Suy Niệm Tin Mừng 7 Vọng & PS1 ABC Bài 201-250 Chúa đã sống lại rồi
--------------------------------------------------------
Phúc Âm Năm A:
Phúc Âm: Ga 20,1-9: "Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo
Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
Phúc Âm Năm B: Mc 16,1-8: "Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta". Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: "Các người đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nazarét chịu đóng đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Ðây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy đi nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước". Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi. - Ðó là Lời Chúa.
----------------
PS1-201. CHÚA NHẬT PHỤC SINH - Canh Thức Vượt Qua. 2
PS1-202. PHỤC SINH ĐÂU CHỈ LÀ SỐNG LẠI 3
PS1-203. Phục Sinh 'hết hồn hết vía', 'ớn lạnh' và 'sợ điện giật' 6
PS1-204. Đức Kitô sống lại 15
PS1-205. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh - Achille Degeest 16
PS1-206. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống. 18
PS1-207. Chú giải của Noel Quesson. 20
PS1-208. CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI 24
PS1-209. ĐỨC GIÊSU VẪN SỐNG.. 34
PS1-210. CHÚA NHẬT PHỤC SINH – C.. 36
PS1-211. CHÚA GIÊSU KHAI SINH KỶ NGUYÊN MỚI 42
PS1-212. ALLELUIA CHÚA ĐÃ PHỤC SINH.. 44
PS1-213. ÔNG THẤY VÀ ÔNG TIN.. 45
PS1-214. HÃY CÓ…... 48
PS1-215. SỰ NHẦM LẪN.. 50
PS1-216. AI TIN CHÚA KITÔ PHỤC SINH.. 51
PS1-217. MỘT NHÂN LOẠI THUỘC QUYỀN THIÊN CHÚA.. 53
PS1-218. HÃY VỮNG TIN, ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở VỚI BẠN.. 55
PS1-219. SỨC MẠNH TÌNH YÊU.. 57
PS1-220. NGÔI MỘ TRỐNG.. 59
PS1-221. SỰ KIỆN MỘ TRỐNG.. 62
PS1-222. CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 65
PS1-223. ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN.. 66
PS1-224. QUẢ TRỨNG RỖNG.. 68
PS1-225. LỄ PHỤC SINH.. 70
PS1-226. Chúa Giêsu sống lại: một sáng tạo mới! 72
PS1-227. Đấng Phục Sinh. 73
PS1-228 Chúa đã sống lại! Alleluia – R. Veritas. 75
PS1-229. Chúa Kitô đã sống lại 77
PS1-230. MẦU NHIỆM PHỤC SINH.. 80
PS1-231. NHỮNG CHỨNG NHÂN ĐẦU TIÊN.. 82
PS1-232. Chúng Ta Đang Đi Trong Sự Sống Mới 83
PS1-233. CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT.. 87
PS1-234. Chỉ có đức tin mới cho ta biết Chúa đã sống lại 88
PS1-235. CHÚA NHẬT PHỤC SINH, A.. 92
PS1-236. HALLELUIA !!! 94
PS1-237. ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ.. 97
PS1-238. Lễ Phục Sinh. 98
PS1-239. Tôi đã thấy Chúa. 102
PS1-240. CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 103
PS1-241. CHỦ NHẬT PHỤC SINH (A) 107
PS1-242. CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 110
PS1-243. Cái ác đang thống trị?. 113
PS1-244. Ngôi mộ của Chúa Phục Sinh. 115
PS1-245. CHÚA NHẬT PHỤC SINH B.. 117
PS1-246. CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT RỒI.ALLÉLUIA. 119
PS1-247. CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI 121
PS1-248. Chúa Nhật Phục Sinh B.. 122
PS1-249. CHÚA NHẬT PHỤC SINH,năm B.. 126
PS1-250. CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 129
-----------------------
Việc tưởng niệm Cha Kitơ chịu chết v sống lại đạt tới điểm cao nhất trong đm Vượt Qua, l Đm Thnh của người Kitơ hữu. Theo như lời thnh Augustinơ nĩi, cuộc họp mừng đm nay l mẹ của hết mọi buổi canh thức phụng vụ. Chúa Kitô đ dạy các môn đệ phải canh thức để đợi chờ Tân Lang đến (Mt 25,13), vì thế người Kitơ hữu cĩ dnh một phần ban đm để cầu nguyện thì cũng l chuyện dĩ nhin. Nhưng không có đm thích hợp cho một cuộc họp mừng phụng vụ bằng đm Vượt Qua: đây l đm dn Israel ăn thịt chin v được cứu thốt, l đm họ đi bộ qua Biển Đỏ; đây l đm Cha Kitơ đập tan xiềng xích tử thần v từ m phủ khải hồn đi ln; đây l đm Gio Hội, ngay từ buổi đầu, vẫn chờ mong Cha trở lại.
Đm nay, cộng đon Kitơ hữu trước tin nghe đọc Lời Chúa để ơn lại tất cả lịch sử cứu độ, từ buổi khai thin lập địa v việc dân Israel ra đi khỏi đất Ai Cập, cho đến việc Cha Gisu sống lại v được tơn vinh trn trời. Trong khi nghe đọc Sch Thnh, cộng đon được Nến Phục Sinh soi sng: Nến ny tượng trưng đám mây sáng xưa đ dẫn dn Israel trn đường về đất hứa, v đặc biệt tượng trưng Cha Kitơ, l nh sng soi thế giới.
Tiếp đó có cử hnh cc Bí tích Vượt Qua: php Rửa, nhờ đó con người cng chết với Chúa Kitô để cng sống sự sống mới với Người (Rm 6,8); php Thm Sức ghi ấn tích Cha Kitơ vo người Kitơ hữu v ban Thnh Thần cho họ; php Thnh Thể l Tiệc Thnh của Giao Ước mới, trong đó các môn đệ nhận ra Cha phục sinh khi Người bẻ bnh trao cho họ (Lc 24,35).
Trong đm Vượt Qua, người Kitơ hữu được nếm trước niềm vui của thnh Girusalem trn trời. Vì thế, đm nay vang dội tiếng ht “ Allluia ” .
-----------------------------
Luc 24, 1-12
Là một trong 100 bộ phim hay nhất mọi thời đại, “Cái giá của sợ hãi “(phim chiếu ở Việt Nam năm 1955 với tựa đề “Đồng Lương Khủng Khiếp”) tả lại sự sợ hãi đến bí tiểu tiện của hai người được thuê lái xe tải chở những thùng đựng Nitroglycérine, mà chỉ cần một va vấp mạnh cũng đủ thổi bay biến cả xe lẫn người. Cuộc hành trình dài năm ngày là những thời khắc căng thẳng. Chỉ có nghĩ về hình ảnh người yêu đang chờ ngày mình trở về, và món nợ có thể xoá được nhờ hai ngàn đô-la tiền công đổi mạng nầy, mới giúp người đàn ông đủ nghị lực vượt những trở ngại gian nan không kể xiết cả về tinh thần lẫn thể xác. Tiếc thay, chỉ một chút vô ý trên
đường về đã khiến anh bỏ mạng, khi chiếc xe đâm xuống vực thẳm. Sợ hãi,bất an, bất trắc,gian nan, không làm anh lùi bước, không làm anh thất bại. Vui mừng, cảm giác an toàn, con đường thênh thang và phơi phới hương vị tình yêu đã làm anh mất cảnh giác. Vinh quang,thành công,hạnh phúc nào cũng có giá riêng, có khi phải trả bằng cả máu,nước mắt và sự sống. Vinh quang của Chúa Giêsu cũng đã phải trả bằng sợ hãi. Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, khi một phóng viên người nước ngoài hỏi Ngài trên cảnh đổ nát hoang tàn ở Kontum :”Đức Cha không sợ sao?”.Đức cố giám mục giáo phận Kontum Paul Léo Seitz (1901 – 1984) trả lời :” Tôi không sợ”. Nhưng ngẫm nghĩ một lát,Ngài nói tiếp :”Không, tôi nói chưa đúng sự thật. Tôi sợ lắm chứ,nhưng vì bổn phận, tôi sẵn sàng sống chết với giáo dân của tôi” (Phanxicô Xaviê Hồng Y Nguyễn-Văn-Thuận - Những người lữ khách trên đường hy vọng,trang 15).
Kể từ khi cuốn sách "Life after Life" (tác giả Bác sĩ Raymond A. Moody,bản dịch Việt ngữ : Đời sống sau nầy) xuất bản năm 1975, hàng ngàn trường hợp liên quan đến vấn đề tiếp cận với những hình ảnh thấy được sau khi chết được báo cáo, phân tích và nghiên cứu. Bác sĩ Melvin Morse đã kể lại một trường hợp xảy ra như sau: Vào năm 1982, một bé gái 7 tuổi bị rơi vào một hồ bơi, khi vớt lên, thì bé này đã ngưng thở gần 20 tiếng đồng hồ. Các bác sĩ cho rằng cháu bé này đã chết. Nhưng như có một phép lạ, nhờ hô hấp nhân tạo, em đã tỉnh lại và sau đó đã kể những gì cháu đã trải qua trong thời gian coi như đã chết ấy. Cháu cho biết đã gặp một người mà cháu nghĩ rằng đó là Chúa Trời. Người hỏi : "Cháu có muốn ở lại đây không thì cháu trả lời muốn nhưng Người lắc đầu: con còn mẹ, con có trách nhiệm với người mẹ đang còn sống, vì thế con nên trở về..." . Những câu chuyện không thể kiểm chứng, dù sao cũng nói lên niềm tin sự sống đời sau và sự sống lại, hay đúng hơn, việc sự sống được phục hồi sau một thời gian …chết. Chúa Giêsu đã chết thật về phần xác và Người đã Phục Sinh. Do vậy, phải có sự khác biệt giữa sống lại đơn thuần và Phục Sinh. Phục Sinh đâu chỉ là sống lại.
NẾU quả có hối tiếc nơi Thiên Chúa với tư cách Đấng Tạo Hoá, thì Người hẳn ân hận về hai cái, mà Người đã quá hào phóng ban cho con người, để rồi đành bất lực nhìn con người sử dụng chúng như hai vũ khí chống lại Người : sự sống và tự do. Hãy xem con người hành xử thế nào với tự do của mình : có bao nhiêu định nghĩa về ‘tự do’, - mà hầu như đa số đều khiếm khuyết,một chiều và cơ hội chủ nghĩa,- thì có bấy nhiêu lối hành xử theo những quan niệm và quan điểm ấy, để rồi thế giới nầy đang tan hoang như con ngựa chứng, rơi từ thái cực nầy đến thái cực nọ. Với ‘tự do”, rao bán tâm hồn,thể xác và linh hồn mình chưa đủ, con người còn rao bán cả thân xác,linh hồn, nhân phẩm đồng loại và không ngần ngại bán luôn cả Thiên Chúa, sau khi phản bội Người. ‘Tự do’ mau chóng thâm nhập lãnh vực tình cảm,tình dục : Sau cách mạng tháng 10.1917, Liên Xô cho rằng tình dục cũng là một hình thức đấu tranh giai cấp, vì thế đã để tự do luyến ái phát triển mạnh mẽ, gây nên bầu khí thác loạn, suy đồi văn hoá và đạo đức trong mọi lãnh vực,phạm trù,khiến chính quyền vô thần hoảng hốt cấm đoán. Nhưng những gì đã diễn ra công khai và được làm ngơ (thậm chí khuyến khích), thì sau đó thành cơn sóng ngầm hủy hoại nhiều thế hệ trẻ của Liên Xô và của nước Nga. Chẳng những thế, các nước ‘tự do’ không chịu kém cạnh trong các khoản ‘tự do’ nầy. Theo thống kê của Yahoo và Google, hai năm liền ,2008 và 2009,Việt Nam đứng đầu trong khối các nước và Hà Nội đứng đầu khối các thành phố trên thế giới về truy cập “sex”, vượt xa cả Trung Quốc,Án Độ,Nga…Nhưng hồng ân thứ hai – Sự Sống - mới chính là điều chúng ta muốn nói hôm nay,trong bối cảnh mừng mầu nhiệm Phục Sinh, với khẳng định : Phục Sinh đâu chỉ là sống lại!
Trong Chiesa.com, số ngày 08.03.2010, tác giả Sandro Magister lấy tựa đề cho bài viết của ông :”Tại sao nước Nhật giàu có lại rẻ rúng sự sống như vậy?”. Nước Nhật đứng đầu về con số người tự tử: bình quân 15 phút lại có một người Nhật kết liễu đời sống.Mỗi năm 30.000 người và người ta ước lượng con số ấy năm 2010 nầy sẽ là 35.000. Thế giới biết nhiều đến nước Nhật qua hai từ ngữ “kamikaze” (phi công cảm tử) và ‘harakiri’ (mổ bụng tự sát). Đức Tổng giám mục giáo phận Tokyo và sứ thần Toà Thánh tại Nhật đều nhất trí rằng vấn đề Thiên Chúa là cội nguồn tối hậu của việc người Nhật, khiến họ tự sát một cách dễ dàng đến vậy.
Dân Nhật có tám triệu vị thần, hàng ngàn chùa chiền và hai tôn giáo chính thức là Phật giáo và Thần giáo, nhưng lại không có được niềm tin vào một Thiên Chúa ngôi vị, toàn năng và nhân từ,gần gũi với mọi người và đầy tình yêu thương đối với con người. Đương kim thủ tướng Nhật,Yukio Hatoyama, tuyên bố tự tử ở nước Nhật là một vấn nạn xã hội nghiêm trọng phải được xử lý quyết liệt và phải ngăn lại. Trong bài diễn văn Năm Mới 2010, ông lập đi lập lại từ “Sự Sống” hai mươi bốn lần và khẳng định mục tiêu chính của chính phủ ông chính là bảo vệ sự sống con người. Người Nhật đồng hoá mình với đoàn thể, với xã hội, với xí nghiệp, với đất nước, và không có khái niệm về cá thể, vốn là tâm điểm của văn hoá phương Tây. Khi một Kitô hữu đi đến quyết định kết liễu sự sống, người đó biết mình đi ngược với một luật linh thánh : chính Thiên Chúa ban sự sống cho họ và chỉ duy Thiên Chúa mới có quyền lấy nó đi. Người Nhật muốn tự tử không có được cái thắng hãm nầy. Anh ta không có ý niệm tội lỗi. Ngoài thế giới vật chất và văn hoá riêng mình, anh ta chẳng có ai và chẳng có gì để xin trợ giúp, trong khi ở thế giới anh ta, việc xin trợ giúp lại là nhục nhã, vì thế mà anh ta phải tự giải quyết bi kịch sự bất hạnh không còn chịu đựng được nữa nầy, trong chính nội tâm mình. Vào những thời khắc đen tối nhất, Kitô hữu luôn có thể chìa bàn tay hướng về Thiên Chúa. Sống tự do tình dục, “buông tuồng mất nết”, vô trách nhiệm và không có một Đấng để nhìn vào, để hy vọng,để thấy được gần gũi yêu thương, con người không chỉ rẻ rúng sự sống của chính mình, mà coi thường sự sống tha nhân, nhất là của những trẻ chưa sinh (ngừa tránh và nạo phá thai), của những người yếu đau già cả “hết giá trị sử dụng và lợi dụng”(an tử, tự tử có trợ giúp),những hành động thú tính (bạo lực, khủng bố), cũng như hành xử trong các quốc gia vô thần và độc tài.
Sự sống do Thiên Chúa ban tặng. Con người một khi đã được ‘thổi’ sự sống vào (khi thụ thai),sẽ không bao giờ chết nữa, nghĩa là sống đời đời. Đó là nét làm cho con người – cùng với tự do – nên cao trọng, phân biệt với loài thú vật. Con người, bất kể là Kitô hữu hay ngoại giáo, bất kể ăn ở hiền lành đạo đức hoặc trọn đời làm điều gian ác, là Lão phú hộ hay anh Lazarô, đều sẽ sống lại sau khi lìa trần. Với những người không coi đời sau ra gì và hành động như thể họ có quyền trên sự sống (của mình và của đồng loại), thì đúng là “cái giá sợ hãi”: Sống lại để chịu trầm luân muôn đời, thì nói như các phim Trung Quốc : “sống không bằng chết”, nhưng nào chết được, một khi đã “sống lại”,’phải’ sống lại. Với những ai đặt trọn niềm tin nơi Thiên Chúa, bằng cách sống theo Tin Mừng, sống với ân sủng các bí tích, canh tân và hoàn thiện cuộc sống mình, để nên chứng nhân cho Chúa Kitô Phục Sinh, thì Sống Lại mới thực sự được gọi là Phục Sinh. Ác nhân sống lại với đầy đủ tội ác, mà tội lớn nhất không cho phép họ Phục Sinh, là tội coi thường Sự Sống vô cùng cao trọng qúy giá mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Họ từ chối sống đời đời trong Nước Chúa, thì phải sống đời đời trong hoả ngục, trong khi sống một đời tận trung với Thiên Chúa, người lành qúy trọng và vun đắp sự sống Thiên Chúa ban, để khi sống lại, Sự Sống vĩnh cửu ấy được rửa trong Máu Con Chiên, mặc lấy vinh quang Phục Sinh trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô. Chỉ như vậy thì sống lại mới là Phục Sinh.
Trong ý nghĩa đó, truyền giáo không chỉ là làm cho người khác tin vào sự sống đời sau, không chỉ đem Tin Vui Phục Sinh đến mọi người, không chỉ làm cho người khác tin vào sự Phục Sinh, mà Truyền Giáo còn là giúp tha nhân thể hiện niềm tin Phục Sinh - SỐNG LẠI VỚI CHÚA KITÔ PHỤC SINH – ngay ở đời nầy. Hành trang vào sự sống đời đời, vì thế, là tất cả những gì chúng ta gom nhặt, vun vén, tích lũy ở thế gian: thiên đàng hay hoả ngục, không đợi đến ngày phán xét chung mới biết. Sống lại hay Phục Sinh tùy thuộc thái độ và hành xử của chúng ta đối với Tự Do và Sự Sống. “Thiên đàng hoả ngục hai bên; ai khôn thì dại, ai dại thì khôn…”.
ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 43
-----------------------------
Theo nghĩa rộng, áp dụng cho mọi tôn giáo, thần nghiệm học hay huyền nhiệm học (mysticism) là việc tìm kiếm hiệp thông, đồng hóa với hay ý thức được thực tại tối hậu, thần tính, chân lý thiêng liêng hay Thiên Chúa qua kinh nghiệm trực tiếp, trực giác, bản năng hay quán niệm (insight). Kinh nghiệm này được các tôn giáo diễn tả nhiều cách khác nhau: trở thành không và bị thu hút hoàn toàn vào ánh sáng vô biên của Thiên Chúa (Trường phái Hassidic trong Do Thái Giáo); hoàn toàn không còn phân biệt với thế giới (một số trường phái Ấn Giáo, trong đó có Yoga; trường phái Jhana trong Phật Giáo); thoát khỏi vòng nghiệp (karma) (Giải Thoát trong Ấn Giáo, Niết Bàn trong Phật Giáo); nối kết nội tại sâu xa với thế giới (Ngộ trong Phật Giáo Đại Thừa), kết hợp với Thiên Chúa (Henosis trong thuyết Tân Platông), thành thần (theosis) hay kết hợp với Thiên Chúa và tham dự vào bản tính của Người (Công Giáo, Chính Thống Đông Phương), thấy Ánh Sáng hay “ánh sáng Thiên Chúa” trong mọi người (Quaker)…
Diễn trình huyền nhiệm
Evelyn Underhill, một tác giả người Anh theo phái Công Giáo trong Anh Giáo, vào năm 1911, đã xuất bản cuốn sách thời danh “Mysticism” trong đó, bà phác họa diễn trình chung cho mọi kinh nghiệm huyền nhiệm qua 5 giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là nhận thức (awakening), ý thức được thực tại tuyệt đối hay thần linh. Giai đoạn thứ hai là tẩy rửa (purgation) tức ý thức được sự bất toàn và hữu hạn của mình, do đó tự kỷ luật chính mình và sống nhiệm nhặt. Giai đoạn thứ ba là thông sáng (illumination) là ngộ, mà một số nhà huyền nhiệm cho là giai đoạn chót, trong đó, người ta ý thức được một cõi siêu việt, một trời mới đất mới. Tuy nhiên nhiều nhà huyền nhiệm vĩ đại còn tiến xa hơn nữa qua giai đoạn thứ tư, được Thánh Gioan Thánh Giá của Kitô Giáo mô tả là đêm đen của linh hồn, giai đoạn chót linh hồn được hoàn toàn thanh tẩy, đánh dấu bằng bối rối, bất lực, mắc cạn trong ý chí và cảm nhận như Thiên Chúa rời bỏ mình. Đây là giai đoạn chót của việc từ bỏ mình (unselfing) và phó mặc cho các mục tiêu dấu ẩn của Thiên Chúa. Giai đoạn thứ năm dĩ nhiên là nên một với đối tượng yêu thương, với Thực Tại Duy Nhất, với Thiên Chúa.
William Inge, tác giả cuốn Christian Mysticism (1899, Bampton Lectures), tóm tắt diễn trình trên thành 3 giai đoạn: giai đoạn tẩy rửa hay khổ hạnh (ascetic), giai đoạn thông sáng hay chiêm niệm và giai đoạn kết hợp nên một trong đó ta thấy Chúa mặt đối mặt. Trong Kitô Giáo, huyền nhiệm học cũng xưa như chính tôn giáo này. Ít nhất cũng có 3 bản văn Tân Ước đề cập tới các chủ đề sau này được các nhà huyền nhiệm Kitô Giáo nhắc tới nhắc lui.
Bản văn đầu tiên là thư Galát 2:20: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi”. Một bản văn thánh kinh quan trọng khác đối với huyền nhiệm học Kitô giáo là Thư thứ nhất của Thánh Gioan chương 3, câu 2: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. Bản văn thánh kinh thứ ba, đặc biệt quan trọng đối với các Kitô hữu Phương Đông là Thư thứ hai của Thánh Phêrô, chương 1 câu 4: “Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian”.
Hai chủ đề chính trong huyền nhiệm học của Kitô giáo là (1) hoàn toàn đồng hóa với hay hoàn toàn bắt chước (imitation) Chúa Kitô để đạt tới sự hợp nhất giữa tinh thần nhân bản và tinh thần Thiên Chúa; và (2) thị kiến Thiên Chúa một cách hoàn hảo, trong đó, nhà huyền nhiệm cảm nhận được Người “như chính thật là Người” (as he is) chứ không “như qua một tấm gương mờ” theo lời Thánh Phaolô trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 13, câu 12: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi”. Các kinh nghiệm huyền nhiệm khác cũng được Thánh Phaolô mô tả trong Thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, chương 12, các câu 2-4: “Tôi biết có một người môn đệ Đức Ki-tô, trước đây mười bốn năm đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba -có ở trong thân xác hay không, tôi không biết, có ở ngoài thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ có Thiên Chúa biết. Tôi biết rằng người ấy đã được nhắc lên tận thiên đàng -trong thân xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Thiên Chúa biết-, và người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại”.
Như thế, rõ ràng Thánh Phaolô đã sử dụng tới cảm nghiệm “ngoài thân xác” để mô tả kinh nghiệm huyền nhiệm, mà nhiều người cho là chính ngài đã có được, dù ở đây ngài khiêm tốn viết ở ngôi thứ ba. Theo đó, ngài đã được nâng lên tầng trời thứ ba để cảm nghiệm “những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại”.
Một kinh nghiệm tương tự hình như cũng xẩy ra trong trình thuật Chúa Hiển Dung, một biến cố được cả 4 Phúc Âm cùng nhắc tới. Trong biến cố này, Chúa Giêsu dẫn 3 trong số các môn đệ của mình là Phêrô, Gioan và Giacôbê lên đỉnh một ngọn núi cao, ở đấy Người đã hiển dung. Mặt Người sáng láng như mặt trời, áo Người một mầu trắng xóa. Êlia và Môsê xuất hiện với Chúa Giêsu, trò truyện với Người, rồi một đám mây sáng xuất hiện trên đầu và một giọng nói từ đó phán ra: “Này là Con Ta yêu dấu: hãy nghe lời Người”…Phêrô ngây ngất đến mê sảng, nói một câu như người mất hồn: ở đây tốt quá, nếu Thầy muốn, con sẽ dựng ba căn nhà… Có thể ông không biết ông muốn nói gì. Thật khác với Phaolô, thấy được những điều “khôn tả”, chả dám nói gì ngoài cái ngây ngất được nâng lên tầng trời thứ ba.
Có người cho rằng thái độ của Thánh Phaolô cũng là thái độ của Thánh Tôma Tiến Sĩ sau này. Cả hai vị thánh cùng để lại một gia tài trí thức và thần học vĩ đại mà hậu thế khai thác hoài không thấu, và cùng giống nhau vì có lúc cảm nhận được những điều “khôn tả”. Chỉ khác một điều, Thánh Phaolô hình như được nâng lên tầng trời thứ ba rất sớm và điều ấy không làm ngài chùn bước ra đi tới tận chân trời góc biển để rao giảng về Chúa Phục Sinh. Thánh Tôma, trái lại, hình như cũng được nâng lên tầng trời thứ ba như thế, nhưngvào lúc cuối đời và khi được thấy nhiều điều “khôn tả” với cường độ diệu kỳ hơn sao đó vào ngày 6 tháng 12 năm 1273 đến nỗi sau đó thấy mọi điều mình viết ra trước đó chỉ như rơm rác mihi videtur ut palea! Do đó, đã nhất định không còn đọc cho người thư ký Reginald de Piperno viết tiếp bộ Summa bất hủ… cho đến ngày qua đời vào năm 1274.
Máccô “hết hồn hết vía”
Cảm nghiệm huyền nhiệm là như thế, nói ra chỉ là một việc bất đắc dĩ, dám làm kẻ phàm tục hiểu lầm tai hại. Thiển nghĩ các phúc âm gia cũng từng gặp khó khăn này. Không thuật lại thì không được mà thuật lại thì lúng túng, không biết dùng lời lẽ nào để diễn tả một điều mà theo Thánh Phaolô “loài người không được phép nói lại”. Đúng ra, ngài muốn nói: loài người không nên nói lại vì sợ sai. Cụ thể là biến cố xẩy ra trong Ngôi Mộ Trống vào Ngày Phục Sinh. Mỗi phúc âm gia thuật lại một cách, tuy cùng xác nhận việc Chúa không còn trong mộ, đã sống lại như lời Người nói trước (xem Mt 28:1-8; Mc 16:1-8; Lc 24:1-7; Ga 20: 110). Thánh Luca và Thánh Gioan không nhấn mạnh tới phản ứng của các phụ nữ sau khi được chứng kiến ngôi mộ trống và được nghe thiên thần giải thích lý do tại sao ngôi mộ lại trống như thế. Nhưng Thánh Mátthêu và thánh Máccô thì thuật lại phản ứng ấy rất rõ. Thánh Mátthêu viết: “Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay”. Thánh Máccô cho biết nhiều chi tiết hơn nữa về phản ứng này: “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi”.
Ai cũng thấy trình thuật của Thánh Mátthêu là trình thuật của một sử gia khách quan, lạnh lùng thuật lại điều người khác nói và đó là ngôn từ gián tiếp. Người ta vẫn tin ngài rút tư liệu từ Thánh Máccô. Dù Thánh Máccô không hẳn là người trực tiếp chứng kiến cuộc đời Chúa Giêsu. Chính vì thế, có nhiều ý kiến chuyên môn cho rằng không hẳn Thánh Mátthêu là tác giả phúc âm mang tên ngài, nó là sản phẩm của cộng đồng được ngài hướng dẫn. Ngôn từ chính thức vẫn gọi đó là Phúc Âm Theo Thánh Mátthêu. Ý kiến chuyên môn vẫn coi Phúc Âm Máccô là phúc âm trước nhất, có thể chỉ sau nguồn Q mà thôi. Nói gì thì nói, điều hiển nhiên là Phúc Âm Máccô sử dụng ngôn từ trực tiếp y như thuật lại chính lời các phụ nữ nói về mình, những nhà huyền nhiệm nữ ngay từ hừng đông Kitô giáo. Vâng, họ chính là những nhà huyền nhiệm đầu hết của tôn giáo phục sinh, thuật lại những cảm nghiệm đầu hết, chưa từng thấy bao giờ, huyền nhiệm đến không biết phải nói làm sao, thà rằng câm nín như Tôma Tiến Sĩ sau này thì hơn. Nhưng câm nín làm sao cho được trước những nài nỉ của một người như Máccô, của cả một cộng đoàn những con người yêu Thầy hơn chính bản thân, nước mắt đầy nước mắt vơi ngong ngóng tin Thầy.
Thế là họ lên tiếng và “ngôn bất tận ý”, họ dùng những từ ngữ có thể chính họ cũng thấy là không ổn, cùng lắm chỉ diễn tả được phần nào tâm tư ý nghĩ của mình lúc ấy, dù tâm tư ý nghĩ ấy vẫn còn rất nóng hổi. Họ bảo họ run lẩy bẩy, hết hồn hết vía, nói không ra lời vì sợ hãi. Đọc thoáng qua, kết luận thông thường vẫn cho rằng phản ứng ấy tiêu cực và tự hỏi không biết tại sao họ lại sợ hãi vì một tin vui có một không hai ấy.
Nhưng nếu đọc kỹ, ta thấy phản ứng ấy không những không tiêu cực nhưng là thái độ của những người đứng trước một thực tại diệu kỳ ở chỗ “thế gian không thể hiểu” như một tựa đề của Du Tử Lê, hay như Thánh Phaolô nói “những điều khôn tả mà loài người không được phép nói lại”.
Ta nên xem kỹ hai mệnh đề (16:8) trong đoạn này: Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía (Tiếng Hy lạp: ekstasis). Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi (tiếng Hy Lạp, phobeo)”. Các bản dịch Thánh Kinh đều dịch đại cương như thế. Thiết tưởng nên chú ý đến các từ ngữ Hy Lạp được chua trên đây. Theo W.E. Vine, trong “An Expository Dictionary of New Testament Words” (1), dịch phobeo là sợ hãi không hẳn sai, vì động từ này quả có nghĩa là sợ hãi, như trong Cv 23:10. Nhưng nó cũng có nghĩa như kính sợ, kinh ngạc (awe, amazement) theo nghĩa tôn giáo của cung kính, thờ kính và kính phục (reverence, worship and pious obedience).Vine trích dẫn nhiều đoạn Thánh Kinh trong đó, phobeo được dùng theo nghĩa này như Cv 10:2, 22; 13:16, 26; Cl 3:22; 1Pr 2:17… Câu trước dịch là “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía” không hẳn đã chỉnh. Run thì có, nhưng lẩy bẩy là thứ run tiêu cực. Còn hết hồn hết vía để dịch chữ ekstasis thì không hẳn đúng, vì từ chữ ekstasis ta có chữ ecstasy của tiếng Anh, có nghĩa mạnh nhất chỉ tình trạng quá vui đến xuất thần, quên cả thực tại chung quanh, nhẹ nhất cũng là kinh ngạc (amazed), một tình trạng tích cực chứ không tiêu cực chút nào. Mấy người đàn bà này làm sao sợ hãi cho được khi họ khám phá ra điều kỳ diệu: Chúa Giêsu đã sống lại! Sự thật ấy chỉ có thể làm họ vui ngất! Tiếc rằng Bản Phổ Thông cũng như Bản Tân Phổ Thông (Nova Vulgata) đều nghiêng về nghĩa tiêu cực: Et exeuntes fugerunt de monumento; invaserat enim eas tremor and pavor, et nemini quidquam dixerunt, timebant enim. Tuy nhiên, phúc âm Mátthêu (28:8) cho hay: “Các bà vội vã rời khỏi mộ, vừa sợ hãi vừa rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay”. Sợ thì ít mà vui mừng thì “rất đỗi”. Chú giải phúc âm Mátthêu, Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ cho hay: “sự sợ hãi của các bà phải coi như là một phản ứng có ý nghĩa thần học hơn là tâm lý: một cảm nghiệm siêu nhiên về cuộc thần hiện, một sự gặp gỡ Thiên Chúa” (Bốn Sách Tin Mừng, tr.129).
Hàn Mạc Tử “ớn lạnh”
Thiển nghĩ, nên lấy cái ớn lạnh và run sợ của Hàn Mạc Tử, trong bài Ave Maria, bài thơ đã đem nguồn linh hứng của Kitô Giáo vào nền thi ca chính dòng của Việt Nam, mà hiểu cái run sợ của các phụ nữ trong Máccô:
Maria linh hồn tôi ớn lạnh,
Run như run thần tử thấy long nhan,
Run như run hơi thở chạm tơ vàng,
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến!.
Người em ruột của Hàn Mạc Tử là Nguyễn Bá Tín cho rằng khi viết những câu thơ bất hủ này, Hàn Mạc Tử còn rùng mình nghĩ tới biến cố “súyt chết” của mình bên bãi biển Qui Nhơn mà ông vốn coi là nhờ Đức Mẹ mà ông sống thoát (coi Hàn Mặc Tử Anh Tôi, trong tủ sách Dũng Lạc). Rất có thể người em này hiểu anh ruột hơn ai hết. Nhưng thực ra, không ai biết rõ Hàn Mạc Tử muốn nói gì qua chữ “ớn lạnh”. Chữ ấy hiển nhiên để mô tả một phản ứng kỳ diệu trước điều “khôn tả” như kiểu nói của Thánh Phaolô. Nếu ông quả có thấy Đức Nữ Đồng Trinh, người mà ông luôn khẩn cầu tha thiết, người đã cho ông cảm hứng huyền diệu để viết lên những dòng thơ trác tuyệt không những củng cố địa vị thi sĩ có một không hai trong lịch sử thi ca Việt Nam mà còn lên vương miện cho ông trong làng thơ Công Giáo, thì cái ớn lạnh theo nghĩa thông thường không thể có được mà phải là cái ớn lạnh đi đôi với và bị cái “thấm nhuần ơn trìu mến” vượt qua.
Phải chăng đó là trạng thái vừa sợ vừa mừng như Mátthêu hay phobeo và ekstasis của Máccô? Mừng vì được diện kiến Mẹ Hiền. Sợ là sợ Mẹ lung linh quá đến có thể biến thành mây khói, mất dạng khỏi thị kiến con, biết đến bao giờ được nhìn lại? Vả lại, nếu “linh hồn tôi ớn lạnh” có hơi hướm đôi chút tiêu cực, thì câu sau “run như run thần tử thấy long nhan” và nhất là “run như run hơi thở chạm tơ vàng” không hề có nét nào tiêu cực mà chỉ là cái run sung sướng của một thần tử thấy long nhan, một Đấng Nữ Vương ông “thấm nhuần ơn trìu mến”, nhưng chỉ sợ Ngài biến mất, hay không xứng đáng với Ngài như hơi thở chạm tơ vàng. Thiển nghĩ không còn chiêm niệm thần bí nào cao siêu hơn thế, một chiêm niệm thần bí trong truyền thống Máccô.
Tuy nhiên, trong cái say sưa ngây ngất được chiêm ngưỡng Mẹ Thiên Chúa, hình như thi sĩ quên khuấy hết mọi khung cảnh huyền nhiệm chung quanh nhất là khung cảnh huyền nhiệm bên trên. Không như Kinh Kính Mừng, trong bài thơ này không một chữ nào nhắc đến nguồn cội sự cao cả của Đức “Nữ Đồng Trinh”, của “Đấng tinh tuyền thánh vẹn”. Có chăng là “song lộc triều nguyên”, là “Sao Mai chiếu rạng”. Sao Mai vẫn được coi là báo hiệu Mặt Trời. Thi sĩ không ngần ngại tiến gần đến tâm thức của Goethe trong Faust coi Đức Maria như nữ thần (2), sinh ra đã bằng thần (3). “Run như run thần tử thấy long nhan”. Rõ ràng đặt một phương trình cân bằng với thái độ cung kính của tạo vật trước Vua vũ trụ, Đấng Hóa Công. Không lạ gì ông ca tụng Đức Mẹ bằng nhiều tước hiệu cân bằng với Thiên Chúa: “giầu muôn hộc từ bi”, “rất nhiều phép lạ”, “Bắc Đẩu rạng bình minh, Chiếu cùng hết, khắp ba ngàn thế giới” . Thực ra, tước hiệu Mẹ Nhân Lành hay Mẹ Từ Bi (Mater Misericordiae) vốn là tước hiệu trên môi miệng từ giáo hoàng trở xuống hàng giáo dân khi họ đọc Kinh Lạy Nữ Vương hàng ngày. Nhưng nhiều phép lạ? Đây cũng là một kiểu nói tắt rất bình dân nhưng rất dễ phiếm thần nếu quả Hàn Mạc Tử được thị kiến Đức Mẹ. Không ai làm phép lạ, ngoại trừ Thiên Chúa, trong đó có Thiên Chúa làm người. Không lạ gì khi Nguyễn Bá Tín thưa truyện này với linh mục Labisusse, cha xứ Nhà Thờ Qui Nhơn, liền bị ông quở: chỉ nói bậy, Đức Mẹ đâu có làm phép lạ. Hình như Nguyễn Bá Tín không hiểu hết ý lời vị linh mục này. Ông không quở về truyện Đức Mẹ hiện ra, mà quở vì gán cho Đức Mẹ khả năng làm phép lạ (4).
Xét cho cùng, xu hướng phiếm thần rất dễ chiếm ngự tâm hồn thi sĩ, một tâm hồn sẵn sàng
“…bay suốt một đời chưa thấu,
hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu,
trên triều thiên ngời chói vạn hào quang”.
Nguyễn Khắc Dương “sợ điện giật”
Một người Việt Nam khác, sau Hàn Mạc Tử trên dưới nửa thế kỷ, cũng sáng tác một bài thơ cùng tên Ave Maria. Đó là Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương. Xin mạn phép được trích dẫn toàn bộ bài thơ này, theo tủ sách Dũng Lạc:
Ave Maria!
Mẹ đẹp dung quang mờ nhật nguyệt.
Mẹ hiền hương đức ngát trời mây!
Mẹ quyền phép cao sang,
Con phàm hèn cát bụi.
Mẹ trong trắng vẹn tuyền,
Con bùn nhơ tội lỗi.
Hai thái cực gần nhau,
Nên con nhìn lên Mẹ,
Nên Mẹ cúi nhìn con.
Ave Maria!
Mẹ là quỳnh giao vườn thượng uyển,
Con là lê thứ dám gần xa?
Nhưng Mẹ cũng là hoa cà hoa cải,
Vui mắt bầy mục tử rộn đồng quê.
Mẹ như hương cau quyện lòng người lữ thứ,
Bước đường xa ước hẹn ngày về.
Ave Maria!
Mẹ là đỉnh thái sơn vời vợi,
Tuyết băng ngàn chân phàm tục dám in lên?
Nhưng Mẹ cũng là tàu cau nhánh trúc bên đình,
Như gốc đa giãi bóng, như mái lầu lối cũ,
Khách bộ hành dừng bước: ngụm chè xanh.
Ave Maria!
Mẹ là ngôi sao Bắc Đẩu rạng trời khuya.
Nhưng! Mẹ cũng là ánh đèn le lói
Trong gian nhà thấp hẹp bác nông phu.
Ave Maria!
Mẹ, Ngôi Trời vinh hiển,
Cả Thiên đình quỳ lạy tung hô.
Nhưng Mẹ cũng là người thôn nữ bên cầu vo gạo,
Bên bếp lửa vùi rơm,
Giữa chợ đời trưa sớm.
Ave Maria!
Mẹ là chiếc mâm vàng đôi đũa ngọc,
Con là rau hèn cỏ mọn tiến dâng lên,
Và cỏ mọn rau hèn nên đẹp mắt
Đấng muôn trùng đoái nhận đời con.
Ave Maria!
Trái tim Mẹ là chiếc thuyền bát nhã,
Vớt hồn con phiêu dạt bến trầm luân.
Trái tim Mẹ là trùng dương bát ngát,
Nơi chảy về muôn suối lệ của trần gian.
Trái tim Mẹ là ngọc tuyền lai láng,
Nước cam lộ ướp dịu mảnh hồn đau.
Ave Maria!
Trái tim Mẹ là nguyện đường mầu nhiệm,
Nơi hồn con chiêm ngưỡng
Chúa tình yêu.
Amen.
Không dài bằng Ave Maria của Hàn Mạc Tử, không nhiều điển tích bằng, không “huyền bí” bằng, vì tác giả vốn tự hào coi mình là đồ đệ của Blaise Pascal, người bao giờ cũng có cái nhìn cân bằng của những “ni ange ni bête” tiêu cực thì là không thiên thần không thú vật, tích cực thì là vừa thiên thần vừa thú vật. Như thế Đức Mẹ vừa cao vừa thấp, Đức Mẹ vừa hơn con vừa là như con.
Giáo sư Nguyễn Khắc Dương, khoa trưởng khoa triết tại Đại Học Đà Lạt trước năm 1975 luôn luôn là con người như thế: là nho sĩ không đủ, ông muốn là Kitô hữu, nên đã là người duy nhất trong một danh gia nho học, dứt khoát gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Chỉ có điều, khi đã gia nhập Giáo Hội ấy rồi, một Giáo Hội ông coi không hoàn hảo gì, gồm đủ hầm bà lằng xí cáu “y như số người hành khất tật nguyền bên lề vệ đường, bỗng được gọi vào dự tiệc cưới, như trong bài ngụ ngôn mô tả Nước Trời vậy.” (5), ông không bao giờ nhìn lui, dù được người anh ruột mời cùng từ Pháp trở về Miền Bắc “phục vụ”. Anh ruột ông chính là đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp và là nhà văn hóa lớn của Miền Bắc, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, giám đốc nhà xuất bản Ngoại Văn, giải thưởng Grand Prix de la Francophonie của Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp, tác giả Việt Nam, Một Thiên Lịch Sử, huân chương Độc Lập hạng nhất, giải thưởng Nhà Nước của Chủ Tịch Nước, được chôn tại Nghĩa Trang Mai Dịch, dành cho những người có công đầu với đất nước.
Suốt cuộc đời, sau khi chấp nhận Chúa Kitô, ông “phát nguyện thầm dâng trọn cuộc đời cho Ngài, yêu mến tất cả mọi người trong Ngài, như Ngài, và nhờ Ngài….” bằng con đường tu trì, từ hết Phan Sinh qua Biển Đức, và cuối cùng thành nhà cư sĩ (oblat), không hẳn một “moine défroqué” mà là một “moine manqué” lỡ chuyến như lời ông nói. Nhưng lúc nào cũng hân hoan trong Đức Kitô dù là sau khi ra khỏi Trại Cải Tạo năm 1976, mất cả nhề dạy mà ông rất thích. Các dấu mốc 1945, 1963 và 1975 được ông coi là những dấu mốc hồng ân, không phải là những khúc rẽ đưa mình vào ngõ cụt. Ông mến Đức Mẹ vì Đức Mẹ gần gũi với ông, coi ông như một con người và nhất là một con người duy nhất, theo nghĩa người yêu đối với người yêu, không yêu chung chung như Quán Thế Âm đối với chúng sinh, dịu hiền đấy, nhưng không đồng hành với ông qua suốt cuộc đời chìm nổi của một con người nhận cả Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca làm thầy “và nhất là Thầy Chí Thánh Giêsu” (6).
Ông chưa bao giờ tự hào được diễm phúc hưởng bất cứ thị kiến nào, nguyên tuyền chỉ là một niềm tin đơn thuần, một niềm tin mà lúc đang tìm hiểu Đạo, được ông ghi nhận: “Chứ lúc ấy tôi vừa thấy thích thú, vừa bị thu hút, vừa thấy sợ như sợ đụng vào phải giây điện cao thế! Khi nhìn lên tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, tôi thấy có sự thu hút mãnh liệt, nhưng đồng thời có cái gì rờn rợn, khiến mình phải ở vào thế đề phòng bị điện giật”. Cảm giác ấy, ông không tìm thấy nơi Thích Ca:
“Trái lại với không khí êm ả, thanh thản, điềm nhiên lắng đọng của tượng Phật trong một ngôi chùa”. Ông còn nói đến cảm giác rờn rợn này nhiều lần trong cuốn tự thuật của mình. Như khi nói về người Công Giáo, ông viết: “tiếp cận với giới Công giáo vừa có cái gì làm mình bị hấp dẫn, vừa có cái gì làm mình ngài ngại, đôi khi thấy rờn rợn như thể đến gần cầu giao điện cao thế! Thế giới Phật giáo có hiền hòa mát dịu, thế giới Công giáo có cái gì gay gắt, cường bạo. Xét cho cùng, tôi không tìm sự thoải mái hơn là được tiếp cận với một Người đang hiện diện và tác động ‘hic et nunc’" (ở đây và bây giờ).
Dù không phải là nhà huyền nhiệm, giáo sư Nguyễn Khắc Dương quả đã có cùng một kinh nghiệm huyền nhiệm như những vị thánh nữ trong Máccô, như người đồng đạo của mình là Hàn Mạc Tử. Thiển nghĩ đấy là gia tài giầu có nhất của một người hiện vui với mấy luống rau ở đâu đó Bình Triệu, Sài Gòn, mặc cho người em ruột Nguyễn Khắc Phê chỉ trích ông nặng lời trong tiểu thuyết “Biết Đâu Địa Ngục Thiên Đường” vừa mới xuất bản tại Hà Nội. Tựa đề đó chính là lời người mẹ nói với Tâm (tên một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết, chỉ về Giáo Sư Dương vì Lê Tâm, vốn là bút hiệu của Giáo Sư) khi Tâm xin phép thầy mẹ gia nhập đạo và đi tu. Lời ấy vốn trích từ Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du. Có thể Phê cho ông không đạt, chẳng vào địa ngục nhưng cũng chẳng thấy thiên đường, vì đời ông cho đến nay là một con số không vĩ đại đối với anh. Không vợ không con không sự nghiệp. Con số không ấy ông chờ đợi cả đời mới có, nó là cái giốc hết, trống trơn, ông cần phải có để được cái no đầy của ơn thánh, như chính lời ông viết trong cuốn tự thuật. Phục Sinh này, xin ngả mũ chào một người bạn quí, nhờ anh, tôi thấy Chúa Giêsu quả đã sống lại thật trong tôi, một người tin nhận Người từ lúc mới sinh, một lần nữa.
------------------
Ghi chú:
(1) Thomas Nelson Publishers, Nashville, 1984
(2) Faust, 12102-3
(3) Faust, 112009-12
(4) Hàn Mạc Tử Trong Cõi Riêng Tư, tủ sách Dũng Lạc
(5) Trích theo Đỗ Tấn Hưng, Những Nẻo Đường Việt Nam, Giáo Sư Nguyễn Khắc Dương
(6) Tài liệu vừa dẫn
-----------------------------
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa.
-----------------------------
Những bài tường thuật khác nhau về Chúa Phục Sinh trong bộ Phúc Âm hoặc trong các thư thánh Phaolô đặt ra một vấn đề đồng nhất. Những bài ấy cùng nói về một sự kiện, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Nhiều công trình khảo cứu cố gắng tìm những điểm trùng hợp trong các bản văn nói trên để đem lại những thành quả có thể thoả đáng nhưng không giải quyết được chú ý nhiều là của cha de Grandmaison trình bày trong cuốn “Đức Giêsu Kitô”. Lĩnh vực này vẫn mở ra cho môn nghiên cứu Kinh Thánh và có nhiều quan điểm mới mẻ xuất hiện kể từ sau cha de Grandmaison). Nhân bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể chú ý đến một số điểm nổi bật như những đỉnh cao của một dãy núi, cho thấy ý nghĩa tổng quát của những sự kiện.
1) Sự kiện Phục Sinh đặt nền tảng cho niềm tin của các tông đồ và cộng đồng giáo hữu tiên khởi.
Người ta cho rằng có thể có những bài tường thuật khác nhiều chi tiết hơn và có tính chất mô tả. Thật ra không phải vậy. Trong những đoạn thuật về sự kiện Phục Sinh, không có điểm nào cho trí tưởng tượng khai thác. Chúng ta phải nhìn nhận rằng đôi khi những yêu cầu hợp lý của hành vi tin như vậy là tốt.
2) Việc phát hiện ngôi mộ trống không khiến cho những phụ nữ đạo đức cũng như các tông đồ tức khắc xác tín rằng Chúa đã sống lại.
Câu của thánh Gioan: Ông đã thấy, và ông đã tin, phải được đặt trong tương quan với sự thấu hiểu Kinh Thánh –và không có bằng chứng nào rằng niềm tin của thánh Gioan đột xuất như một làn chớp, cho dẫu ngài hiểu biết nhanh hơn các tông đồ khác. Ở đây sự kiện lịch sử là ngôi mộ trống trở nên như một thứ cầu nhún bỗng nhiên được một lò xo bí ẩn nhập vào làm bật lên, phóng tâm trí vượt lên cao quá tầm lịch sử. Thuộc về thượng tầng ấy là những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ, và hành vi tin do đó phát sinh –là sự thấu hiểu Kinh Thánh- là sự làm chứng của các tông đồ. Ở đây chúng ta tiếp xúc với một điều gì khiến chúng ta có được niềm vững tin mạnh hơn sự kiểm chứng lịch sử, đó là hành vi tin, một hành vi không do sự cưỡng ép bên ngoài hay bên trong, nhưng được kích động cả ngoài và trong, một hành vi hợp lý, tự do, được sự giúp đỡ của ân sủng –hành vi ấy là hành vi tin của chúng ta ngày nay.
3) Những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ làm biến đổi tâm hồn các ông.
Chúa hiện ra bất thần, trong những trường hợp các ông ý thức rõ về bản thân mình, Chúa chợt đến trong đời sống thật sự của các ông. Điều đó cần nói rõ ra để thấy những thuyết chủ trương ảo giác là không vững. Điều quan trọng nhất: Đức Giêsu đảo ngược tâm trạng và não trạng các môn đệ. Não trạng Do Thái của các ông không chấp nhận cuộc thương khó, vậy mà giờ đây các ông chấp nhận cuộc khổ nạn của Thày là liên quan mật thiết với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Các ông đã ngã lòng, vậy mà bây giờ các ông có một niềm xác tín chiến thắng. Các ông đại diện cho Giáo Hội đang phát triển cách mạnh mẽ và hân hoan, các ông phát khởi một lịch sử và một mầu nhiệm ngày nay chưa chấm dứt sức năng động làm cho nhân loại dậy lên (Tất nhiên phải hiểu rằng những hình ảnh trên đây chỉ muốn gợi ý cho sự suy niệm và cầu nguyện, tuyệt nhiên không có cao vọng bàn đến những vấn đề bao quanh lịch sử và mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa).
-----------------------------
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống rất ý nghĩa về lễ Phục Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng gà đã được làm phép. Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và nói: “Đức Kitô đã sống lại”. Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: “Quả thật, Đức Kitô đã sống lại, Halleluia”.
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục Sinh, người ta vẫn thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ màu sắc rực rỡ, thậm chí có cả những quả trứng chocolate lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm quà tặng mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời. Cũng thế, ngôi mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi đập vỡ quả trứng để chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức Kitô đã bị chôn vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy ngôi mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ đá. Cửa mồ mở ra. Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên; “Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”. Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mồ kiểm chứng. Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy và đã tin: Chúa đã sống lại thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống lại. Ngài sống lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng, trong lòng tin của chúng ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra Ngài nhờ đức tin. Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng đang sống thật, đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình cho quần chúng từng đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số người được tuyển chọn để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho lính canh để lấp liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến hai tiếng “Phục Sinh”. Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những đau thương quằn quại của con người không còn là nỗi quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin Mừng theo Thánh Gioan quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh. Cái “Giờ” mà Chúa Giêsu vừa trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao trên thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến cho cái chết của chúng ta không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng nữa, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng của chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, được mang mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc sống mỗi ngày và sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên của con người để vào cuộc sống vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của chúng ta được dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa thấy vinh quang ấy như thế nào, nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào thì chúng ta cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa Kitô và như Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần thiết cho chính Ngài và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần cho cuộc sống hôm nay của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc đời có quá nhiều cái làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người. Chúa sống lại là một tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh tỉnh cho người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả…
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết, chúng ta phải làm chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi sự từ bỏ đều được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của Chúa Kitô, thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu chúng ta tin rằng: Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người theo xác thịt ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh thần mới, thì tại sao chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư khư giữ lấy sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh em, vì tha nhân? Hạt giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc nó. Con gà chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ kén mới thành con bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ, rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy kiểm điểm xem: chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta đã đánh giá đúng những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh, nỗ lực của con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào của cải vật chất hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian nầy và làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của nó?
Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng ta mừng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài cho chúng ta biết sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
-----------------------------
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất" (Kh 21,4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố". Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ” được nhắc tới bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột ra” và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống" và "những khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải yêu mến.
-----------------------------
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lễ Phục sinh là lễ lớn nhất của năm Phụng vụ. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không phải chỉ cho Ngài mà còn cho tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận niềm vui to lớn này.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúa sống lại có nghĩa là sự thiện chắc chắn chiến thắng sự ác. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
Chúa sống có nghĩa là ân sủng chắc chắn chiến thắng tội lỗi. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
Chúa sống có nghĩa là tình thương chắc chắn chiến thắng hận thù. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Cv 10,34.37-43
Tại nhà ông Cornêliô ở Xêdarê, Thánh Phêrô đã tóm lược sứ vụ của Chúa Giêsu. Cao điểm của sứ vụ này là việc Ngài chịu chết và sống lại. Nhưng như thế chưa phải là hết : việc Chúa sống lại có ảnh hưởng đến mọi người : "Ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội". Vì thế các tông đồ phải làm chứng và loan truyền Tin Mừng ấy.
2. Đáp ca Tv 117
Ca tụng Thiên Chúa vì tình thương mà làm những việc diệu kỳ, nhất là đã làm cho Chúa Giêsu, "tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường"
3. Bài đọc II Cl 3,1-4 ; hoặc 1 Cr 5,6-8
Vì được thông phần vào sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, kitô hữu phải sống một đời sống mới.
4. Tin Mừng Ga 20,1-9
Bằng cách viết rất súc tích với những ý tưởng sâu sắc chứa đựng trong những chi tiết được chọn lựa rất kỹ, Thánh Gioan muốn mô tả hành trình đức tin của 3 nhân vật trong bài tường thuật này : Maria Mađalêna, Phêrô và "người môn đệ kia" (tức tông đồ Gioan).
Khi ấy là "sáng sớm khi trời còn tối" : họ vẫn còn ở trong đêm tối chưa hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu, nhưng đã là lúc sáng sớm rồi, bình minh sắp tỏa sáng.
"Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu" : "địa chỉ" của Chúa Giêsu là một điều được Tin Mừng Ga lưu ý nhiều lần. Ngay từ đầu quyển Tin Mừng, hai môn đệ đầu tiên đã hỏi "Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?" (1,38). Đến phần cuối quyển Tin Mừng, câu hỏi "Thầy ở đâu ?" lại được lặp lại. Các môn đệ Chúa Giêsu luôn muốn biết "địa chỉ" của Ngài.
Cả 3 nhân vật trong chuyện này đều "chạy" : Mađalêna chạy tìm Simon-Phêrô, ông này cùng với Gioan "cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn". Họ "chạy" để làm chi ? Để tìm đến "địa chỉ" Chúa Giêsu. Đây là cuộc hành trình của đức tin.
Thiên Chúa đã đặt sẵn những dấu chỉ giúp họ tìm, đó là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm còn đó được xếp gọn gàng và những lời tiên báo của Thánh Kinh. Nhưng chỉ một mình "môn đệ kia" đã đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ ấy nên "đã thấy và đã tin". Gioan đã tìm được "địa chỉ" của Chúa Giêsu. Thực ra, nhiều lần Chúa Giêsu đã ám chỉ đến "địa chỉ" này ("Thầy về cùng Cha Thầy" : xem Ga 7,33-34 8,21 13,33) nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu. Hôm nay Gioan đã hiểu : Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. "Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô"
Đức tin của chúng ta thường có tính cách "quy thần", nghĩa là tin có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật ; và Thiên Chúa ấy chúng ta chỉ biết được khi linh hồn chúng ta rời khỏi thân xác này. Một đức tin như thế thì vừa lý thuyết vừa tĩnh.
Dưới ánh sáng phục sinh, chúng ta phải làm cho đức tin trở thành sống và động ; đồng thời chúng ta phải làm chứng về đức tin sống động ấy cho những người chỉ có một đức tin vừa lý thuyết vừa tĩnh như đã nói trên. Nhưng làm thế nào ?
Thưa chúng ta phải tập tin vào Chúa Giêsu Kitô :
Tin vào Chúa Giêsu Kitô là tin vào Đấng đã chịu nạn chịu chết và sống lại, như Thánh Gioan tông đồ (bài Tin Mừng). Thánh Gioan đã nhìn thấy ngôi mồ trống và đã tin. Khi đó đức tin của Gioan mang một chiều kích mới hẳn : Thiên Chúa của Thánh Kinh không còn là một Thiên Chúa của quá khứ nữa mà đã trở thành "Đức Chúa", "Thiên Chúa của sự sống", luôn hiện diện trong lịch sử. Một Thiên Chúa như thế luôn có ý nghĩa với cuộc đời con người : cho dù Ngài đã chịu nạn chịu chết nhưng Ngài đã sống lại. Ngài đã chiến thắng đau khổ và sự chết. Từ nay đau khổ và chết chóc không phải là những chuyện phi lý nữa. Từ nay chúng ta cứ bước theo Ngài thì sẽ đi qua được mọi khổ đau chết chóc để đến sự sống.
Tin vào Chúa Giêsu Kitô cũng là tin vào mầu nhiệm cuộc sống của chính chúng ta : nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta có một sự sống mới, "và sự sống mới ấy hiện đang tiềm tàng với Chúa Giêsu Kitô nơi Thiên Chúa" (Bài đọc II), vì thế chúng ta "hãy hướng lòng về những gì thuộc thượng giới".
2. Đi thăm mộ
Sáng Chúa nhật Phục sinh, các phụ nữ đi đến ngôi mồ đã chôn xác Chúa Giêsu. Họ đến đấy để ướp xác Ngài. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Họ còn muốn được ở gần Đấng đã từng làm cho đời họ tràn đầy ý nghĩa, nhưng bây giờ cái chết của Ngài lại khiến lòng họ tràn ngập nỗi u sầu không gì an ủi được.
Chúng ta cũng thường làm như các bà ấy. Khi một người thân yêu của chúng ta chết, chúng ta khó chấp nhận rằng người ấy đã vĩnh viễn xa cách chúng ta. Vì thế chúng ta thấy cần phải duy trì một sự liên kết nào đó với người đã chết. Và một trong những cách chúng ta có thể làm, đó là đi thăm mộ. Tuy nhiên việc này chẳng những không làm dịu đi nỗi đau bị mất mát, mà còn khiến mình càng thấy mất mát hơn, bởi vì không nơi nào khiến ta ý thức về cái chết của người thân cho bằng nơi chôn cất người thân ấy.
Sáng hôm ấy, nếu mọi sự diễn ra đúng như các bà dự kiến thì các bà đã ướp xác Chúa Giêsu, xong rồi lắp của mồ lại, rồi trở về nhà với cõi lòng nặng trĩu u sầu vì các bà càng ý thức rằng những chuyện khủng khiếp xảy ra hôm Thứ Sáu không phải chỉ là một giấc mơ mà là một sự thật : Thầy của họ đã chết thật rồi !
Tuy nhiên mọi sự không xảy ra như dự kiến. Khi đến mộ, các bà đã gặp hai thiên thần. Các vị ấy bảo "Sao các bà lại tìm người sống nơi cõi chết ? Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại". Nghĩa là các bà đừng mất thời giờ để tìm Chúa Giêsu ở ngôi mộ nữa.
Tất cả chúng ta thường cảm thấy tuyệt vọng khi đứng trước những nấm mồ, vì ở đó mọi sự đều nói lên chết chóc. Tuy nhiên chính ở một ngôi mộ như thế mà lần đầu tiên tin mừng sống lại được loan báo. Chúa đã chọn một nơi thật thích hợp, nơi mà xem ra sự chết thống trị, để loan báo Tin Mừng phục sinh.
Phụng vụ hôm nay cũng gởi đến chúng ta một sứ điệp tương tự : Đừng tìm kiếm những kẻ thân yêu của mình nơi những nấm mồ, vì họ chẳng có ở đó đâu. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không chỉ cho bản thân Ngài mà cho tất cả mọi người chúng ta. Ngài là Đấng đầu tiên sống lại, và chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Như thế, đối với Kitô hữu thì sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng. Người thân quá cố của chúng ta không chết, mà vẫn còn sống. Cuộc sống của họ còn thực và đẹp hơn cả cuộc sống hiện tại của chúng ta nữa. Hơn nữa họ không hề xa cách chúng ta. Những ai đã chết trong ân sủng thì khoảng cách giữa họ với chúng ta không xa hơn khoảng cách giữa Thiên Chúa với chúng ta. Mà Thiên Chúa thì rất gần với chúng ta. (FM)
3. Kỷ nguyên cứu rỗi
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ...
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã dưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo :
Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình.
Và ông giải thích :
Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thấm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
***
"Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi" (Lc 23,5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ "đang "tập họp trong nhà cửa đóng kín," - trên bờ biển Tibêria. Và Người" vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ "tin vào" Người," ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời, đã xoá tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.
Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới.
Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Chúa Giêsu Phục sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gãy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết : "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ gươm giáo ?" (Rm 8,35).
Vì thế,
Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục Sinh.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
***
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt qua khổ nạn và cái chết để Phục Sinh về với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết : Vượt qua ích kỷ nhỏ nhen để quảng đại yêu thương. Vượt qua tự ái, tự kiêu để tha thứ bao dung. Vượt qua đau khổ, cực nhọc để dấn thân hy sinh.
Ước gì cuộc sống chúng con luôn mãi tràn đầy niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh. Amen. (TP)
4. Mầu nhiệm Vượt qua
Cao điểm của năm Phụng vụ là Tuần Thánh vì có rất nhiều lễ nghi, giáo dân tham dự đông đảo và sốt sắng. Hôm nay thì Tuần thánh đã qua đi rồi. Nhưng chúng ta hãy nhìn lại một trong những lễ nghi phong phú ý nghĩa của Tuần Thánh, đó là ngọn nến phục sinh.
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh, lúc mới bắt đầu nghi lễ thì mọi đèn nến trong sân nhà thờ đều tắt hết, bóng tối bao trùm tất cả. Thế rồi Chủ Tế lấy lửa từ một bếp than châm vào ngọn nến phục sinh. Một tia sáng nhỏ loé lên trong đêm tối. Tiếp đó ánh sáng từ ngọn nến Phục sinh lại được châm vào những ngọn nến của các tín hữu. Ánh sáng tỏa lan dần, và cuối cùng mọi đèn nến đều sáng rực. Ánh sáng đã hoàn toàn đẩy lui bóng tối.
Hình ảnh này rất đẹp, và nhất là chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc :
- Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
- Ma quỷ không thể nào thắng được Thiên Chúa.
- Sự ác không thể nào thắng được sự thiện.
Đó chính là một chân lý mà các lễ nghi Tuần Thánh muốn soi sáng cho chúng ta. Khi Chúa Giêsu chết thì tưởng như bóng tối, quyền lực ma quỷ và sự ác đã hoàn toàn chiến thắng. Thế nhưng không phải như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại. Nghĩa là ánh sáng đã chiến thắng tối tăm, Thiên Chúa đã chiến thắng Satan, và sự thiện đã chiến thắng sự ác.
Sự thật này không phải chỉ đúng cho một mình Chúa Giêsu mà còn đúng cho tất cả mọi người chúng ta nữa. Bởi vì Chúa Giêsu đi vào cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại là trong tư cách Ngài là đại diện của loài người, Ngài là trưởng tử của tất cả mọi người, là hoa trái đầu mùa. Ngài chiến thắng nghĩa là dọn đường cho tất cả chúng ta chiến thắng. Bởi thế, tất cả chúng ta đều có thể cùng với Chúa Giêsu mà lạc quan tin tưởng rằng sau cùng rồi mọi sự ác sự dữ đều sẽ bị đánh bại.
Chính vì thế mà trong khi các tín hữu Rôma đang phải lao đao khốn đốn vì những cuộc bách hại, thánh Phêrô đã gởi thư cho họ nói rằng "Anh em hãy vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Thực ra những thử thách đó chỉ nhằm tinh luyện đức tin của anh em, cũng như lửa thử vàng vậy" (1Pr.1,3-9).
Còn thánh Phaolô, đang lúc phải ngồi tù mà đã viết thư cho giáo đoàn Philip rằng : "Anh em hãy vui lên. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa" (Pl.3,1).
Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh vừa qua, chúng ta đã thấy rất đông người lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Trong số những người đó, có nhiều người hồi trước hầu như bỏ đạo ; vì nghèo quá, khổ quá, gặp thử thách nặng quá nên họ đã chán nản. Nhưng vì trong lòng họ còn một chút ánh sáng đức tin, họ đã không buông trôi. Thế rồi dần dần những khó khăn của họ được tháo gỡ, họ đã quay trở lại với Chúa, và trong đêm đó họ đã vui mừng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa của Chúa. Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
Trong cuộc đời của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta thấy mình quá yếu đuối tội lỗi nên chúng ta ngã lòng muốn buông trôi luôn, có nhiều lúc chúng ta thấy mình bị ác tâm và tội lỗi của kẻ xấu tấn công mạnh quá nên bị nhận chìm trong tăm tối mênh mông… những lúc đó chúng ta chán nản vô cùng. Nhưng mầu nhiệm Chúa Giêsu phục sinh dạy cho chúng ta rằng đừng nên ngã lòng bởi vì cuối cùng thì ánh sáng sẽ luôn chiến thắng, sự thiện sẽ luôn chiến thắng sự ác.
Bởi đó từ đêm lễ phục sinh, Giáo hội hân hoan cất tiếng hát Alleluia, hãy tạ ơn Thiên Chúa. Tiếng hát Alleluia ấy vẫn tiếp tục cất lên trong suốt năm Phụng vụ để nhắc mọi người tín hữu hãy luôn sống lạc quan.
Xin cho chúng ta đừng bao giờ ngã lòng thất vọng.
Xin cho chúng ta luôn luôn tin tưởng vào mầu nhiệm phục sinh.
Xin cho cuộc đời chúng ta lúc nào cũng đầy tràn tiếng hát Alleluia.
5. Lăn tảng đá ra khỏi mộ
Khi các phụ nữ đang trên đường đến mộ Chúa Giêsu, họ băn khoăn tự hỏi "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi mộ Chúa đây ?"
Sau một trận cãi vả với cha mình, một người kia không thèm nói chuyện với cha nữa. Nhà của hai cha con chỉ cách nhau một quãng ngắn ngủi, nhưng họ không đến thăm nhau và chẳng hề nói với nhau tiếng nào trong nhiều năm dài. Người mẹ thì đã bỏ nhà ra đi từ lâu. Do đó người cha phải sống một mình trong cô độc lẻ loi. Thế giới của ông ngày càng thu hẹp lại, bầu trời của ông ngày càng u ám hơn. Tuy ông chưa chết, nhưng có thể nói ông đang bị chôn trong mồ rồi.
Chúng ta ngạc nhiên vì quyền phép Chúa Giêsu đã làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng chúng ta có biết rằng chính chúng ta cũng có thể làm được như thế không ? Có thể lắm chứ. Như người con trong câu chuyện trên. Anh có thể lăn tảng đá ra khỏi nấm mộ của cha anh bằng cách đến thăm ông, nói chuyện với ông. Làm như thế tức là lại mở rộng thế giới của ông và lại làm cho bầu trời cuộc sống của ông trở nên tươi sáng. (FM)
6. Lễ Phục sinh và vấn đề đau khổ
Mừng lễ Phục sinh nhưng chúng ta vẫn còn cảm nhận những đau khổ, đau khổ của bản thân và đau khổ của tha nhân. Tuy nhiên một yếu tố mới đã phát sinh. Nó không làm đau khổ biến mất, nhưng mang lại cho đau khổ một ý nghĩa và chiếu lên đau khổ một ánh sáng hy vọng.
Mọi sự đã đổi khác rồi, vì Chúa Giêsu vẫn còn sống và nói cho chúng ta nghe những lời bình an. Ngài đã bẻ gảy quyền lực của sự chết và ban cho chúng ta hy vọng sự sống muôn đời. Bởi thế, dù vẫn sống giữa những khổ đau, trong lòng chúng ta đã có một niềm vui âm thầm và một cảm giác bình an sâu lắng.
Lạy Chúa, xin ân sủng Chúa bảo vệ niềm hy vọng này, và làm cho niềm hy vọng ấy được thực hiện trọn vẹn trong Nước Chúa trên trời.
7. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu (+ 407)
Tôi sẽ giải thích cho các bạn thế nào về những sự kín nhiệm ? Tôi sẽ công bố thế nào về điều vượt quá mọi ngôn ngữ và mọi trí hiểu ? Tôi phải làm thế nào cho các bạn biết về mầu nhiệm Chúa sống lại ? Thập giá của Ngài là một mầu nhiệm, và việc Ngài chết 3 ngày cùng với những điều xảy đến cho Ngài đều là mầu nhiệm.
Thật vậy, Ngài đã được sinh ra từ cung lòng vẹn sạch của Đức Trinh Nữ như thế nào, thì Ngài cũng được sống lại từ ngôi mồ đóng kín như thể ấy. Con Một Thiên Chúa đã trở thành con đầu lòng sinh bởi một người mẹ thế nào, thì Chúa Giêsu phục sinh cũng trở thành kẻ sống lại đầu tiên của loài người như thể ấy. Hơn nữa, cũng như việc Ngài sinh ra không làm mất đi sự đồng trinh của Đức Mẹ thế nào, thì việc Ngài sống lại cũng chẳng phá vỡ những dấu ấn của ngôi mồ thế ấy. Tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói về sự sinh ra của Ngài, tôi cũng chẳng biết nói sao về việc Ngài ra khỏi nấm mồ.
"Hãy đến xem nơi Chúa đã nghỉ" (Mt 28,6), nghĩa là "Hãy đến xem nơi soạn thảo sắc chỉ bảo đảm sự sống lại của bạn. Đó là nơi sự chết bị chôn. Đó là nơi mà một thân xác, một hạt giống không được gieo xuống bởi con người, đã trổ sinh nhiều bông lúa bất tử.
"Hãy đi loan báo cho các anh em Ta là họ phải đến Galilê và gặp Ta ở đấy" (Mt 28,10), nghĩa là "Hãy đi báo cho các môn đệ của Ta về những điều các người đã được chiêm ngưỡng".
Trên đây là những lời Chúa phán với các phụ nữ. Và ngay bây giờ nữa, bên bờ giếng rửa tội, Chúa vẫn hiện diện vô hình cạnh các tín hữu. Ngài ôm ấp những người mới được rửa tội như ôm ấp những bạn hữu và anh em. Ngài đổ đầy niềm vui và hoan lạc trong tâm hồn họ. Ngài rửa sạch mọi vết nhơ của họ trong dòng nước ân sủng. Ngài xức dầu Thánh Thần cho những người được tái sinh. Chúa trở thành lương thực và người nuôi dưỡng họ. Ngài nói với mọi tín hữu rằng "Hãy ăn bánh bởi trời, hãy uống nước chảy ra từ cạnh sườn của Ta. Các con đang đói, hãy ăn no nê ; các con đang khát, hãy uống thỏa lòng"
Ôi lạy Đức Kitô, Thiên Chúa chúng con. Chỉ mình Ngài là Đức Chúa duy nhất, đầy lòng nhân từ yêu thương con người. Cùng với Chúa Cha hoàn toàn vẹn sạch và Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống, chúng con xin dâng lên vinh quang và quyền lực, bây giờ và mãi mãi đến muôn thuở muôn đời. Amen.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Cha đã cho Đức Kitô Phục sinh để trở nên nguồn sống mới và chính Người sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết. Vì thế, với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã báo Tin mừng cho mấy phụ nữ và các tông đồ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / trở nên những chứng nhân trung thành của Đấng Phục sinh.
2. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và tử thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết cởi bỏ con người cũ / và mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô Phục sinh.
3. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ / và ban Thánh thần cho các ngài / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / để Người tái tạo chúng ta.
4. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đem đến cho những ai tin Người bình an và vui mừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những sứ giả mang bình an / và niềm vui đến cho hết thảy mọi người.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chết đau thương và sống lại vinh hiển để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
-----------------------------
Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ
Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó. Chị cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết mồ nơi chôn táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia. Chị chạy về báo tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan. Hai môn đệ này tới, và cũng nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Tin mừng Gioan cho thấy “người môn đệ đến trước”, đã thấy và đã tin (Ga.20, 8); tuy nhiên tin mừng lại không cho thấy ông tin điều gì. Theo tin mừng Máccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc.16, 9-14).
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài. Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ, Tôma không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông. Tám ngày sau, khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin. Phục Sinh, là điều vượt trên kinh nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục Sinh, cũng là điều dễ hiểu. Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống lại. Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được. Ngài hiện ra và biến đi, không gì ngăn cản được Ngài.
Những người được Đức Giêsu phục sinh như Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ. Đức Giêsu Phục Sinh thì không như vậy. Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp Ngài mà thôi. Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv.1, 3); nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh nữa. Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài. Đức Giêsu phục sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao. “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí”(1Cor.12, 3).
Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự do. Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu phục sinh, không đạt được tính buộc người ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4. Người ta vẫn tự do để tin Đức Giêsu phục sinh hay không. Tin cũng là biết. Hai anh chị yêu nhau, người này nói yêu người kia, và người kia cần tin. Tin vào người khác, là một cách biết người đó. Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và nếu không tin thì không thể biết được vậy.
Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Sau đó những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ. Các tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự thật. Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng. Lời chứng đáng tin nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều mình khẳng quyết là sự thật. Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.
Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều bình thường. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn. Kitô hữu không ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh. Kitô hữu cũng biết rằng họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta. Muốn ai Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được. Đó là hồng ân của Thánh Thần.
Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin. Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện. Không sẵn sàng đổi đời để thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng là những người ý thức mình được ơn đặc biệt. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân vô cùng lớn. Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên Chúa, và về con người. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng, Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tại sao có những người trẻ hổ thẹn khi người khác biết họ là Kitô hữu?
Đâu là lý do chính nhất làm bạn tin Đức Giêsu Phục Sinh?
Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ
-----------------------------
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Vào ngày lễ Phục Sinh nầy, phụng vụ Lời Chúa đặt trọng tâm vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế bỏ qua bài đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến các bản văn tiên báo nữa. Khởi đi từ lễ Phục Sinh đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ như truyền thống xa xưa lên đến thể kỷ thứ tư.
Cv 10: 34, 37-43
Bài Đọc I nhắc nhở cho chúng ta rằng niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội, được nhấn mạnh trong đoạn văn sách Công Vụ mà chúng ta đọc hôm nay.
Cl 3: 1-4
Bài Đọc II, trích từ thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê, mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm vượt qua, bằng cách mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học về biến cố Phục Sinh.
Ga 20: 1-9
Cuối cùng, Tin Mừng Gioan thường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, bước khởi đầu niềm tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34, 37-43)
Sách Công vụ được trình bày như phần tiếp theo Tin Mừng thứ ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, cùng một người nhận: một Thê-ô-phi-lô nào đó, nhân vật vô danh.
1. Mối bận tâm của thánh Lu-ca:
Thánh Lu-ca bận tâm đến tính lịch sử: nghiên cứu cho đến ngọn nguồn những gì mình viết ra. Trong Tin Mừng của mình, thánh ký quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su. Trong sách Công Vụ của mình, tác giả phác họa lại những bước khởi đầu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công vụ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai, dung mạo của thánh Phao-lô.
2. Cuộc thăm viếng mục vụ của thánh Phê-rô:
Nhiều lần thánh ký nhấn mạnh các tông đồ làm chứng về biến cố Phục Sinh. Lời chứng của thánh Phê-rô tại tư gia của ông Co-nê-li-ô, viên bách quản Rô-ma, cung cấp một trong những vị ví dụ như vậy. Đó là lý do chọn bài đọc nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh.
Vị lãnh tụ Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ.” Sau cuộc bách hại đã giáng xuống trên cộng đoàn Kitô hữu non trẻ vào năm 36 (vào thời gian đó, thánh Tê-pha-nô tử vì đạo), thời kỳ yên tĩnh trở lại. Thánh Phê-rô lợi dụng cơ hội nầy để thăm viếng những Giáo Đoàn vừa mới được thiết lập. Sách Công vụ nói với chúng ta: “Bấy giờ ông Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy mà vị Tông Đồ đến miền duyên hãi, miền mà trước đây thầy phó tế Phi-lip-phê đã đem Tin Mừng đến.
3. Cuộc trở lại của viên bách quản ngoại giáo:
Trong khi thánh Phê-rô có mặt ở Gia-phô, hiện nay là Jaffa, một viên bách quản Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê Duyên Hải (cách Gia-phô khoảng 50 cây số), sai người mời thánh nhân đến tư gia của ông.
Viên bách quản Co-nê-li-ô là một cảm tình viên Do thái giáo, thuộc những người được gọi là “những kẻ kính sợ Chúa”, họ là lương dân, nhưng tôn kính Thiên Chúa Ít-ra-en, tuy nhiên, họ không tuân giữ luật Mô-sê và không chịu phép cắt bì. Ông là một người đạo hạnh và rộng tay bố thí như sách Công vụ nói với chúng ta.
Thánh Phê-rô đến tại nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp tin mừng đến cho một lương dân và toàn thể thân bằng quyến thuộc của ông, một kinh nghiệm làm đảo lộn quan niệm trước đây của thánh nhân: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiện vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”.
4. Diễn từ của thánh Phê-rô:
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không có cùng những điểm nhấn với những bài diễn văn mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào lúc đó thánh nhân minh chứng cho những người Do thái rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, vào lúc này, ngỏ lời với cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh đến phẩm chất nhân chứng của mình: thánh nhân và các Tông Đồ khác đã chứng kiến những việc làm của Đức Giê-su Na-da-rét, cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, nhất là, biến cố Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô là một trong những chứng nhân Thiên Chúa đã chọn từ trước để sống trong mối thân tình với Đức Kitô: “cùng ăn cùng uống với Ngài.” Đấng Phục Sinh đã trao cho họ một sứ mạng, đó là làm chứng rằng Thiên Chúa đã tôn phong Ngài làm Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Hướng đến những người sắp gia nhập Giáo Hội và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thánh Phê-rô tinh tế thêm vào ngay sau đó rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng từ bi, nhân hậu và hay tha thứ. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng các ngôn sứ đều đã loan báo như vậy: tha thứ tội lỗi cho những ai tin vào Ngài.
Giáo Hội xây dựng niềm tin của mình vào biến cố Phục Sinh trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy có tính quyết định đến độ không giờ cảm thấy cần phải đặt biến cố Phục Sinh thành một tín điều. Tính minh nhiên của sự kiện đòi buộc. Nền tảng thật vững chắc: những người “đã thấy” và “đã sống” với Đức Kitô Phục Sinh làm chứng.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)
Thánh Phao-lô viết thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê này trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.
1. Lập luận của thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Kitô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Kitô,” đoạn tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Kitô” (tức là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần; từ đó, cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.
2. Người Ki-tô hữu:
Như trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Kitô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Kitô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2: 6).
Vì thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Kitô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thượng giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi; đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Kitô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Kitô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta; chúng ta chắc chắn có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào sự Phục Sinh của Đức Kitô dựa trên hai kinh nghiệm; có thể nói là chúng hình thành nên “hai giai đoạn”.
Trước tiên, việc khám phá ngôi mộ trống là mặc khải gây choáng váng đầu tiên, phải nói là kinh nghiệm về sự “trống rỗng” ; kinh nghiệm này đã mở đôi mắt của họ và khai lòng mở trí họ để hiểu Kinh Thánh.
Tiếp đó, ngay từ cùng ngày hôm đó, “những lần hiện ra” của Đức Giê-su mang đến bằng chứng khả giác về một con người thực sự đang sống, tuy nhiên, các môn đệ không thể nào thấu hiểu mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác mang lấy những dấu đinh cuộc tử nạn của Ngài. Vì thế, không cốt là một bóng ma, không là một hình hài giả tạo. Hai kinh nghiệm tăng cường cho nhau, bổ túc cho nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tuyệt đối của mình cho đến phải hy sinh tính mạng của mình.
1. Ngày thứ nhất trong tuần:
Từ cuộc khám phá ngôi mộ trống, Tin Mừng thứ tư tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động, chính xác, câu chuyện của nhân chứng nhãn tiền. Và như luôn luôn trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa thâm sâu.
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, vì thế, ngày thứ nhất trong tuần đã bắt đầu, ngày thứ nhất nầy sẽ trở thành ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa,” nói chính xác vì đó là ngày Chúa Phục Sinh. Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong các người phụ nữ đã lấy của cải của mình mà giúp Đức Giê-su và các môn đệ Ngài trong những cuộc hành trình của Ngài (Lc 8: 1-3); cùng với Đức Trinh Nữ, bà can đảm đứng bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25), và bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, bà đi viếng mộ. Tin Mừng chỉ cho thấy rằng bà ra đi đến mộ sáng sớm “lúc trời còn tối”: tình yêu và niềm tôn kính của bà khiến bà ra đi không trì hoãn để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.
2. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Thánh Gioan chỉ nêu tên một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la, tuy nhiên, tự văn bản, xem ra còn có các bà khác cùng đồng hành với người phụ nữ nầy, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói : “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” . Quả thật, thánh Mát-thêu kể ra hai người : bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1), còn thánh Mác-cô kể ra ba : bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1), theo thánh Lu-ca, còn có nhiều hơn nữa (Lc 24 : 1) ; nhưng bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được trưng dẫn.
Tại sao bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu tên duy nhất? Chắc chắn vì trong số các bà trung thành nầy, kỷ niệm của người phụ nữ nầy đặc biệt nhất (thánh Gioan viết Tin Mừng của mình với một hoài niệm nào đó) ; và vì chính bà là người được ân ban đón nhận lần hiện ra đầu tiên trong số các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh mà các sách Tin Mừng kể ra.
3. Thánh Phê-rô và thánh Gioan :
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la loan báo cho hai ông Phê-rô và Gioan, hai ông có thể cư ngụ dưới cùng một mái nhà. Cả hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3 : 1-11 ; 4 : 1-22). Họ đã là hai nhân chứng về cuộc Biến Hình, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp họ hiểu biến cố mà họ trải qua vào sáng nay.
Thánh Phê-rô thì lớn tuổi hơn, vì thế ông không thể chạy theo kịp thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước nhưng chỉ đứng ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ đầu tiên ; thánh nhân nhận ra ở nơi thánh Phê-rô địa vị cao hơn. Quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô đối với các Tông Đồ sẽ được khẳng định chỉ sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh bên bờ hồ Ti-bê-ri-a (Phê-rô, con có yêu mến Thầy ?), nhưng được hàm chứa rồi ở nơi việc đổi tên mà Đức Giê-su đã ban cho thánh Phê-rô: « Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy… ».
Tin Mừng thứ tư làm rõ ra rằng dù các người phụ nữ, đặc biệt bà Ma-ri-a Mác-đa-la, đến mộ trước tiên, các Tông Đồ là những người đầu tiên đi vào trong ngôi mộ và chứng kiến ngôi mộ trống, bằng chứng đầu tiên về việc Đức Giê-su phục sinh. Điều này rất quan trọng, vì theo luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Một ngày kia, Đức Giê-su đã nhắc lại luật này cho những người Pha-ri-sêu : « Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật » (Ga 8 : 17). Ngoài ra, theo Luật, lời chứng của các người phụ nữ thì không có giá trị.
4. Khăn và vải liệm được xếp đặt ngăn nắp :
Không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, cảnh tượng băng vải còn ở đó và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi càng đánh động sâu xa các tông đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm có lẽ đã bị vất bừa bãi hổn độn rồi. Thế mà, mọi sự vật đều được xếp gọn gàng ngăn nắp.
Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến ông La-za-rô, thi thể được sống lại ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn ? Ông La-za-rô được sống lại để rồi một ngày kia lại chết. Đức Giê-su thì tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc của cái chết nầy, nghĩa là tử thần không còn có quyền gì trên Ngài nữa. Chắc chắn hai vị tông đồ đã hiểu dấu chỉ nầy và bị chấn động đến mức mà thánh Gioan « đã thấy và đã tin » : rõ ràng dụng ngữ này diễn đạt quá trình từ « thấy » đến sự gắn bó trọn vẹn với Đấng Phục Sinh.
Ánh sáng bừng lên ở nơi người môn đệ nầy trước ngôi mộ trống và vải liệm được xếp gọn gàng ngăn nắp. Nếu niềm tin của ông đã có thể bị lung lay ít nhiều bởi những biến cố đau thương, thì tình yêu của ông đã không hề suy giảm, như ông đã bày tỏ cho đến mức theo bước chân Thầy cho đến nhũng giây phút cuối cùng của Thầy bên cạnh thập giá. Cường độ của tình yêu dẫn ông đến niềm tin ngay tức khắc. Chính cũng độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó ông có thể nhận ra Thầy mình trên bờ hồ trong sương sớm trong khi những người khác không nhận ra (Ga 21 : 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên ông tin tối đa. Độ nhạy bén của con tim giúp ông hiểu biết con người và sự vật.
5. Theo Kinh Thánh :
Nếu đức tin có thể trước hết đến từ độ nhạy bén của con tim : « quen hơi bén tiếng », tuy nhiên nó cần được tâm trí soi sáng. « Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu hiểu rằng : theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết » ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2 : 17, 22 ; 12 : 16) ; hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (Ga 14 : 26 ; Lc 24 : 45).
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí các ông…Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Tv 16, vì, vài tuần sau đó, chính Thánh vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31).
Quả thật, chúng ta đọc trong Tv 16 những hàng nầy : “Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ”. Ấy vậy, truyền thống đã áp dụng Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a.
Lm. Ignatiô Hồ Thông
-----------------------------
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu: PS1-211
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt nên phải ngã xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá… Chúa Giê-su đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ … Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Ít-ra-en.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Người ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Người hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng dùng lời quyền uy truyền cho sóng yên biển lặng. Còn đâu nữa Con Người kỳ diệu đã làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe… Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người…
Đức Giê-su đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
Thế rồi điều kỳ diệu bất ngờ xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, Chị hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa, Chị hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các vị nầy ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh.
Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giê-su đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giê-su nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Người là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: "Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ." (Gioan 11,25)
***
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong… Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ huỷ diệt sự sống. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giê-su đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Người đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giê-su phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giê-su đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Người ban tặng.
Lm. Ignatiô Trần Ngà
-----------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Mỗi lần mừng lễ Phục Sinh, chúng ta đều không ít thì nhiều đều có những cảm nghiệm khác: PS1-212
Mỗi lần mừng lễ Phục Sinh, chúng ta đều không ít thì nhiều đều có những cảm nghiệm khác nhau về một Đức Kitô đã bị nhân loại đánh đòn, đã chịu đau khổ, đã bị treo lên cây thập giá và đã sống lại khải hoàn. Chúng ta cũng như các tông đồ xưa đều tung hô: Alléluia, Chúa đã sống lại thật rồi. Đó là Tin Mừng phục sinh. Tin Mừng được vang lên để tuyên xưng niềm tin Kitô giáo và mời gọi nhân loại luôn sống trong hy vọng. Với niềm tin, chúng ta tin Chúa đã sống lại và Ngài cũng sẽ cho chúng ta được phục sinh với Ngài.
Đọc lại trình thuật sách Sáng Thế, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì lúc đầu chưa tạo dựng con người, ngày thứ nhất ấy là ngày hoang vắng, mông lung, ngày thứ nhất, Chúa Giêsu phục sinh tái tạo con người mới, mở ra một trời mới, đất mới. Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại. Đây là niềm tin của mọi Kitô hữu, niềm tin của đạo công giáo.Ngày thứ nhất trong tuần, sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, bị chết trên thập giá và Chúa được chôn cất trong mồ đá…Nếu ngày hôm ấy, các người phụ nữ ra mộ ngay từ sáng sớm tinh mơ, mà mộ vẫn còn đóng kín, thì quả thực không có Tin Mừng phục sinh. Nhưng cả Maria Mađalêna, cả Phêrô và một vài người phụ nữ khác đã nhìn thấy mộ trống. Các bà và Phêrô chẳng hiểu thực hư thế nào! Tuy nhiên, không có sự ngạc nhiên, không hiểu và không có mộ trống thì không bao giờ có Tin Mừng phục sinh. Mình Gioan khi thấy mộ trống, khi thấy khăn liệm xếp gọn gàng một nơi, khăn phủ đầu cuộn lại để ở một nơi, Gioan đã tin ngay Chúa sống lại ( Ga 20, 5-8 ).
Gioan đã có niềm tin thật sự bởi Chúa đã ban cho ông mặc dầu lúc đó các môn đệ khác và nhiều người đã được nghe nói cách này cách khác về việc chúa Giêsu phải chịu đau khổ, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, họ vẫn chưa hiểu lời Thánh Kinh (Ga 20, 9 ); Cv 2, 24-31, 13, 32-37 ).
Đức Giêsu Kitô đã sống lại thật. Đây là niềm tin. Niềm tin này đã được các tông đồ tuyên xưng mạnh mẽ và các người phụ nữ là những người đầu tiên loan báo Tin Mừng Chúa sống lại. Ngay từ thời ấy cho tới thời đại văn minh hôm nay, nhiều người đã hả dạ vì tin rằng Chúa đã chết thật rồi. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người tin yêu Chúa, họ chỉ cần nhìn thấy xác Chúa là đủ. Muôn thời từ khi Chúa sống lại, nhiều người đã tin, đã tìm gặp Chúa và họ đã gặp Chúa bằng nhiều cách hoàn toàn khác nhau. Người ta tin rằng chỉ cần có con mắt đức tin và lòng nhiệt thành như Gioan là nhận ra Chúa không cần phải bận tâm, lo âu và hoang mang tự hỏi: ” Người ta đã lấy mất xác Chúa rồi, không còn trong mộ nữa; chẳng biết họ để Người ở đâu ?”( Ga 20, 2 ). Đức tin sẽ giúp con người nhận ra Chúa phục sinh. Chúa luôn hiện diện khắp nơi nhưng Chúa vẫn bị người ta làm lu mờ vì không dám làm chứng cho Chúa. Chúa đang có đó, luôn có mặt ở khắp mọi nơi, miễn là con người có thành tâm thiện ý, tìm gặp Ngài. Với con mắt đức tin, nhân loại sẽ tìm gặp được Chúa và nhân loại sẽ hiểu ra rằng Chúa đã sống lại thật rồi, Alléluia.
Lạy Chúa, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện giữa nhân loại và đang có mặt khắp mọi nơi. Alléluia. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
-----------------------------
Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Chúa nhật Phục Sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta cùng đồng hành với những chứng nhân đầu: PS1-213
Chúa nhật Phục Sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta cùng đồng hành với những chứng nhân đầu tiên là Maria Mađala, Phêrô và Gioan xung quanh sự kiện ngôi mộ trống và cùng với họ khám phá ý nghĩa của phía sau sự kiện này là gì. Maria Macđala: Thấy ngôi mộ trống, lo lắng và nghĩ ngợi.
Khi những vì sao hôm mọc lên báo hiệu một ngày mới, đồng thời cũng báo hiệu ngày nghỉ lễ Sabat chấm dứt, người ta trở lại cuộc sống và sinh hoạt bình thường, sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Macđala đi ra mộ Chúa để kính viếng Người. Điều làm cho bà ngạc nhiên đó chính là sự kiện ngôi mộ bị mở tung, tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra khỏi mộ. Bà không khỏi lo lắng và nghĩ ngợi. Tất tã chạy về, bà báo cho Phêrô và người môn đệ Chúa yêu về sự kiện ngôi mộ trống với một nhận xét mà bà cho là không thể khác được: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”.
Với bà, rõ ràng là có một ai đó lợi dụng đêm tối đến lăn tảng đá và lấy xác Chúa đi. Càng thương Chúa bao nhiêu, Maria Macđala càng thấy phải có trách nhiệm tìm cho bằng được “thủ phạm” gây nên “chuyện kinh thiên động địa” này. Thủ phạm là ai ? Theo bà, đó có thể là tất cả những ai thù nghịch với Chúa trong vụ án vừa qua. Mà như thế thì thật là đê tiện và không thể chấp nhận được. Chẳng lẽ như thế chưa đủ đối với họ hay sao mà lại còn đối xử với Chúa cách thậm tệ như vậy! Mà biết đâu cũng có thể cả người làm vườn nữa? v.v… Cuối cùng bà nghĩ chỉ có thể báo cho Phêrô và người môn đệ Chúa yêu và may ra mới có câu trả lời thoả đáng, và biết đâu, các ông lại chẳng truy tìm thủ phạm “đáng ghét” kia! Bước chân vội vã của bà trở về đủ cho chúng ta tìm ra lời giải đáp cho những lo lắng mà bà vẫn canh cánh bên mình.
Phêrô: Nhìn thấy tất cả, không bình luận. Khi được Maria Macđala báo tin về sự kiện ngôi mộ trống, Phêrô và người môn đệ Chúa yêu dường như quên hết nỗi sợ sệt người Dothái, các ông lập tức rời bỏ nơi ẩn náu, ra khỏi sự e dè và sợ sệt để vội vã chạy đến xem và ghi nhận sự kiện này. Theo cách nhìn nhận vấn đề, chúng ta thấy Phêrô tuy là người đến sau nhưng lại là người vào ngôi mộ trước, do đó đương nhiên trở thành chứng nhân đầu tiên chứng kiến trọn vẹn sự kiện ngôi mộ trống. Phêrô đã thấy gì? Tin mừng Gioan phần nào đã cho chúng ta thấy cách thức tẩn liệm thời đó. Tấm khăn liệm và miếng vải dùng để che đầu là những vật dụng không thể thiếu trong việc tẩn liệm. Phêrô vào mộ và ông thấy tất cả các băng vải được xếp riêng ra, được cuộn lại cách ngay ngắn. Không giống như Maria Macđala đã vội sửng sờ và gán ghép cho một trò cỡn bợt gian lận hay âm mưu đê hèn nào đấy, Phêrô nhìn thấy tất cả và không đưa ra lời nhận xét nào. Lý giải thế nào trước thái độ này của Phêrô? Có người cho rằng đó chính là thái độ cần thiết của một nhà lãnh đạo.
Với Phêrô ở cương vị Tông đồ trưởng, là thủ lĩnh thì cần phải thận trọng và dè dặt hơn nhiều trước những biến cố, những sự kiện mà lời nói và nhận xét của mình có liên quan, ít nhiều đều ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của dân chúng. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không phủ nhận tính đúng đắn của nhận định này. Tuy nhiên nếu căn cứ vào những gì Tin mừng Gioan trình bày, chúng ta sẽ thấy lý do vì sao Phêrô im lặng. “Trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”. Thật thế, cho đến mãi sau này, khi đã được gặp Đấng Phục Sinh và đón nhận Thánh Thần, Phêrô mới hiểu vì sao ngôi mộ trống và tâm hồn ông lúc ấy mới bừng sáng để hiểu điều mà Kinh thánh từng loan báo. Phêrô im lặng là vì ông chưa hiểu. Con người của Phêrô là thế. Chưa hiểu thì im lặng chờ đợi. Không nghi ngờ. Không quy kết. Không chụp mũ bất cứ ai. Phải chăng đây cũng chính là thái độ cần có của một nhà lãnh đạo đúng nghĩa?
Người môn đệ Chúa yêu : Thấy và tin. Người môn đệ được Chúa yêu đi vào mộ. Ong nhìn thấy tất cả như Phêrô đã nhìn thấy. Tuy nhiên điều khác biệt duy nhất mà người môn đệ này cảm nghiệm được so với Phêrô đó chính là sự cảm nghiệm Phục Sinh: ông đã thấy và đã tin. Có thể nói đây chính là khuôn mẫu của người môn đệ tuyệt hảo. Gioan đã thấy gì? Thực ra ông chẳng thấy gì cả ngoài sự trống rỗng của ngôi mộ và vị trí gọn gàng của các băng vải. Thế nhưng bằng trực giác nhậy cảm của tâm hồn, ông đã nhận ra sự trống rỗng của ngôi mộ và những vị trí gọn gàng của các băng vải là vô số những thông điệp loan báo cho ông biết dấu chỉ về những thực tại siêu nhiên rất khác so với thực tại thông thường mà nếu không có đức tin, chắc chắn sẽ không cảm nhận được. Đức tin và sự cảm nghiệm Phục Sinh của ông thật chắc chắn. Đức tin và sự cảm nghiệm này một phần xuất phát từ trong cách quan sát và phân tích vấn đề một cách logic và biện chứng.
Thật vậy, đối với ông, chẳng ai có thể lấy xác Chúa đi mà còn tử tế xếp tất cả các băng vải lại cách gọn gàng như vậy. Với ông, cái chết đã thất bại, nó đã bị sự Phục sinh tướt đoạt. Người Thầy và là người bạn của ông chẳng bị ai lấy đi mà chính Người tự đi ra khỏi nơi Người đã được an táng mà các khăn liệm được xếp gọn gàng là một minh chứng. Lẽ dĩ nhiên nguyên sự kiện ngôi mộ trống và nguyên các băng vải liệm được xếp gọn, dù khó hiểu, cũng không phải là bằng chứng cho sự sống lại của Chúa Giêsu mà đó chỉ là những dấu chỉ đưa đến niềm tin. Niềm tin đó sẽ được Đấng Phục Sinh và Chúa Thánh Thần củng cố và hoàn thiện nơi tâm hồn các môn đệ.
Chúa chúng ta Phục Sinh. Điều đó thật hiển nhiên trong niềm tin của chúng ta. Niềm tin đó dựa trên nền tảng thật vững chắc, được soi chiếu bởi chính Đấng Phục Sinh, được hướng dẫn và dạy dỗ của Chúa Thánh Thần và được rao truyền bởi chính các môn đệ là những chứng nhân đích thực. Chúng ta vui mừng và hân hoan vì Chúa đã chiến thắng tử thần, đem đến cho chúng ta đời sống mới. Niềm tin và lòng hân hoan này cần phải được nhân lên khi chính mỗi người chúng ta phải là những chứng nhân để loan báo Tin mừng Phục Sinh cho muôn dân.
Lạy Chúa Kytô Phục Sinh! Thế giới này hơn lúc nào hết cần đến ánh sáng Phục Sinh Chúa chiếu dọi. Và đời sống của chúng con sẽ ý nghĩa biết bao nếu chúng con biết tận dụng hầu hết mọi cơ hội trong cuộc sống để hát mừng Thánh danh và ca khen Chúa Phục Sinh, nhằm loan truyền cho mọi người nhận ra ánh sáng Phục Sinh và ơn cứu rỗi của Chúa.
Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
-----------------------------
Lm. Nguyễn Ngọc Long
Mừng lễ Chúa giáng sinh, chúng ta mừng ánh sáng Thiên Chúa từ trời cao chiếu dọi soi xuống: PS1-214
Mừng lễ Chúa giáng sinh, chúng ta mừng ánh sáng Thiên Chúa từ trời cao chiếu dọi soi xuống trần gian đêm tối tội lỗi. Biểu hiện qua ánh sáng ngôi sao.
Mừng lễ Chúa Phục sinh, chúng ta mừng kính ánh sáng Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết âm u đen tối, Biểu hiện qua cây nến phục sinh.
Khi tạo dựng mọi loài trong vũ trụ, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, đã chỉ nói: Hãy có... Và liền có mọi sự như ý Ngài muốn sáng tạo ra.
Từ hư không Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ bằng lệnh truyền: Hãy có...
Từ bóng tối Thiên Chúa bằng lệnh truyền: Hãy có... đã sáng tạo ra ánh sáng làm căn bản cho sự sống được nảy sinh phát triển trong thiên nhiên. Thiên Chúa sáng tạo là Thiên Chúa của tạo thành. Lời của Ngài tạo nên trật tự, như Kinh Thánh trong sách sáng Thế ký ngay chương đầu tiên thuật lại. (St 1,1-31)
Từ hư vô hỗn mang đen tối, sự sống đã nẩy sinh ra theo thứ tự: ánh sáng và bóng tối, đất và nước, súc vật và cây cỏ, và sau cùng là con người.
Thắc mắc từ nghìn xưa vẫn hằng được đặt ra: ai đã tạo dựng nên trời đất và để làm gì. Đây là thắc mắc trung tâm lõi tủy của đức tin, mà ngay từ chương đoạn đầu tiên trong Kinh Thánh đã đưa ra câu trả lời. Sự sống, sự sáng tạo không phải là điều ngẫu nhiên xảy ra. Nhưng Thiên Chúa thấy mọi đều xảy ra tốt đẹp. Kinh Thánh đã thuật lại như thế sáu lần.
Trật tự trong vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng ấn định dẫn tới một đích điểm rõ rệt: Tạo nên bầu khí không gian sự sống, nơi đó là quê hương nơi chốn của con người sinh sống, mà họ được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh của Người.
Con người được Đấng tạo hóa dựng nên không phải chỉ cho một quãng thời gian hay là một món đồ chơi giải trí. Nhưng giống hình ảnh của Ngài, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người chúng ta.
Hầu như mỗi người chúng ta, khi ngắm nhìn một em bé, chúng ta thường nói: em giống cha hay giống mẹ em như đúc! Trong ý nghĩa đó, chúng ta nói được: Con người chúng ta, mỗi người, giống Thiên Chúa là người cha tạo dựng nên chúng ta. Con người như thế có tương quan liên hệ mật thiết với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá.
Mỗi người vì là hình ảnh của Thiên Chúa, nên ai cũng có gía trị nhân vị cao cả. Hình ảnh đó là hình ảnh của tình thương yêu. Con người sống trong thiên nhiên, nhưng có bổn phận cùng cộng tác vào việc sáng tạo là gìn giữ bảo vệ công trình thiên nhiên do Thiên Chúa dựng nên.
Từ hư, vô mọi sự trong thiên nhiên được tạo dựng; từ bóng tối, do ý Thiên Chúa ánh sáng được tạo thành nên, như thuật lại trong Kinh Thánh, là muốn nói đến sự sống lại của con người.
Lời đầu tiên của Thiên Chúa nói: Hãy có... là bảo chứng cho mọi công trình tạo dựng trong thiên nhiên được tạo thành và tồn tại. Lời đó xóa tan bóng tối. Lời đó đem lại sự sáng tạo, sự sống. Lời đó không bị rút đi cho quay ngược trở lại nữa.
Sự việc này cũng xảy ra như thế nơi Chúa Giêsu. Quyền lực của bóng tối và của sự chết không có sức lực hiệu qủa gì nữa.
Trong và qua sự chết, Thiên Chúa đã dùng Lời nói đầu tiên của Ngài: Hãy có... cũng là lời sau cùng: Hãy trở nên... tức khắc sự sống lại, sự sáng tạo xuất hiện.
Lời của Thiên Chúa đã xóa tan đẩy bóng tối nấm mồ, bóng tối sự chết sang một bên. Và ánh sáng sự sống xuất hiện nơi Chúa Giêsu.
Sự sống lại của Chúa Giêsu nhắc con người nhớ mình được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo mọi sự từ hư vô, từ bóng tối đêm đen.
Lm. Nguyễn Ngọc Long
-----------------------------
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa vừa xảy ra một sự nhầm lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm: PS1-215
Người ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa vừa xảy ra một sự nhầm lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm đó, người bán hoa làm hai lẵng hoa cho hai khách hàng khác nhau. Một là để chúc mừng ngân hàng mới mở thêm một chi nhánh mới, và một là để chia buồn cho một đám tang. Thế nhưng, hai tấm thiệp đính kèm hai bó hoa bị đặt lộn, thành ra lẵng hoa gửi cho đám tang lại nhận được lời chúc: “chúc mừng khai trương cơ sở mới”. Ngược lại, thiệp trao cho ngân hàng lại ghi hàng chữ: “Thành thật chia buồn”.
Xem ra sự nhầm lẫn này tuy không hợp tình nhưng lại hợp lý. Vì đời là bể khổ. Ra khỏi cuộc đời là thoát khỏi khổ luỵ trần gian. Chết là lìa bỏ chỗ ở dưới đất mà lên trời. Chết là bỏ trần gian với bao bon chen vật lộn để về quê trời vĩnh cữu không còn khổ luỵ của tham sân si phàm trần. Chết là về nhà cha trong niềm vui của đứa con xa nhà nay được hồi hương trở về. Như vậy, chết là vui mừng chứ không còn là thương tiếc. Ai lại thương tiếc khi một đứa con xa nhà nay trở về? Ai lại buồn khi được đoàn tụ bên Cha trên trời?
Truyền thống văn hoá Việt Nam vẫn tin rằng: chết là sự trở về, là quy tiên, là trờ về nơi mình đã xuất phát ra đi. Ngày xưa tại các nghĩa trang miền quê, người ta thường chôn người chết dưới lòng đất và vun phần trên thành hình một người phụ nữ mang thai. Điều này ngụ ý về một cuộc trở về với lòng đất mẹ. Chính nơi lòng mẹ, ta đã sinh ra. Đó là nơi kín đáo nhất, ấm cúng nhất. Khi chết là trở về nơi lòng đất mẹ cũng là nơi kín đáo và ấm cúng. Như thế, nấm mồ không phải là dấu chỉ về một con người đã chết dưới lòng đất lạnh mà là dấu chỉ cho cuộc trở về nguồn cội đích thực của mình, về nơi mà mình đã xuất phát ra đi.
Hôm nay, các người phụ nữ đến bên nấm mồ của Chúa. Họ đã kinh ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã bị bật tung ra ngoài. Họ vào trong nhưng không thấy gì. Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy đi. Họ tìm kiếm nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng, tưởng là người làm công nên mới hỏi: “ai đã lấy xác Chúa tôi rồi?”. Nhưng các bà lại nghe một lời mà chưa bao giờ được nghe: “Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người đã trỗi dạy và ra khỏi mồ”. Nấm mồ này và khăn liệm này đã không còn dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó không có ích cho người còn sống, có chăng là dấu chỉ cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ trong cõi chết. Người không còn ở đây. Người đã ra khỏi mồ. Hãy đi báo tin cho các môn đệ và Người sẽ gặp các ông tại Ga-li-lê-a.
Vâng, Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết đã bị bật tung. Sự lặng vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã bị đẩy lùi bằng ánh sáng phục sinh huy hoàng. Con người sinh ra không phải để chờ chết như bao người lầm tưởng. Sinh ra – lớn lên – gia nua – rồi chết. Thế là hết một cuộc đời. Sứ điệp phục sinh cho chúng ta hiểu rằng: con người sinh ra là bước vào một cuộc hành trình tiền về nhà cha. Nơi mà ngày xưa Adam – Eva đã từ đó ra đi, nay nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa khai mở cho chúng ta con đường trờ về Nhà Cha. Chúa Phục sinh. Cửa trời rộng mở. Con người có thể hành hương về trời. Về với hạnh phúc bất diệt, là nơi “không còn sự chết, không còn than khóc đau thương nữa”. Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những cuộc chia ly từ biệt, cũng không còn nước mắt nhớ thương.
Hôm nay Chúa đã phục sinh. Lòng chúng ta hãy trào dâng niềm hân hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho người trộm lành. Ngài cũng hứa thiên đàng cho những ai tin theo Ngài: “Ta đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đó chính là nền tảng niềm tin của chúng ta. Chúng ta tin vào Đấng hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị những đam mê thấp hèn thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác, chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên đường thánh giá hôm nay, để ngày sau chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc quê trời. Amen
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
-----------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Hằng năm cứ vào dịp Lễ Mừng Chúa Phục Sinh, nhiều sứ điệp hoành tráng được cất lên từ các tòa giảng, qua các phương tiện thông tin, hòa với tiếng ca và không thể thiếu câu Allêluia: ngợi khen, chúc tụng Chúa. Lễ mừng Chúa Phục Sinh là lễ trọng nhất trong Phụng Vụ Kitô giáo. Nét long trọng ấy được thể hiện ra bên bên ngoài cách rõ nét qua các tổ chức có thể gọi là “lễ hội” cách nào đó, nhất là sau quảng thời gian 40 ngày kiêng khem, hãm mình của Mùa Chay thánh. Dù rằng hiện nay sự long trọng và huy hoàng của Lễ Giáng Sinh có lẽ vì được “xã hội hóa” nên có phần át Lễ Phục Sinh. Tuy nhiên trong niềm tin, người Kitô hữu vẫn ý thức tầm quan trọng của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Vì như thánh Phaolô tông đồ khẳng định: Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của Kitô hữu chúng ta ra vô ích…(x.1Cr 15,14). Thế nhưng nếu thử hỏi rằng ai là người tin Chúa Kitô Phục Sinh, thì cũng khó trả lời cách rạch ròi và mang tính thuyết phục.
Để làm rõ vấn nạn nầy, thiết tưởng cần nhắc nhớ nhau về ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Có thể nói rằng ý nghĩa nền tảng và quan trọng nhất của mầu nhiệm Phục sinh đó là minh chứng hay xác nhận thiên tính của Chúa Giêsu. Khi phục sinh, Chúa Giêsu chứng tỏ Người có thẩm quyền của một vị Thiên Chúa, nên toàn thể các chân lý Người dạy, kể cả những chân lý mà lý trí loài người khó có thể luận giải minh bạch, thì thảy đều đáng tin (x.GLCG chung số 651).
Ngoài ý nghĩa nền tảng trên thì mầu nhiệm Phục Sinh còn nói với chúng ta rằng:
Cuộc đời con người không chấm dứt với cái chết thể lý: Cái chết thể lý chỉ là cánh cửa để con người bước vào cõi sống ngàn thu. Bước vào cõi sống đời đời này để hưởng hạnh phúc đích thật hay phải bị trầm luân vĩnh viễn mới là điều hệ trọng. Người tin vào mầu nhiệm Phục Sinh là người biết “ái mộ những sự trên trời” chứ không phải chỉ biết lo tìm những sự thuộc hạ giới (x.Cl 3,1-4). Họ là những người biết thu tích kho tàng ở trên trời, không sợ mối mọt làm hư hỏng, không sợ kẻ trộm lấy mất (x.Mt 6,20). Làm thế nào để phân biệt đâu là kho tàng trên trời và đâu là kho tàng dưới đất. Cái gì sẽ qua đi thì thuộc hạ giới còn cái gì mãi tồn tại là thuộc thiên giới. Thánh tông đồ dân ngoại cho ta hay chỉ có đức ái mới tồn tại mãi mãi, nghĩa là sẽ đi với chúng ta qua cánh cửa sự chết. Dụ ngôn ngày cánh chung mà Chúa Giêsu kể trong tin mừng Matthêu chương 25 giúp chúng ta xác tín chân lý này. Đến ngày chung thẩm, chính Người sẽ thẩm vấn chúng ta về tấm lòng của chúng ta qua các nghĩa cử chúng ta đã làm hoặc không làm cho tha nhân, cho người bất hạnh, cho kẻ nghèo hèn…
Sự giả dối sẽ bị vạch trần, bạo lực, hận thù sẽ bị khuất phục khi người ta can đảm đối diện và đón nhận đau khổ cũng như sự chết trong tình yêu. Quả thật thần dữ là cha của sự gian dối và là nguồn của bạo lực và sự hận thù (x.Ga 8,44). Chiến lược của thần dữ là kìm hãm con người trong sự sợ hãi. Và chiến thuật của nó là gieo rắc sự giả dối, bạo lực và hận thù. Sống trong sự giả dối, lòng người thật khó được bình yên vì luôn canh cánh lo sợ, lo sợ bị phơi bày ra ánh sáng. Hận thù và bạo lực là những công cụ nhiều lúc đã thống trị tha nhân cách đắc lực và hiệu quả vì phận người vốn thường ngại khổ và nhất là sợ chết. Quả thật, nếu chúng ta còn ngại khó, sợ hy sinh mà không dám rao truyền sự thật, không dám bảo vệ công lý, không dám bảo vệ người nghèo hèn, kẻ bị áp bức…thì các câu tung hô “Allêluia Chúa đã phục sinh” của chúng ta chỉ là phèng la não bạt vô hồn.
Tin Chúa đã phục sinh là tin Người đang sống. Chúa Kitô vẫn hiện diện giũa thế trần này bằng nhiều cách thế. Một trong những cách thế hiện diện của Người cách hữu hình và sống động đó là cuộc sống của các Kitô hữu. Nội hàm lời của thánh tông đồ dân ngoại:“Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà Chúa Kitô đang sống trong tôi”, quả là một lời tuyên xưng khả tín. Lời tuyên xưng Chúa đã phục sinh phải sánh đôi với một cuộc đời: “đi đến đâu thì giáng phúc đến đấy”(x.Cvtđ 10,38); can đảm và thẳng thắn nói lời chân lý trước cả thế quyền lần thần quyền (x.Mt 26,64; Ga 18,37); khoan dung với tội nhân nhưng luôn cương quyết loại trừ tội lỗi (x.Ga 8,1-11); yêu thương phục vụ đồng loại đến cùng (x.Ga13); sẵn sàng đón nhận thập giá để biểu lộ một tình yêu vị tha trong sáng, hết lòng…
Rất nhiều câu tung hô, nhiều câu ca “hoành tráng”: “Allêluia, Chúa đã sống lại” trong dịp đại lễ Phục Sinh này. Nhưng để trả lời câu hỏi: Ai là người tin Chúa Kitô đã phục sinh thì quả không dễ dàng. Cần xác nhận rằng các thánh là những người chắc chắn tin Chúa đã phục sinh. Còn chúng ta thì sao? Không gì hơn xin hãy xét lại lòng mình. Kho tàng đích thực của tôi đang ở đâu? Kho tàng của ta ở đâu thì lòng trí của ta sẽ ở đó (x.Mt 6,21). Lòng chúng ta đang còn lấn cấn sự gì, còn vương vấn nỗi sợ hãi nào, khiến chúng ta không dám nói lời chân lý, không dám sống yêu thương cho đến cùng? Mang danh là Kitô hữu mà đã có lần nào trong cuộc đời chúng ta dám nói như thánh Phaolô rằng “Chúa Kitô đang sống trong tôi” một cách không ngượng miệng?
Vâng lời vị cha chung giáo hội toàn cầu, Đức Bênêđictô XVI, xin bớt nói Chúa đã phục sinh nhưng hãy làm cho tha nhân nhìn thấy và cảm nhận Chúa Kitô đang sống giữa họ, qua cuộc sống và hành động của mỗi người chúng ta.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
-----------------------------
Lm. Jos Tú Nạc
Thiên Chúa đã cứu vớt một phần sự mặc khải của Người tuyệt diệu và ngạc nhiên nhất trong Chúa Giê-su cho đến lúc cuối cùng. Thánh Phao-lô đã khắc sâu lời tuyên bố xa xưa của tin mừng: những kỳ công tuyệt vời và uy quyền của Chúa Giê-su đã thực hiện cùng nhiều hành động của lòng từ bi và nhân ái đã bắt nguồn từ Người.
Câu chuyện buồn vời vợi với sợ hãi và âu sầu, vì Người đã bị bắt và bị giết. Nó đã kết thúc với sự kỳ diệu, hân hoan và vô cùng sửng sốt – Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết và đã xuất hiện trước các môn đệ của Người và đã được chỉ định bởi Thiên Chúa như vị thẩm phán của sự sống và cái chết. Đây là tin mừng mà đang được loan truyền nhanh chóng khắp xứ Judea và kích động đến biết bao con tim cháy bỏng.
Nhưng về hai vần thơ đã bị sót trong đoạn trích kinh giảng. Lý do thực tế về sự thắc mắc và ngạc nhiên của Thánh Phê-rô thật rõ ràng. Ông đang trong ngôi nhà của Cornelius – người sỹ quan bách quản La Mã, tà đạo, đang căm ghét quân đội với sự cầm quyền đất nước bằng vũ lực – và ở đó, Thiên Chúa đã cho anh ta một quyết tâm đặc biệt. Với một giây lát suy nghĩ, Phê-rô bất ngờ thốt lên bây rằng giờ anh ta mới hiểu cặn kẽ Thiên Chúa tuyệt đối không thành kiến – bất kỳ một người nào trong một quốc gia nào mà thực hiện những gì là lẽ phải thì có thể được Thiên Chúa đón nhận. Điều này có thể xem như không đáng chú ý đối với chúng ta ngày nay nhưng nó hoàn toàn choáng váng và thách thức vào thời điểm đó. Mặt khác, như bây giờ nó có thể gây sốc nếu tất cả những hàm ý của nó được hiểu một cách đầy đủ. Trong một khoảnh khắc, ông sẽ chứng kiến sự mủi lòng đối với Cornelius và toàn bộ hộ gia đình của anh ta và với Thiên Chúa mà trong một động thái ấn tượng rằng thậm chí với dân ngoại cũng bao gồm trong kế hoạch của sự cứu rỗi. Không một người nào hoặc một nhóm nào có quyền đòi hỏi đặc biệt vào Thiên Chúa; mà duy nhất có một nhân loại và một Thiên Chúa.
Cố gắng tim kiếm những điều như trên, là nơi Đức Ki-tô. Điều này không nên hiểu theo những mối quan hệ không gian vì Chúa Giê-su không ở một nơi nào đó trên bầu trời cũng chẳng phải là những điều mà họ cố công tìm kiếm. Không có viễn vọng kính Hubble hoặc điều kiện thử nghiệm không gian nào truy thu được những vật thể thuộc những yêu cầu của chúng ta, vì tất cả những thứ mà chúng ta ra sức truy tìm thì ở ngay trong chúng ta và ở giữa chúng ta. Những không gian ẩn dụ này diễn tả mức độ của mối giao hòa với mạch nguồn thiêng liêng thánh thiện – Thiên Chúa. Công việc tìm kiếm những sự việc cao cả chỉ là một tiến trình của những thói quen, ý kiến, định kiến và các giá trị giả định, đặt trọng tâm và trái tim của loài người sai lệch về Đức Ki-tô. “Những sự việc cao cả” không phải là sự mở rộng hoặc hình ảnh phản chiếu về “những sự việc” của chính chúng ta. Chúng được bảo đảm để biến đổi thế giới nhỏ bé của chính chúng ta đảo lộn từ trên xuống dưới và từ trong ra ngoài.
Nhiều người đã nhấn mạnh rằng ngôi mộ trống là ý nghĩa trung tâm của thông điệp Ki-tô giáo. Nhưng ngôi mộ trống muốn nói lên điều gì? Cuộc chạy đua gấp gáp đến nấm mộ bỏ trống rằng đó là sự trống rỗng thực tế và Chúa Giê-su không biết ở nơi đâu để tìm kiếm. Vải vóc được cuốn lại một cách cẩn thận cho thấy rằng những gì xảy ra đã được sắp xếp kỹ lưỡng và có chủ tâm. Không giống như sự tường thuật trong ba Tin Mừng khác. Không có một thiên sứ nào trong nấm mộ để làm sáng tỏ vấn đề cho họ. Họ rời ngôi mộ với tâm trí rối bời, vì lẽ câu chuyện kể cho chúng ta họ chưa hiểu rõ sự phục sinh của Chúa Giê-su từ cõi chết. Họ đã thấy ngôi mộ trống nhưng vào thời điểm ấy điều đó hầu như không tác động đến đời sống của họ, trong một cảm giác nhiều người chia sẻ trải nghiệm đó – họ tin vào sự phục sinh nhưng ảnh hưởng đến cuộc sống của nó chỉ là số không.
Mary Magdelene là người mà một phần của ý nghĩa được tiết lộ. Khi tiếng nói của Chúa Giê-su cuối cùng phá vỡ nỗi sầu đau và than khóc của bà, Người đã tạo cho bà một sứ vụ quan trọng. Bà phải mang thông điệp sau đến mọi người: ta đang vươn lên tới Cha ta và cha của anh em, Chúa của ta và Chúa của anh em. Điều này thoạt đầu nghe hoàn toàn vô vị. Nhưng nó đại diện cho một sự quan hệ rất khác giữa nhân loại và Thiên Chúa. Trong suốt Tin Mừng của Thánh Gio-an, Chúa Giê-su của Gio-an đã nhiều lần tuyên bố rằng, Người là người duy nhất thấu hiểu Thiên Chúa hoặc là người đã sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã nói đến Thiên Chúa với tư cách là “Cha ta” trong một cảm giác tối thượng. Nhưng giờ đây – như một kết quả về sự phục sinh của Người và trở về với Đức Chúa Cha – chúng ta giờ đây cũng được mời gọi để sẻ chia chung mối quan hệ với Thiên Chúa như Chúa Giê-su. Người là Cha và cũng là Chúa chúng ta, và rằng tạo cho Chúa Giê-su anh em của chúng ta và những người khác anh em của chúng ta.
Sự trải nghiệm của Lễ Chúa Phục Sinh – không phải chỉ tin tưởng vào đó – biến đổi và cho phép chúng ta để nghĩ và sống theo một đường lối mà nó phản ảnh sự hiệp nhất của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau trong chúng ta.
(Nguồn: Regis College - The School of Theology)
Lm. Jos Tú Nạc
-----------------------------
Lm. An Phong, OP
Nguồn mạch sự sống đã đến giữa chúng ta. Nguồn mạch sự sống đã chết cho chúng ta. Đấng đã tặng ban chúng ta cái chết của Người, Người chẳng để lại sự sống của Người cho ta đấy sao ?
Vì vậy ơn cứu độ đâu phát sinh từ cõi hư vô.
Tại sao (thế ) ?
Vì ơn cứu độ không hề chấm dứt.
Này anh em, Chúa Giêsu hiện ra lúc nào ?
Lúc họ đang bẻ bánh.
Nơi chúng ta, không có gì phải xao động. Chúng ta bẻ bánh và chúng ta nhận ra Chúa. Chúng ta là những kẻ không xem thấy Người trong xác thịt, nhưng lại tiếp nhận thân xác Người.
Này bạn, dù bạn là ai, bạn là người tin vào Người, bạn đừng mang danh kitô hữu cách hư luống, bạn đâu có vào nhà thờ cách ngẫu nhiên, bạn là người lắng nghe lời Chúa trong kính sợ và hy vọng, bạn hãy vững lòng trong lúc bẻ bánh này; Sự vắng bóng của Chúa không phải là một sự vắng bóng đâu.
Bạn hãy vững tin vì Chúa đang ở với bạn, dù bạn không xem thấy Người. Khi được Chúa Giêsu xuất hiện, các môn đệ không hề có chút lòng tin. Họ không tin Người đã sống lại, họ không hy vọng việc Người có thể sống lại. Họ đánh mất niềm tin, họ đã mất hy vọng. Họ bước đi bên cạnh một Đấng đang sống như những người chết, họ bước đi như những người chết bên cạnh người sống. Sự sống cùng đi với họ nhưng trong tâm hồn họ, không một sự sống nào đã lại phát sinh.
Nếu bạn ước mong sự sống, bạn hãy làm như hai môn đệ và bạn sẽ nhận ra Chúa. Họ đã mời Ngài ở lại. Còn Chúa làm như muốn đi xa hơn, nhưng họ đã giữ Người lại. Khi đã tới nơi định tới, họ nói cùng Người :
Ngài hãy ở lại với chúng tôi, vì trời đã tối rồi.
Bạn hãy giữ người khách lạ lại nhà, nếu bạn muốn nhận ra Đấng Cứu Thế của bạn. Sự hiếu khách đã trả lại cho hai môn đệ những gì mà sự nghi ngờ đã cướp đi khỏi họ. Chúa đã tỏ mình cho họ đang lúc bẻ bánh. Anh em cũng hãy học biết nơi tìm Người, nơi chiếm hữu Người, nơi nhận ra Người: đó là lúc bẻ bánh với Người. (Thánh Augustinô).
Lạy Chúa, Đừng ai làm tảng đá ngăn Chúa và con,
con muốn nhìn thấy Chúa, chạm tay vào người Chúa.
Lạy Chúa, đừng có sách vở nào, dù thông thái, dù đạo đức tới đâu, làm giảm tính chất trong sáng và hương vị sứ điệp Chúa, con muốn gặp Đức Kitô của Maria Mađalêna, của các thánh tông đồ, Đức Kitô của những kẻ bé mọn, những kẻ đơn sơ, Đức Kitô nói giọng quê Galilê, rất gần gũi thân thiết với giọng miền quê con, Đức Kitô cất tiếng bảo con : "Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy".
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Ngài trong niềm vui của lòng tin.
Lm. An Phong, OP
-----------------------------
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
Nhân loại hôm nay vẫn xôn xao đi tìm hạnh phúc. Đã có nhiều người vẫn cứ tưởng hạnh phúc: PS1-219
Nhân loại hôm nay vẫn xôn xao đi tìm hạnh phúc. Đã có nhiều người vẫn cứ tưởng hạnh phúc nằm trong thực tại trần gian. Nhưng hạnh phúc vẫn vuột khỏi tầm tay. Chỉ có Đấng Phục sinh mới mạc khải cho mọi người biết hạnh phúc nằm ở đâu.
CÒN MỘT CHÚT GÌ.
Sau ba năm vất vả gầy dựng cộng đoàn niềm tin, Đức Giêsu đã hoàn toàn trắng tay. Công xây dựng bao năm một sớm một chiều tan thành mây khói. Bao nhiêu giây phút dặn dò, tâm sự đều trôi vào hư vô. Bao nhiêu tin tưởng đã tan thành mảnh vụn. Bằng chứng, vào giây phút nguy khốn nhất, các môn đệ đã bỏ trốn hết. Niềm tin đặt nơi con người nguy hiểm chừng nào ! Cái chết thể xác chỉ là dấu chỉ băng hoại của niềm tin bấy lâu tưởng đã bén rễ và vươn lên.
Khi chọn các môn đệ, chắc chắn Đức Giêsu rất sáng suốt. Nhưng Chúa không dùng quyền năng để phá hủy tự do con người. Tự do cộng với nhát đảm có thể sinh ra phản bội. Ngay cả khi tỏ ra khẳng khái nhất trong các tông đồ, Phêrô vẫn không che dấu nổi sự hèn nhát. Trong biến cố đau thương nhất cuộc đời, Đức Giêsu muốn mạc khải Người lệ thuộc ai. Chắc chắn con người không thể là điểm tựa. Bởi vậy, cho dù tất cả đều bỏ cuộc, Đức Giêsu vẫn kiên cường đứng vững. Đối với Chúa, chẳng ai là quan trọng cả ! Công cuộc cứu độ tùy thuộc một mình Thiên Chúa mà thôi.
Điểm tựa duy nhất của Đức Giêsu chính là tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa không hề vơi bớt chút nào trong suốt cuộc đời Đức Giêsu. Bởi thế, Người tin tưởng mãnh liệt và hiên ngang lên đường đi Giêrusalem nộp mạng. Tình yêu sẽ phục hồi tất cả và làm nên tất cả. Chính “Thiên Chúa (là tình yêu) đã làm cho Người trỗi dậy.” (Cv 10:40) Bởi đó, tình yêu có một sức mạnh lạ thường ! Từ ngàn xưa, chính tình yêu đã tự vẽ đường cho mình. Thật vậy, “tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người” (Cv 10:43) như một Đấng chết vì tình yêu và cho tình yêu.
Không những có các chứng nhân quá khứ, tình yêu còn chuẩn bị những chứng nhân tương lai đẩy mạnh niềm tin nhân loại vào mầu nhiệm tình yêu nơi biến cố Đức Giêsu Phục sinh. Thiên Chúa “cho Người xuất hiện tỏ tường trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.” (Cv 10:41) Từ nay, mọi người sẽ thấy ơn cứu độ chỉ tùy thuộc vào một người duy nhất là Đức Kitô.
Thực vậy, “phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội,” (Cv 10:43) nghĩa là được hòa giải với Thiên Chúa và chia sẻ gia sản Thiên quốc với Đức Giêsu. Chỉ tình yêu mới có sức mạnh biến thù thành bạn ! Không những thế, từ nay một sức sống mới đã ùa vào nhân loại. Thật vậy, tận chiều sâu con người, “sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa.” (Cl 3:3) Sự sống đã trào vọt lên từ nguồn mạch Phục sinh của Đức Giêsu. Sự sống ấy không tự nhiên chiếm hữu được. Nhưng từ cõi chết “anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô,” (Cl 3:1) nhờ sức mạnh tình yêu Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu Thiên Chúa đang làm những việc kỳ diệu trong Giáo hội và khắp thế giới.
Hơn nữa, tình yêu luôn hướng con người lên cao. Bởi thế, “hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa,” (Cl 3:1) Từ nơi đầy sức mạnh tình yêu đó, Đức Giêsu sẽ làm cho vạn vật được phục sinh trong ánh sáng của Người.
CHỨNG TỪ TÌNH YÊU.
Nhìn vào cuộc sống với bao nhiêu thứ tin tưởng hiện tại, chúng ta thấy tình yêu vẫn còn là một sức mạnh áp đảo trước những cơ chế văn minh vật chất. Giáo hội vẫn hiện diện như một dấu chỉ cho mọi người biết con đường giải thoát ở đâu. Ngày nay, như Maria Mácđala, con người vẫn thắc mắc : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?” (Ga 20:2) Nhiều người vẫn còn tin Chúa nằm chết trong mộ. Nhiều tín hữu vẫn trình bày cho mọi người như thể Đức Giêsu chưa bao giờ trỗi dậy. Nhưng “theo Thánh Kinh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” (Ga 20:9) Phải, chỉ khi nào sống theo Lời Chúa, mới có thể làm chứng Đức Giêsu đã Phục sinh ! Ngày nay, cũng như ông Simôn Phêrô, nhân loại đi vào Giáo hội như “đi thẳng vào trong mộ, thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu.” (Ga 20:6) Một cái nhìn quá cơ chế như con mắt Phêrô dễ làm lạc hướng con tim muốn khám phá Đức Giêsu đang Phục sinh trong từng mạch sống và hơi thở thiên nhiên và lòng người. Có thể người ta thấy Giáo hội rất có tổ chức và trật tự. Nhưng họ không như Gioan. “Ông đã thấy và đã tin.” (Ga 20:8) Ong thấy cái gì và tin cái gì ? Ong thấy mọi sự như Phêrô. Nhưng ông tin Đức Giêsu đã từ cõi chết trỗi dậy, vì ông là môn đệ đã nằm sát ngực Đức Giêsu. Chỉ có con tim mới đọc được ý nghĩa của những bằng chứng tình yêu.
Nhân loại đang cần những con tim hơn những khối óc ! Văn minh cực kỳ như thế giới hôm nay, vẫn còn hằng triệu người đau khổ vì anh em đồng loại. Trên thế giới hiện tại vẫn còn trên 200 triệu Kitô hữu đang bị bách hại và hằng tỉ người nghèo đói vì cơ chế bất công vàsự thờ ơ hay thù ghét của đồng loại. Bao giờ chúng ta mới có thể cùng mở hội ăn mừng đại lễ Phục sinh “bằng bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật.” (1 Cr 5:8) giữa một thế hệ gian tà và bất công này ? Bao giờ mới có thể vùng dậy khỏi thế giới hạn hẹp, trần tục này để “tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3:1) ? Thế giới đang thèm khát hòa bình. Chính Đức Giêsu Phục sinh đã trả lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại khi nối kết con người với con người và với Thiên Chúa.
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
-----------------------------
JKN
Câu hỏi gợi ý: Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? Đã bao: PS1-220
Câu hỏi gợi ý: Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tuỳ thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá huỷ, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá huỷ, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá huỷ «cái tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hoá thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thuỷ khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hoá anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
JKN
-----------------------------
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chương trình Thiên Chúa cứu chuộc loài người được thực hiện nơi cái chết và sự sống lại của Chúa: PS1-221
Chương trình Thiên Chúa cứu chuộc loài người được thực hiện nơi cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Tại sao lại dùng cái chết ? Chúng ta có thể trả lời : Không phải Thiên Chúa cần đến sự đau khổ của Chúa Giêsu như một hình phạt, thay thế cho hình phạt mà loài người đáng chịu, nhưng vì Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu, con của Ngài, diễn tả tình yêu lớn lao đối với Thiên Chúa và đối với loài người. Nghĩa là với tư cách là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, Chúa Giêsu đền thay tội lỗi của loài người bằng cách ấy. Ngài đã chứng tỏ một tình yêu vô cùng lớn lao là yêu đến chết trên thập giá, đến thí mạng sống vì kẻ mình yêu thương.
Nhưng sự hy sinh lớn lao của Chúa Giêsu trên núi Sọ đã được Thiên Chúa đáp ứng. Thực vậy, mặc dầu người ta đã niêm phong ngôi mộ và cho lính canh gác cẩn thận, nhưng đến ngày thứ ba, tảng đá che cửa mộ đã bật tung ra, ngôi mộ trống rỗng, Thiên Chúa đã cho con của Ngài sống lại từ cõi chết và siêu tôn Người, như thánh Phao-lô đã viết : “Đức Kitô đã tự hạ sống phục tùng cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt hơn muôn ngàn danh hiệu, để vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ cùng mở miệng tuyên xưng : Đức Giêsu là Chúa”.
Tin Mừng cho biết : sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, các bà đạo đức thân quen với Chúa, trong số đó có bà Maria Mác-đa-la, là người đầu tiên khám phá ra ngôi mộ trống, và cũng là người đầu tiên loan báo cho các tông đồ điều mà các Kitô hữu gọi là Tin Mừng Phục Sinh : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”. Thực chất lời ấy chỉ mô tả một sự kiện mộ trống. Vậy mà sự kiện ấy được mau chóng giải thích rất khác nhau : người thì nói các môn đệ Chúa tổ chức ăn cắp xác lúc lính canh ngủ; người thì cho rằng Đức Giêsu ở trong tình trạng hôn mê, chưa chết, nên đã tỉnh dậy do bị lạnh và ra khỏi mộ; người thì cho rằng cơn động đất đã nuốt Chúa vào lòng đất; người thì giải thích rằng các phụ nữ, các tông đồ đã “lộn mộ”, chôn ở một nơi nhưng đi tìm ở một nơi khác.
Phải chăng niềm tin Chúa sống lại không có cơ sở vững chắc ? Thưa niềm tin ấy rất vững chắc, vì không dựa trên hiện tượng mơ hồ : mộ trống, nhưng trên lời Chúa, hay đúng hơn, thấy lời Chúa được ứng nghiệm. Sự kiện ấy làm cho các tông đồ nhớ lại những lần Đức Giêsu nói tiên tri : “Con Người sẽ bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”. Lời ấy đã ứng nghiệm ở phần trước, nghĩa là các tông đồ đã chứng kiến tận mắt cuộc khổ hình của Chúa. Đức Giêsu đã thực sự chết và đã thực sự được chôn táng trong mộ. Đó là sự kiện không ai nghi ngờ, vậy giờ đây xác ấy không còn trong mộ, sự kiện ấy làm các tông đồ tin rằng lời Chúa đã được thực hiện cách trọn vẹn. Thực hiện ở phần trước: cuộc khổ nạn, và thực hiện ở phần sau : sống lại, nhờ đấu chỉ mộ trống. Nếu tách sự kiện mộ trống ra khỏi lời Chúa thì nguyên sự kiện ấy cũng không thể đưa tới niềm tin Đức Giêsu Kt-tô. Thế nhưng, vì các môn đệ đã từng chứng kiến lời Chúa đã được làm trọn nơi Đức Giêsu, thì chỉ cần một dấu chỉ (mộ trống) cũng đủ làm cho các ông tin lời Chúa vẫn tiếp tục được làm trọn.
Đức Kitô phục sinh là trung tâm của niềm tin Kitô giáo và cũng là trung tâm của đời sống Kitô hữu. Thánh Phao-lô quả quyết : “Nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả lời rao giảng của tôi đều vô ích, và người Kitô hữu chân chính là người “vô phúc hơn hết mọi người”.
Tại sao vậy ? Chúng ta hiểu những lời đó thế nào ? Sự phục sinh của Đức Kitô không chỉ liên hệ đến cuộc đời Ngài, nhưng nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của toàn thể nhân loại, cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, đến lòng tin và niềm hy vọng của tất cả chúng ta. Thiên Chúa đã hy sinh chết thay để cho loài người được sống, không phải cuộc sống mau qua của đời tạm này mà là cuộc sống bất diệt trên cõi trường sinh. Sự sống lại của Chúa là bằng chứng cụ thể cho niềm tin đó, nghĩa là chúng ta tin Chúa sống lại là chúng ta tin chúng ta được cứu chuộc, bởi vì Chúa sống lại Chúa mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta. Nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời đời. Cũng thế, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng cho chúng ta , tất cả chúng ta cũng sẽ sống lại, thân xác chúng ta sẽ sống lại.
Do đó, đức tin của chúng ta vào Đức Kitô phục sinh không phải là điều hão huyền mà là một bảo đảm có giá trị to lớn, tuyệt vời. Cho nên việc Chúa sống lại là một niềm vui và cũng là một niềm hy vọng chắc chắn cho chúng ta. Chúng ta hãy quăng bỏ tất cả những gì là đau buồn, thất vọng, lo lắng; hãy đem tất cả những thứ đó xe kết lại làm bấc đốt nến phục sinh cho sáng niềm tin, để trong mọi cảnh ngộ chúng ta vẫn vui sống và sống hào hùng.
Niềm tin Đức Kitô phục sinh đã thúc đẩy các tông đồ ra đi làm chứng cho Chúa đến nỗi sẵn sàng làm chứng bằng cả mạng sống bất chấp mọi đe dọa, khủng bố, bách hại. Lời chứng ấy vẫn vang lên luôn mãi qua các thế hệ Kitô hữu suốt hai ngàn năm qua. Còn chúng ta hôm nay thì sao ? trong mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép : “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa đến”. Chúng ta tin trong lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng, và chúng ta biết rằng hiệu quả hơn chính là trong cuộc sống : cuộc sống vui mừng và hy vọng, cuộc sống bình an giữa những thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Đó là cách chúng ta diễn tả niềm tin Đức Kitô phục sinh trong hoàn cảnh hôm nay.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
-----------------------------
Jn. 20, 1- 9
Gp. Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Trong một cuộc đua, thường thường tất cả mọi người đều về đến đích, chỉ có một số ít bỏ cuộc nữa: PS1-222
Trong một cuộc đua, thường thường tất cả mọi người đều về đến đích, chỉ có một số ít bỏ cuộc nữa chừng. Nhưng người đoạt huy chương vàng thì chỉ có một. Đó là người nhanh nhất, giỏi nhất và có nhiều có gắng nhất. Người nầy biết tận dụng từng cơ hội cho dù nhỏ nhất, anh ta không bỏ qua một việc gì, nếu điều đó giúp ích được cho mình. Trong lúc đua, anh ta luôn hướng tới đích điểm thật sự và không để cho mình bị phân tâm vào những điều khác. Anh ta đặt tất cả mọi hy vọng vào cuộc đua và quyết tâm đạt mục đích. Anh ta thành công nhờ vào những quyết tâm đã biến nên hành động.
Chúng ta cũng vừa chứng kiến một cuộc đua, nhưng không phải để đoạt huy chương vàng trong thể thao, mà là đoạt chiếc huy chương của Tình Yêu. Những người phụ nữ đã xuất phát rất sớm, mặc dù họ đã đến nơi, nhưng họ không biết mục đích mình đến. Phêrô cũng đến nơi, ông khá hơn những người phụ nữ, ông gần chạm được chiếc huy chương, nhưng vì thiếu một chút, nên ông vẫn không chạm được. Gioan chạy đến mồ trước, mặc dù ông để cho Phêrô vào trước. Nhưng ông là người đã đoạt được chiếc huy chương của Tình Yêu. " Ông đã thấy và ông Tin." Chính vì yêu nên ông đã đạt được điều mà những người cho dù đã đến trước, đã nhìn thấy trước, nhưng vẫn không được kết quả như ông. Mọi người cũng đến, cũng nhận ra, cũng tin, nhưng chạm chạp. Họ không thể tranh giành chiếc huy chương với ông được. Chính ông đã biết vận dụng tình yêu trong cuộc sống, biết tận dụng mọi cơ hội để biểu lộ, nên ông đã đạt được chiếc huy chương của Tình Yêu thật xứng đáng.
Trong thời buổi kinh tế thị trường của ngày hôm nay, chúng ta thấy mọi người đều chạy để tranh giành chiến thắng. Nhưng có những người đã đến nơi, lại không biết mình tìm gì, vì họ không có mục đích, cũng có những người đành bỏ cuộc. Cũng có những người đạt được chiếc huy chương vàng làm vẻ vang cho cuộc sống.
Mỗi người trong chúng ta cũng đang chạy đua với cuộc sống, cho đến giờ này, đến ngày hôm nay, chúng ta đã đạt được điều gì? Chúng ta có đạt được chiếc huy chương nào chưa? Hay chúng ta vẫn chạy một cách vô vọng, chạy mà không biết mình sẽ đến đâu.
Nếu giờ nầy mỗi người trong chúng ta nhìn lại chính mình, nhìn xem kết quả của bao nhiêu năm qua, chúng ta có thể bằng lòng và yên tâm với những gì mình đã đạt được, hay chúng ta đã gần những ngày tàn của cuộc đời mà vẫn chưa tìm được điểm đến. Nhiều lần trong cuộc đời, biết bao biến cố, biết bao lời nhắc nhở, nhưng chúng ta có nhìn thấy, có tin tưởng vào Thiên Chúa để có được cuộc sống mới cho chính đáng hay không? Hôm nay lại một lần nữa, chúng vào nhà thờ, một lần nữa, chúng ta mừng Chúa Phục Sinh, để rồi tất cả mọi việc cũng đi vào quên lãng, chúng ta cũng trở về với hai bàn tay trống rỗng mà không nhận được gì, nên cuộc sống vẫn bình thường như những ngày đã qua, không có gì đỗi mới, như thế, thật là vô ích.
Mỗi người chúng ta để ra một phút suy tư về đời sống của chính mình: Chúng ta đang sống hay đã chết, mặc dù đang hít thở không khí, đang hoạt động, nhưng con người chúng ta không chút đỗi mới, không tiến hơn trong những điều tốt. Như thế mặc dù chúng ta đang sống, nhưng thật sự đã chết từ lâu. Như vậy, việc Chúa Phục Sinh, đem sự sống mới cho loài người, lại không có chúng ta trong đó sao? Chẵng lẽ, để đến giây phút quyết định, chúng ta đành bỏ cuộc vì không thể đạt đến đích điểm mà bao nhiêu người đến được. Chúng ta cũng thể với được chiếc huy chương của Tình Yêu, vì cả đời chúng ta không nhận ra được dấu chỉ của Tình Yêu. Nếu như thế thì thật phí đi cả một đời lao nhọc, mà không đạt được gì.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho chúng ta nhận ra được dấu chỉ Tình Yêu Chúa trong đời sống, dấu chỉ của sự sống mới, để can đảm bước theo đến đích của sự sống mới.
-----------------------------
Jn. 20, 1- 9
Gp. Vĩnh Long
Trước cảnh mồ trống và những băng vải liệm xếp gọn đó là những dấu chỉ chứng tỏ Đức Giêsu: PS1-223
1. Trước cảnh mồ trống và những băng vải liệm xếp gọn đó là những dấu chỉ chứng tỏ Đức Giêsu đã phục sinh. Biến cố quan trọng này càng được củng cố khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ. Trước những dấu chỉ đó, ta thấy Maria Madalena, Phêrô và Gioan, người môn đệ được Chúa yêu quý, có cái nhìn rất khác nhau. Nếu Maria Madalena vừa thấy cảnh mồ trống, đã bàng hoàng, giải thích ngay theo suy nghĩ thông thường “người ta đã đem Chúa ra khỏi mồ ”, tức ai đó đã ăn cắp mất xác của Chúa! Còn Phêrô và Gioan sau khi được tin, chạy đến mồ đã quan sát thêm phía trong ngôi mồ, nhưng cũng có suy nghĩ rất khác nhau. Phêrô thì không hiểu gì hết (x. Lc 24,12). Còn Gioan nhạy bén hơn, “ông đã thấy và đã tin ”. Ông đã thấy gì và ông đã tin gì ?
2. Phêrô vào trước và đương nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất, ông thấy ngôi mồ trống không, các khăn liệm được xếp gọn gàng. Thế nhưng những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô, phải chăng chỉ làm cho ông ngạc nhiên? Trái lại Gioan được trình bày ở đây như mẫu mực người môn đệ của Chúa, người môn đệ tuyệt hảo. Với trực giác của tâm hồn, trước những dấu chỉ đó, theo ông chẳng có ai “lấy đi” thi thể của Thầy như Madalena đã loan báo. Xác Thầy được những kẻ giết Thầy canh giữ cẩn mật kia mà (x. Mt 27,62-66)! Còn nếu kẻ trộm có lấy xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Chắc hẳn Gioan không quên cảnh Ladarô được Chúa cho sống lại thì các khăn, băng vải liệm quấn chặt Ladarô phải được người khác giúp tháo gỡ và để lộn xộn! Theo Gioan thì sự chết đã được sự sống tước đoạt, đánh bại, Thầy Giêsu đã sống lại. Trong ông đã hình thành một chuyển biến từ “thấy” những dấu chỉ để nhớ lại những lần Đức Giêsu đã báo trước về sự phục sinh của Người (x. Mt 16,21-23; Mt 17,22-23; Mt 20,17-19 và song song) nên hoàn toàn “tin” vào Người đã phục sinh.
3. Làm sao Gioan có thể “thấy” và “tin” được? Thưa đó là nhờ vào lòng yêu mến Chúa. Nên ông đã nhận được sứ điệp, điều Chúa muốn tỏ, qua những dấu chỉ này. Tin Mừng nhiều lần nhắc đến Gioan như là người môn đệ Chúa yêu (x. Ga 13,23; 19,26; 21,7.20) và chắc chắn ông cũng yêu mến Chúa rất nhiều. Khi hai người yêu mến nhau hết lòng, chỉ cần một vài dấu chỉ, hành động cũng có thể nhận biết trọn vẹn điều mà họ muốn tỏ cho nhau. Điều nầy chúng ta có thể dễ cảm nhận được trong cuộc sống hằng ngày nơi những người thiết nghĩa với nhau như cha, mẹ và con cái, bạn bè, vợ chồng… Madalena chỉ khi nghe tiếng gọi của Thầy mới nhận ra Thầy (x. Lc 20,16). Các môn đệ khác thấy Thầy hiện đến chúc bình an, ăn uống, mới tin Thầy sống lại. Tôma còn đòi hỏi cao hơn đó là phải thấy, phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy, thì mới tin. Còn Gioan, ngược lại, đã sớm nhận ra Thầy sống lại thật qua các dấu chỉ nhờ con tim, con mắt trực giác đầy yêu thương dành cho Thầy.
Do đó chúng ta mới hiểu rằng đức tin sống bởi đức mến và đức tin có tương quan chặt chẽ với đức mến. Cuộc đời Kitô hữu không thể tách rời giữa lòng yêu mến Thiên Chúa và tin tưởng vào Ngài, giữa yêu mến tha nhân là hình ảnh sống động của Thiên Chúa và việc tin tưởng vào Thiên Chúa.
4. Qua những dấu chỉ và bằng trực giác Gioan đã tin Chúa sống lại đồng thời nhờ những dấu chỉ đó, Gioan và Phêrô mới tin, hiểu lời Kinh Thánh về việc phục sinh của Người mà từ xưa Cựu ước đã tiên báo và được chính Đức Giêsu nhắc lại. Như vậy, Lời Chúa soi đường chỉ lối cho ta, nhưng đôi khi qua những biến cố trong cuộc sống giúp ta thêm hiểu Lời Chúa hơn. Vì thế, chúng ta hãy tập thói quen với cái nhìn đức tin, lấy ánh sáng Lời Chúa soi chiếu vào mỗi biến cố vui, buồn trong cuộc sống để nhờ đó ta có thể nhận ra thánh ý Chúa được thể hiện qua mỗi biến cố đó.
5. Ngày hôm nay, tuy chúng ta không được diễm phúc như Gioan, Phêrô hay các môn đệ khác được mục kích dấu chỉ ngôi mộ trống của Chúa hay những lần Chúa hiện ra, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa việc Đức Giêsu đã phục sinh. Chính Đức Giêsu Phục Sinh đã biến đổi các môn đệ của Người từ những người nhát đảm thành những chứng nhân trung thành của Người, cho dù đầu rơi, máu chảy. Các thế hệ Kitô hữu kế tiếp nhau, ngay cả chúng ta cũng được Đức Giêsu Phục Sinh biến đổi và mời gọi làm chứng cho sự thật nầy.
Biến cố phục sinh của Đức Giêsu mang ý nghĩa rất lớn : hoàn tất những lời hứa của Thiên Chúa qua Cựu ước, xác nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa thật, Người là nguồn mạch sự sống và là sự sống lại cho chúng ta mai sau. Thế nhưng trước những lời dạy và biến cố phục sinh của Người, mỗi người chúng ta có thể có thái độ cảm nhận rất khác nhau, điều đó tuỳ thuộc vào tình yêu của ta đối với Người. Ước mong rằng, nhờ sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh và Thánh Thần của Người soi ấm lòng chúng ta, để chúng ta có thể đón nhận cách tốt nhất niềm vui Phục Sinh và loan truyền cách hữu hiệu niềm vui ấy.
Gp. Vĩnh Long
-----------------------------
Jeremy sinh ra với một thân hình co quắp, chậm phát triển trí tuệ kèm với một căn bệnh mãn tính PS1-224
Jeremy sinh ra với một thân hình co quắp, chậm phát triển trí tuệ kèm với một căn bệnh mãn tính đang giết dần giết mòn sự sống non trẻ của em. Tuy thế, cha mẹ em cũng cố gắng tạo cho em một cuộc sống thật bình thường bằng cách gởi em đến học trường tiểu học St. Theresa.
Tuy đã 12 tuổi, Jeremy vẫn còn học ở lớp hai, và có vẻ không có khả năng học tập. Cô giáo Doris Miller thường căng thẳng vì em. Em loay hoay trên ghế ngồi, mũi dãi chảy ra và lầm bầm không rõ tiếng. Thỉnh thoảng em nói lên được một câu rõ ràng minh bạch, cứ như là một tia sáng bỗng rọi vào bóng tối của đầu óc em... Cô giáo cố hết sức để không quan tâm đến tiếng ồn và cái nhìn ngây dại của Jeremy. Nhưng một hôm em khập khiễng lê chân đi lên bàn cô. Em nói đủ lớn tiếng cho cả lớp nghe: "Thưa cô Miller, em thương cô." Những em khác cười khúc khích, còn cô Doris thì ngượng đỏ mặt. Cô lắp bắp: "Ờ... Ờ... Tốt lắm Jeremy. Bây giờ em về chỗ nhé!"
Mùa xuân đến, và các em học sinh phấn khởi nói về lễ Phục Sinh. Cô Doris kể cho các em nghe chuyện Chúa Giê-su, và để nhấn mạnh đến cuộc sống mới đang nảy sinh, cô đưa cho mỗi em một quả trứng lớn bằng nhựa. Cô bảo: "Này, cô muốn các em đem về và ngày mai đem trở lại sau khi đã đặt vào đó một cái gì nói lên sự sống mới. Các em hiểu không?" "Thưa cô, hiểu!" Tất cả mọi em đều hăng hái trả lời như thế, ngoại trừ Jeremy. Em chỉ trầm ngâm lắng nghe; mắt em không hề rời khuôn mặt cô. Thậm chí em cũng không lầm bầm như mọi khi. Không biết em có hiểu những điều cô nói về Chúa Giê-su không? Không biết em có hiểu lời cô dặn dò không ?
Sáng hôm sau, 19 em học sinh đến trường, cười cười nói nói khi đặt trứng vào một giỏ mây trên bàn cô Miller. Sau môn toán là đến lúc mở các quả trứng. Trong quả thứ nhất, cô Doris thấy một đóa hoa. Cô bảo: "Vâng phải rồi, hoa là dấu hiệu của sự sống mới. Khi cây đâm chồi ra khỏi đất thì ta biết rằng mùa xuân đã đến." Một bé gái ở hàng đầu đưa tay lên nói to: "Trứng của em đấy, thưa cô!” Quả kế tiếp chứa đựng một con bướm bằng nhựa, giống như thật. Cô Doris đưa lên. "Tất cả chúng ta biết rằng sâu biến thành một con bướm đẹp. Vâng, đây cũng là một sự sống mới." Cậu bé Judy hãnh diện mỉm cười và nói: "Thưa cô, trứng đó là của em!"
Cô Doris lại mở quả trứng thứ ba. Cô chưng hửng. Quả trứng rỗng tuếch! Chắc chắn là trứng của Jeremy - cô nghĩ thế - dĩ nhiên rồi, vì nó không hiểu lời dặn dò của cô. Bởi không muốn làm cho em lúng túng nên cô bình thản để quả trứng qua một bên và cầm lên một quả khác. Bỗng dưng Jeremy nói rõ: "Thưa cô, cô không nói gì về cái trứng của em sao?" Cô bối rối trả lời: "Nhưng Jeremy này, trứng của em trống rỗng mà!" Nó nhìn sâu vào mắt cô và khẽ nói: "Vâng, nhưng mộ Chúa Giê-su cũng rỗng mà!"
Thời gian như dừng lại. Khi có thể mở miệng lại được, cô Doris hỏi em: "Em biết vì sao mộ lại trống không?" Jeremy hô lên: "Thưa cô biết! Chúa Giê-su bị giết và được đặt vào đó. Rồi Cha của Chúa cho Chúa sống lại!" Chuông ra chơi chợt reo vang. Khi các em bé ùa chạy ra sân, thì cô Doris khóc. Sự lạnh nhạt trong lòng cô đã hoàn toàn tan biến mất rồi.
Ba tháng sau, Jeremy qua đời. Những người đến nhà xác viếng thăm em đều ngạc nhiên khi nhìn thấy có 19 quả trứng đặt trên chiếc mũ của em... và tất cả các trứng ấy đều rỗng!
-----------------------------
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Phục Sinh, sự kiện một con người đã bị đóng đinh tới chết và mai tang, mà nay đã chỗi dạy và ra khỏi mồ: một sự kiện có một không hai trong lịch sử loài người, căn bản niềm tin của mọi Ki-tô hữu, nhưng lại chỉ được cả 04 Phúc âm mô tả lại cách quá tẻ nhạt và tầm thường. Thậm chí, nếu so sánh với việc Chúa Hiển Dung trên núi Ta-bo, tôi thấy tường thuật thiếu đến cả các chi tiết tối thiểu: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” Mt 17,2 Tất cả những gì được đề cập tới chỉ đơn giản là ngôi mộ trống vắng và lời công bố: “Người không còn ở đây nữa, nhưng đã sống lại rồi!” Đôi lúc tôi cảm thấy khó chịu; và như nhiều tín hữu trong các đám rước Chúa Phục Sinh, tôi muốn bù đắp bằng một hình ảnh vinh quang hơn: hình tượng Chúa uy nghi giơ cao cờ chiến thắng khải hoàn.
Chắc chắn Chúa Phục Sinh có khía cạnh thể lý, vì nó là nền tảng cho việc tuyên xưng đức tin: “Tôi tin kẻ chết sống lại”. Nhưng theo cách diễn tả của các sách Tin Mừng, khía cạnh thể lý chỉ là thứ yếu. Cũng như cuộc khổ nạn của đức Giê-su, cho dầu các đau khổ thể lý được mô tả cách sống động hơn nhiều, mà ý chính vẫn là nói lên tình yêu cứu độ của Thiên Chúa trong đức Ki-tô Giê-su, thì Phục Sinh, biết cố đức Giê-su chiến thắng cái chết, cũng phải nói lên được tình yêu cứu độ trong tất cả sức mạnh vô địch của nó: vĩnh viễn chiến thắng sự chết, trong mọi nội dung.
Theo Kinh thánh thì chết thể lý chỉ là một hậu quả của chết tôi lỗi (St 2,17). Mỗi tội phạm đều là cái chết đối với Thiên Chúa. Mà chết rồi thì vĩnh viễn không sống lại được đâu. Con người qua các thời đại và nhờ các tôn giáo, cố gắng hoàn lại sự sống cho tội chết của mình. Các hình thức hoàn lương, đền tội, tu luyện và khổ chế đều có cùng mục đích đó. Nhưng thâm sâu mọi người đều hiểu rằng: không ai có quyền tha tội, ngoại trừ một mình Thiên Chúa; không ai có thể hoàn lại sự sống sau cái chết, ngoại trừ quyền năng Chúa. Thản hoặc một số người (nhất là các người thế tục, nhưng cũng có thể cả một vài tín hữu) nghĩ rằng tội chỉ là yếu đuối (bệnh hoạn) gì đó mà con người có nhiều cách vượt qua, có nhiều cách chữa trị, trong đó tâm lý, xã hội học được nói tới như liều thuốc tốt nhất. Và nếu tội chỉ là một căn bệnh thì nguy hiểm của nó cũng chỉ giới hạn thôi. Ơn cứu độ và phục sinh là không cần thiết.
Không! Kinh thánh nói rõ, tội là chết, là đưa tới cái chết. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha tội, một mình Thiên Chúa mới có thể giải thoát con người khỏi thần chết. Và Ngài giải thoát bằng cách nào? Thưa, bằng tình thương cứu độ của Ngài được tỏ hiện nơi đức Ki-tô Giê-su. “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.” Ga 11, 25 Trên Thập giá, đức Giê-su đã nhận lấy cái chết của tội lỗi (và chết thể lý của Ngài là hình ảnh cụ thể), tội lỗi và sự chết của cả trần gian, tội lỗi và sự chết của tôi và bạn nữa. Một đàng Ngài đã mạc khải cho thấy tình yêu thương của một Thiên Chúa cứu độ, đàng khác, như một A-đam mới, Ngài cũng đón nhận trọn vẹn tình thương cứu độ của Cha “Con phó linh hồn con trong tay Cha”. Sự Phục sinh của Ngài là bằng chứng hùng hồn về sức mạnh của Tình Yêu (Thiên Chúa là tình yêu) chiến thắng sự chết, Tình yêu thương chiến thắng tội chết. Là một khảng định với chứng cứ đầy thuyết phục rằng: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”. Và ‘sẽ’ đây là một định luật: sống lại ngay bây giờ, chứ không phải chỉ trong ngày sau hết, sống lại trong ân sủng ngay tức thời, trước cả (và quan trọng hơn) sống lại thể lý trong ngày tân thế. “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”.
Nếu thế thì tôi hiểu ra: mô tả một đức Giê-su Ki-tô phục sinh trong vinh quang thể lý, có thể là một lạc đề nguy hiểm. Vinh quang đích thực của Phục sinh, cũng như sức mạnh thật sự của Thập giá, là Lòng Thương Xót mạnh hơn và chiến thắng tội chết.
Lạy Chúa Ki-tô Phục Sinh, xin cho con nhận biết tội đã làm con thật sự chết, để con hiểu ra được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Kinh nghiệm về cái chết thể lý đã cho con phần nào thấy được lòng từ ái quan phòng của Chúa… nhưng đó chỉ là hình ảnh mờ mịt của một thực tế còn vĩ đại hơn nhiều: Đấng Cứu Độ không ngừng tiêu diệt tội chết nơi con để hoàn lại sự sống. Xin cho con không ngừng biết đón nhận ơn phục sinh này trong suốt cuộc đời, bao lâu con vẫn còn yếu đuối sa ngã vào tội chết. Và chính trong sự kỳ diệu vĩ đại này, xin cho con (cùng với nhiều người) cất lời ca ngợi lòng từ bi thương xót của Chúa đến muôn đời. Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
-----------------------------
06.04.2010 09:54
50 ngày từ hôm nay đến ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội mừng kính Tin Mừng mầu nhiệm đêm phục sinh. Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh chết trên thánh giá, được chôn táng trong mồ dưới lòng đất, Ngài đã không nằm yên cho bị tan xương nát thịt thành tro bụi trong đó. Nhưng Thiên Chúa đã làm phép lạ cho Ngài sức mạnh quyền năng chiến thắng thần chết tội lỗi, chỗi dậy ra khỏi nấm mồ.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã sống lại từ cõi chết âm u. Sự sống lại của Người đem lại cho con người sự sống mới. Đây là mầu nhiệm ơn cứu độ, mà trong suốt mùa phục sinh 50 ngày, được đọc nhắc nhớ lại qua các bài tường thuật trong Phúc âm.
Trong ngày Chúa nhật lễ mừng kính mầu nhiệm Phục sinh Chú sống lại, Phúc âm thuật lại quang cảnh Bà Maria Madalena gặp Chúa Giêsu sống lại nơi nấm mồ lúc tảng sáng tinh sương. Nhưng Maria Madalena lại nghĩ tưởng Chúa Giêsu là ngưòi thợ làm vườn.
Sự hồ nghi hay nghĩ tưởng của Maria Madalena không là điều sai lạc Trái lại có thể giúp ta suy nghĩ sâu xa hơn về ý nghĩa Chúa Giêsu phục sinh.
Theo Phúc âm thuật lại, Maria Madaena nhìn nấm mồ thấy mồ chôn Chúa đã trống không. Rồi chị ta nghĩ ngay người đang đứng nói chuyện với mình là người làm vườn đã thu dọn cỏ cây trong vườn, và có thể biết kẻ đã chết ở đây bị đưa đi đâu rồi, nên mồ mới trống rỗng như thế này!
Các Thánh Giáo Phụ đã có suy niệm về hình ảnh ngưòi thợ làm vườn này là hình ảnh nói Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng là người thợ làm vườn trong khu vườn sáng tạo. Khi Ngài sáng tạo trời đất đã lập nên khu vườn địa đàng thuở ban đầu, như trong sách sáng thế ký thuật lại.
Trong khu vườn địa đàng, Thiên Chúa cho con người đầu tiên Adong và Evà có đời sống bằng an hài hòa với thiên nhiên, với Thiên Chúa. Khu vườn địa đàng là ngôi nhà của con người như ý Thiên Chúa muốn cho họ.
Nấm mộ chôn Chúa Giêsu trong một khu vườn giờ đây đã trống không, vì Ngài đã sống lại, như Phúc âm thuật lại, cũng ăn khớp vói hình ảnh khu vườn địa đàng sự sống ngày xưa. Và bây giờ là khu vườn sáng tạo sự sống mới. Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, sự sáng tạo mới cho một trang sử sự sống mới được tạo dựng mở ra cho con người.
Khu vườn nào cũng có hoa thơm cỏ đẹp, cây cối xanh tươi tốt. Khu vườn nào cũng được dọn dẹp sạch sẽ có hàng rào, có đường lối đi lại, có luống đất thành hàng trồng cây và cây cối được chăm sóc bón phân tưới nước đều đặn.
Khu vườn có thể nói là hình ảnh công sức tình yêu của người làm vườn đầu tư gieo trồng vào nơi đó. Người làm vườn bỏ công sức mồ hôi thời giờ, và nhất là ý thích tình yêu cho khu vườn. Và người làm vườn cũng nhận lại được phần thưởng là sự phát triển sinh hoa kết trái từ khu vườn. Điều này mang đến cho người làm vườn cùng cho người đến thăm khu vườn hay cho người sống trong đó sự thư thái bình an hạnh phúc.
Mầu nhiệm Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết là khởi đầu sự trở về khu vườn địa đàng mới. Không phải sự chết là tiếng nói cuối cùng đời con người. Nhưng Thiên Chúa, Đấng sáng tạo nên đời sống con muốn con người sống.
Sự sống sáng tạo mới Thiên Chúa đã gieo trồng khởi sự từ ngày chúng ta lãnh nhận làn nước bí tích rửa tội trong tâm hồn đời sống con người. Và ngày sau cùng đời sống Ngài sẽ làm cho hoàn thành trong nước Chúa.
Đó là cùng được sống lại với Chúa Giêsu phục sinh.
Mừng lễ Chúa Phục sinh 2010
-----------------------------
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa, mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền". Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?
Phục sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp cậu con trai bà goá thành Naim, em bé gái 12 tuổi, và đặc biệt là ông Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống lại. Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ. Có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại chết. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không một định luật tự nhiên nào có thể ảnh hưởng được Ngài: Ngài đến với các môn đệ khi cửa đóng kín, Ngài chuyện vãn với họ, ăn uống với họ, nhiều người trong họ sờ được Ngài như một người đang sống chứ không phải như một bóng ma. Đó là tình trạng đích thực của sự sống lại mà một số môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được mỗi lần Ngài hiện ra với họ.
Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh, các môn đệ Đức Giêsu đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng ấy là: "Ai tin nhận Đức Giêsu, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được phục sinh như Ngài". Họ không thể là một nhóm người lừa bịp bởi vì không một kẻ lừa bịp nào chịu lấy mạng sống của mình đeể làm chứng cho điều mình rao giảng. Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu sợi dây được nối kết bằng máu và bằng những cuộc sống phi thường của các tín hữu Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nói đến niềm tin là nói đến một cái gì mà khoa học không thể kiểm chứng được. Sự Phục sinh của Đức Giêsu quả thật không thuộc trật tự khả giác. Người ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn khoa học nào để kiểm chứng niềm tin ấy. Hai ngàn năm qua, các tín hữu Kitô tin chắc rằng với không biết bao nhiêu sóng gió đã xảy ra cho Giáo Hội, nếu Đấng Phục sinh không hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, thì Giáo Hội không thể nào tồn tại cho đến ngày nay. Nếu giờ đây các tín hữu Việt Nam cố gắng sống thánh thiện, tốt lành, chịu đựng mọi thứ bách hại là bởi vì họ thực sự có Đấng Phục sinh đang sống trong họ và ở với họ. Nếu giữa những mất mát thương đau của cuộc sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì họ tin vào sự Phục sinh mà họ cũng sẽ được tham dự vào trong ngày sau hết. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Kitô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.
-----------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
- Chuông các thánh đường im tiếng.
- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
- Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Anh chị em thân mến, câu truyện phim giả tưởng trên đây mang sứ điệp của lễ Phục Sinh mà những người Kitô hữu chúng ta tưởng niệm và mừng kính hôm nay. Đó là cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài mà còn trực tiếp liên quan đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, niềm tin và hy vọng của tôi cũng như của anh chị em. Vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là kẻ vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Giêsu sống lại, Thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang.
Mừng Chúa sống lại, người Kitô hữu cũng mừng sự sống lại của chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình, như Thánh Phaolô đã kêu gọi: “Nếu anh em sống lại với Đức Kitô, anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Đây không phải là lời khuyên xa lánh các thực tại trần thế. Trái lại, đây là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy tìm và thể hiện những giá trị mới của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua các giáo huấn, qua cuộc sống cũng như cái chết của Ngài.
Một em bé nọ thường nghe mẹ em buột miệng thốt lên: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!”. Mỗi khi gặp điều gì khó khăn trong cuộc sống, bà tự nhủ: “Chúa đã sống lại, hãy vui lên!”. Bà thường tự nhủ trong lòng, nhưng khi bà thốt lên thành tiếng, con trai bà cũng nghe được. Em bé bắt chước mẹ, em thốt lên câu đó mỗi khi em gặp điều bất bình, khi bạn bè chơi xỏ, khi gặp điều không được như ý… Và thú thật, khi thốt lên câu: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!” thì em bình thản trở lại. Hành động của bà mẹ và em bé kia nói lên cố gắng sống niềm vui Phục Sinh một cách cụ thể, chuyển tải một chân lý nền tảng nhất của đạo Kitô vào trong cuộc sống hằng ngày, qua đó, biểu lộ niềm tin và hy vọng. Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Thưa anh chị em.
Người Kitô hữu mừng Chúa sống lại cũng được mời gọi làm chứng cho niềm tin về sự sống mới này. Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự an toàn ích kỷ cho mình, nhưng là sống cho Chúa và như Chúa, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho mọi người. Ước chi Thánh lễ Phục Sinh hôm nay cũng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa Nhật giúp chúng ta thực thi cụ thể trong cuộc sống lời chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết. Chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại. Chúng con đợi chờ ngày Chúa quang lâm”.
-----------------------------
Mở đầu sứ điệp Đức Thánh Cha nói: Trong sự phục sinh của Ngài, lậy Chúa Kitô, trời đất mừng vui” (Phụng vụ giờ kinh).
Anh chị em thành Roma và toàn thế giới thân mến.
Buổi sáng Phục Sinh đã đem lại cho chúng ta lời loan báo cổ xưa, nhưng luôn luôn thời sự: Chúa Kitô đã sống lại! Tiếng vọng của biến cố này, bắt đầu từ thành Giêrusalem cách đây hai mươi thế kỷ, tiếp tục vang lên trong Giáo Hội, đem đến trong con tim niềm tin rung động của Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, niềm tin của bà Madalena và các phụ nữ khác, là những người đầu tiên đã trông thấy ngôi mộ trống, niềm tin của thánh Phêrô và các Tông Đồ khác.
Cho tới nay, cả trong thời đại truyền thông siêu kỹ thuật ngày nay - đức tin của các tín hữu kitô dựa trên lời loan báo này, dựa trên chứng tá của của các anh chị em này, là những người đã trông thấy trước tiên tảng đá lấp mộ bị lăn ra và ngôi mộ trống, rồi họ trông thấy các sứ giả nhiệm mầu minh xác rằng Đức Giêsu Đấng bị đóng đanh đã sống lại. Thế rồi họ đã trông thấy chính Người, là Thầy và là Chúa, sống động và có thể sờ mó được, hiện ra với bà Maria Madalena, với hai môn đệ về làng Emmaus, và sau cùng tới tất cả mười một tông đồ tụ tập nhau trong Nhà tiệc Ly (x. Mc 16,9-14).
Sự phục sinh của Chúa Kitô không phải là hoa trái của một suy tư, của một kinh ghiệm thần bí: nó là một biến cố chắc chăn vượt quá lịch sử, nhưng xảy ra trong một thời điểm chính xác của lịch sử và để lại trong nó một dấu vết không thể xóa nhòa được. Ánh sáng làm choa mắt các lính canh mộ Chúa Giêsu đã vượt qua thời gian và không gian. Đó là một ánh sáng khác, ánh sáng thiên linh đã xé tan sự tăm tối của cái chết, và đã đem vào trong thế giới ánh quang của Thiên Chúa, ánh quang của Chân Lý và của Sự Thiện.
Đức Thánh Cha nói tiếp trong sứ điệp Phục Sinh: Như các ánh sáng của mặt trời mùa xuân làm nẩy mầm và nở hoa trên các cành cây, ánh sáng phát xuất từ sự Phục Sinh của Chúa Kitô cũng trao ban sức mạnh và ý nghĩa cho mọi niềm hy vọng của con người, cho mọi chờ đợi, mọi ước mong, mọi dự án. Vì thế hôm nay toàn vũ trụ vui mừng, vì bị lôi cuốn vào trong mùa xuân của nhân loại, giải thích thánh thi chúc tụng câm nín của thụ tạo. Tiếng Halleluia phục sinh vang lên trong Giáo Hội lữ hành trên trần gian, điễn tả niềm vui thinh lặng của vũ trụ, và nhất là diễn tả ngưỡng vọng của mọi linh hồn chân thành rộng mở cho Thiên Chúa, còn hơn thế nữa, biết ơn Thiên Chúa vì lòng lành vô biên, vẻ đẹp và sự thật của Người.
Trong sự phục sinh của Ngài, lậy Chúa Kitô, trời đất mừng vui. Đáp lại lời mời chúc tụng hôm nay dâng lên từ con tim của Giáo Hội, là các tầng trời cùng với các đạo binh thiên thần, các thánh và các chân phước hiệp nhất với sự nhảy mừng của chúng ta. Trên trời, tất cả đều là an bình và niềm vui. Nhưng rất tiếc, trên trái đất lại không như vậy! Ở đậy, trong thế giới của chúng ta tiếng Halleluia phục sinh còn trái nghịch với các than van và tiếng khóc đến từ nhiều tình trạng khỗ đau: bần cùng, đói khát, bệnh tật, chiến tranh và bạo lực. Thế nhưng chính vì vậy mà Chúa Kitô đã chết và đã sống lại! Ngài cũng đã chết vì các tội lỗi của chúng ta ngày nay, và đã phục sinh cho ơn cứu rỗi của lịch sử. Vì thế, sứ điệp này của tội muốn đến với tất cả mọi người, và như lời loan báo tiên tri, nhất là đối với các dân tộc và các cộng đoàn đang gánh chịu giờ phút đớn đau của cuộc khổ nạn, để Chúa Kitô Phục Sinh mở ra cho họ con đường của sự tự do, của công lý và hòa bình.
ĐTC cầu mong Trái đất đã được tràn đầy ánh sáng của Đấng Phục sinh có thể mừng vui. Ngài xin ánh quang của Chúa Kitô đến với các dân tộc đang khổ đau như sau:
Ước chi ánh sáng của Chúa Kitô cũng đến được với các dân tộc vùng Trung Đông, để ánh sáng của hòa bình và phẩm giá con người chiến thắng bóng tôi của chia rẽ, hận thù và bạo lực. Ước chi tại Libia ngoại giao và đối thoại thay thế cho vũ khí, và trong tình hình xung khắc hiện nay tạo
thuận tiện để cho các nhân viên cứu trợ nhân đạo có thể đến với những người đang chịu các hậu qủa của cuộc xung đột. Tại các nước Phi Bắc Phi và vùng Trung Động, ước chi tất cả mọi người, đặc biệt là giới trẻ, hoạt động để thăng tiến công ích và xây dựng xã hội, để cho nghèo túng bị đánh bại, và mọi lựa chọn chính trị được gợi hứng bởi việc tôn trọng bản vị con người. Ước chi tình liên đới của mọi người đến với các người di cư và tị nạn của nhiều nước phi châu, bị bắt buộc phải từ bỏ tình yêu thương của những người thân yêu nhất. Ước chi những người thiện chí được soi sáng để rộng mở con tim tiếp đón, và đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của biết bao nhiêu anh chị em, trong tình liên đới và có phối hợp. Chúng tôi khích lệ và đánh giá cao tất cả những ai đang nỗ lực và quảng đại cống hiến các chứng tá gương mẫu trong chiều hướng này.
Đức Thánh Cha cũng không quên thảm cảnh của các dân tộc Côte d'Ivoire và Nhật Bản. Ngài nói: Ước chi sự chung sống giữa các dân tộc của nước Côte d'Ivoire được tái lập, nơi cần cấp thiết bước đi trên con đường của sự hòa giải và tha thứ để chữa lành các vết thương do các bạo lực mới đây gây ra! Ước chi đất nước Nhật Bản đang đương đầu vơi các hậu qủa thê thảm, và các quốc gia trong các tháng qua đã bị thử thách vì các tai ương thiên nhiên gậy ra các khổ đau và lo lắng, tìm được sự ủi an và niềm hy vọng.
Trời đất hãy vui mừng vì chứng tá của những người chịu khổ đau vì bị chống đối hay bách hại vì niềm tin nơi Chúa Giêsu. Xin lời loan báo sự phục sinh chiến thắng của Người đổ tràn đầy trong họ sự can đảm và tin tưởng.
Anh chi em thân mến! Chúa Kitô phục sinh đi trươc chúng ta hướng tới mới đất mới (x. Kh 21,1), trong đó sau cùng, chúng ta tất cả sẽ sống như một gia dình duy nhất, con cái của cùng một Cha. Người ở với chúng ta cho đến thời sau hết. Chúng ta hãy di theo Người và hát lên tiếng Halleluia trong thế giới bị thương tích này. Trong con tim của chúng ta có niềm vui và khổ đau, trên gương mặt của chúng ta có tiếng cười và nước mắt. Thực tại cuộc sống trần gian của chúng ta là thế. Nhưng Chúa Kitô đã phục sinh, sống và bước đi với chúng ta. Vì thế chúng ta hát và bước đi, trung thành với dấn thân của chúng ta trong thế giới này, với cái nhìn hướng về Trời.
Sau đó, Đức Thánh Cha đã chúc mừng lễ Phục Sinh bằng 65 thứ tiếng khác nhau trong đó có cả tiếng Việt. Trong lời chào bằng tiếng Hòa Lan ĐTC đã cám ơn tín hữu đã tặng hoa rất đẹp để trang hoàng thềm đền thờ thánh Phêrô. Mgoài các thứ tiếng Tây Âu, cũng có các tiếng Đông Âu, Bắc Âu, Tiểu Á, Phi châu và Á châu.
Đức Thành Cha đã chúc mừng lễ Phục Sinh băng tiếng Hoa, Nhật, Đại Hàn và Việt Nam.
Tiếp đến Đức Hồng Y Phó tế Jan Louis Tauran tuyên bố Đức Thánh Cha Biển Đức XVI ban phép lành toàn xá cho những người hiện diện cũng như tất cả những ai lãnh nhận phép lành qua các đài phát thanh và truyền hình và các kỹ thuật truyền thông mới, theo thể thức do Giáo Hội thiết đỉnh. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa toàn năng gìn giữ Đức Giáo Hoàng hướng dẫn Giáo Hội lâu dài và ban cho Giáo Hội trên toàn thế giới được bình an và hiệp nhất.
Đức Thánh Cha đọc công thức và ban phép lành toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới như sau:
Xin hai Thánh Tông đồ Phêrô Phaolô, mà chúng tôi tin tưởng nơi quyền năng của các vị, bầu cử cùng Chúa cho anh chị em. Vì lời chuyển cầu và các công nghiệp của Đức Trinh Nữ Maria có phúc, thánh Tổng lãnh thiên thần Micae, thánh Gioan Tẩy Giả, các thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và tất cả các Thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót anh chị em, và sau khi đã tha tội cho anh chị em, xin Chúa Kitô Giêsu dẫn đưa anh chị em tới cuộc sống đời đời. Xin Chúa toàn năng và thương xót ban ơn toàn xá, tha thứ tất cả mọi tội lỗi của anh chị em, cho anh chị em một thời gian sám hối đích thật và phong phú, một con tim luôn luôn sẵn sàng sửa đổi cuộc sống, ơn thánh và sự ủi an của Chúa Thánh Thần, và lòng kiên trì cuối cùng trong các công việc lành.
-----------------------------
Trong sứ điệp Phục Sinh gửi cho tổng giáo phận Sidney, Australia, Ðức cha Georgie Bens có kể lại gương can đảm của một người phụ nữ phi châu như sau:
Người đàn bà Phi Châu này hiện đang đứng coi một trung tâm giúp đỡ những người túng thiếu và không nhà không cửa. Cụ thể, mỗi ngày bà nấu cơm và dọn cho họ ăn. Chuyện đáng nói là bởi vì bà, con gái của bà và ngay cả đứa cháu nội bốn tuổi đều đã bị hãm hiếp dã man bởi chính những người đàn ông địa phương. ội ác đã diễn ra ngay trước trung tâm cứu trợ của bà. Người đàn bà biết rõ những kẻ đã hành hạ bà. Bà vẫn thường thấy họ đi lại trên đường phố, nhưng vì chế độ tham nhũng cho nên các phiên tòa chỉ là trò hề và những kẻ gây ra tội ác vẫn không bao giờ bị trừng phạt.
Khi được hỏi tại sao giữa những đau khổ như thế bà vẫn có thể tiếp tục sống và giúp đỡ những người hàng xóm và những người túng thiếu khác? Bà trả lời như sau: "Bởi vì có Chúa đang ở với tôi!"
***
Những người ngoài Kitô giáo thường tỏ ra khó chịu và đôi lúc bất mãn hay nổi giận về thái độ bình thản của các Kitô hữu khi đứng trước đau khổ. Người phụ nữ Phi Châu được Ðức Tổng Giám Mục Sidney đề cao trên đây không phải là một con người bất thường hay vô cảm, bà phải đối phó với nỗi khổ đau khủng khiếp của bà từng ngày, nhưng dù vậy, bà vẫn cảm thấy an bình và tiếp tục hy vọng. Sở dĩ người đàn bà này có thể đứng vững như thế không phải vì bà không còn đau khổ nữa mà chỉ vì Thiên Chúa vẫn có đó và bà vẫn cảm nhận được tình yêu của Ngài.
Câu chuyện trên đây đưa chúng ta vào trọng tâm của mầu nhiệm phục sinh. Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, đã đến trong thế gian. Và ở vào tuổi thanh niên, Ngài đã chịu tra tấn, hành hạ và cuối cùng chết treo trên thập giá. Nỗi đau khổ của Chúa Giêsu có thể mang lại niềm an ủi cho chúng ta những lúc chúng ta gặp đau khổ. Ngài đã chết nhưng ba ngày sau đó đã sống lại và ra khỏi mồ. Ngài chứng minh cho chúng ta thấy rằng tình yêu và sự sống mạnh hơn đau khổ và sự chết.
Phục Sinh không chỉ là ngày lễ trọng nhất của Kitô giáo mà còn là một mùa đặc biệt của hy vọng cho tất cả mọi người đang đau khổ. Kỳ thực, có ai trong chúng ta thoát khỏi khổ đau. Ít hay nhiều, mỗi người đều có một thập giá để vác, nhưng Chúa vẫn có đó và Ngài vẫn yêu thương chúng ta.
Thứ Bảy Tuần Thánh, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu đang nằm trong mộ. Bầu khí tĩnh lặng của nhà thờ gợi lên trong tâm hồn chúng ta sự an bình. Ðó là sự an bình của tin yêu và phó thác. Hình ảnh của Chúa Giêsu đang an nghỉ trong mồ nhắc nhở chúng ta về hình ảnh của hạt giống được gieo vào trong lòng đất. Như Ngài đã nói: "Nếu hạt giống được gieo vào lòng đất mà không thối đi, thì nó sẽ trơ trụi một mình. Nhưng nếu nó thối đi, nó mới sinh nhiều bông hạt". Những nỗi khổ đau mà chúng ta đang trải qua là những hạt giống cần được gieo vào lòng đất. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận đặt vào ngôi mộ của Chúa Giêsu những nỗi khổ đau của chúng ta, niềm hy vọng mới bừng lên trong chúng ta và niềm tin yêu, tín thác, mới đơm hoa kết trái trong chúng ta.
***
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con đang chiêm ngắm Chúa trong ngôi mộ. Chúa đang yên giấc để chuẩn bị sống lại. Chúng con xin được đến với Chúa cùng với gánh nặng của bao vất vả sầu đau trong cuộc sống. Xin cho chúng con được kết hiệp với Chúa để cũng được cùng với Chúa sống lại trong con người mới của tin yêu và hy vọng.
R. Veritas
-----------------------------
AM Trần Bình An
Người đầu tiên phát hiện ngôi một trống, chính là bà Maria Macđala, vào sáng sớm đầu tuần, thấy tảng đá chặn cửa mồ đã lăn ra. Trước đó bà đã đứng dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlôpat (G19, 25). Rồi sau đó, bà còn dự cuộc mai táng Chúa Giêsu. (Mt 27, 61)
Như thế bà Maria Macđala là nhân chứng thứ nhất và trọn vẹn nhất, vì đã theo dõi tường tận mọi việc. Tiếp đến, nhân chứng thứ hai là Người Môn Đệ Được Chúa Thương trẻ trung, nhanh nhẹn đến trước mồ. Thứ ba là ông Phêrô chậm chạp đến sau, nhưng lại vào mồ trước.
Nhân chứng Maria Macđala tuy vậy, chỉ dừng lại nghi vấn rất cụ thể:
“Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết người ta để Người ở đâu?”(Ga 20,2) Như thế dữ kiện đầu tiên chỉ mới xác định ngôi mộ trống, mà chính bà Macđala biết chính xác Chúa Giêsu đã được mai táng tại đây.
Nhân chứng thứ hai và thứ ba vào trong mồ, đều thấy “những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại xếp riêng ra một nơi”(Ga 20, 6-7) Ngay tức khắc Người Môn Đệ Được Chúa Thương liền giải mã được dấu chỉ này, nên “ông đã thấy và đã tin” Chúa Phục Sinh. (Ga 20, 8)
Suốt ba năm sống bên cạnh Chúa, hẳn Người Môn Đệ Được Chúa Thương đã quá quen với thói ngăn nắp, thứ tự của Chúa Giêsu. Nên khi nhìn thấy tấm khăn liệm và khăn che đầu được sắp xếp cẩn thận và gọn ghẽ, thì ông hiểu ngay sự việc đã diễn biến thế nào, đồng thời hiểu Chúa nhắn lại điều gì.
Hơn nữa, cùng hiện diện với bà Maria Macđala dưới chân Thánh Giá, Người Môn Đệ Được Chúa Thương đã được Chúa trăn trối, giao phó cho Đức Mẹ: Thưa bà, đây là con của Bà. Rồi Người nói với môn đệ: Đây là mẹ của anh.”(Ga 19, 26-27) Tình bằng hữu hay tình thầy trò, nay được nâng cấp thành tình huynh đệ thắm thiết. Từ động lực tình yêu này, Người Môn Đệ Được Chúa Thương đã sớm có cái nhìn siêu nhiên, sớm ngộ ra Chúa đã sống lại thật.
Như thế, khi giang tay chịu đóng đinh trên cây Thập tự, Chúa Giêsu đã quy tụ những ai theo Người thành một gia đình hợp nhất, dưới sự che chở của Đức Thánh Mẫu Maria. Hố sâu xa cách đã được lấp đầy.
Mầu nhiệm Phục Sinh do vậy có thể gọi là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.
Lạy Chúa Giêsu xin soi sáng tim con bằng lửa Mến, như thánh Gioan ngày xưa, để con luôn biết trông cậy vào mầu nhiệm Phục Sinh, làm chứng nhân cho Tình Yêu Chúa.
Lạy Mẹ Thánh Mẫu, xin dìu dắt con trên đường hy vọng, như xưa kia Mẹ đã ân cần chăm sóc các Tông Đồ, để xứng đáng hưởng ơn cứu độ của Chúa. Amen.
AM Trần Bình An
-----------------------------
Thánh Lễ Đêm Thánh Phục Sinh A
(Rm 6,3-11; Mt 28,1-10)
Phúc Âm: Mt 28, 1-10
"Ngài đã sống lại và sẽ đến xứ Galilêa".
Qua chiều ngày Sabbat, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ. Bỗng chốc đất chuyển mạnh vì Thiên Thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Vì thế những lính canh khiếp đảm run sợ và hầu như chết. Nhưng Thiên Thần lên tiếng và bảo các người nữ rằng: "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không có ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói. Các bà hãy đến mà coi nơi đã đặt Người và đi ngay bảo các môn đệ Người rằng: Người đã sống lại, và kìa Người đến xứ Galilêa trước các ông: Ở đó các ông sẽ gặp Người. Đây Ta đã báo trước cho các bà hay".
Hai bà vội ra khỏi mồ, vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta".
Thánh Lễ Đêm Thánh Phục Sinh
Rm 6,3-11; Mt 28,1-10
Chúng ta không thể ghi nhớ mọi lời Kinh Thánh đã nghe trong Phụng vụ đêm nay. Càng không thể đúc kết được quá nhiều giáo lý sâu xa như vậy. Nhưng chúng ta phải thấy rõ mình đang đứng ở chỗ nào và trong trạng thái nào để cử hành mầu nhiệm Chúa Phục sinh.
A. Chúng Ta Đang Đi Trong Sự Sống Mới
Bài thư Phaolô xác định vị trí và hoàn cảnh của chúng ta hiện nay. Chúng ta đã chịu phép Rửa trong Đức Kitô, đã cùng chịu mai táng với Người trong sự chết cho tội lỗi, thì bây giờ chúng ta đang đi trong sự sống mới.
Quả thật, Phụng vụ đêm nay đã cho chúng ta thấy rõ điều đó. Lúc đầu khi vào nhà thờ, chúng ta như bị dìm trong bóng tối sự chết. Nhưng rồi ánh sáng Đức Kitô đã bừng lên, dẫn chúng ta vào Nước ánh sáng huyền diệu của Người để tất cả chúng ta trở nên con cái sự sáng, chan hòa ánh sáng mới mẻ của mầu nhiệm Phục sinh.
Rồi chúng ta cũng đã dần dần được soi sáng trong tâm trí. Các bài Cựu Ước từ từ mạc khải cho chúng ta con đường lịch sử cứu độ, để chúng ta thấy nhân loại đã được Chúa dẫn dắt đi vào con đường mỗi ngày một sáng.
Nhất là qua nghi lễ Rửa tội và tuyên lại lời hứa của Bí tích Thánh tẩy, chính chúng ta đã quyết tâm nhờ ơn Chúa từ bỏ nếp sống cũ kỹ tối tăm đi vào sự sống ân sủng và chân lý của Con Thiên Chúa.
Bài thư Rôma đúc kết mọi tư tưởng trên và cho chúng ta thấy rõ nền tảng của tình trạng hiện nay của chúng ta. Chúng ta được như vậy là vì đã đồng hóa với sự chết của Đức Kitô, đã đóng đinh xác thịt vào Thập giá của Người, đã chết cho tội lỗi trong sự mai táng của Người: chính việc kết hợp với Đức Kitô nhờ lòng tin cậy mến biến chúng ta nên những con người khác thường. Bề ngoài chúng ta như tất cả mọi người; nhưng giờ đây tin Đức Kitô và liên kết với Người, chúng ta đã cùng Người ra khỏi quyền lực sự chết và hưởng ánh sáng mới của sự sống phục sinh. Tất cả thân phận chúng ta tùy thuộc vào niềm tin và ý chí kết hợp đó. Ra khỏi bầu khí đức tin hiện tại và rời khỏi tình liên kết mật thiết với Đức Kitô, chúng ta lại trở thành phàm nhân trần tục. Mà bầu khí đức tin và tình liên kết này không giả tạo. Nó căn cứ trên ý chí dứt khoát của chúng ta đã từ bỏ tối tăm tội lỗi và lựa chọn đi vào Nước ánh sáng thánh thiện của Con Thiên Chúa. Nó tồn tại mãi mãi trong đời sống của chúng ta, bao lâu trong thực hành chúng ta vẫn từ khước tội lỗi và chạy theo sự thánh thiện. Và chúng ta chỉ sẵn lòng và phấn khởi làm như vậy khi chúng ta tin mãnh liệt vào việc Chúa sống lại. Thế nên chúng ta luôn cần suy nghĩ về sự kiện này.
B. Mầu Nhiệm Chúa Phục Sinh
Bài Tin Mừng Matthêô bề ngoài như muốn thuật lại việc Chúa sống lại. Nhưng đọc kỹ, chúng ta chỉ thấy những sự việc trước và sau khi Chúa sống lại. Còn chính sự kiện Chúa Phục sinh là một mầu nhiệm, vượt ra ngoài sự hiểu biết khả giác vì chẳng ai đã thấy Chúa sống lại lúc nào và như thế nào. Matthêô chỉ thuật truyện "như" đã xem thấy mà thôi. Ông kể: sáng sớm Ngày thứ nhất trong tuần hai bà đã thấy mộ trống. Nhưng ông đã lợi dụng lúc hai bà đang đi trên đường đi để hình dung việc Chúa sống lại theo các hình ảnh quen thuộc trong Cựu Ước. Nói đúng hơn, ông dùng lối văn hiển linh để diễn tả việc Thiên Chúa Phục sinh Đức Kitô. Trước hết phải có động đất để báo hiệu có hiển linh, tức là có việc Thiên Chúa can thiệp mạnh mẽ vào đời sống nơi dương gian. Rồi đến chính sự hiển linh, tức là hành động của Thiên Chúa: Thần sứ Người từ trời xuống, vần tảng đá ra, ngồi lên trên nó trong trạng thái bá chủ hoàn toàn. Rồi những nét tả về Khuôn mặt và Y phục cũng chỉ lấy lại mọi hình ảnh quen thuộc của các cuộc hiển linh.
Thành ra, Matthêô đã không mô tả việc Đức Kitô sống lại. Ông chỉ diễn tả niềm niềm tin Thiên Chúa đã phục sinh Người bằng những hình ảnh quen thuộc của các cuộc hiển linh. Ông cũng không quên nói đến tác động của những cảnh tượng như thế nơi con người, ông viết: bọn lính canh mộ khiếp sợ và ra như chết. Nhưng có thể nói đó chỉ là những điều mà Matthêô đã suy diễn từ niềm tin vào mầu nhiệm Phục sinh và diễn tả theo lối văn hiển linh. Thật sự ông đã thấy gì?
Ông đã thấy hai bà ra viếng mộ. Và tới nơi họ thấy mồ trống. Họ chẳng hiểu gì và muốn được giải thích. Lúc đó thần sứ Chúa đã bảo họ hãy nhớ lại Lời Người đã nói, đã hứa sẽ sống lại và đi đón họ ở Galilê. Matthêô đã tâm lý khi mô tả họ vội vã bỏ mồ, vừa sợ vừa vui, chạy về báo tin cho môn đệ. Họ sợ vì gặp chuyện quá sức không ngờ; nhưng lại vui vì niềm tin vào Lời Chúa đã nhóm lên ở trong lòng. Và để khẳng định niềm tin chắc chắn của mình vào việc Chúa sống lại, Matthêô kể thêm chuyện Chúa hiện ra với hai bà và việc hai bà thờ lạy Người.
Như vậy, Matthêô đã cố gắng truyền đạt niềm tin của mình vào việc Chúa sống lại. Ông căn cứ vào sự kiện mồ trống và vào việc Chúa hiện ra với các phụ nữ. Đó không phải là chính việc Chúa phục sinh, nhưng chỉ là những sự kiện làm chứng cho Lời Người đã nói sẽ sống lại và sẽ đi đón môn đệ ở Galilê. Chính Lời Thánh Kinh giúp các môn đệ hiểu sự kiện mồ trống và việc Chúa hiện ra. Niềm tin vào việc Chúa phục sinh cuối cùng vẫn tựa vào lời tiên tri vậy.
Đến lượt chúng ta phải tin và truyền đạt niềm tin vào việc Chúa phục sinh. Chúng ta đã tin rồi. Và niềm tin ấy căn cứ vào chứng từ của các Tông đồ khiến chúng ta tin vào Lời Chúa. Thì đến lượt chúng ta cũng chỉ truyền đạt được niềm tin nếu chứng từ của chúng ta khiến người ta tin vào Sách Thánh. Ở nhà thờ này, tham dự thánh lễ này, chúng ta là những người tin. Và hôm nay đặc biệt tin Chúa đã phục sinh . Ra khỏi buổi lễ phụng vụ ở đây, chúng ta phải truyền đạt niềm tin ấy bằng chứng từ của đời sống. Thế mà theo thư Phaolô, muốn làm chứng Đức Kitô đã phục sinh, chúng ta phải nhận thức mình đã chết cho tội lỗi và đang sống cho Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô. Thánh lễ này đang mang chúng ta vào trong Đức Yêsu Kitô để chúng ta nên một với Người hầu chúng ta sẽ luôn sống cho Thiên Chúa. Cầu chúc anh chị em dự lễ sốt sắng để thật sự từ nay sống mới mẻ trong Đức Yêsu Kitô phục sinh.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
-----------------------------
CHÚA NHẬT PHỤC SINH, năm A
Ga 20, 1-9
Có nhiều lần khi dâng lễ Phục Sinh cho anh chị em Dân tộc Kơho, tôi đã xác tín và nói to điều này với tất cả những anh chị em Dân tộc đang có mặt mừng lễ Phục Sinh:” Nếu chúng ta theo Đạo Công Giáo, Chúa chúng ta Đức Kitô chết mà không sống lại thì quả thực Đạo chúng ta đang theo không có giá trị gì ! Và tôi giải thích tiếp, không có một Vị Lãnh Đạo, Sáng Lập Đạo nào trên thế giới lại nói : chết rồi ba ngày sẽ sống lại. Riêng Chúa Giêsu chúng ta đang tin, đang tôn thờ đã chết và đã sống lại thật đúng như lời Ngài nói và rồi cả nhà thờ vỗ tay vang lên. Alléluia, Chúa đã sống lại thật. Alléluia “.
Tin Mừng hôm nay viết về vị tông đồ Gioan như sau :” Ông đã thấy và Ông đã tin “ (Ga 20, 8b ). Gioan đã thấy ngôi mộ t và đã tin Chúa đã sống lại thật sau khi Ngài được an táng ba ngày trong mồ. Thánh Gioan đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô phục sinh. Đó là niềm tin cơ bản nhất của người Kitô hữu. Người Dân tộc Kơho mà tôi đã có dịp phục vụ họ nhiều năm. Theo tôi nhận xét, họ có đức tin tuyệt vời. Đức tin không phải tự nhắm mắt lại để tin những điều người khác nói, nhưng đức tin của họ phát xuất tự đáy cõi lòng và khi đã tin, họ tin rất chân thật, sâu xa. Sở dĩ họ có lòng tin và đức tin sâu xa như thế bởi vì niềm tin của họ không so đo, họ không đòi phải chứng minh như những người trí thức, như những nhà khoa học. Đức tin của họ phát xuất từ cõi thâm sâu của con tim. Thực tế, họ tin vào Chúa phục sinh như Kinh Thánh và Huấn Quyền Hội Thánh dạy họ, nhưng trên hết mọi sự là do lòng đạo đức của họ.
Chúa đã sống lại thật là Tin Mừng Phục Sinh lớn lao cho cả nhân loại. Đêm vọng Phục Sinh nhân loại cử hành lại việc Chúa Giêsu chết và sống lại. Ngày Chúa nhật Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi mọi Kitô hữu chiêm ngắm Chúa Giêsu sống lại, Chúa Giêsu Phục Sinh. Thánh Gioan trong Ga 20, 1-9 đã dẫn mọi Kitô hữu cùng chiêm ngắm ngôi mộ trống với thánh Phêrô và thánh Gioan. Thánh Phêrô giảng cho mọi người nghe lời tuyên xưng Chúa sống lại…Và khi linh mục rảy nước thánh, ca đoàn hát “ Tôi đã nhìn thấy nước chảy vọt ra từ trái tim Chúa Kitô, Alléluia ! Chúa Kitô chiến thắng đã trở về, tỏ cho thấy vết thương nơi cạnh sườn Ngài. Alléluia “. Còn Kinh tiền tụng lại hát vang :” Đám người được rửa tội, rực rỡ trong niềm vui Phục sinh, đang nhảy mừng trên khắp mặt đất “.
Niềm vui Phục sinh phải được lan tỏa nơi mọi người. Cuộc đời của người Kitô hữu luôn đầy ắp niềm vui Phục sinh. Chúa Phục sinh hiện diện trong các mầu nhiệm : Ngài hiện diện trong anh sáng, trong các Lời Kinh Thánh và nay Chúa Phục sinh hiện diện trong các Bí tích như Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể. Chúa hiện diện hoàn hảo trong Mình Máu Chúa Kitô. Người Kitô hữu phải sống Tin Mừng Phục Sinh trong từng biến cố cuộc đời: vui, buồn, thử thách, tất cả phải dậy lên niềm vui Phục Sinh. Anh nến phục sinh mà mỗi người Kitô hữu đã thắp lên từ cây nến mẹ Phục sinh phải chiếu tỏa luôn mãi cho mình và đến với mọi người.
Niềm vui Phục sinh phải được mọi Kitô hữu tỏa sáng để làm chứng cho Chúa sống lại. Phục sinh là sống chia sẻ, bác ái, yêu thương.Niềm vui Phục sinh là đẩy lùi những đam mê, xác thịt để sống chính trực công chính.
Chúng ta sẽ làm chứng cho Đức Kitô Phục sinh khi chúng ta luôn sống đức tin sâu xa và tin tưởng như thánh Gioan :” Tôi đã thấy và tôi đã tin “ ( Ga 20, 8 ba ).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đánh bại thần chết, xin thương cứu độ chúng con. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1. Ông bà anh chị em có cảm nghiệm gì về mầu nhiệm Phục sinh ?
2.Tại sao thánh Gioan đã thấy mồ trống và Ông đã tin ?
3.Phêrô là người thế nào ?
4.Muốn sống mầu nhiệm Phục sinh ta phải làm gì ?
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-----------------------------
Chúa Nhật Phục Sinh A
(Cv 10,34a.37-43; 1C 5,6b-8; Yn 20,1-9)
Phúc Âm: Yn 20, 1-9
"Người phải sống lại từ cõi chết".
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
Chúa Nhật Phục Sinh
Cv 10,34a.37-43; 1C 5,6b-8; Yn 20,1-9
Đức Kitô đã sống lại, thì chúng ta phải làm gì? Dường như các bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn trả lời câu hỏi ấy. Chúng ta có cần phải ra đi kiểm chứng lại sự kiện mồ trống như hai Tông đồ trong bài Tin Mừng không? Hay chúng ta chỉ cần tin vào lời giảng dạy của Giáo Hội như thời các tín hữu đầu tiên? Hoặc hơn nữa chúng ta phải có một thái độ mới và một nếp sống mới như bài thư hôm nay nói?
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng, của bài sách Công vụ các Tông đồ và của bài thư 1 Corinthô.
A. Bài Tin Mừng Yoan
Rõ ràng bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe có một cái gì giống như bài Tin Mừng trong thánh lễ ban đêm. Cả hai đều khởi đầu bằng việc Maria ra viếng mộ Chúa. Nhưng rồi lập tức mỗi tác giả đi theo hướng riêng của mình. Yoan có lối trình bày của ông. Ông chỉ kể tên một bà Maria Magđala, đang khi Matthêô nói đến hai người theo thói quen gấp đôi của ông. Yoan ngược lại thích nói đến một người để nhấn mạnh đến suy tư, thân mật và khiến độc giả chú trọng hơn vào nhân vật trong truyện. Ông cũng thích nói đến ánh sáng và tối tăm, nên viết: sáng Ngày thứ nhất, lúc trời hãy còn tối, Maria ra mộ. Ông có nghĩ đến hình ảnh người phụ nữ đi tìm người yêu lúc đêm khuya ở trong sách Diệu ca không?
Dù sao, Yoan không chú trọng đến mồ trống. Đó là sự kiện rõ ràng. Trọng tâm bài tường thuật của ông nhắm vào suy nghĩ về sự kiện ấy. Người không có đức tin đã nói như Maria: "Họ đã lấy xác Thầy khỏi mộ rồi, và chẳng biết chúng đã để Người ở đâu". Lập tức Phêrô và người môn đệ khác đã chạy ra mộ. Phêrô chạy ra vì là Tông đồ trưởng. Người môn đệ kia cũng phải đến vì là Tông đồ Chúa yêu. Đàng khác chứng của hai người sẽ có giá trị. Người Tông đồ Chúa yêu chạy nhanh hơn vì tình yêu vốn mau lẹ và vì trong Phúc Âm Yoan, người đó luôn gần Chúa hơn hết. Phêrô quan sát cẩn thận, kiểm kê đầy đủ. Nhưng mắt môn đệ kia tinh hơn, theo nghĩa tình yêu sớm linh cảm được sự việc. Cũng như có lần khác, ông đã báo cho Phêrô biết: Kìa Thầy đang đi trên nước! Lần này ông cũng sớm nhận ra: Người đã sống lại. Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô có tin không? Câu kết của bài Tin Mừng dường như muốn khẳng định rằng họ đều đã tin. Và đồng thời câu kết ấy cũng muốn nói lên điều này: lòng tin dựa vào chứng từ (của lời giảng hay của mồ trống) chỉ hoàn toàn sau khi bắt nối với Lời Tiên tri. Ý của Yoan muốn nói rằng: ai cũng nghe nói về sự kiện mồ trống, nhưng người ta sẽ chẳng tin bao lâu "chưa hiểu Lời Kinh Thánh là Người phải sống lại từ cõi chết".
Như vậy bài Tin Mừng hôm nay khuyên mọi người muốn tin vào việc Chúa sống lại, thì không cần sưu tra về sự kiện mồ trống hay tìm hiểu các lần Chúa hiện ra, nhưng hãy hiểu Lời Kinh Thánh nói rằng Con Người sẽ từ cõi chết sống lại. Và như thế, đúng như Yoan đã viết trong câu truyện về Thôma: con thấy nên con đã tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin. Với tư tưởng ấy, Yoan vừa nói cùng người đồng thời với mình đã thấy mồ trống, vừa nhắn nhủ các thế hệ đến sau chẳng nhìn thấy gì cả. Người thấy cũng hãy tin như Tông đồ kia; và người không thấy cũng hãy dựa vào Lời Kinh Thánh mà tin. Chỉ có đức tin mới cho ta biết Chúa đã sống lại. Đó là sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay.
B. Bài Sách Công Vụ Các Tông Đồ
Còn Phêrô trong bài sách Công vụ, nói với cử tọa trong nhà Cornêliô còn có thêm một sứ điệp nữa. Những người ngồi trước mặt ông đều kính sợ Chúa. Hơn nữa họ đã mời ông tới đây để biết phải làm gì. Thế nên ông chỉ cần vắn tắt giới thiệu cho họ biết Chúa Cứu thế. Và dĩ nhiên ở đây sách Công vụ vẽ lại một vài nét của sách Tin Mừng Luca, vì theo truyền thống tác giả cả hai sách chỉ là một. Sách Tin Mừng Luca đã nói Đức Kitô được xức dầu và đầy quyền năng; Người luôn luôn thi thố lòng thương xót khi chữa bệnh tật; nên ở đây sách Công vụ cũng nói Người đã được xức dầu Thánh Thần và quyền năng, và Người đã từng đi lại chữa lành nhiều đau khổ. Cuối cùng Người đã bị treo lên cây gỗ, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại.
Phêrô không nói đến mồ trống; ông nại đến việc Chúa hiện ra với các Tông đồ là những chứng nhân của việc Người phục sinh vì sau khi sống lại Người đã từng ăn uống với họ. Tuy nhiên đó cũng vẫn chưa phải là sứ điệp Phêrô muốn trình bày. Điều cốt yếu đối với ông và đối với mọi người bây giờ là nhìn nhận nơi Đức Kitô Phục sinh, Đấng "đã được Thiên Chúa đặt làm Thẩm phán trên người sống và kẻ chết". Và điều này buộc người ta phải kiểm điểm lại đời sống, có lòng thống hối ăn năn và cầu xin ơn tha tội.
Phêrô đã đạt được điều đó nơi Cornêliô và gia quyến ông. Khi trích lại câu truyện này, Phụng vụ cũng muốn được nhìn kết quả ấy nơi mỗi người chúng ta. Nói cách khác, trong ngày lễ Phục sinh, Phụng vụ không chỉ muốn chúng ta tin vào mầu nhiệm Chúa sống lại, mà còn muốn chúng ta hành động phù hợp với niềm tin kia. Việc Chúa Phục sinh không phải chỉ là sự kiện khách quan, tức là chỉ liên quan tới Chúa; nhưng việc ấy còn chi phối định mệnh của mọi người; vì Đức Kitô Phục sinh từ nay đã là Thẩm phán của người sống và kẻ chết. Không ai đứng trước mặt Vị Thẩm phán xét xử mình mà lại không phải tự kiểm điểm. Trong trường hợp chính Chúa là Thẩm phán, thì chúng ta chỉ còn có thái độ thống hối ăn năn và xin ơn tha thứ.
Đó cũng là điều mà thư Phaolô hôm nay muốn khai triển.
C. Bài Thánh Thư
Phaolô trong thư này đang phàn nàn về câu chuyện tai tiếng xảy ra trong giáo đoàn: có kẻ dám sống loạn luân với vợ của cha mình. Đừng tưởng đó chỉ là chuyện một con sâu làm rầu nồi canh; nhưng phải cẩn thận kẻo "chỉ một tí men là đã làm dậy cả khối bột", nghĩa là tội lỗi kia có thể lây sang làm hư hỏng cả giáo đoàn.
Việc Phaolô ví tội lỗi như một tí men, cũng dễ hiểu thôi: chính Đức Kitô cũng đã có lần căn dặn môn đệ phải coi chừng men Biệt phái, là ảnh hưởng của lập trường tại hại của họ. Là vì tuy men làm cho bột dậy, nhưng bánh có men lại chóng hư nát. Bản chất của men là làm hư hỏng những gì nó ăn sang. Nên ví tội lỗi làm hư đời sống như men cũng thật là dễ hiểu.
Đàng khác kiểu ví này đưa ngay Phaolô vào một vấn đề tôn giáo và thích hợp để khuyên bảo tín hữu. Mọi người đều biết: Luật pháp cấm dùng bánh có men khi ăn lễ Vượt qua. Thế nên các Luật sĩ căn dặn người ta: trước khi ăn lễ Vượt qua phải thắp đèn đi soi mọi ngóc ngách trong nhà kẻo nhỡ ra còn sót lại một chút men nào. Nếu người Dothái ăn lễ Vượt qua còn như vậy, thì huống hồ là người Kitô hữu. Họ không đang sống dưới chế độ Vượt qua sao? Và hằng ngày họ không cử hành mầu nhiệm Phục sinh là gì? Kìa xem người Dothái khi thấy Chiên Vượt qua bị sát tế, là lập tức mau mau vứt men đi để làm lễ. Trong Kitô giáo Chiên Vượt qua là Đức Kitô đã bị sát tế rồi. Vậy mọi tín hữu phải mau mau vứt bỏ men tội lỗi làm hư hỏng đời sống, để mừng lễ, không phải với bánh có men gian tà và độc ác, nhưng với bánh không men tức là với lòng tinh tuyền và chân thật.
Tất cả chúng ta đang sống trong chế độ mừng lễ. Ngày nào chúng ta cũng cử hành mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô bảo ta phải hân hoan, vì đó là tư cách của người mừng lễ. Phụng vụ giục ta hãy vui mừng Allêluia! Nhưng muốn hân hoan thật phải có lòng tinh tuyền chân thật, tức là phải vứt bỏ men tội lỗi gian tà làm hư hỏng đời sống. Ai làm cho ta được một lương tâm như vậy, nếu không phải Vị Thẩm phán mà Thiên Chúa đã đặt lên khi cho Người sống lại từ cõi chết? Chính việc Người Tử nạn-Phục sinh đã ban ơn tha thứ tội lỗi, rửa các linh hồn nên sạch, khiến họ được vui mừng như các tạo vật mới. Chúng ta hãy đi vào mầu nhiệm chết và sống lại của Người trong thánh lễ này để được tha thứ tội lỗi, được hồi sinh và hân hoan, hầu như tạo vật mới, đem sức sống mới vào đời, chứng tỏ Đức Kitô đã phục sinh không những ở nơi Người, nhưng ngay nơi chúng ta là những bánh không men của lễ Phục sinh năm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
-----------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 20:1-9)
Có khi nào chúng ta thắc mắc tại sao Phụng vụ Lời Chúa chính ngày Phục Sinh chỉ sử dụng bài Tin Mừng của thánh Gio-an cho cả ba chu kỳ Phụng vụ A, B và C không? Có lẽ chúng ta có thể trả lời sau khi đọc kỹ câu chuyện Ngôi mộ trống trong cả bốn sách Tin Mừng để nhận ra điểm đặc biệt và quan trọng của đoạn Tin Mừng Gio-an 20:1-9.
Trước hết ba sách Tin Mừng Nhất lãm đều kể lại câu chuyện các bà đi thăm mộ Chúa và nhận thấy ngôi mộ trống, rồi theo lời giải thích của sứ thần, các bà về nhà báo tin cho các môn đệ. Các ông đều không tin. Còn trong câu truyện do thánh Gio-an kể lại, chính ông Phê-rô và người môn đệ Chúa yêu thương (có lẽ là ông Gio-an), đã tận mắt nhìn thấy những vết tích trong ngôi mộ. Rồi thánh sử viết một câu rất ý nghĩa: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin”. Đây chính là điểm đặc biệt và có thể là lý do tại sao đoạn Tin Mừng này được sử dụng cho cả ba năm chu kỳ phụng vụ.
Sau khi được bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin là xác Chúa đã bị đánh cắp, ông Phê-rô và “người môn đệ kia” hối hả chạy ra mộ để kiểm tra hư thực. Tới nơi họ thấy quả đúng như lời bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói. Xác Chúa thì không thấy, nhưng những đồ để khâm liệm thì còn để lại. Có thể các ông lý giải: Nếu quả thực là xác Chúa bị đánh cắp, không lẽ kẻ cắp còn có đủ thì giờ và lý trí để gỡ từng cuốn băng vải và gấp khăn che mặt lại cẩn thận rồi để riêng một nơi! Từ suy nghĩ này, họ đi tới một kết luận: có lẽ Chúa đã sống lại thật rồi. Sau khi họ nhớ lại lời Kinh Thánh nói “Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”, niềm tin Chúa phục sinh được xác định và củng cố.
Nhìn lại diễn tiến câu chuyện, chúng ta tin rằng thánh Gio-an muốn trình bày niềm tin vào Chúa Phục sinh là một diễn trình dựa trên việc loan báo hoặc rao giảng, suy luận của lý trí và quan trọng hơn cả là quả quyết của Kinh Thánh. Có nhiều học giả Kinh Thánh cho rằng “người môn đệ kia” không phải là ông Gio-an như truyền thống thường hiểu, nhưng là nhân vật biểu tương cho một gương mẫu đức tin. Người môn đệ vô danh ấy chính là gương mẫu để tất cả chúng ta phải bắt chước. Đối với mầu nhiệm Chúa phục sinh cũng như những mầu nhiệm khác, người muốn có đức tin đều phải là người “đã thấy và đã tin”. Thấy không phải bằng con mắt thể xác, nhưng là con mắt nội tâm có thể cảm nghiệm được những gì Chúa đã thực hiện cho chúng ta và vì chúng ta.
Phụng vụ Lời Chúa chính ngày lễ Phục Sinh sử dụng câu chuyện do thánh Gio-an kể lại như một mô thức của đức tin thiết yếu không thể thay đổi. Tin Mừng Gio-an cũng như nhiều thư của Phao-lô là những suy tư thần học về Thiên Chúa và kế hoạch cứu độ của Người, về ý nghĩa của những biến cố và hoạt động của Chúa Giê-su Ki-tô, mà niềm tin vào Chúa Phục Sinh là cốt lõi của Ki-tô giáo, như thánh Phao-lô đã quả quyết: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cô-rin-tô 15:14).
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có thể chúng ta đã quen với lối diễn tả sống đức tin vào sự Phục sinh là chết đi con người cũ của chúng ta để sống đời sống mới trong Thánh Thần. Tuy nhiên trong bài đọc Tân Ước hôm nay, thánh Phao-lô đề nghị với chúng ta một lối sống niềm tin vào sự Phục sinh rất thực tế và sống động. Ngài nói: “Chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cô-rin-tô 5:8). Ngài bảo chúng ta là “bánh không men”, được làm nên do men mới là chính Chúa Ki-tô. Chúng ta “ăn mừng đại lễ” cũng có nghĩa là sống mầu nhiệm Phục Sinh, sống với “lòng tinh tuyền và chân thật”. Cuộc đời Ki-tô hữu là một tiến trình “loại bỏ men cũ để trở thành bột mới”. Cuộc loại bỏ và trở thành ấy diễn ra trong mọi nỗ lực của chúng ta, là “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” vậy!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
19-4-201
-----------------------------
Chúa Nhật Phục Sinh A
Niềm vui chỉ là mấy phút phù du hay là điểm quan trọng làm nên cuộc đời ? Đức Giêsu sẽ mạc khải cao điểm cuộc đời chính là niềm vui, chứ không phải đau khổ trong thân phận con người.
NIỀM VUI PHỤC SINH.
Đức Giêsu đã tìm thấy ý nghĩa khổ đau khi đối diện với cái chết. Nhưng nếu không dẫn đến Phục sinh, chắc chắn cái chết đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Bởi vậy, Phục sinh phải đem ý nghĩa cho cuộc đời. Tự bản chất, đau khổ thật là phi lý. Chính vì thế, Phục sinh trở thành một biến cố vĩ đại nhất, vì trả lại cho đời tất cả những nét tươi mát và trong sáng nhất.
Có ánh sáng Phục sinh, tất cả đêm đen sẽ tan biến. Làm chứng cho ánh sáng Phục sinh có cả đội ngũ ngôn sứ và tông đồ. Quả thực, “tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội.” (Cv 10:43) Sứ mệnh cứu độ đó chỉ được hoàn thành trong biến cố Phục sinh. Chính các tông đồ là chứng nhân Phục sinh đã xác quyết : “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.” (Cv 10:40-41) Người vẫn hiện diện âm thầm như thế trong đời thường. Những kinh nghiệm cụ thể đó đã bù đắp vào những thiếu sót trong hiện tượng mồ trống, một kinh nghiệm vừa ẩn vừa hiện.
Hiện trường mồ trống hoàn toàn vắng bóng nhân vật chính. Đức Giêsu chỉ hiện diện một cách vô hình nơi nấm mồ trống với những băng vải và khăn che đầu, cũng như nơi các môn đệ với những trao đổi qua lại. Nhưng Người hiện diện mãnh liệt nhất qua niềm tin của môn đệ : “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20:8) Đức Giêsu Phục sinh. Mãnh liệt đến nỗi hầu như ông thấy toàn bộ Kinh thánh đều hướng về biến cố Phục sinh và củng cố niềm tin ấy. Thực vậy, “theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy tự cõi chết.” (Ga 20:9) Quả thực, làm sao ơn cứu độ có thể mở ra với cái chết như một bế tắc của định mệnh khắc nghiệt ? Nếu Đức Giêsu kết thúc sứ mệnh nơi cái chết, làm sao có thể thấy được bằng chứng Chúa Cha đã nhận lời Chúa Con ? Nếu Đức Giêsu không Phục sinh, bao lời Người hứa chỉ là hão huyền và niềm tin thành hư không. Nếu không sống lại, chắc chắn Đức Giêsu đã không thể làm cho cuộc đời thành một Tin Mừng lớn lao đến thế.
Quả thực, sau khi Phục sinh, Đức Giêsu đã làm vang lên khắp vũ trụ lời ca Halleluia. Chính nhờ Đức Giêsu Phục sinh, thánh Phaolô mới có lý do để hô hào : “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa ! Tôi nhắc lại : vui lên anh em !” (Pl 4:4) Bất cứ ai khi đã gặp Đức Giêsu Phục sinh đều không che dấu nổi niềm vui bùng vỡ. Quả thế, khi ra khỏi mộ, các phụ nữ “rất đỗi vui mừng.” (Mt 28:8) Khi xem thấy chân tay Đức Giêsu, các tông đồ “mừng quá” (Lc 24:41) vì vượt quá sức tưởng tượng. Niềm vui bùng bỡ vì Đức Giêsu đã sống lại để hoàn thành tất cả công trình cứu độ vĩ đại như Người đã hứa.
Niềm vui từ đầu tỏa xuống toàn thân. Ngày nay nhiệm thể Đức Giêsu vẫn giữ được trọn vẹn niềm vui đó. Bằng chứng Giáo Hội vẫn có khả năng rao truyền Tin Mừng Phục sinh cho toàn thể nhân loại. Sở dĩ Giáo Hội có khả năng đó vì “Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8:11) Đó là lý do tại sao thánh Phaolô dám quả quyết : “Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa.” (Cl 3:3) Sự sống mới tràn ngập “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14:17) Đó là những sức mạnh nâng cao vũ trụ. Đó là những giá trị thuộc thương giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Cl 3:1) Muốn canh tân bộ mặt trái đất và xây dựng một cuộc sống thực sự hạnh phúc, “anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới,” (Cl 3:2) tức là những bất công, ích kỷ, hận thù, tham lam, v.v. Tuy thế, “nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính.” (Rm 8:10) Vì chính Thần Khí sẽ làm cho mọi người sám hối như bước đầu niềm hi vọng, bắt nguồn từ niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh.
NIỀM VUI PHỤC SINH HÔM NAY.
Đó là lý do tại sao trong cuộc giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma, cha Raniero Cantalamessa kêu gọi mọi người hãy chiêm ngắm đúng dung nhan Đấng Phục sinh. Theo cha, “người ta đã có cơ hội Phúc âm hóa và thánh hóa sự đau khổ, nhưng “niềm vui” không được Phúc âm hóa cho đủ. Dung nhan Đức Kitô đôi khi đã không được chiêm ngắm thỏa đáng vì truyền thống dồn mọi sáng kiến mục vụ vào “thời kỳ cao độ” và tập trung vào việc cử hành các nghi thức mùa chay (Zenit 22/03/2002) Mười bốn đàng Thánh Giá kết thúc nơi nấm mồ lạnh lẽo. Làm sao Đức Giêsu có thể mở ra chiều hướng khá hơn cho nhân loại khi đi vào ngõ cụt như thế ? Cần phải thêm vào nơi thứ mười lăm với hình ảnh Phục sinh huy hoàng mới nói lên trọn vẹn công cuộc cứu độ. Nếu không, cái chết chỉ đem lại những bế tắc cho cuộc đời vốn đã quá nhiều bế tắc hôm nay.
Theo cha Cantalamessa, những thế kỷ đầu, trước khi thiết lập Mùa Chay, Phục sinh đã là một thời gian đặc biệt để chịu các bí tích, học giáo lý và cử hành các nghi thức phụng vụ. Ngày nay, trái lại, các chủ đề Khổ nạn trổi vượt hơn các chủ đề Phục sinh. “Trong thế giới hôm nay, hơn bao giờ hết, chúng tôi nhận thấy Phúc âm hóa hạnh phúc và niềm vui cũng quan trọng không kém việc Phúc âm hóa sự đau khổ. Việc Phúc âm hóa đau khổ sẽ làm cho các bạn trẻ và cả những người khác nghĩ rằng Thiên Chúa là kẻ thù của niềm vui, và tưởng rằng đối với Thiên Chúa, mọi thứ hạnh phúc, lễ lạc, niềm vui bộc phát đều là tội lỗi.” (Cantalamessa : Zenit 22/03/02) Khuynh hướng tự nhiên ai cũng cho đời là bể khổ. Nhưng nếu nhìn đời theo nhãn quan đó, làm sao Đức Giêsu có thể trở thành Tin Mừng cho trần gian ?
Chính ánh sáng Phục sinh sẽ đem Tin Mừng đến cho trần gian đau khổ. “Phục sinh của Đức Kitô phải là lời khẳng định quyết liệt nhất cho mọi người biết rằng vào cuối đời không còn đau khổ và từ bỏ, nhưng tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Đức Giêsu đã đập tan xích xiềng của thứ hạnh phúc sinh đau khổ và đã thay thế bằng thứ đau khổ sinh hạnh phúc.” (Cantalamessa :Zenit 22/03/02) Lúc lên tới tột điểm khổ đau, Đức Giêsu vẫn không đánh mất hạnh phúc. Giữa lúc mọi sự đều tan rã, Người bám chặt vào tình yêu Thiên Chúa, Đấng sẽ trả lại sự sống cho Người trong vinh quang Phục sinh. Hơn lúc nào, khi cả nhân loại đang bên bờ diệt vong, Đức Giêsu Phục sinh phải được rao giảng như niềm vui lớn lao nhất. “Niềm vui phải là tiếng nói cuối cùng, chứ không phải đau khổ. Phải cấp thiết làm cho dung nhan Đấng Phục sinh chiếu sáng trước mắt người thời nay.” (Cantalamessa :Zenit 22/03/02) Nếu không, thế giới vẫn mãi mãi tiêu điều như “sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối Maria Mácđala đi đến mộ.” (Ga 20:1) Hôm nay, Maria và các môn đệ Đức Giêsu đã hăng hái rao giảng Đức Giêsu Phục sinh cho toàn thể nhân loại. Không còn lý do gì để trở lại cảnh hoang lạnh như nấm mồ trước mắt Maria nữa !
Lm. Đaminh Đỗ Vân Lực, OP
-----------------------------
Mt 28, 1-10
Trong nghi lễ đêm nay, chúng ta có nhiều điều cần suy nghĩ: Chúa Giêsu đã sống lại khải hoàn như lời Ngài đã loan báo trước. Cây nến phục sinh hiên ngang tỏa sáng như niềm tin cho mọi người Kitô hữu.
LỜI BÁO TRƯỚC CỦA CHÚA ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN :
Đúng như nhiều lần Chúa Giêsu nói thể theo ý Thiên Chúa Cha, dù Ngài tới trần gian là để sống với, sống vì, sống cho mọi người và Ngài chỉ làm những công việc tốt lành, nhưng rồi Ngài sẽ bị bắt, bị đánh đập, bị treo lên Thập Giá và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại vinh quang khải hoàn.Tin Mừng Đức Giêsu đều nhất trí về biến cố Đức Giêsu Kitô: Thời gian sống lại là sáng sớm ngày tứ nhất trong tuần, nghĩa là ngày thời nay gọi là sáng sớm ngày Chúa Nhật. Việc thứ hai là ngôi một trống. Chúa Giêsu không còn ở trong mộ, có nhiều người chứng kiến sự việc này là bà Maria Mácđala, hai tông đồ Simon Phêrô và Gioan, Chúa đã nhiều lần hiện ra và các t6ng đồ là nhân chứng cho sự phục sinh của Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại vinh quang. Sự kiện này vẫn được luôn luôn nói tới chứ không phải chỉ bị chôn vùi trong mồ, chôn vùi trong sách vở mà thôi. Chúa chết thật và Ngài đã sống lại thật đó là niềm tin vững chắc mà mọi người đều phải hiểu như thế. Đây là niềm tin. Một mầu nhiệm đức tin bởi vì chúng ta tin vào Chúa là con người thật, con người đã chết nhưng vẫn sống. Mọi vĩ nhân, mọi người trên thế giới đều chết, nhưng thực tế họ không thể sống lại. Chỉ mình Đức Giêsu vẫn sống bằng xương bằng thịt trên trời, trong cuộc đời, trong nhà tạm và nơi Mính Máu Thánh Chúa. Mọi người Kitô đều tin như vậy, Ngài đang sống ở đây, bên ta, trong ta, chúng ta tin và chúng ta vẫn gặp Ngài. Trong thánh lễ hôm nay Hội Thánh nói chúng ta hãy hát lên Alléluia. Alléluia có ngĩa là ca ngợi Chúaq, Chúc tụng Chúa, tôn vinh Chúa.
CHÚA LÀ ÁNH SÁNG: Trong đêm hôm nay, cây nến phục sinh tượng trưng cho Chúa Giêsu sống lại. Đầu lễ mọi ngọn đèn trong nhà thờ tắt cả. Cây nến phục sinh duy nhất được thắp sáng, được xông hương và được rước lên cung thánh đặt ở nơi trịnh trọng. Lửa cây nến phục sinh này được dùng thắp sáng mọi cây nến trong nhà thờ. Đây là cây nến trung tâm tượng trưng cho Chúa Giêsu phục sinh.
Ngọn lửa phục sinh sẽ bùng sáng như Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi mồ chiến thắng sự chết. Với tình yêu cứu độ, Chúa yêu thương mọi người. Sự phục sinh của Người sẽ luôn bừng sáng cho những người biết tin vào Người. Tình yêu của Chúa đối với nhân lọai, đối với từng người sẽ không bao giờ bị tắt. Tình thương cứu độ của Chúa sẽ luôn bừng sáng giữa thế gian đầy bóng tối và tội lỗi.
Vâng, ánh sáng của Chúa ban cho ta, sự sống Chúa trao cho ta, ta phải sống ánh sáng và sự sống như những chứng nhân thật sự của biến cố phục sinh.
Xin Chúa thêm lòng tin cho ta để ta sống chứng nhân tình yêu của sự sống phục sinh của Chúa.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-----------------------------
Phục Sinh là đích tới của đức tin Ki-tô giáo, vì nó đưa ta tới ơn cứu độ vĩnh viễn. Hành trình đức tin phải trải qua những giai đoạn giống như cuộc đời Đức Ki-tô nơi trần thế và chính Người phải là đối tượng đức tin của ta. Suy niệm về Phục Sinh không chỉ là nghĩ về một biến cố, nhưng là về một con người gắn liền với thân phận của ta. Con người ấy là Đức Ki-tô, ý nghĩa đích thực của đời ta.
1. Chứng từ của ông Phê-rô về Đức Ki-tô Phục Sinh (bài trích sách Công vụ Tông Đồ 10:34a,37-43)
Có lẽ ít khi ta để ý tới cấu trúc Phụng vụ Lời Chúa các Chúa Nhật mùa Phục Sinh. Một điều khác thường nhất, đó là thiếu vắng bài đọc Cựu Ước (bài đọc 1) như các Chúa Nhật thường niên, và để thay thế, Phụng vụ sử dụng các đoạn trích sách Công vụ Tông Đồ. Như vậy là cả ba bài đọc đều lấy từ Tân Ước. Tại sao vậy? Phục Sinh là mầu nhiệm lớn lao nhất của Tân Ước và là đại lễ được mừng liên tục trong bảy Chúa Nhật cho tới lễ Hiện Xuống. Chỉ có Thánh Kinh Tân Ước mới nói đến sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô. Do đó, Phụng vụ Lời Chúa chỉ sử dụng Tân Ước để giúp ta suy niệm về ý nghĩa của Phục Sinh. Bài đọc 1 trích sách Công vụ Tông Đồ kể lại việc rao giảng mầu nhiệm Đức Ki-tô. Bài đọc 2 trích thánh thư của các Tông Đồ chỉ dạy cho ta một cách sống mầu nhiệm Phục Sinh. Bài Tin Mừng nói với ta về những lần Chúa hiện ra với các môn đệ sau khi Người sống lại.
Các Tông đồ ra đi rao giảng sau khi Chúa lên trời. Bài giảng của ông Phê-rô và các Tông đồ về Chúa Ki-tô theo cùng một khuôn mẫu, kể lại những biến cố trong cuộc đời của Chúa. Mặc dù nội dung bài giảng đơn sơ dễ hiểu, nhưng quan trọng hơn, đó là lòng xác tín của người giảng muốn nói lên những điều chính mình làm chứng. Những gì Chúa Giê-su giảng dạy và hành động lúc sinh thời thì ai ai từ Ga-li-lê tới Giu-đê cũng đều nghe đều biết cả, cho nên thánh Phê-rô mới quả quyết: “Quý vị biết rõ…” Tuy nhiên, có một điều các thính giả của ngài không được biết rõ, đó là việc Chúa Giê-su đã sống lại từ kẻ chết và hiện ra với các Tông đồ. Thánh Phê-rô biết rõ điều này: “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:40-41).
Thực vậy, chỉ có các Tông đồ mới là những người được diễm phúc “cùng ăn cùng uống” với Chúa sau khi Người sống lại và hiện ra với các ông. Thánh Lu-ca kể lại Chúa đã cầm lấy khúc cá nướng và ăn trước mặt các Tông đồ, để các ông không còn nghi ngờ Người là bóng ma nữa (Lc 24:36-42). Còn thánh Gio-an thì ghi lại một bữa ăn thân mật của Thầy trò bên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a (Ga 21:1-14). Các Tông đồ ý thức nhiệm vụ phải rao giảng và làm chứng về Chúa Ki-tô, vì Người đã truyền lệnh cho họ: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này” (Lc 24:48).
Thánh Phê-rô là vị Tông đồ đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, gia đình ông Cô-nê-li-ô tại Xê-da-rê. Ngài không chỉ rao giảng về Chúa Giê-su như đã rao giảng cho người Do-thái, mà ngài còn nhấn mạnh đến tính phổ quát của ơn cứu độ: “Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:35). Ông đại đội trưởng Cô-nê-li-ô là một trong số những người này, vì “ông là người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa, cũng như cả nhà ông; ông rộng tay bố thí cho dân và luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Cv 10:2). Những lời giảng của ông Phê-rô tự nó khó có thể lay chuyển lòng người. Nhưng ta có thể hiểu rằng ông đã giảng với tất cả niềm xác tín của một chứng nhân đã được “cùng ăn cùng uống” với Đấng mà ông rao giảng. Hơn nữa chứng từ của Phê-rô còn có sức mạnh đưa Thánh Thần đến với những người đang nghe ông (Cv 10:44). Rao giảng về một Chúa Giê-su đã sống và đã chết là một điều khó, nhưng rao giảng về một Chúa Giê-su đã sống lại, nhất là cho những người dân ngoại như gia đình ông Cô-nê-li-ô, thì càng khó hơn nữa. Do đó, ta tin rằng lòng tin của chính người rao giảng cũng là yếu tố hết sức quan trọng đóng góp vào kết quả của bài giảng là việc trở lại đạo của những người nghe giảng.
2. Chứng từ của người “đã thấy và đã tin” Đức Ki-tô phải sống lại từ cõi chết (bài Tin Mừng – Ga 20:1-9)
Những dấu hiệu bề ngoài nói lên việc Chúa Giê-su đã sống lại. Nhưng mỗi người nhìn thấy những dấu chỉ ấy đã có những quyết đoán và thái độ khác nhau. Trước hết bà Ma-ri-a Mác-đa-la “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” và bà nghĩ rằng xác Chúa đã bị ai đó đem đi đâu mất rồi. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã nhìn thấy một dấu chỉ là tảng đá lăn khỏi mộ, nhưng dấu chỉ ấy vẫn chưa đủ để bà bước thêm một bước nữa, là nhận ra Chúa đã sống lại. Tiếp đến, ông Phê-rô và người môn đệ Chúa Giê-su thương mến cũng tới nơi mộ Chúa. Mỗi người nhìn thấy những dấu chỉ sự Phục Sinh theo một cách riêng. Người môn đệ Chúa thương mến thì “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó”.
Còn ông Phê-rô lại “vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giê-su”. Cái nhìn của hai ông đã đưa các ông bước sang một lãnh vực linh thiêng: “Ông đã thấy và đã tin”. Đó chính là “bước nhảy vọt” của đức tin. Tự khả năng riêng, ta không thể vượt qua bước nhảy vọt đó để đi tới đức tin, nhưng cần phải có sự trợ giúp của Chúa là Kinh Thánh các ông mới hiểu được “Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”. Cùng với sự trợ giúp của Chúa cũng cần phải có sự cố gắng của ta. Không biết thánh sử Gio-an có ý gì khi ghi lại những cử chỉ của người môn đệ Chúa thương mến và ông Phê-rô là “cúi xuống” và “vào thẳng trong mộ”, nhưng ta lại nhận thấy những cử chỉ ấy thật cần thiết để giúp ta tiến đến đức tin. Thực vậy, nếu ta không chịu “cúi xuống”, khiêm tốn nhìn nhận sự siêu việt của Chúa, ta sẽ chẳng bao giờ tin Chúa được. Nếu ta không “vào thẳng trong mộ”, tức là vào trong con người của ta đã chết vì tội lỗi, ta cũng sẽ không thể tin lòng thương của Chúa muốn cứu độ ta.
Trong hành trình đức tin, những cái nhìn của bà Ma-ri-a, ông Phê-rô và người môn đệ Chúa thương đều cần thiết cả. Nếu ta không thể nhận ra thực tại thiêng liêng đằng sau dấu chỉ, ta cần phải nhờ đến sự giúp đỡ của người khác, như bà Ma-ri-a đã chạy về gặp ông Phê-rô và người môn đệ Chúa thương. Dấu chỉ đưa ta tới lòng tin luôn luôn có chung quanh ta hoặc ngay trong những biến cố và sinh hoạt cuộc sống ta. Điều cần thiết là ta có muốn đọc những dấu chỉ ấy theo ân sủng của Chúa, theo ý nghĩa Kinh Thánh hoặc theo sự chỉ dạy của những người muốn giúp đỡ ta không.
3. Chứng từ của người sống đức tin vào sự Phục Sinh (bài Thánh thư – Cl 3:1-4)
Sự Phục Sinh là kết thúc vinh quang công trình cứu độ của Chúa, nhưng lại là chân trời mới cho cuộc sống dương thế của ta. Ki-tô hữu là những người sống lại, những người “đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô”. Người sống lại từ cõi chết như một cuộc Vượt Qua từ hạ giới lên thượng giới, từ nhân loại lên tới Thiên Chúa, là nơi từ đó Người đã được sai xuống trần gian. Khi đến với ta, Người “trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2:7). Còn khi Người trở về trời, “Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8:29), để dắt họ về đoàn tụ với Thiên Chúa Cha. Do đó sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô mang ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc hành trình của ta đi về thiên quốc.
Nhưng ta phải sống làm sao để chứng tỏ ta tin vào sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô? Một vài lời khuyên thực tế thánh Phao-lô cho ta giúp định hướng cuộc đời trần thế của ta. Điều thứ nhất là ta hãy “tìm kiếm những gì thuộc thượng giới và hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”. Sống ở trần gian, nếu ta muốn kiếm tiền thì phải nghĩ tới tiền, phải tìm đủ cách để kiếm được tiền. Danh vọng và địa vị xã hội cũng vậy. Phải ráng học thành tài, phải len lỏi và vươn lên, phải nắm bắt cơ hội. Nhưng thường ta lại quá “chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”, đến nỗi coi thường hoặc dửng dưng với những giá trị thiêng liêng đạo đức. Những gì thuộc thượng giới là đích tới của ta, còn những gì thuộc hạ giới chỉ là phương tiện để ta đạt đích tới. Những gì thuộc thượng giới tức là “sự sống mới hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa”. Vì nó tiềm tàng, không thể thấy được bằng mắt, do đó nó không lôi cuốn ta bằng những hào nhoáng của những gì thuộc hạ giới. Điều thứ hai là sống mối quan hệ với Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô trình bày chung cuộc cuộc sống trần thế của ta như sau: “Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang”. Làm sao ta có thể xuất hiện với Chúa và cùng Người hưởng phúc vinh quang nếu ta không kết hiệp với Người ngay từ đời này? Kết hiệp bằng cách làm môn đệ Người, sống theo lối sống của Người, thay đổi não trạng của ta giống như não trạng của Người. Kết hiệp qua những suy niệm Kinh Thánh và cầu nguyện. Kết hiệp lúc vui cũng như khi gặp phải nghịch cảnh. Nói tóm lại, là ta trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.
4. Sống Lời Chúa
Chúa Ki-tô Phục Sinh đã trở thành nội dung của việc rao giảng Tin Mừng. Nhưng Chúa Phục Sinh cũng là lẽ sống của ta trên trần gian, để qua những tháng năm sống đời Ki-tô hữu một cách trọn vẹn, ta sẽ được sống vĩnh viễn với Chúa mai sau.
Suy nghĩ: Người môn đệ Chúa thương mến chia sẻ cảm nghiệm về Chúa Ki-tô Phục Sinh: “Ông đã thấy và đã tin”. Trong cuộc đời mình, tôi đã thấy gì và tôi đã tin gì về Chúa?
Cầu nguyện: Lạy Cha từ ái, ngày hôm nay, Đức Giê-su đã đánh bại thần chết, khai đường mở lối cho chúng con vào cuộc sống muôn đời. Nay chúng con đang hoan hỷ mừng Người sống lại, xin Cha ban Thánh Thần làm cho chúng con trở nên người mới, để sống một cuộc đời tràn ngập ánh sáng Đấng Phục Sinh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật Phục Sinh)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
-----------------------------
CHÚA NHẬT PHỤC SINH, NĂM A, 27.03.05
Cv 10,34a.37-42; Cl 3,1-4; Ga 20,1-18
Bài Phúc âm hôm nay tường thuật về biến cố Phục sinh. Nhưng nếu ai để ý nghe sẽ nhận thấy tác giả nói đến hai cảm nghiệm về Phục sinh: Một bên là cảm nghiệm của hai người đàn ông, Phêrô và Gioan. Mặt khác là cảm nghiệm của một người đàn bà, Maria Mácđala. Những cảm nghiệm này hoàn toàn khác biệt – giống như mặt trời với mặt trăng. Đàn ông với đàn bà khác nhau như thế nào thì cảm nghiệm của họ cũng giống như thế! Nhưng ngay chính sự khác biệt này có thể giúp chúng ta khám phá ra, đâu là điểm then chốt của Tin mừng Phục sinh.
Trước tiên chúng ta chú tâm tới cảm nghiệm của đàn ông. Sau khi Maria ra thăm mộ, thấy vị trí của viên đá lấp cửa mộ thay đổi, bà liền chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Hai ông vội vã chạy ra mộ. Gioan còn trẻ, nhanh tay lẹ chân hơn nên chạy đến trước. Theo lẽ thường tình, kẻ nào đến trước nhất, kẻ đó có quyền vẽ vời. Gioan có thể bước vào huyệt mộ để quan sát tất cả. Nhưng ông không làm như thế. Ông tôn trọng nguyên tắc: „Kính lão đắc thọ”. Ông đứng đó đợi. Có lẽ ông không kém phần tò mò hơn Phêrô nhưng ông sẵn sàng chờ đợi kẻ cao niên đuối sức hơn. Cuối cùng thì Phêrô cũng tới nơi, với hơi thở dồn dập ông đi thẳng vào trong mộ, không một lời cám ơn kẻ đã chờ đợi và dành quyền ưu tiên cho mình.
Phêrô giống như một nhân viên thanh tra. Ông quan sát từng chi tiết một. Theo ông nghĩ, niềm tin phải dựa trên nền tảng của lý trí. Không ai được phép nhẹ dạ tin bừa bãi, không cân nhắc trước sau. Niềm tin không thể chống lại lý trí. Ai nói tôi tin cũng phải có khả năng trả lời rằng tại sao tin. Sau khi quan sát kỹ lưỡng ông thẩm định rằng: mọi sự dường như được sắp xếp có trật tự, đâu ra đấy! Khăn che đầu không để lẫn với các băng vải. Tất cả đều mâu thuẫn với lời nhận định của Maria. Nếu như có ai đến lấy trộm xác, kẻ ấy sẽ không tháo những băng vải cuốn chung quanh; kẻ ấy cũng không cẩn thận gấp những băng vải đó lại. Chắc chắn không thể nói là ăn trộm! Không có gì chứng tỏ có ai đó đến xê dịch hoặc ăn trộm xác. Phải chăng người chết đã sống lại, điều này chính ông lại chẳng nghĩ ra!
Giữa lúc đó chính Gioan cũng bước vào. Phúc âm nhấn mạnh sự khác biệt giữa Gioan và Phêrô và nói về ông: „Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ có lòng tin của Gioan được nói tới. Phêrô không hề được đá động đến. Phêrô chỉ nhìn những vật chứng trong mộ và ghi nhận tất cả giống như máy chụp hình. Đang khi đó Gioan nhìn thấy nhiều hơn, bởi vì ông nhìn bằng ánh mắt của con tim. Ông có linh cảm rằng, đã có một biến cố ngoài sức tưởng tượng đã xảy ra ở đây. Lòng yêu mến của ông đã giúp ông nhận biết, kẻ chết đã sống lại. Quả thật, lý trí không thể cưỡng cầu, nhưng tại sao con tim tin, chẳng ai giải thích nổi. Con tim có những lý lẽ mà lý trí không tài nào biết được! Mặc dầu vậy, Gioan chỉ hiểu lờ mờ. Niềm vui Phục sinh không hề tỏ lộ nơi hai ông. Hai ông trở về nhà với muôn vàn khúc mắc, bởi vì chưa hiểu lời Kinh Thánh.
Chuyện gì xảy ra với Maria lúc đó? Bà cùng chạy ra mộ. Nhưng bà bị đám đàn ông bỏ rơi một mình! Bà đứng khóc bên ngoài, gần bên mộ. Bà chưa kịp giác ngộ, ngôi mộ trống là dấu chỉ nói rằng kẻ chết đã sống lại! Có lẽ nước mắt làm mờ đôi mắt. U sầu biến trái tim thành câm nín. Đau khổ đè nặng đôi vai không thể ngước nhìn lên. Chỉ có một tia hy vọng mong manh nhưng nước mắt đã lấp che tất cả! Bà phải quay đầu lại. Bà phải đổi hướng để Đức Giêsu có thể đích danh gọi tên bà. Bà nhận ra Ngài, muốn được ở gần bên. Cảnh tang tóc nơi bà tan biến. Niềm vui xác định lối suy nghĩ và hành động. Cảm nghiệm Phục sinh của Maria là thế, không thể khác được. Bà giống như bị sét đánh qua cái chết của Đức Giêsu. Bà than khóc bên mộ. Phúc âm đã hai lần nhấn mạnh rằng bà khóc. Đây chính là điểm then chốt của Tin mừng Phục sinh: Chỉ những ai bị cái chết của Đức Giêsu đánh động tận tâm can, mới có thể mừng Ngài sống lại.
Hằng năm chúng ta mừng lễ Phục sinh. Nhưng ai trong chúng ta thực sự bị biến cố Phục sinh đánh động. Tin mừng Phục sinh muốn nhắc nhở chúng ta điều này. Đại lễ Phục sinh là một ngày lễ mà mỗi người trong chúng ta được Đấng Phục sinh gọi đích danh, giống như Maria. Lời gọi đích danh này lần đầu tiên đã xảy ra ngày chúng ta chịu bí tích Rửa tội. Hôm nay, cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh sẽ biến đổi cục diện của cuộc sống chúng ta. Chúng ta sẽ được đầy tràn niềm vui và do đó có thể thốt lên như Maria: „Tôi đã thấy Chúa”.
Lm. Phêrô Trần Minh Đức
-----------------------------
(Gio-an 20: 1-9)
Phục Sinh là khởi đầu cho cuộc Tạo dựng mới. Để giúp ta suy niệm ý nghĩa của biến cố vĩ đại này, Phụng vụ Lời Chúa thay đổi một chút về cách sắp xếp các bài đọc. Thay vì trích dẫn Cựu Ước như thường lệ, bài đọc I đã được thay thế bằng một đoạn trích sách Công vụ Tông Đồ, kể lại việc làm chứng cho Chúa Phục Sinh hoặc những bài giảng của các Tông Đồ về sự Phục Sinh. Bài đọc II trích các thánh thư và đặc biệt là thư I của thánh Phê-rô mời gọi ta sống trọn vẹn ơn gọi làm Ki-tô hữu. Các bài Tin Mừng của thánh Gio-an muốn nói lên mối quan hệ mật thiết giữa ta với Chúa Ki-tô Phục Sinh, khi kể lại những lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Nói tóm lại, các bài đọc giúp chúng ta hướng về một cuộc sống mới, khởi đầu bằng chính sự sống lại của Chúa Giê-su. Với cái nhìn tổng quát như vậy, ta dễ dàng thấy được ý nghĩa của Phục Sinh, biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử cứu rỗi.
a) “Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải chỗi dậy từ cõi chết”
Được bà Ma-ri-a Mác-đa-la đưa tin về ngôi mộ trống, ông Phê-rô và người môn đệ được Chúa yêu mến vội vã đi đến nơi để coi thực hư thế nào. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người phản ứng một cách. Bà Ma-ri-a thì hoảng hốt lo lắng cho thi thể của Chúa Giê-su; người môn đệ Chúa yêu mến thì quan sát và suy tư; còn ông Phê-rô thì “đi vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải ở đó.” Trong số những người ấy, người môn đệ Chúa yêu mến có lẽ là đặc biệt nhất. Ông không chỉ “thấy” mà thôi, nhưng ông còn đi xa hơn nữa, tức là: “Ông đã thấy và đã tin.” Từ niềm tin ấy, ông khám phá ra một chân lý vô cùng quan trọng và là chìa khóa mở ra một chân trời mới hay một cuộc tạo dựng mới. Chân lý đó là: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải chỗi dậy từ cõi chết.
Khẳng định chân lý trên thật rõ ràng và chắc chắn. Nó nói lên mức độ cần thiết tuyệt đối của sự Phục Sinh. Đức Giê-su phải chỗi dậy từ cõi chết. Có nghĩa là sự sống lại của Chúa Giê-su bắt buộc phải xảy ra, không có không được! Tại sao cần thiết như thế? Bởi vì sự Phục Sinh kết thúc sứ mệnh của Chúa Giê-su trên trần gian, đồng thời là khởi đầu cho toàn thể nhân loại bước vào một thời đại mới, thời đại sống trong Thần Khí của Chúa Ki-tô. Với cái nhìn của một thần học gia, thánh Phao-lô đã phát biểu về sự cần thiết tuyệt đối của Phục Sinh bằng những lời vô cùng mạnh mẽ: “Nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Ki-tô đã từ cõi chết chỗi dậy, thì sao trong anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không chỗi dậy. Mà nếu Đức Ki-tô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng rống rỗng” (1 Cr 15:12-14).
Kinh Thánh là mặc khải của Thiên Chúa Cha về kế hoạch cứu rỗi nhằm mục đích giúp con người đạt được sự sống đời đời. Kế hoạch ấy chỉ được thực hiện hoàn toàn khi Chúa Ki-tô sống lại để làm nguyên lý cho sự sống lại của nhân loại. Nói khác đi, Phục Sinh là đích tới duy nhất của kế hoạch cứu rỗi, không thể có một đáp số nào khác. Khi còn sống ở trần gian, Chúa Giê-su đã “theo Kinh Thánh” mà thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, chấp nhận cuộc Thương khó và cái chết. Người không theo kế hoạch của loài người, nhưng luôn luôn làm theo ý Chúa Cha (Mt 26:39-42). Thánh Phao-lô cho chúng ta một suy niệm rất cảm động về việc Chúa Giê-su đã sống “theo Kinh Thánh” qua đoạn thư gửi tín hữu Phi-líp-phê 2:6-9 mà Phụng vụ Lời Chúa lập đi lập lại trong ba ngày Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh. Giáo Hội lập đi lập lại như thế để khẳng định rằng: chính vì đã hạ mình, vâng lời Thiên Chúa và vui lòng chết cho nhân loại, nên “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” Thực vậy, Thiên Chúa đã siêu tôn Đức Ki-tô bằng cách cho Ngài được sống lại từ kẻ chết và lên ngự bên hữu Thiên Chúa.
b) Theo kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa, tôi cũng phải chỗi dậy từ cõi chết
Ở cuối đoạn thuật, thánh sử Gio-an viết: “Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.” Nghĩa là các ngài lại trở về với cuộc sống bình thường, nhưng không có nghĩa là vẫn sống với lối suy nghĩ và cư xử y như trước kia. Các ngài “đã thấy và đã tin.” Đức tin đã biến đổi cuộc sống của họ rồi. Họ bắt đầu một cuộc sống mới, sống trong Thần Khí của Chúa Giê-su.
Điều này giúp ta nhìn vào cuộc sống Ki-tô hữu của mình để dễ nhận ra sự sinh động của sự sống mới. Trước đây ta sống trong thần khí của tội lỗi, tức là thần khí của sự chết. Bây giờ được làm con cái Chúa qua Bí tích Rửa tội, ta sống trong Thần Khí của Chúa Ki-tô, tức là thần khí của sự sống. Qua kinh nghiệm sự sống thể xác, có lẽ ta phần nào cảm nhận được thế nào là sống trong một sinh thái trong sạch và thế nào là sống trong một sinh thái ô nhiễm. Sống bên cạnh những ống khói nhà máy ngày đêm nhả hơi độc, ta thấy nguy hiểm nên vội vàng dọn đi nơi khác ngay. Dọn đi như thế, ta đang âm thầm làm một cuộc sống lại! Cũng vậy, theo kế hoạch của Thiên Chúa, ta được sống trong sự sống mới của Chúa Giê-su, một “sinh thái” sẽ đưa ta đến sự sống đời đời. Nhưng “sinh thái tội lỗi” vẫn là một đe dọa không ngừng và có khi đã chặn đứng mối quan hệ giữa ta với Chúa. Đó là lúc ta cần phải chỗi dậy từ cõi chết, phải trở về nhà Cha để được phục hồi quyền làm con. Chết đi và sống lại cứ diễn đi diễn lại trong hành trình đức tin của ta. Mỗi lần sống lại, sự sống thiêng liêng của ta phong phú hơn, chứa đựng nhiều sự sống của Chúa Giê-su hơn và biến đổi con người của ta nên giống với Người hơn. Đến lúc nào đó, khi ta đạt tới tầm vóc sung mãn trong Chúa Ki-tô, đó là lúc ta được cứu rỗi và chỉ còn chờ ngày cả thân xác ta cũng được sống lại để được chia sẻ vinh phúc với Người.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thánh Phao-lô khẳng định: Nếu Chúa Ki-tô không sống lại thì đức tin của ta chẳng có nghĩa gì. Hay nói khác đi, khi tôi thực sự sống đức tin là tôi làm cho sự Phục Sinh của Chúa càng có ý nghĩa hơn. Vậy tôi đã làm cho sự Phục Sinh trở nên ý nghĩa hay trở nên vô nghĩa?
Ngôi mộ trống và khăn liệm không phải là bằng chứng cho sự Phục Sinh, nhưng là dấu chỉ. Vậy trong cuộc sống hằng ngày của tôi, đâu là những ngôi mộ trống và khăn liệm để nói cho người khác biết Chúa Ki-tô đã sống lại?
Nói đến Phục Sinh là nói đến một sự sống mới, sống trong Thần Khí Chúa Ki-tô. Tôi sẽ lắng nghe Lời Chúa trong mùa Phục Sinh như thế nào để tìm thấy được những điểm chính của đời sống trong Thánh Thần? Tôi sẽ làm gì để thực hiện cuộc sống mới ấy?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại,
xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày
để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của thập giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình
và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay,
không gì có thể làm cho chúng con
khổ đau và khóc lóc
chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha,
là hy vọng hạnh phúc bất diệt,
là ngọn lửa tình yêu nồng nàn;
xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. A-men.”
- Mẹ Têrêxa Calcutta
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 84)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
25-3-2005
-----------------------------
(31-03-2002)
NGHE
* Bài đọc 1: Cv 10,34a.37-43: Ông Phê-rô giảng tại nhà ông Cô-nê-li-ô.
(34a) Bấy giờ tại nhà ông Cô-nê-li-ô ở Xê-da-rê, ông Phê-rô lên tiếng nói: (37) "Quý vị biết rõ biến cố đã xẩy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. (38) Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. (39) Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. (40) Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, (41) không phải trước mắt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. (42) Người truyền cho chúng tôi phải đi rao giảng cho dân và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kể sống và kẻ chết. (43) Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội."
* Bài đọc 2: Cl 3,1-4: Sống theo Niềm Tin Phục sinh.
(1) Anh em được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
(2) Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc về thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc về hạ giới.
(3) Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa.
(4) Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người , và cùng Người hưởng phúc vinh quang.
* Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9: Ngôi mộ trống.
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.
(2) Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
(3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn dệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết. Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.
NGẪM
* Câu hỏi gợi ý
1. Chứng tá của Phê-rô quan trọng như thế nào đối với Niềm Tin Phục sinh?
2. Sự Phục sinh của Đức Giê-su có ý nghĩa gì?
3. Làm chứng Chúa Ki-tô Phục sinh trong xã hội hôm nay bằng cách nào?
* Suy tư gợi ý
1.Tầm quan trọng của chứng tá của Phê-rô đối với Niềm Tin Phục sinh:
Dù có đọc hết các sách Tân Ước, chúng ta cũng không thể tìm ra một đoạn văn nào mô tả cách Đức Giê-su đã phục sinh từ cõi chết như thế nào. Thật vậy, các Phúc Âm đã tường thuật rất tỉ mỉ, chi tiết cuộc Thương Khó và Cái Chết thập giá của Đức Giê-su, nhưng chỉ nói rất ngắn gọn về sự Phục Sinh của Người. Tại sao vậy?
- Tại vì chẳng có ai chứng kiến tận mắt biến cố hay sự kiện ấy. Vậy niềm Tin Phục sinh dựa vào đâu? - Tin Mừng Gio-an kể lại câu chuyện ngôi mộ trống là một phần của sự kiện Đức Giê-su Phục sinh. Trong câu chuyện ấy vai trò của Phê-rô, tông đồ trưởng, được Gio-an chủ ý làm nổi bật bằng một chi tiết nhỏ là dù Gio-an tới mộ trước (trẻ, chạy nhanh hơn), nhưng đứng chờ để Phê-rô bước vào trong mộ trước. Còn sách tông đồ công vụ ghi lại bài giảng của Phê-rô ở Xê-da-rê tại nhà ông Cô-nê-liô. Bài giảng này có tầm quan trọng hết sức đặc biệt, vì đó là cơ sở vững chắc nhất của Niềm Tin Phục Sinh của Ki-tô giáo. Cũng Đức Giê-su đó, Đấng đã xuất thân từ Na-da-rét, được Thiên Chúa ban Thánh Thần và sứ mạng Rao giảng Nước Trời khắp các thôn xóm làng mạc, đã bị giới cầm quyền Do Thái giết hại bằng cực hình thập giá, nay được Thiên Chúa tôn vinh, phục sinh từ cõi chết. Sự kiện phục sinh thì không ai chứng kiến, nhưng Chúa Ki-tô phục sinh thì rất nhiều người -trong đó có Phê-rô và Gio-an- đã được diễm phúc thấy và gặp.
2. Sự Phục sinh của Đức Giê-su có nhiều ý nghĩa:
Phao-lô đã nói: Nếu Đức Giê-su không phục sinh thì niềm Tin của chúng ta chẳng có giá trị gì! Thật vậy, nếu Đức Giê-su không phục sinh thì cùng lắm, chúng ta chỉ có thể coi Người là một vị anh hùng, một vĩ nhân của loài người, chứ không phải là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ của chúng ta. Và như thế thì dù chúng ta có mến mộ Người đến đâu đi nữa, thân phận của chúng ta vẫn chẳng có gì thay đổi quyết liệt. Nhưng Đức Giê-su đã phục sinh có nghĩa là Người đã được Thiên Chúa tôn vinh là Đức Ki-tô, tức Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong làm Sứ Gỉa được cử đến với loài người và làm Cứu Chúa của nhân loại. Những lời Người nói, những việc Người làm, những cực hình Người đã chịu là những lời nói, hành động, cực hình có gía trị cứu độ vô biên. Những mặc khải của Người về Thiên Chúa, về Vương quốc của Thiên Chúa, về phẩm gía cao quí của con người, về con đường đạt tới Sự Sống Thật là những mặc khải vô gía. Những chọn lựa của Người, những cách Người sống trở thành mẫu mực và tiêu chuẩn cho chúng ta noi theo.
3. Cách làm chứng Chúa Ki-tô Phục sinh trong xã hội hôm nay:
Để giúp chúng ta làm chứng Chúa Ki-tô Phục sinh, Phao-lô đã vạch ra cho chúng ta một định hướng: "tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, hướng lòng trí về những gì thuộc về thượng giới" Thượng giới được hiểu là thế giới của Thiên Chúa và của Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế thượng giới được hiểu cách cụ thể là những gía trị của Tin Mừng, mà bài giảng trên núi đã nêu lên, nhất là Hiến Chương Bát Phúc. Nói một cách đơn sơ, dễ hiểu hơn là chúng ta tìm cách sống giống như Chúa Giê-su đã sống, có những lời nói và hành động cứu độ như Người. Chúa Giê-su đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, thì chúng ta sống ở đâu, cũng phải đem niềm vui, hạnh phúc, bình an, công lý và thịnh vượng (cả nghĩa vật chất, tinh thần và tâm linh) cho nơi đó. Giữa một xã hội nặng cơm áo gạo tiền, trọng đô la hơn những gía trị đạo đức truyền thống của dân tộc, giành giật nhau như những kẻ khùng điên để làm giầu và có chức quyền, thì chúng ta càng phải sống như Chúa Giê-su đã sống! Giữa một xã hội mà những người bệnh hoạn, tật nguyền, thiểu số, kém may mắn, phụ nữ, trẻ em và giới trẻ .. là những người dễ trở thành nạn nhân của guồng máy xã hội, thì chúng ta càng phải ưu tiên chọn lựa đứng về phía người nghèo, người cô thế cô thân, người bị lãnh quên và gạt bỏ, để chia sẻ thân phận hẩm hiu của họ, để bênh vực quyền lợi của họ, để thăng tiến phẩm gía làm người và làm con Chúa của họ.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã làm cho Đức Giê-su, Con yêu dấu của Cha, phục sinh từ cõi chết. Xin Cha ban cho chúng con lòng tin vững vàng vào Người và giúp chúng con biết cách tuyên xưng Niềm Tin ấy trong môi trường xã hội Việt Nam của chúng con hôm nay!
Lạy Đức Giê-su là Đấng đã được Cha phục sinh từ cõi chết. Xin Chúa đổ tràn Ơn Phục Sinh vào lòng chúng con, hầu củng cố lòng tin của chúng con và giúp chúng con biết sống như Chúa đã sống, để chúng con trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh giữa dòng đời hôm nay.
Lạy Thánh Thần là Thần Khí và Sức Mạnh của Thiên Chúa, là Đấng đã làm cho Đức Giê-su phục sinh từ cõi chết và đã củng cố lòng tin của các Tông đồ và các tín hữu đầu tiên, biến họ thành những chứng nhân kiên cường của Đấng Phục Sinh, xin Chúa ban Ơn sức mạnh và dũng cảm cho chúng con, để chúng con làm chứng cho Chúa Ki-tô Phục Sinh trên mảnh đất hình chữ S thân yêu và trong thế kỷ XXI này.
Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội.
-----------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Cô-lô-xê 3: 1-4
Trong phần trước (1:15-2:5), thánh Phaolô đã trình bày phần giáo thuyết, làm nổi bật vai trò của Chúa Ki-tô trong tương quan với Chúa Cha, với công trình sáng tạo và với công trình tái tạo hoặc cứu chuộc. Ngài cũng không quên dặn dò tín hữu Cô-lô-xê phải sống xứng đáng lời tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa. Họ đừng để bị lung lạc theo thuyết sùng kính "các quyền lực vũ trụ", nhưng nếu "đã nhận Đức Ki-tô Giê-su là Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người" (2:7).
a) Nếu "đã nhận Đức Ki-tô Giê-su là Chúa."
Thế nào là "đã nhận Đức Ki-tô Giê-su là Chúa"? Chắc chắn thánh Phao-lô muốn ám chỉ tới việc lãnh nhận bí tích Rửa tội và tuyên xưng đức tin vào Đức Ki-tô. Có lẽ chúng ta nên nhớ lại cách thức các dự tòng thời các Tông đồ được lãnh nhận bí tích Rửa tội như thế nào, để hiểu được những hình ảnh thánh Phao-lô nói đến như "được mai táng với Đức Ki-tô", "được chỗi dậy với Người". Để rửa tội, người ta dìm các dự tòng xuống nước. Được dìm xuống nước, Ki-tô hữu tân tòng cũng giống như cùng chết và được mai táng với Đức Ki-tô, để chôn vùi đi mọi ước muốn và quyến luyến trần gian. Rồi được đưa lên khỏi nước tượng trưng cho việc họ được sống con người mới, kết hiệp với Chúa Ki-tô Phục Sinh là Đầu nhiệm thể. Muốn lãnh nhận bí tích Rửa tội, họ phải tin vào Đức Ki-tô phục sinh là Thủ Lãnh tối cao và quyền năng cứu độ của Người. "Đức Ki-tô Giê-su là Chúa" là nền tảng của giáo lý Ki-tô giáo. Theo giáo lý ấy, nơi Đức Ki-tô thể hiện sự viên mãn, hoàn toàn là Thiên Chúa và hoàn toàn là con người (1:19). Người "xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta" và "truất phế các quyền lực thần thiêng" (2:14-15). Giáo lý này được truyền lại chứ không phải do trí sáng tạo loài người. Giáo lý mặc khải về Chúa Ki-tô và sứ mệnh cứu thế của Người là giáo lý các Tông đồ đã lãnh nhận trực tiếp từ nơi chính Đức Ki-tô, và các tín hữu lãnh nhận lại từ nơi các Tông đồ.
Tuy nhiên, lãnh nhận giáo lý về mầu nhiệm Chúa Ki-tô không phải là lãnh nhận một cách thụ động, nhưng là bước đầu cho một cuộc sống mới, sống kết hợp với Người, sau khi "đã được chỗi dậy cùng với Chúa Ki-tô" (3:1).
b) Hãy tiếp tục sống kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh.
Trước hết thánh Phao-lô dùng một hình ảnh sống động để mô tả sự kết hợp ấy, đó là "gắn chặt với Đức Ki-tô là Đầu; chính Người làm cho toàn thân được nuôi dưỡng, được kết cấu chặt chẽ nhờ mọi thứ gân mạch và dây chằng, và được lớn lên nhờ sức Thiên Chúa ban" (2:19).
Vậy làm thế nào để sống kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh? Đó là tất cả nội dung của bài đọc Tân Ước hôm nay. Thánh Phao-lô đề ra một số điểm thực tế. 1/ Đức Ki-tô phục sinh thuộc thượng giới, hoặc nơi Người "đang ngự bên hữu Thiên Chúa". Ý thức Đức Ki-tô phục sinh đang ở đâu, nên nếu muốn kết hợp với Người, chúng ta cần phải "tìm kiếm và hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới" 2/ Ý thức sự sống mới của chúng ta hiện đang ẩn giấu với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Bí tích Rửa tội đã giúp Ki-tô hữu đoạn tuyệt với sự sống cũ tội lỗi và đem lại cho họ một đời sống mới (x. Ep 4:17-24). Đời sống mới này "tiềm tàng với Đức Ki-tô", nghĩa là tuy giác quan không cảm nhận được nó, nhưng nó có thực, bởi vì từ nay Đức Ki-tô là nguồn sống của người Ki-tô hữu. Bề ngoài, người Ki-tô hữu và người không phải Ki-tô hữu chẳng có gì là khác biệt. Nhưng đời sống nội tâm của Ki-tô hữu đích thực là đời sống được uốn nắn do Đức Ki-tô và "được lớn lên nhờ sức Thiên Chúa ban". Do đó, đời sống của người Ki-tô hữu ở đời này là một đời sống ẩn giấu nhưng được tăng triển "tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô" (Ep 4:13), chờ ngày biểu lộ trong vinh quang.
Sử dụng đoạn thư Cl 3:1-4 cho Chúa Nhật Phục Sinh, Phụng vụ Lời Chúa muốn nêu lên một nguyên lý vô cùng quan trọng để Ki-tô hữu sống đời sống mới, đó là sống kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh. Cuộc sống mới của Ki-tô hữu phải là chính Đức Ki-tô sống trong họ. Một đàng họ phải "giết chết những gì thuộc hạ giới" (3:5-9). Đàng khác, họ phải hướng về Đức Ki-tô là nguồn sống của họ và sống như "những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương" (3:12-15). Tóm lại, đời sống kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh được cô đọng trong lời khuyên "Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha" (3:17).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Bài đọc Tân Ước hôm nay tuy ngắn gọn nhưng hết sức quan trọng. Tại sao sống kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh lại là nguyên lý cho đời sống mới của tôi?
Con người cũ và con người mới là hai trạng thái tôi luôn gặp đi gặp lại trong đời sống thiêng liêng của mình. Nhưng tôi đã đối diện với hai hình ảnh đó như thế nào? Tôi có để tâm giết đi những gì thuộc con người cũ và cố gắng mặc lấy con người mới của Đức Ki-tô phục sinh không? Tôi đã làm gì để thực hiện quyết tâm đó?
Tôi có hướng về Đức Ki-tô phục sinh như niềm hy vọng chắc chắn cho đời sống mới ẩn giấu của tôi và tin chắc sẽ được vinh hiển với Người không? Nếu có, điều này ảnh hưởng tới thái độ lạc quan và đầy tràn hy vọng của tôi thế nào?
Đọc lại đoạn Cl 1:15-20, tôi biết được gì thêm về Đức Ki-tô? Đoạn tuyên xưng đức tin này mời gọi tôi làm gì?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc trong tâm tình cầu nguyện đoạn Thánh ca Cô-lô-xê 1:15-20.
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
-----------------------------
Những thượng tế, kinh sư, biệt phái và dân chúng muốn án tử hình cho Chúa Yêsu, vì họ tin đó là cách bảo vệ tinh tuyền đức tin của đạo Do Thái. Nhưng trong chính đạo Do Thái coi việc giết người là trọng tội (x. Xh 20, 14), chứ không có điều luật nào rõ ràng truyền phải giết người để bảo vệ đức tin. Như vậy cái gì chi phối việc đeo đuổi giết Chúa? Tự thân giết người là một điều ác, không có bất cứ cái gì có thể biện minh hay che đậy được tội ác này.
Nghe mà sợ ! Cái ác lớn đến thế sao? Xưa nay người ta thường bảo thay đổi để tốt hơn, còn bây giờ chúng ta đối diện với sự ngược lại, thay đổi để cái ác được thực hiện.
“Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Yêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: ‘Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!’ Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau” (Mc 14, 55-59). Họ không tìm được lý do để kết án tử Chúa, vì thật ra đến lúc này, các kỳ mục Do Thái muốn loại Chúa Yêsu như loại trừ một “hậu loạn” cho cả tư lợi và công ích, có vẻ tư lợi hơi bị lớn hơn, theo kiểu Caipha nói: “Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11, 49b-50).
Cái ác xuất hiện khi quyền lợi cá nhân, lợi ích nhóm bị xâm hại. Cái ác trở nên tàn bạo hơn khi sự độc quyền trên dân đang bị chia ra cho người khác.
Nếu không có chứng cứ vững vàng, mà họ lại lên án chết cho Chúa Yêsu thì dân sẽ nổi loạn. Chúng ta biết hoàn cảnh Do Thái thời ấy đang bị chi phối bởi ba quyền lực, và ba thế lực này tự thân đang tìm cách loại trừ nhau. Vua Hêrôđê, tuy là vua bù nhìn, nhưng cách nào đó cũng là vua Do Thái theo nghĩa kế thừa dòng dõi tổ tiên từ Davit và các triều vua trước. Philatô là người đại diện cao nhất của hoàng đế La Mã tại vùng thuộc địa Palestine này, ông này có thực quyền nhất. Và Thượng hội đồng Do Thái bao gồm các tư tế, kinh sư và biệt phái. Quyền lực thứ ba này tuy có vẻ thuần túy tôn giáo, nhưng lại là quyền lực quan trọng nhất, vì nắm được dân, bởi tất cả dân Do Thái đều thuộc Do Thái giáo.
Từ khi xuất hiện Chúa Yêsu thì dân chúng bắt đầu đặt lại cách lãnh đạo dân Chúa của thế lực thứ ba này, nên chính họ ý thức rất rõ, nếu không loại trừ được Chúa Yêsu thì có nghĩa là họ tự loại trừ họ. Chỉ cần một lý do để kết án Chúa Yêsu không làm thỏa mãn lòng dân, xem như họ thất bại hoàn toàn, vì đã có nhiều người tin vào Chúa Yêsu, mặc dù niềm tin của họ chỉ mới dừng lại ở mức độ, Ngài là một Mêssia sẽ giải phóng dân tộc mà thôi. Chính vì thế, vị thượng tế phải dùng đến một câu hỏi vừa mang tính gài bẫy vừa phải ép lòng để tra vấn Chúa Yêsu: “Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” Đức Yêsu trả lời: “Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến” (Mc 14, 61b-62). Câu trả lời của Chúa Yêsu đã là bằng chứng đủ thuyết phục dân chúng giết Chúa Yêsu. “Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa” (Ga 19, 7).
Thời ấy, người Do Thái đang bị đô hộ, tự người Do Thái không được quyền lên án tử cho ai cả (x. Ga 18, 31b), nên họ phải nhờ bàn tay của Philatô. Philatô là người La Mã, thờ rất nhiều thần, nên tội liên quan đến thần linh chỉ là tội nhẹ, chỉ đáng đánh đòn rồi thả về thôi. Do đó các thượng tế phải tố cáo Chúa Yêsu trước mặt quan tổng trấn về một tội khác. Tội nổi loạn, xúi dục dân nổi loạn và xưng mình là vua (x. Lc 23, 2.5; Ga 18, 30). Với tội này, vì trung thành với hoàng đế La Mã, buộc quan tổng trấn phải xử tử Chúa Yêsu.
Vì để giết cho được Chúa Yêsu, thượng hội đồng Do Thái đã đưa ra lý do là bảo vệ đức tin của cha ông từ ngàn xưa rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Thiên Chúa của Abraham, Isaak và Yacob để được dân chúng ủng hộ, rồi sau đó, để án chết được thực hiện cho Chúa Yêsu, cũng thượng hội đồng ấy đã tố cáo Chúa Yêsu về tội âm mưu lật đổ chính quyền. Sau cùng các ông lấy áp lực của đám đông để buộc Philatô ra tay giết Chúa.
Khi đã quyết như thế, các thượng tế và dân chúng chấp nhận chọn sự dữ hơn thay cho chọn sự lành hơn. Khi nghe Philatô bảo sẽ tha cho một người nhân dịp lễ vượt qua, thì họ xin tha cho Baraba, một tên cướp, và xin đóng đinh Chúa Yêsu (x. Ga 18, 39-40).
Tồi tệ hơn nữa, nhằm đạt được mục tiêu ác ôn của mình, những người đã nhân danh bảo vệ đức tin đã phản bội lại đức tin của mình để cái ác được thực hiện.
Khi thấy Philatô muốn tha chết cho Chúa Yêsu, họ liền bảo: “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xêda. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xêda” (Ga 19, 12), buộc Philatô phải ra lệnh giết Chúa Yêsu. Họ đã khơi lên ham muốn địa vị nơi con người Philatô và khống chế Philatô bằng ham muốn lệch lạc đó. Để thể hiện quyết tâm của mình, các thượng tế và dân chúng còn khẳng định với quan tổng trấn Philatô rằng: “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêda” (Ga 19, 15). Đây là một lời nói dối trắng trợn, vì ở đất Palestine như đã nói, vua Hêrôđê, theo luật Do Thái và cũng được La Mã công nhận, là vua người Do Thái. Đây là một hành vi phạm tội, vì nhận một ông vua ngoại bang là vua của mình. Người Do Thái chỉ cần bước vào nhà dân ngoại thôi thì đã bị nhiễm uế, nếu không có lễ thanh tẩy trước thì không thể được dự lễ Vượt Qua (x. Ga 18, 28c). Đây là một hành vi chối Chúa công khai và tập thể, vì đối với người Do Thái, khi nói đến vị vua duy nhất thì Vị Vua đó phải là Thiên Chúa – YHWH – và chỉ mình Người mà thôi (x. 1Sm 8, 7). Đó là chưa nói đến luật của La Mã luôn coi các hoàng đế là thần linh. Nhìn nhận là Xêda là vua duy nhất cũng như thể nhận Xêda là Chúa duy nhất vậy.
Để đeo đuổi cái ác như mục tiêu, con người đã đánh đổi tất cả, từ địa vị làm con, dân riêng của Thiên Chúa thành những kẻ say máu người. Từ những người bảo vệ niềm tin tinh tuyền thành những kẻ phản bội và chối bỏ niềm tin. Con người tôn thờ cái ác và nương tựa vào sức mạnh của cái ác.
Nhưng kết quả người ta mong đợi sau khi đeo đuổi cái ác bằng được là gì?
Hình như những người đã đi đến cùng cái chết của Chúa Yêsu cũng không ý thức rõ mình làm việc đó để làm gì, mà lại phải trả giá quá đắt như vậy. 2000 năm rồi mà vẫn còn những người muốn tiếp tục theo cái ác tiêu diệt những “Yêsu khác” trong nhân loại này.
AN THANH, CSsR
-----------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 20:1-9)
Cách đây ít tháng, những tên đạo tặc vô lương tâm đã đào một số mộ của những quan chức nhà Thanh bên Trung Hoa để kiếm vàng bạc. Điều ghê tởm nhất, đó là chúng vất mấy xác ướp nằm chỏng chơ trên mặt đất. Hình ảnh ngôi mộ bị phá, xác ướp vẫn còn hình tượng… đã là dấu vết nói lên sự hữu hạn của thời gian và con người. Hai ngàn năm trước đây cũng có một ngôi mộ với tảng đá lấp cửa đã bị lăn ra khỏi mộ, xác trong mộ không còn, nhưng lại là chứng từ nói lên sự sống lại và sự sống vĩnh cửu. Đó chính là ngôi mộ của Chúa Giê-su Phục Sinh.
Bình thường ngôi mộ không có gì là quan trọng. Tại Do-thái thời Chúa Giê-su, nó chỉ là một hốc đá được đục vào vách đồi núi để làm chỗ an nghỉ của người quá cố. Nhưng quan trọng là người được lưu giữ ở trong đó. Cũng may ngôi mộ Chúa Giê-su là ngôi mộ của một người bạn là ông Giô-xép A-ri-ma-thê. Ông chuẩn bị cho ngày chết của mình, nhưng lại được diễm phúc nhường lại cho Chúa. Chính ông cũng không ngờ mình lại được đóng góp vào kế hoạch của Thiên Chúa một cách đáng kể như vậy. Ngôi mộ đáng lẽ của một con người bình thường nay trở thành ngôi mộ của Thiên Chúa làm người!
Tại ngôi mộ này, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và có lẽ một vài người khác nữa đã đến vào sáng sớm để thương khóc Chúa. Vừa tới nơi và khi còn ở bên ngoài, bà “thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”, liền kết luận ngay là “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”. Có lẽ bà không hề nghĩ là Chúa đã sống lại. Tiếp đến, ông Phê-rô và môn đệ được Chúa thương mến sau khi nghe bà Ma-ri-a Mác-đa-la kể lại cũng đã hối hả chạy đến mộ. Vào bên trong, hai ông nhìn thấy những vết tích người quá cố để lại, như “băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su”. Lại thêm một chi tiết rất quan trọng, là “Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi”. Chắc chắn Chúa Phục Sinh đã sắp lại thứ tự như vậy đó! Có thể chính nhờ chi tiết này mà “người môn đệ Đức Giê-su thương mến” đã khám phá được chân lý Chúa sống lại rồi. “Ông đã thấy và đã tin”. Ngôi mộ trống trở nên quan trọng vì nó không còn lưu giữ thân xác Chúa, nhưng giữ lại những dấu tích nói lên sự kiện Chúa đã sống lại từ kẻ chết. Những gì ông Gio-an thấy đã giúp ông nhớ và “hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hơn một tháng trước đây, chúng tôi và một nhóm mười người trong chuyến hành hương đã được ân huệ dâng lễ hai lần trên chính ngôi mộ này, lần thứ nhất 6g sáng và lần thứ hai 5g sáng! Chui qua một lỗ cửa vừa lọt cho một người, chúng tôi phải đứng sát nhau mới đủ chỗ. Trong Thánh lễ tuy chỉ được phép cử hành trong vòng nửa tiếng đồng hồ, ai cũng cảm động sụt sùi, hết lòng cảm tạ Chúa. Trong đời, chúng tôi chẳng dám mơ ước có cơ hội hiếm quý như thế này. Không thể tưởng tượng nơi đây chứa đựng nền tảng của đức tin Ki-tô giáo! Tin Mừng Gio-an khẳng định: “Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”. Thánh Phao-lô đã lý giải về việc “phải trỗi dậy” này trong chương 15 thư 1 Cô-rin-tô. Ngài đã đề cao tầm quan trọng của sự kiện Chúa Ki-tô phải trỗi dậy từ cõi chết bằng một quả quyết đanh thép: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (15:14).
Sự sống lại của Chúa Giê-su không chỉ quan trọng vì là một sự kiện, nhưng là nền tảng cho hy vọng đích thực của chúng ta: sự sống lại. Sự Phục Sinh của Chúa làm cho “chúng ta sẽ được biến đổi”, để “cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử” (15:52,53).
Nhưng đâu là phương thức để chúng ta tiếp tục sống Mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Ki-tô? Thánh Phao-lô trả lời: “Bởi vậy, anh em hãy kiên tâm bền chí và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh em sẽ không trở nên vô ích” (15:58). Vậy thế nào là “tham gia vào công việc của Chúa”? Chúng ta hãy suy nghĩ và tự trả lời.
Lm. Đaminh Trần đình Nhi
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
"Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết". (Ga 20, 9)
Chúng ta đã theo Chúa Giêsu đi vào tuần thương khó mà đỉnh cao là chứng kiến chính Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Hôm nay chúng ta hoan hỉ mừng biến cố Chúa Giêsu phục sinh.
Hoà cùng với niềm vui cùng đất trời, chúng ta sẽ được dẫn vào một luồng sáng mới. Luồng sáng này sẽ dẫn chúng ta ra khỏi tăm tối, đau khổ, chết chóc và chúng ta sẽ không còn đi trong bóng tối nữa vì ánh sáng đã đẩy lùi bóng tối sự chết qua một bên, giờ đây chỉ còn lại ánh sáng đem lại sự sống đó là Chúa Kitô, Ngài đã sống lại để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Bài phúc âm hôm nay (Ga 20, 1 - 9), Thánh Gioan đã mô tả hành trình đức tin của ba nhân vật: Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan. Cả ba nhân vật trong phúc âm đều có hành động là "chạy". Trước tiên là bà Maria Mađalêna, bà là người đầu tiên "chạy" ra mồ và đã khám phá ra ngôi mộ trống. Khi thấy ngôi mộ trống, bà không hiểu ai đã "lấy cắp" xác Chúa cho nên bà liền "chạy" về báo tin cho hai môn đệ Phêrô và Gioan. Tiếp sau đó, hai ông cũng "chạy" ra mồ và đã thấy sự việc như lời của bà Maria vừa thuật lại. Vậy, họ "chạy" để tìm cái gì? Mục đích của họ "chạy" là để tìm Chúa. Đây là cuộc hành trình của Đức tin mà Chúa đã sắp đặt những dấu chỉ để giúp họ tìm. Những dấu chỉ mà trong Tin Mừng nhắc đến là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm được xếp gọn... Qua đó cũng cho chúng ta thấy được lòng tin của họ, khi hai môn đệ "chạy" ra mồ và đã tới thì chỉ có một môn đệ tuy đến sau nhưng ông đã thấy và đã tin như trong Tin Mừng có nói "Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết"(Ga 20, 9). Thực ra, Chúa Giêsu đã nói nhiều lần trong kinh thánh là việc Chúa chịu chết và sống lại nhưng các ông vẫn chưa hiểu. Và hôm nay, Thánh Gioan đã hiểu Lời Chúa đã tiên báo: Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa, cũng có nghĩa là Chúa chịu chết trên thập giá, đã chịu mai táng trong mồ và Ngài đã sống lại.
Đối với mỗi người chúng ta, chúng ta biết rằng trong cuộc sống đời thường của mình không phải duy nhất sẽ vật chất, thể xác mà còn nhắc nhở cho chúng ta sự sống Lời Chúa là sự sống về phần linh hồn. Như Chúa Giêsu đã nói "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích lợi gì" (Mc 8, 36). Có thể, trong cuộc sống nhiều lúc mọi sự xung quanh chúng ta đều chìm trong bóng tối nhưng chỉ có một tia sáng hy vọng lóe lên thì chúng ta phải làm gì? Chắc hẳn là sẽ có người nhanh chân "chạy" đến tia sáng đó, nhưng cũng có nhiều người không "chạy" tới mà chỉ biết đứng đó mà than khóc vì họ không tin, không yêu thương và không hy vọng vào ánh sáng đó sẽ cứu họ ra khỏi nơi tối tăm. Chúng ta nhớ rằng, trong cuộc sống của mỗi người không hẳn chỉ có bóng tối hoàn toàn mà vẫn còn một tia sáng đó là tia sáng của đức tin, của hy vọng và của yêu thương. Vì thế, chúng ta cần phải đặt niềm tin, niềm trông cậy, lòng mến vào Chúa để được Chúa dẫn vào ánh sáng của sự sống. Đối với tôi, cuộc sống của tôi nhiều lúc cũng gặp khó khăn, thử thách làm cho mình luôn đi trong tăm tối không còn biết tin tưởng, hy vọng vào ai và cuộc sống của tôi trở nên chán nản! Tôi nghĩ cuộc sống của tôi vẫn còn một tia sáng mà bấy lâu tôi không tìm ra, cho đến ngày hôm nay tôi đã tìm ra ánh sáng đó là Lời Chúa. Vì "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho tôi bước và ánh sáng chỉ đường cho tôi đi" (Tv 118, 105). Mỗi người chúng ta hãy tìm đến Lời Chúa để lời Chúa dẫn đường cho mỗi người. Vì thế chúng ta phải có niềm tin vào Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình, đó là Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa thông minh và chân thật. Chúng ta cũng cần đặt niềm hy vọng, cậy vào công nghiệp của Chúa, Chúa mời gọi từ khởi sự cho đến hoàn thành. Và chúng ta cũng phải có lòng yêu mến vì Thiên Chúa là tình yêu luôn làm cho chúng ta cảm nhận tình yêu đó là thập giá. Cuộc sống mới là cuộc xây dựng trong tình yêu của mình. "Yêu thương là tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả, hy vọng tất cả" (1Cr 13, 7).
Qua đoạn phúc âm này, chúng ta luôn ý thức tham dự thánh lễ cho sốt sắng, ý thức về giá trị Lời Chúa để Lời Chúa soi sáng cho chúng ta nhất là những ai còn ngủ mê trong tội lỗi hãy chỗi dậy để thấy vinh quang Phục Sinh của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ, xin cho mỗi người chúng con biết đứng lên và trở về với Chúa sau mỗi lần vấp ngã để chúng con cũng được Phục Sinh với Chúa. Xin chiếu tỏa vinh quang của Chúa cho chúng con. Amen.
-----------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT PHỤC SINH, năm B
Mc 16, 1-8
Tin Mừng Phục Sinh được công bố một cách rõ ràng và mạnh mẽ, bởi vì đã có Thứ Sáu Thánh, thì cũng có Chúa Nhật Phục Sinh. Tin Mừng Phục Sinh là Chúa Giêsu đã sống lại, Ngài vẫn sống và đang hoạt động trong đời sống của nhân loại, trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Chúa đã sống lại thật rồi : Alléluia.Alléluia.Alléluia.
Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô đã viết thế này :” Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác.Việc kẻ chết sống lại cũng vậy : gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chổi dậy là thân thể có thần khí “ (1 Co 15,37.42-44 ).
Còn cũng trong đoạn 15 gửi tín hữu Côrintô 20-22,49, thánh Phaolô viết:” Nhưng không phải thế ! Đức Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại.Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống…Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến “.
Thánh Phaolô còn nhắc nhở chúng ta rằng: “ Không phải chỉ tới lúc chết chúng ta mới được thông phần Phục Sinh với Chúa Giêsu, nhưng ngay bây giờ giữa cuộc sống đời tạm này, chúng ta vẫn có thể thông phần với sự chết và sự sống lại của Ngài, miễn là chúng ta sẵn sàng mở rộng tâm hồn ra với Ngài để đón nhận Ngài và sống đời sống của Ngài như thánh Phaolô đã nói :” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “.
Vâng, Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết theo ý Chúa Cha, Ngài vô tội, nhưng Ngài đã gánh tội của nhân loại, của mỗi người để rồi quảng đại, hy sinh chết trên thập giá để cứu độ và giải thoát chúng ta khỏi mọi tội lỗi, yếu hèn. Cái chết của Ngài nói lên tất cả tâm tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta.
Ca nhập lễ ngày lễ Phục Sinh đã hát vang lên :” Chúa sống lại thật rồi. Ha-lé-lui-a. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền.Đến muôn đời muôn thuở. Ha-lé-lui-a “ Hoặc trong ca hiệp lễ chúng ta đọc thấy :” Đức Kitô đã chịu sát tế, làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vậy chúng ta hãy dùng bánh không men.Là lòng chân thật và tinh tuyền. Để ăn mừng đại lễ “ ( 1Co 5, 7-8 ).
Sứ điệp Phục Sinh luôn chứng minh Đức Giêsu đã sống lại và Tin Mừng Phục Sinh là Đức Giêsu Kitô luôn hoạt động trong thế giới và nơi tâm hồn mỗi con người. Mỗi lần chúng ta yêu thương nhau, yêu thương người khác là chúng ta đang tham dự vào quyền năng Phục Sinh của Chúa Giêsu. Mỗi lần chúng ta tin tưởng nhau dẫu chúng ta cảm thấy như bị lừa dối là chúng ta vẫn đang tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu. Mỗi lần chúng ta tiếp tục thắp sáng hy vọng, dẫu hy vọng có thể bị nhạt nhòa là chúng ta đang tiếp tục tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu.
Sứ điệp Phục Sinh là không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, không có gì tách khỏi khỏi sự chết vì chính Chúa đã vì yêu thương, gánh tội trần gian và chết cho trần gian, sống lại khải hoàn. Tin Mừng Phục Sinh là tất cả chúng ta được lôi kéo tới chân thập giá để lãnh nhận ơn cứu độ bởi vì chỉ nơi thập giá ơn cứu độ mới chứa chan nơi Người.
Lạy Cha từ ái, ngày hôm nay Đức Giêsu đã đánh bại thần chết, khai đường mở lối cho chúng con vào cuộc sống muôn đời. Nay, chúng con đang hoan hỷ mừng Người sống lại, xin Cha ban Thánh Thần làm cho chúng con trở nên người mới để sống một cuộc đời tràn ngập ánh sáng Đấng Phục Sinh. Amen. ( Lời nguyện nhập lễ, Chúa Nhật Phục Sinh.Thánh lễ chính ngày ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Điều gì chứng minh Chúa đã sống lại ?
2.Chúa Phục Sinh đã hiện ra với ai đầu tiên ?
3.Tại sao người phụ nữ lại được Chúa Phục Sinh giao nhiệm vụ loan báo sứ điệp Phục Sinh ?
4.Rabboni nghĩa là gì ?
5.Tại sao Chúa Giêsu lại đánh bại thần chết ?
-----------------------------
VỌNG PHỤC SINH, năm 2009
Mc 16, 1-8
ALLÉLUIA.VUI LÊN.
Đêm canh thức phục sinh
được sắp xếp như sau :
*Phần thứ nhất : Thắp Nến Phục Sinh
*Phần thứ hai : Phụng Vụ Lời Chúa
*Phần thứ ba : Phụng Vụ Thánh Tẩy
*Phần thứ tư :Phụng Vụ Thánh Thể
Sau những phút giây đau buồn.Sau những giờ hồi hộp,nín thinh vì biến cố Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang làm bàng hoàn biết bao nhiêu người. Sau những giờ thật thất vọng các môn đệ hầu như còn chưa ra khỏi cơn mơ và chưa hết hoàn hồn vì Thầy của họ bị giết một cách thật tất tưởi trên cây thập giá.Hội Thánh đi vào mầu nhiệm sự chết của Chúa Giêsu. Hội Thánh sau những giờ phút, sau những ngày im lặng để hiệp thông với nỗi khốn khổ của Chúa Giêsu, giờ đây, trong đêm Canh Thức Vựợt Qua, Hội Thánh tràn ngập niềm vui, đầy hân hoan, vui mừng. Chúa Giêsu bị chết trên trên thập giá, được tháo xuống khỏi cây thập giá, rồi xác Chúa được táng trong huyệt đá mới, nay đầu ngày thứ nhất trong tuần, Ngài đã sống lại thật và đã ra khỏi mồ như lời Ngài đã loan báo trước đây. Alléluia.
Alléluia.Alléluia. Đây là cốt lõi của Tin Mừng phục sinh, của đêm Canh thức. Đêm hôm nay ngay từ những năm đầu tiên, Hội Thánh đã cử hành biến cố Chúa phục sinh hết sức long trọng, đầy ý nghĩa, đầy ấn tượng. Đêm nay là đêm hồng phúc. Đêm chiến thắng tử thần. Chúa Giêsu đã đánh bại thần chết. Đêm nay, thánh Augustinô đã gọi là đêm mẹ của mọi canh thức thánh. Đêm nay, được ghi dấu bằng việc rửa tội cho các tân tòng. Chính những tân tòng là những người được tái sinh trong đêm canh thức Vượt Qua này. Họ được dìm vào cái chết của Chúa Giêsu và được sống lại với Ngài. Alléluia.
Đêm nay là đêm mẹ của mọi đêm như lời thánh Agustinô nói. Màn trời đen lung linh. Bầu khí nhà thờ im lặng.Mọi ngọn đèn trong nhà thờ được tắt hết. Tất cả như chìm trong đêm tối.Cây nến phục sinh được thắp sáng từ than hồng tượng trưng cho Chúa Giêsu sống lại. Cộng đoàn dân Chúa chú ý tới cây nến phục sinh được vị chủ tế và đoàn đồng tế rước từ cuối nhà thờ tới cung thánh, đến giá đặt nến được sắp xếp hết sức trang trọng nơi cung thánh với ba lần vị chủ tế xướng to :” Ánh sáng Chúa Kitô “, toàn thể cộng đoàn thưa :” Tạ ơn Chúa “. Cây nến được đặt trên giá đèn. Mọi cây nến con trong nhà thờ đều được thắp sáng từ cây nến phục sinh mẹ. Vị chủ tế xông hương cây nến phục sinh và bắt đầu công bố Tin Mừng phục sinh. Cây nến phục sinh tượng trưng cho Chúa Giêsu sống lại. Đây là cây nến cứu dộ. Cây nến và ngọn nến chiếu sáng mọi người. Ngọn nến cứu độ đem lại hạnh phúc và niềm vui cho mọi người. Sau đó là những bài Sách Thánh diễn tả lại lịch sử cứu độ của Chúa và đoạn Tin Mừng Mc 16, 1-8 nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vào ngày đầu ngày thứ nhất trong tuần. Chúa Giêsu đã toàn thắng sự chết, bước ra khỏi mồ trong vinh quang của Thiên Chúa Cha và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chúa đã sống lại và đang sống. Đó là lời loan báo của các người phụ nữ. Đó là tiếng kêu hạnh phúc và đầy tràn niềm vui của các môn đệ. Đó là cốt lõi việc rao giảng của các Ngài. Đó là Kérygma tiên khởi. Tin Mừng nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan đều tường thuật về biến cố phục sinh: ngôi mộ trống, những lần hiện ra, những chứng từ của những người phụ nữ, thái độ nghi ngờ bán tín bán nghi của các môn đệ. Nhưng tất cả đều tan biến dành cho niềm vui phục sinh, bởi các môn đệ đã nhất loạt tin vào sự sống lại của Thầy mình. Cuộc sống mới và niềm tin của các môn đệ, của các người phụ nữ đã lan ra nhiều người và nó tiếp tục được nhân lên mãi mãi…
Lạy Chúa phục sinh, xin giúp chúng con luôn hăng say loan báo Tin Mừng sống lại cho nhiều người và luôn can đảm lam chứng cho Chúa phục sinh. Alléluia. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-----------------------------
Ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa Phụng vụ Lời Chúa đêm Canh Thức Vượt Qua, tức Thứ Bảy Tuần Thánh, và Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật Phục Sinh. Các bài đọc Thứ Bảy Tuần Thánh dẫn ta đi qua lịch sử dân Chúa để đến với lịch sử cứu độ được thể hiện qua Chúa Ki-tô Phục Sinh. Còn các bài đọc Chúa Nhật Phục Sinh không chỉ nói đến biến cố Chúa sống lại, mà còn nhấn mạnh tới đức tin vào Chúa Phục Sinh. Các nhân vật trong ba bài đọc hôm nay đều là những người đi tìm đức tin vào Chúa Ki-tô. Vậy những người ấy nói với ta điều gì về hành trình đức tin của họ?
1. Ông Phê-rô và người môn đệ Chúa yêu trong hành trình tin vào Chúa Phục Sinh (bài Tin Mừng – Ga 20:1-9)
Đức tin của các Tông Đồ được nuôi dưỡng và phát triển từ khi họ bắt đầu theo làm môn đệ Chúa. Tuy nhiên thời điểm đặc biệt để đức tin của họ trưởng thành chính là sau khi Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết. Có tin là Chúa đã sống lại thì họ mới đủ tư cách để làm chứng cho Người, như ông Phê-rô đã nhận thức bổn phận ấy: “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Cv 10:40-41). Vậy ta hãy bước theo Phê-rô và người môn đệ Chúa yêu trên đoạn đường đi tới nơi mộ chôn táng Chúa Giê-su.
Đoạn đường khởi đầu từ thông tin của bà Ma-ri-a Mác-đa-la rằng xác Chúa đã bị người ta đem đi đâu không biết. Lập tức ông Phê-rô và người môn đệ Chúa yêu cùng chạy ra mộ để xem thực hư thế nào. Đến nơi quả thực họ không thấy xác Chúa, chỉ còn lại những vết tích liên hệ như băng vải ướp xác và khăn che đầu. Câu truyện không có gì khúc mắc và quá rõ ràng. Nhưng câu hỏi căn bản để dẫn tới đức tin là: Nếu xác Chúa không có ở đây thì điều gì đã xảy ra? Xác Chúa bị đánh cắp hay Người đã sống lại? Kinh Thánh đã cho họ câu trả lời. Người môn đệ Chúa yêu đã nhìn thấy vết tích của Phục Sinh trong mộ và ông đã nhớ lại và “hiểu rằng: theo Kinh Thánh Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”. Thường thì ta vẫn cho rằng người môn đệ Chúa yêu chính là ông Gio-an, nhưng nhiều học giả Kinh Thánh nghĩ “người môn đệ Chúa yêu” là hình ảnh biểu tượng cho bất cứ ai muốn làm môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô. Điều này giúp ta hiểu rằng để tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh, thì “người môn đệ Chúa yêu” cũng phải là “người môn đệ yêu Chúa”.
Đúng thế, chỉ có tình yêu đích thực mới giúp ta hoàn toàn trưởng thành trong đức tin vào Chúa. Tình yêu sẽ cho ta khả năng vượt qua điều ta thấy để nắm bắt được điều ta tin. “Ông đã thấy và đã tin”. Ngày xưa người môn đệ Chúa yêu đã thấy những vết tích trong mộ Chúa và ông đã tin Người sống lại. Ngày nay, trong cuộc đời Ki-tô hữu ta đã thấy nhiều vết tích liên hệ tới Chúa, nhưng liệu ta có tin những gì vết tích ấy nói lên không? Nếu ta không thực sự là người môn đệ yêu Chúa thì bất cứ vết tích lớn nhỏ nào cũng chẳng cho ta biết gì về Chúa đâu! Hơn nữa, có tin Chúa, ta mới có thể nói cho người khác về Người, giống như ông Phê-rô đã rao giảng về Chúa Ki-tô cho những anh chị em dân ngoại đầu tiên đón nhận Tin Mừng.
2. Ông Cô-nê-li-ô và gia đình được dẫn dắt tin vào Chúa Phục Sinh (bài đọc Tân Ước – Cv 10:34a.37-43)
Theo câu truyện kể trong sách Công vụ Tông Đồ, thánh Phê-rô là vị Tông Đồ tiên khởi rao giảng cho dân ngoại và ông Cô-nê-li-ô, viên đại đội trưởng Rô-ma cùng gia đình là những người dân ngoại đầu tiên đón nhận Tin Mừng Chúa Ki-tô. Trước khi lên đường rao giảng cho gia đình Cô-nê-li-ô, ông Phê-rô đã thấy trong thị kiến một cái khăn từ trời sa xuống, trong đó có các loài vật, kể cả những loài không thanh sạch mà người Do-thái không được phép ăn. Tiếng Chúa phán bảo ông hãy làm thịt mà ăn. Ông từ chối, thì Chúa phán: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch thì ngươi chớ gọi là ô uế”. Nghĩa là ông không được loại trừ những người dân ngoại đến với niềm tin Ki-tô. Còn ông Cô-nê-li-ô tuy là người ngoại bang, nhưng “là người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa, cũng như cả nhà ông; ông rộng tay bố thí cho dân và luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (xem Cv 10:1-23).
Là viên chức chính phủ Rô-ma, hẳn ông Cô-nê-li-ô không thể không biết gì về biến cố lớn mới xảy ra tại Giê-ru-sa-lem: ông Giê-su người Na-da-rét bị xử tử đóng đinh thập giá. Chung quanh sự kiện ấy, còn có tin đồn là ông ấy đã sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên ông Cô-nê-li-ô vẫn chưa thể vượt qua được bức tường biến cố lịch sử để tiến đến một biến cố đức tin. Bước “nhảy vọt” này cần phải có sự giúp đỡ của ân sủng ta mới có thể thực hiện được. Và đây, ân sủng của Chúa đến với ông qua sự giúp đỡ của Tông Đồ Phê-rô. Việc ông sống như “người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa” là bước đầu để đón nhận ân sủng Chúa. Ông Phê-rô đem ân sủng Chúa đến cho gia đình ông Cô-nê-li-ô bằng cách rao giảng về điều mà họ chỉ coi là một biến cố lịch sử. Cần phải đi từ Đức Giê-su lịch sử tiến đến Đức Giê-su của đức tin. Do đó, ông Phê-rô nói đến sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su trên trần gian và ngày cánh chung. Người được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, ra đi thi hành sứ vụ rao giảng và chữa lành, chết khổ nhục thập giá để đền tội nhân loại và đã sống lại để làm “thẩm phán của Thiên Chúa mà xét xử kẻ sống và kẻ chết”. Đặc biệt ông Phê-rô nhắc nhở Cô-nê-li-ô rằng:
“Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10:43). Đây chính là đức tin mà ông Phê-rô muốn nói cho Cô-nê-li-ô biết. Những gì ông Phê-rô rao giảng Tin Mừng về Chúa Giê-su cho gia đình Cô-nê-li-ô không phải đơn thuần là biến cố lịch sử, nhưng là biến cố cứu độ, một biến cố đòi hỏi người nghe phải đáp trả bằng mối quan hệ giữa họ với Người. Những nhân vật lịch sử chỉ nằm trong sách vở hay đầu óc, còn nhân vật của đức tin là Chúa Ki-tô thì phài ở trong đáy tâm hồn ta, trực tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống của ta. Kết quả của việc ông Phê-rô rao giảng Tin Mừng Phục Sinh và gia đình Cô-nê-li-ô mở lòng đón nhận Tin Mừng là mọi người trong nhà ông Cô-nê-li-ô được lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thánh Thần. “Ông Phê-rô nói rằng: ‘Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?’ Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô” (Cv10:47-48).
3. Từ tin vào Chúa Phục Sinh đến sống Mầu nhiệm Phục sinh (bài đọc Tân ước – Cl 3:1-4)
Sau khi nói về hai cuộc hành trình đức tin của ông Phê-rô và người môn đệ Chúa yêu cùng với ông Cô-nê-li-ô và gia đình, bài đọc thứ hai muốn nói tới hành trình đức tin của mỗi Ki-tô hữu, những người đã được phục sinh trong nước rửa tội. Thánh Phao-lô cho ta một phút suy niệm về đời sống mới do Bí tích Rửa tội đem lại. Trước hết ngài gọi Ki-tô hữu là những người “đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô”. Thực vậy, Chúa Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết là để cho ta được giải phóng khỏi ách tội lỗi mà sống đời sống mới trong Thánh Thần của Người, nghĩa là sống với căn tính mới của con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chúa sự sống. Nhưng khi ta phạm tội là ta đã tự cắt lìa khỏi sự sống và đi tới cõi chết đời đời. Nhờ cái chết, Chúa Ki-tô hòa giải ta với Thiên Chúa và phục hồi cho ta sự sống đã bị tội lỗi tước đoạt. Tội tổ tông đã làm con người mất khả năng hướng về Thiên Chúa. Giờ đây Chúa Ki-tô phục sinh đã phục hồi cho con người quyền đứng thẳng trước mặt Thiên Chúa và cho họ có thể nhìn lên để “tìm kiếm những gì thuộc thượng giới”. Chúa Ki-tô phục sinh mở cho ta con đường trở về với Đấng đã tạo dựng nên ta. Khi cho ta được làm con Thiên Chúa, Chúa Ki-tô đã tạo một đời sống mới và đưa ta vào cuộc hành trình cùng với Người tiến về nhà Cha.
Cuộc hành trình của ta mang ý nghĩa sống mầu nhiệm Phục Sinh, khởi đi từ cuộc sống trần gian, mắt luôn hướng về thượng giới vì đó là quê hương đích thực và vĩnh viễn của ta. Mà muốn đạt tới đích thì ta “đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Những gì thuộc hạ giới cho dù có sức quyến rũ mấy đi nữa, chúng vẫn là những của phù du chóng qua. Từ nhan sắc cho đến tiền tài, danh vọng, quyền lực, tất cả rồi cũng mất đi theo năm tháng. Còn những gì thuộc thượng giới, nhất là tình yêu, thì luôn luôn tồn tại cùng Thiên Chúa. Được sống đời đời trong tình yêu Thiên Chúa sẽ là đích tới của hành trình sống đời sống mới “hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa”. Như thế có nghĩa là đích tới của ta chắc chắn là điều có thực chứ không phải ảo tưởng hoặc nghi vấn. Bằng chứng của tính xác thực về sự sống đời đời là chính sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô. Do đó thánh Phao-lô dám quả quyết rằng: “Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng!” (1 Cr 15:14).
Thái độ của Ki-tô hữu trong hành trình sống mầu nhiệm Phục Sinh là phải nhắm đích tới ở thượng giới và đừng để cho những gì thuộc hạ giới lôi kéo họ xa rời mục đích cuộc đời mình. Làm sao giữ được quân bình giữa hai điều trên, vừa hướng về tương lai vĩnh cửu vừa chu toàn được những bổn phận của cuộc đời trần thế, quả là điều khó khăn. Tuy nhiên ta đã có vị Thầy là Đức Ki-tô và vị Hướng đạo là Thánh Thần Thiên Chúa, luôn giúp ta nếu ta biết sống cuộc sống “tiềm tàng nơi Đức Ki-tô”, nghĩa là cuộc sống được Ki-tô hóa, trở nên giống như Người.
4. Sống Lời Chúa
Mừng Chúa sống lại là dịp quan trọng để ta chiêm ngưỡng công cuộc cứu độ của Chúa Ki-tô. Tuy nhiên sự sống lại của Người còn mời gọi ta bước vào một cuộc hành trình đi tìm Chúa Phục Sinh và sống thân phận làm con Thiên Chúa mà Người đã phục hồi cho ta. Tấm gương của thánh Phê-rô và người môn đệ Chúa yêu cũng như gương của ông Cô-nê-li-ô giúp ta biết phải làm sao để vượt qua những hình thức mừng lễ Phục Sinh để đến với Chúa Ki-tô của đức tin, nhất là biết mở lòng để cho ân sủng Phục Sinh đổi mới ta và tiếp tục sống đời sống trong Thánh Thần.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô dạy ta hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới và đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Tôi có tìm kiếm Chúa và những điều tốt đẹp Người day dỗ cũng như muốn tôi thực hành không? Nếu tôi đang “chú tâm” vào những gì thuộc hạ giới, thì tôi có thể xét lại giá trị đích thực của chúng không? Làm sao tôi tránh được thái độ “chú tâm” này và giữ được đời sống quân bình giữa thiêng liêng và vật chất?
Cầu nguyện: Lạy Cha từ ái, ngày hôm nay, Đức Giê-su đã đánh bại thần chết, khai đường mở lối cho chúng con vào cuộc sống muôn đời. Nay chúng con đang hoan hỷ mừng Người sống lại, xin Cha ban Thánh Thần làm cho chúng con trở nên người mới để sống một cuộc đời tràn ngập ánh sáng của Đấng Phục Sinh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Cha, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đền muôn thuở muôn đời. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật Phục Sinh).
Lm. Đa minh trần Đình Nhi
Phục Sinh 2009
-----------------------------
Ga 20, 1-9
Chúa đã sống lại thật alléluia. Lời ca mà Giáo Hội cất vang lên ngày mừng Chúa phục sinh sẽ vang lên mãi trong cuộc đời. Chúa đã sống lại. Đây là một sự thực hiển nhiên mà những người có lòng tin ai ai cũng đều làm chứng. Đặc biệt các tông đồ là những người đã được mục kích việc sống lại của Chúa. Họ sẽ làm chứng cho Chúa…
CÁC TÔNG ĐỒ VÀ NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ LÀ NHÂN CHỨNG CHO CHÚA PHỤC SINH:
Bà Maria Mađalêna đã tới mồ Chúa khi trời còn tối theo thánh Gioan, còn hai thánh sử khác, thánh matthêu trời bắt đầu sáng( Mt 28, 1 ), thánh marcô:’ mặt trời hé mọc”( Mc 16, 2 ). Sự khác nhau về chi tiết ấy có dụng ý thần học. Matthêu và Marcô cho ta thấy sự vươn sáng của ánh sáng phục sinh. Với thánh Gioan, bóng tối còn bao trùm nhưng ánh sáng phục sinh quả thực đã gần tới. Maria Mađalêna đã là chứng nhân đầu tiên của Tin Mừng phục sinh. Gioan và Phêrô khi nghe tin báo của Maria Mađalêna đã vội vã ra đi…Các Ngài là những chứng nhân của niềm tin phục sinh. Đức tin phục sinh cho ta hay: Thiên Chúa mạc khải ý định của Thiên Chúa. Các tông đồ làm chứng vì kinh nghiệm mồ trống và các lần Chúa phục sinh hiện ra,các Ngài xác quyết rằng ý định của Thiên Chúa đã được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Kinh nghiệm mồ trống và những lần hiện ra của Chúa Giêsu sống lại chỉ được đức tin chứng nhận và kiện toàn trong sự thông hiểu ý định của Thiên Chúa mạc khải trong Kinh Thánh.Các tông đồ là những người đã sống với Chúa Giêsu trước khi Ngài chịu chết vì thế họ hiểu rõ con người của Chúa Giêsu và họ đã gặp thấy Ngài khi Ngài sống lại. Họ làm chứng, nghĩa là quả quyết điều họ đã sống và đã thấy. Chúa sống lại như thế nào họ không hiểu.Chúa hiện ra với một cách không như xưa, nghĩa là như lúcNgười còn sống. Tuy nhiên, họ quả quyết, xác nhận và làm chứng. Các tông đồ hoàn toàn không nói gì hết.Nhưng thực tế, trong thâm tâm các tông đồ và các người phụ nữ đã nhận ra Thầy của mình đã từ cõi chết sống lại.
Phải nhắc lại rằng Phêrô và Gioan đã thất vọng ngay từ chiều ngày thứ sáu khi Chúa chịu chết, chắc chắn còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng giờ đây họ đã bừng lên hy vọng . Ông thấy và ông tin. Gioan đã bừng hiểu Kinh Thánh Ông đã tới mồ và tất cả những gì đang bầy ra trước mặt ông, ông đã thấy và ông đã tin. Cả Phêrô đã tới và đã chứng kiến mồ trống của Chúa. Dù các ông và nhiều người khác còn đang ngái ngủ thì sự kiện từ sáng phục sinh kia, lúc trái đất rung chuyển, Chúa Giêsu con ông Giuse và bà Maria đã chỗi dậy khỏi mộ và tiến vào sự sống thật. Như thế, một lần nữa Chúa Giêsu quả quyết cho tất cả những ai có lòng tin: con đường dẫn tới hạnh phúc thật, con đường dẫn đến sự sống lại, không đi qua tội lỗi nhưng qua tình yêu, ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa và tha nhân. Thực tế, mồ trống không vẫn chưa đủ để minh chứng cho sự sống lại, nhưng đối với các tông đồ Kinh Thánh đã mạc khải để họ hiểu ra rằng Đức Giêsu Kitô phải trải qua sự chết mới tới vinh quang. Những lần hiện ra sau đó của Chúa Giêsu cũng cho thấy rằng Chúa đã chiến thắng tử thần và con người nhận ra sự thật: Chúa đã sống lại khải hoàn. Các tông đồ đã minh chứng chắc chắn sự kiện sống lại của Chúa Giêsu.
CHÚA PHỤC SINH NIỀM TIN CHO MỌI NGƯỜI:
Đối với người Kitô hữu sự sống lại của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa cao vời. Người Kitô hữu khi tin vào sự sống lại của Chúa họ có thái độ như các tông đồ. Nhờ vào ngôn ngữ, thái độ, cách sống của Chúa Giêsu, nhờ vào cách suy nghĩ riêng của các tông đồ, họ chứng thực rằng họ đã quen biết Chúa Giêsu trước khi Ngài chịu chết và họ đã gặp thấy Ngài đang sống. Tin mừng phục sinh cũng cho chúng ta hay rằng Chúa đã sống lại và Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Khi xưa các môn đệ đã tin vào Chúa sống lai. Những câu tuyên tín cổ xưa nhất cũng nói:”…theo lời Kinh Thánh”. Ngay Chúa Giêsu trên đường Emmaus cũng đã cắt nghĩa Kinh Thánh cho hai môn đệ khởi từ Môsê rồi qua các ngôn sứ, Chúa phục sinh dẫn giải cho các môn đệ các điều đã viết về Ngài trong toàn bộ Kinh Thánh( Lc 24, 27.32 ). Với Gioan dù chưa thấy Chúa phục sinh, nhưng ý định của Thiên Chúa đã tỏ lộ ra cho ông,lời chúc phúc và ân huệ nhưng không của Thiên Chúa đã thực hiện nơi Gioan rồi. Các tông đồ khác lần lượt cũng nhận ra Chúa phục sinh và tin vào Ngài, tin vào Kinh Thánh, tin vào sự sống vĩnh cửu của con người nhờ cái chết của Chúa.
Như vậy, sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu là một thực tại còn xác thực hơn một sự kiện lịch sử đã được kiểm chứng cách chắc chắn nhất. Chúa Giêsu đã hủy diệt tội lỗi cho dù sức mạnh của satan vẫn luôn hoành hành, luôn quấy phá. Chúa đã sống lại thực để minh chứng quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng ấy đã làm cho Chúa Giêsu từ trong sự chết sống lại. Quyền lực của bóng tối không thể nào vùi dập được ánh sáng của sự sống. Chúa đã sống lại đúng như lời Người đã phán trước:” phá đền thờ này, nội ba ngày ta sẽ xây dựng lại “. Lời của Chúa Giêsu đã thực hiện đúng như lời Thánh Kinh viết. Do đó, sự sống không tọa lạc nơi dương thế mau qua mà chính sự trung thành với thần khí, Đấng tác tạo con người mới của sự công chính là Thiên Chúa Cha. Như thế sự sống lại của Chúa Giêsu là bằng chứng hùng hồn cho sự sống vĩnh cửu mà Ngài ban tặng cho nhân loại qua thập giá của Ngài. Nào ta cùng hát vang:” Chúa đã sống lại rồi. Alléluia, Alléluia “.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-----------------------------
(Mác-cô 16: 1-7)
Biến cố Chúa Giê-su sống lại không thể được mô tả như một câu truyện lịch sử với những chi tiết chính xác, nhưng như một câu truyện đức tin chứng tỏ Tin Mừng Phục Sinh đã ảnh hưởng như thế nào trên các môn đệ Người. Tuy Chúa Giê-su không xuất hiện và trình thuật chú trọng vào ngôi mộ trống, nhưng sự hiện diện của Người đã được ám chỉ trong sứ điệp Phục Sinh, tức là các môn đệ sẽ được thấy Người tại Ga-li-lê. Tâm trạng của các phụ nữ đi viếng xác Chúa nơi mộ và ý nghĩa của sứ điệp Phục Sinh đã trở thành một đề tài hết sức phong phú để các môn đệ Chúa mọi thời mọi nơi suy nghĩ và đáp lại lời mời gọi rao giảng Tin Mừng.
a) “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?”
Lời nói trên của mấy phụ nữ đi thăm mộ đã cho thấy mối quan tâm thực tế của họ. Mộ của người Do-thái được đậy lại bằng một phiến đá tròn và lớn, phải ba hay bốn người đàn ông mới đủ sức di chuyển. Các bà biết rõ điều đó ngay trước khi đi, nhưng các bà vẫn cương quyết tới mộ. Động lực nào thúc đẩy họ muốn làm một việc sức họ không làm nổi? Đã có lần Chúa Giê-su giảng về sức mạnh của lòng tin: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia!’, nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17:20). Đúng vậy, chính lòng tin và lòng yêu mến đã giúp cho các bà không đo lường công việc bằng sức người, nhưng bằng sức mạnh của trái tim. Và giả như các bà không vần nổi phiến đá sang một bên, thì ít ra sự hiện diện thể xác của Chúa Giê-su trong mộ cũng trở nên nguồn tin và an ủi cho họ rồi.
Nhưng bên cạnh lòng tin mạnh mẽ ấy, thánh sử Mác-cô ghi lại cảm giác hoảng sợ của các bà. Trước hết các bà hoảng sợ vì không thấy xác Chúa, mà lại thấy một thanh niên mặc áo trắng ngồi trong mộ. Đầu tiên có thể các bà hoảng sợ vì nghĩ rằng xác Chúa đã bị người ta lấy đem đi đâu không biết. Sau đó các bà được người thanh niên mặc áo trắng báo cho biết là Chúa Giê-su đã sống lại. Nhưng các bà vẫn hoảng sợ, “chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía, chẳng nói gì với ai vì sợ quá”. Tin Mừng Phục Sinh đã biến đổi cả nỗi hoảng sợ của các phụ nữ, từ hoảng sợ do tình cảm con người chuyển sang thứ hoảng sợ của đức tin, thay vì đi tìm người chết thì các bà lại gặp người sống nơi cõi chết. Đức tin bao giờ cũng mang lại những thay đổi bất ngờ, đến độ ta không khi nào nghĩ lại có thể xảy ra như vậy. Làm sao có thể nghĩ người đã thực sự chết lại có thể sống lại? Nhất là người này khi còn sống đã tiên báo ngài sẽ sống lại ngày thứ ba. Do đó, thái độ hoảng sợ giờ đây là một góc cạnh của đức tin vào sự Phục Sinh.
b) “Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông”
Sứ điệp của người thanh niên mặc áo trắng có vẻ khó hiểu. Sứ điệp ấy có nghĩa gì khi nói Chúa Giê-su sẽ đến Ga-li-lê trước các môn đệ Người? Để hiểu ý nghĩa sứ điệp, ta nên biết về tầm quan trọng của Ga-li-lê. Đối với những người Do-thái khác, Ga-li-lê chỉ là một địa danh tầm thường. Nhưng đối với Chúa Giê-su và các môn đệ Người, Ga-li-lê là cái nôi truyền giáo, từ đó Tin Mừng được rao giảng và đem đến mọi nơi. Tại Ga-li-lê, Chúa đã gọi các môn đệ đầu tiên theo Người và lập mối quan hệ thân thiết với Người. Do đó, hẹn gặp lại các môn đệ tại Ga-li-lê là để trao ban sứ mệnh và tiếp nối công cuộc rao giảng Tin Mừng của Người. Tin Mừng Gio-an đã dành nguyên chương 21 để ghi lại cuộc gặp gỡ Thầy trò giữa Chúa Giê-su với các môn đệ Người. Tình Thầy trò được biểu lộ rất cảm động. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh được củng cố. Mọi người đều chuẩn bị ráo riết những ngày cuối cùng trước khi được lãnh nhận Thánh Thần để lên đường truyền giáo.
Sứ điệp còn nói rằng ở Ga-li-lê, các môn đệ “sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông”. Khi còn ở bên cạnh các ông, Chúa Giê-su đã cho họ thấy Người là ai. Gần tới ngày lên đường đi Giê-ru-sa-lem, Người đã ba lần nói với các ông về sứ mệnh của Con Người là thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại. Tại Giê-ru-sa-lem, Con Người phải chiến thắng quyền lực ma quỷ và tội lỗi. Cho nên Giê-ru-sa-lem biểu tượng cho nơi sẽ sụp đổ dưới quyền lực của Xa-tan. Còn Ga-li-lê thì trở nên nơi biểu tượng của Con Người, Đấng sẽ tái lâm để xét xử muôn loài vào ngày phán xét chung. Vậy kể từ nay cho tới ngày gặp lại Chúa Giê-su tại Ga-li-lê, các môn đệ Người phải làm gì nếu không phải là thi hành bổn phận rao giảng Tin Mừng cứu độ.
c) Sống Tin Mừng Phục Sinh
Cha Eugene LaVerdiere, một học giả Kinh Thánh lỗi lạc, đã cho ta một giải thích hết sức lý thú về người thanh niên mặc áo trắng ngồi bên phải bên trong mộ. Vị sứ giả ấy mang áo trắng tinh là hình ảnh người Ki-tô hữu vừa được rửa tội. Ngài đang công bố một chân lý về Chúa Giê-su, là “Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh, Người đã sống lại rồi!” Sứ điệp này là cốt lõi của sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Rồi cha LaVerdiere so sánh vị sứ giả ấy với người thanh niên đã trút áo trắng lại mà chạy trốn khi Chúa Giê-su bị bắt trong Vườn Ô-liu (Mc 14:51-52). Anh ta đã không nhận ra liên hệ giữa cuộc Thương Khó (Đấng bị đóng đinh) và sự Phục Sinh (Đấng đã sống lại). Đồng thời anh ta cũng không chu toàn trách nhiệm thi hành lời hứa Rửa tội qua cử chỉ trút lại tấm áo trắng. So sánh hai hình ảnh ấy, cha LaVerdiere muốn ta hiểu rằng nếu ta muốn làm người môn đệ chân chính của Chúa Giê-su, ta cũng phải giống như người thanh niên mặc áo trắng ngồi trong ngôi mộ, giữa khung cảnh u tối phải rao giảng về sự sống.
Ta đang sống tại trần gian bị khống chế do quyền lực Xa-tan, chẳng khác nào sống trong khung cảnh u tối trong ngôi mộ. Nhưng giữa cảnh điên loạn của thế gian tội lỗi này, người môn đệ chân chính của Chúa có bổn phận phải rao giảng và làm chứng cho chân lý Chúa Giê-su đã sống lại từ kẻ chết và Người sẽ trở lại trong ngày tận thế để xét xử trần gian. Đời sống gương mẫu theo những giá trị Tin Mừng của ta sẽ là một chứng từ nói lên rằng sau cuộc đời ở trần gian này ta còn có sự sống đời đời, sự sống mà Chúa Ki-tô đã khởi đầu và sẽ được sống lại như Người nếu ta cùng với Người chết đi con người cũ tội lỗi của ta. Ta rao giảng Tin Mừng Phục Sinh bằng chính cuộc sống lại mỗi ngày của ta, khi ta biến đổi dần dần để trở nên giống với Chúa Ki-tô và lối sống của Người.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi cảm nhận thế nào về sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong cuộc đời tôi? Người có phải là lẽ sống của tôi không? Tại sao?
Ga-li-lê biểu tượng cho nơi của Chúa Giê-su, Đấng Ki-tô và Con Người sẽ xét xử trần gian. Vậy tôi có phải là một Ga-li-lê của Chúa Giê-su để tôi gặp gỡ Người và thi hành sứ mệnh Người trao ban không?
Nhìn lại một vài khía cạnh cụ thể trong đời sống tôi: những khía cạnh ấy nói lên Chúa Giê-su đã sống lại hay Chúa Giê-su vẫn nằm chết trong mộ?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su phục sinh
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đem tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và cam đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa”.
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 83)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
14-4-2006
-----------------------------