Suy Niệm Tin Mừng 7 Vọng & PS1 ABC Bài 301-350 Chúa đã sống lại rồi
--------------------------------------------------------
Phúc Âm Năm A:
Phúc Âm: Ga 20,1-9: "Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo
Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
Phúc Âm Năm B: Mc 16,1-8: "Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta". Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: "Các người đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nazarét chịu đóng đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Ðây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy đi nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước". Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi. - Ðó là Lời Chúa.
----------------
PS1-301: ĐỀN ĐÁP ÂN TÌNH.. 2
PS1-302: NGÀI ĐÃ SỐNG LẠI 4
PS1-303: RA KHỎI MỒ.. 5
PS1-304: NIỀM VUI THAY ÐỔI LÒNG NGƯỜI 7
PS1-305: PHỤC SINH NIỀM HY VỌNG CỦA NHÂN LOẠI 8
PS1-306: VÌ YÊU.. 11
PS1-307: NIỀM TIN VÀO SỰ PHỤC SINH.. 13
PS1-308: ĐỨC GIÊSU ĐÃ SỐNG LẠI THẬT VÀ CÁC CUỘC ĐỔI ĐỜI 14
PS1-309: ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN.. 18
PS1-310: THẤY VÀ TIN.. 22
PS1-311: CHÚA KITÔ SỐNG LẠI, NỀN TẢNG CỦA NIỀM TIN KITÔ GIÁO.. 25
PS1-312: CHÚA KITÔ ĐÃ SỐNG LẠI THẬT ! 27
PS1-313: ĐỨC KITÔ GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG, CHÂN LÝ VÀ TÌNH YÊU.. 29
PS1-314: ĐÊM VỌNG PHỤC SINH A.. 32
PS1-315: CN LỄ NGÀY PHỤC SINH ABC.. 39
PS1-316: Những chứng nhân cho sự Phục Sinh. 46
PS1-317: Phục Sinh. 48
PS1-318: CN I PHỤC SINH A.. 49
PS1-319: Thánh Giá viết trên Cây Nến. 52
PS1-320: Sống lại cùng Chúa Phục Sinh. 55
PS1-321: Chúa đã Phục Sinh – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm.. 58
PS1-322: Chúa đã sống lại thật rồi 61
PS1-323: Sống lại với Chúa. 63
PS1-324: Bài giảng lễ Vọng Phục Sinh. 65
PS1-325: CÙNG SỐNG LẠI VỚI CHÚA KI-TÔ.. 68
PS1-326: Lễ Vọng Phục Sinh - Lm Phêrô Nguyễn Thanh Sơn. 74
PS1-327: Chuyện kể của Bà Maria Mađalêna sao cứ mới hoài ! 77
PS1-328: Vọng: ĐÊM CANH THỨC PHỤC SINH 2013. 81
PS1-329: VONG: CÙNG CHÚA CHIẾN THẮNG SỰ CHẾT VL. 84
PS1-330: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI,ALLELUIA.. 90
PS1-331: CÁC PHỤ NỮ RA MỘ.. 92
PS1-332: CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 99
PS1-333: Vui lên, toàn trái đất 101
PS1-334: Lòng yêu mến Chúa Giê-su Phục Sinh. 103
PS1-335: Sự sống lại là niềm hy vọng. 105
PS1-336: VỌNG VÀ CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 107
PS1-337: THỨ BẢY TUẦN THÁNH VỌNG PHỤC SINH.. 109
PS1-338: THỨ BẢY TUẦN THÁNH Vọng Phục Sinh. 110
PS1-339: Hãy có ánh sáng. 112
PS1-340: Người đã trỗi dậy. 115
PS1-341: THỨ BẢY TUẦN THÁNH vọng Phục Sinh. 116
PS1-342: THỨ BẢY TUẦN THÁNH.. 117
PS1-343: THỨ BẢY TUẦN THÁNH Vọng Phục Sinh. 118
PS1-344: THIÊN CHÚA VẪN HẰNG SỐNG.. 120
PS1-345: KÍNH MỪNG CHÚA PHỤC SINH.. 121
PS1-346: THỨ BẢY TUẦN THÁNH.. 124
PS1-347: MỒ ĐÁ (THỨ 7 TT.B) Vọng Phục Sinh. 126
PS1-348: Canh Thức Vượt Qua năm B.. 129
PS1-349: Vọng Phục Sinh. 132
PS1-350: MỪNG VUI LÊN ! 133
----------------
Ga 20, 1 - 9
Tác giả Khải Hưng, một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, có để lại cho chúng ta tác phẩm mang tên "Anh Phải Sống". Trong tác phẩm có kể lại câu chuyện của đôi vợ chồng nghèo ở ven sông, họ có một chiếc xuồng nhỏ, hằng ngày đi vớt củi trên dòng sông. Một hôm cũng với công việc hằng ngày như thế; hai người đang cùng với chiếc xuồng trên sông, thì mây đen kéo đến thật nhanh. Dòng nước trước đây hiền lành, giờ đây giống như con thú dữ nhìn thấy con mồi, cứ chồm lên. Chiếc xuồng nhỏ không thể chịu đựng được những cú nhảy của cơn sóng dữ, nó hất tung hai người xuống nước. Người chồng cố tìm kiếm và gặp được vợ; anh bảo vợ cố bám vào anh để tìm đường vào bờ. Với dòng nước chảy mạnh, những hạt mưa từ trên đổ xuống, thêm những cơn gió mạnh rít từng cơn làm cho dòng nước thêm giận dữ, gây khó khăn cho cuộc đua vào bờ của hai người. Người vợ chợt nhớ đến đứa con thơ, còn đang nhờ người trông chừng: không biết nó sẽ ra sao khi cả hai không vào bờ được. Nghĩ thế, nàng từ từ buông lơi bàn tay ra. Người chồng đang mệt nhoài vì chống chọi với giòng nước miệng cứ la lớn: cố lên, bám chặc vào... cố lên bám chặc vào. Bỗng nhiên anh cảm thấy như tăng thêm sức mạnh, anh bơi nhanh hơn, anh cố bơi và tìm đến bờ sông an toàn. Bỗng anh chợt nhận ra, thì người vợ thân yêu không còn bên cạnh anh nữa. Anh đi dọc theo bờ sông, nhưng không còn nhìn thấy gì nữa.
Đứa con sau này sẽ nghĩ gì, khi biết được câu chuyện yêu thương như thế? Chắc nó sẽ cố gắng sống cho thật xứng đáng, để không làm cho cái chết của người mẹ trở nên vô ích.
Chúng ta đang mừng Chúa Phục Sinh. Nhưng tại sao lại Phục Sinh. Thưa vì Ngài đã chết nên mới Phục Sinh. Tại sao lại phải chết? Thưa Ngài phải chết vì những cơn giận dữ không biết kiềm chế của con người. Ngài chết vì sự phản bội của con người, vì họ không biết tôn trọng nhau. Ngài chết vì con người hèn nhát không dám bênh vực cho công lý, lo sợ mất đi những quyền lợi, sợ mất đi những gì mình đang có. Ngài còn chết vì con người quá hờ hững, không nhận ra Ngài đang kêu mời họ đến với Ngài. Chết vì yêu thương.
Thật thế Ngài chết vì những người mà Ngài yêu thương, Ngài chết để cho họ được sống. Nhưng Ngài không để họ sống cô đơn, nên Ngài đã sống lại, để mang sự sống bất diệt đến cho họ.
Tất cả chúng ta đang sống vì Con Thiên Chúa đã chết thay cho chúng ta, chúng ta đang sống trong sự sống mới của Ngài. Nhưng những cơn giận dữ vẫn còn mãi và đang hoạt động mạnh mẽ trong mỗi người. Mỗi lần phạm tội là mỗi lần phản bội tình yêu của Đấng đã yêu thương và chết vì chúng ta. Chúng ta vẫn cứ yên lặng trong sự hèn nhát của mình vì biết bao nỗi lo sợ ám ảnh cuộc sống. Còn nữa, sự ích kỷ chỉ nhìn thấy và chỉ biết có chính mình, làm cho chúng ta hờ hững với những người chung quanh, hờ hững với bao tiếng kêu than trách phiền. Như vậy chúng ta vẫn muốn cho cái chết của Đấng yêu thương chúng ta trở nên vô giá trị sao? Đứa con trong tác phẩm Anh Phải Sống của Khải Hưng có làm như thế không?. Chúng ta cũng phải sống sao cho xứng đáng với những gì mình nhận được.
Trong đời sống hằng ngày, có lúc nào đó chúng ta nhận được sự vui mừng, như những người phụ nữ nhận ra Chúa Giêsu và được lệnh truyền đi loan báo tin vui mừng cho người khác; nếu sự hiện diện của chúng ta là một niềm vui cho người khác thì hạnh phúc cho chúng ta biết dường nào, hoặc những lời nói, những việc làm của chúng ta đem lại niềm vui cho người khác, thì lúc đó, chúng ta đang thực hiện lời Chúa Giêsu đi loan báo Tin Mừng cho người khác. Nếu trong đời sống chúng ta cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, để biết đem tình yêu đó đến với mọi người; nếu chúng ta nhìn thấy được những người cần giúp đỡ và không ngần ngại, cho đi một chút thời gian, một chút tiền bạc, một chút gì mình có mà người kia đang cần. Nếu chúng ta biết dừng lại những lời nói không hay, mà nói lên những lời động viên an ủi để làm cho người trước mặt có thêm sức sống. Đó là chúng ta đang mang tình yêu thương của Đấng yêu thương chúng ta đến cho những người chung quanh. Đó là chúng ta đang sống sự sống mới của Đấng Phục Sinh.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết sống niềm vui Phục sinh và mang niềm vui đến cho mọi người.
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
Anh chị em thân mến,
Xin được kể một câu chuyện: Một người đàn bà nhà quê đến hôn chân Chúa Giêsu nằm trên Thánh giá. Một anh lính sô viết đến hỏi bà: "Tại sao bà không đến hôn chân vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta, mà lại hôn chân một người chết trần trụi như thế?" Bà trả lời: "Có chứ, tôi sẽ hôn chân vị lãnh tụ, nếu ông ấy chịu đóng đinh vì tôi..." Thật, đúng như lời người đàn bà này nói: người Kitô hữu hôn chân Chúa Giêsu, nghĩa là tin nơi Chúa, chính vì Chúa đã chịu đóng đinh, đã chết và đã sống lại vì mọi người. Niềm vui của ngày lễ Phục sinh hôm nay, chính là Hội Thánh muốn mọi người hiểu rõ được chân lý đó. Trân trọng kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Chúng ta cần tìm hiểu vài câu:
Ngày đầu tuần, Maria Magdala đi ra mồ từ sáng sớm và thấy mộ trống: ngày đầu tuần: người Do thái lấy ngày thứ Bảy là ngày lễ, ngày nghĩ, nên ngày đi sau ngày thứ Bảy họ coi là ngày đầu tuần. Đó là ngày Chúa Nhật. Chỉ sau này, với lịch phụng vụ Rôma, người ta mới lấy ngày Chúa Nhật làm ngày đầu tuần...
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ: theo lời mấy bà, trong đó có bà Maria Magdala, họ ra mồ Chúa từ sớm, nên họ thấy mồ trống; vì vậy họ chạy về báo tin cho các tông đồ hay, nên Phêrô và Gioan liền chạy ra mồ xem thực hư...
Ông đã thấy và tin. Trước đó hai ông không hiểu rằng: theo Kinh Thánh người phải chỗi dậy từ cõi chết... hai ông này đã chạy ra mồ, và thấy sự việc như lời các bà nói. Hai ông còn thấy băng vải liệm còn để đó; cả khăn che đầu cũng còn và được cuộn lại xếp qua một bên; đó là dấu chỉ cho biết Chúa đã sống lại, vì nếu Chúa không sống lại, hoặc ai đem xác Chúa đi giấu, không lẽ họ lại để khăn vải liệm ở lại, ngay trong mồ Chúa?
b/. Lễ Phục sinh không chỉ là cao điểm của mùa Phục sinh, mà còn là điểm cuối cùng của cả năm phụng vụ. Ngày lễ này, ngoài ơn lành Chúa ban cho, còn đem lại điều quan trọng hơn nữa vì đem lại sự sống thật cho người tín hữu: "nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì đức tin anh em thật là vô ích...". Đó chính là lời rao giảng rõ ràng của vị Thánh Phaolô tông đồ dân ngoại trong thư thứ I gởi cho giáo đoàn Côrintô (ICor 15,17). Thật vậy, nhờ việc Chúa sống lại, người ta mới hiểu được giáo lý Chúa Giêsu đã dạy, mới hiểu được cuộc sống của Người ở trần thế.
Vì vậy, Hội Thánh không chỉ kỷ niệm lại biến cố phục sinh mỗi năm một lần, mà hàng tuần vào ngày Chúa Nhật nữa. Có một điều mà nhiều khi người Kitô hữu chúng ta không hiểu, mà cũng là một thách thức cho niềm tin chúng ta, đó là: Biến cố phục sinh quan trọng và lớn lao như vậy, lại không dựa vào những chứng cứ lịch sử cụ thể, rõ ràng, mà lại dựa vào lòng tin, căn cứ vào những chứng tích cá nhân, vào lời Kinh thánh đã tiên báo, vào lời Chúa đã nói trước (Mt 18,6) v.v...hoặc dựa vào chính máu đào của các tông đồ, họ đã tự nhận đã thấy và làm chứng để mọi người cùng tin(Cv 2,32)... Đúng là một mầu nhiệm, Thiên Chúa, chỉ hé lộ cho người thấy chút ít ở trần gian. Chỉ sau này trên nước trời, ta mới hiểu rõ ràng; vì khi còn ở trần gian, nếu ta hiểu rõ ràng cả, thì còn chi là công nghiệp nữa....
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Kitô thực sự đã sống lại, điều này ta có tin không? Bà Maria và các tông đồ đã đồng hành với Chúa, đã trải qua cuộc khổ nạn của ngày Thứ Sáu, nghĩa là nhận ra Chúa vì yêu họ mà đã chết cho họ, nên họ đã tin Chúa phục sinh. Phần chúng ta, nếu chúng ta tin, thì tại sao nhiều lúc chúng ta vẫn sống thờ ơ, nguội lạnh, sống trong tội, sống như là không có Chúa hiện diện vậy? Ta nghĩ làm sao đây?
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
Đại lễ Phục Sinh giúp chúng ta tưởng niệm lại biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại; ngày Chúa sống lại ra khỏi mồ một cách vinh hiển. Biến cố ấy chính là niềm hy vọng, là điểm đến và mong ước của toàn thể nhân loại. nếu Chúa Giêsu không sống lại thì bao nhiêu hy sinh mơ ước của con người ở trần thế này không còn ý nghĩa gì nữa.
Để nói về sự Phục Sinh! là một điều rất khó thuyết phục cho những kẻ cứng tin, hay cho những người chống đối. Cũng còn một số những người tin đó là một biền cố thật sự thì lại cố ý bóp méo hoặc nói sai lệch đi vì một nguyên nhân nào đó, như những tên lính canh chẳng hạn. Còn cuộc sống tân tiến như ngày nay thì họ xem cuộc sống lại mai sau là một cái gì huyền bí giả tưởng. mọi điều ophải được chứng thực bằng mắt thấy tai nghe, bằng những phương pháp mà họ có thể thử nghiệm được thì họ mới tin. Cho dù chúng ta tin hay không thì Thiên Chúa chết và sống lại cũng là một chân lý mà tất cả sự kiện và lịch sử đó đã được xảy ra hơn hai ngàn năm nay. Và trong thực tế cũng có rất nhiều lý chứng xác nhận Đức Giêsu Phục Sinh là sự thật.
Ngôi mồ trống và khăn liệm.
Người đầu tiên nhìn thấy ngôi mồ trống là Maria Madalena, bà đã nhìn vào trong mồ và thấy ngôi mộ trống, mà cho dù ngôi mộ cố trống thì cũng không thể khẳng định là Đức Giêsu đã sống lại. Nhưng lúc đó bà Madalêna cũng không nghĩ là Chúa đã sống lại thật. Bà chỉ nghĩ theo lẽ tự nhiên là: "người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ". Vật chứng tiếp thao là khăn liệm, một vật chứng rất có giá trị về sự Phục Sinh của Đức Giêsu, hiện nay vẫn còn được giữ tại nhà thờ thánh Gioan, ở Turin Bắc nước Ý. Bên trong trong mồ các khăn liệm vẫn còn khác với Lazarô khi sống lại "chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn". Khi sống lại Chúa Giêsu không cần đến sự trợ giúp của ai khác, Vì chính Người đã lăn tảng đá đóng kín mồ thề nào, thì Người cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn phủ mặt thế ấy. Sự kiện các khăn liệm còn đó, và khăn phủ mặt được buộc lại để riêng một chỗ, loại bỏ giả thiết của Madalena, cũng như những người cho rằng xác Chúa đã bị đánh cắp. Vì không đời nào người trộm xác lại có thời gian thảnh thơi lột các khăn liệm ra sắp xếp lại cho ngay ngắn rồi mới ôm xác đi. Điều đó thật vô lý.
Như vậy khăn che mặt còn là một dấu chỉ vững chắc cho việc Chúa sống lại. Cũng nhờ dấu chỉ này mà Gioan đã tin Chúa sống lại ngay khi vừa mới bước vào trong mồ. Đây cũng là dấu chỉ cho tất cả những người đang còn nghi ngờ về sự Phục sinh của Chúa. Nếu chúng ta không đích thân thấy Chúa sống lại để tin, thì chúng ta cũng phải biết nhìn vào các dấu chỉ này để tin.
Đời sống chứng nhân.
Đức tin cũa chúng ta chỉ có thể đặt trên nền tảng của các nhân chứng, của những người đã được sống với Chúa. Có thể nói họ là những người gần gũi với Chúa như "hình với bóng". Hằng ngày họ được tiếp cận, gặp gỡ và hiểu Ngài hơn ai hết. Chính họ là những người đã chứng kiến tận mắt và sờ tận tay cuộc khổ nạn, cái chết trên thập giá và sự sống lại của Người, và chứng từ của họ đã được chứng minh bằng chính giá máu, bằng chính cuộc sống của họ. Và như thề, chứng từ của họ là sự thật, vì không bao giờ có ai sẵn sàng chết cho một sự dối trá lừa đảo. Nhất là chứng thực của Thánh Phaolô. Ngày xưa Chúa vẫn là kẻ thù của Chúa, đi bắt đạo khắp nơi. Thế mà bỗng dưng ông thay đổi thái độ, bỏ chức quyền giàu sang, trở thàh thù địch của dòng họ chỉ vì tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh. Trước đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa Phục Sinh của ông và của các tông đồ, không còn có thể nói rằng chân lý ấy là một sự lường gạt dối trá nữa.
Cuối cùng ta cò thể kết luận: chúa giêsu đã sống lại và không ai có thể chối cãi. Những bằng chứng về sự Phục Sinh rất nhiều hiển nhiên, với hơn hai ngàn năm lịch sử, nếu là một chuyện hoang đường về một người tử tội sống lại sẽ không còn tồn tại như thế.
Lạy Chúa, biến cố Phục Sinh đã thắp lên trong tâm hồn con niềm hy vọng chứa chan, bởi vì nếu trung thành phụng sự Chúa, con cũng sẽ được chia sẻ. được sống lại trong vinh quang với Chúa. Amen
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
Người ta thường nói: "Một nụ c ười bằng mười thang thuốc bổ " . Niềm vui sẽ làm cho con ng ười người ta phấn khởi và sống lạc quan hơn. Hơn nữa, niềm vui còn có sức làm thay đổi lòng người. Chúng ta đã qua Mùa chay của năm Phụng vụ 2008 và chúng ta đang cùng với Giáo hội bước sang mùa Phụng vụ mới - mùa Phục sinh. Ðây là mùa vui nhất trong cả năm Phụng vụ. Vui mừng vì Ðấng Cứu Chuộc chúng ta thật sự đã sống lại. Vui mừng vì Thầy của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vui mừng vì ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được sống lại vinh quang như Chúa của mình.
Như chúng ta đã từng học trong giáo lý có hai dấu hiệu chứng tỏ Chúa Giêsu đã thật sự sống lại: một là ngôi mộ trống với khăn liệm xếp ngay ngắn; hai là Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với nhiều người. Chẳng hạn như với Phêrô, Gioan hay như với Mađalêna.
Có một dấu hiệu khác mà có lẽ chúng ta ít để ý nhưng lại hết sức quan trọng. Ðó là sự thay đổi thái độ của các Tông đồ. Như chúng ta biết khi Chúa Giêsu bị bắt thì các Tông đồ như rắn mất đầu. Các ông chỉ còn biết trốn vào phòng đóng kín cửa mà không dám ra ngoài. Chỉ có Gioan là theo Chúa Giêsu tới cùng. Phêrô chạy theo nhưng khi bị người ta hỏi thì đã vội chối leo lẻo đến 3 lần. Còn các Tông đồ khác thì chẳng ai dám theo. Thế nhưng, Tin mừng phục sinh đã làm thay đổi hẳn thái độ của các ông. Từ những người nhút nhát sợ sệt chuyển sang can đảm, hăng hái đi rao giảng Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.
Tâm lý thông thường khi có niềm vui thì chúng ta khó mà giữ riêng được cho mình. Chúng ta phải tìm mọi cách để cho nhiều người biết càng tốt. Bởi lẽ, "niềm vui chia sẻ thì nhân đôi còn nổi buồn chia sẻ thì vơi đi một nửa ". Các Tông đồ cũng thế, với Tin mừng phục sinh - một Tin mừng trọng đại các ông không thể ở mãi trong phòng được. Giờ đây các ông đã mạnh dạn mở toang cửa và chia mỗi người một ngã đi loan Tin mừng Chúa Giêsu phục sinh.
Qua Mùa Chay, Chúa và Giáo hội đã cho chúng ta nhìn ra được con người thật của mình: là một thụ tạo yếu đuối không hơn không kém. Dầu vậy chúng ta được chính Ðấng Tạo Hóa yêu thương là dường nào. Bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta cảm thấy vui mừng. Lại nữa Chúa Giêsu còn hứa: "Thầy đi dọn chỗ cho các con" (Ga 14, 3). Cho nên, nếu nh ư Chúa của chúng ta đã phục sinh vinh hiển thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Người. Ðó là niềm tin của người mỗi người tín hữu chúng ta. Là những người tín hữu, chúng ta hãy sống như thế nào để mọi người xung quanh nhận thấy được đạo của chúng ta thật sự là đạo của niềm vui. Một gương mặt nhăn nhó, một lời nói xúc phạm đến danh dự của người khác hay một cử chỉ lừa dối chắc không thể loan báo Tin mừng phục sinh được.
Trong gia đình vợ chồng con cái biết hy sinh, đùm bọc, tha thứ và nhường nhịn nhau.
Trong cùng lối xóm biết chia sẻ và giúp đỡ nhau. Bởi lẽ "Bà con xa không bằng láng giềng gần".
Trong cùng họ đạo sống đoàn kết và lắng nghe nhau .
Khi sống tốt như vậy là chúng ta đang tuyên xưng niềm tin của mình cũng như đang loan báo Tin mừng Phục sinh.
Nguyện xin niềm vui phục sinh luôn ở mãi với gia đình cũng như từng người chúng ta.
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
Hôm nay toàn thể Giáo hội cử hành đại lễ Phục sinh. Đây là ngày mà Đức Kitô, người anh của chúng ta đã phá tan xiềng xích của sự chết và chỗi dậy vinh quang tử nấm mồ. Ngài đã thực hiện điều này không phải cho chính Ngài nhưng là cho tất cả chúng ta. Ngài muốn chúng ta cũng được thông phần, sẻ chia chiến thắng vĩ đại trên tội lỗi và bóng đêm sự chết bằng cách tin cậy và hy vọng vào Ngài.
Đúng thế! Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã mang lại một niềm hy vọng lớn lao cho nhân loại đang run sợ trước cái chết và đau khổ do hậu quả của tội lỗi. Nhưng thật đang buồn cho chúng ta vì thế giới không mấy quan tâm đến sự Phục sinh của Chúa.
Điều này thật ra cũng dễ hiểu vì lý do của chúng rất đơn giản. Vì dù là biến cố vĩ đại, nhưng biến cố này đã được Đức Kitô thực hiện cách âm thầm, khiêm tốn. Chúa Giêsu phục sinh không xuất hiện một cách long trọng, vẻ vang trong đền thánh Giêrusalem để cho những người nỗi nang trong xã hội Do thái thời bấy giờ chiêm ngưỡng. Nhưng Ngài xuất hiện cho những người tầm thường, những người do chính Ngài ọi tên, những người cùng Ngài bẽ bánh, những người biết lắng nghe những lời bình an của Ngài... đặc biệt là những người biết ý thực được sự xuất hiện của Ngài. Và thậm chí họ là những người đã từng gặp khó khăn trong niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.
Tin vào biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu đã là một điều không phải dễ. Nhưng sống niềm tin ấy lại là một việc vô cùng khó khăn. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại hành trình đức tin và thái độ của Phêrô, Gioan và Maria Macđala trước biến cố Phục sinh của Chúa.
Thời Chúa Giêsu, chắc chắn có rất nhiều người đến nghe Ngài rao giảng. Và chắc chắn tất cả những người trong nhóm họ ít hay nhiều cũng đã từng nghe qua lời loan báo Phục sinh của Chúa. Đặc biệt là các tông đồ, nhòm đông đảo môn đệ từng kề cận bên Ngài suốt những chặng đường rao giảng mà Chúa đã đi qua.
Nhưng sáng hôm nay, chỉ có một mình Maria đi thăm mồ Chúa từ sáng sớm. Việc thăm mồ của bà không phải hoàn toàn để tìm Chúa Giêsu Phục sinh, nhưng bằng con tim dạt dào lòng mến đối với vị thầy Giêsu chí thánh đã từng tha thứ và hướng cuộc đời bà rời xa bóng đêm tội lỗi, lật sang trang mới. Chính lòng cảm mến đó đã thúc đẩy bà lên đường viếng mộ Chúa, đây chỉ là việc thăm viếng bình thường. Nhưng đau thương chồng chất đau thương, bà hốt hoảng, xót xa khi nhận ra xác Thầy không còn nữa. Bà không nghĩ rằng Chúa đã sống lại, đã quên lời Thầy báo trước hôm nào. Bằng linh tính của người phụ nữ và bằng cảm thức của một con tim dạt dào tình yêu đối với Chúa Giêsu làm bà lo âu khắc khoải. Bà nghĩ ngay "xác Thầy đã bị đánh cắp". Niềm hy vọng của bà hiện nay là làm sao tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan, cả ba hối hả chạy đến mồ. Không thấy xác Thầy đâu, chỉ còn lại nấm mồ trống trơ, lạnh vắng với những khăn vải liệm được xếp ngăn nắp. Đứng trước mồ Chúa, ba người có ba thái độ khác nhau.
Nhìn những tấm khăn vải liệm được xếp ngăn nắp, Gioan tin Thầy mình đã sống lại. Vì chẳng ai ăn cắp xác Chúa lại phải tốn giờ sắp gọn gàng khăn liêm như thế!
Còn Phêrô thì không thấy Tin Mừng ghi lại một lời nào trước ngôi mộ trống. Chúng chỉ biết thánh Phêrô trở về nhà trong sự thinh lặng và chìm sâu trong suy nghĩ. Không phải ngài cứng lòng tin. Nhưng có lẽ vì là thủ lãnh tông đồ đoàn nên ngài cần thận trọng khi tuyên bố những gì về đức tin. Vì lời tuyên xưng của ngài có ảnh hưởng đến toàn thể Giáo hội. Còn Maria thì vẫn là bâng khuân với suy nghĩ "xác Thầy đã bị đánh cắp".
Giờ đây, Chúa đã phục sinh! Cái chúng ta cần làm hôm nay chính là sống niềm tin ấy. Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của Maria Macđala, nhưng cũng cần phải có sự nhạy cảm của Gioan để nhận ra dấu chỉ của Chúa và cần có sự thận trọng của Phêrô để khỏi rơi vào lầm lạc và mê tín. Tin vào Chúa Giêsu phục sinh là biết nhận ra ý nghĩa của các biến cố trong cuộc đời nhất là ý nghĩa của đau khổ và sự chết. Chúng ta cần phải có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng trước những thất bại, dổ vỡ, mất mát trong cuộc đời. Tất cả những gì chúng ta đang tìm kiếm rồi cũng sẽ qua đi. Nhưng chúng ta cần phải nhìn thấy sự phục sinh của Chúa ngang qua những gì hư nát. Như Gioan nhận ra Chúa đã sống lại khi nhìn những mãnh khăn liệm.
Niềm tin vòa Chúa Giêsu phục sinh chính là nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta vào sự sống vĩnh cữu. Chính niềm hy vọng này là sức mạnh giúp chúng ta kiên tâm, bền chí để vượt qua những thử thách nghiệt ngã, ngang trái trong cuộc đời. Qua đó, chúng ta có được một niềm vui âm thầm, lặng lẽ và cảm nhận được sự bình an sâu sắc từ trong sâu thẳm của tâm hồn. Vì chúng ta biết rằng: Tình yêu mạnh hơn sự sợ hãi, sự sống mạnh hơn cái chết và niềm hy vọng vượt thắng nỗi thất vọng.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc vượt qua của Chúa. Xin cho chúng con biết sống cuộc vượt qua của đời mình.
Vượt qua sự nhỏ mọn ích kỷ,
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì chúng con xuống,
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã,
Vượt qua nhưng đêm tối cô dơn của vườn cây dầu đời con,
Vượt qua những nỗi khắc khoải, nghi ngờ trong niềm tin,
Vượt qua những thành kiến của con đang áp đặt cho người khác.
Ước gì chúng con biét noi gương Chúa Phục sinh, luôn biết gieo rắc bình an, hy vọng,
Tin tưởng và niềm vui khắp muôn nơi.
Ước ước gì mọi người khi gặp con cũng nhận ra sự sống mãnh liệt của Chúa. (Rabbouni)
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
Tôi muốn nhìn toàn bộ biến cố Phục sinh trong khía cạnh tình yêu để thấy được rằng, kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa là một kế hoạch của tình yêu từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan tông đồ đã viết như sau: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3,16-17). Như vậy, chúng ta thấy được rằng mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể từ Giáng sinh cho đến chịu nạn chịu chết và Phục sinh là một chu trình khép kín của tình yêu. Chúa Cha yêu thế gian nên sai Con của mình xuống nhằm cứu chuộc thế gian. Rồi đến lượt mình, Đức Giêsu đã hoàn thành mọi sự theo ý Chúa Cha cũng vì tình yêu: Yêu mến Chúa Cha và yêu thương con người. Và kế hoạch yêu thương ấy sẽ còn tiếp diễn cho đến ngày tận thế.
Trong biến cố tử nạn của Đức Giêsu, rất nhiều người trong chúng ta hiểu cách sai lệch về Chúa Cha. Chúng ta nghĩ rằng: Thiên Chúa Cha là một bạo chúa khi bắt con của mình khi bắt con của mình đi vào con đường chết và chết một cách thê thảm như thế. Chúng ta có thể có quan niệm như thế là vì những từ ngữ được dùng trong thần học và Giáo lý như: giá chuộc, cứu chuộc, chuộc tội . . . Những từ ngữ ấy rất có thể làm chúng ta nghĩ sai lệch về Thiên Chúa Cha, bóp méo hình ảnh và khuôn mặt của Chúa Cha trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô. Nhưng thật ra, toàn bộ kế hoạch cứu chuộc con người là một kế hoạch của tình yêu. Trong cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, thì Chúa Cha là Tình yêu đóng đinh, còn Chúa Giêsu Kitô là Tình yêu bị đóng đinh. Chúa Cha không hề bỏ rơi Con của mình, cũng không bao giờ muốn Con của mình phải chết cách nhục nhã và đau đớn đến tột cùng như thế mới hả giận, mới tha thứ tội lỗi cho con người.
Nhưng tất cả chỉ vì tình yêu dành cho con người mà thôi: "Thiên Chúa yêu thế gian"Trong vụ án Đức Giêsu và nhất là trên đỉnh đồi Calvê, hình như xung quanh Ngài chỉ toàn những kẻ chống đối, kết án và muốn loại trừ Ngài mà thôi. Còn những gương mặt yêu mến Ngài, những người kề vai sát cách với Ngài hầu như im hơi lặng tiếng. Trong giờ phút não nề và ô nhục đó, hình như tội ác đã chiến thắng, sự dữ đã lên ngôi và đè bẹp sự thiện. Vì thế, Đức Giêsu cảm thấy cô đơn tột cùng và Ngài có cảm tưởng như chính Chúa Cha cũng đã lìa bỏ Ngài nữa: "Lạy Cha, cả Cha cũng bỏ con sao?". Nhưng sau những giây phút kinh hoàng ấy, sau những giây phút lên ngôi tạm thời ấy, tội ác, sự dữ và tử thần bị đánh bại. Tình yêu sau những phút giây tạm thời mờ nhạt ấy giờ đã toả sáng. Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần và đã Phục sinh khải hoàn vinh hiển! Tình yêu lên ngôi đã kéo theo những ai từng yêu và được yêu bắt đầu xuất hiện.
Trước hết là một gương mặt quen thuộc đã được Tình Yêu cứu vớt là Maria Mađalêna. Người phụ nữ này đã được tình yêu của Chúa bao bọc cách đặc biệt nên tâm hồn của bà luôn hướng về Chúa. Và chính tình yêu đã thôi thúc bà lên đường, ra đi viếng mộ Chúa từ lúc sáng sớm khi trời còn tối. Rồi khi nhận ra sự việc bất thường, tình yêu đã khiến đôi chân bà chạy thật nhanh "Xăm xăm quay gót băng đồng" để về báo tin cho 2 môn đệ là Simon Phêrô và Gioan.
Kế đến là Phêrô và Gioan, 2 người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến cách riêng. Tình yêu Chúa Giêsu nơi các ông đã khiến cho những bước chân của mình như nhanh hơn trong lúc chạy đến mộ Chúa. Gioan chạy nhanh hơn có lẽ vì ông còn trẻ hơn Phêrô, nhưng chắc chắn là ông được động lực của tình yêu thúc đấy nữa. Rồi cũng vì tình yêu sâu đậm với Thầy Giêsu nơi ông, ông đã tin vào lời Chúa Giêsu đã nói: "Sau 3 ngày, Thầy sẽ sống lại". Tình yêu đã khiến cho mắt tâm hồn ông sáng hơn để nhận ra sự thật và hết lòng tin tưởng vào sự Phục sinh của Thầy mình.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cũng là những con người được Thiên Chúa yêu thương, là "con yêu quí của Chúa Cha", chúng ta có bừng sáng niềm tin và hy vọng trong biến cố Phục sinh huy hoàng của Đức Giêsu Kitô hay không? Nếu chỉ xét về lý mà thôi hay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể theo kiểu của Tôma ngày xưa, thì có lẽ chúng ta trở thành những kẻ dửng dưng với biến cố Đức Giêsu Kitô Phục sinh. Nhưng nếu chúng ta có niềm tin và lòng yêu mến nơi Ngài, thì mắt tâm hồn của chúng ta sẽ sáng lên và sẽ nhận được niềm vui Phục sinh đang tràn lan trong tâm hồn chúng ta cũng như nơi toàn thể vũ trụ này nữa.
Chúa đã Phục sinh là sự thật. Các tông đồ và những môn đệ được Chúa yêu đã minh chứng cho chúng ta sự thật ấy. Thật ra, nếu chúng ta là những kẻ mạnh tin, thì chẳng cần gì đến những chứng cứ theo kiểu thế gian nữa, chỉ cần tin vào Lời Chúa là đủ. Ước gì sự thật "Chúa Phục sinh" luôn là động lực giúp ta hoàn thành cuộc đời cách ý nghĩa và tích cực nhất. Ước gì sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta. Ước gì chúng ta là những kẻ được Chúa yêu cách đặc biệt luôn nhận ra Chúa Giêsu Phục sinh đang sống động trong cuộc đời của mình qua mọi biến cố hằng ngày. Amen.
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
Cái chết của Đức Giêsu Nazareth là sự thất bại quá lớn trước mắt mọi người, kể cả các tông đồ. Thật vậy, thế lực của đền thờ bắt tay với quyền bính xã hội đã treo Đức Giêsu lên thập giá, như một tên tội phạm đáng nguyền rủa. Nhưng với Đức Giêsu, đó chính là con đường mà Ngài phải đi qua, vì Ngài đã từng ví von: "Nếu hạt lúc gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Gn 12,24).
Vâng, vũ trụ như ngưng lại, im lìm vì than khóc Con Thiên Chúa. Thế nhưng hôm nay, sự im lặng ấy bị phá tan do lời công bố: "Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết!" (x. Mt 28,7). Muôn vật mừng rỡ hân hoan trước biến cố huy hoàng ấy. Khi đó, mọi người hiểu rằng hy lễ của Con Thiên Chúa không dừng lại ở cái chết mà hướng đến sự Phục Sinh. Cuộc tử nạn của Đức Giêsu không phải là một cuộc chiến bại mà là một chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi. Với niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, Giáo Hội đã long trọng tuyên xưng: "Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau" (kinh Tin Kính).
Ngày nay, con người tiến bộ vượt bậc trên nhiều lĩnh vực. Nhưng nếu nhìn sâu vào đời sống của xã hội loài người, chúng ta thấy vẫn còn tồn tại nhiều mưu mô cám dỗ, nhiều cạm bẫy của thế lực ma quỷ chờ chực, lôi kéo con người trở lại với những gì là thấp hèn, bỉ ổi của thú tính. Nhìn xem trên các phương tiện truyền thông, chúng ta không khó để tìm thấy những tin tức về chiến tranh, áp bức, thác loạn... Mọi người vẫn đang chứng kiến bao cảnh khó khăn của đồng loại, bao bất công của xã hội loài người. Tất cả chỉ vì con người vẫn mãi tìm kiếm những gì thấp hèn thuộc hạ giới.
Trong biến cố Phục Sinh, với quyền năng Thiên Chúa, ngôi mộ chôn cất Đức Giêsu đã mở ra. Từ đó, nhưng hòn đá chôn vùi cuộc đời ta cũng sẽ được lăn đi. Đó có thể là hòn đá ích kỷ, tham lam, lãnh đạm, thiếu tình thương... Đức Kitô Phục Sinh sẽ giúp ta lăn những hòn đá ấy đi, để ta mạnh dạn sống niềm tin qua việc dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân, thực thi bác ái tích cực hơn.
Do đó, để thực sự sống lại với Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta hãy trở lại với cõi lòng mình để xét xem những hòn đá nào cần được lăn đi. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy vứt nó ra khỏi cuộc đời mình, để tận hưởng niềm vui Phục Sinh trọn vẹn hơn. Bên cạnh đó, mỗi người cũng cần phải trở nên công cụ trợ lực cho nhau, để mọi người cùng hưởng chung niềm vui Phục Sinh.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được sống, và Ngài đã phục sinh để năng đỡ niềm tin của chúng ta, đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng. Chúng ta quyết tâm tiếp tục sống cuộc sống của Chúa: dám sống cho một niềm tin, dám chết cho một cuộc tình. Chúng ta tin vững vàng vào Chúa và can đảm tận hiến đời mình cho luật yêu thương: yêu Chúa và thương anh em. Chắc chắn niềm hy vọng của chúng ta sẽ trở thành hiện thực khi Đức Kitô Phục Sinh trở lại trong vinh quang.
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Câu nói nổi tiếng của thánh Phaolô đã thể hiện niềm tin tuyệt đối, niềm hy vọng chắc chắn của ngài vào Đức Kitô Phục Sinh, ngài nói: "... nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15,14); "Mà nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Ðức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Ðức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người" (1Cr 15,17-19). Đúng thế, nếu cả cuộc đời của mỗi chúng ta, sự hy sinh dài lâu cho một con người mà chính người đó lại kết thúc cuộc đời của họ qua cái chết thì quả là một điều vô lý, hão huyền, thua thiệt và dại dột. Tuy nhiên, Đức Giêsu, Đấng mà các môn đệ tin; nhiều người Dothái tin; Giáo Hội tin; và chúng ta tin, Ngài đã chết thật, nhưng Ngài cũng đã sống lại thật.
Như vậy, niềm tin của chúng ta vào Đức Giêsu quả là khôn ngoan và có cơ sở vững vàng. Vậy tại sao biết được Đức Giêsu chết thật, và luận cứ gì làm bảo chứng cho niềm tin Ngài đã sống lại? Việc Ngài chết và đã phục sinh có để lại dấu ấn gì nơi những người tin hay không?
1. Đức Giêsu đã chết?
Đức Giêsu đã chết thật. Đây là lời khẳng định rõ ràng qua các chứng cứ sau:
Cái chết của Ngài là hệ quả của những phiên tòa do những tác động gây sức ép từ phía dân chúng, khiến những nhà lãnh đạo tôn giáo Dothái thời bấy giờ kết án tử Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã bị xử tử theo trình tự như: bị đánh đòn; vác thập giá; bị đóng đinh với hai tên gian phi trên đỉnh đồi Canvê.
Khi họ đóng đinh xong, Đức Giêsu đã chết thật, nên quân lính không đánh dập ống chân Ngài nữa, tuy nhiên để cho chắc ăn, một người lính đã lấy lưỡi đòng đâm cạnh nương long Đức Giêsu, tức thì máu và nước đã vọt ra cho thấy nhát đâm của người lính này đã đâm trúng tim của Đức Giêsu.
Sau đó, có các môn đệ thầm lặng của Ngài như Giuse Arimathia đến xin lĩnh xác Đức Giêsu để táng xác. Philatô đã đồng ý, nhưng ông vẫn phải hỏi lại viên sĩ quan phụ trách thi hành án xem Đức Giêsu đã chết thật chưa? Khi được trả lời là đã chết thật, Philatô mới cho phép tháo xác Đức Giêsu xuống để an táng. Và, họ đã an táng Đức Giêsu trong một ngôi mộ mới.
Như vậy, Đức Giêsu đã chết thật. Không thể không tin vào chuyện này được. Tuy nhiên, nếu cái chết là điểm đến, là kết cục, thì nó là chuyện vô lý, không có gì để chúng ta bàn nữa. Nhưng cái chết đã không còn quyền chi đối với Đức Giêsu khi Ngài đã phục sinh.
2. Ngôi mộ bị bỏ trống
Trong kinh tin kính, chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu: "... ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết". Ngài đã sống lại và đã ra khỏi mồ. Vì thế, sự kiện ngôi mồ trống là điều mà mỗi người chúng ta cần quan tâm.
Tin Mừng cho thấy vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đi ra mồ, khi tới nơi, họ không còn thấy xác Đức Giêsu trong đó nữa. Các bà thì ngỡ ngàng và không hiểu tại sao lại như vậy? Phải chăng Ngài đã phục sinh như lời Ngài đã phán trước? Và thật thế, Thiên Thần đã trấn an các bà, để các bà khỏi hoảng hốt, khiếp đảm và bỡ ngỡ, Thiên Thần nói: "Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Ðức Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. (Mt 28,5-6).
Còn đối với những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu thì có sẵn những âm mưu từ trước nên đã gán cho sự việc này giả thiết như sau: có thể các môn đệ của ông ấy đến ăn cắp xác Đức Giêsu và phao tin Ngài đã sống lại? Và những Thượng Tế, Kỳ Lão đã cho tiền quân lính để chúng đồng thuận với họ về ý tưởng này.
Tuy nhiên, giả thiết này đưa ra thật không có bằng chứng và đáng ngờ vì những lý do:
- Thứ nhất, khi những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ họ đã nghe biết Đức Giêsu nói là sẽ sống lại, nên họ đã đề phòng cẩn thận, bởi vì nếu không lường trước sự việc, thì không khéo điều đó diễn ra thật thì chẳng khác gì như một cú tát, bát nước lạnh tạt vào mặt những kẻ kết án Đức Giêsu, còn với chính họ, chẳng khác gì tự mình ngửa mặt lên và nhổ nước miếng...?Vì thế, họ đã đặt một đội lính canh tinh nhuệ để trông chừng, phòng chống những rủi ro sẽ sảy ra.
- Thứ hai, nếu gán rằng có kẻ thù ăn cắp xác Đức Giêsu thì lại càng không ổn, vì nếu làm nhưu vậy thì vô hình chung lại là điều kiện tốt cho việc phao tin Đức Giêsu sống lại. Và tỷ lệ thuận là điều có thể xảy ra đối với những người đã từng cảm phục Đức Giêsu lúc Ngài còn sống.
- Thứ ba, điều này rất khó xảy ra vì các Tông đồ phần đông là dân chài lưới, ít học, lại kém tin nữa. Bằng chứng là khi cuộc thương khó của Đức Giêsu đến, các ông đã bỏ trốn, có kẻ còn trút lại cả quần áo để miễn sao thoát thân, rồi Phêrô là Tông đồ trưởng nhưng đã vì lo sợ mà trối cả Thầy mình, rồi sau khi Đức Giêsu chết, họ tụ họp với nhau nhưng cửa đóng then cài vì sợ người Dothái..., tiếp theo là sự thất vọng được lộ rõ trên khuôn mặt của hai môn đệ trên đường Emmau. Như vậy, không có lý do gì mà các môn đệ của Đức Giêsu làm được chuyện này trước một đội lính tinh nhuệ và có bề dày kinh nghiệm...
Như vậy, Đức Giêsu đã sống lại thật và sự kiện ngôi mồ trống là bằng chứng. Đây là dấu chỉ thứ nhất. Dấu chỉ thứ 2 là những lần hiện ra với nhiều người, nhiều nơi và cùng lúc, cũng như những người đó lần lượt nhận ra Ngài với những kỷ niệm và những dấu hiệu mà họ đã biết trước đó.
3. Những cuộc hiện ra
Điều đáng nói và cũng là quan trọng nhất, đó là tất cả những diễn biến qua cuộc khổ nạn, chết và sống lại của Đức Giêsu đều được Kinh Thánh báo trước. Khi thì qua hình ảnh, dấu chỉ, tiên báo, hay do chính Ngài loan báo với các môn đệ: Thầy "phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại" (Mt 16, 21). Và hôm nay, Ngài đã sống lại, đã hiện ra cho Maria Mácđala (x. Ga 20, 11- 18); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài (x. Mt 28,9-10; Mc 16,9; Ga 20,11-18); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emmau (x. Mc 16,12-13; Lc 24,13-35); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma (x. Ga 20,19-29); bên bờ hồ Giênêdarét (Ga 21); phép lạ đánh cá (x. Ga 21, 1- 14).v.v; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng (x. Mt 28,16-20; Mc 16: 14 -18; Lc 24: 36 -49; Ga 20: 19 -23; Cv 1:6-8).
Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:
Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu (x. Ga 20, 20.27); nghe thấy những gì Ngài nói (x. Ga 20,16); những hành động Ngài làm (x. Lc 24, 35); hiểu Kinh Thánh (x. Lc 24,27.45)...
Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ (x. Mt 28,9); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ (x. Lc 24,15), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ (x. Lc 20,14;21,4).
Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và trai lì trong ích kỷ, tội lỗi...thì mới không tin mà thôi.
4. Những cuộc đổi đời
Cuối cùng, như trong phần mở đầu đã đề cập đến lời tuyên xưng của thánh Phaolô khi nói: "... nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15,14). Cũng vậy, nếu Đức Giêsu đã không sống lại thì làm sao có những cuộc đổi đời ngay tức khắc như vậy?
Các Tông đồ, là những người nhát đảm sợ sệt, ấy vậy mà sau biến cố phục sinh của Đức Giêsu, các ông đã trở nên mạnh dạn khác thường.
Nếu trước kia họ chỉ là người đi theo Thầy của mình, thì từ ngày Thầy mình phục sinh, các ông đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đấng bị đóng đinh và đã sống lại để rao giảng chân lý Tin Mừng.
Nếu trước kia, các ông là những người ít học, khô khan, kém hiểu biết, thì sau khi Đức Giêsu phục sinh, các ông đã hiên ngang, hùng hồn, uyên thâm khi rao giảng về Đấng đã bị chính dân mình giết chết.
Nếu việc Đức Giêsu sống lại chỉ là chuyện bịa đặt thì làm gì các ông lại dại dột mà đi phỉnh lừa người khác, trong khi mình còn biết bao chuyện phải lo... và các ông cũng đều biết rằng việc các ông rao giảng về Đức Giêsu, thì đồng nghĩa với việc lãnh nhận sự liên klụy và sẽ có nguy bị giết chết.
Nhưng không! Các ông đã không sợ, bởi vì giờ đây, các ông mới hiểu rõ rằng Đức Giêsu là Chúa; là đường, là sự thật và là sự sống. Nên không có gì tách các ông ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, cho dù là gian truân, thử thách, gươm đao và ngay cả cái chết, bởi vì mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, nên vì Ngài, các ông đành mất hết để được tất cả, và đỉnh cao của cái được đó là đồng hiển trị với Ngài trong Vương Quốc của Ngài.
Rồi trải qua biết bao thế hệ, trên khắp thế giới, có biết bao nhiêu con người đã bất chấp hiểm nguy, rừng thiêng núi độc, hiểm trở trăm bề, nhưng vẫn quyết chí lên đường để đi và đến nhằm loan báo Tin Mừng về một Đức Giêsu đã chết, đã phục sinh hầu cứu chuộc nhân loại..., và nếu cần thiết, các ngài sẵn sàng lấy mạng mình để minh chứng điều mình tin là thật. Các thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta là một điển hình.
Như vậy, không ai và cũng không thể nào kéo dài cả hơn 2000 năn nay với một câu chuyện, một niềm tin vô lý được! Và nếu tồn tại đi chăng nữa thì chúng ta là những kẻ ngu dốt nhất trong thiên hạ vì đã tin vào cái xác chết. Nhưng không! Chúng ta tin vào Đấng đã chết và đã phục sinh, và Đấng ấy có đủ quyền năng để dẫn đưa những ai cùng chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại hiển vinh, vì Ngài đi trước dọn chỗ cho chúng ta.
Lạy Đức Kitô Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con thêm đức tin và vững lòng trông cậy theo Chúa đến cùng để được Ngài cho phục sinh vinh hiển. Amen.
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN: VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: "Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?" Người đáp: "Đúng vậy !" Thiên thần hỏi tiếp: "Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?" Chúa trả lời: "Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi". Thiên thần lại nói: "Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?" Chúa đáp: "Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi". Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ thiện chí của họ nên hỏi tiếp: "Giả như Phê-rô, Gio-an và các tông đồ quên thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao ? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?" Chúa Giê-su trả lời: "Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó".
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
- CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mộ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất.
Cũng như chính lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lòng mến đó lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mộ mà than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ vụ đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ như sau: "Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" (Ga 20,17).
- CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy như các môn đệ khác, nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn 0và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8).
- LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA THỨ VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN CHĂN CHIÊN:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su thường đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em tuyên xưng đức tin "Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vào Đức Giê-su vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn bị trách khi quá tự tin vào sức riêng của mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã tỏ ra hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75).
Nhưng bù lại Phê-rô đã có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông can đảm rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi chúng đến bắt Thầy (x Ga 18,10).
Ông không chạy trốn như các ông khác mà đi theo Gio-an theo dõi diễn tiến tòa án xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ trộm lấy xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo Người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao cho sứ vụ chăn dắt chiên con chiên mẹ và chăn dắt cả đàn chiên là Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
- GIÁ TRị CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ vụ loan Tin Mừng cho các tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước anh em và thấy được ý nghĩa của những sự kiện dẫn đến mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã sớm hồi tâm sám hối trở về và được Thầy tín nhiệm đặt làm Đá Tảng đức tin, có nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x Lc 22,32), và còn được Chúa Phục Sinh trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh. Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại trên đường đời.
Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất của mình không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt đau thương như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Ki-tô sẽ được Hội Thánh loan báo đi khắp thế gian như lệnh Người truyền trước khi lên trời (x Mt 28,19).
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su "sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù". Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì "Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng", "Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai" hay không ?
2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng tín thác vào Chúa, Người sẽ kíp thời ban ơn giải cứu và giúp bạn được mau trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian... hầu noi gương các thánh: chúng con sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: "Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
Lm Trần Thanh Sơn
Không biết đây là lần thứ mấy, tôi và quý vị tham dự Thánh lễ nói chung và lễ Phục Sinh nói riêng? Có thể là 10, 20, 30, hay 40, 60... lần? Và cũng không ít hơn từng ấy lần, chúng ta đã nghe các đoạn Tin mừng nói về câu chuyện Đức Kitô Phục Sinh. Tóm tắt câu chuyện rất đơn giản. Trước đó, vào ngày thứ Sáu, ngày áp lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu đã bị hàng lãnh đạo Do Thái kết án và sau đó, Ngài đã bị đóng đinh và chết trên thập giá, rồi xác Ngài đã được mai táng trong huyệt đá. Và rồi vào sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần, sau đại lễ Vượt Qua của người
Do Thái. Các người phụ nữ ra thăm mồ, vì quá thương nhớ một con người hiền lành đã bị kết oán oan ức, nhưng có lẽ cũng là để ướp lại xác Chúa bởi lẽ, hôm trước quá vội vã, họ làm chưa được cẩn thận.
Thế nhưng ra đến nơi, trước mắt họ chỉ còn lại một ngôi mộ trống, chỉ còn lại tấm khăn liệm và các dải băng nhỏ, nhưng xác Chúa thì không còn. Vâng, trước mắt chỉ là một ngôi mộ trống với tấm khăn liệm và những dây băng, nhưng chỉ cần từng ấy thôi cũng đủ để cho người môn đệ Chúa yêu tin rằng: Thầy mình đã Phục sinh. Tin mừng thuật lại: "Ông thấy và ông tin". Đây không phải là một niềm tin mơ hồ, chung chung, nhưng là một niềm xác tín thật sự của tông đồ Gioan. Một niềm tin đủ để ông giao trọn cuộc sống đời mình cho Đấng Phục Sinh.
Trở lại với bài đọc một được trích từ sách Công vụ Tông đồ, thuật lại bài giảng của thánh Phêrô cho viên bách quản Cornêliô. Chúng ta thấy: Trong lần rao giảng này, một lần nữa, thánh Phêrô loan báo cho viên bách quản cũng như cho mọi người chúng ta về con người của Đức Giêsu Kitô. Ngài đã thực sự sinh ra và sống như một con người tại miền đất Palestina. Ngài đã sống, rao giảng và làm nhiều phép lạ tại đất nước Do Thái. Ngài đã chết thật bởi bị đóng đinh trên thập giá, nhưng "ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại".
Thánh nhân còn cho biết rằng: sau khi sống lại, Đấng Phục Sinh cũng đã hiện ra với các tông đồ là "nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước". Và thánh nhân còn khẳng định "chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại". Nếu nhớ lại cảnh thánh Phêrô ba lần chối Thầy mình trước những người đầy tớ, trong sân nhà vị Thượng Tế hôm nào. Chắc hẳn chúng ta sẽ thấy lời rao giảng quả quyết này là một dấu chứng thực sự sống động cho niềm tin của thánh Phêrô vào Đấng Phục Sinh. Chính niềm tin vào Đấng Phục Sinh đã làm cho thánh Phêrô trở nên một con người mới, một nhân chứng sống động về sự Phục Sinh của Đức Kitô. Niềm tin đó đã thúc đẩy thánh nhân vượt qua mọi nỗi sợ hãi, để lên đường rao giảng cho mọi người, kể cả gia đình viên bách quản Cornêliô là những người ngoài Do thái. Và thánh nhân còn quả quyết: "Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ Danh Người mà được tha tội". Thế nhưng, chỉ nguyên một việc tuyên xưng đức tin nơi môi miệng hay việc tham dự các lễ nghi phụng vụ đông đảo, sầm uất thì chưa đủ bảo đảm cho đức tin của mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô nói: "Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chớ đừng nghĩ đến những sự dưới đất". Như thế, một đức tin chân thật cần được minh chứng bằng chính cuộc sống thường ngày của mỗi người chúng ta.
Tới đây, tôi nhớ có một câu chuyện kể rằng: Một hôm có một người nông dân vô tình nhặt được một trứng đại bàng. Anh ta đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau, cả trứng gà lẫn trứng đại bàng đều nở. Tất cả đều đi theo gà mẹ để kiếm ăn. Thế rồi, ngày tháng dần trôi, bầy gà con và cả đại bàng cùng lớn lên bên chân gà mẹ, cạnh đống rơm, bụi cỏ. Thỉnh thoảng, đại bàng cũng thấy hình như mình có một cái gì đó khác với các anh em gà của mình, nhưng chú cũng không biết rõ là cái gì.
Một hôm, đại bàng ta đang bới đất để tìm con giun, con dế như các con gà khác, bỗng nhiên bầu trời như tối sầm đi, các con gà đều chạy lại với nhau một chỗ. Ngước mắt lên bầu trời, chú thấy có một con chim gì thật to lớn, bay lượn trên bầu trời thật hiên ngang, hùng dũng. Chú liền lên tiếng hỏi, thì được trả lời: "Đó là đại bàng. Vua của các loài chim đó!". Tự nhiên, như một bản năng, chú cũng muốn vươn đôi cánh của mình để cất cánh bay lên bầu trời tự do như những con đại bàng kia, nhưng lập tức, những con gà khác liền nói với chú: "Chú mày là gà, chúng tao cũng là gà. Không bay được đâu". Và thế là chú đại bàng con lại tiếp tục, bới đất kiếm ăn và rồi chết trong thân phận của một con gà.
Nghe xong câu chuyện, có lẽ mỗi người chúng ta đều nghĩ tội nghiệp cho chú đại bàng con. Chú là đại bàng, nhưng không biết bay cao, bay xa như đại bàng, để rồi sống và chết như một con gà tầm thường.
Thế nhưng có thể trong cuộc sống hàng ngày, tôi và quý OBACE vẫn đang sống như chú đại bàng kia. Chúng ta đã được nhận lãnh bí tích Thánh Tẩy, được vinh dự trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được mời gọi sống "thánh thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng Thánh" (Mt 4, 48), vậy mà chúng ta vẫn chưa hướng được lên trời cao. Chúng ta vẫn cứ mãi chạy theo những cái "dưới đất", tức là những lợi lộc trước mắt. Chúng ta chưa đủ niềm tin và nghị lực để vượt qua những rào cản của thành kiến, dư luận để tự mình "bay" đến với những anh chị em đang bị đẩy ra bên lề xã hội, những người bệnh tật, nghèo hèn.
Chúng ta cũng chưa thể nói rằng mình tin vào Đấng Phục Sinh, nếu sau khi rời khỏi ngôi thánh đường này trở về nhà, chúng ta lại tiếp tục nói hành, nói xấu anh chị em mình.
Chúng ta cũng không thể nói rằng tôi tin vào Đấng Phục Sinh, nếu trong cuộc sống hàng ngày của mình, chúng ta vẫn tiếp tục sống giả dối, lừa gạt lẫn nhau; vẫn tiếp tục một cuộc sống tranh quyền, đoạt lợi bằng mọi thủ đoạn.
Và nếu trong cuộc sống của mình, chúng ta còn có những suy nghĩ phân biệt người sang, kẻ hèn; chúng ta còn phân biệt giữa người tới trước và những anh chị em mới gia nhập cộng đoàn chúng ta sau này, thì chắc chắn, lối sống đó không phải là một dấu hiệu của một niềm tin chân thật vào Đấng Phục Sinh, bởi lẽ, với cuộc Vượt Qua của mình, Đấng Phục Sinh đã phá tan mọi rào cản về ngôn ngữ, chủng tộc, phá tan sự ngăn cách giữa người Do Thái và "dân ngoại", để đôi bên được trở nên một (x. Ep 2, 14; Dt10, 20).
Mừng đại lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta cùng hiệp ý xin Thánh Thần của Đấng Phục Sinh ngự đến biến đổi tâm hồn của mỗi người chúng ta, để chúng ta thực sự trở nên những con người mới, những con người biết "tìm những sự trên trời", chớ không chỉ là "những sự dưới đất". Nhờ đó, khi "Đức Kitô là sự sống chúng ta xuất hiện, bấy giờ, chúng ta cũng sẽ được xuất hiện với Người trong vinh quang". Amen.
-----------------------------
Ga 20, 1 – 9
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong ba ngày qua, chúng ta tưởng niệm cuộc thương khó và tử nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã chết thật và được mai táng trong mồ ba ngày. Hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng đại lễ Chúa Kitô Phục Sinh. Đó là một biến cố gây ngạc nhiên, một sự kiện có một không hai trong lịch sử nhân loại và là nền tảng niềm tin của chúng ta.
Thánh Phaolô đã xác tín: "Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng". (1 Cr 15, 14).
Niềm tin của chúng ta căn bản là tin vào Đấng Phục sinh và chúng ta đặt hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa Hằng Sống (1Tm 4,10). Thánh Agustinô nói rằng: "Lòng tin của Kitô hữu là sự phục sinh của Chúa Kitô. Khi tin Chúa Kitô đã chết thì không có gì là khó khăn cả, kẻ ngoại đạo cũng tin như vậy, và tất cả mọi người cũng đều tin như vậy. Nhưng điều cao cả hơn hết là tin Chúa Kitô đã sống lại thật".
Nhưng tin vào Chúa sống lại không phải là một việc dễ dàng, vì chúng ta vẫn thường nghi ngờ làm sao có chuyện người chết sống lại? Vậy đâu là bằng chứng và nền tảng của niềm tin vào Chúa Kitô đã phục Sinh?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể giải thích sự sống lại của Chúa Kitô như một biến cố lịch sử, nghĩa là biến cố Chúa sống lại là một biến cố đã thực sự xẩy ra.
Những sự kiện sau đây có thể chứng minh sự sống lại của Chúa là có thật:
- Trước hết, Chúa Giêsu đã Chết thật
Bốn Phúc Âm đã kể lại vụ án và cái chết của Chúa xảy ra ngoài thành Giêrusalem là có thật. Chúa đã chết cùng với hai tội nhân và được mai táng trong mồ. Sử gia ngoại giáo là Giusepus cũng nói đến cái chết của ông Giêsu. Nếu Chúa không chết thì làm sao có chuyện phục sinh.
- Sự cứng lòng tin của các tông đồ
Các tông đồ là những người có thật, những người đánh cá đã theo Chúa. Khi thấy Chúa bị bắt và đem đi giết, rồi nhìn thấy Chúa chết trên thập giá, các tông đồ nghĩ rằng mọi sự đã kết thúc và ai nấy bỏ cuộc, trở về nhà mình. Lúc đầu các ông không hề chờ đợi một sự sống lại, họ có tin đâu! Chúa Giêsu phải trách móc họ: "Ôi những kẻ kém lòng tin!" Họ chính là những người lúc đầu có quan niệm là bị Chúa lừa gạt. Nhưng sau đó họ đã tin là có thật. Nếu Chúa không sống lại thì làm sao họ có thể chịu bị bách hại và chịu chết vì Chúa được? Họ được lợi lộc gì khi phải chịu hy sinh như vậy?
- Ngôi Mộ trống cũng là một lời chứng về Chúa Phục Sinh
Chúa được chôn trong một ngôi mộ và việc Chúa chổi dậy và ra khỏi mồ cũng là một bằng chứng. Tin Mừng Luca kể các phụ nữ ra mộ Chúa. Các bà hoảng sợ vì không thấy xác Chúa mà thấy một người thanh niên ngồi bên phải nói rằng: Người đã chổi dậy rồi không còn đây nữa (Lc 16,6).
- Và một bằng chứng rất quan trọng đó là các lần hiện ra của Chúa Kitô phục Sinh
Chúa hiện ra với các phụ nữ, với hai môn đệ trên đường Emaus. Rồi sau hiện ra với các tông đồ và nhiều người khác, Chúa cho Tôma xem các dấu đanh vì ông nghi ngờ.
Chứng tá xưa nhất về Chúa Kitô sống lại là của thánh Phaolô khi Ngài nói: "Tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng và ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh, Người đã hiện ra với ông Kê Pha rồi với nhóm Mười Hai. Sau đó Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số đó phần đông hôm nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến Người cũng hiện ra với ông Giacôbê rồi với tất cả các Tông đồ. Sau hết Người cũng đã hiện ra với tôi là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non" (1Cor 15,3-8). Những lời này được viết ra vào năm 56 hay 57 sau C.N. Vì Phaolô đã gặp Đấng Phục sinh trên đường đi Đamas để bắt bớ giáo hội vào khoảng năm 35 sau C.N, nghĩa là khoảng 5 năm sau khi Chúa Kitô chết. Vì thế, đó là một chứng nhân lịch sử rất có giá trị.
Những cuộc hiện ra này chứng minh những điều mới mẻ về Chúa Kitô Phục Sinh. Ví dụ không phải ai cũng có thể thấy Chúa được nhưng chỉ những người Chúa cho thấy mới thấy Chúa được mà thôi. Thân thể Chúa hoàn toàn khác biệt với ngày trước. Chúa không còn lệ thuộc vào những định luật vật chất. Chúa đi ra vào mà cửa nhà vẫn đóng kín; cũng như Chúa hiện ra và biến đi.
Đây là những bằng chứng khách quan về sự sống lại của Chúa Kitô. Nhưng biến cố Chúa Phục sinh phải được đón nhận bằng đức tin mà thôi vì lý trí không thể lý giải được tại sao. Cho nên chúng ta cần phải có đức tin để hiểu biết và đón nhận biến cố quan trọng này.
Xin Chúa Kitô phục sinh ban cho chúng ta đức tin mạnh mẽ và vững vàng để chúng ta sống và làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh trong thế giới hôm nay. Amen
-----------------------------
ALLELUIA ! ALLELUIA !
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT PHỤC SINH, năm A
Ga 20, 1-9
Alleluia! Alleluia ! Chúa đã sống lại rồi! Đó là lời hô vang của các môn đệ xưa. Đó là lời loan báo của những người phụ nữ đầu tiên được gặp Chúa Kitô phục sinh. Tin Mừng phục sinh được vang lên trong Hội Thánh trong khắp buổi đầu. Tin Mừng này còn được vang lên mãi, vang lên mãi để tuyên xưng niềm tin, mời gọi nhân loại, mời gọi con người sống niềm hy vọng. Chúa Kitô đã sống lại, alléluia. Chúa Kitô sẽ làm cho chúng ta được sống lại như Người.
Chúa nhật phục sinh là Chúa nhật vĩ đại cho toàn thể nhân loại, cho những người có đức tin. Bởi vì, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, Chúa Kitô đã chỗi dậy từ cõi chết.Mọi người chúng ta không được chứng kiến sự phục sinh của Chúa như các người phụ nữ, như các môn đệ, nhưng Kinh Thánh, và việc làm chứng của các môn đệ, của những người phụ nữ, của Hội Thánh là lời tuyên xưng đức tin không hề lay chuyển. Thánh Phaolô đã viết trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô 1Co 15, 14:” Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì việc rao giảng của chúng tôi trở nên vô ích và đức tin của anh em cũng trống rỗng nữa “.Ơn huệ Thiên Chúa trao ban, ơn phục sinh Chúa Kitô đem lại củng cố đức tin của chúng ta, đến nỗi mỗi lần tung hô đức tin sau khi truyền phép, chúng ta cùng với Hội Thánh muôn thời tung hô:” Đức Kitô đã chết, Đức Kitô đã sống lại, xin cứu độ chúng con “. Chúa Kitô quả thực cứu độ chúng ta và qua cái chết, qua sự sống lại của Ngài, Ngài muốn làm cho mọi người được phục sinh với Ngài:” Bằng sự chết, Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống cho chúng ta. Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến trong vinh quang “. Chúng ta hy vọng, niềm hy vọng vào sự sống lại sẽ giúp chúng ta vui sống, tin yêu, phó thác vào Chúa. Chính nhờ niềm vọng vào đời sống mai sau, chúng ta sẽ chấp nhận sự sống hiện tại và vững lòng tin yêu sống tình yêu và sự sống của Chúa trong hiện tại:” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Chấp nhận sống tình yêu trong hiện tại sẽ mở ra chân trời hy vọng tốt đẹp cho mỗi người có lòng tin vào Chúa.
Chúa nhật phục sinh là lễ của mọi lễ bởi vì Hội Thánh mừng ngày Chúa Kitô khải hoàn. Tin Mừng phục sinh hôm nay vẫn vang lên, vang lên mãi mãi như lời thánh Phaolơ diễn tả trong bài đọc 2 hôm nay:” Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitơ nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitơ, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang “ ( Cl 3, 3-4 ). Tin Mừng phục sinh luôn thôi thúc, giục giã mọi người lên đường làm chứng cho Chúa Kitô sống lại. Người Kitô hữu luôn sống hy vọng và luôn sống tình yêu hiện tại tràn đầy bởi Đức Kitô đã phục sinh để đem lại tình yêu vô biên cho mọi người:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13). Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu tự hiến, tình yêu nhưng không, tình yêu cao cả. Sống tình yêu như Chúa là sống trong niềm hy vọng phục sinh ” Alléluia” .
Chính nhờ sự sống lại của Chúa Kitô mà nhân loại, con người và mọi người sẽ luôn hy vọng, một chân trời mới mở rộng.Bởi vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì đức tin của chúng ta trở nên hão huyền, mơ hồ và vô ích. “ Lạy Chúa, bởi thánh giá và sự phục sinh của Người, Người đã giải thoát chúng con; Người là Đấng cứu độ của thế gian “.
Alléluia.Alléluia.Alléluia. Chúa Kitô đã sống lại để chúng ta được đi vào sự sống mới và được sống lại với Ngài. Alléluia.
Xin cho chúng con luôn xác tín và tuyên xưng niềm tin Chúa Kitô phục sinh để chúng con không nhát đảm, lùi bước trước những khổ đau, thất vọng ê chề trong cuộc đời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Làm sao OBACE tin được Chúa Giêsu phục sinh ?
2.Ngơi mộ trống đã đủ để minh chứng Chúa phục sinh chưa ?
3.Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với ai trước nhất ?
4.Ngày thứ nhất trong tuần là ngày nào ?
5.Rabboni là gì ? Ai đã nĩi lời đĩ ?
-----------------------------
PS1-313: ĐỨC KITÔ GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG, CHÂN LÝ VÀ TÌNH YÊU
(Lễ Vọng Phục Sinh)
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Những ai đã từng đi rừng vào ban đêm, hẳn sẽ hiểu được sự cần thiết của ánh sáng. Cách đây khoảng mấy chục năm, việc có và sử dụng đèn pin là rất hiếm, nên những người đi rừng vào ban đêm thường hay đốt đuốc để dò đường. Một phần phá đi bóng tối bao phủ, phần khác xua đuổi những loài dã thú dữ... Rồi trong những dịp lễ hội dân gian, người ta thường hay nhóm lên đống lửa và tụ họp trung quanh nó để vui ca nhảy múa... ta gọi đó là lửa trại.
Đêm nay, đêm mà mọi người Công Giáo trên thế giới cũng quây quần bên ánh lửa đặc biệt của ngọn nến Phục Sinh. Ánh lửa đó tượng trưng cho chính Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chiến thắng tử thần và đã sống lại. Ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng lên để xua đi bóng tối của những phiêm tòa ẩn khuất xử Đức Giêsu trong đêm và cũng phá tan bóng đen u ám của cái chết trên đồi Canvê chiều thứ 6 Tuần Thánh.
Đức Kitô Giêsu là Ánh Sáng, là Chân Lý và Tình Yêu
Trước khi cử hành phụng vụ đêm nay, mọi ánh đèn đều được tắt, để khởi đi từ bóng tối. Đây là hình ảnh của tội lỗi, sự dữ, gian dối và chết chóc. Nhưng ngay sau đó, nến Phục Sinh được thắp lên, được truyền lan đến mọi người, và vị chủ tế cất tiếng giới thiệu: “Ánh Sáng Chúa Kitô”, mọi người đáp: “Tạ ơn Chúa”. Nghi thức này cho thấy: Đức Kitô phục sinh đã phá tan bóng tối, đêm đen, tội lỗi và sự chết. Từ nay Ngài là Chúa của kẻ sống và sẽ phục sinh tất cả những ai đã cùng Ngài bước qua đau khổ thì sẽ được đến vinh quang. Từ nay, Ngài sẽ thông ban sự sống của Ngài cho chúng ta, để chúng ta sống tự do trong cương vị là con cái Chúa.
Vì thế, kể từ đây, chúng ta thuộc về Đức Kitô Phục Sinh - Đấng là Sự Sống, là Ánh Sáng chiếu soi mọi người. Khi đã thuộc về Đức Kitô như thế, mỗi người cũng nhớ lại vai trò trở nên ánh sáng soi cho muôn người ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
Ánh Sáng của nến Phục Sinh được thắp lên, còn gợi cho chúng ta cảm nghiệm được sự sáng và sức nóng, đây chính là biểu trưng của chân lý và tình yêu nơi Đức Giêsu. Chân lý và tình yêu là hai đặc tính luôn ở bên mỗi chúng ta và nó thôi thúc mỗi người hãy bước theo chân lý và sống trong tình yêu. Bước theo chân lý và sống trong tình yêu là gì nếu không phải là cùng làm chứng với Đức Kitô Giêsu, cùng bước vào quỹ đạo của tình yêu là yêu cho đến cùng như Ngài!
Như thế, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, nếu một khi đã trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, tức là ta cùng chết với Ngài, ắt ta cũng sẽ được cùng Ngài sống lại hiển vinh.
Thiên Chúa biểu hiện Tình Yêu của Người
Các bài đọc sẽ giúp cho chúng ta lần lượt khám phá thêm ý nghĩa của đêm nay:
Phụng vụ Lời Chúa được khởi đầu với bài trích sách Sáng Thế, qua bài đọc này, gợi lại cho chúng ta những hình ảnh rất giàu tính biểu cảm, đó là: cảnh tối tăm bao trùm hết mọi nơi, tình trạng hỗn mang vô trật tự. Tuy nhiên, khi Đức Chúa phân rẽ ngày và đêm, ánh sáng và bóng tối, thì tình trạng hỗn mang đó không còn nữa và kể từ đó mọi vật và mọi loài sống theo trật tự đúng với bản chất của chúng. Qua bài đọc này, dưới ánh sáng đức tin, chúng ta xác tín hơn về niềm tin của mình vào một Thiên Chúa là Chủ Tể trời đất. Mọi sự hiện hữu trên trần gian này thuộc về Người, và do ý muốn của Người mà có.
Tiếp theo, hành ảnh của Ápraham hiện lên như một mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Ông đã đặt trọn niềm tín thác của mình ở nơi Đức Chúa, nên ông sẵn sàng hiến dâng cho Người những gì là quý giá nhất của mình, đó chính là Isaác, đứa con trai duy nhất để trọn niềm hiếu trung với Người.
Sang bài đọc Xuất Hành, tác giả gợi lại cho chúng ta về một vị Thiên Chúa luôn yêu thương con cái của mình. Thật vậy, Người đã cứu thoát họ ra khỏi Aicập và đưa họ về miền Đất Hứa, nơi tràn trề sữa và mật. Cuộc xuất hành của dân Do thái cho chúng ta một hình ảnh tiên trưng vừa cá nhân vừa tập thể. Cá nhân thì ám chỉ cuộc vượt qua của Đức Giêsu; tập thể là cuộc vượt qua của tất cả chúng ta.
Hình ảnh dân Israel được trình bày cách tiệm tiến: cuộc đời và dân tộc của Israel đi từ thân phận nô lệ do tội lỗi, đến nơi được tự do trong tâm tình con cái Chúa; đi từ sự thất vọng đến hy vọng tràn trề; từ sự chết đến sự sống. Thiên anh hùng ca giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập là bằng chứng hùng hồn việc Thiên Chúa đang hướng dẫn lịch sử nhân loại tới hồng ân cứu độ. Mặc cho dân thất trung, bội ước, Thiên Chúa vẫn yêu thương và không hề lay chuyển.
Khi xưa, dân Israel đã khước từ nguồn mạch khôn ngoan, thì đến thời Tân Ước, Thiên Chúa đã trao ban chính Đấng Khôn Ngoan của mình đến ở trực tiếp. Đấng ấy chính là Đức Kitô Giêsu chịu đóng đinh và đã sống lại để cứu chuộc nhân loại.
Sống mầu nhiệm Ánh Sáng
Đêm nay, đêm Vọng Phục Sinh, ngọn lửa Phục Sinh được chiếu sáng nhắc cho chúng ta thấy rằng, Đức Giêsu là Ánh Sáng, Ánh Sáng đã đến thế gian để cùng chân lý đẩy lui sự dữ, hận thù và chia rẽ... để trao tặng cho nhân loại một Ánh Sáng của tình yêu, niềm tin, phó thác, và như thế, người kitô hữu chúng ta, một khi đã được Rửa tội, chúng ta được mặc lấy Đức Kitô để thuộc về Ngài, thì đêm nay, chúng ta thắp lên và hướng về ngọn nến Phục Sinh như một sự suy phục, hẳn chúng ta cũng không thể không nghĩ đến vai trò chứng nhân của mình là phải trở nên ánh sáng cho mình và soi sáng cho tha nhân.
Cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Israel, và cũng là dành cho mỗi người kitô hữu chúng ta, đêm nay, một lần nữa, mỗi người tuyên tín lại niềm tin của mình ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, để một lần nữa hâm nóng lại sự xác tín của mình vào Đức Kitô Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến để chiếu rãi chân lý và tình yêu của Người cho nhân loại. Đấng ấy đã đi đến tận cùng của tình yêu là vâng lời trọn vẹn và hiến dâng mạng sống của mình làm của lễ đền tội thay cho nhân loại. Đấng ấy đã sống lại để dẫn đưa những người tin vào sự sống mới, sự sống tràn đầy hạnh phúc và bình an.
Nếu Ápraham đã vâng lời, tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa nên đã hiến tế con trai duy nhất của mình cho Thiên Chúa, thì Đức Giêsu, Đấng là con duy nhất của Thiên Chúa Cha cũng đã tự hiến chính mình để thể hiện tình yêu trọn vẹn vào Thiên Chúa và vì yêu nhân loại, khi đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy sống sự hiến tế ấy trong tư cách là con cái Thiên Chúa và trong tư cách là người mang trong mình hình ảnh của Đức Kitô Giêsu, để yêu Chúa và yêu tha nhân hết lòng.
Nếu xưa kia, Đức Chúa đã dẫn dân ra khỏi ách nô lệ bên Aicập, để đưa dân đến bến bờ tự do thực sự, thì Đêm nay, Đức Kitô Giêsu cũng làm một cuộc Xuất Hành mới, cuộc Xuất Hành này đi từ sự chết đến sự sống, cái chết không còn quyền chi đối với Ngài nữa, từ nay Ngài là Chúa các chúa, Vua các vua, là Chúa của kẻ sống. Như vậy, Ngài đã giải thoát con người chúng ta khỏi sự dữ, sự tội, khi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng can đảm để làm một cuộc xuất hành mới, đi từ tối tăm của tội lỗi; từ sự bất hạnh do tội lỗi gây ra; từ những điều bất chính; những ràng buộc do tội gây nên, để trở thành con người mới, con người tự do trong tư cách là người thuộc về Đức Kitô Giêsu.
Bên cạnh đó, đêm hôm nay cũng là đêm của Ánh Sáng được chiếu dãi cho muôn dân. Thật vậy, sự chờ đợi của anh chị em Dự Tòng trong những tháng ngày qua, giờ đây họ đã được chính thức lãnh nhận Phép rửa để trở nên người kitô hữu trong Giáo Hội Chúa Kitô. Họ khoác lên mình chiếc áo trắng, tượng trưng cho sự sống mới trong Đức Kitô, Đấng đã phục sinh.
Chúng ta cùng cầu nguyện và đồng hành với những anh chị em này, để họ luôn giữ được ngọn nến sáng của đức tin, luôn sẵn sàng làm chứng cho chân lý và luôn sống trong tình yêu với Thiên Chúa và tha nhân.
Lạy Đức Kitô Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con thuộc trọn về Chúa để trở nên một con người mới trong ân sủng và tình yêu. Amen.
-----------------------------
St 1,1.26-31a ; Xh 14,15-15,1a ; Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 ; Mt 28,1-10
TIN YÊU CHÚA ĐỂ CHU TOÀN SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 28,1-10
(1) Sau ngày sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló dạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. (2) Và kìa, đất rung chuyển dữ dội, Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên. (3) Diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. (4) Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết. (5) Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Phần các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. (6) Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, (7) rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: “Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”. (8) Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay. (9) Và kìa Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: “Chào chị em !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. (10) Bấy giờ Đức Giê-su nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”.
2. Ý CHÍNH:
Vào lúc bình minh ngày thứ nhất trong tuần, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà Ma-ri-a khác đã cùng đi thăm mồ Đức Giê-su. Nơi đây, các bà đã chứng kiến một trận động đất và cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy thiên thần hiện ra. Thiên thần đã trấn an các bà và báo tin Chúa Giê-su đã phục sinh. Thiên thần còn trao cho các bà sứ vụ phải loan tin mừng ấy cho các tông đồ. Các bà vội vã thi hành và sau đó các bà cũng được chính Chúa Phục Sinh hiện ra để củng cố đức tin và trao sứ vụ báo tin cho các tông đồ như sau: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (10).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3:
+ Sau ngày Sa-bát: Về thời gian các bà ra thăm mộ Chúa thì có người cho rằng vào lúc chập tối thứ bảy, tức là bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng hầu hết các ý kiến đều dựa theo Tin Mừng Lu-ca và Mác-cô để quả quyết rằng: các bà đến thăm mộ vào lúc tảng sáng ngày đầu tuần, tức là lúc mặt trời sắp mọc (x Lc 24,1).
+ Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a: Đây là những phụ nữ đã chứng kiến việc an táng Đức Giê-su (x Mt 27,61). Khi ghi lại việc đến mộ này, Mát-thêu nhằm nhấn mạnh các bà như là nhân chứng của mầu nhiệm Phục Sinh, đang khi Mác-cô và Lu-ca lại trình này khía cạnh nhân bản: ra thăm mộ và mang theo dầu thơm để tiếp tục công việc ướp xác Đức Giê-su (x Mc 16,1; Lc 24,1).
+ Đất rung chuyển dữ dội: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu ghi lại chi tiết “đất chuyển mạnh" như câu này và ”màn Đền Thờ bị xé, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung” xảy ra sau khi Đức Giê-su trút linh hồn trên cây thập giá (x. Mt 27,51-52). Những sự kiện này đều tiên báo cho “Ngày của Đức Chúa” do các Ngôn sứ đã tuyên sấm (x Is 26,19; Ed 37,12; Đn 12,2).
+ Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên: Tảng đá được lăn ra có thể là do đất động, nhưng được gán cho thiên thần. Việc thiên thần xuất hiện lăn tảng đá và ngồi lên trên, cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa đã chiến thắng mọi dự tính của con người muốn chôn Đức Giê-su và công trình cứu độ của Người trong mồ đá (x Mt 27,66).
+ Diện mạo Người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết: Vẻ sáng láng của diện mạo và y phục trắng như tuyết là đặc điểm của cuộc thần hiện trong Thánh Kinh. Chẳng hạn: Trong sách Đa-ni-en, dung mạo Con Người giống như ánh chớp (x Đn 10,6), áo của Đấng Lão Thành trắng tinh như tuyết (x Đn 7,9), và khi biến hình, dung mạo Đức Giê-su cũng chói lọi như mặt trời, y phục Người trắng tinh như ánh sáng (x Mt 17,2).
- C 4-7:
+ Thấy người, lính canh khiếp sợ: Sự xuất hiện của thiên thần làm cho lính canh hoảng sợ, vì được tiếp xúc với thế giới thần thiêng, giống như các Tông đồ đã từng khiếp sợ khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển đến với các ông giữa đêm khuya (x. Mt 14,26).
+ Các bà đừng sợ: Thiên thần trấn an các bà. Lính canh phải sợ hãi chứ các bà việc chi phải sợ !
+ Các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh: Có sự song đối giữa “Đấng bị đóng đinh” với Tin Mừng “Người đã trỗi dậy”, hầu ứng nghiệm lời Người đã tiên báo là Người sẽ “Qua đau khổ để vào vinh quang” (x. Mt 16,21).
+ Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm: Các phụ nữ này được mời đến kiểm chứng nơi Đức Giê-su đã nằm để thấy lời thiên thần nói là xác thực.
+ Rồi mau về nói với môn đệ Người: Các bà được vinh dự nhận trách nhiệm mang sứ điệp Chúa Phục Sinh cho các môn đệ (x Mc 16,7). Ở đây Mát-thêu nhấn mạnh vì là sứ điệp quan trọng, nên các bà phải lập tức thi hành.
+ Và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông: Thiên thần nhắc lại lời tiên báo của Đức Giê-su về việc Người sẽ từ cõi chết sống lại và cho biết Người hẹn sẽ gặp lại các ông tại xứ Ga-li-lê (x Mt 26,32).
- C 8-10:
+ Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng: Các phụ nữ tuy sợ nhưng lại rất phấn khởi, và lập tức thi hành sứ vụ được trao phó.
+ Chào chị em: Lời chào nói lên niềm vui ơn cứu độ do Chúa Phục Sinh mang lại, giống như lời sứ thần Gáp-ri-en chào khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x Lc 1,28).
+ Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân và bái lạy Người: Cử chỉ bái lạy để biểu lộ đức tin trước đó đã được nhiều người thể hiện với Đức Giê-su (x Mt 8,2; 9,18; 14,33). Nhưng ở đây được các bà làm cách trang trọng, kèm theo cử chỉ hôn chân biểu lộ lòng yêu mến kính phục của môn đệ được gặp lại Thầy sau những ngày buồn sầu thất vọng.
+ Chị em đừng sợ: Đây là lời trấn an của Chúa dành cho các môn đệ đang khiếp sợ khi đối diện với thế giới thần thiêng.
4. HỎI ĐÁP: Chúa PS đã hiện ra bao nhiêu lần với các môn đệ trước khi lên trời ?
ĐÁP:
Về các cuộc hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh thì các Tin Mừng không thống nhất với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý là các tác giả Tin Mừng đều không muốn kể lại toàn bộ các lần Chúa đã hiện ra sau khi từ cõi chết sống lại. Ta chỉ có thể so sánh giữa nhiều đoạn văn của Tân Ước với nhau, để phỏng đoán: trong thời gian bốn mươi ngày trước khi lên trời, Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần chứ không phải chỉ vài ba lần như đã được kể lại (x Cv 1,8; 13,31; 1 Cr 15,3-8). Riêng Mát-thêu, vì viết theo lối giản lược, nên đã bỏ qua nhiều hoàn cảnh và nhiều chi tiết cụ thể các lần Chúa hiện ra trước đó, mà chỉ muốn nhấn mạnh việc Chúa Phục sinh hiện ra tại Ga-li-lê để chính thức sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng mà thôi (x. Mt 28,16-20).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (6b-7).
2. CÂU CHUYỆN: TA LÀ GIÊ-SU ĐÂY !
Ngày kia một người mới chết đã từ trần gian theo con đường hẹp và leo dốc để lên tới Thiên đàng. Khi đến nơi vào buổi trưa thì thấy cửa đang đóng kín, ông ta liền rụt rè gõ cửa ba tiếng: “cok cok cok !”. Từ bên trong có tiếng hỏi vọng ra: “Ai đang gõ cửa đó ?”. Ông liền thưa: “Lạy Chúa. Con đây ạ!”. Tiếng Chúa hỏi tiếp: “Con là ai ? Con hãy về trần gian học cho biết điều kiện để được lên thiên đàng, rồi mới quay lại nơi đây nhé”.
Trở về trần gian, ông ta cố gắng học sống Lời Chúa, ăn chay hãm mình và làm nhiều việc bác ái noi gương Chúa Giê-su. Nhờ đó ông hiểu được điều kiện để được vào thiên đàng là phài thấy Chúa đang hiện thân nơi những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi để phục vụ như phục vụ chính Chúa, và còn phải mỗi ngày biến hình nên giống Chúa Giê-su trước mặt mọi người.
Sau một thời gian, ông ta trở lại thiên đàng. Lần này khi nghe tiếng hỏi: “ai đó ?”, ông ta liền trả lời răng: “Ta đây, Giê-su đây !”. Ông liền nghe được lời Chúa Giê-su nói với ông: “Nào kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các người đã cho ăn. Ta khát các ngươi đã cho uống. Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom. Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25,34-36)… “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40)… Và cửa thiên đàng liền rộng mở đón ông vào hưởng hạnh phúc đời đời.
3. SUY NIỆM:
1) Nghi thức phụng vụ lễ Vọng Phục Sinh:
- Chúa Phục Sinh là Ánh Sáng chiếu soi trong trần gian u tối: Phụng vụ lễ Vọng Phục Sinh hôm nay khởi đầu bằng việc tất cả đèn nến trong nhà thờ đều tắt để tượng trưng loài người sống trong bóng tối tội lỗi và sự chết. Chủ sự đã làm phép lửa mới, thắp sáng cây nến Phục Sinh và sau đó công bố ba lần cho cộng đoàn như sau: “Ánh Sáng Chúa Ki-tô”. Cây nến Phục Sinh được chủ sự cầm rước từ cuối nhà thờ lên tới cung thánh cắm vào giá nến. Việc rước nên Phục Sinh ghi nhận sự kiện: Khi ánh sáng phục sinh của Chúa Ki-tô tiến đến đâu, lập tức bóng tối tội lỗi và sự chết liền bị xua tan đến đó. Ánh sáng từ nến phục sinh phải được truyền từ người này sang người bên cạnh. Từ nay Đức Ki-tô Phục Sinh sẽ trở thành Chúa của người sống và kẻ chết. Người sẽ ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Danh Người và đi theo con đường Người đã chọn để theo thánh ý Thiên Chúa là: “Qua đau khổ vào trong vinh quang”.
- Sống trong ánh sáng Phục Sinh của Chúa: Đêm nay, ngọn lửa Phục Sinh được thắp sáng nhắc các tín hữu chúng ta nhớ rằng: Đức Giê-su được Thiên Chúa sai đến để xua tan bóng tối tội lỗi, sự gian ác và hận thù của ma quỷ... để nhân loại được sông trong ánh sáng tin yêu, vui tươi và hy vọng một “Trời Mới Đất Mới” trong Thiên Chúa (x Kh 21,1-4). Khi được chịu phép rửa tội, là chúng ta được mặc lấy Chúa Ki-tô để thuộc về Người. Cây đèn người tân tòng cầm trên tay tượng trưng cho đức tin phải luôn cháy sáng đức cậy và đức mến trước mặt người đời, để họ nhìn thấy những việc tốt chúng ta làm mà tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta trên trời (x Mt 5,16).
- Đồng hành với Chúa Ki-tô về Đất Hứa Nước Trời: Nếu xưa kia, Đức Chúa đã sai Mô-sê lãnh đạo cuộc Xuất Hành, giải phóng con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ cho người Ai cập, trở thành dân tộc tự do, thì đêm nay, Đức Kitô là Mô-sê Mới cũng lãnh đạo một cuộc Xuất Hành Mới, giải phóng dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh khỏi ách nô lệ cho ma quỷ, tội lỗi và sự chết, để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Anh chị em tân tòng sau khi được thanh tẩy trong nước rửa tội, sẽ được mặc chiếc áo trắng tinh và tay cầm cây đèn đức tin cháy sáng đức cậy và đức mến và được xức dầu để đón nhận ơn Chúa Thánh Thần trong bí tích Thêm Sức, hầu trở nên chứng nhân Chúa Ki-tô. Họ sẽ được gia nhập vào cộng đoàn để cùng tham dự bữa tiệc Thánh Thể. Mọi người sẽ cầu nguyện cho các tân tòng được tái sinh làm con Thiên Chúa hôm nay, để họ giữ mãi tấm áo thanh sạch và luôn cháy lửa mến Chúa, hầu chu toàn sứ vụ làm chứng về Chúa Giê-su cho mọi người, nhất là người thân trong gia đình, bạn bè … để mời họ gia nhập vào cộng đoàn Hội Thánh, để cùng đồng hành với Chúa tiến về Đất Hứa Thiên Đàng đời sau.
2) Sống mầu nhiệm Phục Sinh trong cuộc sống hôm nay:
- Đức Giê-su phải phục sinh trong lòng chúng ta: Chúng ta đa mừng nhiều lễ Phục Sinh. Nhưng xem ra cuộc sống đức tin của chúng ta vẫn không mấy thay đổi: Chúng ta vẫn còn nhiều tội lỗi và thói hư ! Tại sao như vậy ? Một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta đã mừng lề Phục Sinh chỉ như một biến cố ở ngoài chúng ta. Một nhà tu đức đã nói: “Nếu Chúa Giê-su chỉ sinh ra tại Bê-lem, chỉ sống tại đất nước Do Thái, chỉ chịu chết trên đồi Can-vê, và chỉ phục sinh trong lịch sử cách đây 2000 năm, mà không sinh ra, không sống, không chịu chết và phục sinh ngay trong tâm hồn chúng ta “tại đây và và vào lúc này” (hic et nunc), thì tất cả những biến cố ấy của Người đều hoàn toàn vô ích đối với ta”. Vì thế, điều quan trọng để lễ Phục sinh mang lại ích lợi cho chúng ta, là Người phải phục sinh ngay trong lòng chúng ta. Chúng ta vẫn thường tuyên xưng đức tin về Đức Giê-su đang sống và hiển trị, nhưng trong tâm thức của chúng ta, Người đã chết và được an táng từ lâu rồi. Thỉnh thoảng ta chỉ tưởng nhớ đến Người giống như chúng ta tưởng nhớ ông bà tổ tiên, hay một nhân vật nào đó trong lịch sử.
- Cần đánh thức Ðức Giê-su đang ngủ yên: Cuộc sống đức tin của người tín hữu hôm nay sở dĩ vẫn không tốt hơn mà nhiều khi còn tệ hơn lương dân là do chúng ta đã để Ðức Giê-su ngủ yên quá lâu trong con thuyền linh hồn mình (x. Mt 8,23-27) hay Người vẫn đang nằm yên trong ngôi mộ là tâm trí chúng ta. Thực ra, cũng như xưa Đức Giê-su ngủ trên thuyền các môn đệ trong cơn bão táp là để thử thách đức tin của các ông, thì ngày nay Người cũng đang thử thách đức tin của các tín hữu chúng ta. Chỉ cần chúng ta tin cậy cầu cứu Người, là lập tức Người sẽ trỗi dậy dẹp yên sóng gió và đổ Thần Khí biến đổi chúng ta nên con người mới.
- Phải dành chỗ nhất trong lòng chúng ta cho Chúa Giê-su: Bình thường, chúng ta thường để “cái tôi” ích kỷ, hoặc tiền tài, danh vọng, đam mê lạc thú… chiếm trọn tâm trí của mình, khi lúc nào cũng nghĩ về mình, lo tìm kiếm các điều nói trên... Nếu muốn Ðức Giê-su hiện diện sống động trong chúng ta, thì chúng ta phải dành chỗ nhất trong tâm trí chúng ta cho Người bằng việc năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, đọc Lời Chúa mỗi ngày trong giờ kinh tối gia đình, năng dự lễ và rước lễ sốt sắng... Cần đặt trọn niềm tin yêu vào Chúa Giê-su noi gương thánh Phao-lô: ”Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Ðức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Nhờ đó, chúng ta sẽ nhờ Lời Chúa soi dẫn trí khôn và hành động của chúng ta và nhờ Thần Khí của Người biến đổi chúng ta nên con người mới luôn sống bình an, vui tươi hạnh phúc với tha nhân và tích cực loan báo Tin Mừng đến cho mọi người.
4. THẢO LUẬN:
Mỗi tín hữu chúng ta sẽ làm gì để cảm nghiệm mầu nhiệm Chúa Phục Sinh trong cuộc sống đời thường hằng ngày và chu toàn sứ vụ loan báo tin mừng cho tha nhân ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.
Con chẳng có thể chứng minh được Chúa đã sống lại bằng khoa học thực nghiệm hay bằng khoa khảo cổ học… Nhưng con chỉ chứng minh được mầu nhiệm Chúa Phục Sinh nhờ Lời Chúa dạy trong Thánh Kinh, nhờ lời của các nhân chứng đã theo dõi cuộc khổ nạn của Chúa, và đã gặp được Chúa nhiều lần sau khi Chúa từ cõi chết sống lại.
- LẠY CHÚA.
Xin gia tăng lòng mến trong chúng con. Chính nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng con sẽ mau mắn đi tìm Chúa nơi Sách Thánh, trong Thánh lễ và sẽ nhận biết Chúa đang hiện diện trong những người bệnh tật đau khổ, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của con. Nhờ đó, chúng con sẽ được vui tươi phấn khởi và sẽ nhiệt thành loan báo tin mừng Phục Sinh đến cho những người chung quanh chúng con, noi gương bà Ma-ri-a Mác-đa-la và các tông đô xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
-----------------------------
Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Simon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an viết Tin Mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (ga 20,31). Riêng đoạn Tin Mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1:
+ Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày. ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và bắt đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo Hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên gọi là ngày Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa.
+sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin Mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1).
+ Ma-ri-a Mác-đa-la: Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía tây biển hồ Ghen-nê-xa-rét. Là quê của bà Ma-ri-a. Bà đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Chúa Giê-su (x. Lc 8,2). Bà là một trong những phụ nữ đầu tiên đã ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1; Lc 24,10). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và đã chứng kiến hai môn đệ mai táng Thầy trong mồ (x. Mt 27,61; Mc 15,47).
- C 2:
+ Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Do đó, Ma-ri-a Mác-đa-la cần phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất.
+ Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói riêng trong Tin Mừng Gio-an. Đây là cách tác giả nói về mình một cách khiêm tốn khi không muốn nhắc đến tên của mình.
+ Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa sống lại như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ theo suy luận tự nhiên để cho rằng ai đó đã đến mang xác Thầy ra khỏi mồ. Từ “Chúng tôi” trong câu này ám chỉ Ma-ri-a không đi ra mộ Chúa một mình mà đi chung với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).
-C 3-4:
+ Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ báo tin mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông.
+ Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản là vì ông trẻ hơn nên khỏe và chạy nhanh hơn Phê-rô, và có lẽ cũng vì nôn nóng do yêu mến Thầy nhiều hơn.
- C 5-6: + Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý.
+ Nhưng không vào: Gio-an không vào có thể do ông tôn trọng và nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước mình. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông cảm thấy bàng hoàng trước sự kiện cửa mồ rộng mở và mải lo suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô theo sau kịp chạy đến nơi.
+ Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô tính nóng nảy nên lập tức bước vào trong mộ.
- C 7-9:
+ Và khăn che đầu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần ai giúp đỡ khi trỗi dậy ra khỏi mồ. Người đã có thể tự lăn tảng đá che kín mộ ra thì cũng có thể tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại cho Gio-an thấy Thầy Giê-su đã thực sự sống lại. Vì không kẻ trộm nào lại bỏ công sức và thời gian để làm một việc vô ích là cởi các dây vải ra và xếp gọn để vào một chỗ rồi mới đem xác trần đi cả !
+ Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác được xếp gọn lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su từ cõi chết sống lại.
+Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng vừa nói thì Gio-an và các tông đồ đều không tin Thầy các ông sẽ sống lại, dù Người đã báo trước ba lần (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy các dấu chứng như mồ trống, các khăn vải liệm xác, dây băng được cuộn lại riêng một chỗ, thì các ông đã nhớ lại những lời Thánh Kinh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su và tin Người đã thực sự sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật ?
2) Về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ Chúa, so sánh bản tường thuật của 4 tác giả Tin Mừng khác nhau thế nào ?
3) Bạn biết gì về thân thế của bà Ma-ri-a Mác-đa-la ?
4) Bà đã báo tin xác Thầy biến mất cho ai ? Tại sao ?
5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin việc Thầy Giê-su đã phục sinh hay không ?
6) Hành động chạy nhanh ra mộ của Phê-rô và Gio-an cho thấy tinh thần trách nhiệm của 2 ông thế nào ?
7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô ?
8)Tại sao ông Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào bên trong mộ ngay ?
9) Khi thấy hiện tượng mộ trống, băng vài và khăn che đầu được xếp gọn, hai ông đã tin gì về mầu nhiệm Đức Giê-su sống lại ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).
2. CÂU CHUYỆN: VỀ SỨ VỤ RAO GIẢNG TIN MỪNG PHỤC SINH:
Sau khi chịu chết trên thập giá, Đức Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn Người vẫn còn mang những dấu tích đau thương từ những cây đinh nhọn và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã lên tiếng hỏi Đức Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người dưới thế gây ra ?” Người đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay các tội lỗi của họ không ?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại nói: “Thế thì Chúa đã làm gì để họ nhận biết ơn cứu độ đó ?” Chúa đáp: “Ta lại đi loan báo Tin Vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin Mừng cứu độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của loài người và nghi ngờ thiện chí của họ nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các tông đồ quên thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao ?
Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ gian ác mà chán nản buông xuôi thì sao ? Chúa có lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa thôi ?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không bao giờ lập ra thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người thường nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh Thần Khí của Ta cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó”.
3. SUY NIỆM:
Bằng lối văn súc tích và hàm chứa những tư tưởng sâu sắc, Tin Mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong Tin Mừng Phục Sinh hôm nay như sau:
- CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ THÚC BÁCH MA-RI-A MÁC-ĐA-LA ĐI TÌM CHÚA:
Niềm vui Phục Sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mộ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mộ biến mất. Cũng như chính lòng mến đã làm cho bà thêm can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại chứng kiến việc 2 môn đệ an táng Thầy trước đó (x. Mt 27,61), thì giờ đây lòng mến đó lại thôi thúc bà cùng mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để ướp xác Thầy theo phong tục Do thái (x. Mc 16,2). Khi thấy mộ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy mất xác Thầy và bà không biết họ đã để Thầy ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a không hề nghĩ rằng Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy để mang về chôn lại trong mộ mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, Ma-ri-a lại quay ra mộ mà than khóc. Trong lần ra mộ thứ hai này, bà đã trở thành người đầu tiên gặp được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ vụ đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
- CHÍNH LÒNG MẾN ĐÃ GIÚP GIO-AN NHẬN BIẾT CHÚA PHỤC SINH TRƯỚC ANH EM:
Gio-an là một trong bốn môn đệ được Thầy kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình (x Mt 17,1) và cũng là người môn đệ được Thầy yêu mến nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thôi thúc ông, làm cho ông trở thành người can đảm hơn cả: Không bỏ chạy như các môn đệ khác, nhưng âm thầm theo dõi các sự kiện xảy ra từ lúc Thầy bị bắt đến khi bị xét xử giữa hai tòa án đạo và đời; Can đảm đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trăn trối Đức Ma-ri-a làm Mẹ của mình và đón Mẹ về nhà mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng do tình yêu thôi thúc mà Gio-an đã trở thành người môn đệ đầu tiên trong Nhóm Mười Hai nhận ra Chúa Phục Sinh tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7). Cũng chính tình yêu ấy đã thúc bách Gio-an chạy nhanh hơn 0và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8).
- LÒNG MẾN LÀM PHÊ-RÔ ĐƯỢC THA THỨ VÀ ĐƯỢC TRAO QUYỀN CHĂN CHIÊN:
Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông đã tình nguyện bỏ hết mọi sự mà đi theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu danh sách Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được nhìn thấy Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), được chứng kiến phép lạ Người cho bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51), được ở gần Đức Giê-su khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su thường đến ở trọ tại nhà ông Si-mon Phê-rô tại thành Ca-phác-na-um (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được khen có phúc, và được Thầy hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vào Đức Giê-su vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông còn được trao sứ mệnh củng cố đức tin cho anh em sau khi trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù còn nhiều khuyết điểm như: bị Thầy nặng lời quở trách vì dám khuyên Thầy đừng chấp nhận con đường thập giá (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Thầy trách kém lòng tin (x Mt 14,31) hay trách khi ông không muốn cho Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn bị trách khi quá tự tin vào sức riêng của mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã tỏ ra hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước đó (x Mt 26,69-75).
Nhưng bù lại Phê-rô đã có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Thầy làm nghề chài lưới các linh hồn (x Mt 4,18-20). Ông cũng thường được Đức Giê-su hỏi ý kiến như: Thầy trò có nên nộp thuế Đền thờ không ? (x Mt 17,24-27). Có lần ông hỏi ý Đức Giê-su về số lần phải tha thứ cho anh em (x Mt 18,21). Ông cũng đại diện anh em để tuyên xưng đức tin và thề quyết trung thành với Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông can đảm rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi chúng đến bắt Thầy (x Ga 18,10). Ông không chạy trốn như các ông khác mà đi theo Gio-an theo dõi diễn tiến tòa án xét xử Thầy (x Ga 18,15). Trong Tin Mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị mất, Phê-rô cùng Gio-an chạy ra mộ để kiểm chứng thực hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ trộm lấy xác (x Ga 20,8-9). Sau đó ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước anh em Nhóm Mười Một (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo Người mặc áo trắng đứng trên bờ hồ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào bờ để mau được gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Thầy trao cho sứ vụ chăn dắt chiên con chiên mẹ và chăn dắt cả đàn chiên là Hội Thánh (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho thầy (x Ga 21,18-19).
- GIÁ TRị CỦA ĐỨC TIN VÀ LÒNG MẾN:
Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối tội lỗi, ra thăm mộ đầu tiên và đã được Chúa Phục Sinh hiện ra trao cho sứ vụ loan Tin Mừng cho các tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước anh em và thấy được ý nghĩa của những sự kiện dẫn đến mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su. Lòng mến cũng làm cho ông Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông đã sớm hồi tâm sám hối trở về và được Thầy tín nhiệm đặt làm Đá Tảng đức tin, có nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x Lc 22,32), và còn được Chúa Phục Sinh trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh. Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để ta khỏi bị thất vọng hay hốt hoảng khi gặp đau khổ thất bại trên đường đời. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất hoặc những người thân yêu nhất của mình không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm người chết trong nước mắt đau thương như Ma-ria Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng cái chết đã không giam hãm được sự sống: Sự sống đã trỗi dậy từ cõi chết; Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối tử thần;Tình yêu đã chiến thắng hận thù và Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Ki-tô sẽ được Hội Thánh loan báo đi khắp thế gian như lệnh Người truyền trước khi lên trời (x Mt 28,19).
4.THẢO LUẬN:
1) Nơi Đức Giê-su “sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù”. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực sẽ tới hồi thái lai” hay không ? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng tín thác vào Chúa, Người sẽ kíp thời ban ơn giải cứu và giúp bạn được mau trỗi dậy ?
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.
Vì Chúa đã phục sinh, nên con luôn vững tâm cậy trông vào Chúa. Vì Chúa đã phục sinh, nên con sẽ không sợ khi gặp phải đau khổ thất bại trong cuộc đời. Vì Chúa đã phục sinh, nên con đã hiểu được lý do của những hành động dấn thân: Cha Đa-miêng hy sinh cả cuộc đời phục vụ các bệnh nhân phong cùi, Cha Kôn-bê đã tình nguyện chịu chết thế chỗ cho một tử tù, các thánh Tử Đạo VN đã sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Chúa.
- LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Sự phục sinh của Chúa vừa là lời mời gọi, lại vừa lôi cuốn chúng con hướng tâm hồn lên cao để nhận ra giá trị tương đối của sắc đẹp, tiền bạc, danh vọng, chức quyền trần gian… hầu noi gương các thánh: chúng con sẵn sàng hy sinh tất cả vì tình yêu Chúa và dám sống chết cho tình yêu ấy, để quyết dấn thân đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, sẵn sàng đón nhận những đau khổ thua thiệt... vì xác tín rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
-----------------------------
PS1-316: Những chứng nhân cho sự Phục Sinh
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 20:1-9)
Đọc đoạn Tin Mừng thánh Gio-an ghi lại về biến cố Chúa sống lại, chúng ta nhận ra những hoạt động bận rộn của ba người môn đệ Chúa: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, hai tông đồ Phê-rô và Gio-an. Hành vi chính của các chứng nhân là thấy và chạy. Những gì họ thấy đã là động lực thúc giục họ phải chạy cho nhanh để báo tin, để kiểm chứng, để hiểu lời Kinh Thánh, và cuối cùng là để tin. Hoạt động của các chứng nhân đầu tiên ấy có thể được lập lại trong cuộc sống chúng ta, những chứng nhân hôm nay làm chứng rằng Chúa Phục Sinh đang sống trong chúng ta.
Thánh Gio-an đã lần lượt nói lên những gì các chứng nhân thấy từ bên ngoài cho đến bên trong ngôi mộ của Chúa. Trước hết, bà Ma-ri-a Mác-đa-la “thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ”. Bà lập tức nghĩ tới việc xác Chúa bị ai lấy đi, nên hốt hoảng chạy về báo tin cho ông Phê-rô và môn đệ Chúa thương mến. Tuy thánh sử không viết xuống, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng chính lòng yêu mến của bà Ma-ri-a đã giục giã bà chạy cho nhanh để kiếm người giúp tìm lại thi thể của Chúa. Lòng yêu mến không thể để bà mất Chúa được, dù chỉ là xác chết! Tuy nhiên, cũng chính lòng mến của bà đã gián tiếp “làm chứng” rằng xác Chúa không còn ở trong mộ nữa. Ngôi mộ trống không biết nói, nhưng được bà xác nhận như một chứng tích không thể chối cãi và hùng hồn cho thấy rằng Chúa đã sống lại thật và không còn ở trong mộ nữa.
Tiếp đến là hai môn đệ Phê-rô và Gio-an. Họ cũng chạy vội đến mộ và thấy nhiều điều, chứ không chỉ là hòn đá lấp cửa mộ. Ông Gio-an chạy nhanh hơn và tới mộ trước. Nhưng vì tôn trọng vai trò trưởng nhóm của Phê-rô, nên để cho ông này vào trước và “chứng nghiệm” bên trong mộ. Ông Phê-rô cũng nôn nao muốn biết điều gì đã xảy ra, nên “ông vào thẳng trong mộ”. Ông thấy một điều lạ: các băng vải để ở một góc, còn “khăn che đầu Đức Giê-su được cuốn lại và xếp riêng một nơi”. Trong khi ông Phê-rô bóp trán suy nghĩ sự kiện này, thì ông Gio-an bước vào. Thánh sử đã ghi lại ở đây một bước nhảy vọt của đức tin: từ những gì trông thấy tiến đến đức tin vào sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô; nói khác đi, hai ông đã được ơn soi sáng để hiểu ý nghĩa lời Kinh Thánh ám chỉ rằng “Chúa Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”.
Trông thấy và chạy chỉ là những hành vi bình thường trong cuộc sống chúng ta. Nhưng ở đây, chúng ta không quan tâm đến động tác thể lý, mà chú ý đến động lực tại sao các chứng nhân chạy, chạy nhanh, và chú ý đến những vật được trông thấy. Chạy nhanh vì lo lắng cho xác Chúa và vì yêu mến Chúa. Trông thấy hòn đá chắn cửa mộ đã lăn ra ngoài thì biết chắc đã có gì xảy ra cho xác Chúa. Trông thấy những băng vải để một chỗ, còn khăn phủ mặt để một nơi riêng, làm cho người trông phải suy nghĩ về nhiều khả thể: có thể xác Chúa bị lấy đi, nhưng chẳng lẽ người lấy đi còn quan tâm hoặc còn thì giờ mà gỡ các băng vải, rồi lại cất công xếp riêng khăn che mặt ra một chỗ hay sao? Nếu thế, chỉ có nghĩa là Chúa đã sống lại. Đúng vậy, Gio-an đã giúp ông Phê-rô có câu trả lời: “Ông đã thấy và đã tin”. Phải, tin Chúa đã sống lại theo lời Kinh Thánh.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Các chứng nhân đầu tiên về sự Phục Sinh của Chúa Giê-su đã để lại cho chúng ta những chứng từ thật sống động. Họ đều đã thấy và đã tin. Nhưng đó không phải là niềm tin giữ lấy cho riêng mình. Các ngài đã đem tất cả cuộc đời còn lại để tiếp tục rao giảng cho mọi người những gì họ đã thấy và đã tin. Ca tiếp liên đã nói lên câu trả lời của bà Ma-ri-a: Tôi đã thấy mộ Chúa Ki-tô, Đấng hằng sống, và vinh quang Phục Sinh của Chúa Giê-su. Điểm đặc biệt nhất bà đã thấy, đó là Chúa Ki-tô, niềm hy vọng của tôi, đã sống lại!
Thánh Gio-an thì viết sách Tin Mừng với những suy tư thần học sâu xa về con người và sứ mệnh của Chúa Ki-tô. Còn thánh Phê-rô vẫn tiếp tục “chạy” đi rao giảng những điều ngài “thấy” nơi Chúa Giê-su, như trong bài đọc thứ nhất hôm nay kể lại. Ngoài việc rao giảng cho đồng bào Do-thái, thánh Phê-rô cũng là người đầu tiên rao giảng về Chúa Giê-su cho Dân ngoại, tức cho gia đình ông Co-nê-li-ô tại Xê-da-rê.
Bạn và tôi, chúng ta đã “thấy” gì nơi Chúa Giê-su Ki-tô? Chắc chắn phải là những cảm nghiệm cá nhân. Rồi chúng ta có “chạy” đi rao giảng hay không?
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
-----------------------------
Làm thế nào để mỗi người chúng ta ý thức được tầm mức quan trọng của việc Chúa sống lại, đó chính là mục đích của phụng vụ hôm nay và của mùa Phục Sinh.
Thực vậy, nếu không ý thức được tầm mức quan trọng đó, chúng ta sẽ không tha thiết với việc kết hợp cùng Đức Kitô phục sinh. Và nếu không kết hiệp với Ngài thì chúng ta cũng chẳng có đời sống mới. Cuộc đời của chúng ta sẽ hoàn toàn vô ích về phương diện tôn giáo, chính thánh Phaolô đã viết: Nếu Đức Kitô không sống lại, thì đức tin của anh em trở thành hão huyền và chúng ta quả là những kẻ dại dột nhất. Nói cách khác, vì đạo của chúng ta xây dựng trên nền tảng niềm tin Chúa sống lại, nên chúng ta phải xác tín, phải chắc chắn về niềm tin ấy, thì mới hy vọng xây dựng được một đời sống đạo đức vững vàng. Vậy chúng ta hãy theo phụng vụ của Giáo Hội để thêm ý thức về niềm tin ấy.
Trước hết phụng vụ lần lượt trích dẫn các đoạn văn Kinh Thánh nói về việc Chúa sống lại. Qua đó chúng ta thấy việc Chúa sống lại là một biến cố rõ ràng, nhưng quá bất ngờ đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người tin Chúa. Mặc dù Ngài đã khẳng định một cách công khai và không úp mở rằng Ngài sẽ bị nộp, bị đánh, bị treo trên thập giá và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Thế nhưng Phêrô chỉ để ý đến đoạn đầu mà thôi. Ông khăng khăng xin Chúa đừng làm như vậy, đừng để mình bị bắt. Ông không để ý đến câu cuối cùng nói rằng: Ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Các tông đồ khác cũng chẳng để ý hơn. Họ có nghe nói nhưng không tin. Nói đúng hơn là họ không muốn tin. Nên vừa thấy Chúa bị bắt, là họ đã bỏ Chúa, chối Chúa, muốn trở về làng cũ và chấm dứt lý tưởng theo Chúa. Hay họ đã rút lui vào nhà, đóng kín cửa, không dám ló mặt ra. Họ chỉ nhớ Đức Kitô chịu chết. Người Do Thái có thể sắp đến bắt họ.
Kẻ thù của Chúa thì cẩn thận hơn. Họ đã nghe Chúa nói đến việc Ngài sẽ sống lại. Họ nhớ vậy nên xin Philatô cho đặt lính gác mồ. Họ tưởng rằng có thể ngăn chặn không cho Chúa phục sinh.
Nhưng Chúa đã làm một việc kỳ diệu trước mắt thiên hạ, cả những kẻ tin cũng như không tin. Ngài làm một việc thật ngoạn mục, để ai tin thì được thấm thía tình Ngài yêu thương họ, còn ai không tin thì phải bàng hoàng khiếp sợ.
Việc Chúa phục sinh vì thế không phải là chuyện do mấy tông đồ bịa đặt ra. Họ không còn đầu óc nào, để nhớ lại lời Chúa nói trước, thì làm sao có được trí tưởng tượng xếp đặt khéo léo cho câu chuyện. Cả Phêrô lẫn Gioan đều nhận được tin Thầy sống lại và được Madalêna cho hay xác Thầy không còn ở trong mồ nữa. Hai ông đã ra đi, người đi chậm kẻ chạy nhanh. Nhưng cả hai đều đã quan sát rõ ràng và tỉ mỉ: Các khăn liệm còn đó nhưng Chúa Giêsu thì ở đâu? Phải đợi đến khi nhận được nhiều bằng chứng khác thêm vào bằng chứng mồ rỗng và nhất là khi được Chúa hiện ra trò chuyện, ăn uống và dạy dỗ thêm, thì các ông mới thật sự tin rằng Chúa đã sống lại.
Như vậy, niềm tin của các tông đồ không những đã căn cứ vào lời Chúa báo trước, mà còn vào các sự kiện, các bằng chứng rõ ràng của nhiều người khác nhau. Đức tin ấy sáng suốt và vững vàng đến nỗi tất cả đã bằng lòng chịu chết để làm chứng cho việc Chúa đã sống lại. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã sống như thế nào và đã làm được những gì, để niềm tin Chúa sống lại nơi chúng ta được chiếu toả cho những người chung quanh.
-----------------------------
Ga 20, 1-9
I. Chúa đã sống lại thật. Alleluia. Đây là Tin Mừng trọng đại cho các môn đệ Chúa Giêsu và cũng là cho chúng ta hôm nay. Vật chứng của biến cố “Chúa sống lại” là “ngôi mộ trống”. Một Tin Mừng nền tảng cho đức tin, lại chỉ có một vật chứng là “ngôi mộ trống” sao. Vật chứng ấy chẳng khác gì lấy “cái không” làm chứng cho “cái có”. Thế nhưng, “cái không” trong ngôi mộ trống này lại là vật chứng việc “Chúa đã sống lại thật”; vì biến cố này do chính Chúa Giêsu đã báo trước rồi, và nay lại thêm các thiên thần Chúa làm chứng việc này.
II. Bài Tin Mừng mời gọi chúng ta đạt tới hành động “thấy” đích thực như người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến. Từ việc thấy dấu chỉ được kể lại trong Tin Mừng, dẫn tới việc thấy bằng con mắt đức tin, nghĩa là nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trong cuộc đời. Đó là hành động “tin”. Việc Chúa Giêsu Phục Sinh đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ. Một giai đoạn như bùng nổ sức sống mới cho người tín hữu. Sức sống này khởi phát từ hành động “thấy” và “tin”, qua những dấu chỉ thuật lại trong Tin Mừng, và qua những dấu chỉ trong cuộc sống hôm nay để đón nhận sự sống, niềm vui và bình an của Đấng Phục sinh ban tặng.
Sau khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn và được an táng trong mộ, có tảng đá lớn lấp cửa mộ. Hai ông Phêrô và Gioan cũng như các môn đệ khác, thất vọng vì Chúa Giêsu không hoàn thành ước mơ của các ông. Nên phần vì thất vọng, phần vì sợ sẽ bị truy tố như Thầy mình, các ông không dám xuất hiện trước công chúng nữa. Tảng đá lớn lấp cửa mộ cũng che lấp luôn cả những ước mơ của các ông. Nhưng, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, bà Maria Magdala ra nơi an táng thi hài Chúa Giêsu, bà thấy tảng đá lấp cửa mộ lăn qua một bên. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu”.
Vừa nghe tin ấy, ông Phêrô và môn đệ kia liền chạy ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải xếp gọn còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Chúa Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Chúa Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”. Vì các ông không ngờ là Chúa đã sống lại, nên chỉ còn giả thuyết là người ta đã đánh cắp xác Chúa; nhưng điều làm các ông ngạc nhiên là tại sao lấy xác mà không lấy khăn liệm, mà còn cuộn lại cẩn thận và xếp gọn một nơi!
Khi viết lại sự kiện này, thánh sử Gioan muốn trình bày cho chúng ta hai trạng thái tin qua các kiểu nói :
1)- Kiểu nói : “Đã thấy và đã tin”: Đây là đức tin thực nghiệm, đức tin này dựa vào giác quan.
a. Người môn đệ “thấy” không chỉ là thấy những băng vải xếp gọn, mà ông còn thấy “ngôi mộ trống rỗng” không còn có Chúa Giêsu ở đó. Nghĩa là “thấy” và “tin” gắn kết với nhau như Chúa Giêsu đã nói: “Đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy người Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời” (Ga 6,40).
b. Người môn đệ “tin” vào việc Chúa Giêsu sống lại và “tin” những lời Chúa Giêsu đã nói, và ở mức độ cao nhất: Tin Chúa Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa như lời Thánh Tôma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
2)- Kiểu nói : “Theo Kinh Thánh: Chúa Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”. Đây là đức tin dựa vào uy thế của Sách Kinh Thánh. Sự kiện này, khẳng định với chúng ta rằng :
a. Cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá đã xoá bỏ tội lỗi của toàn thể nhân loại. Quyền năng của Thiên Chúa đã thánh hóa thập giá nhục nhã đau thương mà Ngài phải treo trên đó, thành Thánh Giá vinh quang ban ơn cứu độ cho nhân loại. Thánh Phaolô tuyên bố : “đối với những người hư mất, sứ điệp của Thánh Giá là ngu dại; nhưng đối với chúng ta, những người được cứu rỗi, thì đó là quyền năng của Thiên Chúa” (1 Cr 1,18)
b. Khi chỗi dậy từ cõi chết, Chúa Giêsu công bố cái chết không còn quyền chi với Ngài nữa. Từ nay, Ngài là Vị Tiên Phong mở đường dẫn đưa chúng ta vào cuộc sống vĩnh cửu với Thiên Chúa là Cha Ngài và cũng là Cha chúng ta (x. Ga 20,17). Tất cả những điều đó không phải là tình cờ, mà đã được thực hiện “đúng như lời Kinh Thánh”.
III. Nhờ Chúa Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, cái chết không còn là một kết thúc thảm hại nữa: chết không là hết, vì đã có Chúa Giêsu đi trước để dọn đường, và Ngài sẽ kéo mọi người chúng ta lên với Ngài. Giờ đây việc sống lại của Chúa Giêsu mở ra một cuộc sống mới đầy ý nghĩa và hy vọng : Nếu tôi tin vào Chúa Giêsu và cùng chết với Ngài, tôi sẽ cùng Ngài sống lại và sống hạnh phúc mãi mãi (Rm 6,8; 2 Tm 2,11). Vì thế, chúng ta không được sống như ai đó nghĩ là không có đời sau.
Chúa Giêsu đã gánh chịu mọi đau khổ để đền thay tội lỗi của chúng ta, và Ngài đã sống lại vinh hiển để chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Còn ai yêu thương và lo lắng cho chúng ta hơn Chúa Giêsu ? Vì thế, “Không bao giờ thất vọng về Lòng Chúa Thương Xót” (TL 4,74). Nhưng luôn luôn dành trọn vẹn tình yêu cho Ngài và niềm tín thác tuyệt đối vào Ngài, bằng lời nguyện tắt “lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”.
Vậy chúng ta mau đến và chuyên cần đến gặp gỡ Chúa Giêsu. Ngài vẫn hiện diện trong Lời Chúa và trong các Bí Tích, đặc biệt trong Bí Tích Thánh Thể, để nhờ đó chúng ta càng thêm lòng tin vào Ngài và được sống đời đời với Ngài. Xin Chúa Giêsu Phục Sinh là sức mạnh cho chúng ta, để chúng ta có được tình yêu với Chúa Giêsu như cô Maria Magdala, chúng ta vượt qua mọi trở ngại để trung thành và làm chứng cho Thiên Chúa, bằng cách yêu thương mọi người như Chúa Giêsu “đã yêu đến cùng” (Ga 13,1). Alleluia.
-----------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong đêm Vọng Phục Sinh, Cây Nến Phục Sinh là tâm điểm của cử hành Phụng Vụ. Đức Giêsu Kitô đã ra khỏi mồ tối tăm, đã chiến thắng thần chết, và trở thành Nguồn Ánh Sáng, Sự Sống cho nhân loại.
Để đánh mốc thời gian lịch sử cứu độ, trong đêm ấy, linh mục chủ tế khắc ghi trên nến với những dấu chỉ như sau:
- "Đức Kitô là một, (vẽ đường dọc)
- Hôm qua cũng như hôm nay, (Vẽ đường ngang)
- Là Alpha và là Omega, (Viết chữ Alpha trên cây Thánh Giá)
- Nghĩa là Khởi nguyên và tận cùng, (Viết chữ Omega ở phía dưới Thánh Giá)
- Người làm chủ thời gian, (Viết số đầu của năm đó bên góc trái phía trên Thánh Giá).
- Và muôn thế hệ, (Viết số thứ hai của năm nơi góc phải phía trên Thánh Giá).
- Vạn Tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng, (Viết số thứ ba của năm góc trái phía dưới Thánh Giá).
- Vạn vạn tuế. Amen, (Viết số thứ tư của năm nơi góc trái phía dưới Thánh Giá).
Với năm hạt hương biểu thị năm dấu đinh của Chúa Giêsu khổ nạn được gắn trên cây nến Phục Sinh, gắn trên mỗi góc của Thánh Giá, vừa gắn vừa đọc:
- Vì năm vết thương
- Chí thánh và vinh hiển.
- Xin Chúa Kitô
- Gìn giữ
- Và bảo vệ chúng ta." (Sách Lễ Roma).
Khi ghi dấu năm cứu độ chung quanh trục cây Thánh Giá, Giáo hội cũng ghi khắc vào đó cả khối tình tri ân của những năm hưởng nhờ hồng ân cứu độ trong lịch sử thời gian. Thánh Giá nối trời với đất trong không gian mênh mông. Thánh Giá là điểm thâu họp lịch sử dọc theo dòng thời gian. Thánh Gía bao gồm hai chiều kích ấy. Đức Kitô là trung tâm điểm của không gian và thời gian.
Hình Thánh Giá viết trên Cây Nến Đêm Vọng Phục Sinh, có ý nghĩa thâu họp vạn vật, mang ý nghĩa vũ trụ. Thánh Irénée viết: "Ngài đã đến dưới dạng hữu hình với những gì thuộc về Ngài, Ngài đã trở thành xác thịt và xác thịt ấy đã được treo lên cây Thập tự để bằng cách ấy thâu họp vào mình cả vũ trụ". Thánh Giá trở thành trục thế giới. Thánh Cyrille ở Jérusalem viết: “Chúa Trời đã dang hai tay trên cây Thập Tự để ôm lấy bờ cõi Vũ trụ và vì vậy núi Golgotha là trục thế giới". Trên trục vũ trụ ấy có treo lên một người Con của Thiên Chúa. Thánh Phaolô thì diễn tả trục này: "Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô" (Ep 1, 10).
Là Trục của thế giới, Thánh Giá có trung tâm điểm là Đức Giêsu Kitô. Nhìn theo chiều kích cánh chung, thời gian sau cùng nhân loại sẽ chịu sự phân chia, bên tả hoặc bên hữu. Đó là thời gian của sự phán xét. Trục còn có nghĩa là mốc tuyển chọn, những người được tuyển chọn và những người tự mình đánh rơi. Thánh Phaolô nhìn trục này như sự phân chia Lề Luật và Đức Tin, phân chia tâm hồn con người thành hai phần, nhục thể và Thần Khí, để rồi cho thấy sự thống nhất của phân chia là việc hóan cải, tái sinh, công chính hóa, lề luật, nhờ vào niềm tin cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên Thánh Giá.
Là trục của thế giới, nhìn theo chiều kích cánh chung, Thánh Giá biểu trưng là chiếc thang, một chiếc thang đưa con người đi lên tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Một chiếc thang để đất trời không còn xa nhau. Chiếc thang nhiệm mầu mà thánh Nữ Perpétue thấy trong ngày chịu tử đạo:
"Tôi nhìn thấy một cái thang bằng đồng thanh, cao khác thường, vươn tới tận trời, nhưng hẹp tới mức chỉ có thể đi lên từng người một: Hai bên thang tua tủa các khí giới: Kiếm, giáo, móc câu, gươm, như vậy mà nếu người nào lên mà lơ đãng, không chú ý nhìn lên trên cao, sẽ bị tan nát thịt da, để lại những mảng thịt mắc vào những khí giới đó. Và bên dưới cái thang có một con rồng to lớn dị thường, nằm đó chăng bẫy những ai đạp chân lên thang, làm cho họ khiếp sợ không dám trèo lên. Còn tôi, khi tôi đặt chân lên trên bậc thang thứ nhất, tôi đã đạp lên đầu con rồng đó, thế là tôi đi lên được và nhìn thấy một khu vườn rộng mênh mông". Chiếc thang có những bậc của thử thách. Niềm an bình sẽ xuất hiện khi bước lên bậc thang thứ nhất. Và cứ thế theo từng bậc niềm an bình sẽ được gia tăng cho đến khi hòan tòan ở trên đỉnh thang. Muốn đi lên cao, cần rũ bỏ, rũ bỏ làm cho nhẹ nhàng thanh thóat trên đường đi lên. Đó cũng là thời gian dành cho việc cầu nguyện và ăn chay thực thi đức ái để trút bỏ mỗi ngày trong cuộc sống.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa.Bởi vì“Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống.
Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Chắc hẳn ngài đã cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nên mới có ý tưởng này! Dòng Mến Thánh Giá là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Kể cũng thật lạ! Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá, phải vác phải mang ách nữa chứ! Ngài có thành công gì đâu trước mắt người đời! Có nhẹ nhàng gì đâu trước mắt trần thế! Thế nhưng, Đấng chịu đóng đinh là hồng ân cứu rỗi. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ. Mến Thánh Giá là tình yêu cao nhất của đời dâng hiến. Từ đó nẻo đường cứu độ mở ra cho bản thân và có khả năng giúp cho những người khác tiến vào nẻo đường ấy.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Đêm Vọng Phục Sinh, cả nhà thờ lung linh ánh nến. Từ cây nến mẹ, nến Phục Sinh ánh sáng thắp lên các cây nến nhỏ trên tay mọi người. Lửa Phục Sinh bừng cháy, sáng rực nhà thờ, rạng rỡ từng khuôn mặt, ấm áp mọi tâm hồn. Cử chỉ chuyển lửa Phục Sinh, thắp sáng cho nhau là một hình ảnh tuyệt đẹp. Đây là đêm rất đẹp trong ánh sáng chứa chan tình Chúa, tình người.
Ánh Sáng Phục Sinh đem lại sự sống mới cho toàn thể loài người khi tất cả được nâng lên và được kéo về bình diện siêu nhiên qua Thánh Giá, trong tình yêu viên mãn của Đấng Cứu Độ. Chúa Kitô đã tỏa chiếu Ánh Sáng Tình Yêu qua toàn bộ hành vi yêu thương trên Thánh Giá.
Nếu như thập giá phô diễn bạo lực tội ác và đau thương thì Thánh Giá mạc khải Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong Tình Yêu ấy, Đức Kitô đã chỉ cho nhân loại con đường sống ngang qua cái chết. Trong Tình Yêu ấy, chúng ta ngắm nhìn, chiêm ngưỡng suy niệm để nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống qua Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.
Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn, ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống, ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời.
Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người.
-----------------------------
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Khi thi thể của Valdelucio Goncalves, 54 tuổi, được mang đến nhà xác Bệnh viện đa khoa Menandro de Farias ở Salvador, miền đông Brazil, các bác sĩ khẳng định ông đã qua đời vì “suy hô hấp và suy tạng.” Khi đến nhà xác để liệm thi thể anh mình, Walterio, em trai của nạn nhân, đã sốc khi thấy xác người anh quằn quại trong túi đựng xác.
“Việc cần làm lúc đó là mặc đồ mới cho anh ấy để nhân viên tang lễ đến mang anh ấy đi. Nhưng khi đến gần thì tôi thấy thi thể cử động.” Ông Walterio kể lại. “Tôi như hóa rồ và thét lên để gọi nhân viên y tế. Họ kiểm tra và xác nhận anh ấy còn sống”, ông này cho hay.
Gia đình ban đầu ngỡ Goncalves đã đầu hàng với căn bệnh ung thư dạ dày và cũng đã chuẩn bị sẵn những thứ cần thiết cho đám tang người này.
“Tất cả chúng tôi đều bàng hoàng khi họ gọi báo bác ấy đã qua đời. Mọi chuyện đã được sắp xếp trước sáng ngày tổ chức lễ tang. Chúng tôi cũng đã đăng báo cáo phó, mua quan tài và đăng ký làm đám ma cho bác”, cô Patricia Cintra, cháu ông Goncalves, nói với Daily Mirror. “Chân bác ấy đã được cột lại, mũi và tai đều đã được nhét bông gòn”,
Sau khi tỉnh lại, ông Goncalves nhanh chóng được đưa sang phòng chăm sóc đặc biệt, nhưng do quá lo lắng, nên người thân ông này đã chuyển ông sang một bệnh viện khác.
Do không nói được, Goncalves đã viết một lá thư miêu tả quá trình quay trở lại dương thế. Ông miêu tả việc sống lại như một phép màu được ban từ Chân phước Irma Dulce, một nữ tu Công giáo dòng Phan Sinh, được xem như một nữ thánh ở Brazil. “Tôi, Valdelucio, đã thấy thần chết ngay chân mình, nhưng đức tin quá lớn nên tôi đã được chữa khỏi,”ông viết.
“Hiện diện trước Chân phước Irma Dulce, tôi đã xin ban phép lạ cho tôi và ngài đã nghe lời thỉnh cầu của tôi,”người về từ cõi chết thuật lại. (Hoàng Uy, Daily Mirror 27.8.2014)
Với sự cầu bầu của Chân phước Irma Dulce, ông Valdelucio Goncalves đã thực sự hồi sinh, có nghĩa Goncalves mới chết lâm sàng, chưa hẳn chết thật. Chúa nhật hôm nay tôn vinh Chúa Giêsu đã chịu chết công khai trên thập giá, sau ba ngày an táng trong mộ, đã huy hoàng sống lại. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ vào sáng sớm, thì thấy ngôi mộ trống và xác Đức Giêsu không còn ở đó nữa. Bà về báo tin ngay cho các Tông Đồ. Ông Phêrô và ông Gioan cùng chạy đến mồ. Nhưng vào ngay lúc đó, chỉ có duy nhất mình ông Gioan “đã thấy và đã tin” Chúa Giêsu đã Phục sinh.
“Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông.” (Ga 20, 4) Chẳng phải chỉ vì sức trẻ, cường tráng, mà ông Gioan chạy nhanh đến mồ trước ông Phêrô. Mà chính vì “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi,” (2Cr 5, 14) như Thánh Phaolô đã diễn tả trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, ông Gioan đã được thúc bách bởi niềm tin và Tình Yêu cuồng nhiệt dành cho Đức Giêsu.
Tin Yêu
Trong Tin Mừng Thánh Gioan, ngài lấy làm vinh dự tự nhận mình là “Người môn đệ được Chúa yêu quý.” Ngài có một vị trí nổi bật trong số các tông đồ. Cùng với Phêrô và Giacôbê, ông Gioan là nhân chứng trong việc Đức Giêsu cho con gái ông Giaia sống lại (Mc 5, 37), Đức Giêsu biến hình (Mt 17, 1) và trong Vườn Cây Dầu (Mt 26, 37). Ông và Phêrô đã được Đức Giêsu sai vào thành phố, để thực hiện các việc chuẩn bị cho Bữa Tiệc Ly. (Lc 22, 8)
Trong bữa tiệc, ông được ngồi bên cạnh và ngả đầu vào ngực Đức Giêsu (Ga 13, 23-25). Gioan cũng là môn đệ duy nhất đứng dưới chân thập giá trên đồi Calvê cùng với Mẹ Maria và các phụ nữ khác. Ông cũng đã đón Mẹ Maria về chăm sóc theo như lời trối của Đức Giêsu. (Ga 19, 25-27) Ngoài việc thấy và tin Chúa Phục Sinh từ ngôi mộ trống, ông Gioan cũng là người đầu tiên nhận được Chúa tỏ mình hiện ra bên Biển Hồ Tiberia. (Ga 21, 7)
Như thế, Tin Yêu chính là động lực khiến ông Gioan luôn gần gũi với Chúa Giêsu trong suốt cuộc khổ nạn, luôn tìm đến, nhận biết Chúa Giêsu đã Phục Sinh thật bén nhạy, mau mắn và chính xác.
“Không phải tin một Chúa xa xôi, mơ hồ, nhưng tin như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống,” tin như Gioan: “Ai không yêu mến, thì đã không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.” (Đường Hy Vọng, số 277)
Vâng phục
Mặc dù “Người môn đệ được Chúa yêu quý” đến cửa mộ trước, ông vẫn không tự tiện vào, mà kính lão đắc thọ, nhường cho ông Simon Phêrô vào trước. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước.
Ông Gioan hoàn toàn tỏ ra khiêm nhường, kính trọng và vâng phục ông Phêrô, người anh cả trong các Tông đồ, mà Chúa Giêsu đã trao sứ mạng lãnh đạo Hội Thánh. (Mt 16, 18-19).
Hiệp thông cùng thái độ đó, Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi người vâng lời, phục tùng Chủ Chiên: “Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa.” (Dt 13, 17)
“Luxiphe đã nổi loạn và liên lỉ xúi giục khởi nghĩa đó đây trong Hội Thánh. Khẩu hiệu của nó là: “Bất tuân phục.” (Đường Hy Vọng, số 394)
Đặc ân
“Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.” (Ga 20, 8-9) Chỉ nhìn thấy những khăn liệm và dải băng sắp xếp ngay ngắn, thì ông Gioan đã hiểu và đã tin chắc chắn Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
Đức tin không hề đơn sơ, giản dị và dễ dàng, vì ông Phêrô và bà Maria Mađalêna cũng nhìn thấy như vậy, sao cả hai lại đều chưa tin? Như vậy, niềm tin của Gioan chính là một đặc ân, ơn sủng của Chúa Giêsu ưu ái ban riêng. Phải chăng, nhờ toàn tâm toàn ý tin yêu và vâng phục, mà ông Gioan mới được diễm phúc này.
“Đức tin có phải là một hồng ân của Thiên Chúa không? Chắc chắn là vậy. Như thế, người nào không có đức tin, có thể được tha thứ không? Không. Tại sao? Tại vì nếu không có đức tin, thì làm sao lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa được!” ( P. Charles)
“Thành thực cầu xin như các Tông Đồ: “Xin Thầy thêm sức mạnh cho đức tin chúng con. “ (Đường Hy Vọng, số 282)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con vốn yếu đuối, bất nghĩa, bất tín, bất trung, xin Ngài ban cho chúng con đầy ân sủng Chúa Thánh Thần, để củng cố niềm Tin Yêu và hy vọng, hầu luôn được tìm thấy và gặp gỡ, hạnh ngộ cùng Chúa trên đường đời.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ phù hộ chúng con khiêm tốn nhận biết thân phận mòng dòn, yếu đuối, dễ sa ngã, hầu canh tân, đổi mới. Kính xin Mẹ cứu giúp chúng con sống lại phần hồn cùng Chúa Giêsu Phục Sinh. Amen.
-----------------------------
Đức Giêsu đã sống lại. Ngài vẫn còn đang sống. Đó là niềm tin của các tông đồ. Đây cũng là niềm tin của tất cả Hội Thánh, của mọi Kitô hữu. Đức Giêsu đã sống lại, biến cố này làm chấn động tất cả, đặc biệt các tông đồ là những người liên hệ cụ thể với Đức Giêsu.
I. Các tông đồ trước cái chết ô nhục của Đức Giêsu
Biến cố Đức Giêsu bị bắt và bị giết diễn ra quá nhanh, chỉ từ đêm thứ năm đến trưa thứ sáu, làm các tông đồ và các môn đệ bàng hoàng sửng sốt. Đức Giêsu bị giết, kéo theo tất cả các mơ ước của các tông đồ. Từ mơ ước “ngồi bên tả ngồi bên hữu” đến hoài bão xây dựng một nước Israel mới. Cái chết của Đức Giêsu đánh đổ mọi hy vọng của các tông đồ.
Bây giờ Kitô hữu biết Đức Giêsu như các tông đồ biết Đức Giêsu sau khi Ngài đã sống lại; tuy nhiên, khi Đức Giêsu còn đang sống tại thế với họ, thì các tông đồ chưa biết rõ Đức Giêsu như sau khi Ngài phục sinh. Trước khi Đức Giêsu chết và sống lại, các tông đồ cũng như đa số dân Do Thái, tin Đức Giêsu là một tiên tri, và hơn nữa, là Đấng Kitô Thiên Chúa sai tới để giải phóng dân. Đa số người Do Thái thời đó đang mong chờ Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi cảnh đô hộ của người Roma. Họ mong chờ Đấng Thiên Sai (Đấng được xức dầu, Đấng Kitô) giải phóng họ, như trong quá khứ cha ông họ đã chờ đợi, cầu xin, và Thiên Chúa đã ban cho họ Môsê và các thẩm phán, để giải phóng họ khỏi cảnh áp bức.
Đức Giêsu chết, và một cái chết trần trụi ô nhục, làm các tông đồ vỡ mộng. Các tông đồ không chỉ vỡ mộng, mà còn bị khủng hoảng vì tại sao Thầy Giêsu của họ, một người tốt, một người làm nhiều dấu lạ, mà bây giờ Thiên Chúa lại bỏ Ngài, để Ngài phải chết ô nhục như vậy! Lúc Đức Giêsu còn đang sống với các tông đồ, các Ngài chưa biết Thiên Chúa là Ba Ngôi, và Đức Giêsu là Thiên Chúa Con như các Kitô hữu bây giờ. Các tông đồ buồn sầu, thất vọng, và bị khủng hoảng cả về niềm tin vào Thiên Chúa nữa.
II. Các tông đồ trước sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh
Tin Đức Giêsu đã sống lại, do các chị phụ nữ mang lại, làm các tông đồ xao xuyến. Chuyện như mơ. Điều các chị phụ nữ nói làm sao tin được? Họ là phụ nữ mà. Gioan và Phêrô chạy tới mộ. Mồ trống. Cái gì đã xảy ra? Tin mừng Gioan nói: “ông thấy và ông tin” (Ga.20, 8). Gioan tin cái gì? Gioan không nói rõ về điều này. Chỉ biết rằng theo tin mừng Máccô: “Sau cùng, Người đã tỏ mình ra cho chính nhóm mười một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trổi dậy” (Mc.16, 14).
Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin Đức Giêsu sống lại cho dù các chị phụ nữ và các tông đồ khác đã loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho ông (Ga.20, 24-29), mà tất cả các tông đồ đều không tin Chúa phục sinh, kể cả hai môn đệ đã chán nản bỏ cuộc và đang trên đường về quê (Mc.16, 12-13). Biến cố Đức Giêsu phục sinh là biến cố rất khó tin, kể cả đối với các tông đồ, vì chẳng có tông đồ nào tin Đức Giêsu phục sinh nếu đã không được Đức Giêsu phục sinh hiện ra cho họ. Họ chỉ tin Đức Giêsu phục sinh khi họ thấy Ngài.
Trong các tin mừng có nói Đức Giêsu đã loan báo ba lần Ngài sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 30-32; 10, 32-34), nhưng các tông đồ đã quên điều này khi Ngài bị giết. Tại sao họ quên? Có thể vì chuyện đó không thể tin được nên các tông đồ đã quên. Chỉ sau khi sự thực xảy ra, nghĩa là, chỉ sau khi Đức Giêsu phục sinh, mới làm các tông đồ nhớ lại các lời đó thôi. Biến cố Đức Giêsu phục sinh, là biến cố không thể tin nếu không được tận mắt thấy Ngài (như các chị phụ nữ và các tông đồ), và nếu có ai tin thì đó là một ơn vô cùng lớn: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga. 20, 29).
III. Con người trước tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh
Một số người thời các tông đồ đã cho rằng, các tông đồ trộm xác Đức Giêsu và loan tin Ngài sống lại (Mt.28, 11-15). Thế nhưng, các tông đồ đã làm chuyện đó để làm gì? Tại sao tất cả các tông đồ (trừ Gioan) đã đem chính mạng sống họ để làm chứng rằng Đức Giêsu đã phục sinh? Tại sao họ lại phải vất vả, gian khổ, và phải chết vì chuyện đó (nếu đó là gian dối thực!)?
Một số người thời đại cho rằng các tông đồ đã bị hoang tưởng tập thể. Họ đã mong Đức Giêsu sống lại, nên cứ tưởng rằng Đức Giêsu sống lại thật. Tuy nhiên, như các tin mừng làm chứng, các tông đồ đâu có dễ tin Đức Giêsu sống lại. Chẳng có ai tin Đức Giêsu sống lại, nếu không phải chính họ đã thấy Ngài. Trường hợp tông đồ Thomas giúp Kitô hữu thấy điều này rõ ràng hơn. Sự cứng lòng của Thomas lại là một lý chứng giúp các Kitô hữu vững tin vào sự kiện Đức Giêsu phục sinh.
Một số khác cho rằng, Đức Giêsu có phục sinh hay không, cũng không quan trọng. Điều quan trọng là tin mừng Phục Sinh gợi cho người ta một ý nghĩa nào đó. Đức Giêsu Phục Sinh là một biểu tượng của một đời sống mới, của sự chiến thắng. Thánh Phaolô cũng phải đương đầu với lối giải thích này, và ngài nói: “nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, … thì đức tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em…. Và nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cor.15, 12-19).
Kitô hữu là người tin Đức Giêsu sống lại thật sự, tuy dù sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại của Ladarô (Ga.11, 1-44), của em bé (Mc.5, 21-43) được Đức Giêsu cho sống lại. Thân xác của Đức Giêsu Phục Sinh đã được biến đổi, vật chất không còn giới hạn được Ngài nữa. Thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh là thân xác thần khí. Đức Giêsu phục sinh, là biến cố vô cùng quan trọng, và giúp con người hiểu hơn về Đức Giêsu, hiểu hơn về Thiên Chúa, và hiểu hơn về chính con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tin Đức Giêsu đã phục sinh không? Tại sao bạn tin Ngài phục sinh?
2. Tin Đức Giêsu phục sinh, bạn được lợi ích gì?
-----------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
a vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người PS1-322
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Gioan thuật lại trong Tin Mừng hôm nay: "Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối" (Ga 20, 1). Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy? Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu?" (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc "cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong"(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi! Allêluia! Allêluia! Allêluia! Chúng ta có tin không?
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng: "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng " (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết: "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh" (1 Cr 15, 3-8; Ga 20, 1-29); Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt!
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói: "Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật" (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, "nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới" (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng: hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta "hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đén muôn đời muôn thuở. Allêluia!
-----------------------------
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Một hôm, Đức Giáo Hoàng Innocenté IX mời người bạn thân của mình là cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Tên, lúc đó là cha Laudius Aquaviva, vào phòng riêng và chỉ cho cha một cái hộp nhỏ để trên bàn làm việc của mình và nói:
- Cha biết có gì trong hộp này không? Trong đó có điều quí nhất. Cha hãy mở ra xem.
Cha Aquaviva mở hộp ra và cha rất ngạc nhiên khi nhìn thấy trong hộp một xác người nhỏ xíu nằm ngay ngắn và giống như Đức Giáo Hoàng. Cha đang phân vân không biết tại sao, thì Đức Innocenté IX tâm sự như sau:
- Này Cha, hình người chết giống như tôi nằm trong hộp đó là điều rất quí giá. Bởi vì nó gợi lại cho tôi nhớ đến lúc mình sẽ phải chết. Và mỗi lần tôi cần phải quyết định điều gì quan trọng thì sau khi đã cầu nguyện, xin ơn Chúa soi sáng, tôi vào đây, mở hộp này ra, nhớ đến giây phút tôi phải chết rồi mới quyết định. Trước mọi quyết định, tôi đều tự hỏi: "Nếu tôi phải chết ngay trong lúc này thì tôi sẽ phải quyết định như thế nào". Chính vì thế mà chiếc hộp này rất qúy đối với tôi.
Quả thực, chiếc quan tài là dấu chỉ của sự chết. Nhìn vào chiếc quan tài con người mới thấy sự mong manh của kiếp người. Có sinh – có tử. Cuộc đời vẫn vô thường. Như bông hoa sớm nở chiều tàn. Như “bóng câu qua cửa sổ”. Khoa học dù có tiến bộ tới đâu cũng không níu kéo được thời gian và tuổi thanh xuân. Tuổi xuân xinh đẹp rồi cũng tàn theo năm tháng. Con người luôn phải chịu những khắc nghiệt của nhân sinh: Sinh – bệnh – lão – tử.
Nếu cuộc đời con người chỉ chìm đắm trong bể khổ: “sinh – bệnh – lão – tử”, thì quả thực là một mất mát trong kiếp người! Nếu cuộc đời con người phải vật vã khổ đau trong đời sống rồi tàn sức và chết đi thì cuộc sống con người là một bất hạnh! Nếu cuộc đời con người sinh ra rồi chết đi, tan biến không còn để lại gì thì cuộc đời này thật bất công cho những điều tốt chúng ta đã xây dựng, những việc lành chúng ta đã làm cho tha nhân. Nhưng là người ai trong chúng ta cũng tin có sự sống sau khi chết. Chết không phải là hết. Chết là chuyển đổi hình thức sống. sống tốt hơn, sống sung mãn hơn. Sự sống đời sau là điều phải có để trả lại lẽ công bằng cho những khuyến khuyết đời này. Đời sống đời sau phải có thì những nỗ lực vươn lên, những cố gắng sống có trách nhiệm mới làm cho những công việc đó có giá trị hạnh phúc đời này và vĩnh cửu đời sau. Niềm tin vào đời sau được thể hiện qua đời sống nơi các tôn giáo rất phong phú trên địa cầu. Có tôn giáo cho rằng chết là về miền cực lạc, về cõi bồng lai, vào niết bàn, hay đi gặp Đấng Ala...
Niềm tin ky-tô giáo mời gọi chúng ta tin vào sự phục sinh của Chúa Ky-tô. Niềm tin của sự sống lại sau cái chết. Sống lại nhưng không trở về cuộc sống dương gian. Nhưng sống lại để vào cõi phúc trường sinh, về nơi quê trời vinh hiển...
Hôm nay những người phụ nữ ra thăm mồ. Họ đã nhìn vào nấm mồ, nhưng không thấy gì. Nấm mồ trống. Nấm mồ không còn thân xác Chúa. Nấm mồ là bằng chứng nơi mai táng Giêsu hôm qua. Thế mà, hôm nay họ chỉ thấy nấm mồ trống Đây chính là bằng chứng của sự phục sinh của Chúa Giêsu. Nấm mồ hôm qua đã đậy kín bởi tảng đáng lấp mồ. Nấm mồ đã được lính gác canh giữ đề phòng các môn đệ lấy trộm xác Chúa. Nhưng hôm nay, tảng đá đã được lăn ra ngoài. Lính gác đã bỏ chạy trong đêm. Chỉ còn một ngôi mộ trống như dấu tích về sự trỗi dậy của Chúa Giêsu.
Vâng, nếu chiếc quan tài là dấu chỉ sự mong manh của kiếp người thì ngôi mộ trống là dấu chỉ cho sự sống lại của Chúa Giêsu. Chúa đã phục sinh theo như lời Người từng tiên báo: “Sau ba ngày Ta sẽ sống lại”. Chúa đã sống lại để mời gọi chúng ta tin rằng: Ngài cũng cho những ai tin vào Ngài thì đều được sống lại. Sự sống lại của Chúa Giêsu là phần thưởng của Chúa Cha dành cho Ngài vì cả đời tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Sự sống lại của Chúa Giêsu là câu trả lời cho ý nghĩa cuộc đời này. Con người sinh ra để làm gì? Chết rồi đi đâu?
Vâng, con người sinh ra để tôn vinh Chúa. Con người luôn quy hướng về Đấng tạo thành. Con người từ tạo thiên lập địa vẫn tin có Trời, có thần thánh, có Đấng Tạo Dựng. Thế nên, đã là người đều tin có thần linh. Niềm tin Ky-tô giáo mời gọi chúng ta tin vào Thiên Chúa phải biết tôn vinh Chúa. Tôn vinh Chúa bằng đời sống lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Tôn vinh Chúa khi sống theo lẽ phải, theo tiếng nói của lương tâm là lề luật Chúa khắc ghi vào trong tâm hồn con người. Con người còn có thể tôn vinh Chúa khi hết lòng yêu mến và phục vụ tha nhân... Khi con người tôn vinh Chúa ở đời này, Chúa sẽ ân thưởng hạnh phúc Nước Trời cho những ai tôn vinh Ngài.
Xin nhờ sự Phục Sinh của Chúa, ban cho chúng ta tìm được niềm vui trong đời sống hằng ngày khi cố gắng vươn lên hoàn thiện mình, khi dấn thân phục vụ tha nhân trong tình mến Chúa yêu người thiết tha. Amen.
-----------------------------
(Bài giảng của ĐGM Giuse Nguyễn Năng – Lm Phêrô Nguyễn Hồng Phúc ghi)
Anh chị em thân mến!
Đêm Chúa Phục Sinh, chúng ta ca hát Halleluia! Và Hội Thánh mời gọi chúng ta hãy vui lên, bởi vì Chúa đã sống lại. Nhưng phải nói rằng, chúng ta rất khó cảm nhận được niềm vui của Mùa Phục Sinh, của Đêm Vọng Phục Sinh này. Khi anh chị em mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta cảm nhận niềm vui ấy dễ dàng. Vì ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự sinh ra. Cha mẹ sinh ra con cái và người con được chào đời. Đó là niềm vui cho gia đình, cho xã hội, cho tất cả loài người. Trong Đêm Giáng Sinh, chúng ta cảm thấy mình vui một cách rất tự nhiên. Với Đêm Vọng Phục Sinh hôm nay thì chúng ta lại không có cảm nhận ấy. Phải nói rằng, cái cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh này, cái cảm nhận đầu tiên không phải là cảm nhận vui mừng mà là cảm nhận của một nỗi sợ hãi.
Bài Tin Mừng năm nay là Phụng vụ năm B theo thánh Macco (Mc 16, 1-7). Thánh Macco thuật lại câu chuyện về những người phụ nữ vào buổi sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, mang theo bình dầu thơm ra xức dầu cho Chúa, bởi vì chiều hôm qua Chúa chết vào giờ muộn quá, không kịp xức dầu thơm để ướp xác Chúa. Cho nên sáng ngày thứ nhất trong tuần, các bà mới vội vã ra đi, và khi các bà ra tới tận mộ thì các bà đã cảm nhận được điều gì đó. Chỉ trong 8 câu Tin Mừng, mà thánh Macco đã nhắc đi nhắc lại sự sợ hãi rất nhiều lần. Như là các bà ra mộ, nhìn thấy dấu chỉ của Thiên Thần đến loan tin Chúa đã sống lại, Chúa không còn ở trong mộ nữa. Thiên Thần trấn an: “Các bà đừng sợ! Bởi vì Chúa đã sống lại rồi”. Sau khi nhận được lời từ Thiên Thần nhắn với các tông đồ đến Galile và Chúa sẽ gặp các ông ở đấy thì các bà vội vàng chạy về. Vừa đi vừa run lẩy bẩy, kinh hoàng hết hồn hết vía. Những người phụ nữ đi mà không dám nói với ai điều gì. Bởi vì các bà sợ. Thánh Macco đã nói với chúng ta như vậy.
Cho nên, kinh nghiệm và cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh không phải là niềm vui, mà là sự sợ hãi. Tại sao lại sợ hãi? Sợ hãi là bởi vì, ở đây, con người đang đứng trước sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa. Người ta sợ vì nhiều lý do. Nỗi sợ tự nhiên, đó là con người đứng trước thiên nhiên, sóng cao biển cả, bão táp thì con người thấy mình nhỏ bé quá, con người bất lực nên con người sợ. Con người sợ vì mặc cảm tội lỗi, vì những việc làm xấu, sợ tiếng lương tâm oán trách, sợ Thiên Chúa phạt. Nhưng vẫn còn nỗi sợ khác, nỗi sợ của sự thánh thiện. Nỗi sợ khi mà mình đối diện với quyền năng của Thiên Chúa. Nỗi sợ khi mà đối diện với sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong lịch sử của nhân loại. Điều ấy đã xảy ra trong Đêm Vọng Phục Sinh này.
Trong Đêm Vọng Phục Sinh, những người phụ nữ sợ sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong nhân loại. Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã đi vào qui luật bình thường của con người, đó là có sinh có tử. Nhưng cho tới ngày hôm nay, dòng nhân quả, một diễn tiến tự nhiên của dòng đời đã bị cắt đứt, vì hôm nay, chính Thiên Chúa can thiệp và Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ trong cõi chết. Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, những người phụ nữ đã sợ. Chính cái cảm nhận sợ hãi này, là bằng chứng, cho dù không đủ, nhưng là bằng chứng rất mạnh cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa để Chúa Giêsu sống lại. Khi Chúa Giêsu sống lại thì Chúa đã chiến thắng sự chết. Chúa đã chiến thắng đau khổ, tội lỗi và hận thù!
Trong những ngày vừa qua, chúng ta đã suy niệm về những mầu nhiệm Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và Chúa Giêsu hiến mình trên cây Thánh Giá. Chúng ta nói rằng, Chúa Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc sống mới, một qui luật sống mới. Đó là qui luật của sự quên mình để sống cho người khác, để phục vụ cho anh chị em của mình. Tuy nhiên, tình yêu ấy đã bị phản bội, tình yêu ấy đã bị kết án. Nhưng nếu chỉ có vậy mà thôi thì không ai dại gì mà yêu thương, không ai dại gì mà hiến mình thay cho người khác. Nhưng hôm nay, chúng ta thấy câu trả lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với chúng ta rằng: Những ai yêu thương, người ấy không bao giờ phải thất vọng. Thiên Chúa muốn khẳng định với chúng ta rằng: Thiên Chúa chiến thắng sự chết. Thiên Chúa là tình yêu đã chiến thắng hận thù. Chúa Giêsu mở đường cho chúng ta đi và ai đi theo Chúa Giêsu thì người ấy không bao giờ phải thất vọng. Đó là lời quả quyết, mạnh mẽ mà Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới, mà người ta gọi là, thế giới của nền văn minh sự chết. Người ta sống trong hận thù, trong chiến tranh, trong bạo lực, có thể chém giết nhau bất cứ lúc nào. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy những sự ích kỷ, những tham nhũng, những bóc lột, những chèn ép và cạm bẫy xảy ra hàng ngày trong xã hội và trên thế giới. Chúng ta đang sống trong xã hội mà người ta chỉ biết hưởng thụ, hay đi tìm khoái lạc. Một xã hội tội lỗi của cá nhân, tội lỗi của thế giới, tội lỗi của toàn thể nhân loại. Xã hội này, thế giới này, nhân loại này cứ theo qui luật bình thường như vậy thì chắc chắn sẽ đi tới tận diệt. Cuối cùng sẽ là cái chết. Đôi khi chúng ta cảm thấy thất vọng, cũng như dân Do Thái ngày xưa (x. Xh 14,15.15,1a), khi phía trước là biển cả, sau lưng là quân đội Ai Cập, họ cảm thấy cái chết gần kề, cảm thấy cùng đường, cảm thấy bế tắc, cảm thấy thất vọng. Nhưng chính trong sự thất vọng ấy thì Thiên Chúa đã can thiệp, đã mở đường cho dân Do Thái đi qua biển Đỏ. Đó là sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh báo trước cho sự can thiệp vĩ đại hơn nữa. Thiên Chúa đã mở đường cho chúng ta đi, Chúa Giêsu đã chết nhưng đã sống lại, cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã dẫn đường cho dân Do Thái đi thì hôm nay Chúa Giêsu cũng dẫn đường cho chúng ta đi. Và nếu chúng ta đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ tìm thấy niềm hy vọng, giữa một thế giới đầy chết chóc và tăm tốinày. Chúng ta hãy để cho Chúa dẫn mình đi, chúng ta hãy để cho Chúa thực hiện công trình, quyền năng của Người nơi cuộc đời chúng ta. Là những Kitô hữu, chúng ta phải là sứ giả của niềm hy vọng. Niềm hy vọng không phải ở nơi tiền bạc, nơi của cải vật chất. Niềm hy vọng không phải là sức mạnh của quân đội, chính trị, nhưng là niềm hy vọng của sự thật và tình yêu. Chúng ta tin vào Chúa, chúng ta hãy đi theo Chúa.
Hôm nay, Chúa Giê su đã sống lại, Chúa mở đường cho chúng ta đi. Chúa mời gọi chúng ta đi theo con đường ấy. Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta nhìn ngắm cây nến Phục Sinh. Đó là biểu tưởng hết sức ý nghĩa. Thế giới tăm tối này, nếu không có ánh sáng của Chúa thì vẫn chìm ngập trong bóng đêm, vẫn là tăm tối, vẫn là tội lỗi, vẫn là chết chóc. Nhưng ánh sáng của Chúa đã thắp lên để chiếu soi thế giới, chiếu soi cuộc đời của mỗi người chúng ta. Anh chị em hãy nhìn lên ánh sáng của Chúa Giêsu để mà tiến bước. Ánh sáng này, ánh sáng của chân lý, ánh sáng của tình thương Phúc Âm, luôn luôn bị những cơn lốc, những cơn gió của tội lỗi tìm cách làm tắt đi. Cơn gió của trào lưu tục hóa, luôn luôn muốn thổi mạnh lên thành bão táp để làm tắt ngúm cây nến Phục Sinh, là Lời Chúa, là tình thương của Chúa. Thánh Gioan lại khẳng định, bóng tối tìm cách trấn áp ánh sáng nhưng mà không bao giờ lại có thể làm tắt được ánh sáng của Chúa Giêsu. Ánh sáng của Chúa, một khi đã được đốt lên thì chúng ta cứ tin tưởng mà bước theo Chúa. Hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại, đó là lời bảo đảm cho chúng ta rằng Ánh sáng của Chúa Giêsu sẽ còn mãi.
Khi Chúa Giêsu sống lại, Chúa đã đưa chúng ta sang bờ bên kia của biển Đỏ. Chúa Giêsu dẫn đưa chúng ta từ cõi chết tới cõi sống. Chúa Giê su đã đặt thế giới này trong tình trạng “bất khả hồi”, không bao giờ có thể chịu thua quyền lực của sự chết. Như thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được cùng chết với Chúa và cùng sống lại với Chúa qua bí tích Rửa tội”( x. Cl 2,12). Chúng ta ngồi đây, theo qui luật tự nhiên, chúng ta sẽ phải chết. Nhưng trên nguyên tắc, nhờ Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đang ngồi đây, chúng ta đã có sự sống lại của Chúa Giêsu rồi. Đức Kitô Phục Sinh đang ở trong chúng ta. Thần Khí của Thiên Chúa là chính Chúa Thánh Thần đang ở trong chúng ta. Chúng ta được đưa vào thế giới của sự sống, thế giới của ánh sáng. Hãy giữ lấy ngọn nến mà anh chị em đã thắp lên ở trong tay của mình, ngọn nến của linh hồn. Chúng ta hãy để cho Tin Mừng của Chúa chiếu soi chúng ta, và cho dù chúng ta có phải chết về phần xác, nhưng đừng để tâm hồn của chúng ta chết trong tội lỗi.
Anh chị em thân mến!
Anh chị em hãy luôn luôn giữ ngọn nến linh hồn mình để trở thành sứ giả của niềm hy vọng. Anh chị em hãy công bố cho mọi người biết khi chúng ta theo Chúa thì chúng ta sẽ được sống. Anh chị em hãy gieo rắc niềm hy vọng trong cuộc đời đầy tăm tối, đầy lo âu, đầy hận thù, chết chóc, đầy những ích kỷ của thế giới này. Chúng ta phải sáng lên niềm hy vọng nơi chân lý Phúc Âm. Chúa Giêsu đã sống lại, chúng ta hãy hát mừng, mà chỉ có người nào thực sự cảm nhận niềm vui ấy, mới có thể hát lên “Halleluia!”. Cho nên từ cảm nhận nỗi sợ hãi, chúng ta tiến tới niềm vui và cảm nhận niềm vui mừng, bởi vì Chúa đã sống lại!
Trong niềm vui Chúa đã sống lại, tôi xin chúc mừng niềm vui tới tất cả mọi người, xin cho ngọn nến Phục Sinh này cháy sáng mãi trong cuộc đời của anh chị em. Xin niềm vui và bình an của Đức Kitô Phục Sinh ở lại mãi với tất cả mọi người chúng ta. Amen.
-----------------------------
http://www.giaophanvinhlong.net/Hiep-Song-Tin-Mung-Chua-Nhat-Phuc-Sinh-Nam-B.html
CHÚA NHẬT PHỤC SINH B
Cv 10,34a.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Ga 20,1-9
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9
(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.(2) Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
2.Ý CHÍNH:
Sau khi chịu chết vào chiều Thứ Sáu, Đức Giê-su đã được hai môn đệ an táng trong ngôi mộ đá. Nhưng đến ngày Thứ Nhất trong tuần, khi bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na ra thăm mộ đã tỏ ra hốt hoảng khi thấy tảng đá che đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp hai ông Phê-rô và Gio-an cấp báo sự thể. Hai môn đệ bán tín bán nghi cùng chạy ra mộ để xem rõ sự thể. Hai ông thấy ngôi mộ bị mở toang, nhìn vào trong thì thấy khăn liệm vẫn còn, nhưng xác Thầy đã biến mất. Ông Phê-rô im lặng suy nghĩ, đang khi Gio-an “đã thấy và đã tin”: Qua sự kiện xác Thầy biến mất nhưng khăn vải liệm vẫn còn để lại, nên đã suy luận và tin Thầy đã phục sinh.
3.CHÚ THÍCH:
-C 1: +Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ: Theo Tin Mừng Gio-an, do lòng mến thôi thúc mà chỉ mình bà Ma-ri-a ra thăm mộ để xức dầu thêm cho thân xác mới an táng của Thầy.
-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Khi thấy "tảng đá đã lăn khỏi mộ", bà liền vội vã chạy về nhà Tiệc Ly thông báo sự kiện mồ trống cho hai ông Phê-rô và Gio-an là những người lãnh đạo Nhóm Mười Hai. + Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”: Câu này cho thấy bà không hề nghĩ là Thầy Giê-su có thể đã phục sinh.
-C 3: + đi ra mộ … chạy mau hơn: Sở dĩ Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đến mộ trước Phê-rô là do ông còn trẻ và có sức khỏe dồi dào hơn ông Phê-rô.
-C 4: + Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào: Gio-an thể hiện sự tôn trọng Phê-rô là đán anh, vừa cao niên hơn lại vừa được Đức Giê-su đặt làm người đứng đầu Nhóm Mười Hai.
-C 6: + Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó: Câu này cho thấy tính quyết đoán của Phê-rô. Tuy có chậm hơn Gio-an, nhưng ông Phê-rô đã được Gio-an tôn trọng nhường bước vào bên trong mộ trước. Ông Phê-rô "nhìn thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giê-su”. Điều này cho thấy giả thuyết bà Ma-ri-a thông báo xác Thầy đã bị đánh cắp là không có cơ sở, vì "kẻ trộm sẽ chẳng dại mất quá nhiều thời giờ để ngồi tháo các băng vải, cuộn lại đặt riêng ra một nơi" (Theo suy niệm của thánh Gioan Kim Khẩu).
-C 8: + Ông đã thấy và đã tin: Ông Gio-an tuy vào mồ sau Phê-rô, nhưng có lẽ Gio-an đã đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh trước Phê-rô do lòng mến thôi thúc. Chính nhờ lòng mến này mà sau đó, Gio-an đã luôn nhận ra Thầy trước các anh em như ông đã nhận ra Thầy là người mới vừa đứng trên bờ hồ hướng dẫn các ông thả lưới bắt mẻ cá lạ lùng (x. Ga 21,7).
4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ từ sáng sớm ngày Thứ Nhất và bà ra thăm mộ để làm gì? 2) Hai môn đệ là Phê-rô và Gio-an đóng vai trò thế nào trong Nhóm Mười Hai Môn Đệ của Đức Giê-su ? 3) Khi thấy cửa mộ mở và xác Thầy biến mất, bà Ma-ri-a có tin Thầy đã sống lại không? Câu nói nào của bà cho thấy thái độ không tin Thầy đã sống lại? 4) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô? 5) Cả hai ông đều thấy mồ trống, đều thấy những tấm băng vải cột xác Thầy khi an táng đã được xếp để lại gọn gàng và ai trong hai ông đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ xấu đến lấy trộm xác?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8b).
2.CÂU CHUYỆN: Một Sư Bà đã được sống lại về phần linh hồn trong giờ chết.
Cha Giuse Bùi Văn Nho, cha sở họ đạo GIƠN ĐẮC (Jeanne d’ Arc) nhà thờ ngã sáu Chợ lớn đã thuật lại câu chuyện cảm động mà chính cha là người trong cuộc như sau:
Vào một đêm khuya thanh vắng bỗng chuông điện thoại trong nhà xứ reo vang. Có tiếng một bà phước mời cha đến ngay bệnh viện Hồng Bàng để ban phép giải tội cho một sư bà đang nằm điều trị tại đây. Sư bà ngỏ ý muốn gặp cha để xin xưng tội. Sau khi tìm hiểu kỹ về trường hợp này, cha biết được sư bà này vốn là người Công giáo, nay gần chết sư bà đã nhờ bà phước mời cha đến giúp bà được sống lại trong ơn nghĩa Chúa!
Khi đến nơi, thấy sư bà đang nằm thở thoi thóp không nói nhiều được. Cha chỉ hỏi vắn tắt mấy câu để biết rõ xem sư bà có phải là người Công giáo không?
- Tên thánh bổn mạng của bà là gì?
- Maria Anna.
Câu trả lời của sư bà khiến cho cha yên tâm để giúp bà sám hối tội lỗi, trước khi ban phép giải tội, phép xức dầu bệnh nhân và cho bà rước lễ như của ăn đàng. Trước khi về nhà, cha còn căn dặn bà phước: nếu sư bà tỉnh lại, phải báo lại cho cha biết để đến giúp gia tăng đức tin. Bốn ngày sau, bà phước báo tin sư bà đã hồi tỉnh và muốn được gặp cha. Cha đã đến gặp và nghe bà tâm sự về cuộc đời và lý do đi tu chùa của bà như sau:
“Thưa cha, quê con ở Cái Nhum, Chợ Lách, thuộc giáo xứ cha P. Thắng. Con bấy giờ là trưởng hội hát trong xứ và là hội viên đoàn con Đức Mẹ. Khi lên 20 tuổi có một thanh niên ở Sài-gòn làm quen và sau đó xin cưới. Hai gia đình đồng ý và đã làm lễ hỏi. Đến gần ngày hẹn, vị hôn phu lại xin hoãn lại ba tháng để thi lấy bằng thành chung. Anh đã về Sài-gòn và dặn con cứ an tâm chờ đợi. Ba tháng, bốn tháng rồi một năm rưỡi qua đi mà vẫn bặt tin tức của anh. Con buồn rầu xấu hổ, nhất quyết lên Sài-gòn đi tìm, dù mọi người thân đều ngăn cản. Một hôm con đã lén ăn cắp ít tiền của cha mẹ, rồi trốn lên Sài-gòn trong tình trạng bơ vơ không biết đi về đâu. Sau đó con đã tìm đến nhà một chị bạn đồng hương và được cho ở trọ. Ngày ngày con đi dò la tin tức mà vẫn không gặp người xưa. Rồi một hôm khi đi dự lễ tại nhà thờ Huyện-sĩ, con tình cờ trông thấy vị hôn phu của con mà anh ta lại không nhìn thấy con. Lễ xong con đi theo anh ta về tới tận nhà mới biết anh đang sống chung với một người vợ và có một đứa con. Con đã té xỉu khi biết rõ sự việc! Rồi con buồn bã đi lang thang không biết phải đi đâu và làm gì ?… Về nhà thì xấu hổ với mọi người, lại sợ bị cha sở và cha mẹ quở mắng.
Sống lây lất ở Sài-gòn được bốn tháng trong tình trạng không còn tiền, bị thất nghiệp và thất tình, một hôm con đã được người bạn giới thiệu xin việc làm ở vùng Chợ Lớn. Tại đây, bị cơn mưa lớn, con vào trú mưa trong một ngôi chùa. Mưa kéo dài mãi tới tối, con đành xin ngủ đêm tại chùa. Sư trụ trì chùa thương hại cho con ăn cơm thêm bốn năm ngày liền. Một hôm nhà sư đề nghị nếu con muốn tu chùa, sẽ giới thiệu ra ngoài Huế. Không hiểu tại sao con lại đồng ý và nhà sư đã viết giấy giới thiệu và còn cho tiền lộ phí nữa.
Ra Huế, tu được 20 năm, con đã được nhận giấy chứng chỉ của Vua Bảo Đại, công nhận là bậc chân tu. Con được lệnh vô Sài-gòn để thành lập một ngôi chùa sư nữ, vì trong miền Nam bấy giờ chưa có chùa cho nữ giới. Nhưng khi vào đến đây được ít lâu, con đã mắc phải bệnh lao phải nằm nhà thương, đến nay là sáu tháng. Mỗi lần con trông thấy cha vào thăm bệnh đi qua giường con, con muốn nói với cha mà không sao mở miệng, nên chỉ biết cúi đầu chào cha. Hôm bệnh trở nặng bị thổ huyết, con mới đánh bạo nói thật với bà phước, để nhờ bà mời cha đến…”
Bà sư sống thêm được hai tuần lễ nữa rồi qua đời sau khi đã được hoàn toàn quay về làm con cái Thiên Chúa. Khi bà vừa tắt thở thì một điều rắc rối đã xảy ra: một vị sư thày đã đến trách cha sở cướp người nhà chùa của họ. Sư thầy nói: “Bao nhiêu người khác sao cha không dụ theo đạo mà lại dụ dỗ người nhà chùa của chúng tôi?”. Cha cố gắng giải thích thế nào thì sư thày cũng không chấp nhận. Ông không tin sư bà trước kia là người Công giáo. Sau cùng cha đành đồng ý để bên nhà chùa cử hành lễ nghi an táng theo Phật Giáo. Nhưng rồi hai tiếng đồng hồ sau, nhà sư đột nhiên thay đổi ý kiến. Ông đến gặp cha và nói như sau: “Chúng tôi xin nhường việc an táng bà này cho bên Công giáo”.
Rồi nhà sư giải thích lý do: “Vì khi thay xiêm áo cho bà, chúng tôi đã tìm thấy trong bóp của bà một bản di chúc nói rõ tên thật, tên cha mẹ, quê quán và yêu cầu nhà chùa nhắn tin cho cha mẹ của bà biết là bà đã được chịu các phép bí tích công giáo trước khi chết. Bà còn nói rõ ý muốn: “Tôi muốn được chôn cất theo nghi lễ Công giáo”. Vì thế chúng tôi xin nhường lại cho bên Công giáo cử hành nghi lễ an táng cho bà và chỉ xin được tiễn đưa bà tới nơi mộ phần thôi. Đám tang của sư bà hôm ấy có rất đông sư sãi đi tiễn đưa và chỉ có một linh mục là cha sở Nhà thờ Ngã sáu. Sau lễ an táng, bà phước đã trao cho cha cái bóp của sư bà, trong đó có một mẫu ảnh áo Đức Bà Núi Carmêlô. Có lẽ nhờ có lòng mến Đức Mẹ nên cuối cùng sư bà đã được Mẹ cầu bầu để sống lại trong ơn nghĩa Chúa vào giờ sau hết.
(Viết theo “Những Trang Sử Đẫm Mồ Hôi Của Họ Chợ Lớn”- VN, tr. 94-100)
3.THẢO LUẬN:
1) Bạn có cảm nghĩ gì sau khi biết được câu chuyện của sư bà nói trên?
2) Theo bạn khi mừng lễ Phục Sinh hằng năm, để việc mừng lễ có giá trị thực sự, mỗi người tín hữu phải làm gì cho bản thân và giúp đỡ tha nhân chung quanh?
4.SUY NIỆM:
1) Sự sống lại của Chúa đã làm cho các Tông đồ được biến đổi:
Cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh đã làm biến đổi cuộc đời của các tông đồ: Nếu trước cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su, ông Phê-rô đã tỏ ra hèn nhát kém tin khi đã chối Thầy tới ba lần, thì sau khi gặp Chúa Phục Sinh và đón nhận được Thần Khí của Người, ông đã nên can đảm mạnh mẽ, rao giảng về Chúa Ki-tô trước đám đông dân chúng, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trước công đường... Trước đây chưa hiểu Lời Chúa, thì nay ông đã thông suốt những Lời Chúa trong Sách Thánh nhờ gặp được Chúa Phục Sinh như ông đã khẳng định: "Còn chúng tôi đây xin làm chứng... Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tưởng".
2) Điều kiện để nên con người mới: phải chết đi cho con người cũ:
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi đã chết, nên chúng ta cũng chỉ có được sự sống mới sau khi đã chết đi cho con người cũ. Đó là chết đi cho những thói hư và tội lỗi của con người cũ nơi ta như lời thánh Phao-lô dạy: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
Sự sống mới đòi hỏi một sự tự hủy và lột xác: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Cũng vậy, khi phá hủy «cái tôi ích kỷ», thì «cái tôi» ấy sẽ không bị mất đi, nhưng sẽ được chuyển hóa thành một con người mới phong phú, mạnh mẽ hơn gấp bội. Thực tế cho thấy: Ai càng ích kỷ thì sức sống của họ càng nhỏ bé và càng mất đi giá trị và hạnh phúc. Ngược lại, «Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân sẽ không tìm thấy hạnh phúc và cũng chẳng giúp cho ai có được hạnh phúc. Trái lại, những vị thánh, những người luôn quên mình, vị tha lại là những người luôn sống trong hạnh phúc, mặc dù xem ra bề ngoài các ngài có bị thiệt thòi và chịu khổ cực hơn ai hết.
3) Xin được sống lại thật về phần linh hồn:
Chúa Ki-tô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Ki-tô đã sống lại, cái chết khộng còn là biểu tượng của thất bại và là ngõ cụt, nhưng đã trở thành cánh cửa mở ra hướng về một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đã về trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mời gọi chúng ta đi theo Người “qua đau khổ vào trong vinh quang”. Đó là đức tin và là niềm hy vọng của các tín hữu chúng ta.
Mỗi môn đệ Chúa xưa mỗi người đều có một cách thức đón nhận đức tin và biểu lộ đức tin vào mầu nhiệm phục sinh cách khác nhau; nhưng tất cả đều có chung một lòng yêu mến Chúa Giê-su và sẵn sàng làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống quên mình vị tha và sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
4) Sống lại thành con người mới luôn quên mình, vị tha, khiêm nhường phục vụ:
Con người mới được thánh Phaolô xác định như sau: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24). Như vậy, trở nên con người mới chính là nên con người nguyên thủy như khi mới được Thiên Chúa tạo dựng, và trước khi phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản tính của “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Vậy, để có một đời sống mới, con người mới, ta cần quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người tự mãn ích kỷ, khi chỉ biết lo cho bản thân mình… để mặc lấy con người mới là con người vị tha, luôn sống chan hòa yêu thương phục vụ tha nhân. Muốn được như vậy, mỗi người chúng ta cần phải cầu xin ơn Thánh Thần như thánh Phao-lô đã dạy: «Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta có ơn Thánh Thần, chúng ta sẽ được Ngài biến đổi toàn diện: Từ cách suy nghĩ, nói năng đến thái độ và hành động, để trở thành một con người mới thực thụ, giống như các Tông đồ khi xưa sau khi đớn nhận Thánh Thần trong lễ Ngũ tuần. Nhờ đó, mầu nhiệm phục sinh của Đức Giê-su mới thật sự mang lại ích lợi cho cuộc sống đời đời của chúng ta.
5.LỜI CẦU:
Lạy Chúa Phục Sinh. Xin ban cho con luôn có được sự sống của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ mãi xanh tươi và được đơm bông kết trái. Xin ban cho con luôn có sự bình an của Chúa, nhờ đó con sẽ vững tâm theo Chúa giữa bao sóng gió đường đời. Xin ban cho con niềm vui của Chúa, nhờ đó khuôn mặt của con sẽ luôn tươi vui rạng rỡ, sẵn sàng tỏ ra thân thiện và đi bước trước đến kết bạn với tha nhân. Xin ban cho con niềm tin và niềm hy vọng của Chúa, nhờ đó con sẽ hăng hái lên đường chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, không quản ngại những khó khăn gian khổ. Và nhất là: Lạy Chúa, xin ban cho con đầy tràn Thần Khí của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ luôn được đổi mới nên tốt lành thánh thiện và giới thiệu Chúa đến cho mọi người.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
-----------------------------
Vọng Phục Sinh
Bài đọc 1: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18
Bài đọc 2: Xt 14, 15-15, 1
Bài đọc 3: Is 55, 1-11
Bài đọc 4: Bar 3, 9-15. 32; 4, 4
Bài đọc 5: Rm 6, 3-11
Tin mừng: Mc 16, 1-8
Kính thưa
Theo truyền thống rất cổ kính của Giáo Hội, đây là đêm đáng lưu ý của Thiên Chúa. Đêm Giavê canh thức để đem dân Chúa ra khỏi đất Ai cập; “đó là đêm của Giavê (đêm) canh thức của toàn thể con cái Israel theo các thế hệ của họ” (Xh 12, 42). Lễ Vọng đêm nay là mẹ của các lễ vọng khác trong năm Phụng vụ. Đồng thời, đây cũng là cao điểm của cả năm Phụng vụ, vì nếu không có sự Phục Sinh của Đức Kitô thì quả thật, chúng ta là những kẻ bất hạnh, vô phúc nhất trên cõi đời này như lời thánh Phaolô: "Nếu Đức Kitô đã không sống lại, vậy thì lời rao giảng của chúng tôi thật hư không, và hư không nữa việc anh em tin... Nếu ta đặt mối hy vọng vào Đức Kitô vẻn vẹn vho lúc sinh thời này thôi, thì quả ta là những kẻ khốn nạn nhất trong thiên hạ" (1 Cr 15, 14).
Giờ đây, dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh, chúng ta cùng nhìn lại các bài đọc trong phần phụng vụ lời Chúa hôm nay, để một lần nữa nhận ra sự quan phòng kỳ diệu và nhất là tình yêu của Thiên Chúa đối với từng người chúng ta trong suốt dòng lịch sử nhân loại.
Trước hết, bài đọc trích từ sách Sáng Thế thuật lại câu chuyện Abraham hiến tế con mình cho Thiên Chúa. Khi nghe lệnh truyền của Thiên Chúa, cho dù không hiểu và đau đớn, ông đã không do dự đem đứa con của lời hứa, đứa con một duy nhất đi hiến tế. Đây quả thực là một hành động của đức tin như lời giải thích của tác giả thư Do thái: "Bởi tin, Abraham đã hiến dâng Isaac khi Thiên Chúa thử lòng, và ông tiến dâng đứa con một.. . bởi ông nghĩ rằng: Thiên Chúa quyền phép đủ để làm cho người chết sống lại, do đó ông đã được lại con ông, sự đã nên như triệu báo" (Dt 11,17-19). Triệu báo hay hình bóng nói đó ám chỉ sự sống lại của Đức Kitô để từ đó phát sinh một dân tộc mới.
Tuy nhiên, để chuẩn bị cho dân mới này, lịch sử cứu độ còn phải trải qua một dài đoạn dài trong thời gian với nhiều thăng trầm thay đổi. Trước hết, đó là cuộc Vượt Qua của dân Do thái ra khỏi Ai cập đi về Đất Hứa, ngang qua Biển Đỏ như chúng ta vừa nghe trong bài sách Xuất hành. Đây là cuộc Vượt Qua quan trọng nhất trong lịch sử dân Do Thái. Một cuộc Vượt Qua được ghi khắc sâu đậm trong tâm thức của dân Chúa và được họ lập lại hàng năm. Từ đây, dưới sự hướng dẫn của các ngôn sứ, dân Israel ngày càng vững tin rằng: Thiên Chúa đã tỏ uy quyền mà giải thoát dân Ngài trong cuộc Vượt Qua này, ắt Ngài sẽ không bỏ rơi, nhưng sẽ còn cứu thoát họ mãi mãi. Cuộc Vượt Qua đó là hình ảnh sống động nhất tiên báo phép Rửa tội, tái sinh chúng ta trong sự sống mới mà chúng ta được lãnh nhận nhờ cuộc Vượt Qua của Đức Kitô.
Nếu như cuộc Vượt Qua Biển Đỏ chỉ là giải thoát cho dân Do thái, thì cuộc Vượt Qua của Đức Kitô có giá trị đem lại ơn cứu độ cho mọi dân tộc trong đó có chúng ta, như lời tiên báo của ngôn sứ Isaia: "Đây Ta đặt người làm nhân chứng cho các dân, làm tướng lãnh tôn sư các dân tộc". Đây là một trong những lời tiên tri có tính phổ quát nhất của Cựu Ước. Lời tiên tri này vượt quá sự khôn ngoan và suy luận tự nhiên của con người, như Lời Chúa khẳng định qua miệng của vị ngôn sứ: "Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta,.. . Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy".
Và quả thật, với kinh nghiệm thường ngày, chúng ta cũng nhận ra rằng: Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa quả thật khác xa cách tính toán và suy nghĩ của con người chúng ta. Con người chúng ta ai cũng trốn tránh cái chết, nhưng Đức Giêsu đã tự nguyện đi con đường thập giá với cái chết nhục nhã trên thập giá. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã Vượt Qua cái chết đó để khai mở một cuộc sống mới trong vinh quang bất diệt. Sự sống lại của Đức Kitô không phải là một niềm tin mơ hồ, nhưng được chính các sứ thần nói với các phụ nữ ra viếng mồ Chúa: "Các bà đi tìm Chúa Giêsu chịu đóng đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa". Như vậy, thế lực sự chết cho dù có mạnh cũng không cầm giữ được Đức Kitô, như lời khẳng định của thánh Phaolô: "Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát với tội lỗi, mà khi Người sống là sống cho Thiên Chúa".
Giờ đây, để nhận được sự sống mới của Đấng Phục Sinh, thánh Phaolô mời gọi chúng ta chịu thanh tẩy trong sự chết của Đức Kitô, hay nói cách khác, chúng ta phải đóng đinh con người cũ của chúng ta vào thập giá của Đức Kitô, "để cho xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa... Mà nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người".
Mỗi người chúng ta nhờ bí tích rửa tội đã nhận được sự sống mới của Đức Kitô. Tuy nhiên, đời sống mới này lại tồn tại trong một bản tính yếu đuối, hậu quả của tội lỗi, nên luôn cần được của ăn bổ dưỡng và linh dược phòng ngừa, chữa trị. Vì thế, mỗi người chúng ta cần siêng năng, sốt sắng lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Giao hoà và Thánh Thể, và chính nhờ sự hiệp thông mật thiết với Đức Kitô ngay ở đời này, chúng ta hy vọng sẽ được liên kết với nhau và với Người trong đời sống vĩnh cửu sau này. Amen
-----------------------------
THÁNH LỄ VỌNG PHỤC SINH
Dẫn nhập:
Kính thưa ông bà anh chị em,
Cứ mỗi năm khi Phục Sinh về, phụng vụ tuần Bát Nhật Phục Sinh lại vang lên lời ca Tiếp liên như một điệp khúc quen thuộc: “Ba Maria ơi, trên đường bà đã thấy gì, xin kể cho chúng tôi nghe…”. Và chúng ta cũng nhận ra ngay rằng: “chuyện kể” của bà Maria đó lại là câu chuyện của chúng ta và của mọi thế hệ Kitô hữu dành để chia sẻ cho nhau trong Đêm Hồng phúc nầy suốt gần 2000 năm nay, câu chuyện về “một Ngôi Mộ Trống”, ngôi mộ táng xác một người mang tên Giêsu Na-da-rét, bị kết án chết trên thập giá, được chôn táng đàng hoàng ở đó chiều Thứ Sáu, nhưng sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần sau đó hai hôm, được các người phụ nữ thân quen đi thăm phát hiện nhiều chuyện hi hữu lạ lùng: nào là “Ngôi mộ không còn xác”, nào họ đã gặp các thiên sứ báo tin Thầy Giêsu đã sống lại, và nhất là liền sau đó, chính Đức Kitô Phục Sinh đích thân gặp họ và truyền cho họ loan báo “Tin Mừng Phục Sinh” cho các môn sinh của Ngài.
Và câu chuyện của chúng ta đêm nay lại xoay quanh “chuyện kể của Bà Maria ngày xưa ấy:
1. Bà Maria ơi trên đường bà đã thấy gì, xin kể cho chúng tôi nghe !”. Thưa câu chuyện của tôi đó chính là: câu chuyện của niềm tin về Ngôi Mộ Trống:
Vâng đây là niềm tin của chúng ta, của những người kitô hữu. Chúng ta có mặt ở đây đêm nay, cùng với hàng tỉ anh chị em Kitô hữu khác trên khắp địa cầu, là để cử hành một mầu nhiệm căn cốt của đức tin Kitô giáo, mầu nhiệm Chúa Kitô phục sinh, một biến cố trọng tâm mà nếu sự thật chỉ là một cuộc lừa đảo, một sự bịa đặt, một sự “dựng đứng” của sự cuồng tín…thì đừng nói là cuộc tập họp đêm nay hay các ngày Chúa Nhật, mà cả cái tên Kitô hữu vĩnh viễn sẽ không xuất hiện trong thế giới nầy và hạt giống Tin mừng Phục Sinh mà người gieo đầu tiên là một phụ nữ vô danh tiểu tốt chắc chắn đã tiêu tan và không để lại dấu vết gì trong thời gian và lịch sử con người.
Đừng quên rằng, trong những ngày nầy, thế giới đang nôn nao, nô nức đón chờ xem cho được bộ phim “Mật Mã Da Vinci” được thực hiện theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Dan Brown người Mỹ. Đây là cuốn tiểu thuyết với “sự hư cấu tài tình bằng những cứ liệu mang dáng đứng lịch sử” đã cố minh chứng rằng: chân lý về Chúa Giêsu mà Giáo hội đang rao giảng, Tin mừng về Chúa Giêsu mà Dân Chúa đang công bố và xác tín, sự thật về Chúa Giêsu mà muôn thế hệ kitô hữu đã xác tín và tuyên xưng bấy lâu nay, chẳng qua chỉ là một sự mạo nhận, một sự lừa bịp, một sự “dựng đứng của một âm mưu” để che dấu một sự thật phũ phàng khác bao quanh một con người Giêsu tầm thường như bao nhiêu con người khác đã mất hút trong đêm dài lịch sử.
Không phải chỉ hôm nay, trong thế kỷ nầy, người ta mới tìm đủ mọi cách để phủ nhận chân lý về “Chúa Kitô phục sinh”, mà ngay từ đầu, khi cánh cửa mộ táng xác Chúa Giêsu mới vừa được khép lại, các quan chức Do Thái giáo đã dùng tiền bạc đút lót để hòng dập tắt mọi chuyện liên quan đến “vụ án Giêsu Nadarét”, và nhất là tìm cách ngăn ngừa và vô hiệu hóa mọi toan tính nếu có của những tên tông đồ cuồng tín bày đặt ra câu chuyện “phục sinh” của Thầy mình để biện minh cho những lời tiên báo của Thầy trước đó; và họ cứ ngỡ rằng: bằng viên đá to lấp cửa mộ, bằng vài tên lính canh đứng gác bên ngoài, bằng dấu triện niêm phong của quan tổng trấn…vĩnh viễn cái xác của Giêsu Na-da-rét sẽ chết thúi trong mồ và tên của Giêsu Na-da-rét sẽ sớm chìm vào sọt rác của thời gian !
Nhưng rồi, chỉ bằng những bước chân hớt hải hoảng kinh của một nhóm đàn bà đi thăm mộ thấy mộ trống và những sự kiện lạ lùng (Mc 16,1-8), hay chỉ với những lời tường thuật đầy hoang mang sợ hải đượm một thoáng ngỡ ngàng của một thiếu phụ Maria Mađalêna đã vang bóng một thời là một cô gái làng chơi nức tiếng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu” (Ga 20, 2), mọi toan tính “khai trừ Giêsu” khỏi thế giới sự sống và lịch sử của loài người của hội đồng cộng tọa Do Thái, của những người chống Chúa Giêsu đã trở nên vô ích.
Vâng, chứng từ giản đơn về một “Ngôi Mộ Trống” của những người phụ nữ vô danh tiểu tốt, của những tên dân chài dốt nát xứ Galilê, cứ thế lan ra, vang xa đến mọi biên giới quốc gia, đến mọi miền đất nước như một lời tiên báo từ ngàn xưa: “Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (TV 18,5).
Chính vì thế, một lần nữa chúng ta tuyên xưng rằng: Chúa Kitô phục sinh đó là “câu chuyện của niềm tin”, đó là mầu nhiệm đức tin”, đó là hồng ân đức tin vĩ đại nhất được trao ban như lời ca của bài ca Exultets hôm nay đã vang lên ngay từ khi ánh nến lung linh của Cây Nến phục sinh mới vừa được thắp sáng trong nghi thức đầu lễ:
“Ôi kỳ diệu thay, lòng Cha yêu thương đoàn con, nào ai hiểu thấu, để cứu kẻ nô lệ Cha đã nộp chính Ngôi Con. Ôi tội A-dam thật là cần thiết, tội đã được xóa bỏ nhờ cái chết của Đức Kitô. Ôi tội đã hóa thành hồng phúc vì nhờ đó mà chúng con có được Đấng Cứu Chuộc cao sang. Ôi đêm thật diễm phúc, vì chỉ mình ngươi xứng đáng biết được thời giờ Đức Kitô từ cõi chết phục sinh…”
2. Bà Maria ơi trên đường bà đã thấy gì, xin kể cho chúng tôi nghe !”. Thưa câu chuyện của tôi đó chính là: Đức Kitô phục sinh tiêu đích của lịch sử cứu độ:
Chính trong ý nghĩa nầy mà toàn bộ cử hành phụng vụ đêm nay đã diễn ra như một “kịch bản” trình bày cả một “chương trình cứu độ của Thiên Chúa” khởi đi từ buổi đầu hồng hoang sáng tạo, nơi đó bóng tối phủ ngập trần gian khi con người chối từ sa ngã…để rồi từng bước chuẩn bị ước giao, Thiên Chúa từ từ thực hiện công cuộc cứu độ, cho tới khi toàn thể nhân loại bừng lên ánh vinh quang trong cuộc sống lại Con Thiên Chúa. Bài ca “Exultet, Mừng Vui lên” truyền thống của phụng vụ Đêm Vọng Phục Sinh” vang lên cùng ánh lung linh của cây nến Phục sinh là một diễn tả đầy gợi cảm và mang ý nghĩa thâm thúy:
“Chính đêm nay, lạy Cha nhân từ, Cha đã giải thoát cha ông chúng con là dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập, và đưa họ đi qua Biển Đỏ ráo chân. Chính đêm nay cột lửa sáng rực cả bầu trời đẩy lùi xa bóng tối tăm tội lỗi. Chính đêm nay, tín hữu Đức Kitô, trên khắp mặt địa cầu, được tách khỏi thói đời sa đọa và thoát vòng tội lỗi bủa vây, được trả về tình trạng ân nghĩa và hiệp thông với nguồn thánh thiện. Chính đêm nay Đức Kitô toàn thắng hiển vinh, diệt tử thần, từ âm phủ chỗi dậy…Đêm cực thánh khử trừ muôn tội vạ, đêm vạn năng thanh tẩy hết lỗi lầm, biến tội nhân thành con người công chính, đem vui mừng cho hồn nặng sầu thương…”
Vâng, nhân loại kể từ sau biến cố “Ngôi Mộ Trống” của buổi sáng tinh mơ “Ngày Thứ Nhất trong tuần” cách đây 2000 năm, đã tiến trên một “lộ trình mới”, đã thoát ra khỏi “con đường hầm của thất vọng buồn tênh” mà cái chết như là một căn phần định mệnh chí tử. Đức Kitô đã sống lại và từ đó một nguồn sống mới đã thổi vào trần gian, một niềm hy vọng về sự sống lại và sự sống vĩnh cửu đã được nhen lên giữa miền âm u tử địa, một con đường dẫn tới hy vọng rạng ngời cho kiếp phận vĩnh hằng của nhân loại đã được mở ra. Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay đã khẳng định với chúng ta về điều đó: “Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người.
Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới…”. Chính vì thế, Hội Thánh cử hành Đêm cực thánh nầy luôn luôn với tâm tình tri ân cảm tạ, cảm tạ tình thương cứu độ bao la của Thiên Chúa, cảm tạ cuộc Tử nạn hồng phúc và phục sinh vinh quang của Đức Kitô, vì chính nhờ biến cố lạ lùng nầy mà tất cả chúng ta được lãnh nhân hồng ân cứu rỗi, được thoát vòng nô lệ tội lỗi và sự chết để tiến vào cuộc sống của con cái trong Vương quốc vĩnh hằng. Phụng vụ đêm nay đã tràn ngập lời Ha-lê-lu-ia ca tụng Thiên Chúa và tri ân cảm tạ Ngài: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương”, và chính trong bài ca Exultet Mẹ Hội Thánh đã long trọng thốt lên:
Thật là chính đáng và phải đạo khi chúng ta đem hết tâm hồn và muôn lời hoan hỷ để ca tụng Thiên Chúa vô hình là Cha Toàn Năng, và ca tụng Đức Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa, và là Chúa chúng ta. Người đã thay chúng ta dâng lên Cha hằng hữu giá chuộc tội A-đam”.
Quả thật với biến cố “Ngôi Mộ Trống”, Đức Kitô đã vùi lấp tất cả những gánh nặng tăm tối vây bọc phận người, đã đưa về một nguồn suối nước của hy vọng sự sống tưới chan hòa lên sa mạc cuộc đời hoang vu, đã chiếu rọi ánh vinh quang cho trần gian rực lên niềm tin yêu vĩnh cửu. Chính vì thế, chúng ta đêm nay lại một lần nữa hân hoan vui mừng: “Mừng vui lên, hỡi khắp miền dương thế, bốn bề đang rực ánh hào quang: Vua vĩnh cửu nay rạng ngời chiếu sáng, đẩy lùi xa bóng tối của trần gian…” (Exultet).
3. Bà Maria ơi trên đường bà đã thấy gì, xin kể cho chúng tôi nghe !”. Thưa câu chuyện của tôi đó chính là: Hãy ra đi loan báo và làm chứng Tin Mừng Chúa Sống lại:
Nếu cái chết của Thầy Giêsu đã kết thúc trên Đồi Sọ và mọi sự đằng sau Ngôi Mộ trống cũng chỉ được các bạn hữu Ngài, môn sinh Ngài nhắc lại một cách bâng quơ như một kỷ niệm để thoa dịu vết thương lòng trong thoáng chốc, như một chuyện cổ tích để mua vui cho đám trẻ con, mà không mang theo một thao thức nào, một nhiệt tình nào, một phấn khích và tràn trào niềm vui để loan báo, để làm chứng, để thuyết phục, thì có lẽ “chuyện kể về Ngôi Mộ Trống” ngày nào của cô Maria Mađalêna cũng đã bị lãng quên tự bao giờ; và như thế, chắc chắn trong thế giới nầy, trong lịch sử loài người hôm qua và hôm nay sẽ không bao giờ diễn ra cuộc cử hành hoành tráng long trọng đêm nay, chả có cái đạo Kitô, chả có Ngày Chúa Nhật, chả có Hội Thánh Công Giáo, và chúng ta sẽ không bao giờ là Kitô hữu…
Chính vì thế, sứ điệp phụng vụ đêm nay lại là một gọi mời chúng ta tiếp bước lên đường, tiếp tục lời chứng nguyên thủy của các tông Đồ, của Hội Thánh, tiếp tục “chuyện kể ngày nào của Maria Mađalêna”:
Chúng tôi vững niềm tin sắt đá
Đức kitô thật đã phục sinh
Tâu Vua chiến thắng hiển vinh
Đoàn con xin Chúa dủ tình xót thương” (Ca Tiếp Liên).
Sống mầu nhiệm phục sinh chính là biết từng ngày tâm niệm và xác tín rằng: “Tôi đã gặp Đấng Phục Sinh”, là từng ngày tiếp tục ra đi sống mầu nhiệm Thánh Tẩy “cùng chết đi với Đức Kitô để cùng sống lại với Ngài trong cuộc sống mới”, cuộc sống yêu thương hơn, chân thật hơn, phục vụ hơn, liêm chính hơn, trong sạch hơn, nhẫn nhục hơn, cuộc sống thật sự là Kitô hữu hơn…Chúa Kitô đang thật sự “phục sinh con người tôi”, trái tim tôi, tư tưởng tôi, để tôi nên một con người mới; Ngài đang phục sinh mối tương quan vợ chồng vốn cũ mòn xơ cứng, lãnh đạm thờ ơ nay trở nên mặn nồng, sắt son tha thiết. Ngài đang phục sinh quan hệ ứng xử giữa tôi, gia đình tôi với mọi người xung quanh vốn thờ ơ lạnh nhạt, ghen ghét đố kỵ, nay trở nên thân tình thắm nghĩa anh em. Ngài đang phục sinh cuộc sống vốn ích kỷ nhỏ nhen, lọc lừa gian dối nơi tôi thành một tâm hồn quảng đại khoan dung biết sẻ chia và phục vụ. Ngài đang phục sinh đức tin non yếu, tâm hồn khô khan nguội lạnh, cuộc sống biếng lười lệch lạc của tôi trở thành mạnh mẽ tin yêu, nhiệt tình và sâu sắc.
Và như thế, lời chúc phục sinh sau cùng của chúng ta đêm nay đó là: xin cho niềm tin phục sinh nơi mỗi người chúng ta sẽ trở nên như cây nến Phục sinh cháy mãi như lời ước nguyện ban đầu của bài ca Exultet:
“Ước gì ngọn lửa còn cháy mãi,
Lúc xuất hiện Sao Mai:
Một vì sao không bao giờ lặn,
Là Đức Kitô, Con yêu quí của Cha,
Đấng từ cõi chết sống lại,
Đem ánh sáng thanh bình soi chiếu vạn dân.
Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen”.
LM. Giuse Trương Đình Hiền
-----------------------------
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
TRONG ĐÊM CANH THỨC PHỤC SINH 2013
Anh chị em thân mến,
1. Trong bài Tin Mừng của Đêm Canh thức Phục Sinh ngời sáng này, trước tiên chúng ta gặp những người phụ nữ đến mộ Chúa Giêsu, mang theo dầu thơm để xức xác Chúa ( x. Lc 24, 1 – 3 ). Họ đi để thực hiện một nghĩa cử thương xót, một nghĩa cử truyền thống của tình thân và lòng yêu mến với một người thân yêu đã khuất, như chúng ta cũng làm. Họ đã đi theo Chúa Giêsu, đã lắng nghe lời Ngài nói, đã cảm thấy được Ngài thấu hiểu trong phẩm giá của họ và đã theo Ngài đến cùng, đến tận đồi Calvariô và đến lúc Ngài được đưa xuống khỏi thập giá.
Chúng ta có thể hình dung ra cảm xúc của họ trên đường đi đến mộ: buồn vì Chúa Giêsu đã rời bỏ họ, Ngài đã chết, cuộc sống của Ngài đã kết thúc. Cuộc đời lại tiếp tục như trước. Nhưng những người phụ nữ này vẫn cảm nhận được tình yêu, tình yêu đối với Chúa Giêsu bây giờ lại dẫn họ đến mộ của Ngài.
Nhưng, vào lúc này, một cái gì đó hoàn toàn mới mẻ và bất ngờ đã xảy ra, điều ấy làm đảo lộn tâm hồn họ và kế hoạch của họ, điều ấy làm đảo lộn cuộc sống của họ: họ thấy tảng đá bị lăn ra khỏi cửa mộ, họ đến gần và không tìm thấy xác Chúa. Sự kiện ấy khiến họ lúng túng và hỏi nhau: “Đã xảy ra chuyện gì vậy ?”, “Tất cả những điều này có ý nghĩa gì ?” ( x. Lc 24, 4 ).
Chẳng phải điều tương tự cũng xảy ra với chúng ta khi có điều gì đó hoàn toàn mới mẻ xảy đến trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta sao ? Bỗng dưng chúng ta dừng lại, chúng ta không hiểu, chúng ta không biết phải làm gì. Điều mới mẻ thường làm cho chúng ta sợ hãi, cả điều mới mẻ mà Thiên Chúa mang đến cho chúng ta cũng như điều mới mẻ mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta. Chúng ta giống như các Tông Đồ trong Tin Mừng: chúng ta thường thích được an toàn, đứng trước ngôi mộ và nghĩ về người đã khuất, về người chỉ còn sống trong ký ức, như những vĩ nhân của lịch sử trong quá khứ. Chúng ta sợ những bất ngờ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, chúng ta sợ những bất ngờ của Thiên Chúa ! Ngài luôn làm chúng ta ngạc nhiên ! Thiên Chúa là như thế.
Anh chị em thân mến, chúng ta không được khép lòng lại trước điều mới mẻ mà Thiên Chúa muốn đem đến cho cuộc sống của chúng ta ! Có phải chúng ta thường mệt mỏi, chán nản và buồn sầu ? Chúng ta cảm thấy bị tội lỗi của mình đè nặng ? Chúng ta nghĩ rằng chúng ta không thể đối phó được ? Chúng ta đừng đóng cửa trái tim mình, đừng đánh mất niềm tin tưởng, đừng bao giờ bỏ cuộc: chẳng có tình huống nào mà Thiên Chúa không thể thay đổi được, chẳng có tội lỗi nào mà Người không thể tha thứ, miễn là chúng ta mở lòng ra với Người.
2. Nhưng chúng ta hãy trở lại với bài Tin Mừng, với những người phụ nữ, và đi thêm một bước. Họ nhận thấy ngôi mộ trống, xác Chúa Giêsu không còn ở đó, một điều gì mới đã xảy ra, nhưng tất cả những thứ ấy vẫn không nói cho họ biết điều gì chắc chắn: nó lại gợi ra những câu hỏi, nó làm cho họ bối rối, mà chẳng có câu trả lời. Rồi bỗng nhiên có hai người đàn ông trong y phục sáng chói xuất hiện và nói: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã sống lại rồi” ( Lc 24, 5 – 6 ).
Hành động đi đến mộ – một hành động đơn giản vì tình yêu – nay biến thành một sự kiện, một sự kiện thực sự thay đổi cuộc đời. Chẳng còn gì giống như trước, không chỉ trong cuộc đời của những người phụ nữ ấy, mà cả trong cuộc đời chúng ta và trong lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu không chết, Ngài đã sống lại, Ngài đang sống ! Ngài không chỉ đơn giản trở về với cuộc sống, nhưng đúng hơn, Ngài chính là Sự Sống, vì Ngài là Con Thiên Chúa, Thiên Chúa hằng sống ( x. Ds 14, 21 – 28; Đnl 5, 26; Gs 3, 10 ).
Chúa Giêsu không còn thuộc về quá khứ, nhưng Ngài sống trong hiện tại và hướng về tương lai; Chúa Giêsu là “ngày hôm nay” vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chiến thắng tội lỗi, sự dữ và cái chết, chiến thắng tất cả những gì bóp nghẹt cuộc sống và làm cho cuộc sống kém phần nhân bản: đó là điều mới mẻ mà Thiên Chúa đem đến cho các phụ nữ, cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta.
Và đây là một sứ điệp gửi đến cho tôi và cho anh chị em thân mến. Đã bao nhiêu lần Đấng Tình yêu phải nói với chúng ta: Sao bạn đi tìm người sống ở giữa kẻ chết ? Những vấn đề và những ưu tư hằng ngày của chúng ta có thể giam hãm chúng ta trong chính chúng ta, trong buồn phiền và cay đắng... và đó là nơi mà cái chết ngự trị. Đó không phải là nơi để tìm kiếm Đấng đang sống ! Hãy để Chúa Giêsu Phục Sinh đi vào cuộc đời của bạn, hãy tin tưởng đón tiếp Ngài như một người bạn: Ngài là Sự Sống ! Nếu đến bây giờ bạn vẫn còn ở xa Ngài, bạn hãy tiến về phía trước. Ngài sẽ dang rộng vòng tay đón tiếp bạn. Nếu vẫn còn dửng dưng, hãy thử liều xem: bạn sẽ không phải thất vọng. Nếu đi theo Ngài có vẻ khó khăn, đừng sợ, hãy tín thác vào Ngài, tin rằng Ngài luôn gần bên bạn, Ngài ở với bạn và sẽ ban cho bạn bình an mà bạn đang tìm kiếm và sức mạnh để sống như Ngài muốn thế.
3. Còn một yếu tố nhỏ cuối cùng mà tôi muốn nhấn mạnh trong bài Tin Mừng Đêm Canh Thức Phục Sinh này. Những người phụ nữ đã gặp điều mới mẻ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã sống lại, Ngài đang sống ! Nhưng đứng trước ngôi mộ trống và hai người đàn ông trong y phục sáng chói, phản ứng đầu tiên của họ là sợ hãi: “Họ đều khiếp sợ và cúi mặt xuống đất”. Thánh Luca cho chúng ta biết, thậm chí họ còn không dám nhìn. Nhưng khi nghe được sứ điệp Phục Sinh, họ đã đón nhận trong Đức Tin.
Và hai người đàn ông trong y phục chói sáng đã nói với họ một điều hết sức quan trọng: hãy nhớ. “Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà khi còn ở Galilê… Và họ nhớ lại những điều Người đã nói” ( Lc 24, 6.8 ). Đây là lời mời gọi nhớ lại cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Giêsu, nhớ lại lời Ngài nói, việc Ngài làm, cuộc sống của Ngài; và chính việc nhớ lại những trải nghiệm họ đã sống với Thầy khiến họ không còn sợ hãi và ra đi, mang sứ điệp Phục Sinh đến cho các Tông Đồ và tất cả những người khác ( x. Lc 24, 9 ).
Nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm và vẫn còn làm cho tôi, cho chúng ta, nhớ lại con đường chúng ta đã đi, điều đó sẽ mở cửa con tim chúng ta để hy vọng cho tương lai. Ước gì chúng ta biết nhớ lại tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời chúng ta.
Trong đêm rạng ngời này, chúng ta hãy khẩn cầu Đức Trinh Nữ Maria, Đấng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng ( x. Lc 2, 19 . 51 ) và xin Chúa cho chúng ta được chia sẻ sự Phục Sinh của Ngài.
Xin Ngài mở lòng chúng ta đón nhận điều mới mẻ có sức biến đổi, đón nhận những bất ngờ tươi đẹp của Chúa.
Xin Ngài làm cho chúng ta biết ghi nhớ tất cả những gì Ngài đã thực hiện trong cuộc đời chúng ta và trong lịch sử thế giới chúng ta.
Xin Ngài giúp chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài là Đấng đang sống và làm việc giữa chúng ta.
Và anh chị em thân mến, xin Ngài dạy cho chúng ta mỗi ngày biết đừng tìm Đấng đang sống ở giữa những kẻ chết. Amen.
HUY HOÀNG chuyển ngữ, nguồn WHĐ
-----------------------------
http://www.giaophanvinhlong.net/Hiep-Song-Tin-Mung-Dem-Vong-Phuc-Sinh-Nam-B.html
Hiệp Sống Tin Mừng - Đêm Vọng Phục Sinh - Năm B
ĐÊM VỌNG PHỤC SINH B
Cv 10,34.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Mc 16,1-8
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,1-8.
(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Maria mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn họ đi về xứ Ga-li-lê để gặp Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, bắt đầu đêm của một ngày mới là ngày thứ nhất trong tuần.
+ Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cũng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt và gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong những người đầu tiên đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1 ; Mt 28,1 ; Mc 16,1 ; Lc 24,10). Trước đó bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40). Bà có mặt khi mai táng Đức Giê-su và đã quan tâm tới nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc các bà đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên. Điều này cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Giáo Hội sơ khai.
+ Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian an táng Đức Giê-su quá ngắn và việc an táng được thực hiện vội vã, nên thiếu việc xức dầu thơm ướp xác Đức Giê-su. Do đó, mấy phụ nữ này phải mua dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái.
+ Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay ngày thứ nhất trong tuần được gọi là Chúa Nhật. Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc là khoảng 6 giờ sáng.
- C 3-4:
+ Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ.
+ Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là vị thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.
- C 5-6:
+ Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.
+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một phàm nhân nữa.
- C 7-8:
+ Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12.
+ Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất có đông dân ngoại.
- HỎI:
So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: ông La-da-rô, con trai bà góa thành Na-in hay con gái ông Gia-ia có giống với thân xác loài người sau này sẽ sống lại vào ngày tận thế không?
- ĐÁP:
+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã chứng minh khi cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương ở cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng tự chứng minh có xương thịt mà các ông có thể xem và sờ thấy được. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiên của các ông (x Lc 24,38-43).
+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà lại tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh hiện diện ở khắp nơi: Dù không có mặt nhưng Người vẫn nghe được yêu cầu của Tô-ma (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng không thể xác định được Người đang ở nơi nào trên trời (x. Lc 24,51 ; Pl 2, 9-11).
+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết và đã được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được mang đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh, họ được bước vào một cuộc sống mới vô cùng cao quí, vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):
2. CÂU CHUYỆN: CON CÁNH QUÝT.
Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là Sơ-siu đơ Mi-ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tăng đùa giỡn với nhau trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông ngồi, và nằm im như chết. Đơ Mi-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Mi-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy nó như đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng từ từ lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn kia. Đơ Mi-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.
3. SUY NIỆM:
- AI TRONG CHÚNG TA cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết đến tình trạng sống lại chưa đủ 3 ngày sau đó. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi sống lại và đã gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó...
- “TÔI TIN XÁC LOÀI NGƯỜI NGÀY SAU SỐNG LẠI”:
Đây là lời tuyên xưng đức tin của các tín hữu trong kinh tin kính. Vào ngày tận thế, thân xác chúng ta sẽ trở nên giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh, nghĩa là có tính siêu việt và thiêng liêng. Trời Mới Đất Mới sẽ xuất hiện khi Đức Giê-su, Vua Mê-si-a ngự đến phán xét chung nhân loại vào ngày tận thế. Ngày ấy mọi người đều được Thiên Chúa cho sống lại. Nhưng những ai tin và sống đức tin qua hành động yêu thương phục vụ người đói khát, ở trần, đau yếu, ở tù... thì sẽ được Vua Thẩm Phán Giê-su xét xử khoan dung và ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời. Còn những kẻ cố chấp trong sự bất tín, ăn ở thất nhân ác đức và cam tâm làm tay sai cho ma quỉ, thể hiện qua thái độ ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, không sẵn lòng giúp đỡ và phục vụ tha nhân... thì sẽ bị phạt trong lửa hỏa ngục đời đời, nơi dành sẵn cho ma quỉ và những kẻ đi theo chúng. Do đó, sự thưởng phạt sau này có liên quan mật thiết với cuộc sống hiện tại mà chúng ta đang sống. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ làm gì để được liệt vào hàng ngũ các con chiên ngoan và xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc nước trời đời đời?
4. THẢO LUẬN:
1) Bí Tích Rửa Tội do Đức Giê-su lập gồm hai yếu tố: Một là tẩy rửa bằng sự dìm mình chúng ta trong dòng nước sông, và hai là tái sinh chúng ta nên con cái Thiên Chúa nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Vậy chúng ta tuy đã chịu phép Rửa tội, nhưng đã thực sự được tái sinh làm con yêu dấu của Thiên Chúa chưa?
2) Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU,
nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong!
- NHƯNG LẠY CHÚA,
con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi... Tuy nhiên, trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông. Và quả thật, nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để cứu độ loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa ở đời sau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
-----------------------------
http://www.simonhoadalat.com/Suyniem/chunhat/NamB/NamB.html
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Cv 10,37.37-43 Cl 3,1-4 Ga 20,1-9
Nếu ngày thứ nhất trong tuần sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, các người phụ nữ ra mộ mà còn xác Chúa ở trong mộ, thì chẳng có gì để nói, chẳng có Tin Mừng Phục Sinh. Tuy nhiên, theo Tin Mừng thuật lại :” Mọi sự đã khởi đầu, sau khi các người phụ nữ và rồi Phêrô, Gioan, không còn thấy xác Chúa Giêsu trong ngôi mộ đã mở toang…Tất cả đã bắt đầu từ không.
Thực tế, lúc này có lẽ Philatô, các Kinh sư, Biệt phái và các người Do Thái đang say trong chiến thắng. Có lẽ họ đang ngủ mê vì không còn gì phải ái ngại, vì họ đã loại trừ được Chúa Giêsu, một người mà họ cho là nguy hiểm, đụng tới quyền lợi của họ. Họ tưởng rằng dẹp xong Ông Giêsu là êm chuyện.Họ đã đóng đinh Người vào thập giá và rồi họ đã chôn Người xuống mồ, chắc chắn chẳng còn gì để sợ nữa, một thời gian nữa cái tên Giêsu cũng sẽ bị người ta quên lãng. Nhưng các Thượng tế, Ký lục, Biệt phái và Dân Do Thái đâu có hiểu rằng Chúa đã sống lại…Thật là điều hết sức kỳ diệu, lạ lung. Ngay những người phụ nữ họ ra mộ chỉ để ướp hương liệu cho xác Chúa Giêsu. Tuy nhiên, tất cả đều bắt đầu bằng ngôi mộ trống, bắt đầu bằng cái không…Maria Mađalêna và các người phụ nữ đã tới mộ, họ thấy không còn xác Thầy Giêsu ở trong mộ nữa. Điều đầu tiên họ nghĩ tới là xác của Thầy bị đánh cắp. Không một ai dám vào trong mộ. Họ vội vã trở về báo tin cho các tông đồ, xác Thầy Giêsu không còn ở đó nữa…Phêrô và Gioan lật đật chạy ra mộ. Phêrô là người đầu tiên đã bước vào ngôi mộ trống, Ông vẫn không hiểu gì. Và rồi Gioan, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến, đã bước vô mộ, Ông đã thấy và Ông đã tin: “ Gioan đã nhận ra những dấu chỉ của mầu nhiệm Phục Sinh, và Ông tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại “ ( Ga 20, 8 ).
Ngày hôm nay, nhiều người đang đứng trước ngôi mộ trống. Bởi vì con người vẫn xa Thiên Chúa. Dù Người hiện diện giữa chúng ta, dù Người luôn chờ chúng ta.Nhưng chúng ta hầu như đang đứng trước ngôi mộ trống. Chúng ta vẫn như không thấy Thiên Chúa hoặc có thể chúng ta đang ngủ vùi trong chiến thắng bởi như Philatô, như các vị Thượng tế chúng ta tưởng Chúa chết luôn, chúng ta tưởng Chúa Giêsu sẽ bị quên lãng. Chúng ta phải có đức tin như Gioan, ông đã tới mộ, đã vào trong mộ trống, ông đã thấy và ông đã tin. Thực tế, Chúa Giêsu đã vinh thắng khải hoàn ra khỏi mộ, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết. Tin Mừng Phục Sinh đã được các người phụ nữ loan truyền…Các tông đồ người trước người sau khi hiểu được sự sống lại của Chúa.Các ông đã tin, các ông đã làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Giêsu và hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Vâng, trong đời chúng ta vẫn còn những ngôi mộ trống. Đó là những thất vọng, những đớn đau trong đời, những thử thách, những bệnh hoạn tật nguyền…Những ngôi mộ ấy không làm chúng ta vươn lên được. Chỉ có Chúa Phục Sinh mới làm chúng ta bừng sáng niềm tin, mới khỏa lấp được những nỗi ê chề, tuyệt vọng, những đớn đau, những mất mát, những thất bại.
Chúa đã phục sinh.Ngài đem lại niềm tin, sự hy vọng và sức sống mới cho chúng ta.
Đức Cha Charles Morerod, 0.p. đã viết:” …Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để mà chết, nhưng để chúng ta được ở với Người. Người đã sai Con của Người xuống trần cùng chia thân phận làm người với chúng ta cho đến chết, để chúng ta được sống lại với Con của Người và được chia sẻ hạnh phúc của Người cho đến muôn đời. Đó là điều chúng ta mừng trong lễ Phục Sinh, và ánh sáng Phục Sinh chiếu rọi cuộc đời các Kitô hữu.Nhưng điều đó phải chăng điều đó chỉ liên quan đến cuộc sống mai sau, và là điều làm cho các kẻ tin không quan tâm đến vấn đề của cuộc sống hiện tại ? Niềm hy vọng được sống lại có thể là chiếc la bàn cho tất cả cuộc sống chúng ta, và không chỉ liên quan đến tương lai…”.
Chúa đã sống lại thật rồi, Alléluia…
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chiến thắng thần chết và sống lại hiển vinh.Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng vào Chúa Phục Sinh. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ ?
1.Ai đã nhận ra ngôi mộ trống đầu tiên ?
2.Các người phụ nữ có vào ngôi mộ trống không ?
3.Việc đầu tiên các người phụ nữ nghĩ gì khi thấy ngôi mộ trống ?
4.Tại sao Gioan tới mộ trước Phêrô mà ông lại không vô mộ trống ?
5.Gioan đã thấy gì ? Ông có thái độ nào ?
-----------------------------
(Máccô 16,1-8 – CANH THỨC VƯỢT QUA - B)
1.- Ngữ cảnh
Ba lần Đức Giêsu tiên báo không chỉ là tiên báo Khổ Nạn. Người đã luôn nói về trọn cuộc hành trình của Người và luôn luôn đặt biến cố Phục Sinh như là chặng cuối của hành trình này. Cuộc hành trình của Đức Giêsu không kết thúc với cuộc Thương Khó và cái chết, nhưng bằng cuộc Phục Sinh, bằng sự sống chan hòa ở nơi Thiên Chúa.
Thật ra, ở phân đoạn Mc 16,1-8, tác giả không mô tả cuộc Phục Sinh, nhưng kể về cách thức ba phụ nữ nhận được sứ điệp Phục Sinh. Khởi điểm là lòng trung thành bền bỉ của họ đối với Đức Giêsu. Các bà này đã được nhắc đến lần đầu ở Mc 15,40t và 15,47.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Các bà đi ra mộ (16,1-5);
2) Sứ điệp Phục Sinh (16,6-7);
3) Phản ứng của các bà (16,8).
3.- Vài điểm chú giải
- Sáng tinh sương…, các bà ra mộ (2): Các phụ nữ này là những người đã chứng kiến cuộc đóng đinh Đức Giêsu (Mc 15,40), và có hai bà đã xem chỗ Đức Giêsu được mai táng (15,47). Mc đang đề cập đến những sự kiện với các nhân vật. Đàng khác, việc mua dầu thơm (ngay khi hết ngày sa-bát, tức là vào chiều thứ bảy sau khi mặt trời lặn), và việc các bà đến mộ từ sáng sớm để ướp xác Đức Giêsu, chứng tỏ các bà không hề có một ý tưởng gì về sự sống lại. Thông thường, người Do Thái ướp thi hài bằng dầu ô-liu, chứ không chỗ nào cho biết họ ướp bằng một hỗn hợp thuốc thơm, ngoại trừ khi tẩm liệm một vị vua (2 Cr 16,14). Người Do Thái cũng không biết tập tục ướp xác như người Hy Lạp. Có lẽ tác giả muốn cho hiểu rằng các bà có ý làm một việc gì đó để bảo quản thi hài Đức Giêsu. Dù sao, ý định xức dầu (aleipsôsin) đưa trở lại với hoạt cảnh 14,3-9. Nếu việc xức dầu ở Bêtania hướng về cái chết của Đức Giêsu, thì bây giờ ý định của các bà là xức dầu cho thi hài Đức Giêsu lại dẫn vào truyện Phục Sinh.
- tảng đá lăn ra một bên (4): Các bà đã sửng sốt ghi nhận là “tảng đá đã lăn ra một bên rồi”. Khi ghi chú rằng “tảng đá ấy lớn lắm”, tác giả muốn nhấn mạnh thêm sự ngạc nhiên của các bà. Chúng ta ghi nhận thái bị động “đã được lăn ra” (apokekylistai, thì hoàn-thành thái bị động của động từ apokyliô) để nói về một sự can thiệp của Thiên Chúa. Sự hiện diện của người thanh niên mặc áo trắng ở bên trong mộ xác nhận ý nghĩa này.
- một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ (5): Người thanh niên ngồi bên phải, tức là ngồi về phía thuận lợi, khiến ta linh cảm tới những điều tốt lành; chính xác hơn, là ở trong một vị trí có uy quyền của Thiên Chúa (x. 12,36; 14,62). Bộ áo trắng là đặc điểm của những người được chấp nhận cho ra trình diện trước nhan Thiên Chúa, ở đây cho hiểu là người này là một nhân vật thuộc thiên giới (x. Kh 6,11; 7,9.13; Mc 9,3). Nỗi kinh hoàng sợ hãi (exethambêthêsan, aor. pass. ekthambeô; x. 1,27; 9,15; …) là phản ứng thông thường của con người khi tiếp cận với thế giới thần linh. Giống như trong các cuộc thần hiển Cựu Ước, sứ thần lên tiếng là để trấn an (c. 6a).
- Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi (6bc): Động từ zêtein, “tìm”, ở trong TM II chỉ được dùng trong liên hệ với Đức Giêsu, mà thường là trong một bối cảnh không thân thiện (8,11t; 11,18; 12,12; 14,1.11.55). Cả trong những lần khác (1,37; 3,32; 16,6), việc “tìm” này không đưa đến kết quả mong muốn bởi vì rõ ràng người ta có một quan niệm không thích đáng về bản thân Đức Giêsu. Sứ thần nhắc lại kiếp sống trần thế của Đức Giêsu (trong Mc, tên Giêsu được nhắc đến 81 lần): số phận này được tổng hợp bằng hai từ “người Nadarét” (x. cả 1,9; 1,24; 10,47; 14,67) và “chịu đóng đinh” (stauroun, “đóng đinh”: 15,13.14.15.20.24.25, luôn luôn được dùng để chỉ kết cuộc cuộc đời của Đức Giêsu theo yêu cầu của đám đông, được quan Philatô quyết định và được toán lính thi hành). Tác giả nhấn mạnh sự đối lập giữa “bị đóng đinh” (thái bị động từ phía loài người; x. 9,31) và “đã trỗi dậy” (thái bị động từ phía Thiên Chúa). Đây là lời khẳng định chan chứa niềm vui về chiến thắng của Đức Giêsu trên sự chết. Tấn bi kịch Thương Khó đã đến hồi kết thúc: Thiên Chúa đã làm cho Đấng-bị-đóng-đinh được sống-lại (êgerthê, aorist passive: thái bị động chỉ hành động của Thiên Chúa).
- Người không còn ở đây nữa (6d): Đây là mặt trái của lời “Người đã trỗi dậy (sống lại) rồi”. Lời thứ nhất giải thích lời thứ hai. Nếu Người đã sống lại, không có gì lạ nếu Người không còn ở đây nữa. Lời Chúa giải quyết một bí mật mà loài người không giải quyết được.
- chỗ đã đặt Người đây này (6d): Nghĩa là các bà cứ việc ghi nhận là Người không còn ở đây nữa. Điều này, con người có thể kiểm chứng. Nhưng sứ điệp Phục Sinh đưa người ta vào trong một thế giới vượt quá họ. Việc các bà đi ướp xác Đức Giêsu không còn ý nghĩa nữa. Các bà phải hướng tâm trí về một thực tại khác.
- Nhưng các bà hãy đi nói (7): Tiếp theo lời công bố Tin Mừng Phục Sinh là sứ mạng cùng với một lời hứa. Khúc quanh được ghi dấu bằng liên từ “nhưng” (alla): không được bận tâm đến thi hài của Đức Giêsu nữa, để mà cứ đi tìm Người trong mộ; bây giờ các bà có một nhiệm vụ khác. Ta nhớ lại sự suy sụp của các môn đệ và Phêrô; bây giờ cần phải tiếp đón và quy tụ họ lại. Các bà được đề nghị đi chuyển sứ điệp cho các môn đệ. Đây là một sứ mạng giới hạn, bởi vì chính các môn đệ và đặc biệt là Phêrô, mới trở thành chứng nhân có thẩm quyền về sự Phục Sinh của Đức Giêsu, nhờ những cuộc hiện ra của chính Người. Dù vậy, sứ thần cũng cung cấp cho các bà phần nội dung chính của sứ điệp
- với các môn đệ Người và ông Phêrô: Cụm từ này đưa vào lại những nhân vật có tư cách xác định đã vắng mặt trong 14,50 (dịch sát,“tất cả các ông bỏ Người mà trốn”: chỉ là một nhóm vô danh, không có tên gọi “môn đệ”) và kể từ 14,72 trong trường hợp của Phêrô. Tên Phêrô được nhắc lại ở đây lần cuối cùng trong một truyện dài đã bắt đầu với lời Đức Giêsu kêu gọi ở 1,16-18. Ta đã tưởng truyện ấy phải vĩnh viễn chấm dứt do ba lần chối Thầy (14,29-31.66-72), nhưng tên Phêrô lại được nhắc lại ở đây để nêu rõ rằng lời mời các môn đệ đến gặp gỡ Đức Giêsu ở Galilê và tất cả những gì hàm chứa trong đó như sự tha thứ, tiếng gọi mới và sự hiệp thông được tái lập với Đức Giêsu, cũng có giá trị cho Phêrô. Liên từ “và [ông Phêrô]” không chỉ để nối hai chi câu, nhưng còn nhắm nhấn mạnh (“và cả … / và nhất là …”).
- Người sẽ đến Galilê trước các ông: Nội dung của sứ điệp người thanh niên cung cấp là vừa quay trở lại lời tiên báo của Đức Giêsu trong 14,28 (“Thầy sẽ đến Galilê trước anh em”) vừa hướng tới phía trước, tới những cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh tại Galilê sau khi các môn đệ đã rời Giêrusalem mà đi về đó (x. Mt 28,9-10). Lời thông tin này có giá trị như một tiếng gọi mới. Việc “đi trước” là động tác tiêu biểu của vị thầy. Trong lời “Thầy sẽ đến trước” có hàm chứa lời mời gọi lại bước đi theo Người. Trước đây, Đức Giêsu đã đi trước (proagôn) những người theo Người, dẫn họ đi trong tình trạng kinh hoàng và sợ hãi, trên “con đường” lên Giêrusalem là nơi Người chịu đau khổ và chịu chết (10,32), còn nay Người đi trước (proagei) các môn đệ Người, để dẫn họ trở lại nơi họ đã sống hiệp nhất với Người trước khi bỏ rơi Người (Đức Giêsu luôn dẫn đầu các môn đệ. Chỉ trong cuộc Thương Khó, Người mới bị người ta dẫn đi mà thôi: 14,53; 15,1.16.20.21). Lời này tái lập tương quan giữa vị thầy và các môn đệ, tái lập sự hiệp thông giữa Đức Giêsu và các môn đệ.
- Các ông sẽ được thấy Người: Nói rằng tại Galilê, các môn đệ sẽ được thấy Đức Giêsu Phục Sinh, Đấng đã bị đóng đinh, có nghĩa là các ông sẽ có thể hoàn toàn hiểu Người và tin vào Người (như viên sĩ quan, khi thấy cách Đức Giêsu chịu chết, đã có thể tuyên xưng đức tin; x. 15,39). Khi trở lại Galilê mà gặp Đức Giêsu, các môn đệ sẽ có thể tái lập tư cách môn đệ của họ, bằng cách chối bỏ chính mình, vác thập giá mà bước theo Đức Giêsu, để có thể cứu được mạng sống khi chấp nhận mất mạng vì Đức Giêsu và vì Tin Mừng (8,34-38); các ông lại có thể tiếp tục công việc loan báo Tin Mừng và chữa lành mọi người (13,10; 14,9). “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (1,1) và “con đường của Đức Chúa” nhằm cứu độ thế giới, đã được thể hiện nhờ “con đường” của Đức Giêsu (1,2-3) sẽ phải được tiếp tục, mở rộng và nối dài bởi các môn đệ hôm nay đang đi theo “con đường” năng động của Đức Giêsu Phục Sinh, Đấng vẫn đang đi trước họ và dẫn họ trở lại và và đi xa hơn Galilê.
- Các bà chẳng nói với ai, vì sợ quá (8): Các từ ekstasis và phobos thường là phản ứng của con người trước cuộc thần hiển xảy ra trong phép lạ (4,41; 5,15.33.42). Cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu, đỉnh cao của cuộc thần hiển này, tạo ra một nỗi kinh hoàng lớn lao. Câu 8 được kết cấu rất khéo: có hai hành vi của các bà, đó là chạy trốn và giữ thinh lặng, luôn ở thì quá khứ aorist; mỗi hành vi đó lại có kèm một lý do, luôn luôn được đưa vào bằng gar (“bởi vì”) và luôn luôn ở thì vị-hoàn. (1) “Họ… chạy trốn (ephygon, aor.), vì (gar) họ run rẩy và sợ ngất người ra (eichen, vị-hoàn). (2) Và họ đã chẳng nói (eipan, aor.) với ai, vì (gar) họ sợ (ephobounto, vị-hoàn)” (NTT). Phải chăng các bà từ chối chu toàn sứ mạng được giao phó?
Để giải thích được sự thinh lặng này, cần lưu ý đến tất cả quan niệm của Tin Mừng. Sự thinh lặng này chẳng phải là nhằm giải thích rằng vì sao người ta đã không biết đến mộ trống trong một thời gian; cũng chẳng phải là để làm nổi các môn đệ như là những người loan báo Tin Mừng Phục Sinh chính thức. Trong các lệnh im lặng sau các phép lạ, chúng ta đã thấy là người ta không giữ được, cứ nói ra. Nếu ở đó, người ta đã không giữ được sự thinh lặng được yêu cầu, ở đây người ta lại giữ thinh lặng khi đã được giao nhiệm vụ loan báo. Phục Sinh chính là thời điểm từ đó người ta không được thinh lặng nữa (9,9). Trong bài tường thuật, tác giả Mc đã không theo con đường của kêrygma để đưa độc giả đến chỗ hiểu đầy đủ, để đưa các môn đệ đến chỗ chấp nhận niềm tin Phục Sinh. Ngài đã cố tình làm như thế. Có thể do ngài không có trong tay một số tài liệu chi tiết; nhưng ngài còn muốn làm điều khác. Ngài giả thiết là Đức Giêsu có hiện ra với Phêrô và các môn đệ tại Galilê, nhưng đến cuối Tin Mừng của ngài, điều này vẫn còn là chuyện sẽ đến. Sự hiểu biết đầy đủ chỉ đến sau 16,8. Tin Mừng muốn truyền đạt niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, nhưng chỉ có thể dẫn đến ngưỡng của niềm tin này thôi.
Phải chăng tác giả Mc muốn kết thúc Tin Mừng ở đây, với cụm từ “vì sợ quá” (ephobounto gar)? Đa số các nhà chú giải hiện nay cho là như thế: ephobounto gar vừa là kết thúc của đoạn tường thuật về ngôi mộ trống vừa kết thúc toàn Tin Mừng. Nếu như vậy, rất có thể là vì tác giả cho là người ta có biết những cuộc hiện ra của Đức Giêsu Phục Sinh (14,28; 16,7). Một tác phẩm có thể kết thúc với gar, “vì” (x. P. W. van der Host, Journal of Theological Studies 23 (1972) 121-124). Mc có kết thúc những câu truyện bằng những lời bình với gar (6,52; 14,2) và bằng những đoạn mô tả cảm xúc của các nhân vật (6,52; 9,32; 12,17).
Tác giả TM II đã kết thúc ở đây với các phụ nữ không phải vì các bà có sứ mạng loan báo sứ điệp cho bằng là vì các bà đã tiếp cận cách đặc biệt với mầu nhiệm mà Lời Chúa sẽ cứ vén mở mãi trong lòng Giáo Hội. Những gì các bà không nói ra được vì sợ hãi quá, sẽ được mạc khải dọc quyển TM II (chân tính của Đức Giêsu, Vương Quốc Thiên Chúa, ơn cứu độ được thực hiện nhờ cuộc Khổ Nạn của Con Người), và sẽ được các chứng nhân có thẩm quyền loan báo công khai sau này.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Các bà đi ra mộ (1-5)
Các bà này có mặt trên đồi Sọ. Từ xa, các bà đã chứng kiến Đức Giêsu chết trên thập giá; các bà cũng có mặt khi an táng Người. Tác giả không ghi lại bất cứ hành động nào của họ; ngài chỉ nói là các bà có mặt và chứng kiến cái chết của Đức Giêsu: như là những chứng nhân, mở mắt nhìn rõ. Nhưng sự hiện diện của họ thật đáng lưu ý, khi mà tất cả các môn đệ đều đã bỏ trốn hết. Khi Đức Giêsu bị bắt, đối với các ông, mọi niềm hy vọng đều sụp đổ tan tành (x. 14,50). Ngược lại, dường như các phụ nữ này gắn bó với Đức Giêsu không bằng những chờ đợi và hy vọng, nhưng nhờ lòng trung thành. Sự trung thành này thúc đẩy các bà làm cho người quá cố điều còn có thể làm được: ướp xác. Thế là sáng tinh sương sau ngày sa-bát, các bà ra mộ. Có lẽ mặt trời ở đây được nêu ra như biểu tượng của sự sống, đối lại với đêm, là biểu tượng của sự chết. Các bà đến từ thập giá và đi ra mộ. Các bà đã chứng kiến cái chết tàn bạo của Đức Giêsu, nên các bà chờ đợi gặp một người chết. Các bà đã được chuẩn bị như thế để gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Tảng đá đã được lăn ra: hình ảnh này có một ý nghĩa biểu tượng, có nghĩa là quyền lực của cái chết đã bị đánh tan. Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ: các điểm này chứng tỏ các bà đang tiếp cận với các yếu tố thuộc thiên giới. Đây là một sứ thần.
* Sứ diệp Phục Sinh (6-7)
Bây giờ các bà được “người thanh niên” loan báo rằng Đức Giêsu người Nadarét, đã chịu đóng đinh, đã được Thiên Chúa cho sống lại. Đối với các độc giả của Mc, lời khẳng định này có một âm vang rất đặc biệt, bởi vì khiến họ nhớ đến Tin Mừng đã được rao giảng cho họ. Trong các bài diễn từ của sách Công vụ, cặp đối lập Khổ Nạn – Phục Sinh là đặc điểm của sứ điệp Kitô giáo nguyên thủy (Cv 2,23-24; 3,15; 4,10; 5,30; 10,39-40; 13,28-30). Hơn nữa, tên “người Nadarét” nằm trong những bài giảng và lời tuyên xưng đức tin thời ấy (Cv 2,22; 4,10; Lc 24,19). Vậy, khi Mc nhắc lại những lời này của sứ thần, cũng như khi Lc nhắc lại những lời của Phêrô cũng với những từ ngữ ấy (Cv 4,10), các độc giả của hai vị, vì đã quen với lối nói ấy, đã nhận ra kiểu diễn tả căn bản của niềm tin họ. Họ đã nhận được cách diễn tả này từ lời các tông đồ rao giảng. Nay khi đọc TM Mc, họ nhận được từ miệng của nhân vật huyền bí, họ nhận từ Lời Chúa.
Các lời của Đức Giêsu mà “người thanh niên” nhắc lại ở ngay sau bữa tối cuối cùng: “Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (14,27-28). Đây lại chính là câu truyện trong đó Đức Giêsu cũng loan báo Phêrô chối Thầy (x. 14,30). Trong cùng một câu truyện, Đức Giêsu tiên báo ba biến cố: các môn đệ bỏ rơi Thầy, Phêrô chối Thầy và cuộc gặp gỡ Galilê. Bằng ba lời “đón trước” này, Người cung cấp rõ ràng ý nghĩa của các biến cố: sự thất bại của các môn đệ và của Phêrô sẽ không ngăn cản được cuộc gặp gỡ Galilê. Quả thật, Phêrô và các môn đệ không ở ngang tầm với thập giá cho dù họ khăng khăng tự phụ, điều này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu tiên liệu cho họ một tương lai. Sự thất trung của Phêrô không ngăn cản được sự trung thành của Đức Giêsu.
Tư cách của Phêrô trong tương lai chỉ được củng cố nếu ông chấp nhận những thay đổi trong tương quan với Đức Giêsu và các môn đệ khác. Trước tiên, thay đổi trong tương quan với Đức Giêsu: để có thể đi Galilê, Phêrô phải tin tưởng vào những lời Đức Giêsu nhắc lại cuộc hẹn đó qua miệng các phụ nữ. Ông phải bỏ đi thái độ tự phụ đã tỏ ra với Thầy: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”. Rồi trong tương quan với các môn đệ khác, Phêrô phải hiểu rằng ông chỉ sống được tình liên đới với họ nếu bỏ đi sự tự phụ cho rằng ông khá nhất: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không” (14,29). Chính vì thế ông được người thanh niên trong mộ kể tên ra sau các môn đệ. Thứ tự đó cuối cùng chỉ lấy lại thứ tự Đức Giêsu đã theo. Ở 14,26-31, Đức Giêsu đã loan báo sự vấp ngã của các môn đệ, và nhất là Phêrô. Ở 14,50.66-72, các môn đệ đã bỏ rơi Đức Giêsu, và nhất là Phêrô đã chối Người. Còn ở 16,7: các bà phải đi loan báo cho các môn đệ, và nhất là Phêrô, rằng ông đã được khôi phục tư cách. Hơn bất cứ ai khác, Phêrô đã trải nghiệm sự mỏng dòn của mình. Nhưng cũng hơn bất cứ ai khác, ông cũng đã trải nghiệm về ân huệ là cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh tại Galilê. Nếu tên ông có được người thanh niên nhắc đến sau, chính là vì ơn tha thứ lớn lao hơn hơn bởi vì ông đã phạm tội nặng hơn, nay phải giúp ông đoạn tuyệt vĩnh viễn với mọi tự phụ tự mãn.
* Phản ứng của các bà (8)
Tác giả đã kết thúc bài tường thuật về mồ trống và cả quyển Tin Mừng bằng công thức ephobounto gar. Đây là một kết mở, được hiểu như một lời mời đọc lại Tin Mừng. Điều này đúng, nếu hiểu việc đọc lại như là một khuyến khích diễn tả ra trong đời sống thực tế, như là sự sẵn sàng đáp lại yêu cầu bước theo Đức Giêsu dọc theo hành trình từ Galilê về Giêrusalem, được phác họa ra trong Tin Mừng.
+ Kết luận
Không phải là một sự ngẫu nhiên nếu trong TM II, vị sứ thần nhắc lại những công thức thuộc về lời rao giảng hoặc giáo huấn mà các độc giả đã biết. Tác giả muốn nhắc họ lưu ý đến Lời Chúa, Lời này vẫn tiếp tục đi đến với họ và “ban cho họ mầu nhiệm” (x. 4,11) Đức Kitô Phục Sinh, nhờ Tin Mừng vẫn luôn được loan báo và được sống trong Giáo Hội.
Tới lượt chúng ta, chúng ta được mời lấy đức tin mà nhận lấy sứ điệp Phục Sinh của Giáo Hội, như là Lời Chúa được ngỏ với chúng ta hôm nay nữa. Chúng ta hãy đón nhận sứ điệp này như là mạc khải về thực tại Ơn Cứu Độ đã được thực hiện và được cống hiến ngay từ bây giờ cho loài người nơi Đức Kitô Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuy các phụ nữ chỉ chờ đợi gặp một thi hài, các bà cũng đã ở trong tình trạng được chuẩn bị mà đón nhận sự đảo lộn tình thế. Ai không mở ra với Đức Giêsu chịu đóng đinh, thì không được chuẩn bị thích đáng mà gặp gỡ Đấng Phục Sinh.
2. Tại nơi mà sự khôn ngoan loài người phải chấm dứt, thì tại đó Thiên Chúa sẽ can thiệp. Tại nơi mà các kẻ chống đối người công chính nghĩ rằng đã vĩnh viễn thắng được người ấy, Thiên Chúa lại tuyên bố rằng Ngài đứng về phía người công chính và sẽ cứu người ấy. Không bao giờ tiếng nói cuối cùng lại thuộc về cái chết, nhưng thuộc về tình yêu và quyền lực của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không gìn giữ Đức Giêsu khỏi cái chết, cũng như không gìn giữ chúng ta khỏi đau khổ và cái chết, nhưng Ngài đã cho Đấng chịu đóng đinh sống lại, Ngài quan tâm không để cho cái chết trở thành kết cục tối hậu, Vì thế, Ngài giữ cho Đức Giêsu khỏi bị tàn rữa trong cái chết. Bằng cách đó, Ngài tỏ bày trọn vẹn quyền chúa tể vương giả của Ngài. Đứng trước cái chết, mọi quyền lực người phàm đều chấm dứt; ngược lại, xuyên qua cái chết, Thiên Chúa ban sự sống tràn đầy trong cuộc hiệp thông với Ngài.
3. Mầu nhiệm Vượt Qua được ghi dấu ấn là sự trung thành ở nhiều cấp độ. Các bà được thúc đẩy đi đến thập giá và mộ Đức Giêsu do sợi dây tình người liên kết họ bền chặt với Đức Giêsu, do lòng trung thành của họ; nhờ đó, họ là những người đầu tiên được biết sứ điệp Phục Sinh. Thiên Chúa không bỏ rơi Đức Giêsu: vì Đức Giêsu đã trung thành với ý muốn của Chúa Cha cho đến chết trên thập giá, Chúa Cha vận dụng quyền lực của Ngài mà cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết. Và Đức Giêsu Phục Sinh vẫn trung thành với các môn đệ: Người “sẽ đến Galilê trước các ông”. Đức Giêsu đã tin tưởng vào Thiên Chúa, và Người đã không phải thất vọng; các môn đệ, cho dù đã sa ngã, vẫn có thể tin tưởng vào Đức Giêsu. Trong biến cố Phục Sinh, sự trung thành được tôn vinh.
4. Đối với các môn đệ, niềm vui Phục Sinh được tăng gấp đôi, do hai nguyên nhân: đời sống mới của Chúa Giêsu và sự hiệp thông được tái lập với Người. Nếu không có sự hiệp thông này, sứ điệp Phục Sinh hẳn chi làm tăng thêm nỗi ê chề và buồn phiền của các ông và hẳn chỉ làm cho lòng các ông ngập tràn tuyệt vọng. Chỉ có sự tha thứ mới mở cho họ cánh cửa đón lấy niềm vui Phục Sinh khi họ được gặp gỡ và hiệp thông với Đức Chúa Phục Sinh.
5. Phản ứng của các bà cho hiểu rằng Phục Sinh không phải là một đại lễ của niềm vui hời hợt, không đòi hỏi gì. Lối xử sự của các bà cho thấy rằng trong sứ điệp về sự Phục Sinh của Đức Giêsu, các bà đã gặp quyền lực của Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta cũng không thể cho rằng mình đã được sứ điệp này chạm tới và đã hiểu được chút gì, nếu chúng ta vẫn chưa bị rúng động như thế. Từ cơn rúng động đó, niềm vui chân chính mới trào dâng: vui vì thấy công trình của Thiên Chúa, vui vì thấy sự sống của Đức Giêsu, vui vì thấy tất cả sự trung thành đã nói trên.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
-----------------------------
Làm chứng cho sự Phục Sinh của Chúa Giê-su
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Cv 10:34a, 7-43; Cl3:1-4; Ga 20:1-9)
Biến cố Phục Sinh kết thúc một giai đoạn trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, nhưng lại mở ra một quãng đường mới đưa chúng ta về quê hương đích thật trên trời. Vì thế, Giáo Hội không dừng lại ở sự sống lại của Chúa Giê-su để chỉ biết chiêm ngưỡng cuộc chiến thắng vinh hiển của Chúa, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy dùng cả cuộc sống mình để làm chứng cho Chúa Phục Sinh nữa. Những chứng nhân đầu tiên như bà Ma-ri-a Mác-đa-la, ông Phê-rô và Gio-an cùng các tông đồ đã là những gương mẫu làm chứng cho sự sống lại của Chúa. Ngoài việc làm chứng cho Chúa Phục Sinh, chúng ta còn phải sống tinh thần Phục Sinh, theo lời khuyên của thánh Phao-lô là hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới nữa.
Bài Tin Mừng giới thiệu với chúng ta ba chứng nhân đầu tiên: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, ông Phê-rô và môn đệ Chúa thương mến. Cả ba người đều đi đến mộ Chúa, kẻ trước người sau. Tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận rằng động lực chung khiến cả ba đi đến mộ Chúa chính là do lòng yêu mến của họ đối với Người. Dù Chúa còn sống trước kia hay đang nằm trong mộ bây giờ, lòng yêu mến của họ vẫn không thay đổi. Lúc nào họ cũng muốn ở với Chúa. Do đó, dù “sáng sớm lúc trời còn tối”, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã vội vã đi đến mộ Chúa. Rồi hai tông đồ Phê-rô và môn đệ Chúa thương mến, vừa nghe bà Ma-ri-a báo tin “người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ” là ba chân bốn cẳng chạy thật nhanh đến mộ. Nhưng đối với họ, đó chỉ là những gì họ nhìn thấy lúc đầu. Họ cần bước thêm một bước nữa để tiến tới niềm tin rằng Chúa Giê-su đã sống lại từ kẻ chết. Vậy với bà Ma-ri-a, bước kế tiếp này là bà được Chúa tỏ mình ra khi bà đứng bên ngoài mộ mà khóc. Chính là Chúa đã gọi tên bà, chứ không phải “ông làm vườn” như bà tưởng! Tiếng gọi “Ma-ri-a!” đã đưa bà tới đức tin vào Chúa Phục Sinh. Còn với tông đồ Gio-an và môn đệ Chúa thương mến, những dấu vết Chúa để lại như các băng vải tẩm liệm để một chỗ, khăn che mặt được cuộn lại và xếp riêng một nơi, đã giúp các ông “thấy và đã tin”. Cuối cùng chính đức tin này họ sẽ đem chia sẻ với người khác, như chúng ta thấy ông Phê-rô đã làm chứng cho Chúa qua bài giảng đầu tiên cho dân ngoại tại nhà ông Cô-nê-li-ô ở Xê-da-rê.
Bài giảng của ông Phê-rô giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng “xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người”. Rồi Phê-rô nói về sứ mệnh của Chúa Giê-su “đi tới đâu là thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế”. Đặc biệt hơn cả, ông Phê-rô không ngần ngại làm chứng về cuộc Thương Khó, cái chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giê-su. Ông quả quyết mình là chứng nhân đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng rằng Chúa Giê-su “là Đấng Thiên Chúa đặt làm Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết”. Ông cũng không quên lập lại lời các ngôn sứ nói về Chúa Giê-su rằng “phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Làm chứng cho Chúa Giê-su phục sinh không chỉ là bổn phận của những môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su, mà còn là bổn phận của các Ki-tô hữu mọi thời mọi nơi. Nhưng làm chứng thế nào? Thánh Phao-lô góp ý với chúng ta như sau. Trước hết chúng ta xác tín mình “đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô”, nghĩa là được sống lại trong sự sống mới là Chúa Ki-tô và mang căn tính mới là con cái Thiên Chúa. Căn tính mới này đòi chúng ta phải hướng lòng trí về trời, tức là hướng về “những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Thánh Phao-lô còn diễn tả sự sống mới này bằng một định luật thực tế: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi”. Đúng vậy, ngài đã để cho đời sống mình được biến đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô”. Qua kinh nghiệm bản thân, ngài nhắn nhủ chúng ta hãy để cho đời sống mới của chúng ta luôn kết hợp với Chúa Ki-tô, hoặc nói theo ngôn từ của ngài là chúng ta phải làm sao giữ sự sống mới của ta “tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa”. Như thế, sự hiện diện và hoạt động của Chúa Ki-tô trong chúng ta sẽ giúp chúng ta được hưởng phúc trường sinh sau này. Vậy chúng ta có sẵn sàng sống lại với Chúa trong đời sống mới và để cho việc kết hợp với Chúa thay đổi lối sống của chúng ta không?
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
-----------------------------
Đêm Vọng Phục Sinh
(Mc 16, 1-8)
Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.
Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần…Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nagiarét, Ðấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê rằng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”. (Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lớn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).
Vâng, Chúa Kitô đã đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” (Kh 1,8), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Ðây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Ðấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên... hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô... Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
-----------------------------
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 20:1-9)
Đọc tường thuật của thánh sử Gio-an về sự kiện Chúa Giê-su sống lại, chúng ta đều nhận ra một điểm chung của những người đầu tiên hiện diện tại ngôi mộ trống của Chúa Giê-su, đó là lòng yêu mến Chúa của hai ông Phê-rô và Gio-an, và nhất là lòng yêu mến của bà Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã phát hiện ra ngôi mộ trống của Chúa và vội vã đi báo tin cho các môn đệ của Người.
Mỗi người một cách, họ biểu lộ lòng yêu mến Chúa qua những hành động viếng thăm mộ Chúa và cuối cùng tất cả đều tin vào sự sống lại của Người theo lời Kinh Thánh: “Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”.
Trước hết là lòng yêu mến Chúa của bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi Chúa Giê-su bắt đầu thi hành sứ vụ, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã được Người giải thoát khỏi bảy quỷ. Cùng với mấy phụ nữ khác, bà đi theo Chúa, lấy của cải để giúp đỡ Người và các môn đệ (Lu-ca 8:1-3). Chính lòng yêu mến nồng nàn đã giúp bà can đảm đi thăm mộ Chúa vào “sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối”. Tình yêu đã chiến thắng sợ hãi đêm tối. Tới nơi, thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ, bà Ma-ri-a nghĩ ngay chắc là có điều không hay xảy ra cho xác Chúa. Dù còn sống hay đã chết, người mà bà yêu mến lúc nào cũng là quan trọng, nên bà thấy cần phải làm điều gì đó để tỏ lòng kính trọng đối với thi thể người quá cố. Bà đi tìm người nào có thể giúp bà tìm lại xác Chúa. Bà vội vàng chạy về báo tin cho ông Si-môn và người môn đệ Chúa thương mến rằng “người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Lòng yêu mến đã thúc giục bà “chạy về” cho nhanh, gặp hai ông tông đồ để báo “tin dữ”. Hành vi “chạy” chứng tỏ tâm trạng lo sợ và lòng yêu mến lớn lao của bà đối với Chúa. Chúng ta tưởng như nghe được những lời hoảng hốt của bà nói cho các tông đồ biết xác Chúa đã mất rồi và họ phải tìm cách nào đó để kiếm lại.
Trong khi lòng yêu mến Chúa của bà Ma-ri-a Mác-đa-la được biểu lộ sốt sắng và rõ ràng, thì lòng yêu mến Chúa của hai ông Phê-rô và Gio-an cũng không kém phần sâu đậm. Hai ông đã bỏ mọi việc để lập tức đi ra mộ. “Cả hai ông cùng chạy”. Trong tình huống này, động tác “chạy” mang ý nghĩa thực tế và sống động nói lên tình yêu đích thực của ba người môn đệ đối với Chúa. Khi tới mộ, những hành động của hai ông cũng nói lên sự khác biệt trong cách biểu lộ lòng yêu mến. Người môn đệ được Chúa thương mến thì “nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào”. Có thể ông không vào, vì muốn tôn trọng địa vị của Phê-rô: ông Phê-rô phải là người đầu tiên làm “chứng nhân” cho sự sống lại của Chúa. Tuy nhiên cũng có thể người môn đệ được Chúa thương mến đã “cúi xuống và nhìn” là hành vi diễn tả thái độ suy niệm ý nghĩa về những gì xảy ra trước mắt, như thánh sử Gio-an đã ghi lại liền sau đó: “Ông đã thấy và đã tin”. Trái lại với thái độ suy tư, ông Si-môn Phê-rô là con người bộc trực. Ông biểu lộ lòng yêu mến Chúa một cách chân thành và thoải mái. Những hành vi của ông đã nói lên đặc điểm ấy: không chút ngần ngại, ông vào thẳng trong mộ và quan sát mọi sự trong mộ cũng như cách sắp đặt gọn gàng băng vải và khăn che đầu. Rồi cũng như người môn đệ được Chúa thương mến, ông đã thấy và đã tin.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trước ngôi mộ trống của Chúa, cả ba người môn đệ là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, ông Phê-rô và ông Gio-an đều có cách thức riêng biểu lộ lòng yêu mến Chúa Giê-su. Tất cả đều tiến đến điểm chung là tin Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết. Nhưng quan trọng hơn, các vị còn trở thành những người làm chứng cho sự sống lại của Chúa qua việc rao giảng Tin Mừng. Các tông đồ thì được sai đi khắp tứ phương thiên hạ để làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa. Bà Ma-ri-a tuy không được nhắc đến trong lịch sử truyền giáo của Giáo Hội, nhưng chắc chắn bà cũng có đường lối riêng để chia sẻ đức tin vào Chúa Phục Sinh của bà với những người chung quanh. Còn riêng bạn, bạn có lòng yêu mến Chúa Giê-su Phục Sinh không, và bạn sẽ làm chứng cho Người thế nào trong môi trường sống của bạn? Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
-----------------------------
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Nếu sự chết là nỗi sợ hãi nhất của con người thì sự phục sinh là niềm hy vọng lớn nhất cho kiếp người chúng ta. Sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình, nhưng chết rồi đi đâu mãi là câu hỏi của con người qua mọi thời đại. Con người vẫn trăn trở, thắc mắc. Có biết bao tôn giáo, có biết bao các hiền sĩ đã mải công đi tìm câu trả lời. Thánh Phao-lô cũng từng đối diện với câu hỏi đầy hóc búa ấy. Qua đây, thánh Phao-lô đã cho chúng ta hiểu thế nào về sự sống lại. Ngài nói:
“Khi anh em gieo giống, nếu hạt giống không chết đi thì sẽ không bao giờ nẩy mầm sống lại, cây non từ hạt giống mọc lên trông khác hẳn hạt lúc gieo xuống đất. Thiên Chúa cho nó hình thể theo ý Ngài, mỗi loại hạt giống sinh ra một loại cây; sự sống lại của người chết cũng thế, chết là thân thể hư nát nhưng sống lại là thân thể không hư nát, chết là thân thể xương thịt nhưng sống lại là thân thể thần linh, vì đã có thân thể xương thịt tất nhiên cũng có thân thể thần linh. Tôi xin tỏ cho anh em huyền nhiệm nầy, chúng ta sẽ không chết hết nhưng tất cả đều sẽ biến hóa trong giây lát, trong chớp mắt, khi có tiếng kèn cuối cùng, vì kèn sẽ thổi. Người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta, những người còn sống sẽ được biến hóa” (1 Cor 15, 35-52)
Hóa ra sự sống lại của con người cũng giống như một hạt giống được gieo xuống đất, mục nát chết đi thì sẽ trồi lên một cây mới. Sự sống của cây mới chắc chắn sẽ khác với hạt giống khi gieo xuống. Cây lúa khác với hạt lúa. Con người sau khi sống lại cũng hoàn toàn đổi mới. Vì mang thân xác thần linh thì hoàn toàn khác với thân xác hữu hạn trần thế. Khi Chúa Giêsu sống lại trên thân xác của Ngài vẫn còn những vết sẹo. Ngài đã đề nghị Tô-ma hãy xỏ ngón tay vào những dấu đinh trên thân thể Ngài. Nhưng đó là một thân xác hoàn toàn mới, nên các môn đệ, các người phụ nữ thân tín cũng không nhận ra Người. Đó cũng là điều sẽ xảy ra cho tất cả mọi người như lời Chúa đã dạy: "Trong giây lát, trong chớp mắt sẽ có tiếng kèn cuối cùng vì kèn sẽ thổi, người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta những người còn sống sẽ được biến đổi nên mới hơn”.
Tuy nhiên, Thánh Gioan còn cho biết: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Thiên Chúa sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau hết nước mắt khỏi mắt họ; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.
Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống thiên đàng có Chúa tỏ tường. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa sẽ lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.
Chúa Giêsu hôm nay đã bước qua cuộc sống tạm đời này để trở về cuộc sống vĩnh cửu trên trời. Sự sống lại của Ngài là niềm hy vọng lớn lao cho kiếp người chúng ta. Từ nay chúng ta không còn lo lắng về bước đường tương lai “chết rồi đi đâu?”. Từ nay chúng ta có một con đường để đi, để tiến về quê trời. Đó là con đường Giêsu. Con đường vâng phục thiên ý Chúa Cha. Con đường yêu thương và phục vụ cứu đời.
Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tủy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong Chúa vĩnh viễn.
Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau chúng ta cũng được sống lại với Người. Amen.
-----------------------------
Trong thứ thứ I gửi giáo đoàn Côrintô, Thánh Phalô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì đức tin của ta vô ích” (ICor 15,17)
Cũng vì Chúa đã sống lại, mà mỗi thời đại đã có biết bao người sẵn sàng hy sinh tận hiến cuộc đời mình cho Chúa, không quản ngại vất vả long đong. Cũng vì Chúa đã sống lại, mà trải qua hai ngàn năm, biết bao cuộc bách hại đẫm máu cũng không dập tắt được niềm tin cuả những người theo Chúa. Vì đối với những người tin theo Chúa, thì Chúa đã chết để sống lại thế nào, tín hữu cha Chúa cũng sẽ phải chết để được sống lại như Chúa.
Trong thời gian bị giam, một hôm quan tuần ohủ nói với Thánh Khoan (tử đạo ngày 28.4.1840,69 tuổi):
“Tôi muốn kết nghĩa với cụ, tôi chỉ muốn tìm cch cứu sống cụ thôi. Xin cụ chịu khó chấp nhận bước quan Thập Giá”. Cha trả lời: “Mấy tháng qua ở trong tù, tôi đã suy tính nhiều lắm rồi, nhưng càng nghĩ, tôi càng xác tín hơn, càng cương quyết giữ vững đức tin cho đến chết”.
- Thế ông không muốn sống ư?
- Bẩm quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống hồ là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham. Thế nhưng với người Kitô hữu, chết là bước đường đi đến cuộc sống muôn đời trên Thiên đàng.
- Ai bảo ông là có Thiên Chúa?
- Đó là điều cố nhiên phải có. Như nhà vau vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì Chúa Trời Đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi trung của người sao? Nơi ban thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên đàng.
- Vậy ai dậy cho biết là có Chúa Trời Đất
- Bẩm quan… không cần phải ai dậy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách mở ra dạy ta bài học đó. Nhìn ngắm những công trình kỳ diệu của Thiên Chúa, thì tức khắc phải nhận ra có Đấng tạo thành và giữ gìn nó. Chúng tôi gọi Đấng ấy là Chúa Trời và tôn thờ Người.
Ở trong ngục, cha Khoan nhận được bức thư của Đức Cha Retord Liêu viết trước khi lên đường sang Manila để được tấn phong. Bức thư bằng Hán Văn:
“Sách có câu: Chết vinh hơn sống nhục. Hãy coi chừng kẻ bội giáo, cuộc đời họ đáng tủi hổ biết bao. Ngược lại khắp bốn phương thiên hạ đều vang lên khen ngợi những ai chết cho đức tin. Các vị tử đạo như tiếng kèn Thiên Quốc với âm điệu ngân vang muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian để chờ lưỡi rìu chặt đem đi tiếp lửa cho hỏa ngục”. Màu các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn nho Giáo Hội, làm nó thêm đời phong nhiêu… Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vã này. Ước mong nó thành ngọn gió đưa cha bước êm đến bến quê hương. Ước mong đó thành đóa hoa rực rỡ với làn hương thơm tỏa ngát niềm vui, tô thắm tâm hồn cha trong cuộc chiến cuối cùng. Xin kính cần tạm biệt cha. Xin kính cẩn hôn lên gông cùm xiềng xích của cha. Trong lúc cầu nguyện xin cha đừng quên tôi”.
Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: “Quan bảo tôi trà đạp Thánh giá là điều chẳng hợp lý tí nào?” Quan hỏi: “Sao lại không hợp lý, tôi cho ông con đường s mà không hợp lý sao?” Cha đáp: “Bẩm quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ, chết đào ngũ thì thật là hèn nhát. Cũng vậy, tôi chịu ơn Vua Cả Trời Đất, tôi đâu được phép sợ chết mà bỏ người được”.
Quan thất vọng trước sự trung kiên của cha Khoan, thầy Hiếu, thầy Thành nên đành ký án tử về triều đình xin châu phê. Trong những ngày chờ đợi, trại giam Ninh Bình vang vọng những tiếng hát. Đó là tiếng hát cha Khoan và hai thầy hàt bài Thánh Thi “Chúc tụng” (Te Deum). Cha một câu, hai thầy một câu, nhịp nhàng rộn rã. Trên đường ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca lên những lời tri ân: “Tâu Thượng Đế! Này thần dân xin hát mừng trước bệ- Tuyên xưng Ngài là Chúa tể càng khôn…”
Tại pháp trường ngày 28.4.1840, cha Khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời: “Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại đức vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu, và vì không chịu bỏ đạo Thiên Chúa là đạo duy nhất chân thật”.
Lính đẩy ba chứng nhân trung thành vào khu vự riêng, xa tầm mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai thầy hiệp ý cầu nguyện với vị Linh mục:
“Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Ngài. Xin Chúa chúc phúc cho đức vua được cai trị lâu dài và thái bình thịnh vượng…”
Như trong đêm phục sinh, cha Khoan hát lên ba lần Alleluia, Alleuia, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Đối đáp lại, hai thầy hát theo cung độ của vị chủ sự. Ba cái đầu cùng một lúc rơi xuống. Thầy giảng huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh thi thể ba đấng về Phúc Nhạc an táng.
-----------------------------
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Tin mừng: Mt 28, 1-10.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay là lễ Vọng Phục Sinh, mừng Chúa Giêsu từ trong mồ đá sống lại khải hoàn, một tin vui và niềm hy vọng lại đến dạt dào nơi những kẻ tin vào Ngài, đó là Mẹ Maria, các môn đệ và những người yêu mến Ngài.
Trong niềm vui phục sinh với Chúa Giêsu, tôi xin chia sẻ với anh chị em về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu liên quan mật thiết đến sự sống hằng ngày của chúng ta.
Chết liên lỉ và sống lại hằng ngày.
Ve sầu hỏi Chúa tạo vật:
-“Có thứ gì vừa có đầy đủ sức sống, nhưng đồng thời cũng có đủ sự chết không?”
-“Có chứ”- Chúa tạo vật trả lời tiếp: “Hạt giống của lúa, lúa mì và tất cả các hạt, chúng nó đều là vừa sống vừa chết; vừa chết vừa sống” (1) .
Chúa Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã nói trước, đó là một niềm tin và là một sự thật, Ngài đã sống lại sau khi bị đóng đinh vào thập giá, chết, và táng xác trong mộ đá, đó là tất cả niềm tin của chúng ta, như lời thánh Phaolô đã quả quyết rằng nếu Đức Kitô chết đi, mà không sống lại thì chúng ta -những kẻ tin- là những người vô phúc nhất. Nhưng Ngài đã sống lại.
Chúa Giêsu là hạt giống Nước Trời được gieo vào thế gian vừa có đủ sự chết nên Ngài đã chết, vừa có đủ sự sống nên Ngài đã sống lại, sự sống lại này là một bằng chứng hùng hồn nhất: Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa, là Đấng cứu chuộc trần gian. Ngài đã sống lại và đang ở trong mỗi người chúng ta, để làm cho chúng ta, nhờ bí tích Thanh Tẩy và Hòa Giải cũng được sống lại với Ngài trong từng giây phút cuộc đời.
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ đêm nay có nhiều nghi thức, mỗi một nghi thức đều ăn khớp với nhau, từ Cựu ước đến Tân ước, tất cả đều có liên quan đến Chúa Giêsu cứu thế, để cho chúng ta hiểu được kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa vĩ đại dường nào.
Mỗi giây phút trong cuộc đời của chúng ta đều có sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu: khi chúng ta hy sinh, chúng ta hãm mình là chúng ta chết cho tội và sống trong ân sủng của Thiên Chúa; khi chúng ta nhịn nhục, khi chúng ta phục vụ là chúng ta chết cho cái tôi và sống lại trong Thần Khí của Chúa Giêsu...
Không phải chỉ đúng ngày lễ Phục Sinh chúng ta mới “sống lại”, nhưng tình yêu của Chúa Giêsu thôi thúc chúng ta chết và sống lại mỗi ngày, bởi vì mỗi người trong chúng ta là những mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa nẩy mầm và phát triển đến môi trường chung quanh chúng ta.
Không ai biết Chúa Giêsu chết như thế nào và sống lại ra sao, nếu mỗi người trong chúng ta không đem đời sống của mình ra để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, mà chứng cớ sống động nhất chính là chúng ta sống như Chúa Giêsu đã sống: yêu thương, phục vụ và tha thứ - Alleluia.
Xim Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
---------------------------------
(1) Trích trong “Truyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”, bản dịch và viết suy tư của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-----------------------------
Lc. 24,1-12
Anh chị em thân mến.
Có lần tôi đến phi trường Tân Sơn Nhất, tiển đưa một người bạn, tôi nhìn thấy cảnh kẻ đón người đưa nhộn nhịp. Tôi chú ý đến những người đang chờ đợi, vẻ mặt của họ để lộ niềm vui mừng, khi thấy người thân của mình xuất hiện. Số người đi đón rất đông, họ chờ đợi, họ vui mừng.
Tôi chợt suy nghĩ: không phải đến giờ phút nầy họ mới vui mừng, nhưng họ đã có được niêm vui từ nhiều ngày trước, mặc dù chỉ nghe báo tin. Nhưng họ đã hoàn toàn tin tưởng và chuẩn bị mọi việc cho chu đáo để có thể ra đi, bỏ lại tất cả những gì của riêng mình, bỏ lại tất cả những gì mà thường ngày họ gặp phải. Chính vì họ biết từ bỏ, biết ra đi, họ mới có được niềm vui. Nhưng niềm vui của họ kéo dài được bao lâu, không ai biết được. Niềm vui có giúp ích gì cho đời sống của họ hay không? Cũng không ai biết được. Vậy mà họ cứ phải từ bỏ, phải ra đi và tìm gặp để tận hưởng niềm vui.
Các môn đệ và những phụ nữ trong bài phúc âm mà chúng ta vừa nghe, đang mang tâm trạng chờ đợi và hy vọng. Họ cũng ra đi, họ cũng tìm, còn hy vọng thì không được bao nhiêu. Nhưng họ không phải thất vọng. Niềm vui của họ đã vượt quá những gì họ mong đợi. Những phụ nữ ra đi hăng hái hơn nên họ đã tìm thấy được dấu chứng mạnh mẽ hơn. Phêrô chỉ nhận ra được dấu chứng xứng với sự chuẩn bị của ông. Những môn đệ khác thì lo âu sợ sệt nên không dám từ bỏ, không dám ra đi, nên các ông không nhận được gì. Các ông lo sợ mình sẽ bị mất mát, cho dù các ông không có gì để mất. Lo sợ liên lụy bản thân, cho dù bản thân chẵng ra gì. Chính vì những lo sợ như thế, đã làm cho các ông không thể nhấc nổi bước chân của mình để ra đi, nên các ông vẫn tiếp tục sống trong sự lo sợ, các ông sẽ không có được niềm vui của người dám từ bỏ và ra đi.
Những môn đệ, những phụ nữ của ngày hôm nay, họ bước đi rất nhiều, đi tìm rất nhiều, họ cũng dám từ bỏ, nhưng họ đã gặp được gì? Họ bước đi vào nơi những người chết để tìm sự sống.
Chúng ta là những con người của thời đại, là những phụ nữ, những môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta đang ngồi yên bất động trong sự sợ hãi, hay chúng ta đang nhấc từng bước chân của mình trên đường mà không biết đi đâu. " Sao các người đi tìm người sống ở giữa kẻ chế". Chúng ta có nhận được lời báo tin, chúng ta có nhớ lại những Lời mà Người đã chỉ dạy, để bước đi với tất cả niềm tin của mình. Mỗi người trong chúng ta hãy nhìn vào đời sống đã qua, nhìn vào những việc mình đã làm để xem mình đang ở trong tình trạng nào.
Nhiều lần chúng ta sợ liên lụy bản thân, sợ cho đến đỗi không dám cho người khác biết mình là người Công Giáo. Chúng ta sợ mình sẽ mất đi chỗ đứng trong xã hội. Cũng có những lúc, chúng sợ làm phiền lòng người khác, sẽ ảnh hưởng đến đời sống yên ổn của chính mình, để rồi không dám nói lên sự thật, trái lại còn đồng lõa bênh vực cho sự dối trá. Đó là những lúc chúng ta ngồi yên bất động trong ngôi nhà con người hay hư nát nầy, để bảo vệ những lợi lộc chóng qua vì chúng ta sợ mất nó, nên không bao giờ chúng ta tìm được niềm vui thật sự, niềm vui mới , niềm vui Phục Sinh.
Nhiều lần chúng ta cũng dám từ bỏ để ra đi. Nhưng tìm mãi mà không thấy gì, tìm mãi mà không gặp được niềm vui thật sự. Vì chúng ta chỉ biết tìm chính mình, chúng ta không biết lắng nghe những lời chỉ dạy, chúng ta đi tìm sự sống nơi những người chết, thì làm sao có thể đạt được niềm vui của sự sống lại. Đó là những lúc chúng ta sống dường như có vẻ đạo đức, nhưng chúng ta đòi hỏi mọi người phải tôn trọng chúng ta vì vẻ đạo đức này, để rồi chúng ta đòi những đặc quyền cho bản thân, nếu không được, chúng ta buồn sầu khó chịu và có những thái độ mà không ai chấp nhận được. Nếu chúng ta từ bỏ thật sự để bước đi tìm sự sống đích thực, thì sẽ thấy được những dấu hiệu, những lời chỉ bảo, nếu chúng ta biết lắng nghe, nếu chúng ta can đảm sống theo những gì đã lắng nghe. Đó là chúng ta đang tìm được sự sống mới và đang tận hưởng niềm vui.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta can đảm từ bỏ đi những gì của con người cũ, để xứng đáng bước vào sự sống mới mà Chúa Kitô Phục Sinh mang lại cho chúng ta.
-----------------------------
Thứ Bảy Tuần Thánh
Bài Giảng của ĐTC Gioan Phaolô II trong Đêm Vọng Phục Sinh năm 2002
1) "Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng"; và có ánh sáng" (St 1,3).
Một sự bùng nổ của ánh sáng, mà Lời Chúa mang đến từ hư vô, xé toạc màn đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng.
Thánh Tông Đồ Gioan viết: "Thiên Chúa là ánh sáng, và trong Ngài, chẳng hề có tối tăm" (1Ga 1,5). Thiên Chúa đã không tạo nên bóng tối nhưng là ánh sáng! Và sách Khôn Ngoan, tiết lộ rõ ràng rằng công việc Thiên Chúa luôn có mục đích tích cực, thế nên: "Ngài tạo ra muôn vật để chúng hiện hữu, và các loài trên thế giới loài nào cũng lành mạnh. Và giữa chúng, không thấy loại nào mang nọc độc phá hoại, và dương thế thì tương khắc với cõi âm" (Khôn ngoan 1,14).
Trong đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng, đâm rễ Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm mà theo sau thảm kịch của tội lỗi, tiêu biểu cho sự phục hồi và đăng quang của sự bắt đầu tiên khởi ấy. Ngôi Lời chí thánh tạo ra muôn vật và, trong Chúa Giêsu, đã hóa thành nhục thể cho sự cứu độ chúng ta. Và nếu thân phận của Ađam đầu tiên là trở lại với đất từ nơi đã được tạo thành (x. St 3,19), Ađam cuối cùng đã đến từ trời cao để quay lại đó trong vinh quang, hoa quả đầu mùa của nhân loại mới (x. Ga 3,13; 1Cor 15,47).
2) Một đêm khác nữa thiết lập biến cố nền tảng trong lịch sử Israel: đó là cuộc Xuất Hành kỳ diệu từ Ai Cập, câu chuyện được đọc mỗi năm trong đêm Vọng Phục Sinh long trọng.
"Chúa khiến gió đông thổi lên thật mạnh càn quét mặt biển suốt đêm, làm cho biển cạn hết. Nước rẽ đôi như vậy đã giúp con dân Israel đi thẳng vào lòng biển như đi trên đất khô, với nước dựng như bờ tường hai bên tả hữu họ" (Xuất hành 14,21-22). Dân Chúa được sinh ra trong "phép rửa tội này" nơi Biển Đỏ, khi họ chứng kiến cánh tay quyền năng của Thiên Chúa, Đấng cứu họ khỏi nô lệ để dẫn đưa họ đến miền đất hứa của tự do, công lý và hòa bình.
Đây là đêm thứ hai, đêm của Xuất Hành.
Lời tiên tri của Sách Xuất Hành ngày hôm nay, cũng được thực hiện cho chúng ta, những người là Dân Israel theo Thần Khí, hậu duệ của Abraham do bởi đức tin (x. Rm 4,16). Trong cuộc Vượt Qua của Ngài, như Môisen mới, Đức Kitô đã cho chúng ta vượt qua sự nô lệ của tội lỗi để đến với sự tự do của con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta cùng chết với Đức Giêsu, chúng ta sẽ vươn tới cuộc sống mới, nhờ vào quyền năng của Thánh Thần của Ngài. Phép Rửa của Ngài đã trở nên phép rửa của chúng ta.
3) Cả anh chị em cũng sẽ nhận được phép Rửa này, phép Rửa đưa chúng ta vào trong cuộc sống mới, những tân tòng thân mến từ nhiều quốc gia: từ Albania, Trung Quốc, Nhật Bản, Ý, Ba Lan, và Cộng Hòa Dân Chủ Congo. Hai người trong số anh chị em, một bà mẹ Nhật Bản và một bà mẹ Trung Quốc, mỗi người mang theo với mình một cháu bé, như thế, trong cùng một nghi thức này, cả mẹ lẫn con đều cùng được rửa tội.
"Trong đêm cực thánh này", khi Đức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết, anh chị em cũng sẽ cảm nhận một cuộc "xuất hành" thiêng liêng: hãy bỏ lại phía sau cuộc đời trước đây của anh chị em và tiến vào "miền đất của sự sống". Đây là đêm thứ ba, đêm của sự Phục Sinh.
4) "Đêm diễm phúc của tất cả các đêm, được Thiên Chúa chọn để thấy Đức Kitô trỗi dậy từ kẻ chết!" Chúng ta hát lên những lời này trong lời Công Bố Phục Sinh vào đầu buổi Canh Thức long trọng, Mẹ của mọi đêm Canh Thức.
Sau đêm thảm kịch của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, khi "quyền lực của tối tăm" (Lc 22,53) dường như thắng thế trên Đấng là "ánh sáng thế gian" (Ga 8,12), sau cái yên lặng bao trùm của Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, trong đó Đức Kitô, sau khi hoàn tất công việc của Ngài trên trần gian, nghỉ ngơi trong mầu nhiệm của Chúa Cha và mang sứ điệp của sự sống vào trong cõi âm, cuối cùng chiêm ngắm đêm trước "ngày thứ ba", mà theo Thánh Kinh, Đấng Mêsia sẽ trỗi dậy, như chính Ngài thường báo trước cho các môn đệ của Ngài.
"Đêm thật hồng phúc, khi thiên đàng giao duyên cùng thế gian và con người được hòa giải với Thiên Chúa!" (Công Bố Phục Sinh).
5) Đây là đêm của các đêm, đêm của đức tin và hy vọng. Trong khi tất cả đang chìm trong bóng đêm, Thiên Chúa - Ánh Sáng - vẫn chiêm ngắm. Cùng với Ngài, những người hy vọng và tín thác nơi Ngài cũng chiêm ngắm.
Lạy Đức Mẹ, đây thật là đêm của Mẹ! Khi những ánh sánf cuối cùng của ngày Sabát tắt dần, và hoa quả của lòng Mẹ nằm trong lòng đất, trái tim của Mẹ cũng chiêm ngắm! Đức tin của Mẹ và hy vọng của Mẹ nhìn tới trước. Đàng sau tảng đá nặng nề, đức tin và hy vọng của Mẹ đã thấy trước ngôi mộ trống không; đàng sau màn đêm dày đặc, đức tin và hy vọng của Mẹ đã le lói buổi ban mai của sự Phục Sinh.
Lạy Mẹ, xin cho chúng con cũng chiêm ngắm trong sự yên lặng của đêm nay, tin tưởng và hy vọng vào Lời Thiên Chúa. Như thế chúng con sẽ gặp, trong sự viên mãn của ánh sáng và cuộc sống, Đức Kitô, hoa quả đầu mùa của sự sống lại, đấng hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cho đến muôn đời. Allêluia!
+ Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng
-----------------------------
THỨ BẢY VỌNG PHỤC SINH
Lời Chúa: Lc 24, 1-12.
“Người đã trỗi dậy và đi Ga-li-lê trước các ông.”
Bạn thân mến,
Đêm nay được Giáo Hội gọi là đêm Hồng Phúc, bởi vì đêm nay Con Thiên Chúa –Chúa Giê-su Ki-tô- bị đóng đinh chết trên thập giá vì tội của nhân loại, đã bị mai táng trong mồ đá và đã sống lại vinh hiển, đó là niềm tin duy nhất và đích thực của chúng ta.
Sự sống lại của Chúa Giê-su là một niềm hy vọng cho chúng ta, hy vọng cũng được sống lại với Ngài sau khi từ giả cõi đời này.
Không ai tìm người sống giữa kẻ chết, nhưng chính Chúa Giê-su –Đấng đã sống lại từ cõi chết- lại đang từng giây từng phút tìm bạn giữa mồ chết do tội lỗi đem đến, chính Ngài đang tìm bạn giữa cảnh đời bon chen mà có lúc bạn cảm thấy mình thất vọng ê chề vì không thoát ra khỏi vũng bùn tội lỗi. Chúa Giê-su là nguồn hy vọng duy nhất của thế giới: nơi Ngài, thần chết đã chịu thua; nơi Ngài, quyền uy của hỏa ngục bị đánh bại, và chính nơi Ngài, nhân loại tìm được ơn giải thoát.
Đêm nay, khi tham dự mầu nhiệm Vượt Qua –lễ Phục Sinh- của Chúa Giê-su, bạn và tôi cùng cảm tạ Thiên Chúa và quyết tâm sống lại với Ngài bằng cách chia sẻ niềm tin Phục Sinh của mình cho tha nhân:
- Sốt sắng tham dự các thánh lễ.
- Vui vẻ phục vụ tha nhân.
- Làm tốt bổn phận của mình trong cuộc sống.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
--------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://360.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb
-----------------------------
Hôm nay Giáo hội giúp chúng ta ở bên mộ Chúa Giêsu mà suy niệm về những đau khổ Chúa chịu vì yêu thương chúng ta. Chúng con cảm tạ Chúa đã cứu chúng con ra khỏi những lầm lạc và những bế tắc do tội nguyên tổ gây nên, cho chúng con nhận ra hậu quả nặng nề của tộI lỗI và tình thương của Chúa bao la vô cùng. Ngài lãnh lấy hết tội lỗi mà con người đáng phải chịu hậu quả và tình thương của ngài trên thập giá mở ngõ dẫn vào sự sống thật đời đời, dẫn chúng con về nhà Cha trên Trời.
Chúa Giêsu đã đến sửa lạ thế gíới hư hỏng, gánh hết tội lỗI trần gian. Ngài lập Hội Thánh để qui tụ mọi người dẫn đưa về Thiên Quốc. Ngài lo chúng con yếu đuối, chưa đủ sức chịu khó nhọc nên đã ra tay cứu giúp trong những lúc gian nan khốn khó, lập ra các Bí tích để con tiếp nhận được ơn Chúa hàng ngày mà có sức vượt qua mọi gian nan khốn khó. Bằng tình yêu, Ngài chỉ cho chúng con biết bám vào Ngài và đón nhận tất cả những gì Chúa Cha ban cho cũng như thực hiện nhiệm vụ con phảI làm để xứng đáng là con Chúa. Nhờ công nghiệp và sự phục sinh của Ngài mà chúng con được hạnh phúc. Những ai tin vào Ngài sẽ được tẩy xoá hết tội lỗi và đưa vào vinh quang Nước Trời.
Chúa chịu an táng vội vàng đơn sơ. Chúa chịu thiệt thòi từ lúc mới sinh cho đến lúc chết để cứu chuộc chúng con. Khi sinh ra Chúa không có nôi hay giường nằm, không có nhà để ở. Khi chết cũng an táng vội vã, chưa kể thời gian đi giảng dạy chịu những nhà lãnh đạo Do thái tìm đủ cách để làm mất uy tín Chúa tuy họ không làm được. Cuối cùng Chúa chịu kết án oan. Chúa đã sống cuộc đời cho đi tất cả, phục vụ cho đến chết. Khác với vua Chúa trần gian thường hay bắt người khác phục vụ cho mình, tìm sự giàu sang thoải mái, bắt mọi người phục vụ cho mình để rồi cuối cùng cũng chết ra tro. Hôm nay Chúa chịu mai táng trong mồ. xin giúp chúng con biết mai táng với Chúa trong các việc hy sinh hàng ngày, cho chúng con biết cởi bỏ con người cũ, mặc lấy Chúa, sống tinh thần Chúa dạy.
Sự chết của Chúa Kitô gắn liền với những gì Ngài đã nói và làm trước đó, là hành động quyết liệt và cuối cùng của việc Ngài mạc khải về Thiên Chúa và về con người.Thập giá mang lại vinh quang, nhưng để có vinh quang thì Con Chúa đã phải trải qua đau đớn tủi nhục đến tột cùng. Chúng ta hãy ngắm nhìn và suy niệm ý định cứu độ của Chúa. Khi hai môn đệ đã rửa máu nơi các vết thương Chúa sạch thì lấy thuốc thơm mà xức người và lấy vải trắng mà vấn lấy đoạn đặt vào trong huyệt đá mới làm. Chính vì tội con mà Chúa phải khổ sở cho đến chết như thế. Bao nhiêu là đòn vọt, đinh nhọn, gai dài đâm thủng da thịt Chúa, cả và mình sưng tím đầy những vết thương. Nhìn vào đó chúng con biết tội mình nặng thể nào và lòng Chúa thương chúng con đến mức nào.
Hôm nay chúng con theo chân Mẹ Maria đứng dưới chân thánh giá, Mẹ đã can đảm nhận lấy khổ đau Chúa trao theo gương con Mẹ. Chúng con xin hiệp cùng những đau khổ của Mẹ và của Con Mẹ bằng những việc hy sinh hàng ngày, những khó nhọc thiếu thốn của gia đình chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết tránh xa tội lỗi và bỏ mọi tính mê nết xấu để xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự hàng ngày. Xin Chúa ban cho chúng con ơn bền đỗ, biết giữ lòng sạch tội như ngôi mộ mới. Xin ban cho chúng con lòng mến yêu Chúa mỗi khi rước mình thánh Chúa vào lòng. Xin cho chúng con biết vác thánh giá hàng ngày là những công việc bổn phận con phải làm và khó khăn trong cuộc sống ở đấng bậc con cho ngày sau được xem thấy Chúa và hưởng vinh phúc cõi trời.
-----------------------------
Ngày thứ bảy Tuần Thánh không có thánh lễ, cũng không có Phụng Vụ Lời Chúa, mà chỉ có các Giờ Kinh Phụng Vụ. Tuy vậy, hôm nay không phải chỉ là ngày chờ mong đại lễ. Chúng ta không họp nhau và chúng ta chỉ hồi tâm nhớ đến Chúa Kitô chôn trong mồ, nhưng chúng ta cũng đặt niềm tin vào một mầu nhiệm, như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “ Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô xuống ngục tổ tông” Mầu nhiệm Chúa Kitô xuống ngục tổ tông nằm ở trung tâm mầu nhiệm Vượt Qua. Việc Chúa đi xuống tiếp nối việc Người tự hạ khi chết trên thập giá, và cho thấy rõ Người thật sự đã chết: linh hồn Người đã thật sự lìa khỏi xác và đến với linh hồn các người công chính khác. Nhưng việc Chúa xuống ngục tổ tông cũng biểu lộ tính cách lớn lao của cuộc chiến thắng của Người: Người đã từ đáy vực thẳm bước lên sự sống. Đồng thời mầu nhiệm này cũng mở đầu cho cuộc chiến thắng ấy: Chúa Kitô xuống với những kẻ đang mong đợi Người đến báo tin họ sắp được giải phóng. Việc xuống âm phủ là khởi điểm của một cuộc đi lên sẽ đưa Chúa Kitô tới vinh quang Phục Sinh và Thăng Thiên: “ Đấng đã xuống cũng là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời ” (Ep 4,10).
Trong các Giờ Kinh Phụng Vụ ngày hôm nay, chúng ta cầu nguyện như sau: “ Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Con Một Chúa đã chịu chôn vùi trong lòng đất, nhưng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn chỗi dậy. Vậy tất cả chúng con là những Tín hữu đã cùng được mai táng với Người khi lãnh nhận phép Rửa, xin cũng được nhờ ơn Người phục sinh mà đạt tới nguồn sống muôn đời ” .
-----------------------------
Hôm nay, thứ Bảy tuần Thánh, Hội Thánh tưởng niệm việc chôn táng Chúa Giêsu trong mồ. Lặng ngắm trước mồ Chúa để suy nghĩ thật sâu lắng, thật nghiêm túc về những gì đang diễn ra đối với Người, Hội Thánh nhận ra tội lỗi của mình nặng nề ghê gớ. Tội lỗi là một thứ vũ khí giết người đến kinh hoàng. Vì thế, Hội Thánh thống hối sâu xa và diễn tả nỗi đau thống hối ấy thật đậm nét trong phụng vụ: Bàn thờ trần trụi, không khăn khăn trải; không bông hoa, chỉ có thánh giá treo thân xác bất động của Chúa và những ngọn nến chầu leo lét; không cử hành một nghi thức đặc biệt nào, kể cả thánh lễ. Đúng hơn, ngày hôm nay, thứ Bảy tuần Thánh, Hội Thánh canh thức bên cạnh mồ Chúa và ăn chay cầu nguyện để trông đợi Chúa phục sinh. Niềm vui phục sinh làm cho Hội Thánh sống lại, cùng với sự sống lại khải hoàn của Chúa.
Diễn tả nỗi đau đớn do tội của mình trong sự chết của Chúa lớn bao nhiêu, thì Hội Thánh cũng sẽ tưng bừng cử hành mầu nhiệm phục sinh lớn bấy nhiêu. Thời gian u uất đã qua, Hội Thánh tưng bừng mời gọi: “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn thiên sứ; hãy vui lên hỡi những mầu nhiệm thánh. Tiếng loa cứu độ, hãy vang khúc mừng Vua Cả khải hoàn. Vui lên, hỡi trái đất rực rỡ trong ánh sáng huy hoàng: và trong ánh huy hoàng của Vua muôn thuở, hãy vui mừng, vì được thoát vòng tối tăm của vũ trụ. Vui lên Mẹ Hội Thánh trong muôn ánh sáng lung linh, và thánh đường, hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân” (bài ca Tin Mừng Phục sinh – Exsultet).
Công bố Tin Mừng Phục Sinh trong đêm thứ bảy tuần Thánh, đêm cực thánh, đêm mẹ của các đêm, đêm tưng bừng, đêm Hội Thánh không ngớt tung hô dậy trời: Allêluia, alleluia, Chúa đã phục sinh. Alleluia, alleluia, Chúa đã phục sinh. Hội Thánh vui mừng sống lại biến cố trọng đại chưa từng có, và cũng sẽ không bao giờ có lần nào nữa trong suốt chiều dài lịch sử của mình. Biến cố mà các phụ nữ dù trong lòng đã nhảy cẩng lên, nhưng vẫn khiếp đãm đến run rẩy vì không chỉ bàng hoàng mà còn là niềm sung sướng đến kinh hồn bạt vía:
“Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê, mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: ‘Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta’. Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: ‘Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nagiaréth chịu đóng đinh: nhưng NGƯỜI ĐÃ SỐNG LẠI, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt Người. các bà hãy nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Người đến xứ Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước’. Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 19, 1-8).
* Hỡi Thiên Chúa Cha toàn năng, Chúa hãy vui lên, vì sự chiến thắng oai hùng của Con Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con khải hoàn muôn thuở.
* Hỡi Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, hãy vui lê. Mẹ hãy cùng chúng con chiêm ngắm vẻ đẹp rạng rỡ của ngày phục sinh Con dấu ái của Mẹ.
* Hỡi triều thần thánh, hãy vui lên. Hãy ca vang. Ca vang nữa khúc ca thiên đàng, hợp cùng chúng tôi nơi trần thế, mừng ngày cứu độ toàn thể chúng ta trong ánh sáng huy hoàng có một không hai.
* Hỡi các vong linh đang thanh luyện, hãy vui lên, vì giờ cứu thoát chúng ta đã đến. Chúa Cứu Độ chúng ta đã yêu thương chúng ta vô tận, yêu thương đến cùng. Người là Chúa chiến thắng. Chúng ta dự phần chiến thắng của Người.
* Hỡi vụ trụ hữu hình và vô hình, hãy vui lên. Toàn vũ trụ hãy nhảy múa vì dấu ấn của tội xưa đã được xóa sạch. Chúa Cứu Độ chúng ta đã cất chiếc khăn tang bao trùm toàn dân. Người đã làm tiêu tang chiếc khăn liệm trải trên muôn nước. Người tiêu diệt sự chết mà tội ác gây nên.
Đến muôn đời dấu ấn của tội xưa sẽ thất bại. Nó không còn thống trị chúng ta, bởi nó đã bị tiêu diệt đến muôn đời. Từ nay, Chúa Cứu Thoát lau khô nước mắt trên mọi khuôn mặt. Người cất khỏi mặt đất sự tủi hổ của chúng ta. Người thết đãi chúng ta bữa tiệc hoang lạc, bữa tiệc toàn ánh sáng, bữa tiệc trường cửu trên núi thánh của Người. Bởi vậy, vũ trụ hãy vui lên, vui lên nữa. Nơi Đấng Cứu Thoát tuyệt đối thánh thiện, chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng. Chúng ta hân hoan, chúng ta vui mừng trong ơn Người cứu độ (x.Is 23, 6a. 7-9).
Anh chị em loài người và muôn vật trên trời, trong rừng sâu, dưới lòng biển, hãy vui lên, nhảy cẩng lên như trẻ thơ vô tư. Hãy hát khúc hát vui mừng bằng mọi âm thanh mà mình có thể diễn tả. Hãy nhảy điệu nhảy của muôn loài. Hãy tấu lên khúc hòa tấu chung trên toàn thế giới. Hãy trỗi lên mọi thanh âm, cho bừng lên nét rạng ngời, để không chốn nào còn khóc lóc, sầu đau. Hãy làm rạng lên ánh sáng của ngày cứu độ. Hãy chiếu soi huy hoàng vào mọi góc tối của rần thế. Hãy làm mọi cách có thể để nổi bậc niềm vui thánh thiện: CHÚA CHÚNG TA PHỤC SINH!!!
Lm. Vũ Xuân Hạnh
-----------------------------
LỄ ĐÊM VỌNG PHỤC SINH
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đã có một thời người ta tưởng rằng: “Thiên Chúa đã chết”. Đã có một lần người ta lên tới cung trăng rồi bảo rằng: “Chẳng có Thiên Chúa đâu cả!”. Và cũng có một thời người ta cho rằng: khoa học tiến bộ sẽ là nấm mồ chôn vùi Thiên Chúa. Nhưng rồi cho dù nhân loại có tốn bao nhiêu giấy mực, có tốn bao nhiêu công sức bỏ vào các công trình nghiên cứu đồ sộ để loại trừ Thiên Chúa.
Thiên Chúa vẫn hiện diện. Thiên Chúa vẫn hằng hữu. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong thế giới quanh ta và trong lòng mỗi người chúng ta. Thiên Chúa vẫn hiện diện như là một sự thật hiển nhiên mà chẳng có gì có thể che lấp được. Sự thật hiển nhiên đó được chứng tỏ qua các tôn giáo, qua các lễ nghi thờ tự phong phú nơi các dân tộc qua mọi thời đại. Có thể nói “nơi nào có con người là nơi đấy có những cách biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa khác nhau”. Thế nên, niềm tin vào Thiên Chúa đã gắn liền với bản tính con người. Con người là loài vật duy nhất có khả năng nhìn nhận Thiên Chúa và bày tỏ những hình thức tôn thờ Ngài. Đó là một chân lý mà không ai có quyền bác bỏ nơi anh em của mình. Đó là quyền tự do bất khả xâm phạm của con người mà những ai có lương tri đều phải nhìn nhận và tôn trọng.
Cách đây hơn hai ngàn năm, những quan chức Do Thái đạo lẫn đời đã từng tưởng rằng: cái chết của Chúa Giê- su sẽ kết thúc mọi lời rao giảng của Ngài, kết thúc mọi công trình mà Ngài đã xây dựng trong suốt ba năm rao giảng Tin mừng.
Chính những người Do Thái tưởng rằng sau cái chết của Giê su thì mọi sự sẽ tan rã như thân xác của Ngài cũng sẽ tan rã theo quy luật của thiên nhiên. Thế nhưng điều đó đã không xảy ra. Cửa huyệt đã bị bật tung. Huyệt lạnh chỉ còn tấm khăn liệm. Thân xác của Ngài không tan rã nhưng đã phục sinh và hiện ra với nhiều người.
Sự Phục sinh của Ngài đã quy tụ lại tất cả các môn đệ trở về với mái nhà xưa, mái nhà tiệc ly, mái nhà của tình thầy trò, của tình hiệp nhất bằng hữu. Các tông đồ hôm qua đang tan nát cõi lòng vì Thầy đã chết hôm nay họ lại bừng lên một sức sống mới khi nghe tin Chúa đã sống lại. Sức sống mới đó càng trào dâng khi chính các ngài đã nhìn xem thấy Thầy sống lại và hiện ra với họ. Sức sống mới đó càng mãnh liệt hơn khi chính họ được nghe Chúa nói: “Tại sao các ngươi lại đi tìm kẻ sống nơi kẻ chết. Chúa đã sống lại”.
Vâng, Chúa đã sống lại, chúng ta hãy vui lên. Ưu sầu hãy đổi thành niềm vui. Thất vọng hãy nhường lối cho hy vọng được trồi sinh. Các tông đồ sau khi nhìn thấy nấm mồ đã bị bật tung, các ngài đã quên đi sợ hãi, quên đi ưu phiền để đem niềm vui Phục sinh đến cho anh em của mình. Lời rao giảng:”Chúa đã chết và đã sống lại” đã trải rộng khắp muôn nơi và đến tận cùng trái đất. Bất chấp mọi hiểm nguy, mọi đe doạ của các thế lực bạo quyền, các tông đồ vẫn trung thành với lời rao giảng về Chúa đã sống lại. Thánh Phê-rô thì bảo rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hay vâng lời vua quan trần thế”. Thánh Phaolo thì nói rằng: “Tôi sống không còn là tôi sống mà là Đức Kyto đang sống trong tôi”. Chính vì những xác tin đó mà các ngài đã vượt qua mọi sợ hãi, mọi gian nguy kể cả phải đi vào phong ba bão táp, tù đầy và bị giết, các ngài vẫn hiên ngang, vì tin rằng Chúa đã sống lại đó là niềm hy vọng và vui mừng của chúng ta, vì nếu chúng ta cùng chịu đóng đinh với Người, chúng ta cũng sẽ được sống lại với người.
Ước gì niềm tin Phục sinh sẽ thay đổi đời sống chúng ta như đã từng thay đổi lối nghĩ, cách sống của các môn đệ. Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ giúp chúng ta dám vượt qua những cám dỗ thấp hèn để sống một cuộc đời cao đẹp hơn. Xin cho chúng ta dám làm chứng cho tin mừng Phục sinh của Chúa bằng đời sống lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống thường ngày. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
-----------------------------
& CHÚC MỪNG ANH CHỊ EM TÂN TÒNG
Lễ Vọng Phục Sinh, Năm C
Lm Trần Bình Trọng
Nếu có ai hỏi Thiên Chúa là Đấng nào? Người ta sẽ được nghe những câu trả lời khác nhau chẳng hạn như: Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, loài người và muôn vật; Thiên Chúa là Đấng điều hành vũ trụ và vận mạng con người cũng như loài vật; Thiên Chúa là Đấng quan phòng đời sống loài người và thưỏng phạt người lành người dữ. Và đó cũng là quan niệm chung của dân Việt Nam về ông Trời. Và người công giáo gọi ông Trời là Thiên Chúa. Quan niệm chung của dân Việt về ông Trời còn lưu hành câu ca dao: Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp. Có nơi đọc câu cuối là: lấy con tôm to. Ông Trời đó của dân gian Việt Nam cũng là Thiên Chúa của người công giáo.
Có điều khác biệt là người công giáo biết nhiều về Thiên Chúa mà họ tôn thờ, nhờ việc Thiên Chúa mạc khải cho loài người qua các tổ phụ, các ngôn sứ trong Thánh kinh. Và sau cùng chính con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu nhân loại, đã dậy bảo cho các môn đệ. Vì tổ phụ loài người bất phục tùng Thiên Chúa, nên tội lỗi đã lọt vào thế gian mà nhân loại hậu sinh phải gánh chịu hậu quả. Để cứu chuộc loài người, Thiên Chúa sai Con Một Người xuống thế làm người, sinh bởi Đức nữ đồng trinh, được đặt tên là Giêsu để cứu nhân độ thế. Đức Giêsu được xức dầu tấn phong là Đấng Kitô, đi giảng đạo ba năm về nước Thiên Chúa, về giáo lí yêu thương, tha thứ, sống vị tha, bác ái của đạo Chúa. Người dùng quyền năng Thiên Chúa làm nhiều phép lạ như là cho người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm được nói, người què được lành mạnh, cho người đói ăn, khát uống để người ta tin tưởng. Không chấp nhận đường lối và giáo lí của Chúa, những nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời đã bách hại, đóng đinh và lên án tử hình cho Người. Và ngày thứ ba Người đã sống lại như chính Người đã tiên báo (Mt 16:21; Mt 17:23; Mt 20:19; Mc 8:31; Mc 9:31; Mc 10:34; Lc 9:22; Lc 18:33; Ga 2:19).
Để xây dựng nước Chúa ở trần gian, Chúa chọn mười hai tông đồ và sai họ đi rao giảng tin mừng cứu độ và làm chứng cho việc Chúa phục sinh bằng chính cái chết của họ. Những ai định nghĩa Thiên Chúa thế nào thì cứ việc định nghĩa. Thánh Gioan, không cần dài dòng văn tự, chỉ định nghĩa một cách vắn tắt mà đầy đủ ý nghĩa: Thiên Chúa = tình yêu (1Ga 4:8). Thật vậy vì yêu, Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những công trình trên đây.
Hôm nay người tín hữu tụ họp nơi đây để mừng việc Chúa cứu thế sống lại. Qua việc chết đi cho tội lỗi trong mùa Chay, người tín hữu được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa phục sinh. Hôm nay Giáo hội cũng mừng các anh chị em tân tòng được sống lại về phần hồn trong Bí tích Rửa tội.
Cùng anh chị tân tòng!
Anh chị em đã được học hỏi về đạo Chúa từ tháng Chín năm ngoái. Từ đầu mùa Chay năm nay, anh chị em đã được tuyển chọn để tiếp tục tìm hiểu đạo Chúa. Trong mùa Chay, anh chị em cũng đã cùng với toàn thể Giáo hội cầu nguyện, hi sinh .. để sửa soạn tâm hồn đón mừng Chúa phục sinh. Hôm nay anh chị em tụ họp nơi đây để chia sẻ niềm vui với Chúa phục sinh bằng việc xin được sinh lại trong ơn thánh qua Bí tích Rửa tội. Đối với anh chị em mà trong gia đình, vợ hay chồng hay bạn sắp cưới, đã là người công giáo, thì từ nay anh chị em cùng chia sẻ một niềm tin, cùng nhìn về một hướng, cùng theo đuổi một mục đích siêu nhiên. Anh chị em cùng nhắm đến tình yêu trọn vẹn, hạnh phúc toàn diện và hạnh phúc lâu dài. Tình yêu trọn vẹn là tình yêu chung thuỷ cho đến cùng. Hạnh phúc toàn diện là hạnh phúc về vật chất, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Hạnh phúc lâu dài là hạnh phúc ở đời này cũng như đời sau.
Việc chấp nhận đức tin công giáo không có nghĩa là anh chị em phải cắt đứt những liên hệ quá khứ. Nếu trước kia vào những ngày giỗ chạp, anh chị em có thói quen cúng tế tổ tiên, ông bà, cha mẹ vì lòng thảo hiếu, thì từ nay anh chị em cũng có bổn phận hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ bằng cách cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà cha mẹ. Đó chính là giới răn thứ Bốn của đạo Chúa dạy. Để cụ thể hoá lòng hiếu thảo, hôm nay anh chị em cùng cảm tạ Thiên Chúa cho ông bà cha mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục anh chị em và còn cho phép anh chị em được tự do quyết định tìm hiểu đạo Chúa và nhận lãnh đức tin.
Việc nhận lãnh đức tin công giáo cũng không có nghĩa là từ nay anh chị em không còn cô đơn và buồn khổ. Có những lúc anh chị sẽ cảm thấy cô đơn buồn chán. Tuy nhiên từ nay anh chị em có Chúa là bạn đồng hành trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Chúa sẽ là lẽ sống của anh chị em. Chúa sẽ là ánh sáng, là sức mạnh, là nguồn cậy trông, là niềm an ủi và là ơn cứu độ của anh chị em. Từ nay Chúa là gia nghiệp của đời anh chị em. Từ nay anh chị em có thể chạy đến với Chúa bất cứ lúc nào vì Chúa không cần ngủ nghỉ: anh chị em không cần kêu điện thoại trước để làm hẹn xem Chúa có nhà ngày giờ đó không. Anh chị em không cần đợi vì Chúa đang gặp người khác quan trọng hơn.
Chúa không thiên vị, thiên tư ai cả. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng. Từ nay anh chị em có thể đến với Chúa bất cứ ở đâu vì Chúa ở khắp mọi nơi. Đến với Chúa tư riêng và bất ngờ như vậy, anh chị em không cần làm đẹp như sửa soạn quần áo hay trang điểm gì cả. Anh chị em sẽ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa là thật, không còn xa vời, mà là gần gũi với anh chị em, nếu anh chị em mở lòng ra với Người và để Chúa đi vào đời sống riêng tư cá biệt của anh chị em. Từ nay anh chị em không sống và làm việc một mình, nhưng là sống và làm việc kết hiệp với Chúa, vì yêu mến Chúa. Đó chính là ý nghĩa của lời thánh Phaolô quả quyết: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi (Gl 2:20).
Việc lãnh nhận đức tin công giáo cũng không có nghĩa là đức tin là sự vật gì mà anh chị em có thể nắm chắc trong tay, hay bỏ vào nhà băng, nhưng phải luôn tìm cách bảo trì. Có những khi anh chị em sẽ cảm thấy đức tin bị lung lạc, những giờ phút tuyệt vọng, chán chường, những ngày giờ, những năm tháng mà tâm hồn bị bóng tối nghi ngờ bao phủ, đè nặng như chính thánh Tôma tỏ ra nghi ngờ về việc Thầy mình sống lại (Ga 20:25). Anh chị em sẽ cảm thấy như Chúa đi vắng hay không còn hiện hữu. Tuy nhiên cũng như bà Maria Mácđala (Mc 16:1-8), cũng như thánh Phêrô và thánh Gioan vẫn đi tìm Chúa khi bóng tối bao trùm tâm trí (Ga 20:3-9), thì anh chị em cũng cần tiếp tục đi tìm Chúa ngay cả khi nản lòng nhụt chí.
Thưa anh chị em! Chúa vẫn ở đó chờ đợi ta. Chúa vẫn đến với ta trong cuộc sống hằng ngày: trong lúc ăn, nghỉ, làm việc và giải trí. Chúa vẫn hiện diện với ta qua những kì công của vũ trụ, những vẻ đẹp thiên nhiên. Điều cần thiết là ta học hỏi để có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa và nhận ra tiếng Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được sống lại về phần linh hồn với Chúa phục sinh:
Lạy Đức Kitô phục sinh!
Chúng con cảm tạ Chúa cho ngày hôm nay
ngày Con Chúa Phục Sinh từ cõi chết.
Qua mùa chay, chúng con đã sống tinh thần cầu nguyện
cải thiện đời sống và làm việc từ thiện bác ái.
Trong Thánh lễ, chúng con vừa lặp lại lời hứa
khi chịu phép Rửa tội là sẵn sàng chết đi cho tội lỗi.
Xin cho con được sống lại về phần hồn.
Với Chúa Phục Sinh. Amen.
Lm Trần Bình Trọng
-----------------------------
(Vọng phục sinh)
Mc. 16 , 1 - 8
Anh chị em thân mến.
Người Việt Nam chúng ta, ai cũng nghe nói đến sự tích Hòn Vọng Phu. Sự tích của một tượng đá nói lên lòng chung thủy của người đàn bà Việt Nam. Chồng đi chinh chiến miền xa, vợ ở nhà ôm con trông ngóng, chờ đợi. Sự trung liệt bền vững như đá. Tượng đá đứng giữa trời, bền vững dưới nắng mưa. Nói lên sự trung thành cũng vững bền như thế.
Nhưng tôi chợt suy nghĩ. Người đần bà chung thủy kia , tại sao lại hóa đá ? Có phải vì bà trông chờ người chồng thương yêu. Nhưng khi điều mà bà trông chờ đã đến, bà vẫn không hay biết. Bà đã khổ công không biết bao nhiêu lâu để chờ đợi niềm hạnh phúc. Nhưng khi niềm hạnh phúc đến thì bà không thể tận hưởng được vì bà đã biến thành tượng đá vô tri. Gương mặt bà vẫn hướng về một cõi xa xăm vô tận của một linh hồn tượng đá. Niềm hạnh phúc mà bà chờ đợi bấy lâu, giờ đây đã đến bên cạnh bà. Nhưng ánh mắt , con tim, và cả con người của bà đã hóa ra khô cứng, nên bà không còn cảm nhận được niềm hạnh phúc mà mình đã chờ đợi, hôm nay đã đến. Bà vẫn chờ đợi, và chờ đợi một cái gì vô vọng.
Các bà đạo đức, thương mến Chúa Giêsu. Từ sáng sớm các bà đã nhanh chóng ra khỏi nhà. Các bà muốn đi làm công việc theo như những suy tính đơn sơ của mình. Khi gặp điều không đúng với ý muốn của mình, mặc dù đây là điều mà các bà đã nghe, đã biết, nhưng vẫn không chịu hiểu, vì không hạp với những gì họ nghĩ. Các bà vẫn chờ đợi một Chúa Kitô, vẫn yêu mến một Chúa Kitô, vẫn thương nhớ một Chúa Kitô. Nhưng là một Chúa Kitô của quá khứ, một người đã từng làm phép lạ, từng chữa bệnh, từng sống bên họ, và cũng là một Chúa Kitô đã chết trước mắt họ. Giờ đây, Đấng mà họ trông chờ, đang sống, đang hiện diện bên cạnh họ, niềm vui lớn lao đã đến với họ, nhưng họ không nhận ra, vì những điều mà họ tưởng nghĩ đã hóa đá trong tâm hồn họ. Mặc dù họ đang sống, đang hoạt động, nhưng đôi mắt họ đã hóa đá, nên họ không thể nhìn thấy Đấng mà họ đang trông chờ, đã đến. Đôi tai họ cũng hóa đá, nên họ không thể nghe được những lời giải thích của bất cứ ai. Con tim họ cũng hóa đá, nên họ không thể cảm nhận được niềm hạnh phúc đang đến với mình. Vì thế cho nên họ vẫn chờ đợi, với tâm tư nặng trỉu của sự sợ hãi và nỗi thất vọng ê chề.
Chúng ta đã qua những ngày của mùa chay, là những ngày chờ đợi niềm vui phục sinh. Hôm nay chúng ta đang sống trong niềm vui mừng phục sinh. Nhưng sự sống mới mà Chúa Kitô mang đến cho chúng ta, không phải đến hôm nay chúng ta mới nhận được, trái lại, niềm vui phục sinh đã đến với mỗi người chúng ta từ lâu. Còn việc nhận ra và sống niềm vui đó, là tùy mỗi người.
Trong đời sống hằng ngày, nếu chúng ta sống, làm việc với ý thức của một người công giáo, luôn sống với niềm tin, sống với con tim biết run động và cảm nhận được Chúa Kitô hiện diện bên cạnh, trong công việc, trong những người chung quanh để rồi chúng ta sống tốt đẹp. Nếu chúng ta sống với ý thức rằng: Chúa Kitô đang sống với chúng ta, Ngài nhìn thấy những công việc của chúng ta để rồi chúng ta sống với một lương tâm ngay chính. Đó là chúng ta đã sống niềm vui phục sinh, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng bằng việc làm.
Còn nếu theo những dục vọng của mình, muốn thỏa mản những gì mình ham muốn, luôn tìm kiếm những điều có lợi cho bản thân, nên chúng ta bất chấp những điều trái lương tâm, đạo lý. Còn hơn thế nữa, khi chúng ta chỉ nhìn thấy chính mình. Nhắm mắt trước mọi hoàn cảnh, bịt tai trước những tiếng kêu than, bất chấp trước những dư luận, dẫm bừa trên công lý để tìm những lợi lộc bản thân. Khi đó, mặc dù chúng ta đang sống đạo, nhưng chúng chưa sống niềm vui phục sinh, vì chúng ta đang mãi tìm mà không thấy, chúng ta đang hướng mắt về một cõi xa xăm vô tận, mà không nhìn thấy niềm vui đang bên cạnh mình. Thật không may cho chúng ta.
Hãy nhìn lại chính mình xem, chúng ta đang tìm điều gì trong cuộc sống, và chúng ta có tìm thấy chưa ? Hay chúng ta vẫn đang tìm kiếm một cái gì vô vọng. Những điều chúng ta đã được trong cuộc sống, nó có làm cho mình thỏa mản, nó có giúp cho mình tốt thêm được chút nào không ? Hay đã bao nhiêu năm qua, bao nhiêu mùa phục sinh đã trôi qua cách êm đềm mà chẵng để lại một chút dư âm nào cho mình sao ? Như vậy việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại không ích lợi gì cho chúng ta sao.
Chúng ta cùng nhau cầu xin cho mỗi người biết sống xứng đáng với sự sống mới mà Chúa đã ban.
-----------------------------
Bài Thương Khó của Chúa Giêsu kết thúc với câu: Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mồ đá (Ga 19,42). Chúa Giêsu đã tắt hơi thở. Chúa đã chết trên thập giá. Người ta đã hạ xác Chúa xuống, khâm liệm cùng với thuốc thơm và mai táng trong mồ đá. Họ đã lấp cửa mộ. Xem ra mọi sự đã xong xuôi. Mọi người trở về nhà mình. Có kẻ thì vui mừng vì đã đạt được ước nguyện trả thù. Có kẻ thỏa mãn vì đã tiêu diệt được đối phương. Có kẻ thì lo sợ vì không hiểu được sự việc, nên Vua quan đã cho lính canh mộ. Có kẻ buồn sầu chán nản bỏ về quê cũ. Có kẻ thương khóc đau buồn. Có người âm thầm suy niệm và tin tưởng, hy vọng. Sự kiện Chúa Giêsu bị án tử hình thập giá là một biến cố rất quan trọng được ghi chép rất cẩn thận.
Đây là một biến cố lịch sử, lịch sử của Ơn Cứu Độ. Giờ đây chúng ta không tìm tòi chứng tích hay thử nghiệm. Chúng ta dùng thời gian thinh lặng qúi báu để gẫm suy về sự đau khổ và sự chết của Chúa. Ai trong chúng ta cũng từng có những kinh nghiệm đau thương khi phải vĩnh biệt người thân. Sau cái chết của Chúa Giêsu, đã có biết bao nhiêu người bị thất vọng, bị hụt hững và buồn sầu chán nản. Tâm trạng khác biệt của mỗi tâm hồn khi đối diện với cái chết của Chúa. Trong số đó có cả các tông đồ đã bỏ mọi sự đi theo Chúa. Mẹ Maria và Gioan cũng đau buồn nhận lời trăn trối của Chúa. Đức Maria đã can đảm hiện diện dưới chân thập giá và ngắm nhìn con mình trong cơn hấp hối. Sự sầu bi của Mẹ mang một ý nghĩa sâu thẳm. Mẹ đang đồng công chịu khổ đau với Con mình để hoàn tất lễ hiến tế.
Mẹ ôm xác con lạnh giá. Mẹ vẫn một lòng xác tín, con của mẹ là Con Thiên Chúa. Mẹ đã sống và suy gẫm mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể ngay từ khởi đầu. Mẹ đành phải mai táng xác con nơi mộ đá. Lòng mẹ thổn thức. Mẹ không bỏ cuộc. Mẹ gẫm suy từng lời, từng hành động và từng sự kiện xảy ra. Lòng mẹ như bị dao sắc thâu qua trái tim. Trở lại khung cảnh tang thương, phòng không trống trải và tâm hồn vắng lặng. Giờ đây, chỉ có Mẹ là niềm hy vọng và cậy trông cho mọi người. Mẹ tiếp tục qui tụ cầu nguyện, an ủi vỗ về và là chỗ tựa nương cho các tông đồ. Mẹ cùng các tông đồ đã sống trong những giây phút tĩnh lặng sâu thẳm.
Trong biến cố Thương Khó của Chúa, nhiều người đã vấp phạm. Ông Giuđa bán Chúa. Ông Phêrô đã chối Chúa. Ông Gioan bỏ áo choàng mà chạy. Các tông đồ khác lẩn trốn. Các môn đệ hoang mang nghi ngờ tản mác. Dân chúng phân rẽ người thương, kẻ ghét và người theo, kẻ chống. Chỉ còn một số bà đạo đức cùng với mẹ Maria dõi theo bước chân Chúa. Đức Mẹ đã theo sát con mình từng chặng đường. Mẹ nhìn con tàn tạ, thân xác con nát bét vác thập giá nặng và khóc thương Con chịu những mọi mũi gai nhọn đâm vào tim và thân xác. Mẹ chứng kiến lễ hy tế cho đến giây phút cuối khi Con tắt thở. Mẹ một lòng tin tưởng, nhẫn nhục, vững tâm và can đảm. Còn các tông đồ sống trong tâm trạng ngại ngùng, sợ hãi và lo buồn. Mẹ đã củng cố lòng tin của các ông. Mẹ không trách cứ những lỗi lầm và yếu đuối của các tông đồ. Mẹ đã giúp các ông tìm lại niềm tin qua những lời Chúa Giêsu đã tiên báo: "Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2,19).
Khung cảnh nhà thờ vào Thứ Bảy Tuần Thánh thật trống vắng. Không cử hành phụng vụ, cung thánh để trần, không hoa nến và khăn bàn, nhà tạm trống vắng và mọi người sống tinh thần canh thức. Chúa Giêsu còn trong mồ đá. Từ tạo thiên lập địa và cho đến ngày tận cùng của vũ trụ, sự kiện Chúa chết nằm trong mồ đá chỉ xảy ra một lần. Gioan thánh sử đã viết: Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa (Ga 1,1). Ngôi Lời đã nhập thể hóa thân làm người, gọi là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã tắt thở trên thập giá. Gioan đã xác nhận: Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người (Ga 19,33).
Chúa Giêsu đã dậy rằng: Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24). Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và lời giảng dạy rất rõ ràng. Chúa đã nói với ông Nicôđêmô: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy (Ga 3,14). Chính Chúa dâng hiến cuộc sống mình để vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đây là chén đắng Chúa đã tự nguyện uống. Trong tâm tình bồn chồn canh thức nơi vườn Dầu: Chúa Giêsu sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha (Mt 26,39). Chúa đã chọn con đường đau khổ thánh giá để đạt tới vinh quang sống lại.
Chúa Giêsu đến không phải để phá bỏ lề luật nhưng làm cho kiện toàn. Chúa đã giảng dạy, đã sống và kiện toàn mọi lề luật và giới răn. Con đường Chúa đi là con đường của tình yêu. Tình yêu khỏa lấp mọi đau khổ. Chúa đã chấp nhận đường thánh giá cũng chỉ vì tình yêu. Chỉ ai biết yêu mới học được bài học của thập giá. Chúa Giêsu đã từng dậy: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13). Tình yêu Chúa bao la tuyệt vời. Chúng ta cùng chiêm ngắm, gẫm suy và chìm lặng trong biển tình của Chúa. Chúa đã hiến dâng đến giọt máu cuối cùng. Chúa đã yêu thương và tha thứ tất cả mọi lỗi lầm cho những người đã nhúng tay giết hại Chúa: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23,34).
Chúa đã tha thứ và xóa sạch tất cả mọi tội lỗi của những kẻ vu oan, thù ghét, đánh đập, chửi rủa, khinh bỉ, nhạo cười, bội phản và giết Chúa. Chúng ta không nên khơi lại lỗi lầm của họ. Chúng ta không khinh bỉ lên án quân Giu-rêu, quân dữ, thằng Baraba…Chúng ta cũng không phiền trách hay kết án họ. Chúa đã chết cho tội lỗi của họ rồi. Đúng thật, họ đã làm vì họ không biết. Khi Chúa tắt thở, bóng tối bao phủ mặt đất, đã có nhiều người đấm ngực ăn năn: Thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Người này đích thực là người công chính!" Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về (Lc 23,47-48).
Điều quan trọng nhất là chúng ta có những tâm tình nào khi tưởng niệm việc Chúa chịu thương khó, chịu chết và chôn trong mộ đá. Chúng ta đã suy niệm, lắng nghe và diễn tuồng theo trình thuật của bài Thương Khó. Đã có những giọt nước mắt cảm thương chảy xuống. Cũng có những tâm tình xót xa và thương hại. Điều cần thiết là phải đấm ngực ăn năn như dân chúng xưa. Chúng ta ăn năn hối lỗi vì đã phạm tội làm xỉ nhục danh Chúa, tội vu vạ cáo gian, tội bỏ Chúa chạy theo tà thần, tội ích kỷ, tội thù ghét, tội gian dối, tham lam, tội đồng lõa hại người và tội giết hại người qua lời nói và hành động. Chúng ta biết việc chúng ta đã và đang làm. Điều này khác với dân chúng ngày xưa khi họ kết án Chúa vì không biết việc họ làm.
Lạy Chúa, Chúa nằm trong mồ đá. Chúa đã phải chịu cam khổ cực hình vì tội lỗi của chúng con. Tội lỗi của mỗi người chúng con càng làm cho vai Chúa trĩu nặng. Xin cho chúng con biết ăn năn sám hối tội mình và quay trở về bên Chúa. Chỉ cần bỏ đi được một tội hay bớt đi một thói quen xấu mỗi ngày, chúng con sẽ tìm thấy niềm vui hé mở của Nước Trời. Chúa đã chết để mang lại sự sống và sự sống dồi dào hơn. Chúa Giêsu phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25).
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York.
-----------------------------
GỢI Ý SUY NIỆM LỜI CHÚA
Mc 16,1-8
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu là một cú “sốc” mạnh đối với các môn đệ và những người thân của Chúa, đến nỗi họ bàng hoàng, không còn nhớ gì nữa. Trong đầu chỉ còn một ý tưởng duy nhất: Ngài đã chết rồi. Cái chết là một ám ảnh đau thương đối với họ.Họ quên tất cả những lần Chúa Giêsu báo trước: “ Ngày thứ ba, Con Người sẽ sống lại”. Khi an táng Chúa Giêsu, thánh Maccô ghi lại câu cuối: “ Còn bà Maria Macđala và bà Maria, mẹ ông Giôxết, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người”.
“ Hết ngày sabát, bà Maria Macđala với bà Maria mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua dầu thơm ướp xác Đức Giêsu… Sáng tinh sương, ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ”. Hôm thứ sáu, khi an táng Chúa, vì vội vàng, họ không làm trọn vẹn những công tác cần thiết cho việc an táng, hôm nay, họ phải lo cho tươm tất bổn phận đó.
Trên đường đi đến mộ, các bà còn lo âu: “ Ai sẽ lăn tảng đá cửa mộ cho họ ?... Vì tảng đá đó to lắm”. Nhưng khi đến nơi, mọi sự không như họ tưởng. Cửa mộ đã mở toang và một thanh niên ngồi đó,bên phải mộ, mặc áo trắng. Cái gì đã xảy ra? Các bà hoảng sợ. Làm sao không hoảng sợ? Tất cả những gì họ định làm là ướp xác một người chết, giờ đây, cửa mộ mở toang, và có người lạ mặt ngồi đó. Chúng ta nhớ rằng lúc đó trời còn tối. Có một cái gì bất thường đang xảy ra !
Người thanh niên lên tiếng: “ Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì ! Người đã chỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây nầy”.Đúng thế, các bà tìm Đức Giêsu chịu đóng đinh, đã được chôn táng tại đây. Các bà tìm một người đã chết. Nhưng lạ lùng biết bao, người thanh niên bảo: “ Người đã chỗi dậy rồi” ! Làm sao tin được ? Tin vào sự sống lại không phải là một điều dễ dàng. Ai trong chúng ta, nếu ở trong hoàn cảnh của các bà nầy, chúng ta dễ dàng chấp nhận một điều lạ thường như thế không ?
Ngài đã sống lại rồi ! Đó là một tin vui , nhưng khó nuốt, vì nó không thuộc một trật tự thông thường nào mà là cái bất thường không thể hình dung nổi. Các bà nầy không kịp thích nghi với cái mới mẻ được loan báo.
Thời khoa học kỹ thuật của chúng ta, cái gì cũng phải chứng minh bằng những sự kiện cụ thể. Việc Chúa sống lại không nằm trong lãnh vực khoa học mà trong niềm tin. Còn rất nhiều điều mà khoa học không thể nào bước chân vào ví dụ vấn đề tình yêu. Tất cả bao nhiêu cố gắng của con người để tìm hiểu về tình yêu đều thất bại, vì con tim vượt xa tất cả mọi tìm kiếm vì nó là vô biên.
Việc Chúa sống lại, không thể kiểm chứng. Đây là một mầu nhiệm hơn là một biến cố xảy ra trong cuộc sống. Chúng ta không thể đòi hỏi những sự kiện cụ thể. Chúng ta chỉ có cái mộ trống vì hòn đá đã lăn ra rồi. Thế thôi. Ai tin thì sẽ được sống.
Đây là một việc không nằm trong tầm tay con người. Đây là việc Thiên Chúa làm cho ta. Chàng thanh niên ngồi bên phải kia là ai ? Một sứ thần hay con người ? Tất cả các thánh sử đều công nhận là một sứ thần của Chúa. Vậy tin mừng phục sinh là một hồng ân từ trời ban xuống chứ không do con người tạo nên.Biến cố nầy vượt quá tầm hiểu biết của con người. Đứng trước Tin Mừng nầy, chúng ta chỉ tin thôi. Đây là một Tin Mừng khó nuốt. Thánh Phaolô trên con đường rao giảng đã vấp phải viên đá nầy khi ngài giảng cho dân Aêrôpagô. Nghe nói đến sống lại, dân chúng ở đó chỉ cười mĩa mai và hẹn: “ Lần sau chúng tôi sẽ nghe ông nói nữa”.
Các bà đến mộ tưởng rằng sẽ ướp xác Thầy, họ lại nhận một sứ mệnh: “Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông”.
Các bà hoảng hồn kinh vía và không dám nói gì với ai cả. Họ sợ !
Tại sao Chúa Giêsu không hiện ra ngay cho các môn đệ khi Ngài sống lại ? Có phải dễ dàng hơn không ? Sao lại để cho các ông trong tình trạng tranh tối tranh sáng như thế ?
Ánh sáng chói chan sẽ làm chóa mắt. Chúa Giêsu từ từ, qua những sự kiện dẫn dắt các ông vào niềm tin, cho các ông khám phá biến cố quá vĩ đại nầy và nhờ đó đức tin của các ông vững chắc hơn.Tin quá dễ dàng sẽ không đi đến chiều sâu.
Hôm nay, Giáo Hội công bố cho chúng ta Tin Mừng Chúa sống lại. Hôm nay niềm vui đã trở lại cho bao nhiêu con tim đang đội tang Thầy chí thánh. Hôm nay, không còn u sầu khóc lóc, không còn mão gai thập tự. Hôm nay là ngày Chúa đã dựng nên. Hôm nay Thiên Chúa đã toàn thắng sự chết và chúng ta đang bước vào sự sống.
Ơn cứu độ đã được thực hiện qua cái chết của Con Thiên Chúa. Chúng ta đã được cứu sống vì chúng ta đã chết trong tội của chúng ta. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa.Hãy hát lên Alleluia. Niềm vui đã đến. Sự sống tràn trề.
Nhưng chúng ta không chỉ hát Alleluia mà luôn luôn khám phá chiều sâu của hồng ân vô giá nầy. Chúng ta cùng sống lại với Chúa, hãy hiên ngang bày tỏ cho mọi người thấy chúng ta đã được cứu chuộc. Một triết gia vô thần đã nói vào mặt chúng ta: “ Các anh nói rằng các anh đã được cứu thoát sao khuôn mặt các anh không vui ?”
Chúng ta hãy vui sống vì chúng ta không còn là đoàn chiên mà sự chết chăn nuôi nữa mà con Thiên Chúa.
Hãy nói lên cho mọi người biết, như thiên thần đã bảo: “ Chúa đã sống lại rồi!”
Hôm nay Chúa phục sinh đang ở đây với chúng ta nơi bàn thờ nầy. Ngài che khuất vinh quang của Ngải trong một tấm bánh, nhưng Ngài là sự sống và là sự sống thần linh. Ngài ẩn thân trong tấm bánh để trở nên nguồn sống cho chúng ta, tình yêu của Ngài càng tỏ hiện rõ rệt khi Ngài tự hiến trong một của ăn. Hãy ăn lấy Ngài và loan báo Ngài cho anh em chúng ta. Sống hôm nay không là sống cho thế gian nữa mà là sống cho mai sau, cho Đấng đã sống và đã chết cho chúng ta. Những đau khổ của cuộc sống không còn làm chúng ta sợ sệt nữa mà là hứa hẹn cho vinh quang. Allêluia !
-----------------------------
Suy niệm Rô-ma 6:3-11
Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. (Rô-ma 6:8)
nhất cuộc sống lại của Chúa Giê-su. Bắt đầu vào lúc trời còn tối trước rạng đông và ở bên ngoài nhà thờ, lễ Canh thức mở đầu với nghi thức thắp nến Phục Sinh. Một ánh sáng mới bừng lên! Chúa Giê-su đã chiến thắng bóng tối tội lỗi!
Được dẫn đường dưới ánh sáng nến Phục Sinh, hết thảy chúng ta tiến vào nhà thờ, sẵn sàng cử hành ơn cứu độ của chúng ta. Là tột đỉnh của hành trình mùa Chay, cuộc rước nhắc nhớ chúng ta về hành trình của dân Ít-ra-en tiến về Đất Hứa. Nó cũng gợi lại cho chúng ta về cuộc hành trình từ thế gian tiến về quê trời. Đó là cách chúng ta nói với Chúa Giê-su rằng chúng ta muốn nhìn vào ánh sáng của Người để bóng tối của chúng ta sẽ tan đi và chúng ta có thể trở nên giống như Người mỗi ngày một hơn.
Cuộc Canh thức đêm nay còn hơn cả việc cử hành một biến cố quá khứ nữa. Đó là việc cử hành mừng Chúa Giê-su chiến thắng sự chết, đồng thời cũng là chiến thắng của chúng ta trên cái chết đời đời. Đó là việc cử hành lời Chúa Giê-su hứa rằng hễ ai nghe lời Người mà tin thì được sống đời đời (Gio-an 5:24). Đó là việc cử hành lời hứa tuyệt vời rằng chúng ta đã cùng chết với Chúa Ki-tô thì giờ đây được sống lại với Người trong sự sống hoàn toàn mới (Rô-ma 6:4).
Những anh chị em tân tòng sẽ được rửa tội đêm nay. Họ sẽ cùng với chúng ta vượt qua từ cõi chết đến cõi sống. Đó là điều tuyệt vời để nhìn ngắm. Nhưng dù cho hầu hết chúng ta đã được rửa tội khi còn sơ sinh, chúng ta vẫn có cùng một ơn gọi như những anh chị em tân tòng: nuôi dưỡng hồng ân sự sống của Thiên Chúa để nó được phát triển đầy đủ trong chúng ta. Hết thảy chúng ta đã vượt qua sự chết để đến với sự sống. Hết thảy chúng ta đã trở thành công dân của Nước Chúa. Và hết thảy chúng ta đều được kêu gọi để sống trong ánh sáng.
Vậy đêm nay khi lập lại lời hứa rửa tội, bạn hãy quyết tâm dâng tâm hồn cho Chúa Giê-su một cách mới mẻ. Bạn hãy cảm tạ Chúa vì Người đã đưa bạn từ cõi chết trở về cõi sống. Bạn hãy cảm tạ Người đã cho bạn được trỗi dậy để ở với Người trên trời. Rồi bạn hãy nói với Người rằng bạn muốn đứng bên Người trong thế giới này để làm ánh sáng và chứng nhân cho Người.
“Lạy Chúa Giê-su, mọi vinh quang là của Chúa! Chúa đã cứu chúng con khỏi tội lỗi và đem chúng con đến sự sống đời đời. Lạy Chúa, con dâng lên Chúa tâm hồn con!”
-----------------------------
Mừng vui lên… vui lên, hỡi Mẹ Hội Thánh vui lên… hãy vang lên tiếng ca hát của toàn dân. Vâng, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” ( Xh 12, 42 ), đêm Thánh, “mẹ của mọi đêm thánh” ( Thánh Augustinô ). Đêm đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của Đức Tin Kitô Giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ… ( x. Exsultet ).
Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế, Giáo Hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần… Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này… Và vui lên, toàn trái đất… Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh… ( x. Exsultet ) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nadarét, Ðấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói” ( Lc 24, 4 ) làm “các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất” ( Lc 24, 5 ). Thấy vậy, hai người lên tiếng: “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết ? Người không còn ở đây. Người đã sống lại” ( Lc 24, 5-6 ). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ “vừa tảng sáng, đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn” ( Lc 24, 1 ), hết sức bàng hoàng khi thấy: “Hòn đá đã lăn ra khỏi mồ ?” ( Lc 24, 2) . Nhờ lời của hai người lạ kia, các bà nhớ lại lời Người đã nói: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại” ( Lc 24, 7 ).
Vâng, Chúa Kitô đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại” ( Lc 24, 6 ). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết ( x. Cv 2, 24 ) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Ðấng hằng sống” ( Kh 1, 8 ), Ðấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
"Mừng vui lên", sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa.
Nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời Ngôn Sứ Edêkien đã loan báo: “Ðây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” ( Ed 37, 12 ). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Ðấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên... hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô... Ðấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Ðấng là Con Thiên Chúa, là Ðấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
-----------------------------