Tin nhờ sự giúp đỡ của cộng đoàn. Chúa ban lại Đức Tin cho ông khi ông ở giữa cộng đoàn.
Đó là cộng đoàn đức ái. Đức Tin chân thật sẽ dẫn đến đức ái. Thật sự tin Chúa sẽ dẫn đến yêu mến Chúa. Thật sự yêu mến Chúa sẽ biểu lộ trong tình yêu mến tha nhân. Nên các tín hữu sơ khai tự nhiên đồng tâm nhất trí với nhau.
Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng lời nói mà nhất là cả trong việc chia sẻ của cải vật chất. “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung... Trong cộng đoàn không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu”.
Thật đẹp và đáng mơ ước. Ai mà không mong muốn được sống với những con người như thế. Ai mà không mong muốn được chia sẻ đời sống của một cộng đoàn như thế.
Đó là cộng đoàn chứng nhân. Các ngài làm chứng cho nhau. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô Phục Sinh quá mãnh liệt làm cho các ngài sung sướng hạnh phúc, không thể kìm giữ, nên đã trào dâng trong việc chia sẻ với bạn bè. Câu nói “Chúng tôi đã thấy Ngài” là câu nói cửa miệng của các Tông Đồ. Ta được nghe các chứng từ dồn dập của Ma-ri-a Mác-đa-la, của Phê-rô và Gio-an, của các môn đệ đi làng Em-mau, và muộn màng nhưng mãnh liệt trong tiếng kêu của Tô-ma.
Hữu xạ tự nhiên hương. Chứng từ của các ngài lan toả ra cả những người chung quanh. Trước hết là do đời sống của các ngài. Đời sống Đức Tin mạnh mẽ. Đời sống cầu nguyện sống động. Đời sống bác ái chan hoà. Tất cả trở thành một lời chứng hùng hồn, có sức thuyết phục hơn biết bao lời hay ý đẹp. Hơn thế nữa, các ngài còn hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Bất chấp khó khăn thử thách. Bất chấp mất danh vọng chức quyền. Bất chấp cả mất mạng sống.
Cộng đoàn Hội Thánh sơ khai có những nét đẹp như thế là nhờ các ngài đã gặp gỡ Đức Ki-tô Phục Sinh, đã đón nhận được Ơn Phục Sinh nên đã hoàn toàn thay da đổi thịt, trở thành những con người mới. Đó không còn là một cộng đoàn bình thường nữa. Đó là một cộng đoàn Phục Sinh. Cộng đoàn phục sinh đã vượt qua trần gian. Cộng đoàn Phục Sinh tiên báo cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.
Gm. NGÔ QUANG KIỆT, Giáo Phận Lạng Sơn
-----------------------------
Lễ Phục Sinh có hai lễ – lễ tối thứ bảy và lễ sáng hôm nay – Cả hai lễ đều cùng mừng kính một Mầu nhiệm Đức Ki-tô Phục Sinh. và cùng mừng kính cuộc Vượt Qua Mới. Về mặt Phụng Vụ, ngày hôm nay có tính cách chủ chốt, vì là Chúa Nhật đầu, Chúa Nhật Mẹ của mọi Chúa Nhật trong năm.
Dĩ nhiên một trong những cảm tưởng đầu tiên của chúng ta là Thánh Lễ hôm nay ít long trọng hơn. Có lẽ nhiều người muốn nó thật long trọng, có những lễ nghi đặc biệt, có những bài Kinh Thánh dài hơn mọi khi, giống như lễ tối thứ bảy hôm qua. Thế nhưng ta hãy chấp nhận rằng mỗi lễ có một tính cách riêng, một mục đích riêng:
Có thể nói Thánh Lễ tối hôm qua trang trọng, đẹp mắt, gợi cảm, hấp dẫn, đó là để dọn lòng ta đón nghe lời công bố vui mừng về sự kiện Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, đón nhận bằng mắt, bằng tai, bằng tâm hồn: mắt chứng kiến những cử hành Phụng Vụ, tai nghe nhiều bài Kinh Thánh và nhiều bài hát hay, tâm hôn sốt sắng bay bổng khi dự lễ. Còn Thánh Lễ hôm nay, ít vẻ hấp dẫn long trọng bề ngoài hơn, có mục đích nhắc chúng ta đừng chỉ xem, đừng chỉ nhìn cách hời hợt bên ngoài, mà cần đi vào chiều sâu của vấn đề, xác tín về Mầu Nhiệm và sống Mầu Nhiệm mình tin nhận.
1. MỜI GỌI XÁC TÍN VÀO BIẾN CỐ PHỤC SINH:
Trước hết, Thánh Lễ hôm nay mời gọi chúng ta đón nhận sự làm chứng của các kẻ tin đầu tiên để mình cũng tin Đức Ki-tô thật sự đã sống lại. Dĩ nhiên bài Tin Mừng chưa nói rõ, chưa nói hết về niềm tin của chị Ma-ri-a Mác-đa-la, cũng như của hai Tông Đồ Phê-rô và Gio-an. Mục đích của tác giả là cho thấy chị Ma-ri-a không mắc phải ảo giác, mà thấy ngôi mộ trống thật, và hai Tông Đồ chạy đến mộ đã trông thấy khăn liệm che đầu Thầy cuộn lại để riêng một chỗ, không để lẫn với những giây băng nhỏ, đã hiểu đây không phải là một vụ ăn trộm xác Thầy, nhất là với trái tim có tình mến, Tông Đồ Gio-an đã bắt đầu tin Thầy sống lại.
Để bổ túc cho bài Tin Mừng, đoạn sách Công Vụ cho thấy sự thay đổi lạ lùng nơi các Tông Đồ, nhất là nơi thánh Phê-rô: một kẻ khi trước ít học, yếu hèn, nhát đảm, mà nay mạnh dạn làm chứng về Thầy. Như thế, niềm tin và sự thay đổi đời sống của các Tông Đồ chứng minh đã phải có một sự kiện thật: đó là Đức Giê-su đã sống lại.
2. MỜI GỌI XÁC TÍN VÀO CUỘC VƯỢT QUA MỚI:
Thứ hai, lễ hôm nay mời gọi chúng ta xác tín rằng cuộc Vượt Qua Mới do Đức Giê-su là Con Thiên Chúa thực hiện còn vô cùng quan trọng và hữu ích hơn cuộc Vượt Qua cũ, như đã nói trong lễ tối hôm qua: tuy rằng cuộc Vượt Qua Mới không hữu hình, rõ ràng, rầm rộ như cuộc di chuyển của đám đông mấy trăm ngàn người Do-thái ra khỏi Ai-cập và băng qua Biển Đỏ, vì cuộc Vượt Qua mới vô hình và thuộc thế giới siêu nhiên, thế nhưng nó mang lại sự giải phóng, sự sống và hạnh phúc đời đời cho con người.
Do vậy, cuộc Vượt Qua Mới này đáng quý hơn cho đời người chúng ta. Nếu không có nó thì chúng ta cũng giống người Do-thái ra khỏi Ai-cập ngày xưa mà thôi, nghĩa là chỉ sống thêm mấy chục năm, rồi cũng chết, thế là hết. Không có Tin Mừng nào lớn cho đời ta cho bằng cuộc Vượt Qua mới này.
3. MỜI GỌI MỘT QUYẾT TÂM SỐNG TIN MỪNG:
Và đây là điểm thứ ba: đứng trước cuộc Vượt Qua mới này, chúng ta phải xác định lập trường và sự chọn lựa của mình một cách nghiêm túc. Ta phải đặt Mầu Nhiệm Phục Sinh trước trái tim ta, nghĩa là trước chọn lựa và quyết định của mình. Phải xác định rõ: mình có tin nhận mầu nhiệm này không, mình có đem Mầu nhiệm này ra mà sống hay không. Chính do sự chọn lựa riêng tư, mà giữa nhân loại có hai hạng người đối chọi nhau: bên tin nhận thì giống như người Do-thái đã ra khỏi Ai-cập – bên không tin thì như người Do-thái vẫn còn ở trong đất Ai-cập, họ chưa ra khỏi bóng tối sự chết, chưa bước vào sự sống đời đời. Chính do quyết định cá nhân, mà ngay bản thân mỗi người. cũng khác: có lúc thì mình ở bên này Biển Đỏ rồi, có lúc mình lại là kẻ còn ở bên bờ phía Ai-cập.
Chắc chắn nếu được hỏi, ai trong chúng ta cũng trả lời ngay rằng: đối với tôi, mầu nhiệm Phục Sinh là mâu nhiệm trung tâm của lòng tin, của đời sống Hội Thánh và của chính đời sống tôi. Tôi biết mầu nhiệm này quá rồi, tôi tin vững quá rồi và tôi cũng chọn cuộc Vượt Qua mới hơn là cuộc Vượt Qua cũ, coi cuộc Vượt Qua mới quan trọng hơn, cần thiết hơn cho tôi.
Thế nhưng, biết và nói như thế chưa đủ. Vấn đề là làm sao cho Đức Tin nơi ta lớn lên và được thể hiện trong cuộc sống. Vấn đề là ta có biết bắt chước chị Ma-ri-a ra mộ từ sớm, hướng về và chiêm ngắm mầu nhiệm khổ nạn của Chúa, có biết theo gương Gio-an nhìn Chúa bằng con mắt khác, có bắt đầu thay đổi đời sống. có bớt nghĩ đến những sự dưới đất, để tìm kiếm những sự trên trời hay không. Thật sự ta được mời gọi làm những việc đó, vì nhờ thế, việc mừng Lễ Phục Sinh mới có ý nghĩa, đời sống ta mới xứng là đời đã cùng chết và cùng sống lại với Đức Ki-tô, và ta mới xứng là những kẻ đã tin nhận và công bố rằng Đức Ki-tô đã thật sự Phục Sinh.
Lm. An-tôn TRẦN THẾ PHIỆT, DCCT, Giáo Phận Đà Lạt
-----------------------------
1. ĐỨC GIÊ-SU SỐNG LẠI, MỘT BIẾN CỐ VĨ ĐẠI
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giê-su Phục Sinh. Ngài Phục Sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên cây thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phao-lô nói: “Nếu Đức Ki-tô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả Đức Tin của anh em cũng trống rỗng” ( 1 Cr 15, 14 ); “Nếu Đức Ki-tô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Ki-tô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” ( 1 Cr 15, 17 – 19 ).
2. NGÀI SỐNG LẠI THÌ ÍCH LỢI GÌ CHO CUỘC SỐNG HIỆN SINH CỦA TÔI?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giê-su sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi ? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã Hòan toàn qua đi ? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có Lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu ! Chuyện Đức Giê-su sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi ! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi ?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2.000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi ? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tùy thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. NGÀI SỐNG LẠI ĐỂ BIẾN TA THÀNH CON NGƯỜI MỚI
Đức Giê-su sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như Thánh Phao-lô nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” ( Rm 8, 11 ).
Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy ? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giê-su sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, Thánh Phao-lô nói: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” ( 1 Cr 6, 14 ). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới ?
4. MUỐN NÊN CON NGƯỜI MỚI, CON NGƯỜI CŨ PHẢI CHẾT ĐI
Đức Giê-su chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giê-su, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: “Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” ( Rm 6, 6 ). Thánh Phao-lô còn nói rõ hơn: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” ( Ep 4, 22 – 24 ).
5. CON NGƯỜI CŨ LÀ CON NGƯỜI ÍCH KỶ, CẦN ĐƯỢC LỘT BỎ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: “Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” ( Rm 8, 13 ).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự hủy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác” ( Ga 12, 24 ). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá hủy, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá hủy, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá hủy cái tôi ích kỷ của ta, thì cái tôi ấy không hề mất đi, mà chuyển hóa thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. MỘT NGHỊCH LÝ THỰC TẾ
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy cái tôi ích kỷ của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giê-su nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” ( Ga 12, 25 ).
Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. CON NGƯỜI MỚI LÀ CON NGƯỜI VỊ THA, BIẾT YÊU THƯƠNG
Con người mới được Thánh Phao-lô xác định: “Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa” ( Ep 4, 24 ); “con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình” ( Cl 3, 10 ). Như vậy, con người mới chính là con người Hòan nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thủy khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu.
Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới.
Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, “hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn” ( Ep 4, 23 ); “Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới” ( Rm 12, 2 ). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giê-su mới thật sự ích lợi cho đời sống Ki-tô hữu của ta.
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giê-su Phục Sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố Hòan toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
Gs. NGUYỄN CHÍNH KẾT
-----------------------------
Đã hơn hai ngàn năm, ngôi mộ trống vẫn là những vấn nạn hóc búa cho nhiều người, nhiều thế hệ, nhiều thế kỷ và chắc chắn những câu hỏi đó vẫn còn được nhiều người lập đi lập lại mãi mãi, lập lại không ngừng. Ngôi mộ trống xẩy ra trong ngày thứ nhất trong tuần có liên quan tới ngày đầu khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, thế giới và con người ( St 1, 1 – 2 ). Thiên Chúa vẫn thích đi từ cái không không, từ số Zérô để tạo dựng nên tất cả vì nếu tất cả đều đã có sẵn thì việc tạo thành quả không kỳ diệu. Câu chuyện Chúa Phục Sinh bắt đầu từ ngôi mộ trống.
NGÔI MỘ TRỐNG: MỘT SỰ KIỆN LỊCH SỬ VÀ HẾT SỨC HẤP DẪN, LY KỲ
Nếu ngày thứ nhất trong tuần sau khi Chúa Giê-su bị đóng đinh và được chôn cất trong mồ, nắp mồ đá được niêm phong cẩn thận. Đối với những nhà lãnh đạo Do-thái, các thượng tế, ký lục, biệt phái và những người Do-thái căm ghét vì ghen tỵ với Chúa Giê-su, đã tưởng rằng đóng đinh được Chúa, chôn Chúa vào trong mồ thế là hết. Họ không còn sợ một Giê-su sẽ lên ngôi nữa và thế là đi đời Ngài Giê-su.
Nếu, vẫn cái nếu của con người: nếu ngày thứ nhất trong tuần, xác Chúa vẫn còn nguyên vẹn và nắp mồ vẫn niêm phong, đậy kín thì Tin Mừng Phục Sinh sẽ không có và niềm tin vào Chúa sống lại cũng tiêu tan, lịch sử cứu độ sẽ chấm dứt và nhân loại chẳng có gì để nói, để thuyết trình, để biện bác. ”Thiên Chúa đã chết” như một ông văn sĩ nào đó đã viết. Không đâu, câu chuyện lại xảy ra hết sức ly kỳ và hấp dẫn: Ma-ri-a, người Mac-đa-la ra thăm mộ từ sáng tinh mơ, sau đó Phê-rô và Gio-an cũng ra mộ ( Ga 20, 1 và 3 ). Ma-ri-a đã về báo cáo với Phê-rô và Gio-an rằng: ”Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?” ( Ga 20, 2 )
Phê-rô và Gio-an đi ra mộ và chứng kiến xác Chúa không còn và ngôi mộ đã mở toang từ bao giờ. Câu chuyện Chúa chết vẫn còn nóng hổi: các người có thiện cảm, yêu mến Chúa Giê-su giờ đây vẫn còn bàng Hoàng, như tỉnh như mê, Ma-ri-a Mac-đa-la và mấy phụ nữ quý trọng Chúa Giê-su thì đi tìm Ngài với cái xác để họ ướp dầu thơm cho Chúa. Tất cả đều chỉ có thể nghĩ như thế và tất cả chỉ có ước mơ như vậy. Chúa chết thật rồi. Phi-la-tô, Hê-rô-đê và các nhà lãnh đạo Do-thái lúc đó đang trong giấc ngủ say, họ hả dạ vì đã loại trừ được một địch thủ có hạng, có ký.
Vâng, câu chuyện nếu chỉ có thế thì chấm dứt, nhân loại chẳng còn gì để bàn cãi, nhưng tất cả sự kiện xoay quanh ngôi mộ trống.. Ngôi mộ trống làm nên lịch sử !
Cô Ma-ri-a Mác-đa-la trong Tin Mừng của Thánh Gio-an hôm nay khi nhìn thấy mộ trống, không có xác Chúa còn nằm ở đó, bà đã nghĩ ngay đến việc người ta ăn trộm xác Chúa và đem đi mất. Bà không dám bước vào. Phê-rô và Gio-an lật đật đi ra mộ theo lời loan báo mất xác của bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Gio-an tới trước vì còn trẻ, chạy nhanh hơn, ông cúi nhìn và thấy các băng vải còn đó, nhưng không vào ( Ga 20, 5 ). Phê-rô tới và vào mộ, ông thấy các băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su.. ( Ga 20, 6 – 7 ). Gio-an cũng tới liền sau Phê-rô, ông đã thấy và đã tin ( Ga 20, 8 ). Thánh Gio-an đã nghiệm ra lời Kinh Thánh và ông đã nhận ra những dấu chỉ của Mầu Nhiệm Phục Sinh.
MỌI NGƯỜI ĐƯỢC TRAO SỨ MẠNG LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH
Đối diện với mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la và các người phụ nữ khác ( Mt 28, 8 –15 ) đã nhận ra dấu chỉ của Tin Mừng Phục Sinh, và là khởi điểm cho niềm hy vọng, cho dù các bà có âu lo, hoang mang, sợ sệt, nhưng các bà đã chóng vánh về loan báo cho các Tông Đồ. Khi hay tin Chúa sống lại các bà phụ nữ lại có sự nhạy bén tuyệt vời, các bà đã loan báo cho nhiều người: ”Chúa đã sống lại”.
Trước mộ trống, những người lính canh cũng đã thấy, nhưng họ không tin, con tim của họ đã chết thực, họ sợ cấp trên, họ sợ cho danh vọng, chỗ đứng của mình bị lung lay, họ tìm kiếm lợi lộc, hư danh, nên đã không hiểu được Chúa đã sống lại rồi. Gio-an đã tin và sau đó Phê-rô cũng đã tin. Tin Mừng Phục Sinh đã được các Tông Đồ làm chứng cách mãnh liệt. Từ tình trạng lo âu, sợ sệt khi nghe tin Chúa sống lại, các môn đệ vẫn ẩn mình trong phòng đóng kín cửa ( Ga 20, 19.26 ), các Ngài sẽ hăng say làm chứng cho Chúa Phục Sinh khi Chúa Thánh Thần biến đổi và nhất nhất, mọi Tông Đồ khi được Chúa Thánh Thần thay đổi, đã hiên ngang loan báo Tin Mừng Phục Sinh dẫu có phải hy sinh tới cả mạng sống của mình.
Tin Mừng ấy, ngày hôm nay và muôn thời vẫn được trao phó cho mọi người. Lời chứng của người có niềm tin chắc chắn sẽ có giá trị lớn lao vì họ đã được nhận lãnh sức sống của Chúa Phục Sinh. Liệu ta và mọi người có dám làm chứng cho Chúa Phục Sinh hay như các tên lính canh vì lợi lộc, vì hư danh mà xa rời niềm tin và sống phản Tin Mừng ?
Tôi còn nhớ, một hôm một già làng người Kơho đến thăm tôi và kể cho tôi câu chuyện nhỏ sau: ”..Khi người dân tộc chúng tôi biết nguồn, biết gốc của mình, chúng tôi rất hãnh diện chứng tỏ cho mọi người, mọi dân tộc biết cha ông, tổ tiên của chúng tôi có gốc là Mặt Trời, là Con của Mẹ Mặt Trời, có nguồn gốc thần thánh, chúng tôi sẵn sàng làm chứng về cội nguồn chúng tôi và chúng tôi quyết ăn thua với những ai khinh bỉ, coi chúng tôi là man di, là ngú ngớ, dại khờ”.
Câu chuyện tuy nhỏ, nhưng nó làm tôi suy nghĩ mãi: liệu mọi người có Đức Tin dám liều mình làm chứng cho Chúa Phục Sinh khi con người đang đối diện với những thách đố lớn lao về lòng tin hay không ?
Lạy Đức Ki-tô Phục Sinh, xin cho chúng con can đảm giữ vững Đức Tin để chúng con luôn nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện giữa cuộc đời, giữa mọi biến cố của đời sống con người và giúp chúng con hiên ngang làm chứng cho Chúa sống lại bất chấp mọi nghịch cảnh của cuộc đời.
Lm. Giu-se NGUYỄN HƯNG LỢI, DCCT, Giáo Phận Đà Lạt
-----------------------------
VÀ VĨNH CỬU
Mỗi người chúng ta lúc này vẫn còn giữ ấn tượng của quang cảnh và bầu khí lúc đầu lễ. Từ giữa cảnh tối tăm, sự sáng đã bừng lên từ cây nến Phục Sinh. Rồi chúng ta tung hô ánh sáng Đức Ki-tô. chúng ta dõi theo cây nến Phục Sinh. chúng ta nghe bài ca mừng Chúa Phục Sinh giữa lúc cộng đoàn trang nghiêm trong ánh nến lung linh và rộng khắp. Tự nhiên chúng ta đã sống lại cuộc Xuất Hành của dân Do-thái xưa kia và nghĩ đến cuộc Vượt Qua mới mà Thiên Chúa đã thực hiện nhờ Đức Ki-tô.
Quả thật quang cảnh Nhà Thờ chúng ta tối nay đã gợi lại lần dân Do-thái ra khỏi Ai-cập giữa đêm khuya, dưới sự hướng dẫn của Mô-sê. Chúng ta có thể tưởng tượng họ rầm rập bước đi làm sao, họ phở lở trong lòng như thế nào. Họ cảm kích trước điều Thiên Chúa thực hiện trước mắt họ ra sao, nhất là khi trông thấy xác quân Ai-cập nổi lềnh bềnh trên Biển Đỏ, như đoạn sách Xuất Hành vừa kể lại. Đối với họ, đêm Xuất hành mới đẹp làm sao, hào hùng làm sao.
Và có lúc quang cảnh cảm động long trọng của buổi lễ còn khiến chúng ta nghĩ xa hơn, nghĩ đến cuộc Vượt Qua mới. do Đức Ki-tô thực hiện cho cả nhân loại. Cuộc Vượt Qua mới này, tất cả chúng ta đều biết là nó lớn lao hơn cuộc Vượt Qua cũ, và vô cùng hữu ích cho đời làm người của ta.
Khi ngồi nghe lại các bài đọc Cựu Ước, kể về những việc Thiên Chúa thực hiện – như tạo dựng trời đất, cứu dân Do-thái khỏi Ai-cập, sai gởi các ngôn sứ đến dạy dỗ dân chọn – ta đã thấy đó thật là những việc lạ lùng và đã phải thán phục Thiên Chúa. thế nhưng cuộc Vượt Qua mới còn kỳ diệu và lớn lao hơn gấp bội, bởi vì nó chứng tỏ tình thương cao vời và quyền phép khôn lường của Thiên Chúa: Người vừa thi thố tình Cha một cách trọn vẹn hơn bao giờ hết, vừa lật ngược tình thế một cách tài tình, qua việc xây dựng lại những gì đổ vỡ, đổi mới những gì cũ kỹ, thậm chí biến sự tội thành hồng phúc.
Và cũng bởi vì hậu quả của cuộc Vượt Qua này có tính cách vĩnh cửu đời đời Thiên Chúa chiến thắng trên sự tội và sự chết, đời đời nhân loại được giải thoát khỏi cái chết tâm linh, đời đời con người được tự do và có một đời sống sáng tươi, đời đời con người được thuộc về Nước Trời và được hưởng địa vị làm con cái Thiên Chúa.
Đúng là cuộc Vượt Qua mới đã đời đời thay đổi số phận đen tối của nhân loại, dẫn đưa ta từ miền thâm u cõi chết sang miền đất đầy tràn ánh sáng và sự sống. Điều đáng mừng là ta đã có được diễm phúc này từ khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy. Từ ngày đó, tuy bề ngoài giống như những người khác, nhưng ta đã thuộc về doàn người Xuất Hành, cùng với Đức Ki-tô ra khỏi cõi chết, đặt chân vào cõi sống. Nhờ ơn Chúa giúp và với sự cộng tác phía ta, hiệu quả của cuộc Vượt Qua mới đã ngày càng được phát huy nơi ta.
Giờ đây, mọi người chúng ta hãy dọn lòng để lát nữa tuyên lại những lời mình hứa khi chịu Bí Tích Thánh Tẩy, và nói lên quyết tâm bước theo Đức Ki-tô, sống tư cách những kẻ đã được Phục Sinh với Ngài.
Lm. TRẦN THẾ PHIỆT, DCCT, Giáo Phận Đà Lạt
-----------------------------
Câu hỏi gợi ý:
1. Các tông đồ đánh cá suốt đêm mà không được gì cả, nhưng nghe lời Đức Giê-su, các ông đánh được rất nhiều cá. Điều đó có ý nghĩa gì không?
2. Khi lên bờ, các tông đồ thấy có sẵn cá và bánh cùng với than hồng đang cháy. Điều ấy có ý nghĩa gì, nhất là khi điều ấy lại xảy ra trước khi Đức Giê-su muốn trao trách nhiệm cho Phê-rô?
3. Tại sao trước khi trao nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên cho Phê-rô, Đức Giê-su lại hỏi ông tới ba lần «Anh có yêu mến Thầy không?». Có cần thiết phải hỏi nhiều lần như thế không?
Suy tư gợi ý:
1. Bài học cho những người làm tông đồ Chúa
Sau khi Đức Giê-su sống lại, Ngài chỉ thỉnh thoảng hiện ra và nói chuyện với các môn đệ, chứ không còn cảnh thầy trò suốt ngày bên nhau lang bạt từ làng này sang làng khác, thành này sang thành khác để loan báo Tin Mừng nữa. Vì thế, các môn đệ phải nghĩ tới chuyện kiếm gì để ăn, và các ông rủ nhau đi đánh cá, làm nghề cũ của mình. Nhân dịp này, Đức Giê-su đã cho các ông – cũng là cho chúng ta, những người muốn làm tông đồ của Ngài – một bài học bằng một biểu tượng sống động.
Các ông đánh cá suốt đêm, nhưng không bắt được gì cả. Nhưng khi các ông làm theo lời Đức Giê-su – lúc đó các ông chưa nhận ra là Ngài – thì các ông thành công mỹ mãn. Lưới đầy cá đến nỗi kéo lên không nổi. Điều này cho thấy: không phải con người cứ có tài năng và cứ nỗ lực làm điều mình muốn thì sẽ đạt được kết quả. Cổ nhân ta có câu: «Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên» (L’homme propose, Dieu dispose). Điều này làm ta nhớ lại lời nói của Đức Giê-su: «Không có Thầy, anh em không làm gì được» (Ga 15,5). Tuy nhiên, người tin vào Đức Giê-su không hề bi quan và cho rằng mình yếu đuối bất lực không làm được gì, vì họ tin rằng nhờ quyền năng của Thiên Chúa ở trong họ, họ có thể làm được tất cả mọi sự: «Đối với Thiên Chúa, không có sự gì là không thể làm được» (Lc 1,37), và «Tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Sự kiện nhờ Đức Giê-su, nhờ vâng lời Ngài mà các tông đồ bắt được mẻ lưới đầy cá chứng tỏ điều ấy.
Trong câu chuyện này, điều rất có ý nghĩa là: mặc dù các tông đồ đánh được thật nhiều cá, nhưng khi lên bờ, các ông thấy Đức Giê-su đã lo liệu cá và bánh cùng với than hồng để nướng cho các ông. Ngài lo lắng cho các ông thật tươm tất như một bà mẹ. Như vậy, nếu không lo đánh cá hay không đánh được cá, các ông vẫn có cá và bánh để ăn. Hành động này của Đức Giê-su có thể làm an tâm những người làm tông đồ cho Chúa: Thiên Chúa quan phòng luôn luôn quan tâm lo lắng đến những nhu cầu thực tế của đời sống cho những người làm việc cho Ngài.
Sự kiện lạ lùng này xảy ra ngay trước khi Đức Giê-su trao nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội cho Phê-rô càng làm nổi bật ý nghĩa trên. Ngài dường như muốn nói với Phê-rô: «Anh hãy chăm lo Giáo Hội của Thầy, Thầy chỉ cần anh lo việc ấy thôi. Còn việc sinh kế của anh, hãy phó thác cho Thầy, Thầy sẽ lo tất cả cho anh để anh hoàn toàn an tâm làm điều Thầy giao phó». Vì thế, những ai lo việc cho Thiên Chúa, hãy an tâm về đời sống cụ thể của mình. Ngài không thua lòng quảng đại của ta và để ta thiệt thòi đâu. Ngài đã từng nói: «Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước đã, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau» (Mt 6,33). Chẳng lẽ đó là một lời hứa hão?
Thật vậy, Ngài sẽ không để những người làm việc cho Ngài phải lâm tình trạng thiếu thốn, miễn là họ biết chấp nhận sống tinh thần thanh bần, một thứ thanh bần tự nguyện, không chủ trương phải thỏa mãn đầy đủ những nhu cầu giả tạo. Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng Thiên Chúa có hàng trăm ngàn cách thức khác nhau để hỗ trợ cho những ai lo lắng cho công việc của Ngài. Nếu không thế thì làm sao tôi có thể dành ưu tiên thì giờ cho những công việc của Ngài được? Tuy nhiên, những vị lãnh đạo trong Giáo Hội (giáo phận, giáo xứ, v.v…) không nên vì thế mà bỏ mặc những người đang lo việc cho Chúa ở dưới tay của mình. Các ngài nên bắt chước Thiên Chúa, biết quan tâm lo lắng đến đời sống cụ thể của những người lo việc cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội dưới quyền mình, dù họ là giáo sĩ hay giáo dân, đồng thời biết chia sẻ một cách quảng đại và cụ thể với họ ngay cả trong lãnh vực vật chất. Chúa đã quan tâm lo lắng cho đời sống mình thế nào, mình cũng hãy quan tâm lo lắng cho những người làm việc Chúa dưới quyền mình như vậy.
2. Làm công việc của Chúa, phải có nhiều tình yêu
Trước khi giao cho Phê-rô trách nhiệm coi sóc Giáo Hội của Ngài, Đức Giê-su hỏi ông tới ba lần «Anh có mến Thầy không?» đến nỗi đã làm ông buồn. Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Làm việc cho Chúa, cho Giáo Hội, cho nhân loại, hay cho xã hội đòi hỏi những người làm công việc ấy phải dấn thân, quên mình, phải có bụng chung, nghĩa là phải có rất nhiều tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân. Không có tình yêu, chúng ta không thể nào làm công việc ấy tốt đẹp được, vì nó đòi hỏi rất nhiều hy sinh, nhiều mồ hôi nước mắt, sự chấp nhận thiệt thòi. Không có tình yêu đích thật đối với Thiên Chúa và tha nhân mà làm việc cho Ngài, nhất là việc loan báo Tin Mừng và chăm sóc cho những cộng đoàn Giáo Hội, chúng ta sẽ không thể đáp ứng được những đòi hỏi gắt gao của công việc, không thể kiên nhẫn chịu đựng những bực bội, khó chịu, những hàm oan, đau khổ, v.v… Tệ nhất là ta biến việc phục vụ Thiên Chúa và tha nhân thành một lý do để được ưu đãi, được phục vụ, thành một cơ hội để hưởng thụ, để có những đặc quyền đặc lợi, nhất là để áp bức và gây bất công cho người khác.
Những ai đang phụ trách chăm sóc các cộng đoàn Giáo Hội, những ai đang làm việc cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và xã hội, hãy lắng nghe trong thâm tâm tiếng Chúa thường hỏi mình: «Con có thật sự yêu mến Cha không?», và hãy làm theo những gì tình yêu ấy đòi hỏi.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, con muốn lo việc cho Chúa, nhưng quả thật con còn có biết bao nhu cầu của bản thân con, của gia đình con khiến con phải lo lắng. Vì thế, con còn tâm trí hay thì giờ đâu để lo việc cho Chúa! Nhưng xin Chúa hãy giúp con tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, để con dám dấn thân thật sự cho những công việc của Chúa, của anh em đồng đạo và của đồng bào con. Amen.
(NCK)
-----------------------------
Câu hỏi gợi ý:
1.- Ai là người đầu tiên đã phát hiện ra dấu tích của Sự Phục sinh?
2.- Sự kiện Phục sinh của Đức Giê-su được củng cố bằng những chứng cớ nào?
3. Niềm Tin Phục sinh có những hệ quả gì?
Suy tư gợi ý:
1.- Vai trò của phụ nữ trong việc phát hiện ra dấu tích của Sự Phục sinh và trong sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh:
Chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy bà Ma-ri-a Mác-đa-la (trong Tin Mừng Lu-ca là các phụ nữ) lại là người đầu tiên được Thiên Chúa dành cho đặc ân nhận ra dấu tích của sự kiện Chúa Giê-su đã phục sinh. Khi thấy tảng đá lớn đã được lăn ra một bên và ngôi mộ trống, Ma-ri-a cũng chỉ có thể nghĩ ra rằng xác Thầy thân yêu đạ bị người ta lấy cắp. Trong Phúc âm Lu-ca thì các phụ nữ được giao trách nhiệm loan báo Tin Mừng Phục sinh cho các Tông đồ. Lẽ thừơng thì Nhóm Mười Một phải là những người đầu tiên được chứng kiến dấu tích của sự kiện Phục sinh và được giao sứ mạng và vinh dự loan báo Tin Mừng Phục sinh. Ơ đây cách hành động của Thiên Chúa cũng có những bất ngờ làm chúng ta ngạc nhiên, cũng như tại Bê Lem cách biến cố này hơn 30 năm về trước, chúng ta cũng đã gặp một bất ngờ tương tự: Những người đầu tiên được nghe Tin Mừng Thiên Chúa Giáng trần không phải là các tư tế, luật sĩ hay kinh sư là các giới chức của Đền thờ và Do Thái giáo. Cũng không phải là vua quan triều đình Hê-rô-đê ở Giê-ru-sa-lem. Những người đầu tiên được nghe Tin Mừng Thiên Chúa Giáng trần lại là những mục đồng nghèo hèn và các vua ngoại giáo phương Đông mà người Do Thái khinh thường và cho là bất xứng. Cách hành động của Thiên Chúa không giống như cách hành động của chúng ta, vì tư tưởng của Thiên Chúa khác xa tư tưởng của con người.
Vì thế, chúng ta không nên định sẵn cho Thiên Chúa một cách suy nghĩ và hành động, theo như cách suy nghĩ và hành động thường tình và thiển cận của chúng ta. Nếu Thiên Chúa lúc nào cũng hành động y như chúng ta nghĩ, thì còn đâu là quyền năng của Thiên Chúa. Nếu chúng ta biết hết về Thiên Chúa thì Thiên Chúa đâu còn gì hấp dẫn đối với chúng ta nữa. Tin theo Chúa cũng có nghĩa là lao mình vào một cuộc phiêu lưu đầy bất ngờ. Vì thế chúng ta - nhất là những linh mục, tu sĩ và những giáo dân được coi là người đạo đức - cần xem xét lại những định kiến có sẵn của mình: chúng ta có thói quen hạn chế cách sáng tạo của Thiên Chúa không? Chúng ta có lấy mình làm mẫu mực, làm tiêu chuẩn cho Thiên Chúa không?
2.- Những chứng cớ của sự kiện Chúa Ki-tô Phục sinh:
Muốn tìm các chứng cứ của sự kiện Phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta không thể chỉ dựa vào bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta phải đọc thêm những đoạn khác trong 4 Sách Phúc âm, để có đầy đủ các yếu tố. Thật vậy chúng ta có thể liệt kê các chứng cớ sau đây:
Tảng đá chắn cửa mộ lăn ra một bên và ngôi mộ trống,
Lời loan báo của sứ thần Thiên Chúa là hai người đàn ông mặc áo trắng có mặt trong mộ (trong Phúc âm Lu-ca),
Lời tiên báo (ít nhất là 3 lần) của chính Đức Giê-su khi ngài còn sống bên các môn đệ,
Sự kiện Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ nhiều lần,
Lòng tin và lời rao giảng của các Tông đồ và của các tín hữu thời sơ khai và các phép lạ kèm theo,
Chứng của các ngôn sứ trải dài suốt lịch sử ít-ra-en.
Tất cả các chứng cứ kể trên là nền tảng, là chỗ dựa cho Niềm Tin Phục sinh của chúng ta ngày nay.
3. Hệ quả của Niềm Tin Phục Sinh:
Tin vào Chúa Ki-tô Phục sinh không chỉ là tin trong tư tưởng mà là trong và bằng toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Như Thánh Phao-lô đã dẫn giải trong chương 6 thư gửi tín hữu Rô-ma, Niềm Tin Phục sinh khiến chúng ta được “nên một” với Chúa Giê-su Ki-tô. Nên một với Chúa Giê-su Ki-tô có nghĩa là chúng ta phải trải qua quá trình Tử nạn - Phục sinh như Người và với Người: tức là chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta từ bỏ tội lỗi và chọn lựa Thiên Chúa. Hay như trong thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, Thánh Phao-lô rút ra một hệ luận rất quan trọng cho người tin vào Chúa Ki-tô Phục sinh là việc tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới. Tìm kiếm những gì thuộc về thượng có nghĩa là gì nếu không phải là chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa, chọn lựa sống theo Người? Một hệ quả khác của Niềm Tin Phục Sinh là chúng ta được mời gọi trở thành những “người làm chứng” cho Đấng Phục Sinh. Làm chứng bằng lời nói và nhất là bằng việc làm, bằng cả cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta cần kiểm điểm đời sống xem thực sự chúng ta đã từ bỏ tội lỗi và “hơi hớm” của Sa-tan chưa? Xem trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta đã thực sự tìm kiếm những gì thuộc về Thiên Chúa chưa? Và đã làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục sinh như thế nào? Chúng ta cần tỉnh thức và khiêm tốn vì chúng ta rất dễ tự dối mình và sống trong ảo tưởng rằng thì là chúng ta đã là người đạo đức, thánh thiện, vì mọi người chung quanh cung kính nể trọng chúng ta và vẫn coi chúng ta là những người thánh thiện hoặc vì chúng ta là người dự lễ, dâng lễ và rước lễ hằng ngày và làm nhiều việc lành phước đức.
Nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, chúng con cảm tạ Cha vì hồng ân Niềm Tin Phục sinh mà Cha đã ban cho chúng con. Xin Cha cho chúng con mỗi ngày mỗi hiểu hơn và sống đầy đủ hơn Niềm Tin Phục sinh Ki-tô giáo. Xin Cha cho chúng con biết tìm kiếm Cha và những gì thuộc về Cha và biết làm chứng - bằng lời nói và việc làm - cho Đấng Phục sinh là Đức Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con. Amen.
(Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)
-----------------------------
Đức Kitô sống lại là trung tâm của phụng vụ lễ Phục Sinh. Ngài là đối tượng trước tiên của niềm tin, trước cả sự kiện mồ trống: "Ông đã thấy và ông đã tin" (Bài Tin Mừng). Ngài là đối tượng của lời loan báo làm chứng trước mặt toàn dân: "Họ đã treo Người trên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy" (Bài đọc 1). Ngài là đối tượng của cuộc biến đổi, là men và bánh mới của lòng tinh tuyền và chân thật: "hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm Chiên Lễ Vượt Qua của chúng ta." (Bài đọc 2)
SỨ ĐIỆP NIỀM TIN
Đức Kitô sống lại là đối tượng của niềm tin
Ngôi mộ trống không minh chứng được Đức Kitô đã sống lại. Bà Maria Mađalêna đã đến viếng mộ và đã kết luận: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." Phêrô vào trong mộ và "thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Người." Nhìn thấy ngôi mộ trống, cả Maria lẫn Phêrô đều không tin rằng Đức Giêsu đã sống lại. Chỉ mình Gioan "đã thấy và đã tin", bởi vì ngôi mộ trống đã giúp ông hiểu, theo lời Thánh kinh, thì Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết (Tin Mừng). Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công giáo nơi số 640 dạy rằng: "Điều này giả thiết rằng: khi thấy mộ trống, ông nhận ra việc mất xác Chúa không phải là do loài người." Trước đây, Gioan hiểu Kinh Thánh chỉ bằng những ý niệm, và vì thế nên ảnh hưởng đến tư tưởng của ông.
Nhưng giờ đây, khi đi vào trong mộ trống, khi nhìn thấy những băng vải và khăn che đầu, ông đã hiểu Kinh thánh bằng chính kinh nghiệm sống động. Đức Kitô sống lại chưa hiện ra cho ông, nhưng ông đã "thấy" Ngài, vì lời Chúa là chân thật; Những lần hiện ra của Đức Kitô sống lại cho các môn đệ chỉ củng cố niềm tin của họ vào sự Phục Sinh của Ngài.
Đức Kitô sống lại là đối tượng của lời loan báo
Khi có một cảm nghiệm thật sâu sắc người ta không thể lặng im được, ngay cả khi họ biết rõ những lời họ nói không có sức diễn tả đầy đủ và sống động cái cảm nghiệm đó. Cảm nghiệm về việc Đức Kitô sống lại đã gây một ấn tượng sâu sắc trong tâm hồn các tông đồ và các môn đệ đến nỗi họ cảm thấy bị thôi thúc phải loan báo cho những người chưa được nghe tin sống lại này. Không phải chỉ bị thôi thúc phải nói, họ còn bị thôi thúc phải làm chứng về điều ấy, loan báo sự thật ngay cả khi phải chịu đau khổ và bị giết chết, nếu cần. Giữ im lặng không nói về một cảm nghiệm như thế sẽ là một hành vi ích kỷ không thể tha thứ được. Đó là lý do tại sao trong những năm đầu các kitô hữu là những người "độc tín" khi họ mới loan báo Đức Kitô. Điều duy nhất họ rao giảng là "Đức Kitô đã bị người Do Thái giết chết, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết".
Tất cả những điều khác đều xoay quanh sứ điệp quan trọng này. Họ không loan báo đơn thuần bằng những ý tưởng, dù chúng có đẹp đến đâu đi nữa, nhưng bằng những sự kiện chính họ đã cảm nghiệm trước tiên. Cảm nghiệm về việc Đức Kitô sống lại không phải là điều thoáng qua. Cảm nghiệm đó đã trở thành chính cuộc sống của họ, và chính vì thế họ đã không ngừng loan báo sự sống lại của Đức Giêsu Kitô bằng lời và bằng chính sự sống của họ.
Đức Kitô sống lại là đối tượng của sự biến đổi
Có mối liên hệ thật chặt chẽ giữa sự sống lại của Đức Giêsu Kitô và sự biến đổi của con người. Đức Kitô, con người hoàn hảo, là người đầu tiên được Thiên Chúa biến đổi khi Thiên Chúa cho Người sống lại từ cõi chết, trở nên một con người tràn đầy Thần Khí. Thánh Phaolô nói với ta về cảm nghiệm đạo đức do việc biết Đức Kitô phục sinh mang lại, một cuộc biến đổi tận gốc rễ: tinh tuyền và chân thật. Đến lượt mình, người được Đức Kitô phục sinh biến đổi có khả năng làm biến đổi người khác, như men làm dậy cả đấu bột. Sự biến đổi mang tính truyền giáo và đạo đức này đặt nền tảng trên sự biến đổi nội tâm, do Thần Khí của Đức Kitô mang lại, làm cho tất cả những ai cảm nghiệm Đức Kitô phục sinh trở nên một dân hoàn toàn"thuộc linh", tràn đầy Thần Khí.
GỢI Ý MỤC VỤ
Kinh nghiệm Đức Kitô Sống lại
Kinh nghiệm là một điều gì đó mà con người đã trải qua hoặc đã làm; con người có thể đã hoặc chưa có kinh nghiệm. Con người không thể ra lệnh cho một người đại diện cho mình sống một kinh nghiệm tại một nơi nào đó. Kitô giáo là một niềm tin nhưng niềm tin được thâm nhập bằng kinh nghiệm sống để không bị tàn phai. Bất cứ người Kitô hữu nào đều có thể có kinh nghiệm về Đức Kitô Sống lại. Chúa nhật Phục sinh là ngày tốt hơn cả để xin Chúa ban cho ơn huệ được cảm nghiệm này! Người Kitô hữu có thể đặt mình vào tư thế đón nhận quà tặng kinh nghiệm này bằng cách phát triển sự gia tăng nhạy cảm thiêng liêng. Khi tiếp xúc với Thiên Chúa, chúng ta bắt đầu tận hưởng Thiên Chúa và những gì thuộc về Ngài, chúng ta có được khả năng nghe và vâng phục Thánh Thần, chúng ta sống phù hợp hơn với niềm tin của Giáo Hội. Đây là mảnh đất được canh tác để kinh nghiệm về Đức Kitô Phục sinh có thể xuất hiện và phát triển tươi tốt. Tất cả mọi người, không loại trừ ai, đều được kêu gọi đạt đến kinh nghiệm này.
Chúng ta không nên nghĩ rằng kinh nghiệm này chỉ dành cho một số nhà thần bí có xu hướng nào đó về một tình trạng như thế của tâm hồn. Đây là một kinh nghiệm quan trọng cho mọi người Kitô hữu. Những ai đã cảm nghiệm được không thể tiếp tục sống như vậy, ngay cả khi họ đã sống đời sống Kitô hữu tốt lành. Kinh nghiệm sống mạnh mẽ này chạm đến và biến đổi tâm thức, thói quen, cách sống, cách liên hệ với người khác, những động lực để hoạt động và ngay cả nhân cách của một con người. Nếu bạn đã sống kinh nghiệm Đức Kitô Phục sinh thì tôi nghĩ rằng bạn sẽ đồng ý rằng đó là một điều tốt. Nếu bạn chưa có cảm nghiệm này, hãy cầu xin Chúa ban cho sớm hết sức có thể. Ước gì đây là quà tặng mà Chúa muốn ban cho bạn trong Mùa Phục sinh này!
Sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô và Đạo đức Kitô giáo
Có một nền đạo đức Kitô giáo hay không? Ít ra Kitô giáo cũng có một cách sống những vấn đề đạo đức. Con người của Đức Giêsu Kitô, mầu nhiệm Phục sinh, là cơ sở cho đạo đức Kitô giáo. Một nền đạo đức không có nền móng nơi con người và sứ điệp của Đức Giêsu Kitô không thể được định nghĩa là của Kitô giáo. Và khi nói về đạo đức Kitô giáo, tôi không chỉ ám chỉ đến những giáo sư môn đạo đức tại các đại học, nhưng muốn nói đến cung cách ứng xử của người Kitô hữu trong công việc của họ, trước các phương tiện truyền thông đại chúng, trong bối cảnh gia đình, đối với vấn đề thuế, đối với vấn đề đa nguyên tôn giáo… Đức Kitô Phục sinh cho chúng ta chia sẻ đời sống thần linh của Ngài qua phép Rửa và ơn thánh hóa, và Ngài ước mong tiếp tục hiện diện trong lịch sử. Chúng ta hãy sống kinh nghiệm Đức Kitô sống lại và chúng ta hãy bảo đảm rằng cách ứng xử của mình luôn luôn có tính đạo đức và xứng đáng của con người. Khi đó, sự sống lại của Đức Kitô sẽ thực sự hiện diện ở trung tâm cuộc sống và niềm tin của chúng ta.
-----------------------------
Các bài đọc của Lễ Vọng Phục Sinh đều nói về vương quyền của Thiên Chúa thống trị trên mọi tạo thành và lịch sử. Những bản văn khác nhau được chọn ra từ Cựu Ước và Tân Ước cho phép ta ôn lại lịch sử vương quyền của Thiên Chúa. Ngài là Chủ tể của tinh tú trên bầu trời, của đại dương và muôn thú bò trên mặt đất. Đặc biệt Ngài là Chúa của con người và lịch sử của họ. Bài Tin Mừng cho ta thấy vương quyền của Thiên Chúa trên sự chết, qua việc Đức Giêsu Kitô sống lại. Người kitô hữu là phản ánh vương quyền của Thiên Chúa bởi vì, qua bí tích Thanh Tẩy, họ đã được sống lại với Đức Kitô.
SỨ ĐIỆP NIỀM TIN
Vương Quyền Của Thiên Chúa là tuyệt đối
Vào thời đại chúng ta ngày nay, người ta tán dương sự công bình, nên ý niệm về vương quyền có vẻ xa lạ và không được ưa thích. Nó làm người ta nghĩ ngay đến những hệ thống độc tài, những thái độ áp đặt trên người khác, hoàn toàn bất công vì lạm dụng quyền lực, về một cái gì đó gây đau khổ cho con người. Tuy nhiên, nó lại là sự kiện thực tế mà mọi hệ thống hợp pháp ( như gia đình, xã hội, tôn giáo hoặc chính trị) trong đó một phẩm trật, một quyền bính hay một chủ quyền cần phải có và tôn trọng. Theo tâm thức chung, khi ta nói vương quyền, ta nghĩ ngay đến nhà vua, là hiện thân vương quyền của mình trong lịch sử. Ngày nay, người ta nói đến chủ quyền quốc gia để chỉ sự độc lập của một nước được nhìn nhận trong mối bang giao quốc tế. Khi ta nói đến vương quyền của Thiên Chúa bằng ngôn ngữ tôn giáo và tâm linh, ta muốn nhấn mạnh điểm gì?
Trước tiên, theo các bài đọc, ta muốn nói đến chủ quyền của Thiên Chúa trên toàn thể tạo thành, do tay Ngài tạo dựng, nhờ lòng yêu thương bao la của Ngài. Thứ đến, chúng ta muốn đề cập đến việc Thiên Chúa điều khiển lịch sử, một lịch sử trong đó những biến cố của lịch sử trần tục đan xen và song hành với những biến cố của lịch sử cứu độ. Sau cùng, chúng ta muốn nói đến Thiên Chúa làm chủ trên sự chết và những gì bên kia cái chết, cõi vĩnh hằng. Không có gì sánh bằng quyền thống trị của Thiên Chúa, bởi vì duy chỉ mình Thiên Chúa tạo dựng và có quyền năng trên mọi tạo thành. Quyền thống trị của Ngài không biên giới, vì Ngài vượt trên mọi dân mọi thời để thực hiện mục đích cao trọng nhất là: ban ân phúc cho nhân loại và ơn cứu độ cho mọi người nam nữ. Quyền thống trị của Ngài không có "đối thủ", đặc biệt vì Thiên Chúa thực thi vương quyền của Ngài bằng một đường lối hoàn toàn tích cực. Ngài không phải là người đi chinh phục nhưng là Đấng giải phóng. Ngài không áp đặt uy quyền bằng sức mạnh, nhưng chứng tỏ tình yêu của Ngài trong tư cách một người cha. Ngài không để cho người ta mua chuộc; nhưng Ngài thực thi công lý vào lúc thích hợp. Trong đêm canh thức Phục Sinh, khi nhìn lại lịch sử cứu độ mà tuyệt đỉnh là sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, ta nhận ra được vương quyền của một Thiên Chúa nhân hậu và yêu thương nhân loại.
Nếu Đức Kitô không sống lại…
Thiết tưởng rằng đây là một ý tưởng mang lại lợi ích cho cuộc sống niềm tin của người kitô hữu. Thánh Phaolô cũng đã tự đặt mình trong tình huống như thế. Ngài đã nói gì?
1) Nếu Đức Kitô không sống lại, đức tin của ta ra vô ích. Đúng vậy, vì tâm điểm của đức tin là con người và cuộc sống của Đức Giêsu Nagiarét. Nếu Ngài là một con người chết trong dòng lịch sử, Ngài không còn phải là Thiên Chúa cũng chẳng phải là Đấng Hằng Sống nữa, và như thế niềm tin của chúng ta rỗng không.
2) Nếu Đức Kitô không sống lại, chúng ta là những nhân chứng giả của Thiên Chúa. Quả thật, hãy nghe thánh Phaolô và các tông đồ rao giảng thế nào? Chính Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu Kitô sống lại và đặt Ngài làm Chúa cả kẻ sống và kẻ chết.
3) Nếu Đức Kitô không sống lại, tội anh em không được tha. Nói cách khác, bí tích thanh tẩy chỉ là một nghi thức rỗng không và vô hiệu. Cùng chết với Đức Kitô thì cùng được sống lại với Ngài. Nếu Đức Kitô không sống lại, tội lỗi và sự dữ vẫn có tiếng nói cuối cùng (tồn tại).
4) Nếu Đức Kitô không sống lại, chúng ta là những người đáng thương nhất. Đúng vậy, vì niềm hy vọng của ta tan vỡ một cách bi thảm. Sau cùng, như thánh Phaolô, ta đi đến kết luận thật đẹp là, Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. (1 Cr 15,12-20).
GỢI Ý MỤC VỤ
Hy vọng không tàn phai
Như là con người thực tiễn và gắn liền với hiện tại, chúng ta không thể không hướng về phía trước hay không mở rộng tâm hồn để hy vọng dù đó là hy vọng thuần tuý trần thế hay hướng đến vĩnh cửu. Dù hy vọng có thể bị xem là yếu đuối, hy vọng định rõ cho thấy phần sâu thẳm nhất của hữu thể. Kitô giáo tạo ra sức mạnh cho niềm hy vọng của con người để họ tiếp tục hiện hữu cho đến giây phút cuối cùng và mở cho chúng ta hy vọng ở một mức độ cao hơn. Hy vọng của chúng ta không bị phai nhạt trong quyền quan phòng tối thượng của Thiên Chúa trên công cuộc sáng tạo và lịch sử. Đối với chúng ta, chủ quyền quan phòng Thiên Chúa có thể là mầu nhiệm, làm chúng ta lúng túng và không thể tiên đoán được, nhưng chúng ta tin rằng sự quan phòng này có thật và đặt tin tưởng vào sự quan phòng vì nó tạo sự an toàn cho công việc của ta và với thời gian trôi qua chúng ta thoáng nhận ra điều này.
Hy vọng của chúng ta không tàn phai nơi Đức Kitô, Đấng là Ánh sáng thế gian. Hy vọng này giống như ánh sáng chiếu soi với một sự rạng ngời mới mẻ như trong phần đầu của Đêm Vọng Phục Sinh. Có lẽ chúng ta bị cám dỗ nghĩ rằng bóng đêm đang có mặt dày đặc ở nhiều nơi. Nhưng hy vọng nơi Đức Kitô là Ánh Sáng phải tiếp tục cháy sáng lên.Ánh sáng đó trước tiên và trên hết xua tan đêm tối bên trong lương tâm con người rồi từ nội tâm ánh sáng này làm tiêu tan sự đen tối trong hành vi con người. Hy vọng của chúng ta không phai mờ nơi tính cách thanh tẩy và biến đổi của bí tích Rửa tội. Nếu niềm hy vọng của chúng ta vững bền, tại sao lại rửa tội trẻ em ngay từ khi mới sinh ra? Hy vọng nơi tính hiệu quả của bí tích Rửa tội đòi buộc người Kitô hữu sống trưởng thành và liên kết với bí tích này, tẩy sạch mọi tội lỗi trong thái độ biến đổi thiêng liêng và luân lý dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chứng nhân Phục sinh
Bài Tin Mừng kể về các phụ nữ và các Tông đồ là những chứng nhân của sự Phục sinh. Chứng tá phục sinh một cách công khai và chính thức tuỳ thuộc vào hàng giáo sĩ trong Giáo Hội, nhưng vẫn có thể nói đến chứng tá riêng tư hay tại gia mà mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi. Tất cả Giám mục, linh mục và phó tế phải là chứng nhân của việc Phục sinh qua việc loan báo mầu nhiệm bao la này, loan báo nhân danh Đức Kitô. Để công cuộc loan báo này có tính thuyết phục, các chứng nhân phải thể hiện sự khả tín của biến cố này nơi cuộc sống của họ, bởi vì khi họ đã cảm nghiệm và sống thì người khác mới nhận ra sự sống lại nơi các chứng nhân. Cha mẹ là những chứng nhân đặc biệt của sự Phục sinh và của toàn bộ niềm tin Kitô giáo. Khi cha mẹ tin vào sự phục sinh của Đức Kitô, sống với nét mặt và công việc của những người được ơn sống lại, cha mẹ sẽ làm cho con cái tin tưởng vào mầu nhiệm này. Giáo lý viên cũng là những chứng nhân quan trọng. Họ phải kết hợp cuộc sống của một nhà giáo và của một chứng nhân. Mọi giáo lý viên đã sống được như vậy chưa? Giáo phận phải rất quan tâm trong việc chọn lựa và huấn luyện các giáo lý viên và điều này sẽ giúp ích cho toàn thể Giáo hội.
Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê chuyển ngữ.
-----------------------------
“Bà Maria đứng ở ngoài, gần bên mộ mà khóc”…Tin Mừng Marcô cho ta một thông tin đắt giá “Bà Maria Magdala là kẻ đã được Đức Giêsu trừ cho khỏi bầy quỷ” (Mc 16, 9). Như vậy quá khứ của bà bi thảm, u ám biết bao!
Đức Giêsu trừ bầy quỷ, bà từ đáy vực thẳm được đưa lên đỉnh cao, tưởng là nô lệ triền miên mà hóa ra được giải phóng, từ nhầy nhụa được đưa về nơi trong lành. Tưởng rằng từ đây sẽ thở không khí tự do, sẽ đi theo Đức Giêsu không rời. Vậy mà chỉ trong vài ngày sụp đổ hết lại phải nhìn thấy nét mặt quỷ quái của thế gian, và Đức Giêsu chết quá sức thê thảm. Cái còn lại cho Maria chỉ còn là một xác chết. Như thế kể là mất hết rồi. Nhưng vẫn chưa tận cùng sự bóc lột. Đến cả xác chết cũng bị cướp mất. Ôi Maria, bà đã biết thế nào là mất hết, mất trắng, trắng tay, xin hãy cầu nguyện cho mọi kẻ yếu đuối, thấp cổ bé miệng, bị bắt nạt, bị tước đoạt. Họ cũng như bà, chỉ còn biết đứng đó mà khóc.
Thế rồi có ai đó đến gần, hỏi rằng: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai” _ “Thưa ông, nếu có phải ông giấu xác chết, xin chỉ cho tôi để tôi đem về” (Ga 20,15). Trời ơi, đứng trước sự sống đời đời, mà đầu óc vẫn còn quẩn quanh trong trí óc! Nghe câu nói của Maria vừa tội nghiệp, não nùng lại vừa như đang phải khóc lóc năn nỉ với xã hội đen, cái xã hội giết người, cướp xác, có lẽ còn phải thanh toán gì nữa theo luật giang hồ chứ chẳng không!
Đột nhiên Đức Giêsu gọi tên: “Maria” và Maria rú lên “Rábbuni!”. Đột nhiên thế giới đã bị lộn ngược lại trở về đúng chỗ. Ánh sáng của “ngày thứ nhất” này còn rực rỡ hơn hôm Maria được trừ bầy quỷ trăm ngàn lần. Chúa Giêsu Phục Sinh ơi, Chúa cũng ở gần chúng con trong gang tấc, mà chúng con vẫn chìm trong xã hội đen. Xin Chúa hãy gọi tên chúng con, xin cho chúng con nghe thấy tiếng gọi gần gũi ấy, xin cho chúng con mở mắt. Amen.
-----------------------------
PS1-84: HRK/93- PHỤC SINH
Tầm thức trả thù ăn sâu vào trong con người tội lỗi chúng ta đến nỗi chết rồi mà cũng không dung tha. Thật là một tâm thức nghịch lại với thái độ sống của Chúa Kitô, Ngài đã giảng dạy sự tha thứ, đã chịu chết và đã sống lại, đã tha thứ cho con người và dạy con người sống tha thứ cho nhau.
Tin Mừng Chúa sống lại là Tin Mừng của sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người và con người một khi chấp nhận Tin Mừng sống lại cũng phải sống tinh thần tha thứ này. Chúa Kitô sống lại có ích gì cho chúng ta, nếu chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi mình trở nên con người mới giống hình ảnh của Ngài.
Nơi bài đọc 2 chúng ta nghe thánh Phaolô khuyên các tín hữu Côlôsê như sau: “Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô thì anh em hãy tìm những sự trên trời nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Những sự trên trời đó không phải là những viễn vông, mơ mộng, không thực tế theo tâm thức người đời, không tin Thiên Chúa, nhưng là những điều rất đòi hỏi và rất thiết thực. Đó là sự sống đời đời, và để đạt đến sự sống đời đời này người đồ đệ của Chúa phải cố gắng hết sức mình để yêu thương phục vụ anh chị em.
Sống hướng về trời để có đủ tinh thần mà tha thứ những xúc phạm của tha nhân và hy sinh những lợi lộc ích kỷ mà từ bỏ những mưu toan hại người, để ra tay nâng đỡ phục vụ anh chị em, nêu cao khuyến khích anh chị em khi anh chị em lỡ lầm đồng thời giúp họ đừng tiếp tục làm điều xấu nữa.
Sống hướng về trời, về những điều trên trời là điều cần thiết như người đi ngoài biển khơi không có địa bàn phải nhìn lên những ánh sao sáng trên trời để định hướng thuyền đời mình đạt đến bến bờ. Chúng ta sẽ bị lạc vào trong những tranh chấp hận thù, bị rơi vào trong sự u buồn liên lỉ, trong sự áy náy bứt rứt lương tâm, nếu chúng ta không hướng về Chúa và lãnh nhận ơn Phục sinh của Ngài.
Các tông đồ đã sống trong lo âu hồi hộp khi Chúa bị treo trên thập giá, khi họ chưa hiểu gì về mầu nhiệm sống lại của Chúa. Biến cố mồ trống mà Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta là một lời mời gọi Maria, Gioan, Phêrô, mời gọi những kẻ đã theo Chúa hãy vượt qua những giới hạn của tâm thức trần tục của họ để nhìn thấy được sự Phục sinh của Chúa, để cho ơn Chúa biến đổi cuộc đời mình, hầu giúp chúng ta trở thành những chứng nhân rao giảng sự tha thứ của Thiên Chúa.
Có một du khách đến thăm xưởng chế tạo các địa bàn, khi qua phòng trưng bày các mẫu kiểu địa bàn, du khách đã thắc mắc hỏi: Tại sao có một số địa bàn có cây kim luôn chỉ về hướng bắc, còn một số địa bàn khác thì không, kim chỉ lung tung. Hướng dẫn viên trả lời: Những địa bàn có kim chỉ đúng phương hướng là những địa bàn đã thực sự trọn hảo, đã được chuyển sức hút từ trường vào trong đó để cây kim chính luôn hướng về hướng bắc. Còn những địa bàn có kim chỉ lung tung là những địa bàn chưa nên trọn, chưa có sức từ trường và không thể hoạt động theo từ trường. Đây là những mẫu trưng cho du khách nhìn chơi mà thôi, chứ không có ích lợi gì cả.
Hình ảnh chiếc địa bàn có thể được dùng để nói về người đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trong một thời đại, như có hai loại địa bàn cũng có thể có hai loại người Kitô. Chiếc địa bàn chưa trọn không có sức từ trường tượng trưng cho người Kitô “hữu danh vô thực”, có tên gọi là người Kitô hữu nhưng không có thực tế, không có sức sống của Chúa Kitô Phục sinh chuyển vào, nên như chiếc địa bàn chỉ lung tung, làm lung tung, nói lung tung, dở dở ương ương đang theo những chiều gió cám dỗ thổi đâu cũng được.
Còn mẫu người Kitô hữu thứ hai như những địa bàn đã nên trọn, đã hoàn tất, có sức thu hút từ trường. Họ là những người Kitô hữu đã lãnh nhận sức sống từ Chúa Phục sinh, luôn luôn sống kết hợp với Chúa, luôn qui hướng về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh như địa bàn chỉ về hướng bắc mà do đó mới có thể trở nên trọn nơi chính thực thể của mình và nên hữu ích cho anh chị em xung quanh.
Việc chuyển sức từ trường vào chiếc địa bàn là một tác động tự động máy móc, việc chuyển sức sống của Chúa Kitô Phục sinh vào con người chúng ta là một hành động đặc biệt không thể nào giống như một trò ảo thuật chỉ hô một tiếng thì có liền ngay.
Chúa Kitô đã chọn các tông đồ và huấn kuyện các ngài nhiều năm tháng với nhiều công sức, chuẩn bị cho các ngài trong giây phút trọng đại cuối cùng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi qua cái chết để tiến đến sự Phục sinh, để thực hiện trọn vẹn ơn cứu chuộc con người. Nhưng thử hỏi chúng ta đã nhìn thấy gì ? Chúng ta đã nhìn thấy thái độ của các tông đồ như thế nào trước biến cố chết và sống lại của Chúa hay không ?
Một thái độ không tin, lưỡng lự hay có tin thì cũng chưa vững vàng lắm. Hai người nữ đến mồ Chúa nhìn thấy dấu lạ, hòn đá che cửa mồ đã bị đẩy qua một bên thì vội vàng kết luận là có người ăn cắp xác của Thầy mình. Phêrô chạy đến nhìn thấy sự việc cũng không hiểu sao, chỉ có tông đồ Gioan người được Chúa Giêsu yêu dấu thì thấy và tin, nhưng thái độ tin lúc này cũng mới là khởi đầu. Lòng tin đó cần phải tiến sâu hơn nữa nhờ lời cầu nguyện, suy niệm lại những lời Chúa nói, những việc Chúa làm và được Chúa Thánh Thần tiếp sức thì mới đủ mạnh để làm chứng cho Chúa, để luôn luôn sống định hướng về Chúa như chiếc địa bàn đã được chuyển sức từ trường.
Từ một Phêrô lưỡng lự chưa hiểu Kinh Thánh, chưa hiểu chương trình hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. Qua Chúa Kitô Phục sinh đến, một Phêrô đã vững tin dám đứng trước dân chúng để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh là Đấng cứu rỗi duy nhất như được mô tả trong bài đọc 1 của thánh lễ hôm nay.
Chúng ta hiểu là phải có biến cố tiếp sức của Chúa, biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống tràn đầy trên các tông đồ, trong mọi đồ đệ của Chúa Kitô. Không thể nào chỉ dừng lại ở Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để than khóc lo sợ, nhưng không thể nào chỉ chú mình tôn thờ Chúa Kitô Phục sinh cho riêng mình như Maria khi được Chúa hiện ra thì bà sụp lạy quì dưới chân Chúa. Chúa bảo bà hãy ra đi, hãy mang Tin Mừng đến cho các tông đồ khác, cho những ai chưa tin. Chúa muốn như chiếc địa bàn chỉ hướng về phía bắc. Người tín hữu Kitô chỉ hướng về một Chúa Kitô Phục sinh để từ đó mà có sức làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mừng lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta hãy đem cuộc đời mình đến cho Chúa chuyển sức sống vào đó, cho chúng ta được Phục sinh với Chúa, được sống sức sống của Chúa, trở thành người Kitô hữu sống động.
-----------------------------
PS1-85: NTGT/116- NIỀM HY VỌNG
Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có ghi: “Nạn tự tử tại Nhật Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức độ tự tử trong nước tăng đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn 27.000 người tự sát. Hầu hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh nghiệp, do ảnh hưởng tình trạng suy thoái kinh tế trong nước Nhật kéo dài”. Và báo Công giáo và Dân tộc số 1296 năm 2001 : ở An Độ đã có nhiều nông dân tự tử vì cảm thấy không còn lối thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng. Năm 2003 vừa qua có 120 người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có những người tự tử tương tự.
Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật Bản, và các người nông dân An Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục tiêu của cuộc đời là sống thành công, thành công trong học hành, trong gia đình, trong việc làm và thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực, tài trí để mong đạt được ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất bại, họ cảm thấy chán nản, đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.
Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày thứ sáu đã làm cho dự tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Bao nhiêu hy vọng đã bị chôn vùi trong ngôi mộ cùng với thân xác Đức Giêsu. Ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn. Tâm trạng các môn đệ cũng giống như tâm trạng của những người nông dân An Độ hay những thương gia Nhật Bản, cũng đau khổ thất vọng, tương lai sáng lạn nay đã bị chôn vùi. Không những thế các môn đệ còn lo sợ, lo sợ bị truy lùng bởi hàng lãnh đạo Do thái. Họ đã giết Thầy, thì coi chừng môn đệ họ cũng không tha. Vì thế các ông phải trốn tránh.
Nhưng, khi nghe bà Maria Madalena báo tin: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết để Người ở đâu ?”, thì tâm trạng của các ông lại biến đổi ngược lại, theo lẽ bình thường, khi nghe báo tin người ta đem xác Chúa đi đâu mất, thì sự sợ hãi của các ông càng tăng lên gấp bội. Nhưng ở đây, hai ông lại thoát khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Các ông rời bỏ nơi ẩn nấp, vội vã chạy đến mộ. Trong sự vội vã và náo nức ấy, chúng ta thấy có một cái dấu hiệu gì đó, một dấu hiệu hy vọng lóe lên, các ông đang hướng về một niềm hy vọng, niềm hy vọng này còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng các ông vẫn chạy. Dù các ông đã biết xác Chúa không còn trong mộ nữa, nhưng họ vẫn chạy ra mộ, ra mộ không phải để thấy xác Chúa, mà họ hy vọng một tương lai, và để rồi chính nơi đây niềm hy vọng đã lóe lên trong họ bây giờ được bừng sáng.
Thế nhưng, các ông đã thấy điều gì ? Đã thấy Thầy mình chăng ? Không ! Các ông không thấy gì ngoài ngôi mộ trống rỗng với tảng đá lớn đã bị đẩy sang một bên, và những khăn liệm bên trong. Thánh Gioan cho chúng ta thấy Phêrô là người đầu tiên đi vào trong mộ. Ông thấy băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nhưng không nói Phêrô có nhận ra dấu chỉ hay không ? Phúc âm thánh Luca tường thuật lại rằng Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng trở về nhà “rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết”. Còn Gioan, người môn đệ Đức Giêsu thương mến, ông cũng bước vào, ông đã thấy. Ông thấy cái gì ? Ông cũng chỉ thấy những điều Phêrô đã thấy mà thôi. Nhưng ông đã nhận ra, nhận ra sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nếu như xác bị ăn trộm, thì kẻ trộm đâu có thời giờ để gỡ vải liệm, và khăn cuốn đầu được cuộn lại và đặt đúng chỗ, bên trong băng vải ? Như vậy không có bàn tay bên ngoài tham dự vào. Chỉ một mình Gioan, với tâm hồn nhạy cảm, ông đã nhận ra Thầy mình hiện đang ở đâu qua ngôi mộ trống.
Chúng ta tự hỏi chỉ qua ngôi mộ trống mà Gioan xác tín Đức Giêsu đã Phục sinh ? Thì xem ra niềm tin của Gioan không vững chắc, vì với một dấu chỉ mơ hồ là ngôi mộ trống mà ông đã tin: thật ra ông tin không phải dựa vào ngôi mộ, mà qua ngôi mộ và cách sắp xếp trong ngôi mộ, ông đã nhận ra Lời Chúa dạy dỗ các ông đã được ứng nghiệm: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao dấu chỉ, thế nhưng chúng ta có hiểu được, có đọc được ý nghĩa của dấu chỉ đó hay không ? Một cữ chỉ, một lời nói, một sự vật… là những dấu chỉ còn hàm hồ, ẩn chứa bí mật ! Chúng ta cần được giải thích: sự việc đó muốn nói gì ? Cử chỉ đó hiểu như thế nào ? Đó là một điều khó đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho Lời của Chúa soi sáng, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ hiểu được các biến cố đó.
Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn đời sống các môn đệ. Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó khăn nào cản trở được niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh quang với Ngài, cho dù bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày… Nếu sự Phục sinh của Chúa Giêsu thật cần thiết cho các môn đệ, thì sự Phục sinh cũng thật cần thiết cho cuộc sống hôm nay của nhân loại, một cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau khổ, chết chóc… Những lúc đó, chúng ta cần phải có sự nhạy cảm như Gioan, nhận ra Đấng Phục sinh, Đấng của niềm hy vọng. Người đã Phục sinh để khai mở một thế giới mới, một thế giới của công bình và bác ái, hoan lạc và bình an, khai mở một nhân loại mới, trong đó mọi người là anh em. Khi khai mở một thế giới mới, một nhân loại mới, Người đã công hiến cho chúng ta một tương lai có khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa chất chứa trong lòng con người, khát vọng vốn làm nên biết bao dự phóng đời người.
Thế nhưng, trong đời sống nhiều khi chúng ta còn gặp biết bao nhiêu khó khăn, thử thách: trong công việc làm ăn, chúng ta cố gắng làm ăn lương thiện, nhưng vẫn thất bại, trì trệ không phát triển được; rồi bao nhiêu cố gắng trong việc giáo dục con cái, thế nhưng vẫn không thành công, cũng như nhiều lần bị hiểu lầm, bị lừa gạt làm cho chúng ta đánh mất đi niềm tin trong cuộc sống. Những lúc đó chúng ta có còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, có còn dám tin tưởng và đặt hy vọng vào Đức Kitô hay không ? Và nếu như một khi nhìn ra sự hiện diện và nghe được lời mời gọi của Đấng Phục sinh, đặc biệt là những biến cố đau thương, chúng ta có khả năng biến cuộc sống thành lời hy vọng hay không ?
Như vậy, hy vọng của chúng ta, không phải là những thành công, những lợi lộc, tiếng tăm… ở trần gian này, vì chúng ta biết rằng đây chỉ là điều tạm thời, chóng qua, không có giá trị lâu bền, nó không làm cho tâm hồn chúng ta hạnh phúc được và khi chết chúng ta cũng chẳng mang đi được. Hy vọng của chúng ta chính là Đức Kitô, là Đấng đang sống, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha và đang cầu bầu cho chúng ta.
Trong niềm vui của ngày Chúa Phục sinh, chúng ta xin Chúa Kitô ban cho chúng ta nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách. Xin Ngài lăn tảng đá che lấp hy vọng ra khỏi cuộc đời chúng ta. Để rồi mỗi người chúng ta trở nên chứng nhân hy vọng, là dấu chỉ, là ánh sáng phục sinh chiếu tỏa cho những anh chị em đang sống trong sự thất vọng.
-----------------------------
Mỗi năm, vào ngày Chúa nhật Phục sinh, hàng chục ngàn khách hành hương tụ họp tại Quảng Trường thánh Phêrô ở Rôma, để được lãnh nhận phép lành Phục sinh của Đức Thánh Cha. Đây là một cơ hội tuyệt vời, bởi vì người kế vị thánh Phêrô công bố thông điệp Phục sinh: “Đức Kitô đã sống lại, Allêluia”. Ngài đang làm điều mà thánh Phêrô đã làm trong ngày lễ Phục sinh đầu tiên – ngài đang xác nhận lòng tin của các tín hữu. Và có thể chắc chắn rằng điều này xác nhận lòng tin của những người có dịp may được hiện diện tại đó.
Phêrô đang làm điều mà Chúa đòi hỏi nơi ông trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Simon, Simon ơi, kìa Satan xin được sàng anh như sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh”.
Phêrô phải củng cố lòng tin nơi các anh chị em của ông ! Khi chúng ta xem xét cách thức ông hành động trong suốt cuộc thương khó, thì dường như ông có vẻ là người xa lạ. Làm thế nào một người có lòng tin không kiên định như vậy, mà lại xác nhận được lòng tin cho bất cứ ai ? Chúng ta hãy nhớ lại một cách ngắn gọn hành động của ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt.
Chúng ta vẫn nhớ những lời nói can đảm của ông trong bữa Tiệc Ly: “Thưa Thầy, ngay cả khi mọi người đều mất lòng tin vào Thầy, thì con sẽ không bao giờ mất lòng tin vào Thầy”. Ông thực sự chân thành khi nói những lời đó. Ông nghĩ rằng mình can đảm và mạnh mẽ. Nhưng chỉ một lúc sau, khi Đức Giêsu cảm thấy đau buồn, cô độc và sợ hãi trong vườn Cây Dầu, Người đã yêu cầu Phêrô canh thức với Người, nhưng ông vẫn không thể nào làm được điều đó – ông đã lăn ra ngủ vùi. Ông đã bỏ mặc Đức Giêsu phải uống chén đắng một mình. Điều tệ hại hơn đã phải đến.
Một lúc sau, trong đêm hôm đó, nơi sân nhà của vị thượng tế, có người quay sang Phêrô và nói “Thế chẳng phải ông là một trong những kẻ thuộc về ông Giêsu đó sao ? Chẳng phải ông đã cùng ở trong vườn với ông ta sao ?”. Và điều gì xảy ra ? Không phải là một lần, mà đến ba lần, Phêrô đã chối Đức Giêsu, ông chối rằng mình chưa từng bao giờ biết Người. Thế rồi gà gáy. Đến lúc đó, Đức Giêsu quay lại nhìn Phêrô, và ngay tức khắc, Phêrô nhận ra được điều mình đã làm – ông đã chối không quen biết chính người bạn của mình. Rồi ông đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Đó là giây phút thấp hèn nhất trong cuộc đời ông. Ông đã nhận ra được một sự thật rất đau lòng về bản thân. Ông không thể mạnh mẽ, không thể can đảm hoặc quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng Đức Giêsu không hề coi ông là đồ bỏ đi. Người đã nhìn thấy trước tất cả điều này. Thậm chí Người còn ngăn cản điều đó nữa. Nhưng Người vẫn tiếp tục tin tưởng nơi ông. Người biết rằng có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi Phêrô. Sau khi sống lại, Người đã phục hồi lại một Phêrô khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn ngay tại nơi mà Người đã từng ở trước đây, và đặt ông làm viên đá mà trên đó, Người sẽ xây dựng Giáo Hội của Người.
Và Phêrô đã trở nên người tốt lành. Ông được phục hồi và tiếp tục củng cố lòng tin cho những anh chị em trong cộng đoàn. Chính ông là người đã dẫn dắt các tông đồ, trong việc làm chứng về sự sống lại. (Bài đọc 1). Chính ông là người qui tụ lại những kẻ đi theo Đức Giêsu vốn đã bị tản mác. Chính trên nền tảng lời chứng của ông, mà cả cộng đoàn đều trầm trồ: “Chúa đã sống lại thật rồi, và Người đã hiện ra với ông Phêrô”.
Ông Phêrô được gọi là một vị thánh đã từng vấp ngã. Ông được nhiều người quí mến, chắc hẳn là bởi vì nhược điểm của ông làm cho chúng ta cảm thấy gần gũi với ông. Sự can đảm không đáp ứng được cho tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều chỉ là những con người hay chết, không nhất quán trong lòng tin của mình. Nhưng chúng ta không được phán xét bản thân mình và người khác qua những sai sót có tư cách nhất thời, nhưng là qua lời cam kết đối với lòng tin của mình trong cả một thời gian dài.
Chính Đức Giêsu đã xác nhận lòng tin cho Phêrô. Cũng chính Đấng sống lại đã xác nhận lòng tin của chúng ta. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, mà lòng tin phổ biến của những kẻ tin thì củng cố lòng tin của mỗi cá nhân.
-----------------------------
Đôi khi, chúng ta ghen tị với các tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự có mặt trong những sự kiện ở Tin Mừng. Họ được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng ta, nếu giống như các tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.
Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin của họ ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì ? Họ không thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con người có bên ngoài hình giống như họ. Nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.
Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các tông đồ, đã từng được ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin tưởng.
Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thập giá của Người gây ra, quả thật là qúa lớn lao, đến nỗi làm cho các tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về sự sống lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại.
Tất cả những điều này để lại cái gì cho chúng ta ? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các tông đồ đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống bằng lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu ? Chúng ta phải làm gì, để có được lòng tin ?
Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và vì thế, theo cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời, thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau – tất cả đều phải làm một cú nhảy của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.
Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
-----------------------------
Sáng Chúa nhật Phục sinh, các phụ nữ đi đến ngôi mồ đã chôn xác Chúa Giêsu. Họ đến để ướp xác Ngài. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Họ còn muốn được ở gần Đấng đã từng làm cho đời họ tràn đầy ý nghĩa, nhưng bây giờ cái chết của Ngài lại khiến lòng họ tràn ngập nỗi u sầu không gì an ủi được.
- Chúng ta cũng thường làm như các bà ấy. Khi một người thân yêu của chúng ta chết, chúng ta khó chấp nhận rằng người ấy đã vĩnh viễn xa cách chúng ta. Vì thế chúng ta thấy cần phải duy trì một sự liên kết nào đó với người đã chết. Và một trong những cách chúng ta có thể làm, đó là đi thăm mộ. Tuy nhiên việc này chẳng những không làm dịu đi nỗi đau bị mất mát, mà còn khiến mình càng thấy mất mát hơn, bởi vì không nơi nào khiến ta ý thức về cái chết của người thân cho bằng nơi chôn cất người thân ấy.
Sáng hôm ấy, nếu mọi sự diễn ra đúng như các bà dự kiến thì các bà đã ướp xác Chúa Giêsu, xong rồi lắp cửa mồ lại, rồi trở về nhà với cõi lòng nặng trĩu u sầu vì các bà càng ý thức rằng những chuyện khủng khiếp xảy ra hôm thứ sáu không phải chỉ là một giấc mơ mà là một sự thật: Thầy của họ đã chết thật rồi !
Tuy nhiên mọi sự không xảy ra như dự kiến. Khi đến mộ, các bà đã gặp hai thiên thần. Các vị ấy bảo “Sao các bà lại tìm người sống nơi cõi chết ? Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại”. Nghĩa là các bà đừng mất thời giờ để tìm Chúa Giêsu ở ngôi mộ nữa.
- Tất cả chúng ta thường cảm thấy tuyệt vọng khi đứng trước những nấm mồ, vì ở đó mọi sự đều nói lên chết chóc. Tuy nhiên chính ở một ngôi mộ như thế mà lần đầu tiên Tin Mừng sống lại được loan báo. Chúa đã chọn một nơi thật thích hợp, nơi mà xem ra sự chết thống trị, để loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Phụng vụ hôm nay cũng gởi đến chúng ta một sứ điệp tương tự: Đừng tìm kiếm những kẻ thân yêu của mình nơi những nấm mồ, vì họ chẳng có ở đó đâu. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không chỉ cho bản thân Ngài mà cho tất cả mọi người chúng ta. Ngài là Đấng đầu tiên sống lại, và chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Như thế, đối với Kitô hữu thì sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng. Người thân quá cố của chúng ta không chết, mà vẫn còn sống. Cuộc sống của họ còn thực và đẹp hơn cả cuộc sống hiện tại của chúng ta nữa. Hơn nữa họ không hề xa cách chúng ta. Những ai đã chết trong ân sủng thì khoảng cách giữa họ với chúng ta không xa hơn khoảng cách giữa Thiên Chúa với chúng ta. Mà Thiên Chúa thì rất gần với chúng ta.
-----------------------------
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ…
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo:
- Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình.
Và ông giải thích:
- Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thắm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
“Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi”. Buổi sáng Phục sinh đầu tiên, Chúa Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Madalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ “đang tập họp trong nhà cửa đóng kín”, trên bờ biển Tibêria. Và Người vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ “tin vào Người”, ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin Vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục sinh, ánh sáng rạng ngời, đã xóa tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới.
Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Chúa Giêsu Phục sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gãy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?”.
Vì thế,
Sống niềm vui Phục sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục sinh.
Sống niềm vui Phục sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống niềm vui Phục sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
-----------------------------
Cao điểm của năm Phụng vụ là Tuần Thánh vì có rất nhiều lễ nghi, giáo dân tham dự đông đảo và sốt sắng. Hôm nay thì Tuần Thánh đã qua đi rồi. Nhưng chúng ta hãy nhìn lại một trong những lễ nghi phong phú ý nghĩa của Tuần Thánh, đó là ngọn nến Phục sinh.
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh, lúc mới bắt đầu nghi lễ thì mọi đèn nến trong sân nhà thờ đều tắt hết, bóng tối bao trùm tất cả. Thế rồi Chủ tế lấy lửa từ một bếp than châm vào ngọn nến Phục sinh. Một tia sáng nhỏ lóe lên trong đêm tối. Tiếp đó ánh sáng từ ngọn nến Phục sinh lại được châm vào những ngọn nến của các tín hữu. Anh sáng tỏa lan dần, và cuối cùng mọi đèn nến đều sáng rực. Anh sáng đã hoàn toàn đẩy lui bóng tối.
Hình ảnh này rất đẹp, và nhất là chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc:
- Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
- Ma quỉ không thể nào thắng được Thiên Chúa.
- Sự ác không thể nào thắng được sự thiện.
Đó chính là một chân lý mà các lễ nghi Tuần Thánh muốn soi sáng cho chúng ta. Khi Chúa Giêsu chết thì tưởng như bóng tối, quyền lực ma quỉ và sự ác đã hoàn toàn chiến thắng. Thế nhưng không phải như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại. Nghĩa là ánh sáng đã chiến thắng tối tăm, Thiên Chúa đã chiến thắng Satan, và sự thiện đã chiến thắng sự ác.
Sự thật này không phải chỉ đúng cho một mình Chúa Giêsu mà còn đúng cho tất cả mọi người chúng ta nữa. Bởi vì Chúa Giêsu đi vào cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại là trong tư cách Ngài là đại diện của loài người, Ngài là trưởng tử của tất cả mọi người, là hoa trái đầu mùa. Ngài chiến thắng nghĩa là dọn đường cho tất cả chúng ta chiến thắng. Bởi thế, tất cả chúng ta đều có thể cùng với Chúa Giêsu mà lạc quan tin tưởng rằng sau cùng rồi mọi sự ác sự dữ đều sẽ bị đánh bại.
Chính vì thế mà trong khi các tín hữu Rôma đang phải lao đao khốn đốn vì những cuộc bách hại, thánh Phêrô đã gửi thư cho họ nói rằng “Anh em hãy vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Thực ra những thử thách đó chỉ nhằm tinh luyện đức tin của anh em, cũng như lửa thử vàng vậy”.
Còn thánh Phaolô, đang lúc phải ngồi tù mà đã viết thư cho giáo đoàn Philip rằng: “Anh em hãy vui lên. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa”.
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh vừa qua, chúng ta đã thấy rất đông người lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Trong số những người đó, có nhiều người hồi trước hầu như bỏ đạo ; vì nghèo quá, khổ quá, gặp thử thách nặng quá nên họ đã chán nản. Nhưng vì trong lòng họ còn một chút ánh sáng đức tin, họ đã không buông trôi. Thế rồi dần dần những khó khăn của họ được tháo gỡ, họ đã quay trở lại với Chúa, và trong đêm đó họ đã vui mừng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa của Chúa. Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
Trong cuộc đời của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta thấy mình quá yếu đuối tội lỗi nên chúng ta ngã lòng muốn buông trôi luôn, có nhiều lúc chúng ta thấy mình bị ác tâm và tội lỗi của kẻ xấu tấn công mạnh quá nên bị nhận chìm trong tăm tối mênh mông… những lúc đó chúng ta chán nản vô cùng. Nhưng mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục sinh dạy cho chúng ta rằng đừng nên ngã lòng bởi vì cuối cùng thì ánh sáng sẽ luôn chiến thắng, sự thiện sẽ luôn chiến thắng sự ác.
Bởi đó từ đêm lễ Phục sinh, Giáo Hội hân hoan cất tiếng hát Alleluia, hãy tạ ơn Thiên Chúa. Tiếng hát Alleluia ấy vẫn tiếp tục cất lên trong suốt năm Phụng vụ để nhắc mọi người tín hữu hãy luôn sống lạc quan.
Xin cho chúng ta đừng bao giờ ngã lòng thất vọng.
Xin cho chúng ta luôn luôn tin tưởng vào mầu nhiệm Phục sinh.
Xin cho cuộc đời chúng ta lúc nào cũng đầy tràn tiếng hát Alleluia.
-----------------------------
Ngày trọng đại, vui mừng, mang nhiều ý nghĩa nhất của Kitô Giáo đó là ngày đại lễ Phục Sinh hôm nay. Chính ngày hôm nay, tuy mang tính cách nội bộ, dành riêng cho “Dân Thiên Chúa”, nhưng làm cho tất cả các ngày lễ khác có ý nghĩa, kể cả lễ Giáng Sinh. Nếu như Chúa không sống lại từ cõi chết hôm nay, tất cả nền tảng đức tin của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, vô ý nghĩa; cuộc khổ nạn, bị đóng đinh vào thập giá của Chúa Kitô, trở thành một tin buồn khủng khiếp, chứ không phải là Tin Mừng.
Trong ngày thứ sáu chịu nạn, Chúa Giêsu bị đóng đinh, bị giết chết và táng xác trong mồ, vì tình yêu vô biên, Thiên Chúa Cha không nỡ để mất con mình, đã làm cho con mình sống lại. Cũng chính nhờ vào tình yêu này mà người Kitô hữu sẽ được cứu thoát, được cho sống lại ngày sau hết. Sự kiện người đàn bà tội lỗi đã hoán cải, cũng như người môn đệ từng chối bỏ Ngài, được gặp gỡ Ngài trước tiên, khi Ngài từ cõi chết sống lại, cho chúng ta thấy tình thương lạ lùng của Ngài dành cho nhân loại. Nói cụ thể Chúa không hề bỏ rơi bất cứ ai, dù cho họ có bỏ rơi, chối bỏ Ngài. Giống như các môn đệ của Chúa, tuy họ không dự phần vào cuộc khổ nạn với Ngài, vẫn được Ngài chia sẻ vinh quang Phục Sinh của mình.
Nhờ sự sống lại của Ngài mà người Kitô hữu chúng ta có sự sống mới, trở thành tạo vật mới; nhờ vào đó tội lỗi của nhân loại được tha thứ. Chúng ta có thể tuyên tín rằng Ngài chính là Con Thiên Chúa làm người: khi bị đóng đinh và quằn quại chết trên thập giá Ngài đúng là con người bằng xương bằng thịt; khi sống lại từ cõi chết Ngài đúng là Thiên Chúa toàn năng. Hôm nay, ngày Giao Ước của Thiên Chúa và nhân loại thực sự bắt đầu có hiệu lực. Sự sống lại của Ngài là “Tờ Cam Đoan” của Thiên Chúa, đối với lời hứa cứu độ nhân loại của Ngài.
Chúa Kitô Phục Sinh đã chiến thắng thế gian với tất cả tội lỗi của nó. Đây là một đại phúc cho thế giới tội lỗi. Ngày xưa khi Adam phạm tội, bị đuổi đi, cửa thiên đàng đóng kín lại từ đó. Hôm nay khi Chúa sống lại, Ngài khải hoàn vinh hiển, cánh cửa thiên đàng lại được mở ra cho nhân loại. Qua cái chết khổ nhục rồi được sống lại, Ngài dạy chúng ta đừng trốn chạy thập giá, vì thập giá là nơi treo Đấng Cứu Độ, trốn tránh thập giá tức chúng ta quay lưng lại với tình yêu; trốn tránh thập giá chúng ta sẽ mất ơn cứu độ. Ngài dạy chúng ta tín thác vào Ngài, khi thật sự tín thác chúng ta sẽ lạc quan trong cuộc sống, cũng như không ngần ngại đặt hết tin tưởng vào tương lai của mình. Ngài đặt trong tâm hồn chúng ta lòng ao ước được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài, từ nay chúng ta được tự do, được giải thoát khỏi sự buộc ràng của tội lỗi và cái chết.
Chúng ta vui mừng vì sự sống lại của Ngài, tin tưởng buổi sáng phục sinh rồi sẽ đến với từng người, dĩ nhiên hiện nay chúng ta còn rất nhiều đồi Canvariô phải leo, còn ngã quỵ nhiều lần với thập giá oằn vai, như Ngài từng trải qua. Ngày xưa ông Simon phải vác đỡ với Ngài, từ nay Ngài sẽ thay ông Simon để giúp bạn và tôi. Nói cách khác mỗi người sẽ phải đi theo con đường khi xưa Chúa đã đi qua. Tin như thế, đâu còn gì để chúng ta sợ hãi, lo âu. Chỉ cần trung tín với đức tin của Ngài, như Ngài đã trung tín, chắc chắn chúng ta được sống trong hy vọng và bình an viên mãn như Ngài hứa hẹn.
Tóm lại, Phục Sinh là mầu nhiệm cốt lõi, một bảo chứng hùng hồn nhất cho ơn cứu độ. Đây là tâm điểm, là chóp đỉnh và là hy vọng của những người tin vào Chúa. Thiên Chúa là Đấng đã ban đất hứa cho dân Do Thái, đồng thời đã dẫn dắt họ tiến về vùng đất “sữa và mật” đó. Hơn cả ngày xưa, ngày nay Thiên Chúa không chỉ ban đất hứa vĩnh cửu cho nhân loại, nhưng chính Ngài, khi Ngài từ cõi chết sống lại, đã trở thành Đất Hứa, là Ơn Cứu Độ, là Tin Mưng sống động cho nhân loại. Biến cố Phục Sinh là niềm vui của sự sống mới, là sự chiến thắng vĩnh viễn trên thần Chết - kẻ thù cuối cùng, và như thế là niềm vui lớn nhất của người tín hữu. Ước gì tình yêu của Thiên Chúa sẽ hiện hữu sống động trong tâm hồn từng người chúng ta, và niềm vui sướng Phục Sinh được trải rộng đến cho thân nhân, bạn bè. Chúng ta không quên cầu nguyện cho nhân loại sớm nhận biết ánh sáng Phục Sinh của Ngài, sớm nhận biết chân lý, để rồi được cùng nhau hân hoan tung hô “Chúa đã sống lại” Allêluia.
-----------------------------
Một người đàn bà nọ thường hay than phiền với bác sĩ tâm thần là bà thường hay thấy ngứa ngáy. Lạ kỳ thay, bệnh ngứa thường xảy ra là lúc mà bà ta ở trong nhà thờ. Sau một thời gian nói chuyện, bác sĩ nhận ra là sự thù ghét đã ăn rễ sâu trong lòng bà ta. Bà mang tư tưởng thù ghét người chị của bà bởi vì bà nghĩ rằng khi người cha của bà chết, người chị đã không chia gia tài một cách đồng đều. Sau đó, vị bác sĩ tâm thần đã cho bà thử qua cuộc xác nghiệm "eczema", và kết quả là bà ta ngứa ở trong tâm thần chứ không phải ở ngoài thân xác. Vị bác sĩ nói, "Chỉ khi nào bà biết chữa chạy cái bệnh ở trong tâm linh của bà thì bà mới hết được cái bệnh ngứa."
Ngày xưa, Chúa Giêsu đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi bệnh tật. Chúa Phục Sinh vẫn tiếp tục làm điều mà Ngài đã làm.
Hôm nay ở tại thành thánh Giêrusalem, những người hành hương sẽ tấp nập chen nhau vào cái chỗ mà người ta gọi là ngôi mộ của Chúa Giêsu. Một vài người hành hương vẫn đả kích những thói tục hóa của những nơi thánh thiện. Họ bảo ngôi mộ thánh thiện là chỗ những người hành khất đi xin ăn, những người bán rong lợi dụng các du khách để bán đồ, còn các tu sĩ thì lợi dụng chỗ thánh để xin dâng cúng. Hôm nay, ngày mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh, chúng ta đến đây để gặp gỡ một Chúa Kitô Phục Sinh.
Đấng phục sinh không phải là Chúa Giêsu của Madison Avenue, hoặc của Roma, hoặc của Athens, nhưng là Chúa Giêsu Nagiarét: một chỗ bình thường, một chỗ mà không có gì hay ho cả.
Thánh Phêrô đã diễn tả về Chúa Giêsu Nagiarét như sau, "Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người" (Cv 10:38). Điều mà Ngài đã làm, bây giờ Ngài vẫn đang làm. Cách mà Ngài đã hiện diện, thì bây giờ cũng đang hiện diện.
Những kẻ tìm kiếm Ngài sẽ không phải thất vọng. Đúng thế, quyền năng cao cả của Ngài đã được tỏ bày trong những lá cây hoặc những ngọn cỏ. Thế nhưng, chúng ta có thể tìm thấy Ngài hiện diện một cách đích thật hơn hết là ở trong những anh chị em của chúng ta, những người đang mong mỏi thoát khỏi cái ách của ma quỉ, đói khát, chiến tranh, cô đơn, và thất vọng.
Chúa Giêsu Nagiarét là "Ai" trong mùa Phục Sinh? Và chuyện gì đã xảy ra trong mùa Phục Sinh này? Cái chết của Ngài không phải là một biểu tượng, nhưng là một cái chết thật mà không có hóa trang, hoa lá, và âm nhạc. Sự phục sinh của Chúa Kitô không phải là sự sống lại theo nghĩa tượng trưng, nhưng là một sự khải hoàn thật sự của Ngài. Cộng đoàn Kitô giáo đã không gọi "Linh hồn của Ngài sống mãi", hoặc là "Tư tưởng của Ngài còn sống", hay là "Ngài sống qua những người môn đệ." Không phải thế, Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi! Một vài người đã muốn dùng khoa học để chứng mình sự phục sinh, thế nhưng phương thức của khoa học là so sánh một sự việc này với một sự việc khác để xác nghiệm, còn sự phục sinh thì không thể nào làm như vậy được, bởi vì nó vượt trên mọi sự ở thế gian này. Những điều mà Thánh Kinh kể lại cho chúng ta chưa từng có bao giờ xảy ra. Có một số người đã sống lại theo như các Phúc Âm kể lại, nhưng rồi họ lại phải chết. Chúa Giêsu đã sống lại và không chết nữa, và Ngài khải hoàn trong sự sống mới. Ngài đã mở cửa Nước Trời, nơi mà sự chết không còn thống trị. Sự sống lại của Chúa Giêsu là dấu cho những người môn đệ theo Ngài, đó là những ai sống theo tinh thần của Ngài thì một ngày cũng sẽ được vinh hiển như Ngài.
Chúng ta hãy nghe những lời Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Colôxê: "Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa" (Col 3:1-4).
Bạn có nhớ lúc nào mà bạn đã bắt gặp Chúa Kitô? Nói một cách rõ ràng hơn, lúc nào Chúa Kitô đã bắt gặp bạn? Qua Bí tích Rửa Tội, bạn đã trở nên một phần thân thể của Ngài, đó chính là Giáo Hội. Chúa Kitô Phục Sinh đã nối kết bạn với Ngài qua sự tụ họp ở nơi bàn tiệc thánh ở đây. Chúa Kitô Phục Sinh đổi mới bạn qua bài giảng này, và qua Lời của Ngài. Tính chất độc nhất của chúng ta hiện thời bây giờ bị ẩn dấu, nhưng rồi sẽ đến một ngày sự ẩn dấu này sẽ được mặc khải mà "mọi đầu gối sẽ phải quì xuống khi nghe tên danh thánh Chúa Giêsu." Khi tiếng loa cuối cùng được thổi lên để báo hiệu lịch sử của con người đã đến chỗ hoàn thành, thì chúng ta sẽ được biết một cách hoàn toàn điều mà chúng ta đang biết một phần ở đời này. Và chúng ta sẽ được cảm nghiệm sự vinh thắng mà chúng ta đang phải dùng đức tin.
Thánh Phêrô viết: "Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo lòng thương hải hà mà tái sinh chúng ta cho hy vọng hằng sống nhờ sự phục sinh từ cõi chết của Đức Giêsu Kitô" (1 Pt 1:3). Chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ cứu chữa chúng ta, sẽ ban cho chúng ta sự sống mới và đường hướng mới, sẽ tăng cường sức mạnh cho chúng ta bằng tình yêu.
-----------------------------
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn.
Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8).
Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ...
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
-----------------------------
VietCatholic (Chúa Nhật Phục Sinh C)
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
Bài Phúc âm hôm nay kể lại việc mấy người theo Đức Giê-su ra thăm ngôi mộ của Ngài. Có một chi tiết làm chúng ta chú ý nhiều đó là việc ngôi mộ Đức Giê-su bị bỏ trống. Trong những người chứng kiến việc ngôi mộ bị bỏ trống, chỉ có Gio-an là: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8b).
Cùng sự kiện “mồ trống” sao chỉ có một mình Gio-an tin nhận Chúa đã Phục Sinh ? Tại sao ông Gio-an lại tin một cách dễ dàng thế ? “Mộ trống biết đâu có người nào đó mang xác đi nơi khác? Trong khi đó Maria Mác-đa-la là phụ nữ cũng vẫn chưa tin. Rồi cả tông đồ trưởng Phê-rô cũng vẫn chưa tin? Có bao giờ chúng ta đã đặt câu hỏi về vấn đề này chưa ? Giả sử chúng ta là những người chứng kiến việc ngôi mộ Đức Giê-su bị bỏ trống, chúng ta có tin như Gio-an chăng ?
Tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh là vấn đề mà hôm nay nay tôi muốn đặt ra; để mỗi chúng ta cùng nhau suy nghĩ, xác nhận, củng cố và sống niềm tin của mình.
Đọc bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy Maria Mác-đa-la khi chứng kiến ngôi mộ trống thì bà vội vàng đi báo cho các tông đồ biết sự việc đã xảy ra như vậy, chứ chưa nói gì đến việc bà ấy có tin hay không. Rồi đến cả tông đồ trưởng cũng thế, ông chỉ thấy ngôi mộ trống, mà chẳng hiểu sự gì đã xảy ra. Có lẽ ông cũng chưa tin Chúa sống lại. Chỉ có Gio-an: “ Ông đã thấy và đã tin”.
Thấy ở đây là thấy ngôi mộ bị bỏ trống. Còn “tin” ở đây là tin Chúa Giê-su đã sống lại.
Cứ lý mà nói, việc “thấy” và việc “tin” ở đây chẳng có ràng buộc với nhau bao nhiêu. Mộ trống biết đâu là hậu quả của việc lấy trộm xác? Hay là do sự can thiệp của binh lính đã di chuyển xác đi nơi khác…Nhưng ở đây tông đồ Gio-an đã tin. Chúng ta không đủ lý lẽ để lý giải cho đức tin của Gio-an. Bởi vì Đức Tin là ơn nhưng không, Chúa ban cho ai thì người đó được. Lòng tin của Gio-an có lẽ được Chúa ban cho cách đặc biệt. Mặt khác, Gio-an là người môn đệ Chúa Giê-su thương mến. Tình yêu đáp lại tình yêu. Được yêu nhiêu thì cũng đáp lại nhiều. Nhờ vậy mà Gio-an đã nhận biết là Chúa đã Phục Sinh.
Chúng ta không thể dùng lý luận mà giải thích niềm tin. Đầu óc con người có thông minh tới đâu đi chăng nữa cũng không thể tin vào Chúa nếu chính Chúa không ban ơn ấy cho! Cũng vậy ta cũng không thể cắt nghĩa được niềm tin của Gio-an.
Càng nghĩ kỹ, ta càng thấy rằng Gio-an đã cảm nghiệm được sự Phục Sinh của Chúa. Sau này, khi các môn đệ nhớ lại lời Đức Giê-su đã dạy các ông khi còn cùng ăn cùng ở với các ông, cũng như lời Kinh thánh: “ Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, chịu chết, rồi ngày thứ ba sẽ chỗi dậy” (Mt 16,21) thì việc tin Chúa Phục Sinh là đương nhiên. Nhất là khi các công đã nhiều lần gặp gỡ với Đấng Phục Sinh thì việc Chúa Giê-su Phục Sinh không còn phải là việc tin nữa mà là đã thấy. Cả đến người cứng lòng như Tô-ma còn phải thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (Ga 20,28).
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã tin vào Chúa Phục Sinh chưa? Là Ki-tô hữu, chắc là chúng ta đã có niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Nhưng có một điều là niềm tin của chúng ta còn yếu kém. Bởi vì niềm tin vào Chúa Phục Sinh chưa biến đổi đời sống chúng ta như đã biến đổi đời sống các tông đồ thủa xưa.
Ta thấy các tông đồ ngày xưa, ban đầu các ông đa số cũng là những người dân quê mùa, dốt nốt, hèn nhát. Thế nhưng sau này các ông trở thành những người can đảm đi rao giảng Chúa Giê-su Phục Sinh. Cao điểm là các ông đã hy sinh cả mạng sống của mình để làm chứng cho điều mình rao giảng. Anh chị em thử nghĩ xem, vì yêu thương chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu nạn, chịu chết vì ta, rồi Ngài sống lại để cho chúng ta cũng được sống muôn đời như Ngài. Thiên Chúa yêu thương chúng ta là thế, tại sao chúng ta lại không vui sống trong sự lạc quan tin tưởng !
Nếu con người chúng ta chỉ sinh ra, lớn lên, rồi chết và chấm dứt ở cái chết; thì cuộc đời con người chẳng có ý nghĩ gì, chẳng khác gì các loài sinh vật khác. Nhưng thật là tuyệt vời, sau cái chết là sự sống đời đời. Chúa Ki-tô đã phục sinh. Đây là một bảo đảm rằng chúng ta cũng sẽ phục sinh sau cái chết. Điều quan trọng là chúng ta có cùng sống với Chúa, cùng chết với Chúa hay không mà thôi( xem Ga 3,16). Do đó những đau khổ, vất vả, thất bại ở đời này có đáng là gì so với hạnh phúc đời đời mà Chúa Phục Sinh mang lại cho ta.
Ha-lê-lu-ya ! Chúa đã sống lại ! Hãy vui lên Chúa đã sống lại ! Đó là những lời tung hô mà Giáo Hội không ngừng vang lên trong mùa Phục Sinh này.Vui mừng hân hoan trong Chúa Phục Sinh, chúng ta còn có bổn phận chia sẻ niềm vui đó với bạn bè, với những người chung quanh của mình. Muốn chia sẻ được, chúng ta phải có niềm vui, niềm vui đó phải được thể hiện trong cuộc sống cách cụ thể. Như thế, chúng ta mới mang Chúa tới cho mọi người.
Tôi hy vọng rằng, từ ngày hôm nay, chúng ta sẽ luôn hân hoan vui mừng trong Chúa Phục Sinh; niềm vui này sẽ kéo dài trong suốt cuộc đời chúng ta, và sẽ chi phối mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm của mình. Ước chi Chúa Phục Sinh biến đổi tâm hồn khô khan của chúng ta thành những tâm hồn sốt sắng trong bình an của Chúa Phục Sinh. Và cũng như Gio-an: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20, 8b), chúng ta cũng có thể nói rằng, tôi đã thấy và đã tin. A men.
Têphanô Mai Xuân
-----------------------------
VietCatholic (Chúa Nhật Phục Sinh C)
CHÚA NHẬT PHỤC SINH, C
Cv 10:34a, 37-43; Cl 3:1-4; Ga 20:1-9
Khi suy gẫm về màu nhiệm cứu chuộc, ta không được quên rằng cuộc khổ hình và tử nạn của Chúa trên thánh giá gắn liền với việc phục sinh của Người. Không thể có phục sinh, nếu không có tử nạn, và cái chết của Chúa không còn ý nghĩa nếu không có việc sống lại. Cuộc khổ nạn, tử hình và phục sinh của Chúa gói ghém lại trong một màu nhiệm duy nhất không thể tách rời: đó là mầu niệm cứu rỗi. Chúa Giêsu sống lại vì nhiều lý do. Việc phục sinh của Người là một bằng chứng bất khả nghi vấn về quyền năng thiên tính của Người. Chúa phục sinh từ cõi chết để tiếp tục công việc của Người tại thế. Chúa phục sinh để công chính hoá loài người. Việc phục sinh của Chúa phải củng cố đức tin và duy trì đức cậy của mỗi người tín hữu. Việc Chúa phục sinh đã mở mắt các tông đồ. Việc Chúa phục sinh cũng phải mở mắt người tín hữu. Chỉ qua việc phục sinh ta mới hiểu được cái tầm quan trọng mà thánh giá đã đem lại cho việc cứu rỗi. Chỉ qua việc phục sinh, ta mới nhìn thấy cái chiều hướng thiêng liêng và siêu nhiên của đạo Kitô giáo. Nhờ cuộc phục sinh của Chúa, ta mới có thể giữ vững đức tin vào thiên tính của Đấng cứu thế.
Nếu Chúa không sống lại thì đạo Kitô giáo đã tan biến như mây khói trong ngày thứ Sáu chịu nạn, và các tông đồ đã trở về với cái nghề ngư phủ của họ, và rồi Chúa Giêsu đã bị quên lãng trong một thời gian vắn vỏi. Đức tin của người Kitô giáo được ăn rễ sâu trong việc Chúa Phục sinh. Theo thánh Phaolô: Nếu Đức Kitô đã không chỗi dạy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng (1Cr 15:14). Theo cùng mạch văn của thánh Phaolô, ta có thể suy luận thêm: Nếu Chúa không sống lại, thì việc rao giảng của các linh mục là một việc làm uổng công. Nếu Chúa không sống lại thì việc giáo dân nghe giảng dạy về lời Chúa là việc làm mất thời giờ. Chối bỏ việc Chúa sống lại, ta không còn phải là người công giáo.
Việc Chúa Phục sinh đã biến đổi đời sống của những người đã chứng kiến: của các tông đồ và Maria Mađalêna và của hai môn đệ thành Emau. Trở lại Giêrusalem. hai ông thuật lại những gì đã xẩy ra dọc đường và việc họ đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh (Lc 24:35). Việc Chúa phục sinh phải là cái gì ta nhìn tới với hi vọng. Và chính cái niềm hi vọng đó sẽ đem lại niềm vui và lẽ sống cho đời ta khi phải chứng kiến và đương đầu với những khó khăn, bệnh tật, rủi ro, những bực mình, thất vọng, chán chường và rồi với thần chết.
Trong mùa chay ta đã cầu nguyện, ăn chay, kiêng thịt, hi sinh, hãm mình và làm việc lành phúc đức. Ta đã chết đi cho tội lỗi để được sống lại với Chúa phục sinh trong ơn thánh. Trong chốc lát, ta sẽ ôn lại lời hứa khi chịp Phép Rửa tội. Hồi đó cha mẹ và ngưòi đỡ đầu đã tuyên xưng đức tin thay cho ta. Họ hứa từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin vào Chúa thay cho ta. Cha mẹ, người đỡ đầu và toàn thể cộng đồng dân Chúa đã bổ túc những gì thiếu sót nơi ta. Hôm nay mỗi người phải tự tuyên xưng đức tin cho mình, không phải một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ. Ta không thể tuỳ thuộc vào đức tin của cha mẹ và người đỡ đầu mãi mãi. Ta phải tập đi tập đứng trong đức tin. Nếu hi vọng là người công giáo trưởng thành, ta phải phê chuẩn đức tin mà ta đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa tội. Nếu việc ôn lại lời hứa khi chịu phép Rửa tội không phải là lời hứa trống rỗng, thì ta phải coi lời hứa là quan trọng, và phải sống và thực hành những lời hứa khi chịu Phép Rửa tội.
NS Dân Chúa Mỹ Châu
Lm Trần Bình Trọng, USA
-----------------------------
VietCatholic (Chúa Nhật Phục Sinh C)
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Ga 20, 1-9
Tiếng nhạc Alléluia thanh thoát, nhẹ nhàng, giọng ca trầm bổng của các ca đoàn hát lên mừng Chúa phục sinh trong các nhà thờ, nhà nguyện thúc giục mọi người Kitô hữu hãy trút bỏ mọi ưu tư, phiền muộn mau mau tuôn về các giáo đường để reo vui đón chào vua Giêsu Kitô toàn thắng sự chết và sống lại khải hoàn. Lời ca thường được hát trong các nhà thờ:” Chúa nay Người đã phục sinh, alléluia, alléluia. Người từ trong kẻ chết sống lại, alléluia, alléluia” quả thực du dương, phấn kích và là một lời tuyên xưng sâu xa vào Chúa Giêsu Kitô sống lại. Chúa đã chiến thắng tội lỗi, sự dữ và sự chết…
MỘT VẤN NẠN CHO MUÔN THỜI:
Vấn nạn mồ trống vẫn còn đó sau bao nhiêu thế kỷ, nhưng câu giải đáp vẫn dễ dàng đối với những người có lòng tin thật sự vào lời Chúa Giêsu tiên báo:” Hãy phá hủy đền thờ này, Tôi sẽ xây lại trong ba ngày”.
Chúa Giêsu bị bắt, bị đóng đinh trên thập tự giá, chết vào ngày thứ sáu, chưa đầy ba ngày sau, vào ngày rạng sáng chúa nhật, Chúa Giêsu đã sống lại ra khỏi mộ. Thánh Maria Mađalêna, bà Maria mẹ Giacôbê và bà Solômê, thánh Phêrô và thánh Gioan là những người đã thấy mộ trống, đã chứng kiến Chúa Giêsu không còn ở trong mộ nữa.Bằng chứng ấy đặc biệt chỉ tỏ lộ cho Gioan, ông đã thấy mộ trống, ông đã vào và ông đã tin. Tất cả những người khác, ngay cả các tông đồ bằng chứng mồ trống chưa đủ thuyết phục được họ. Nhưng, từ từ, qua những lần Chúa Giêsu phục sinh hiện ra một cách lạ lùng, kỳ diệu, bất ngờ và đầy yêu thương, lúc đó các môn đệ mới từ từ do lòng tin hiểu được Thầy mình đã sống lại thật đúng như lời Ngài đã nói trước. Sự hiểu biết về Chúa phục sinh quả thực vượt qua mọi tri thức của con người, mọi dự đoán, mọi suy nghĩ của con người. Đây quả thực là mầu nhiệm của lòng tin.
Các tông đồ và con người phải dùng con mắt đức tin mới hiểu được, chứ con mắt xác phàm, con mắt trần tục của con người sẽ không bao giờ nhận ra Chúa sống lại. Đức tin của các tông đồ như Gioan, Phêrô, Tôma cần phải có những dấu chỉ đích thực, rõ ràng: mồ trống, sờ vào tay, xỏ vào lỗ đinh và chứng kiến các lần hiện ra của Chúa phục sinh, cùng ăn, cùng ở với Đấng sống lại. Những dấu chứng ấy của các tông đồ lại trở thành dấu chứng niềm tin cho các thế hệ tiếp theo. Vấn nạn mồ trống: Chúa Giêsu phục sinh đã được giải mã một cách rõ ràng. Dù rằng vấn nạn ấy luôn được khơi lên, nhưng với những người có đức tin, vấn nạn ấy đã được giải đáp một cách thỏa đáng.
TIN VÀO ĐẤNG PHỤC SINH:
Chúa Giêsu sống lại đã đưa con người ra khỏi hố tuyệt vọng của sự chết. Ngài soi đường chỉ lối cho con người bước đi vững vàng trong bóng tối âm u của trần gian. Ngài đưa đến cho nhân loại, cho những ai có đức tin niềm vui, niềm hy vọng giữa một thế giới đầy tràn đau khổ và thử thách, nước mắt.
Người Kitô hữu phải trở nên dấu chứng cho những người chưa có đức tin bằng cuộc sống tin yêu, phó thác dù họ đang sống giữa trăm ngàn hiểm nguy, thử thách của cuộc đời. Người Kitô hữu phải trở nên khí cụ bình an dù họ đang sống giữa một thế giới có nhiều biến động về tư tưởng, một thế giới có nhiều nơi chưa có sự bình an thật sự. Người Kitô hữu phải trở nên những người kiến tạo sự hiệp nhất, xây dựng công chính và hòa bình. Một hôm có một sinh viên đại học năm thứ ba văn đến hỏi chúng tôi:” Thưa Cha, sao con thấy khó hiểu về sự sống lại của Chúa Giêsu quá. Cái chết và sự phục sinh của Chúa luôn ám ảnh con, xin Cha giúp giải thích cho con vấn nạn này”.
Tôi đã mời cậu ngồi, trước khi giải thích cho cậu sinh viên đó, tôi mời cậu cùng tôi cầu nguyện, để Chúa và Chúa Thánh Thần tác động, sau đó tôi giở đoạn Tin mừng Gioan 20, 1-9, đọc cho cậu nghe… Một tuần sau đó, cậu sinh viên trở lại gặp tôi và đã hoàn toàn tin vào Đấng phục sinh, không còn thắc mắc gì nữa. Cậu sinh viên đã trở nên dấu chứng niềm tin cho bạn bè và nhiều người khác nữa…
THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA:
Trước mầu nhiệm cao cả: Chúa đã sống lại. Người Kitô hữu chúng ta hãy phủ phục trước mầu nhiệm lớn lao của lòng tin để mỗi người trở nên khí cụ bình an và dấu chứng của sự phục sinh bằng cuộc sống tin yêu, hy vọng và trung thành với Chúa, với Giáo Hội. Trở nên dấu chứng cụ thể của lòng tin là ta biết yêu thương, gắn bó và sống quảng đại, tha thứ, cảm thông với người khác. Như Chúa Giêsu đã dậy:” Cứ dấu này người ta sẽ nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em hãy yêu mến nhau”. Yêu thương nhau là dấu chỉ nước trời, bằng chứng phục sinh mà nhân loại đang dầy công tìm kiếm.
Mừng vui lên anh em, Chúa đã sống lại, Alléluia.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn hiểu sao về mồ trống của Chúa Giêsu ?
2. Tại sao mồ trống chưa đủ thuyết phục các môn đệ tin vào Chúa sống lại ?
3. Biến cố phục sinh nói gì cho bạn ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-----------------------------
VietCatholic (Chúa Nhật Phục Sinh C)
CHÚA NHẬT PHỤC SINH C / Easter Sunday
Lời chúa cho hôm nay: CHÚNG TA HÃY VUI MỪNG
* Let us rejoice and be glad *
* BÀI ĐỌC 1: Công vụ 10, 34, 37-43= Diễn từ cuả ông Phêrô: Chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái./ The Speeh of Peter: We are witness of all that He did both in the country of the Jews and Jerusalem.
* BÀI ĐỌC 2: Côlôxê 3, 1-4= Tìm kiếm những sự trên trời: Đời sống của bạn đang được dấu ẩn, đến thời viên mãn, nó sẽ tỏ hiện trong Đức Kitô./ Seek Havenly Things: Ỳour life is hidden, in its fullness it will appear in Jesus Christ.
* TIN MỪNG(Gospel): Gioan 20, 1-9= Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết. Hôm nay chúng ta cần Chúa Thánh Thần đôỉ mới đời sống./ The Scripture say that He has to rise from the dead. We need the Holy spirit renew ourlives.
A- Bạn và tôi cùng Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Truyện kể Đức Giêsu sống lại được bà Maria Mác-đa-la và hai môn đệ đi tìm kiếm được sách Tin Mừng Gioan thuật lại tâm trạng các ông như sau: Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trưóc cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.” Việc tìm Chúa của tôi mỗi ngày là đổi mới, vì tìm ở trong Phúc âm để bắt chước Chúa, tìm trong lúc bệnh tật để đủ sức mạnh, tìm trong lúc cám dỗ để đủ can đảm chống trả, tìm trong lúc gia đình gặp thử thách để được bình an hạnh phúc. Kể sự kiên nhẫn tìm Chúa trong cuộc sống của tôi?(Hành đạo)
“Then the other disciple also went in, the one who had arrived at the tomb first, and he saw and believes.” (Ga 20, 8)
2/ Diễn từ thật hùng hồn đầy Thành Thần của ông Phêrô như sau: “…Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi, Ngày thứ ba Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường.” Làm chứng nhân cho Chúa bằng lời nói rất cần, nhưng bằng chính đời sống của mới quan trọng. Có ngươì nói về Chúa rất hay; nhưng sau đó thấy cách ăn nết ở của họ không hơn gì những người khác, vẫn tham lam, giận hờn đủ thứ để người yếu đức tin nản lòng. Chia sẻ lời nói và việc làm của bạn cụ thể trong Gia đình?(Sống đạo)
“…They put Him to death by hanging Him on a tree. This man God raised on the third day… He be visible.” (Cv 10,39-40)
3/ Thánh Phêrô mạnh mẽ nói tiếp: “Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng…chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết.” Việc rao giảng Lời Chúa là nhiệm vụ của mọi Tín hữu Kitô, hàng giáo sĩ cũng như giáo dân không trừ ai, chắc tôi đã ý thức được việc này. Rao giảng bằng chính trách nhiệm của mình đang có. Cho biết cách suy niệm và chia sẻ Lời Chúa cuả tôi? (Học đạo)
“He commissioned us to preach to the people…the one appointed by God as judge of the living and the dead.” (Cv 10, 42)
4/ Trong thư gởi Côlôxê, thánh Phaolô cho bạn biết: “Thật vậy, anh em đã chết và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô….” Đúng thế, khi bạn từ bỏ tính mê tật xấu là đã chết đi để sống lại với Chúa ngay bây giờ trong tâm hồn. Người Tín hũu không phải chết khi tắt hơi, mà hàng ngày ta hằng chết trong Chúa để sự Sống Mới tỏ hiện nơi bạn. Chia sẻ cụ thể đời sống mới của bạn qua việc làm? ( Sùng đạo)
“For you have died, and your life is hidden with Christ in God.” ( Colôxê 3, 3 )
B- Câu Kinh Thánh tôi chọn để Sống lại với Chúa tuần naỳ: ( The Best God’s Word)
ANH EM HÃY HƯỚNG LÒNG TRÍ VỀ NHỮNG GÌ THUỘC THƯỢNG GIỚI (Col 3, 2)
Think of what is above, not of what is on earth
Mẹ Maria: Đức Maria đã tiến bước trong cuộc hành trình đức Tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên thập gía, và Ngài đã đứng ở đó theo ý Chúa muốn. ( GH # 58 )
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì để Sống lại với Đức Kitô: ( So what am I doing / For Action )
Tôi chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm-Nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống hoặc việc khác.
D- Tôi câù nguyện như hơi thở và Sống lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
Lạy Cha! Đức Kitô đã thực sự sống lại trong Thần Khí của Cha, xin cho con cũng đựơc chỗi dậy là tìm kiếm những điều Cha muốn, để cởi bỏ con người cũ và sống laị ngay từ bây giờ.
Pt. Nguyễn Định
-----------------------------
Bài đọc:Cv: 10: 34, 37-43: Cl 3: 1-4 ; Ga 20: 1-9
Chủ đề: Phục sinh là Tin Mừng loan báo cho chúng ta biết Chúa Giêsu sẵn sàng làm phép lạ trong đời sống chúng ta nếu chúng ta sẵn lòng với Ngài.
Ernest Gordon có viết một quyển sách tựa đề Through the Valley of the Kwai (ngang qua PS1-98
Ernest Gordon có viết một quyển sách tựa đề Through the Valley of the Kwai (ngang qua thung lũng sông Kwai) trong đó ông trích dẫn một mẩu chuyện có thật xảy ra tại một trại tù binh Nhật Bổn dọc bờ sông Kwai trong thế chiến thứ hai. Nhiều người trong chúng ta đã nghe nói về trại này trong cuốn phim Bridge Over the River Kwai (chiếc cầu trên sông Kwai). Nơi đây 12 ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ trong khi họ phải xây dựng một tuyến đường xe lửa. Đám đàn ông bị cưỡng bức lao động dưới cơn nóng đôi khi lên tới 120 độ fahrenheit (tức 49độC) Đầu trần, chân đất, họ vác từng thúng đá trên vai để xây cho xong toàn bộ tuyến đường. Họ chỉ mặc mỗi manh áo rách và nằm ngủ trên mặt đất không chăn chiếu. Thế nhưng kẻ thù khủng khiếp nhất đối với họ không phải là đám lính Nhật hay cuộc sống gian khổ mà lại là chính bản thân họ. Theo lời kể của Gordon, vì quá sợ tụi lính Nhật, nên đám tù binh đã bị mắc chứng hoang tưởng. Họ lấy luật rừng cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, ngờ vực nhau và chỉ điểm lẫn nhau. Đám lính gác cười nhạo khi thấy những người lính từng kiêu hãnh biết bao giờ đây đang phá hoại lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra. Hai tù nhân nọ tổ chức cho những tù nhân còn lại thành những nhóm học hỏi Kinh Thánh và qua việc học hỏi Kinh Thánh dần dà đám tù nhân khám phá ra Chúa Giêsu là một người đang sống động giữa họ. Hơn nữa, họ còn khám phá được rằng Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh của họ, vì Ngài đã từng không có chỗ gác đầu vào ban đêm, Ngài đã từng chịu đói khát, chịu da bọc xương, Ngài từng bị phản bội, từng nếm roi vọt trên lưng như họ. Thế là tất cả những gì liên quan đến Chúa Giêsu, về con người của Ngài, về những gì Ngài nói, những gì Ngài làm bắt đầu mang đầy ỹ nghĩa và trở nên sống động đối với họ. Đám tù không còn cho rằng họ là những nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nào đó; họ không còn chỉ điểm, không còn phá hoại lẫn nhau nữa. Họ biểu lộ sự hoán cải rõ rệt nhất trong những lời cầu nguyện. Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn cho chính mình. Nếu có xin gì cho riêng mình thì họ chỉ xin được nới lỏng tự do để đến bên nhau. Dần dà, cả trại đã được biến đổi, đến nỗi không phải chỉ đám lính Nhật mà cả các tù binh cũng phải ngạc nhiên. Một đêm nọ, sau khi hội thảo với nhóm học hỏi Thánh Kinh xong, Gordon khập khễnh bước về trại của mình. Đang lúc lần mò trong bóng đêm, ông bỗng nghe có tiếng nhiều người ca hát, có người dùng một mảnh gỗ gõ vào một chiếc lon thiếc để giữ nhịp. Tiếng mảnh gỗ vào một chiếc lon thiếc và tiếng ca hát làm cho bóng đêm trở nên sống động. Sự khác biệt giữa tiếng hát vui tươi lúc đó và cái yên lặng chết chóc của những tháng qua giống hệt sự khác nhau giữa cái sống và cái chết, giữa cái chết và sự Phục sinh.
Câu chuyện về sự biến đổi xảy ra trong trại tù binh Nhật Bản là một minh họa tuyệt vời cho Lễ Phục sinh hôm nay. Lễ Phục sinh chính là phép lạ làm cho các tù nhân tin tưởng lẫn nhau sau khi đã ngờ vực nhau, làm cho họ biết chia xẻ với nhau thay vì trước đó chỉ biết cướp bóc của nhau, làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì trước đó chỉ lo tìm cách chỉ điểm nhau.
Và lễ Phục sinh đã qui tụ chúng ta lại nơi giáo đường này, trong buổi sáng Phục sinh đẹp trời hôm nay. Vậy Lễ phục sinh đem lại điều gì cho chúng ta? lễ ấy cho ta biết rằng sự biến đổi nơi cuộc sống các tù nhân nọ cũng có thể xảy ra trong chính cuộc sống chúng ta, sự thay đổi nơi trại tù binh nọ cũng có thể xảy ra trong thế giới chúng ta. Chúng ta chỉ cần bắt chước các tù binh ấy mở rộng tâm hồn ra đón nhận ân sủng Chúa Giêsu đã gặt hái được cho chúng ta vào dịp lễ phục sinh cách đây 2000 năm.
Kính thưa các anh chị em của tôi trong Chúa Kitô, Tin Mừng Phục sinh cho ta biết rằng không gì có thể chế ngự chúng ta được nữa, dù là sự ngã lòng, sự bất hạnh, sự ruồng bỏ, sự đớn đau và kể cả sự chết. Tin Mừng Phục sinh còn cho ta hay rằng ta chẳng cần phải đợi đến lúc chết mới tham dự quyền năng Phục sinh, chúng ta có thể tham dự quyền năng ấy ngay từ bây giờ.
Như thế Lễ Phục sinh mời gọi mọi người đang hiện diện trong giáo đường sáng nay đây mở rộng tâm hồn cho Chúa Giêsu Phục sinh để Ngài làm cho chúng ta điều Ngài đã làm cho các tù binh trong trại nọ, hãy để Chúa giúp chúng ta biết tin tưởng lẫn nhau như xưa chứ đừng phản bội nhau, hãy để Chúa giúp chúng ta yêu thương nhau như xưa chứ đừng khước từ nhau, hãy để Chúa giúp ta biết tiếp tục hy vọng khi mà niềm hy vọng đã vỡ tan thành từng mảnh, hãy để Ngài giúp chúng ta nhặt lên những mảnh vỡ và khởi sự lại từ đầu khi mà chúng ta hầu như sẵn sàng muốn phể bỏ chúng đi.
Và đây là tất cả những gì lễ phục sinh mang lại cho chúng ta. Trước hết, phục sinh là tin vui cho biết Chúa Giêsu Phục sinh hiện đang ở giữa chúng ta. Ngay trong giáo đường này, vào buổi sáng phục sinh này. Phục sinh cũng là tin vui cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ, sự chết và chúng ta cũng làm được điều ấy, chỉ cần chúng ta biết mở rộng tâm hồn ra với Ngài. Ngoài ra phục sinh còn là tin vui cho biết Chúa Giêsu sẵn sàng làm phép lạ cho chúng ta chỉ cần chúng ta để cho Ngài làm. Sau cùng phục sinh thực sự là tin vui cho biết không có gì có thể tiêu diệt chúng ta được – dù là đớn đau, phiền não, chối từ, tội lỗi và ngay cả chính cái chết.
Tóm lại, đó chính là tất cả những gì Lễ phục sinh mang laị cho chúng ta. Và đó chính là điều chúng ta hân hoan chúc mừng khi chúng ta chuẩn bị cùng nhau bẻ bánh nhân ngày khai sinh trọng thể đức tin Kitô giáo của chúng ta hôm nay.
-----------------------------
KHOẢNG THÁNG 3 THÁNG 4 NĂM 1973, TẠI HOA KỲ NHIỀU NGƯỜI CẢM ĐỘNG KHI NHÌN TRÊN MÀN ẢNH TIVI THẤY HÀNG TRĂM TÙ NHÂN CHIẾN TRANH HOA KỲ TRỞ VỀ QUÊ NHÀ. TRONG ĐÁM TÙ BINH CÓ MỘT NGƯỜI Họ KHÔNG HY VỌNG TRỞ VỀ. ĐÓ LÀ TRUNG SỸ HẢI QUÂN RIDGEWAY, CHA MẸ CỦA ANH Ở HOUSTON, BANG TEXAS, NĂM 1968. NGƯỜI TA BÁO TIN RIDGEWAY ĐÃ TỬ TRẬN TRONG MỘT CUỘC HÀNH QUÂN. HÀI CỐT ANH ĐƯỢC ĐEM VỀ NHÀ, VÀ NGƯỜI TA LÀM Lễ AN TÁNG.
BẤT NGỜ, TÊN RIDGEWAY XUẤT HIỆN TRÊN BẢY DANH SÁCH TÙ NHÂN. RIDGEWAY CÒN SỐNG, CHA Mẹ VÀ HỌ HÀNG VUI MỪNG.
HÔM NAY CHÚNG TA TÔN VINH MỘT Vị ANH HÙNG, NGƯỜI THẬT SỰ ĐÃ CHÊT TRÊN THẬPP GIÁ. THI HÀI CỦAA NGƯỜI ĐÃ THẬT SỰ ĐƯỢC MAI TÁNG TRONG MỒ, VÀ MỘT TẢNG ĐÁ LẤP CỬA MỒ LẠI, NGƯỜI THẬT SỰ SỐNG LẠI VÀ RA KHỎI MỒ.
**CÓ SỰ LẦM LẪN VỀ CÁI CHẾT VÀ AN TÁNG CỦA RIDGEWAY. NHƯNG KHÔNG LẦM LẪN VỀ CÁI CHẾT CHÚA KITÔ KHÔNG CÓ SỰ KIỆN LỊCH SỬ NÀO RÕ RÀNG VÀ CHẮC CHẮN NHƯ SỰ CHẾT VÀ SỰ AN TÁNG VÀ SỐNG LẠI CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ, VÌ KHÔNG CÓ SỰ KIỆN NÀO ĐƯỢC TRA CỨU PHÊ BÌNH VÀ TÌM HIỀU BẰNG.
GIA ĐÌNH, BẠN BÈ CỦA TRUNG SỸ RIDGEWAY ĐÃ TỔ CHỨC ĐÓN NGÀY TRở VỀ, SỰ SỐNG LẠI CỦA ANH. HỌ TRANG HOÀNG NHÀ CỬA, GIĂNG CỜ, TỔ CHỨC TIỆC MỪNG, HÁT VÀ ĐỌC DIỄN VĂN CA TỤNG ANH. NHữNG NGỪƠI THEO CHÚA KITÔ ĐÃ CỬ HÀNH LỄ NGƯỜI SỐNG LẠI HƠN 1.900 NĂM RỒI. CHÚNG TA VẼ QUẢ TRỨNG PHỤC SINH. CHÚA KITÔ RA KHỎI MỒ NHƯ CON GÀ RA KHỎI VỎ TRỨNG. CHÚNG TA MẶC ÁO MỚI, ĐEO DấU HIỆU PHỤC SINH, TRANG HOÀNG HOA NẾN. CHÚNG TA CHÚC NHAU MÙA PHỤC SINH HẠNH PHÚC SỰ VUI MỪNG THậT CỦA CHÚA KITÔ ĐEM LẠI CHO MỌI NGƯỜI SỨC SỐNG.
VIỆC CỬ HÀNH CHÚA SỐNG LẠI ĐƯỢC THỰC HỊÊN TRÊN BÀN THỜ NÀY. TRONG THÁNH LỄ, NGƯỜI KHÔNG CHỉ TÁI DIỄN SỰ CHẾT, NHƯNG CÒN TÁI DIỄN SỰ SỐNG LẠI CHO CHÚNG TA NỮA. CHÚNG TA CA HÁT TÁN TỤNG NGƯỜI BẰNG NHỮNG BÀI THÁNH CA VÀ LỜI NGUYỆN TRONG THÁNH LỄ, CHÚNG TA LẶP LẠI LỜI CHÚC CỦA THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI ĐÃ PHỤC SINH: BÌNH AN.
CHÚNG TA TIẾP NHẬN CHÚA PHỤC SINH KHI RƯỚC LỄ, NGƯỜI LÀ BẢO ĐẢM SỰ SỐNG LẠI CỦA THÂN XÁC CHÚNG TA TRONG NGÀY TẬN THẾ.
KHI GIA ĐÌNH VÀ BẠN BÈ TỔ CHỨC MỪNG TRUNG SỸ RIDGEWAY, HỌ BIẾT ĐIỀU HỌ ĐANG LÀM. HƠN THẾ NỮA, CHÚNG TA PHẢI Ý THỨC ĐIỀU CHÚNG TA CỬ HÀNH: SỰ SỐNG LẠI CỦA ĐẤNG CỨU CHUỘC CHÚNG TA. TRONG SỰ CHIẾN THẮNG CỦA NGƯỜI TRÊN SỰ CHẾT, TRONG NIỀM VUI MỪNG VÀ BÌNH AN CỦA NGƯỜI, CHÚNG TA CÓ THỀ CHÚC CHO NHAU ĐIỀU TÔI CHÚC CHO MỖI NGƯỜI TRONG CÁC BẠN.
“Phục sinh chiến thắng, hạnh phúc”
Xin Chúa chúc lành Bạn. Amen.
-----------------------------
Lễ Vượt Qua Của Chúng Ta
Đinh Trung Hòa SJ.
Trong suốt tuần thánh, chúng ta tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Chúng ta đi theo Ngài vào thành Giêrusalem, nghe lời tung hô vạn tuế. Chúng ta ngồi bên Ngài trong bàn tiệc ly, để Ngài rửa chân cho mình để thấm hiểu ý nghĩa tột cùng của sự phục vụ. Cùng tiếp lấy chính máu thịt Ngài ban để nuôi sống mình, để nhận ra trong máu thịt ấy, Ngài cho đi chính thân mình.
Chúng ta ở bên Ngài trong vườn Giêtsemani, nghe từng nhịp thổn thức của trái tim Ngài bị giằng xé vì gánh khổ nạn đổ xuống trên mình, và đổ lệ thưa tiếng ‘Xin vâng’. Chúng ta cùng Ngài ra pháp trường nhận bản án tử hình. Rồi chúng ta theo chân Ngài trên đường thập giá, để cảm nhận thấy chính đôi chân cứu chuộc của Ngài bước vào những đau thương, tan nát nhất trong đời sống chúng ta.
Chúng ta đứng bên Ngài bên thập tự giá, gánh lấy tất cả tội lỗi, hận thù của nhân thế, và cầu xin cho kẻ bách hại mình. Chúng ta chứng kiến Ngài gục đầu trút hơi thở, tiêu diệt tội ác và hận thù ngay trong cái chết cuả mình, và kêu thốt lên với người lý hình, “Qủa nhiên, Ngài là Con Thiên Chúa.”
Chúng ta ngồi bên Mẹ Maria ôm xác Chúa, để chợt thấy Mẹ làm một với chúng ta trong giây phút chúng ta mất mát người thân yêu nhất. Chúng ta theo chân người táng xác Chúa trong mồ, để nhận thấy chính Chúa hiện diện trong cả những vực thẳm cô đơn, tuyệt vọng đen tối nhất của đời sống chúng ta. Chúng ta bước đi, và cảm thấy bàng hoàng, nhưng nhẹ nhõm như chính cái tôi của mình đã bị đóng đanh và an táng trong mồ với Ngài.
Chúng ta hân hoan ngỡ ngàng như Maria Madalena giật mình khi nghe tiếng Ngài gọi đúng tên mình. Chúng ta bàng hoàng như Tôma được gặp chính Ngài, còn mang trọn trên thân xác Phục Sinh những vết thương thập giá. Chúng ta kinh ngạc như hai môn đồ trên đường về quê, đàm đạo với Ngài, rồi chợt nhận ra bàn tay Ngài bẻ bánh, vẫn mãi cho đi chính mình. Chúng ta hấp tấp trở về loan báo tin vui trọng đại, như hai môn đồ Emmau, như Maria Madalena, như Phêrô, Gioan, như Phaolô, như Andrê Phú Yên, như Gioan Hoan, Tôma Thiện, Vincentê Liêm, như Mary Mckillop, như Teresa Calcutta, như người Kitô hữu.
“Ngài đã sống lại”, như tim tôi đã cảm nhận được Ngài, như linh hồn tôi đã nhận ra Ngài. Sức sống Phục Sinh của Ngài tràn trề, sự hiện diện của Ngài hiển thị và thấm nhuần trên từng ngọn cỏ, từng hạt sương, từng viên đá, từng nhánh cây, từng khuôn mặt khắc khổ, từng nụ cười rạng rỡ trẻ thơ, từng cơn rên của người bệnh nạn, từng nỗi lo âu của người bị cầm tù, từng dáng tiều tụy của người nạn nhân ma túy. Ngài vượt qua mọi hàng rào, mọi ranh giới của chính trị, kinh tế, của chủ nghĩa, của văn hóa, tôn giáo, phong tục, tập qúan và hiện diện khắp nơi, đầy ắp cả vũ trụ, muôn vật, muôn loài.
Chúng ta bước đi hân hoan, vui sướng vì sự chết không còn là nỗi kinh hoàng ám ảnh cả kiếp người. Sự chết chấm dứt, không còn là chứng bệnh nan y, vì đã có người bị chết và sống lại từ cõi chết. Thiên Chúa làm người đã dấn thân bước vào đau khổ và sự chết và Ngài biến đổi tất cả.
Đây là lễ Vượt Qua của chúng ta.
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng sdb
-----------------------------