Suy Niệm Tin Mừng 7 Vọng & PS1 ABC Bài 251-300 Chúa đã sống lại rồi
--------------------------------------------------------
Phúc Âm Năm A:
Phúc Âm: Ga 20,1-9: "Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo
Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. - Ðó là lời Chúa.
--------------------------------------
Phúc Âm Năm B: Mc 16,1-8: "Giêsu Nazarét chịu đóng đinh, đã sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Hết ngày Sabbat, bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Giacôbê và bà Salômê mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ, họ bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta". Khi đưa mắt nhìn, các bà thấy tảng đá đã được lăn ra bên cạnh. Mà tảng đá đó rất lớn. Các bà đi vào trong mồ, thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng, nên các bà khiếp sợ. Nhưng người đó bảo các bà rằng: "Các người đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nazarét chịu đóng đinh: nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Ðây là chỗ người ta đã đặt Người. Các bà hãy đi nói với các môn đệ Người, nhất là với Phêrô rằng: Ở đó các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước". Nhưng các bà chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi. - Ðó là Lời Chúa.
----------------
PS1-251: CHÚA NHẬT PHỤC SINH – Năm B.. 2
PS1-252: Chúa Nhật Phục Sinh. 4
PS1-253: Thời điểm THÍCH TRỒNG HỒNG.. 6
PS1-254: SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT.. 10
PS1-255: Sống Tin Mừng Phục Sinh trong hân hoan. 13
PS1-256: TRỞ NÊN TẠO VẬT MỚI 14
PS1-257: SỰ CHẾT VÀ PHỤC SINH CỦA CHÚA.. 18
PS1-258: Hiện Tượng Phục Sinh. 19
PS1-259: CÁC BÀ TÌM GIÊSU NADARÉT.. 24
PS1-260: NGÔI MỘ LÀ ĐIỂM KHỞI ĐẦU HAY LÀ ĐIỂM CUỐI?. 26
PS1-261: CHÚA VẮNG MẶT.. 27
PS1-262: Niềm tin. 30
PS1-263: Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại. 32
PS1-264: Tin Mừng Phục Sinh (Mc 16,1-7) – Thiên Phúc. 33
PS1-265: Ông đã thấy và đã tin. 35
PS1-266: CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 38
PS1-267: SỐNG NIỀM VUI PHỤC SINH.. 40
PS1-268: CHÚA NHẬT PHỤC SINH.. 41
PS1-269: CHÚA GIÊSU PHỤC SINH.. 43
PS1-270: CÁC KITÔ HỮU TRỢ GIÚP NHAU NÊN THÁNH.. 45
PS1-271: Phục sinh cùng Chúa. 50
PS1-272: ÁNH SÁNG CHÚA KITÔ.. 51
PS1-273: Ngày Thứ Nhất (Chúa Nhật Phục Sinh B) 53
PS1-274: TIN VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA.. 55
PS1-275: ÁNH SÁNG CHÚA KITÔ.. 57
PS1-276: HALLELUIA! - HÃY VUI LÊN! Trâm Thiên Thu. 60
PS1-277: ALLÉLUIA! ALLÉLUIA CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI 63
PS1-278: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT.. 65
PS1-279: Đức tin vào sự Phục sinh của Chúa. 71
PS1-280: Chúa Nhật Phục Sinh. 72
PS1-281: Tảng Đá Đã Lăn Ra. 74
PS1-282: CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI 76
PS1-283: Chúa Nhật Phục Sinh, năm C.. 78
PS1-284: CHÚA NHẬT PHỤC SINH, năm C.. 81
PS1-285: CHÚA NHẬT PHỤC SINH 2001. 85
PS1-286: CHỦ NHẬT PHỤC SINH (15-4-2001) 86
PS1-287: NGÔI MỘ TRỐNG.. 87
PS1-288: “XIN CHO CON ĐÓNG ĐINH VỚI NGÀI”. 91
PS1-289: NẺO ĐƯỜNG TÌM CHÚA PHỤC SINH.. 93
PS1-290: MÀU TÍM – SẮC TRẮNG.. 96
PS1-291: “CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI ! HALLELUYA !”. 98
PS1-292: SỐNG VÀ CHẾT.. 101
PS1-293: TRANG NHẬT KÍ CỦA CHÚA GIÊSU.. 102
PS1-294: Ơn Phục Sinh. 104
PS1-295: Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết 105
PS1-296: Suy niệm của Lm Gioan Phan Văn Định. 106
PS1-297: Bước vào đời sống mới 108
PS1-298: Suy niệm của Lm Giuse Lê Minh Thông. 113
PS1-299: Mộ mở toang. 115
PS1-300: NIỀM TIN VÀO CHÚA PHỤC SINH TGM Ngô Quang Kiệt 117
--------------------------------
18-4-2003
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Cô-lô-xê 3: 1-4
Đức Ki-tô đã chết và đã sống lại. Đó là hai thời điểm vô cùng quan trọng đối với chúng ta. Cái chết của Người đã giúp chúng ta đoạn tuyệt với tội lỗi và sự sống lại của Người đã mở ra một cuộc sống mới cho chúng ta. Trong mấy dòng của thư ngài gửi tín hữu Cô-lô-xê, ngài đã nêu lên nguyên lý của đời sống mới này, là chúng ta phải kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh.
a) Để kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh, chúng ta phải ý thức mình đã được chỗi dậy với Người.
Ý thức mình đã được chỗi dậy với Đức Ki-tô là ý thức sống động do việc nhắc nhở mình đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội và được mời gọi sống những lời hứa rửa tội. Bí tích Rửa tội đã xóa bỏ đi con người cũ của chúng ta. Con người cũ ấy đã bị tội nguyên tổ khống chế, tước đoạt khỏi chúng ta khả năng được nên công chính và ý muốn hướng về Thiên Chúa. Chúng ta sống mà như đã chết rồi. Nhưng nhờ sự chết và sống lại của Đức Ki-tô, qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được phục hồi khả năng và ý muốn đã mất ấy, để sẵn sàng đáp lại lời gọi hãy sống cuộc sống mới trong Thần Khí của Chúa Ki-tô. Nói khác đi, Đức Ki-tô đã lấy lại cho chúng ta một quyền lợi bị tội lỗi chiếm mất, đó là quyền được đứng thẳng (chỗi dậy) trước mặt Thiên Chúa, như con cái chứ không phải như nô lệ hoặc kẻ bị kết án.
Thường biến cố lãnh nhận Bí tích Rửa tội đã trở thành một kỷ niệm quá khứ và dễ bị quên lãng. Giống như tôi được tuyên thệ để trở thành công dân một nước, sống trong quốc gia ấy, thụ hưởng những quyền lợi của quốc gia ấy, thế mà ít khi tôi ý thức bổn phận của mình phải đóng góp xây dựng cho quốc gia ấy. Quên lãng mình đã được rửa tội, được chỗi dậy trong con người mới với Đức Ki-tô, là tình trạng của không biết bao nhiêu người Công giáo. Được chỗi dậy với Đức Ki-tô là một ân huệ cao cả, nhưng chúng ta quên đi ân huệ đó thì làm sao có thể đáp lại ân huệ đó được. Cho nên trước khi mời gọi chúng ta sống đời sống mới, tức là sống kết hợp với Đức Ki-tô, thì thánh Phao-lô thấy trước hết cần phải nhắc nhở chúng ta hãy ý thức điểm khởi đầu để chúng ta đi vào đời sống mới ấy.
b) Phải sống đời sống mới trong Chúa Ki-tô phục sinh như thế nào?
Thánh Phao-lô nêu lên hai điểm thực hành:
1. Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Được nên công chính hóa (justification) theo từ nguyên có nghĩa là quyền được đứng thẳng lên. Sau khi A-đam và E-và phạm tội bất tuân, tội lỗi đã làm cho con người thành kẻ thù của Thiên Chúa, thay vì hãnh diện nhìn thẳng vào Chúa thì lại phải gập xuống và hướng chiều về sự xấu. Thay vì “tìm kiếm những gì thuộc thượng giới” thì con người chỉ đi tìm những gì ở trên mặt đất này. Thay vì tìm kiếm những gì có giá trị vĩnh cửu thì con người chỉ đi tìm những giá trị tạm bợ nơi vật chất chóng qua. Nhưng Chúa Ki-tô đã tới để dẫn đưa nhân loại đi theo một hướng đi mới. Sau Phục sinh, Người thuộc về thượng giới (ngự bên hữu Thiên Chúa) và Người ở đó để chúng ta nhìn lên và tìm kiếm Người.
Trong cuộc sống mới, chúng ta được nhắc nhở phải tìm kiếm Đức Ki-tô nơi thượng giới. Nhưng Thiên Chúa không lấy đi tự do của chúng ta. Do đó, chúng ta vẫn còn ước muốn vương vấn với những gì thuộc hạ giới, coi chúng như là mục đích chứ không phải là phương tiện. Chính Chúa Giê-su cũng cảnh cáo: “Kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó” (Lc 12:34). Kho tàng của chúng ta là Đức Ki-tô. Cứu cánh của chúng ta là Đức Ki-tô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Cho nên lòng chúng ta cũng phải để ở đó.
2. Xác tín rằng sự sống mới của chúng ta đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. Thánh Phao-lô muốn diễn tả vai trò của Đức Ki-tô như thế nào đối với sự sống mới của chúng ta. Khi nói sự sống mới ấy “đang tiềm tàng với Đức Ki-tô” có nghĩa là nó thực sự hiện diện qua một tiến trình biến đổi từ từ, để chờ tới ngày nào đó khi được viên mãn nó sẽ được biểu lộ trọn vẹn và cũng sẽ được ở “bên hữu Thiên Chúa” như Đức Ki-tô vậy. Tiềm tàng không có nghĩa hoàn toàn thụ động. Trái lại là một hợp tác giữa Đức Ki-tô và chúng ta. Phía Đức Ki-tô, Người là khuôn mẫu, đồng thời cũng là chính sự sống mới của chúng ta. Hơi thở thổi vào lỗ mũi A-đam là sinh khí. Hơi thở Đức Ki-tô thổi vào linh hồn chúng ta là chính Thần Khí của Người. Sự sống mới ấy được nuôi dưỡng, được lớn lên là do nguồn sống Ki-tô và việc chúng ta tiếp nhận sự sống ấy.
c) Đức Ki-tô quang lâm là niềm hy vọng chắc chắn
Sự Phục sinh chưa phải là kết điểm, nhưng mở ra cho chúng ta một trời mới đất mới. Khi Đức Ki-tô trở lại để phán xét nhân loại, đó mới là thời điểm sự sống mới của chúng ta được hoàn tất. Vậy thời gian hiện tại cho tới khi chúng ta lìa bỏ thân xác này, chúng ta được mời gọi hãy tích cực cộng tác với ơn cứu độ và để cho mình được biến đổi dần dần nên giống với Đức Ki-tô. Hy vọng được hưởng phúc vinh quang có thể hiện nơi chúng ta hay không là tùy thuộc ở thái độ hợp tác của chúng ta với kế hoạch cứu độ, hay nói khác đi là do chúng ta có thực sự kết hợp với Đấng Cứu Chuộc hay không.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Mỗi ngày lễ Vọng Phục Sinh hoặc khi tham dự lễ Rửa tội, tôi có ý thức lại việc nhận lãnh Bí tích của tôi không? Ý thức ấy có là một nhắc nhở thường xuyên đối với tôi để sống như con cái Chúa không? Nếu không, thì tôi phải làm gì để nhớ?
Lễ Phục sinh không chỉ kết thúc một mùa Phụng vụ, nhưng mở ra cho tôi một chương trình sống đời sống mới. Vậy tôi sẽ thực hiện chương trình ấy như thế nào?
Tôi đã chú tâm vào những gì thuộc hạ giới? Tôi phải làm gì để được tự do đứng thẳng lên làm con Chúa, làm bạn với Chúa Ki-tô?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài hát Phục Sinh.
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
18-4-2003
-----------------------------
Năm B (20-4-2003)
Khi phải đối diện với cái chết của một người thân yêu, chúng ta đều cảm thấy một mất mát không thể nào diễn tả được. Nhiều khi sự mất mát ấy lớn lao đến độ chúng ta không muốn nhìn nhận sự chết là điều có thật. Chắc chắn đã có lần chúng ta nghe người khác nói với chúng ta rằng: người thân của họ đã chết, thế mà họ vẫn nghe thấy tiếng chân bước của người thân ở ngoài vườn hay ngoài hè nhà, vẫn nhìn thấy bóng người thân thấp thoáng trên hè phố... Tưởng như người chết vẫn còn hiện diện đâu đây. Tình yêu và thương nhớ đã làm cho người ta nghĩ và hy vọng như thế.
Nhưng qua câu truyện Tin Mừng thánh Gio-an kể lại hôm nay, khi bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đi thăm mộ Chúa Giê-su, bà không ảo tưởng là Người vẫn còn sống, mà là Người đã thực sự chết vì chính bà đã đứng dưới chân thập giá và đã tham dự cuộc mai táng Người. Với lòng yêu mến, bà chỉ muốn đến đứng trước mộ, tưởng nhớ công ơn người quá cố đã làm cho mình. Trước đây bà đã bị bảy quỷ ám (có thể Kinh Thánh dùng hình ảnh bảy quỷ ám để nói về một chứng bệnh trầm trọng và nan y nào đó bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đã phải chịu). Rồi bà được Chúa Giê-su chữa lành và đi theo Chúa cùng các môn đệ để giúp đỡ công việc truyền giáo của các ngài. Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần khi bà đến gần mộ Chúa, tuy trời vẫn còn tối, nhưng cũng đủ sáng để bà Ma-ri-a nhận thấy tảng đá lấp cửa mộ đã bị chuyển đi rồi. Phản ứng tức thời của bà không phải là cảm thấy hết ưu phiền vì Chúa thực sự không chết, nhưng là lo lắng vì chắc có kẻ nào đến lấy trộm xác Chúa. Thật là chết rồi mà cũng không được yên thân! Tội nghiệp Chúa tôi quá! Bà muốn chia sẻ nỗi lo lắng này với môn đệ của Chúa.
Khi hai môn đệ Chúa là ông Phê-rô và Gio-an nghe bà Ma-ri-a kể lại và chạy đến mộ, hai ông đã nhận ra những dấu vết cho thấy đã xảy ra chuyện gì bất thường. Các băng vải quấn xác người chết được vứt lại ở đó, còn tấm khăn che mặt người chết thì được cuốn lại và để riêng ra một chỗ. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây không phải là những gì các ông thấy trước mắt, mà là một thực tại siêu nhiên các ông sẽ khám phá được ở đằng sau những dấu vết ấy. Thánh sử Gio-an đã mô tả việc khám phá thực tại này bằng một câu thật ngắn gọn, nhưng cũng vô cùng sâu sắc và phong phú. Ngài viết: “Ông đã thấy và đã tin.”
Thấy những băng vải và khăn che mặt là một chuyện. Nhưng nhận ra một điều gì khác nữa qua cái thấy ấy lại là chuyện khác. Thánh sử Gio-an không cho chúng ta biết là qua những gì mắt nhìn thấy, ông Phê-rô có nhận ra được điều gì khác nữa không. Còn chính bản thân Gio-an, ông chia sẻ cảm nghiệm cá nhân của mình, ông đã khám phá ra một điều khác thuộc lãnh vực đức tin, tức là lãnh vực của con tim chứ không phải lãnh vực của đầu óc và kiểm chứng. “Ông đã thấy và ông đã tin.” Ông Gio-an đã di chuyển từ chỗ ông không biết và nghi ngờ đến chỗ ông hiểu biết và tin. Vậy thì bước nhảy vọt của đức tin ấy nảy sinh từ đâu? Chính là do lòng mến của ông đối với Chúa Giê-su. Lòng mến đã giúp cho ông Gio-an chấp nhận những gì Chúa Giê-su nói trước kia và bây giờ ông nhớ lại. Chúa đã giảng cho ông và các bạn nghe về hình ảnh hạt lúa rơi xuống đất phải thối đi mới nảy mầm và sinh được nhiều hạt khác. Chúa đã nói với ông và các bạn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.” Rồi sau biến cố cho La-da-rô sống lại, Chúa đã tuyên bố: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì sẽ được sống muôn đời.” Vậy động lực của lòng yêu mến đã giúp cho bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na không sợ hãi đi đến mộ từ sáng sớm, đã giúp cho ông Phê-rô bước thẳng vào trong mộ mà không ngần ngại, và nhất là đã giúp cho ông Gio-an nhớ lại cũng như chấp nhận tất cả những lời giảng của Chúa Giê-su để nhờ đó ông khám phá ra thực tại Phục Sinh.
Tin vào sự Sống lại của Chúa không chỉ là điều trân trọng giữ cho riêng mình mà thôi, nhưng phải được đem đi chia sẻ cho người khác, phải biến người môn đệ Chúa thành những người làm chứng cho sự Sống lại ấy. Ông Phê-rô và các tông đồ đã rao giảng Chúa sống lại. Ông Phao-lô đã vượt hằng ngàn dặm để công bố Tin Mừng Phục Sinh cho dân ngoại.
Trở lại với chính mình, chúng ta tự hỏi đã học được gì nơi niềm tin vào sự Phục sinh của Chúa? Trong cuộc sống, chúng ta đã bao lần nhìn thấy những dấu vết của mất mát và sự chết, nhưng đồng thời đấy cũng là những dấu vết của Phục sinh. Đó là khi chúng ta mất mát, thất bại. Đó là khi chúng ta có người thân khám phá ra mình bị ung thư. Đó là khi chúng ta có đứa con một bị chết trong tai nạn gây ra do một tên say rượu lái xe vượt đèn đỏ. Tương tự như những băng vải và khăn che mặt để lại trong ngôi mộ Chúa, chúng ta nhìn thấy biết bao nhiêu dấu vết đang hằng ngày để lại trong cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta. Nhưng nếu chúng ta thực sự có đức tin vào cuộc Phục sinh của Chúa, và nhất là nếu chúng ta có lòng yêu mến Chúa, thì chắc chắn chúng ta sẽ khám phá ra thực tại Phục sinh của chính chúng ta. Ước gì chúng ta đều có thể nói được như thánh Gio-an: Tôi đã thấy và tôi đã tin.
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
16-4-2003
-----------------------------
Hoa hồng vốn là biểu tượng của tình yêu. Những dịp lễ như sinh nhật hay Valentine thì những tiệm bán hồng không kịp cung cấp, vì ai cũng muốn tặng hoa hồng để biểu lộ tình thương. Nhưng tại sao hoa hồng lại là biểu tượng của tình thương thì nhiều người sẽ lúng túng không trả lời được.
NỤ HỒNG VÀ GAI NHỌN
Có thể vì hoa hồng đẹp và tỏa hương thơm dịu. Nhưng nhiều loại hoa khác còn đẹp và thơm hơn thì sao?
Riêng tôi thì tin rằng vì hoa hồng có gai. Có lẽ trong vô thức một định luật tình yêu vẫn làm việc. Thiên nhiên vốn có sẵn lẽ đạo. Vậy mà ngày nay các sách vở về “khoa học tình yêu” vất vả lắm mới khám phá ra được. Nào là Erich Fromm, Leo Buscaglia, Robert Johnson, M. Scott Peck. Cứ tha hồ mà tuyên bố về những phát giác mới nhất.
Người trồng hồng thì chẳng mấy khi dược đọc những sách vở về tâm lý tình yêu, nhưng cuốn sách được mở ngay trong vườn rồi còn phải tìm đâu xa. Vừa trồng tỉa tưới bón vừa đọc thơ như ông Võ Phiến:
Anh về viết sách trồng cây
Bao nhiêu sách ấy cây này là anh.
Có nhiều loại hồng lắm. Có loại hồng tí hon (miniature), hồng bụi thấp (shrub), hồng lá trà (hybrid tea) phổ thông nhất, hồng hoa chùm (floribunda và grandiflora), hồng mọc thành cây có thân thẳng (tree rose), và hồng leo tường vi (climber). Mỗi thứ hồng lại mang kiểu cách và màu sắc khác nhau, được đặt những tên đặc biệt, như hồng Hồng Y hoa đỏ rực rỡ, hồng Tĩnh Mặc (tranquility) đưa con người vào cõi trống thảnh thơi, hồng Ngày Mới hay hồng Cảm Hứng Ngọt Ngào với màu vàng óng ả, hồng Huyền Bí với màu hồng nhạt dẫn vào cõi linh thiêng. Thôi thì mỗi hồng một vẻ “mười phân vẹn mười”.
Người trồng hồng vừa cắt tỉa vừa nương rẹ nâng niu những nụ hoa chớm nở qua những cành đầy gai một cách an nhiên thanh thản. Hồng thu hút vì hồng có gai. Tự nhiên thôi. Có gì mà phải suy luận triết lí dài dòng! Và người trồng hồng đang hát lên bài Nụ Hồng (The Rose) của Amanda McBroom theo điệu sáo mà Bette Midler đã hát rất thành công. Bài hát có thể hát trong các lễ cưới cũng đắc ý lắm, vì rất sát tinh thần Tin Vui của Chúa Kitô. Xin phóng dịch để hát theo điệu nhạc trên, và ghi lại đây để tặng những người đã và đang dám nhận trái đắng với gừng cay muối mặn, với thập giá gai đâm, để xây hạnh phúc gia đình. (Bản dịch chung với LM Vũ Hân)
Tình Yêu đó, cuốn hút như sông sâu, xô dập, sậy lau sức yếu.
Tình Yêu đó, sắc bén như mũi dao, đâm vào, rạch tim nứt máu.
Tình Yêu đó, nôn nao cơn đói cồn cào, nhức nhối, đớn đau vô cùng
Tình Yêu Mẹ biết, sẽ thắm như đóa hoa, nhưng con là, hạt cây chịu mục.
Một tâm hồn yếu, không dám tung mở ra, nào được nhìn, niềm vui nhảy múa.
Chìm trong mộng mơ, không dám mở mắt trông, không bao giờ, cơ may đến với.
Này hãy nhìn xem: Ai oán trách lúc bị đoạt, nay đâu biết, sướng vui ban tặng!
Một tâm hồn yếu, không dám vui chết đi, không bao giờ, được sống tròn đầy.
Màn đêm rủ xuống, sao quá cô đơn, con đường thật dài, chìm trong tăm tối.
Tình Yêu đó, ai ví như mưa rơi, cho ai may được, hay ai lấn hấng.
Này con hãy nhớ: Gió rét buốt tước trụi cành, tuyết lớp lớp, lấp chôn muôn vật.
Mầm cây nằm thiếp dưới đất như ngủ yên, nhưng khi Xuân về, trổ sinh NỤ HỒNG.
COI CHỪNG TÌNH YÊU, BƯỚC VÀO LÀ CHẾT ĐẤY
Tình yêu xem ra khủng khiếp thật, xem ra “đầu tắt mặt tối”, “chân lấm tay bùn”, “trầy da tróc vẩy” quá! Không yêu thì cô đơn lạnh lẽo, mà yêu thì vật vã giẫy giụa! Đúng như nhà tu đức Anthony de Mello đã nói: "Coi chừng tình yêu! Bước vào là chết đấy - Beware of love, if you walk into it, it will be the death of you". Và cũng như lơi ca dao Việt, cái vòng danh lợi hay cái vòng tình ái cũng giống nhau lắm.
Cái vòng tình ái cong cong
Kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào.
Muốn hưởng hạnh phúc thì phải nếm trái đắng. Nhưng đắng quá nuốt không nổi thì một số người lại toan tính chuyện nhả ra. Ấy cũng bởi nhiều đám cưới chỉ khéo xúi dại bọn trẻ. Nhậu nhẹt cho đã còn bày trò đút bánh ngọt với mi nhau đặng chụp hình cho đủ lễ bộ. Đến khi đã vớ được nhau riết rồi chả thấy ngọt như cứ tưởng bở thì đành “bái bai”.
Biết thế, bây giờ trong nhiều tiệc cưới, thay vì chỉ cắt bánh ngọt không, nhiều cặp trẻ đã thực hành một phong tục Việt là cho nhau nếm muối mặn, diễn tả những cay đắng mùi đời mà cả hai sẽ đương đầu. Trong nghi thức Rửa Tội trẻ em trước đây vẫn có chuyện nhét vào miệng đứa trẻ chút muối. Đứa trẻ nếm phải chất mặn cuộc đời liền khóc thét lên. Nhưng nó cũng đành phải nuốt đi để bắt đầu đi vào trần thế này. Cũng chính vì vậy mà tổ tiên mình, từ thời vua Hùng lập quốc, trước khi biết ăn trầu cau, thì đã có phong tục lấy muối làm lễ cưới hỏi.
Đám cưới mà chỉ đút cho nhau ăn bánh ngọt thì thật là đang đánh lừa nhau. Cứ tưởng bở. Cứ chờ sẽ được ăn ngọt như vậy mãi, cho đến khi không được thì vỡ. Tiệc cưới bây giờ không có trầu cau để công khai nói lên sẵn sàng nghiền nát mình ra để xây hạnh phúc nhau thì ít ra cũng phải có gừng cay muối mặn chứ.
Tay bưng bát muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.
Những thực tập chịu đựng và quên mình này đã trở thành chất phản xạ trong máu người Việt, mang một sắc thái tích cực chứ không tiêu cực thiệt thòi, vì luôn thấy trước được phần thưởng của những thua thiệt này:
Tưởng rằng đá nát thì thôi
Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng.
TIN VUI TÌNH YÊU VÀ TRÁI ĐẮNG (Lễ Phục Sinh)
Biết chấp nhận được trái đắng hay muối mặn thì mới xây được hạnh phúc. Những ngậm đắng nuốt cay, những hy sinh chịu đựng, những thầm lặng quên mình, tất cả đều là những nhân tố cốt lõi làm hoa nở. Đó là con đường của Thầy Chí Thánh đã đi trong những ngày mà theo phụng vụ hội thánh gọi là Tuần Thánh. Có còn con đường nào khác nữa đâu! Con đường này đúng là con đường làm nở hoa theo Lời Chúa, hài hòa lối sống Việt Nam Tất cả mọi thứ cây đều biết sống lẽ đạo là biết thối mục đi để mọc thành cây đơm hoa kết trái, trừ con người cứ lo vơ vét kỹ làm cho cái vỏ ốc của mình mỗi ngày mỗi thêm cứng dầy, khiến gia đình thêm nát bét. Tin Vui của Chúa Giêsu xem ra thật mẫu thuẫn nhưng lại quá đúng với tiến trình tự nhiện của vạn vật.
Hạt lúa nếu không rơi xuống đất và chịu thối mục, sẽ vẫn trơ trọi một mình (Gioan 12:24)
Ai cố giữ mạng sống mình thì sẽ mất, ai vui chết đi sẽ được sống tròn đầy (Gioan 12:25).
Đức Kitô đã bẻ mình ra qua nghi thức bẻ bánh của bí tích Thánh Thể, qua việc quì xuống như đứa nô lệ đầy tớ rửa chân phục vụ những người mình thương, qua việc bằng lòng để bị tước đoạt lột trần và nghiền nát cho chết đi, đúng là "nghiền nát trầu cau" một cách cụ thể. Ba ngày trọng đại nhất của năm phụng vụ cũng đúng là diễn trình xây dựng tình yêu hạnh phúc khi mình bắt đầu dám làm một chuyện gì cụ thể, ngược lại ý thích của mình, ngay trong nhà mình. Và mình sẽ thấy được hoa hạnh phúc đang tươi nở: Mầm cây nằm thiếp dưới đất như ngủ yên, nhưng khi Xuân về, trổ sinh NỤ HỒNG. Và mình bắt đầu bước theo con đường tình của Thầy Chí Thánh:
Bước theo đạo sống vuông tròn
Mang gươm thập giá khơi dòng tình yêu
Con đường nghiền nát trầu cau
Nên màu đỏ thắm nên màu sắt son.
Lm. Dũng Lạc Trần Cao Tường
-----------------------------
Mỗi lần tham dự một thánh lễ an táng, tôi lại thấy xao xuyến cho thân phận và số kiếp con người. Tôi phân vân tự hỏi: “Không biết giờ này thì linh hồn người quá cố ở đâu?” Và rồi đêm nay, sau khi nằm dưới lòng đất lạnh, những người đó sẽ có cảm giác gì? Một mình giữa nghĩa trang đìu hiu, nắng mưa giãi giầu, và đêm đêm nghe những tiếng nỉ non của côn trùng. Nhưng nhất là tôi tưởng tượng ra cái thân xác kia sẽ bắt đầu rữa nát, nứt nẻ, tiêu hao đi để rồi còn lại một bộ xương trắng phau. Và với tháng năm, thì những nắm xương tàn ấy cũng trở về hoàn toàn và hòa tan trong cát bụi. Rồi tôi lại nghĩ đến tôi, một ngày nào đó, đến phiên mình, khi những gì tôi đang nghĩ, đang thấy hôm nay đây cũng sẽ trở thành một sự thật cho chính mình. Vẫn biết rằng, theo đức tin thì sau khi chết linh hồn sẽ về với Chúa, thân xác nằm tạm trong lòng đất để chờ ngày sống lại. Nhưng tự nhiên, những tư tưởng kia vẫn cứ theo tôi mấy ngày liền, và làm tôi thấy rờn rợn, hoang mang và sợ hãi. Vì tuy tin Chúa, nhưng tôi vẫn chỉ là một con người.
Đời người vui ít, buồn nhiều. Ít nụ cười mà lại nhiều nước mắt. Như vậy thì thân phận con người sinh ra, lớn lên, và chết có nghĩa lý gì. Sắc đẹp, danh vọng, học thức, quyền bính, và giầu có để làm gì. Có khác chi một giấc chiêm bao?!!! Mà tại sao chúng ta lại phải sinh ra.
Nhưng có một người mà cái chết của người ấy không đem lại cho tôi những suy nghĩ như trên, ngược lại đã cho tôi một niềm hy vọng và một sức mạnh khiến tôi không bi quan khi nhìn cuộc đời này, và kiếp sống con người. Người ấy và cái chết của người ấy đã đổi mới quan niệm và cái nhìn về giá trị cuộc sống và giá trị sự sống của tôi. Một cách nào đó, con người này cũng không khác gì bao nhiêu người khác đã từng được sinh ra, lớn lên, và chết. Có khác chăng là con người này sinh ra trong một gia đình nghèo và đạm bạc. Vì gia cảnh nghèo mà tuổi thơ đã không một ngày cắp sách đến trường. Ngược lại, ngày ngày giúp đỡ song thân bằng nghề thợ mộc.
Khi trưởng thành vào đời, con người này mang lý tưởng cao, muốn rao giảng cho anh chị em mình một chân lý cứu rỗi. Nhưng vì tư tưởng và đường lối đi ngược lại với quan niệm và lối sống của thế giới và những người đang sống chung quanh, kết quả bị nhóm thượng tế, ký lục và Pharisiêu thù ghét. Cuối cùng thì bị một môn đồ phản trao nộp cho những người ghen tức. Bị kết án bất công, và bị đóng đinh vào thập giá.
Cái chết coi như bất công, vô lý và nhục nhã ấy, mỗi năm vẫn được nhắc nhở. Trải qua hơn 2000 năm, cái chết của con người này đã mang lại một luồng sinh khí mới, một sức sống mới, và tràn trề hy vọng về một tương lại sáng lạn. Nó không ủ dột và đau thương như thân phận và cái chết của con người, nhưng đã trở nên nguồn mạch mang lại sự giải thoát cho nhân loại. Đó là cái chết của Giêsu Nazareth.
Gọi đây là cái chết giải thoát, cái chết mang niềm hy vọng, vì không như những thụ tạo khác, sau khi chết thân xác trở thành cát bụi, và linh hồn trở thành đối tượng của phán xét lành dữ, tội phúc dựa theo những gì đã làm khi còn sống. Trái lại Giêsu đã chết, đã được chôn táng trong mộ đá, nhưng ngày thứ ba đã sống lại. Điều này đã do chính miệng ngài loan báo, và được làm chứng do những nhân chứng đáng tin cậy: “Rồi Chúa Giêsu bắt đầu nói với các môn đệ mình rằng ngài phải lên Giêrusalem và chịu đau khổ ở đó do tay những trưởng lão, tư tế và ký lục và sẽ phải chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21).
Thánh Máccô trong trình thuật về biến cố này đã viết về những gì mà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê, và bà Salômê đã thấy trong buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần. Thánh ký ghi nhận, tảng đá che mồ đã được đẩy qua một bên, và khi bước vào trong, các bà đã thấy một thanh niên nói với các bà: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Giêsu Nazareth chịu đóng đinh, nhưng người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Đây là chỗ người ta đã đặt ngài. Các bà hãy nói với các môn đệ ngài, nhất là với Phêrô rằng: “Ngài đến xứ Galilêa trước các ông. Ở đó các ông sẽ gặp ngài như ngài đã từng nói trước” (Mc 16:6-7).
Thật vậy, chúng ta hãy tưởng tượng nếu thân xác của Chúa Giêsu cũng rữa nát và tan biến vào lòng đất như mọi người, thì niềm tin của chúng ta, theo Thánh Phaolô “sẽ trở thành vô ích” (1 Cor 15:17), và thánh nhân cũng khẳng định rằng những lời rao giảng của ông sẽ “trở thành vô nghĩa” (1 Cor 15:14). Nhưng nhìn vào cuộc đời của Phaolô và cái chết của ông, cũng như cuộc đời của Phêrô, của các Tông Đồ và sau này từng đoàn đoàn, lớp lớp người đã anh dũng chấp nhận cái chết để chứng minh sự sống lại ấy thì đủ thấy rằng sự sống lại của Chúa Giêsu không những đem lại cho con người ơn giải thoát, mà còn ban cho con ngươì sự sống trường sinh khiến nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận và đánh đổi sự sống tạm bợ này để được sự sống ấy. Đây là lý do tại sao các vị tử đạo, những tâm hồn đạo đức sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau, và dù phải chết miễn sao bảo vệ được niềm tin nơi Đức Kitô. Và đó cũng là điều mà chính Chúa Giêsu đã nói với Mátta và Maria khi các bà khóc lóc, thương tiếc người em trai vừa mới qua đời. Các bà đã trách Chúa vì xem như ngài lơ là và không quan tâm đến một người bạn thân của mình. Nhưng ngài đã nói với các bà về niềm tin tưởng nơi sức mạnh phục sinh của người trước đó: “Ta biết nó sẽ sống lại” (Gioan 11:24). Và người bảo các bà: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin ta dù đã chết cũng sẽ được sống; còn ai sống mà tin ta, sẽ được sống đời đời” (Gioan 11:26).
Nhưng vì đây là một mầu nhiệm cao cả và trọng đại, nên những gì chúng ta cảm nghiệm được qua Tin Mừng, thì trí khôn con người không thể giải thích được. Tất cả chỉ được khám phá qua cặp mắt đức tin. Cũng như Chúa Giêsu đã hỏi Mátta trước khi cho em hai bà sống lại “Con có tin như thế không” (Gioan 11:26), và chỉ sau khi bà vững mạnh trả lời: “Lậy Chúa con tin” (Gioan 11:27), lúc đó bà mới được nhìn thấy em mình sống lại.
Theo Thánh Phaolô, giáo lý sống lại của Đức Kitô dựa trên nền tảng ngài là Con Thiên Chúa. Ngài là đấng vô tội. Satan không hề ảnh hưởng gì đến ngài. Việc ngài chịu thương kho và chết là do tình thương yêu nhân loại, và vì muốn trả cái nợ Tổ Tông thay cho nhân loại. Và vì thế, sau khi người ta đã đóng đinh ngài, đã mai táng ngài trong mộ, thì ngài đã chỗi dậy. Thánh Phaolô gọi đó là chiến thắng sự chết hay chiến thắng tội lỗi. Cũng theo thánh nhân, vì tội lỗi không có trong Đức Kitô, nên mầm mống sự chết không có trong ngài. Và việc ngài sống lại vì thế, đem lại cho nhân loại sự sống ân sủng và trường sinh.
Tuy nhiên, con người chúng ta ai cũng phạm tội, và mầm mống sự chết đã có sẵn nên khi thời gian qua, thì bằng cách này hay cách khác chúng ta đều phải chết. Mà một trong những hệ quả của sự chết là thân xác chúng ta sẽ thối rữa trong mồ, và theo tháng năm, thân xác ấy sẽ trở về với cát bụi. Nó chỉ được cho phép sống lại bằng vào quyền năng và sự phục sinh của Chúa Giêsu, đấng đã chiến thắng tội lỗi, và chiến thắng sự chết.
Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Quyền năng ngài đã chiến thắng sự chết và ban cho nhân loại ơn giải thoát và sự sống trường sinh. Nhưng như Thánh Phaolô đã cho biết, cái ảnh hưởng của sự chết kia tiềm ẩn trong ta bằng tội lỗi và đa mê tội lỗi của chúng ta. Vậy để đón nhận sự sống đời đời, và để được sống lại trong ngày sau hết, chúng ta không còn cách gì hơn là chế ngự thói hư, tật xấu, và tránh xa tội lỗi. Chỉ có thế, dù thân xác này có bị thối rữa trong lòng đất nó vẫn được phục sinh toàn thắng cùng với Chúa Giêsu trong ngày ngài ngự đến trong vinh quang, như dấu chỉ của sự phục sinh của ngài mà chúng ta mừng kính hôm nay. Ngài sống lại cho chúng ta và vì chúng ta. Cũng như ngài đã nói với Phêrô và các môn đệ sau khi sống lại, là ngài sẽ đến Galilêa trước và đón các ông, Chúa Giêsu cũng sẽ đến trong vinh quang trong ngày thế mạt để đón chúng ta về Thiên Đàng với ngài, nếu trong cuộc đời này, chúng ta sẵn sàng chết cho niềm tin phục sinh nơi ngài bằng cách vâng giữ những lệnh truyền của ngài, và thực tế nhất, bằng cách xa tránh và chừa bỏ tội lỗi. Vì tội lỗi là mầm mống của sự chết, cũng như nhân đức là hoa trái của sự sống trường sinh và hạnh phúc Thiên Đàng.
T.s. Trần Quang Huy Khanh
-----------------------------
Đây là chứng từ của một Dự tòng khá lớn tuổi mà tôi mãi không quên. Người đàn ông trung niên ấy tìm đến gặp tôi để xin ghi danh học giáo lý. Lý do làm cho ông 'giác ngộ' chân lý thật là lạ lùng: một ngày cách đó hơn sáu tháng, được tham dự tang lễ của một người Công giáo, ông ngạc nhiên khi thấy trước cảnh chia ly tử biệt, dù đậm nét đau buồn và lệ tuôn rơi, người Công giáo vẫn tự tin để hát và hát rất hùng dũng, chân tình. Lời của những bài hát ấy diễn tả về niềm vui và hy vọng vào sự phục sinh đời sau đã đi sâu vào tâm hồn, thôi thúc ông tiếp tục suy tư về những gì đã thấy và đã nghe. Ông đã trao đổi những suy nghĩ của mình với một vài tín hữu mà ông quen biết, và điểm đến cuối cùng là xin được ghi danh học giáo lý khai tâm Kitô giáo tại nhà thờ. Sau này như lời ông thú nhận: "Đầu tôi đã hai thứ tóc, thăng trầm của cuộc đời đều đã trải qua, chứng kiến việc tuyên xưng đức tin vào sự sống đời sau của các tín hữu trong tang lễ hôm đó đã làm tôi thao thức. Đành rằng cái chết là một sự giải thoát nhưng chưa có tôn giáo nào cho con người thấy một hướng đi rõ ràng, đầy hy vọng và thăng hoa như Kitô giáo". Và ông tâm sự: "Thật hạnh phúc khi tìm thấy và được gắn bó phần đời còn lại cùng Chúa của sự sống".
Hôm nay toàn thể Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô. Các bản văn Thánh Kinh đọc trong những ngày này đã và sẽ liên tục nhắc nhở các Kitô hữu về sự kiện trọng đại này. Bốn mươi ngày chay tịnh và Tuần Thương khó đã qua, giờ là lúc cử hành sự sống lại của Chúa trong sự xác tín và niềm vui hân hoan. Nhìn vào gương Đức Kitô là 'Trưởng tử của mọi loài thọ tạo, là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết' người Kitô hữu học được một bài học quý giá là phải trải qua đau khổ để đạt tới niềm vui và hạnh phúc. Từ đau khổ đến hạnh phúc, từ thập giá đến vinh quang là một con đường dài. Phải đi qua con đường ấy mới mong đạt được hạnh phúc thật và là hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc được sống muôn đời với Chúa hằng sống.
Khi cử hành mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Kitô, Giáo hội không chỉ tưởng nhớ mà Giáo hội sống mầu nhiệm ấy trong hiện tại, ngay trong những sinh hoạt phụng tự của mình; còn người Kitô hữu thì sống và cử hành mầu nhiệm ấy trong cuộc đời. Thật vậy, Phục sinh là một thực tại vẫn xảy ra với các Kitô hữu qua những biến chuyển tích cực hằng ngày và được thể hiện qua nét hân hoan, vui tươi của cuộc sống dù vẫn có những khó khăn, đau khổ, và thử thách.
Đức Giêsu đã sống lại, Ngài đã chiến thắng sự chết, sự chết không làm chủ được Ngài, bởi Ngài là Thiên Chúa toàn năng, là Chúa của sự sống. Người Kitô hữu tin vào Ngài và ký gửi cuộc đời trong niềm tin ấy. Trong thánh lễ mỗi ngày, các tín hữu vẫn tuyên bố: "Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến". Lời tuyên bố ấy được thể hiện qua cuộc sống vui tươi, hạnh phúc của đời họ và sẽ được các thế hệ Kitô hữu nối tiếp kéo dài đến ngày cánh chung. Người Kitô hữu đích thực không sống trong phiền muộn và tuyệt vọng. Mọi buồn vui trong cuộc đời đều nằm trong kế hoạch quan phòng và định liệu của Thiên Chúa, họ sẽ luôn sống Đức tin của mình trong niềm vui, trong sự hân hoan và hạnh phúc.
Trong thư gửi giáo đoàn Côlôsê Thánh Phaolô khuyên mọi người hãy hướng thiện để khi "Đức Kitô nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3, 4). Hướng thiện để từ bỏ tội lỗi và gắn bó với Chúa, để cùng chết và Phục sinh với Chúa. Chúa đã sống lại thật, hãy biểu lộ niềm vui ấy trong cuộc sống để làm chứng cho sự Phục sinh của Chúa trong cuộc đời.
Cs. Louis Kim
-----------------------------
Giáo Hội Đông Phương có một tục lệ rất hay và có nhiều ý nghĩa trong ngày mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh. Sau khi việc cử hành các nghi lễ phụng vụ được hoàn tất, người ta phân phát trứng đã làm phép cho mọi người đang tham dự Thánh Lễ trong Thánh Đường, để chỉ rằng, tất cả đều được thông phần trong muôn phúc lành của Chúa trong ngày Đại Lễ. Sau đó người ta chúc mừng nhau và đập trứng. Khi đập trứng, người này xướng: "Chúa Kitô đã sống lại". Người kia đáp lại: "Người đã sống lại thật".
Đập bể trái trứng, gà con chui ra, tượng trưng sự mở cửa mồ của Chúa Kitô, để Người bước ra. Cái trứng cũng chỉ sự sống mới, vì trong cái trứng chứa đựng một mầm sống của con gà con. Khi gà con nở ra khỏi trứng, xuất hiện một tạo vật mới.
Chúa Kitô sống lại, bước ra khỏi mồ cũng có một sự kiện tương tự như thế. Vì Chúa Kitô thực sự đã chịu tử hình và nay Ngài đã phục sinh vinh quang trước nhiều nhân chứng; cũng như cái trứng dường như là một vật chết trước khi nó phát sinh sự sống mới.
I. NIỀM TIN MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH
Qua bốn mươi ngày chay tịnh sám hối chuẩn bị tâm hồn; nhất là trong Tam Nhật Thánh, chúng ta đã diễn lại Thiên Tình Sử đẫm máu của Chúa Cứu Thế, để tưởng niệm mầu nhiệm tình Chúa yêu thương nhân loại. Giờ đây, trong Đêm Cực Thánh này, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, cử hành đêm canh thức với tất cả tâm tình sốt mến của Mẹ Chí Thánh Chúa và các Tông Đồ của Người đang trông đợi vào lời tiên báo "Chúa sẽ phục sinh". Nay đã được thực hiện, bằng tất cả niềm tin kính sùng mộ.
Chúng ta hân hoan long trọng mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh, là chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô vượt qua cõi chết để bước vào nguồn sống mới bất diệt. Chúng ta mừng kính cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên kẻ thù nghịch, là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, để đạt tới cuộc khải hoàn vinh quang vĩnh cửu.
Quả thật, Chúa Kitô đã phục sinh, sự kiện lịch sử này đã được các sử gia đáng tin cậy minh xác, không ai có thể chối cãi được. Cả bốn Thánh Ký đã ghi chép rõ ràng trong Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ, bằng những chứng tích xác thực, đã được các chứng nhân thế giá, từng được diễm phúc chung sống với Chúa. Như Thánh Phêrô đã quả quyết: "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những sự việc Chúa Kitô đã thực hiện trong nước Do Thái và tại Jerusalem, Người là Đấng người ta đã giết chết, khi treo Người trên Thập Giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã cùng được ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại" (Act 10:39-4). Chính Chúa đã tỏ mình cho bà Maria Madalena khi bà tới thăm mồ vào tảng sáng, Người cũng hiện đến với các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly và trên bờ biển Teberia, với hai môn đệ trên đường đi làng Emau. Đặc biệt, Người còn hiện đến với đông đủ các Tông Đồ đang hội họp trong Nhà Tiệc Ly lúc cửa vẫn đóng kín và phán với các ông: "Bình an cho các con!". Rồi Người còn phán bảo riêng với Tôma, kẻ đã không tin vào lời các Tông Đồ khác thuật lại việc Chúa hiện đến với các ông, khi Tôma vắng mặt: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, xem có phải tay Thầy không, lại hãy thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nữa, hãy vững tin". Bấy giờ Tôma mới sửng sốt và sung sướng kêu lên: "Lạy Chúa tôi, lậy Thiên Chúa của tôi!". Chúa Giêsu đáp lại: "Hỡi Tôma, vì con đã trông thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai đã không thấy mà vẫn vững lòng tin" (Jn 20:26-29).
Tất cả chúng ta là những con cái đã được Chúa yêu thương chúc phúc, vì chúng ta đã không thấy mà chúng ta vẫn vững lòng tin vào lời các Tông Đồ và Hội Thánh truyền dạy.
II. HẠNH PHÚC ƠN LÀM CON THIÊN CHÚA
Cũng trong Đêm Cực Thánh này, Giáo Hội muốn chúng ta tưởng nhớ lại hồng phúc chúng ta được làm con Thiên Chúa, nhờ công nghiệp cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô, bằng việc truyền dạy chúng ta ôn lại những lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
Trong ngày đó, chúng ta đã long trọng tuyên thệ: Từ bỏ tội lỗi để được sống sự tự do của con cái Thiên Chúa; từ bỏ mọi quyến rũ của tội lỗi để khỏi bị ách tội lỗi chế ngự; từ bỏ Satan là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi. Đồng thời, chúng ta tuyên xưng niềm tin kính Thiên Chúa là Cha chúng ta và Đức Giêsu Kitô Con Chúa, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria và đã sống lại từ cõi chết, đang ngự bên hữu Chúa Cha; tin kính Chúa Thánh Thần, tin Giáo Hội Công Giáo và tất cả mọi điều Giáo Hội truyền dạy.
Được diễm phúc làm con Thiên Chúa là một ơn cao trọng vô cùng, là căn nguyên mọi ơn phúc Chúa ban cho chúng ta, như lời Thánh Gioan nhắn nhủ: "Anh chị em hãy xem, Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào, để chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa và sự thực là thế" (I Jn 3:1). Bởi vì, chúng ta chỉ là một thụ tạo bất xứng, đã từng là nô lệ dưới quyền thống trị của Satan hỏa ngục và tội lỗi, là kẻ phản bội chỉ đáng Chúa trầm luân hỏa ngục vì án phạt nguyên tội di truyền và muôn vàn tội lỗi riêng chúng ta hằng xúc phạm đến Chúa. Nhưng nhờ công nghiệp sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta đã được tuyển chọn giữa muôn triệu người trên trần gian, được nâng lên hàng con cái Thiên Chúa, để được thừa hưởng lời Chúa hứa, sẽ được phục sinh với Người và lãnh gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho con cái trung thành, trong vinh quang bất diệt với Chúa trên Quê Trời.
III. ĐIỀU KIỆN SỐNG ƠN GỌI LÀM CON CHÚA
Để sống xứng với ơn gọi cao cả làm con cái Chúa và đáng được phục sinh với Chúa Kitô, để hưởng hạnh phúc gia nghiệp vĩnh cửu Chúa đã hứa ban, chúng ta hãy tuân giữ các giáo huấn Chúa dạy và sống theo mẫu gương đời sống Chúa đã thực hiện. Chính mẫu gương đời sống của Chúa Cứu Thế đã là một mãnh lực vô song thu hút, lôi cuốn muôn tâm hồn thiện chí tiến bước theo Chúa, sẵn sàng khước từ tất cả và chính bản thân, để được trở nên môn đệ của Chúa và cố gắng họa lại nơi bản thân và cuộc sống mình chân dung đích thực và sống động của Đấng đã kêu gọi các ngài: "Nếu các con muốn theo Thầy, các con hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy" và Chúa còn nhắn nhủ: "Thầy đã làm gương cho các con, để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm".
Để lập nên giá Ơn Cứu Độ chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải từ khước mọi vinh quang cao cả, nhập thể mặc lốt phàm nhân, mang thân nô lệ, sống đời tôi tá và sau cùng, tự nguyện lãnh nhận mọi ô nhục, xỉ vả, hành xích của cuộc khổ nạn và bản án bất công như một tội nhân trọng phạm bị tử hình trên Thập Giá. Chính nhờ lễ hy sinh đó, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả những ai tin kính thuần phục Người.
Trong một xưởng thợ, cả một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau chê bai Đạo Công Giáo, bọn họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người... Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã dõng dạc lên tiếng: "Phải, vì Đạo Chúa tôi đã mất tất cả!"
Mọi người đều hướng mắt trừng trừng nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: "Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán xóm làng, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê thù ghét. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi biết bao tâm địa xấu xa, những đam mê tật xấu khác nữa... Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến cái tổ ấm yêu đương thành một hỏa ngục. Thì nay, mọi phần tử trong gia đình tôi đã trở nên các Tín Hữu, con cái Thiên Chúa. Như vậy, tôi đã mất tất cả".
Sau hết, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: "Hỡi các bạn, bây giờ các bạn biết Đạo Công Giáo đã làm cho tôi mất những gì rồi. Vậy các bạn hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan chắc chắn với các bạn rằng, các bạn sẽ không phải hối hận đâu".
Kết Luận
Lời Chúa phán dạy chúng ta: "Nếu hạt lúa miến gieo xuống lòng đất mà thối đi, nó chỉ trơ trơ không thể nào sinh được bông hạt; nhưng nếu nó có chịu mục nát, nó mới nảy sinh mầm sống, vươn lên thành cây, trổ sinh bông hạt, đem lại một mùa thu hoạch dồi dào, khiến người thợ gặt được hân hoan vui sướng".
Câu truyện trái "Trứng Phục Sinh" gợi lên cho chúng ta một hình ảnh cụ thể và sống động: Nó như một nấm mồ mà Chúa Kitô đã được mai táng tại đó. Con gà con làm bể chiếc trứng để chui ra, nhắc nhở chúng ta việc Chúa Kitô Phục Sinh bước ra khỏi mồ.
Là con cái Chúa, chúng ta chỉ được hưởng trọn niềm hân hoan trong ngày Đại Lễ mừng mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, khi chúng ta sống đúng với ơn gọi cao cả được làm con cái Chúa, trở nên một tạo vật mới bằng cách quyết tâm từ bỏ tất cả những gì phản với tinh thần Chúa, tin kính mến yêu thực thi tất cả mọi giáo huấn Chúa và Giáo Hội truyền dạy như chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
Lm. Minh Vận, CMC
-----------------------------
chính là sự cứu sống chúng ta (Jn.20:1-9)
Vì thương con người Chúa đã hạ mình xuống thế mặc lấy xác thể của một nhân loại hoàn hảo, một xác thể tinh tuyền đầy năng lực sống trước khi Adong Evà phạm tội và một linh hồn là chính Thiên Tính của Ngài.
Với xác thể Thiên Chúa tinh tuyền ấy, Chúa Kitô đã sẵn sàng hy sinh gánh chịu mọi khổ nhục, mọi xúc phạm, mọi lăng mạ, mọi đòn vọt và hành tội trên thập giá làm nên giá công ơn vô lường cứu chuộc được hết mọi người chúng ta. Chính công ơn ấy đã trở nên năng lực làm phục sinh chính thể xác Ngài sau khi bị giết chết và toàn thể nhân loại trong ngày tận thế.
Với linh hồn thiên tính Chúa cũng đã lấy hết ý chí khiêm hạ vâng phục thánh ý Chúa Cha không đòi quyền ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng chấp nhận như một tôi đòi, nên như một kẻ lệ để lập công cứu rỗi linh hồn thế nhân. Chính công phúc cao cả ấy đã có năng lực phục hồi sự sống lại cho các linh hồn.
Do đó, sự chết và phục sinh của Chúa Kitô chính là năng lực phục hồi sự sống thật cho nhân loại và việc chúng ta long trọng cử hành lễ Chúa Phục sinh đêm nay cùng khắp mọi nơi trên thế giới nói lên điều xác tín đó. "Tôi tin xác loài người sẽ sống lại, tôi tin linh hồn hằng sống vậy. Amen".
Qua Bí tích rửa tội, chúng ta đã được nhận lại làm con Thiên Chúa. Qua Bí tích rửa tội chúng ta cũng được phục hồi ơn thánh, được quyền thừa hưởng nước trời. Qua Bí tích Rửa tội năng lực phục sinh của Chúa Kitô được giữ lại mãi trong Chúng ta và làm động lực giúp chúng ta phục hồi mỗi khi chúng ta lãnh nhận ơn hòa giải.
Vậy để nên như hạt giống, nên như giọt nước mưa, nên như men trong bột, nên người công giáo đầy năng lực "sống thật", chúng ta hãy sống "thân mật" với Chúa, dầu bên ngoài vẫn làm lụng, vẫn ăn uống, vẫn nghỉ ngơi, vẫn xử sự như mọi người, nhưng ý nghĩa cuộc đời và lý tưởng đời sống chúng ta phải sống khác hẳn, sống theo tinh thần Phúc âm:
- Nhiệt thành và sốt sáng trong việc sống đạo.
- Năng tập tành các nhân đức và hãm dẹp các đam mê.
- Sống quảng đại và bác ái với tha nhân.
- Xa tránh những thói hư tật xấu và dục vọng bất chính.
"Sống thật" còn có nghĩa là cuộc sống trần gian này phải sạch tội, phải nên người, phải nên thánh thiện, bởi vì người sống theo đam mê, sống trong tội lỗi thì dù có "sống về thể xác" nhưng kỳ thực họ đã "chết về phần linh hồn" rồi, nên không kễ là "sống thật" nữa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn hiểu được rằng "Năng lực Phục sinh" của Chúa là sức sống mãnh liệt đang tiềm ẩn trong con, giúp con thắng lướt mọi sự dữ, mọi tật xấu và là sức sống giúp con biết sống mỗi ngày một ngay lành và thánh thiện. Amen.
Lm. Thu Băng, CMC
-----------------------------
Tin Mừng Phục Sinh không phải chỉ là Tin Mừng Chúa Kitô Sống Lại…
Đại Lễ Phục Sinh gồm có Lễ Vọng Phục Sinh vào tối hay đêm Thứ Bảy và Lễ Phục Sinh vào chính Chúa Nhật. Các bài đọc được Giáo Hội soạn chọn cho cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, dù là Lễ Vọng Phục Sinh hay Lễ Chúa Nhật Phục Sinh. Riêng bài Phúc Âm của Lễ Chúa Nhật Phục Sinh có thể đọc hai bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan, một bài hợp cho Lễ ban sáng và một bài hợp cho Lễ ban chiều. Bài Phúc Âm Thánh Gioan cho Lễ Phục Sinh được cử hành chiều Chúa Nhật là bài Phúc Âm về hai môn đệ đi về làng Emmau, bài Phúc Âm trình thuật lại những gì đã xẩy ra vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần. Còn bài Phúc Âm cho Lễ Phục Sinh được cử hành ban sáng hay ban ngày là bài Phúc Âm trình thuật về những gì xẩy ra vào buổi sáng, nhất là việc hai tông đồ Phêrô và Gioan được Mai Đệ Liên báo tin thì chạy ra mồ xem sự thể.
Bài Phúc Âm của Thánh Ký Gioan cho Lễ Phục Sinh Chúa Nhật đây có thể nói là bài Phúc Âm tiếp tục các bài Phúc Âm Nhất Lãm của Lễ Vọng Phục Sinh, nhất là bài Phúc Âm của Thánh Ký Luca, bài Phúc Âm ở phần thứ hai cũng là phần cuối cho biết các phụ nữ chạy về báo tin cho các tông đồ và tông đồ Phêrô đã chạy ra mồ. Một điểm giống nhau trong bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm được Giáo Hội chọn đọc cho Lễ Vọng Phục Sinh là các phụ nữ, ở phần đầu của bài phúc âm, đi ra mồ vào ban sáng ngày thứ nhất trong tuần, thấy tảng đá chắn cửa mồ bị lăn sang một bên, và được thiên thần cho biết Chúa Giêsu đã sống lại.
Tuy nhiên, ở phần cuối của bài Phúc Âm, trong khi Thánh Ký Mathêu của chu kỳ năm A cho biết Chúa Giêsu hiện ra với những người phụ nữ này trên đường họ chạy về báo tin cho các môn đệ, và trong khi Thánh Ký Luca của chu kỳ năm C cho biết các bà đã về báo được tin cho các tông đồ, thì Thánh Ký Marcô của chu kỳ năm B ở giữa chu kỳ A và B cho biết kết quả là: “Họ run rẩy khiếp đảm tuôn ra khỏi mồ; và vì quá sợ hãi họ đã không nói gì với ai cả”. Ở đây chúng ta thấy hình như Phúc Âm của Thánh Ký Marcô không hợp với Phúc Âm của Thánh Ký Mathêu và Luca về chi tiết cuối cùng này, chi tiết cho thấy các phụ nữ quả thực có chạy về báo tin cho các môn đệ chứ không phải là “không nói gì với ai cả”. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ ba bài Phúc Âm Nhất Lãm cho Lễ Vọng Phục Sinh, kể cả Phúc Âm Thánh Gioan cho Lễ Phục Sinh Chúa Nhật, (Phúc Âm theo Thánh Mathêu được viết tắt A, tiêu biểu cho chu kỳ phụng vụ năm A, Phúc Âm theo Thánh Marcô được viết tắt B và Luca là C, còn Phúc Âm Thánh Gioan được viết tắt là G), chúng ta thấy các chi tiết rất ăn khớp với nhau như sau:
1. Vào ngày thứ nhất trong tuần có ba người phụ nữ (theo Phúc Âm A, B, C và G) ra mồ, nhưng Mai Đệ Liên ra trước từ khi trời còn tối (G), còn hai bà kia ra sau vào lúc từ sáng sớm (A và C) để xem xét (A), mang theo cả hương liệu (C);
2. Nhưng trước khi ba người phụ nữ ra mồ thì tại mồ đột nhiên xẩy ra một trận động đất và sau đó xuất hiện một vị thiên thần đến lăn tảng đá ra và ngồi trên đó, làm cho đám lính canh mồ của Hội Đồng Do Thái kinh hoàng khiếp sợ đến ngã sấp mặt xuống đất như chết (A);
3. Hai người phụ nữ đến sau trên đường đi đã tỏ ra lo lắng không biết ai sẽ lăn tảng đá chắn của mồ dùm cho các bà hay chăng, song khi các bà ra tới mồ thì mặt trời đã mọc (B), trước hết các bà thấy tảng đá khổng lồ che đậy cửa mồ đã được lăn sang một bên rồi (B và C), cũng như Mai Đệ Liên ra trước đã thấy và chạy về báo tin cho các tông đồ (G); chắc các bà không ở chung với các tông đồ, nhưng biết được nơi các vị ở là Nhà Tiệc Ly, nhưng các bà ở những nơi khác nhau (nhất là trường hợp của Mai Đệ Liên), bằng không, nếu họ ở chung với các tông đồ thì khi Mai Đệ Liên chạy về báo tin cho các tông đồ đã gặp được hai bà kia rồi;
4. Khi hai người phụ nữ đến sau ấy bước vào trong mồ (B và C), trong khi Mai Đệ Liên có thể đã chạy về báo tin cho các tông đồ (G), hai bà này không thấy xác Chúa Giêsu đâu (C), và trong khi suy nghĩ về hiện tượng ấy (C), thì đột nhiên có hai người nam mặc áo chói sáng hiện ra ở ngay bên cạnh họ làm họ sợ hãi sấp mặt xuống đất (C);
5. Hai người nam này nói với họ rằng: “Tại sao các người tìm người sống nơi kẻ chết. Ngài không còn ở đây; Ngài đã sống lại rồi. (Có thể một người nói trước tới đây, rồi tới người còn lại nói tiếp như sau). Hãy nhớ lại những gì Ngài đã nói với các người khi Người còn ở Galilê, đó là Con Người bị nộp vào tay thành phần tội lỗi rồi bị đóng đanh, nhưng sẽ sống lại vào ngày thứ ba” (C); ngoài ra, một trong hai người nam ấy còn nói: “Đừng sợ. Ta biết các người đang tìm Giêsu tử giá, nhưng Ngài không còn đây. Ngài đã sống lại đúng như lời Ngài đã phán hứa. Hãy đến mà xem nơi Ngài đã được chôn táng” (A), hay “Các người đừng có kinh ngạc! Các người đang tìm Giêsu Nazarét, Đấng chịu đóng đanh, chứ gì. Ngài sống lại rồi; không còn ở đây đâu. Hãy đến mà xem nơi Người đã được chôn táng” (B)
6. Được chứng kiến hiện tượng lạ trong mồ, hai bà này cảm thấy hết sức sợ hãi nói không lên lời và không nói với ai (thật ra lúc bấy giờ ở đó cũng chẳng có ai; đám lính canh của Hội Đồng Do Thái đã biến mất từ sau cuộc động đất khi trời còn tối trước khi Mai Đệ Liên ra mồ nữa) sau khi cuống lên ra khỏi mồ (B), nhưng bây giờ đi đâu đây, nếu không phải là nên chạy về báo tin cho các tông đồ, đúng như lời các bà được căn dặn: “Vậy hãy đi nói với các môn đệ của Ngài và Phêrô rằng ‘Ngài đi trước các người đến Galilê, nơi các người sẽ thấy Ngài như Ngài đã bảo các người’” (B), hay câu nói tương tự: “Vậy hãy mau đi nói cho các môn đệ của Ngài biết rằng ‘Ngài đã sống lại từ trong kẻ chết và hiện nay đã đến Galilê trước các người, nơi các người sẽ được thấy Ngài’” (A), các bà vừa mừng vừa sợ chạy đi báo tin cho các môn đệ của Ngài (A);
7. Trên đường đi, (chắc là vào lúc hai bà đang hoảng sợ không biết chạy đi đâu, về nhà hay đến với các tông đồ), hai bà đã gặp được Chúa Giêsu hiện ra để trấn an hai bà và để lập lại lời thiên thần nói với hai bà về sứ mạng báo tin Ngài phục sinh cho anh em của Ngài (A);
8. Về đến nơi các tông đồ trú ngụ, các bà đã thuật lại những điều đã thấy và đã nghe ở mồ cho Nhóm 11 tông đồ nghe (C); ở đây có thể Mai Đệ Liên sau khi chạy về báo tin trước đó vẫn chưa ra lại mồ vì các tông đồ chưa chịu tin nên chẳng động đậy gì thì hai bà kia đã về báo tin,
9. Tuy nhiên, với chứng cớ của cả ba người đàn bà, tông đồ Phêrô mới cảm thấy thực sự lấy làm lạ, để rồi không cầm được nữa đứng lên chạy ra mồ (C), và cũng chỉ khi nào vị tông đồ trưởng này đi, tông đồ Gioan mới đi theo, nhưng lại chạy nhanh hơn song không dám vào mồ trước cho tới khi vị trưởng đoàn của mình vào trước mới theo vào sau (G);
10. Khi thấy những dấu tích ở trong mồ, tông đồ Gioan, biểu hiệu cho đức mến (đức mến nhậy cảm hơn đức tin, Gioan đã nhanh hơn Phêrô trên đường đến với Thày), đã tin (G), còn tông đồ Phêrô, tiêu biểu cho đức tin, vẫn còn ngờ ngợ (C);
11. Chắc hai bà kia sau khi về báo tin cho các tông đồ thì không ra lại mồ nữa, trong khi Mai Đệ Liên đã trở lại mồ cùng với (đúng hơn theo sau) hai vị tông đồ Phêrô và Gioan vì hai ông này chạy còn chị bước đi, bởi thế sau khi hai tông đồ này trở về thì Mai Đệ Liên vẫn ở lại một mình ngoài mồ (G);
12. Mai Đệ Liên vì chưa thấy xác của Thày mình đâu nên còn đang lo lắng, muốn biết Thánh Thể của Ngài ở đâu, nhỡ ra bị ai lấy mất và phạm đến Thánh Thể vô cùng cao quí của Ngài cách nào chăng (G); chị lo lắng và buồn khổ đến nỗi vừa đứng khóc bên mồ Chúa vừa nhìn vào trong xem sao, và chị bấy giờ đã thấy hai thiên thần rực rỡ bên trong (G);
13. Vừa lúc trả lời cho hai thiên thần xong, hình như linh cảm thấy có gì xẩy ra bên mình, quay ra, chị thấy được chính Đấng chị đang nức nở tìm kiếm mà chị lại cứ tưởng là người làm vườn, Đấng đã hỏi chị như hai thiên thần “tại sao chị khóc”, và còn hỏi thêm: “chị đang tìm ai vậy?” (G), chị chẳng những bày tỏ mối quan tâm của chị về Thánh Thể của Chúa như chị đã cho hai thiên thần biết, mà còn hỏi “người làm vườn” này xem có phải chính ông ta đã đưa xác của Ngài đi chăng? (G)
14. Cuối cùng, chỉ sau khi nghe người làm vườn này lên tiếng gọi đến đích danh tên của chị, chị mới nhận ra Người (G), và vì vui mừng quá sức chị tính lăn xả tới phục xuống trước mặt Người (G); việc Chúa Giêsu hiện ra riêng với Mai Đệ Liên là một chứng cớ cho thấy chị không cùng với hai người đàn bà ra mồ sau chạy về báo tin cho các môn đệ, bằng không chị cũng đã gặp được Chúa Giêsu khi Người hiện ra với hai bà này rồi (A);
15. Thế nhưng, Chúa Giêsu muốn hiện ra riêng với Mai Đệ Liên (G) ở đây vào lúc ấy, người phụ nữ đã không tiếc lọ dầu quí giá nhất để xức lên đầu Ngài sáu ngày trước (x Jn 12:1-8), không phải là để trấn an chị như Ngài đã làm trước nỗi sợ hãi hoang mang của hai người phụ nữ ra mồ sau, hay tái xác nhận sứ vụ của các bà như các bà đã nghe thấy ở trong mồ, mà là để biến nỗi đau thành niềm vui cho chị (x Jn 16:20), cũng như để bù đắp tấm lòng của chị lúc nào cũng tỉ mỉ lo lắng cho Ngài, nhất là đã mạc khải cho chị biết cái Bí Mật của Sứ Điệp Phục Sinh cũng là Tin Mừng Phục Sinh, nhờ đó chị đã trở thành chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô Phục Sinh cho chính thành phần chứng nhân tiên khởi của Ngài là các tông đồ (G).
Bí Mật của Sứ Điệp Phục Sinh
Như thế, việc ra mồ của ba phụ nữ vào ngày thứ nhất trong tuần, trước hết là do lòng cảm mến của các bà giành cho Chúa Giêsu, với mục đích để thăm một thi thể vô cùng đáng kính, nhưng không ngờ các bà lại là những người đầu tiên được báo tin Chúa Phục Sinh, như các mục đồng ở Bêlem xưa được các thiên thần báo tin Chúa Giáng Sinh. Tuy nhiên, việc biết tin không phải chỉ để mà biết, song để loan truyền, bởi vì tin này là Tin Mừng Cứu Độ. Dầu sao giữa sứ mệnh của hai bà kia và của Mai Đệ Liên hoàn toàn khác nhau, vì sứ điệp đôi bên nhận được hoàn toàn khác nhau: một đàng từ thiên thần bảo hai bà, một đàng từ chính Đấng Phục Sinh bảo Mai Đệ Liên; và một đàng chỉ là một tin báo qua hai bà về chứng cớ Chúa đã sống lại và tin báo về cuộc hẹn hò gặp gỡ giữa Thày trò với nhau, còn một đàng qua Mai Đệ Liên là Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Hiệp Thông.
Thật vậy, Mai Đệ Liên đã được chính Đấng Phục Sinh trao cho sứ mệnh loan báo Tin Mừng Sự Sống chứ không chỉ là Tin Mừng Phục Sinh về việc Ngài đã sống lại: “Đừng động đến Thày, vì Thày chưa lên cùng Cha. Tốt hơn, hãy đi đến với các anh em của Thày mà nói với họ rằng: ‘Thày đang lên cùng Cha của Thày cũng là Cha của các con, lên cùng Chúa của Thày cũng là Chúa của các con!’” Bởi thế, tin mà hai bà kia về báo cho các tông đồ không hoàn toàn là Tin Mừng Phục Sinh, mà là tin về sự kiện xẩy ra tại mồ, tin về những gì các bà chứng kiến thấy và nghe thấy từ thiên thần là vị sai các bà đi, tin về việc hội ngộ giữa các môn đệ và Chúa Giêsu nơi điểm hẹn Galilê. Phải, chỉ một mình Mai Đệ Liên, sau khi được diễm hạnh Chúa Kitô Phục Sinh tỏ mình ra cho, và mạc khải cho biết nội dung của Tin Mừng Phục Sinh như thế, mới có thể làm chứng về Ngài trước thành phần chứng nhân tiên khởi, bằng câu chị khẳng định với các vị là “Tôi đã thấy Chúa!” (Jn 20:18), rồi sau đó chị mới nói lại cho các vị biết Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Hiệp Thông là những gì Chúa Kitô muốn dùng chị để truyền đạt cho các vị.
Đúng thế, nơi sứ điệp Chúa Kitô Phục Sinh muốn nói cho các môn đệ của Người biết qua trung gian Mai Đệ Liên, một con người thân tình thiết nghĩa với Ngài (x Jn 11:32-33; Lk 10:39,42), không phải chỉ là tin mừng về một hẹn hò gặp gỡ giữa Thày trò sau cơn hoạn nạn khốn khó bi thương, cũng không hoàn toàn chỉ thuần túy là tin mừng về việc Ngài đã sống lại, việc Người đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, mà là tin mừng về chính thân phận được tái sinh của thành phần theo Ngài, thành phần giờ đây, nhờ việc Ngài phục sinh, phục sinh để thông ban Thánh Thần cho các vị vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần (x Jn 20:22), thật sự được trở thành “anh em của Thày” và được làm “anh em của Thày”, đến nỗi, “Cha của Thày cũng là Cha của các con, Chúa của Thày cũng là Chúa của các con”.
“Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) là để cho “những ai chấp nhận Ngài thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Jn 1:12). Và con người thực sự “được quyền làm con cái Thiên Chúa” khi họ được “Đấng làm phép rửa Thánh Thần” (Jn 1:33) tái sinh, vào lúc Ngài sống lại từ trong kẻ chết, thời điểm Ngài bắt đầu tuôn đổ Thánh Thần của Ngài xuống trên họ (x Jn 7:39). Thành phần được tái sinh đầu tiên còn ai khác ngoài chính các vị tông đồ, khi các vị được Ngài thổi hơi trên các vị mà phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Jn 20:22). Để rồi, chính nhờ được tái sinh như thế, thành phần chứng nhân tiên khởi này mới có đủ tư cách và khả năng để sản sinh thần linh (x Lk 24:47-49), bằng việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ (x Mk 16:16) và bằng thừa tác vụ bí tích (x Mt 28:19; Jn 20:23). Đó là lý do trong Mùa Phục Sinh (7 tuần lễ), trọng tâm của các bài Phúc Âm sẽ xoay quanh chủ đề tái sinh để được “sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10) trong Chúa Kitô bởi Thánh Thần và nhờ Giáo Hội.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
-----------------------------
NGƯỜI BỊ ĐÓNG ĐINH CHỨ GÌ?
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Ấn tượng mạnh nhất mà tôi có khi đọc bài tường thuật biến cố Phục Sinh của Mác-cô là mối kinh hãi của các chứng nhân đầu tiên, nhóm phụ nữ ra thăm mồ từ sáng sớm. Không hề che đậy, tác giả Mác-cô đã hầu như cố tình lập đi lập lại mối hoảng sợ này, ‘Các bà hoảng sợ… Người thanh niên liền nói : “Đừng hoảng sợ!”... Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.”. Tại sao họ lại hoảng sợ, tôi tự hỏi: vì họ là phụ nữ chăng? không hẳn (xem Mt. 28,4). Vì người thanh niên mặc áo trắng? Lời chấn an cho thấy chàng không phải là nguyên nhân. Mối hoảng sợ tới từ ngôi mộ trống. Nếu tảng đá cửa mộ được lăn ra và các bà vào tìm thấy xác Người còn đó, chắc hẳn họ đã không khiếp sợ đến thế. ‘Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ dùm ta đây?” Các bà hết hồn hết vía vì “Giê-su Na-da-rét bị đóng đinh… đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đặt Người đây này!”
Câu chuyện về đức Giê-su của Mác-cô kết thúc đột ngột với tường thuật các phụ nữ khám phá ra ngôi mộ trống, và tiếp đó là một bài ngắn gọn ghi nhận một số lần Chúa, trong một sức sống hoàn toàn mới, đã hiện ra cho một số nhân chứng. Đối với tác giả, đây không còn là con người Giê-su mà người ta đã từng biết trước kia nữa, nhưng là một Giê-su được sinh lại trong Thần Khí để không bao giời chết nữa. “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2). Con người Giê-su Na-da-rét cũ đã kết thúc với “Người lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15,37); rồi một khoảng trống vắng lạnh lùng: ngôi mộ, nơi đã đặt xác Người, hoàn toàn trống rỗng; rồi một sức sống mới kỳ lạ xuất hiên và tỏa lan. Như vậy Phục sinh gồm cả hai phần: ‘ngôi mộ trống’ và ‘cuộc sống mới’ bởi Chúa Cha.
Ngôi mộ trống: Thoạt đầu tôi vẫn nghĩ là ngôi mộ trống chỉ là một chi tiết nhỏ không có gì quan trọng. Nhưng rồi khi thấy cả bốn Phúc âm đều đề cập tới quang cảnh này cách rành rẽ tới từng chi tiết - đặc biệt Phúc âm Gio-an - tôi nhận ra nó phải có một ý nghĩa nào khác sâu sắc hơn hẳn một sự kiện vật thể đơn thuần. Đúng vậy, Ngôi mộ trống tượng trưng cho cả một khoảng cách biệt lớn lao và sắc nét giữa một Giê-su đã chết và một Giê-su Ki-tô với sự sống mới trong Thánh Thần. Ngôi mộ trống là biểu hiện sự khác biệt giữa một nhân loại chết trong tội và một nhân loại bừng sống trong tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa. Sự Vượt Qua của đức Ki-tô không chỉ xóa tội (theo cách nói bình dân chúng ta thường dùng), mà là ban cho một sự sống hoàn toàn mới mẻ và kỳ lạ. Ki-tô hữu chúng ta quen gọi sự sống này là ‘sự sống của con cái Chúa’. Nếu hiểu đúng nội dung “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” mà đức Giê-su đề cập tới trong cuộc đối thoại với Ni-cô-dê-mô, thì ta có thể coi ‘ngôi mộ trống’ như thời kỳ thai nghén chờ ngày cho chào đời một tạo vật hoàn toàn mới, như nhiều lần Phao-lô vẫn ví von.
Cuộc sống mới: Phục sinh thường được hiểu là sống lại (trở lại) từ cõi chết. Không hẳn chỉ có thế, hay nói cách khác, còn hơn thế nữa. Phục sinh đúng hơn là sinh lại, là đón lấy sự sống mới trong tình yêu xót thương cứu độ của Thiên Chúa. Giê-su phục sinh, trong nội dung này, quả là một A-đam mới, là người đầu tiên ‘được sinh ra một lần nữa trong Thần Khí’ (Ga 3, 3-8). Chắc chắn Phao-lô đã luôn hiểu Phục sinh theo nội dung này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6,4). Hay ngắn gọn hơn: “Nếu đã cùng chết với đức Ki-tô, chúng ta sẽ cùng sống với Người” (Rm 6,8). Như thế, sống lại từ cõi chết chỉ là phụ; điều chính yếu và quan trọng hơn là cuộc sống mới trong Thần Khí. Phục sinh không chỉ là chỗi dậy, ra khỏi mồ vào ngày thế tận. Phục sinh chính là đời Ki-tô hữu hàng ngày: sống Ki-tô hữu là sống đức Ki-tô Phục sinh. “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1,21) được hiểu trong nội dung này.
Lạy Chúa Phục Sinh, Chúa đã chết trên thập giá, đã tự hủy mình ra như không nơi ngôi mộ trống, nhưng đã được Chúa Cha sinh lại trong Thần Khí cho cuộc sống nghĩa tử mới. Một khi trở thành Ki-tô hữu, chính con cũng đang không ngừng thực hiện các bước đó cho riêng mình. Xin cho con thực thi được trọn vẹn hơn khẩu hiệu con chọn ngày nhận tác vụ linh mục:“Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô”. Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
-----------------------------
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
- Ngôi mộ là điểm cuối của cuộc đời?
Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần… đều phải vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cùng của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.
“Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. (Nguyễn Du)
- Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty?
Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.
- Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh.
Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giê-su đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.
Người biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Người khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên quốc; Người đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới!
Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.
- Phục sinh với Chúa Giê-su
Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đát nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta hãy gắn bó với Chúa Giê-su như chi thể liên kết với thân mình và vững tin vào Người như lời Người mời gọi: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”. (Gioan 11, 25)
Vậy thì cùng với Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta hãy giã từ ngôi mộ giam nhốt chúng ta lâu nay trong tội lỗi. Cùng với Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta hãy cởi bỏ những giây băng, những khăn trùm đầu, những tấm vải liệm ràng buộc gò bó chúng ta bấy lâu nay để vùng đứng lên bước vào đời sống mới. Cụ thể là chúng ta hãy từ bỏ những đam mê tội lỗi vốn trói buộc chúng ta và làm cho đời sống tâm linh chúng ta giẫy chết.
Chúa Giê-su là Đầu của chúng ta đã khải hoàn bước vào thiên quốc, là thân mình của Người, chúng ta chắc chắn sẽ được cùng Người tiến vào cõi vinh quang bất diệt.
Vậy ngay hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu ngày thứ nhất của cuộc đời mới với Chúa Giê-su bằng tiếng reo Alleluia và với niềm vui tràn ngập tâm hồn.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
-----------------------------
Pio X Lê Hồng Bảo
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong suốt 3 năm, Maria Magdala và các môn đệ đi tìm mà không gặp Chúa.
- Maria thì hoang mang một cách rất… phụ nữ: Sợ người ta lấy cắp xác Thầy.
- Phêrô có vẻ “hình sự” hơn: Vào tận nơi quan sát hiện trường mong tìm ra một manh mối nào đó.
- Còn “môn đệ kia” thì không vào tuy ông đến mộ trước, chỉ đơn giản vì “ông thấy và ông tin”. Ông thấy ngôi mộ trống và ông tin Chúa đã sống lại, một Đức Tin không xây dựng bằng hiểu biết về Kinh Thánh mà chỉ nhờ lòng yêu mến Chúa.
Các môn đệ và Maria đã bao nhiêu lần chứng kiến những phép lạ cả thể Chúa làm như: biến nước thành rượu, hóa bánh ra nhiều, đi trên mặt nước, chữa người khỏi bệnh, làm cho kẻ chết sống lại… Lúc ấy, có vẻ như họ cũng đã tin nhưng niềm tin ấy đã bị biến cố tử nạn quật ngã tơi bời. Và bây giờ, Đức Tin của họ đã phục sinh nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu. Không gì có thể đánh bại Đức Tin này nữa, vì nó không cần hỗ trợ bằng phép mầu hay luận chứng. Chỉ đơn giản là “ông thấy và ông tin”, mặc dù lúc bấy giờ Chúa… vắng mặt!
Đang viết những dòng này thì tôi được tin một anh bạn hàng xóm vừa qua đời vì bệnh ung thư bao tử đã đến giai đoạn cuối. Những ngày cuối đời anh đã phải chịu đựng nỗi đau cùng cực khi khối u di căn khắp cơ thể. Cách đây mấy hôm, tôi đến thăm, anh thều thào bên tai tôi: “Anh nói với vợ em chuẩn bị sẵn, thứ Sáu em đi.” Tôi nghe lạnh dọc xương sống: “Sao cậu biết?” Giọng anh ngắt quãng: “Em muốn… cùng chết… với… Chúa…” Và bây giờ, điều ước của anh đã thành hiện thực!
“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta.” (Rm. 6, 8)
Thì ra, anh muốn “cùng chết với Chúa” để được “cùng sống lại với Người”. Tôi tin rằng những ngày cuối đời anh không cầu xin để được lành bệnh mà anh đã can đảm thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Tôi như nhìn thấy anh đang mỉm cười ở đâu đó xa lắm, nơi đó có Lazarô nghèo khổ, có chàng trộm lành, có chị Têrêxa hoa hồng, có các đấng tử đạo… Những người có lẽ chưa từng hưởng một phép mầu cụ thể nào trong suốt cuộc đời họ nhưng họ vẫn tin, bởi vì họ đã “nhìn thấy” sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu. Quả vậy, cho dù trong suốt ba năm rao giảng Chúa Giêsu đã làm bao nhiêu phép lạ, đã giảng dạy bao nhiêu điều thiện hảo; nhưng nếu Người không sống lại thì có lẽ Đức Tin của các môn đệ cũng đã thui chột qua cái chết của Người. Thực ra, không thể không có Phục Sinh bởi vì 33 năm tại thế của Chúa Giêsu đã được xây dựng trên mầu nhiệm Phục Sinh. “Mà nếu Đức Ki-tô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (Cr. 15, 14).
Tôi chợt nhớ chuyện kể của một anh bạn như một trải nghiệm của bản thân anh về sự linh ứng của Chúa Thánh Thần. Anh cho rằng đôi khi anh buột miệng nói những điều không hề chuẩn bị hay suy nghĩ trước đó nhưng lại có tác dụng tâm linh rất đáng ghi nhận. Anh kể:
“Cô L. là mẹ đỡ đầu cho một đứa con của mình nên mình khá thân với gia đình cô. Một hôm mình đến mời đám cưới, bỗng dưng cô trút cho mình hết bao nhiêu nỗi niềm như đã từ lâu không có người tâm sự. Từ chuyện làm ăn lận đận do bị giật nợ, vỡ hụi… Rồi con cái ỷ lại không chịu học hành, chơi game… Cho đến anh chồng theo bạn bè đàn đúm, ăn chơi… Mình không biết làm sao! An ủi thì mình không có khiếu, mà chẳng lẽ cứ ậm ừ cho qua. Mình muốn đánh bài… chuồn:
- Ừ, thì cô cố gắng cầu nguyện nhiều xem sao. Chúa nói: “Ai xin thì sẽ được mà!”
- Em xin hoài mà có được đâu! Đôi khi em như người mất cả niềm tin, cứ muốn buông xuôi tất cả rồi ra sao thì ra…
Chà, lúc này mà mình bỏ về thì hóa ra mình đồng ý với phương án “ra sao thì ra” của cô ấy mất. Mà mình thì chỉ biết nói đong đưa cho vui chứ có biết thuyết phục ai bao giờ. Mình tìm cách đánh câu chuyện theo hướng khác:
- Cô cầu nguyện ở đâu?
- Ở đây, trước bàn thờ này!
- Rồi cô nhìn vào đâu mà cầu nguyện?
- Anh khéo hỏi, thì nhìn lên tượng chuộc tội đó chứ đâu!
- Chà, bức tượng chuộc tội đẹp thật!… - Mình nói lấp lửng. Thế rồi, bỗng dưng như có luồng điện chạy qua óc, mình buột miệng mà không hề có một dự định trước – Mà… cô thấy Chúa Giêsu trên tượng chuộc tội này thế nào? Có vẻ gì là giàu có không? Có vẻ gì là sung sướng không? Có vẻ gì là bình an không?
- Chúa đang chịu nạn thì làm gì mà sung sướng với lại bình an!
- Vậy thì Chúa làm sao cho cô cái mà Chúa không có?
- Nói như anh thì người ta cầu nguyện làm gì? Người ta xin gì cùng Chúa?
- Thì… xin được đau khổ như Chúa, xin chịu nhục nhã như Chúa, xin bị phản bội như Chúa…
Nói xong mà mình chưa kịp nhận thức rằng mình vừa nói những điều đó. Cô ta sững sờ nhìn mình rồi thở dài đánh sượt một cái:
- Đó là điều “quái đản” nhất mà em từng nghe!
Vậy mà, ít lâu sau gặp lại mình, cô ta tươi cười hớn hở:
- Chúa nhậm lời em rồi!
- Sao, tụi trẻ lo học rồi hả? Bố nó sao rồi?
- Vẫn vậy anh ạ! Nhưng em bắt chước cách cầu nguyện “quái đản” anh bày đó. Rồi em thấy nhẹ nhõm, em thấy nỗi khổ của mình chẳng là gì cả. Em quên chuyện nợ nần, em nhẹ nhàng nhắc nhở ảnh, em khuyên nhủ con cái… Tuy chưa có gì khả quan nhưng em tin chắc Chúa sẽ thực hiện vào một lúc nào đó Chúa muốn. Chúa cũng phải qua khổ hình Thập giá rồi mới phục sinh vinh hiển mà, phải không anh?
Thế là, chính cô ta đã dạy ngược lại mình một bài học Đức Tin!”
Lạy Chúa Giêsu, có nhiều lúc con tưởng chừng như Chúa vắng mặt trong cõi đời này: Khi cái ác lên ngôi, khi người lành gặp nạn, khi những người tin Chúa bị bách hại, khi Hội Thánh Chúa bị sỉ nhục, khi bản thân con bị đọa đày, khi sự dữ hoành hành khắp nơi… Xin cho chúng con đừng hoang mang như Maria Magdala hay lo “tìm manh mối” như Phêrô, mà hãy ban thêm ơn Đức Tin cho chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết nhìn vào ngôi mộ trống và mạnh dạn tuyên xưng: “Chúa đã sống lại thật rồi. Alleluia!” Amen.
Pio X Lê Hồng Bảo
-----------------------------
Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế, chúng ta cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc sống của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
-----------------------------
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Bất chấp những bài hát, những lời tung hô và những bài giảng tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này vẫn hoàn toàn là mầu nhiệm đối với chúng ta và nó mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho đến khi chúng ta được hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô Phục Sinh. Vì vậy Tin Mừng mà chúng ta vừa mới đọc có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một khoa tâm lý sâu sắc bài Tin Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của các môn đệ sau cái chết của Chúa Giêsu – “người ta đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu”, và nó mời gọi chúng ta phải có một thái độ đúng đắn, thái độ chính yếu mà Chúa chờ mong, đó là đức tin, - “ông đã thấy và đã tin”.
Sự Phục Sinh.
Người ta thường hay nói về sự Phục Sinh trong nhiều trường hợp: thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến bệnh viện đã hoàn sinh trở về. Người ta muốn làm sống lại những truyền thống dân gian hoặc những thói quen tốt đã bị mai một, tất cả những gì đã bị thời gian làm cho mục nát tiêu tan.
Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó chỉ là việc trở lui về quá khứ, tìm lại cái đã mất mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuộc sống của Ngài như trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu tìm lại những con đường xứ Palestine, những đóm lửa ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường, hoặc Ngài tiếp tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc tử nạn chỉ là một sự cắt đứt bất hạnh và tạm thời thôi.
Chúa Kitô đã chết thật sự. Điều này không chỉ có nghĩa là kết thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc và dự tính, như cái chết của mọi con người.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô tìm lại được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia, nhưng là Thiên Chúa ban cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu tuyệt đối mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu Phục Sinh hiệp thông hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên Chúa, với Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là chính mình với thân xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân xác: những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những bài học của một cuộc đời và cả những thử thách, những tương quan, những ký ức…
Mầu nhiệm Đức Tin.
Khi chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô đã Phục Sinh!”. Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự sống của Thiên Chúa và tất cả những gì liên kết Ngài với chúng ta, thay vì kết thúc, đã được thể hiện cách sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả chúng ta nữa, vì thuộc về Chúa Kitô, chúng ta sẽ phục sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang của Ngài.
Phục Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp nhưng là biến cố luôn luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được thấy rõ trên thế giới này, nhất là trong việc thông ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho các môn đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói “đúng thế” mặc dù tôi không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết luận.
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các tông đồ, và sau đó cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ ngày ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua người ta đã nhìn thấy Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống vẫn không ngớt biểu lộ.
-----------------------------
(Trích trong “Như Thầy đã yêu”)
Bà Regina Riley hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm… Bỗng một sáng Chúa nhật, bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng.
Chúng con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đó cụ về. Lạ thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh hoạ cho chúng ta bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacobe, và bà Salome là ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ Giờ đây, Thầy đã nằm yên trong một đá. Còn lại gì? Hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Để vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc 16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó, sứ thần chờ để loan báo Tin Mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại Galile” (x. Mc 16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một tin mừng, không phải bằng lời mà bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu, hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.
Tin Mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa nhật Phục Sinh.
Tin Mừng chính là: Hễ có bình minh là có niềm hy vọng, có trở về là có đôi mới.
Tin Mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng được sống lại với Người.
Tin Mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục Sinh.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng:
Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi, là chúng con đang Phục Sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội niềm tin, là chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại đắng cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống.
Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng Phục Sinh của Chúa. Amen.
-----------------------------
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25) và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước cả người môn đệ được Đức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ, những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala, nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố: ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho bà Maria đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?
2. Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã phục sinh không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.
-----------------------------
PS1-266: CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Ga 20 , 1 - 9
Anh chị em thân mến.
Có lần tôi nhìn thấy một trẻ nhỏ rất dể thương, mọi người đang xúm quanh nó để bồng bế. Bổng nhiên đứa bé có vẽ như khó chịu và khóc lên. Mọi người cố tìm cách cho nó đừng khóc, ngỡ là nó đói, nên có người trao lại cho mẹ nó. Nhưng không phải thế, vì nó vẫn không chịu vật gì cho vào miệng. Người mẹ mới nhìn đứa trẻ một chút, bà mới tìm chay dầu, thoa lên bụng nó. Từ từ tiếng khóc của nó nhỏ dần, rồi dứt hẳn. Dường như nó mệt, nên nó nằm ngủ ngay trên tay của người mẹ. Tôi ngạc nhiên hết sức. Vì bà mẹ trẻ này không phải là một bác sĩ, cũng không phải là một thầy thuốc gì hết, nhưng tại sao bà chỉ nhìn con mình và biết nó đang cần gì.
Tôi chợt hiểu: Chỉ có tình yêu mách bảo cho bà. Thật thế, vì yêu thương con nên bà nhìn thấy những dấu hiệu, và tình yêu thúc bảo bà phải làm gì cho con mình. Ôi tình yêu bao la tuyệt vời.
Bao nhiêu người tới mồ Chúa Giêsu từ sáng sớm. Họ chạy tới, chạy lui, tìm người này người nọ. Nhưng tất cả đều không biết việc gì đã xảy ra, mặc dù họ cũng đã từng nghe câu: "Con người phải chịu đau khổ, chịu chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại". Vậy mà nhìn thấy thế họ vẫn không hiểu biết gì. Vì họ không có thời gian để nhớ, để hiểu những gì đã được nghe. Họ chỉ nghe, sau đó tất cả đều qua đi và không còn chút gì ở lại trong họ. Khi vị tông đồ trẻ chạy đến, ông cũng nhìn thấy tất cả như những người kia. Nhưng Ông thấy và ông tin. Tại sao thế?
Ông có nhìn thấy điều gì khác đâu, làm sao ông có được thái độ khác người như thế ? Chính do tình yêu mách bảo ông. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương nhất, và chắc chắn ông cũng yêu thương Ngài nhiều hơn những ông khác. Những đấu hiệu của tình yêu đã mách bảo ông nên Ông đã thấy và Ông tin. Ông tin những điều Ngài đã nói, tin những việc Ngài đã làm và tin những gì Ngài đã hứa. Ôi sức mạnh của tình yêu.
Mỗi người trong chúng ta có một hoàn cảnh sống. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta phải vất vã đấu tranh để mình được tồn tại. Còn hơn thế nữa, trong đấu tranh sinh tồn, ai cũng muốn cho đời sống của mình mỗi ngày được nâng cao hơn. Nhưng rồi mỗi người cứ làm việc như một cái máy, làm mà không cần suy tư. Có khi nào, chúng ta chợt tỉnh giấc, tự hỏi về mục đích cuộc đời của mình. Cũng được bao nhiêu lần, chúng ta ngồi yên tĩnh để nhìn lại quảng đời mình đã đi qua, xem nó tốt, xấu như thế nào không ? Chắc là rất ít khi chúng ta nhận ra được dấu hiệu của tình yêu trong đời sống hằng ngày của mình. Chúng ta cứ chạy, cứ làm việc, cứ tìm kiếm. Nhưng, những gì mình đã nhận được. - Chúng ta cũng không bao giờ biết. Những gì mình không nhận được. - cũng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Những đều xảy ra bên ngoài, trước mắt chúng ta, vang động bên tai, có khi cũng làm cãn bước chân.
Nhưng tất cả những điều đó cũng không đánh động gì nỗi con người của chúng ta. Vì chúng ta làm, hoạt động, lo lắng, tất cả những đều đó chúng ta chỉ biết lo cho bản thân mình, vì chúng ta chỉ biết yêu có chính mình. Nhớ kỷ mà xem : Chúng ta lo gia đình, nhưng nếu có thành viên nào trong gia đình không chịu vâng theo những ý kiến riêng tư của chúng ta, khi đó phản ứng của chúng ta sẽ ra sao ? hay có ai chỉ trích những việc làm của chúng ta, khi đó chúng ta có thành tâm nhìn lại để điều chỉnh cho đúng. Hay chúng ta vẫn ngoan cố và tìm cách loại địch thủ ra khỏi vòng cuộc sống. Nếu chúng ta đặt để tình yêu trong công việc, thì trong tất cả mọi biến cố xảy đến trong cuộc đời, đều là dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa. Từ những may mắn, những bất hạnh của bản thân hay của những người chung quanh.
Tất cả đều là những dấu chỉ của Tình Yêu mà Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta. Những dấu chỉ này chỉ những người luôn sống trong sự yêu thương bằng chính đời sống hằng ngày, trong tất cả mọi công việc bình thường của mình, họ mới nhận ra được. Còn ai không sống trong tình yêu thương, thì cho dù họ có giàu sang, tài giỏi hay thông minh xuất chúng đi nữa, vẫn không ích lợi gì. Vì họ nhìn mà không biết, nghe mà không hiểu.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên Ngài cũng luôn ban những dấu chỉ tình yêu. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mình biết luôn yêu thương, để tất cả những việc làm đều phát xuất bởi tình yêu. Xin Chúa cũng cho chúng ta được biết nhận ra những dấu chỉ tình yêu của Ngài gửi đến, để biết sống theo những dấu chỉ của Tình Yêu.
-----------------------------
PS1-267: SỐNG NIỀM VUI PHỤC SINH
Ga 20, 1 - 9
Lễ Phục Sinh là một đại lễ của người Công giáo. Đây là ngày của Đức Giêsu, Người "anh" (Trưởng tử) của chúng ta đã phá tan xiềng xích của sự chết và sống lại vẻ vang từ trong nấm mồ. Đây quả thật là ngày của Chúa. Nhưng cũng là ngày của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã chia sẻ hoa quả chiến thắng khải hoàn cho của chúng ta. Vì thế chúng ta hãy mở lòng mình ra để đón nhận niềm vui của ngày đại lễ này.
Bài Tin Mừng tường thuật cho chúng ta về việc Maria Macdala khám phá ra ngôi mộ trống với những mãnh vải liệm bề bộn còn đó. Điều này tự nó chưa phải là bằng chứng xác thực về sự Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là những dấu chỉ gợi mở để dẫn ta đến một niềm tin mạnh mẽ rằng: Đức Giêsu đã thoát khỏi sự ràng buộc của của tử thần và chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận Chúa Phục Sinh.
Chúng ta không thể hiểu hết được niềm vui lớn lao của Đức Giêsu Phục sinh nếu như chúng ta hiểu được cái chết thật sự của Người. Các Tông Đồ, đặc biệt là hình ảnh và thái độ của Maria Madala đã theo chân Chúa trong suốt những chặng đường khổ giá cho phép chúng ta nhìn lại niềm tin của mình vào mầu Phục Sinh và chúng ta đã sống niềm tin ấy như thế nào?
Trước hết, chúng hãy nhìn về cuộc đời và sự biến đổi của Maria Madala. Hành trình đức tin của một cuộc đời với nhiều đau khổ và tủi nhục. Dù Phúc Âm không nói nhiều về bà, chúng ta chỉ biết bà là người ở Macdala và được Chúa Giêsu chữa khỏi bảy quỷ (x.Lc 8,2). Nhưng với chi tiết bà đi ra mồ Chúa lúc mờ sáng và phát hiện ra ngôi một trống. Bao nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta hiểu được tấm lòng yêu mến mà bà đã dành cho Chúa Giêsu.
Nhìn lại những ngày đầu, khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem chịu khổ hình với đông đảo các môn đệ, đặc biệt là Nhóm Mười Hai là những môn đệ thân cận, được Chúa chọn cách riêng để cùng đồng cam cộng khổ với Người. Nhưng kết quả thật phủ phàng, tất cả đều bỏ Chúa, ngay cả Phêrô thủ lãnh của các Tông đồ đã từng thề hứa sống chết với Thầy, nhưng Phúc Âm cho thấy ông là người phản bội Chúa hơn ai hết. Theo Đức Giêsu đến chân thập giá chỉ toàn là phụ nữ ngoại trừ thánh Tông Đồ Gioan (Ga 19, 25). Thật là một điều đáng để chúng ta suy nghĩ. Đến khi Chúa chết, hạ xác và an táng cho Ngài cũng chỉ là những người mà không ai nghĩ là họ trung thành với Chúa.
Đặc biệt là hôm nay, ra mồ viếng Chúa sớm nhất chính là Maria Macdala (Ga 20, 1). Tin Mừng không nói các Tông Đồ và các môn đệ khác ở đâu và đang làm gì nhưng có điều chắc chắn là họ không nôn nao ra thăm mộ Chúa. Còn Maria Macdala, có lẽ suốt đêm qua bà không hề chợp mắt. Trong khi cả thành Giêrusalem ồn ào náo nhiệt ăn lễ Vượt Qua, thì Maria chỉ mong cho trời mau sáng để để có thể ra thăm mồ của Thầy mình, một người Thầy đã cứu vớt và mở ra cho cuộc đời bà một tia hy vọng, một con đường sống. Và lòng trung thành yêu mến Chúa của bà đã được đền đáp. Nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh là một hồng ân đặc biệt, hơn nữa bà còn được Chúa trao cho sứ mạng là loan báo Tin Mừng này cho các Tông Đồ và những người khác.
Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta ít hay nhiều cũng cảm nhận được Chúa đã cứu vớt mình. Nhưng cảm nhận không chưa đủ mà chúng ta phải đáp trả tình thương đó ra sao mới là quan trọng. Giống như Maria Macdala, người phụ nữ của Tin Mừng Phục Sinh đã đáp trả bằng cả cuộc đời mình.
Chúa đã Phục Sinh Cách mấy ngàn năm, nhưng mỗi năm Giáo Hội tưởng niệm, kính nhớ ngày ấy không phải như biến cố đã qua mà còn nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết sống niềm tin đó. Nếu như cuộc sống của chúng ta bị bao bọc bởi ngày thứ tuần Thánh đợm màu tang tóc, thì ngày lễ Phục Sinh sẽ làm tan biến mọi đau khổ, thất vọng và mở ra cho chúng ta một tia hy vọng đằng sau cái chết chính là sự Phục Sinh vinh hiển. Vì khi đặt niềm tin vào Chúa Phục Sinh sẽ dẫn chúng ta đến một sự hoán cải và thay đổi. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh cũng sẽ làm cho chúng ta không còn đặt nặng tìm kiếm những thú vui chóng qua ở đời này. Nhưng niềm tin ấy sẽ làm cho chúng ta quảng đại hơn trong việc hy sinh cuộc sống mình để lo lắng và làm cho mọi người được hạnh phúc.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con hiểu rằng đau khổ và cái chết chì là là chìa khoá mở vào cuộc sống vĩnh cửu. Xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu soi tâm hồn chúng con để xoá tan bóng đêm âm u tội lỗi. Xin Chúa ban bình an Phục Sinh Ngài cho chúng con.
-----------------------------
PS1-268: CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Ga 20, 1- 9
Chúng ta đã trãi qua những ngày kỷ niệm Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, chịu chết để cứu chúng ta. Chúa là Đấng vô tội nhưng đã gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Chúa đã chết vì tội của chúng ta. Chúa đã chết thay cho chúng ta. Nếu Chúa không chết thay cho chúng ta thì chúng ta sẽ phải chết.
Nhưng để cứu chúng ta Chúa Giêsu đã không dừng lại ở cái chết, Chúa đã chiến thắng sự chết và Chúa đã sống lại để cho chúng ta cũng được sống lại với Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về sự kiện sống lại của Chúa Giêsu. Hôm táng xác Chúa vào trong huyệt đá, vì gần đến ngày Sabát nên việc ướp xác Chúa chưa hoàn tất, chỉ mới làm sơ xài thôi; nên qua ngày Sabát, bà Maria Madalêna đã vội vả ra mộ Chúa từ sáng sớm để hoàn tất việc ướp xác Chúa.
Khi đến nơi bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ từ lúc nào rồi, nhìn vào ngôi mộ trống, không còn thấy xác Thầy nữa, Bà liền chạy tìm và gọi ông Phêrô cùng người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến cách đặc biệt. Nghe vậy hai môn đệ Chúa Giêsu chạy đến, có lẻ họ nghĩ rằng ai đó đã lấy mất xác Thầy mình rồi. Chạy đến nơi mộ Chúa, các ông đã quan sát và thấy rõ mọi việc, điều đó làm các ông phân vân.
Tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ, nhìn vào ngôi mộ trống các ông thấy: " các dây băng nhỏ xếp để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ " . Ai đã trộm xác Thầy chăng ? Nếu có kẻ nào đó trộm xác Thầy thì sao các dây băng và vải liệm lại xếp ngay ngắn và gọn gàng như thế. Kẻ trộm xác Chúa là kẻ có ý đồ xấu xa, làm sao lại có thể xếp các dây băng và vải liệm gọn gàng như thế, các thứ này vốn là đồ bỏ đi thì đâu cần phải làm thế đâu. Có một điều gì đó mà các môn đệ Chúa chưa hiểu nên các ông phân vân.
Ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và vải khăn liệm là những dấu chỉ hổ trợ cho niềm tin vào Chúa Phục Sinh của Hội Thánh Công Giáo chúng ta. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp Hội Thánh Công Giáo chúng ta luôn tồn tại với bao thay đổi không ngừng của lịch sử nhân loại.
Điều quan trọng và ích lợi cho chúng ta hơn cả là làm sao chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục Sinh trong đời sống làm kitô hữu của chúng ta đây ?
Chúa đã chết cho chúng ta, nhờ đó chúng ta không phải hư mất đời đời. Chúa đã sống lại để ban sự sống mới cho chúng ta. Sự sống đó sẽ dẫn chúng ta về quê thật của mình là Nước Trời. Phần Chúa, Chúa đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta tất cả rồi! Còn phần chúng ta, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào trong việc đón nhận sự sống đời đời mà Chúa đã ban cho chúng ta ?
Để đón nhận sự sống đời đời, chúng ta cần phải " chết đi " mỗi ngày với những tánh hư tật xấu, những ràng buộc của tội lỗi, những bất xứng trong đời của chúng ta đối với Chúa, đối với tha nhân và với bản thân của mình nữa.
Đồng thời chúng ta cần phải trao dồi những điều tốt đẹp, học hỏi các nhân đức, thấm nhuần những lời dạy của Chúa Giêsu, rập khuôn mẫu đời sống mình theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Làm cho đời sống mình mỗi ngày một sung mãn, phong phú và làm cho đời sống anh chị em chung quanh cũng được sung mãn, phong phú trong sự sống mới mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta.
-----------------------------
Ga 20,1- 9
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và ông đã tin (Ga 20, 8).
Biến cố Chúa Giêsu phục sinh là một sự kiện lịch sử vĩ đại, siêu việt là căn nguyên của niềm tin Kitô giáo. Chính Ngài đã khai mở cho con người một Trời mới, một đất mới và một cuộc sống mới.
Thời sơ khai, để diễn tả Đức Giêsu
(Đấng đã chịu đóng đinh, đã chết nay đã sống lại và đang sống) các sách Phúc Âm đã không ngần ngại dùng những tang chứng vật chất như: Người cho động đến mình, cho xem dấu đinh, ăn uống ... Ngày nay, dựa vào những hiểu biết khoa học, khoa chú giải thánh kinh đã không còn giải thích thánh kinh theo đúng với nghĩa đen của nó nữa. Nhưng điều đó không có nghĩa là gác bỏ đi sự thực hư của việc sống lại, mà là nghĩ đến ý nghĩa của việc Chúa Giêsu sống lại đối với đời sống chúng ta.
Quả thật, nếu nhìn các chứng từ trong thánh kinh như là một sự kiện lịch sử thì không thể làm thoả mãn được sự phục sinh của Chúa Giêsu, bởi ngoài sự kiện lịch sử, biến cố này còn là một biến cố đức tin. Do vậy, sự làm chứng của các Tông đồ (những người đã từng sống với Chúa Giêsu, đã từng xem Ngài là Đấng Messia, và nay lại công bố đã thấy Ngài vẫn sống sau cái chết) có cái gì đó không lịch sử và không thể lịch sử bởi chính sự phục sinh cũng như chính hành vi bước từ sự chết sang sự sống vĩnh cửu chỉ là một thực tại dành cho đức tin, vả lại các Tông đồ không thể tự đứng ra làm chứng cho hành vi này. Vậy điều chúng ta có thể cho là lịch sử chính là ngôi mộ trống và những lần hiện ra.
Ngôi mộ trống
Giá trị làm bằng chứng hiển nhiên của Ngôi Mộ trống nếu tách khỏi ngữ cảnh, tức là sự chứng kiến của các Tông đồ về những lần hiện ra thì vẫn là chi tiết khó chấp nhận, bởi việc khám phá ra ngôi mộ trống được các Phúc Âm thuật lại chẳng có vai trò bao nhiêu trong căn nguyên nảy sinh đức tin của các Tông đồ. Vả lại việc loan báo Tin Mừng thời sơ khai của các Tông đồ đã không nhắc đến cách rõ ràng về ngôi mộ trống. Thực ra, ngôi mộ trống tự mình nó không chứng minh được sự phục sinh, nhưng có lẽ đó là điều kiện cần thiết cho niềm tin của các tín hữu sơ khai ở Giêrusalem.
Những lần hiện ra
Trong Phúc Âm, các lần hiện ra của Chúa Giêsu là những bằng chứng then chốt cho biến cố Phục Sinh của Người. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không phải là hồi sinh trở lại với cuộc sống trước kia của Người. Thân xác Người không thuộc về vũ trụ vật lý. Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cũng không phải là tiếp tục sự sống sau cái chết, nhưng là chiến thắng sự chết, và "Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm con Thiên Chúa với tất cả quyền năng " (Rm1,4). Như vậy, những lần hiện ra cũng chính là Chúa Giêsu , nhưng với một cánh hiện hữu mới. Điều này làm cho ta có thể hiểu tại sao các Tông đồ đã không nhận ra Chúa Giêsu ngay khi Người hiện ra: cô Maria Macđala tưởng là người làm vườn cho đến khi Người gọi tên cô (Ga20,16); hai người môn đệ trên đường Emmau ngộ nhận Người là một Người lạ mặt (Lc 24,31); các môn đệ tưởng là ma(Lc 24,40 )
Và như thế, những lần hiện ra của Chúa Giêsu không phải là những sự kiện hiển nhiên để các Tông đồ nhận biết rằng: người đã hiện ra với họ là chính Chúa Giêsu mà họ đã từng biết trước khi Người chết trên thập giá, rồi sau đó họ tin vào Đấng Phục Sinh là Chúa Giêsu; nhưng là một tiến trình ngược lại, đó là: họ nhận ra sự hiện diện của một người, nhưng họ không biết là ai, và từ sự nhận thấy này, họ bước sang lĩnh vực đức tin nhờ một suy nghĩ về cuộc sống trước đó của họ với Chúa Giêsu, bây giờ sáng tỏ nhờ thánh kinh mà " người đó " giải thích cho. Họ nhận ra kẻ đó chính là Chúa Giêsu sống động, và chính Chúa Giêsu đã chỉ lối cho họ, bắt đầu từ quá khứ của họ, hướng về tương lai bằng cách giao phó cho họ một sứ mệnh: sứ mệnh làm nên Giáo Hội.
Tóm lại:
Sự sống lại của Chúa Giêsu là tín điều sống còn của đức tin kitô giáo, nếu Ngài không sống lại thì biến cố về sự Phục Sinh của Ngài chỉ là thần thoại và kitô giáo trở thành trò lừa bịp mọi người. Các chứng cứ về sự Phục Sinh có thể làm cho họ nghi ngờ, nhưng điều gì đã làm cho các Tông đồ từ những kẻ nhút nhát, sợ sệt lại hăng say ra đi làm chứng cho sự Phục Sinh, dù phải chịu đau khổ, gian nan và cả đến sinh mạng mình?
Vâng, đó chính là vì họ đã nhận ra được Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng đã chịu đóng đinh, đã chết, nay thật sự đã sống lại.
Sự sống lại của Chúa Giêsu còn là nguyên nhân cho sự sống lại của con người, bởi Ngài đã đánh bại sự chết bằng chính mạng sống của mình, và đã Phục Sinh để thân xác chúng ta được sống lại: " Người đã chết và sống lại vì chúng ta" (2Cr5,15). Hơn thế nữa, đ ức tin kitô giáo dạy rằng: " nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô , chúng ta sẽ cùng sống lại với Người " ( 2Tm 2,11). Với niềm tin ấy, người kitô hữu đã tìm được câu giải đáp cho số phận tương lai của mình, và như thế, vấn nạn về sự sống lại của Chúa Giêsu không những là đáng tin mà còn là điều phải tin trong thế giới ngày nay.
Xin cho những người mang danh là kitô hữu cũng biết chết đi chính thân xác mình, tức là chết đi những hận thù, chia rẽ, ghen ghét ... biết luôn tin tưởng, phó thác và sống trong niềm hoan lạc Phục Sinh của Chúa Kitô. Xin cho cuộc sống của mỗi người kitô hữu luôn là chứng nhân cho sự Phục Sinh của Ngài. Amen.
-----------------------------
PS1-270: CÁC KITÔ HỮU TRỢ GIÚP NHAU NÊN THÁNH
Mc 16, 1-8
"Ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì" (Cv 9,7).
Câu nói này của Đức Giêsu Phục Sinh đã dạy cho Saul-Phaolô nhiều điều. Cuộc gặp gỡ Đamát PS1-270
Câu nói này của Đức Giêsu Phục Sinh đã dạy cho Saul-Phaolô nhiều điều.
Cuộc gặp gỡ Đamát đã đánh ngay tâm điểm của lòng tự phụ tự mãn của Saun, khi cho ông thấy là: ông không tự đủ cho ông. Khi còn trai trẻ, còn khỏe mạnh, người ta tưởng không cần ai; thật ra không cần chờ đến tuổi già, hay khi mắc bệnh, cuộc sống của chúng ta là một chuỗi những trợ giúp cống hiến và đón nhận, về vật chất và nhất là về tinh thần. Rõ ràng chúng ta không làm ra bản thân chúng ta. Rõ ràng chúng ta không tự cung cấp cho mình mọi nhu yếu phẩm. Và càng rõ ràng hơn nữa, chúng ta cần được giúp đỡ để sống một đời sống trí tuệ, tinh thần, tâm linh quân bình, phong phú. Thân phận làm người là thân phận lệ thuộc. Điều đó thật đúng với Mẹ Maria: khi nhận mình chỉ là một nữ tỳ hèn mọn, Đức Maria nhìn nhận mình lệ thuộc tuyệt đối vào Thiên Chúa và người khác. Thế nhưng có mấy ai tự do và sống mạnh mẽ được như Mẹ?
1.- Cuộc đời chúng ta là kết quả của muôn vàn ân huệ
Chúng ta trở lại với thánh Phalô, tại Đamát vẫn còn là Saun. Khi ông đã bị mù mắt và té ngã trên đường vào Đamát, người ta đã cầm tay dắt ông vào trong thành. Một thầy rabbi còn trai trẻ, mới đây còn tỏ ra dồi dào sinh lực và sáng kiến, sẵn sàng đương đầu với những thách đố lớn nhất như tiêu diệt giáo phái mới vừa xuất hiện, đã hung hãn đi khắp nơi không mệt mỏi để tróc nã các Kitô hữu, thế mà bây giờ lại cần có người "cầm tay dắt đi vào Đamát". Rõ ràng sự hùng mạnh của con người là một điều quá mong manh. Sức khỏe thể lý, của cải, nhan sắc là những yếu tố nay còn mai mất. Như vậy, không ai có lương tri mà lại đi tự hào về những yếu tố đó như thể chúng là bản chất của mình, chúng là chính mình. Ngạn ngữ Ả-rập có nói: "Khi ta cưỡi một con ngựa đẹp, thì hãy nhớ rằng con ngựa đẹp!" Bởi vì khi một người cưỡi con ngựa đẹp, nếu có nhiều cặp mắt nhìn vào để trầm trồ khen ngợi, thì tự nhiên anh ta lại thấy giá trị của mình tăng theo con ngựa, và dễ dàng đồng hóa sự khen ngợi đó vào chính bản thân mình. Trong khi có một điều đơn giản nhất mà người cưỡi ngựa chưa bao giờ hiểu: chính con ngựa mới là con ngựa đẹp! Đáng tiếc là suốt cuộc đời, ta vẫn cứ ngây ngô đồng hóa mình với bao nhiêu con ngựa như vậy? Tài sản, địa vị, quyền lực, kiến thức, đều là những con ngựa đẹp mà cuộc đời cho ta mượn để giúp nhau nên tốt hơn, và đôi khi cho ta mượn chỉ là để trang sức cho đời ta thêm đẹp, chỉ là để lót đỡ cho ta bớt ê chề, đau đớn, khi gặp những đau khổ trên đường đời. Lâu này, ta quên bẵng đi, cho rằng đó là cái thực của mình! Tấm gương Phaolô cho hiểu là chúng ta đều giới hạn, và đã là giới hạn, thì chúng ta luôn cần đến sự trợ giúp của nhau.
Khi đã vào thành Đamát, Saun lại phải tiếp tục chờ đợi, vì Đức Giêsu Phục Sinh đã nói: "Người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì" (Cv 9,7). Hẳn là Saun không thoải mái gì khi nghe câu nói đó: một con người quen tiên liệu, hoạch định chương trình, mà bây giờ phải chấp nhận những ẩn số, ngồi chờ một chương trình không biết thế nào, và ai là người thông tri cho mình. Rất khó chịu! Về phương diện thể lý, cần phải có Khanania, một người được Đức Chúa Phục Sinh phái đến, đến đặt tay trên Saun, để làm cho những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông, và mắt ông được lành lại. Về phương diện thiêng liêng, Saun càng cần hơn nữa một sứ giả của Chúa, vẫn là Khanania, ban bí tích rửa tội cho. Saun thấy quá rõ: ông không tự đủ cho chính ông. Chúng ta không tự đủ cho chúng ta, vì sẽ có lúc chúng ta cần người này người nọ giúp đỡ để chúng ta được chữa lành chứng này tật nọ, để đưa chúng ta đi sâu vào đời sống trong Hội Thánh.
Sau này, Phaolô sẽ làm chứng về điều đó: "Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?" (1 Cr 4,7). Khi đã gặp Đức Kitô Phục Sinh, Phaolô ý thức rất rõ rằng trọn vẹn cuộc đời và con người của ông là những ân huệ Thiên Chúa ban không, để rồi như ông nói trong Thư 2 Cr, "ông chỉ tự hào về những yếu đuối của ông" (2 Cr 12,5). Và ông đã ghi nhận là Chúa muốn ông khỏi tự cao tự đại, chính Chúa đã muốn ông phải chấp nhận thân phận yếu đuối giới hạn, bằng cách để cho "thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào" (2 Cr 12,7). Ông đã kho chịu lắm, nên "đã ba lần xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này" (2 Cr 12,8). Nhưng Chúa nhất định: "Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối" (2 Cr 12,9). Và Phaolô đã hiểu, con người của ông yếu đuối và giới hạn, nên nếu ông làm được gì là Chúa trực tiếp làm qua ông. Thế là ông reo lên: "Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10).
Ngày trước, một người có thế giá thích nhấn mạnh trên gia đình từ đó ông đã xuất thân. Còn hôm nay, lại là chuyện ngược lại: người có thế giá thích nhấn mạnh trên tình trạng thấp hèn của những bước khởi đầu của họ. Họ muốn cho thấy rằng họ đạt thành công nhờ sức riêng. Họ là những con người tự tạo ra mình.
Cho dù điều này có đúng trong thế giới giao dịch thương mại, hoặc trong thế giới chính trị, hoặc thể thao, chắc chắn nó vẫn không đúng trong đời sống thiêng liêng. Không có vị thánh nào tự tạo ra mình. Chính Thiên Chúa lấy sáng kiến. Do đó ngay vị ần sĩ trong hoang địa cũng chỉ làm một việc là đáp trả lại ân ban của Thiên Chúa. Đây vừa là một chân lý tu đức nên tảng, vừa là một chân lý thần học chắc chắn: Bất cứ người nào cũng nhận đức tin từ một người khác. Chúng ta không cứu độ được chính chúng ta.
Các chân lý này có những hệ luận quan trọng. Chúng ta phải vừa sống tâm tình biết ơn vừa sống khiêm nhường. Biết ơn, bởi vì chúng ta chẳng là gì nếu không có các quà tặng của những người khác; không có sự quảng đại của mọi người, hẳn là chúng ta không thể nào có thể vào đời và bảo toàn cũng như phát huy sự sống. Và khiêm nhường, bởi vì chúng ta chẳng có lý do gì mà hãnh diện như thánh Phaolô đã viết. Khiêm nhường là thấy các sự vật như Thiên Chúa thấy chúng. Nếu chúng ta có thể làm như thế, hẳn là chúng ta sẽ thấy một chuỗi các nguyên nhân đàng sau các thành công của chúng ta, mà còn thấy cả một mạng lưới các tương quan, trong đó mọi điều chúng ta đã thực hiện được đều lệ thuộc một dàn các yếu tố, đó là chưa nói có nhiều yếu tố chúng ta chưa biết hoặc sẽ không bao giờ biết.
Phải nhấn mạnh thêm điều này nữa. Chúng ta không thể loại bỏ được các món nợ về lòng biết ơn chúng ta đã chồng chất lại. Vì thế chúng ta có thể trau dồi một linh đạo về lòng biết ơn. Có bao giờ chúng ta cầu nguyện cho các ông bà tổ tiên mà chúng ta không bao giờ biết mặt, ở vào một thời đại nhiều giới hạn hơn chúng ta hôm nay, mà đã sống và gìn giữ cho đức tin vừa tinh trong vừa sống động trong dòng họ chúng ta? Chúng ta có bao giờ cầu nguyện cho vị linh mục đã ban phép rửa tội cho chúng ta chăng? Chúng ta có bao giờ cầu nguyện cho vị thầy đã dạy chúng ta về các chân lý nền tảng cùa đức tin chúng ta?
Nhân ngày Lễ Truyền Tin hôm nay, chúng ta thấy Đức Maria đúng là không có gì cả, vì "nữ tỳ hèn mọn" có nghĩa là "tuyệt đối chỉ là nữ tỳ". Nhưng do sống khiêm nhường và luôn luôn với lòng biết ơn, Mẹ đã có được tất cả những ân huệ cao quý, mà ân huệ tuyệt đối cao quý là Người Con yêu dấu, mà Mẹ ban cho chúng ta làm Đấng Cứu Độ.
2.- Những cộng sự viên cần thiết
Chúng ta là kết quả của biết bao đóng góp của biết bao người. Vô số người, chúng ta không biết tên biết mặt, nhưng luôn luôn có những người chúng ta biết rõ. Phaolô biết rõ là để cho hoạt động truyền giáo của ông đạt kết quả, ông cần phải đi Giêrusalem, dù là mãi ba năm sau biến cố Đamát, để trình diện với các vị lãnh đạo Hội Thánh: "diện kiến ông Kêpha,... gặp ông Giacôbê..." (Gl 1,14-15). Rồi mười bốn năm sau, ông lại lên Giêrusalem, để "trình bày cho người ta Tin Mừng tôi rao giảng cho dân ngoại, - cách riêng cho các vị có thế giá -, vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã ngược xuôi vô ích" (Gl 2,2).
Trong những người đã cộng tác với Phaolô, phải kể đến những môn đệ thân tín là Titô và Timôthê, đôi vợ chồng Priska và Aquila, "hai anh chị đã liều mất đầuđể cứu mạng tôi" (Rm 16,4). Có những người tốt lành, nhưng lại muốn tranh hơn thua trong việc phục vụ, nên Phaolô mới viết như sau trong Thư Philípphê: "Tôi khuyên hai chị Êvôđia và khuyên cả chị Xintikhe nữa: xin hai chị sống hòa thuận với nhau trong Chúa. Tôi xin anh Xi-di-gót, người bạn chân thành đã đồng lao cộng khổ với tôi, xin anh giúp đỡ các chị ấy". Lý do: "các chị đã giúp tôi chiến đấu trong Tin Mừng, cũng như anh Clêmentê và các cộng sự viên khác..." (Pl 4,2-3). Còn có thể kể thêm ra một số tên, mỗi tên đều có kèm theo một đánh giá của Phaolô: anh Êpênét, "bạn yêu quý của tôi, là của đầu mùa miền Tiểu Á dâng lên Đức Kitô", chị Maria, "người đã vất vả nhiều vì anh em", các anh Anrôních và Giunia, "bà con với tôi, và đã từng ngồi tù với tôi; các anh là những người xuất sắc trong các tông đồ, lại còn theo Đức Kitô trước tôi", anh Apelê, "người đã từng được tôi luyện trong Đức Kitô", hai chị Tryphen và Trôphyxa, chị Pexiđê, "những người đang vất vả vì Chúa" (Rm 16,5tt). Phaolô đã tỏ ra biết vị trí của mình trong mạng lưới các tương quan; ông cũng đã tạo ra được những người cộng sự tốt, để hỗ trợ nhau mà chu toàn việc Chúa.
Người ta có kinh nghiệm về những tập thể nào đó, ví được như một rổ cua, không cần đậy nắp, mà không con nào bò ra ngoài được, vì con nào leo lên, thì bị những con khác kéo xuống ngay. Cũng xin kể chuyện hai chú diều và hai con chim ưng. Hai chú diều bay trên bầu trời, chúng quyết định mở cuộc tỷ thí để xem ai sẽ bay cao hơn. Cạnh chúng có hai con chim ưng cũng đang mở cuộc thi tài. Chỉ trong chớp mắt, chúng bay vút lên trời. Nhưng hai chú diều thì cứ đảo bên này đảo bên kia, và không sao bay lên cao được.
Sau này, diều hỏi chim ưng: "Chúng ta mở cuộc tỷ thí dưới cùng một bầu trời, nhưng vì sao các anh có thể bay lên cao, còn chúng tôi thì không?"
"Đó là vì nguyên tắc tỷ thí của chúng ta khác nhau!", một chim ưng nói: "Nguyên tắc của chúng tôi là phải vượt thắng đối thủ; trong khi nguyên tắc của các anh lại là ngăn không cho đối thủ thắng mình".
"Thế thì có gì khác nhau giữa hai điều trên nào?", diều hỏi.
"Chúng hoàn toàn khác nhau chứ!", chim ưng đáp.
"Theo nguyên tắc của chúng tôi, nếu đối thủ bay vượt hơn mình, thì mình phải cố gắng hết sức để có thể đuổi kịp và thắng; còn nếu mình vượt hơn, đối thủ cũng phải nỗ lực nhiều hơn để có thể bằng mình. Do đó, cả hai chúng tôi đều có thể bay vút lên giữa trời xanh. Còn theo nguyên tắc của các anh, thì nếu đối thủ bay cao hơn mình, mình phải tìm cách kéo đối thủ xuống. Nếu ta không thể bay lên được, thì mi cũng đừng hòng! Hai sợi dây của các anh cứ xoắn vào nhau như thế, làm sao bay lên cao?... Đó là cách nghĩ của các anh, và lẽ đương nhiên là cả hai đều thất bại".
Hai con diều cứ tìm cách níu kéo nhau đó, đã được giải thích cặn kẽ về lý do khiến chúng không thể bay lên được. Trong đời, nào ai biết được có bao nhiêu "chú diều" đang lâm vào tình trạng như thế?
3.- Kết luận
Nhiệm vụ của chúng ta là xây dựng cộng đồng Kitô hữu, và đối với thánh Phaolô, điều này thường có nghĩa là sẵn sàng làm công việc góp ý sửa sai cho anh chị em, và dĩ nhiên, cũng sẵn sàng đón nhận sự góp ý của cộng đoàn. Chắc chắn công việc này không phải là làm một cảnh sát luân lý, nhưng là đáp lại sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần mà sống bác ái trong những chi tiết cụ thể, nhỏ nhặt. Bởi vì, như thánh Phaolô nói, "bổn phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích của mình" (Rm 15,1-2). Chúng ta sống không phải để làm theo sở thích của mình, mà là làm theo ý muốn của Thiên Chúa, do chỗ kiên nhẫn với người yếu và sẵn sàng sống đức ái thiết thực.
Lạy Chúa, Chúa biết những sức mạnh và những yếu kém của chúng con. Xin ban cho chúng con lương tri để chúng con tôn trọng những yếu đuối của người khác, và trợ giúp họ bằng sức mạnh Chúa đã ban cho chúng con. Và xin làm cho chúng con luôn luôn sẵn sàng dùng sức mạnh này mà chân thành thực thi bác ái nhằm phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em. Amen
LM Phan Long, ofm
-----------------------------
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Chúa đã phục sinh. Lẽ ra ta phải phục sinh với Chúa, phải bước ra khỏi vùng tối tăm để nhập cuộc với ánh sáng huy hoàng của ơn phục sinh.
Nhưng nhiều lần xét mình, ta chợt thảng thốt: cứ hết lễ phục sinh này đến lễ phục sinh khác, hết mùa phục sinh năm nay, lại đến phục sinh năm tới…, tâm hồn ta vẫn còn thuộc về bóng tối,
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu không có lối thoát.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm tội. Vì lợi nhuận mà làm thiệt hại người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù làm tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Mùa phục sinh luôn luôn có hình ảnh cây nến. Nến phục sinh tượng trưng Chúa Kitô, Đấng đã thoát ly khỏi tối tăm của thế gian, mang lại ánh sáng phục sinh vô biên cho chính thế gian, phá tan bóng tối thế gian.
Như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới giữ được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để sống một đời sống mới cho Chúa và trong Chúa.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa. Amen.
-----------------------------
Mc 16,1-7
Trong đêm Phục Sinh mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sống lại, Giáo hội rước Cây nến Phục sinh cháy sáng bừng bừng tiến vào nhà thờ và hát ca ngợi: Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô!
Trong khung cảnh đêm tối chỉ một mình ánh sáng từ Cây nến Phục sinh tỏa ra hương vị thánh thiêng cả nhà thờ. Ánh sáng lung linh thật đẹp và thi vị! Nhưng phải chăng ánh sáng này có gì đặc biệt khác với ánh sáng từ các ngọn nến khác khi cũng được đốt lên? Tại sao Giáo hội lại xưng tụng đây là Ánh sáng Chúa Kitô từ Cây nến Phục sinh trong đêm này?
Trong đời sống nhiều khi chúng ta phải ngồi suy nghĩ hằng giờ, có khi cả tuần lễ, cả tháng trời mong tìm ra giải đáp cho một vấn đề. Nhưng vẫn trong vòng bế tắc... Bỗng dưng một tia sáng lóe lên trong tâm trí.. thế là trong người rộn lên niềm mừng vui vì ta tìm ra đáp số cho vấn đề đang suy nghĩ. Ánh sáng này thật lạ lùng huyền bí và có giá trị khôn lường. Cả tâm hồn lẫn trí khôn cùng làn da thớ thịt gân cốt mạch máu lúc này bừng lên sức sống mới. Trong người cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Trên gương mặt lộ hẳn niềm rộn vui. Có người cảm thấy sung sướng quá cười nói, ca hát, múa nhảy như lúc lên "cơn"! Ánh sáng này chiếu tỏa từ trong thâm tâm ra bên ngoài. Ánh sáng này đánh thức ta bừng dậy.
Tia sáng lóe lên trong tâm trí. Đó là điều bất ngờ xảy đến không ai có thể làm ra được. Tia sáng này không được bật lên như ngọn đèn điện, khi em bé đưa tay bật nút điện ở trên tường hay do bạn trẻ bật hộp quẹt lấy lửa hút thuốc. Không, tia sáng này không do chúng ta nối chế ra. Tia sáng này đến từ một nguồn ánh sáng khác. Tia sáng này là quà tặng, là ân đức từ trời cao chiếu xuống. Tia sáng lóe lên trong tâm trí!
Kinh thánh thuật lại công trình sáng tạo trời đất bắt đầu bằng việc Thiên Chúa tác tạo ánh sáng. Ngài phán: "Hãy có ánh sáng! Và liền có ánh sáng" (Gen 1,3). Ánh sáng này là hình ảnh Chúa Giêsu đến chiếu sáng trần gian như chính ngài khẳng định: "Thầy là ánh sáng trần gian" (Gioan 8,12) Ánh sáng Chúa Kitô: Lumen Christi!
Ngày nay những phong trào, những lý thuyết hứa hẹn mang lại ánh sáng, hào quang soi chiếu cuộc sống, tâm hồn con người luôn luôn thu hút mọi giới. Con người khao khát tìm về ánh sáng cho cuộc đời. Và những gì ngoài đường xá phố chợ đèn điện chiếu sáng thường gợi chú ý mọi người. Nhưng tia sáng bừng lên trong tâm trí không phải là món hàng bày bán trong cửa tiệm bán đồ điện. Người ta không thể bật tia sáng này lên như bật ngọn đèn neon trong nhà mình.
Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô không phải là sản phẩm như cây nến có thể mua trong cửa hàng đem về đốt lên trong phòng khách, trong bàn ăn, để tăng vẻ đầm ấm thân mật.
Không, Ánh sáng Chúa Kitô không dừng lại nơi đây như thế. Ánh sáng này dọi chiếu, soi đường chỉ phương hướng cho con người, như chính Chúa Giêsu khẳng định: "Thầy là ánh sáng trần gian".
Trong ánh sáng Chúa Kitô con người nhận ra nhau là anh em con một Cha trên trời. Cho dù khác nhau về nhiều mặt, nhưng trong ánh sáng Chúa Kitô tất cả mọi người cùng có nhân vị như nhau. Chúa Giêsu đến trần gian mang ánh sáng tình yêu đến cho mọi người. Ngài không dùng quyền hay làm phép lạ xóa tan bóng tối, nhưng Ngài không sợ bóng tối, trái lại soi chiếu vào trong bóng tối. Trong ánh sáng Ngài chúng ta nhận ra những khuyết điểm yếu kém đời mình.
Lumen Christi - Ánh sáng Chúa Kitô là ánh sáng lóe lên từ trong tâm hồn. Ánh sáng này có sức soi chiếu mang niềm vui mừng phấn khởi cho tâm hồn con người.
Lm. Nguyễn Ngọc Long (Nguồn vietcatholic.org)
-----------------------------
(Tđcv 10, 34a.37-42; Col 3, 1-4; Ga 20, 1-9)
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Phúc âm của thánh Gioan viết là ‘ngày đầu tuần’ và thánh Matthêô, Marcô và Luca gọi là ‘ngày thứ nhất trong tuần’, từ sáng sớm khi trời còn tối thì các bà ra thăm mộ và thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ. Ngôi mộ trống. Xác Chúa Giêsu không còn ở đó. Được báo tin, ông Phêrô và Gioan cùng chạy ra xem. Các ông chỉ thấy những khăn liệm và những giây băng còn lại đó. Đây là sự kiện nền tảng đã làm thay đổi tất cả. Một sự kiện chưa bao giờ xảy ra. Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Sự kiện mồ trống và việc Chúa Giêsu hiện ra với nhiều người đã mở ra một kỷ nguyên mới của Nước Trời. Khởi đầu là ngày thứ nhất trong tuần, không còn theo ấn định ngày Sabát của Đạo Do-thái. Nước Trời không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Chúa Giêsu đã mở một biên cương ngang qua ngưỡng cửa của sự chết tới sự sống lại.
Ánh sáng thật đã dọi chiếu vào thế gian. Chúa Giêsu đã phá tan bóng tối của sự chết và mở đường dẫn vào sự sống thật. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa. Sự sống được trao ban cho mọi loài, nhất là con người. Sự sống không bị tiêu diệt nhưng sự sống được thăng hoa. Sự sống cụ thể sẽ dẫn đến một sự sống tinh tuyền. Chúa Giêsu đã phán dậy: Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời (Mt 22,30). Sự sống đời đời vì Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Thiên Chúa là Chúa của các kẻ sống. Thiên Chúa không tạo dựng con người để rồi bị tiêu diệt về hư vô. Đây chính là niềm hy vọng sự sống lại của chúng ta. Trong khi đối thoại với nhóm Sađucêo, họ không tin có sự sống lại, Chúa Giêsu đã trưng câu Kinh Thánh: Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống."(Mt 22,32).
Mỗi người chúng ta chỉ có kinh nghiệm về sự sống trong vật thể hay thân xác. Sự sống của thực vật, động vật và con người. Sự sống có nhiều cấp bậc, từ đơn sơ cho đến phức tạp. Điều kiện quan trọng nhất của sự sống là cần có nước, khí thở và của ăn nuôi dưỡng. Thiên Chúa đã quan phòng đặt để tất cả mọi điều kiện sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời."(Stk 1,20). Sự sống liên kết với vật chất và thể xác làm cho một vật sống. Sống là có sự chuyển động tự bên trong ra bên ngoài. Tiên tri Êdêkiel diễn tả: Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống (Êdêkiel 47,9).
Quan sát tất cả các loại thảo mộc từ những sợi rong rêu bé tí cho tới những cây cổ thụ già cỗi, đều có sự sống luân chuyển hấp thụ dưỡng nuôi. Thực vật có sinh, có phát triển và có chết. Các loài động vật cũng thế, từ những siêu vi khuẩn nhỏ li ti cho tới những con khủng long vĩ đại, đều có sự sống tiềm ẩn và nẩy sinh trong cơ thể. Mỗi loài thực vật cũng như động vật đều có sự truyền sinh riêng biệt. Sự sống nào cũng cần có sinh trưởng như hấp thụ, ăn uống, phát triển, già nua và diệt vong. Thiên Chúa tác tạo loài người có xác, có hồn và có khả năng phát triển không ngừng. Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng con người và ban sự sống: Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (Stk 2,7). Chúng ta không thể hiểu về mầu nhiệm sự sống. Chúng ta chỉ biết chiêm ngưỡng và cảm nghiệm sống.
Sự sống trao ban sự sống. Khi sự sống đã khởi đầu dù chỉ trong trứng nước là đã đi vào hiện hữu. Mỗi một sự sống là một qùa tặng vô giá của Thượng Đế. Con người không làm ra được sự sống nhưng chỉ nhận lãnh. Ngày nay con người dùng khoa học tân tiến để chiếm đoạt bản quyền của Đấng ban sự sống. Họ muốn ghép tạo ra sự sống theo ý họ. Con người đi tìm đủ mọi cách tiêu diệt sự sống tự nhiên để chuyển hoán qua sự sống nhân tạo. Chính con người đã toa rập giết chết Đấng trung gian sự sống. Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã viết: Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng (Tđcv 3,15).
Chúa Giêsu là chính nguồn ban sự sống. Mỗi người chúng ta đều được chia sẻ sự sống trực tiếp từ Thiên Chúa. Sự sống nối dài từ đời này qua đời kia. Sự sống được chuyển đổi chứ không mất đi. Đức Giêsu phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11,25). Sự sống lại thật không còn tùy thuộc thân xác như cần ăn uống, hít thở mà là giống như các thiên thần. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và mang lại sự sống thật cho những kẻ đặt niềm tin nơi Chúa. Sự sống của chúng ta được ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa: Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20,36).
Chúa Giêsu đã trút hơi thở trên thánh giá. Chúa đã từ giã cõi trần. Chấm dứt sự sống nơi thân xác. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở (Lc 23,46). Sự sống tạm cần phải thoát ly khỏi thân xác hay hư nát. Như hạt giống bị chôn vùi và tan rữa để sinh ra mầm sống. Chúa Kitô giã từ thân xác mà Ngài đã mặc lấy để trở thành con người. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh cứu độ trên thập giá. Chúa luôn mở rộng cánh cửa Nước Trời mời gọi mọi người bước vào. Nhận lãnh ơn cứu độ là trách nhiệm riêng của mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận hay từ chối ơn cứu độ. Chúa không ép buộc chúng ta nhưng Chúa ban đủ ân sủng để giúp chúng ta thắng đạt.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga 3,17). Ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ánh sáng ban sự sống. Tin vào Chúa, có nghĩa là phải sống và thực hành lời Chúa dậy. Đức tin không có việc làm là đức tin mơ hồ, trừu tượng và lý thuyết. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa yêu thương sống động. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống."(Lc 20,38). Vũ trụ chuyển động, mọi sự sinh động và tất cả sinh linh đều đang sống trong sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa hằng hiện hữu và làm việc luôn. Thánh Gioan ghi rằng: Đức Giêsu đáp lại, "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc."(Ga 5,17).
Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, là hoa qủa đầu mùa của những kẻ an giấc. Thánh Phaolô viết: Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu (1Cor 15,20). Chúa Giêsu mở đường sự sống và đem lại cho chúng ta niềm hy vọng viên mãn. Chúng ta biết rằng vật chất thì thay đổi, tan biến và hư nát. Mọi vật hiện hữu trên trần thế rồi lại trở về hư vô cát bụi. Chỉ có Thần khí mới ban sự sống: Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống (Ga 6,63). Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Alpha và Ômega, là khởi điểm và là cùng đích. Mọi sự đều phải qui thuộc về Ngài. Hy vọng sau cuộc đời lữ hành dương thế, chúng ta sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với Ngài. Alleluia!
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York.
-----------------------------
VỌNG PHỤC SINH
Lm. Đan Vinh
Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giêsu. Đây là mầu nhiệm quan trọng n hất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng vững chắc và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người tín hữu, nhờ đó chúng ta mới có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân của Người.
1. Mầu nhiệm gây hai niềm tin đối nghịch: Khi an táng Đức Giêsu, các thượng tế đã yêu cầu quan Philatô cho phép sai một đội dân quân Đền thờ đến canh mộ Người trong ba ngày, để tránh các môn đệ Người đến lấy trộm xác (x Mt 27,62-66). Rồi khi thấy Chúa sống lại, bọn lính canh đã hoảng sợ chạy vào thành báo tin và sau đó nhận tiền của các thượng tế để phao tin rằng: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn đi”.. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do thái cho đến ngày nay (Mt 28,12-15).
2. Mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh là một chân lý đức tin: Sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần, bà Maria Mađalêna đã ra thăm mộ và vội chạy về báo tin cho các môn đệ biết: xác Thầy biến mất. Hai ông Phêrô và Gioan lập tức chạy ra mộ kiểm tra thực hư. Gioan tuy đến trước, nhưng lại nhường cho đàn anh theo sau vào mộ đầu tiên rồi mới vào sau. “Ông đã thấy và đã tin”: Ông thấy những khăn che đầu và khăn liệm xác được xếp đặt gọn gàng và tin Thầy đạ không bị kẻ trộm lấy đi, nhưng đã thực sự từ cõi chết trỗi dậy (x Ga 20,8-9).
3. Đức tin của môn đệ tiếp tục được củng cố: Sau đó, Chúa Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra để củng cố đức tin của các môn đệ: Hiện ra trong căn phòng đóng kín (x Ga 20,19); Hiện ra với Tôma và cho ông kiểm tra các vết thương (x Ga 20,27). Hiện ra với hai môn đệ về làng Emmaus (x Lc 24,31); Hiện ra trên bờ hồ Galilê (x Ga 21,7)…. Nhưng có lẽ lần hiện ra ảnh hưởng sâu đậm nhất là khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông Saolô tại cửa thành Đa-mát để biến ông đang từ một kẻ thù ghét bách hại trở nên Tông Đồ dân ngọai của Người (x Cv 9,4-5).
4. Phương cách làm chứng cho Chúa của các môn đệ: Sở dĩ các môn đệ đã có thể làm chứng cho Chúa Giêrsu là nhờ được ơn Thần Khí của Người biến đổi: Từ thái độ sợ hãi trốn chạy trở nên can đảm công khai nhận mình là môn đệ Chúa, Từ thái độ hèn nhát phản bội trở nên trung thành can đảm tuyên xưng đức tin, vui mừng chịu đòn vọt tù tội và sẵn lòng chịu chết vì đức tin. Chắc chắn các ngài đã gặp được Chúa Phục Sinh nên lời chứng của các ngài mới đầy xác tín và có sức thuyết phục, đến nỗi các tín hữu đầu tiên đã sẵn lòng dâng của cải mình có làm của chung, chấp nhận cuộc sống chui lủi trốn chạy, sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau. Người ta sẽ không thể lý giải được sự biến đổi kỳ diệu đó
nếu các ngài đã không gặp được Chúa phục sinh.
5. Sứ mệnh làm chứng cho Chúa của các tín hữu: Ngày nay các tín hữu chúng ta cũng chỉ có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng cho Ðức Giêsu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Người như các môn đệ xưa: Để được biến đổi như các ngài, chúng ta phải năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm hiểu ý Chúa và quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Nhờ năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, nhận được Thần Khí Phục Sinh để làm chứng cho Người.
6. Những phương cách làm chứng cho Chúa hôm nay: Ngày nay làm chứng cho Chúa không phải chỉ là việc thuật lại sự chết và sống lại của Chúa xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Ngừơi đã từ cõi chết sống lại và ta đã được gặp Chúa và được Người biến đổi như thế nào Làm chứng cho Chúa là để Chúa Giêsu dùng chúng ta loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biều lộ dung nhan của Người qua lối sống quên mình vị tha và thân thiện bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa,
7. Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Xin cho con năng gặp Chúa qua các buổi học sống Lời Chúa, qua việc tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng, qua những ngừơi nghèo khổ bất hạnh… Nhờ Thần Khí Chúa tác động, con hy vọng sẽ ngày một biến đổi nên con thảo của Chúa Cha, nên môn đệ thực sự của Chúa và trở thành chứng nhân cho tình thương của Chúa. AMEN.
Lm. Đan Vinh
-----------------------------
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Kinh Thánh cũng như sử sách không ghi lại ngày mừng lễ Phục sinh nhất định nào trong Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô.
Vì thế, tuy cùng tin vào Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết, nhưng Giáo Hội Công giáo Roma phía bên Tây và Giáo Hội Chính Thống phía bên Đông có ngày lễ mừng Chúa Giêsu sống lại vào những ngày khác nhau.
Năm nay 2012 Giáo Hội Công Giáo Roma, cả bên Tin Lành cũng mừng lễ phục sinh vào ngày 08.04.2012. Đang khi bên Chính Thống giáo mừng vào ngày 15.04.2012. Lý do nằm ở chỗ hai bên dùng hai niên lịch khác nhau. Trong qúa khứ cũng đã có những cố gắng đi đến một thỏa thuận cùng mừng lễ Chúa sống lại vào một ngày chung. Nhưng vẫn không hay chưa đạt được bứơc tiến chung.
Ngày mừng lễ Chúa phục sinh đích thực ngay từ thời Giáo Hội sơ khai thuở ban đầu cũng đã không vào một ngày nhất định rồi. Ngay từ lúc đó đã có tranh cãi kịch liệt với nhau về “ngày nào đúng“ mừng lễ Chúa sống lại. Vì không phải lúc đó đã mừng ngày lễ thống nhất vào ngày Chúa nhật như ngày nay. Lý do đưa đến sự thể đó nằm ở nơi bốn phúc âm thuật về biến cố sự thương khó và phục sinh của Chúa Giêsu có khác biệt nhau.
Phúc âm Chúa Giêsu theo Thánh Matheo, Marcô và Luca thuật về cuộc thương khó tử nạn của Chúa Giêsu khác với bài tường thuật trong phúc âm theo Thánh Gioan. Theo những nhà sử học, những Giáo đòan thời Giáo Hội ban đầu, Giáo đoàn Ephesos và những giáo đoàn ở vùng bên Tiểu Á châu có liên hệ chặt chẽ với Thánh Gioan, đã chọn ngày lễ Pessach như ngày mừng lễ Chúa Giêsu sống lại. Những Giáo đoàn mừng lễ Chúa sống lại bắt đầu vào ngày lễ Pessach - thường không vào ngày Chúa nhật - trong Giáo Hội lúc ban đầu có tên là Quartodecimaner. Đang khi
những Giáo đòan thời đó mừng lễ Chúa sống lại vào ngày Chúa nhật cón tên là Dominicales. Cuộc tranh cãi về ngày lễ mừng Chúa sống lại giữa hai nhóm Quartodecimaner va Dominicales đi sâu vào lịch sử đời sống Giáo Hội từ lúc đó.
Đức giáo hoàng Victor đệ nhất vào năm 200 đã muốn ấn định một ngày mừng lễ thống nhất chung cho toàn thể Giáo Hội. Ngài ra quyết định cho các Công nghị thuộc các Giáo đòan vùng nhỏ phải theo quyết định chung. Đại đa số những nơi đó chọn ngày Dominicales cho thực dụng hơn.
Những Giáo đoàn chính của Quartodecimaner ở vùng Tiểu Á châu nhất định chống lại quyết định này. Đại diện cho những Giáo đoàn này là Giám mục Polykrates của Ephesos nói lên tiếng không bằng lòng. Tuy nhiên Đức Giáo hoàng đòi hỏi những Giáo đòan bên vùng tiểu Á châu phải chịu tuân theo quyết định của đa số. Ngài đe dọa sẽ khai trừ ra khỏi cộng đoàn Giáo Hội, nếu không chịu tuân theo.
Tất nhiên Đức giáo hoàng Victor phải hứng chịu sự phê bình chỉ trích nặng nề- trong đó có Giáo phụ nổi tiếng Iren#us thành Lyon. Lời kêu gọi của ngài về lòng khoan dung đã mang đến kết qủa và có ảnh hưởng cho nhóm Quartodecimaner thiểu số còn đưọc phép đến thế kỷ thứ ba sau Chúa Giáng sinh duy trì giữ truyền thống mừng lễ của họ.
Công đồng Arles năm 314 đề ra lần nữa ngày mừng lễ Chúa Giêsu sống lại là ngày Chúa nhật thứ nhất sau lễ Pessach bắt đầu.
Công đồng Nicea năm 325 ra quyết định loại Quartodecimaner ra khỏi cộng đoàn Gíao Hội. Theo quyết định của Công đồng Nicea về lễ mừng Chúa sống lại:
1. Ngày mừng lễ Chúa Giêsu sống lại trong mọi Giáo Hội Chúa Kitô vào cùng một ngày.
2. Lễ mừng Chúa Giêsu sống lại sau khi ngày mùa Xuân bắt đầu
3. Lễ mừng Chúa Giêsu sống lại vào ngày Chúa nhật sau lễ Pessach của người Do Thái
Như thế cuộc tranh cãi về ngày mừng lễ thống nhất tưởng kể như chấm dứt và thuộc về qúa khứ trong lịch sử Giáo Hội.
Thời thế kỷ thứ tư sau Chúa Gíang sinh đã có sự đồng thuận chọn ngày Chúa nhật sau ngày trăng tròn thứ nhất của mùa Xuân là ngày mừng lễ Chúa sống lại. Nhưng vẫn còn chưa rõ ràng là thời điểm ấn định ngày trăng tròn thứ nhất vào lúc nào. Sự tranh cãi lại tiếp diễn cùng lên cao với việc ấn định ngày Chúa nhật trăng tròn, vào ngày 21.tháng ba năm 387. Điểm tranh cãi không đồng ý với nhau ở chỗ ngày trăng tròn này của mùa Đông hay ngày trăng tròn này của mùa Xuân.
Theo sách viết của Giáo phụ Ambrosius, năm 387 ở Roma mừng lễ Chúa sống lại ngày 21.tháng Ba; còn bên Alexandria ( bên Đông) lại mừng lễ vào ngày 25.tháng Tư .
Sự khác biệt về ngày mừng lễ như thế kéo dài 140 năm cho tới khi Gíao Hội bên Roma và bên Alexandria thỏa thuận chung về một ngày lễ mừng Chúa sống lại. Năm 525 Đức giáo hoàng Gioan thứ nhất đã tham khảo ý kiến Thầy dòng Dionysius Exiguus về việc này. Theo bảng tính của Tu sỹ Dionysius cho một chu kỳ liên tục 523 năm. Bên Giáo Hội Tây phương và Giáo Hội Đông phương cùng chấp nhận bảng tính ngày mừng lễ Chúa sống lại này của Tu sỹ Dionysius. Và như thế cuộc tranh cãi về ngày mừng lễ Chúa sống lại chấm dứt.
Một thế kỷ dài (1000 năm) cùng có chung một ngày mừng lễ Chúa sống lại trong Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô, cho tới thời cuộc cải tổ niên lịch dưới thời Đức Giáo hoàng Gregor thứ 13. năm 1582.
Cuộc tranh cãi về ngày mừng lễ chung lại bùng nổ bắt đầu trở lại từ lúc đó. Giáo Hội bên Đông phương không chấp nhận niên lịch cải tổ của Đức giáo hòang Gregor 13. mà họ vẫn giữ theo niên lịch cũ Julianus, theo niên lịch này trong năm có 13 ngày khác biệt.
Từ thời điểm đó, Giáo Hội Đông phương mừng lễ Chúa Giêsu sống lại khác ngày với bên Giáo Hội Tây phương. Nhưng trong dòng thời gian cũng có những năm trùng hợp cùng mừng lễ phục sinh vào một ngày chung như vào năm 2001, 2004, 2007, 2011, 2014, 2017, 2025 Đây là sự
trùng hợp theo ngày tháng của niên lịch xảy ra như vậy, chứ không phải do sự thống nhất thỏa thuận chung.
Viết theo kath.net“ Warum viele Christen Ostern nicht an einem Sonntag feiern“ 31.03.2012
Không chỉ ngày xưa, mà cả ngày nay đang có những cố gắng bàn thảo xích lại gần nhau dựa theo cách tính khoa học thiên văn, lịch sử cùng thần học tâm linh đạo giáo giữa những Gíao Hội Chúa Kitô ở trần gian, để cùng nhau đi đến một ngày mừng lễ Chúa sống lại thống nhất trong toàn thế giới.
Nhưng con đường đi đến thống nhất chung một ngày lễ mừng Chúa sống lại hãy còn dài cùng xa vời. Dẫu vậy trong lịch sử nhân loại và Giáo Hội vẫn luôn có những bất ngờ tích cực xảy ra. Niềm hy vọng vẫn còn đó cho ngày mai.
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
-----------------------------
Tù nhân rất hạnh phúc khi được phóng thích. Bệnh nhân rất hạnh phúc khi được phục hồi. Người đang khát rất hạnh phúc khi được giải khát. Người mong chờ rất hạnh phúc khi được mãn nguyện. Và còn nhiều dạng hạnh phúc khác khi chúng ta được như ý. Nhưng chắc chắn không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc được “cải tử hoàn sinh”.
Người Công giáo có một niềm hạnh phúc khác nữa là Chúa Giêsu phục sinh, đúng như lời Ngài nói trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” (Mc 9:31).
Tuần Thánh chồng chất nỗi buồn, nhưng đêm nay niềm vui nối tiếp nỗi mừng. Cho nên trong bài Công bố Tin mừng Phục sinh (Exultet), Giáo hội nhiều lần mời gọi mọi người “mừng vui lên!”, vì Đức Kitô “đã thay thế chúng ta trả nợ của Adam với Chúa Cha muôn thuở, và đã lấy máu hồng quý giá rửa sạch án tổ tông xưa”, và “vì đây là lễ vượt qua, lễ mà Chiên thật bị sát tế, trong máu Chiên môi miệng tín hữu được thánh hiến đêm nay”.
Đêm nay còn là đêm hạnh phúc vì “là đêm mà cha ông chúng ta, là con cháu Israel, thoát ly Ai Cập xưa, Chúa đã cho tiến qua Biển Đỏ vẫn khô chân; là đêm nhờ ánh sáng cột lửa thiêng xóa tan mọi bóng tối nhân gian; là đêm mà hết những ai có lòng tin Chúa Kitô khắp trên trần gian, được cứu thoát hết các vết nhơ và tối tăm tội khiên, được ơn thiêng đưa về hợp đoàn cùng các thánh nhân; và “là đêm mà xiềng xích bị bẻ tung, Đức Kitô khải hoàn chiến thắng vinh quang”.
Đặc biệt đêm nay còn là đêm hạnh phúc vì “nếu không được ơn cứu chuộc khỏi tội khiên, chúng ta sinh ra nào có ích chi!”. Thật kỳ diệu đối với phàm nhân: “Ôi nhiệm mầu thay! Lòng Yêu Thương của Chúa không ai hiểu thấu!”. Niềm vui đêm nay được nhân lên vì “tội Adam đã được tẩy xóa chính nhờ sự chết Chúa Kitô!”. Niềm vui tột đỉnh nên Giáo hội gọi Tội Nguyên Tổ là “tội hồng phúc”, chính tội hồng phúc đó “đã ban cho chúng ta Đấng cứu chuộc rất cao sang”, và Giáo hội gọi đêm nay là “đêm hồng phúc”, vì đêm nay là “đêm nối kết trời đất”.
Tv 33:4-6 xác định: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú”. Có đau khổ mới biết hạnh phúc ngọt ngào thế nào, và muốn vinh quang thì phải biết chịu đựng đau khổ. Đức Kitô đã đau khổ tột cùng nên mới được vinh quang, vì thế: “Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 33:12). Đồng thời chúng ta phải luôn cầu nguyện với Chúa: “Xin đổ tình thương xuống trên chúng con như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22). Lời cầu đó cũng là lời hứa của chúng ta thân thưa với Ngài.
Câu hỏi của Thánh Phaolô cũng chính là câu trả lời: “Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao?” (Rm 6:3). Thánh Phaolô giải thích: “Được dìm vào trong cái chết của Ngài là chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). “Được dìm vào cái chết của Đức Kitô” lại chính là 10 niềm hạnh phúc của chúng ta. Nghe chừng quá “ngược đời”, người không có niềm tin sẽ không thể hiểu nổi. Nhưng đó lại là sự thật 100%.
“Được dìm vào cái chết của Đức Kitô” không chỉ là hạnh phúc mà còn là sự may mắn của chúng ta, vì “chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Ngài đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Ngài, nhờ được sống lại như Ngài đã sống lại” (Rm 6:4), không chỉ vậy, “con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như
vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6:6). Đó là cả một chuỗi kỳ diệu của cuộc đời người Công giáo. Không kỳ diệu sao được, vì “ai đã chết thì thoát khỏi quyền lực của tội lỗi” (Rm 6:7). Thật vậy, “nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Thánh Phaolô xác quyết đó là niềm tin của chúng ta. Từ 3 giờ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, Tử thần tưởng đã chiến thắng, nhưng hắn đành “bó tay” từ Đêm Vọng PhụcSinh: “Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không
bao giờ Ngài chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Ngài”. Ngài đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ”
(Rm 6:9-10). Đức Giêsu sống lại thật, Ngài sống cho Thiên Chúa, và chắc chắn chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài. Còn hạnh phúc nào hơn? Đó là điều “trên cả tuyệt vời”. Nhưng không thể cứ “khơi khơi”, không thể cứ “thấy sang bắt quàng làm họ”, hoặc “cục muối cắn đôi, còn cục đường ăn cả”, mà phải có điều kiện “ắt có và đủ”, nghĩa là ai đã sống Mùa Chay thì mới có thể cảm nhận niềm vui phục sinh, và ai đã “dám chết cho tội” thì mới xứng đáng cùng phục sinh với Đức Kitô: “Hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô
Giêsu” (Rm 6:11).
Vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. Họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” (Mc 16:3), vì tảng đá lấp cửa mộ là tảng đá lớn lắm, đàn ông lực lưỡng mới có thể lăn ra nổi. Nhưng vừa ngước mắt lên, họ đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi. Ngạc nhiên này tiếp theo ngạc nhiên khác. Họ vào trong mộ thì thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng. Là phụ nữ “yếu bóng vía” nên họ hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền trấn an: “Đừng hoảng sợ!” (Mc 16:6a), rồi người thanh niên nói tiếp: “Các bà tìm Đức Giêsu Nadarét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Ngài đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Ngài đây này!” (Mc 16:6b).
Người thanh niên đó nói thêm: “Xin các bà về nói với môn đệ Ngài và ông Phêrô rằng Ngài sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Ngài như Ngài đã nói với các ông” (Mc 16:7). Chắc lúc đó các bà nhà ta run như cầy sấy, sợ quá nên chẳng nói được lời nào. Nghe người thanh niên kia nói xong, “họ vừa ra khỏi mộ liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía” (Mc 16:8a), thậm chí “chẳng nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16:8).
Tội nghiệp các chị em phụ nữ quá! Chiều Thứ Sáu, họ không sợ mà cứ lẽo đẽo tiễn Chúa Giêsu lên Đồi Can-vê như “đưa đám tang sống” và khóc hết nước mắt. Thế mà bây giờ, biết Chúa Giêsu đã sống lại, họ lại sợ hãi và chạy mất dép như ma đuổi. Phụ nữ là vậy, thông cảm! Việc cần quan tâm là: ĐỨC KITÔ ĐÃ PHỤC SINH. Hãy vui mừng lên! Halleluia!
Lạy Chúa, tất cả là hồng ân vô biên của Ngài. Chúng con thật hạnh phúc được đắm mình trong Biển Hồng Ân nhờ Lòng Thương Xót vô biên của Ngài. Chúng con
xin tạ ơn Chúa Cha đã ban Thánh Tử Giêsu cho chúng con, chúng con xin tạ ơn Đức Kitô đã cứu độ chúng con, và chúng con xin tạ ơn Chúa Thánh Thần luôn
hướng dẫn chúng con trong mọi hoàn cảnh. Cúi xin Ba Ngôi gìn giữ, nâng đỡ và thánh hóa chúng con, đừng để chúng con phải thiếu vắng Chúa một tích tắc nào.
Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
Trâm Thiên Thu
-----------------------------
CHÚA NHẬT PHỤC SINH, năm C
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Ga 20, 1-9
Ngày thứ nhất trong tuần ,đây là cách diễn tả của Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng thứ tư của thánh Gioan. Vâng, đúng vào tảng sáng, lúc bình minh của ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu từ trong mồ đá đã vinh hiển phục sinh. Và rồi cũng chính vào lúc đó, niềm tin của các tông đồ, các tín hữu và của cả chúng ta được nẩy sinh, được sinh ra.
Ngôi mộ trống và sự ngạc nhiên của Mađalêna, của thánh Gioan. Lúc trời vừa sáng, có nghĩa là trời còn hâm hẩm, trời còn tối. Maria Mađalêna chạy ra mồ đem theo hương liệu. Bà Maria Mađalêna đã thấy tảng đá được lăn ra. Tảng đá lớn, do đó, Maria Mađalêna rất ngạc nhiên đến độ sửng sốt. Bà liền chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến một cách đặc biệt.Đúng là tình yêu đã thúc đẩy Maria Mađalêna, làm cho bà không còn sợ sệt.Bà chỉ một lòng yêu mến Chúa và muốn ra xem mộ Chúa. Bà đã báo cho Phêrô và Gioan một tin khủng khiếp về Chúa Giêsu :” Tôi không biết họ để Ngài ở đâu “. Rõ ràng Maria Mađalêna chỉ nghĩ tới một cái xác chết, một Vị Chúa và là một người Thầy đã chết thật.Đức tin của bà hầu như chưa nẩy sinh. Điều này cũng cho chúng ta hiểu rõ thân phận của chúng ta : đức tin của chúng ta vẫn còn một ngăn cách, một hố sâu vời vợi để nhận ra sự kiện Chúa phục sinh.
Tin Mừng cho hay Phêrô và Gioan khi nghe Maria Mađalêna báo tin về Chúa Giêsu, họ chạy liền ra mộ. Cả hai đều phát hiện ra cái gì thật khác lạ.Băng vải, khăn liệm, khăn che đầu, tất cả đều được xếp cách ngăn nắp và mồ trống không còn xác Chúa Giêsu. Gioan tới và vào trong mồ, ông thấy và ông đã tin. Đây là một bằng chứng của tình yêu. Gioan thật sự có một trực giác sâu xa, nên khi bước vào mồ trống, Gioan đã tin Chúa sống lại thật.Ở đây, chúng ta có thể ghi nhận một điều thật thú vị, kỳ diệu, thánh thiêng vì trước và sau phục sinh, hai ông đã có một cái nhìn thật khác. Thánh Gioan viết :” Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng : theo Kinh Thánh, Chúa Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết “.
Thực tế, thấy, hiểu và tin là những động từ khơi dậy đức tin của mỗi người chúng ta. Tin Mừng cho hay, Gioan đã vào trong mồ, Ông đã thấy và tin. Thấy mồ trống, thấy các khăn liệm, khăn che đầu vv…Gioan đã tin. Bà Maria Mađalêna cũng vội vã chạy về và kể lại cho các tông đồ :” Tôi đã thấy”. Các tông đồ sau đó cũng thấy và cuối cùng là tông đồ Toma đã thấy và tin.
Chúng ta đang sống trong thế kỷ 21, một thế kỷ tiến triển vượt bực về mọi phương diện, đặc biệt là vể khoa học kỹ thuật, con người hãnh diện về những phát minh, về những khám phá mới trong nhiều lãnh vực. Chúa nói :” Phúc cho những ai không thấy mà tin “. Chúng ta hạnh phúc vì có các chứng nhân, có Kinh Thánh, có Giáo lý, có Giáo huấn của Giáo Hội, nên chúng ta không thấy Chúa bằng xương bằng thịt nhưng chúng ta vẫn tin. Chúng ta tin Chúa đã gánh tội cho chúng ta dù Ngài vô tội. Chúng ta tin Chúa đã chết thảm sầu trên thập giá và đã sống lại khải hoàn. Chúng ta tin Chúa là mục tử đích thực hiến dâng cả sự sống của mình vì con chiên “ ( Ga 10, 11 ). Chúng ta tin Chúa đến cho mọi người được sống và được sống dồi dào “ ( Ga 10, 10).
Chúng ta không được thấy mồ trống, không được thấy khăn liệm, khăn che đầu như Phêrô và Gioan. Chúng ta cũng không được thấy tảng đá được lăn ra khỏi mồ như bà Maria Mađalêna. Chúng ta cũng không được thọc bàn tay vào cạnh sườn và xỏ ngón tay vào lỗ đinh như Chúa phục sinh đã nói với Toma. Nhưng chúng ta tin do đó chúng ta thật hạnh phúc và có phúc.
Đức tin của chúng ta được lớn lên và phát triển. Chúng ta tin vào Chúa sống lại, Ngài vẫn sống và đang hoạt động trong cuộc đời chúng ta.
Xin mượn lời thánh Phaolô để kết luận bài suy niệm Phục Sinh :” Sự thật là Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết.Đó là một bảo đảm cho thấy rằng những ai ngủ yên trong cõi chết sẽ được sống lại. Bởi vì do một người mà sự chết đã đến thì tương tự như vậy, sự sống lại từ cõi chết cũng sẽ do một người mà đến. Vì mọi người đều phải chết do kết hợp với Ađam, thì cũng tương tự như thế, mọi người sẽ được sống lại nhờ kết hợp với Đức Kitô…Cũng như chúng ta đã mặc lấy hình tượng của người được dựng nên từ đất, thì chúng ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của Người từ trời xuống “ ( 1 C0 15, 20-22,49).
Chúa đã sống lại thật Alléluia, Alléluia.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Ngày thứ nhất trong tuần là ngày nào ?
2.Ai đã thấy và đã tin ?
3.Sứ điệp Phục Sinh nói gì cho chúng ta ?
-----------------------------
LỄ VỌNG PHỤC SINH
St 1,1-2,2 ; Xh 14,15-15,1a ; Is 54,5-14
Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 ; Lc 24,1-12
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 24,1-12
(1) Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. (2) Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. (3) Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. (4) Họ còn đang phân vân, thì kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. (5) Đang lúc các bà sợ hãi cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: “Sao các bà lại tìm Người sống ở giữa kẻ chết? (6) Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, (7) là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại. (8) Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. (9) Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. (10) Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, và bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông đồ như vậy. (11) Nhưng các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin. (12) Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về những sự việc đã xảy ra.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su theo thứ tự như sau:
- Sự kiện mồ trống: Ngày từ sáng sớm ngày thứ nhất, mấy người phụ nữ đã đi ra mộ để xức dầu thơm cho Đức Giê-su. Tới nơi, họ thấy tảng đá che ngoài cửa mộ đã được lăn sang một bên, nhưng không thấy xác Thầy trong mộ.
- Sứ điệp Phục sinh: Họ đang thắc mắc thì có hai thiên sứ hiện ra cho biết Đức Giê-su không còn ở trong mộ của kẻ chết nữa, nhưng đã sống lại, đúng như Người đã nói tại Ga-li-lê.
- Tông đồ cứng tin: Các bà vội trở về báo tin cho Nhóm Mười Một những điều mới xảy ra. Nhưng các ông không tin và coi là chuyện lẩn thẩn.
- Phê-rô kiểm chứng: Tuy vậy, để biết rõ thực hư, Phê-rô cũng chạy ra mộ và đã thấy những khăn liệm còn để lại. Ông trở về nhà và rất ngạc nhiên về những sự việc vừa xảy ra.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Ngày thứ Nhất trong tuần: Từ nay ngày thứ Nhất sẽ trở thành ngày Hưu lễ của Ki-tô giáo, thay thế ngày thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái giáo, và được gọi là Chúa nhật nghĩa là Ngày của Chúa. + Các bà đi ra mộ: Các bà này gồm bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê và mấy bà khác nữa (x. Lc 24,10). + Mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn: Các bà đến mộ sớm, mang theo dầu thơm để hoàn tất việc mai táng Chúa Giê-su, đã được ông Giô-sép A-ri-ma-thê vội vã thực hiện vào chiều thứ Sáu trước ngày Sa-bát (x. Mc 15,42.47). + Họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả: Đây là lần thứ nhất Tin mừng Lu-ca dùng từ “Chúa Giê-su” để nhấn mạnh tước hiệu mới của Người là “Chúa”. Về sau sách Công vụ sẽ nhiều lần dùng từ này để gọi Đức Giê-su (x. Cv 1,21; 8,16 ; 15,11).
- C 4-5: + Phân vân: Vì không thấy thi hài Đức Giê-su trong mộ nên các bà phân vân lo lắng không biết người ta đã đem xác Thầy đi đâu (x. Ga 20,2). + Hai người đàn ông y phục sáng chói đứng bên họ: Sau này các bà khẳng định đó là hai vị thiên thần (x. Lc 24,23). + “Người sống”: Giờ đây Đức Giê-su trở thành “Người sống”, đúng như Lời Người đã nói (Ga 11,25).
- C 6-7: + Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi: Thiên thần bảo cho các bà biết về mầu nhiệm Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại (x. Rm 6,9). Từ đây Người mở ra một con đường sống cho những kẻ đã an giấc ngàn thu (x.1 Cr 15,20-26). + Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê: Đối với Lu-ca, toàn bộ mầu nhiệm vượt qua phải được hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 9,51), để Giê-ru-sa-lem trở thành nơi xuất phát thông điệp ban ơn cứu độ (x. Lc 24,49). Do đó, trong Tin mừng Lu-ca, các Tông đồ đã được Đức Giê-su Phục Sinh trao cho sứ mệnh làm chứng nhân cho Người bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem (x. Cv 1,8).
- C 12: + Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ: Dù không tin Thầy sống lại, nhưng Phê-rô cũng đi kiểm chứng thực hư. Kết quả ông chỉ nhìn thấy khăn liệm (x. Lc 24,12a). Còn Tin mừng Gio-an thì thuật lại cuộc chạy đua ra mộ giữa hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,3-4).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Đức Giê-su đã được môn đệ liệm xác theo phong tục Do thái như thế nào?
Đáp: Việc liệm xác Đức Giê-su được thực hiện theo phong tục Do thái gồm các công đoạn như sau: Trước hết là tắm xác, nghĩa là lau chùi các vết máu cùng các vết nhơ khác trên cơ thể Người. Sau đó Người được đặt trên một tấm khăn vải trắng, rồi được bôi một lọai dầu thơm đắt tiền (x Ga 12,3-7), chế biến từ nhựa cây cam tùng và được gọi là mộc dược. Dầu thơm được bôi trên toàn thân Người nhiều lần cho ngấm dần vào da thịt để bảo quản xác khỏi bị hư hoại trong một thời gian dài. Rồi xác Người được quấn lại bằng băng vải từ đầu đến chân (x. Ga 19,40). Cuối cùng xác Người được môn đệ an táng trong một ngôi mộ mới đục trong đá và các ông lăn một phiến đá lớn che kín phía ngoài cửa mộ (x. Ga 19,41-42).
HỎI 2: Tại sao các môn đệ lại phải vội vã an táng Đức Giê-su?
ĐÁP: Sở dĩ có việc mai táng vội vã là do Luật Mô-sê qui định: cấm mai táng vào ngày Sa-bát, và xác tử tội bị treo trên thập giá phải được hạ xuống trước khi mặt trời lặn (x. Đnl 21,22-23). Đức Giê-su chết lúc 3 giờ chiều áp ngày Sa-bát, nên thời gian còn lại từ 3 giờ đến 6 giờ là quá ngắn, không đủ để làm đầy đủ các công đọan của việc mai táng, nên các môn đệ phải làm cách vội vã cho kịp thời gian qui định.
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24,5-6).
2. CÂU CHUYỆN: NIỀM TIN CỦA NHÂN LỌAI VỀ SỰ SỐNG ĐỜI SAU
Hầu như mọi người, mọi dân tộc trên thế giới đều tin có sự sống sau cái chết, ngay cả những người khẳng định mình không theo một tôn giáo nào.
Ngày 19 tháng 9 năm 1987, nhân khi tiễn Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II kết thúc chuyến viếng thăm Hoa kỳ, Phó Tổng thống Bush đã kể lại câu chuyện về Chủ tịch Mao Trạch Đông mà ông đã có dịp gặp gỡ trước khi ông này qua đời. Trong lần ấy, Chủ tịch Mao đã tâm sự với ông Bush như sau: “Tôi sắp sửa về Trời. Tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa”. Còn Tổng thống Mít-tơ-răng (F. Mitterand) của nước Pháp thì trong mấy ngày cuối đời đã trả lời phóng viên một tờ báo về cái chết như sau: “Nếu có Chúa, thì tôi tin rằng Người sẽ nói với tôi: “Cuối cùng thì anh cũng đã đến đích. Thôi mau vào đi !”. Ngoài ra, Chủ tịch HCM cũng đã gián tiếp bày tỏ niềm tin vào một thế giới khác bên kia cái chết khi trong chúc thư có đoạn viết như sau: “Tôi sắp về với cụ tổ Mác-Lê.”...
3. SUY NIỆM:
1) Về sự sống đời sau: Hầu như mọi người, mọi dân tộc đều tin có một thế giới khác sau cuộc sống đời này: Người ta tin rằng sau khi chết, con người vẫn còn sống một cách nào đó: “Chết là thể phách, còn là tinh anh”. Trần gian chỉ là nơi ở tạm thời, còn chết là trở về nguồn cội: “Sinh ký, tử quy” nghĩa là: “Sống gửi thác về”. Cũng vì tin người chết vẫn tiếp tục sống ở một thế giới khác, nên người ta thường chôn kẻ chết kèm theo những vật dụng cá nhân của họ như quần áo, mùng mền, những đồ trang sức, và còn đốt vàng mã để gửi về âm phủ cho người chết sử dụng.
2) Nhưng cuộc sống ấy như thế nào ?: Có nhiều ý kiến khác nhau: Đức Phật thì chủ trương có luân hồi: Người ta sẽ lần lượt trải qua nhiều kiếp sống khác nhau. Hồn người chết sẽ đi đầu thai để trở thành một người hay một con vật khác... tùy theo kiếp trước họ đã ăn ở tốt hay xấu. Chỉ những người tu hành đắc đạo, diệt dục, loại trừ “tham sân si” và sống đại từ đại bi... mới được siêu thoát thành Tiên thành Phật trong cõi Niết bàn cực lạc. Còn Đức Khổng Tử thì không dám khẳng định về đời sống sau khi chết vì ngài không được mặc khải rõ ràng. Do đó khi Tử Cống hỏi: “Người chết rồi có biết gì nữa không?” thì Khổng Tử đã trả lời nước đôi như sau: “Nếu ta nói người chết rồi vẫn còn biết, thì sợ các con cháu hiếu thảo sẽ liều mình chết theo ông cha. Nếu ta nói người chết không còn biết gì nữa, thì sợ con cháu bất hiếu sẽ không thèm chôn cất cha mẹ nữa” (Khổng Tử gia ngữ số VIII).
3) Riêng Đức Giê-su: Là Con Thiên Chúa từ trời mà đến, nên đã dạy cho loài người cách rõ ràng về một đời sống vĩnh hằng sau khi chết. Trong bài giảng về Bánh Hằng Sống, Người đã khẳng định: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51). Khi nói chuyện với cô Mác-ta trước khi làm phép lạ cho La-da-rô đã chết 4 ngày được sống lại, Đức Giê-su nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25). Trong Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay, thiên thần đã nói với mấy người phụ nữ rằng: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi!” (Lc 24,5-6).
4) Những đặc tính của sự phục sinh của Chúa Giê-su:
* Không giống như sự sống lại của những kẻ chết được Người cứu sống, vì về sau họ đều bị chết lại giống như mọi người (x. Mc 5,41-42; Lc 7,14-15; Ga 11,39-44).
* Chúa Giê-su cũng không chỉ sống trong thành quả sự nghiệp của Người như người đời thường nói: “Trâu chết để da, người chết để tiếng”. Nhưng Người đã thực sự sống lại.
* Sự sống lại của Chúa Giê-su là trở nên một “Người Sống” (x. Lc 24,5), giống như “Thiên Chúa hằng sống!”: Thánh Phao-lô đã diễn tả sự sống siêu việt ấy như sau: “Chúng ta biết rằng: Một khi Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, thì không bao giờ chết nữa. Cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống là sống cho Thiên Chúa” (Rm 6,9b-10).
* Sự sống lại của Đức Giê-su ban ơn cứu độ: Người đã phá tung mồ đá để sống lại vinh quang và xuống nơi trú ngụ của các vong linh, gọi là Âm phủ (Shéol) hay ngục Tổ tông, để hoàn tất việc loan báo tin mừng cứu độ cho những kẻ đã chết. Người mở một con đường sống cho nhân lọai chúng ta là “Qua đau khổ vào trong vinh quang” (x Lc 24,26; Mt 16,21) là “Cùng chết với Đức Giê-su sẽ cùng được sống lại với Người” (x. 1Pr 3,18). Đó là con đường của đạo Công Giáo (Xem sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 632, 633, 634, 635).
5) Sống mầu nhiệm Phục Sinh: Mừng lễ Phục sinh hôm nay, Hội Thánh mời gọi các tín hữu chúng ta cũng phải chết đi cho con người cũ cùng với những thói hư tật xấu như: ích kỷ, ganh ghét, gian tham, hướng chiều theo các đam mê bất chính… để nhờ ơn Thánh Thần tái tạo trở thành một con người mới luôn quên mình nghĩ đến người khác, sống bao dung từ bi nhân hậu, công chính và luôn khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi… Có như vậy, việc mừng lễ Phục Sinh mới thực sự có ý nghĩa và mới mang lại niềm vui ơn cứu độ và niềm hy vọng sẽ được phục sinh với Chúa sau này.
4. THẢO LUẬN: Khi tuyên xưng đức tin: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”, các tín hữu phải sống thế nào trong xã hội hôm nay, để chứng tỏ niềm tin về thế giới bên kia và về một cuộc sống vĩnh hằng sau đời tạm này ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH, Chúa đã chiến thắng thần chết. Hôm nay con xin dâng lên Chúa lời chúc tụng tạ ơn, vì Chúa đã mang lại cho loài người chúng con niềm vui và hy vọng được sống muôn đời. Chúa đến để chúng con khỏi chết và không ở dưới quyền lực của ma quỷ và tội lỗi nữa, nhưng được sống lại trong ơn nghĩa Chúa. Chúa đến để chúng con “được sống và được sống dồi dào”, để chúng con được tham phần vào sự sống đời đời của Thiên Chúa sau này.
- LẠY CHÚA PHỤC SINH, xin giúp chúng con biết tôn trọng tha nhân, hợp tác với nhau và với mọi người thiện chí để tiêu diệt các sự gian ác tội lỗi, đẩy lùi những tệ nạn xã hội như sì-ke, ma tuý, mại dâm, cờ bạc, say sưa, cướp bóc, lừa đảo, thù hận và làm hại kẻ khác... XIn cho chúng con quyết tâm xóa sạch những điều bất chính ra khỏi bản thân chúng con, khỏi gia đình và khu xóm chúng con. Nhờ đó, mọi người sẽ được sống chan hòa yêu thương nhau, cùng nhau kiến tạo một “Trời Mới Đất Mới”, nơi không còn nước mắt, không còn khổ đau và không còn chết chóc... nhưng là một Thiên đàng đầy tình yêu thương và hạnh phúc viên mãn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH
www.hiephoithanhmau.com
-----------------------------
PS1-279: Đức tin vào sự Phục sinh của Chúa
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 20:1-9)
Cùng một sự kiện, nhưng mỗi người nhìn nó dưới một khía cạnh hoặc quan điểm khác biệt. Bài Tin Mừng về Phục Sinh do thánh Gio-an thuật lại cho chúng ta ba cái nhìn khác nhau của ba người: bà Ma-
Cùng một sự kiện, nhưng mỗi người nhìn nó dưới một khía cạnh hoặc quan điểm khác biệt. Bài Tin Mừng về Phục Sinh do thánh Gio-an thuật lại cho chúng ta ba cái nhìn khác nhau của ba người: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, ông Phê-rô và “người môn đệ Chúa thương mến”. Vậy ba người này đã trông thấy gì và đã phản ứng như thế nào trước những gì họ đã thấy tại ngôi mộ trống của Chúa Giê-su?
Người đầu tiên là bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Bà là người đã được Chúa Giê-su giải thoát khỏi bảy quỷ, nghĩa là bà đã được Chúa chữa lành khỏi một căn bệnh hiểm nghèo (Lu-ca 8:2). Bà cũng đứng dưới chân thập giá, dự cuộc mai táng Chúa và là người đầu tiên đã tới ngôi mộ trống. Chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống là bà nghĩ ngay tới chuyện không hay xảy ra: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Bà biểu lộ lòng yêu mến tuyệt đối với Chúa Giê-su, lo lắng thi thể Người bị lấy cắp. Bà sợ mất Chúa, dù chỉ là một thân xác không còn sự sống, nhưng đối với bà thật quý giá vô cùng. Bà hốt hoảng đến độ không thể nhớ được lời tiên báo của Chúa về cuộc Thương khó và Phục sinh.
Người thứ hai là ông Phê-rô. Ông được báo tin người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, liền vội vàng cùng người anh em môn đệ được Chúa thương mến chạy ra mộ. Tới nơi, “ông vào thẳng trong mộ”. Ông quan sát từng chi tiết, “thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi”. Nhưng ông không đưa ra một nhận định nào hoặc biểu lộ một phản ứng nào. Tất cả những gì ông Phê-rô nhìn thấy chỉ là những dấu chỉ, chứ không phải là bằng chứng nói lên sự sống lại của Chúa Ki-tô. Như vậy là ông Phê-rô chưa nhận ra được điều những dấu chỉ ấy nói lên, bởi vì ông chưa rõ bằng chứng của sự phục sinh. Bằng chứng của sự phục sinh là lời tiên báo của Chúa Giê-su và quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho Người được sống lại từ kẻ chết.
Điều mà ông Phê-rô chưa vượt qua được để nhận ra Chúa Giê-su đã sống lại thật thì giờ đây chúng ta gặp được nơi “người môn đệ được Chúa thương mến”. Người này chạy mau hơn và tới mộ trước ông Phê-rô. Người này cúi xuống và “nhìn thấy những băng vải còn ở đó” trong mộ. Ông không vào là để tôn trọng vai trò của ông Phê-rô, người làm chứng chính, còn ông chỉ là phụ. Nhưng ông lại được diễm phúc làm “bước nhảy vọt của đức tin”, nghĩa là ông hiểu biết thực tại được nói lên do những dấu chỉ ông nhìn thấy. “Ông đã thấy và đã tin”. Từ thấy đi đến tin là bước nhảy và khoảng cách mà con người với sức riêng mình không thể nào vượt qua nổi. Phải có sự can thiệp của Chúa. Chúa đã can thiệp để người môn đệ được thương mến này hiểu được rằng: “Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”.
Dựa vào phản ứng của ba người có mặt tại ngôi mộ trống của Chúa Giê-su, chúng ta nhận được những chiều kích khác nhau của đức tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh. Đức tin vào Chúa Phục sinh không chỉ dựa trên tình cảm hời hợt, nhưng là lòng yêu mến chân thành. Đức tin ấy cũng không loại trừ những hiểu biết thuộc trí óc, trái lại những suy nghĩ hiểu biết đóng góp vào việc phát triển đức tin. Sau hết, nền móng và sức sống của đức tin cần phải đặt trên uy quyền của Lời Chúa là bằng chứng và bảo đảm cho chân lý Chúa Ki-tô phải trỗi dậy từ cõi chết.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Có một chi tiết tuy không quan trọng trong bài Tin Mừng, nhưng lại là hình ảnh đẹp, đó là chạy. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la chạy về báo tin. Hai môn đệ cùng chạy ra mộ. Đặc tính của đức tin là năng động. Đức tin đòi hỏi chúng ta phải chạy. Chạy để loan báo cho người khác biết về Chúa Ki-tô Phục sinh. Chạy để biểu lộ lòng yêu mến Chúa Giê-su như bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã làm. Chạy để “thấy” và để “tin”. Chạy để làm chứng cho niềm tin ấy bằng hành động cụ thể, như phục vụ anh chị em và những người nghèo khó. Chạy để nói với mọi người hãy vui lên và lạc quan, vì đằng sau thánh giá là vinh quang, qua đau khổ là hạnh phúc trường sinh. Tóm lại, chạy là động tác cần thiết của người đem Tin Mừng Phục Sinh.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
-----------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Gio-an 20:1-9)
Bài Tin Mừng không kể lại tỉ mỉ Chúa Giê-su đã sống lại như thế nào, nhưng kết thúc bằng một chân lý dựa trên Kinh Thánh: Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết. Những nhân chứng đầu tiên không tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-su sống lại. Tuy nhiên với một số dấu tích Chúa để lại, như ngôi mộ trống, khăn che mặt, băng vải liệm xác, họ đã dùng con mắt đức tin để nhận ra một thực tại lớn lao hơn nhiều là sự kiện Chúa sống lại. Thánh sử Gio-an đã viết xuống một nhận định hết sức ý nghĩa về biến chuyển đức tin của ngài vào biến cố Phục Sinh: Ông đã thấy và đã tin. Nhận định này nói lên thái độ của ba nhân chứng đầu tiên đối với việc Chúa sống lại từ cõi chết, là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, ông Phê-rô và ông Gio-an.
Vậy họ đã thấy gì? Vừa đến mộ, bà Ma-ri-a thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Đứng ở cửa mộ nhìn vào, ông Gio-an thấy những băng vải còn ở đó. Vào thẳng trong mộ, ông Phê-rô thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giê-su. Nếu để ý, chúng ta nhận ra một chuyển động nói lên biến chuyển của lòng tin, bắt đầu từ bên ngoài mộ tới cửa mộ, rồi từ cửa vào thẳng trong mộ. Chuyển động đó diễn tả biến chuyển từ thấy đến tin, từ trước kia chưa hiểu lời Kinh Thánh đến nay hiểu lời Kinh Thánh nói về Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
Tuy nhiên, đức tin vào Chúa Giê-su sống lại không chỉ dừng lại ở sự kiện Phục sinh, mà còn đưa họ đi xa hơn nữa: theo lệnh truyền của Chúa, họ “sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Chúng ta không được biết bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã làm gì để làm chứng Chúa Giê-su sống lại, nhưng hai ông Phê-rô và Gio-an cùng các bạn Tông đồ của họ thì đã tuân lệnh Chúa, lên đường truyền giáo và lấy cái chết để làm chứng cho Tin Mừng.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Trong cuộc đời Ki-tô hữu, chúng ta đã thấy gì làm chứng rằng Chúa phục sinh đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta? Đâu là những dấu vết chúng ta giúp người khác nhận ra chúng ta đang sống trong niềm hy vọng được sống lại với Chúa trong ngày sau hết?
Trước hết chúng ta nhận ra những dấu vết của Chúa phục sinh trong cuộc đời. Đó là đức tin Chúa in sâu vào linh hồn, giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa yêu thương, quan phòng và dẫn dắt chúng ta. Đức tin ấy đem chúng ta vào đời sống mới theo lối sống của Chúa Giê-su để phụng thờ Thiên Chúa và yêu thương anh chị em. Đức tin ấy cũng thúc đẩy chúng ta biết chu toàn những việc bổn phận của mình trong đời sống hằng ngày. Nhưng nhất là đức tin ấy sẽ đưa chúng ta về sum họp với Chúa và với anh chị em trong hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
Nhưng Chúa cũng truyền dạy chúng ta phải biểu lộ đức tin ấy qua việc làm, những việc làm trở thành dấu chỉ cho người khác nhận biết Chúa. Nếu Kinh Thánh làm chứng Chúa Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết, thì những việc làm của đức tin chúng ta cũng phải làm chứng rằng chúng ta là những Ki-tô hữu đích thực. Chúng ta tin vào lời dạy của Chúa, tin vào căn tính làm con cái Chúa, tin vào lời hứa cứu độ của Chúa… thì việc làm của đức tin chúng ta là sống yêu thương như Chúa dạy, sống đàng hoàng, đạo đức và trở nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện, sống như là đang bước đi về quê hương đích thực là nhà Cha. Sống đức tin như thế là chúng ta tạo ra thật nhiều dấu vết trong cuộc đời chúng ta, để nhờ đó những anh chị em chưa nhận biết Chúa có thể tìm thấy Người và trở về với Người.
Lm. Dominic TTL
-----------------------------
Lễ Vọng Phục Sinh C
Lc 24:1-12: 1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. 3 Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả. 4 Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. 5 Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? 6 Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, 7 là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại." 8 Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 9 Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10 Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. 11 Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin. 12 Dầu vậy, ông Phêrô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.
Đoạn tin mừng 24:1-12 là trình thuật đầu tiên về Chúa Sống Lại trong Luca. Có thể phân chia đoạn như sau: - Các phụ nữ đi đến mộ (24:1-3); - Hai thiên sứ chỉ dạy họ (24:4-8); - Các bà đi báo tin cho nhóm Mười Một (24:9-10a); - Nhóm Mười Một phản ứng trước lời của các bà (24:10b-12). Đoạn nầy đóng khung bởi cụm từ “ra mộ” (24:1.12).
Các phụ nữ ra mộ (24:1-3). Khung cảnh của trình thuật nầy là nơi đã táng xác Chúa Giêsu. Các phụ nữ là những người đã chứng kiến lúc Người được đặt vào trong mộ và cả những điều được tường thuật trong đoạn nầy (x. 23:55-56). Điều khác biệt so với những ghi nhận ở cảnh chôn cất là: sáng sớm ngày thứ nhất sau ngày sabbát, tấm đá đã được lăn ra, và xác Chúa Giêsu không còn nữa. Việc các bà ra mộ và mang theo thuốc thơm từ sáng sớm, vào ngày thứ nhất sau ngày sabbát cho thấy lòng tốt và nao nức của các bà. Các bà muốn xức xác Chúa (x. Mc 16:1), vì hôm táng xác Người, các bà đã không mang theo dầu thơm nên đã trở về nhà chuẩn bị và không thể trở lại mộ ngay lúc ấy vì hôm đó là ngày sabbát. Việc xức thuốc thơm là biểu lộ của lòng mến và lòng tốt, như các bà đã làm cho Người (x. Mc 14:6). Khi đến mộ hai điều gây kinh ngạc cho họ là tảng đá đã lăn ra và không có “xác của Chúa Giêsu” (24: 2-3). Tảng đá chắc chắn đã đóng lại cửa mộ (x. Mc 15:46), và các bà nghĩ là cửa ấy vẫn đóng khi bà đến mộ (x. Mc 16:3-4). Và xác Chúa Giêsu chính mắt các bà đã thấy khi được đặt vào trong mộ như thế nào (24:55), nhưng bây giờ không thấy nữa (24:3). Vậy, việc tảng đá được lăn ra và không còn xác ở trong mộ nữa là dấu chỉ Chúa Giêsu đã đi ra khỏi mộ. Khám phá nầy dẫn các bà đến kinh nghiệm khác lớn hơn không thể so sánh được là Chúa Giêsu đã sống lại.
Hai thiên sứ chỉ dạy các bà (24:4-8). Bối cảnh của phân đoạn nầy là khi các bà đang nghi ngờ về những điều các bà đang thấy, hai thiên sứ đến đứng trước mặt các bà (24:4-5a), giải thích cho các bà hiểu sự kiện (24:5b-7) và phản ứng nơi các bà (24:8). Động từ “aporein” (Lc 24:4; Cv 25:20) có nghĩa là “ở trong tình trạng nghi ngờ, không chắc chắn, bối rối không biết phải quyết định thế nào”. Các bà đã thấy những sự kiện, nhưng không giải thích được và không biết phải làm gì. Trong lúc ấy, hai vị trong y phục sáng ngời, chỉ người đến từ thiên giới, đứng trước mặt họ (Lc 2:9; Cv 1:10; 12:7). Họ là hai, để bảo chứng cho lời nói của họ (x. Đnl 19:15). Việc các bà thấy hai vị thiên sứ nầy được hai môn đệ đi về làng Emmaus nhắc đến (24:23). Phản ứng đầu tiên của các bà là sợ và sấp mặt xuống đất (24:5). Cử chỉ không dám ngẩn mặt nhìn lên nầy diễn tả sự bối rối và lạc hướng (x. Mt 17:6).
Lời giải thích của các thiên sứ là nhắc lại điều mà giả thiết là các bà đã nghe biết: “Tại sao…?”, “Hãy nhớ lại…” Câu hỏi của các thiên sứ cho thấy sự phi lý của việc tìm kiếm “người đang sống” ở giữa “những kẻ chết” (24:5; Cv 1:3; 25:19). Người không thuộc thế giới người chết, vì Người là Thiên Chúa của những người đang sống (x. 20:38). Tiếp theo, các thiên sứ quả quyết là Chúa Giêsu không ở đây, trong mộ nữa giữa những người chết, mà Người đã sống lại. Động từ “ēgerthē”, “sống lại”, ở thể thụ động như thường thấy ám chỉ là Thiên Chúa làm cho Chúa Giêsu sống lại. Các thiên sứ ra lệnh cho họ “Hãy nhớ lại…”. Và chính các thiên sứ nhắc lại điều Chúa Giêsu đã tiên báo về cuộc thương khó và phục sinh của Người (9:22.31.44; 17:25; 18:32tt; 24:7.26.46). Các bà thường đi theo giúp Chúa Giêsu và các môn đệ x. (:1-3), nên chắc chắn các bà đã nghe những điều nầy. Việc các bà “nhớ lại” (24:8) chấm dứt phân đoạn nầy: Như thế, việc nhắc lại lời tiên báo ở giữa cảnh mộ trống và không có xác Chúa Giêsu cho thấy điều cuối cùng trong các lời tiên báo ấy “ngày thứ ba Người sẽ sống lại” đã được thực hiện, và việc các bà đi tìm Chúa “nơi của kẻ chết” là không đúng chỗ.
Phản ứng của các môn đệ (24:9-12). Tuy không nhận lệnh truyền là đi loan báo cho các môn đệ, các bà đã làm điều nầy. Khung cảnh của phân đoạn là nơi nhóm Mười Một và các môn đệ khác (24:9): - lời kể lại của các bà (24: 9-10a) và phản ứng của những người nghe (24:10b-12). Lần đầu tiên, các bà trở lại từ mộ Chúa Giêsu để chuẩn bị dầu thơm (23:56). Lần nầy, không xức dầu thơm được cho Người, các bà cũng trở lại từ đó, để loan tin Người đã sống lại. Động từ “angellō” “loan tin”, 11 lần trong Luca, là loan báo hay thuật lại sự kiện hay điều đã chứng kiến (7:18.22; 18:37). Tuy nhiên, trong trình thuật sống lại nầy, động từ nầy mang ý nghĩa sâu xa hơn. Không chỉ là thuật lại điều các bà đã gặp trong mộ, mà “tất cả những điều ấy” (24:9) nghĩa là cả những gì các bà đã hiểu về sự việc đã xảy ra và lòng tin vào Chúa sống lại được bày tỏ qua những dấu chỉ ấy (x. 24:8). Tuy nhiên, điều các bà loan báo không được tin. Nhóm Mười Một, thiếu Giuđa (x. 22:3-6), không xem đó là điều khả tín. Phêrô chạy ra mộ để minh xác điều đã được nghe; Chúa Giêsu đã giao cho Phêrô nhiệm vụ củng cố đức tin cho anh em ông (x. 22:32). Chỉ Luca và Gioan ghi nhận là Phêrô đến để quan sát mộ trống, và trong mộ ấy chỉ có tấm khnă liệm chứ không có xác của Chúa Giêsu (24:12; Gio 20:5.6.7). Ông từ thái độ không tin đến kinh ngạc. Ông không chỉ kinh ngạc về điều đã thấy, mà cả những gì đã xảy ra, nghĩa là cả những điều do các phụ nữ kể lại (x. 2:18.33; 4:22;20:26). Vậy, các phụ nữ là những người đầu tiên mang chứng từ Chúa Giêsu sống lại cho nhóm Mười Một và các môn đệ khác. Họ đã ra khỏi phòng và đi gặp Đức Kitô Phục sinh (24:12.34).
Chúa Kitô đã ra khỏi mộ. Người không ở giữa kẻ chết nữa, vì Người đang sống. Hãy đi gặp Người.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
-----------------------------
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Ga 20, 1-9
Thói thường ít khi người ta nghĩ con người chết rồi có thể hoàn sinh.Nói người chết sống lại dễ gây ngạc nhiên có khi gây sợ hãi cho những người sống. Đọc lại lịch sử thế giới, chúng ta không thấy một vị nguyên thủ quốc gia nào, một vị Vua, một vị Hoàng Đế nào trên thế giới dù có tiền của chất núi, có đầy đủ phương diện y khoa cao cấp nhất, đã dùng tiền của để làm cho mình sống mãi trên trần gian để hưởng thụ, để vinh thân phì gia. Chưa có một vị bác học, một bác sĩ y khoa danh tiếng nào công bố mình đã sáng chế ra một thứ thuốc cải lão hoàn đồng. Chưa có một vị sáng lập đạo nào ngoài Kitô giáo đã dám tuyên bố :” Chết ba ngày sẽ sống lại”. Cái mà thế gian không làm được, cái mà thế gian ước mơ vươn tới không bao giờ có thể với tới thì Đức Giêsu đã làm được. Vị Vua Chúa ấy đã làm một chuyện kinh thiên động địa:” Chết sau ba ngày nằm trong mồ hôm nay đã sống lại khải hoàn”…
ĐIỀU KHÔNG THỂ TIN LẠI LÀ THẬT: Các sách Guinness và sự lạ của các nuớc trên thế giới đều ghi lại những kỷ lục tuyệt vời con người làm được, những sự lạ lùng gây chóng mặt và hồi hộp, xúc động cho con người. Tất cả những việc lạ lùng con người làm được, vượt được trên thế giới này đều đáng được ghí nhớ, được trân trọng ghi lại cho hậu thế soi chung. Tuy nhiên, đọc những kỷ lục, những chuyện lạ thế giới, chúng ta đều không tìm ra một vụ việc kinh ngạc, đáng khâm phục và bắt con người phải suy đi nghĩ lại nhiều lần, bắt con người phải dùng đức tin mới hiểu nổi như sự việc Đức Giêsu sống lại sau khi đã được mai táng trong mồ ba ngày…Tin Mừng thánh Gioan thuật lại :” Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ”( Ga 20,1 ). Maria Macđala lúc này vẫn chưa hiểu chuyện gì, nhưng có một điều quí hoá là bà đã trở về ngay và loan báo sự việc ấy với các môn đệ Simon Phêrô và Gioan:” Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”( Ga 20, 2 ). Khi được loan báo vụ việc, Phêrô và Gioan đều nhanh nhảu đi tới mộ. Phêrô có tuổi chạy chậm hơn nên tới sau tông đồ Gioan. Mặc dầu tới trước, nhưng Gioan không vào vì tôn trọng Phêrô. Gioan thấy những băng vải còn trong mồ ( Ga 20, 5 ). Phêrô tới và vào ngay trong mộ, ông thấy những băng vải còn để đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi ( Ga 20, 7 ). Tin Mừng đoạn này không nói gì tới phản ứng và thái độ của Phêrô. Còn Gioan, Phúc âm thánh Gioan kể tiếp:” Ông đã thấy và đã tin”( Ga 20, 8 ).
Đây là điều quan trọng vì trước đó cả Phêrô, cả Gioan đều chưa hiểu:” Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” ( Ga 20, 9 ). Thánh Phêrô và Gioan giờ nghiệm ra rằng Chúa phục sinh hoàn toàn khác với lúc Chúa còn ở trần gian. Đây là một thân xác hoàn toàn mới chỉ con mắt đức tin mới nhận ra Ngài. Một điều xem ra hết sức khó tin lại trở nên điều hết sức dễ tin, dễ nhận, dễ hiểu. Chúa phục sinh ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với Maria Mácđala nhưng cô không nhận ra, khi hiện ra với các môn đệ, Người phải đưa ra các vết thương của Người, để chứng tỏ chính là Người, một người trước đó đã chết. Chúa phục sinh khắc hẳn với thân xác lúc xưa khi Người còn sống.
TIN MỪNG PHỤC SINH LUÔN CÓ MẶT MỌI THỜI, MỌI NƠI:
Chúa phục sinh đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ: với hai môn đệ trên đường Emmaus, với các môn đệ trong nhà tiệc ly, trên biển hồ Tibêria. Chúa phục sinh vẫn hiện diện giữa mọi người, những người tin vào Người, ở mọi nơi trong mọi thời đại . Đây là tin hạnh phúc, tin vui mừng không những cho dân thành Giêruasalem, nhưng là cho toàn dân trên toàn thế giới. Tin hạnh phúc và vui mừng, chính là Đức Giêsu phục sinh, Đấng đã phá tan đêm tối, Đấng đã xóa tan sự chết và mang lại sự sống mới, ánh sáng cho mọi người. Tin Mừng phục sinh chính là Đức Giêsu phục sinh đem lại niềm tin, niềm cậy trông, sự an bình và niềm vui cho con người. Đức Giêsu không thể bị sự chết cầm lại trong mồ, Người đã phá tan mồ để đi ra khỏi mồ và bẻ gẫy xiềng xích của tội lỗi để ban ơn cứu độ cho con người.
Vâng, Tin Mừng phục sinh luôn là chuyện hiện thực cho những người có niềm tin, nghĩa là niềm vui phục sinh là đẩy xa tội lỗi để sống đời sống mới, đời sống đầy ắp Chúa. Tin Mừng phục sinh được loan báo chính là sống niềm vui, sự hạnh phúc và sự an bình trong tình yêu tuyệt vời là Đức Giêsu sống lại.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra bộ mặt yêu thương của Chúa sống lại. Alléluia.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
-----------------------------
(Lu-ca 24: 1-12)
Bài Tin Mừng truyền thống của Thánh Lễ Chúa Nhật Phục Sinh là Gio-an 20:1-9. Tuy nhiên năm nay là chu kỳ Phụng vụ năm C, nên ta có thể suy niệm sự Phục Sinh của Chúa theo Tin Mừng Lu-ca. Những trình thuật Phục Sinh trong các sách Tin Mừng không đưa ra những tài liệu lịch sử hay khoa học để chứng minh Chúa sống lại, nhưng lại đồng quan điểm khi nêu lên sự kiện ngôi mộ trống và những lần Chúa hiện ra với nhiều người khác nhau. Sự kiện ấy và những lần hiện ra của Chúa đòi hỏi môn đệ Người phải có đức tin thì mới chấp nhận được sự Phục Sinh của Người. Tuy nhiên mỗi tác giả Tin Mừng trình bày đức tin của các môn đệ một cách. Vậy ta thử theo bước thánh sử Lu-ca để suy nghĩ về đức tin của các môn đệ và xét lại đức tin của chính ta vào sự Phục Sinh như thế nào.
1) “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?”
Đức tin là cuộc gặp gỡ giữa ta với Chúa. Cuộc gặp gỡ này biến thành một quan hệ mật thiết, nhưng có nhiều khi cũng gặp trở ngại hay khủng hoảng, để rồi sau khi vượt qua được những thử thách ấy, đức tin của ta được phát triển hơn. Thánh Lu-ca dùng hình ảnh những người đi đến mộ - trước tiên là mấy phụ nữ, sau là ông Phê-rô - để nói lên điều gì đó về đức tin của họ và chứng từ về đức tin của họ.
Khi các bà đến mộ, không thấy xác Chúa, nhưng lại thấy “hai người đàn ông y phục sáng chói” thì các bà sợ hãi. Sự sợ hãi tâm lý này làm cho ta liên tưởng đến sự sợ hãi thiêng liêng trong hành trình đức tin của họ. Họ là những người đã đi theo Người từ Ga-li-lê và giúp đỡ công cuộc rao giảng Tin Mừng của Người. Đối tượng đức tin của họ là một Chúa Giê-su đầy quyền năng trong lời nói cũng như việc làm. Nhưng giờ đây, đối tượng ấy hầu như đã mất, vì sau khi Chúa Giê-su tắt thở trên thập giá, thì “đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy” (Lc 23:49).
Câu hỏi và lời giải thích của hai thiên thần đã nhắc nhở các bà về đối tượng đức tin đã mất. “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi”. Đấng đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống, giờ đây được các thiên thần gọi là “Người Sống”. Mà danh hiệu Người Sống cũng chính là danh hiệu của Thiên Chúa. Nhắc nhở về đối tượng đức tin rồi, các thiên thần mời gọi các bà tiếp tục hành trình đức tin bằng cách nhớ lại những điều Chúa Giê-su đã nói trước về cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Người. Nhớ lại là phương thức khôi phục đức tin. Khởi đầu là nhớ lại những điều Chúa đã nói, tiếp theo là nhớ lại mối quan hệ giữa họ với Chúa. Cứ thế, họ sẽ dần dần xác tín Chúa Giê-su “không còn ở đây nữa”, nghĩa là Chúa không còn ở giữa kẻ chết nữa, nhưng Người đã sống lại rồi.
Lời nhắc nhở của các thiên thần khiến ta phải suy nghĩ rất nhiều về thái độ “tìm Người Sống ở giữa kẻ chết” của chúng ta. Thực vậy, cuộc sống của ta ở trần gian này là đi tìm và gặp gỡ Chúa. Thế mà rất nhiều khi ta cứ đòi tìm gặp Chúa ở những nơi chốn của kẻ chết, của tội lỗi. Làm sao ta có thể gặp Chúa ở những nơi người ta chen chúc tìm danh vọng, lạc thú, tiền của là những thứ phù vân, hay hư nát, mối mọt có thể đục khoét!
2) “Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy”
Lúc tới mộ, các bà gặp “hai người đàn ông y phục sáng chói”. Có lẽ ta bỡ ngỡ không hiểu thánh Lu-ca muốn ngụ ý gì khi kể lại sự hiện diện của hai thiên thần dưới hình ảnh “hai người đàn ông”. Ngài muốn nói đến việc rao giảng Tin Mừng. Đúng vậy, trong suốt sách Tin Mừng của ngài, các môn đệ được Chúa Giê-su sai đi rao giảng Tin Mừng, cứ hai người một. Cho nên sự xuất hiện của “hai người đàn ông” nơi đây là để nói lên gương mẫu rao giảng Tin Mừng. Cốt lõi lời giảng của hai vị này là: “Chúa không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi”. Họ đã rao giảng Tin Mừng cho các bà, để rồi đến lượt các bà ra về và rao giảng cho người khác.
Việc các bà loan báo Tin Mừng cũng đem lại kết quả, tuy là kết quả không mấy khả quan. Các Tông đồ sau khi nghe họ kể lại những gì họ đã gặp và nghe ở ngôi mộ thì “cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin”. Nhưng riêng ông Phê-rô thì khác. Ông “đứng lên chạy ra mộ”, hay nói khác đi, ông cũng bước vào một cuộc hành trình tìm lại đức tin đã mất, như các bà đã làm. Kết quả là “ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra”. Rất đỗi ngạc nhiên không có nghĩa là ông không tin Chúa đã sống lại, nhưng là ông thực sự tin và lấy làm lạ cùng suy nghĩ về những gì đã xảy ra cho Chúa Giê-su mà thôi.
Rao giảng Tin Mừng Phục Sinh là bổn phận của mọi Ki-tô hữu. Tuy nhiên rao giảng như thế nào mới là điều quan trọng. Trước hết, Phục Sinh đã làm cho ông Phê-rô “rất đỗi ngạc nhiên”, thì Phục Sinh cũng phải gây ngạc nhiên cho ta, để ta luôn nhớ suy tư về ý nghĩa của Phục Sinh đối với đời sống của ta. Khi đã hiểu được ý nghĩa Phục Sinh, ta mới có thể rao giảng. Nhưng rao giảng làm sao?
Điều hai thiên thần nói với các bà, đó chính là cách rao giảng của ta. Ta sống thế nào để những người chung quanh thấy rằng, mặc dù ta đang “ở giữa kẻ chết”, nhưng ta đang gặp Người Sống tức là Chúa Giê-su. Chúa Giê-su “hiện ra” qua lối sống của ta, qua lời nói và việc làm của ta. Càng thấm nhuần lối sống của Chúa, ta càng dễ dàng để cho Chúa “hiện ra” rõ rệt hơn. Như vậy, mỗi ngày sống của ta sẽ trở thành một ngày rao giảng về sự Phục Sinh của Chúa.
3) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi đánh mất đối tượng đức tin của tôi là Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa không? Tôi thử suy nghĩ thêm về trường hợp đánh mất ấy. Tại sao mất? Tôi tìm lại Chúa như thế nào?
Nhìn vào lối sống của tôi, người ta gặp thấy một Chúa Giê-su là Người Sống hay một Chúa Giê-su là kẻ chết? Những hành vi và lời nói nào của tôi biểu lộ một Chúa Giê-su đích thực và sống động?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chắng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người Ki-tô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 87)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
-----------------------------
(Lu-ca 24: 13-35)
Tuy bài Tin Mừng thường nghe hôm nay là của thánh sử Gio-an kể lại sự kiện ngôi mộ trống, nhưng đi theo Phụng vụ Lời Chúa năm C, Chúa Nhật Phục Sinh cũng sử dụng Tin Mừng Lu-ca để giúp ta suy niệm về ý nghĩa sự sống lại của Chúa trong hành trình đức tin người Ki-tô hữu. Câu truyện Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau được thánh Lu-ca thuật lại như một Thánh lễ đầu tiên sống động từ sau khi Chúa Giê-su thiết lập Bí tích Thánh Thể. Ta coi biến cố ấy là một Thánh lễ, vì nó bao gồm hai yếu tố chính, đó là Lời Chúa và Thánh Thể. Thánh lễ Phục Sinh nhấn mạnh đến sự hiện diện của Chúa Giê-su giữa cộng đồng tín hữu, dẫn dắt họ đến với đức tin trọn vẹn. Hai môn đệ đã được nghe Lời Chúa trên đường đi và tham dự vào việc Người bẻ bánh. Lời Chúa soi sáng ý nghĩa Phục Sinh và Thánh Thể dưỡng nuôi linh hồn sẽ giúp cho hành trình đức tin của ta được hoàn tất như thế nào?
a) “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét”
Sau khi Chúa Giê-su tắt thở trên thập giá, “chuyện ông Giê-su Na-da-rét” lập tức trở thành đề tài thời sự cho người dân Giê-ru-sa-lem. Người ta càng thắc mắc bàn tán về con người và sứ mệnh của Chúa hơn nữa. Làm sao người ta hiểu được, vì đâu phải chuyện dân gian, mà là chuyện của “thiên ý nhiệm mầu” (Ep 1:9) hoặc chuyện của “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3:16)! Hai môn đệ trên đường Em-mau cũng ở trong tình trạng tương tự. Các ông muốn hiểu “chuyện ông Giê-su Na-da-rét” như mọi người đương thời, nghĩa là chuyện của một vị anh hùng sẽ giải phóng Ít-ra-en khỏi ách nô lệ cho đế quốc Rô-ma giờ đây sa cơ thất thế. Trước tình trạng ấy, Chúa Giê-su đã phải thốt lên: “Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ!” Rồi Chúa Giê-su giúp hai ông cử hành Phụng vụ Lời Chúa để hiểu Mầu nhiệm Đức Ki-tô là gì.
Thánh Lu-ca viết về phần Phụng vụ Lời Chúa của Thánh lễ Phục Sinh như sau: “Bấy giờ Chúa Giê-su nói với hai ông: ‘... Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?’ Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho các ông hiểu “chuyện ông Giê-su Na-da-rét” như thế nào, hoặc nói đúng hơn, hiểu và sống “Mầu nhiệm Đức Ki-tô.”
Không phải lần đầu tiên Chúa Giê-su nói về Mầu nhiệm của Người. Qua các bài giảng, những phép lạ, người ta đã có thể nhận ra những hình ảnh về Người rồi. Trước khi ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, các bạn ông đã cho Chúa biết dân chúng nói Người là ai. “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” (Mt 16:14). Nhưng sau khi Phê-rô tuyên xưng, Người vẫn “cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.” Tại sao thế? Vì các ông vẫn chưa hiểu hoặc không muốn chấp nhận một Đấng Ki-tô như Chúa muốn các ông biết và theo. Đấng Ki-tô ấy đã được Chúa Giê-su mô tả khi Người cho các ông hay: “Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21).
Mầu nhiệm có những điều không thể hiểu, hoặc vì nó đi ngược với lô-gích của con người, hoặc vì ta chỉ nhìn thấy một phần nhỏ của cả một cơ cấu chứ không thấy được toàn diện trong cùng một lúc. Mầu nhiệm Ki-tô có cả hai điểm trên. Ngược với lô-gích, vì tại sao Đấng Ki-tô không sử dụng quyền năng của Thiên Chúa mà lại phải dùng đến đau khổ và cái chết để cứu chuộc nhân loại. Chỉ thấy được một phần nhỏ, vì ta không biết nhìn trước nhìn sau, chỉ thấy đau khổ mà không thấy niềm vui, thấy thánh giá mà không thấy vinh quang, dừng lại ở cái chết để mà trách móc mà không biết hướng về sự sống lại sẽ tới sau. Mầu nhiệm Đức Ki-tô là kết tụ của những cách thức Thiên Chúa yêu thương nhân loại quá đỗi đến nỗi ban Con Một của Người. Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa muốn “cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giê-su, Thiên Chúa “phán dạy chúng ta” (Dt 1:2). Qua cuộc Thương Khó, Thiên Chúa “yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2:20). Cuối cùng, qua sự Phục Sinh của Chúa Ki-tô, Thiên Chúa cho ta được “biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh... với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10,11). Chúa Giê-su đã sử dụng Kinh Thánh để ghép lại tất cả những nét riêng rẽ làm thành một hình ảnh đích thực và trọn vẹn về Người, mà Phục Sinh là nét cuối cùng và quan trọng nhất để kết hợp tất cả những nét khác cho ta thấy được Đấng Ki-tô Phục Sinh là ai.
b) “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”
Hai môn đệ Em-mau đã được gặp gỡ Chúa Giê-su qua Kinh Thánh. Nhưng gặp gỡ không phải chỉ ở mức độ tri thức, mà phải đi tới tình cảm, phải là gặp gỡ của những trái tim. Thì đây là cơ hội để các ông được kết hiệp với Chúa Phục Sinh: qua Phụng vụ Thánh Thể. Vẫn cùng những cử chỉ “cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao ban”, Chúa Giê-su đã mở con mắt đức tin cho họ. Nhưng thánh Lu-ca lại cho chúng ta một chi tiết mang ý nghĩa thật sâu xa, đó là “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.” Có phải Chúa Giê-su chơi trò cút bắt với họ không? Không đâu. Thân xác phục sinh của Chúa biến đi, nhưng thân xác bí tích của Chúa vẫn ở lại với họ để họ rước lấy và được kết hiệp với Người. Thân xác phục sinh phải biến đi để thân xác bí tích trở nên lương thực thiêng liêng dưỡng nuôi họ trong hành trình đức tin.
c) Thánh lễ hôm nay
Thánh lễ Phục Sinh đầu tiên là như vậy. Thánh lễ ấy đã cho hai môn đệ Em-mau cơ hội hiểu biết Mầu nhiệm Đức Ki-tô và kết hiệp với Người, nhờ đó các ông có đủ sức đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem để loan báo Tin Mừng. “Hai ông thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường và họ đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (Lc 24:35). Đáp lại, các Tông đồ và những môn đệ khác cũng cho họ biết Tin Mừng “Chúa sống lại thật rồi!” Ta có thể tưởng tượng Thánh lễ Phục Sinh cũng đã được cử hành tại nơi các Tông đồ và môn đệ đã tụ họp. Để mọi người được biết cùng yêu mến Mầu nhiệm Ki-tô và nhất là được kết hiệp với Chúa Ki-tô.
Thánh lễ ngày nay cũng không đi ra ngoài mục đích ấy. Phụng vụ Lời Chúa là để giúp ta mỗi ngày, mỗi Chúa Nhật, mỗi mùa được biết Chúa Ki-tô là ai, được lắng nghe những lời Người dạy dỗ mà hoán cải con người ta. Phụng vụ Thánh Thể mời gọi ta đến lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa để ta được “ở lại” trong Chúa và Chúa “ở lại” trong ta.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Hai môn đệ Em-mau đã nhờ những giải thích của Chúa Giê-su về Kinh Thánh mà tìm lại được niềm tin đã mất. Còn tôi, Kinh Thánh đóng vai trò nào trong đời sống đức tin của mình? Đọc và cầu nguyện bằng Kinh Thánh có phải là phương thức nuôi dưỡng đức tin của tôi không? Tôi phải bắt đầu học hỏi Lời Chúa và tập cầu nguyện bằng Kinh Thánh như thế nào?
Có lẽ tôi không chú ý đủ trong phần Phụng vụ Lời Chúa, nên rước Chúa cũng chẳng thấy sốt sắng. Vậy tôi đã thực sự “biết” Đức Ki-tô chưa? Đã “yêu mến” Người chưa? Đã mong mỏi được “kết hiệp” với Người chưa?
Tôi có ý định học hỏi về Thánh lễ để tham dự một cách hữu hiệu không? Sẽ học hỏi như thế nào?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa là thức ăn, thức uống của con.
Càng ăn, con càng đói; càng uống, con càng khát;
càng sở hữu, con lại cang ước ao.
Chúa ngọt ngào trong cổ họng con hơn cả tảng mật ong,
vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên đời.
Lúc nào con cũng thấy đói khát và ước ao,
vì con không sao múc cạn được Chúa.
Ngài nghiền nát con hay con nghiền nát Ngài?
Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con, con cảm thấy cả hai.
Chúa đòi con nên một với Ngài,
đòi hỏi đó làm con đau đớn,
vì con không muốn từ bỏ những thói quen của con
để ngủ yên trong tay Chúa.
Con chỉ biết tạ ơn Chúa, ca ngợi và tôn vinh Chúa,
bởi đó là sự sống đời đời cho con.
- Ruy Broeck
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 104)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
-----------------------------
Các bạn trẻ rất thân yêu,
Qua những tường thuật của Thánh Kinh về biến cố Phục Sinh cho phép chúng ta tiếp tục suy nghĩ về Điểm Hẹn mà cha đã đề nghị với các bạn ngày Lễ Quốc Tế Giới Trẻ vừa qua. Thực vậy, Thánh Phêrô khẳng định là Đấng Phục Sinh không hiện ra cho toàn dân mà chỉ cho những người được Thiên Chúa tuyển chọn. Họ là ai ?
Họ là Maria Magdalena, là Phêrô, là Gioan, là các môn đệ... cách chung họ là những người mà trước khi gặp Đức Giêsu, thường xuyên có mặt ở những tụ điểm rất quen thuộc với mọi người trẻ : chỗ vui chơi, nơi nghề nghiệp... nhưng rồi họ đã có lần gặp gỡ Ngài ngay trong đời thường vật lộn ấy, và họ từ đó thay đổi Điểm Hẹn. Người ta thấy họ trên suốt hành trình của Đức Kitô, gặp họ trong các nơi ĐGS thường đến đó cầu nguyện, nhìn thấy họ trong vườn cây dầu, trong nhà tiệc ly, trên Núi Sọ, và giờ đây nơi ngôi mộ trống. Ở tất cả những Điểm Hẹn mới mẻ này, điều họ tìm kiếm không phải là những của cải vật chất, nhưng là một con người : Con Người Đức Giêsu. Họ tìm kiếm vì Tình Yêu. Do đó xem ra họ rất là vội vã. Họ không đem theo bất cứ hành trang nào, Tình Yêu là hành trang duy nhất của họ.
Thánh Kinh dường như ủng hộ họ.
Những con người đầu tiên được thấy Đấng Phục Sinh chính là những con người được Đức Giêsu yêu mến, và cũng là người muốn yêu ĐGS hơn mọi người. Nhưng Tình Yêu ĐGS nơi họ đã có những biến chuyển kỳ diệu : trước đây, có thể là họ vẫn mang trong tình yêu những dấu vết của tội lỗi : tính chiếm đoạt : câu chuyện anh em Gioan & Giacôbê vẫn còn đó để làm chứng. Nhưng ở ngôi mộ trống tất cả đã thay đổi, tình yêu không còn là cái đi tìm "Thân Xác" đã được chôn vùi, mà là đi tìm Đấng đã hẹn họ ở Galilêa, với một sứ vụ mới. Họ đã bỏ ngôi mộ ấy, và tụ về Galilê, để rồi nhận từ Đấng đã yêu họ bằng tình yêu cho đến cùng, mệnh lệnh ra đi loan báo và làm chứng Đấng họ yêu mến.
Thực ra, Galilê không phải là một địa danh tự nó tương xứng với Đấng Phục Sinh, trái ngược lại là khác, vì đó được Thánh Kinh coi là vùng dân ngoại. Nó chỉ là Điểm Hẹn tiêu biểu : Đấng Phục Sinh hiện diện ở chính những nơi cần xóa tan bóng tối sự chết, người môn đệ với tình yêu của Thánh Thần sẽ hiểu được điều ấy, và họ sẽ ra đi để gặp gỡ Người mình yêu. Chính khi băng mình vào công cuộc loan báo sự sống ở những nơi đầy chết chóc, mà người môn đệ tìm lại được chính sự sống của mình. Đó là điều thánh Phaolô một cách đặc biệt nói đến trong lá thư của Người.
Các bạn trẻ rất thân yêu,
Đấng Phục Sinh hẹn bạn lên đường gặp Ngài cách đặc biệt trong mỗi Thánh Lễ Chúa Nhật. Các bạn cần lên đường với sự nôn nóng của Tình Yêu. Vì chỉ có Tình Yêu mới cho các bạn nhận ra Người.
Linh Mục Giuse Nguyễn Hữu Duyên
-----------------------------
Alleluia! Ngài đã sống lại và đã ra khỏi mồ! Thần chết không còn quyền lực trên chúng ta nữa. "Viên đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở nên viên đá góc tường. Thiên Chúa đã làm những việc kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã dựng nên, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan" (Tv 118, 22-24)
Hãy hình dung sự kinh ngạc mà Phêrô và Gioan cảm nghiệm khi Maria Magdalena bảo họ là xác Thầy không còn trong mồ đá. Khi họ vào trong mồ, họ chỉ thấy có khăn liệm và băng vải. Có lẽ tim họ đã rộn lên và lòng họ đã nên cuống cuồng vì không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Sau đó chúng ta nghe Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ và các bà. Điều đó chứng thực rằng Ngài đã sống lại từ cõi chết! Khi các sự việc lạ lùng này được bày tỏ, các môn đệ như được mang một niềm hi vọng sống động rằng mình sẽ được cùng Đức Kitô hiển trị.
Trong sách Tông Đồ Công Vụ, khi Phêrô làm chứng cho Cornelius và những người ngoại, ông đã mạnh bạo tuyến tín về Chúa Giêsu Đấng đã chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. "Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do Thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước là chúng tôi, những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại" (Cv 10, 39-42).
Các Tông Đồ là những nhân chứng về tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm. Ngài đến với Thần Khí và quyền năng. Ngài cũng ban cho các Tông Đồ và những kẻ tin Ngài những quyền năng ấy để thi hành những công việc của Ngài. Chúng ta đã lãnh nhận những quyền hạn và sức mạnh này qua bí tích Rửa Tội và Thêm Sức. Đôi khi chúng ta trở nên tự mãn trong đức tin, nhưng Lễ Phục Sinh là dịp nhắc nhớ chúng ta rằng nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ được cùng Ngài sống lại.
Chúng ta hãy hồi tâm nếu thấy mình tỏ ra thờ ơ trong niềm tin. Chúa Giêsu muốn tha thứ chúng ta, rửa sạch chúng ta và bổ sức cho chúng ta – Đó là lý do vì sao Ngài đã chết cho chúng ta trên thập tự và đã sống lại trong vinh quang và quyền lực. Chúng ta hãy tìm kiếm những điều Chúa Giêsu mong muốn cho chúng ta. Hãy nhìn vào Ngài, Đấng có sức mạnh làm cuộc đời ta thay đổi. Trong bất cứ trạng huống nào của cuộc đời, hãy vui mừng và hi vọng vì Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Ngài ngự trị trên tất cả. Và chúng ta được mời gọi để cùng Ngài chia sẻ sự chiến thắng trên tội lỗi và thần chết. Hãy luôn nhớ rằng "Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Col 3, 1-3).
-----------------------------
Kinh nghiệm về mầu nhiệm Phục Sinh gồm hai khía cạnh: tiêu cực và tích cực. Trước tiên, đó là kinh nghiệm về một sự khiếm diện, một sự trống vắng, nhưng là sự trống vắng có giá trị của một dấu chỉ về sự sống. Sau đó sẽ là trải nghiệm chính sự sống đó. Trình thuật về ngôi mộ trống ( Ga 20, 1 – 9 ) hôm nay đề cập đến khía cạnh thứ nhất của kinh nghiệm về mầu nhiệm Phục Sinh.
“Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magđala ra mộ, thì thấy tảng đá đã bị đem đi khỏi mộ” ( 20, 1 ). Trong bản văn Hy Lạp, tác giả dùng từ prôi, dịch là sáng sớm, tảng sáng. Prôi là lúc đã có ánh sáng rồi. Xét theo quan điểm thời gian, thật khó dung hoà với ghi nhận “lúc trời còn tối” được tác giả viết ngay sau đó.
Tuy nhiên, trong ngôn ngữ của Gioan, “bóng tối” có nghĩa là tình trạng ( trước tiên là tinh thần và tâm linh ) đối nghịch với Sự Thật đem lại Sự Sống ( 1, 5; 3, 19; 6, 17; 12, 35 ). Vì thế, có lẽ phải hiểu “còn tối” ở đây theo nghĩa ám chỉ tình trạng tinh thần và tâm linh của bà Maria Magđala. Bà đi ra mộ với tâm trạng hoàn toàn bị chi phối bởi cách hiểu sai lạc về cái chết của Đức Giêsu và bà đã không nhận ra rằng ngày mới đã bắt đầu rồi, rằng trời đã sáng rồi. Bà tìm Đức Giêsu nơi cõi của người chết. Bà nghĩ rằng sự chết đã chiến thắng. Bà chỉ có ý định đi thăm mộ Đức Giêsu thôi, chứ không có ý làm bất cứ điều gì khác.
Khi đến nơi, bà thấy tảng đá đã bị đem đi khỏi mộ. “Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô và gặp người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” ( 20, 2 ).
Ta có cảm tưởng bà Maria chạy đôn chạy đáo báo động. Chú ý: tác giả lặp lại giới từ pros, ám chỉ ông Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến đang ở hai nơi chốn khác nhau. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói trước, các môn đệ bị phân tán: “Này đến giờ – và giờ ấy đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả” ( 16, 32 ).
Nhưng thay vì thông báo cho các môn đệ Đức Giêsu rằng tảng đá đã bị đem đi khỏi mộ như bà đã nhìn thấy, thì bà Maria lại nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”. Việc tảng đá bị đem đi khỏi mộ vốn là dấu hiệu chứng tỏ sự chết không còn chặn lối Đức Giêsu được nữa. Nhưng dấu hiệu ấy đã bị bà Maria hiểu sai hoàn toàn. Dấu hiệu của sự sống bị hiểu thành dấu chỉ của sự mất mát. Đối với bà Maria, Đức Giêsu là Chúa, nhưng là vị Chúa đã bị tước sạch mọi quyền bính, và lúc này bà chẳng biết vị Chúa ấy đang bị đặt ở đâu. Bà vẫn chưa ra khỏi kinh nghiệm đau thương về sự kiện Đức Giêsu bị nộp và bị giết. Bà là hình ảnh của cộng đoàn đang mất phương hướng vì cái chết thê lương của Đức Giêsu. Bóng tối được nói đến ở câu 20 phản ánh tình cảnh của cộng đoàn đó. Cộng đoàn đang hoang mang tìm kiếm, nhưng là tìm kiếm Đức Chúa đã bị sự chết khuất phục. Đức Chúa của cộng đoàn đã bị “người ta” đặt ở nơi nào họ muốn, và do đó, cộng đoàn các đồ đệ trở nên hoàn toàn bất lực và bất hạnh.
“Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước” ( 20, 3 – 4 ). Cả hai môn đệ đều phản ứng giống nhau trước thông tin mà bà Maria cung cấp. Hai ông đều đi ra mộ. Cả hai ông đều gắn bó với Đức Giêsu. Nhưng trên đường đi, đã xảy đến một sự thay đổi quan trọng: người môn đệ Đức Giêsu thương mến chạy mau hơn ông Phêrô và đến mồ trước. Để hiểu rõ hơn chi tiết này, có lẽ chúng ta cần chú ý đến cách tác giả Gioan mô tả về người môn đệ tới mộ trước.
Đã hơn một lần người môn đệ này được đề cập đến trong Ga, nhưng lần này, có một sự thay đổi quan trọng. Thay vì gọi ông là “người được Đức Giêsu yêu mến” ( Hy Lạp: hon êgapa ho Iêsous ) như ở 13, 23; 19, 26; 21, 7.20, thì ở đây tác giả lại gọi ông là “người được Đức Giêsu thương mến” ( Hy Lạp: hon ephilei ho Iêsous ), một công thức tương tự như cách gọi ông Ladarô: hon phileis ( 11, 3 ).
Vậy ở đây, tác giả có ý nhấn mạnh đến tư cách của người môn đệ này như là người bạn của Đức Giêsu, người thực hiện lệnh truyền của Đức Giêsu ( “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy”: 15, 14 ), tức là người yêu mến anh em mình ( “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”: 15, 12 ). Cách gọi “người môn đệ kia” ( c. 4b ) lại gợi ý cho chúng ta về 18, 15 – 16, nói về người môn đệ đã theo Đức Giêsu vào tận trong dinh thượng tế trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Như vậy, người chạy đến mộ trước chính là người đã từng có kinh nghiệm sâu xa hơn về tình yêu của Đức Giêsu và đã từng chứng tỏ tình yêu đối với Đức Giêsu tận nơi chân thập giá ( 19, 35 ), chứ không phải là ông Phêrô, người đã từng chối bỏ Thầy.
Vậy người môn đệ Đức Giêsu thương mến đến mộ, “ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào” ( 20, 5 ). “Những băng vải” ( othoniois ) ở đây được trình bày như là những băng vải hôn lễ. Hạn từ othonion có nghĩa là một dải len, một băng vải trang hoàng trong hôn lễ, khác với những dải vải (keiriais ) quấn xác ông Ladarô trong 11, 44. Các băng vải được đặt ở chỗ đã đặt xác Đức Giêsu. Các băng vải đó là dấu hiệu của hôn lễ, của sự sống, của sự phong nhiêu. Ngôi mộ trống đã trở thành như một căn phòng hôn lễ, căn phòng của sự sống và sự phong nhiêu.
Người môn đệ không vào trong mộ. Ông sẽ vào sau ông Phêrô. Ông nhường cho ông Phêrô được bày tỏ tình yêu mến đối với Thầy trước, bởi lẽ chỉ vài ngày trước đó, ông Phêrô đã chối Thầy trong sân dinh thượng tế còn người môn đệ kia thì vẫn tiếp tục theo Đức Giêsu đến tận chân thập giá. Cách cư xử này cho thấy người môn đệ được Đức Giêsu thương mến đang muốn thực hiện một hành vi bao dung và hoà giải. Ông tôn trọng người anh em mình và muốn để cho ông Phêrô được ưu tiên diễn tả tình yêu của ông đối với Thầy.
“Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” ( 20, 6 – 7 ). Ông Phêrô thấy các băng vải được xếp đó, nhưng có lẽ chưa hiểu ý nghĩa của chúng. Ngoài ra, ông còn thấy khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn che đầu này là yếu tố chung duy nhất giữa việc táng xác Đức Giêsu và việc an táng ông Ladarô. Khăn này là biểu trưng cho sự chết. Trong trường hợp ông Ladarô, chiếc khăn này che mặt ông, còn trong trường hợp Đức Giêsu, chiếc khăn này không che mặt Người, mà chỉ che đầu Người thôi. Điều đáng nói ở đây: chiếc khăn này bị cuốn lại, xếp riêng ra một nơi, phân biệt với các băng vải đang được để tại nơi Đức Giêsu đã từng an nghỉ. Sự chết đã bị “xếp riêng ra”, bị gạt sang một bên.
“Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin” ( 20, 8 ). Người môn đệ này đã thấy những băng vải được xếp đó như để trang trí cho phòng hôn lễ, dấu hiệu của sự sống, của tình yêu, của hạnh phúc và của sự phong nhiêu. Ông hiểu rằng sự chết đã không làm đứt đoạn sự sống. Chiếc khăn biểu tượng cho sự chết đã không che mặt Đức Giêsu nhưng đã bị cuốn lại và xếp riêng ra một nơi, vì sự chết không thể cầm tù Đấng ban Sự Sống được.
Một lần nữa tác giả Tin Mừng lại nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai môn đệ. Ông không nói gì về phản ứng của ông Phêrô khi nhìn thấy ngôi mộ trống với những băng vải được để đó và chiếc khăn biểu đạt sự chết được cuốn lại xếp riêng ra. Nhưng ông ghi nhận cách tường minh lòng tin của người môn đệ được Đức Giêsu thương mến. Người môn đệ này luôn sống thân nghĩa và trung thành với Thầy Giêsu, nên đã nhanh chóng nhận ra ý nghĩa của những thực tại được trình bày trong ngôi mộ trống, cho dù “trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” ( 20, 9 ).
Tóm lại, ngôi mộ trống, yếu tố chính yếu của trình thuật Tin Mừng hôm nay, chứng tỏ Đức Giêsu không hề bị sự chết giam cầm. Đã bắt đầu một ngày mới. Trời đã rạng sáng. Cuộc Vượt Qua của Đức Kitô ( cũng là của chính chúng ta ) đã hoàn tất.
Hình ảnh bà Maria Magđala trong bài Tin Mừng là hình ảnh của cộng đoàn các đồ đệ đang đau khổ và mất phương hướng vì cái chết bi thảm của Đức Giêsu, Chúa của họ. Cộng đoàn đó được khắc hoạ trong hình ảnh bà Maria Magđala vẫn còn đi trong tối tăm, cho dù trời đã sáng rồi. Chúng ta cũng có thể và chắc chắn đã nhiều lần hành xử như bà Maria Magđala: quá đau khổ vì những thực tại đau thương trong cuộc sống, ta hoá ra như thể không còn khả năng tin vào một thế giới mới đã được khai mở với cuộc Phục Sinh của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô. Ngôi mộ trống và sự khiếm diện của Đức Giêsu bị hiểu sai thành bằng chứng của một mất mát lớn lao và đau đớn. Nhưng, như đoạn văn kế tiếp trong sách Tin Mừng tường thuật, chính Đức Giêsu sẽ đi tìm bà Maria và tỏ mình cho bà.
Những môn đệ thân tín từng gắn bó sâu xa với Đức Giêsu theo các mức độ khác nhau sẽ đón nhận sứ điệp từ ngôi mộ trống theo những cách thức và mức độ khác nhau. Tất cả đều không mong chờ sự Phục Sinh của Đức Giêsu, vì “họ chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”. Tuy nhiên, người môn đệ đã từng trải nghiệm sâu sắc tình yêu mến của Đức Giêsu và sống theo lệnh truyền của Người, thì nhanh chóng hơn trong việc “thấy và tin”. Ông nhận ra nơi ngôi mộ trống dấu hiệu của sự sống. Ông tin rằng Đức Chúa của ông đã sống lại. Mặc dù không phải là một bằng chứng tích cực của mầu nhiệm Phục Sinh, nhưng ngôi mộ trống và những băng vải được đặt trong đó, đối với ông, đã thực sự là dấu hiệu của sự sống. Người môn đệ Đức Giêsu thương mến đã nhận ra ý nghĩa đó, và ông đã tin.
Không phải lúc nào chúng ta cũng được trải nghiệm về sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong cuộc đời. Rất nhiều khi Người có vẻ khiếm diện. Rất nhiều lúc chúng ta chỉ gặp “ngôi mộ trống”. Nhưng đó là sự khiếm diện và trống vắng có giá trị của dấu chỉ về sự sống mới, sự sống đích thực, sự sống phong nhiêu và hoan lạc. Chính mối tương quan tình yêu của mỗi người chúng ta với Đức Kitô sẽ giúp chúng ta đi vào khoảng trống đó để thấy và tin, giống như người môn đệ được Đức Giêsu thương mến trong bài Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng của Chúa Nhật kế tiếp sẽ kể cho chúng ta những trải nghiệm tích cực của các môn đệ về sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh.
Lm. Giuse NGUYỄN THỂ HIỆN, DCCT
-----------------------------
Vào Mùa Phục Sinh, chúng ta lại được nghe những lời ca rất cảm động trong bài: “Con đường Chúa đã đi qua” của tác giả Văn Chi, “Lạy Chúa, con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường, mão gai nào hẳn sâu trên trán. Lạy Chúa, Thánh Giá nào Ngài vác trên vai, đau thương nào phủ kín tâm tư, đường tình đó Ngài dành cho con”.
Thiên Chúa mời gọi con cái N
gười mạnh dạn chọn lựa và bước đi trên con đường Thánh Giá, con đường mà Chúa Giêsu là người khai sáng. Người đời thì chọn lựa “xấu che, tốt khoe”, còn cuốn Tin Mừng của Người lại mô tả trọn vẹn, chi tiết cuộc khổ nạn của Ngài. Hơn nữa, tâm điểm cuộc sống của Người cũng chính là con đường Thánh Giá và Phục Sinh.
Đặc tính tâm linh của con đường Thánh Giá thì siêu nhiên, kết quả của con đường này trong con mắt của thế gian là xa lạ với đặc trưng nhục thể của con người. Quá khó khi chúng ta trong thân phận tội lỗi và yếu đuối lại tự do trong chọn lựa, trải nghiệm trên con đường đau khổ này.
Ngay cả Thánh Phaolô, trong quá trình hoạt động Tông Đồ, có lần phàn nàn về Thánh Giá liên quan cái dằm đã hành hạ thân xác ngài như sau “để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xatan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại” ( 2Cr 12, 7 ). Và Ngài xin chọn một người khác thay ngài để rao giảng, nhưng Thiên Chúa phán “Ơn Ta đã đả cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Có lẻ, ngài có thể không trở nên một vị thánh lớn nếu không nếm trải sự đau khổ này, những đau khổ làm ngài được lớn lên trong những cảm nghiệm về cuộc sống siêu nhiên.
Thánh Phanxicô Asissi nói rằng: “Những ai chịu đựng mọi gian khổ trên đời này vì lòng yêu mến Chúa Giêsu, mà vẫn giữ được tâm hồn và thân xác bình an, họ mới thật là những người xây dựng hòa bình”. Đức Gioan Phaolô II nhắc lại: “Chìa khóa để có thể hiểu chương trình của Thiên Chúa là Thánh Giá Chúa Kitô”.
Dấn thân trên con đường đau khổ – con đường thập giá, với hai bàn tay trắng của một kẻ ăn xin và với một nhận thức mộc mạc, sơ đẳng như một đứa trẻ, chúng ta sẽ cảm nhận hết sự yếu kém của bản thân và từ đó nhận rõ tình yêu bao la mà Thiên Chúa đã rộng ban cho chúng ta, một tình yêu tuyệt đối nhưng lại là một tình yêu nhưng không.
Mỗi lần Chúa Giêsu hiện ra sau khi sống lại, Người đều chúc các môn đệ: “Bình an cho các con”. Bình an đích thực là bình an trong tự do trên con đường bão tố – bình an trên con đường Thánh Giá, chứ không phải bình an vì đã chọn lựa một con đường bằng phẳng, an nhàn tự tại. Sự bình an ấy có được là nhờ chúng ta nắm chắc bàn tay của Chúa Giêsu trên con đường lữ hành. Không một người Cha nhân hậu, quan phòng, quyền năng nào lại bỏ mặc con cái mình trên một con đường mà chính Người khích lệ chúng ta dấn thân, mặc dù đôi lúc chúng ta cảm thấy trống vắng, vì chính Người muốn ta trưởng thành hơn trong thử thách.
Lạy Chúa, hiểu biết Thánh Giá là vượt quá tư duy của con người và yêu mến Thánh Giá thì trái ngược với cuộc sống trần tục phổ thông, xin Ngài luôn ban thêm ân sủng cho những ai đang chập chững dấn thân trên con đường này.
G. TUẤN ANH
-----------------------------
Hôm nay Lễ Phục Sinh, bài Tin Mừng của Thánh Gioan, chỉ có 9 câu ngắn ngủi, nhưng gói ghém thật cô đọng hành trình đi tìm Chúa Phục Sinh của ba người: Bà Maria Magđala, ông Phêrô và Gioan, Người Môn Đệ Đức Giêsu Thương Mến.
Nẻo đường của ông Phêrô
Ông Phêrô sau khi chối Chúa ba lần trước khi gà gáy, đã kịp thời ăn năn khóc lóc thảm thiết, ngay khi gặp cái nhìn đầy yêu thương trìu mến và thương xót của Chúa Giêsu ( x. Lc 22, 61 ). Ông vẫn theo Chúa xa xa. Vẫn nhận thức vai trò Đá Tảng mà Chúa Giêsu trao phó. Vẫn hăng hái và nhiệt thành. Nên nghe bà Maria Magđala báo tin ngôi mộ trống, bèn cùng ông Gioan, chạy đến ngay.
Sự mau mắn của ông biểu lộ lòng chân thành và tinh thần trách nhiệm cao độ. Ông vẫn hăng hái hành động, như từng rút kiếm, tấn công quân dữ đến bắt Chúa Giêsu, nhưng lóng ngóng, chỉ dám chém đứt tai người đầy tớ của thượng tế. Đáng tiếc thay, ông Phêrô đã mất thói quen cầu nguyện, nên thay thế vào đó cách xử dụng hung bạo, làm mất cơ trí đi, và lòng nhiết thành của ông trở thành một thứ hăng say trái mùa ( ý Đức Cha Fulton Sheen ).
Thậm chí, sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra an ủi, chúc bình an, thổi hơi, ban Đức Chúa Thánh Thần, ông vẫn chưa mấy biến chuyển. Vẫn vô tư rủ bạn chài đi đánh cá. Nhọc nhằn thâu đêm chẳng được gì, thì tảng sáng Chúa hiện đến, chỉ các ông thả lưới bên phải mạn thuyền. Tức thời trúng thật đậm. Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến mới nhắc ông: “Chúa đó !” ( Ga, 21, 7 ). Ông Phêrô chỉ biến đổi hoàn toàn, sau ngày lễ Ngũ Tuần, sau khi đã được tràn đầy hồng ân Đức Chúa Thánh Thần.
Hành trình tìm Chúa Phục Sinh thật gian nan với ông Phêrô, tuy ông cũng được thấy Chúa hiện ra, nhưng đúng hơn là Chúa chủ động tìm đến với ông, thay vì ngược lại. Những tấm khăn liệm, băng vải, khăn che đầu đã che khuất tầm nhìn của ông, những hoạt động hăng say quá bận rộn bên ngoài, đã khuấy động tâm hồn ông, vốn rất ngay lành, đâm ra u mê, tăm tối.
Như thế, nếu tôi cũng chỉ nhiệt thành giữ đạo theo thói quen, chỉ hành động suông như tập quán, kinh sách đọc rổn rảng, vô hồi kỳ trận, mà thiếu mất tâm tình cầu nguyện sốt sắng, mật thiết, và còn thiếu lòng ăn năn thống hối như Phêrô, thiếu ý chí và cố gắng nên tốt lành hơn. Bởi vì những thứ trên chỉ là phương tiện giúp nên thánh, mà phải có ý chí sửa đổi thì ân sủng Chúa mới hoạt động, ân sủng Chúa chỉ sinh hoa trái, khi có sự hợp tác của linh hồn mà thôi. Hơn nữa, tôi còn thiếu cả Thánh Thể, Của Ăn Đi Đàng, lẫn thiếu Lời Chúa dẫn dắt, làm sao tìm và gặp được Chúa Sống Lại trong tôi ?
Nẻo đường của ông Gioan
Người Môn Đệ Được Chúa Thương Mến trái lại, trẻ trung, mạnh khỏe, nhanh nhẹn, chạy đến ngôi mộ trống trước ông Phêrô. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. ( x. Ga 20, 5 ) Ông Gioan được cho là chàng thanh niên đã bỏ chạy khi Chúa Giêsu bị bắt ( x. Mc 14, 51 ). Nhưng sau đó, vẫn can đảm theo Chúa vào dinh cựu thượng tế Khanan, rồi còn giúp đỡ ông Phêrô lọt vào bên trong. ( x. Ga 18, 16 ). Cho đến khi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, ông Gioan cũng đứng dưới chân Thánh Giá cùng với Đức Mẹ Maria, bà Maria vợ ông Cơlopat, và bà Maria Magđala.
Tuy đến ngôi mộ trước, ông chỉ cúi xuống, nhìn thấy băng vải trong đó, không vào ngay, mà nhẫn nại chờ đợi đại huynh Phêrô đến. Có nhiều cách giải thích sự chờ đợi này. Có thể vì kính trọng quyền huynh thế phụ, không dám vô lễ qua mặt ông Phêrô, bậc đàn anh ? Có thể còn nghi ngại sợ hãi, nhát đảm, sợ bóng vía chăng ? Hoặc là sợ đụng chạm vào khăn liệm, băng vải lỗi phạm lề luật chăng ?
Nhưng chắc chắn là ông Gioan đã theo cùng ông Phêrô vào mộ. “Thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi… Ông đã thấy và đã tin” ( Ga 20, 7 – 8 ).
Khi nhìn thấy băng vải và khăn che đầu xếp lại gọn ghẽ, tươm tất, đâu đó, cách xa nhau, ông Gioan có lẽ liên tưởng ngay đến thói ngăn nắp thứ tự thường nhật của Đức Giêsu, mà trước đây ông vẫn thường chứng kiến và đã quá quen thuộc. Ông liền nhận ra dấu chỉ kín đáo đó và đã mạnh dạn tin tưởng Chúa Phục Sinh.
Tuy chưa được gặp Chúa sống lại, nhưng lòng trung thành, tâm hồn tỉnh thức, nhạy bén, đã giúp hành trình ông gặp Chúa Phục Sinh đạt kết quả mỹ mãn. Ông đã gặp được Chúa ngay trong tâm hồn, mặc dù ông cũng chưa hiểu lời Kinh Thánh đã tiên báo mầu nhiệm này.
Ngày nay, Chúa vẫn ban phát rộng rãi những dấu chỉ, để nhận ra, và hiểu được Thánh Ý Chúa. Nhưng tôi có biết mở mắt, mở tai, mở lòng ra dón nhận hay không ? Hay chỉ biết chạy theo dư luận, chạy theo những thông tin, những điềm báo kỳ dị, quái gở, ma thuật, có thể đe dọa, lấn át, khuynh đảo Đức Tin của tôi, vốn đang rất mong manh, yếu đuối ?
Nẻo đường của bà Maria Magđala
Bà Maria Magđala đã được Chúa Giêsu giải thoát khỏi bảy quỷ dữ ( x. Lc 8, 3 ). Sau đó bà theo Chúa Giêsu và dùng tiền của giúp Ngài, cũng như các môn đệ đi truyền giáo. Bà đã âm thầm, can đảm đi theo Chúa suốt cuộc khổ nạn. Bà cũng hiện diện dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Clôpat, cùng ông Gioan, để chia sẻ nỗi đau khổ tận cùng Chúa Giêsu ( x. Ga 19, 25 ), Bà Maria Magđala cũng tham dự mai táng Chúa Giêsu trong huyệt mộ ( x. Lc 24, 55 ).
Vào ngày thứ nhất trong tuần, khi trời còn tối, bà đã vội chạy ra mộ Đức Giêsu để xức dầu thơm trên thi thể Ngài. Nhưng phát hiện ngôi mộ trống, tảng đá chắn mộ đã lăn ra. Bà hốt hoảng, tức tốc về báo tin ngay cho các môn đệ, ông Phêrô và Gioan.
Thoạt tiên, tưởng chừng tảng đá chặn ngôi mộ đã cản trở bà Maria Magđala tìm thấy Chúa Phục Sinh. Nhưng không, bà đã kiên trì đi trở lại ngôi mộ trống lần nữa để nhớ nhung, tiếc thương và than thở khóc lóc. Bà đã cầu nguyện theo cách riêng cũa bà, biểu lộ công khai lòng yêu mến Chúa tột cùng. Thậm chí bà cũng chẳng để ý hai thiên sứ đột nhiên xuất hiện. Bà quay lại thấy Chúa Phục Sinh, lại tưởng người làm vườn. Nhưng khi nghe Chúa thân thương gọi: “Maria !” bà liền nhận ra ngay Chúa Giêsu đã sống lại ( x. Ga 20, 16 ).
Bà Maria Magđala được Chúa ủy thác loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các Tông Đồ, để các ông đi rao truyền khắp thế gian. “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là của Cha của anh em. Lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” ( Ga 20, 17 ).
Bà Maria Magđala đắm mình vào cầu nguyện, tâm tình với Chúa Giêsu, không còn bận tâm đến môi trường chung quanh, không chia lòng chia trí, dù các thiên thần tận tình hỏi han. Chính nhờ sự chuyên tâm và khát khao Chúa tột độ, bà là người đầu tiên so với các Tông Đồ, được diễm phúc thấy Chúa Giêsu Phục Sinh vinh hiển. Nẻo đường tìm Chúa Phục Sinh của bà Magđala rất thực tiễn, viên mãn và hiệu quả nhất, so với hai nẻo đường vòng vo kia.
Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm họ đề hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài. ( Đường Hy Vọng, 964 ).
Lạy Chúa, xin dạy con biết tìm kiếm Chúa mọi nơi, mọi lúc, qua những lời cầu nguyện chân thành, để con được sống lại với Ngài.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trong mầu nhiệm khổ nạn, xin Mẹ dẫn dắt, chỉ bảo và cầu bầu cho con, cảm nhận được Chúa Sống Lại trong tâm hồn, để con được cứu rỗi, đồng thời trở nên Chứng Nhân, phục vụ mọi người. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
-----------------------------
PS1-290: MÀU TÍM – SẮC TRẮNG
Suốt 40 ngày Mùa Chay bao trùm màu tím. Màu tím là màu buồn, nhưng không buồn não nề như màu đen. Màu tím Mùa Chay là tím ăn năn, tím sám hối, tím đền tội, tím chờ đợi, tím khao khát, tím chung thủy, tím thánh thiện.
Tam Nhật Vượt Qua mang 3 sắc màu: Vui, Thương, Mừng. Từ chiều tối Thứ Năm Tuần Thánh tới đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, màu tím “sẫm” hơn và mặc vẻ trầm buồn, cõi lòng vừa tĩnh vừa động.
Màu VUI
Chúng ta thật vui mừng và hạnh phúc biết bao vì Chúa Giêsu có cách kỳ diệu để thực hiện đúng lời hứa của Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 20 ). Đó là Ngài đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể khi cùng các môn đệ ăn Tiệc Vượt Qua, bữa ăn cuối cùng của đời Ngài trên thế gian: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy. Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” ( Mt 26, 26 – 28 ).
Chúng ta chỉ là bụi tro, hoàn toàn bất xứng, nhưng lại vô cùng may mắn vì được Chúa Giêsu yêu thương hết lòng, yêu thương đến nỗi thí mạng và dùng chính Máu Thịt của Ngài để nuôi sống chúng ta trên hành trình lữ thứ trần gian, nhờ đó mà đủ sức vượt qua mọi trở lực cam go nhất. Thật là niềm vui khôn tả !
Màu THƯƠNG
Có lẽ không một tội nhân nào khốn khổ như Chúa Giêsu. Ngài phải chịu đói, chịu khát, bị vả, bị khạc nhổ, bị khinh miệt, bị mỉa mai, bị hành hạ dã man đủ kiểu, đến nỗi không còn hình tượng một con người, thương tích đầy mình, kiệt sức mà vẫn phải tự vác thập hình lên đồi. Những người thủ ác sợ Ngài chết dọc đường nên bắt ông Simon ( người Kyrênê ) vác thập hình giúp Chúa Giêsu.
Cứ tưởng tượng cảnh Chúa Giêsu chịu các nhục hình cũng đủ thấy rợn cả người. Nếu tận mắt thấy Chúa Giêsu, chắc hẳn chúng ta không dám nhìn và phải bật khóc. Nước mắt cũng có những loại nước mắt khác nhau, thậm chí có cả “nước mắt cá sấu”. Có những phụ nữ nước mắt vắn dài khi đi theo sau Ngài. Thấy vậy, Ngài quay qua nói: “Hỡi chị em thành Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” ( Lc 23, 28 ). Đó cũng là lời Ngài nhắc nhở mỗi chúng ta vậy !
Khổ nhục tiếp nối khổ nhục. Cuối cùng Chúa Giêsu còn bị lột trần, bị đóng đinh cả chân tay, và bị lưỡi đòng đâm thấu tim. Chắc chắn không ai chịu trăm cay ngàn đắng như Chúa Giêsu, đến chết cũng không được yên thân. Tang thương biết bao !
Màu MỪNG
Chúa Giêsu đã động viên: “Hãy can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian” ( Ga 16, 33 ). Tuyệt vời ! Chúa Giêsu đã lật ngược thế cờ. Ngài dùng chính nhục hình Thập giá để làm vũ khí lợi hại nhất để tới vinh quang. Người thua cuộc trở thành thắng cuộc. Người chiến bại trở thành chiến thắng. Theo cách nói ngày nay, đó là cú hattrick ngoạn mục !
Màu TÍM chuyển sang màu TRẮNG. Ngày thứ nhất của tuần lễ ( Chúa Nhật ) tràn ngập màu trắng rực rỡ: Đức Kitô đã Phục Sinh. Niềm vui mừng tột đỉnh !
Sáng sớm, chị Maria Magđala ra viếng mộ, thấy mộ trống thì hoảng sợ, vội chạy về báo cáo: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, chúng tôi chẳng biết họ để Ngài ở đâu” ( Ga 20, 2 ). Con người là vậy, niềm tin còn yếu kém, lòng vẫn đầy hoang mang, dù Chúa Giêsu đã nói trước nhiều lần. Ngài biết trước như vậy nên Ngài mới phải tìm cách “ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Chúng ta lại tiếp tục được may mắn, vì Chúa Giêsu Phục Sinh thì chắc chắn chúng ta cũng được sống lại. Chết không phải là hết, như người đời thường nói, mà chết là biến đổi cuộc sống để được Chúa làm gia nghiệp.
Hallelujah ! Hãy vui mừng lên !
TRẦM THIÊN THU
-----------------------------
Trong suốt Mùa Chay, nhất là Tuần Thánh, đỉnh cao là đêm Vọng Phục Sinh, Chúng ta được Giáo Hội qua các nghi thức cử hành, mời gọi chúng ta hướng về Quê Trời, cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới là chính Đức Kitô. Từ bỏ tội lỗi để sống xứng đáng là con cái Chúa. Ra khỏi bóng tối để đi vào Ánh Sáng. Những ý nghĩa này, đã được các nghi thức tối hôm qua diễn tả thật rõ nét. Thánh Lễ giờ đây, chúng ta được Giáo Hội mời gọi hãy hân hoan hát lên bài ca “Chúa Đã Sống Lại ! Halêluya !” và hãy loan tin vui này đến tận cùng trái đất. Nhưng điều quan trọng là làm sao chúng ta tin ? Làm sao chúng ta dám loan truyền Chúa đã sống lại ? Dựa vào đâu để xác tín điều đó ?
Ngôi mộ bị bỏ trống ?
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thuật lại sự kiện Chúa Phục Sinh. Bắt đầu từ việc bà Maria Magđala đi ra mộ, mang theo thuốc thơm để sức xác Chúa. Khi tới nơi, bà ngỡ ngàng vì những gì hiện lên trước mắt bà. Tảng đã khổng lồ đã lăn ra khỏi mồ. Như vậy, theo linh tính, bà biết rằng xác Chúa không còn trong đó. Phải chăng người ta đã mang xác Chúa đi chỗ khác ? Có thể là do một hoặc nhiều người đã lấy cắp xác Chúa ? Bà liền chạy về báo cho các môn đệ, và Phêrô cùng với Gioan đã chạy tới, nhưng tiến thêm một bước nữa, cả hai ông đều lần lượt vào và thấy khăn vải quấn người Đức Giêsu cũng như khăn che đầu vẫn còn đó. Một trong hai ông đã tin, đó là Gioan.
Sự kiện ngôi mộ trống đã rõ ràng. Chắc chắn không còn xác Đức Giêsu trong đó. Nhưng Chúa đã sống lại hay bị mang đi hoặc bị đánh cắp ? Tin Mừng cho chúng ta thấy có những suy nghĩ trái chiều. Maria Magđala thì cho rằng: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để người ở đâu”. Với các Kinh Sư, Luật Sĩ, Thượng Tế... và những kẻ chủ mưu giết Đức Giêsu, sau khi nghe tin Chúa đã sống lại thì đã dàn dựng một vở kịch nhằm vu khống cho các môn đệ, đồng thời bảo các lính canh thế này: “Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm hắn đi. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự” ( Mt 28, 13 – 15 ).
Tuy nhiên việc phao tin là các môn đệ lấy cắp xác Đức Giêsu không đáng tin vì những lý do:
Các môn đệ là những người ít học, đơn sơ chất phác. Những người chủ mưu giết Đức Giêsu thì có cả một kế hoạch ( x. Mt 27, 62 – 66; 28, 13 – 15 ).
Khả năng chuyên môn của các môn đệ là chài lưới, thu thuế... Còn đội lính canh giữ Đức Giêsu thì tinh nhuệ và sắc bén ( x. Mt 27, 62 – 66 ).
Các môn đệ đang trong tình trạng sợ sệt, không thể nào lấy cắp xác Chúa mà vẫn ung dung xếp những giải khăn gọn gàng được ( x. Ga 20, 18 – 19 ).
Các môn đệ là những người thụ động. Lính canh là những kẻ chủ động...
Như vậy, không có thể bày đặt ra chuyện Chúa đã sống lại để rồi lừa dối được. Gioan đã hiểu điều đó nên ông đã tin.
Tuy nhiên, nếu chỉ có chứng cứ về ngôi mộ trống thì không thuyết phục cho lắm. Sự kiện này chỉ có tính cách khai mở và là dấu chỉ của sự Phục Sinh mà thôi. Bằng chứng cho thấy vẫn còn nhiều giả thiết trái ngược nhau được đưa ra. Vậy, chúng ta còn dựa vào đâu nữa ?
Những lần Đức Giêsu hiện ra và những lời Đức Giêsu đã báo trước
Đức Giêsu sống lại, Ngài đã hiện ra với rất nhiều người, có những lúc trong nhà, trên đường, ngoài bãi biển. Trong số những người được Chúa hiện ra, chúng ta gặp những tên tuổi và những nhóm người như: hiện ra cho Maria Magđala ( x. Ga 20, 11 – 18 ); với các phụ nữ đi ra viếng mồ Ngài ( x. Mt 28, 9 – 10; Mc 16, 9; Ga 20, 11 – 18 ); hiện ra với 2 môn đệ trên đường về Emmau ( x. Mc 16, 12 – 13; Lc 24, 13 – 35 ); hiện ra với các môn đệ khi các ông đang họp kín, trong đó có Tôma ( x. Ga 20, 19 – 29 ); bên bờ hồ Giênêdarét ( Ga 21 ); phép lạ đánh cá ( x. Ga 21, 1 – 14 ) v.v… ; và hiện ra tại Galilê, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng ( x. Mt 28, 16 – 20; Mc 16, 14 – 18; Lc 24: 36 – 49; Ga 20: 19 – 23; Cv 1, 6 – 8 ).
Những lần hiện ra, có những nhận thức khác nhau, và việc nhận thức này được thực hiện theo nhiều mức độ khác nhau:
Nhận ra khuôn mặt Đức Giêsu ( x. Ga 20, 20.27 );
Nghe thấy những gì Ngài nói ( x. Ga 20, 16 );
Những hành động Chúa làm ( x. Lc 24, 35 );
Hiểu Kinh Thánh ( x. Lc 24, 27.45 ).
Mặt khác, đây chính là sáng kiến từ phía Đức Giêsu: Ngài đến gặp họ ( x. Mt 28, 9 ); Ngài tiến lại gần các môn đệ, đến ở giữa họ, hiện ra với họ ( x. Lc 24, 15 ), đón gặp họ, cùng đi với họ, và, ở lại với họ ( x. Lc 20, 14; 21, 4 ).
Sự kiện Đức Giêsu hiện ra và việc nhận ra Ngài đã được Tông Đồ Tôma đáp lại cách tuyệt đối sau khi đã sỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn: “lạy Chúa tôi, lạy Chúa của tôi” ( Ga 20, 28 ). Mặt khác, Đức Giêsu còn ra dấu hiệu về việc làm chứng và sứ vụ. Đồng thời, những lần hiện ra, Ngài còn hứa hẹn và loan báo sẽ trao ban Chúa Thánh Thần đến để trợ giúp, đồng hành với các ông trong sứ vụ.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã mở lòng trí các ông, để các ông nhớ lại tất cả những điều đã được báo trước trong Kinh Thánh và chính Ngài đã nói cho các ông trước khi lên Giêrusalem để chịu chết: “Thày đi Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” ( Mt 16, 21 ).
Các bằng chứng đã rõ. Chúng ta không thể không tin được. Chỉ có cố chấp và chai lì trong ích kỷ, tội lỗi... thì mới không tin mà thôi.
Như vậy, sự kiện Đức Giêsu sống lại là một biến cố lịch sử, với những chứng từ lịch sử được tất cả bốn sách Tin Mừng ghi lại: ngôi mộ trống, khăn liệm xếp ngay ngắn gọn gàng, Đức Giêsu đã nhiều lần hiện ra cùng ăn uống và đàm đạo với các môn đệ, sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, và hứa sẽ đồng hành với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế qua việc trao ban Chúa Thánh Thần, và điều quan trọng nhất đó là những lần Ngài đã báo trước.
Sự kiện Đức Giêsu sống lại và niềm tin của chúng ta
“Chúa Đã Sống Lại ! Halêluya !” đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của các Tông Đồ..., và của mọi thế hệ Kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo Hội hơn 2000 năm qua, là Tin Mừng trọng đại không chỉ cho các môn đệ Đức Giêsu mà thôi, nhưng còn cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, bởi vì: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, chúng ta là những người khốn khổ nhất trong mọi người” ( 1Cr 15, 19 ), và niềm tin của chúng ta trở nên hão huyền, lời rao giảng là vô cớ. Nhưng Ngài đã sống lại và đã Phục Sinh tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành con người mới: “Nếu Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết ngự trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” ( Rm 8, 11 ). Đây quả là Tin Mừng, và Tin Mừng đó phải được vang xa đến tận chân trời góc biển. Cái chết không còn là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau sự chết là sự sống lại, qua đau khổ là vinh quang. Sự kiện Chúa Phục Sinh, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cũng được Phục Sinh như Ngài.
Giờ đây, niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh lại một lần nữa được chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính: tôi tin Đức Giêsu [...] Đấng đã “chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.”. Đây là niền tin của Giáo Hội và của mỗi chúng ta. Chúng ta hãnh diện, tự hào và tuyên xưng Đức Tin ấy cùng với Giáo Hội và trong Giáo Hội mà chúng ta là thành phần của Giáo Hội ấy. Amen.
Tu Sĩ Jos. Vinc. NGỌC BIỂN
-----------------------------
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Ga 20,1-9
Chúa Giêsu đã chết. Đó là một thành công mỹ mãn của các thầy tư tế và biệt phái. Chết là hết chuyện. Có lẽ cũng đã có những bữa tiệc ăn mừng của sự thành công này. Thế là từ nay, họ có thể ăn ngon và ngủ say trong những thói quen mà Chúa Giêsu gọi là giả hình của họ. Chẳng còn ai dám to gan tố cáo những tội ác của họ nữa. Cái dấu chấm hết đã được hạ xuống nơi hòn đá kếch xù, được dùng để lấp ở cửa mộ. Thân phận con người là thế. Chết là xong chuyện rồi.
Nhưng với các Tông Đồ, và những người phụ nữ đi theo Chúa, thì sự thật ấy, không thể chấp nhận được. Dù đã chứng kiến tận mắt cái chết của Chúa. Cũng như việc an táng Người. Nhưng trong lòng họ, thì vẫn không muốn tin; bởi qua những tháng ngày chung sống với Chúa, họ đã nhận ra rằng: Nơi Ngài có một sự sống thần thiêng cao cả, mà nơi con người không thể có được. Hơn nữa, chứng kiến những phép lạ to lớn Ngài làm: Như truyền cho gió biển yên lặng, cho ông Lazarô chết đã bốn ngày được sống lại, thì rõ ràng, nơi Ngài phải có một sức sống thần linh, vượt lên trên cái chết. Chính vì thế, mà họ hy vọng và tin tưởng. Chả vậy mà, ngay từ lúc trời còn chưa sáng, của ngày thứ nhất trong tuần, các bà đã hối hả chạy ra thăm mộ.
Một cảnh tượng ngỡ ngàng hiện ra trước mắt. Cái hòn đá to, cái dấu chấm hết ấy bây giờ bị lật ngang. Phải chăng sự hy vọng của mình lại đúng? Bởi cái dấu chấm hết ấy, lại trở thành một dấu phẩy nhẹ nhàng. Và như vậy, Thầy mình đã sống lại. Không biết vì quá vui mừng hay hoảng hốt. Các bà vội vã trở về, để báo tin lại cho hai môn đệ trung tín nhất của Chúa là Phêrô và Gioan. Cả bốn người cùng đến, và Phêrô là người đầu tiên bước vào. Chúa không còn ở đó nữa. Những thứ dùng để mai táng Ngài như: Những băng vải, khăn che đầu…. Tất cả đều được xếp lại gọn gàng.
Rõ ràng như thế, không thể có một cuộc cướp xác. Bởi cuộc cướp nào mà chả được làm vội vã hối hả. Ai mà còn dại khờ, ngồi xếp lại những đồ phụ thuộc ấy. Thế là niềm tin của họ là đúng. Đúng thật trong bản tính loài người. Như mọi người, Ngài đã chết thật. Trong bản tính Thiên Chúa, thì cái tận cùng của kiếp người, là không làm gì được Ngài. Ngài đã sống lại, Ngài sống lại, để báo cho mọi người biết: Ngài là Cội Nguồn của sự sống. Và quyền năng của Người, thì vượt lên trên cái chết. Vì thế, nếu ai tin vào Ngài, thì không phải sợ hãi trước cái chết nữa. Và qua cái chết, sẽ được cùng Ngài đi vào cõi hạnh phúc vĩnh hằng.
Gợi ý suy niệm:
1- Chúa Giêsu đang sống hay là đã chết trong lòng bạn?
2- Bạn có tin, bạn có linh hồn không?
Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
-----------------------------
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Lc 24,1-12
Trong sự huyền diệu của đêm nay, tôi sẽ không viết lời chia sẻ, mà chỉ xin trích ngang, ít trang nhật ký của Chúa Giêsu.
Giêrusalem ngày.... tháng…. năm….
Cha ơi, vâng lời Cha Con đã chấp nhận cái chết vào lúc ba giờ chiều thứ sáu vừa rồi. Cái chết kinh khủng thật! Đớn đau đến tột độ khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Con người, những sinh vật mà Cha và Con đã dựng nên vì yêu thương, chúng là con Cha, vậy mà chúng đã giết Con tức tưởi. Sau khi đã đánh dập dã man như một tội đồ, loài người đã đóng chặt tay chân Con vào cây thập giá. Nỗi đau làm thần kinh Con co rút lại, làm mạch máu Con bế tắc, và tim Con ngừng đập. Đớn đau quá Cha ơi! Bởi thế, khi con vừa khép mắt, mặt trời vội vàng tắt nắng. Như để khóc thương cho con, như phải chăng như muốn nhắc nhở loài người rằng: giết chết Thiên Chúa, loài người sẽ mãi mãi chìm ngập trong bóng tối của tội ác và bất hạnh; giết chết Thiên Chúa, loài người sẽ không bao giờ được thấy ánh sáng của chân lý, ánh sáng của hy vọng, ánh sáng của tình yêu đích thực; quanh trái tim và đời sống, con người sẽ chỉ còn thấy hận thù và tàn ác. Rồi các mồ mả tự nhiên rẽ ra, nắp mồ bật tung chới với. Có lẽ vì vui mừng, vì niềm hạnh phúc quá lớn. Bởi Chúa đang đi vào tận cùng của cõi chết, cõi tối tăm, và Ngài sẽ làm bừng sáng, và làm sống lại những cõi đời.
Giêrusalem sáng chủ nhật.
Các môn đệ đã chôn Con trong mồ. Con nhìn thấy vẻ mặt đắc thắng của gã thần chết, mà tội nghiệp. Gã tưởng đã giết chết được Con, và như mọi người, Con sẽ chết vĩnh viễn: khi hòn đá ngoài cửa đậy lại, hắn yên chí mỉm cười vào giấc mộng. Nhưng hắn có ngờ. Vì vâng lời Cha, và vì yêu thương con người, Con đã chết, thì nay Cha đã cho Con sống lại. Con lật úp cả cái vẻ mặt kinh hoàng của cái chết, để bảo cho mọi người trên trái đất này rằng: Nếu tin vào Con thì cái chết không còn là một nỗi kinh hoàng.
Giêrusalem ngày…
Sáng nay khi Con sống lại và ra khỏi mồ, thì có mấy người đàn bà, vẫn thường giúp đỡ Con lúc còn sống. Đã đến mồ mang theo một số thuốc thơm. Các bà thấy hòn đá lăn ra. Len lén, các bà nhìn vào trong mồ, mà không thấy xác Con. Tội nghiệp chưa. Con không còn nằm trong nấm mồ của cái chết nữa rồi. Những nấm mồ linh hồn nào, mà chỉ có bóng tối của tội ác, bóng tối của cái chết thì không có Con ở đó. Viết đến đây, tự nhiên, Con lại có một điều muốn nhắn gởi với con người: Nấm mồ linh hồn đã được mở ra, xin đừng làm cho nó thành cõi chết nữa. Và còn với ai, với một cõi chết trong lòng, xin hãy mở cửa kêu cầu, để Ta đến. Chỉ có mình Ta, sẽ làm cho cõi chết thành cõi sống.
Một ngày kỉ niệm đau thương.
Giêsu.
Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
-----------------------------
Cuốn sách “Ngang qua thung lũng sông Kwai” cho chúng ta thấy: Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật là khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên độc ác. Họ lấy luật rừng mà cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ và chỉ điểm lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình trở thành một nhóm để cùng nhau học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vưởng, đã từng chịu đói khát mệt mỏi, đã từng bị phản bội và bị đánh đòn. Tất cả những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với họ. Đám tù nhân không còn nghĩ rằng mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng bắt đầu đối xử với nhau bằng thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại bắt đầu có những tiếng hát vui tươi thay thế cho sự thinh lặng oi bức và căng thẳng, giống hệt sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Hay nói một cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì trước đó đã nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trước đó chỉ biết trộm cắp của nhau. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì trước đó chỉ tìm cách chỉ điểm lẫn nhau.
Ơn phục sinh và sự biến đổi này cũng có thể xảy ra cho bản thân chúng ta, nếu như chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Đức Kitô và ơn sủng của Ngài. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tin tưởng nhau như xưa chứ đừng phản bội nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta yêu thương nhau như xưa chứ đừng từ khước nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tiếp tục hy vọng khi niềm tin tưởng đã tan vỡ. Hãy để Ngài giúp chúng ta nhặt lên những mảnh vụn và khởi sự lại từ đầu khi mà chúng ta dường như sẵn sàng xoá bỏ chúng đi. Hãy cộng tác với Ngài trong cộng cuộc thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời vì như lời thánh Augustinô đã từng xác quyết: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Và như thế, không cần phải đợi đến lúc chết, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể tham dự vào quyền năng phục sinh của Chúa.
-----------------------------
(Trích từ ‘Bước Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa quý vị, đây không phải là lời của người ta, mà là Lời của Kinh Thánh. Kinh Thánh là dòng chảy của lịch sử thuộc về Thiên Chúa. Nên chi, dù tin hay không Kinh Thánh vẫn thuộc về Thiên Chúa. Đó là chân lý.
Đây là chóp đỉnh của lịch sử ơn cứu độ và là chóp đỉnh của Đức Tin. Ngôi Mộ trống, cả bốn Tin Mừng đều ghi là “Ngôi Mộ Trống”. Mầu nhiệm Tử Nạn, thì người ta được mục kích rõ ràng, nhưng mầu nhiệm phục sinh thì không ai được nhìn thấy, kể cả các môn đệ. Điều nầy nói lên điều gì, thưa quý vị?
Thưa nói lên rằng: Khi Đức Kitô từ cõi chết sống lại, thì Người không bị lệ thuộc vào bất cứ điều gì thuộc về trần thế. Đồng thời nói rõ, Người là Thiên Chúa Hằng Hữu. Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian, con người và lịch sử, không một thế lực nào không chế được Người. Nói lên, phần Thiên tính của Người là vô biên. Chúng ta thấy biên giới giữa cái chết và sự sống thật gần gũi đối với mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Tam Nhật Tuần Thánh là giai đoạn đau khổ tột đỉnh của mầu nhiệm Vượt Qua, đưa Con Người vào cái chết bi thương. Có thể nói, không ai là không hãi hùng đối với cuộc Tử Nạn của Đấng Cứu Thế, một người bình thường không thể chịu đựng nỗi sự đau khổ cùng cực và thể xác đau đớn đến khiếp đảm như cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu. Sự cứu chuộc của Người vượt quá sự chịu đựng của một con người. Vì vậy có thể nói dù Đấng Cứu Thế chịu đựng bởi phần nhân tính của Người, nhưng trong kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa, Người mới có thể hoàn tất.
Biết bao cuộc suy niệm, biết bao lời dẫn chứng, cùng biết bao sách vở nói về cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu, nhưng không ai có thể cảm nghiệm hoàn toàn đủ về cuộc khổ nạn của Người, nhất là trong những giây phút hoàn toàn bi thương nhất.
Vì vậy, để đối nghịch lại với cuộc thương khó, sự Phục Sinh của Người hoàn toàn là một mầu nhiệm của sự chiến thắng, hai mầu nhiệm của cùng một Đấng Cứu Thế, nhưng hoàn toàn phản diện nhau. Như vậy giá trị của đau khổ không phải là đau khổ mà là vượt qua đau khổ. Hiển nhiên bên kia của đau khổ là vinh quang, nhưng sự đau khổ của Con Thiên Chúa là sự đau khổ vinh quang, giá trị đau khồ mà Chúa Giêsu đã thực hiện là giá trị của Hy Lễ dâng lên Thiên Chúa Cha khác với giá trị đau khổ của phàm nhân. Vì vậy, người mang đau khổ vì Hy lễ thì khác với người mang đau khổ không có giá trị hy lễ.Như vậy, con người thì phải chết, nhưng Con Thiên Chúa thì Phục Sinh. Đó là niềm tin và hy vọng tuyệt đối cho những ai được xưng danh Kitô hữu đến giây phút cuối cùng.
Đoạn Tinh Mừng (Ga 20,1-9) hôm nay, cũng như (Lc 24,1-12), hay (Mc 16,1-8), ( Mt 28,1-8) tường thuật cùng một sự kiện là “Mồ Trống”. Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu chỉ cho thấy là mồ trống. Còn những yếu tố khác hiển nhiên là không ai thấy được. Điều nầy có nghĩa là khi đã hoàn tất cuộc khổ nạn. Con Thiên Chúa không còn giới hạn trong nhân tính của Người, cũng như mầu nhiệm Phục Sinh không mặc khải như mầu nhiệm Tử Nạn. Chúa Giêsu không còn là Người, nghĩa là nhân tính của Người bây giờ là siêu nhiên trong sự Hữu Hình. Phần nhân tính đã ở lại trong Phép Thánh Thể mà Người đã thiết lập ngày thứ năm Tuần Thánh. Như vậy, sự Phục Sinh của Chúa Giêsu là sự kiện mồ trống, không dừng lại ở yếu tố nầy, mà là hàng loạt cuộc hiện ra với các môn đệ, mà đặc biệt chỉ có Thánh Luca ghi lại “trên đường Emau” (Lc 24, 13-35). Còn thánh Gioan thì ghi lại ba lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, sau khi Người từ cõi chết trỗi dậy. Rõ ràng sự kiện Phục Sinh không dừng lại ở đoạn Tin Mừng hôm nay, mà liên kết những lần hiện ra sau Phục Sinh, vì vậy, Lễ Phục Sinh không phải chỉ Mừng Kính Trọng Thể một ngày, mà là Lễ Phục Sinh với tuần Bát Nhật Phục Sinh, và một mùa Phục Sinh.
Vì thế, với niềm hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng, đồng thời cả Triều Thần Thiên Quốc cùng nhau chúc tụng tung hô rằng: Thánh! Thánh! Thánh!
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, Chúa đã sống lại thật! Alleluja! Người đã sống lại thật như Lời đã phán hứa. Alleluja! Xin cầu cùng Chúa cho chúng con. Alleluja!
-----------------------------
Niềm tin Phục Sinh là vấn đề cốt lõi của giáo lý Kitô giáo, như Thánh Phaolô đã tuyên xưng trong thư gửi tín hữu Côrintô: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hảo huyền” (1Cr. 15, 17).
Tuy nhiên, có một sự khác biệt giữa Tin Mừng Luca và Gioan liên quan đến sự kiện Chúa Giêsu Phục Sinh. Hình như vì yêu mến các bà hơn, nên Thánh Luca đã kể rằng: sau khi được Thiên Thần hướng dẫn, các bà đã tin; nhưng khi các bà báo lại cho các Tông Đồ, các ông cho đó là chuyện vớ vẩn (x. Lc. 24, 1-11). Ngược lại, có vẻ vì bênh vực các Tông Đồ hơn, nên Thánh Gioan lại nói rằng: các bà chưa tin và tưởng rằng xác của Chúa đã bị ăn cắp; nhưng khi đến nơi, Gioan liền tin rằng Chúa đã Phục Sinh (x. Ga. 20, 1-10).
Ngày nay người ta vẫn còn nói đến ba lý thuyết khác nhau xoay quanh việc Chúa Phục Sinh: Xác của Ông Giêsu đã bị ăn cắp; Ông Giêsu chết giả, các môn đệ giải cứu và đưa sang Ấn Độ; Chúa Phục Sinh thực sự. Đâu là sự thật cho những vấn nạn này?
Thực ra, mầu nhiệm đức tin không thể giải thích hoàn toàn bằng những luận chứng khoa học. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan muốn trình bày về niềm tin của chính mình – người môn đệ Chúa yêu, sau khi đã nghiền ngẫm và rao giảng trong suốt thời gian dài, hơn là cố ý trình bày sự kiện lịch sử. Thánh Gioan trình bày ba phản ứng khác nhau của con người về niềm tin Phục Sinh:
- Các bà đi đến cửa mộ nhưng không vào trong, không quan sát, không đặt vấn đề và suy nghĩ về sự kiện. Các bà kết luận theo cái nhìn khả giác rằng xác của Chúa đã bị ăn cắp. Dường như các bà suy nghĩ cách đơn sơ, hời hợt, và ý tưởng Chúa Phục Sinh chưa hiện diện nơi tâm trí các bà.
- Phêrô vào trong ngôi mộ, quan sát những băng vải và khăn che đầu của Chúa, nhưng không kết luận điều gì. Ngài suy nghĩ bằng lý trí, không đưa ra kết luận Chúa có Phục Sinh hay không.
- Thánh Gioan yêu mến Chúa nhiều, và có lẽ nhờ sức trẻ, ông đã chạy nhanh hơn. Ông cúi xuống để suy nghĩ, chiêm ngắm sự kiện và ông đã tin. Thánh Gioan không dừng lại ở cái nhìn khả giác hay lý trí, nhưng còn chiêm ngắm bằng tình yêu. Tình yêu giúp ngài nhớ lại và tin những điều Chúa đã báo loan báo.
Con người thời đại thường có tham vọng tìm bằng chứng Phục Sinh bằng giác quan hay lý trí. Nhưng làm sao ta có thể đóng khung cái vô hạn vào cái hữu hạn. Vì thế, mầu nhiệm Phục Sinh là kho tàng vô tận để con người khám phá và kín múc. Chìa khoá bước vào mầu nhiệm là tình yêu và kinh nghiệm gắn bó với Chúa mang tính cá vị, như thánh Gioan Tông Đồ.
Những băng vải vẫn còn đó, nhưng được xếp lại gọn gàng. Dấu vết của cái ác vẫn còn hiện diện, nhưng việc sống gắn bó với Chúa Phục Sinh sẽ giúp ta sắp xếp lại những khúc mắc hỗn độn của cuộc sống.
Ngôi mộ là biểu tượng của sự dữ, chết chóc và đau buồn. Chúa Giêsu Phục Sinh mở toang cửa mộ, giải thoát con người khỏi sự kìm hãm của sự dữ, mở ra thời đại mới, thời đại của hy vọng và chiến thắng. Niềm tin Phục Sinh cho phép ta có đủ lý do để hy vọng về sự chiến thắng những cơn giống tố của cuộc đời.
Là người Kitô hữu, chúng ta không đặt vấn đề lịch sử tính cho bằng nhận ra sự điệp Phục Sinh. Nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi người thường tồn tại những nấm mộ bất khả xâm phạm. Nấm mộ ấy chôn cất nhiều nút thắt khó sắp xếp và tháo cởi như: đau buồn về những yếu kém của bản thân, những cố gắng không được như ý, những khốn khó vùi dập liên hồi, và sự giằng co giữa ý Chúa và ý mình. Ta phản ứng thế nào với nấm mộ của mình: thất vọng, sợ hãi và không dám nghĩ đến; tự mình suy nghĩ tìm cách giải quyết; hay để Chúa cùng song hành, phó thác, vui lòng đón nhận và sống trong hy vọng để thánh ý Chúa được thực hiện nơi bản thân?
Đến đây, ta có thể viết tiếp lời tuyên xưng của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô: “Bao lâu hy vọng Phục Sinh chưa tác động trên cuộc đời, thì việc giữ đạo cũng sẽ trống rỗng.”
-----------------------------
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
SUY NIỆM
Có câu chuyện trong thế giới triết học người ta đặt tên là “Xóa tan dấu vết đời mình”, nội dung như sau:
Là con trai của nhà hiền triết, nhưng Pédiantre lại không có một chút thiên tư minh triết nào, ông là một nhà độc tài mới lên của thành Corinthe. Người ta biết ông hung bạo và mất quân bình. Trong một cơn giận dữ, ông đã giết vợ lúc bà đang mang thai, chỉ vì tin vào lời bà thiếp nói rằng vợ ông bất trung. Tuyệt vọng, ông thiêu sống luôn bà thiếp này.
Ngoài tính khí bất thường và ghen tuông giết người, định mệnh đã an bài cho ông có một bà mẹ mê ông. Những nụ hôn dành cho đứa con khi còn nhỏ, dần dần biến chất khi nó lớn lên. Để quyến rũ con, bà làm cho ông tin là có một người đàn bà rất đẹp muốn trao thân với ông, nhưng với điều kiện là phải làm trong bóng tối hoàn toàn, và người đàn bà này không được nói với ông một lời nào...
Như thế, Cratéia trở thành tình nhân của con mình. Nghi ngờ, ông nhờ một nữ tỳ cầm đuốc vào phòng lúc bất ngờ. Thế là ông khám phá mưu mô của bà. Ông muốn chết. Muốn xóa hết dấu vết cuộc đời ông.
Để hủy diệt cuộc đời ô nhục, để làm biến mất tấm thân xấu xa nhuốm tình mẫu tử, cái bóng hình làm dơ bẩn cuộc đời phàm này của ông. Ông quyết định hủy bỏ dấu vết của nó trên quả đất, xóa luôn ký ức của loài người có về ông.
Một tối không trăng nọ, ông kêu hai tên đầy tớ vào:
Tụi bây có biết con đường đàng sau bụi rậm kia không, con đường khuất hút đàng sau rừng cây?
Họ gật đầu có vẻ ngạc nhiên.
Tụi bây đi theo con đường đó. Đi thật lâu. Khi nào gặp một người đi một mình, tụi bây giết hắn và chôn hắn. Tiền đây.
Hai người ra đi mà không dám đặt câu hỏi. Người ta không thể nào trái lệnh Périandre.
Một lát sau, ông kêu bốn người đầy tớ khác tới và bảo họ đi cùng con đường ông đã chỉ.
Khi các ông thấy hai người đàn ông đi lang thang trong đám cây rậm rạp kia, các ông giết họ rồi chôn xác họ. Tiền đây.
Bốn người đàn ông ra đi. Vì tiền hậu thưởng nhiều, vì không ai trái lệnh nhà độc tài Périandre thành Corinthe.
Từng nhóm nhỏ, các người đàn ông này mang vũ khí vào rừng cây, đi tìm hai người đi lang thang để thủ tiêu mà không cần nói lý do. Và thế là Périandre từ từ đi đến chỗ hẹn. (“Khi nào gặp một người đi một mình, tụi bây giết hắn và chôn hắn”. - Người đi một mình đó chính là ông). Kế hoạch của ông thật là hoàn hảo! Nhân chứng này tiếp tục giết nhân chứng kia! Còn ai biết được xác Périandre chôn ở đâu, nếu xác của người giết ông, rồi xác của người giết “người giết ông” không tìm thấy?
Làm rối tung dấu vết. Làm xóa mờ dấu vết. Chẳng bao giờ có mộ bia. Đối với nhà minh triết ngược đời này, chắc chắn đây là tự do tối thượng. Khi nghĩ đến một loạt xác chết sẽ xảy ra, ông cảm thấy như có một lưỡi gươm đang đâm vào sườn. Đêm tối mịt. Tối hoàn toàn.
Jean-Philippe de Tonnac.
CHẾT ĐI CON NGƯỜI CŨ…
Trước khi “bước vào đời sống mới”, chúng ta phải “chết đi” con người cũ.
“Chết đi con người cũ”, không có nghĩa là “xóa tan dấu vết đời mình”, ngược lại, là “tên tuổi được vinh quang” vì được chia sẻ “vinh danh Thiên Chúa”.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu: Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì? Chúa Giêsu đáp: Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự Tòa Vinh Hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên 12 tòa mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Danh Thầy, thì sẽ được gấp bội, và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Mt 19,27-29).
Có một dòng tư tưởng mang nặng triết lý hiện sinh, rằng, suy cho cùng, tất cả suy nghĩ và hành động của con người đều là vị kỷ, đều nhắm vào cái lợi cho riêng mình. Ngay cả việc con người cố vươn lên để nên Thánh, để vào Thiên Đàng, để hưởng Niết Bàn, cũng là vì ích lợi cho riêng mình.
Cách phân tích như vậy, thoáng nghe qua, có vẻ rất đúng với thực tế, nhưng cách lập luận như vậy, nó đã mang nặng sự vị kỷ ngay từ ở căn tính tội lỗi của con người. Điều đó cũng có nghĩa là thừa nhận bước đi thăng hoa của Tôn Giáo trong tâm hồn của con người.
Đúng là khi nhắm tới mục tiêu “nên Thánh”, con người đã nghĩ đến thế giới hạnh phúc vĩnh hằng cho chính mình, nhưng, đồng thời, con người cũng nhắm tới mục tiêu “yêu thương đổng loại”, không ai có thể làm lành lánh dữ mà “chỉ có một mình”! và, do đó, không ai nên Thánh “chỉ một mình!”.
Để có được sự sống đời đời làm gia nghiệp – như Chúa Kitô đã hứa – con người phải biết thực thi Giới Luật Yêu Thương, và Yêu Thương không như kiểu con người, mà Yêu Thương như Thầy, Yêu Thương như Chúa Giêsu.
Để sống đúng như Giáo Huấn của Ngài, con người không được vị kỷ, mà phải “hủy diệt” chính mình. Con người khi yêu thương đồng loại, không phải để được hưởng vinh quang Thiên Quốc, nhưng là vì Yêu Mến Thiên Chúa. “Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn”.
Cũng như Chúa Giêsu yêu thương con người, chết vì con người, không phải để tìm Vinh Quang Chúa Cha ban tặng, vì tự Ngài đã là Thiên Chúa, mà chỉ vì Ngài yêu thương Chúa Cha. Ngài muốn thực thi hoàn toàn Thánh Ý Chúa Cha. Chúa Cha yêu thương con người, Ngài yêu thương con người như Chúa Cha. Tình Yêu ấy là một.
“Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.”(Ga.17,26).
“Tình Cha đã yêu thương con ở trong họ”. Khi tình yêu bao la ấy chiếm ngự trọn vẹn trái tim con người, thì làm gì còn sự ích kỷ hẹp hòi nơi con người nữa? Trái tim ấy trào tràn Tình Yêu Thiên Chúa, và tình yêu ấy lan tràn đến tha nhân. Đó là lúc “đóng đinh” con người ích kỷ, hẹp hòi vào Thập Giá, đó là lúc “xóa tan dấu vết bợn nhơ của đời mình”, chứ không phải xóa tan “cuộc sống mình”. Chúng ta vẫn sống, và sống với một trái tim mới, một cuộc đời mới.
“Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ez.36,26).
“Chúng ta biết rằng: Con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào Thập Giá với Đức Kitô, như vậy con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi”. (Rm 6,6-7).
…BƯỚC VÀO ĐỜI SỐNG MỚI
Bước vào đời sống mới với sự sống lại cùng Chúa Kitô và sống như Chúa Kitô. “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi.” (Gal.2,20).
Để “Chúa Kitô sống trong tôi”, lòng trí ta phải luôn hướng về Thiên Chúa. Những gì thuộc về Thiên Chúa ta đã được Chúa Giêsu giảng dạy trong Giới Luật Yêu Thương. Đời của Ngài là bài học sống động để ta noi gương tiến bước, từ sự chiến thắng cơn cám dỗ của Satan nơi hoang địa, đến cuộc chiến thắng trên đỉnh Can-vê.
Ta được rửa sạch mọi bợn nhơ nhờ dòng máu cứu chuộc của Ngài. Ta được Ngài ban Thánh Thần để vươn lên thượng giới. Như con thuyền giữa biển đời, ta đủ sức vượt qua giông tố với điều kiện ta đừng buông tay lái, và tin tưởng Ngài luôn hiện hiện bên ta. Đồng hành với ta. Sống trong ta. Nếu ta sống buông thả, xuôi đời mình theo những chuyến tàu dục vọng, ta mất sức mạnh của Ngài ban. Ta mất Thánh Thần. Ta đánh mất Ơn Cứu Độ.
“Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,5-6)
Bước ra khỏi nấm mồ nô lệ tội lỗi, không phải để bước vào nấm mồ khác của hoang mang, hoài nghi, lo sợ. Đó không phải là một cuộc vượt ngục bước ra khỏi nấm mồ nô lệ và đứng trước vùng đất xa lạ không biết đâu là con đường đi đến tự do.
Bước ra khỏi nấm mồ sự chết, ta bước vào đời sống mới. Bỏ lại sau lưng mùi tang tóc sự chết và đọa đày, hít thở không khí trong lành và bắt đầu tận hưởng cuộc sống mới tự do và ngập tràn hạnh phúc yêu thương.
Ngay từ hôm nay, chứ không phải đợi chờ hứa hẹn. Bình an ngay hôm nay trong sự hoan lạc vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh. Lòng ta nhẹ nhàng bay bổng khi trút bỏ được bao thứ rác rưởi phù phiếm trần gian mà ta cứ nhọc công tom góp và sống chết vì nó. Ta hạnh phúc biết bao khi Ánh Sáng Phục Sinh soi rọi cho ta thấy những giá trị đích thực của đời người mà từ lâu đôi mắt ta mù lòa không nhận ra được thật hư. Ta vui mừng, vì cuối cùng, ta không phải đau đớn “xóa tan dấu vết đời mình” mà không hiểu vì sao ta sống!
“Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.” (Cl.3,3-4).
Lạy Chúa,
Còn đó đoạn đường trần chông gai,
và một đời yếu đuối.
Xin cho con từng ngày,
chịu đóng đinh cùng Ngài,
được Phục Sinh với Ngài,
trong Tình Yêu Vĩnh Cửu của Ngài. Amen.
-----------------------------
“Ông đã thấy và đã tin” (20,8).
Ai thấy? Thấy gì? Tin gì?
CHIA SẺ
Đoạn Tin Mừng Ga 20,1-9 nói về tiến trình “thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giêsu yêu mến. Xin chia sẻ đôi nét về người môn đệ bí ẩn này và ý nghĩa của việc “thấy” và “tin”.
Truyền thống đồng hóa môn đệ Đức Giêsu yêu mến với tông đồ Gioan. Nhưng thực tế không đơn giản. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, tông đồ Gioan thuộc nhóm ba môn đệ thân tín của Đức Giêsu: Phêrô, Gioan và Giacôbê. Hình ảnh tông đồ Gioan, cũng như các môn đệ khác, thường là không hiểu Đức Giêsu. Khi Gioan và Giacôbê xin được ngồi bên hữu và bên tả, Đức Giêsu nói: “Các anh không biết các anh xin gì” (Mc 10,38a). Khi những người Sa-ma-ri không tiếp đón Thầy trò, Giacôbê và Gioan nói: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Và Đức Giêsu đã quay lại quở mắng các ông (Lc 9,54-55). Ở vườn Ghết-sê-ma-ni, ba môn đệ thân tín ngủ khi Thầy đang hấp hối (Mc 9,32-42). Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Phêrô đóng vai trò tông đồ trưởng và nổi bật hơn tông đồ Gioan.
Trong Tin Mừng thứ tư, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến có một vị trí đặc biệt và nổi bật hơn Phêrô và các môn đệ khác trong nhiều khía cạnh. Người môn đệ này xuất hiện lần đầu tiên trong bữa tiệc ly (Ga 13,1-32). Phêrô phải nhờ người môn đệ này hỏi Đức Giêsu xem ai là người sẽ nộp Thầy (Ga 13,23-24). Người môn đệ này có vị trí gần Đức Giêsu hơn Phêrô và hiểu Đức Giêsu hơn Phêrô. Trong biến cố Thương Khó, các môn đệ khác sợ sệt bỏ chạy, thì người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đứng dưới chân thập giá và được Đức Giêsu trao phó chăm sóc Mẹ của Người (Ga 19,26-27). Trong trình thuật ngôi mộ trống (Ga 20,1-9), người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã thấy và đã tin, còn lòng tin của Phêrô không được nói đến. Khi Đấng Phục Sinh hiện ra trên bờ biển hồ Ti-bê-ri-a (Ga 21,1-14), người môn đệ này là người đầu tiên nhận ra Đức Giêsu.
Như thế, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến trổi vượt hơn Phêrô và các môn đệ khác về ba phương diện:
1) Về vị trí, ông ở bên cạnh Đức Giêsu trong bữa tiệc Vượt qua cuối cùng (Ga 13,23).
2) Về lòng tin, ông đã thấy và đã tin trước ngôi mộ trống (Ga 20,8).
3) Về sự hiểu biết, ông nhận ra Chúa trước tất cả các môn đệ khác (Ga 21,7).
Việc người môn đệ Đức Giêsu yêu mến thường hiện diện với Phêrô trong Tin Mừng thứ tư không đủ để đồng hóa người môn đệ này với tông đồ Gioan trong Tin Mừng Nhất Lãm.
Với sự thân tín đặc biệt và được trình bày cách lạ lùng trong Tin Mừng Gioan, người môn đệ Đức Giêsu yêu mến là một nhân vật lịch sử đã trở thành nhân vật biểu tượng. Đây là người môn đệ lý tưởng và mẫu mực cho người tin qua mọi thời đại.
Đoạn Tin Mừng Ga 20,1-9 cho biết thế nào là “thấy” và “tin”. Có thể hiểu người môn đệ này không vào mồ trước, vì tôn trọng Phêrô là trưởng Nhóm Mười Hai; nhưng mạch văn cho thấy, ông trổi vượt hơn Phêrô về ba khía cạnh:
1) Trước hết, ông chạy trước Phêrô để tới mộ trước. Việc ông mau mắn hơn Phêrô cho thấy sự gắn bó giữa ông và Đức Giêsu.
2) Thứ đến, ông là người thấy những băng vải trong mộ trước Phêrô.
3) Cuối cùng, sự thấy của ông có hiệu lực hơn sự thấy của Phêrô: Những điều Phêrô thấy chỉ có tính cách thông tin, còn những gì người môn đệ này thấy bằng mắt thể lý đã dẫn tới thấy bằng mắt đức tin, “ông đã thấy và đã tin” (20,8).
Hai động từ “thấy” và “tin” không có bổ túc từ nên có thể hiểu theo nghĩa rộng. Những điều người môn đệ này thấy không chỉ là thấy những băng vải như đã kể ở trên, mà ông còn thấy ngôi mộ trống rỗng, thấy Đức Giêsu không còn đó. Xa hơn, gợi đến những gì ông đã thấy khi đứng dưới chân thập giá.
Tuy nhiên, đây không phải là “thấy” bình thường mà là thấy đúng theo ý Thiên Chúa. Nghĩa là “thấy” và “tin” gắn kết với nhau như Đức Giêsu đã nói: “Đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy người Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời” (6,40).
Động từ “tin” trong câu: “Ông đã thấy và đã tin” (20,8) cũng không có túc từ và cho phép hiểu: Người môn đệ này không chỉ tin vào việc Đức Giêsu sống lại mà còn tin vào những lời Đức Giêsu đã nói, tin Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến, tin là Đức Giêsu có thể ban sự sống đời đời. Và ở mức độ cao nhất: Tin Đức Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa như lời Tô-ma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (20,28). “Thấy” và “tin” theo nghĩa tuyệt đối, không có túc từ, cho thấy người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã hiểu ý nghĩa của biến cố Thương Khó.
Tuy nhiên, giữa việc “thấy bằng mắt” và “tin” có một khoảng cách lớn lao. Bởi lẽ ngôi mộ trống và những băng vải không phải là bằng chứng hiển nhiên về việc Đức Giêsu Phục Sinh. Người môn đệ Đức Giêsu yêu mến đã thấy dấu chỉ, chứ không thấy Đức Giêsu sống lại. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên khi Tin Mừng thứ tư kết thúc với lời động viên các tín hữu thế hệ sau: “Phúc cho những người không thấy mà là những người tin” (20,29).
Thực ra, không ai có bằng chứng hiển nhiên về việc Đức Giêsu sống lại. Dù chúng ta là những người không thấy mà tin, bài Tin Mừng mời gọi chúng ta đạt tới hành động “thấy” đích thực như người môn đệ Đức Giêsu yêu mến. Từ việc thấy dấu chỉ được kể lại trong Tin Mừng, dẫn tới việc thấy bằng con mắt đức tin, nghĩa là nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục Sinh trong cuộc đời.
Việc Đức Giêsu Phục Sinh đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ, xin cho tất cả chúng ta “thấy” và “tin” qua những dấu chỉ thuật lại trong Tin Mừng và qua những dấu chỉ trong cuộc sống hôm nay để đón nhận sự sống, niềm vui và bình an của Đấng Phục sinh ban tặng.
-----------------------------
Gioan “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó… Ông đã thấy và đã tin.
Nhưng ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết. Có gì đâu mà thấy. Tuy vậy điều ông thấy đã dẫn ông tới chỗ tin.
Ta hãy nghiêng mình xuống như Gioan. Ta thấy gì? Một hố sau thăm thẳm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông dâng đầy mầm sống. Cờ tang khăn tang chuyển biến thành y phục ánh sáng. Một sự vắng mặt vang dội sự có mặt. Một sự im lặng của nấm mồ nói nhiều hơn mọi bài diễn văn. Một bức tường mà ta chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết quả của tất cả mang dáng dấp khởi đầu. Một cái chết có bộ mặt một cuộc giáng sinh. Mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí mật.
Vậy ai đã tạo ra ngôi mộ trống. Ngôi mộ đâu có trống. Vì Gioan đã thấy chân dung thực sự của Đức Giêsu, bạn ngài.
Ngôi mộ không trống, không sâu, không câm nín, không vương mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó còn nói với ta. Ta có bị cụt hứng không? Vì sự vắng mặt này, lớn như một nấm mồ, chính là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới nhãn quan của não trạng hiện đại, đã thấm nhiễm vào ta, chết là hết. Chết rồi chẳng còn gì ráo. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết chôn kín đời ta.
Nhưng ở đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người đã mở ra. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Mầu nhiệm mang tên chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở lòng mớ trí ta. Ký ức sống và sống lại. Ta mở hồn ra với đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã vượt qua bức tường sự chết, đã nâng phiến đá che mộ, đã hoàn thành Phục sinh báo trước. (G. Boucher, “Le ciel sur terre”, được trích dịch trong Fiches dominicales, năm A, trang 122 -123).
Một vài tuần trước lễ Phục sinh, người chồng đã chết vì một tai nạn đột ngột: đang khi ông đốt các nhánh cây vụn trong khu vườn của gia đình, ông đã sơ ý để lửa bắt vào mình.
Tai nạn đã làm cho bà vợ trở nên như người mất trí, một đàng vì nó đột ngột quá, đàng khác vì nó xảy ra tại chính khu vườn của gia đình. Bà không giám bước chân ra vườn. Thậm chí không dám nhìn về hướng đó nữa.
Rồi tới lễ Phục sinh. Hai người hàng xóm đến thăm bà và rủ bà đi ra vườn. Mới nghe tới đó, bà co rúm người lại. Nhưng các bà hàng xóm tin rằng việc này sẽ có ích cho bà nên cứ khuyến khích. Thế là cả 3 ra vườn, đến chính nơi xảy ra tai nạn. Người vợ muốn quay lưng bỏ vào nhà. Nhưng đúng lúc ấy, một lời trong Tin Mừng lóe lên trong đầu bà: “Sao lại tìm người sống nơi chỗ kẻ chết? Ngài không còn ở đây nữa. Ngài đã sống lại rồi”. Bà nghĩ lời đó nói về chính người chồng của bà.
Thế là nỗi buồn sầu bấy lâu nay chắp cánh bay mất. Bà tìm lại được niềm vui.
-----------------------------
Chúa Kitô đã phục sinh. Ðó là niềm vui của chúng ta. Còn hơn thế nữa, đó là đức tin của chúng ta, đó là niềm hi vọng của chúng ta. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh của chúng ta có cơ sở vững chắc ở những bằng chứng khác nhau.
Có bằng chứng tiêu cực của các lính canh mộ. Khi an táng Chúa Giêsu, các thượng tế đã cẩn thận xin Philatô cho đóng cửa mộ bằng một phiến đá lớn rất nặng rồi cho niêm phong và cắt cử lính canh cẩn thận. Nhưng khi Chúa sống lại, ánh sáng rực rỡ chiếu lên chói lòa, cửa mộ bật tung, lính canh hoảng sợ chạy trốn. Sau đó lính canh đi loan tin rằng: Trong khi chúng tôi ngủ, các môn đệ đến lấy trộm xác Chúa. Ai cũng biết đó là tin giả. Vì các môn đệ còn đang rất sợ hãi, trốn chạy, làm sao dám lấy trộm xác. Thánh Augustinô đã bài bác điều này khi nói: Lính canh ngủ hay thức. Nếu họ thức thì làm sao họ để cho các môn đệ lấy trộm xác Chúa. Nếu họ ngủ, làm sao họ biết là các môn đệ lấy trộm xác Chúa.
Có những bằng chứng tích cực của các môn đệ. Sáng sớm, ba người đầu tiên đã đến mộ và không thấy xác Chúa. Bà Mađalêna hốt hoảng cho rằng người ta đã lấy mất xác Chúa. Phêrô vào trước nhưng chưa có ý kiến gì. Gioan vào sau. Ông đã thấy và đã tin. Ông thấy gì? Ông thấy khăn che đầu và khăn liệm xếp đặt gọn gàng trong mộ. Là người môn đệ được Chúa yêu thương ông có một trực giác đặc biệt. Hơn nữa ông đã biết rõ thói quen của Chúa. Nhìn khăn liệm xếp đặt gọn gàng, ông nhận ra thói quen đó. Tuy nhiên niềm tin ban đầu còn mơ hồ. Niềm tin chỉ chắc chắn nhờ được củng cố bằng việc trực tiếp nhìn thấy Chúa.
Sau ngày phục sinh, Chúa hiện ra nhiều lần với nhiều người. Hiện ra với các môn đệ trong căn phòng đóng kín. Hiện ra với Tôma và cho ông xem các vết thương ở tay, chân và cạnh sườn. Hiện ra với hai môn đệ đi đường Emmaus. Hiện ra trên bờ biển và chỉ dẫn cho các môn đệ đánh một mẻ cá lạ lùng. Nhưng có lẽ cuộc hiện ra có tác động mãnh liệt nhất là với Phaolô. Thuở ấy Phaolô còn có tên là Saolê, một người Do Thái thù ghét Chúa Giêsu, hăng say đi tìm bắt những người tin Chúa. Ở Damas, ông bị một làn ánh sáng chói lọi chiếu vào khiến mù mắt. Con ngựa hất ông ngã lăn xuống đất. Và có tiếng từ trời phán bảo: "Saolê, Saolê, tại sao ngươi tìm bắt ta". Hoảng sợ Saolê thưa: "Thưa ngài, ngài là ai". Tiếng từ trời trả lời: "Ta là Giêsu mà ngươi đang tìm bắt". Từ đó Saolê tin vào Chúa Kitô Phục sinh, trở thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành đi loan Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Những kết quả của việc Chúa Phục sinh được thấy rõ ràng. Trước hết là sự đột biến nơi các môn đệ. Ngày Chúa chịu chết, các ông là những người nhút nhát, trốn chạy, thậm chí còn phản bội, chối Chúa. Tại sao chỉ trong một thời gian ngắn, các ngài thay đổi một cách mãnh liệt. Ðang nhút nhát, ẩn trốn bỗng hiên ngang xuất hiện ở chốn công khai. Ðang phản bội, chối Chúa bỗng hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Ðang sợ hãi bỗng trở nên can đảm lạ thường. Không những vui mừng được chịu đau khổ vì Chúa mà còn sẵn sàng chịu chết vì Chúa. Chắc chắn các ngài đã được gặp Chúa nên con người các ngài đã biến đổi tận gốc rễ. Chắc chắn các ngài đã gặp Chúa nên lời chứng của các ngài có sức thuyết phục.
Thật vậy, làm sao những người tín hữu đầu tiên tin vào lời chứng của các tông đồ đến nỗi sẵn sàng bỏ của cải làm của chung, sẵn sàng chịu sống chui rúc, trốn chạy cuộc bách hại của đế quốc La mã, sẵn sàng chịu chết vì đức tin của mình. Làm sao Giáo hội có thể tồn tại 2,000 năm, qua biết bao nhiêu khó khăn thử thách do những người muốn tiêu diệt đạo gây nên. Nếu Chúa không Phục sinh, không thể giải thích được những việc đó.
Chúa Phục sinh, đó là nền tảng của đức tin. Ðó là sự vững chắc của Giáo hội. Và đó là chính là niềm hi vọng lớn lao của chúng ta. Chúa phục sinh biến đổi thân phận chúng ta. Từ thân phận phải chết sẽ được sống lại với Chúa. Từ thân phận tội lỗi được trở nên trong sạch. Từ cát bụi phàm trần được trở lại làm con Chúa. Từ định mệnh mong manh phù du được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trong nhà Cha trên trời.
Lễ Chúa Phục Sinh đem lại cho ta niềm vui lớn lao. Vì thế mừng lễ Chúa Phục Sinh mời gọi ta biến đổi đời sống nên tươi mới cho xứng đáng với niềm tin, xứng đáng với phẩm giá của con người được Chúa yêu thương cứu chuộc.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen!
TGM Ngô Quang Kiệt
-----------------------------