Suy Niệm Tin Mừng 7 Vọng & PS1 ABC Bài 351-400 Chúa đã sống lại rồi

Thứ ba - 02/05/2017 11:45
Suy Niệm Tin Mừng 7 Vọng & PS1 ABC Bài 351-400 Chúa đã sống lại rồi
Suy Niệm Tin Mừng 7 Vọng & PS1 ABC Bài 351-400 Chúa đã sống lại rồi

Suy Niệm Tin Mừng 7 Vọng & PS1 ABC Bài 351-400 Chúa đã sống lại rồi
--------------------------------------------------------

Phúc Âm Năm A:
Phúc Âm: Ga 20,1-9: "Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo
Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
Phúc Âm Năm B: Mc 16,1-8: "Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta". Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: "Các người đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nazarét chịu đóng đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Ðây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy đi nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước". Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi. - Ðó là Lời Chúa.
----------------
PS1-351: AI SẼ LĂN TÁNG ĐÁ ?. 2
PS1-352: Chiến thắng. 5
PS1-353: Marathon. 6
PS1-354: Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu. 8
PS1-355: Sống lại trong lịch sử. 11
PS1-356: Nguồn hy vọng sống lại - Cố Lm Hồng Phúc. 14
PS1-357: Đức Giêsu đã Phục Sinh. 16
PS1-358: Các nhân chứng phục sinh. 18
PS1-359: VIẾNG MỘ.. 21
PS1-360:  NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC.. 22
PS1-361: NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC.. 23
PS1-362: SỨ ĐIỆP BÊN MỒ.. 24
PS1-363:  Các phụ nữ tại mộ Đức Giêsu. 28
PS1-364: CHÚA PHỤC SINH LÀ TIN MỪNG CHO NHÂN LOẠI 36
PS1-365: THỨ BẢY VỌNG PHỤC SINH.. 39
PS1-366: SỨ ĐIỆP PHỤC SINH.. 41
PS1-367: CHÚA NHẬT 1 PHỤC SINH.. 43
PS1-368: CHÚA NHẬT 1 PHỤC SINH.. 45
PS1-369: Ánh sáng Phục sinh  Gm. Nguyễn Huy Chương. 46
PS1-370: CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 48
PS1-371: Đêm Vọng Phục Sinh. 49
PS1-372: Đêm Vọng Phục Sinh. 51
PS1-373: Mồ rỗng. 53
PS1-374: Đêm hoa đăng ngày đại hội (Ga 20,1-9) 54
PS1-375: Bài giảng của ĐTC Benedictô 16. 55
PS1-376: Thực tế hay huyền thoại? – JM. Lam Thy. 58
PS1-377: Phục sinh với Chúa – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 62
PS1-378: Sống quyện trong nỗi chết 64
PS1-379: Mừng Vui Lên – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 67
PS1-380: Suy niệm của Lm Andre Bé. 69
PS1-381: Trên con đường mòn của kiếp nhân sinh. 71
PS1-382: Hành động yêu thương - Ga 20, 1-9. 75
PS1-383:  "Chúa đã sống lại thật, Alleluia!". 77
PS1-384: Tin Chúa Phục Sinh. 80
PS1-385: Suy niệm của Lm Nguyễn Hài Đồng. 81
PS1-386: TÌM CHÚA.. 87
PS1-387: ĐÊM HỒNG PHÚC.. 90
PS1-388: GẶP ĐẤNG PHỤC SINH.. 93
PS1-389: BÓNG HỒNG TRONG SƯƠNG.. 96
PS1-390: Chúa đã sống lAại rồi – Alléluia - Vui Lên. 101
PS1-391: Thứ Bảy Tuần Thánh. 102
PS1-392: Đức Kitô đã sống lại thật – ViKiNi 104
PS1-393: Ánh sáng Chúa Kitô – Lm. Phạm Quốc Hưng. 107
PS1-394: Niềm vui Phục Sinh – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 108
PS1-395: Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống. 112
PS1-396: SỨ ĐIỆP PHỤC SINH.. 115
PS1-397: Mừng Chúa Sống Lại 117
PS1-398: CÁC GIA ĐÌNH, HÃY SỐNG LẠI! 120
PS1-399: TÌNH NGHĨA.. 124
PS1-400: CON ĐƯỜNG KHÔNG BIÊN GIỚI 128

---------------------------

 

 PS1-351: AI SẼ LĂN TÁNG ĐÁ ?

 

Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh nói đến tảng đá lấp cửa mộ đã bị bật tung và mở toang. Sự kiện khởi PS1-351 


Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh nói đến tảng đá lấp cửa mộ đã bị bật tung và mở toang. Sự kiện khởi đi từ buổi “sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần”, Maria Macđala đi thăm mộ và “thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ”, bà liền kết luận “người ta đã đem Chúa đi khỏi mồ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Phêrô thinh lặng. Gioan “đã thấy và đã tin”.

Maria Macđala đau khổ thất vọng nên chỉ thấy tảng đá là sự kết thúc. Bà chưa hiểu phía sau tảng đá được lăn ra kia ẩn chứa một mầu nhiệm siêu phàm.

Tông Đồ Phêrô, quan sát kỹ lưỡng từ tảng đá cho đến ngôi mộ trống và tất cả những gì đã xảy ra nơi đây, nhưng ngài không nói gì, không bày tỏ thái độ mà chỉ thinh lặng. Vì sao vậy ? Lý do có thể Phêrô là lãnh đạo tinh thần của nhóm Tông Đồ nên sự im lặng là cần thiết ? băn khoăn, không biết nghĩ thế nào hay phải ăn nói làm sao ! Tuy nhiên, căn cứ vào những gì Tin Mừng trình bày, sự im lặng của Phêrô có nguyên nhân từ sự chưa hiểu thấu mầu nhiệm Phục Sinh: “Trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” ( x. Ga 20, 9 ). Thật thế, cho đến mãi sau này, khi đã được gặp Đấng Phục Sinh và đón nhận Thánh Thần, Phêrô mới hiểu vì sao ngôi mộ trống và tâm hồn ông lúc ấy mới bừng sáng để hiểu điều mà Kinh thánh từng loan báo. Phêrô là một người chân chất đơn sơ. Điều gì chưa biết thì im lặng và chờ đợi chứ không nhiều lời, không suy diễn.

“Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” ( Lc 24, 11 ). Tảng đá nghi ngờ đang che mờ đôi mắt Đức Tin của họ.

Các Thượng Tế và Kỳ Mục thì lo âu sợ hãi trước hiện tượng mồ trống. Vì thế, các ông mới cho lính canh số tiền hậu hĩ và bảo những người này phao tin là các môn đệ của ông Giêsu đã đến lấy trộm xác: “các anh hãy nói như thế này: ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ đã đến lấy trộm xác” ( Mt 28, 13 ). Tảng đá ghen ghét đã bịt lối nhìn lối nghĩ của họ.

Cuối cùng chỉ có mỗi một người tin. Đó là Tông Dồ Gioan. Nhưng Gioan tin không phải vì hiện tượng mồ trống mà vì những gì đã thấy. Gioan thấy gì ? Ông thấy những băng vải và khăn che đầu không xếp lộn với nhau, nhưng để riêng ra một nơi. Cảnh tượng này làm Gioan nhớ lại lời Kinh Thánh nói rằng Đức Kitô phải chịu đau khổ, phải chết rồi mới trỗi dậy mà vào chốn vinh quang ( Lc 24, 26 ).

Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Ladarô sống lại. Ladarô ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng.

Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: "Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" ( Ga 2, 19 ). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giôna với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" ( Mt 12, 40 ). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết ( Mc 9, 9 ).

Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" ( Lc 18, 31-33 ).

Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay... Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" ( Mt 26, 31-32 )…

Những lời đó làm Gioan tin chứ không phải thấy Đấng Phục Sinh. Gioan không thấy Đấng Phục Sinh nhưng ông tin Đấng mà ông yêu mến đã sống lại. Ngay từ giây phút đầu tiên khi thấy những vết tích còn để lại trong mồ trống, Gioan đã tin cách tuyệt đối. Tuy không thấy xác nhưng những vải liệm kia chính là những dấu chỉ có giá trị đối với ông. Nói như J.P. Duplantier, “ngôi mộ không trống cũng chẳng đầy, nhưng nó đã trở nên một ngôn ngữ”.

Nhờ việc chú ý đến thứ ngôn ngữ ấy, người môn đệ Chúa yêu đã khám phá và hiểu rằng Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết, điều mà lúc bấy giờ ngoài ông ra, các môn đệ khác còn chưa hiểu nổi. Rõ ràng, thấy là nền tảng và bằng chứng cho lòng tin. Nhưng thấy ở đây không phải là thấy những sự kiện bên ngoài mà là thấy ý nghĩa bên trong gắn liền với sự kiện. Tông Dồ Gioan thấy sự kiện những băng vải và khăn che đầu, nhưng vì nhớ lời Kinh Thánh mà tin. Thấy rồi mới tin là chuyện bình thường. Còn không thấy mà tin mới là phúc như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” ( Ga 20, 28 ).

Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá lấp cửa mồ đã mở toang. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm đã mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Đấng Phục Sinh ! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Chúa Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.

Có những hòn đá ta bước qua rất dễ. Có những tảng đá phải tốn thời giờ công sức mới dịch chuyển nó sang một bên để có đường đi. Nhưng cũng có những tảng đá to chắn bít lối đi, che khuất tầm nhìn nên không thể bước tiến. Trong đời sống thường nhật, có biết bao tảng đá vô hình mà nặng nề, cần phải được tháo bỏ. Giuđa bán Thầy với giá 30 đồng bạc, cả một tảng đá tham lam đè nặng tâm hồn. Phêrô chối Thầy đến 3 lần, ấy là vì tảng đá sợ hãi che kín. Các môn đệ bỏ trốn, vì tảng đá nhát đảm sợ liên luỵ đang vây bủa. Mỗi người chúng ta có thể cũng đang bị một tảng đá vô hình nào đó đè nặng tâm hồn. Tảng đá đam mê nết xấu. Tảng đá ghen ghét, chia rẽ. Tảng đá đam mê dục vọng… Ai sẽ giúp chúng ta lăn những tảng đó ra ? Xin thưa, là chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Ngài sẽ giúp ta lăn tảng đá đó ra khỏi đời mình và làm cho tâm hồn ta được phục sinh để sống bình an.

Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng Tế và những người Pharisêu xin Tổng Trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ ( Mt 27, 62 ), và “thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” ( Mt 27, 66 ). Tảng đá đó thể hiện sức mạnh quyền lực của sự dữ và sự thống trị của con người. Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Thiên Chúa sao ? Đấng Phục Sinh đã bật tung tảng đá niêm phong, từ cõi chết, Người sống lại vinh quang, mở lối vào sự sống mới.

Chúa Giêsu sống lại, chân lý đã chiến thắng, tình yêu vượt trên hận thù và sự sống mạnh hơn sự chết. Phục Sinh là niềm tin và hy vọng cho người Kitô hữu vào sự sống mai sau: "Nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta" ( Rm 6, 8).

Phục Sinh là niềm vui của những người được Chúa Kitô đẩy tảng đá ra khỏi cuộc đời họ, làm cho tâm hồn họ được bình an. Như Dakêu, như Lêvi đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi tảng đá của tội lỗi nên họ cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng thanh thản và bước theo Chúa. Và còn biết bao tấm gương khác đã được giải thoát khỏi những tảng đá vô hình, và từ đó hân hoan bước theo Chúa Giêsu.

Chúa đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc than tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã trỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng. Chúa Phục Sinh đã đẩy mọi tảng đá nặng nề ra khỏi tâm hồn các môn đệ. Từ đây các môn sinh bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Chúa đã sống lại thật ! Hallêluia ! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông Dồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại. Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao ? Khi mà chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, oán ghét thì đó là cuộc vượt qua phi thường… Tảng đá vô hình đè nặng được lăn ra khỏi tâm hồn chính là phục sinh. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

-----------------------------

 

PS1-352: Chiến thắng

 

Thời gian gần đây, tại Việt Nam nhiều nhà thờ đã trưng bày trên cung thánh tượng Chúa Giêsu PS1-352 


Thời gian gần đây, tại Việt Nam nhiều nhà thờ đã trưng bày trên cung thánh tượng Chúa Giêsu sống lại hoặc tay cầm thánh giá nhỏ, hoặc lưng tựa vào cây thánh giá lớn. Đó là một sáng kiến gợi ý. Bởi vì sự phục sinh của Đức Kitô không thể tách rời khỏi thập giá. Hơn nữa, nhờ việc Đức Kitô sống lại, cây thánh giá không còn là biểu tượng của sự thất bại, mà đã trở nên dấu chỉ của sự chiến thắng.

Thực vậy, khi các thượng tế và luật sĩ chủ mưu tiêu diệt Đức Kitô bằng bản án thập giá, họ ghét con người Đức Kitô thì ít, mà ghét chủ trương và đường lối của Người thì nhiều. Chủ trương của Người là bác ái. Đường lối của Người là cơi mở, bao dung, để phản ảnh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, là tình yêu giàu lòng thương xót. Chủ trương ấy, đường lối ấy không phù hợp với họ. Hơn nữa, chủ trương ấy, đường lối ấy đã đụng chạm tới cái tôi ích kỷ, hẹp hòi và tự mãn của họ. Đó chính là những động lực thúc đẩy họ tiêu diệt Đức Kitô.

Thiết tưởng trong họ cũng có chúng ta. Vậy chúng ta đừng bao giờ chúng ta quên điều đó. Dù bị kết án oan và dù biết mình có sức thoát khỏi cuộc tử nạn, nhưng Đức Kitô, vì yêu thương, vẫn đễ cho các làn sóng hận thù, ghen ghét vùi dập Người cho đến chết. Kiêu căng và ích kỷ xem ra như đã thắng. Và thập giá bị coi như là dấu ấn thất bại được dành cho Đức Kitô.

Tuy nhiên, không phải là như thế, cái chết trên thập giá không phải là tiếng nói sau cùng. Bởi vì Đức Kitô đã sống lại vinh hiển. Khi sống lại rồi, Đức Kitô không oán thù ai, không phô trương gì cả, Ngài vẫn tiếp tục theo đuổi đường lối và chủ trương của bác ái, của khiêm nhường, của bao dung, như những tháng năm về trước. Ngài vẫn dạy các môn đệ Ngài hãy sống như Ngài đã dạy và đã làm gương. Bởi vì chỉ tình thương mới có sức cứu độ, chỉ bác ái mới có sức phục sinh.

Như thế, nhờ sự sống lại của Đức Kitô, cây thập giá đã trở nên Tin Mừng, làm chứng cho một tình yêu chiến thắng. Chiến thắng bằng những phấn đấu gay go, dũng cảm và kiên trì chống lại những tội lỗi và những khuynh hướng xấu xa. Chiến thắng bằng những việc làm bác ái, cởi mở, bao dung, thăng tiến có kế hoạch và chấp nhận hy sinh.

Từ mầu nhiệm phục sinh của Ngài, chúng ta đi đến một kết luận quan trọng, đó là kể từ nay, dù là ai, và dù sống trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có quyền tin tưởng được Ngài lắng nghe, đón nhận và yêu thương, bởi vì Người là Đấng Cứu Độ giàu lòng thương xót. Người đến để chúng ta có sự sống và được sống dồi dào. Người đã thắp lên trong cõi lòng chúng ta niềm vui mừng và hy vọng, bởi vì thập giá của Người là nguồn ơn cứu độ và cách sống của Ngài là con đường dẫn tới phục sinh. Hãy hân hoan bước theo Người và hãy vui mừng được thuộc về Người. Chính trong chiều hướng đó mà tôi xin cầu chúc cho mỗi người một lễ phục sinh đầy vui mừng và hy vọng với ơn lành và tình yêu thương của Đức Kitô.

-----------------------------

 

PS1-353: Marathon.

 

Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc PS1-353


Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều thường tường thuật về những cuộc chạy marathon. Vậy chạy marathon là gì? Tôi xin thưa đó là chạy đua đường dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của việc chạy marathon là như thế này: Vào năm 490 trước Công nguyên, tướng Miltiade, người Hy Lạp, đã chiến thắng quân Ba Tư tại Marathon, một ngôi làng cách thủ đô Athène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng Miltiade đã phái một người chạy bộ, vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng thủ đô Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành thì liền tắt thở vì kiệt sức. Vì thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường trường trên thế giới.

Từ cây chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, và chúng ta nhận thấy vào buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh, đã có hai cuộc chạy marathon. Cuộc thứ nhất là của Mađalena. Cuộc thứ hai là của Phêrô và Gioan. Vậy động lực nào đã thúc đẩy họ lên đường, để rồi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới?

Như chúng ta đã biết: dưới thập giá của Chúa Giêsu lại chính là cuộc chiến thắng vĩ đại. Một đàng, Ngài trở nên như con rắn đồng mà Maisen đã treo nơi sa mạc, để những ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên rắn đồng ấy thì sẽ được chữa lành. Đàng khác, cái chết tự nguyện của Ngài trên thập giá đã trở nên dấu chỉ chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa: Ngài đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Bằng cái chết, Đức Kitô đã lôi kéo chúng ta đến với Ngài, như lời Ngài xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.

Trở lại với cuộc chạy marathon đi tìm dấu vết của Đấng Phục Sinh, chúng ta thấy: ở đểm xuất phát, Mađalena chạy đến mồ trước tiên khi trời còn tối. Thấy tảng đá ở cửa mộ đã bị lăn qua một bên, cô chưa tin gì về Chúa Phục Sinh, nên nghi người ta đã lấy trộm mất xác Thầy. Cô liền chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan.

Đến lượt hai ông này cùng chạy đến một. Gioan tới trước, nhưng vì kính lão đắc thọ, nên còn đứng chờ Phêrô. Khi cả hai cùng vào mộ, liền nhận ra ai đó đã sắp xếp để khăn che đầu ở một nơi. Với trực giác nhạy bén, Gioan hiểu ngay là không có chuyện ăn cắp xác mà lại để các khăn liệm thứ tự như vậy. Gioan đã thấy và đã tin.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta thấy được hình ảnh của Giáo Hội sơ khai đi tìm dấu vết Chúa Phục Sinh. Giáo Hội ấy gồm những người như Mađalena, Phêrô và Gioan. Đó là những con người rất khác biệt nhau nhưng lại bổ túc lẫn cho nhau trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa Giêsu. Nếu Mađalena không tới một sớm để thấy mộ trống rồi về loan báo tin ấy cho các tông đồ, thì Giáo Hội vẫn còn im lìm, chưa có sự sống. Thế nhưng giữa những cuộc chạy marathon mà chưa có phản ứng đức tin của Gioan thì Giáo Hội vẫn chưa thực sự là Giáo Hội vì chưa sống bằng đức tin, một đức tin thấm nhuần lời Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự gặp được Đức Kitô Phục Sinh trên những bước đường của cuộc sống chưa, và nhất là chúng ta đã trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời hay chưa?

-----------------------------

 

PS1-354: Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Văn Hiếu


NHẬP LỄ

 

Chúa nhật là Ngày Của Chúa. Ngày đó, Chúa làm chủ, vì Chúa đã chiến thắng sự chết và đã PS1-354


Chúa nhật là Ngày Của Chúa. Ngày đó, Chúa làm chủ, vì Chúa đã chiến thắng sự chết và đã sống lại. Chúa Nhật cũng là Ngày Thứ Nhất trong tuần. Thời sáng tạo, ngày thứ nhất Thiên Chúa đã tạo dựng ánh sáng. Phục sinh, ngày thứ nhất Chúa cũng đem lại ánh sáng và sức sống mới cho nhân loại.

- Lạy Chúa, sau ngày phục sinh, ánh sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là tinh thần hiệp nhất và sức sống liên kết (x.Cv 4,32). Xin Chúa thương xót chúng con.

- Lạy Chúa Ki-tô, sau ngày phục sinh, ánh sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là lòng vâng phục và yêu mến Thiên Chúa (x.1Ga 5,1). Xin Chúa Ki-tô thương xót ...

- Lạy Chúa, sau ngày phục sinh, ánh sáng mới và sức sống mới Chúa ban cho chúng con là bình an của ơn tha tội và được sai đi để ban ơn tha thứ của Chúa (x.Ga 20,21). Xin Chúa thương xót ...

GIẢNG

Chúa Giê-su đã sống lại. Việc Chúa sống lại / không chỉ được chứng minh bằng ngôi mộ trống và các lần Chúa tỏ mình ra cho người này người khác, ở nơi này hay nơi kia. Đoạn Tin Mừng theo Thánh Gio-an mà chúng ta nghe hôm nay, còn cho chúng ta thấy những hiệu quả xác thực việc Chúa sống lại đó. Nhờ Chúa sống lại, mà đời sống của Giáo Hội có được sức sống mới.

Sức sống mới này được nhận thấy hiệu quả trước tiên là bình an và hoan lạc trong tâm hồn. Trước khi Chúa hiện diện, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái” (Ga 20,19a). Nhưng khi Chúa đến, “đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em” thì mọi người đều vui mừng (Ga 20,19b.20b). Sức sống mới là bình an và hoan lạc này, không ai có, mà có thể khư khư giữ lại cho riêng mình, nên niềm vui ấy đã được loan báo lại cho ông Tô-ma ~người không biết vì lý do gì vắng mặt chiều hôm ấy.

Sức sống mới ấy đã được đích thân Chúa Giê-su truyền lại cho các môn đệ. Người ban “bình an cho anh em” và Người thổi hơi, ban Chúa Thánh Thần xuống cho: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (20,22). Thánh Thần của Chúa Giê-su chính là Thần Khí đã tạo nên sự sống thời nguyên thuỷ. Thánh Thần của Chúa là nguyên uỷ của sự sống. Nhờ Chúa sống lại và hiện diện, ban xuống Chúa Thánh Thần, nên sức sống trong Giáo Hội đã được đổi thay.

Đổi thay, là con người từ nay được tha tội và được Chúa Phục Sinh sai đi để thực thi quyền tha tội: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (20,21b.23). Sức sống mới ấy, trước ngày Chúa sống lại, Giáo Hội làm gì đã có năng quyền và thẩm quyền?! Ngày nay, Giáo Hội thực thi thẩm quyền này, chính là một cách mạnh mẽ rao giảng và minh chứng quyền năng Chúa đã sống lại.

Sức sống mới ấy không chỉ ẩn sâu trong tâm hồn người tín hữu, nhưng nhờ Chúa sống lại mà “các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4,32). Sức sống từ Chúa Phục Sinh hiện diện, đã biến cải tâm hồn con người, tạo cho các tín hữu ~những người đã tin Chúa sống lại~ một sự sống mới. Sự sống mới ấy có nghĩa là từ nay không ai sống cho riêng mình, nhưng sống cho mọi người, bởi vì Chúa cũng đã chết và sống lại cho mọi người. Tình yêu đích thật của Chúa đã chan hoà nơi lòng mọi kẻ tin thờ Chúa. Thánh Gio-an viết: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng Sinh Thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1Ga 5,1).

Chúng ta đừng nghĩ rằng tất cả các tín hữu thời xưa đã có sự sống mới, nếp sống mới, đều là những người đã được thấy nhãn tiền Chúa Phục Sinh hiện diện. Cũng có rất nhiều người không được nhìn thấy Chúa như chúng ta ngày nay. Nhưng chúng ta nhớ Chúa đã nói với Thánh Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Các tín hữu ấy đã tin lời các Tông Đồ truyền lại. Họ đã thay đổi nếp suy tư và cách sống.

Lời rao giảng của các Tông Đồ vẫn còn được tiếp tục truyền lại cho chúng ta ngày hôm nay. Cho nên, nếu chúng ta tin, chấp nhận Chúa đã sống lại, thì nếp sống của chúng ta cũng phải được thay đổi, phải được biến chuyển:

- Chúng ta đón nhận mọi hoàn cảnh sống trong niềm vui hoan lạc và bình an,

- Chúng ta đón nhận Chúa trong việc lãnh nhận bí tích Hoà Giải, tạo cho mình một nếp sống tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần ~nghĩa là sẵn sàng vâng theo mệnh lệnh, ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần,

- Chúng ta quảng đại, bao dung đón nhận anh em, sẵn sàng chia sẻ, cộng tác với mọi người trong một nếp sống chung tương thân tương ái.

Như thế là chúng ta đã tin nhận, đồng thời cũng là rao giảng Chúa sống lại và chấp nhận mệnh lệnh Chúa sai đi, như các Tông Đồ và các giáo hữu thời xưa vậy.
 
 

-----------------------------

 

PS1-355: Sống lại trong lịch sử


(Lm. G.B. Trần Văn Hào, SDB chuyển ngữ)

 “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem” (Cv 10,39)

 

Khi đặt vấn đề Đức Giêsu lịch sử trong cái nhìn hiện đại, chúng ta ngay từ đầu sẽ vấp phải vấn nạn PS1-355


Khi đặt vấn đề Đức Giêsu lịch sử trong cái nhìn hiện đại, chúng ta ngay từ đầu sẽ vấp phải vấn nạn không dễ chấp nhận: đó là các Kitô hữu ban đầu đã xác tín rằng Đức Giêsu sau khi bị đóng đanh dẫn đến cái chết, đã sống lại. Thánh Phêrô đã tuyên bố “Họ đã treo Người trên cây gỗ và Người đã chết. Nhưng vào ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và Người đã hiện ra không phải với mọi người, nhưng với chúng tôi, là những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho Người, và là những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người sau khi Người chỗi dậy từ cõi chết”.

Lời chứng của các Kitô hữu về việc Chúa sống lại đặt căn bản trên những biến cố của lịch sử, nhưng làm sao để những lời chứng này am hợp với suy luận của lý trí con người ngày nay. Làm sao một con người với đầu óc lý luận thực tiễn có thể tin vào những lời chứng này? Bởi vì, theo suy luận mang tính duy nghiệm, người chết không thể sống lại được.

Tuy nhiên, Phêrô và nhiều tín hữu buổi sơ khai đã làm chứng rằng Đức Giêsu đã từ cõi chết sống lại. Họ xác quyết Ngài đã từng đồng hành với họ, trò chuyện với họ và ăn uống với họ. Có phải họ nói dối? Hay lầm lẫn? Hoặc hoang tưởng? Hay họ thêu dệt bịa đặt câu chuyện, chỉ vì hụt hẫng khi Thầy của họ đã mất mà còn cố gượng gạo muốn Thầy  vẫn còn gắn bó với cuộc sống của mình? Tất cả những vấn nạn này do các học giả đưa ra khi nghiên cứu về Đức Giêsu lịch sử, thay vì dễ dàng chấp nhận những xác quyết của các Kitô hữu thuở sơ khai về việc Đức Giêsu đã sống lại. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng, theo não trạng của những người thuộc thế giới cổ đại bấy giờ, cho dù nói chung họ thơ ngây và dễ tin, nhưng vẫn không phải dễ dàng và thông thường xác tín rằng người chết đã sống lại. Họ có nhiều kinh nghiệm cụ thể với thế giới người chết và tiếp cận với những người sắp chết hơn là những người Đông Phương hiện đại thời bây giờ. Họ hiểu thế nào là sự chết.

Với việc Đức Giêsu phục sinh, các môn đệ của Đức Giêsu thời sơ khai đã đồng lòng xác quyết một điều gì đó đã xảy ra, một điều rất lạ lùng, rất khác thường và tất cả đều trải nghiệm trực tiếp về điều lạ lùng và khác thường này. Ở đây chúng ta có thể đi đến kết luận, như cách nói của Ben Meyer “Mặc dù những người làm chứng cho một sự lạ đưa ra những lý chứng không mấy thuyết phục, hoặc có thể không trung thực hay tự đánh lừa chính mình, hoặc những lý chứng của họ không mấy tương hợp với sự xác tín hay với những tính chất đặc thù  của sự kiện, nhưng như một định luật thiên nhiên không thể che đậy được, là họ đã thấy, họ đã tin và đã làm chứng như vậy. Tất cả mọi người: Phêrô, Maria Maddalêna, Salômê, Maria mẹ của Giacôbê, bà Gioanna, Giacôbê, Gioan, Nathanael thành Cana, ông Tôma và các Môn đệ khác… chẳng lẽ họ đều là những con người khờ khạo, gian dối hay tự đánh lừa chính mình?

Các môn đệ Đức Giêsu đã không kỳ vọng vào việc sống lại. Cleopas trên đường đi Emmaus, đã nói giữa đám môn đệ về một cảm giác hụt hẫng “Chúng tôi kỳ vọng Ngài chính là người sẽ giải phóng Israel” (Lc 24,21). Maria Maddalêna đứng bên ngôi mộ trống đã buồn bã thốt lên “Người ta đã lấy cắp xác Chúa tôi mang đi khỏi ngôi mộ, và chúng tôi không biết họ đặt Người ở đâu”. Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ rằng Ngài sẽ phải chịu đau khổ, phải chết và sau ba ngày sẽ chỗi dậy, nhưng họ không hiểu điều Ngài nói cho tới khi trực diện tiếp cận với Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh. Điều đã làm thay đổi đầu óc nơi họ, chắc chắn không phải là một lời nói dối, một lời hứa hão huyền, hay một ảo giác của cả một tập thể, nhưng là một kinh nghiệm có thật về Đức Giêsu – Đấng đã sống lại và ở giữa họ.

Nhưng để có được trải nghiệm về Đức Giêsu Phục Sinh, một sự kiện gây chấn động, họ phải mở rộng tâm hồn đón nhận thực tại Thiên Chúa. Họ phải mở lòng để đón nhận Thiên Chúa – Đấng đang tác động trong lịch sử, một Thiên Chúa thể hiện chương trình cứu độ đếm với con người, thông qua thân xác mong manh của Đấng bị đóng đanh, nhưng đã sống lại để khai mở một kỷ nguyên mới, một cuộc sống mới bất diệt. Nếu ai đó không tin vào Thiên Chúa, sẽ khó mà tin được Thiên Chúa đã sai gửi người con của Ngài, và hiển nhiên Ngài đã có một người con yêu dấu để trao ban cho chúng ta. Hơn nữa, nếu có ai không tin Thiên Chúa đang hoạt động trong lịch sử, sẽ khó mà chấp nhận rằng Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử bằng cách cho người con của Ngài sống lại để cứu chuộc con người.

Các Môn đệ đã tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Đấng sẽ chuộc lại dân Israel. Tuy nhiên, khi Ngài tiến nhận cái chết, họ đã phải tự thẩm định lại xem họ đã tin gì và Đấng mà họ đã đi theo là ai? Sự tái thẩm định niềm tin đó đã mau chóng xảy ra khi đối diện trước những biến cố làm chao đảo những kỳ vọng nơi họ, và cuối cùng họ đã cảm nhận  được mầu nhiệm Chúa phục sinh, chỉ vì biết mở lòng để Thiên Chúa tác động trong lịch sử hầu thực hiện kế hoạch cứu chuộc loài người. Sự phục sinh khiến họ thay đổi tận sâu thẳm tâm hồn, nhưng họ đã tin bởi vì họ đã trải nghiệm được điều chân thực này. Tất cả những việc còn lại cần phải làm và có thể làm, là họ sẽ mang chở chứng tá cho một thực tại rất rõ ràng “Đức Giêsu đã sống lại và đã đến ở giữa họ”.
 
 

-----------------------------

 

PS1-356: Nguồn hy vọng sống lại - Cố Lm Hồng Phúc

 

Trong tuần vừa qua, một màn tang tóc đã bao trùm Giáo hội. Giáo hội mặc niệm cuộc Thương khó PS1-356


Trong tuần vừa qua, một màn tang tóc đã bao trùm Giáo hội. Giáo hội mặc niệm cuộc Thương khó Chúa Giêsu, vì thương yêu ta đã chết để đền tội nhân loại.

Nhưng hôm nay, mùa tang đã hết. Giáo hội vui mừng hát lên lời Alleluia, vì Chúa đã toàn thắng sự chết và đã sống lại.

Phúc Âm kể rằng sau khi Chúa Giêsu tắt thở trên thập giá, các môn đệ đã hạ xác, liệm vào khăn, đặt vào mồ, lấy hòn đá lớn che lại và ra về. Người Do-thái đã nghe nói đến lời tiên tri Chúa phán về việc ngài sẽ sống lại, nên đâm bối rối. Và để ăn chắc, đã lấy ấn niêm phong cửa mồ và cho bộ đội canh phòng cẩn mật, làm một việc xưa nay chưa từng làm là canh chừng một xác chết vì sợ xác chết ấy sống lại.

Sáng Chúa nhật hôm ấy như sáng Chúa nhật hôm nay, khi trời còn tờ mờ sáng, Maria Madalena đi ra phần mộ. Bà thấy hòn đá đã lăn ra, liền chạy vội về báo tin cho các môn đệ. Các ông cho rằng đây là chuyện đàn bà dễ tin. Nhưng rồi Pherô và Gioan cũng quyết định chạy ra mộ xem sao. Đến nơi, họ nhận thức cảnh mộ trống. Mộ còn đó mà người nằm trong mộ biến đâu mất. Vậy sự kiện lịch sử đầu tiên về việc Phục Sinh là cảnh ngôi mộ trống. Nhưng dữ kiện ấy thôi không đủ để gây niềm tin. Vì biết đâu rằng mộ trống vì có người ăn trộm xác, rồi dấu tiệt đâu mất, như luận điệu người Do-thái tung ra để ém nhẹm sự Chúa phục sinh, sống lại. Vậy, với sự kiện mộ trống, còn kèm theo một sự kiện lịch sử thứ hai là người nằm trong mộ đã hiện ra. Vậy trong ngày trọng đại hôm nay, Đấng nằm trong mộ, Đấng mà dân Do-thái đã huyên hoang cho rằng họ đã giết chết, đã chôn chặt trong lòng đất, Đấng ấy đã phục sinh, đã sống lại, và đã hiện ra nhiều lần cho nhiều người xem. Ngài đã hiện ra với Madalena, với Pherô, với hai môn đệ trên đường Emmaus và với các môn đệ đang họp nhau trong nhà cửa đóng then cài, kín bưng kín bít vì sợ người Do-thái.

Thánh Gioan viết: “Chúng tôi thấy và chúng tôi tin: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI”. Lòng tin của các môn đệ dựa trên hai sự việc như vừa nói: ngôi mộ trống và người chết nằm trong mộ đã hiện ra. Pherô, trong bài đọc I, đã long trọng tuyên bố: “Đức Giêsu mà Davit đã tiên báo thân xác Ngài không phải thấy mục nát. Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại. Chúng tôi hết thảy xin làm chứng” (Cv 2, 32). Và niềm tin ấy là niềm tin của Hội Thánh, là niềm tin căn bản của chúng ta.

1) Chúng ta là người tín hữu. Người tín hữu là người tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát ta khỏi vòng tội lỗi.

Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đức tin của chúng ta sẽ ra huyền ảo vô ích, và chúng ta vẫn còn ở trong tội lỗi” (1 Cor 15, 17). Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì đạo thánh chúng ta đã tan ra mây khói từ lâu rồi.

Nhưng sự Chúa Phục sinh sống lại bảo đảm cho lòng tin của chúng ta, lòng tin dựa trên một Đấng là Thiên Chúa, Đấng có quyền trên sự sống và sự chết. Đấng mà trong cuộc đời đã 3 lần đến gần sự chết và đã phán một lời thì sự chết rút lui, người chết sống lại. Đấng ấy hôm nay đã toàn thắng sự chết nơi chính mình, đã phục sinh sống lại. Vì Ngài không phải chỉ là một người mà là một vị Thiên Chúa làm người nhập thể. Sự chết và sống lại của Ngài là niềm tin và nguồn hy vọng của chúng ta.

Ngày xưa, khi Đức Khổng Phu Tử qua đời, các đồ đệ vì thương nhớ Thầy đã xây nhà xây cửa xung quanh phần mộ Thầy để được gần Thầy. Là một nhà hiền triết, nhưng cũng là một người như ai, Đức Khổng cũng chỉ để lại một nắm xương tàn và với thời gian đồ đệ cũng tản mát bốn phương. Chúa Kitô sau khi sống lại đã qui tụ đàn chiên đang tản mát, đã khai sinh Hội Thánh và là nguồn hy vọng sống lại của chúng ta.

2) Người tín hữu còn là người Phục Sinh. Chúng ta đã chịu phép Rửa tội, và phép Rửa tội, như Phụng vụ Vọng Phục sinh tối hôm qua đã nói lên, là một sự chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa, một cuộc vượt qua biển máu tội lỗi để vào cuộc sống Thiên Chúa. Vì thế Giáo hội dạy chúng ta xưng tội chịu lễ mùa Phục sinh để sống lại với Chúa trong đời sống thiêng liêng. Và như Chúa sống lại, Ngài không chết nữa, thì mỗi người chúng ta cũng phải xa lánh tội lỗi để giữ đời sống thiêng liêng.

Xưa Thiên Thần đã nói với người phụ nữ ra mộ: NON EST HIC – Ngài không còn ở đây nữa, thì nay Thiên Thần cũng chỉ vào quá khứ tội lỗi ta và nói như vậy. Người ấy không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại, Alleluia.
 
 

-----------------------------

 

PS1-357: Đức Giêsu đã Phục Sinh


(Suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm)

 

Đức Giêsu đã phục sinh, thế nhưng không phải mọi người đều biết. Đây không phải là biến cố PS1-357


Đức Giêsu đã phục sinh, thế nhưng không phải mọi người đều biết. Đây không phải là biến cố bình thường, nhưng là biến cố “đức tin”. Những người không sẵn sàng mở rộng tâm hồn, những ký lục biệt phái và thượng tế không sẵn sàng đón nghe sự thật, không thể đón nhận thực tại “vô tiền khoáng hậu” này.

Tin Đức Giêsu phục sinh là điều rất khó

Đức Giêsu khi còn sống, Ngài đã cho một số người chết sống lại, như con gái ông Gairô (Lc.8, 40-56), con trai bà góa thành Naim (Lc.7, 14-15), Lazarô em của Matta và Maria (Ga.11, 43-44). Tuy dù Ngài đã báo trước ba lần rằng “Ngài sẽ chết và sống lại” (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33), nhưng khi Ngài sống lại không có tông đồ nào tin (Mc.16, 9-14) cho tới khi Ngài hiện ra cho các ông.

Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin Chúa phục sinh cho tới khi Ngài hiện ra cho ông vào tám ngày sau (Ga.20, 25-29), nhưng cả mười tông đồ khác cũng không tin cho tới khi họ được thấy Chúa vào buổi chiều (Ga.20, 19-24). Các tông đồ đã không tin vào lời các chị phụ nữ làm chứng đã thấy Chúa phục sinh!
Nếu chính các tông đồ, những người thân cận của Đức Giêsu, được báo trước Ngài sẽ sống lại, còn chưa dám tin Ngài sống lại, mãi cho đến khi được thấy Ngài, thì làm sao những ký lục biệt phái và các thượng tế có thể tin Đức Giêsu sống lại được?

Cũng không lạ, nếu con người ngày nay không tin Đức Giêsu sống lại. Đúng hơn không tin “người chết sống lại” mới là chuyện bình thường, còn “Đức Giêsu sống lại” mới là chuyện “bất thường”.

Tin Đức Giêsu sống lại, là một hồng ân vô cùng lớn

“Vì anh đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga.20, 29). Những người tin vào Đức Giêsu, là những người được chúc phúc. Họ là những người được một ơn lớn mà nhiều khi họ không ý thức. Làm sao tin người chết sống lại được, làm sao tin Đức Giêsu phục sinh được? Ấy thế mà các Kitô hữu tin.

Các Kitô hữu không chỉ gồm những người ít học, nhưng gồm cả những người có học, và hơn nữa có nhiều người thông thái. Họ không tin mù quáng. Họ biết điều họ tin là chuyện rất khó, nhưng họ đã được một ơn để tin. Tạ ơn Chúa vì hồng ân kỳ diệu này.

Thánh Phaolô nói: “không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà không nhờ bởi Thánh Thần” (1Cor.12, 3). Là Kitô hữu là một hồng ân vô cùng lớn. Tạ ơn Chúa.

Được gì khi Đức Giêsu phục sinh

Nếu Đức Giêsu không sống lại, các tông đồ đã không đi rao giảng, và các ngài đã không phải “tử đạo”, và đã không có Kitô giáo như hôm nay, cũng không có nhiều “anh hùng tử đạo”, cũng không có nhiều người dâng hiến đời mình cho Chúa, cũng không chắc “chúng ta như hiện tại”, có lẽ chúng ta không biết tha thứ và yêu thương!

Nếu Đức Giêsu không sống lại, những lời giảng dạy của Đức Giêsu về chính Ngài như Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa (Ga.10, 30), Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62), là những điều dối trá, và Ngài là kẻ bịp bợm thời danh.

Còn nếu Đức Giêsu sống lại, nghĩa là những điều Ngài nói là đúng sự thật, nghĩa là Ngài là Đấng có quyền tha tội, Ngài có trước Abraham, Ngài là một với Thiên Chúa Cha, Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha. Ngài là Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người. Vì nếu Ngài nói dối, Ngài đâu phải là người của Thiên Chúa, và Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài.

Và nếu Ngài là Thiên Chúa nhập thể, nghĩa là: Thiên Chúa yêu con người đến độ nhập thể làm người. Đức Giêsu phục sinh, bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Xin bạn trình bày cho một người “ngoại” lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu sống lại?
2. Đâu là bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người?
3. Bạn có thể làm gì để giúp một người tin Đức Giêsu phục sinh?

-----------------------------

 

PS1-358: Các nhân chứng phục sinh


(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

 

Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong bài trình thật phục sinh của cuốn Phúc PS1-358


Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong bài trình thật phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ tư, đó là Maria Mácđala, Phêrô và Gioan. Họ được coi như các nhân chứng diện F1 duy nhất của cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử tội đã chết treo trên cây thập tự, đã được mai tang trong mồ, thì nay đã sống lại. Thế nhưng chứng cứ lịch sử khách quan, hay tất cả những gì họ có thể chưng ra làm bằng chứng cho cái biến cố trọng đại ấy thì lại quá giản dị: ‘lúc trời còn tối, bà Maria Mácdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gio-an ‘tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’, Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi, ‘ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi’… Chi tiết thật đấy, nhưng chỉ có thế; hầu như những chứng cứ họ đưa ra chẳng thuyết phục nổi ai! dầu vậy thì Gioan, một người trong số họ, vẫn đưa ra lời xác quyết hùng hồn; “Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ với các tang chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải chỉ một sự kiện mà còn cả một niềm tin có khả năng thay đổi cuộc sống của chính ông và của toàn nhân loại. Sau này ông còn dành trọn cuộc đời còn lại để loan truyền biến cố này, và sẵn sàng chết để minh chứng nó.

Tại sao lại như vậy?; chúng ta hãy cùng nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này, mong hiểu ra rằng: niềm tin Phục Sinh luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư sâu lắng nhất.

Phêrô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm một điều có thể coi là đáng xấu hổ nhất trong đời: phản bội Thầy mình. Qua kinh nghiệm sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm khuyết; vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thầy, xin xa con ra, vì con là người tội lỗi!” (Lc 5:8) Thế nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu hèn của mình lại có thể rơi xuống tới mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy, con quyết không bao giờ!” (Mt 26:33) giờ thì… ông đâu có ngờ mình lại như thế! Chính với cái trải nghiệm đáng xấu hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống, quan sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với các tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn cả sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới: lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Kitô) vượt trên tất cả, vượt xa hơn tất cả.

Gioan: là môn đệ được Đức Giêsu thương mến, ông đã cảm nhận được tình yêu đó trong bữa tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người, đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy giọt máu hòa với nước cuối cùng vọt ra từ con tim bị đâm thủng của Người. Tuy nhiên, yêu bao nhiêu thì lại đau buồn thất vọng bấy nhiêu, nhất là khi ông phải chứng kiến: tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi kết thúc, bị chôn vùi trong nấm mồ hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với các băng vải còn ở đó, Gioan lần đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu trường tồn. Tình yêu đó không những mạnh hơn cái chết hiểu theo nghĩa thông thường (đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một nội dung cho tới nay chưa từng được minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng sự chết, cả về thể lý cũng như trong diện tinh thần thiêng liêng, tới độ không gì ngăn cản nổi nó; bất cứ ai tin và chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải thất vọng. Quả thật, ông được thuyết phục: Thầy Giêsu đích thực là sự sống lại, như chính Người đã từng tuyên bố, Người là sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.

Maria Mácđala: nhân chứng số một của biến cố Phục Sinh trọng đại. Được đặc ân này có lẽ vì bà đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phê-rô lẫn của Gio-an lại thành một. Trải nghiệm tội lỗi, đối với bà, là trải nghiệm của thân phận cả một kiếp người bị đầy đọa tới đáy vực thẳm, còn trải nghiệm yêu thương, là trải nghiệm gắn liền với việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà lên tới trởi. Cái cảm nghiệm được giải phóng đó do Thầy Giêsu mang lại đang thăng hoa thì đột nhiên rơi vào bế tắc cùng với cái chết Thập Giá của Người, đã bị chặn đứng sau hòn đá che lấp phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng nhận ra ngay cái chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với bà: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy Giêsu đã sống lại và ra mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ là vĩnh viễn, và thăng hoa sẽ là bất tận.

Là Kitô hữu, tôi không chỉ mừng lễ Chúa Phục Sinh, mà còn phải làm chứng nhân việc Chúa đã sống lại, hay đúng hơn làm chứng về một tình yêu tha thứ trở nên bền vững. Vậy thì hãy để tâm lắng nghe cảm nghiệm sâu lắng nhất trong tôi vào lúc này:  phải chăng đó có thể là cảm nghiệm của Phêrô, hay của Gioan, hay của Maria Mácđala, hay của cả ba gộp lại?

Lạy Chúa Phục Sinh, con vui mừng vì Chúa đã sống lại! Đời con đã không thiếu những trải nghiệm đớn hèn của Phêrô hay Macđala; con cũng không phải là không có chút ít trải nghiệm của Gioan, nhất là trong ơn gọi Kitô hữu, tu sĩ Sa-lê-diêng và linh mục của mình. Xin cho con hưởng trọn niềm vui Phục Sinh vĩ đại xuất phát từ chính những kinh nghiệm bản thân, để con có thể chân thành ca ngợi việc Chúa Sống Lại và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh vẻ vang cho mọi người cách thâm tín và phấn khởi nhất. Amen.
 
 

-----------------------------

 

PS1-359: VIẾNG MỘ

 

Vào buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra ngôi mộ, nơi chôn cất Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một PS1-359


Vào buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra ngôi mộ, nơi chôn cất Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công việc u buồn –hoàn tật việc ướp xác Đức Giêsu. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để họ đi ra mộ. Họ muốn được gần gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn cho cuộc sống của họ, và cái chết của Người đã nhận chìm họ vào một nỗi u buồn không thể nào khuây khoả được.

Bản thân chúng ta cũng thường làm điều tương tự như vậy. Khi một người thân yêu nào đó của chúng ta qua đời, chúng ta nhận thấy thật khó chấp nhận được là người đó đã vĩnh viễn rời xa khỏi chúng ta. Chúng ta cảm thấy có nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết. Một trong những cách thức để chúng ta đáp ứng được nhu cầu này, đó là đi viếng mộ. Tuy nhiên, thay vì làm dịu đi nỗi đau của sự mất mát, thì điều này lại có thể làm cho nỗi đau đó càng gia tăng thêm. Điều này thậm chí có khuynh hướng làm cho kẻ chết lại càng đúng là kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng ta tin chắc chắn rằng người thân yêu của chúng ta đã bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.

Trong buổi sáng ngày Phục Sinh đầu tiên đó, nếu mọi việc cứ diễn tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ sẽ ướp xác Đức Giêsu, đóng cửa mộ lại, và hơn bao giờ hết, họ càng thêm tin tưởng rằng sự kiện xảy ra trong ngày Thứ Sáu không phải là một cơn ác mộng, mà là một thực tại khủng khiếp. Nhưng mọi việc lại không diễn ra như dự định.

Tại mộ, họ đã gặp hai thiên thần, hai vị đó đã nói với họ “Tại sao các bà lại đi tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn ở đây nữa, nhưng Người đã sống lại rồi”. Sứ điệp Phục Sinh lần đầu tiên được gửi đến cho những nữ môn đệ có lòng tin này: Đức Giêsu không chết, Người đang sống. Như vậy, họ không được phí phạm thì giờ trong việc tìm kiếm Người tại chốn mồ mả.

Tất cả chúng ta thường cảm thấy đau buồn khi ở trong nghĩa trang, vì tại đó, tất cả mọi sự đều nói lên cái chết. Tuy nhiên, chính tại một nơi như vậy, mà lần đầu tiên sự sống lại đã được loan báo. Thật là phù hợp khi tại nơi đây, một nơi dường như cái chết thống trị, mà tin vui về sự sống lại của Đức Giêsu lần đầu tiên đã được công bố.

Thông qua tiếng nói của Phụng vụ, cũng sứ điệp đó đem đến cho chúng ta: Đừng tìm kiếm người thân yêu của bạn tại mộ. Người chết không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chế ngự cái chết, không phải chỉ cho bản thân Người, nhưng cho tất cả chúng ta. Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, chúng ta sẽ được đi theo Người. Vậy đối với người Kitô hữu, theo ý nghĩa cuối cùng của sự huỷ diệt, không có điều gì giống như cái chết. Những người thân yêu đã qua đời của chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn còn sống, thậm chí họ còn được sống một cuộc sống thực sự và đẹp đẽ hơn cả chúng ta. Họ không ở cách xa chúng ta. Những người nào được chết trong ơn nghĩa Chúa, họ không ở cách xa chúng ta hơn so với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì rất gần gũi với chúng ta.

Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời của chúng ta, trong trường hợp họ vẫn còn cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Và chúng ta hãy tiếp tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều này giúp cho ký ức về họ được sống động. Nhưng chúng ta đừng tìm kiếm họ tại đó. Và nếu nỗi buồn vẫn cứ đeo đẳng trong tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã xảy ra vào buổi sáng ngày Phục Sinh, nỗi buồn của chúng ta sẽ được hoà lẫn với một niềm hy vọng âm thầm.

-----------------------------

 

PS1-360:  NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC

 

Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của PS1-360 Đalat


Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia, liên sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm đường.

Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung quanh đó, anh không nhìn thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời bao la, tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng của không gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm giác mà anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù chật hẹp của tôi, và Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian”.

Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối tại đó trong bao lâu, miệng cứ lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh kể “Trong ngày hôm đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một con người”.

Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta không thể tách biệt sự sống lại của Đức Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người. Mặc dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc thương khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách thế để Người đi vào trong vinh quang của Người. Chúng ta không thể có được ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.

-----------------------------

 

PS1-361: NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC

 

Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ PS1-361


Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào mộ?

Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ, mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn một mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mồ rồi.

Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu có, để cho kẻ chết sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng hạn, người con trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng một lời nói hoặc một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp đỡ được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách đền bù đáng quý của cuộc sống, mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu chúng ta không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân mình.

-----------------------------

 

PS1-362: SỨ ĐIỆP BÊN MỒ

 

Đêm nay Giáo hội gọi là đêm Canh Thức Vượt Qua, nghĩa là chúng ta cùng canh thức để được “Vượt PS1-362


Đêm nay Giáo hội gọi là đêm Canh Thức Vượt Qua, nghĩa là chúng ta cùng canh thức để được “Vượt Qua” với Đức Kitô. Chúng ta tham dự vào Tam Nhật Thánh, đặc biệt trong đêm cực thánh này là để mong muốn cho chính bản thân mình, cũng như cầu chúc cho những người thân của mình có được sự đổi mới và sự sống mới. Khi chúng ta có được sự sống mới, khi chúng ta được đổi mới là chúng ta được “Vượt Qua”, vượt qua cái chết, vượt qua tội lỗi, vượt qua những cái cũ kỹ của bản thân mình…

Biểu tượng của cái chết, biểu tượng của những gì cũ kỹ được diễn tả qua ngôi mộ. Hình ảnh ngôi mộ trống cho chúng ta thấy Đức Kitô đã vượt qua cái chết, vượt qua những gì là cũ kỹ, xấu xa để đưa chúng ta vào một kỷ nguyên mới, vào sự sống mới.

Đứng trước ngôi mộ trống của Đức Giêsu đêm nay tôi nhận ra được 2 sứ điệp mà tôi gọi là sứ điệp bên mồ.

I.                   PHẦN THƯỞNG CHO NHỮNG AI DÁM YÊU

Sứ điệp thứ nhất: Tin mừng viết cho chúng ta “các bà” là những người đầu tiên được gặp gỡ Đấng Phục Sinh. Do đâu họ được diễm phúc đó? Thưa vì họ là những người đã có mặt bên thập giá của Chúa Giêsu, có mặt khi Chúa được đặt vào trong phần mộ để chôn cất, và giờ đây họ đang lãnh phần thưởng của tình yêu.

Có lẽ trong các phụ nữ theo Chúa Giêsu, hai cô gái này là những người yêu Chúa nhiều nhất. Tại sao vậy? Vì họ là những người được Chúa thông cảm và tha thứ nhiều nhất. Theo Thánh Luca thì Mađalêna là người phụ nữ bị quỷ ám, đã được Chúa chữa khỏi khi bà tìm gặp Người: “Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mađalêna, người được giải thoát khỏi bảy quỷ” (Lc 8, 2). Kinh thánh không hề viết Mađalêna là một cô gái điếm, mà chỉ nói cô là người được Chúa Giêsu “giải thoát khỏi bảy quỷ”. Nghĩa là cô là một con người tội lỗi rất nhiều được Chúa Giêsu tha thứ và chữa lành. Nếu chỉ đơn giản là cô gái điếm thì chỉ có một tội, đằng này cô được Chúa trừ tới bảy quỷ, tức là nhiều tội lắm.

Maria còn lại là ai? Rất có thể đó là Maria đã xức dầu thơm và lấy chính tóc của mình mà lau chân Chúa khi Ngài đang dũng bữa tại nhà ông Simon. Thánh Luca cho chúng ta biết: “Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pharisiêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên” (Lc 7, 36-38). Trước hành động khó hiểu của Maria và thái độ khó chịu của ông Simon, Chúa Giêsu đã nói: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha” (Lc 7, 47).

Chính vì đón nhận ơn tha thứ của Chúa Giêsu mà họ đã một lòng theo Chúa, chẳng những trên bước đường rao giảng, mà còn cả trong hành trình thương khó. Vì lẽ đó mà họ được diễm phúc thấy Đấng Phục Sinh đầu tiên. Đây chính là phần thưởng cho những ai dám yêu và theo sát gót Đức Giêsu.

II.               SỨ MẠNG CHO NHỮNG NGƯỜI DÁM SỐNG

Sứ điệp thứ hai mà tôi nhận được nơi ngôi mộ trống trong đêm cực thánh này là sứ mạng của Đấng Phục Sinh dành cho những ai dám sống vì yêu.

1.      Hãy tin:

Sứ mạng đầu tiên là hãy tin. Những lời của Thiên sứ nói với 2 người phụ nữ hôm nay nhằm nhắc lại lời hứa của Chúa Giêsu khi còn sống: “Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói” (Mt 28, 6a). Lúc này hai người phụ nữ mới nhớ lại chính Thầy mình đã nói những điều đó. Kế đến, Thiên sứ còn kêu họ đến ngôi mộ trống để kiểm chứng: “Các bà đến xem chỗ người đã nằm rồi mau về nói với các môn đệ” (Mt 28, 6b). Mỗi lời nói của Thiên sứ là một lời mời gọi họ hãy tin vào những điều Chúa Giêsu đã nói, vì đó là sự thật.

2.      Hãy loan báo:

Sứ mạng kế tiếp mà Đấng Phục Sinh muốn trao cho hai người phụ nữ trong bài Tin mừng hôm nay là hãy mau mắn loan báo Tin mừng Phục Sinh: “Mau về nói với các môn đệ” (Mt 28, 7); “Về báo tin cho anh em của Thầy” (Mt 28, 10)… Khi họ đã khám phá ra Chúa Giêsu Phục Sinh, họ được thúc giục phải chia sẻ cho người khác.

3.      Hãy vui mừng:

Sứ mạng thứ 3 mà Đấng Phục Sinh trao cho 2 cô Maria là hãy vui mừng. Lời chào của Đấng Phục Sinh dành cho 2 người phụ nữ hôm nay là “Chairete”! Nó không chỉ đơn giản là một lời chào thông thường, mà nó còn có nghĩa: “Hãy vui mừng lên!” Ai gặp gỡ Đấng Phục Sinh sẽ sống mãi trong niềm vui, vì từ nay không gì có thể làm họ buồn được, dù đó là gian truân, thử thách, và thậm chí là cái chết.
Sứ điệp bên mồ đó không chỉ dành riêng cho 2 cô Maria, mà còn dành cho mỗi chúng ta, những người đang canh thức Vượt Qua với Chúa.

III.            SỨ ĐIỆP CHO NHỮNG NGƯỜI ĐANG CANH THỨC

Sứ điệp đó trước hết là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương. Đứng bên cạnh ngôi mộ Chúa, chúng ta không chỉ xúc động theo cảm xúc của con tim khi chứng kiến cái chết của người thân, mà chúng ta còn phải rung động vì tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người quá sức tưởng tượng, tình yêu mà không có cảm xúc nào có thể tả xiết. Đối với Thiên Chúa, dám yêu là dám hạ mình xuống. Đó chính là mầu nhiệm Nhập Thể mà Thánh Giá là cao điểm của chứng từ yêu thương.

Tình yêu thương đó được tiếp nối trong sự tha thứ. Mađalêna bị tới “bảy con quỷ” nhập. Tức là trong bảy mối tội đầu, tội nào bà cũng có. Có thể nói bà là đại diện cho những người tội lỗi, chứ không phải chỉ là một cô gái điếm như chúng ta từng biết. Hay Maria là một người tội lỗi công khai trong thành chứ không phải chỉ là những tội thầm kín như chúng ta tưởng… Ấy vậy mà Chúa tha hết. Sao Chúa tha thứ dễ quá vậy? Như vậy mới là Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải suy xét cho kỹ. Thiên Chúa không cần điều kiện gì, nhưng để được tha thì con người phải có tấm lòng thành hướng đến Thiên Chúa. Nếu tình yêu của Thiên Chúa là hạ mình xuống, thì tình yêu của con người phải là vươn mình lên để sự phàm tục của con người chạm tới được sự thánh thiêng của Thiên Chúa.

Khi chúng ta được Thiên Chúa yêu thương tha thứ cũng là lúc Chúa cho chúng ta được gặp gỡ Ngài. Điều đó không phải một sớm một chiều chúng ta có được, mà nó phải là một hành trình để chúng ta ý thức mình tội lỗi, ăn năn sám hối và đón nhận ơn tha thứ. Và lại tiếp tục là cuộc hành trình vì không phải chúng ta được tha một lần cho tất cả, mà phải là liên lỉ trong suốt cuộc đời mỗi khi mình yếu đuối, phạm tội. Đó chính là hành trình vác thập giá, đứng dưới chân thập giá, chôn cất con người cũ của mình, thì mới mong được gặp Chúa, chính là con người mới của chúng ta.

II. SỨ MẠNG CHO NHỮNG NGƯỜI MUỐN ĐƯỢC ĐỔI MỚI

Khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh, chúng ta cũng được Ngài trao cho sứ mạng. Sứ mạng này cũng là để cho những ai muốn được gặp gỡ Đấng Phục Sinh.

1. Hãy tin:

Sứ mạng đó trước hết là hãy tin vào Chúa dù cho mọi biến cố của cuộc đời. Có nhiều người chỉ tin tưởng trong những lúc thuận lợi, chỉ sống đạo trong những lúc hăng hái, chỉ giữ đạo trong những lúc rãnh rang, chỉ đến nhà thờ khi thấy mình đầy đủ về tài chánh… Nghĩa là trong những lúc gian nan, thử thách, khó khăn, bận rộn, nghèo khổ… thì người ta không còn tin tưởng vào Chúa nữa. Muốn thấy Chúa Phục Sinh thì phải đi cùng với Chúa trên con đường khổ nạn.

Như vậy sứ mạng “hãy tin” đòi hỏi chúng ta một sự liên lỉ để nhìn thấy Chúa ngay cả trong những lúc đêm tối của cuộc đời. Và quả thật, những người tin tưởng một cách tuyệt đối thì không gì có thể ngăn cản họ đến với Chúa.

2. Hãy loan báo:

Sứ mạng kế tiếp của Đấng Phục Sinh là hãy loan báo cho người khác biết Tin mừng mình đã lãnh nhận. Ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho một cá nhân nào, mà phải loan đi “đến tận cùng trái đất”, nghĩa là ở bất cứ nơi nào chúng ta hiện diện.

Sứ mạng loan báo Tin Mừng này thúc giục những người chồng hoặc những người vợ đang sống đức tin phải nhắc nhở, động viên cho người bạn đời của mình nếu như họ chưa sống tốt Tin Mừng Phục Sinh. Rất nhiều những đôi vợ chồng mà một bên không Công giáo theo một bên Công giáo. Chúng ta phải cám ơn Chúa, cám ơn những người chồng, những người vợ đã được gặp Chúa nhờ người bạn đời của mình. Đồng thời đó cũng là trách nhiệm cho bên Công giáo phải tiếp tục dẫn dắt người bạn đời của mình trong đức tin mà mình đã gieo cho họ. Lắm lúc chúng ta phải chấp nhận hy sinh, hạ mình nhiều hơn họ vì đức tin của chúng ta. Thành thật nhìn lại thì có nhiều gia đình mà người chồng hoặc người vợ “đạo gốc” sống đạo chưa tốt, huống hồ chi đến chuyện nhắc nhở, lôi kéo người bạn đời là người theo đạo của mình? Trớ trêu thay, có những người chồng, người vợ theo đạo chúng ta mà họ lại sống tốt, giữ đạo đàng hoàng; điều đó khiến cho những người chồng, những người vợ “đạo gốc” phải suy nghĩ lại.

3.      Hãy vui mừng:

Sứ mạng cuối cùng của Đấng Phục Sinh là hãy vui mừng. Những ai sống gắn bó với Chúa thì không gì có thể khiến họ buồn phiền vì họ biết rằng niềm vui Phục Sinh là động lực và cùng đích cuộc đời của họ.

Sự khác biệt giữa người có đức tin và người không có đức tin là ở chỗ chúng ta luôn luôn bình an trong mọi cảnh huống của cuộc đời.

Tóm lại đứng bên ngôi mộ trống của Chúa đêm nay chúng ta nhận được hai sứ điệp. Sứ điệp thứ nhất là muốn được Phục Sinh với Chúa thì phải gắn bó với Ngài. Sứ điệp thứ hai là Đấng Phục Sinh trao cho chúng ta sứ mạng phải tin, phải loan báo và phải vui mừng.

“Vì Chúa đã Phục Sinh, nên con tin vào quyền năng của Ngài, sẽ đổi mới, thế gian này, đổi mới mọi sự từ đây”.

-----------------------------

 

PS1-363:  Các phụ nữ tại mộ Đức Giêsu 


(Luca 24,1-12 – Canh thức Vượt Qua - C)

 1.- Ngữ cảnh

 

Chúng ta cần phải đọc bản văn Lc 24,1-12 trong toàn bộ phân đoạn 23,55–24,12 vì đây là một bài PS1-363


Chúng ta cần phải đọc bản văn Lc 24,1-12 trong toàn bộ phân đoạn 23,55–24,12 vì đây là một bài tường thuật liên tục.

          Sau khi Đức Giêsu được mai táng (Lc 23,50-54), đã đến giờ của các phụ nữ Galilê. Tác giả đã nói đến họ trước đây (8,2t; 23,49), nhưng chỉ ở Lc 23,55–24,10, chứ không ở bất cứ bản văn nào khác, sự quan tâm mới được tập trung vào các bà. Các bà là những người duy nhất tỏ ra năng động. Tình yêu của các bà đối với Đức Giêsu vẫn còn sống động. Các bà làm những gì có thể làm (x. Mc 14,8), tức khắc các bà bố trí một việc nghĩa (tốt) cho Đức Giêsu (x. Mc 14,6) và tìm cách thực hiện càng nhanh càng tốt. Đến mộ, thấy tình trạng lạ lùng, các bà còn đang phân vân thì hai thiên sứ đã thông tin: sứ điệp không nói đến các môn đệ mà chỉ nói với các bà thôi. Các bà về cộng đoàn như là những sứ giả đầu tiên của cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu.
 
2.- Bố cục


          Bản văn có thể chia thành bốn phần:
          1) Các phụ nữ đi ra mộ Đức Giêsu (24,1-3);
          2) Hai người đàn ông thông tin cho các bà (24,4-8);
          3) Các phụ nữ đưa tin cho Nhóm Mười Một (24,9-10a);
          4) Nhóm Mười Một phản ứng trước các lời của các bà (24,10b-12).
 
3.- Vài điểm chú giải

- Họ còn đang phân vân (4): Động từ aporein (x. Mc 6,20) và aporeisthai (x. Lc 24,4; Ga 13,22; Cv 25,20) có nghĩa là “bị lúng túng, ở trong tình trạng lưỡng lự, khó khăn; không biết phải tính sao” (poros, “con đường”; aporos, “một người không có đường đi”).

- Các bà sợ hãi (5): Emphobos, “sợ hãi”: x. Lc 24,37; Cv 10,4; 24,25. Trong công thức emphobos genomenos, nỗi sợ hãi luôn luôn là hậu quả của một kinh nghiệm đi trước.

- cúi gầm xuống đất (5): Công thức klinein to prosôpon này không hề có trong bất cứ đoạn nào của Tân Ước, thậm chí trong Bản LXX. Có công thức klinein tên kephalên, “tựa đầu; nghiêng đầu” trong Tân Ước (Mt 8,20; Lc 9,58; Ga 19,30) và klinein to ous, “nghiêng tai, lắng tai” ở trong Bản LXX thường xuyên (chẳng hạn Tv 30,2; Hc 4,8). Công thức piptein epi prosôpon, “ngã sấp mặt xuống đất” có trong Bản LXX và Tân Ước (x. Mt 17,6; 26,39; Lc 5,12; 17,16).  Đây là một cử chỉ dữ dội nên dường như không tương đương với klinein to prosôpon. Các bà chỉ “nghiêng mặt về phía mặt đất” (và không dám nhìn lên) vì sợ hãi hoang mang. Có thể so sánh phản ứng này với Mc 16,5b.

- Người Sống ở giữa kẻ chết?Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy (5-6): Hai câu này theo cách chuyển hoán vừa tóm vừa giải thích hai yếu tố của câu hỏi các thiên sứ đặt ra:

a = Người Sống
b  = kẻ chết
b’ = không ở đây
a = đã trỗi dậy

- các bà kể cho Nhóm Mười Một (9): Động từ apangellein, “đưa tin, làm cho biết, kể lại” (Mt 8 lần; Mc 5 lần; Lc 11 lần; Ga 1 lần; Cv 16 lần) là hoạt động của người đã chứng kiến một biến cố và này cung cấp thông tin; Mt 28,8.10 và Lc 14,9 áp dụng cho các phụ nữ. Các bà thông tri “tất cả những sự việc ấy”, tức là tất cả những gì các bà đã chứng kiến ở 24,2-8, tất cả kinh nghiệm họ đã có khi ở tại mộ Đức Giêsu.

- Mấy bà nói đây là bà Maria Mácđala, (…). Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói (10):  Câu này có thể hiểu hai cách: a) Trong trong hợp thứ nhất, toàn câu xác định các bà đã đưa tin ở Lc 24,9 cho Nhóm Mười Một là ai: “Là bà Maria Mácđala, bà Gioanna, và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này”. Rồi tác giả nhắc lại việc các bà kể truyện và nói (có chút lặp lại): “Họ (= tất cả các phụ nữ) nói với các tông đồ các điều này”. Bản Tân Ước Hy Lạp Nestle-Aland 1998 theo cách đọc này. 2) Trong trường hợp thứ hai, câu văn được cắt đôi như sau: “Là bà Maria Mácđala, bà Gioanna, và bà Maria, mẹ ông Giacôbê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các tông đồ như vậy” (CGKPV). Lời kể của các bà này được coi như là một lời xác nhận lại lời kể của các bà đầu và như thế, bản văn không có vẻ lặp lại. Tuy nhiên, cách cắt như thế dường như đi ngược lại với lô-gích của cả đoạn 23,55–24,10. Ngay lúc đầu, ở 23,55, nhóm các phụ nữ được nêu lên không có chia nhóm nhỏ; rồi khi nói đến các hành động của họ sau đó, kể cả 24,9, ta hiểu đó là hành động của cả một nhóm, và chỉ đến cuối, ở 24,10a, tác giả mới cho biết nhóm đó gồm những ai. Cả ở câu 24,11, “các ông cho đó là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin các bà”, thái độ không tin được các tông đồ tỏ ra là với cả nhóm các phụ nữ. Chỉ ở 24,10 mới có sự chia nhóm thì khó thuyết phục. Do đó, có thể nói, ở 24,9-10a, tác giả nhấn mạnh trên việc các phụ nữ loan tin, còn ở 24,10b-12, ngài nhấn mạnh trên phản ứng của các tông đồ. 

- tông đồ (10b): Lc đặc biệt quan tâm đến danh hiệu “hoi apostoloi” và chức năng thừa sai của các ông (Lc 6,13; 9,10; 11,49; 17,5; 22,14; 24,10; trong Cv 28 lần; x. Mt 10,2; Mc 3,14; 6,30). Các ông là những người đã được Đức Giêsu ký thác cho sứ mạng tiếp tục công việc của Người (x. 9,1-6).

- Nhưng các ông cho đó là chuyện vớ vẩn (11): dịch sát là “Các lời ấy [ta rhêmata tauta] có vẻ là lời nói sảng [lêros]” (NTT). Từ nghữ rhêma, “lời nói; sự việc” thường được Lc dùng (Mt 5 lần; Mc 2 lần; Lc 19 lần; Ga 12 lần; Cv 14 lần); để chỉ một khối các lời nói và/hoặc các sự việc thì tác giả dùng số phức (Lc 1,65; 2,19.51; 7,1; 24,8.11). Ở Lc 7,1 và 24,8, từ này chĩ có ý nghĩa giới hạn là “các lời nói”; ở 1,65 và 2,19.51, từ này có nghĩa là “các lời và các hoàn cảnh”. Bởi vì lêros (chỉ có trong quyển ngụy thư 4 Mcb 5,11 và Lc 24,11) có nghĩa là “nói ba hoa; nói nhảm; nói sảng” và được dùng ở 24,11 để nêu đặc tính của ta rhêmata tauta, công thức này dường như chỉ có nghĩa là “các lời này”; do đó dịch như NTT là tốt. Mọi sự chỉ dừng lại ở bình diện các lời nói.

- Ông trở về nhà (12): Công thức aperchesthai pros heauton có nghĩa là “trở về nhà” (x. Ga 20,10); Nova Vulgata dịch là “rediit ad sua”.
 
4.- Ý nghĩa của bản văn

* Các phụ nữ đi ra mộ Đức Giêsu (1-3)

          Các phụ nữ đã quyết định đi tẩm liệm lại thi hài của Đức Giêsu. Vào ngày sa-bát, các bà đã giữ luật nghỉ ngày thứ bảy để giữ đúng lệnh Thiên Chúa truyền (kata tên entolên). Đây là một thời gian yên tĩnh và suy nghĩ. Vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc tảng sáng (orthros bathys, “vừa hừng sảng”), các bà đã đi ra mộ Đức Giêsu. Lý do các bà đi ra đó được báo trong câu tiếp sau: “mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn” (x. 23,56a). Câu này kết nối bản văn với phần đi trước. Vào ngay chiều an táng Đức Giêsu (khác với Mc 16,1), các phụ nữ đã chuẩn bị dầu và thuốc thơm, rõ ràng là để tẩm liệm thi hài Đức Giêsu, cho dù tác giả Lc không dùng minh nhiên động từ aleiphein, “xức dầu” (x. Mc 14,6). Tình thương mến của các bà đối với Đức Giêsu, nay chỉ còn là một thi hài, được diễn tả ra trong “việc tốt” (x. Mc 14,6) là việc xức dầu. Do đó các bà đã chuẩn bị, rồi bây giờ đi ra mộ càng nhanh càng tốt. Nhưng có hai khám phá lạ lùng và trái ngược với những gì các bà đang chờ đợi: 1) tảng đá đã lăn ra khỏi mộ; 2) không thấy thi hài Đức Giêsu.

Rất có thể các bà chờ đợi gặp một ngôi mộ đóng kín (x. Mc 16,3-4), bây giờ lại thấy một ngôi mộ mở. Một ngôi mộ mở luôn luôn làm cho người ta sợ: nó làm cho ta nghĩ đến một cái mõm của một con quái vật sẵn sàng nuốt trửng các nạn nhân. Nó đã nuốt trửng một nạn nhân cách đây ba ngày, thế mà chưa đủ sao? Điều đầu tiên các bà nghĩ tới là hẳn đã có trộm. Dù có bản án tử hình cho kẻ nào xúc phạm đến các ngôi mộ, cám dỗ vẫn rất lớn. Biết đâu các bà cũng nghĩ rằng hay là linh hồn Đức Giêsu đã nhập vào lại thân xác Người, nên Người lại sống, nhưng Người đâu rồi? Các bà lại không thấy thi hài Đức Giêsu đâu cả. Đến lúc này, các bà không còn biết phải làm gì nữa, các bà lúng túng (c. 4). Ở Lc 24,3, hành vi các bà bước vào mộ không được kết nối với việc các bà thấy một thiên sứ (khác với Mc 16,5); và chính các bà nhận ra rằng không có thi hài, chứ không do vị thiên sứ lưu ý (như trong Mc 16,6). Trong Lc, sự phân vân bối rối của các bà hoàn toàn dựa trên các nhận xét của chính các bà là những người phàm; và đây là khung cảnh trong đó hai thiên sứ xuất hiện.
 
* Hai người đàn ông thông tin cho các bà (4-8)

          Có hai người đàn ông đến bên họ, y phục sáng chói (c. 4). Cv 1,10 có kể lại một cuộc xuất hiện tương tự của hai người đàn ông. Khi đó, bởi vì các môn đệ còn đang ngơ ngác khi chứng kiến Đức Giêsu biến mất, hai vị ấy đã giải thích hoàn cảnh: Đức Giêsu đã được đưa lên trời và một ngày nào đó, Người sẽ trở lại (Cv 1,11). Sự kiện các vị này có mặt hai người chứng tỏ họ là những chứng nhân (x. Đnl 19,15) và nêu bật giá trị của các lời của các vị. Y phục sáng chói (x. Mt 28,3) cho hiểu là các vị đến từ thiên giới. Ở xa hơn, hai người này được nhận dạng là “thiên thần” (24,23). Mc thì nói là “một người thanh niên” (Mc 16,5), Mt thì nói rằng “thiên thần Chúa từ trời xuống” (Mt 28,2), còn Ga thì nói đến “hai thiên thần” (Ga 20,12). Các tác giả TM dùng ngôn ngữ khác nhau, nhưng sứ điệp thì y như nhau: trời cao đã gửi ánh sáng xuống để làm sáng tỏ mầu nhiệm sự chết, để trả lời cho một trong những điều bí nhiệm lớn lao nhất vẫn đang làm rối loạn các con tim.

          Thấy hai người lạ đó, các bà “sợ hãi” (emphobos: x. Lc 24,37; Cv 10,4; 24,25); đây là một phản ứng bên trong. Tác giả còn ghi thêm một cử chỉ bên ngoài: các bà “cúi gầm xuống đất”, tức không dám ngước mắt lên nhìn. Hai người đàn ông bắt đầu can thiệp (cc. 5b-7) bằng một câu hỏi, tiếp theo là hai khẳng định rồi kết thúc bằng một mệnh lệnh cách; ở đầu không có lời khuyến khích “đừng sợ” như ở Mt 28,5 và Mc 16,6. Câu hỏi nêu bật đặc tính phi lý của hành vi của các bà. Các bà tìm cách đến gần Đức Giêsu, nhưng đã chọn sai chỗ. Ta có thể ghi nhận một thứ “đóng khung” giữa hai câu hỏi: Lc 2,49: “mà tại sao lại tìm con” và Lc 24,5: “tại sao các bà đi tìm Người Sống ở giữa kẻ chết”. Câu hỏi thứ nhất, Đức Giêsu 12 tuổi ngỏ lời với Maria và Giuse; còn câu thứ hai là do hai nhân vật ngỏ với các phụ nữ. Trong cả hai trường hợp, vấn đề là đi tìm Đức Giêsu theo cách không xứng hợp. Ở 24,15, ta ghi nhận sự đối lập rõ ràng giữa “Người Sống” (ho zôn) và “giữa kẻ chết” (meta tôn nekrôn). Hai người đàn ông đã tỏ bày cho biết Đức Giêsu là “Người Sống”. Đặc điểm phù hợp với Đức Giêsu nhất, đó là sự sống (Lc 24,23; Cv 1,3; 25,19; Kh 1,18): Người không còn thuộc về vương quốc của kẻ chết một tí nào nữa. Câu hỏi của hai thiên sứ có hàm ẩn một ý trách móc, dù sao cũng nhằm sửa chữa cách hành động của các phụ nữ. Các câu 5 và 6 ở thể chuyển hoán nhắc lại và giải thích câu hỏi của các thiên sứ. Lời khẳng định “Người không ở đây” nhắc lại rằng Đức Giêsu không còn ở trong mộ nữa, không còn ở giữa kẻ chết nữa. Lời khẳng định “Người đã trỗi dậy” giải thích sự vắng mặt của Người và cũng xác định bản chất của sự sống của Người. Người không quay lại với sự sống trần thế, vì Thiên Chúa đã đưa Người vào trong sự sống thần linh của Ngài (x. 24,34).

Sau đó, bằng mệnh lệnh “hãy nhớ lại” (mnêsthête), hai người yêu cầu các bà nhớ lại các lời Đức Giêsu đã nói trước với các bà khi còn ở Galilê và kết nối sứ điệp vừa được nghe với các lời báo trước đó. Như thế không phải là các bà mới nghe sứ điệp này lần đầu tiên, bởi vì sứ điệp này chỉ là ghi nhận sự hoàn tất các lời Đức Giêsu đã nói trước đây. Không những các môn đệ mà cả các phụ nữ cũng đã ở với Đức Giêsu tại Galilê (Lc 8,1-3) và đã đi với Người trên đường lên Giêrusalem (24,55). Do đó, các bà phải biết các lời tiên báo này (9,22.44; 17,25; 18,32t). Trong khi Mt 28,6 chỉ vắn tắt nhắc tới các tiên báo đó của Đức Giêsu, Lc 14,7, cho dù không trích rõ ràng một lời nào, lại hàm chứa mọi yếu tố của các lời tiên báo đó: nói đến Con Người (x. 9,22.44; 17,25; 18,31) bằng cách để ở đầu câu; nêu bật ý muốn cứu độ của Thiên Chúa (dei, “điều cần thiết”; x. 9,22; 17,25); nhắc đến việc Người bị nộp vào tay người tội lỗi (x. 9,44 nhưng không có từ “tội lỗi”), việc Người bị đóng đinh (nhưng 9,22 và 17,33 nói là “bị giết”) và việc Người sống lại (17,33: anastêsetai) vào ngày thứ ba (9,22; 17,33). Liên hệ giữa các lời tiên báo của Đức Giêsu và các biến cố thuộc số phận Người được khẳng định mạnh mẽ, rõ ràng là để giúp chấp nhận và hiểu con đường của Đức Giêsu. Chính Đấng Phục Sinh cũng quy chiếu về các lời Người đã nói trước đây (24,44), nhưng đặc biệt quy chiếu đến những gì được viết về Người trong Kinh Thánh (24,25-27.44-46; x. 17,31-33).

Với lời kêu gọi hãy nhớ lại, chấm dứt các lời nói của hai người. Các bà không được cử đi đến với các môn đệ và không phải loan báo cho họ một cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh tại Galilê. Tác giả Lc cũng không ghi lại một phản ứng tình cảm nào của các bà khi được nghe sứ điệp Phục Sinh (Mt 28,8: “sợ hãi và rất đỗi vui mừng”; Mc 16,8). Ngài chỉ cho thấy rằng các bà đã thật sự nhớ lại những điều Đức Giêsu đã nói (24,8).
 
* Các phụ nữ đưa tin cho Nhóm Mười Một (9-10a)

          Trong khi Lc 24,1-8 được xác định là mộ Đức Giêsu, đoạn văn tiếp theo lại tập trung vào cuộc gặp gỡ của các phụ nữ với Nhóm Mười Một và những người khác (24,9-12). Tuy nhiên, phản ứng của Phêrô đã lại đưa ông ra mộ (c. 12). Ở bên trong 24,9-12, có thể phân biệt ra bài tường thuật của các phụ nữ (cc. 9-10a) và phản ứng của những người nghe (cc. 10b-12): các phụ nữ, nay được giới thiệu rõ ràng tên tuổi, đã về tường thuật tình hình cho các tông đồ (cc. 9-10a), nhưng các tông đồ cho là chuyện phi lý nên không tin các bà (cc. 10b-12). Thật ra nhóm nghe các bà kể lại là “Nhóm Mười Một và mọi người khác” (tois hendeka kai pasin tois loipois: 24,9 // 24,33: tous hendeka kai tous syn autois, “Nhóm Mười Một và những người đang ở với các ông”).

Nòng cốt của nhóm này là “Nhóm Mười Một” (hoi hendeka: Mt 28,16; Lc 24,9.33; Cv 1,26; 2,14), nghĩa là những người thuộc “Nhóm Mười Hai” (hoi dôdeka: Mt 8 lần; Mc 11 lần; Lc 7 lần; Ga 4 lần) còn trung thành sau khi Giuđa đã hư hỏng (22,3-6). Đây là một cộng đoàn có tổ chức, cũng là điểm quy chiếu cho các kinh nghiệm của từng thành viên, đặc biệt cho những gì liên hệ đến các biến cố Vượt Qua (24,9.33).

Khi nêu rõ tên gọi của ba phụ nữ (x. Mt 28,1 và Mc 16,1), tác giả cho hiểu rằng lời chứng của các bà không vô danh  và kém giá trị, nhưng đến từ những người được xác định rõ. Trong khi ở 23,49.55, Lc chỉ nói đến các phụ nữ (gynaikes; ở Mt 27,56.61 và Mc 15,40.47, các bà có tên), bây giờ (24,10) ngài nêu lên một vài tên đã nói đến trong lần đầu (8,2t). Ở vị trí đầu tiên, luôn luôn là bà Maria Mácđala (cả trong Mt và Mc; x. Ga 19,25; 20,1.18); bà này có vẻ là người hứơng dẫn, là người năng động nhất. Chỉ ở Lc 24,10, xuất xứ của bà (Mácđala) mới được nêu ra, có lẽ để phân biệt với một Maria khác. Cùng với các tên riêng, có ghi nhận về các bà khác. Ba bà được nêu tên là nòng cốt của một nhóm đông hơn (x. 24,9.33).
 
* Nhóm Mười Một phản ứng trước các lời của các bà (10b-12)

          Sau một ghi nhận ngắn về việc các bà tường thuật các sự việc, tác giả ghi ra hai phản ứng: toàn Nhóm Mười Một không tin các bà và Phêrô chạy ra mộ.

          Tại Lc 24,10, thay vì Nhóm Mười Một, tác giả nói đến các “tông đồ” và không nhắc đến những người khác. Tác giả nêu bật nhóm trung tâm và nhiệm vụ của các ông là những ngườii được sai đi. Nay các ông từ khước chứng từ của các phụ nữ.

Tác giả nhắc ba lần đến việc các bà kể lại: apêngeilan tauta panta (c. 9); elegon … tauta (c. 10b); ta rhêmata tauta (c. 11). Mọi sự chỉ dừng lại ở bình diện các lời nói. Các tông đồ không nhìn nhận rằng các lời nói của các phụ nữ được đặt trên các sự kiện, nhưng không có thật giống các lời nói sảng của một người đang mơ (x. Nova Vulgata: “Et visa sunt ante illos sicut deliramentum verba ista”). Bằng cách đó, tác giả cũng nêu bật tính cách phi thường và khôn tả của những gì vừa được khẳng định trong các lời này. Hậu quả là các tông đồ không tin các phụ nữ (êpistoun autais; x. 24,41), không coi các bà là những người đáng tin.

Tác giả cũng nói đến một phản ứng riêng của Phêrô: ông chạy ra mộ để kiểm chứng những gì các bà đã tường thuật. Ngay từ đầu Phêrô đã đóng một vai trò đặc biệt (x. Lc 4,38; 5,1-11; 6,14; v.v.); Đức Giêsu đã cầu nguyện cho đức tin của ông và đã ký thác cho ông nhiệm vụ củng cố các anh em ông (23,31t). Lần cuối cùng ông xuất hiện, đó là vào dịp chối Đức Giêsu ba lần (22,54-62). Bây giờ ông đi lại hành trình mà các phụ nữ đã thực hiện trước ông (24,1) và chạy đến mộ (x. Ga 20,3.4.6; theo Lc 24,24 và Ga 20,1-9, ông không đi một mình). Hành vi chạy là một cách ứng xử lạ thường đối với một người lớn (x. Lc 15,20; 19,4; Mt 28,8) và cho thấy một sự quan tâm và một nỗ lực đặc biệt. Ông cũng chỉ thấy một ngôi mộ trống, nhưng ông kiểm chứng kỹ càng (24,12; x. Ga 20,5).

Vào dịp liệm thi hài Đức Giêsu, cả bốn tác giả Tin Mừng đều nhắc đến tấm khăn dùng để bọc thi hài Đức Giêsu (hê sindôn = tấm vải lanh mịn, tấm khăn: Mt 27,59; Mc 15,46; Lc 23,53; ta othonia = các dải vải lanh, các dải vải: Ga 19,40). Chỉ có Lc và Ga nói đến việc Phêrô (và trong Ga, với một môn đệ khác) kiểm chứng ngôi mộ. Vào dịp này, cả Lc cũng nói đến othonia (Lc 24,12; x. Ga 20,5.6.7). Phêrô ghi nhận, trong tư cách chứng nhân mắt thấy (blepein, “nhìn xem”) rằng ở trong mộ chỉ có các dải vải, chứ không có thi hài mà các dải vải này đã bọc lại. Ít ra phần tường thuật này của các bà được chứng tỏ là thật. Từ “không tin”, vị tông đồ chuyển sang “ngạc nhiên” (thaumazôn; x. 24,41 là nơi tác giả kết nối apistein với thaumazein). Đối tượng của sự ngạc nhiên là to gegonos, “sự việc đã xảy ra”, dường như không chỉ là ngôi mộ trống, mà còn là tất cả những gì có trước đó, kẻ cả những gì các phụ nữ đã kể. Thế là “ông trở về nhà” (apêlthen pros heauton). Sự kiến tác giả không nói rằng Phêrô trở về cộng đoàn (x. Lc 24,9.33), dường như chuẩn bị cho truyện Chúa Phục Sinh hiện ra cho riêng Phêrô (24,34).
 
+ Kết luận

Qua bản văn này, các phụ nữ Galilê là cái cầu liên kết sự hiện diện chứng kiến hoạt động của Đức Giêsu tại Galilê (Lc 8,1-3) với sự hiện diện trong hành trình của Người lên Giêrusalem, khi Người chết và được mai táng (23,49.55) và với lời loan báo Người sống lại. Bài tường thuật liên tục Lc 23,55–24,10 (12) là một biểu tượng về sự kết hiệp liên tục, và được xác nhận cách tuyệt vời, của các phụ nữ Galilê với Đức Giêsu. Các bà đã làm tất cả những gì có thể làm về phương diện con người, để rồi ghi nhận mồ đã trống và thi hài của Đức Giêsu không còn ở đó nữa (24,2t; x. Ga 20,2); rồi Phêrô cũng đến để đích thân ghi nhận như thế (24,12). Bây giờ, các bà lại được coi là những con người ân cần, đáng tin cậy. Các bà cũng xuất hiện (= được nhắc tới) trong truyện hai môn đệ Emmau như là những người đầu tiên đã đánh thức cộng đoàn để ra khỏi tình trạng tê cóng (24,22-24) để rồi lại tiếp tục hiện diện ở trong lòng cộng đoàn (x. Cv 1,14).
 
5.- Gợi ý suy niệm

1. Các phụ rời mộ như là những người đã chứng kiến sự trống trải và đã nhận được một lời giải thích có thế giá cho sự kiện, tương ứng với chính những lời Đức Giêsu đã nói. Nay các bà xác tín rằng việc xức dầu cho thi hài không còn phải là cách xứng hợp để diễn tả tình yêu đối với Đức Giêsu nữa; tình yêu của các bà bây giờ đã có một “đối tượng” mới, hết sức  cao vời, đó là Đức Giêsu đã sống lại và đang sống. Tất cả những điểm này chính là nội dung các bà loan báo cho cộng đoàn (Lc 24,8).

2. Các phụ nữ không nhận được nhiệm vụ đi đến với các môn đệ để xác nhận với họ những gì Đức Giêsu đã nói với họ trước khi di vào cuộc Thương Khó. Các bà không phải là các sứ giả để đưa ơn gọi mới đến cho các môn đệ, để giao hòa các ông với Đức Giêsu và để đưa các ông đi gặp Người tại Galilê. Điều này tương ứng với các bản văn khác của Lc. Tác giả không nói đến lời tiên báo của Đức Giêsu có ở Mt 26,32; 28,7 và Mc 14,28; 16,7. Các môn đệ không có mặt kể từ khi Đức Giêsu bị bắt (22,54) cho đến khi các phụ nữ loan tin Người đã sống lại (24,9), ngoại trừ Phêrô (22,54-62). Nhưng tác giả Lc không nhắc lại sự thất bại của họ, không kể lại lời tiên báo của Đức Giêsu về sự sa sút của họ (x. Mt 26,31; Mc 14,27), cũng như việc họ bỏ Người mà trốn (x. Mt 26,56; Mc 14,50). Trong Lc, không có đề tài nói về sự bất trung của nhóm gần kề Đức Giêsu nhất và nói về việc Đức Giêsu giao hòa với họ; sự tha thứ cho việc Phêrô chối Người dường như đã được hiểu ngầm trong lời Đức Giêsu cầu nguyện cho ông, trong nhiệm vụ được giao cho ông trong tương lai (22,31t) và trong cái nhìn Đức Giêsu hướng về ông sau sự cố (23,61t).

3. Bản văn là một lời mời gọi thấy tầm quan trọng của các lời Đức Giêsu. Các phụ nữ được mời gọi nhớ lại các lời Đức Giêsu đã nói. Nhờ nhớ lại các lời ấy, nhờ suy nghĩ cân nhắc về tương quan giữa các lời và các biến cố, các lời được trân trọng và các biến cố được đánh giá và hiểu đúng đắn. Các lời và các biến cố soi sáng lẫn nhau. Chỉ dưới ánh sáng của các lời Đức Giêsu đã nói (x. Lc 22,61; 24,8; Ga 2,22) và của Kinh Thánh (x. Lc 24,25-27.44; Ga 2,17; 12,16), các biến cố thuộc cuộc đời Đức Giêsu mới nên sáng tỏ và hiểu được. Chúng ta có thể gặp được Đức Giêsu qua Lời của Người. Nhờ nhớ lại Lời của Người, chúng ta mở lòng ra với Người là Đấng Phục Sinh.

4. Chứng tá của các phụ nữ là nhắm đến cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu. Trong Mt và Mc, nhiệm vụ của các bà chỉ nhắm đến Nhóm Mười Một (x. Mt 28,16; Mc 14,17; 14,28; 16,7). Trong Lc, cộng đoàn với Nhóm Mười Một như là nòng cốt, xuất hiện ra như một nhóm khá vững chắc và như là điểm quy chiếu rõ ràng cho các cá nhân (Lc 24,9.33; Cv 1,13t). Cộng đoàn nên phong phú nhờ các kinh nghiệm của từng cá nhân cũng như các lời chứng của các phụ nữ (Lc 24,9), của hai môn đệ Emmau (24,35) và của Phêrô (24,34). Những kinh nghiệm và chứng tá đó cuối cùng được xác nhận và đóng ấn bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh khi Người hiện ra. Khi  đó, cộng đoàn trở thành một cộng đoàn thật sự vượt qua, vững vàng trong niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.

5. Chính sự khó tin của các tông đồ cho thấy rằng lời loan báo về Đức Giêsu Phục Sinh không phát xuất từ những con người ngây ngô dễ tin, nhưng từ những con người chín chắn và có óc phê bình. Phản ứng của Phêrô cho thấy rằng chứng từ của các phụ nữ đã là một thứ kích thích đưa ông ra khỏi tình trạng bất động, để tiến đi trong một hành trình kiểm chứng đưa tới chỗ gặp Đức Giêsu Phục Sinh (Lc 24,12.34).

6. Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Người đã thay đổi đời sống chúng ta, và đứng bên cạnh những ngôi mộ của chúng ta, chúng ta “nhớ” Chúa Giêsu. Chúng ta “nhớ” đức tin chúng ta đặt vào Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, làm chúng ta thêm can đảm thắng những sự dữ trong đời chúng ta, giúp chúng ta tiếp tục cố gắng làm những gì để sự sống Nước Trời được thực hiện trong đời sống chúng ta, và giúp chúng ta không chán nản vì sự thay đổi chậm trễ trong đời sống chúng ta và đời sống kẻ khác. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu khi chúng ta được tin buồn, và khi chúng ta nhìn ngôi mộ của sự chán nản và thất bại: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. “Đây là mình Thầy…” “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Chúng ta nhìn vào ngôi mộ trống không với các phụ nữ, và chúng ta nghe lời khuyên bảo của hai người đàn ông mặc áo chói lóa ở đó. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu nói. Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể là lương thực hàng ngày, là của ăn đường giúp chúng ta sống như lời nói trong phụng vụ ngày hôm nay “chúng ta vui mừng chờ đợi ngày Đức Giêsu Kitô đến” (Siciliano).

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

-----------------------------

 

PS1-364: CHÚA PHỤC SINH LÀ TIN MỪNG CHO NHÂN LOẠI


LỄ VỌNG PHỤC SINH 2016

(Lc 24,1-12)

Jos. Vinc. Ngọc Biển

 

Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của ........Thế nên, không ai dại dột mà tin và gắn PS1-364


“Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cor 15,14); hay: “Nếu chúng ta đặt hi vọng vào Đức Kitô chỉ vì những sự đời này, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hại nhất trong thiên hạ” (1Cor 15,19),

Thế nên, không ai dại dột mà tin và gắn bó cả cuộc đời cũng như mọi chiều kích của cuộc sống vào một con người mà kết thúc cuộc đời bằng cái chết! Thân xác bị chôn vùi trong huyệt mộ là dấu chấm hết cho chính con người đó cũng như những ai đã từng đặt lý tưởng cuộc đời mình vào họ.

Nhưng, niềm tin vào Đức Giêsu đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì Đấng mà chúng ta tin tưởng, gắn bó và phó thác chính là Đấng đã từng chết thật, nhưng cũng đã sống lại thật sau ba ngày nằm trong mộ phần.

Như vậy, chúng ta thật hãnh diện về Đấng Cứu Chuộc có tên là Giêsu, vì nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà chúng ta được sống và sống dồi dào, bởi lẽ, nếu chúng ta cùng sống và chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng Ngài sống lại trong vinh quang.

1.           Hãy trở về Galilê để sống niềm vui sứ vụ

Niềm tin vào Đấng Phục Sinh được Tin Mừng theo thánh Luca trình bày bằng sự kiện các phụ nữ, những người yêu mến Đức Giêsu đi ra mộ lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, tức là kế sau ngày Sabát, để thi hành công việc chăm sóc, sức thêm thuốc thơm nơi xác Đức Giêsu, đây là công việc lẽ ra phải làm chu đáo hôm an táng Ngài. Tuy nhiên vì là áp lễ Vượt Qua của người Dothái, nên những việc làm tỉ mỉ không thể thực hiện được, vì nếu làm như thế, thời gian sẽ chuyển sang ngày Sabát, mà ngày Sabát thì lại là luật cấm làm việc xác...

Khi đến nơi, các phụ nữ thật ngỡ ngàng, vì cửa mộ đã mở tung và trong mộ không còn thi thể Đức Giêsu!!!

Thấu hiểu nỗi sợ hãi và hoang mang của các phụ nữ, nên thiên thần đã hiện ra chấn an các bà và nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại" (Lc 24 5-7).

Sau khi được các thiên thần nhắc cho các bà nhớ lại lời Đức Giêsu đã tiên báo, các bà rất vui mừng và thêm xác tín vào những lời Đức Giêsu đã nói với các bà trước đó, vì thế, họ hân hoan trở về và báo tin mừng này cho các môn đệ. Tin Mừng thánh Mátthêu thì nói rõ hơn và còn tiên báo cho biết: chính Đức Giêsu – Đấng Phục Sinh sẽ đến Galilê và sẽ gặp các môn đệ tại đó (x. Mt 28, 7).

Nhắc lại cho các bà những điều Đức Giêsu đã nói khi còn ở Galilê là gợi lại cho các bà về niềm xác tín nền tảng, bởi vì chính tại Galilê, những phụ nữ và các môn đệ đã khởi đầu hành trình bước theo Thầy Giêsu trong niền tin và hy vọng. Nay trở về Galilê là để cho người môn đệ một lần nữa xác định lại căn tính của mình, thêm vững tin, can đảm, hầu trung thành với sứ vụ tông đồ giữa trăm triều thử thách chông gai.

Mặt khác, khi chứng kiến cảnh hãi hùng ghê rợn của Thầy mình phải chịu qua cuộc thương khó, nhất là qua cái chết của Ngài, các môn đệ kể như bị hoang mang lo sợ đến tột cùng! Chẳng thế mà từ khi Thầy của các ông bị bắt, đánh đập và giết chết cách tàn bạo thê lương trên thập giá, các ông đã không dám ra ngoài, nhưng luôn trong nhà và đóng kín cửa. Vì thế, khi nhắc các bà nhớ lại những điều chính Ngài đã tiên báo từ hồi còn ở Galilê, là để cho các bà có bằng chứng nhằm loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ một cách xác tín.

Nếu không nhắc lại biến cố Galilê, thì hẳn các môn đệ không thể tin vào chuyện vĩ đại có tầm ảnh hưởng lớn đến hết mọi người mà lại qua miệng các phụ nữ!!!

Hơn nữa, khi nhắc lại địa danh Galilê, và nói với họ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã tiên báo trước đó, ấy là Ngài muốn cho họ nhớ lại mối tình đầu tiên giữa Ngài với họ, nơi mà mọi sự được bắt đầu, nơi mà Ngài đã cất tiếng gọi và nơi mà họ đã từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài...(x. Mt 4,18-22).

2.           Ngày Rửa Tội là Galilê của chúng ta

Với chúng ta, ai cũng có một Galilê nội tâm, nơi ấy, chúng ta được đánh dấu bằng việc Chúa gọi và chọn mỗi người qua Bí tích Rửa Tội, để trở nên con cái của Chúa, con cái Sự Sáng và nên chứng nhân cho Ngài.

Khi trở nên con cái Chúa trong ơn gọi Kitô hữu, ấy là chúng ta mặc lấy Đức Kitô và được mời gọi mang trong mình những tâm tư của Ngài để trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, ngõ hầu trở nên chứng nhân về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã phục sinh vinh hiển.

Tuy nhiên, tình nghĩa giữa ta và Chúa đã bị rạn nứt với năm tháng do yếu đuối, tham lam, ích kỷ, kiêu ngạo... nên nhiều khi chúng ta đã dửng dưng với ơn gọi và sứ vụ của mình.

Khi được thiên thần mời gọi các phụ nữ nhớ lại những lời Đức Giêsu đã báo trước cũng như hẹn gặp các môn đệ ở Galilê, đây cũng chính là lời mời gọi mỗi người trở về và nhớ lại biến cố Galilê nội tâm của mình.

Khi được mời gọi trở về Galilê, hẳn đây là lời nhắc nhớ chúng ta nhớ lại niềm tin tinh tuyền thủa ban đầu.

Nhớ lại những gì đã nói khi còn ở Galilê; ấy là nhóm lên ngọn lửa tình yêu mãnh liệt thủa ban sơ ấy; và cũng là nhớ lại những ân tình, mà Thiên Chúa đã ban trên cuộc đời chúng ta.

Khi trở về và nhớ lại như thế, sứ điệp quan trọng được loan đi, đó là: cần đọc lại lịch sử cuộc đời mình, để nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nhận ra bàn tay can thiệp uy quyền của Ngài, và nhất là nhớ lại những điều đã báo trước, để thêm một lần nữa nhìn cuộc đời dưới quy luật: qua đau khổ đến vinh quang.

Khi trở lại và nhớ về biến cố Galilê nội tâm, cũng là dịp để ta xác tín thêm và khởi đầu một hành trình mới trong niềm tin và hy vọng, để can đảm loan báo Đức Giêsu đã chết đúng như tiên báo, đã sống lại như những gì đã nói trước...

Mong sao, đêm nay, mỗi người chúng ta hãy làm một cuộc hồi tưởng để trở về với cõi lòng của mình, ngõ hầu thấy được Galilê nội tâm riêng của mỗi người; đồng thời hãy nhớ về nó để chúng ta đi trên con đường đã được định hướng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại từ cõi chết. Đây là tin mừng không chỉ cho các phụ nữ, các môn đệ, nhưng nó còn là niềm hy vọng và niềm tin của chúng con hôm nay và mãi mãi. Xin cho mỗi người chúng con ngay trong giây phút này, hãy cất cao lên lời: “Halêluiya” và hãy loan Tin Mừng Phục Sinh đến mọi nơi. Amen.

-----------------------------

 

PS1-365: THỨ BẢY VỌNG PHỤC SINH


Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Lu-ca 24:1-12)

 

Trước năm 1975 khi cuộc chiến đang ở giai đoạn khốc liệt nhất, nhiều người lính miền Nam đã hy PS1-365


Trước năm 1975 khi cuộc chiến đang ở giai đoạn khốc liệt nhất, nhiều người lính miền Nam đã hy sinh vì chính nghĩa. Cái cảnh gia đình đi nhận xác chồng hoặc con thật là thê thảm.  Người nhà lật từng tấm poncho để nhận diện người thân đã chết.  Có khi tìm hoài không thấy nên họ đành trở về nhà.  Rồi bỗng nhiên ngày hôm sau, “người chết” lù lù xuất hiện.  Cả nhà kinh hoàng.  Thì ra chồng hoặc con mình vẫn còn sống và đã có sự nhầm lẫn trong việc báo tử!  Nhưng khung cảnh bài Tin Mừng hôm nay thì khác.  Các bà từng đi theo Chúa Giê-su để giúp đỡ Chúa trong công cuộc truyền giáo đã chính mắt chứng kiến Chúa chết đau đớn trên thập giá, các bà đã tham gia vào cuộc mai táng vội vàng chiều hôm Thứ Sáu.  Sau ngày sa-bát, hôm nay ngày thứ nhất trong tuần, “các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn”, để làm công việc tôn kính “thi hài Chúa Giê-su”.  Nhưng mọi sự đã thay đổi bất ngờ. Tảng đá chắn cửa đã lăn ra khỏi mộ, thi thể Chúa biến mất.  Rồi “có hai người đàn ông y phục sáng chói” nói với họ:  “Sao các bà lại tìm Người Sống giữa kẻ chết?  Người không còn ở đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi”.

          Lời thiên thần loan báo Chúa Phục Sinh mở đầu bằng một câu nhắc nhở đầy ý nghĩa:  Sao các bà lại tìm Người Sống giữa kẻ chết?  Vậy ra từ trước đến nay, các bà mới chỉ biết Chúa là một con người, nhưng vẫn chưa tin Chúa là Con Thiên Chúa hằng sống!  Các bà không để ý đến lời Chúa đã nói với bà Mác-ta khi Người cho em bà là La-da-rô sống lại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Gio-an 11:24).  Các bà cũng không được nghe những lời Chúa nói với các tông đồ trong bữa ăn cuối cùng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Gio-an 14:6).  Cho nên hôm nay, các bà có đi tìm Chúa là Người Sống giữa cõi chết thì cũng không lấy gì làm lạ cả!  Tất cả những sự thuộc về kẻ chết, như ngôi mộ, các khăn liệm, khăn che mặt, dầu thơm tẩm liệm, Người đã để lại đấy, vì “Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi”.  Hoặc nói theo thánh Phao-lô, Người đã để lại “những gì thuộc hạ giới” để về “ngự bên hữu Thiên Chúa”, tức “những gì thuộc thượng giới” (Cô-lô-xê 3:1,2).

          Vì các bà đã không nhớ những lời Chúa nói trước kia với các bà khi còn ở Ga-li-lê, thì giờ đây thiên thần nhắc lại cho các bà nhớ.  Những lời ấy là “Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại”.  Điều Chúa nói đã quá rõ ràng.  Nhưng các bà không nhớ hay các bà không muốn hiểu những lời ấy, làm sao chúng ta biết được.  Tin vui là quả thật các bà đã nhớ lại và đã hành động đúng với những điều họ đã nhớ.  Họ đã hành động bằng cách về “kể cho nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc” về sự Phục Sinh của Chúa.  Cho nên các bà không có gì đáng trách cả, bởi chúng ta cũng không hơn gì các bà đâu!  Rất nhiều khi dù đã được dạy dỗ kỹ lưỡng, chúng ta vẫn không nhớ được những gì Chúa nói về Người trong Kinh Thánh, hoặc chúng ta không muốn hiểu những điều Chúa nói về mình theo ý của Người, mà lại muốn hiểu theo ý chúng ta.

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Chúa Giê-su Phục Sinh chính là Người Sống đang ở giữa chúng ta, dù chúng ta là những kẻ đang sống hay chết trong sự sống thiêng liêng.  Người không hiện diện bằng thân xác như thân xác chúng ta hiện thời, nhưng bằng sự hiện diện bí tích qua Lời Chúa và Thánh Thể.  Lời thiên thần nhắc nhở chúng ta hãy tìm Chúa là Sự Sống ở những nơi không phải là “giữa kẻ chết”.  Vậy những nơi ấy là ở đâu?  Thánh Phao-lô đã chỉ cho chúng ta biết qua lời thư ngài gửi tín hữu Cô-lô-xê: “Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa”.  Thượng giới ấy có thể là một góc vắng, nơi đó chúng ta đang đọc và suy gẫm Lời Chúa.  Hoặc có thể là khung cảnh chúng ta trang nghiêm dự Thánh lễ trong một nhà thờ cùng với anh chị em.  Thượng giới cũng là nơi thanh tĩnh trong chính tâm hồn khi chúng ta được rước Mình Máu Thánh Chúa, ở đó chúng ta gặp được Người Sống, để tâm sự với Người Sống, để sự sống mới của chúng ta được “tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa”.  Nói khác đi, lời nhắc nhở của thiên thần luôn mời gọi ta hãy tìm gặp Chúa Phục Sinh ngay trong cuộc sống thường  ngày, để mai sau chúng ta được “cùng Người hưởng phúc vinh quang”.           

Lm Đa-minh Trần đình Nhi

-----------------------------

 

 PS1-366: SỨ ĐIỆP PHỤC SINH


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

CHÚA NHẬT PHỤC SINH, năm A

Cv 10, 34.37-43     Cl 3, 1-4    Ga 20, 1-9

 

Tin Mừng Phục Sinh mà hôm nay chúng ta công bố là hễ có Thứ Sáu Thánh thì cũng có Chúa Nhật PS1-366


Tin Mừng Phục Sinh mà hôm nay chúng ta công bố là hễ có Thứ Sáu Thánh thì cũng có Chúa Nhật Phục Sinh. Tin Mừng hay Sứ điệp Phục Sinh cũng chính là Đức Giêsu sống lại, Ngài vẫn sống và đang hoạt động trong cuộc đời của chúng ta, trong thế giới chúng ta đang sống. Tin Mừng Phục Sinh cũng chính là không phải chúng ta phải đợi lúc chết mới có thể tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh, nhưng chúng ta vẫn có thể tham dự vào mầu nhiệm này khi chúng ta đang sống, đang có mặt giờ này đây, trong thánh lễ Phục Sinh mà chúng ta đang cử hành. Để làm được điều ấy, chúng ta mọi người hãy mở rộng tâm hồn, mở rộng con tim để đón nhận ơn cứu độ chính Chúa Phục Sinh đã ban cho nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm…

Thánh Phaolô so sánh thân xác trước khi sống lại như một hạt giống và thân xác sau khi sống lại như một cây non trồi lên từ hạt giống ấy. Do đó, trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Corintô, Ngài viết :” Và cái ngươi gieo, hẳn không phải là cái hình thể sẽ hóa ra sau mà ngươi gieo, nhưng là một hạt trơ trụi, tỉ như hạt lúa hay thứ giống nào khác…Cũng vậy về sự kẻ chết sống lại:  gieo xuống trong hư hoại, sống lại trong bất hoại; gieo xuống trong ô nhục, sống lại trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối, sống lại trong quyền năng;gieo xuống là xác khí huyết, sống lại là xác thần thiêng! Nếu có xác khí huyết, thì cũng có xác thần thiêng ! ( 1 Co 15, 37.42-44 ). Đặc biệt trong lá thư này, thánh Phaolô bảo rằng chúng ta sẽ tham dự vào sự Sống lại của Chúa Giêsu, Ngài viết :” Nhưng kỳ thực, Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, tiên thường của các vong linh. Vì chưng sự chết do bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng do bởi một người.Quả thế, cũng như nơi Ađam mọi người đều phải chết, thì trong Đức Kitô, mọi người cũng sẽ được tác sinh…Và cũng như ta đã mang hình ảnh người trần ai, ta cũng hãy mang lấy hình ảnh của người thiên thai “( 1 Co 15, 20-22.49 ). Tuy nhiên, thánh Phaolô khuyên chúng ta đi xa hơn thế nữa là chúng ta có thể tham dự vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu ngay bây giờ không cần phải đợi đến lúc chết…

Maria Mađalêna đã có kinh nghiệm về sự Phục Sinh của Đức Giêsu. Kinh nghiệm của Maria Mađalêna là do sự can thiệp, do bàn tay của chính Thiên Chúa. Maria Mađalêna kể lại biến cố ngôi mộ trống cho Phêrô và Gioan người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến. Cả Phêrô và cả Gioan đã tận mắt chứng kiến sự kiện mồ trống. Ngôi mộ trống là thách đố lớn cho những người hoài nghi, những người không tin, chỉ dừng chân bên ngoài, tuy nhiên, nó lại là bằng chứng hùng hồn, bằng chứng đức tin cho những ai dám bước vào trong ngôi mộ trống. Vâng, tảng đá được lăn ra không phải là để Chúa Phục Sinh bước ra nhưng là để mọi người có đức tin bước vào và nhận ra Chúa đã khải hoàn từ trong kẻ chết. Ngôi mộ trống là bằng chứng sâu xa, siêu vời cho tất cả nhưng kẻ có đức tin.

 Giờ đây, lúc này, chúng ta có thể tham dự vào sự Phục Sinh và năng lực Phục Sinh của Đức Kitô. Mỗi lần chúng ta sống yêu thương, bác ái, xóa bỏ hận thù, đẩy xa tỵ hiềm là chúng ta tham dự vào năng lực quyền năng Phục Sinh của Chúa Giêsu.

Mỗi lần chúng ta sống hy vọng, tin tưởng là chúng ta tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.

Mỗi lần ngã, chúng ta tiếp tục can đảm chỗi dậy, vươn cao, đầu cao mắt sáng là chúng ta tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh.

Chúa Giêsu  đã giảng dạy, đã làm phép lạ, đã công bố Nước Trời, nhưng tất cả nhân loại sẽ thấy, sẽ hiểu, sẽ học được nhiều điều nếu tất cả chúng ta dám bước vào ngôi mộ trống, chúng ta sẽ học được rất nhiều điều nơi Đức Giêsu Phục Sinh. Đức Kitô đã chinh phục thế giới, muôn người qua cái chết và sự sống lại của Người. Chúng ta cũng có thể chinh phục được những người khác nếu chúng ta đặt tin tưởng nơi Người. Đó là tất cả những gì gì làm nên sự Phục Sinh và đó là tất cả những gì chúng ta mừng lễ Phục Sinh hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con dám bước vào bên trong ngôi mộ trống và chúng con hiểu, chúng con tin và nhận ra Chúa đã Phục Sinh. Amen.

 GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Maria Mađalêna đã có kinh nghiệm gì về sự Phục Sinh của Chúa ?
2.Ngôi mộ trống có ý nghĩa gì ?
3.Tại sao Gioan tới mộ trước mà Ông chưa vào ?
4.Khi Gioan vào trong mộ, Ông đã lam sao ?
5.Đối với Ông Bà Anh Chị Em, ngôi mộ trống có ý nghĩa gì ?

-----------------------------

 

PS1-367: CHÚA NHẬT 1 PHỤC SINH


Ga 20,1-9

1Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." 3Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 9Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

 

PHỤC là trở lại ban đầu. Bước chân quay lại cho dầu có xa Chiết Tự PHỤC PHỤC (trở lại. PS1-367


PHỤC là trở lại ban đầu. Bước chân quay lại cho dầu có xa.
 
Chiết Tự PHỤC
PHỤC (trở lại, lặp lại như trước) được ghép bởi hai chữ Xích (bước ngắn, chân trái), và Phục (lặp lại như trước). Được hiểu là muốn trở lại những điều tốt đẹp như trước, phải thật sự cố gắng và kiên nhẫn như phải chấp nhận bước từng bước ngắn và đôi lúc gặp bất lợi như phải bước bằng chân trái- chân không thuận. Chữ PHỤC muốn diễn tả một hành động cụ thể đòi hỏi sự cố gắng, mang tính quyết định.

 PHỤC là trở lại tình trạng ban đầu nhưng có chất lượng hơn.

PHỤC luôn đòi sự phân định và kiên nhẫn, phân định là biết có nên trở lại và trợ lại thì sẽ được gì và mất gì; kiên nhẫn là dám chấp nhận những thử thách và bất lợi khó tránh trên đường trở lại. Giá trị sẽ là rất cao khi sự trở lại đòi hỏi càng khó! Lỡ hư mà sửa lại được là hay… nhưng có nhiều người thực hiện được, thì chưa tuyệt vời. Tắt thở mà hồi sinh là tuyệt vời. Chết mà sống lại (Phục Sinh) là độc nhất vô nhị!

 Phân Tích Từ HỒI

Từ chiết tự Hán Văn dưới ánh sáng Tin Mừng (đối chiếu từ ngữ *) chúng ta có được phân tích từ HỒI của tiếng Việt như sau:

H: Hoàn Lại: Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết. (Ga 20,9)

Ô: Ôn Lại: Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (Ga 20,8)

I: Yêu Thương: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. (Ga 20,1)

Muốn Phục Hồi bất cứ điều gì đều không thể thiếu sự kiên nhẫn. Nhưng trở lại cũng lắm vấn đề: “Ngựa quen đường cũ” cũng phải kiên nhẫn nhưng hậu quả là vong thân, bị khinh chê. “Cải tà quy chánh” cũng phải kiên nhẫn nhưng kết quả là thành nhân, được kính trọng. Như trong Thư Do Thái khẳng định trong kiếp phàm nhân chỉ độc nhất có Đức Giêsu được ơn Phục Sinh: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính”(Dt 5,7). Chúa Giêsu muốn trở về quê trời cũng phải kiên nhẫn trong tình yêu với Đức Chúa Cha, dẫu khi giáng sinh Chúa đã tự nguyện vâng phục. Vậy mỗi Kitô hữu trong tình yêu của Người Con là Đức Giêsu Kitô chúng ta cũng có thể phục hồi được những điều tốt mà chúng ta đã lỡ đánh mất. Hơn thế nữa khi chúng ta trung thành kiên nhẫn trong Tình Chúa chúng ta cũng sẽ được thông phần Phục Sinh với Người, như Chúa đã hứa: “Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24,13)

 Xin Chúa chúc lành cho mỗi chúng ta, luôn biết khiêm tốn để sống liên kết chân tình với Chúa và thân ái với anh chị em mình.

Ước chi được như vậy.

 Lm. JB. Trần Đinh Tử.

-----------------------------

 

PS1-368: CHÚA NHẬT 1 PHỤC SINH


 Ông Bà Anh Chị Em thân mến.

 

Ơn PHỤC SINH là ơn trọng đại và cần thiết cho người tín hữu, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, PS1-368


Ơn PHỤC SINH là ơn trọng đại và cần thiết cho người tín hữu, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, và luôn hướng dẫn để chúng ta cùng được chia sẻ sự Phục Sinh của Người. Chúng ta cùng cảm ơn Chúa và dâng lời cầu nguyện.

 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi người trong Hội Thánh, trong Năm Thánh Lòng Thương Xót luôn khao khát tìm gặp và kết hợp cùng Chúa. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.

 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.". Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi người trong Hội Thánh chúng ta, luôn biết yêu mến và tin tưởng vào Hội Thánh, luôn cầu nguyện và kiên trì chờ đợi những chỉ dẫn của Hội Thánh. Chúng ta cùng cầu xin Chúa

 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.

Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi người chúng ta luôn có được những cảm nhận về sự hiện diện sống động nơi anh chị em mình để dễ dành nhận ra Chúa, ngay cả khi cả thế giới tuyên truyền Chúa đã chết. Chúng ta cùng cầu xin Chúa

 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết. Chúng ta hiệp lời cầu nguyện cho mọi người trong giáo xứ chúng ta, luôn biết ngạc nhiên để cảm nhận và tin vào Tin Mừng. Chúng ta cùng cầu xin Chúa

  Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, cùng các thánh xin Chúa thương chúc lành để mỗi người chúng con ‘được ơn sống lại thật về phần linh hồn”. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. 

-----------------------------

 

PS1-369: Ánh sáng Phục sinh  Gm. Nguyễn Huy Chương

 

Trong một thế giới mà nhiều người, nhất là những người trẻ, mất phương hướng trong cuộc sống, PS1-369


Trong một thế giới mà nhiều người, nhất là những người trẻ, mất phương hướng trong cuộc sống, họ cần lời giải đáp. Cụ thể, trong một lá thư của một bạn trẻ có đoạn viết: “Mình sinh ra trong một gia đình có 5 anh chị em. Gia đình lúc đầu rất nghèo, nhưng sau này nhờ chịu khó, bố mẹ cũng dần dần cải thiện được cuộc sống và trở thành một gia đình tương đối đầy đủ về mặt vật chất và tinh thần ở vùng quê nghèo. Các anh chị lần lượt học đại học và ra trường, hiện tại lập gia đình và có cuộc sống ổn định… Cuộc sống sinh viên xa nhà, hàng trăm thứ khó khăn, mọi thứ do mình quyết định, cuộc sống cứ trôi, bao nhiêu chuyện xảy ra với một sinh viên có học lực trung bình mà đi học một lúc 2 trường đại học… Sau chuỗi ngày khó khăn, cuối cùng mình cũng tốt nghiệp được 2 trường một cách vất vả. Bạn bè gia đình ai cũng nể phục, nhưng trong thâm tâm và tự đáy lòng mình cảm thấy ngao ngán cho chính bản thân mình… Mục đích cuối cùng của mình là gì, mục tiêu ra sao, suy nghĩ mãi mà không lời giải đáp… Đúng là không hiểu nổi mình rồi, các bạn cho mình lời khuyên, giúp mình nhé! Chân thành cảm ơn!”.

Không biết anh bạn trẻ nói trên sẽ nghĩ gì nếu nghe Đức Giêsu nói: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14, 1-4).

Có thể anh bạn trẻ không nghĩ đến những chuyện cao siêu mà Đức Giêsu nói đến! Nhưng nếu anh bạn muốn có một lời giải đáp cho “mục đích cuối cùng của mình là gì”, thiết tưởng anh nên đặt câu hỏi với Đức Giêsu như ông Tôma đã hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”. Đức Giêsu đáp: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 5-6).

Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa là “mục đích cuối cùng” của cuộc sống con người. Con người mong được hạnh phúc, và khi có ăn, có mặc, có nhà ở thì được hạnh phúc, nhưng hạnh phúc lại chấm dứt bằng cái chết bất hạnh! Do đó, khát vọng hạnh phúc vĩnh cửu của con người đã được đáp ứng nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu: “Ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh” (Ga 6, 47-48). Đức Giêsu khẳng định Người là “con đường, là sự thật và là sự sống”, con đường dẫn tới cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha.

Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu trả lời: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?” (Ga 14, 8-10).

Như thế, con người muốn đạt tới Thiên Chúa là “mục đích cuối cùng” thì phải bước đi trên “con đường” mà Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là con đường tình yêu: yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Anh Nick Vujicic, người không tay không chân, đã tìm thấy hướng đi cho cuộc đời mình nhờ niềm tin vào Thiên Chúa và vào Chúa Giêsu. Anh đã vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để tập trung vào việc sống yêu thương. Anh đã từng chia sẻ đại ý như sau: “Giá trị của con người không phải vì giàu hay nghèo, lành lặn hay khuyết tật, mà là tình yêu. Tôi không có hai tay để ôm lấy người tôi yêu, nhưng tôi yêu bằng trái tim chân tình của tôi. Một điều chứng tỏ có tình yêu đích thực là biết tha thứ. Khi còn nhỏ tôi thường bị các bạn trêu chọc, có lúc tôi muốn tự tử vì mặc cảm tàn tật, nhưng rồi tôi ý thức mình cần phải phát huy những cái mình hiện có hơn là những cái mình muốn có mà không thể! Tôi cảm nghiệm rằng khi tha thứ cho người khác tôi được bình an, hạnh phúc. Tôi so sánh người nuôi lòng hận thù giống như người uống thuốc độc mà lại nhằm cho người khác chết! Người không vượt qua được sự hận thù phải chăng cũng là người khuyết tật ?!”.

Tình yêu giàu lòng thương xót của Chúa Giêsu được biểu lộ qua sự tha thứ, tha thứ cho những kẻ làm hại mình, cầu nguyện cho những kẻ nguyền rủa mình, và chúc lành cho những người chúc dữ mình. Khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, và chính giây phút ấy, Người thốt lên lời cầu nguyện: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm”. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại để đem lại hạnh phúc vĩnh cửu cho những kẻ tin vào Người “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Ánh sáng Chúa Kitô như ngọn nến Phục Sinh dẫn đường cho những ai tìm kiếm hạnh phúc. Đó là con đường yêu thương tha thứ vô điều kiện.

“Hợp nhau đây, tôi xin anh chị em rất thân yêu, đang hân hoan tham dự nguồn sáng này, hết tâm kêu xin cùng Chúa uy linh, tha thiết khấn xin lòng Chúa nhân từ… Ước chi ngôi sao mai không bao giờ lặn đi, chính là con Chúa Đức Kitô, Người đã từ ngục tối tăm, huy hoàng chiếu sáng nhân gian, Người là đấng thống trị hằng sống đến muôn đời muôn kiếp vinh quang”. Đó là lời công bố Tin Mừng Phục Sinh được nghe trong đêm Vọng Phục Sinh.

ĐGM. Antôn VŨ HUY CHƯƠNG - Giáo phận Đà Lạt

-----------------------------

 

PS1-370: CHÚA NHẬT PHỤC SINH


(Ga 20,1-9)

 

Trong phòng hòa nhạc tên là Maigruge, ở thủ đô Fribourg nước Bỉ, có một tượng chịu nạn rất lạ PS1-370 ĐaNẵng


Trong phòng hòa nhạc tên là Maigruge, ở thủ đô Fribourg nước Bỉ, có một tượng chịu nạn rất lạ đời. Chúa Giêsu nằm trên thánh giá: đôi mắt Chúa mở thật to, miệng Chúa cười thật tươi. Tác phẩm của một nghệ sĩ vô danh hồi thế kỷ XVI.

Khi chiêm ngắm pho tượng, cha Ducarroz đã viết những dòng chữ sau đây : “Tôi thích cái miệng cười của Chúa bị đóng đinh. Nụ cười đó không làm cho Chúa giả đò đau khổ, giả đò chết, song diễn tả một niềm vui vô biên, mà Chúa Giêsu ban cho loài người, dù loài người đã giết Chúa.”

Niềm vui Chúa ban cho loài người khi nằm trên thánh giá lại còn được người nghệ sĩ tài ba diễn tả qua một pho tượng đứng dưới thánh giá. Thay vì Đức Mẹ và thánh Gioan như các nghệ sĩ khác thường vẽ, thường tạc, ông đã tạc pho tượng Ađam, ông tổ của loài người. Oâng Ađam, thân hình tuy tiều tụy, nhưng đôi mắt ông mở to, đôi mắt ông sáng như ngọn đèn. Oâng ngước nhìn lên thánh giá, và miệng ông cũng cười thật tươi.

Người trên thánh giá đã cười, người đứng dưới thánh giá cũng cười. Chúa Giêsu đã cười, để loài người tội lỗi được cười. Chúa Gêsu đả sống lại, để loài người chết được sống. Sự chết đã thất bại, sự sống đã chiến thắng.

Bài TM thánh lễ hôm nay đã kể rằng : “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời còn tối, bà Maria Macdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (Ga 20,1-2).

Đi ra mộ, sách TM thánh Mt kể “2 bà” (28,1), sách TM.Mc kể “3 bà” (16,1), sách TM.Lc kể “các bà” (24,1), chỉ có sách TM thánh Gioan kể có “1 bà” (20,1), một bà Maria Mácđala đi ra mộ. Phải chăng thánh Gioan, người đã kể câu chuyện người phụ nữ ngoại tình, chỉ kể một mình bà Maria Mácđala, để gợi lại hình ảnh người phụ nữ ngoại tình. Bà đã được Chúa Giêsu tha không ném đá. Nay bà còn được là người đầu tiên ra mộ Chúa, được cười với Chúa.

Về phần các tông đồ, thánh Mt nói trống là “môn đệ Người” (28,7), thánh Mc thêm ông Phêrô “môn đệ Người và ông Phêrô” (16,7), thánh Luca thì kể “anh em Thầy” (24,17), còn thánh Gioan thì kể ông và thánh Phêrô (20,2). Hai tông đồ nêu gương xấu rõ nhất trong cuộc thương khó của Chúa là thánh Phêrô và ông Giuđa. Thánh Phêrô là người chối Chúa, ông Giuđa là người bán Chúa. Ong Giuđa đã tự tử chết, thánh Phêrô còn sống. Thánh Phêrô chối Chúa, song được Chúa cho ra mộ Chúa, được cười với Chúa…

Maria Mácđala đại diện cho nữ giới, nữ giới phạm tội.
Phêrô đại diện cho nam giới, nam giới cũng phạm tội.
Maria Mácđala đại diện cho giáo dân, giáo dân phạm tội
Phêrô đại diện cho hàng linh mục tu sĩ, linh mục tu sĩ cũng phạm tội.
Cả loài người phạm tội. Mọi người đều nhắm mắt, đều ngậm miệng, đều chết.
Nhưng, nhờ Chúa nằm trên Thánh Giá, nhờ Chúa sống lại,
nhân loại được mở mắt, được cười.
Halleluia, hãy vui mừng lên, vì Chúa đã sống lại thật rồi.

Linh mục Nguyễn Trung Thành

-----------------------------

 

PS1-371: Đêm Vọng Phục Sinh


(Lc 24,1-12)

 

Chả có cái chết nào nhục nhã cho bằng cái chết trên thập giá. Người Rôma trông thấy phải rùng mình PS1-371


Chả có cái chết nào nhục nhã cho bằng cái chết trên thập giá. Người Rôma trông thấy phải rùng mình ghê sợ. Thi sĩ Cicero, người Rôma, nói : “Đó là cái chết dữ dằn và kinh khiếp nhất”. Thi sĩ Tacito, cũng người Rôma, thì bảo : “Đó là cái chết bỉ ổi nhất.”

Cái chết trên thập giá bắt nguồn từ phong tục của người Ba Tư ngày xưa. Họ coi mặt đất là thánh thiêng. Những kẻ làm điều ác không đáng được chôn dưới đất. Xác của tội nhân làm ô uế đất đai, làm dơ bẩn đất thánh. Họ phải bị treo lên và để cho diều hâu, cho chim kền kền rúc rỉa. Người Rôma đã bắt chước phong tục này, nhưng chỉ thực hiện ở các nước thuộc địa và dành cho người nô lệ.

Chúa Giêsu bị treo trên thập giá. Chúa Giêsu phải chịu một cái chết nhuốc nha. Chúa Giêsu bị liệt vào hạng tội nhân, vào hạng nô lệ đê hèn.

Vì thế, chẳng lấy làm lạ : kẻ thù thì chế nhạo, khinh bỉ; người thân thì buồn sầu, thất vọng; các môn đệ ông thì bỏ trốn, ông thì bội phản… Chẳng còn ai đoái hoài, chẳng còn ai dám ra mộ ngó ngàng. Có chăng là mấy mụ đàn bà ngớ ngẩn.

Bài TM đêm nay, thánh Luca kể : “Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả” (Lc 24,1-3).

Chiều thứ sáu, họ vội vàng tẩn liệm Chúa, vì trời sắp sửa bước sang ngày thứ bảy, ngày nghỉ và là ngày đại lễ Vượt Qua. Họ ngóng đợi cho ngày thứ bảy chóng qua, mong đợi ngày thứ nhất mau đến, để họ đem dầu thơm tiếp tục tẩn liệm Chúa. Nhưng khi họ đi vào, họ không thấy xác Chúa nữa, xác Chúa mất đâu rồi.

Theo tường thuật của thánh Mt, thì các nhà lãnh đạo phao vu là các môn đệ đã ăn cắp xác Chúa. Nếu các môn đệ ăn cắp, thì làm sao còn khăn liệm trong mộ. Đã ăn cắp thì phải ôm cả xác, cả khăn liệm mà chạy, chứ làm gì có giờ để cởi bỏ khăn liệm ra khỏi xác Chúa mà để lại trong mộ.

Thật ra, ở đời có mấy người tin người chết sống lại. Chính các bà ra mộ, không thấy xác Chúa, cũng không tin Chúa sống lại. Thiên thần phải hiện ra bảo các bà : “Sao các bà lại tìm Người Sống giữa kẻ chết ? Người không còn ở đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi” (24,5).

Nghe thiên thần nói, các bà cũng vẫn chưa tin, nên các thiên thần phải bảo : “Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại” (24,7).
Có lẽ chúng ta cũng khó tin người chết sống lại. Vì thế, chúng ta tin là nhờ Lời Chúa dạy, nhờ giáo huấn của Hội Thánh.

Lời Chúa và giáo huấn mới giúp chúng ta tin sự sống lại. Không yêu mến Lới Chúa và giáo lý chúng ta cũng khó tin sự sống lại.

Do đó trong mùa phục sinh này chúng ta luôn được nhắc nhở là “Theo Kinh Thánh Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”  (Ga 20,9).

-----------------------------

 

PS1-372: Đêm Vọng Phục Sinh


Gò Vấp 30-3-2013

 

Có thật Chúa Giêsu sống lại không ? Trên đời có ai chết mà sống lại đâu. Người ta ướp xác để PS1-372


Có thật Chúa Giêsu sống lại không ?

Trên đời có ai chết mà sống lại đâu.

Người ta ướp xác để làm ra vẻ người chết còn sống mà thôi.

      Thế mà chúng ta, người Công giáo, lại tin Chúa Giêsu sống lại.
      Chẳng những tin, mà còn mừng lễ.
Lễ Chúa sống lại là lễ lớn nhất trong các lễ.

Thật ra dễ gì mà tin.

Theo BTM thánh lễ hôm nay, thánh Luca kể : ba bà ra mộ gặp ba sự lạ :

– Sự lạ I là : Tảng đá lấp cửa mộ đã được ai đó lăn ra (Lc 24,2).
– Sự lạ II là : Hai thiên thần hiện ra (Lc 24,4)
– Sự lạ III là : Hai thiên thần bảo tin Chúa đã sống lại rồi.

Ba bà chạy về báo tin cho các tông đồ. Các tông đồ không tin, cho là “chuyện vớ vẩn” (Lc 24,11).

Riêng thánh Phêrô một mình chạy ra mộ để kiểm chứng. Thấy tấm khăn liệm, nhưng không thấy xác Chúa, ông chỉ ngạc nhiên, chứ chưa tin (Lc 24,12).

Sai hai thiên thần đến báo tin mà không tin, thì đích thân Chúa hiện ra. Chúa không bỏ, Chúa vẫn thương. Chúa thương thế đó.

Thánh Luca kể hai chuyện Chúa hiện ra :

– Chuyện I : Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau

– Chuyện II : Chúa hiện ra, trước khi Chúa lên trời.

Hai lần hiện ra này, Chúa không chỉ nghĩ đến các tông đồ, chỉ muốn các tông đồ được gặp Chúa sống lại. Chúa còn nghĩ đến chúng ta, Chúa cũng muốn chúng ta được gặp Chúa sống lại.

Vì thế, cả hai lần Chúa đều nhắc lại những lời Kinh Thánh đã nói về Chúa sống lại. Và Chúa còn dùng bữa với các ông. Khi đó lòng các ông bùng cháy (Lc 24,32), và mắt các ông mở ra mà nhận ra Chúa (Lc 24,31).

Qua hai câu chuyện, Chúa muốn nói rằng : chúng ta sẽ gặp được Chúa sống lại, khi chúng ta tham dự thánh lễ. Trong thánh lễ có Lời Chúa, có Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể là hai cơ hội tuyệt vời, để chúng ta được gặp Chúa sống lại.

Nhưng, tin Chúa sống lại có ích lợi gì cho cuộc đời chúng ta ?

Trong phòng hòa nhạc tên là Maigruge, ở thủ đô Fribourg nước Bỉ, có một tượng chịu nạn rất lạ đời, không giống như các tượng ở nhà thờ hay ở tư gia. Chúa Giêsu nằm trên thánh giá: đôi mắt Chúa mở thật to, miệng Chúa cười thật tươi. Đó là tác phẩm của một nghệ sĩ vô danh hồi thế kỷ XVI.

Khi chiêm ngắm pho tượng, cha Ducarroz đã viết những dòng chữ sau đây : “Tôi thích cái miệng cười của Chúa bị đóng đinh. Nụ cười đó không làm cho Chúa giả đò đau khổ, giả đò chết, song diễn tả một niềm vui vô biên, mà Chúa Giêsu ban cho loài người, dù loài người đã giết Chúa.”

Niềm vui vô biên Chúa ban cho loài người, khi Chúa nằm trên thánh giá lại còn được người nghệ sĩ tài ba diễn tả qua một pho tượng đứng dưới thánh giá. Thay vì Đức Mẹ và thánh Gioan như các nghệ sĩ khác thường vẽ, thường tạc, ông đã tạc pho tượng Ađam, ông tổ của loài người. Ông Ađam, thân hình tiều tụy, nhưng đôi mắt ông mở to, đôi mắt ông sáng như hai ngọn đèn. Ông ngước nhìn lên thánh giá, và miệng ông cũng cười thật tươi.

Chúa ở trên thánh giá cười,
để ông Adam đứng dưới thánh giá được cười.
Chúa cười, để loài người tội lỗi được cười.
Chúa sống lại, để loài người phải chết được sống.
Tội lỗi đã được tha. Sự chết đã thất bại,
Sự sống đã chiến thắng.
Chúa đã sống lại thật rồi. Halleluia. Amen

Linh mục Nguyễn Trung Thành

-----------------------------

 

PS1-373: Mồ rỗng

 

Con người chúng ta thường khởi sự bằng cái có chẳng hạn: có quyền, có tiền, có tài thì mới làm nên  PS1-373 Lượng


Con người chúng ta thường khởi sự bằng cái có chẳng hạn: có quyền, có tiền, có tài thì mới làm nên chuyện. Còn Thiên Chúa thì khác, Ngài thường khởi sự bằng cái không.

Sách Sáng Thế Ký đã cho thấy thuở ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự từ hư không. Còn hôm nay Ngài bắt đầu tái tạo con người chúng ta từ một ngôi mộ rỗng. Nếu như vào cái ngày thứ nhất trong tuần mà mấy người phụ nữ ra mộ và thấy mọi sự vẫn còn y nguyên nghĩa là còn có cả xác Chúa Giêsu nằm trong đó, thì chúng ta chẳng có gì để nói bởi vì nếu xác Chúa Giêsu vẫn còn đó thì sẽ chẳng có Tin Mừng Phục Sinh và đức tin của chúng ta.

Lúc bấy giờ Philtô, các thượng tế và luật sĩ có lẽ đang ngủ say, nhất là những người đứng đầu dân Do Thái, họ lại còn sung sướng vì đã loại khỏi vòng chiến tên địch thù nguy hại. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị lãng quên, chẳng còn ai nhớ tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ. Tên Giêsu đã bị chôn vùi trong lòng đất và chết là hết chuyện. Còn đối với những người vẫn thương mến Chúa thì mọi sự cũng được kể như là đã chấm dứt. Không còn gì ngoài một kỷ niệm xót xa. Niềm hy vọng đã tắt ngấm. Mấy chị em phụ nữ có ra mộ thì cũng chỉ để ướp lại một cái xác không hồn, chưa kịp thối rữa.

Thế nhưng, họ đã đối diện với một ngôi mộ trống. Và cây chuyện bắt đầu từ đó. Trước ngôi mộ trống, họ nghĩ ngay đến chuyện mất xác Chúa, thế là họ vội chạy về báo tin cho các tông đồ. Phêrô và Gioan liền chạy ra xem. Bước vào ngôi mộ trống, Phêrô chẳng hiểu gì, chỉ có Gioan, người môn đệ được Chúa yêu thương đã nhận ra những dấu chỉ của mầu nhiệm phục sinh và ông đã tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại.

Ngày nay chúng ta cũng đang đứng trước ngôi mộ trống và cả thế giới này chính là ngôi mộ trống ấy. Người ta đã giết Chúa, đã loại Người ra khỏi xã hội và người ta vui mừng vì nghĩ rằng Chúa không còn nữa. Và những người tin yêu Chúa cũng xót xa đi tìm Chúa, nhưng có lẽ họ cũng chỉ biết đến ngôi mộ trống với hy vọng tìm thấy xác Chúa Giêsu. Họ muốn tin yêu một cái gì cụ thể, phải sờ mó được. Một Thiên Chúa bằng gỗ đá cũng được còn hơn là không có gì. Có những người bán tín bán nghi như Phêrô. Có những người vốn cứng lòng như Tôma và cũng có cả những người rã ngũ trở về làm ăn như hai môn đệ trên đường Emmau.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta sẽ tìm gặp Người ở đâu và chúng ta sẽ giới thiệu Người như thế nào? Dĩ nhiên chúng ta không muốn giới thiệu cho người khác cái xác của Người, cho dù cái xác ấy mang tên gọi là Giêsu. Trước mặt chúng ta chỉ là một ngôi mộ trống, không có Chúa ở trong đó, bởi vì Người đã sống lại. Chính vì lo sợ cái không, chẳng hạn như không có Chúa để mà giới thiệu cho người khác, nên chúng ta đã cố gắng tạo ra những cái xác của Chúa để mà giới thiệu. Cái xác ấy có thể là những ảnh tượng đủ loại đủ cỡ. Cái xác ấy có thể là những bài giáo lý khô khan, những trang thần học cao siêu. Cái xác ấy có thể là đời sống phụng vụ hình thức và máy móc, hay là đời sống đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài. Ngày nay, nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô phục sinh chúng ta cũng phải khởi đầu từ cái không, từ ngôi mộ rỗng như các tông đồ ngày xưa. Có nghĩa là chúng ta phải trở về với đời sống trong sạch và nghèo khó.

-----------------------------

 

PS1-374: Đêm hoa đăng ngày đại hội (Ga 20,1-9)


(Trích "Như Thầy Đã Yêu" của Thiên Phúc)

 

Một nhóm bạn trẻ từ nhiều quốc gia đang bàn thảo về cách làm cho Tin Mừng Chúa được lang rộng. PS1-374


Một nhóm bạn trẻ từ nhiều quốc gia đang bàn thảo về cách làm cho Tin Mừng Chúa được lang rộng. Họi nói về sự truyên truyền, về các tài liệu, về các phương tiện truyền thông hiện đại, về internet... Một cô gái Phi Châu nói: "Khi muốn truyền đạo cho một dân làng, chúng tôi không cho họ sách, chúng tôi gởi một gia đình đến sống trong làng. Và họ sẽ làm cho mọi người thành Kitô hữu".

Quả là một phương pháp loan báo Tin mừng tuyệt vời. Phương tây có câu: "Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo". Chính đời sống gương mẫu, chứ không phải những lưòi nói suông, đã lôi kéo bao tâm hồn nhận biết và yêu mến Thiên Chúa.

Tin mừng viết về tông đồ Gioan: "Ông đã thấy và đã tin" (Ga 20, 8b). Thấy là thấy sự kiện ngôi mộ trống, và tin là tin rằng Đức Giêsu đã phục sinh từ cõi chết.

Kitô hữu là người xác tin rằng Đức Giêsu đã tử nạn và đã phục sinh. Niềm tin ấy phải được biểu lộ trong từng chi tiết của cuộc sống đời thường. Niềm tin ấy phải được minh họa trong từng ánh mắt, nụ cười, trong từng nghĩa cử yêu thương. Niềm tin ấy phải chiếu tỏa bằng những tấm gương người sáng. Ngọn nến Phục sinh mà người tín hữu thắp lên trong đêm Cực thánh phải lung linh chiếu sáng như trong đêm hoa đăng ngày đại hội.

Niềm tin Phục sinh phải được loan báo cho muôn dâng bằng đời sống chứng nhân của các kitô hữu.

Niềm tin Phục sinh phải được bày tỏ bằng một tình yêu xả thân trọn vẹn cho anh em.

Sống niềm vui Phục sinh là bằng lòng chết đi cho những đam mê của xác thịt; mai táng tính ích kỷ , tham lam, háo danh trong mộ đá, để được Phục sinh trong vinh quang với Người.

Sống niềm vui Phục Sinh là trỗi dậy sau những lần thất bại đắng cay, những mắt mát đớn đau trong cuộc đời để sống lại cùng với Đấng Phục sinh.

Lạy Chúa, xin cho chúng con can đảm vượt qua những khổ đau và thử thách, vì Chúa đã Phục sinh. Ước gì những ai gặp được chúng con là gặp được sức sống Phục Sinh của Chúa bừng lên trong lòng họ. Amen.

-----------------------------

 

PS1-375: Bài giảng của ĐTC Benedictô 16


THÔNG ĐIỆP URBI ET ORBI - Ngày 23 tháng Ba, 2008

(Lm. Giuse Ngô Quang Trung dịch)

 

Resurrexi et adhuc tecum sum. Alleluia! - Con đã sống lại, Con vẫn hằng ở bên Cha. Allêluia! Anh PS1-375


Resurrexi et adhuc tecum sum. Alleluia! - Con đã sống lại, Con vẫn hằng ở bên Cha. Allêluia! Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu, Đấng chịu đóng đinh và đã sống lại, lặp lại những lời công bố hân hoan này với chúng ta hôm nay: lời công bố Phục Sinh. Chúng ta hãy chào đón lời công bố này với sự ngạc nhiên và lòng biết ơn sâu xa!

Resurrexi et adhuc tecum sum - Con đã sống lại, Con vẫn hằng ở bên Cha. Những lời này, trích từ một văn bản cổ xưa của Thánh Vịnh 138 (c. 18b), được hát lên trong phần đầu của Thánh Lễ hôm nay. Trong đó, vào lúc ánh mặt trời của ngày lễ Phục Sinh đang vươn lên, Giáo Hội nhận ra giọng nói của chính Chúa Giêsu, Đấng mà khi sống lại hướng về Chúa Cha với tất cả niềm hân hoan và mến yêu, đã thưa lên: Cha ơi, này con đây! Con đã sống lại, Con vẫn hằng ở bên Cha, và Con sẽ ở bên Cha mãi mãi; Thần Khí của Cha đã không bao giờ bỏ rơi Con. Qua đó, chúng ta có thể đi đến một nhận thức mới về những đoạn khác trong Thánh Vịnh này: "Con có lên trời, Chúa đang ngự đó, nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài... cả tối tăm cũng chẳng có chi mù mịt, và đêm đen sáng tỏ như ban ngày, bóng tối và ánh sáng cũng như nhau." (Tv 138: 8, 12). Thật thế: trong đêm canh thức Phục Sinh long trọng này, bóng tối trở thành ánh sáng, đêm đen nhường chỗ cho ngày sáng không có chiều tàn. Cái chết và sự phục sinh của Ngôi Lời nhập thể là một biến cố của tình yêu bất khả chiến bại, đó là chiến thắng của Tình Yêu giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết. Chiến thắng ấy đã thay đổi dòng lịch sử, ban cho sự sống nhân loại một ý nghĩa, một giá trị vĩnh cửu và mới mẻ.

"Con đã sống lại, Con vẫn ở gần bên Cha đến muôn đời." Những lời này mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Kitô Phục Sinh, trong khi để cho tiếng nói của Người vang vọng trong tim ta. Với hiến tế cứu độ của Người, Chúa Giêsu thành Na-da-rét đã làm cho chúng ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, để cả chúng ta cũng được dự phần trong cuộc đối thoại mầu nhiệm giữa Người và Chúa Cha. Chúng ta được nhắc nhớ về những lời Người đã từng nói với những ai lắng nghe: "Mọi sự đã được Cha Ta giao phó cho Ta. Và không ai biết rõ Cha trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mặc khải cho" (Mt 11, 27). Trong hướng nhìn này, chúng ta ghi nhận rằng những lời Chúa Giêsu Phục Sinh nói với Chúa Cha hôm nay - "Con vẫn hằng ở bên Cha" - cũng áp dụng gián tiếp cho cả chúng ta, "những con cái của Thiên Chúa và là những người đồng thừa tự với Chúa Kitô, miễn là chúng ta cùng chịu đau khổ với Người ngõ hầu chúng ta có thể cùng được hưởng vinh quang với Người" (x. Rm 8, 17). Qua sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, hôm nay chúng ta cũng vươn đến một cuộc sống mới, và khi liên kết tiếng nói của chúng ta với tiếng nói của Người, chúng ta công bố rằng chúng ta muốn lưu lại muôn đời bên Thiên Chúa, người Cha tốt lành và nhân hậu vô biên.

Bằng cách này, chúng ta tiến vào những chiều sâu của mầu nhiệm Vượt Qua. Biến cố đầy kinh ngạc về sự phục sinh của Chúa Giêsu bản chất là một biến cố của tình yêu: tình yêu của Chúa Cha khi trao ban Con của Người để cứu chuộc trần gian; tình yêu của Chúa Con trong sự vâng phục Chúa Cha vì tất cả chúng ta; tình yêu của Chúa Thánh Thần khi nâng Chúa Giêsu từ kẻ chết lên thân thể được biến đổi sáng láng của Người. Và còn nữa: tình yêu đáp trả của Chúa Cha "ôm ấp" Chúa Con "cách mới mẻ", bao bọc Người trong vinh quang; tình yêu đáp trả của Chúa Con đối với Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, được trang hoàng bằng nhân loại đã được biến đổi. Từ nghi thức hôm nay, chúng ta sống lại cảm nghiệm tuyệt đối, một lần cho tất cả về sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta nhận được lời mời gọi hoán cải cho Tình Yêu; chúng ta nhận được lời mời gọi loại trừ thù hận và ích kỷ, và bước theo trong vâng phục những bước chân của Chiên Con bị sát tế vì ơn cứu độ chúng ta, để bắt chước Đấng Cứu Chuộc là Đấng "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", Đấng là "nơi yên nghỉ cho linh hồn chúng ta" (x. Mt 11, 29).

Anh chị em Kitô hữu mọi nơi trên thế giới thân mến, anh chị em là những người nam nữ có tinh thần chân thành mở rộng cho sự thật, xin đừng để con tim nào đóng lại trước quyền năng của tình yêu cứu độ này! Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại cho tất cả mọi người; Người là niềm hi vọng của chúng ta - là niềm hi vọng đích thực cho mỗi người. Hôm nay, như Người đã làm với các môn đệ tại Galilê trước khi về với Chúa Cha, Chúa Giêsu phục sinh cũng sai chúng ta đến mọi nơi như những chứng nhân hi vọng, và Người bảo đảm với chúng ta: Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28, 20). Khi hướng lòng trí chúng ta vào những vết thương nơi thân thể biến đổi của Người, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa và giá trị của đau khổ, chúng ta có thể chăm sóc cho nhiều vết thương đang tiếp tục làm biến dạng nhân loại trong chính thời đại chúng ta. Nơi những thương tích vinh quang của Người, chúng ta nhận ra những dấu chỉ không thể tàn phai của tình yêu vô biên của Thiên Chúa, Đấng mà các tiên tri loan báo: chính Người băng bó những tấm lòng tan nát, bảo vệ kẻ cô thế, công bố tự do cho kẻ bị giam cầm, an ủi mọi kẻ khóc than, ban cho họ dầu thơm hoan lạc thay tang chế, và bài tụng ca thay tâm hồn sầu não (x. Is 61, 1, 2, 3). Nếu chúng ta tiến lại gần Người với một lòng tín thác khiêm cung, chúng ta sẽ gặp thấy trong ánh mắt Người lời đáp trả cho những khát vọng sâu xa nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là được biết Chúa và được thiết lập một tương quan sống động trong sự hiệp thông thực sự của tình yêu, một sự hiệp thông lấp đầy cuộc đời ta, và những quan hệ giữa con người và xã hội với cùng một tình yêu như thế. Vì lí do này, nhân loại cần Chúa Kitô: trong Người chúng ta có niềm hi vọng, "chúng ta được cứu rỗi" (x. Rm 8: 24).

Rất thường là những quan hệ giữa các cá nhân, giữa các nhóm và giữa các dân tộc đã không được đánh dấu bởi tình yêu mà bởi sự ích kỷ, bất công, thù hận và bạo lực! Đó là những tai ương của nhân loại, công khai và âm ỉ ở khắp chân trời góc biển, dù thường khi chúng bị lờ đi và đôi khi được cố ý che dấu; đó là những vết thương tra tấn những linh hồn và thân xác của biết bao người anh chị em chúng ta. Những vết thương đó đang chờ được chăm sóc và chữa lành bởi những vết thương vinh quang của Chúa Phục Sinh (x. Pr 2, 24-25) và bởi tình liên đới của những ai đang bước theo bước chân Người, thực thi những việc bác ái nhân danh Người, dấn thân tích cực cho công lí và loan truyền những dấu chỉ hi vọng rực sáng trong những miền đẫm máu bởi xung đột cũng như ở bất cứ nơi đâu mà phẩm giá con người tiếp tục bị sỉ nhục và chà đạp. Chúng ta hi vọng rằng đây chính là những nơi mà những hành động tự chế và tha thứ sẽ được gia tăng!

Anh chị em thân mến!

Chúng ta hãy để cho ánh sáng toả chiếu từ ngày long trọng này thắp sáng chúng ta; chúng ta hãy mở rộng con người chúng ta với lòng phó thác chân thành nơi Chúa Kitô phục sinh để cho vinh quang của Người trên tội lỗi và sự chết có thể chiến thắng khải hoàn nơi mỗi người chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong các thành phố và trong các quốc gia chúng ta. Hãy để ánh sáng này chiếu soi mọi miền thế giới. Cách riêng, làm sao chúng ta lại có thể quên một số nơi ở Châu Phi, như Dafur và Sô-ma-li-a, miền Trung Đông bị xâu xé, đặc biệt Thánh Địa, I-rắc, Li-Băng, và cuối cùng là Tây Tạng, tôi khích lệ tất cả mọi người hãy tìm ra những giải pháp bảo vệ hoà bình và thiện ích chung! Chúng ta hãy khấn xin sự viên mãn của hồng ân Vượt Qua của Người, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Đấng sau khi đã thông phần những đau khổ trong cuộc thương khó và khổ hình thập giá của người Con vô tội của Mẹ, cũng được hưởng niềm hân hoan khôn tả của sự phục sinh của Người. Được chia sẻ vinh quang của Chúa Kitô, xin Mẹ là người bảo vệ và hướng dẫn chúng ta trên nẻo đường đi đến tình liên đới huynh đệ và hoà bình. Đó là những lời chúc Phục Sinh của tôi gửi đến những ai hiện diện nơi đây, cũng như những người nam nữ của mọi quốc gia và lục địa đang hiệp nhất với chúng ta qua truyền thanh và truyền hình. Xin chúc mừng Phục Sinh!

-----------------------------

 

PS1-376: Thực tế hay huyền thoại? – JM. Lam Thy

 

Cho đến tận ngày nay biến cố Phục Sinh vẫn còn là một huyền thoại đối với con người chỉ thích được PS1-376


Cho đến tận ngày nay biến cố Phục Sinh vẫn còn là một huyền thoại đối với con người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền). Không chỉ ở bên ngoài Kitô giáo, mà ngay trong Giáo Hội cũng vẫn còn không ít Tôma-thời-đại cứ đòi được “xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn” Đức Giêsu mới chịu tin. Chuyện đó cũng dễ hiểu, vì bản chất con người là thế. Nói về một chuyện cách xa cả 20 thế kỷ, mà cứ đòi được trực diện quan sát thì quả là không tưởng! Đến ngay như người đương thời, nhất là những kẻ ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ với Đức Kitô, được “thực mục sở thị” mà khi biến cố xảy ra cũng không thiếu những suy nghĩ trái chiều.

Xin thử đặt mình vào thời điểm cách đây hơn 2000 năm, với một nhãn quan của một trong những người-còn-hoài-nghi, để nhìn vào hiện tượng “Giêsu Na-da-ret” qua biến cố Phục Sinh. Trước hết, ngay ở chính quê hương Na-da-ret, chàng thanh niên Giêsu là con ông thợ mộc Giu-se khiêm tốn và bà Maria nội trợ hiền lành, cũng không có tiếng tăm gì, chẳng mấy ai biết đến, thậm chí sau một thời gian dài đi xa trở về, chẳng được ai đón tiếp, đến nỗi chàng phải thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi” (Mt 13, 57), rồi còn nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8, 20).

Những lời phát biểu của chàng, nếu không là những câu chuyện dụ ngôn khó hiểu, thì cũng chỉ là những lời tréo cẳng ngỗng, nếu không muốn nói là nghịch thường, phi lý. Chẳng hạn như: “Hãy để người chết chôn người chết” (Lc 9, 60); “Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng.” (Mt 10, 34-35); “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”. (Mt 5, 44); ”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10, 39). Đó là chưa kể – nói theo đám kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu – Người còn nói “phạm thượng” nữa (Lc 5, 21), dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa (Lc 22, 70; Ga 13, 34), rồi còn tự coi mình vừa là con lại vừa là Chúa của vua Đa-vit (Lc 20, 41-44 ). Chưa hết, về giao du, sinh hoạt, Người chỉ chuyên “ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi” (Mt 9, 10-11).

Nếu không được ở liền bên Đức Giêsu hàng ngày, mà chỉ được nghe thuật lại những lời nói và hành động như nêu trên, chắc chắn sẽ cho Người chỉ là một chàng trai tự phụ, đại ngôn vậy thôi. Đám kinh sư và luật sĩ Pha-ri-sêu chống đối Người cũng là vì thế. Khoan thử nói đến những người ở bên ngoài Giáo Hội, mà hãy nói thẳng vào những người đã tin và đi theo Đức Giêsu như tìm đến một cứu cánh cho cuộc đời. Họ đi theo Đức Giêsu vì tin rằng mình sẽ trở nên những kẻ “lưới người như lưới cá”. Rồi thì ngày ngày được nghe lời dạy bảo, được chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ, mà vẫn còn bán tín bán nghi (khi thì coi Thầy mình đúng là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật; khi thì lại coi Thầy là ma, là bị quỷ ám – Mc 3, 22 ; Lc 24, 37-39 ; Ga 8, 52 ; 10, 20…). Theo Thầy ròng rã 3 năm liền mà đến giờ phút quyết định, thì bỏ mặc Thầy mướt mồ hôi máu khi cầu nguyện trên núi Cây Dầu, còn mình thì thản nhiên ngủ khì (Mt 26, 36-45). Đến khi Thầy bị bắt giải đi thì chẳng thấy ai đi theo, ngoài một Phêrô lảng vảng bên ngoài nhà Cai-pha, để rồi thì chối phăng Thầy 3 lần liền trong một đêm chỉ vì một đứa tớ gái vặn hỏi.

Trên đường lên Núi Sọ, cũng chẳng thấy môn đệ nào đi gần bên (để được như Si-mon – một dân quê xa lạ – vác đỡ thập giá, hoặc như một Vê-rô-ni-ca trao khăn cho Người lau mặt đầy máu), nếu có đi theo cũng chỉ ở xa xa hoặc lẫn trong đám người hiếu kỳ. Cho đến khi Đức Giêsu chết trên thập giá và được mai táng, thì hầu như chẳng còn một ai tin rằng Thầy mình sẽ sống lại. Ngay đến sáng ngày thứ ba, các phụ nữ – sau khi được chứng kiến Đức Kitô Phục Sinh hiện ra – đến báo tin cho các môn đệ (trong đó có Phêrô) mà các ngài vẫn còn chưa tin hẳn và một lần nữa lại tưởng Người là ma! (“Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin… Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” – Lc 24, 11…37). Thậm chí cho đến lúc trắng đen rõ ràng rồi, vậy mà vẫn còn một Tô-ma “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25).

Tuy nhiên, chính cái mâu thuẫn nội tại trong con người các môn đệ lại là một bằng chứng sống động nhất cho biến cố Phục Sinh. Thật thế, khi người ta mang một tâm trạng hoài nghi thì khó lòng làm cho người ta tin tưởng được. Chẳng thế mà thế giới đã có cả một chủ thuyết hoài nghi hiện diện (không tin vào bất cứ sự gì, nên sống hôm nay không cần biết đến ngày mai). Nhưng nếu đến một lúc nào đó, được “nghe”, được “thấy tận mắt”" (“thực mục sở thị”), được “chiêm ngưỡng”, tay được “chạm đến” (như trường hợp Gioan thánh sử – 1Ga 1, 1), tâm trạng hoài nghi thực sự được gỡ bỏ; thì lúc đó niềm tin của họ sẽ kiên định không gì lay chuyển nổi. Cho nên có thể nói: Nếu không vì cái tâm trạng hoài nghi đã từng dằn vặt tâm trí trước đó, thì khi được gột rửa (được thanh tẩy “trong Thánh Thần và lửa” – Mt 3, 11), niềm tin của các môn đệ tiên khởi không thể kiên định được đến độ dám đem cả sinh mạng của mình ra để làm chứng cho mầu nhiệm Phục Sinh. Nói cách khác, đức tin có vượt qua được thử thách mới trở nên kiên định (Gc 1, 3), vàng được thử lửa (1Pr 1, 7) mới thật sự là vàng ròng.

Đến ngay như Đức Giêsu Thiên Chúa nếu không trải qua cuộc Khổ Nạn (với những vết đòn roi trên thân xác, mão gai trên đầu, dấu đinh ở chân tay và nhất là vết thương ở cạnh sườn bị lưỡi đòng tội ác đâm thấu con tim) thì sự Phục Sinh của Người cũng chẳng còn ý nghĩa gì. Vì thế, vấn đề đặt ra với người Kitô hữu ngày hôm nay khi bước vào Tuần Thánh, chuẩn bị cử hành Tam Nhật Vượt Qua, không chỉ là tưởng niệm cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô và ăn mừng Lễ Phục Sinh đánh dấu mầu nhiệm Vượt Qua vinh hiển của Người, mà còn là làm sao vượt qua được chính mình trên hành trình dương thế, ngõ hầu tiến về được quê Trời vui hưởng hạnh phúc đời đời. Một cách cụ thể, chúng ta chỉ có thể đạt được ước vọng đó khi chúng ta được “cùng chết với Đức Kitô” (thử thách, thử lửa). Và chỉ có “cùng chết với Đức Kitô” thì mới được “cùng sống lại với Người”. Cụ thể hơn, cần phải vượt qua được bản chất “sợ chết” cố hữu của con người. Đức Kitô đã chết vì tội lỗi loài người, vậy thì tại sao loài người lại không sẵn sàng chết vì tội lỗi của chính mình, để hy vọng được thực sự “sống lại” trong Nước Trời vinh quang?

Mỗi năm chỉ có một Mùa Chay 40 đêm ngày hãm mình ép xác, ăn năn sám hối. Mỗi Mùa Chay cũng lại chỉ có một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa trọng đại của Tam Nhật Vượt Qua như đã dẫn ở đầu bài viết, tôi cứ muốn nghĩ thêm rằng tôi phải thực hành (không chỉ là cử hành) cho kỳ được công cuộc vượt qua được Mùa Chay của bản thân tôi, của cuộc đời tôi. Và nhất là làm thế nào để mỗi năm thêm một lần tôi ghi dấu được cuộc vượt qua bằng một cái mốc thời gian trong cuộc đời. Tôi phải sống làm sao cho đúng với ý nghĩa “sống là chấp nhận vượt qua, vượt qua mọi cám dỗ ngọt ngào, mọi đam mê thấp kém, vượt qua mọi gian lao nguy hiểm, mọi thử thách nghiệt ngã – vượt qua được chính mình”. Cuộc sống của tôi không chỉ là mỗi năm một lần cử hành Tam Nhật Vượt Qua, mà phải là thực hành liên lỉ cuộc “bách-niên-vượt-qua”, cho tới ngày tới được cùng đích của cuộc đời. Ở đó, chính Người-đã-chết-cho-tôi, đã Vượt-Qua-sự-chết-vì-tôi, sẽ dang rộng vòng tay đón nhận tôi để tôi được cùng-sống-lại-với-Người.

Có thể ai cũng đã quen với lối diễn tả sống đức tin vào sự Phục Sinh là chết đi con người cũ của mình để sống đời sống mới trong Thánh Thần. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Nói thì thật dễ, và chính vì tưởng dễ như vậy nên mới vênh vang tự đắc; nhưng làm thế nào để có thể “chết đi con người cũ của mình” mới là thiên nan vạn nan. Và vì thế, để thực hiện sống niềm tin Phục Sinh cách thực tế và sống động, chỉ có một bí quyết, đó là: “Lý do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1Cr 5, 6-8).

Vâng, người Kitô hữu “ăn mừng đại lễ Phục Sinh” cũng có nghĩa là sống mầu nhiệm Phục Sinh, sống với “lòng tinh tuyền và chân thật”. Cuộc đời Kitô hữu là một tiến trình “loại bỏ men cũ để trở thành bột mới”. Cuộc loại bỏ và trở thành ấy diễn ra trong mọi quyết tâm và nỗ lực là “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (“Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” – Pl 3, 10-11).

Tóm lại, để sống trọn hảo Mùa Chay thánh 2014, người Kitô hữu hãy mau mắn đáp lại mong ước của vị Cha Chung (ĐTC Phan-xi-cô): “Anh chị em thân mến, ước gì Mùa chay này thấy được toàn thể Giáo Hội sẵn sàng và mau mắn làm chứng cho những người đang sống trong tình trạng lầm than vật chất, luân lý và tinh thần: làm chứng về sứ điệp Tin Mừng, được tóm tắt trong việc loan báo tình thương của Chúa Cha từ bi, sẵn sàng ôm lấy mỗi người trong Chúa Kitô. Chúng ta có thể thi hành điều ấy theo mức độ chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo và làm cho chúng ta được giàu sang bằng cái nghèo của Ngài. Mùa Chay là mùa thích hợp để cởi bỏ, làm cho chúng ta tự hỏi đâu là điều chúng ta có thể chịu thiếu để giúp đỡ và làm cho người khác trở nên phong phú nhờ cái nghèo của chúng ta.”

Quả thật “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.” (Rm 6, 4-5). Và chỉ đến khi đó, tôi mới thật sự vui mừng mà hoà chung tiếng hoan ca với mọi người: Chúa đã sống lại hiển vinh! Alleluia! Alleluia! Ôi, lạy Chúa! Con đã tự ru mình vào những cám dỗ ngọt ngào của ba thù, đã tự kết án mình, đã chết vì chính tội lỗi của con. Xin cho con vượt qua được mọi nỗi thống khổ trần ai, vượt qua được chính mình, để được cùng sống lại với Ngài trong ngày sau hết. Amen. Alleluia! Alleluia!

-----------------------------

 

PS1-377: Phục sinh với Chúa – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

Người ta nói “chết là một phần tất yếu của cuộc sống”. Cái chết không loại trừ bất cứ ai. Từ đông PS1-377


Người ta nói “chết là một phần tất yếu của cuộc sống”. Cái chết không loại trừ bất cứ ai. Từ đông sang tây không một ai hiện hữu mà không một lần phải đối diện với cái chết, dù đó có là Tần Thủy Hoàng hay Alexander Đại đế. Tài giỏi. Quyền uy. Tất cả cũng đi vào dĩ vãng của dòng đời, đôi khi chẳng để lại cho đời một chút luyến tiếc, nhớ thương.

Sinh lão bệnh tử là quy luật lẽ thường của đời người. Con người từ khi sinh ra đã tập chia tay. Chia tay từng tuổi đời để tiến đến tuổi trưởng thành hơn hay già đi và chết đi. Chia tay những con người đang sống với chúng ta trong thời gian ngắn, dài hay vĩnh viễn. Và trong số họ cũng có không ít người là thân nhân, là bạn bè của chúng ta.

Một điều mà nhân loại vẫn thao thức qua qua mọi thời đại là chết rồi đi đâu? Mặc dù cũng có rất nhiều câu chuyện được kể từ những người chết rồi bất thần sống lại. Mỗi người kể mỗi khác về những gì họ thấy được trong thời gian chết ấy. Cõi chết mà họ bước vào như thế nào? Phong cảnh, sự vật, màu sắc, âm thanh thế nào? Nơi ấy con người ra sao? Sinh vật nào hiện diện và sự sinh hoạt nơi ấy diễn ra có giống với thế giới mà ta gọi là dương thế hay dương gian hay không?Tuy nhiên, cho đến nay, những tường thuật của những người đã chết sống lại kể ra thì chẳng mấy ai chịu tin nhất là trong thời đại văn minh này. Vì nó vẫn vượt lên trên sự suy nghĩ của con người. Có lẽ con người sẽ không bao giờ lý giải được về cái chết. Cái chết vẫn là ẩn số mà các nhà khoa học không bao giờ tìm được câu trả lời thỏa đáng.

Người Kitô hữu chúng ta chỉ biết được cái chết một cách trọn vẹn trong ánh sáng Phục Sinh của Chúa Kitô. Sự sống lại của Chúa là lời mạc khải về sự sống đời sau. Cái chết là hậu quả của tội lỗi con người như thánh Phao-lô đã quả quyết: “Vì một người mà tội lỗi đã vào thế gian, và tội lỗi gây nên sự chết, như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì một người đã phạm tội” (Rm 5, 12). Thế nhưng, sự sống lại trường sinh lại là hồng phúc mà Thiên Chúa ban cho nhân loại qua cái chết của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.

Theo Thánh Kinh, Thiên Chúa không tạo dựng con người để chết mà là để sống, cho dù tội lỗi có phá hủy chương trình của Chúa thì Ngài cũng tìm mọi cách để khôi phục lại sự sống đời đời cho con người. Đức Kitô khi xuống thế làm người đã phục hồi lại những gì đã tan vỡ. Chính Ngài đã lãnh lấy sự chết loài người và đã chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh. Qua sự phục sinh của Ngài đã khai mở một mùa xuân hy vọng cho con người nếu cùng chịu chết với Người thì cũng sẽ được sống lại với Người.

Sự phục sinh của Chúa Giêsu được Phúc Âm ghi lại qua những lần Chúa hiện ra với các môn đệ, với những người thân tín của Chúa. Sự Phục sinh của Chúa còn được ghi dấu ấn qua ngôi mộ trống. Một nơi đã chôn cất xác Chúa nhưng ngày thứ ba dù quân lính canh gác, dù tảng đá nặng trĩu vẫn không còn xác Chúa. Nơi nấm mồ ấy không còn là dấu chỉ sự chết mà là dấu chỉ của sự sống. Vì Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ.

Sự Phục sinh của Chúa cho chúng ta một niềm vui mừng và hy vọng cho kiếp người chúng ta. Kiếp người chúng ta không có tận cùng. Kiếp người chúng ta sẽ được sống mãi trong sự sung mãn của Chúa. Cái chết chỉ là một chuyển tiếp để được sống mãi bên Chúa nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô.

Cùng chết với Đức Kitô nghĩa là cùng chết đi con người cũ với những tính hư nết xấu để sống lại con người mới là con cái Thiên Chúa. Con người cũng phải chôn đi những tính xác thịt yếu đuối để từ khước những danh lợi thú mau qua. Nhất là con người cũng phải biết chết đi ý riêng của mình để ý Chúa được thục hiện trong cuộc đời chúng ta. Ý Chúa vẫn là tiếng mời gọi làm việc lành tránh điều dữ. Ý Chúa vẫn mời gọi chúng ta sống có ích cho tha nhân qua tinh thần bác ái, dấn thân phục vụ.

Ước gì đời sống Kitô hữu chúng ta luôn biết chết đi con người cũ để được sống lại với Chúa trong vinh quang phục sinh. Xin cho chúng ta đừng vì những đam mê lầm lạc mà đánh mất Nước Trời mai sau. Amen.

-----------------------------

 

PS1-378: Sống quyện trong nỗi chết


(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)

 

Tôi yêu vô cùng sáng sớm Thứ Bảy Tuần Thánh. Không gian tĩnh mịch, im lìm. Ngoài đường vắng PS1-378


Tôi yêu vô cùng sáng sớm Thứ Bảy Tuần Thánh. Không gian tĩnh mịch, im lìm. Ngoài đường vắng tiếng xe qua. Vạn vật, muôn người như đang thiếp ngủ. Không! Vạn vật, muôn người cơ hồ như đang chết…

Giữa ngày Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh là khoảng thời gian mà, theo lời của Gregory Đại Đế, Chúa đã “bị dìm sâu tại một nơi sâu thẳm nhất”. Chúa chết rồi! Chết thật rồi! Không còn gì nữa… Chẳng còn gì nữa…Đau đớn! Cô đơn! Nhục nhã! Ê che …

Nhưng nếu chúng ta hối hả mong cho mau đến lễ Vọng Phục Sinh, xem cái chết của Người vô nghĩa và chỉ hướng lòng về sự sống lại thôi, chúng ta, theo thần học gia người Úc Tony Kelly, đã quên đi ý nghĩa tuyệt đối của mầu nhiệm cứu chuộc. Thà là đừng hát Alleluia! Thà là để bàn thờ, nhà tạm tang thương trơn trống, hơn là hấp tấp vội vàng và không đoái hoài chiêm nghiệm đến cái chết tức tưởi đau thương của Đức Kitô trên cây thập giá.

Vì nếu không thể cùng chết với Đức Kitô, chúng ta không thể cùng sống lại với Người. Nếu không nếm khổ đau -trốn chạy khổ đau- niềm vui Phục Sinh cơ hồ như đã mất nhiều phần ý nghĩa. Như Sharktacos đã suy tư:” Chỉ nhờ vào thánh giá mà tôi tìm đuợc hy vọng trong thế giới này. Khi Chúa Giêsu kéo lê thánh giá giữa bùn nhơ và nước bọt, Người đã minh chứng rằng Thiên Chúa đã trọn vẹn hiểu đuợc thực tế cuộc đời: những chồng chất oan khiên, những triền miên thống khổ, những khóc than không thành tiếng…”

Trong khổ đau, con người được lớn lên bội phần. Không nếm khổ đau thì không còn nhiều nước mắt. Không nếm khổ đau thì không thể yêu thương…

Và vì thế, hãy mạnh dạn bắt đầu niềm vui Phục Sinh với Tuần Thánh- tuần quan trọng nhất trong niên lịch Phụng Vu. Những giây phút cuối đời của Con Thiên Chúa được thuật lại thật chi li chi tiết trong bài Thương Khó. Và chúng ta đã nhớ đuợc những gì?

Có thể chúng ta đã không thể nhớ gì nhưng có hai chữ và cụm chữ mà chúng ta không thể đọc lướt và nghe thoáng qua là “Hosanna” (Thánh) và “Eli, Eli, lema sabachthani” (Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con).

Chưa một ai trong lịch sử cổ kim mà cuộc đời “lên voi xuống chó” như cuộc đời Chúa Giêsu. Mới hôm qua đây, mọi người dân thành Giêrusalem còn cầm cành lá ôliu tung hô: Thánh! Thánh! Thánh! Vạn tuế Con Vua Đavít, mà hôm nay Nguời lại cô thân, đơn chiếc trần truồng nhục nhã phơi thân trên thập tự giá. Không một ai chung quanh ủi an, cả đến những môn đệ Người thương yêu thân tín. Không một ai, ngoại trừ hai tên trộm vô danh…

Nhưng như Nguyễn Công Trứ ngày xưa lúc làm quan không cảm thấy vinh và lúc xuống lính trơn không thấy nhục, cuộc sống chúng ta cũng phải như thế. Khi công danh vinh quang ngập trời; khi hạnh phúc tràn đầy; khi vật chất thừa dư: hãy khiêm cung và đừng kênh kiệu. Và khi bất hạnh và những bão tố cuộc đời bủa vây ập đến, hãy thở dài như Chúa đã thở dài -không phải một lần mà những đến hai lần. Nhưng đừng theo ý mình mà hãy một lòng vâng theo ý Chúa.

Rồi ai trong chúng ta mà đã không một lần qụy gối? Ai trong chúng ta mà đã không một lần lạc lối đường về? Như Phêrô chối Thầy mình. Và chìm đắm ngủ say không thể thức và cầu nguyện với Người trước giờ chung cuộc.

Nhưng có cái gì đó trong Phêrô lớn hơn, đáng nói hơn là tội chối Thầy mình. Đó là sự thống hối. Đó là sau lần qụy ngã lịch sử kia, biết can đảm đứng lên hối lỗi quay về. Thật dễ dàng đồng hoá với Phêrô khi chúng ta không thể thức và cầu nguyện cùng Thầy Chí Thánh. Thật dễ cảm thông với Phêrô khi chúng ta chối bỏ Người. Nhưng khó một ai có thể thẩm thấu đuợc sự thay đổi tận gốc rể trong con người Phêrô. Phêrô chối Chúa và Phêrô khóc lóc thảm thiết ăn năn là hai con người hoàn toàn khác biệt. Gà vừa gáy xong, con nguời củ Phêrô đã lột xác, mất và tan biến đi để trở thành con người mới.

Một trong những cảnh thương tâm và có ý nghĩa nhất trong phim “The Passion of Christ”, là cảnh Giuđa treo cổ tự vận và Phêrô khóc lóc thảm thiết. Một người bán Chúa; một người chối Thầy mình. Nhưng cả hai đã phản ứng hoàn toàn trái ngược nhau: Giuđa quẫn trí điên rồ quên đi rằng mình vẫn còn là con cái Chúa, tìm cái chết thảm thương vô nghĩa. Phêrô quay về, chọn Đường, Sự Thật và Sự Sống.

Hoặc như người con hoang đàng. F.W. Norwood đã viết rằng: “Thảm kịch lớn nhất trong đời sống là mất Chúa và không còn nhớ đến Người nữa.” Ở nơi xa thật xa ấy, anh ta đã sống gần như mất Chúa. Nhưng điều cốt lỏi là anh vẫn không quên Người. Anh vẫn hiểu rằng tội lỗi anh, dẫu cho nhiều thật nhiều như trăng-sao-cát-biển, vẫn không thể nào so sánh đươc vơi tình thương vô bến bờ của Thiên Chúa.

Henri Nouwen viết là “một trong những thử thách lớn nhất của đời sống tâm linh là biết nhận sự thứ tha của Chúa.” Nhiều khi phải lên núi cao mới có thể thấy trăng sao, hoa lá. Nhiều khi phải vào rừng già mới có thể nghe được tiếng chim ca. Nếu muốn thấy mùa xuân, thực sự thấy mùa xuân, chúng ta phải sống qua những mùa đông băng tuyết đã.

Và mùa xuân đã đến. Mùa Xuân Phục Sinh. Phục Sinh: hai tiếng nghe thật bình dị nhưng nhân loại, từ ngày Adong và Evà bất tuân lệnh Chúa, đã mong chờ từng phút từng giây. Phục Sinh: vạn vật ươm mầm sống mới. Phục Sinh: Chúa vinh thắng khải hoàn. Phục Sinh: bóng tối đã lùi xa và sự chết không còn muôn đời thống trị.

Chúa đã Phục Sinh! Vinh hiển Phục Sinh! Nhưng vấn đề là chúng ta đã sống tinh thần Phục Sinh. Nói một cách khác, liệu chúng ta đã sống, đã chuẩn bị tâm hồn cho Chúa Phục Sinh vào ngự trị? Hay bóng tối vẫn còn đầy? Và Thần Chết vẫn còn thống trị?

Như có một ông kia tính tình cau có mặt mày nhăn nhó lại thêm nghi ngờ vào mầu nhiệm Phục Sinh. Một đêm kia, ông nằm mơ gặp Chúa, liền hỏi: “Xin Chúa chứng tỏ cho mọi nguời thấy và hiểu việc Chúa sống lại?” Chúa liền đáp lại: “Làm sao ta có thể chừng minh Ta từ cỏi chết sống lại khi khuôn mặt con không phản chiếu ánh sáng và niềm vui Phục Sinh?”

Hay như Anthony de Mello, một linh mục dòng Tên người An Độ, nổi tiếng với nhiều sách chuyên khảo về tâm linh, kể câu chuyện về một con cá nhỏ đang tung tăng bơi lội.

Chợt nhiên, chú hỏi cá mẹ: “Mẹ ơi! Thế đại dương là đâu vậy Mẹ?” Cá mẹ trả lời đại dương là nơi mà chú đang tung tăng bơi lội. “Nhưng đây chỉ là ‘nước’thôi mà,” chú cá bé vùng vằng trả lời, rồi hối hả bơi đi nơi khác tìm kiếm đại dương.

Đôi khi chúng ta đã lãng phí qúa nhiều thời gian về một vài vấn nạn trong đời sống mà câu trả lời, phương thức giải quyết nằm ngay trước mặt chúng ta. Thậm chí, thường khi chúng ta nhìn sự vật nhưng lãng quên đi ý nghĩa đích thực của nó. Như chú cá nhỏ kia bơi đi tìm đại dương mà không thể hiểu rằng đại dương chính là khối nước nó đang bơi sống chung quanh.

Hay như Mai Đệ Liên -người đầu tiên (phụ nữ đầu tiên)- đến ngôi mộ trống nhưng không thể nào hiểu đựợc sự kiện lịch sử mà mình vừa đươc diễm phúc và vinh hạnh chứng kiến. Người thiếu phụ họ Mai đã run rẫy vì sợ hãi: “Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ và tôi không biết xác Thầy để đâu?”

Nghe như thế, cả Phêrô và Gioan, một già một trẻ, chạy ngay đến ngôi mộ trống. Họ hiểu điều Mai Đệ Liên không thể hiểu; thấy được điều Mai Đệ Liên không tài nào thấy: Chúa đã sống lại từ cỏi chết ngay trong ngôi mồ trống…

Nói một cách khác, Mai Đệ Liên, Phêrô và Gioan cùng chứng kiến chung một sự kiện, nhưng cả ba phản ứng khá khác biêt nhau.

Cũng thế, hạnh phúc đời sống chúng ta tùy thuộc cách chúng ta nhìn sự việc. Như hai người lính già nhìn qua khung cửa bệnh viện. Một người chỉ thấy những bức tường trắng lạnh câm. Người kia lại nhìn thấy trăng sao hoa lá. Và còn nghe được cả tiếng chim ca.

Gioan và Phêrô cùng đi đến mồ. Gioan trẻ chạy nhanh hơn còn Phêrô già lập cập bước theo sau. Nhưng có một chi tiết rất quan trọng mà chúng ta không thể bỏ qua: Gioan chạy đến mồ trước, nhưng không vào trong mồ. Nhưng khi Phêrô lom khom đến, ông vào ngay trong.

Gioan trẻ, tượng trưng cho lý trí. Phêrô già, biểu hiện cho đức tin. Chúng ta cần lý trí để củng cố đức tin. Và đức tin để hướng dẫn lý trí. Đức tin và lý trí cần bổ khuyết cho nhau. Như đêm và ngày. Không thể sống đời sống công giáo chân chính bằng những tích lũy của một con người chậm tiến. Ngược lại, không thể sống đời sống văn minh có lý trí tư duy, nếu không có đức tin.

Thế hệ trẻ hôm nay có nhiều rất nhiều cơ hội học hỏi trãi rộng tầm nhìn. Nhưng như Gioan, họ ngập ngừng, ngại ngùng; thậm chí, ngờ vực. Trái lại, những thế hệ trước -lập cập như Phêrô, tuy không được học rộng hiểu nhiều, không thep kịp những kỷ thuật hiện đại tân tiến, nhưng những thế hệ này đã thấy đức tin. Và sống đức tin. Họ đã không một phút giây e ngại, chần chờ.

Họ đến. Họ thấy. Họ tin. Và họ sống.

-----------------------------

 

PS1-379: Mừng Vui Lên – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ


Đêm Vọng Phục Sinh (Mt 28, 1-10)

 

Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên khi công bố Tin Mừng Phục Sinh. Hỡi chư thần chư thánh, hỡi PS1-379


“Mừng vui lên”, đó là lời đầu tiên khi công bố Tin Mừng Phục Sinh. Hỡi chư thần chư thánh, hỡi khắp miền dương thế, hỡi Hội Thánh mẹ hiền, mừng vui lên vì Chúa đã sống lại.

Đêm nay chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả, mầu nhiệm nền tảng đức tin và niềm hy vọng của người kitô hữu. Chúa Giêsu Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ đúng như lời Kinh Thánh. Lời của Thiên Thần mặt sáng như chớp, áo trắng như tuyết, ngồi trên tảng đá cửa mộ cất lên lời bảo mấy người phụ nữ đến thăm mộ vừa tảng sáng, lúc đất chuyển động, đá lăn ra, chúng ta nghe lại trong đêm nay với niềm vui tuôn trào xúc động trong khi các bà khiếp sợ: “Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã chịu đóng đinh. Người không còn ở đây vì người đã sống lại” (Mt 28, 5-6). Vâng Người đã sống lại rồi.

Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ vào giây phút đó: những tâm tình ưu buồn và chán nản vì Chúa đã chết, sợ hãi vì kinh thiên động địa, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin lời Thiên Thần rằng Chúa đã sống lại.

Chúa Kitô đã đã sống lại sang láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế Thiên Thần từ trời cao xuống đã tuyên bố: “Người không còn ở đây vì Người đã sống lại như lời Người đã nói”(Mt 28, 5-6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết, “sự chết vô phương cầm hãm được Người” (Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại được Đấng Hằng Sống là “Alpha và Ômêga”(Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.

“Mừng vui lên”, lời này được lặp đi lặp lại. Quả thật, sao không thể không vui, vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa (x. Exsultet).

Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và nối kết con người trần thế với nhau (x. Exsultet). Còn hạnh phúc nào, còn hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang, Người mang lại cho chúng ta những ơn lớn lao như thế.

Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh đã được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng cho Chúa Kitô là Ánh Sáng đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sáng chiến thắng bóng đêm tội lỗi và sự dữ (x. Exsultet).

Phần chúng ta, nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta. Tiên Tri Ezechiel đã loan báo trước điều này như sau: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ezechiel 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.

Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ và sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.

Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui vên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân lọai, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.

-----------------------------

 

PS1-380: Suy niệm của Lm Andre Bé

 

Hoàng tử của một vương quốc giàu có, đem lòng yêu thương một cô gái đẹp, con một người làm PS1-380


Hoàng tử của một vương quốc giàu có, đem lòng yêu thương một cô gái đẹp, con một người làm bánh mì. Tuy bị hoàng gia phản đối, nhưng hoàng tử nhất mực cưới nàng làm vợ. Lễ thành hôn được tổ chức rất kín đáo và đơn giản trong đền vua, không có chư khách vị vọng nào, cũng không có đại diện các nước lân cận.

Nhiều năm trôi qua, hoàng tử và cô gái đẹp sống những ngày rất êm đềm hạnh phúc. Đến ngày vua băng hà, hoàng tử được lên ngôi thay vua cha cai trị dân nước. Bấy giờ, các quan cận thần triều đình mới cho hoàng tử biết, vì hạnh phúc của dân nước, ngài phải chọn một trong hai điều: hoặc là từ khước ngai vàng, hoặc là phải bỏ người vợ đẹp để chính thức thành hôn với công chúa của nước láng giềng.

Hoàng tử phân vân do dự giữa hạnh phúc cá nhân và an ninh trật tự của cả dân tộc. Trong khi đó các quan cận thần thuyết phục hoàng tử rằng cô vợ đẹp ấy cũng chỉ là cô con gái nhà nghèo.

Cuối cùng hoàng tử xiêu lòng và phải ngậm ngùi tâm sự với vợ: "vì an bình và hạnh phúc của cả dân nước, anh đành phải từ bỏ em, em hãy trở về gia đình cha mẹ em, và có thể đem theo cái gì quí giá nhất đối với em".

Tối hôm ấy, hoàng tử và người vợ đẹp dùng bữa tối cuối cùng tại hoàng cung. Bữa cơm chia ly thật buồn thảm, hoàng tử ăn trong nước mắt, lòng buồn rười rượi không nói nên lời. Tuy nhiên, người vợ vẫn thản nhiên chuốc rượu cho chồng, cạn ly này rồi lại đầy ly khác, trong khi hoàng tử lại cố uống cho quên sầu.

Sau bữa ăn thì hoàng tử say mê mệt không còn biết gì nữa. Lúc ấy nàng mới lấy cái mền chùm kín hoàng tử, rồi vác lên vai, kín đáo đi lối sau, ra khỏi hoàng cung, đi về nhà cha mẹ.

Sáng hôm sau, khi đã tỉnh rượu, hoàng tử mở mắt ra thấy mình đang ở trong căn nhà nghèo nàn của người làm bánh mì. Hoàng tử ngạc nhiên hỏi: "Làm sao thế này? Anh đang ở đâu đây?"

Cô vợ mỉm cười đáp: "Không phải là anh đã nói với em là phải trở về nhà cha mẹ và có thể đem theo cái gì quí nhất đối với em sao? Mà điều quí nhất đối với em không còn cái gì khác hơn là chính anh, hoàng đế của lòng em".

Anh chị em thân mến,

Nếu bỗng dưng chúng ta phải chỗi dậy ra đi, phải lên đường mà không hẹn ngày trở về, chúng ta phải đem theo cái gì? Cái gì là bảo vật quí giá nhất đối với chúng ta?

Xét cho cùng, đời sống con người là cuộc hành trình tiến về đích điểm, không có ngày trở lại, cũng không thể nào đi ngược thời gian về lại điểm khởi hành. Đã sinh ra trên đời là phải lên đường, là lữ hành. Dầu muốn dầu không, mỗi ngày trong đời sống là một bước tiến gần đến sự chết.

Sống, chúng ta không biết sẽ đi về đâu, tương lai sẽ thế nào, chết là điều ai cũng có thể biết chắc, tuy không biết chết ngày nào, ở đâu, chết thế nào và cái gì đang đợi ta bên kia sự chết.

Đối với người không có niềm tin, cái chết là vực sâu đêm tối, là con đường cụt. Còn người tín hữu Kitô đặt nền tảng niềm tin của họ trên mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết và sống lại khải hoàn thì mầu nhiệm sự chết không còn là vực thẳm tối tăm, không còn là đường cụt đầy thất vọng nữa.

Với niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh, cái chết là ngưỡng cửa bước vào sự sống thật, là tiến vào con đường sáng, là bắt đầu cuộc sống mới bất diệt. Ở bên kia sự chết, mỗi người chúng ta chỉ gặt hái được những gì đã gieo vãi trên trần gian này: ai gieo gió sẽ gặt bảo, ai gieo yêu thương sẽ gặt được hạnh phúc. Thánh Phaolô đã nói trong thư gửi tín hữu Galata như sau: "Người ta gieo gì sẽ gặt thứ ấy, gieo xác thịt sẽ gặt hư hỏng bởi xác thịt, ai gieo yêu thương sẽ gặt sự sống vĩnh cửu bởi yêu thương".

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết đặt trọn niềm tin vào Chúa Phục Sinh, cho chúng con biết gieo vãi yêu thương trên mọi nẻo đường chúng con đi, để sau này chúng con sẽ gặt hái được hoa trái không bao giờ tàn là chính Chúa, vì Chúa là Tình Yêu, là kho tàng quí giá nhất của đời chúng con. Amen.

-----------------------------

 

PS1-381: Trên con đường mòn của kiếp nhân sinh


(Suy niệm của Lm Giuse Trương Đình Hiền)

 

Hôm nay các tờ lịch trên thế giới đều đồng thanh gọi tên: NGÀY CHÚA NHẬT, Ngày mà cách đây PS1-381


Hôm nay các tờ lịch trên thế giới đều đồng thanh gọi tên: NGÀY CHÚA NHẬT, Ngày mà cách đây hơn 2000 năm trước, khi Kitô giáo chưa xuất hiện trong thế giới nầy thì người ta vẫn gọi tên là "Ngày Thứ Nhất" hay "Ngày Mặt Trời" (Sunday). Tuy nhiên, kể từ cái buổi sáng Tinh mơ "Ngày Thứ Nhất trong tuần", khi các phụ nữ thân quen của Thầy Giêsu đến thăm mộ Thầy chỉ thấy "Mồ Trống", các thiên thần báo tin Thầy đã sống lại...Rồi các "ngày thứ nhất tiếp sau", Đức Kitô phục sinh đã hiện đến gặp các môn sinh... Cứ như thế, cuộc gặp gỡ của các kitô hữu ban đầu diển ra đều đặn vào "ngày thứ nhất trong tuần" và họ đã gọi ngày của cuộc họp mặt đặc biệt đó là "Ngày của Chúa". Kể từ đó "Ngày của Chúa", hay Chúa Nhật đã đi vào nhịp thời gian, đã hằn sâu trong lịch sử và cuộc sống của loài người....

1. Phục sinh: Chân lý đến từ cuộc gặp gỡ.

Như vậy, có thể nói ở nơi cội nguồn của Kitô giáo, ở điểm xuất phát của niềm tin Kitô chính là cuộc gặp gỡ với Đấng từ trong cõi chết sống lại. Một cuộc gặp gỡ giữa thân phận con người mang đầy vết thương của tội lỗi và nỗi niềm buồn đau thất vọng của cái chết với thân phận của một Đấng Cứu độ quyền năng chiến thắng tội lỗi và sự chết. Cuộc gặp gỡ để đóng lại cái hồ sơ đen tối của "Ngày Thứ Sáu buồn đau ảm đạm" để mở ra một chương mới trong lộ trình cứu độ của Thiên Chúa: con đường phục sinh để dẫn tới hạnh phúc vĩnh hằng.

Vâng, cuộc họp mừng Lễ Tạ Ơn hôm nay, ở khắp nơi, mọi thời, chính là cuộc gặp gỡ thân mật và đích thật nầy giữa chúng ta và Chúa chúng ta, Đức Kitô phục sinh, giữa cộng đoàn chúng ta, gia đình giáo xứ chúng ta với Đấng Phục sinh đang trở về như cuộc trở về vào buổi sáng "Ngày Thứ Nhất trong tuần" gần bên "Ngôi mộ trống", nhưu cuộc trở về để gặp mặt, để ban bình an, ban Lời chân lý như cuộc trở về trong mái nhà tiệc ly nơi các môn sinh đang họp mặt đợi chờ trong lo âu thấp thỏm. Cho dù với một không gian khác và vào một thời điểm khác, nhưng cuộc họp mừng Chúa Sống Lại hôm nay cốt lõi cũng chỉ là cuộc hội ngộ với Đấng Phục Sinh đang trở về, đang hiện diện, đang ủi an và chia sẻ tình yêu thân mật và hồn nhiên như Ngài đã hiện diện và sẻ chia cùng các môn sinh với "bữa điểm tâm đơn giản nhưng ấm áp tình thân trên bờ hồ Tibêriát" (Ga 21, 1-14), hay như bữa cơm chiều đạm bạc thân thương bên quán vắng Emmau (Lc 24,13-35). Đó chính là niềm tin muôn nơi và muôn thuở của chúng ta, của mỗi người Kitô hữu, là ý nghĩa đích thực của cuộc họp mừng phục sinh, là nội dung cốt yếu của Tin Mừng phải được sẻ chia và làm chứng, như lời "lời chứng và chia sẻ của Thánh Phêrô" từ thuở khai sinh Giáo Hội mà BĐ 1 sách CVTĐ đã thuật lại hôm nay:

"Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người trên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại"

Cùng với Phêrô, mọi Tông đố khác, các bài giáo lý đầu tiên của Kitô giáo do các Ngài thực hiện, niềm tin nguyên thủy mà các Ngài muốn chuyển tải cho thế giới, giản đơn, cũng chỉ với một đề tài duy nhất đó là " Chúng tôi làm chứng: Đức Kitô đã chết và đã sống lại".

"Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời..." (1 Ga 1,1-2)

Phaolô, một tông đồ trở lại cũng đã dõng dạc:

"Còn chúng tôi, chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng nầy; điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các Ngài, khi làm cho Đức Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong thánh vịnh 2: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con". (Cv 13,32-33)

Thế nhưng, cũng đã có những lập luận cho rằng: những lời khẳng định trên chỉ thuần túy là do óc tưởng tượng của con người, hay do một âm mưu tinh quái nào đó đạo diễn.

Cứ cho là như thế đi thì thử hỏi đã 2000 năm rồi, tại sao sự "dối trá bịp bơm như thế lại không bị lật tẩy", tàn rụi như bao nhiêu sự dối trá khác đã "đội nón ra đi" trong khi chân lý Phục Sinh lại cứ trụ vững hiên ngang và càng ngày đơm hoa kết trái phong phú giữa dòng chảy khắc nghiệt của lịch sử con người? Điều đó, chỉ có thể cắt nghĩa được: bên sau Lời chứng ấy, bên trong Tin Mừng ấy, ở giữa câu chuyện phục sinh ấy, mồ trống ây, có một Đấng Phục Sinh đang thực sự hiện diện trong quyền năng vĩnh cửu của Ngài. Vâng, Kitô giáo chính là Đức Giếu-Kitô đang hiện diện, Kitô giao chính là cuộc gặp gỡ giữa con người và một Đấng Phục Sinh, một cuộc gặp gỡ đã trở thành cốt yêu của đức tin, của việc tôn thờ, của định hướng sống; và như thế, cử hành mầu nhiệm Phục Sinh hôm nay chính là tái diễn cuộc gặp gỡ ấy, và hơn nữa, chính là sống lại chính cái biến cố phi thường của Đấng đã vì yêu thương mà nhập thể làm người, đã vì yêu thương mà loan báo Tin Mừng cứu độ và giải thoát, đã vì yêu thương mà hiến thân chịu chết và cũng đã vì yêu thương đã sống lại để ban nguồn sống mới.

2. Đức Kitô phục sinh mở cửa huyền nhiệm cuộc sống:

Nhưng sau cuộc phục sinh của Đức Kitô thì chuyện gì đã xảy ra cho thế giới?

Quả thật nếu Đức Kitô không sống lại, thì không ai, không một ý thức hệ nào, một triết thuyết nào, một hiền nhân nào có thể giải mả được những "phi lý trong cuộc đời nầy". Hai môn đệ trẻ của Chúa Giêsu trên cuộc hành trình về làng Emmau vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần cũng đã đặt vấn đề về sự phi lý đó: "tại sao ông Thầy Giêsu người Na-da-rét, uy tín trong lời nói việc làm, thánh thiện và công chính đến thế mà lại phải chết thảm?" (Lc 24,1-35). Và trong cuộc sống đời thường hôm nay hằng ngày đang xảy ra bao nhiêu chuyện phi lý như thế: Tại sao cuộc sống đang tươi đẹp hạnh phúc (như....) bỗng dưng phải từ giã cõi đời trong một tai nạn xe thảm khốc? Tại sao đứa bé kia có tội tình gì mà vừa mới lọt lòng mẹ đã mang dị tật bẩm sinh? Và tại sao người thiếu nữ dịu dàng khả ái tương lai đang rạng rỡ với mãnh bằng đại học xuất sắc kia lại đành chấp nhận bản án tử với căn bệnh ung thư quái ác?... Hay xa hơn một chút, sâu hơn một chút trong ý nghĩa của kiếp nhân sinh: Con người sinh ra để làm cái gì? Thế giới nầy rồi sẽ kết thúc ra sao? Đau khổ, bất hạnh, sự dữ, cái chết...có ý nghĩa gì không hay chỉ là một thứ "định mệnh" khắc nghiệt, một thứ trò chơi của quyền lực vô minh...?. Nếu Đức Kitô sau buổi chiều thê lương Thứ Sáu cứ "bặt vô âm tín", để sau đó xác thân từ từ thối rửa trong mộ đá... thì chắc chắn cho đến mãi hôm nay, vẫn còn những chàng trai, những cô gái, những cụ già, những em thơ...trên mọi nẽo đường trần thế cứ hoang mang hoài, cứ thắc mắc hoài, trăn trở hoài về những vấn nạn của cái sống và cái chết, của hạnh phúc và khổ đau, của hôm nay và vĩnh cửu

Và Đức Kitô phục sinh đã đến, đã thỏ thẻ chuyện trò, đã khai lòng mở dạ, đã hong lại niềm tin, đã đốt lên sức sống cho họ cũng như cho bao nhiêu thế hệ con người. Biết bao nhiêu người đã cảm nhận được điều đó như cách cảm nhận của đoạn cuối bài thơ trên:

3. Đức Kitô Phục sinh trên con đường mòn của kiếp nhân sinh:

Và như thế, sống mầu nhiệm Chúa sống lại đó chính là đón nhận, gặp gỡ và bước đi "trên con đường mòn của kiếp nhân sinh" với Đấng đã chết và đã sống lại, Đức Kitô, Đừng, Sự thật và Sự sống.

Chính sự tiếp nhận Đấng sống lại từ cõi chết sẽ mang lại hoa trái của niềm vui và sự sống, của ánh sáng và hy vọng, cho dù một tiếp nhận tình cờ như kiểu Gia-kê, môt tiếp nhận "bất đắc dĩ" như Simon vác đỡ thánh giá, một tiếp nhận bắt buộc khi bị đánh ngã như Phaolô trên đường Damas, một tiếp nhận lúc đường cùng khi không còn gì để bám víu như Phêrô sau "những bước chân trên sóng", một tiếp nhận đầy mắc cở thẹn thùng như "người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình", hay sự tiếp nhận trong nổi đau ngút ngàn của Matta, Maria khi vừa mất em, hay sự tiếp nhận đầy niềm tin phó thác của người sĩ quan ngoại giáo: "Lạy chúa, con chẳng đáng Chúa ngự đến nhà con. Chúa chỉ cần phán một lời...", hay như sự tiếp nhận đầy ngỡ ngàng, chân chất như chàng mù từ lúc mới sinh "Lạy Ngài con tin".
 
 

-----------------------------

 

PS1-382: Hành động yêu thương - Ga 20, 1-9

 

Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng ..........". Mới xem qua câu nói này, thì tôi thấy không PS1-382


"Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu". Mới xem qua câu nói này, thì tôi thấy không có tính chất cần thiết hay quan trọng nào liên quan đến Chúa Phục Sinh, chỉ là một câu phản ứng tự nhiên, xuất phát từ sự bối rối, lo lắng, run rẩy, sợ hãi, của các người phụ nữ. Những người phụ nữ này đi viếng mộ Chúa từ buổi sáng. Xét cho cùng, thì câu nói này ngụ ý việc trộm xác Chúa Giêsu. Như thế càng vô lý hơn, vì theo Tin Mừng Thánh Luca, thì nơi chôn cất Chúa Giêsu được lính canh rất cẩn thận, không thể nào có chuyện mất trộm. Tuy nhiên, khi tôi đọc kỷ bản văn và những đoạn Tin Mừng song song. Tôi thấy rằng: câu nói trên không đơn thuần là một phản ứng. Như vậy, câu nói trên mang một sứ điệp gì? Và nó xuất phát từ đâu? Do ai nói? Có sức đánh động như thế nào?

Trước tiên, Trong Tin Mừng Gioan hôm nay, câu nói trên là do các phụ nữ. Cụ thể, là bà Maria Macdala, mà trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu các phụ nữ không có thế giá gì. Hơn nữa, họ còn bị coi thường. Và người phụ nữ này được nhắc đến trong Tin Mừng Thánh Luca là người được Chúa Giêsu trừ bảy quỷ. Thế nên bà rất biết ơn và yêu mến Chúa. Trong xã hội Do Thái thời đó, người ta có thói quen đi viếng xác người thân trong vòng ba ngày kể từ ngày chôn cất. Như thế bà Maria Macdala tự coi mình như người thân của Chúa Giêsu.

Kế đến, Trong bối cảnh sáng sớm tinh sương. Câu nói trên kết hợp với hành động của Bà chạy về báo tin cho các Tông Đồ Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Chính vì thế, kết hợp với ý thức chạy về báo tin làm cho các Tông Đồ câu nói này của bà Maria Macdala càng có một sức đánh động thật lớn lao, xuất phát từ tấm lòng chân thành, từ con tim yêu mến nồng nhiệt đối với Chúa Giêsu và nó mang một sứ điệp chưa từng có trên đời. Đó là sứ điệp Đức Kitô Phục Sinh vinh hiển. Điều này được chứng thực khi hai môn đệ Chúa Giêsu, hổn ha hổn hển chạy ra mộ, và sau khi xem sự kiện, ngôi mộ trống. Thì kết quả là một trong hai người đã thấy và đã tin. Thật đúng thế, Tin Mừng trọng đại là Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển qua sự kiện ngôi mộ trống. Đã làm cho môn đệ Chúa Giêsu yếu mến nghĩ rằng câu nói của bà Maria Macdala có lý, làm cho ông nhớ lại Lời Thánh Kinh là Chúa Giêsu Phục Sinh. Hơn nữa, bài đọc I mà chúng ta vừa nghe, cũng xác thực đều đó là "Ngày thứ ba Thiên Chúa đã cho Người trổi dậy và cho Người xuất hiện tỏ tường".

Ấy thế, lời nói và hành động của các phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, làm cho Tin Mừng trọng đại được loan đi đến với các Tông Đồ Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến, kết cuộc là một môn đệ Chúa Giêsu thương mến đã tin qua câu nói: "Ông đã thấy và ông đã tin" mà thánh Gioan thuật lại. Vậy một cách nào đó nếu xét tỉ lệ phần trăm thì kết quả câu nói này đạt được là 50%. (hai người đến mộ một người đã thấy và đã tin). Như thế mọi người chúng ta cũng được mời gọi loan báo Tin Mừng trọng đại là Chúa Giêsu Phục Sinh cho mọi người và đây cũng là sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Noi gương các phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, mỗi khi được ơn Chúa soi động, được cảm nghiệm về Chúa, chúng ta cần chia sẻ kinh nghiệm cho những người chung quanh bằng cách là chúng ta ra đi loan Tin Mừng Chúa Phục sinh với con tim yêu mến Chúa Phục Sinh cách nồng nhiệt. Nếu xét ở một khía cạnh khác, ta cũng thấy rằng: sứ mạng trọng đại này không phải chỉ dành cho cấp tu sĩ, giáo sĩ trí thức mà cho mọi thành phần Dân Chúa, như các phục nữ hôm nay, trong khả năng của mình mà loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Amen.
 
 

-----------------------------

 

PS1-383:  "Chúa đã sống lại thật, Alleluia!"

 

Đây là câu điệp khúc vang lên trong những ngày Giáo Hội Công Giáo mừng biến cố Chúa Phục Sinh. PS1-383


Đây là câu điệp khúc vang lên trong những ngày Giáo Hội Công Giáo mừng biến cố Chúa Phục Sinh. Một biến cố lịch sử có tầm quan trọng to lớn đối với người Công Giáo nói chung và cách riêng đối với những môn đệ theo Chúa Giêsu thời bấy giờ. Thật vậy, người Công Giáo chúng ta hớn hở mừng vui biết bao khi biết Chúa chúng ta phục sinh, Ngài đã từ cõi chết sống lại. Còn nỗi vui mừng nào to lớn hơn nên điệp khúc "Alleluia", "hãy vui mừng lên" không ngừng vang lên vang mãi trên môi miệng và trong niềm tin, trong lòng của chúng ta. Người Công Giáo chúng ta hát đi hát lại điệp khúc hân hoan ấy vì Đức Kitô đã chiến thắng kẻ thù là Satan, Đấng Messia hoàn thành sứ mạng theo thánh ý Chúa Cha, Đấng Messia đã trải qua bao gian khổ, đau khổ đón nhận thập giá và rồi Ngài đã chết. Sứ mạng Đấng Messia không dừng lại ở đó, Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất trong lịch sử loài người từ trước đến nay, đó là Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết? Như thế, Ngài đã hoàn thành sứ mạng Messia trong vâng phục thánh ý Chúa Cha, đón nhận trong sự chết và mang lại sự sống trường sinh. Điều đó làm cho chúng ta vui mừng khi nghĩ về biến cố Phục sinh. Tuy nhiên, chúng ta hãy cùng suy gẫm về biến cố Phục Sinh.

Phục sinh là sự kiện xảy ra đã mang đến nhiều sự bất ngờ và đầy kinh ngạc mặc dù người Do Thái có hiểu biết ý niệm về sự sống lại. Lần mở lại mạc khải trong Cựu ước, người DoThái tin rằng chỉ có Thiên Chúa Giavê là Thiên Chúa Hằng Sống, làm chủ sự sống (Xh 3, 15) có quyền trên Shéol (Is 2, 6; Kn 16,13; Tv 139,8) có khả năng làm cho kẻ chết sống lại: "Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên" (1Sm 2, 6). Bên cạnh đó, các ngôn sứ loan báo về sự sống lại của dân Israel, Hôsê nói Thiên Chúa sẽ cho ta hồi sinh (Hs 6, 18), Isaia hy vọng người chết sống lại (Is 26, 19). Người ta cũng đã chứng kiến các tiên tri Êlia, Êlisê cho một số người chết được hồi sinh (1V 17, 17 - 24; 2V 4, 29 - 37; Hc 48, 5. 14). Ngoài ra, ta còn thấy ước vọng và lời cầu nguyện của Israel cũng hướng về chân lý này (Tv 16, 10, G 19, 25). Khi Isaia và Edekien loan báo về sự sống của Israel thì niềm hy vọng của họ trở thành vững chắc hơn (Is 25, 7 - 8; 26, 19; Ed 37, 7 - 8; 37, 11 - 14).

Tuy nhiên, Thánh Matthêu kể về bà Maria Mađalena và một bà Maria khác đến mộ với sự buồn bã, vì nghĩ rằng xác Ngài vẫn còn nằm trong mộ. Tuy nhiên, các bà đã cảm nghiệm một sự kinh ngạc vĩ đại nhất trong cuộc đời. Chúa Giêsu không còn chết nữa, Ngài đã sống lại! Từ kinh ngạc chuyển sang vui mừng: "hai bà vội vã ra khỏi mồ vừa sợ hãi vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Người" (Mt 28, 8). Sự buồn rầu và tuyệt vọng của họ đã bị đánh tan bởi sự kinh ngạc và vui mừng khi nghe tin Chúa đã sống lại. Trong thực tế cuộc sống của mình, chúng ta cũng đã có những cảm nghiệm giống như các bà phụ nữ ấy: khởi từ sự buồn bã, tăm tối và thất vọng chuyển sang kinh ngạc và vui mừng. Điều chúng ta nghĩ rằng xấu nhất, nhưng với sự trợ giúp đầy quan phòng và yêu thương của Thiên Chúa, nó đã trở nên tốt hơn như khi một người ốm đau được ơn chữa lành, những kẻ thù nghịch được ơn hoà giải với nhau,...Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.

 Sự vui mừng dẫn tới hành vi thờ phượng. "Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy" (Mt 28,9). Sự vui mừng dẫn tới hành vi thờ phượng. Các người phụ nữ thánh thiện đi theo Chúa Giêsu là những người đã được Chúa chữa lành, trung thành với Chúa trong suốt cuộc thương khó, cho đến khi Chúa chết trên thập giá và sau cùng an táng trong mồ. Họ không sợ sệt trước những quyền lực của quân lính Rôma và những người lãnh đạo tôn giáo. Họ đã theo Chúa bằng mọi cách. Đức tin và tình yêu đã giúp cho các bà nhận ra Chúa Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, phải thờ phượng Người.

 "Hãy đi báo tin cho các anh em Ta" (Mt 28, 10). Các người phụ nữ trở thành những nhà truyển giáo của Chúa Giêsu. Đức tin và tình yêu của các bà được Chúa tin tưởng trao phó trách nhiệm loan báo Tin Mừng này. Họ tham gia loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy vọng, bóng tối đã lùi bước trước ánh sáng. Hận thù đã dần nhường chỗ cho sự tha thứ, bình an, tình thương; khổ đau đã thay thế bằng vui mừng.

Tình yêu có năng lực tái sinh con người. Mệnh lệnh "Hãy đi báo tin" không chỉ được ban cho các bà và các môn đệ, nhưng còn cho mỗi người chúng ta. Tin Mừng Phục sinh là chính Tin Mừng về tình yêu Thiên Chúa đối với con người. là người Công Giáo, là những kitô hữu, là những chứng nhân của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để chia sẻ Tin Mừng và tình yêu đó với tất cả mọi người như Chúa Giêsu đã nói với các người phụ nữ (Mt 28,10). Như thế, ngày nay, Tin mừng Phục sinh mời gọi chúng ta hãy mở lòng mình ra cho Chúa Giêsu Phục Sinh, để Ngài làm cho chúng ta điều Ngài đã làm cho các môn đệ cũng như cho những người nghe lời họ giảng sau ngày lễ Phục Sinh đầu tiên. Chúng ta hãy để Chúa Giêsu giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó từ chối, chúng ta hãy để Chúa Giêsu giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị kẻ khác phản bội, hãy để Chúa Giêsu giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta đã thấy niềm hy vọng của mình bị lung lay và tàn lụi.

 Niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện Chúa Kitô Phục sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong Lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới, đó là yêu thương của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy sống tâm tình tin tưởng và yêu mến. Tin Chúa đã và đang sống, đang hiện diện và không ngừng ban ơn thánh hoá ta trong và qua các Bí tích nhất là bí tích thánh Thể và giao hoà, chúng ta tin và đón nhận với lòng yêu mến.

Lạy Chúa phục sinh, xin cho chúng con hân hoan sống tâm tình tin tưởng và yêu mến. Tin Chúa đang hiện diện. Yêu mến thờ phượng Chúa và yêu thương như Chúa yêu. Amen.
 
 

-----------------------------

 

PS1-384: Tin Chúa Phục Sinh

 

Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng....... Quả thật, nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả PS1-384


“Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trở thành vô ích và niềm tin của anh em thật là hão huyền”

Quả thật, nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả chúng ta, nhưng con người mang danh Kitô hữu chỉ là những kẻ điên khùng, bởi vì chúng ta đánh đổi cả đời mình để tin và đi theo Đức Giêsu nhưng cuối cùng chẳng được gì. Trong khi nhiều người ăn chơi xả láng, hưởng thụ thoải mái, trong khi nhiều người xây dựng sự giàu có, xây dựng công danh sự nghiệp trên xương máu của những người khác, trên những trò bóc lột, trên sự lường gạt bỉ ổi mà vẫn sống phây phây, thì chúng ta, nhưng người Kitô hữu luôn bị bao quanh bởi một hệ thống luật lệ dầy đặc. Ở đâu cũng thấy tội. Ở đâu cũng thấy cấm đoán, bắt buộc và đe loi v.v…Cả cuộc đời chỉ thấy nói tới hy sinh, từ bỏ. Cả cuộc đời chỉ thấy toàn là mất mát, thiệt thòi. Vì thế mà trước mặt người đời chúng ta chỉ là những tên ngu xuẩn, điên rồ.

Một anh bạn trẻ đã chia sẻ rằng: Khi anh từ chối một chức vụ khá quan trọng trong cơ quan, cấp trên của anh đã nói: “Mày khùng quá, cái ghế mà tao dành cho mày đáng giá năm mười cây vàng đấy. Bao nhiêu thằng ước mơ và lo lót, còn mày thì từ chối”. Và anh bạn trẻ ấy trả lời: “Tôi biết khi ngồi vào chiếc ghế đó, tôi sẽ trở thành một ông hoàng. Nhưng tôi cũng biết khi ngồi vào chiếc ghế đó, tôi sẽ uốn cong theo vòng quay của cả một cơ chế có vô vàn điều tiêu cực, không thể khác được”. Thế là anh bạn trẻ đành chấp nhận một cuộc sống thanh bần chỉ vì danh hiệu Kitô hữu của mình.

Vâng, nếu Đức Kitô không sống lại thì anh bạn trẻ này và các Kitô hữu chỉ đáng sống trong những nhà thương điên. Nhưng Đức Kitô đã sống lại. Đó là xác quyết của các anh bạn trẻ Phêrô, Giacôbê, Gioan…Họ là những người đã từng đi theo, đã cùng sống, cùng ăn, cùng ở với Đức Giêsu. Họ cũng là những người đã từng thất vọng và trốn chạy trước cái chết thê thảm của Thầy Giêsu trên thập giá. Nhưng rồi họ đã là những người dám chấp nhận lao tù, cùm gông, tra tấn và cả cái chết để làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Kitô, bởi chính họ đã thấy tận mắt Đức Kitô đang sống. Mà Đức Kitô sống lại có nghĩa là những lời rao giảng của Người là sự thật. Và sự thật Đức Giêsu công bố chính là những nẻo đường dẫn tới sự sống, tới hạnh phúc đích thực. Vì thế, ai bước đi theo Người, ai sống theo Lời Người, chắc chắn sẽ được sống và được hạnh phúc.

Lời chứng của những người dám đem cả mạng sống của mình ra mà đoan quyết chắc không phải là một sự lừa dối phải không thưa quí ông bà và anh chị em?

-----------------------------

 

PS1-385: Suy niệm của Lm Nguyễn Hài Đồng


Người Công Giáo suy niệm về Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô: TỪ MỒ CHÔN BÍT KÍN ĐẾN NỔ TUNG PHỤC SINH!

 

Chúa Giêsu Kitô của người Công Giáo thật quá lạ lùng! Người ta có thể mạt sát Ngài đủ cách, khi công khai  PS1-385 Dalat


Chúa Giêsu Kitô của người Công Giáo thật quá lạ lùng!

Người ta có thể mạt sát Ngài đủ cách, khi công khai dữ tợn, khi thầm lén xảo quyệt, nhưng, quên Ngài đi, chối Ngài hẳn, diệt Ngài tiêu, thì không một ai trên trần gian nầy đủ sức làm được việc nầy, không một quyền lực nào trong nhân loại có thể thi hành nổi công tác nầy, vì Chúa Giêsu Kitô của người Công Giáo đã phục sinh, đã sống lại, và sống mãi muôn đời; vì Ngài là Nguyên Thủy và là Cùng Đích của mọi loài. Lấy tên GIÊSU ra khỏi lịch sử nhân loại, lịch sử nhân loại sẽ bị lung lay tận gốc rễ.

Vậy, Chúa Giêsu Kitô của người Công Giáo là ai?

Đây, lý lịch và chứng minh nhân dân của Ngài:

GIÊSU, biệt hiệu: KITÔ; tuổi: 33; dân tộc: Do Thái; Cha: Giuse; Mẹ: Maria; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Nguyên quán: Bêlem – Giuđa; Nơi thường trú: Nadarét – Galilêa; Dấu vết riêng hoặc dị hình: không có (vì thân xác của Chúa Giêsu cân đối tuyệt vời, không méo mó, không có vết sẹo như thân xác của chúng ta); tử tội bị xử chết đóng đinh ngày 14 tháng Nisan năm 30.

Nếu chỉ được kể như thế: thợ mộc, bị đóng đinh tử hình, chết trẻ, ... thì Giêsu của người coong giáo không khác gì hai tên trộm bị xử tử vì hình sự trên đồi Gôngôta. Nếu vậy thì không có gì để phải nói, và cũng không có gì để đáng nói.

Nhưng một biến cố lạ lùng nhất đã xảy đến cho nhân loại, - một biến cố vô tiền khoáng hậu, làm cho khoa học thông minh nhất cũng phải bó tay, làm cho ai muốn nghiệm thu kỹ lưỡng nhất cũng không thể nào thực hiện được -, vì biến cố nầy không bao giờ lặp lại một lần thứ hai nữa trong lịch sử nhân loại: BIẾN CỐ PHỤC SINH, biến cố Chúa Giêsu Kitô của người Công Giáo đã tự mình sống lại sau khi chết chôn trong mộ ba ngày.

Mồ chôn bít kín bị Phục Sinh nổ tung!

Con người thời nay thế nào?

Con người thời nay, nếu bỏ đức tin ra ngoài, chỉ biết tôn sùng khoa học, và chỉ biết đem khoa học ra để cắt nghĩa mọi sự. Họ muốn cái gì cũng phải được nghiệm thu, được đo đạc, được tay rờ, được mắt thấy, được tai nghe, được kiểm chứng một cách rõ ràng tại chỗ. Nói rằng cách đây hai ngàn năm, có một người đã tự mình sống lại, sau khi đã bị chôn chặt trong ngôi mộ ba ngày, là điều mà con người ngày nay không thể nào chấp nhận được, vì khoa học không bao giờ thấy được sự kiện một người chết ba ngày, rồi sống lại.

Khi nghe người Công Giáo chúng ta nói rằng: Đức Giêsu đã sống lại, và điều nầy đã xảy ra cách đây hai ngàn năm, thì khoa học ngày nay không tin được vì cho rằng việc đó không thể nào kiểm chứng nổi, không thể nào nghiệm thu được.

Với óc phê bình khoa học thực nghiệm, con người ngày nay có thể có hai thái độ: hoặc chối sự kiện Chúa Giêsu sống lại, - nhưng than ôi, không thể nào chối được vì GIÊSU đang rành rành trước mặt họ, vì GIÊSU đang là trung tâm của lịch sử nhân loại: không có GIÊSU, nhân loại như một người mất đi quả tim, không thể nào sống nổi; hoặc cho rằng sự Đức Giêsu sống lại chỉ là do óc tưởng tượng của các tông đồ bày đặt ra mà thôi, - nhưng than ôi, không thể nào chủ trương nổi điều nầy vì tôn giáo của các tông đồ nầy truyền ra cách đây hai ngàn năm, - những tông đồ nhát đảm, ngu dốt, nghèo mạt -, thì hiện nay lại lan tràn khắp nơi, và sau hai ngàn năm rồi, vẫn sinh động một cách lạ lùng mãnh liệt!

Đối với người Công Giáo thế nào?

Đối với người Công Giáo, Biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu, Biến cố Sống Lại của Chúa Giêsu, có ý nghĩa gì?

Khi định nghĩa Đạo Công Giáo của mình, người ta phải gọi đó là Đạo Phục Sinh, Đạo Sống Lại thì mới đầy đủ ý nghĩa vì biến cố Phục Sinh là cơ sở, là căn bản, là điều quan trọng nhất trong Đạo Cong Giáo.

Giữ Đạo, đối với người Công Giáo, chẳng qua là tin mạnh mẽ rằng Chúa Giêsu, tuy đã chết, nhưng đã sống lại. Không có niềm tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu sống lại, người Công Giáo chỉ biết Đạo mình như một thứ tôn giáo do bàn tay của người nào đó tạo ra, chứ không thể nào giữ Đạo và sống Đạo theo đức tin siêu nhiên mạnh mẽ được.

Biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu là tất cả vận mạng của cuộc đời người Công Giáo vì không có biến cố nầy, cuộc đời của họ hoàn toàn sụp đổ và vô lý. Chính thánh Phaolô đã nêu lên điều nầy khi ngài quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14).

Sau hai ngàn năm đã trôi qua, một phần lớn nhân loại hiện nay đang thờ lạy Người bị đóng đinh chết trên thập giá. Điều nầy không thể nào cắt nghĩa được, nếu không có một biến cố lịch sử mà không ai có thể chối cãi được, và biến cố lịch sử nầy phải gây xúc động thật mãnh liệt: đó là biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Sống Lại.

Làm thế nào cắt nghĩa được sự lạ lùng này?

Làm thế nào cắt nghĩa được sự việc GIÊSU, cách đây hai ngàn năm, từ một người thợ mộc vô danh, sinh sống nơi một thôn quê nghèo khổ, tại xứ Do Thái xa xôi nhỏ bé, nằm chìm trong đế quốc rộng rãi bao la Rôma, một ngày đẹp trời của tháng tư, bị quân lính bắt đi, đánh đập, bị Chính quyền xử án và cho đem đi hành quyết chung với hai tên trộm cướp, rồi chết lạnh lùng tất tưởi trên hai miếng gỗ thập giá.

Nếu sự việc chỉ kết thúc một cách thê thảm nơi đây, thì làm sai giải thích được hiện tượng ngày nay đang làm sửng sốt nhân loại: một phần lớn nhân loại đang quỳ thờ lạy Người bị đóng đinh chịu chết trên cây thập giá cách đây hai ngàn năm?

Làm thế nào cắt nghĩa được sự việc các tông đồ sợ sệt kia, bị gán là đầy ảo giác, hoang tưởng và mê sảng, bị gán là gian manh vì ăn trộm xác chết của Thầy rồi phao vu Thầy sống lại, lại có thể dựng nên được một tôn giáo siêu phàm như Đạo Công Giáo, gây uy tín trên khắp thế giới và chi phối tất cả lịch sử nhân loại?

Làm thế nào cắt nghĩa được các tông đồ mù chữ, ít học, chưa được đào luyện gì thêm thì đã bỏ cuộc vì Thầy bị bắt, lại lôi kéo được Saolô, một kẻ học thức uyên bác và đầy cuồng tín vì chỉ biết Do Thái Giáo của mình là trên hết, và những tông đồ kém cỏi và bất lực về mọi mặt nầy, lại đem được vào Đạo Công Giáo những người ngoại giáo Hy lạp và Rôma, là những dân tộc từng có những nhà tư tưởng siêu việt, những nhà chinh phục lừng danh, những nghệ sĩ đại tài, mà nhiều người nầy đã trở thành những tín đồ đầu tiên trong Giáo Hội sơ khai, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm để sống theo một Đạo hoàn toàn mới mẻ và bất lợi: vì theo Đạo nầy thì phải mất quyền công dân, phải bị tịch thu gia sản, phải bị mất chức mất tước, phải bị tù đày, xử tử .... ; vì Đạo nầy đòi buộc nhiều hy sinh, không chịu dùng sức mạnh trần gian để bành trướng, nhưng chỉ biết rao truyền lòng tin vào Người bị đóng đinh chết trên thập giá dạy bác ái yêu thương tha thứ?

Làm thế nào cắt nghĩa được sự việc Đạo Công giáo hiện nay vẫn còn lôi cuốn nhiều người thuộc mọi dân nước, mọi giai cấp, mọi ngôn ngữ, mọi hạng người, mọi màu da sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội, mọi trình độ văn hóa?

Làm thế nào cắt nghĩa được sự việc Đạo Công giáo hiện nay, tuy bị đàn áp bắt bớ đủ cách tại nhiều nơi, nhưng vẫn luôn bành trướng và không thể nào bị tiêu diệt được?

Chìa khóa cắt nghĩa được sự lạ lùng này

Chìa khóa cắt nghĩa được tất cả những sự lạ lùng nầy của Đạo Công giáo là biến cố Phục Sinh, Sống Lại của Chúa Giêsu Kitô.

Mà thật vậy! Nếu Chúa Giêsu Kitô không sống lại, thì sự khổ nạn và cái chết của Ngài trên Thập giá mà chúng ta thờ lạy trong Thứ Sáu Tuần Thánh, chỉ là một con đường bế tắc dẫn đến hố tuyệt vọng, chỉ là một ngõ cụt không có lối thoát đưa đến cái chết khốn nạn, chỉ là một con đường hầm mù mịt đem ta đến sự tối tăm vô nghĩa.

Đối với người Công giáo, Ngày Thứ Sáu Chúa chết, - Ngày Thứ sáu Tử Nạn -, và Ngày Chúa Nhựt Chúa sống lại, - Ngày Chúa Nhựt Phục Sinh -, là hai diện cùng chung một thực tại, là hai mặt cùng chung một biến cố: thực tại Chết - Sống Lại, biến cố Tử Nạn - Phục Sinh. Hai diện nầy, hai mặt nầy chỉ là một thực tại, chỉ là một biến cố. Nếu thiếu đi một diện nào, thiếu đi một mặt nào, thì Công Cuộc Cứu Chuộc của Chúa Giêsu Kitô thành ra vô nghĩa và không thể nào thực hiện được.

Nhìn lên Cây Thánh Giá, người Công Giáo thờ cùng một lúc sự Chúa Giêsu chết và sự Ngài sống lại: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại!”

Đạo Công giáo chúng ta phải được gọi là Đạo Thánh Giá và Đạo Phục Sinh, Đạo Sống Lại. Khi làm Dấu Thánh Giá, khi nhìn lên Thánh Giá, chúng ta tuyên xưng việc Chúa Giêsu chết và việc Ngài sống lại. Nếu chúng ta dừng lại nơi cái Chết của Chúa Giêsu, là để chúng ta nhìn ngắm sự Sống Lại trong cái chết của Ngài. Vì thế, nếu chúng ta nhìn lên Thánh Giá, nếu chúng ta làm Dấu Thánh Giá mà còn để cho buồn phiền, lo âu, thất vọng, sợ sệt đè bẹp chúng ta, thì chúng ta chưa phải là người theo Đạo Phục Sinh, Đạo Sống Lại của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu Phục Sinh mang lại hạnh phúc cho người Công Giáo

Có thể hiện nay, có người Công Giáo tiếc rằng, vì đã qua hai ngàn năm rồi, nên mình không được hạnh phúc sống đồng thời với Chúa Giêsu để gặp Ngài, để nhìn Ngài, để nói chuyện với Ngài, để ăn uống với Ngài, để đi trên cùng một con đường với Ngài ....Nhưng, với biến cố Phục Sinh, mỗi người Công Giáo hiện nay vẫn gặp được Chúa Giêsu một cách dễ dàng, và gặp được Ngài bất cứ đâu và gặp bao lâu cũng được.

Nếu người Công Giáo muốn có mặt trong đám đông dân chúng Do Thái ngày xưa để nghe Chúa Giêsu ban bố Tám Mối Phước Thật và nghe những Lời hằng sống của Ngài, thì đây, bất cứ ai cũng có thể nghe tiếng Chúa Giêsu Phục Sinh qua những vị kế thừa các Tông Đồ khi các vị nầy rao giảng Lời Chúa vì Chúa Giêsu đã khẳng định: "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Lc 10,16).

Nếu người Công Giáo muốn như Mađalêna và người trộm lành kia khiêm nhượng thú tội để lãnh ơn tha thứ từ miệng Chúa Giêsu, thì đây, chính Chúa Giêsu Phục Sinh đang nghe người Công Giáo thú tội trong tòa cáo giải, và xuyên qua con người của linh mục, Chúa Giêsu Phục Sinh thứ tha tội lỗi cho chúng ta: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20,22-23).

Nếu người Công Giáo muốn có mặt trong nhà Tiệc Ly, và như Gioan kia, được dựa đầu vào ngực Chúa, thì đây, trong Bí Tích Thánh Thể, khi họ đi rước Chúa Giêsu vào lòng hoặc khi họ quỳ chầu Ngài trước Nhà Tạm, Trái Tim Chúa Giêsu đập cùng nhịp với trái tim của họ, và Chúa Giêsu Phục Sinh trở nên một với họ.

Nếu người Công Giáo muốn có mặt trên núi Canvariô, đứng sát bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria dưới cây Thánh Giá, thì đây, Thánh Lễ là sự tái diễn hằng ngày biến cố Thứ Sáu Tuần Thánh trên đồi Gôngôta, Thánh Lễ đưa họ đến dưới chân Thập giá cùng với Đức Trinh Nữ Maria. Họ được nghe lời Chúa trối Đức Mẹ làm mẹ mình, và được ăn Bánh Trường Sinh là Thân Thể Phục Sinh của Chúa Giêsu.

Thật, Chúa Giêsu Phục Sinh mang lại hạnh phúc cho người Công Giáo biết chừng nào! Với Chúa Giêsu Phục Sinh, họ không có gì để ganh tị với các Tông Đồ ngày xưa và với những người đồng hương với Chúa Giêsu cách đây hai ngàn năm. Chúa Giêsu Phục Sinh đang đồng hành với họ trên con đường đời, cho tới một ngày kia, giống như hai lữ khách đi về Êmau, con mắt họ mở ra để thấy mình đang mặt đối mặt với Chúa Giêsu Phục Sinh là Bạn Đường của họ, là Thầy của họ, là Lẽ Sống của họ, là Tất Cả của họ.

Chúa Giêsu Phục Sinh mang lại nguồn vui cho người Công Giáo

Khi Chúa Giêsu sống lại, các thiên thần mặc áo trắng đón chào Chúa trong niềm hân hoan, và các phụ nữ cũng như các tông đồ, môn đệ, khi biết rõ Thầy mình đã sống lại, liền nhảy mừng sung sướng, Allêluia!

Niềm vui Phục Sinh: vui vì Chúa đã sống lại và sẽ làm cho thân xác người Công Giáo cũng sống lại; vui vì Chúa sống lại đã đánh bại Tử Thần; vui vì Chúa sống lại đã chiến thắng tội lỗi và ban tràn ơn tha thứ xuống cho người Công Giáo.

Nếu Đạo Công Giáo được định nghĩa một cách xác đáng là Đạo Phục Sinh, Đạo Sống Lại, thì những ai theo Đạo nầy – những người công giáo, cũng phải được định nghĩa là Những Kẻ Phục Sinh, Những Kẻ Sống Lại!

Không gì vui bằng sự sống: nhìn một em nhỏ đầy tràn sự sống, thấy em tung tăng, nhảy múa, nghe em ca hát líu lo, thật vui biết bao! Huống nữa, đây không phải là sự sống mà thôi, mà còn là sự sống lại nữa! Với Chúa Giêsu Phục Sinh, người công giáo luôn sống vui vẻ: "Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).

Với Chúa Giêsu Phục Sinh, người công giáo vui nhận tất cả mọi giá trị ở trên đời nầy: "Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4,8).

+++

Chúa Giêsu Phục Sinh mang lại nguồn hy vọng cho chúng ta.

Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không phải sống lại để rồi chết lại như Ladarô. Ngài sống lại và sống mãi muôn đời. Điều nầy mang lại hy vọng vô cùng lớn lao cho chúng ta.

Mặc cho bao nhiêu phá hoại, mặc cho bao nhiêu hậm hực căm thù, mặc cho bao nhiêu ghen ghét chống đối, Nước của Chúa Giêsu Phục Sinh trên trần gian nầy và trong các linh hồn, vẫn không bao giờ sụp đổ, nhưng luôn vững đứng.

Hiện nay, chúng ta thấy có một số người tìm cách chống đối Chúa Giêsu, tìm cách tiêu diệt Chúa Giêsu. Chúng ta hãy thương hại họ vì họ tìm cách giết một Người không thể chết được, vì họ tìm cách triệt hạ một Người không bao giờ sụp ngã.

Như vậy, những ai theo Chúa Giêsu Phục Sinh luôn thấy cuộc sống hiện nay của mình có ý nghĩa, luôn thấy đường đời mình đang đi có hướng rõ rệt, luôn thấy những bế tắc của mình có lối thoát, luôn thấy cuộc sống mai hậu của mình được bảo đảm ngàn thu bất diệt.

Người công giáo phải rạng ngời ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu sống lại!

Rạng ngời ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu sống lại, đó là điều người công giáo phải có.

Nhưng than ôi, có lẽ niềm tin Phục Sinh của người Công Giáo còn quá yếu!

Nếu có vị sáng lập đạo nào, - mà đạo đó làm cho kẻ chết sống lại, và tự mình, ông cũng sống lại, - thì những người theo đạo ông nầy thế nào cũng lấy làm sung sướng và hãnh diện. Họ sẽ không ngớt tuyên truyền và cao rao đấng sáng lập nầy, và lôi cuốn được nhiều người theo đạo nầy. Và đây là điều mà các Tông Đồ và các bổn đạo trong thời Giáo Hội sơ khai đã làm. Ở bất cứ đâu, đi đến bất kỳ đâu, họ cũng hãnh diện nói rằng: “Thầy chúng tôi đã bị đóng đinh chết, nhưng nay đã phục sinh sống lại!”

Đạo công giáo chúng ta là Đạo Phục Sinh, Đạo Sống lại!
Chúng ta là những người phục sinh, những người sống lại!
Phục Sinh, Sống Lại: khi đang còn sống!
Phục Sinh, Sống Lại: khi nhắm mắt lìa đời!
Phục Sinh, Sống Lại bất diệt: sau cái chết đời tạm nầy!

-----------------------------

 

PS1-386: TÌM CHÚA

 

Trong một con hẻm gần ngã ba Ông Tạ, quận Tân Bình, Sàigòn, căn nhà khá khang trang đã ít nhiều PS1-386 Ephata


Trong một con hẻm gần ngã ba Ông Tạ, quận Tân Bình, Sàigòn, căn nhà khá khang trang đã ít nhiều thay đổi công năng, để làm phòng chăm sóc dã chiến cho người nhiễm HIV, chị Maria Nguyễn Thị Vinh, thuộc Giáo Xứ Nam Thái, Giáo Phận Sàigòn, vừa bước vào tuổi 60, mà nhiều người hay gọi là “Vinh Sida,” vẫn chưa thôi trăn trở về những người đang đối mặt với căn bệnh bị xã hội xa lánh. ( Ảnh chụp chị Vinh mặc áo xanh ở Phòng Khám HIV/AIDS ).

Chị tâm sự rằng, khi người ta gọi mình như vậy nghĩa là mình đã thành công, vì có thể hòa nhập với người nhiễm HIV và giữa chúng tôi không có khoảng cách, dù tôi không hề nhiễm HIV. Tại các bệnh viện khi chúng tôi thăm, tắm rửa và gội đầu cho người đó, nhiều người xầm xì: “Cùng bọn với nhau, nên chăm sóc nhau thôi.” Điều đó không làm chúng tôi buồn, vì niềm vui của người bệnh là hạnh phúc của chúng tôi.

Năm 1998, khi dự tĩnh tâm tại Dòng Chúa Cứu Thế, Linh Mục hướng dẫn mời gọi chúng tôi giúp đỡ bệnh nhân AIDS. Tôi biết về AIDS rất mù mờ, nhưng vì tò mò nên đã đăng ký tham dự một khóa học chăm sóc người có HIV cùng hơn 300 người khác. Nhưng khi nhập cuộc chỉ còn khoảng chục người và chúng tôi lập nhóm Tiếng Vọng để đi tìm người nhiễm HIV, chăm sóc, tắm rửa, ủi an, giúp thuê nhà, liên hệ với một số bác sĩ khám chữa bệnh và trung tâm cai nghiện, giúp chữa trị để sớm hòa nhập với cộng đồng.

Cho đến nay, những người của Tiếng Vọng ngày ấy, giờ chỉ còn mình tôi. Tôi may mắn được một số Linh Mục và bác sĩ hỗ trợ, nên có một cơ sở chăm sóc người có HIV, chủ yếu là giai đoạn cuối. Tôi cũng quy tụ được hơn 10 thành viên mới vào Nhóm Tiếng Vọng ngày nay, gồm một số anh chị em HIV. Sau khi được chữa trị, thuyên giảm bệnh tật, tình nguyện ở lại giúp những người nặng hơn. Buổi sáng, chúng tôi chăm sóc các bệnh nhân ở cơ sở. Chiều và tối chúng tôi đến với các bệnh nhân không di chuyển được, để chăm sóc, tắm rửa và vệ sinh vết thương cho họ. Mọi thành viên trong nhóm đều làm việc thiện nguyện vì chúng tôi không có nguồn thu… ( Theo Bích Thuỷ, Người phụ nữ tắm rửa, gội đầu cho bệnh nhân AIDS, báo Tuổi Trẻ ).

Gần 20 năm, chị Vinh vẫn đang còn mải miết đi tìm Đức Kitô bị bỏ rơi, qua hình hài những người nhiễm HIV. Chính nhờ Tình Yêu Chúa thôi thúc, chị luôn mãi tìm kiếm, đem về chăm sóc, phục vụ. Hôm nay, hai bà Maria Magđala và bà Maria khác cùng ra huyệt mộ tìm Chúa. Họ đã không phải thất vọng, mà hân hoan, hạnh phúc, vinh dự tìm thấy Chúa Phục Sinh.

Kính mến tìm Chúa

“Khi ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Magđala và bà Maria khác đến thăm mồ.” Một tình yêu nồng nàn, thắm thiết đã thôi thúc hai bà ra đi tìm Chúa ngay từ sáng sớm tinh mơ. Trong lòng khắc khoải, nóng ruột, khôn nguôi kính nhớ Đức Giêsu, khiến họ không thể nào chờ đến sáng hẳn mới đi ra mộ.

Caritas Christi urget nos. “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi.” ( 2Cr 5, 14 ). Hai bà đạo đức chẳng còn quan tâm đến điều gì khác, ngoài Đức Giêsu Kitô đã an táng trong mồ. Họ tha thiết mong được gặp Người và chiêm ngưỡng Người. Không điều gì có thể ngăn cản, cấm đoán hay chia cách Người được.

Nhiệt thành tìm Chúa

Trong khi các môn đệ Đức Giêsu cửa đóng then cài, náu mình trốn kỹ, kẻo quân dữ bắt bớ liên luỵ, thì hai bà đạo đức chẳng ngại, chẳng sợ Biệt phái, quân quan Philatô, lẫn những tay quá khích, quý bà vẫn can đảm đi tìm Chúa.

Dẫu vẫn biết bao gian nguy chờ đợi những ai theo Thầy, nhưng đừng sợ, vì Đức Giêsu Kitô, Vua Tình Yêu, đã chiến thắng vẻ vang. “Trong thế gian, anh em sẽ gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian." ( Ga 16, 33 ).

Với tình yêu mãnh liệt, Đức Mến nồng nhiệt, Đức Tin bền vững, Đức Cậy phó thác, thì chẳng có gì lấn lướt, chèn ép, áp bức, đe doạ được con chiên trung thành của Chúa. Bởi chưng, “Ðức Mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả.” ( 1Cr 13, 7 ).

Loan báo tìm Chúa

Hai bà không chỉ được diễm phúc gặp Chúa Giêsu sống lại phục sinh, mà còn được an ủi, khích lệ, vinh hạnh làm nhân chứng cho Đấng Phục Sinh. "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilê, rồi ở đó, họ sẽ gặp Ta."

Cùng sinh hoạt, cầu nguyện, hiệp ý với các Tông Đồ, các bà đã chính thức trở nên những chứng nhân nhiệt thành, sẵn sàng chịu gian khổ, chịu tù đầy, chịu nhục hình và chịu chết, làm chứng cho niềm tin: “Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.” ( Cv 2, 32 ). 

Thánh Phaolô sau này cũng chia sẻ, hiệp thông cùng quý bà, ý thức bổn phận loan báo Tin Mừng, dẫu đầy nguy nan, khó khăn và thách đố. “Xin Thiên Chúa mở cửa cho chúng tôi rao giảng lời Người, để chúng tôi loan báo mầu nhiệm Ðức Kitô; chính vì mầu nhiệm này mà tôi bị giam giữ. Xin cho tôi biết công bố rõ ràng mầu nhiệm ấy, như bổn phận tôi phải loan báo.” ( Cl 4, 3-4 ).

“Lãnh nhận một trách nhiệm tông đồ là sẵn sàng chấp nhận chịu "tử đạo" bởi mọi người, ở mọi nơi, bằng mọi cách, với tất cả yêu thương và bền chí như Phêrô và Gioan: “Họ từ hội đường ra về vui vẻ vì đã được xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa.” ( Đường Hy Vọng, số 313 ). 

Lạy Chúa Giêsu, Người đã chịu khổ nạn, chịu chết và đã phục sinh sống lại, để cứu chuộc chúng con khỏi phải chết. Xin Người thương xót cứu giúp chúng con được sống lại, tái sinh cuộc đời mới, sống theo Tin Mừng.

Khấn xin Mẹ giúp đỡ chúng con chết đi thân phận tội lỗi, để được tái sinh cuộc đời mới, nhờ ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

-----------------------------

 

PS1-387: ĐÊM HỒNG PHÚC

 

Giữa màn đêm dày đặc bao phủ không gian, một ánh sáng bừng lên, chiếu rọi nhân thế. Ánh sáng ấy PS1-387


Giữa màn đêm dày đặc bao phủ không gian, một ánh sáng bừng lên, chiếu rọi nhân thế. Ánh sáng ấy là Đức Giêsu Kitô, Đấng chiến thắng sự chết, sống lại vinh quang. Ánh sáng Phục Sinh đã chấm dứt chuỗi ngày buồn thương ảm đạm, khởi đầu một thời đại mới. Đức Giêsu mở tung nấm mồ, không chỉ cho riêng mình, mà cho cả nhân loại. Cùng với nấm mồ được bật mở, là cánh cửa hy vọng cho tương lai của cả kiếp nhân sinh. Bởi lẽ con người không được tạo dựng để rồi ngủ yên vĩnh viễn dưới nấm mồ, nhưng để được sống mãi mãi bên Chúa, để chia sẻ vinh quang với Ngài. Đó là ý nghĩa của Đêm Canh thức Phục Sinh. Phụng Vụ Kitô giáo long trọng ca lên: “Ôi đêm hồng phúc !”

Sách Targum là một bản dịch Kinh Thánh từ tiếng Hípri sang tiếng Aram. Bản dịch này được thực hiện sau thời lưu đày trở về ( hậu bán thế kỷ 6 trước Chúa Giêsu ), vì vào thời đó, phần lớn những người sinh ra và lớn lên trong thời lưu đầy không còn nói tiếng Hípri. Các dịch giả của Targum vừa dịch thuật, vừa thêm vào những chú giải phản ánh niềm tin và quan niệm của người đương thời. Khi trình bày lịch sử cứu độ, sách Targum nói đến bốn đêm đáng ghi nhớ trong lịch sử. Đây là bốn mốc thời gian quan trọng, vì chúng đánh dấu sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa.

– Đêm thứ nhất: Đêm của sự sáng tạo. Hành động sáng tạo của Thiên Chúa được thực hiện bằng Lời. Qua Lời của Thiên Chúa, Ngài đã gọi mọi sự từ hư vô đến hiện hữu, từ đêm đen đến áng sáng. Trước khi thực hiện công cuộc sáng tạo, thế giới là một hỗn mang, lộn xộn, tăm tối. Đêm dài của hỗn mang đã kết thúc, nhường chỗ cho một ngày mới, được ánh sáng của Chúa soi chiếu.

– Đêm thứ hai: Giao ước ký kết với Abraham: Đây là giao ước đầu tiên được ký kết giữa Thiên Chúa với con người, được thực hiện vào lúc màn đêm bao phủ ( x. St 15, 12-19 ). Abraham đại diện cho toàn thể nhân loại, cam kết với Chúa về những điều phải tuân giữ. Khi ký kết giao ước với con người, Thiên Chúa hạ mình xuống, trở thành “đối tác” ngang hàng với con người. Cũng như khi sáng tạo, dường như Thiên Chúa rút lui để nhường chỗ cho con người và mọi tạo vật hiện diện, thì khi ký kết giao ước với Abraham, Thiên Chúa trở nên “hữu hạn” ngang hàng với con người và chấp nhận thực thi những điều đã cam kết. Ngài hứa với ông Abraham, sẽ làm cho dòng dõi ông trở nên đông như sao trên trời và như cát bãi biển. Abraham đã thực hiện giao ước đã ký kết, đỉnh cao là việc sẵn sàng sát tế chính Isaac con trai mình.

– Đêm thứ ba: Cuộc xuất hành khỏi Ai Cập. Đây là một biến cố ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử Do Thái. Sự kiện này chứng minh quyền năng của Thiên Chúa. Ngài dẫn dân Ngài ra đi vào giữa đêm khuya, khi người Ai Cập còn ngủ say. Ngài uy quyền và mạnh mẽ hơn hẳn tất cả mọi thần linh của Ai Cập cũng như của các dân ngoại. Thiên Chúa đã giang cánh tay hùng mạnh cứu dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai Cập. Quân lực của Pharaô, uy hùng là thế, mà trở thành những xác không hồn, trôi vật vờ trên biển cả, trong khi người Do Thái được bình an vô sự, hát vang bài ca chiến thắng.

– Đêm thứ bốn: đó là ngày cánh chung hay là ngày tận thế. Thế giới này sẽ có ngày kết thúc. Ách nô lệ sẽ bị bẻ tung, quân tội lỗi sẽ bị diệt trừ. Môisen sẽ đến từ sa mạc và Đấng Mêssia sẽ đến từ trời cao đế hướng dẫn nhân loại. Đó sẽ là đêm Vượt Qua nhân danh Thiên Chúa. Đó cũng là đêm được ấn định cho mọi con cái Israen, trải qua mọi thế hệ. Vào ngày đó, Thiên Chúa sẽ can thiệp và thưởng công cho những ai trung tín với Ngài. Như ông Môisen là thủ lãnh đã đưa dân ra khỏi Ai Cập, vị Vua Thiên sai sẽ đến phá tan đêm đen, dẫn đưa nhân loại về với ánh sáng ngàn đời và về vương quốc vĩnh cửu.

Phụng Vụ Kitô giáo, trong đêm canh thức trước lễ Phục Sinh cũng diễn tả giáo huấn “Bốn đêm” của sách Targum, nhưng với một nhãn quan mới. Quy định của nghi thức Đêm Vọng Phục sinh ( chữ đỏ) đã nói rõ: đây là Mẹ của các đêm Canh thức, vì thế đề nghị đọc 9 bài đọc. Nếu không tiện đọc hết thì phải đọc các bài Sách Thánh sau: Trình thuật Sáng tạo ( St 1, 1 – 2, 2 ); Trình thuật về việc Chúa thử thách Abraham khi đề nghị ông sát tế Isaac ( St 22, 1-18 ); Trình thuật vượt qua Biển Đỏ ( Xh 14, 15 – 15, 1); và Thư thánh Phaolô ( Rm 6, 3-11 ). Bài Tin Mừng như đỉnh cao của Đêm Canh Thức, loan báo cho cả thế giới biết, Đức Giêsu đã phục sinh.

Như thế, Phụng Vụ vừa trung thành với truyền thống Cựu Ước, vừa diễn tả cái nhìn mới mẻ qua cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Theo nhãn quan Kitô giáo, “đêm thứ bốn” mà tác giả sách Targum trình bày chính là đêm Chúa Kitô phá cửa ngục tù của sự chết, sống lại huy hoàng, chiếu ánh sáng cho toàn thể nhân gian. Người đã khởi đầu một cuộc sáng tạo mới, khi bước ra khỏi mộ vinh quang. Bài công bố Tin Mừng Phục Sinh ( Exultet ) đã nêu rõ: “Này là đêm, mà hết những ai có lòng tin Chúa Kitô khắp trên trần gian, được cứu thoát hết các vết nhơ và tối tăm tội khiên, được ơn thiêng đưa về hợp đoàn cùng các thánh nhân...”

Đức Giêsu như một Môsê mới dẫn đưa nhân loại vượt qua sự chết để đến sự sống, vượt qua tối tăm để đến ánh sáng. Những ai đón nhận dòng nước tái sinh của Bí Tích Thánh Tẩy, cũng giống như người Do Thái can đảm bước xuống biển đỏ theo ông Môsê, để được đến bến bờ tự do của con cái Thiên Chúa. Họ được mặc lấy Chúa Giêsu, đồng hình đồng dạng với Người và cùng với Người thừa hưởng gia nghiệp vĩnh cửu là Nước Trời.

Thánh Phaolô đã khẳng định: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” ( Rm 6, 4-6 ).

Vị Tông Đồ dân ngoại cũng nhận ra nơi Đức Giêsu chịu treo trên thập giá chính là Chiên Vượt Qua mới: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” ( 1Cr 5, 7 ). Chính nhờ máu Chiên Vượt qua này, nhân loại được tẩy rửa khỏi mọi tội lỗi. Vì vậy, họ phải đoạn tuyệt với quá khứ tội lỗi để sống cuộc sống mới, thánh thiện, đẹp lòng Chúa.

Trong nhãn quan Đức Tin, “bốn đêm” mà sách Targum trình bày, vẫn đang thường xuyên diễn ra trong cuộc đời người tín hữu của chúng ta. Bởi lẽ những dấu mốc quan trọng trong lịch sử luôn gợi lại cho chúng ta thấy hoạt động của Thiên Chúa. Ngài vẫn luôn sáng tạo không ngừng. Ngài vẫn mời gọi con người đi vào giao ước với Ngài, nhất là giao ước mới trong máu Đức Kitô đổ ra trên thập giá. Ngài vẫn dẫn đưa chúng ta vượt qua “Biển Đỏ” của thời đại hôm nay, là những đam mê ràng buộc khiến chúng ta trở thành nô lệ. Nhất là Ngài luôn kêu gọi chúng ta hãy phục sinh, ra khỏi nấm mồ tối tăm của thù hận ghen ghét, để đến ánh sáng huy hoàng không bao giờ tàn lụi.

Như những người phụ nữ vội vã chạy ra mồ Chúa sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, chúng ta hãy chiêm ngưỡng chiến thắng kỳ diệu của Chúa Kitô. Chính Người là sự sống được ban tặng cho chúng ta. Chính Người là niềm hy vọng của cả thế giới. Ngày hôm nay, Người đang nhờ mỗi chúng ta, qua cuộc sống cụ thể của mình, đem tin vui và niềm hy vọng ấy cho những người đương thời. Hãy nói với thế giới xung quanh rằng: đêm đen đã chấm dứt, ngày mới đã khởi đầu. Chính khởi đi từ đêm Hồng Phúc năm xưa mà lịch sử nhân loại sang một trang mới. Đấng Phục Sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Những ai đón nhận Người, chắc chắn sẽ không phải thất vọng, vì Người là ánh sáng và là Đấng Cứu Độ trần gian.

 Gm. Giuse VŨ VĂN THIÊN, Lễ Phục Sinh 2017

-----------------------------

 

PS1-388: GẶP ĐẤNG PHỤC SINH

 

Có một câu chuyện vui liên quan sự sống lại như thế này…Thầy giáo hỏi học sinh: “Nếu thầy PS1-388


Có một câu chuyện vui liên quan sự sống lại như thế này…

Thầy giáo hỏi học sinh: “Nếu thầy sống tốt lành, khi chết thầy có được lên trời không ?” Cả lớp thưa “không”. Thầy lại hỏi: “Nếu thầy sống thánh thiện, yêu thương tha nhân, làm việc bác ái và từ thiện, thầy có được lên trời không ?” Cả lớp lại đồng loạt thưa “không”. Thầy giáo hỏi: “Vậy thầy phải làm sao mới được lên trời”. Cả lớp nhìn nhau. Một em rụt rè thưa: “Dạ, dạ… thầy phải chết trước ạ !”

Vấn đề hoàn toàn… tất nhiên. Có chết thì mới sống lại. Sống lại mới có thể lên Trời. Câu chuyện vui này cũng nhắc chúng ta phải luôn nhớ rằng “ai cũng phải chết một lần” và rồi mới sống lại. Chúa Giêsu đã chết và Ngài đã thực sự sống lại, củng cố niềm tin của chúng ta: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại”.

Dù là ai thì cũng chỉ có một cuộc sống, tức là chỉ sống một lần và chết một lần. Đó là điều ai cũng biết dù chưa bao giờ trải nghiệm sự chết ( trừ một số người được đặc ân riêng ). Và dù có sự sống lại nhưng cũng không ai đã chứng kiến. Chúng ta chỉ biết qua lời Thánh Luca kể lại chuyện anh Ladarô nghèo khổ và ông đại gia giàu có ( x. Lc 16, 19-31 ).

Tuy nhiên, sự sống lại đã thực sự xảy ra: chính Đức Kitô đã bị người ta giết chết bằng cách đóng đinh vào Thập Giá và đã được an táng trong mộ đá, thế nhưng Ngài đã sống lại vinh quang. Quả thật, nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ là ảo tưởng, là chuyện hoang đường! Nhưng Đức Kitô đã thực sự sống lại, như vậy thì đức tin của chúng ta đã được “đóng ấn tín đời đời”. Điều đó đã được Thánh Phaolô minh chứng: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” ( 1Cr 15, 17-19 ).

Mặc dù chỉ là những con người bình thường, nhưng ai cũng có nỗi nhớ. Gọi là nỗi nhớ thì không có giới tính. Vậy tại sao lại người ta lại gọi là nỗi-nhớ-đàn-bà mà không là nỗi-nhớ-đàn-ông ? Phải chăng vì phụ nữ có “khoảng nhớ” lớn hơn nam giới ? Có phần đúng. Theo khoa học, MỘT bộ óc nhưng có HAI bán cầu não. Phụ nữ “nói nhiều” hơn nam giới vì họ sử dụng cả hai bán cầu não một lượt, còn nam giới chỉ sử dụng một bán cầu não.

Như vậy, có thể nói rằng “khoảng nhớ” của phụ nữ lớn hơn nam giới. Trong tình trường bình thường, khi bị phụ tình (hoặc tình phụ), nỗi nhớ ở phụ nữ vẫn “lâu và sâu” hơn ở nam giới là vậy. Khoa học không có gì trái ngược với đức tin Công giáo. Đức tin vẫn cần có lý trí tỉnh táo. Quả thật, phụ nữ được Thiên Chúa ưu đãi nhiều điều lắm, có lẽ vì họ chịu thiệt thòi nhiều. Âu cũng là công bình hợp lý !
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta (Ep 2:4), nhưng Ngài là Đấng công minh chính trực ( Dcr 9, 9b; Hc 5, 3; Br 2, 6; Br 2, 9; Đn 9, 14; Tv 7, 18; Tv 9, 9; Tv 11, 7; Tv 25, 8; Tv 67, 5; Tv 146, 7 ), không thiên vị bất kỳ ai ( Hc 35, 12; Lc 20, 21; Rm 2, 11; Gl 2, 6; Ep 6, 9 ), và Thánh Phêrô cũng xác nhận: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” ( Cv 10, 34 ). Điều này vừa đáng mừng vừa đáng lo. Thật “đáng mừng” vì chúng ta không sợ bị thua thiệt, vì Thiên Chúa công minh và không thiên vị; nhưng lại “đáng lo” nếu chúng ta ngộ nhận mà tưởng mình “ngon” hơn người khác.

Thánh Phêrô nói về biến cố đã xảy ra tại Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng, và nói về lai lịch về Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài.

Ngày xưa, các Tông Đồ đã can đảm làm chứng về mọi việc Đức Giêsu đã làm trong cả vùng dân Do Thái và ngay tại thành Giêrusalem: “Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” ( Cv 10, 39-43 ).

Thật là tuyệt vời vì Đức Kitô đã sống lại và chắc chắn chúng ta cũng sẽ được sống lại như Ngài, đó là một ân huệ quá lớn, Vì thế, chúng ta phải hết lòng “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” ( Tv 118, 1 ). Và còn nữa, chính “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” nên tử thần đã chiến bại ê chề, mất khả năng hoành hành như trước. Do đó, Thánh Vịnh gia rất hân hoan: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” ( Tv 118, 17 ). Những điều kỳ diệu không ngừng nối tiếp nhau: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” ( Tv 118, 22-23 ). Và chỉ có Thiên Chúa mới khả thi những điều kỳ diệu như vậy !

Vừa xác định vừa nhắc nhở, Thánh Phaolô nói: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” ( Cl 3, 1-2 ). Thật vậy, Đức Kitô là nguồn sống của chúng ta, Ngài xuất hiện thì chúng ta cũng được xuất hiện với Ngài và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang ( Cl 3, 3-4 ).

Tiếp tục giải thích, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” ( 1Cr 5, 7-8 ). Tất cả đều biến đổi hoàn toàn, điều đó có thể là được biến đổi hoặc tự cố gắng biến đổi.

Tin Mừng hôm nay là trình thuật Ga 20, 1-9, rất ngắn gọn. Chàng Gioan cho biết rõ ràng: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ và thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp người “tổ trưởng” Phêrô và người môn đệ được Đức Giêsu thương mến – tức là chàng trai trẻ Gioan, người tựa đầu vào ngực Thầy Giêsu và nghe được “nhịp tình thổn thức” của Thầy ngay trong Bữa Tiệc Ly.

Thấy ngôi mộ trống trơn, bà Maria Magđala vừa lo sợ vừa thắc mắc: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Thật tội nghiệp, chắc hẳn bà buồn lắm, và bà thấy nhớ Thầy Giêsu da diết. Các môn đệ nghe nói vậy cũng cảm thấy hoang mang. Vì trong thời gian này, “vụ án Chúa Giêsu” vẫn còn gây chấn động mạnh, chưa thể nào lắng xuống, ai cũng sợ người Do Thái khủng bố và áp bức, thế nên chẳng ai dám đi lại nhiều, có ở nhà thì cũng đóng cửa kín mít, đi đâu thì phải mắt trước mắt sau, đi như chạy, vội vàng như bị ma đuổi vậy.

Hai ông Phêrô và Gioan liền đi ra mộ xem sự thể ra sao ngay sau khi nghe bà Maria Mácđala thông báo. Cả hai người cùng chạy, nhưng Gioan còn trẻ nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, đợi cho Phêrô đến nơi và vào trước, “kính lão đắc thọ” theo phép lịch sự.

Tới nơi, ông Phêrô vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Kinh Thánh cho biết rằng tấm khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ chàng Gioan cũng đi vào, nhìn thấy cụ thể và đã thực sự tin. Lúc này hai người tin thật rồi, chứ không như trước đó. Và hai ông chợt hiểu rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết theo như Kinh Thánh đã nói, và chính Thầy Giêsu cũng đã cho biết trước đó.

Đúng là hai năm rõ mười, mọi điều đã tỏ tường, ai cũng hân hoan tột độ, và cũng không còn cảm thấy sợ hãi chi nữa. Chính Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi họ hoàn toàn, từ con người nhút nhát trở thành con người dũng cảm, từ con người yếu đuối trở nên mạnh mẽ, ngay cả các phụ nữ cũng bỗng nhiên biến thành những chứng nhân sống động của Đức Kitô Phục Sinh. Chúng ta thấy rằng các phụ nữ có thể “hấp tấp” một chút, dẫu cho “sâu sắc như cơi đựng trầu”, thế nhưng họ vẫn có những điều để cho chúng ta phải học hỏi. Thật vậy, bà Maria Magđala là người đầu tiên được diện kiến Đấng Phục Sinh.

Có mối liên kết với nhau giữa hai động từ THẤY và TIN. Có người thấy mà không tin, vậy là vô ích. Chỉ có ai thấy và tin thì mới đáng nói. Khoảng giữa hai hành động đó là sự biến đổi mau chóng và thực sự là điều kỳ diệu. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa, từ khởi sự cho đến hoàn thành.

Lạy Thiên Chúa toàn năng chí ái, cúi xin Ngài củng cố đức tin nơi con để con có thể biến đổi mau chóng khi con thấy những điều kỳ diệu mà Ngài vẫn không ngừng thực hiện trong cuộc đời của con và của tha nhân, xin Ngài cũng giúp con can đảm làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh trong suốt cuộc đời con, qua những khả năng mà con được Ngài trao ban.

Xin giúp con hành động vì vinh danh Ngài và cứu các linh hồn, xin cho con gặp được Phục Sinh nơi tha nhân và qua công việc con làm. Con chân thành cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU

-----------------------------

 

PS1-389: BÓNG HỒNG TRONG SƯƠNG

 

Thi sĩ Xuân Ly Băng viết bài thơ “Bóng hồng trong sương” với hình ảnh thật thi vị. Nhạc sĩ Tuấn Kim PS1-389


Thi sĩ Xuân Ly Băng viết bài thơ “Bóng hồng trong sương” với hình ảnh thật thi vị. Nhạc sĩ Tuấn Kim phổ nhạc. Giai điệu vui tươi phấn khởi. Lời thơ nhạc khởi đi từ câu chuyện Tin Mừng Phục Sinh. Maria Mađalêna đi thăm mộ từ sáng sớm tinh sương. Hình ảnh đẹp nên thơ “bóng hồng lay động sương mai, sương ướt đẫm bờ vai, đi tìm Thầy mà không thấy Thầy đâu. Nhìn ngôi mộ trống lòng nàng đau biết bao, bóng hồng khóc lóc kêu than, nàng trách lời ai áo trắng hỏi han… Bóng hồng hoan lạc bao la vì bóng hồng nay thấy Chúa Phục Sinh. Chúa truyền rằng đừng động đến mình Ta, về mau hãy nói là Ta đã sống lại”…

Maria Magđala và các phụ nữ là “những bóng hồng” chân yếu tay mềm nhưng can đảm lạ thường và chan chứa lòng mến. Trước khi rời nghĩa trang, họ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị. Đêm dài quá ! Họ chỉ mong trời mau sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được. Họ chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác thân của Thầy nằm đó.

Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ rồi. Các Thượng Tế và những người Pharisêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ ( Mt 27, 62 ),  và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” ( Mt 27, 66 ). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng, dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đấng Chịu Đóng Đinh sao ?

Giêsu người thành Nadarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan khiên và tức tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Gôngôtha loang máu chiều tử nạn thê lương.

Câu chuyện tưởng đã ngủ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nadarét nữa…

Nấm mồ mở toang

Vậy mà, khi ngày Sabát chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Magđala và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.

Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: "Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu".

Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.

Thấy và tin

Tuy Phêrô, Gioan và Maria Magđala chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.

Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã trỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi.

Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin” diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Ladarô sống lại. Khi Ladarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: "Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" ( Ga 2, 19 ).

Gioan còn nhớ điềm lạ của Giôna với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" ( Mt 12, 40 ). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết ( Mc 9, 9 ).

Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" ( Lc 18, 31-33 ). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay... Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" ( Mt 26, 31-32 )…

Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà Đức Tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Ánh sáng bừng tỏa

Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục Sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người ! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.

Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin Mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc lóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm Sự Sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã trỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng. Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Chúa đã sống lại thật ! Hallêluia !

Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông Đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.

Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.

Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối ? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân ? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.

Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu Cứu Độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu. Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về Đức Tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.

Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Đức Tin.

Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.

Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ Đức Tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.

Hãy cùng với những “bóng hồng trong sương” hát lên khúc ca Hallêluia với những nốt nhạc tin yêu và hy vọng. Hãy sống niềm vui Phục Sinh giữa đời và hãy làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng một đời sống chan hòa bình an và yêu thương.

Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN

-----------------------------

 

PS1-390: Chúa đã sống lAại rồi – Alléluia - Vui Lên

Mc 16, 1-8

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Đêm canh thức phục sinh được sắp xếp như sau:
*Phần thứ nhất : Thắp Nến Phục Sinh
*Phần thứ hai : Phụng Vụ Lời Chúa
*Phần thứ ba: Phụng Vụ Thánh Tẩy
*Phần thứ tư: Phụng Vụ Thánh Thể

 

Sau những phút giây đau buồn.Sau những giờ hồi hộp,nín thinh vì biến cố Chúa Giêsu chịu đóng đinh PS1-390


Sau những phút giây đau buồn.Sau những giờ hồi hộp,nín thinh vì biến cố Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang làm bàng hoàn biết bao nhiêu người. Sau những giờ thật thất vọng các môn đệ hầu như còn chưa ra khỏi cơn mơ và chưa hết hoàn hồn vì Thầy của họ bị giết một cách thật tất tưởi trên cây thập giá.Hội Thánh đi vào mầu nhiệm sự chết của Chúa Giêsu. Hội Thánh sau những giờ phút, sau những ngày im lặng để hiệp thông với nỗi khốn khổ của Chúa Giêsu, giờ đây, trong đêm Canh Thức Vựợt Qua, Hội Thánh tràn ngập niềm vui, đầy hân hoan, vui mừng. Chúa Giêsu bị chết trên trên thập giá, được tháo xuống khỏi cây thập giá, rồi xác Chúa được táng trong huyệt đá mới, nay đầu ngày thứ nhất trong tuần, Ngài đã sống lại thật và đã ra khỏi mồ như lời Ngài đã loan báo trước đây. Alléluia.

Alléluia.Alléluia. Đây là cốt lõi của Tin Mừng phục sinh, của đêm Canh thức. Đêm hôm nay ngay từ những năm đầu tiên, Hội Thánh đã cử hành biến cố Chúa phục sinh hết sức long trọng, đầy ý nghĩa, đầy ấn tượng. Đêm nay là đêm hồng phúc. Đêm chiến thắng tử thần. Chúa Giêsu đã đánh bại thần chết. Đêm nay, thánh Augustinô đã gọi là đêm mẹ của mọi canh thức thánh. Đêm nay, được ghi dấu bằng việc rửa tội cho các tân tòng. Chính những tân tòng là những người được tái sinh trong đêm canh thức Vượt Qua này. Họ được dìm vào cái chết của Chúa Giêsu và được sống lại với Ngài. Alléluia.

Đêm nay là đêm mẹ của mọi đêm như lời thánh Agustinô nói. Màn trời đen lung linh. Bầu khí nhà thờ im lặng.Mọi ngọn đèn trong nhà thờ được tắt hết. Tất cả như chìm trong đêm tối.Cây nến phục sinh được thắp sáng từ than hồng tượng trưng cho Chúa Giêsu sống lại. Cộng đoàn dân Chúa chú ý tới cây nến phục sinh được vị chủ tế và đoàn đồng tế rước từ cuối nhà thờ tới cung thánh, đến giá đặt nến được sắp xếp hết sức trang trọng nơi cung thánh với ba lần vị chủ tế xướng to: ” Ánh sáng Chúa Kitô “, toàn thể cộng đoàn thưa: ” Tạ ơn Chúa “. Cây nến được đặt trên giá đèn. Mọi cây nến con trong nhà thờ đều được thắp sáng từ cây nến phục sinh mẹ. Vị chủ tế xông hương cây nến phục sinh và bắt đầu công bố Tin Mừng phục sinh. Cây nến phục sinh tượng trưng cho Chúa Giêsu sống lại. Đây là cây nến cứu dộ. Cây nến và ngọn nến chiếu sáng mọi người. Ngọn nến cứu độ đem lại hạnh phúc và niềm vui cho mọi người. Sau đó là những bài Sách Thánh diễn tả lại lịch sử cứu độ của Chúa và đoạn Tin Mừng Mc 16, 1-8 nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vào ngày đầu ngày thứ nhất trong tuần. Chúa Giêsu đã toàn thắng sự chết, bước ra khỏi mồ trong vinh quang của Thiên Chúa Cha và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Chúa đã sống lại và đang sống. Đó là lời loan báo của các người phụ nữ. Đó là tiếng kêu hạnh phúc và đầy tràn niềm vui của các môn đệ. Đó là cốt lõi việc rao giảng của các Ngài. Đó là Kérygma tiên khởi. Tin Mừng nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan đều tường thuật về biến cố phục sinh: ngôi mộ trống, những lần hiện ra, những chứng từ của những người phụ nữ, thái độ nghi ngờ bán tín bán nghi của các môn đệ. Nhưng tất cả đều tan biến dành cho niềm vui phục sinh, bởi các môn đệ đã nhất loạt tin vào sự sống lại của Thầy mình. Cuộc sống mới và niềm tin của các môn đệ, của các người phụ nữ đã lan ra nhiều người và nó tiếp tục được nhân lên mãi mãi…

Lạy Chúa phục sinh, xin giúp chúng con luôn hăng say loan báo Tin Mừng sống lại cho nhiều người và luôn can đảm lam chứng cho Chúa phục sinh. Alléluia. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

-----------------------------

 

PS1-391: Thứ Bảy Tuần Thánh

 

 Thứ Bảy Tuần Thánh là ngày cuối cùng của Mùa Chay, của Tuần Thánh, và của Tam Nhật Vượt Qua, PS1-391


Thứ Bảy Tuần Thánh là ngày cuối cùng của Mùa Chay, của Tuần Thánh, và của Tam Nhật Vượt Qua, ngay trướ Đại lễ Phục Sinh. Thứ Bảy Tuần Thánh đang tròng thời gian tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn và Sự Chết của Đức Giêsu Kitô, và chuẩn bị việc Ngài phục sinh.

 Cũng được gọi là Vọng Phục Sinh (đúng ra là đêm Thứ Bảy Tuần Thánh), Thứ Bảy Tuần Thánh có một lịch sử dài và thay đổi. Bách khoa Công giáo ghi: “Thời Giáo hội sơ khai, đây là Thứ Bảy duy nhất phải ăn chay”. Ăn chay là dấu hiệu sám hối, vì vào Thứ Sáu Tuần Thánh, Đức Kitô đã cứu chuộc chúng ta bằng Giá Máu của Ngài. Như vậy, từ nhiều thế kỷ qua, các Kitô hữu đã coi Thứ Bảy và Chúa Nhật (ngày Chúa Giêsu phục sinh) là những ngày cấm ăn chay. Cách thực hành này vẫn có trong luật mùa Chay của các Giáo hội Công giáo Đông phương và Chính thống giáo Đông phương, giảm nhẹ việc ăn chay vào các Thứ Bảy và Chúa Nhật.

 Thế kỷ II, các Kitô hữu bắt đầu ăn chay toàn phần (không ăn bất kỳ thứ gì) suốt 40 giờ trước lễ Phục Sinh, nghĩa là trọn ngày Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày ăn chay.

 Cũng như vào Thứ Sáu Tuần Thánh, không có Thánh lễ trong ngày Thứ bảy Tuần Thánh. Lễ Vọng Phục Sinh diễn ra sau khi mặt trời lặn ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, đúng là thuộc về Chúa Nhật Phục Sinh, vì theo phụng vụ, mỗi ngày bắt đầu từ lúc mặt trời lặn của ngày hôm trước. Đó là lý do mà dự lễ vọng đêm Thứ Bảy có thể đã giữ trọn luật dự lễ Chúa Nhật. Khác là vào ngày Thứ Sáu, rước lễ khi tham dự phụng vụ buổi chiều tưởng niệm Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô, vào ngày Thứ Bảy Tuần Thánh thì Thánh Thể chỉ được trao có các tín hữu như “của ăn đàng” (viaticum) – nghĩa là trong trường hợp nguy tử.

 Trong Giáo hội sơ khai, các tín hữu họp nhau vào chiều Thứ Bảy Tuần Thánh để cầu nguyện và rửa tội cho các tân tòng – đã trải qua mùa Chay để chuẩn bị được đón nhận vào Giáo hội. Theo Bách khoa Công giáo, thời Giáo hội sơ khai, Thứ Bảy Tuần Thánh và vọng lễ Ngũ Tuần (Pentecost) là những ngày duy nhất có thể rửa tội cho tân tòng. Thời gian vọng này kéo dài cả đêm tới sáng Chúa Nhật Phục Sinh, khi bài Alleluia được hát lần đầu tiên kể từ đầu mùa Chay, và các tín hữu – kể cả những người mới được rửa tội – kết thúc 40 giờ ăn chay (nhịn mọi thứ) bằng việc rước lễ.

 Thời Trung Cổ, khoảng đầu thế kỷ VIII, các nghi thức Vọng Phục Sinh, nhất là làm phép lửa mới và thắp Nến Phục Sinh, được áp dụng từ rất sớm. Cuối cùng, các nghi thức này được cử hành vào sáng Thứ Bảy Tuần Thánh. Cả ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, trước đây là ngày than khóc Chúa Giêsu chịu đóng đinh và mong đợi Ngài sống lại, ngày nay chỉ còn là việc tham dự Đêm Vọng Phục Sinh.

 Với cải cách phụng vụ Tuần Thánh năm 1956, các nghi thức này trở thành chính Lễ Vọng Phục Sinh (nghĩa là Thánh Lễ được cử hành sau khi mặt trời lặn ngày Thứ Bảy Tuần Thánh), và như vậy là tính chất nguyên thủy của Thứ Bảy Tuần Thánh được phục hồi.

 Tới khi có bản sửa đổi luật ăn chay và kiêng thịt năm 1969, việc ăn chay và kiêng thịt nghiêm ngặt tiếp tục được giữ vào sáng Thứ Bảy Tuần Thánh, điều đó nhắc các tín hữu nhớ tới bản chất u sầu của ngày này và chuẩn bị vui mừng đón Lễ Phục Sinh. Ăn chay và kiêng thịt không còn bắt buộc vào sáng Thứ Bảy Tuần Thánh, nhưng việc thực hành các luật mùa Chay vẫn là cách tốt để cử hành ngày thánh này.

 TRẦM THIÊN THU

-----------------------------

 

PS1-392: Đức Kitô đã sống lại thật – ViKiNi


(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)

 

Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của ...... Thánh Phaolô thật rõ ràng, thật quả quyết PS1-392


1. “Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng. Và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, như thế là chúng tôi chống lại Thiên Chúa” (1Cor. 15, 14-15).

Thánh Phaolô thật rõ ràng, thật quả quyết về Đức Giêsu đã sống lại, nếu Người không sống lại thì Phaolô và tất cả các tông đồ, các tín hữu thời đó vừa phạm tội ác chống lại Thiên Chúa, vừa bị người đời bắt bớ, đánh đập, tù ngục và đóng đinh giết đi. Các tông đồ chịu chết vì điều giả dối đó để làm gì ? Để chịu khốn nạn hơn hết mọi người sao ? Và giả dối thì tất nhiên, Giáo hội không thể xuất hiện và tồn tại bền vững cho đến ngày nay được. Nhưng chính vì Đức Kitô đã sống lại, đã tiếp xúc với các tông đồ, các ông đã trông thấy, ăn uống, đã đụng chạm đến Người, đã nhận nhiệm vụ Người trao phó đi giảng dạy muôn dân, cho muôn dân tin mà được cứu độ, được sống lại, giải thoát họ khỏi cái chết kinh khủng ngàn thu. Chính vì Đức Kitô sống lại, Phaolô đã bỏ đường bắt đạo, trở lại giảng đạo, giảng sự sống lại của Đức Kitô, ông đã sống chết vì Đức Kitô, đã chịu trăm ngàn khổ cực, đã chịu đóng đinh như Đức Kitô để rao giảng Đức Kitô sống lại cho muôn dân được sống lại với Đức Kitô.

Khi Đức Giêsu bị bắt, bị xét xử, bị đóng đinh chết trên thập giá, thì các tông đồ bỏ trốn, tinh thần các ông đã chết, khi các ông nghe tin mồ trống, các ông cũng khủng hoảng, vì lính canh mồ đang phao tin các môn đệ đã lấy trộm xác. Đó là án tử hình đang đeo vào cổ các ông. Luật thời đó kết án tử hình kẻ trộm cắp. Nhưng khi gặp Đức Giêsu sống lại, các ông đã trở nên dũng mạnh, can trường đứng trước công trường rao giảng Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại cho toàn dân đang dự lễ tại đền thánh Giêrusalem (Cv. 2,14-4,31). Các ông còn vui mừng khi bị điệu ra trước thượng hội đồng Do thái để chịu xét xử tù ngục, đánh đòn, chịu khổ vì Đức Kitô. Tuy nhiên, người ta vẫn thắc mắc: Sự sống lại của Đức Kitô quan trọng như vậy, đã thay đổi cuộc sống của các tông đồ như vậy, đã lôi cuốn dân chúng đồng thời với các ông trở lại như vậy, để xây dựng Giáo hội tồn tại vững bền như vậy, tại sao bốn thánh sử chỉ kể lại vắn tắt hai ba lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ thôi ? Còn về cuộc chịu chết khổ nạn của Đức Giêsu thì các ngài viết rất dài và đầy đủ chi tiết.

2. Thánh Marcô chỉ viết 8 câu kể tên 3 bà đi thăm mộ và hoảng sợ khi vào trong mộ thấy một thanh niên mặc áo trắng nói: Đức Giêsu Nagiareth …. đã chỗi dậy rồi …”.

Thánh Luca kể hai lần Chúa hiện ra: Một lần hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, một lần hiện ra với các tông đồ, Người chúc bình an cho các ông rồi cho các ông rờ xem chân tay có xương thịt rõ ràng, chứ không phải ma, và ăn trước mặt các ông. Rồi Người dạy dỗ và mở trí các ông hiểu Kinh Thánh ứng nghiệm về Người. Người truyền cho các ông đi rao giảng cho muôn dân, rồi Người được rước lên trời.

Thánh Matthêu chỉ kể vắn tắt Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, rồi hiện ra với 11 môn đệ. Ngài nhấn mạnh đến việc các thượng tế lừa đảo, bảo lính canh mồ phao tin các môn đệ lấy trộm xác.

Thánh Gioan kể dài hơn: Chúa hiện ra ba lần: trước hết với Maria Madalena, và hai lần với các môn đệ: một lần không có ông Tôma, lần sau có cả Tôma, và đoạn 21 cuối do các môn đệ Gioan kể thêm Đức Giêsu hiện ra ở biển hồ Tiberia lúc các ông đánh cá. Người nướng cá cho các ông ăn và hỏi ba lần Phêrô “Con có yêu mến Thầy không ?”.

Thánh Gioan cũng thêm một chi tiết khá tế nhị: Phêrô và Gioan chạy ra mộ khi vào mộ, ông thấy những băng vải và khăn che đầu Đức Giêsu cuốn lại và xếp riêng ra một nơi, chứng tỏ: Không ai đưa xác đi đâu và Đức Giêsu đã sống lại đàng hoàng mới có sự sắp xếp như vậy.

3. Sở dĩ các ngài viết vắn tắt về sự sống lại của Đức Giêsu, có lẽ vì những lý do sau:

Thứ nhất: Sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại mà Người đã cho Lagiarô hay con trai bà góa thành Naim và con gái ông Giairô chết được sống lại ở đời này, rồi lại chết. Sự sống lại của Đức Giêsu là sự sống đời đời: “Người không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm. 6, 9). Thân xác Người trở nên vinh hiển: “Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Phil. 3, 21). “Thiên Chúa còn đặt mọi thù địch dưới chân Người, thù địch cuối cùng là sự chết” (1Cor. 15, 25-26). Như vậy Người đã chiến thắng sự chết. Cho nên không thể dùng ngôn ngữ trần gian nào diễn tả sự sống lại huyền diệu của Đức Giêsu được. Các ngài chỉ có thể kể: Người hiện ra đúng như Người lúc bị đóng đinh, có xương thịt, có lỗ đinh đóng chân tay và cạnh sườn, có ăn nói, dậy dỗ, trao quyền rao giảng Tin mừng, chứ không như bóng ma quái. Đồng thời Người lại giống như thần thiêng, không bị lệ thuộc vật chất, Người hiện ra gặp các ông mọi nơi, mọi chỗ dù cửa nhà đóng kín. Thật lạ lùng mãnh liệt đối với các ông. Cho nên chỉ kể thế là đủ.

Thứ hai: Các tông đồ đã trực diện hiển nhiên trước sự sống lại diệu huyền của Chúa, đâu cần phải sống lâu bên Chúa mới nhận ra Người sống lại. Các ông tiếp xúc trực tiếp với Người bằng tất cả mọi giác quan: tai, mắt, miệng lưỡi, chân tay, lòng trí và cả tâm hồn với mọi cảm tính từ hoảng sợ, nghi ngờ đến vui mừng, yêu mến tha thiết, từ đời sống lo âu đến đời sống bình thường, từ chốn ẩn lánh kín đáo đến công trường trước đông đảo quần chúng, hơn nữa chính Chúa còn mở trí cho các ông thấu hiểu các sách luật Môisê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh, Thánh Kinh đã ứng nghiệm về Người (Lc. 24, 44-45). Chính các tông đồ là những cuốn sách sống động cho muôn dân hơn muôn vàn sách viết chữ. Chính các ông là những chứng nhân trực tiếp rõ ràng nhất bằng lời giảng, bằng đời sống, bằng gương lành, và bằng chính những cái chết anh dũng của các ngài, nhất là bằng ân sủng của Chúa Con, bằng tình yêu của Chúa Cha và bằng tác động của Chúa Thánh Thần. Những người có thiện tâm đều tin vững vàng Đức Giêsu đã sống lại thật. Kẻ cố chấp, ác tâm thì dù biết mọi chi tiết rõ ràng, như quân dữ, họ cũng viện mọi lẽ để không tin Người.

Thứ ba: Như Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Người chết còn biết không ?”. Người đáp: “Nếu Ta nói: Người chết còn biết, thì sợ con cháu hiếu thảo liền chết theo ông cha, nếu Ta nói người chết không còn biết nữa, thì sợ con cháu bất hiếu, cha mẹ chết bỏ không chôn” (Khổng Tử gia ngữ: Trí tự VIII.)

Cũng vậy, nếu Chúa không sống lại, hay vật chất hóa sự sống lại của Chúa bằng xương bằng thịt cho người ta thấy luôn luôn, thì người ta không còn tin Chúa bởi trời xuống nữa. Người ta chết là hết, hay người ta tìm được thuốc trường sinh, thì người ta không cần Thiên Chúa nữa. Người ta sẽ sống thoải mái theo thú tính của mình và chắc chắn thế giới này sẽ nguy hiểm kinh khủng vì ai cũng lo giành dựt, xâm chiếm về cho mình hưởng thụ.

Nếu Đức Giêsu sống lại hoàn toàn vô hình, các tông đồ không thấy Người sống lại thì chắc các ông sẽ không thể tin Người sống lại, do đó, các ông đâu còn dám chết đi để làm chứng Người sống lại.

Cho nên Đức Giêsu đã xuống thế gian làm người để chết đi và sống lại cho người ta thấy tình thương bao la hữu hình của Người để người ta kính mến Người, và lên trời vô hình để người ta tin Người là Thiên Chúa hằng sống.

Lạy Chúa Giêsu, Người đã sống lại thật. Alleluia. Chúng con phấn khởi vui mừng. Alleluia. Chúng con cảm tạ và tung hô Chúa muôn đời. Alleluia.

-----------------------------

 

PS1-393: Ánh sáng Chúa Kitô – Lm. Phạm Quốc Hưng

 

Trong Nghi Thức Phụng Vụ Vọng Phục Sinh, khi rước cây nến Phục Sinh đã được làm phép và thắp PS1-393


Trong Nghi Thức Phụng Vụ Vọng Phục Sinh, khi rước cây nến Phục Sinh đã được làm phép và thắp sáng vào trong nhà thờ, linh mục chủ tế đọc hay hát ba lần lời tung hô “Ánh Sáng Chúa Kitô” và cộng đoàn cùng hân hoan đáp lại “Tạ ơn Chúa”. Từ đó, cây nến Phục Sinh chiếm một vị trí quan trọng trên cung thánh và luôn được cung kính như biểu tượng của chính Chúa Kitô-Đấng là chính Ánh Sáng đem lại sự sống đời đời.

Ánh sáng tuyệt đối cần thiết trong đời sống tự nhiên thế nào, niềm tin vào Chúa Kitô cũng tuyệt đối cần thiết trong đời sống thiêng liêng như thế. Nhờ ánh sáng tự nhiên, mắt chúng ta mới nhận biết các sự vật xung quanh. Nhờ Chúa Kitô là Ngôi Lời Nhập Thể, với con mắt đức tin chúng ta mới nhận biết các thực tại siêu nhiên, nhất là thực tại về Thiên Chúa và về chính con người chúng ta.

Qua bao thế hệ, loài người sống trong bóng đêm do tội lỗi gây ra. Trong bóng đêm ấy, con người bị trăn trở bởi biết bao bức xúc nghi nan, bị đau đớn buồn phiền vì bao hận thù chia rẽ, bị sợ hãi lo âu bởi đủ loại bệnh tật chiến tranh và luôn bị ám ảnh bởi tử thần. Trong bóng đêm ngàn đời ấy, con người khao khát ánh sáng toàn diện để nhận biết ý nghĩa cho cuộc sống của mình, mong mỏi tìm được câu trả lời cho những khúc mắc thẳm sâu của lòng mình.

Công Đồng Vaticanô II diễn tả những bức xúc muôn thuở của con người trong Hiến Chế Mục Vụ “Vui Mừng và Hy Vọng” với những lời thật súc tích như sau: “…trước sự tiến hóa hiện nay của thế giới, càng ngày càng có nhiều người hoặc đặt vấn đề hoặc nhận thức sâu sắc mới mẻ về những vấn đề hết sức căn bản như: Con người là gì? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ, cái chết? Sao chúng còn tiếp tục tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến bộ? Bao chiến thắng đạt được với giá đắt ấy có ích gì? Con người có thể đem lại gì cho xã hội và có thể trông đợi gì ở xã hội? Cái gì sẽ tiếp theo sau cuộc sống trần gian này?” (#10).

Tất cả những câu hỏi và những bức xúc muôn thuở của con người như được cô đọng nơi lời than của Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh Thập Giá trong cơn hấp hối vào Thứ Sáu Thánh: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15:14).

Với Tin Mừng Phục Sinh, “Ánh Sáng Chúa Kitô” là câu trả lời cho tất cả!

Đó chính là điều Hội Thánh rao giảng cho mọi thời đại, như Công Đồng Vaticanô II xác định trong cùng văn kiện trên: “Giáo Hội tin rằng Chúa Kitô đã chết và sống lại cho mọi người. Vì thế qua Thánh Thần của Người, Người ban cho con người ánh sáng và sức mạnh để con người có thể đáp lại thiên chức cao cả của mình. Giáo Hội cũng tin rằng dưới bầu trời này chẳng còn danh hiệu nào khác được ban cho loài người để loài người nhờ đó mà được cứu rỗi. Cũng thế, Giáo Hội tin rằng đầu mối, trung tâm và cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong Đức Kitô là Chúa và là Thầy của Giáo Hội. Hơn nữa, Giáo Hội còn tin rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không đổi thay vì nền tảng cuối cùng của những điều không thay đổi này là Chúa Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vậy dưới ánh sáng Chúa Kitô, Hình Ảnh của Thiên Chúa vô hình, Trưởng Tử giữa mọi thọ sinh, Công Đồng muốn nói với mọi người để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và để cùng nhau tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại chúng ta”.

Ánh Sáng Chúa Kitô Phục Sinh cho thấy rằng chính vì không muốn bỏ rơi nhân loại trong bóng tối của tội lỗi và sự chết, nên Thiên Chúa đã muốn Chúa Giêsu phải chịu bỏ rơi và chịu chết trong đau khổ nhục nhã ngút ngàn trên thập giá, để Người sẽ sống lại trong vinh quang chiến thắng tội lỗi và sự chết hầu đem lại Ánh Sáng Đức Tin và Sự Sống Đời Đời cho nhân loại.

Ánh Sáng Chúa Kitô là Ánh Sáng Đức Tin chiến thắng tội lỗi, là Ánh Sáng Sự Sống tiêu diệt sự chết, là Ánh Sáng Tình Yêu xóa tan mọi hận thù, là Ánh Sáng Bình An xoa dịu mọi bức xúc, là Ánh Sáng Chân Lý phá tan mọi dối trá, là Ánh Sáng Toàn Thiện hủy diệt mọi gian ác, là Ánh Sáng Toàn Mỹ xóa bỏ mọi khuyết tật, là Ánh Sáng Hiệp Nhất hủy bỏ mọi chia rẽ và là Ánh Sáng của Tin Mừng làm biến tan mọi nỗi sầu khổ và làm thỏa mãn mọi ước vọng thẳm sâu nhất của cõi lòng mọi người.

Chấp nhận Ánh Sáng Chúa Kitô với lòng tin là đón nhận mọi phúc lộc cao quý tốt đẹp nhất hơn cả những gì lòng người có thể mơ tưởng và cầu xin!

Từ khước niềm tin vào Chúa Kitô là tự chọn ở lại trong bóng tối của tội lỗi ngàn đời!

Lạy Mẹ Maria là Nữ Vương Thiên Đàng, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con có được đức tin mạnh mẽ và tuyệt hảo của Mẹ, để chúng con luôn được sống trong Ánh Sáng Chúa Kitô hôm nay và mãi mãi. Amen.

-----------------------------

 

PS1-394: Niềm vui Phục Sinh – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

 

Trước khi rời nghĩa trang các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu PS1-394


Trước khi rời nghĩa trang các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị.

Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đức Giêsu.

Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn.

Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…

Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.

Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: "Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu".

Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.

Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.

Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ.

Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”. diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ:

"Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay... Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh. Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.

Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.

Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.

Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.

Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.

Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.

Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.

Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.

Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.

Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.

Xin cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết sống niềm vui Phục Sinh một cách mạnh mẽ, để có thể làm chứng cho Chúa bằng một đời sống tốt đẹp chan hòa bình an và sức sống.

-----------------------------

 

PS1-395: Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống


Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật V Mùa Chay – năm A

(Ga 11, 1-45)

 

Sau khi Giáo hội ngưng nghỉ để (Lætare) chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh dù còn hai tuần nữa, PS1-395


Sau khi Giáo hội ngưng nghỉ để (Lætare) chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta : trỗi dậy từ trong cõi chết.

Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu

Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi : bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.

Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài : "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa " (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ : " Lagiarô đã chết " ( Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa " ( Ga 11, 4).

Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư ? "(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này : " Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người " (Ga 11, 53 ). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là : " Ladarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự sống.

Niềm hy vọng của chúng ta

Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu : " Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ "(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha " Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống " sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.

Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Ðức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.

Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì " thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi " (Rm 8, 10) nhưng " nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa : chúng ta tin vào phép rửa " Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới ". (Rm 6, 4).

Thật là đại tin mừng : " nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" ( Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà : "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi : " Đã an táng Lagiarô ở đâu? " Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.

Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21)

" Hãy đẩy tảng đá ra " (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao ? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52 ).

" Hãy cởi ra cho anh ấy đi "(11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.

Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng

Là người thật, Ðức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng ). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố : " Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian" (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl : "Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngườ, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ " (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em " (Ez 37, 6) : nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con ; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

-----------------------------

 

PS1-396: SỨ ĐIỆP PHỤC SINH


Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

CHÚA NHẬT PHỤC SINH, năm B

Ga 20, 1 – 9

 

Người ta thường dùng thị giác để nhận biết người này, người nọ và sự vật xung quanh như cây cối, núi PS1-396 Dalat


Người ta thường dùng thị giác để nhận biết người này, người nọ và sự vật xung quanh như cây cối, núi đồi, sông suối, mặt trời, mặt trăng, tinh tú vv…Tuy nhiên, về đời sống thiêng liêng, con người không thể dùng thị giác để thấy nhưng phải nại tới đức tin. Sứ điệp Phục Sinh xác quyết, loan báo công khai, rõ ràng, dứt khoát Đức Giêsu sống lại, Ngài vẫn sống và đang hoạt động trong thế giới, trong cuộc đời của chúng ta…

Vâng, Chúa Giêsu đã bị bắt, bị kết án tử hình và bị đóng đinh trên Thập giá, nhưng ngày thứ ba Ngài đã Phục Sinh như lời Ngài đã loan báo trước. Thân xác của Đức Giêsu sống lại vào buổi sáng Phục Sinh hoàn toàn khác với thân xác Đức Giêsu đã được an táng vào buổi chiều ngày thứ sáu. Đây không phải là một thân xác được hồi sinh như thân xác của Lazarô và thân xác của con bà góa thành Naim đã được Chúa Giêsu làm cho sống lại. Nhưng thân xác của Đức Giêsu Phục Sinh là  thân xác vinh quang đến nỗi bà Maria Mađalêna tưởng Ngài là người làm vườn,bà chỉ nhận ra Chúa Phục Sinh khi Chúa gọi tên bà...Thân xác sáng láng, vinh quang của Chúa sống lại khiến các môn đệ là những người thân tín, sống gần gũi với Chúa nhất, vẫn không nhận ra Ngài khi Ngài đứng trên bờ hồ buổi sáng tinh mơ vv...Thánh Phaolô đã so sánh thân xác trước và sau Phục Sinh giống như một hạt giống và một cây non. Ngài viết :” Vật con người gieo chỉ là một hạt giống chứ không phải là một cái cây có đầy đủ cành lá. Khi xác thân bị an táng là nó đã chết, còn khi sống lại thì nó trở thành bất tử.Khi bị an táng, nó xấu xí và yếu đuối, nhưng khi sống lại, nó trở thành xinh đẹp và mạnh mẽ. Khi bị an táng, nó là một thân xác vật chất, nhưng khi sống lại, nó sẽ thành một thân thể tinh thần ( 1 Co 15, 37. 42-44).

Cũng trong chương này, thánh Phaolô tiếp tục giải thích :” Sự thật là Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết.Đó là một bảo đảm cho thấy rằng những ai ngủ yên trong cõi chết sẽ được sống lại. Bởi vì do một người mà sự chết đã đến thì tương tự như vậy, sự sống lại từ cõi chết cũng sẽ do một người mà đến.Vì mọi người đều phải chết do kết hợp với Adam, thì cũng tương tự như thế, mọi người sẽ được sống lại với Đức Kitô...Cũng như chúng ta đã mặc lấy hình tượng của người được dựng nên từ đất, thì chúng ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của Người từ trời xuống ( 1 Co 15, 20 – 22, 49 ).Thánh Phaolô còn khuyến dụ, nhắc nhở chúng ta đừng đợi đến khi chúng ta chết mới thông dự vào sự Phục sinh và quyền năng của Đấng sống lại. Nhưng ngay bây giờ, lúc này, chúng ta vẫn thông dự vào Sự Sống lại và quyền năng của Đức Giêsu Phục Sinh.Tất cả những gì chúng ta phải làm là mở tung cõi lòng với Đức Giêsu...

Vâng, điều chúng ta phải làm ngay bây giờ và ngay giây phút này là sống yêu thương, hiệp nhất, quảng đại, hy vọng, cậy trông và làm những việc bác ái, những việc tỏa sáng là khi đó chúng ta đang tham dự vào Sự Phục Sinh và quyền năng của Đấng Phục Sinh. Thánh Phêrô khi vào mồ thấy các dấu chỉ như khăn liệm, băng quắn vv...nhưng không ra Đức Giêsu đã sống lại...Tuy nhiên với các dấu chỉ và bằng đức tin của mình, Gioan khi vào mồ đã tin Đức Giêsu Kitô đã sống lại. Đức Giêsu sống lại vẫn dùng các dấu chỉ để chứng tỏ sự hiện diện của Ngài giữa nhân loại. Liệu chúng ta có dùng con mắt đức tin của chúng ta để mau mắn nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục Sinh giữa chúng ta ? Chúng ta có sẵn sàng trở thành những dấu chỉ tình thương để làm chứng cho người ta thấy Chúa sống lại đang ở trong chúng ta không ?

Tin Mừng Phục Sinh là “ Không có gì có thể hủy diệt chúng ta được dù là tội lỗi, thử thách, ươn hèn, sự chết.Tin Mừng Phục Sinh còn là “ Chúa sống lại đã chinh phục mọi người, chúng ta cũng làm được như vậy nếu chúng ta biết đặt tin tưởng nơi Ngài. Tin Mừng Phục Sinh là “ Hễ có chiều Thứ Sáu Tuần Thánh thì cũng có Chúa Nhật Phục Sinh. Điều quan trọng là “ Chúng ta hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con “. “ Không có tình yêu nào cao vời bằng tình thương của người hiến mạng sống vì người mình yêu” ( Ga 15, 13 ).

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại thật như lời Chúa đã hứa. Alléluia. Alle1luia.Alle1luia !
 
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao lại nói :” Nếu có chiều Thứ Sáu Tử Nạn, thì cũng có Chúa Nhật Phục Sinh ?”.
2.Maria Mađalêna đã nhận ra Chúa Phục Sinh khi nào và bằng cách nào ?
3.Tại sao bà Maria Mađalêna lại khóc ?
4.Sứ điệp Phục Sinh là gì ?
5.Nhờ gì chúng ta nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh ?

-----------------------------

 

PS1-397: Mừng Chúa Sống Lại


3/24/2016 10:49:33 PM

 

Người ngoài Kitô giáo cho rằng người Công giáo tin vào một người đã chết và sống lại, đó chỉ là PS1-397


Người ngoài Kitô giáo cho rằng người Công giáo tin vào một người đã chết và sống lại, đó chỉ là chuyện hão huyền, mơ mộng và mị dân.

Nhưng đối với Kitô giáo thì đây lại là niềm tin. Bởi thế, Giáo Hội cử hành Lễ vọng Phục Sinh trong đêm nay, là trung tâm điểm của mọi cử hành đức tin của Giáo Hội. Lễ này được cử hành đêm nay được coi là đêm Mẹ của mọi đêm. Chúng ta qui tụ nơi đây để cùng với Giáo Hội tuyên xưng Đức Giêsu Kitô, là Chúa của chúng ta đã chết và đã sống lại.

 Niềm tin vào sự sống lại của Kitô giáo, bị các nhà triết học vô thần coi như một sự vong thân, cố quên đi thực tại, hiện sinh của con người. Kitô giáo bị coi ra ru ngủ, là thuốc phiện mê dân. Đối với những người này, con người chỉ là một hữu thể vật chất, kinh tế  mà thôi !

 Trung tâm niềm tin Kitô giáo biểu lộ là Đức Kitô tự nguyện chết để cứu độ nhân loại, Ngài đã phục sinh như Thánh Augustino ghi nhận rằng: “Lòng tin của Kitô hữu là sự Phục sinh của Chúa Kitô”.

 Bởi vì sẽ không hiểu được những gì đã qua đi, và tương lai sẽ mịt mờ, nếu Niềm tin đó không được vững chắc như Thánh Phaolô tuyên tin: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em nữa cũng trống rỗng... và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15, 14.17). Trống rỗng tức không thể nào có tương lai, và quá khứ và hiện tại thế gian vẫn còn rên siết trong tội lỗi.

 Thật vậy, Đức Kitô Phục sinh dẫn nhân loại vào cuộc sống mai sau - bất diệt, như Thánh Phaolô dạy: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người.

 Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới . Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6, 4-5).

 Qua những trang Thánh Kinh, ta thấy những điều Chúa Giêsu đã tiên báo trước : “Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.”

 Đức tin của chúng ta về việc Chúa đã sống lại, có nền tảng từ lời Thánh Kinh. Chúa Giêsu đã không ít lần nói xa, nói gần, nói bóng, nói gió về việc Ngài sẽ sống lại: “Nếu hạt lúa mì.”; “Hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại...”; “Một ít nữa các con sẽ thấy Thầy, một ít lâu nữa các con sẽ chẳng thấy Thầy, vì Thầy về cùng Cha....”

 Các phụ nữ ra viếng mồ, thấy mồ trống, khiến các bà sợ hãi vì các bà vẫn chỉ mang trong đầu cái chết ghê sợ của Thầy, và chính các bà là những người đã chứng kiến người ta chôn Thầy trong mồ và lăn tảng đá bít cửa lại, vì thế đối với các bà, hòn đá lấp cửa mộ chính là dấu chấm hết của một con người, cũng chính vì vậy trong tâm hồn các bà chỉ còn một Chúa Giêsu đã chết, và không còn một chút hy vọng nào.

 Vì suy nghĩ như thế, nên sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần các bà còn đem theo dầu thơm để ướp xác Chúa. Kế đó, các bà thấy hòn đá đã được lăn ra khỏi mộ, không thấy xác Chúa đâu cả, rồi thấy hai người mặc áo trắng đứng đó, song các bà vẫn không thức tỉnh được đức tin. Tác giả Tin Mừng giải thích: Các bà sợ hãi cúi gằm mặt xuống đất, thì hai người kia nói: Sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết?

 Chính vì các bà cúi gằm xuống đất, nên các bà chỉ thấy những sự thuộc về đất chứ không thể nhìn thấy những sự việc ở trên cao, vì chỉ cúi gằm xuống đất nên đức tin của các bà cũng bị giới hạn nơi những sư việc thuộc về con người thuộc về đất, chứ không thể tiếp nhận được một đức tin mạc khải đến từ Thiên Chúa; Và vì các bà chỉ tìm kiếm một Đức Giêsu đã chết ở nơi nấm mồ chết chóc, nên các bà chỉ gặp được sự sợ hãi. Trái lại để đón nhận được niềm tin phục sinh, đòi chúng ta phải ngẩng cao đầu, phải ngước mắt nhìn lên Thiên Chúa để đặt trọn niềm tin nơi quyền năng của Ngài thì chúng ta mới có thể đón nhận được tin vui lớn lao này.

 Trong lúc các phụ nữ còn hoài nghi thì Sứ thần còn nói với các phụ nữ: các bà hãy nhớ lại những gì Người đã nói khi Người còn ở Galilea. Như vậy để đón nhận được tin vui phục sinh thì phải nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã nói về cái chết và sự phục sinh của Ngài, mà Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Ngài sẽ bị nộp vào tay người đời, bị giết chết và ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Nhớ lại ở đây không chỉ là một hồi ức, mà còn là một sư xác tín vào Đức Giêsu và quyền năng của Ngài, Đấng có quyền trên sự sống và sự chết, trên biển cả và âm phủ, trên ma quỷ và thần dữ.

 Thánh Luca cũng cho thấy thái độ của các tông đồ khi đón nhận tin vui phục sinh này có vẻ thận trọng hơn, các ông cũng không dễ tin ngay vào lời các phụ nữ nói, Phêrô trong vai trò người đứng đầu các tông đồ đã chạy ra xem, thì chỉ thấy còn khăn liệm ở đó thôi, ông trở về và giữ sự im lặng để suy gẫm và và chờ đợi để nhận ra ý Chúa và những dấu chỉ của Chúa.

 Các phụ nữ báo tin cho môn đệ Tin Mừng Phục sinh, và các môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng Chúa Phục sinh.

 Những ai tin đã được Chúa biến đổi; Niềm hy vọng và sự can đảm hòa quyện vào nhau; còn kẻ không tin thì tìm cách chối bỏ các chứng cứ, kể cả việc dùng thủ đoạn ! Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Nếu chúng không tin Môisen và các Ngôn sứ thì kẻ chết sống lại chúng cũng chẳng chịu tin đâu.”

 Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).

 Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1Cr 6, 14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?

 Đức Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Đức Kitô và như Đức Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với Đức Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta mà tiến lên. Đức Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.

 Vẫn  mong niềm tin của mỗi chúng ta vào việc Chúa sống lại được cử hành long trọng trong đêm nay – và còn được kéo dài trong suốt 40 ngày tới - sẽ mang lại cho từng người niềm vui và hy vọng để vượt qua những cám dỗ, những rào cản, ... của thế gian khi chúng ta dám đặt niềm tin của chúng ta vào Chúa.
 Xin Chúa ban sức mạnh của Ngài cho ta, hầu biến những hành vi, lời nói hằng ngày của ta thành công cụ Loan báo Tin Mừng Phục sinh và Niềm hy vọng cho con  người và thế giới hôm nay.

 Huệ Minh

-----------------------------

 

PS1-398: CÁC GIA ĐÌNH, HÃY SỐNG LẠI!


“Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, đã sống lại, không còn ở đây nữa”.

Chúa Giêsu đã sống lại như Lời Ngài đã phán trước.

 

Từ thuở tạo thiên lập địa đến nay, có ai trong thiên hạ dám nói rằng mình chết và sau ba ngày sẽ sống PS1-398


Từ thuở tạo thiên lập địa đến nay, có ai trong thiên hạ dám nói rằng mình chết và sau ba ngày sẽ sống lại. Họa chăng, nếu có người nói, thì cũng chỉ là họ ảo tưởng mà thôi. Đằng này, Lời Chúa Giêsu nói là Lời Chân Thật, không ảo tưởng nhưng là một sự thực mà người trần gian không thể hiểu nổi bằng trí khôn con người. Nhưng đối với các tín hữu, những người đã tin, đã yêu mến, và đã sống với niềm tin yêu, thì tin Chúa Kitô phục sinh là nguồn vui, nguồn hy vọng, nguồn sống cao quý cho họ trong cuộc lữ hành trần gian về đến quê hương mới. Nói cách khác, cùng đích của đời sống các Kitô hữu, chính là sự Phục Sinh với Chúa Kitô, để được sống lại và sống vĩnh cửu trong Thiên Chúa.

Để đạt tới cùng đích ấy, chúng ta phải chết từng ngày và cảm nghiệm được niềm vui sống lại cũng từng ngày, ngay khi chúng ta còn đang sống đây, trên dương trần này.

Vâng, vẫn biết rằng: đối với các Kitô hữu công giáo hôm nay, thì việc Chúa Giêsu sống lại là một tín điều, buộc phải tin. Nhưng khổ nỗi, điều gì buộc thì cũng không thoải mái cho bằng điều tự nguyện. Vì thế, từ đức tin “buộc phải tin” đến đức tin “tự nguyện tin”, các tín hữu Chúa đã phải trải qua hành trình “sống niềm tin phục sinh”, cảm nhận được niềm vui kỳ diệu, và cuối cùng là tự nguyện tin và tin tuyệt đối.

          Tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh không phải là niềm tin nói, niềm tin viết, niềm tin giảng dạy thuyết pháp, niềm tin tranh luận phân tích, càng không phải là niềm tin phong trào hay lễ hội, nhưng là niềm tin được thể hiện bằng chính sự anh dũng: dám buông bỏ tất cả, dám hy sinh tất cả, dám chết cả bạc tiền, cả danh dự, cả sự nghiệp, và cả những nhu cầu của cuộc sống thế trần này, để chỉ đổi lấy một sự sống lại ngay lúc này và mai sau.

Ước được sống lại ngay lúc này, là biết mình đang bị giam hãm, đang mất tự do, đang bị nô lệ thần chết, hay đúng hơn, sống mà như đang chết trong tội lỗi.

Tính thời sự, tính hiện tại của Mầu Nhiệm Phục Sinh được những người đạo đức luôn kết hiệp mật thiết với Chúa, luôn chiêm niệm, và đã rút ra được một điều khấn xin quý giá: “Thứ năm thì gẫm: Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho đặng sống lại thật về phần linh hồn”.

Sao không đặt ra câu kinh rằng: “Thứ năm thì gẫm: Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho đặng sống lại với Chúa trên nước thiên đàng mai sau”?

“Ta hãy xin cho đặng sống lại thật về phần linh hồn”. Cách hành văn câu kinh có vẻ cũ kỹ, nhưng chất chứa một ý nghĩa luôn luôn mới, luôn luôn thời sự cho mỗi chúng ta.

Bạn và tôi có thể đã nhận bao nhiêu lời chúc mừng, bao nhiêu tin nhắn, cuộc điện thoại, điện thư với nội dung: “Halleluia. Mừng Chúa Sống Lại” hoặc “Alleluia. Happy Easter” trong ngày Đại Lễ Phục Sinh. Nhưng thử hỏi: có ai mừng lễ tôi, mừng lễ bạn mà dám gửi cho chúng ta câu này “Bạn đã sống lại thật về phần linh hồn chưa?” để nhắc nhở chúng ta rằng: chỉ có “sống lại thật về phần linh hồn” mới là niềm vui chính đáng của tôi, của bạn trong ngày Đại Lễ.

Sống lại thật về phần linh hồn là hãy để linh hồn mình đi ra khỏi nấm mồ tội lỗi ngay hôm nay, không đợi đến lúc chết rồi mới đi ra thì không chắc còn kịp.

Rất thời sự. Hãy khiêm tốn mà nhận thực ra rằng chúng ta đang sống trong những nấm mộ khi ta hãy đang còn sống, ngay hôm nay, ngay phút này.

Vâng, nấm mồ đời tôi, nấm mồ đời bạn, không là những nấm mồ trong tương lai như những nấm mồ hiện tại ở nghĩa trang Bình Hưng Hòa, hay nghĩa trang Giáo Xứ của tôi của bạn – trong đó, thân xác con người đang thối vữa, đang tan biến thành cát bụi chóng vánh, may ra, còn lại cái hộp sọ ghê rợn và vài chiếc xương khô mòn phai dần theo thời gian, năm tháng.

Nhưng nấm mồ đời tôi, nấm mồ đời bạn, là nấm mồ tội lỗi ngay hôm nay đang chôn chặt linh hồn mình. Nấm mồ cứ đầy hơn, cửa mồ mỗi kiên cố hơn, khi chúng ta bằng lòng để cho tội lỗi ngập ngục, khống chế.

Hãy mừng Chúa Sống Lại vì chúng ta, cho chúng ta được sống lại với Chúa. Đừng để rơi vào tình trạng đáng tiếc là chúng ta đang Mừng Chúa Sống Lại như một lễ hội, hơn là mừng biến cố sống lại của chính linh hồn mình.

Vậy như Chúa Giêsu đã sống lại thật và đi ra khỏi mồ, mỗi tín hữu mừng Chúa Phục Sinh của cũng chính là: mừng Chúa Phục Sinh cho chính ta được giải thoát, được sống lại, vậy thì chính mình hãy vui mừng cho mình có những quyết tâm sống lại và ra khỏi mồ, quyết tâm không trở lại nằm trong những nấm mồ tội lỗi nữa.

 Vâng, sống niềm tin và niềm vui phục sinh là khẩn trương ra khỏi những nấm mồ ấy, và không bao giờ trở lại nữa.

Hãy anh dũng bước ra khỏi mồ.

          - Ra khỏi mồ, và không bao giờ trở lại nấm mồ kiêu căng, ích kỷ, tham lam đã từng chôn chặt đời mình chung với cái tôi tự cao tự đại, chung với cái tôi tích cóp mọi sự cho riêng mình, chung với cái tôi tham lam những bó tiền vô nghĩa chất đống chẳng sinh ích lợi gì cho phần rỗi đời mình.

- Ra khỏi nấm mồ dững dưng, hờ hững, cầu an từng chôn chặt đời mình trong tối tăm làm cho mình không thể thoát ra cái ngục tù kinh khủng ấy để nhìn thấy ánh sáng của chân lý, của tình thương, của sự thật, và để nhìn thấy được bao nỗi đọa đày của nhân gian mà bước xuống cứu độ

- Ra khỏi nấm mồ vô cảm, vô tâm từng chôn chặt con tim mình, cho con tim đóng băng lạnh lùng không thể tan chảy, không thể ấm lên nóng lên dù chỉ một chút trắc ẩn, chút chạnh lòng, chút yêu thương bé nhỏ.

- Ra khỏi những nấm mồ nhơ nhớp dưới dáng vẻ sang trọng tiện nghi từng giam hãm đời mình trong thú vui hưởng thụ cái chóng vánh, vội vàng, có đó rồi mất đó, hạnh phúc đó rồi tang thương phủ phàng đó, yêu đó rồi thù đó, tất cả chỉ là nấm mồ ảo tưởng phù du.

- Ra khỏi nấm mồ danh vọng nhất thời kia đi để có thể nhận ra mình là hạt bụi tiểu tốt vô danh… rồi mai kia cũng sẽ về với hạt bụi.

Cách riêng, trong Ba Năm Thánh Hóa Gia Đình và năm nay, chủ đề: Đồng hành cùng các gia đình trẻ, thì thiết tưởng, Mừng Chúa Sống Lại chính là Mừng Gia Đình mình sống lại với Chúa. 

Hãy ra khỏi cái nấm mộ vô trách nhiệm, thiếu tin tưởng, thiếu tình thương, thiếu cảm thông nâng đỡ, ủi an, thiếu cộng tác, thiếu tế nhị với vợ, với chồng, với con cái trong gia đình và với mọi người. Để từ giây phút này đây, giây phút Chúa sống lại, thì mái nhà của chúng ta, gia đình của chúng ta cũng phải sống lại:

- Hãy sống lại tình vợ chồng nồng nàn ấm áp, là hãy khẩn cấp đi ra khỏi nấm mồ lạnh nhạt, ủ dột, chán chường, rồi ngó đông, dòm tây mà sinh ra thất vọng

- Hãy sống lại cái ý nghĩ tốt lành cho nhau, là hãy khẩn cấp đi ra khỏi cái ngục thất của những ý tưởng xấu xa, hồ đồ, vô cớ.

- Hãy sống lại cái tin tưởng tín nhiệm nhau, là hãy bước nhanh ra khỏi nấm mố bất tín, nghi ngờ, xem thuờng, khinh miệt nhau.

- Hãy sống lại những lời yêu, những cử chỉ yêu, những việc làm, những hy sinh vì tình yêu, là bước ra khỏi cái nấm mồ vô cảm, dửng dưng, bất cần, hờ hững.

- Hãy sống lại cái tay bắt mặt mừng, sống lại cái niềm thương nỗi nhớ, sống lại cái mong cái đợi quay quắt lúc đi xa, sống lại cái bận lòng, bận tâm, lo lắng cho nhau, là hãy mau mau đi ra khỏi cái sào huyệt nhốt mình trong cái lãnh cảm không thể có trong cuộc sống chung.

- Hãy sống lại tình cha con, mẹ con, sống lại cái nụ cười thân ái, sống lại cái hiền lành khiêm nhượng, sống lại cái cảm thông trìu mến, sống lại sự thứ tha, khoan dung, sống lại cái tinh thần huynh đệ anh em một nhà, là mạnh dạn bước ra khỏi cái nấm mồ cố đơn phần ai nấy biết, phận ai nấy lo.

- Nhưng cần thiết hơn cả, và khẩn cấp hơn cả,

- Là hãy sống lại đời sống Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến ngay trong gia đình mình, sống lại những giờ kinh nguyện sáng tối với nhau, sống lại những trang Lời Chúa, sống lại cái khao khát đến nhà thờ tham dự thánh Lễ, sống lại cái khao khát lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải,  sống lại đời sống Thánh Thể ngay trong gia đình là bẻ tấm bánh ra mà nuôi sống nhau… sống lại cái gia đình hạnh phúc. Mái nhà là mái ấm của chúng ta, cũng chính là mái ấm của Thiên Chúa ngự trị.

Ước gì các  mỗi chúng ta mạnh dạn tuyên tín: Chúng tôi tôn thờ và tin Đấng Chịu Đóng Đinh trên thập giá, nhưng không phải là tôn thờ và tin vào một người đã chết, nhưng tin vào Người Sống Lại sau cái chết bi thương ấy. Vì thế, chúng tôi hân hoan sống buông bỏ, sống yêu, sống tận hiến đời mình cho tha nhân, hân hoan sống tàn tạ và hân hoan chết vì yêu, hân hoan sống và chết như Đức Ki-tô đã sống và đã chết, vì dám tin rằng chính lúc chúng tôi buông bỏ, hy sinh, dám chết, dám bước ra khỏi mồ… là chúng tôi được vui sống hôm nay và muôn đời.

Nguyện xin ơn Phục Sinh của Chúa Giêsu giúp chúng con anh dũng đi ra khỏi những nấm mồ tội lỗi, để chúng con “đặng sống lại thật về phần linh hồn”, để mỗi gia đình được hân hoan vui mừng trọng đại vì “gia đình chúng con đã sống lại thật về phần linh hồn”, để “gia đình chúng con chính là Gia Đình của Chúa Phục Sinh ngự trị”, “mái nhà của chúng con là Mái Ấm Phục Sinh luôn an bình, hạnh phúc vì chúng con đang sống trong Nước Thiên Chúa ngay hôm nay. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG, Phục sinh 2018

-----------------------------

 

PS1-399: TÌNH NGHĨA


Suy niệm “Sáng Sớm Phục Sinh”

 

Hạnh phúc sâu thẳm và bền bỉ nhất của một người là biết mình không bị bỏ rơi trong khủng hoảng PS1-399


Hạnh phúc sâu thẳm và bền bỉ nhất của một người là biết mình không bị bỏ rơi trong khủng hoảng thử thách, bị quên lãng trong tang thương thất bại, bị bạc đãi khi sa cơ thất thế, nhưng trong hoàn cảnh bi đát nhất, tận đường cùng thê lương nhất vẫn có người chia sẻ tình nghiã. Và Tin Mừng Gioan đã thuật lại hạnh phúc của hai người rất tình nghiã vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, ngay bên phần mộ, đã gặp gỡ, âu yếm gọi tên nhau.

“Bà Maria Mácđala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần măc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu”… Thiên thần hỏi bà: “Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!”. Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với bà: “Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Maria tưởng là người làm vườn liền nói: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”. Đức Giêsu gọi bà: “Maria!”. Bà quay lại và nói bằng tiếng Hípri: “Rápbuni!” (nghiã là ‘Lậy Thầy!’) (Ga 20,11-16)

Đọan Tin Mừng trên đã không chỉ tình nghiã ở khung cảnh, mà còn tình nghiã ở con người và thái độ:

1.   Khung cảnh tình nghiã:

Người ta vẫn nói: khi họan nạn, gian nan mới biết ai tình nghiã, nên đến với nhau ở những hoàn cảnh đau ốm, chết chóc, tìm nhau ở khung cảnh của bệnh viện, nhà xác, mộ phần thì chắc chắn khó có thể tình nghiã hơn, bởi người đời thường tìm nhau chốn vinh quang, quyền thế, khi người này còn hy vọng được người kia cất nhắc, người tìm cơ hội còn đặt kỳ vọng ở người có khả năng “ban ơn mưa móc”.
Thực vậy, hầu hết người ta tìm đến nhau, qua lại “thân thiết” với nhau, tỏ ra “tình nghiã” với nhau khi hai bên còn có lợi, nhưng chỉ cần một bên nhìn ra bất lợi sẽ về mình, nhận ra nguy hiểm sẽ dạt trôi theo mình thì lập tức “tình nghiã đôi ta chỉ thế thôi”. Và đó là câu chuyện thường tình của tình đời, mà ai cũng một lần thấm thía cảm nghiệm.

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức vào ngày thứ ba sau khi Đức Giêsu chết, bà Maria Mácđala hối hả ra thăm mộ Ngài. Chắc chắn bà thương nhớ Đức Giêsu lắm, và lúc này tình yêu trong bà đột nhiên cháy bùng, khi bà nhớ lại khung cảnh tình nghiã trước mộ phần của Ladarô, em trai bà hôm nào ở Bêtania.

Hôm ấy, Đức Giêsu, người bà thương mến, và cũng thương mến bà đã đến tận Bêtania, nơi chị em bà cư ngụ, cũng là nơi Đức Giêsu cùng các môn đệ thường ghé nghỉ ngơi trên đường truyền giáo. Nghe tin Ladarô bệnh nặng, nhưng Đức Giêsu chỉ về chia buồn cùng hai chị em, sau khi đã an táng Ladarô.

Tuy không về kịp khi Ladarô còn nằm bệnh, nhưng trở về chia buồn hôm ấy, sau khi Ladarô đã chết được bốn ngày, Đức Giêsu đã biểu lộ một tình cảm đặc biệt như Tin Mừng Gioan kể: Trên đường ra viếng mộ, thấy cô Maria “khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng, và xao xuyến. Người hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu?” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem”. Đức Giêsu liền khóc. Người Do Thái mới nói:“Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” (Ga 11,33-36). 

Nhớ lại con người tình nghiã đã đến tận nghiã trang, trước phần mộ, và gọi em mình ra khỏi mồ hôm ấy (x. Ga 11,43), Maria Mácđala bỗng nghe trào dâng trong hồn niềm thương nỗi nhớ, và quặn thắt trong tim cơn đau mất Đức Giêsu, con người tình nghiã, cũng là người bà đã trao dâng hết tình yêu, và sống trọn vẹn tình nghiã của một người môn đệ.

2.   Con người tình nghiã:

Tin Mừng Gioan cho chúng ta biết: “Đức Giêsu qúy mến cô Mácta cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11,5). Và chị em của gia đình này cũng rất tình nghiã với Ngài, đặc biệt là cô Maria. Bằng chứng là Ngài chọn gia đình cô là nơi thân tín, chỗ đáng tin cậy, và năng lui tới nghỉ ngơi. 

Tình nghiã với Đức Giêsu, cô Maria Mácđala không chỉ là người tâm giao, môn đệ trung tín luôn khao khát lắng nghe Đức Giêsu (x. Lc 10,39), mà còn thường xuyên cùng Đức Maria, thân mẫu của Đức Giêsu có mặt trên hành trình truyền giáo của Ngài. Nhưng tình nghiã hơn cả là suốt đường Thương Khó, cũng như dưới chân Thánh Giá giờ hấp hối của Đức Giêsu, cô Maria Mácđala đã luôn có mặt với Mẹ Ngài, và không rời Đức Giêsu một bước (x. Ga 19, 25).   

Qủa thực, không thể chối cãi tình nghiã của cô Maria Mácđala đối với Đức Giêsu, và cũng không thể phủ nhận tình nghiã sâu thẳm Đức Giêsu dành cho người môn đệ nữ này, điều mà Tin Mừng đã cho chúng ta biết, mặc dù có giả thuyết cho rằng có ba cô Maria khác nhau đã được nói đến trong Tin Mừng: Maria người đàn bà tội lỗi đã lấy nước mắt lau chân Chúa và được Chúa tha thứ, Maria quê ở Bêtania, em của cô Mácta và chị của anh Ladarô, người được Đức Giêsu cho sống lại, và Maria Mácđala.

Về vấn đề này, truyền thống của Giáo Hội công giáo từ thế kỷ thứ sáu đã chính thức nhìn nhận Maria Mácđala và Maria quê ở Bêtania, em gái của Mácta và chị của Ladarô là một người, dựa vào những điểm chung giữa “Maria Mácđala, người đàn bà tội lỗi” và “Maria quê ở Bêtania”. Đó là tính đôn đả, mau mắn, chăm chú lắng nghe, và tình cảm sâu đậm gắn bó với Đức Giêsu.

Nhưng điểm quan trọng Giáo Hội dựa vào để qủa quyết Maria Mácđala, người đã lấy nước mắt và tóc lau chân Đức Giêsu và Maria quê Bêtania, em gái Mácta là một, đó là những gì nhận được từ Tin Mừng Gioan:

Phần đầu của trình thuật Ladarô được Đức Giêsu gọi ra từ mồ, thánh sử Gioan đã viết: “Có một người bị đau nặng, tên là Ladarô, quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria. Cô Maria là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh Ladarô, người bị đau nặng là em cô” (Ga 11,1-2).

Và ngay sau đó, ở chương 12, thánh Gioan kể về sự kiện xức dầu thơm tại Bêtania: “Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đến làng Bêtania, nơi anh Ladarô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giêsu; cô Mácta lo hầu bàn, còn anh Ladarô là một trong những kẻ cùng  dự tiệc với Người. Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và qúy giá  xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. Một trong các môn đệ của Đức Giêsu là Giuđa Ítcariốt, kẻ sẽ nộp Người liền nói: “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?” (Ga 12,1-5).

Trả lời Giuđa khi ông phàn nàn về việc cô Maria đã lấy dầu thơm đắt tiền mà rửa chân mình, Đức Giêsu đã nói: “Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có, còn Thầy, anh em không có mãi đâu” (Ga 12,7-8).

Nói với mọi người đang dự tiệc điều này, Đức Giêsu đã công khai trao phó cho Maria Mácđala sứ mệnh vô cùng quan trọng, đó là trở lại “tuần tới” để an táng Ngài. Và đó cũng là lý do cô Maria Mácđala đã khóc sướt mướt, khi không thấy xác Đức Giêsu tảng sáng Phục Sinh, khi cô ra mộ với “dầu thơm đã chuẩn bị sẵn” (x. Lc 24,1).

Riêng Tin Mừng Matthêu còn nhấn mạnh hơn sứ mệnh của Maria Mácđala, như củng cố những gì Tin Mừng Gioan qủa quyết qua lời Đức Giêsu: “Cô ấy đổ dầu thơm trên mình Thầy là hướng về ngày mai táng Thầy. Thầy bảo thật anh em: Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô” (Mt 26,12)

3.   Thái độ tình nghiã:

Đức Giêsu luôn tỏ ra tình nghiã với Maria Mácđala. Ngoài những việc làm với tình cảm đặc biệt dành cho cô và gia đình, như cho em trai cô được sống lại, Đức Giêsu còn công khai bênh vực cô trước mọi người, khi họ bực tức, gắt gỏng với cô, vì cô lấy dầu thơm qúy giá, rất đắt tiền đổ trên mình Ngài và lấy tóc mà lau: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghiã… Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng” (Mc 14,6-8).

Cũng với thái độ tình nghiã, Đức Giêsu đã âu yếm gọi tên cô “Maria!” sáng sớm phục sinh, khi cô mếu máo, sụt sùi năn nỉ: “Nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về” (Ga 20,15), vì tưởng Đức Giêsu phục sinh là người làm vườn.

Phần Maria Mácđala, có lẽ không thể tìm thấy người môn đệ nào tình nghiã với Đức Giêsu hơn cô: tình nghiã khi sống, tình nghiã cả khi đã chết rồi; tình nghiã khi còn dong duổi rao giảng cho đám đông khao khát Tin Mừng, tình nghiã cả khi thất thế, bị theo dõi, truy lùng, bắt bớ, hành hình; tình nghiã trong những ngày êm ả, bình an, tình nghiã cả khi sóng gió phũ phàng, ở đó môn đệ phản bội, đồng bào lên án, thế quyền, thần quyền hợp đồng tiêu diệt.

Vì tình nghiã, cô bất chấp mọi nguy hiểm, đe dọa trong những ngày Đức Giêsu bị bắt bớ, tra tấn, đóng đinh, nhưng có mặt trên từng cây số của đường Thánh Giá, và cô là người môn đệ nữ đã sống những giây phút hấp hối kinh hoàng trên Thánh Giá của Thầy mình.

Hôm nay, tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, hơn ai hết cô đã biểu hiện tận cùng của tình nghiã đối với Đức Giêsu đã chết và mai táng trong mồ, và những giọt nước mắt đầm đià tình nghiã trên khuôn mặt gầy sọm vì thương nhớ Thầy của cô đã bất chợt biến thành những nụ hồng hạnh phúc khi cô nhận ra Đức Giêsu, qua tiếng Ngài gọi cô, và niềm vui phục sinh đã vỡ toang trong trái tim ngập tràn tình yêu của người môn đệ đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy, vì tha thiết yêu mến Thầy, khi cô mừng rỡ kêu lên “Rápbuni! - Lậy Thầy!”.

Tuần Thánh, con đường Thương Khó gập ghềnh những ganh ghét, dối trá, hận thù đã dẫn đến Núi Sọ chết chóc với cây thập tự sần sùi những bạo lực vu khống, bất công như được  khép lại, và kết thúc tất cả trong im ắng, thinh lặng của mộ phần thê lương, sầu thảm.

Tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, nghiã trang vẫn vắng vẻ, buồn thương, lặng lẽ. Chỉ có một điều không ai ngờ là “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, và Đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết như Lời Ngài đã hứa.

Chính giây phút không ngờ ấy, tình nghiã giữa Đức Giêsu phục sinh và người môn đệ trung tín Maria Mácđala đã gọi tên nhau: “Maria!” - “Rápbuni, Lậy Thầy!”.

Tên nhau cũng là tên của Thiên Chúa Tình Yêu và tên của con người Tình Nghiã, để từ nay, một kỷ nguyên phục sinh được khai mở, ở đó Thiên Chúa biểu lộ tình nghiã dành cho nhân loại qua ơn cứu rỗi tuôn đổ từ sự chết và sống lại của Ngài, cũng như con người  đáp trả bằng thao thức tìm gặp “Đức Giêsu sống lại” với tình nghiã của con thơ đối với Cha, môn đệ đối với Thầy mình.
Jorathe Nắng Tím

-----------------------------

 

PS1-400: CON ĐƯỜNG KHÔNG BIÊN GIỚI


THỨ BẢY TUẦN THÁNH

 

Trên thế gian này làm gì có “đường không biên giới”, làm gì có con đường bao phủ toàn cõi địa cầu PS1-400


Trên thế gian này làm gì có “đường không biên giới”, làm gì có con đường bao phủ toàn cõi địa cầu, có mặt trong toàn thể thời gian, đến được hết mọi con người, bởi khi nói về đường, người ta nghĩ ngay đến đường ở đâu, đường dài ngắn bao nhiêu, phát xuất từ chỗ nào và dẫn đến chốn nào. Ấy là chưa nói đến: đường dành riêng cho thú vật, cho người đi bộ, cho xe đạp, xe máy, hay cho xe hơi, chưa kể những con đường khác như đường sông, đường biển, đường hàng không… Tắt một lời, đã là đường, ắt phải được giới hạn, định vị bằng một đơn vị đo lường; đã là đường thì không thể thiếu ranh giới, biên cương. Vì thế, khi nói đến “con đường không biên giới”, người ta khó có thể quan niệm đó là con đường của con người, mà thường nghĩ là con đường viễn tưởng huyền hoặc, con đường mơ ước vu vơ.

Nhưng Đức Giêsu đã mở ra con đường không biên giới. Ngài đã mở ra một cách thiết thực bằng con đường Thánh Giá đổ máu và mồ hôi, bị xỉ nhục và vu khống, bị đội mão gai và hnàh hạ, bi lột trần truồng và đóng đinh, bị đâm thủng cạnh sườn, và bị chôn trong mồ như mọi người.

Ngài đã mở ra con đường không biên giới một cách sống động bằng chính con người của Ngài: con người trăm phần trăm, vì Ngài đã nhập thể và làm người như chúng ta: trăm phần trăm vui mừng và hy vọng, trăm phần trăm sầu buồn và lo lắng, trăm phần trăm nhục nhằn và tang thương, trăm phần trăm kiếp người phải đau khổ và phải chết, trăm phần trăm trong thân xác biết đau khi bị đánh đòn, đóng đinh, và xông mùi hôi thối của tử thi trong mồ.

Ngài đã mở ra con đường không biên giới một cách lâu dài và tiệm tiến: khởi đi từ bước thứ nhất ở buổi Tạo Dựng, khi con người được dựng nên với hình ảnh Thiên Chúa và sống hạnh phúc trong ân nghiã Cha - Con với Ngài ( bài đọc 1); rồi Ápraham đuợc gọi lên đường đến nơi Thiên Chúa chỉ cho ông, vì ông được chọn làm tổ phụ một dân riêng “đông như sao trên trời, nhiều như cát dưới biển” (bài đọc 2); tiếp đến là dân riêng được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập và vượt qua biển đỏ mà bàn chân họ vẫn ráo khô (bài đọc 3); nhưng rồi dân riêng ấy quên lời thề đã phản bội và bỏ Thiên Chúa, nhưng dù thế nào đi nữa, Ngài vẫn thương và dắt đưa họ về (bài đọc 4); và mãi mãi Thiên Chúa là nguồn nước làm đã khát cơn khát của dân Ngài (bài đọc 5), cũng như muôn đời Thiên Chúa bảo đảm ơn bình an cho những ai đi trên đường lối của Ngài (bài đọc 6); sau cùng chính Thiên Chúa sẽ đoàn tụ con dân Ngài lưu lạc khắp muôn phương, và đưa tất cả về Đất của Ngài đã chọn cho dân Ngài (bài đọc 7). Và quả thực, Thiên Chúa đã chuẩn bị “Con đường không biên giới” của Ngài bằng một qúa trình rất lâu dài với Dân riêng.

Nhưng con đường ấy Thiên Chúa không thực hiện một mình. Trái lại, Ngài muốn cùng con người thực hiện, để con đường không biên giới ấy trở thành con đường của Thiên Chúa và của con người.

Con đường của Thiên Chúa và của con người, khi Ngôi Lời nhập thể để làm người như con người, và sống, chết với con người, để con người cũng được chết và sống lại, sống mãi với Thiên Chúa. Chỉ với khả năng sống chết cho nhau, thuộc về nhau trọn vẹn, con người và Thiên Chúa mới có thể cùng thực hiện Con Đường cứu độ không biên giới, mà Đức Giêsu mong đợi ấy. 

Qủa thực, khi nói đến “sống, chết với nhau”, người ta hiểu: chỉ có tình yêu mới có thể thúc đẩy hai người chấp nhận sống chết với nhau đến cùng. Khi sẵn sàng sống như con người, và chết cho con người, Đức Giêsu biểu lộ một tình yêu tuyệt đối, khi hiến mạng sống mình cho con người mà Ngài yêu, để Thiên Chúa và con người thuộc về nhau, nên một với nhau, tháp nhập trong nhau, nhất là để con người được sống lại với Ngài để cùng Ngài thực hiện con đường không biên giới, như thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Rôma :

“Anh em không biết rằng: khi chúng ta đuợc dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta cũng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6, 3-5).

Được sống lại như Đức Giêsu đã sống lại, vì chúng ta đã chết với Ngài ở cuối đường tử nạn, nhưng cuối đường tử nạn không là “cùng đường, đường cùng”, cũng chưa là đích tới. Trái lại, cuối đường tử nạn là Con Đường mới được mở ra: con đường không biên giới của Đức Giêsu Phục Sinh, con đường Ngài cùng các môn đệ ra đi từ Galilê, nơi Ngài hẹn gặp các ông sau khi sống lại như trình thuật của thánh Mátthêu: “Sau ngày Sabát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mácđala, và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ” (Mt 28,1). Các bà gặp một thiên thần, và thiên thần lên tiếng bảo các bà: “Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy, như lời Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này : Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28,5-7).

Sứ điệp Phục Sinh của thiên thần rất rõ:

“Người không có ở đây”, vì mộ phần không là chỗ của người sống, nhưng con đường mới là không gian cho người sống sinh hoạt, vì sống là lên đường, sống là bước đi, sống là thực hiện hành trình cuộc đời. “Người cũng không có ở đây”, vì ở đây chỉ là nơi dừng chân, chứ không là đích tới, bởi một con đường không biên giới vừa được mở ra từ biến cố sống lại.

Nhưng “Người đi Galilê”. Galilê là đất của mọi dân tộc ra vào; Galilê là vùng “bỏ ngỏ” cho mọi sắc dân, chủng tộc đi lại; Galilê là miền quy tụ, gặp gỡ của mọi nền văn hoá; Galilê là nơi Đức Giêsu chọn để khai trương con đường cứu độ không biên giới của Ngài, con đường đến với muôn dân của mọi thời, ở mọi nơi; Galilê là điểm hẹn của Đức Giêsu phục sinh với các môn đệ, không phải hẹn để kể chuyện chết chóc, mai táng, nhưng hẹn để sai đi: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dậy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20).

Như thế, biến cố Phục Sinh của Đức Giêsu đã mở ra con đường không biên giới đến với muôn dân của mọi thời, ở mọi nơi, bất phân chủng tộc, mầu da, giai cấp, trình độ, văn hoá, chính kiến… Con đường không biên giới vì không dừng ở một hạn chế nào, không bị ngăn cấm bởi một hàng rào nào, không bị kiểm tra bởi một trạm gác nào, và không phân biệt, kỳ thị, loại trừ bất cứ ai.

Con đường không biên giới khi bao trùm tất cả, toàn bộ, toàn phần thời gian và không gian. Con đường không biên giới khi không một con người nào từ “khai sinh lập địa” cho đến tận thế không có chỗ trên con đường này, và không được chúc phúc, cứu độ, nhờ Lời Hứa “ở lại cho đến tận thế với các môn đệ” trên con đường Truyền Giáo không biên giới đến với muôn dân của Đức Giêsu (x. Mt 28,20).
Thực vậy, mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, trong đó người tín hữu được “dìm mình vào”, như kiểu nói của thánh Phaolô, sẽ chỉ có giá trị khi người tin theo Đức Giêsu đi về Galilê, nơi Đức Giêsu hẹn gặp, để cùng Ngài thực hiện con đường không biên giới “Đến Với Muôn Dân” loan báo Tin Mừng: Chúa đã chết và đã sống lại ! Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất cho nhân loại được sống hạnh phúc đời đời.

Đường Thánh Giá, đường Khổ Nạn, đường Từ Bỏ, tất cả đều dẫn đến “Sáng sớm Phục Sinh”, ở đó, Đức Giêsu sống lại ban Bình An phục sinh của Ngài cho chúng ta (x. Ga 20,19), để chúng ta cùng Ngài lên đường Truyền Giáo, con đường không biên giới của Thiên Chúa và của con người. Chỉ trên con đường Truyền Giáo không biên giới này, chúng ta mới sống trọn vẹn Ơn Gọi Kitô hữu của mình, khi được chết và sống lại với Đức Giêsu.

Jorathe Nắng Tím

-----------------------------

 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây