Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 29 TN-A Bài 1-50: Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa
------------------------------------------
Tin mừng: Mt 22,15-21
15 Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy. 16 Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. 17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?”
18 Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! 19 Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ liền đưa cho Người một quan tiền. 20 Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây ?” 21 Họ đáp: “Của Xê-da.” Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
------------------------------------------
Mục lục:
TN 29-A1. SỐNG LỜI CHÚA- CAESAR VÀ THIÊN CHÚA.. 2
TN 29-A2. NTĐY/150- VIỄN VỌNG KÍNH.. 4
TN 29-A3. CS / 143- CHÂN THỰC.. 6
TN 29-A4. STM/218- CÊDA TRẢ CHO XÊDA.. 7
TN 29-A5. CSTM/239- TRẢ CHO THIÊN CHÚA.. 9
TN 29-A6. PV / 600- CÔNG DÂN.. 10
TN 29-A7. PV/603- KITÔ GIÁO VÀ CHÍNH TRỊ 11
TN 29-A8. PV/606- TRUNG THÀNH.. 13
TN 29-A9. SCĐ/518- BỔN PHẬN CÔNG DÂN.. 14
TN 29-A10. HAI NGHĨA VỤ PHẢI CHU TOÀN - Gier. Nguyễn văn Nội 16
TN 29-A11. Suy Niệm của Lm. Nguyễn bình An. 18
TN 29-A12. CỦA XÊDA HÃY TRẢ CHO XÊDA.. 20
TN 29-A13. Nộp Thuế Cho Xê-da – JKN.. 22
TN 29-A14. Suy Niệm của Lm Augustine S.J. – 2. 26
TN 29-A15. VẤN ĐỀ NỘP THUẾ CHO CÉSAR.. 29
TN 29-A16. NÊN GIỐNG CHÚA.. 33
TN 29-A17. XIN THẦY CHO BIẾT Ý KIẾN.. 34
TN 29-A18. CHÍNH TRỊ TRẦN THẾ.. 36
TN 29-A19. Trả Về Thiên Chúa. 38
TN 29-A20. MỘT VẤN ĐỀ NHỨC NHỐI - Lm. Augustine, SJ. 40
TN 29-A21. CỦA XÊDA HAY CỦA THIÊN CHÚA - Lm. VIKINI 43
TN 29-A22. César 45
TN 29-A23: “LÀ CÔNG DÂN ĐÔ THỊ TRẦN GIAN VÀ NƯỚC TRỜI, CHÚNG TA CÓ HAI NGHĨA VỤ PHẢI CHU TOÀN”. 46
TN 29-A24: Của César 48
TN 29-A25: Cái gì của Cêsarê thì trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. 50
TN 29-A26: KHIÊM NHƯỜNG TRONG TRUYỀN GIÁO - G.B. Bùi Tuần. 52
TN 29-A27: LỬA TRUYỀN GIÁO – GB. Bùi Tuần. 54
TN 29-A28: TRUYỀN GIÁO, MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA LINH MỤC VIỆT NAM THỜI NAY.. 56
TN 29-A29: Bổn Phận Đối Với Chúa Và Với Xã Hội 59
TN 29-A30: Cái Gì Của Thiên Chúa, Hãy Trả Cho Thiên Chúa. 61
TN 29-A31: Hỡi Những Kẻ Giả Hình - HuyềnĐồng. 62
TN 29-A32: Trả Cho Cêsarê - Trả Cho Chúa. 64
TN 29-A33: CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA.. 65
TN 29-A34: QUYỀN TỐI THƯỢNG CỦA THIÊN CHÚA.. 68
TN 29-A35: CỦA XÊ-DA HÃY TRẢ VỀ XÊ-DA.. 71
TN 29-A36: Những thứ thuộc về Thiên Chúa - Lm John Trần Khả. 73
TN 29-A37: TỐT ĐỜI ĐẸP ĐẠO" - Lm Đan Vinh. 78
TN 29-A38: Của Thiên Chúa, Trả Về Cho Thiên Chúa - Jude Siciliano, OP. 85
TN 29-A39: CSTM/220 – Hình ai đây?. 89
TN 29-A40: SLC – Thiên Chúa và nhà nước. 91
TN 29-A41: SLCTTY/331 – Trả về. 93
TN 29-A42: SLCTTY/331 – Trả về. 94
TN 29-A43: Kurios Christos! 96
TN 29-A44: Xin Thầy cho biết ý kiến. 98
TN 29-A45: Của Xêsa hãy trả cho Xêsa. 100
TN 29-A46: Nộp thuế cho vua Césarê. 101
TN 29-A47: CỦA THIÊN TRẢ ĐỊA ! 103
TN 29-A48: THIÊN CHÚA LÀ ƯU TIÊN TRONG CÁC LỰA CHỌN.. 105
TN 29-A49: Của Cesar thì trả về cho Cesar 109
TN 29-A50: Những cánh hoa Đạo ướp hương cho Đời 111
------------------------------------------
Có những quốc gia, khi một thể chế mới được bắt đầu, thì lập tức Giáo hội bị mất hêt những: TN 29-A1
Có những quốc gia, khi một thể chế mới được bắt đầu, thì lập tức Giáo hội bị mất hêt những quyền lợi và tài sản của mình. Trước những sự kiện ấy, có người la hoảng lên rằng:
- Giáo hội bị bắt bớ, bị cấm cách.
Có người lại vui mừng vì cho rằng:
- Đó là thời cơ thuận tiện để Giáo hội được lột xác, trở về với cội nguyền của Tin Mừng.
Ngày xưa Chúa Giêsu quả là một dân vô sản vì Ngài không có ngay cả một chỗ để tựa đầu. Đúng thế, ngày xưa Chúa Giêsu đã sống nghèo. Nhưng cái nghèo của Ngài không thể hợp thức hóa cho những hành động bất công. Biến sự bất công thành một quyền lợi chính đáng.
Giáo hội trải qua hai ngàn năm đã trở thành một tổ chức bao trùm trên toàn cõi địa cầu, nên Giáo hội cũng cần đến tiền bạc và những phương tiện vật chất, để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, cũng như để thi hành những mục đích đã đề xướng.
Từ đó nảy sinh một vấn đề mới, đó là Giáo hội và những sinh hoạt chính trị, Giáo hội và việc dấn thân vào những môi trường xã hội. Giáo hội phải chăng chỉ nên hạn chế vào những công việc tại nhà thờ và bác ái, chứ không nên lo lắng tới những sinh hoạt xã hội. Làm thế nào để có được một sự dung hòa tốt đẹp giữa Giáo hội và nhà nước ?
Như chúng ta đã thấy, đấu tranh là một qui luật của cuộc sống.
Trong khi những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài trào dâng như thác lũ: báo chí, phim ảnh, tuồng kịch… đang liên tục làm ung thối xã hội, thì Giáo hội không có quyền im lặng.
Trong khi những tổ chức bàn bạc và lo lắng đến mọi vấn đề thì Giáo hội không được phép chỉ quỳ cầu nguyện và cử hành những bí tích. Nếu chỉ hành động như thế, Giáo hội đã không chu toàn được sứ mạng của mình.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã không sai các môn đệ:
- Các con hãy vào nhà thờ.
Nhưng Ngài đã truyền cho các ông:
- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân.
Một gia đình gồm có người cha người mẹ và ba đứa con. Tại nhà, người ta nói với con cái về Thiên Chúa và cho chúng một nền giáo dục đạo đức. Nhưng còn ngoài xã hội ? Liệu người cha hay người mẹ có thể nói được rằng:
- Ở ngoài xã hội, tôi không cần phải theo sát chúng. Chúng có thể làm gì tùy thích, tôi chỉ có trách nhiệm khi chúng ở nhà mà thôi.
Nếu thực sự lo lắng cho con cái, chúng ta phải để ý tới chúng cả khi chúng ở ngoài xã hội, với những người chúng thường liên hệ, ở những nơi chúng thường lui tới, cũng như qua những phương tiện chúng thường dùng để giải trí. Có hành động như thế thì người cha và người mẹ mới chu toàn được nhiệm vụ của mình.
Giáo hội chính là một gia đình qui tụ mọi dân nước, được Chúa Giêsu thiết lập. Hay nói một cách mạnh mẽ hơn, Giáo hội là Đức Kitô được kéo dài qua dòng thời gian, có nhiệm vụ dẫn đưa con người trở về cùng Thiên Chúa, để được hưởng niềm hạnh phúc bất diệt.
Thế nhưng, con người mà Giáo hội có nhiệm vụ cứu rỗi lại là một phần tử của xã hội, sống trong một gia đình, một quốc gia, một cộng đồng thế giới.
Con người mà Giáo hội có nhiệm vụ giải thoát, không phải lúc nào cũng quỳ cầu nguyện trong nhà thờ, mà phần lớn thời gian là ở bên ngoài với muôn ngàn hiểm nguy chờ đón.
Vì thế, Giáo hội không thể đứng khoanh tay chịu trận, không thể ngồi yên trước những làn sóng tội lỗi. Nếu làm như thế, thì Giáo hội đã phản bội sứ mệnh của mình và không còn là Giáo hội của Đức Kitô nữa. Trước những suy đồi về luân lý, Giáo hội phải nói lên tiếng nói của mình để bảo vệ và phát huy những giá trị đạo đức. Trước những làn sóng tội lỗi trào dâng, Giáo hội phải là thành lũy vững chắc chở che nhân loại không bị những ảnh hưởng xấu xâm nhập. Giáo hội phải can đản thực thi lời Chúa đã phán dạy:
- Của Caesar, hãy trả cho Caesar. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
----------------------------------
Vua nước Đức Frederic tự cho mình là học rộng tài cao, lấy làm hãnh diện đã khám phá: TN 29-A2
Vua nước Đức Frederic tự cho mình là học rộng tài cao, lấy làm hãnh diện đã khám phá ra một phương pháp mới, khả dĩ làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Ông ngồi trong phòng tính đi tính lại: Cứ mỗi năm chim sẻ ăn hết hai triệu thùng thóc trên toàn lãnh thổ. Vì thế, ông truyền phát động chiến dịch bài trừ sẻ. Giết được một con chim là được một phần thưởng.
Toàn dân hưởng ứng nhiệt liệt vì thấy công việc dễ dàng và vui thú. Thế là lần lượt chim sẻ bị bắn chết, một số khác bay về một phương trời xa. Cuối cùng, chẳng còn thấy một mống nào trên toàn lãnh thổ. Frederic vui mừng khôn tả vì tin chắc kế hoạch của mình sẽ thành công rực rỡ.
Nhưng có ngờ đâu, vừa khi ngày mùa tươi tốt đầy hứa hẹn tới, thì không biết từ đâu từng bầy sâu bọ đua nhau kéo đến, từng đàn châu chấu cũng ùn ùn xuất hiện tràn lan khắp lãnh thổ, không cách nào diệt nổi. Thế là Frederic chỉ còn cách ngồi trong điện rồng lòng buồn ủ rũ, chứng kiến kỳ công của mình hoàn toàn sụp đổ.
Các qui luật của thiên nhiên, các định luật trong vũ trụ, đều được Thiên Chúa an bài, sắp xếp, để nên tốt đẹp và hữu ích cho con người. Một khi con người đã phá vỡ những qui luật ấy thì tai họa sẽ ập tới chỉ còn là vấn đề thời gian.
Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, đã không chỉ thoát khỏi cạm bẫy của nhóm Pharisêu:”Có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?”. Người còn bất ngờ đưa ra một câu nói thời gian khiến bọn họ phải câm miệng: “Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”. Qua câu này, Đức Giêsu đã nhìn nhận thế quyền của Xêda. Nhưng có quyền gì của Xêda, mà lại chẳng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giêsu đáp lại Philatô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài”.
Nếu phải trả lại cho Xêda đồng bạc mang hình danh hiệu của Xêda, thì có loài thụ nào mà không mang hình hài và tên gọi của Thiên Chúa. Nhà bác học Newton đã nói: “Tôi nhìn thấy Thiên Chúa trên đầu viễn vọng kính của tôi”.
Người ta phá vỡ hình ảnh bao la hùng vĩ của Thiên Chúa, khi người ta chặt cây, đốt rừng cho lụt lội tràn lan; rồi thải khí carbonic lên bầu trời, cho lủng tầng Ozone.
Người ta phá vỡ hình ảnh xinh đẹp của Thiên Chúa, khi người ta ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tình luyến ái.
Người ta phá vỡ hình ảnh chân thật của Thiên Chúa, khi người ta đọc kinh, đi lễ; nhưng sống ích kỷ, lường gạt và gian lận.
Sách Sáng Thế viết: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa”. Vì thế, con người là tác phẩm tuyệt vời mà Thiên Chúa nhìn thấy rất rõ hình ảnh của Người trong đó. “Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Hãy trả lại cho Thiên Chúa hình ảnh con người đã được Người dựng nên rất thanh khiết thuở ban đầu. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ, tài nguyên và muôn sinh vật, hình ảnh trong lành mà Người đã dựng nên. Hãy trả lại cho Thiên Chúa thế giới do Người tạo nên, hình ảnh của an bình và yêu thương.
Chính Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước bằng một tình yêu vô biên. Vì thế hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận tình yêu Chúa. Huyền diệu của tình yêu là khi nào người kia lãnh nhận, tình yêu ấy mới thực sự thành tình yêu. Tình yêu cho đi, không người nhận, sẽ trở về với người đã trao ban.
----------------------------------
Sau nhiều lần bị Chúa Giêsu vạch trần bộ mặt dối trá, đáng lẽ những người Biệt phái: TN 29-A3
Sau nhiều lần bị Chúa Giêsu vạch trần bộ mặt dối trá, đáng lẽ những người Biệt phái phải nhận ra những sai lầm của mình để sửa chữa, nhưng không, họ vẫn cố chấp trong sự giả dối ấy. Vì thế, họ đã cấu kết với phe nhóm Hêrôđê để phản công Chúa Giêsu. Cuộc phản công lại càng để lộ ra sự gian dối của họ hơn nữa, mặc dầu họ đã khéo léo che đậy.
- Điều gian dối thứ nhất là chính sự liên minh của họ: bình thường nhóm Biệt phái và những người thuộc đảng Hêrôđê chẳng phải là bạn của nhau, thậm chí còn là thù địch của nhau nữa. Bởi vì nhóm Biệt phái chống đối quân Rôma đang đô hộ đất Giuđa, trong khi đó đảng Hêrôđê lại ủng hộ và nịnh bợ các quan bảo hộ để được đặc quyền, đặc lợi. Nay làm như không có gì xung đột xảy ra, họ đã liên minh với nhau để triệt hạ Chúa Giêsu.
- Điều gian dối thứ hai là họ vờ vịt khen lao, tâng bốc Chúa Giêsu. Họ thưa với Người: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự chân thật mà dậy dỗ đường lối của Thiên Chúa. Thầy không vị nể ai, không đánh giá người ta theo bề ngoài”. Họ nói thế nhưng không nghĩ thế.
- Điều gian dối thứ ba là họ hỏi Chúa Giêsu về việc nộp thuế cho César không phải vì thắc mắc muốn tìm hiểu nhưng là để gài bẫy hãm hại Người.
Nhưng dù những người Biệt phái và phe Hêrôđê có che đậy khéo léo đến đâu cũng không thể phỉnh gạt được Chúa Giêsu. Một lần nữa Người lại tố cáo sự gian dối của họ khi nói: “Tại sao các ông lại gài bẫy tôi? Các ông thật là giả hình”. Và câu trả lời tiếp theo của Chúa Giêsu không chỉ phá vỡ mưu đồ của họ mà còn dạy cho họ một bài học về những bổn phận phải chu toàn trong những mối tương quan của cuộc sống: “Của César hãy trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu thật ngắn gọn nhưng mở ra cho ta nhiều điều để suy nghĩ. Dựa vào thực tế cuộc sống, chúng ta có thể cùng nhau suy nghĩ về sự chân thực. Những người Biệt phái đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định về mình: “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Rồi khi đứng trước tòa quan Philatô Chúa Giêsu đã mạnh mẽ tuyên bố: “Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi”. Và trong một bài giảng huấn, Chúa Giêsu đã nói với người Do thái rằng: “Cha của các ông là ma quỷ. Ngay từ đầu nó đã là kẻ sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật vì sự thật không ở trong nó”.
Như thế là đã rõ: Những gì là chân thực thì thuộc về Thiên Chúa, còn những gì là dối trá thì thuộc về ma quỷ. Và Chúa Giêsu đòi chúng ta phải trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người. Điều thuộc về Thiên Chúa mà ta đang nói đến ở đây là chân thực. Thánh Phaolô đã viết cho dân thành Côrintô rằng: “Anh em thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa”. Như vậy, bản thân mỗi người chúng ta là của Chúa, là tài sản riêng của Người. Chúng ta thuộc về Người. Nếu bất cứ lúc nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào chúng ta sống trong sự gian dối là chúng ta đã tự nguyện làm con cái ma quỷ, là chúng ta ăn cắp tài sản của Thiên Chúa để hiến dâng cho ma quỷ. Nhìn vào cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy Thiên Chúa đã bị ăn cắp quá nhiều, bởi lẽ sự gian dối đang lan tràn khắp nơi. Trong gia đình cha mẹ lừa dối con cái, con cái lừa dối cha mẹ. Trong đời sống hôn nhân vợ chồng phản bội lẫn nhau. Ngoài xã hội những cảnh trộm cắp, giật dọc, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của nhau không thể kể xiết. Thậm chí chúng ta cũng sống gian xảo cả với Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta biết chắc rằng Người thấu suốt mọi sự. Chúng ta thưa với Chúa nhiều điều tốt đẹp, chúng ta cam kết với Chúa nhiều điều nghiêm túc, nhưng rồi chúng ta đã chẳng sống đúng với lời chúng ta tuyên xưng, chẳng giữ những gì chúng ta đoan hứa. Cuộc sống của chúng ta đúng như một câu ca dao đã ghi lại:
Miệng thời niệm Phật nam mô,
Mà lòng chứa cả một bồ dao găm.
Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người. Hãy trả lại cho Thiên Chúa chính bản thân của chúng ta bằng cách hãy sống chân thực trong chính tâm tư, trong lời nói và trong những hoạt động hằng ngày của ta.
----------------------------------
Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc: TN 29-A4
Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “ Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.
Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa” , có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.
----------------------------------
Sau khi trả lời xong: “Của Xêda, trả về Xêda”, Chúa còn nói thêm: “Của Thiên Chúa, trả về: TN 29-A5
Sau khi trả lời xong: “Của Xêda, trả về Xêda”, Chúa còn nói thêm: “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” . Ở đây, chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt rõ hai bổn phận: bổn phận làm công dân của một nước và bổn phận là công dân của Nước Trời. Là công dân của một nước, người tín hữu có bổn phận đối với nhà nước để đền đáp lại những ích lợi mà chế độ đó mang lại. Và người tín hữu còn là công dân của Nước Trời nữa. Nên có những vấn đề về tôn giáo, người tín hữu còn có bổn phận đối với Thiên Chúa nữa. Hai bổn phận này có thể sẽ không bao giờ đụng chạm nhau vì không nhất thiết phải như thế. Chúa Giêsu không nói đến ranh giới giữa hai bổn phận này. Ngài dành điều đó cho lương tâm mỗi người phán đoán. Tuy nhiên, đây là chân lý vĩnh viễn mà Chúa đưa ra: một kitô hữu chân thật phải là một công dân tốt của đất nước, đồng thời cũng là công dân tốt của Nước Trời.
Có một chi tiết nữa mà nếu suy nghĩ thêm chúng ta sẽ thấy rất hay, đó là câu Chúa Giêsu hỏi những người muốn gài bẫy Chúa khi họ đưa đồng tiền cho Ngài: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Câu hỏi ấy Chúa Giêsu muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Mỗi người chúng ta là một hình ảnh Thiên Chúa, hình ảnh của Chúa Giêsu. Có biết bao nhiêu giáo dân, biết bao nhiêu tu sĩ và biết bao nhiêu linh mục, đều là những bức hình cần phải đề tên rõ ở dưới, nghĩa là nếu không có một mẫu ảnh, một tấm áo hay một huy hiệu nào trên người họ thì người khác không thể biết được những người ấy là giáo dân, tu sĩ, là linh mục. Trên cổ họ có lẽ lúc nào cũng cần phải treo một tấm bảng nhỏ ghi: đây là một giáo dân, đây là một tu sĩ, đây là một linh mục, bởi vì họ không mang trên mình họ, trong con người họ, trong tư tưởng, trong tiếng nói, trong hành động của họ một nét nào là nét Chúa nữa.
Vì thế, chúng ta cần phải làm thế nào để cho các đức tính của Chúa, hình ảnh của Chúa, in thực sâu đậm vào đời sống chúng ta để khi không có hay không cần bộ đồng phục bề ngoài, người khác vẫn nhận ra chúng ta là hình ảnh của Chúa. Hình ảnh ấy phải rất giống để không cần phải đề chữ gì cả, người khác vẫn nhận ra ngay chúng ta là tín hữu của Chúa.
Hình ai đây? Hình ai thế này? Hằng ngày chúng ta hãy hỏi tự mình như thế: tôi làm việc này, tôi nghĩ ngợi như thế, tôi ăn nói như vậy có giống Chúa lắm không? Hành động này, tư tưởng ấy, lời nói kia là hình ảnh ai: Chúa hay Xêda? Hãy trả về Xêda những gì là của Xêda. Và hãy giữ lại để trao về Chúa những gì là của Chúa.
----------------------------------
Vấn đề được đặt ra là việc đóng thuế cho Xêda có hợp pháp hay không, đó là một việc nghiêm: TN 29-A6
Vấn đề được đặt ra là việc đóng thuế cho Xêda có hợp pháp hay không, đó là một việc nghiêm trọng, và đã thực sự đặt Đức Giêsu vào tình thế lúng túng. Nếu người nói đó là một việc hợp pháp, thì Người sẽ bị coi như một kẻ phản bội lại mục đích và tôn giáo của người Do thái. Nếu Người nói đó là một việc bất hợp pháp, thì Người sẽ bị tố cáo là kẻ xúi giục dân chúng nổi loạn chống lại người Rôma.
Trong câu trả lời của Người, Đức Giêsu ám chỉ rằng không nhất thiết phải mâu thuẫn giữa những yêu cầu của chính quyền và của Thiên Chúa. Chính quyền có một vai trò, nhưng quyền lực của họ bị hạn chế, và không thay thế được Thiên Chúa. Từ nguyên tắc này, các Kitô hữu suy ra rằng họ vẫn có thể sắp xếp để trung thành với chính quyền.
Các Kitô hữu đều là những công dân của quốc gia nơi họ chào đời và sinh sống. Họ chịu ơn quốc gia này vì nhiều quyền lợi. Với những qui luật và sự điều hành của quốc gia này, họ có thể được sống trong hòa bình và an ninh. Với những dịch vụ công cộng của quốc gia, họ được hưởng phương tiện đi lại, điện, nước v.v… Trong một quốc gia thịnh vượng, họ còn được giáo dục, chăm sóc y tế, trợ cấp thất nghiệp v.v.
Tất cả những quyền lợi này có nghĩa là họ ở dưới quyền kiểm soát của chính quyền. Chính quyền hợp pháp có những quyền lực, và người Kitô hữu sẽ tôn trọng những quyền lực đó. Họ phải tôn trọng các luật lệ và qui tắc của chính quyền. Họ phải trở nên những công dân có trách nhiệm, và bằng hết khả năng có thể, họ phải đóng góp vai trò của mình, trong việc làm cho quốc gia trở thành một nơi tốt đẹp cho tất cả các công dân. Nếu không trở nên một người công dân tốt, thì họ không giữ được bổn phận của người Kitô hữu. Khi đánh lừa chính quyền, họ cũng đánh lừa luôn các công dân khác, và đánh lừa các công dân khác chính là đánh lừa Thiên Chúa.
Nhưng các Kitô hữu cũng là những công dân của Nước Trời nữa. Đối với Nước trời, họ được hưởng một số đặc ân khác, và họ cũng có nghĩa vụ. Trong nhiều trường hợp, những trách nhiệm đối với quốc gia và Nước Trời không mâu thuẫn nhau. Nhưng đôi khi, có thể xung khắc nhau. Khi đó, các Kitô hữu tự nhiên sẽ biết được phải ưu tiên cho trách nhiệm nào trước.
Tuy nhiên, lịch sử cho thấy chắc chắn rằng sự tách biệt giữa Giáo Hội và chính quyền là yếu tố cần thiết tuyệt đối. Nhưng khi Đức Giêsu nói “Hãy trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda” thì Người thừa nhận rằng yêu cầu của Xêda là hợp lý. Người đã không trả cho Xêda một chi phiếu để trống.
Đôi khi, các Kitô hữu có thể lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan – làm thế nào để trở thành một Kitô hữu trong một thế giới trần tục, nơi mà các qui luật thường có thể không mang tính cách đạo giáo. Tuy nhiên, các Kitô hữu đích thực sẽ phấn đấu để trở thành những công dân tốt trong đất nước của họ, và đồng thời, họ cũng là những công dân tốt của Nước Trời nữa. Họ sẽ không vi phạm bổn phận đối với Thiên Chúa, và cũng sẽ không vi phạm bổn phận đối với đồng loại của họ.
Nhưng với tư cách là những Kitô hữu, lòng trung thành sâu xa nhất và trước hết của chúng ta là lòng trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta tôn thờ chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa, nhưng trong những sự việc khác, chúng ta vui mừng nhìn nhận và phục vụ các quyền lực trần thế, cầu mong họ sẽ biết điều hành đất nước một cách khôn ngoan và công bình.
----------------------------------
Câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu là một cố gắng lôi kéo Người đi vào thế giới chính trị. Ngày: TN 29-A7
Câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu là một cố gắng lôi kéo Người đi vào thế giới chính trị. Ngày nay, chính trị có một tên gọi rất xấu. Các chính trị gia thường xuyên bị châm biếm và chê cười. Do đó, các Kitô hữu có khuynh hướng quyết định không tham gia vào những công việc của trần thế, và để lại cho người khác những việc mang tính cách nguy hiểm, táo bạo và đầy trách nhiệm như làm chính trị, luật lệ và kinh doanh. Nhưng khi làm như vậy, là họ đang để những công việc này lại cho những người khác có thể không được các giá trị và nguyên tắc kitô giáo thúc đẩy.
Các Kitô hữu không nên lẩn tránh việc công, nhưng nên xem đó như là một cơ hội để phục vụ đồng loại, và như vậy, chính là phục vụ Thiên Chúa. Những người Pharisêu đã quyết định không tham gia vào đời sống thực tế, và tự tách biệt mình sang một bên. Hậu quả đưa đến là họ có một lòng mộ đạo vô ích, không tham gia, hoặc tham gia rất ít vào cuộc sống đời thường.
Dag Hammarskjold là Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc. Khi ông qua đời ở tuổi 56, trong một vụ rớt máy bay tại Trung Phi vào năm 1961, thế giới mất đi một người phục vụ vĩ đại cho nền hòa bình. Ông là một con người hiếm có, đã phục vụ công ích không đơn giản như là một sự nghiệp, hoặc một phương tiện để thể hiện quyền lực, nhưng đó là một ơn gọi tôn giáo, một phương tiện để sống trung thành với Thiên Chúa. Ông rút ra niềm cảm hứng từ các ngôn sứ trong Cựu ước. Ông nói “Thái độ lãnh đạm với sự dữ còn tệ hại hơn là chính bản thân sự dữ, và trong một xã hội tự do, có một số điều là tội lỗi, nhưng tất cả đều là trách nhiệm”.
Gandhi là một ví dụ khác về một con người có lòng đạo đức sâu xa, đã tự tham gia vào chính trị. Ông nói “Tôi làm chính trị, bởi vì tôi không thể tách biệt cuộc sống ra khỏi đức tin. Bởi vì tôi tin tưởng vào Thiên Chúa, nên tôi phải tham gia vào chính trị. Chính trị là cách phục vụ của tôi đối với Thiên Chúa”.
Và Nelson Mandela là một ví dụ khác nữa. Khi bắt đầu quan tâm đến chuyện chính trị, Mandela kể lại rằng một người bạn cứ cố gắng cảnh báo ông, bằng cách nói rằng “Chính trị đem lại điều tệ hại nhất trong đời sống con người. Đó là nguồn gốc gây ra rắc rối và thối nát, và bằng mọi giá, nên tránh làm chính trị”. Thật may mắn cho Nam Phi và cho cả thế giới, Mandela đã không nghe theo lời khuyên của ông ta.
Lịch sử cho thấy chắc chắn rằng sự tách biệt giữa Giáo Hội và chính quyền là yếu tố cần thiết tuyệt đối. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu nói “Hãy trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda” thì Người thừa nhận rằng yêu cầu của Xêda là hợp lý. Người đã không trả cho Xêda một chi phiếu để trống.
Một Kitô hữu đích thực phải vừa là một công dân tốt trong đất nước của họ, đồng thời, cũng là người công dân tốt của Nước Trời. Họ sẽ không vi phạm bổn phận đối với Thiên Chúa, cũng không vi phạm bổn phận đối với đồng loại của họ.
Lời trung thành sâu xa nhất và trước hết của chúng ta là lòng trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta tôn thờ chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa, nhưng trong những sự việc khác, chúng ta vui mừng nhìn nhận và phục vụ các quyền lực trần thế, cầu mong họ sẽ biết điều hành đất nước một cách khôn ngoan và công bình.
----------------------------------
Bộ phận quan trọng nhất trong một con tàu là bánh lái. Nếu không có bánh lái, thì không: TN 29-A8
Bộ phận quan trọng nhất trong một con tàu là bánh lái. Nếu không có bánh lái, thì không thể nào lái tàu được. Con tàu đó sẽ chạy như điên cuồng. Thứ quí giá nhất mà chúng ta được sở hữu, đó là lương tâm. Nếu không có lương tâm, chúng ta không thể lái con tàu cuộc đời mình hướng đến bến cảng của chân lý và lẽ phải. Nhưng người ta lại dễ dàng bán rẻ lương tâm mình, hoặc trao lương tâm đó cho người khác. Tuy nhiên, đối với người Kitô hữu, Thiên Chúa phải luôn luôn chiếm được vị trí ưu tiên trước hết trong lương tâm của chúng ta.
Franz Jaggerstatter chào đời tại nước Ao, và đã được nuôi dạy theo đạo Công giáo. Anh là một thanh niên, không có gì nổi bật, mà chỉ có trình độ học vấn sơ cấp, một công nhân bình thường. Không có gì chứng tỏ anh có dòng máu tử đạo.
Tuy nhiên, tới một giai đoạn nào đó. Đột nhiên anh trưởng thành thực sự. Anh trở nên một con người có tinh thần trách nhiệm, và sống đạo thật nghiêm túc. Mặc dù vậy, anh không phải là người cuồng tín. Anh đã kết hôn với một thiếu nữ tên là Anna, và hai người có ba đứa con.
Thời gian đó, Thế chiến II diễn ra ác liệt. Năm lên 36 tuổi, Franz bị gọi tòng ngũ trong quân đội của Hitler. Nhưng anh từ chối không chịu tham gia. Điều này tương đương với sự tự sát. Các bạn của anh đã cố gắng thuyết phục anh cứ nên tham gia.
Anh nói một cách đơn giản “Tôi không thể gia nhập vào quân đội đó được”.
Họ hỏi “Tại sao không được?”
“Bởi vì tôi tin rằng cuộc chiến tranh này không phải là cuộc chiến đấu có chính nghĩa. Do đó, nếu tôi gia nhập quân đội, thì đó là một quyết định sai trái. Điều này trái với lương tâm của tôi”.
Họ tiếp tục nói “Nhưng lòng trung thành của anh đối với dân tộc, đất nước và màu cờ của anh ở đâu?”
“Tôi yêu mến đất nước và dân tộc của tôi. Nhưng có một qui luật cao cả hơn – qui luật của Thiên Chúa. Và qui luật của Thiên Chúa nói với tôi rằng cuộc chiến tranh này phi nghĩa”.
Không phải là anh muốn chết. Anh phải sống vì rất nhiều thứ. Sau đó, anh đã bị bắt giữ và cầm tù. Tại đó, người ta đã nỗ lực giúp anh thay đổi tư tưởng của mình. Ngay cả người vợ của anh cũng van xin anh xét lại quyết định của mình. Nhưng tất cả những nỗ lực đó đều không đạt được ích lợi gì. Franz đã bị chém đầu vào ngày 9 tháng 8 nẳm 1943. Anh cảm thấy mình đã vâng theo lời của Đức Kitô “Hãy trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”. Thật vậy, những lời đáng ghi nhớ của Thomas More có thể áp dụng cho anh “Tôi chết đi như một đầy tớ trung thành của đức vua, nhưng trước hết, tôi là đầy tớ của Thiên Chúa”.
Ngày nay, bạn có thể nhận thấy rằng chính quyền trần tục đã chiếm vị trí của Xêda, nghĩa là chính quyền không còn chống lại Thiên Chúa quá nhiều nữa, cho bằng họ coi như không có Thiên Chúa. Họ không còn xây dựng luật lệ của nhà nước dựa trên qui luật của Thiên Chúa. Điều này có thể đặt ra những tình thế tiến thoái lưỡng nan cho các Kitô hữu, đặc biệt đối với những người đang làm việc tại cơ quan công quyền. Họ không thể áp dụng các giá trị luân lý và những niềm tin của mình lên các giá trị khác, tuy nhiên, theo quan điểm Kitô giáo, họ không được tham gia vào công việc nào sai trái về mặt luân lý.
Mỗi Kitô hữu đang sống trong thế giới hiện đại đều phải đương đầu với những quyết định khó khăn. Có quá nhiều những Xêda tranh đua chiếm cho được một góc trong lương tâm của chúng ta. Đó là những đảng phái, công ty, câu lạc bộ. Franz Jaggerstatter đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa yêu cầu nào chiếm vị trí ưu tiên nhất và cao cả nhất trong lòng trung thành của chúng ta. Chúng ta phải trả lại cho Xêda bất cứ cái gì khác, nhưng phải đảm bảo rằng chúng ta không thể nào trả cho ông ta lương tâm của chúng ta.
----------------------------------
Có được phép nộp thuế cho xêda không? Có nhiều từ trong câu hỏi này cần được giải thích: TN 29-A9
Có được phép nộp thuế cho xêda không? Có nhiều từ trong câu hỏi này cần được giải thích thêm cho rõ:
- Thuế: không phải chỉ có ý nói tới việc đóng thuế, mà còn bao gồm tất cả những gì thuộc bổn phận công dân như: Yêu nước, góp phần xây dựng đất nước, tuân thủ luật pháp, tùng phục chính quyền…
- Xêda: Đối với hoàn cảnh lịch sử riêng thời Đức Giêsu thì Xêda chỉ chính quyền đang đô hộ đất nước Do thái. Còn đối với hoàn cảnh chung của mọi thời thì chữ Xêda này nên được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ chính quyền cách chung.
- Có được phép không: Động từ được phép ở thể thụ động, gián tiếp muốn hỏi Thiên Chúa có cho phép không.
Như thế ý nghĩa của câu hỏi này là: Theo ý Thiên Chúa thì người tín hữu có bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền không?
Câu trả lời của Đức Giêsu “Của Xêda hãy trả cho Xêda” là nền tảng giáo lý về bổn phận công dân: Người tín hữu của Chúa cũng là công dân của một đất nước, cho nên phải chu toàn mọi bổn phận công dân một cách đầy đủ và gương mẫu.
Không phải vì là thần dân của Vua Giêsu và là công dân của Nước Trời mà người tín hữu không còn bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền trần gian, bởi vì Nước Trời mà Vua Giêsu thành lập “không thuộc thế gian này” cho nên cũng không chống lại nước và chính quyền trần gian. Chính Đức Giêsu đã làm gương chu toàn bổn phận công dân: Cha mẹ Ngài đã vâng lệnh hoàng đế để về quê quán khai tên; Đức Giêsu bảo Phêrô đóng thuế cho ông và cho Ngài.
Người Việt Nam nói chung và người tín hữu Việt Nam nói riêng có một thiếu sót rất lớn, đó là không tích cực đóng góp cho lợi ích chung.
Những thể hiện: trốn thuế, gian lận để giảm thuế, ăn cắp của chung, không quan tâm giữ gìn tài sản chung của xã hội, ngại đóng góp để bảo trì hoặc tu sửa nhà thờ, không nhiệt tình góp tiền rổ trong các thánh lễ…
Thiếu sót ấy có lẽ phát xuất từ một cách suy nghĩ rằng mình không có bổn phận gì đối với việc chung và ích chung. Từ suy nghĩ ấy, mỗi lần bỏ ra chút ít gì cho ích chung thì cho rằng đó là một việc thi ơn, một việc từ thiện. Suy nghĩ ấy hoàn toàn sai. Góp phần cho ích chung không phải là việc tùy ý mà là bổn phận, không phải là bố thí mà là công bằng, bởi vì mình được thụ hưởng ích chung cho nên theo công bằng mình phải đóng góp vào đó.
Những công dân và tín hữu có trình độ suy nghĩ trưởng thành ở một số nước khác đều rất ý thức bổn phận này: Đối với đất nước, họ quan tâm đóng thuế đầy đủ; đối với Giáo Hội, mỗi lần dự lễ họ đều góp tiền rổ, thậm chí có người ít đi lễ mà cũng gởi tiền góp vào quỹ xứ đạo…
----------------------------------
Là công dân của đô thị trần gian và Nước Trời, chúng ta có nghĩa vụ đối với thế quyền và: TN 29-A10
“LÀ CÔNG DÂN ĐÔ THỊ TRẦN GIAN VÀ NƯỚC TRỜI, CHÚNG TA CÓ HAI NGHĨA VỤ PHẢI CHU TOÀN”
* Câu hỏi gợi ý
1. Là công dân của đô thị trần gian và Nước Trời, chúng ta có nghĩa vụ đối với thế quyền và nghĩa vụ đối với Thiên Chúa.
2. Làm thế nào để chúng ta chu toàn hai nghĩa vụ của mình?
* Suy tư gợi ý
1. Là công dân của đô thị trần gian và Nước Trời, chúng ta có nghĩa vụ đối với thế quyền và nghĩa vụ đối với Thiên Chúa.
Cái bẫy mà những người Pha-ri-sêu cùng với phe Hê-rô-đê âm mưu gài Đức Giê-su quả thật tinh vi: họ đưa ra một vấn đề hóc búa của bối cảnh xã hội chính trị lúc bầy giờ để đưa Đức Giêsu vào tròng: nghĩa vụ của người Do Thái đối với nhà cầm quyền ngoại bang La mã: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” (Xê-da là Hoàng đế của Đế quốc La-mã lúc bấy giờ). Có nghĩa là “Người Ít-ra-en có được phép nộp thuế cho chính quyền ngoại bang đô hộ không?” Nếu Đức Giê-su trả lời là “không được phép nộp thuế cho Xê-da” thì những người Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê, thù nghịch với Người, sẽ gán cho Người tội phản loạn, chống đối Nhà Nước, không tuân thủ pháp luật đều là những tội đáng chết! Còn nếu Đức Giê-su trả lời là “được phép nộp thuế cho Xê-da”, thì họ sẽ ghép cho Người tội phản quốc, phản dân tộc cũng là những tội tày trời đáng phải bị ném đá, vì là công dân Ít-ra-en mà lại lụy phục Nhà Nước ngoại bang đang đô hộ dân riêng của Thiên Chúa. Trả lời cách nào Đức Giê-su cũng “kẹt”.
Thế mà diễn tiến câu chuyện cho chúng ta thấy: chẳng những Đức Giê-su đã thoát ra khỏi cái bẫy mà kẻ thù giăng ra cho Người một cách khôn ngoan, khéo léo và an toàn, mà Người còn lợi dụng cơ hội hiếm có này để khẳng định một điều quan trọng đối với người dân cũng như với nhà cầm quyền: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” Có nghĩa là nhà cầm quyền có những quyền hạn chính đáng thì người dân phải tôn trọng; nhưng không ai được quên rằng Thiên Chúa cũng có những quyền hạn chính đáng và vì thế mọi người cũng phải tôn trọng những quyền hạn của Người. Nói cách khác, cùng một lúc, con người là công dân đô thị trần gian và công dân Nước Trời hay Vương quốc của Thiên Chúa thì con người phải chu toàn nghĩa vụ đối với nhà cầm quyền cũng như phải chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa. Có người cho rằng khi Đức Giê-su tuyên bố: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” là Đức Giê-su đã trả lời một câu hỏi đã được đặt ra và một câu hỏi khác chưa được đặt ra. Câu hỏi đã được đặt ra là: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” Và câu trả lời là: “Của Xê-da, trả về Xê-da” Còn câu hỏi không được đặt ra là: “Thiên Chúa có những quyền hạn gì trên chúng ta không?” Và câu trả lời là: “Có, Thiên Chúa có nhiều quyền hạn trên chúng ta và những gì thuộc về Thiên Chúa thì chúng ta phải trả lại cho Người”. Những người gài bẫy Đức Giêsu thì quan tâm đến câu hỏi thứ nhất. Còn Đức Giê-su thì quan tâm đến câu hỏi thứ hai, tức đến quyền lợi của Thiên Chúa mà con người – là cá nhân hay cộng đoàn - không được lãng quên.
2. Làm thế nào để chúng ta chu toàn hai nghĩa vụ của mình?
Là công dân của Nước Trời hay Vương quốc của Thiên Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải tìm kiếm, nhận biết, tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa và làm cho Nước Thiên Chúa được mỗi ngày một rộng mở. Ngày nay người ta dễ bị cuốn hút vào đời sống vật chất, tiện nghi, hưởng thụ, ích kỷ nên rất khó nhớ tới và chu toàn các nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và Cứu Độ.
Còn là công dân của đô thị trần gian, chúng ta có bổn phận phải chu toàn các nghĩa vụ công dân để làm cho xã hội phát triển, cho mọi người ấm no hạnh phúc, cho dân giầu nước mạnh. Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Va-ti-ca-nô II đã khẳng định ”sao lãng trách nhiệm trần gian là sao lãng phần rỗi của mình”
Thật ra thì vấn đề cũng đơn giản và không gây khó khăn gì cho người tín hữu trong đại đa số trường hợp. Khó khăn chỉ xuất hiện khi người tín hữu phải làm nghĩa vụ đối với nhà cầm quyền lại chính là quyền lực cai trị mang tính áp bức, bóc lột và bất công thôi. Đó cũng chính bối cảnh của trình thuật trong Phúc Am hôm nay. Quan điểm của Đức Giê-su đã soi sáng giúp người tín hữu biết phải ứng xử thế nào: “Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” Lời của Thánh Phao-lô còn rõ ràng hơn: “Mỗi người phải tùng phục chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt” (Rm 13,1-2). Và Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 1902) giúp chúng ta hiểu giới hạn hay điều kiện để một chính quyền được người dân kính trọng và tuân phục: “Về mặt luân lý, không phải người cầm quyền làm gì cũng hợp pháp. Họ không được xử sự cách chuyên chế, nhưng phải hành động cho công ích vì quyền bính là một sức mạnh tinh thần đặt nền tảng trên tự do và ý thức trách nhiệm (xem Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 74). Luật pháp của loài người chỉ mang tính luật lệ khi phù hợp với lẽ phải và như thế nó bắt nguồn từ lề luật vĩnh cửu. Một khi nó xa lìa lẽ phải, thì phải coi nó là bất công, không còn tính chất luật pháp nữa mà chỉ là một hình thức bạo lực” (Tôma Aquinô, tổng luận thần học I,II, 93,3).
Giáo lý trên chính là Giáo huấn xã hội của Giáo hội, hay còn được gọi là Giáo huấn của Giáo hội về các vần đề xã hội. Giáo huấn của Giáo hội về quyền bính phù hợp với ý nghĩa nguyên thủy của từ “quyền bính”. Quyền bính trong cổ ngữ La tinh của người La Mã là “AUCTORITAS”. Danh từ auctoritas xuất phát từ động từ augere, có nghĩa là “làm tăng thêm” Do đó, theo nguyên ngữ “quyền bính” hay “nhà cầm quyền” có trách nhiệm làm cho mọi người dân được giầu có thêm, được tự do, sung sướng, hạnh phúc, phát triển hơn.
NGUYỆN:
Lạy Chúa, chúng con nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa, là Chủ Tể Vũ Tru, là Đấng dựng nên và cứu độ chúng con! Chúng con đã lỗi phạm và thiếu sót với Chúa nhiều lần, nhiều cách. Xin Chúa rộng lòng thương thứ tha
Lạy Chúa, chúng con là công dân Nước Việt. Chúa đã dạy chúng con phải dùng trí óc và lao động mà xây dựng xã hội Việt Nam mỗi ngày một phát triển về mọi mặt. Chúng con nguyện ra sức xây dựng quê hương, phục vụ đồng bào theo tinh thần Phúc Am và Thư Chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980.
----------------------------------
Trả Cho Caesar Những Gì Của Caesar
Một sự thực trái cẳng ngỗng là nhiều người chẳng tha thiết gì với cái mác “người Mỹ: TN 29-A11
Một sự thực trái cẳng ngỗng là nhiều người chẳng tha thiết gì với cái mác “người Mỹ gốc Việt”, nhưng phải nhập tịch để thứ nhất là tiếp tục được lãnh trợ cấp, có đô la đỏ, được thẻ chữa bệnh và thuốc miễn phí. Thứ hai là được cấp nhà ở với giá tượng trưng, sống phè phỡn và bình chân như vại. Thứ ba là có thể làm chui nhận tiền mặt và hành nghề tự do. Luật pháp nước Mỹ bảo vệ và nhân đạo với người già, bệnh hoạn và thất nghiệp. Luật dùng trợ cấp để quân bình và tránh những nổi loạn do nghèo đói đã tạo kẽ hở, bị lạm dụng đến hao hụt ngân quỹ và đặt gánh nặng lên nhân công.
Điều thiếu thẫm mỹ là một số lãnh trợ cấp, than nghèo, trốn thuế , làm chui nhưng dư giả và đủng đỉnh làm những phú ông hưởng cảnh “vinh quy bái tổ”, “áo gấm về làng”, và có hai ba nhà cho thuê. Ở Mỹ thì thiếu thốn, chật vật và nhìn lên không giống ai. Về Việt Nam thì trở thành những phú hộ hưởng thụ bừa bãi, kênh kiệu vì nhìn xuống không ai bằng mình. Lối sống tương phản này diễn đạt đầy đủ hai bộ mặt. Một nham nhở, ky cóp và giả vờ bần cùng; một dễ thương, rộng lượng và quí phái. Hai tâm trạng đồng hiện diện nơi kẻ "đầu Ngô, mình Sở" ....
Trực diện với vấn đề này, Chúa Kitô dứt khoát dậy "Trả Caesar những gì thuộc Caesar, trả Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa." Chúa không muốn chúng ta "đi dây đu" bên trọng, bên khinh. Chúa muốn chúng ta thẳng thắn, thanh liêm, nhân đức và độ lượng trong mọi hoàn cảnh. Chúa không muốn chúng ta là thánh trong thánh đừng, rồi là tướng cướp nơi phố chợ. Chúa phân biệt lằn ranh của Nước Trời và trần thế. Chúa đề ra một trật phải tôn trọng, bổn phận cần thỏa đáng và quyền lợi phải được bảo đảm.
Là công dân của hai thực tại "trần thế và thiên quốc", chúng ta phải biết dung hòa để cả hai cùng lớn dậy, phát triển và thăng hoa. Với quốc gia và dân tộc, chúng ta phải chung góp cả vật chất lẩn tinh thần để chủ quyền quốc gia được tôn trọng, dân giầu nước mạnh, an ninh được bảo đảm, trật tự được đề cao và quyền lợi được chung hưởng (Rom 13,1-7;1 Pet. 2,17). Với thiên quốc và ơn cứu độ, chúng ta phải đầu tư những gia sản thiêng liên, những của mà mối mọt, trộm cướp và sự chết không gậm nhấm và phá hủy nổi. Chúng ta phải đem lòng, chung sức và tiếp tay yêu thương và phục vụ Chúa nơi tha nhân, đồng thời phải là chứng nhân, sứ giảvà tiên tri của tình Chúa giữa cộng đồng nhân loại.
Hình ảnh ngày chung thẩm (Mt 25,31-46) diễn tả rất đầy đủ sự thưởng phạt công minh. Chúa không nhắc đến những tội phạm, những công trình xây cất vĩ đại, những mua quan bán chức, những cảnh mượn đầu heo nấu cháo. Vì chúng ta đã một lần thống hối ăn năn. Chúa trách phạt vì những thiếu sót, những lơ là, những cố tình chúng ta bỏ qua không thực hiện: Chúa đói, Chúa khát, Chúa rách rưới, Chúa trần truồng, Chúa bị tù tội, Chúa bị trọng thương, Chúa vô hình và siêu nhiên, chúng ta không trực tiếp phục vụ, nhưng Chúa hữu hình và hiện diện gián tiếp trong mọi giai cấp, đặc biệt nơi những người thấp cổ bé miệng. Bỏ qua đã là tội, thì tra tay hành hạ, dựng nguyên nhân, gây đói nghèo, tạo tù tội, hung hăng bắt bớ và ám sát, thủ tiêu phải là những tội đại hình.
Là người tín hữu chính chuyên và trưởng thành, chúng ta tiếp tục truyền thống "ăn cây nào, rào cây nấy". Chúng ta tròn bổn phận với quốc gia, dân tộc, đồng thời chúng ta đủ chữ hiếu với Thiên Chúa là Cha nhân lành. Gương sống của Phêrô và Gioan trước Công Nghị Do Thái là chính lộ cho mọi tín hữu "phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời phàm nhân". Đời đạo hạnh của và gương thánh thiện của Mẹ Têrêsa là hình ảnh trung thực nhất của Chúa Nhập Thể, đến phục vụ giới nghèo. Ngài đến không tìm danh phận, không ham chức tước. Ngài "trả cho Caesar những gì của Caesar" và ngài "trả Chúa những gì của Chúa" khi kết thúc cuộc đời trên thập tự.
-------------------------------
- Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Người biệt phái và Pharisiêu luôn chống Chúa Giêsu và tìm cách gài bẫy Ngài. Những: TN 29-A12
SIÊU THOÁT CON NGƯỜI
Người biệt phái và Pharisiêu luôn chống Chúa Giêsu và tìm cách gài bẫy Ngài. Những hạng người này lúc nào cũng nghĩ xấu về Chúa Giêsu dù rằng Ngài dậy dỗ con người với tất cả lòng thành của mình. Đạo của Chúa thiết lập là đạo tình thương. Chúa luôn vạch ra cho con người, cho nhân loại một con đường,một lối đi tốt đẹp ngay thẳng. Tuy nhiên, dưới cái nhìn của lớp lãnh đạo tôn giáo lúc đó, Chúa Giêsu là cái gai họ phải loại trừ. Chính vì thế, họ tìm cách bắt bẻ Chúa Giêsu, tìm sơ hở của Ngài để có cớ lên án, giao nộp và trừ khử Ngài. Vấn đề nộp thuế mà các người Pharisiêu tìm cách gài Chúa để xem Chúa Giêsu có lỡ lời chăng hầu mắc bẫy họ.
VẪN LÀ CÁI TRÒ LỪA BỊP CỦA NHÓM PHARISIÊU
Trên bước đường truyền giáo của Chúa Giêsu, Ngài đã gặp biết bao nhiêu chống đối, gặp biết bao thử thách, chông gai, người ta vẫn luôn giương bẫy để hòng tìm cách làm cho Chúa Giêsu bị mắc bẫy. Họ đã dùng rất nhiều phương cách, nhiều đường lối, nhiều trò ma giáo để gài Chúa Giêsu vào bẫy của họ. Lòng của lớp người biệt phái, thượng tế, kỳ mục và Pharisiêu đầy nham hiểu, sâu độc. Họ thừa biết vấn đề nộp thuế cho đế quốc Roma là một vấn đề hết sức tế nhị. Vì , dân Israen là dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Đất đai của họ được Thiên Chúa ban cho làm quê hương riêng,nên dân Israen và đất đai,quê hương của họ thuộc về Thiên Chúa.
Vấn đề nộp thuế cho đế quốc Roma là điều nghịch với Thiên Chúa vì dân Israen và đất đai,quê hương của người Israen là của Thiên Chúa. Nộp thuế cho đế quốc Roma là chấp nhận tất cả thuộc về Roma, thuộc về ngoại bang. Đối với người Pharisiêu, nộp thuế cho Roma họ không thích, họ muốn chống lại việc nộp thuế này, nhưng sợ không dám xúi giục dân chúng đứng lên vì sợ quan Tổng trấn sẽ bắt bỏ tù, kết tội và lên án nặng nề, nguy hại cho địa vị và mạng sống của họ. Nhóm Pharisiêu cũng chẳng ưa gì phái Hêrôđê vì phái Hêrôđê ủng hộ hoàng đế Roma, nhưng họ muốn có thế mạnh để tố cáo, gài bẫy Chúa Giêsu, nên họ đã sẵn sàng liên minh với phái Hêrôđê và cùng nhau liên kết giương cái bẫy thật nguy hiểm và chết người: "Thưa Thầy, có được phép nộp thuế cho Xêdarê không ?".
Trả lời được là đồng lõa với ngoại xâm, với đế quốc Roma để chống lại dân Israen và đi ngược với Giao Ước của Thiên Chúa. Trả lời không được phép nộp thuế cho Xêda là ủng hộ nhóm dùng bạo lực chống lại Hoàng đế Roma tức làm chính trị, chống lại đế quốc Roma và muốn lật đổ ách thống trị của Roma. Tội này là tội phản nghịch phải lãnh án tử hình . Chúa Giêsu đã khôn ngoan tránh được câu hỏi hóc búa,nguy hiểm của người Pharisiêu sau khi đã coi đồng bạc có hình và danh hiệu của Xêda: " Hãy trả cho Xêda cái gì thuộc về Xêda và trả cho Thiên Chúa gì thuộc về Thiên Chúa" .
Chúa Giêsu đến để phục vụ mọi người, giải thoát mọi người,cứu độ mọi người. Chúa luôn muốn con người khi ở trần gian phải thi hành luật lệ của trần gian và vì là con Thiên Chúa, con người phải chọn mục đích cuối cùng của mình thuộc về Thiên Chúa. Chúa xác định là con Chúa,con người có hai bổn phận: bổn phận làm dân nước trời và bổn phận làm con của trần thế. Là công dân nước trời,con người phải làm theo ý Chúa vì tất cả những gì hợp ý Chúa và tốt đẹp đều giúp ích cho người kính sợ Chúa( Rm 8,28 ). Là con dân của đất nước, con người phải chu toàn nghĩa vụ người dân và nguồn ơn huệ Chúa ban trong việc làm sáng danh Chúa.
TRẢ CHO XÊDA ĐỂ CON NGƯỜI ĐƯỢC SIÊU THOÁT
Chúa nói một câu rất chí lý: "Của Xêda trả Xêda,của Thiên Chúa trả Thiên Chúa". Chúa Giêsu không bảo người ta làm nghịch với bổn phận, Chúa cũng không nói người ta phải chống đối thế quyền. Chúa tới để làm cho luật thêm hoàn hảo. Chúa muốn con người luôn làm mọi sự theo ý Chúa, để làm vinh danh Chúa. Sở dĩ con người đứng vững trong Giáo Hội vì họ dõi theo con đường tám mối phúc thật mà mối phúc thứ nhất đã thuộc về những con người có tâm hồn nghèo khó. Chính vì thế, Chúa đã làm gương cho nhân loại về sự khó nghèo khi Ngài sinh ra nơi hang Bêlem nghèo khó, khi bị treo trần trụi trên thập giá với sự khó nghèo cùng tột. Lúc còn sống, đi truyền giáo với các môn đệ, Chúa đã không mang tiền, mang bị, mang túi, mang lương thực. "Chồn có hang, con người không nơi nương tựa, không đá gối đầu". " Hãy đến mà xem". Chúa Giêsu đã muốn nhân loại hiểu rõ của cải cần thiết thật đó, tiền bạc không có không được, địa vị cũng cần, nhưng nó không phải là điều chính yếu. Cốt lõi cần nhất cho con người là tìm nước Thiên Chúa. Chúa đã căn dặn các môn đệ của Người phải từ bỏ, phải siêu thoát: không mang tiền, đừng mang giầy dép, lương thực là để con người được thanh thoát với những gì là trần tục.
Ngày lễ truyền giáo hôm nay là lời đáp trả lại lệnh truyền giáo của Chúa phục sinh: "Hãy làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Thầy". Loan báo Tin Mừng là giới thiệu Chúa Kitô và trình bầy giáo lý của Chúa với một ngôn ngữ, cung cách dễ hiểu, dễ chấp nhận. Đây là lời mời gọi mọi người vì thế: " Giáo Hội làm công việc Phúc Am hóa,Giáo Hội loan báo Chúa Kitô là" Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống", là Trung gian độc nhất giữa Thiên Chúa và con người.Mặc dù những yếu đuối của con người,Giáo Hội tỏ ra không mệt mỏi trong việc rao giảng Phúc Âm" (Bước qua ngưỡng cửa Hy Vọng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ).
Gợi ý chia sẻ:
1.Anh chị hiểu thế nào về câu: " của Xêda trả Xêda, của Thiên Chúa, trả Thiên Chúa"?
2. Anh chị có ham mê của cải hay muốn để tâm hồn mình siêu thoát? Tại sao ?
3.Anh chị đã đáp trả lại lệnh truyền giáo của Chúa phục sinh chưa ?
-------------------------------
Câu hỏi gợi ý:
Trong cuộc đời, bạn có gặp trường hợp xung đột giữa hai «bản tịch» như Đức Giê-su, nghĩa: TN 29-A13
1. Trong cuộc đời, bạn có gặp trường hợp xung đột giữa hai «bản tịch» như Đức Giê-su, nghĩa là trung thành với tôn giáo thì bị kết án là phản bội đất nước, và ngược lại, trung thành với đất nước thì bị kết án là phản bội tôn giáo không? Trong trường hợp đó, bạn cần phải hành xử thế nào?
2. Bạn có phân biệt rõ rệt như Đức Giê-su: cái gì của Xê-da, cái gì của Thiên Chúa không? Nghĩa là phân biệt thánh ý Thiên Chúa và ý muốn của các thế lực đạo đời đang chi phối mình không? Phải coi ý muốn của ai quan trọng hơn?
CHIA SẺ
1. Tình trạng hai «bản tịch» của Đức Giê-su
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự xung đột giữa hai «bản tịch» của Đức Giê-su cũng như của mọi Ki-tô hữu có quê hương dân tộc, nghĩa là vừa là tín đồ của một tôn giáo, tức «giáo tịch», vừa là người dân của một đất nước, tức «quốc tịch». Ngài cũng như chúng ta, vừa phải yêu mến Thiên Chúa và có những bổn phận tôn giáo (như thờ phượng Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, hành xử theo lương tâm…), vừa phải yêu quê hương đồng bào và có nghĩa vụ đối với đất nước của mình (như tôn trọng pháp luật, đóng thuế, quân dịch…). Hai thứ trách nhiệm này thường phù hợp với nhau, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp chúng xung đột nhau: trung thành với tôn giáo thì có vẻ như phản bội đất nước, và ngược lại.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người Pha-ri-siêu và phe đảng Hê-rô-đê hợp nhau đặt bẫy Đức Giê-su. Người Pha-ri-siêu là phe chủ trương trung thành với Do Thái giáo và đất nước Do Thái, vì thế, họ âm thầm chống lại người Rô-ma đang cai trị đất nước họ. Còn phe đảng Hê-rốt là người của Hê-rô-đê An-ti-pa - tiểu vương miền Ga-li-lê - chủ trương ủng hộ chính sách đô hộ của Rô-ma. Vì thế, hai phe này thường chống đối nhau kịch liệt: người Pha-ri-siêu coi phe Hê-rô-đê là phản Thiên Chúa và phản quốc; còn phe Hê-rô-đê là tay sai của đế quốc, tìm cách giết chết từ trong trứng nước những mầm mống chống lại đế quốc trong dân Do Thái.
Điều rất lạ là trong bài Tin Mừng này hai phe chống đối nhau ấy lại hợp sức với nhau hãm hại Đức Giê-su, bằng cách đặt Ngài vào một trường hợp thật khó xử là sự xung đột giữa hai «bản tịch» ấy. Họ chất vấn Ngài: «Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?» Trả lời thế nào Ngài cũng đều bị kết án. Nếu nói «được phép», Ngài sẽ bị người Pha-ri-siêu lên án là ủng hộ người Rô-ma là kẻ thù của dân tộc, đồng thời chống lại Thiên Chúa mà tín đồ Do Thái giáo coi là vị Vua duy nhất. Còn nếu bảo «không được» thì người của Hê-rô-đê sẽ bắt Ngài nộp cho chính quyền Rô-ma vì tội tuyên truyền phản động, chống lại chính sách của đế quốc. Nhưng Đức Giê-su đã trả lời họ một cách thật tài tình, khiến cho cả hai phe không bắt bẻ Ngài được, đồng thời cho chúng ta một nguyên tắc để hành xử khi mang hai «bản tịch» trên. Đó là «của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa».
2. Thần quyền hợp với thế quyền bách hại Đức Giê-su
Người mang hai «bản tịch» như thế bị chi phối rất nhiều bởi hai lực lượng: thần quyền bên tôn giáo và thế quyền bên đất nước, xã hội. Lý tưởng nhất là hai lực lượng này cùng quan tâm đến những thiện ích chung của mọi người để cùng cộng tác với nhau, mưu lợi ích và hạnh phúc cho toàn dân. Đó là điều đại hạnh phúc cho mọi người dân, mọi tín đồ. Nhưng tại nhiều quốc gia, thần quyền và thế quyền chống đối nhau, nhất là khi hai bên có những quan điểm căn bản ngược lại nhau. Chẳng hạn khi thế quyền chủ trương vô tôn giáo, hoặc nghiêng hẳn về một tôn giáo nào đó, coi tôn giáo đó là quốc giáo, khiến tín đồ các tôn giáo khác lâm vào thế bị bạc đãi. Lúc đó, những người dân hai «bản tịch» bị ngược đãi ấy bị buộc phải chọn một bên và bỏ một bên một cách thật đau lòng. Đau lòng là vì họ chẳng muốn bỏ một bên nào, bên nào cũng hết sức thân thiết với họ. Họ lâm vào thế kẹt: hễ trung thành với tôn giáo thì bị nhà nước kết án, mà trung thành với nhà nước thì bị tôn giáo kết án.
Nhưng cũng có những trường hợp thần quyền và thế quyền hợp với nhau áp bức và bóc lột người dân vốn thấp cổ bé miệng, như trường hợp bài Tin Mừng hôm nay. Lúc đó thần quyền có thể trở thành công cụ của thế quyền hoặc ngược lại: hai bên lợi dụng thế của nhau để áp bức người dân, để cùng có lợi. Hai bên có thể thỏa hiệp với nhau, bênh vực hay tương nhượng lẫn nhau, hoặc bên này im lặng để mặc bên kia tự do hành động sai trái, bất chấp quyền lợi chung của đất nước, tôn giáo, hay người dân.
Thần quyền cũng như thế quyền đều được lập nên nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của dân chúng và của các tín đồ. Thần quyền còn nhằm phụng sự Thiên Chúa. Nhưng lịch sử các quốc gia và các tôn giáo, cũng như cuộc đời của Đức Giê-su cho thấy: không phải lúc nào thần quyền và thế quyền cũng đi đúng mục đích của mình. Nhiều trường hợp họ theo đuổi những mục đích cá nhân hay tập thể nhỏ của họ. Thiết tưởng các Ki-tô hữu chân chính, tức những môn đệ đích thực của Đức Giê-su, cho dù hoạt động trong thần quyền hay thế quyền, cũng luôn luôn đặt quyền lợi của Thiên Chúa, của đất nước, của tôn giáo và của dân chúng lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh bản thân, quyền lợi cá nhân cũng như tập thể nhỏ của họ cho mục đích cao cả ấy. Nếu không thì càng giữ chức vụ cao, họ càng trở thành công cụ của Xa-tan, của sự ác, và đương nhiên chức vụ cao ấy sẽ là nhân duyên tạo nên sự trừng phạt của Thiên Chúa dành cho họ.
3. Áp dụng nguyên tắc của Đức Giê-su
Là tín đồ của một tôn giáo trong một đất nước, chúng ta có hai «bản tịch» với hai loại nghĩa vụ: một là đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, đời sống tâm linh, lương tâm con người; hai là đối với quốc gia, xã hội. Người Ki-tô hữu cần cố gắng thi hành trọn vẹn chừng nào có thể hai loại nghĩa vụ ấy. Việc này sẽ dễ dàng nếu hai thế lực đạo và đời cùng đồng quan điểm và cùng hợp lực với nhau vì ích lợi chung. Lúc đó, cả hai thế lực đều là những công cụ phục vụ điều thiện, vì thế, tuân theo mệnh lệnh của những thế lực ấy cũng chính là vâng lời Thiên Chúa. Thánh Phê-rô đưa ra nguyên tắc: «Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua» (1Pr 2,16). Đối với nhà nước phục vụ ích lợi chung như thế, thánh Phao-lô nói: «Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt» (Rm 13,1-2). Đó chính là áp dụng lời của Đức Giê-su: «Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa», nghĩa là nghĩa vụ thuộc bên nào thì hãy chu toàn nghĩa vụ ở bên nấy.
Tuy nhiên, lý tưởng trên nhiều khi không xảy ra, lúc đó người dân hai «bản tịch» sẽ gặp nhiều khó khăn. Là người Ki-tô hữu, chúng ta cần phải đặt thánh ý Thiên Chúa và lương tâm con người lên trên hết. Và kế đó là phải phân biệt giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của hai thế lực đạo, đời ấy. Chủ trương và động lực của hai thế lực này không phải luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và lương tâm con người. Hai thế lực ấy vốn là bề trên, là bậc cha mẹ mà bình thường ta phải tuân phục. Đức vâng phục Ki-tô giáo đòi buộc chúng ta phải tuyệt đối vâng lời bề trên bao lâu chúng ta biết mệnh lệnh của bề trên phản ảnh thánh ý của Thiên Chúa. Chừng nào chúng ta thấy mệnh lệnh của bề trên không còn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, thì dù bề trên ấy là thần quyền hay thế quyền, chúng ta không phải tuân phục. Vì «phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29). Nếu ta biết ý của bề trên phản lại ý muốn của Thiên Chúa mà vẫn nhắm mắt vâng lời là ta đã phạm tội đồng lõa với họ. Hãy xem gương dân Do Thái, chính vì hùa theo giới lãnh đạo tôn giáo giết Đức Giê-su và các ngôn sứ, mà hậu quả là nước Do Thái đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới gần 20 thế kỷ.
Điều quan trọng là chúng ta phải thực hành thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện qua lương tâm ngay thẳng và được giáo dục của mình, bất chấp làm như thế có ý nghĩa chính trị hay thương mại hay gì gì khác nữa. Chúng ta không chủ trương làm chính trị hay thương mại, mà chỉ chủ trương làm theo thánh Thiên Chúa hay lương tâm. Không thể vì một bổn phận nào đó mang ý nghĩa chính trị hay thương mại mà chúng ta có quyền miễn làm theo thánh ý Thiên Chúa hay theo tiếng nói của lương tâm. Trước những xung đột như thế, hãy tự hỏi: ta phải làm theo ý Thiên Chúa hay theo ý muốn của con người?
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con đang sống trong một thế gian đầy phức tạp, việc sống theo ý muốn của Cha không phải là đơn giản, vì rất nhiều khi các nguyên tắc chồng chéo và mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, chúng con phải biết nguyên tắc nào là cao nhất. Nguyên tắc cao nhất mà Kinh Thánh mặc khải cho, chính là: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29), hay «Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời mà thôi» (Mt 7,21). Xin cho con biết tuân thủ nguyên tắc ấy qua lương tri và lương tâm của con. Amen.
--------------------------------
Bài Tin Mừng hôm nay nói tới "những người phe Hêrôđê" (c.16). Họ là ai? Tại sao các môn: TN 29-A14
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay nói tới "những người phe Hêrôđê" (c.16). Họ là ai? Tại sao các môn đệ người Pharisêu cùng đi với họ để tìm cách làm cho Đức Giêsu lỡ lời mà mắc bẫy? Vậy bẫy đó là bẫy nào?
Đụng chạm tới ngai vàng
Rõ ràng bài Tin Mừng hôm nay liên quan tới vấn đề nộp thuế, tức cũng liên quan tới chính trị. Đức Giêsu được đặt trước vấn đề nộp thuế không phải cho tiểu vương Hêrôđê nhưng cho ông vua kể như lớn nhất trên thế giới thời đó, là hoàng đế Rôma.
Đây không phải là lần đầu tiên trong đời, Đức Giêsu đụng chạm tới vấn đề chính trị. Luca cho ta biết thời ấy hoàng đế Augustô (tức Augustus Caesar cai trị đế quốc Rôma từ năm 27 trước Công Nguyên tới năm 14 sau Công Nguyên) ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ (Lc 2,1). Theo lệnh đó, ông Giuse và bà Maria, đã từ Nadarét miền Galilê, về nguyên quán Bêlem khai tên tuổi. Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Maria sinh con trai đầu lòng, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ (Lc 2,7).
Khi hai ông bà còn ở Bêlem thì một biến cố khác xảy ra đụng chạm tới ngai vàng của Hêrôđê Cả, người gốc xứ Iđumêa, cai trị xứ Hêrôđê (37-4 trước CN) mà lãnh thổ bao gồm cả Bêlem. Số là khi có mấy nhà chiêm tinh từ phương đông tới Giêrusalem và hỏi cho biết "Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người" (Mt 2,2). Tin ấy khiến nhà vua bối rối và cả thành Giêrusalem xôn xao (Mt 2,3). Nhà vua đã khéo léo dặn các nhà chiêm tinh rằng "Xin quí ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người? (Mt 2,8). Và người ta biết nhà vua đã phản ứng dữ tợn như thế nào, khi nghe biết các nhà chiêm tinh đã lặng lẽ đi lối khác mà về xứ sở mình: ông liền sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống (Mt 2,16).
Thực ra, cuộc tàn sát vừa kể chưa thấm vào đâu với những cuộc thanh toán nội bộ bao gồm cả những cuộc sát hại vợ con của chính nhà vua, vì bằng mọi giá, vua muốn bảo vệ ngai vàng của mình.
Năm 47 trước CN, Hêrôđê khi ấy mới 25 tuổi đã dành được chức vị toàn quyền xứ Galilê. Đến năm 37 trước CN, ông được hoàng đế Rôma phong vương. Thập niên sau đó được ghi dấu bằng những cuộc đổ máu để củng cố ngai vàng, kể cả cuộc đổ máu người vợ yêu dấu nhất của ông là Mariamma I, cùng với hai con trai mà người vợ này đã sinh ra cho ông. Đó là thời kỳ Hêrôđê sát hại tất cả những người họ hàng nam giới, để cho ngai vàng của ông được an toàn.
Chỉ sau những cuộc thanh trừng đẫm máu ấy, Hêrôđê mới bắt đầu những dự án xây dựng lớn lao, mà lớn nhất là cuộc xây dựng Đền Thờ Giêrusalem. Công trình này được vua Hêrôđê Cả khởi công năm 19 trước CN, công trình ấy kéo dài mãi tới năm 64 mới hoàn tất. Đó chính là công trình mà các môn đệ tắc lưỡi ngợi khen khi nói: "thưa Thầy, Thầy xem: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đại thật!" (Mt 13,1). Nhưng chỉ 6 năm sau khi hoàn tất, tức năm 70, Đền Thờ vĩ đại ấy đã bị quân Rôma dưới quyền chỉ huy của tướng Titô, phá tan tành "không còn tảng đá nào trên tảng đá nào" như Đức Giêsu đã tiên báo (Mt 24,2).
Số phận riêng của Hêrôđê Cả cũng chẳng hơn gì Đền Thờ được ông xây dựng. Chỉ năm ngày trước khi qua đời, nhà vua đã ra lệnh hành quyết người con trai chính ông đã chỉ định lên ngôi kế vị ông. Thế rồi trước ngày tận số, Hêrôđê đã ra lệnh cho các nhân vật nổi nang nhất từ khắp nơi trong nước tụ họp lại tại Giêrusalem. Những người này đều được giam vào ngục tối với chỉ thị đã có sẵn của nhà vua, là phải giết họ liền ngay sau khi nhà vua qua đời. Đó là cách duy nhất, theo suy nghĩ của Hêrôđê, để bảo đảm có đại tang trên toàn quốc!
Nhóm Hêrôđê và Nhóm Pharisêu
Tất cả những điều ghê gớm đó đã xảy ra lâu rồi trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai rao giảng Tin Mừng. Nhưng người kế vị Hêrôđê Cả là Antipát cai trị xứ Galilê và xứ Pêrêa (năm 4 trước Công Nguyên - năm 39 sau Công Nguyên), chẳng phải là người thân thiện với Đức Giêsu. Tin Mừng Máccô sớm cho biết nhóm Pharisêu bàn tính với phe Hêrôđê để tìm cách giết Đức Giêsu sau vụ Người chữa lành một người bại tay nơi hội đường (Mc 3,1-6). Còn Tin Mừng Luca cho thấy có mấy người Pharisêu bắn tiếng cho biết chính Hêrôđê Antipát đang muốn giết Người (x.Lc 13,31). Thử hỏi những người Pharisêu đã bàn bạc với nhóm Hêrôđê như thế nào để gài bẫy Đức Giêsu trong lời nói (Mt 22,15)?
1. Một vấn đề gây băn khoăn. Đế quốc Rôma bắt đầu đô hộ đất Paléttin từ năm 63 trước Công Nguyên. Dân chúng được phân làm ba loại: những người có quyền công dân Rôma, những người tự do không có quyền công dân Rôma và các nô lệ. Đức Giêsu thuộc loại thứ hai, một thứ thường dân. Thường dân thì phải nộp thuế thân, là thuế áp dụng cho mọi người như nhau, chỉ trừ người già và trẻ em là được miễn.
Người Do Thái vẫn băn khoăn về thuế này. Các người thuộc phe Hêrôđê hay Xađốc chấp nhận nộp thuế cho hoàng đế Rôma (Xêda). Đó là cách bảo vệ chỗ đứng của họ dựa vào chính quyền Rôma. Người Pharisêu, ngược lại, chỉ chấp nhận nộp thuế cách miễn cưỡng. Họ coi đó như một hình phạt do Thiên Chúa; cần phải tu thân tích đức để được Thiên Chúa tha thứ. Cuối cùng là những người không chấp nhận chính quyền ngoại đạo trên Ítraen, và chủ trương dùng vũ lực để đánh đuổi quân Rôma ra khỏi bờ cõi. Trong Nhóm Mười Hai, có ông Simon thuộc nhóm Quá Khích theo chủ trương này (x. Mt 10,4).
Đức Giêsu được đặt trước một câu hỏi gây nguy hiểm cho Người: "Có nên nộp thuế cho Xêda chăng?" Nếu Người trả lời rằng "Nên", Người sẽ mất tín nhiệm với dân chúng vì dân chúng không ưa gì chính quyền ngoại đạo Rôma và tin vào quyền tối thượng của Thiên Chúa trên Ítraen, dân riêng của Người. Còn nếu Người trả lời rằng "Không nên", Người sẽ trở thành kẻ khích động dân chúng nổi loạn chống đế quốc Rôma. Đó sẽ là tội không nhỏ về chính trị mà phe Hêrôđê sẽ không bỏ qua.
2. Cách Đức Giêsu giải quyết vấn đề. Trước hết, Đức Giêsu tố giác sự giả hình của đối phương (Mt 22,18). Kế đến, Người yêu cầu họ cho Người xem đồng tiền để nộp thuế cho Xêda. Đó là một đồng tiền bằng bạc, nặng 3,8 gam. Đồng tiền này đã được lưu hành trong thế giới Rôma từ năm 268 trước Công Nguyên, mãi đến năm 200 sau Công Nguyên vẫn còn được sử dụng. Trên mặt đồng tiền này có hình thân của hoàng đế Tibêriô trị vì từ năm 31 trước Công Nguyên đến năm 14 sau Công Nguyên. Đức Giêsu cầm đồng tiền trong tay và hỏi: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" Khi được trả lời là "của Xêda," Đức Giêsu liền tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa." (c.21).
Như vậy, Đức Giêsu đã vượt ra khỏi cái bẫy là có nên nộp thuế cho Xêda hay không bằng cách vạch cho thấy một cách cụ thể là: đồng tiền này có ghi hình và tên hoàng đế Tibêriô nên hãy trả về ông ta. Đồng thời Đức Giêsu nêu một nguyên tắc quan trọng và bao quát hơn nhiều, khi Người nói "của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." (c.21).
3. Vấn đề chính yếu là thuộc về ai? Phải nhìn nhận rằng câu nói bất hủ trên đây của Đức Giêsu không phải là dễ hiển. Mọi sự ở đời này chỉ được ban cho con người sử dụng một thời gian mà thôi; cho nên sau khi hoàng đế Tibêriô tắt thở, ta muốn trả về cho ông ta đồng tiền có mang hình và tên ông ta cũng chẳng được. Vậy chỉ còn cách trả về cho Thiên Chúa những gì Ngài đã dựng nên theo ý Ngài, như một tác giả dày công suy nghĩ và cầu nguyện, đã viết vào năm 1548: "Con người được dựng nên để tán dương, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình; và các sự vật khác trên mặt đất được dựng nên cho con người, và để giúp họ trong việc theo đuổi cứu cánh mà vì nó họ được dựng nên. Do đó, con người phải dùng chúng chỉ ở trong mức độ chúng giúp họ đạt tới cứu cánh của họ, và gỡ mình khỏi chúng trong mức độ chúng cản trở họ đạt tới cứu cánh đó" (I-Nhã Loyola, Những bài Linh Thao, số 23).
--------------------------------
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Kẻ khéo giăng bẫy...
Ba dụ ngôn về xét xử mà chúng ta đã suy gẫm suốt mấy tuần rồi (dụ ngôn hai người con được: TN 29-A15
Ba dụ ngôn về xét xử mà chúng ta đã suy gẫm suốt mấy tuần rồi (dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho, Chúa nhật 26; dụ ngôn những tá điền sát nhân, Chúa nhật 27; dụ ngôn khách dự tiệc cưới, Chúa nhật 28) vẫn không đủ làm cho các kẻ thù địch Chúa tan rã hàng ngũ. Trái lại họ còn liên minh với nhau và thay phiên nhau trong cố gắng làm cho Chúa phải rơi vào bẫy của họ. Sau khi đã “bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy” thì một lần nữa những người Pharisiêu, không ngại gì sai các môn đệ của họ cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê.
Vấn đề họ đặt ra cho thấy rất rõ những thái độ khác nhau của họ đối với người Rôma chiếm đóng. Đang khi những người Pharisêu đành phải bằng lòng coi sự có mặt của quân chiếm đóng như một điều xấu không tránh khỏi được, miễn là tự do tôn giáo được bảo đảm - những người phe Hêrôđê là nhóm chính trị ủng hộ gia đình Hêrôđê lại thân với chính quyền Rôma - thì những người thuộc nhóm “Quá khích” (Zéloté) lại chủ trương bày tỏ sự chống đối công khai, nên nhóm này cấm các thành viên của nhóm không được đụng chạm đến tiền bạc của người Rôma. Họ lên tiếng hỏi Đức Giêsu, sau mấy lời mở đầu đầy vẻ phỉnh phờ: “Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho César hay không?”.
P. de Surgy đưa ra nhận xét sau: “Vấn đề họ đặt ra này liên can tới sứ vụ thiên sai, điều đó không làm ta ngạc nhiên, bởi lẽ họ chỉ muốn nhắm đả kích việc Đức Giêsu cho mình là Đấng cứu thế mà thôi. Vả lại họ đặt ra vấn đề cũng là vì lòng thù địch ganh ghét muốn cho dân chúng hay chính quyền thù ghét Người” ("Assemblées du seigneur” số 60, trang 10). Họ nghĩ: Dù Đức Giêsu trả lời đàng nào, thì Người cũng không thể thoát khỏi bẫy.
- Nếu Người trả lời “không”, nếu Người không nhìn nhận công khai việc phải nộp thuế này, thì đúng là Người chống lại với hoàng đế César - Và những người phe Hêrôđê sẽ vội vã tố cáo Người với nhà chức trách Rôma - Trái lại, nếu Người trả lời “Có”, nếu Người công khai thừa nhận là nên nộp thuế cho César, thì Người hợp thức hoá sự hiện diện vô đạo và bất nhân của người Rôma trên một đất thánh mà Thiên Chúa đã ban cho tổ phụ Abraham và con cháu ngài; vậy thì trước con mắt của một dân tộc đang trông đợi một cuộc giải phóng quốc gia, Người mất hết tín nhiệm và đừng hòng coi mình là Đấng Messia đến thực hiện những ước mơ của họ. Những người Pharisiêu sẽ không bỏ lỡ cơ hội để đánh trống la làng về chuyện này.
2. ... thì chính họ lại mắc bẫy:
Trước khi trả lời câu hỏi của họ, Đức Giêsu làm cho lộ ra thanh thiên bạch nhật “thói giả hình” của những kẻ đối thoại với Người. Người yêu cầu họ: “Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi”. Lạ thay! Họ có đem theo một đồng. Quả là hồi đó “đồng tiền này”, đồng quan Rôma, đều có mang hình tượng hoàng đế Rôma, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với danh hiệu rõ ràng này: César Tiberio con của thần Augusto: Augusto”. Cl. Tassin chú giải: “Rõ ràng là có chuyện coi mình như thần thành, mặc dầu bản thân Tiberio vẫn coi mình là “một người như mọi người”. Nhất là từ thời Caligula, thì các hoàng đế Rôma vẫn hiên ngang đòi cho mình có căn tính thần thánh. Cựu Ước đã rõ ràng cấm chỉ những hình ảnh phàm trần cũng vì xu hướng thần thánh hoá này. Để tôn trọng cái cảm quan tôn giáo này, các nhà cầm quyền Rôma chỉ đúc những đồng tiền không có hình ảnh để dùng trên lãnh thổ Do Thái. Nhưng, đối với việc nộp thuế trong đế quốc, thì người ta không tránh khỏi được đồng bạc bất nhân ấy, mà đồng tiền ấy, theo nét trào phúng của câu chuyện, xem ra lại được móc ra từ túi của những người Pharisiêu vốn dĩ rất trung thành với những điều cấm đoán của Luật Chúa” ("Phúc Âm thánh Matthêu”, NXB Centurion, trang 233).
Chúa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây? Họ đáp: “của César”. Và Chúa Giêsu nói lên một câu bất hủ - nhưng lại rất hay bị người ta cắt nghĩa sai - khiến những kẻ đối mặt với Người phải “hết sức ngạc nhiên": “Thế thì của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
Người không phải là Đấng Messia mà, để chu toàn công việc của mình, phải nắm lấy quyền chính trị và đảm nhận những trách nhiệm và chức vụ của César.
- Và bởi vì chính họ đã được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, nên Người khuyên nhủ họ hành động sao cho trong mọi sự Thiên Chúa phải được phụng sự trên hết; còn đối với quyền hành chính trị, mặc dầu vẫn hết mực tôn trọng, nhưng khi quyền ấy ngẫu nhiên tự thần thánh hoá mình mà chiếm đoạt luôn cả những quyền chỉ thuộc về Thiên Chúa, thì họ phải lên tiếng phản đối vì: “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
Không muốn để mình kẹt vào thế lưỡng nan do đối phương bày ra, Đức Giêsu xác định lập trường của Người và xoay chuyển vấn đề. Nước Thiên Chúa không phải là nước cạnh tranh với nước của César; Nước ấy thuộc về một trật tự khác và nằm ở một bình diện khác, Đấng Messia không đến để chiếm chỗ của César và thực hiện một sứ vụ thiên sai có tính tôn giáo - chính trị; Người đến thiết lập Nước Thiên Chúa.
P. de Surgy kết luận: “Khi mời gọi người ta trả về César... cái mà thông thường Người có thể đòi hỏi theo như trách nhiệm của chính mình, và nhất là khi làm cho hiểu rõ bản chất của Nước Chúa cũng như sứ vụ cứu thế của Người và khi khẳng định quyền ưu tiên của Thiên Chúa, Đức Giêsu đem vào quan niệm của Người xưa một sự phân biệt rạch ròi và rất cách mạng: nghĩa là Người làm cho chính trị mất đi tính thần linh và thánh thiêng, chống lại với mọi xu hướng tôn thờ nó như một ngẫu tượng; Người trả chính trị về cho chính trị, bằng cách nhìn nhận giá trị của nó và quy cho nó một trách nhiệm riêng.
Khi trả chính trị về cho chính trị, Đức Giêsu không có ý để cho chính trị ở trong một hoàn cảnh trung lập với Phúc Âm... “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”. Với những lời dứt khoát này Đức Giêsu kêu gọi ta sống cuộc đời của ta, kể cả đời sống chính trị, trong niềm trung tín với Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra nơi Người. Người đòi hỏi đời sống chính trị của ta phải trung tín với những ước vọng và tinh thần Phúc Âm. Người cũng kêu gọi Giáo Hội cũng như cộng đồng đức tin phải nắm giữ, không phải là phận vụ thống trị hay quản lý đối với chính trị, nhưng là vai trò tiên tri về Phúc Âm hoá mà bằng con đường hoán cải các tâm hồn sẽ đem lại hiệu quả thực sự: sống giữa lòng lịch sử nhân loại, Giáo Hội phải dùng đời sống và lời nói mà lặp lại cho César, tiếng gọi của Thiên Chúa hằng sống và lên tiếng mời gọi, mời gọi chuyên chăm, và mời gọi không ngừng tất cả mọi người tiếp tay thực hiện những gợi hứng tích cực của Phúc Âm trong công cuộc xây dựng thành đô của loài người” (O.C. trang 24).
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Hình tượng này là của ai đây?”
Thánh Augustino bài giảng 24.
Anh em thân mến, Thiên Chúa đòi chúng ta trả lại hình ảnh Người (hình ảnh mà theo đó chúng ta đã được tác tạo). Đó chính là điều Người muốn nói cho những người Do Thái khi họ đưa Người coi một đồng bạc. Trước hết họ muốn thử Người khi hỏi Người rằng: “Xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho César hay không?” để, nếu Người trả lời: được phép, thì họ có thể tố cáo Người là nhục mạ dân tộc Israel vì muốn cho dân thần phục bằng việc đóng thuế và trở thành chư hầu dưới ách thống trị của hoàng đế. Còn nếu Người trả lời là không được phép, thì họ sẽ có thể tố cáo Người tội phát ngôn chống lại hoàng đế César, là căn cớ cho dân chúng từ chối nộp thuế mà họ phải nộp, bởi lẽ người ta đang sống dưới ách của hoàng đế. Đức Giêsu nhìn thấy mưu mô của họ, như sự thật tìm ra điều gian dối, và Người đã làm cho họ phải chịu là chính miệng lưỡi họ gian dối. Người không dùng miệng lưỡi mình mà kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tuyên án cho mình, như có lời chép rằng: “Vì nhờ lời nói của anh, mà anh sẽ được trắng án, và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12,37). Người nói với họ: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi!”. Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của César”. Bấy giờ Đấng Cứu Thế bảo họ: “Thế thì của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” Cũng như César tìm hình ảnh mình trên đồng tiền thế nào, thì Thiên Chúa cũng tìm hình ảnh của Người trong linh hồn bạn như vậy. Đấng Cứu chuộc phán rằng: “Của César, trả về César”. César đòi bạn trả gì? Trả hình ảnh của ông. Chúa đòi bạn trả gì? Hình ảnh Người. Nhưng hình ảnh của César thì in trên đồng tiền, hình ảnh của Thiên Chúa ở trong lòng bạn. Nếu mất đồng tiền khiến bạn phải khóc, vì bạn đã đánh mất hình ảnh César. Thì gây xỉ nhục cho hình ảnh Chúa trong lòng bạn, lẽ nào điều đó lại không hề làm cho bạn phải nhỏ lệ sao?”.
2. Hôm nay đến lượt ta làm chứng Tin Mừng":
(Sổ tay sinh hoạt Ngày thế giới Truyền giáo).
“Năm 180, tại miền đất nay là nước Tunisit có 5 phụ nữ và 7 người đàn ông là nông dân bị bắt vì là những người có đạo. Người ta ép họ chối bỏ đức tin và nhìn nhận hoàng đế Rôma là Chúa. Theo án lệnh, một phụ nữ trong đám đáp: “Chúng tôi kính trọng César vì là hoàng đế, nhưng chúng tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi”. Tất cả đều bị kết án tử, họ là những vị tử đạo tiên khởi của Bắc Phi.
Họ làm chứng cho lời Chúa mà chúng ta vừa nghe: “Hình và danh hiệu của César, trả về César, vì đồng tiền này là dấu hiệu sự tổ chức xã hội mà con người tham dự vào, tỉ dụ như việc nộp thuế, nhưng con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa (St 1,26-27) và mang danh hiệu: Con thuộc về Chúa (Is 44,5), nên phải trả về Chúa”...
Đây chẳng qua là một thí dụ xưa rồi, nhưng ta có thể tìm ra vô vàn những mẫu tương đương trong tất cả lịch sử Kitô giáo. Cho tới thời hiện đại...
Đó chẳng phải là kết quả của việc loan báo Tin Mừng, của Lời Chúa được đón nhận có sức làm biến đổi đời sống con người như đã thể hiện nơi Giáo Hội trẻ trung ở Thessalonica mà thánh Phaolô nói tới đó sao? Chính ngài, ngài biết rõ mình được sai đi rao giảng bí ẩn của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã mạc khải... Nhưng điều làm cho thánh nhân vui mừng là được thấy sống dậy một cộng đồng các người nam nữ mà đời sống của họ được đổi mới nhờ việc họ đón nhận Tin Mừng này. Họ có một lòng tin sống động, một lòng mến tích cực và một lòng cậy trong vững vàng như ta thấy thánh tông đồ nói về họ. Những cộng đồng này, đến lượt mình, trở thành những nhân chứng giúp mở ra những hàng rào xã hội trong đó con người có nguy cơ bị giam hãm. Những cộng đồng này móc nối với cộng đồng kia lần lượt nổi lên như những hoa trái của Lời Đức Giêsu, tạo thành một chuỗi các mắt xích, đã dần dần thể hiện một sự hiệp thông các Giáo Hội địa phương và đó chính là Giáo Hội của Chúa trong thế giới. Các giáo hội ấy cùng nhau thực thi Lời Chúa “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa...”.
--------------------------------
Việc xảy ra trong một hầu quốc gần bờ sông Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này vừa: TN 29-A16
Việc xảy ra trong một hầu quốc gần bờ sông Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này vừa qua đời. Sau một thời gian đất nước loạn lạc và chinh chiến, dân chúng chán cảnh chiến tranh và đòi một người kế vị yêu chuộng hòa bình. Nhưng các quan trong triều có trách nhiệm chọn người kế vị lại bối rối, khó xử, vì vị vua mới qua đời có để lại hai đứa bé còn nằm trong nôi, và đứa nào cũng dễ thương hết. Làm thế nào biết được em nào sẽ là con người yêu chuộng hoà bình ?
Lúc đó, một vị quan có trách nhiệm lựa chọn đưa ra ý kiến là hãy quan sát kỹ hai em đang nằm ngủ trong nôi như hai thên thần, ông thấy em bé thứ nhất ngủ mà tay mở ra trong khi đứa thứ hai nắm chặt tay lại. Không do dự, ông chọn ngay đứa thứ nhất, và sử đã ghi lại rằng đó là vị hoàng tử đầy từ tâm và nhân ái dịu hiền.
Đây là hình ảnh kỳ diệu của Chúa Giêsu dịu hiền và tốt lành, là vua và là trung tâm của mỗi tâm hồn. Ngài xuống thế, lúc ở trong máng cỏ cũng như khi ở trên
Mỗi người trong chúng ta đã được Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có trí khôn để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Cái hình ảnh ấy, con người mang trong mình tự khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, hay đúng hơn, có những khả năng để trở nên giống Thiên Chúa. Nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên gống Chúa hơn, và người đời sẽ nhận ra giống hình ảnh Chúa nơi chúng ta, như cử chỉ em bé trong câu chuyện nói lên đời sống em.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặt câu hỏi: hình này là hình ảnh của ai đây ? Câu ấy có thể là câu một Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng ? Ngoài những đức tinh, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người, linh hồn thiêng liêng, lý trí và ý chí, những cái ta nhận được khi thụ thai, những cái làm ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xóa đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, cho thêm tươi đẹp... nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng mến đáng quí trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí họa của Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn bảo nhóm biệt phái Do thái: “Cái gì của Xêda và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Câu trả lời này của Chúa bao hàm nhiệm vụ trần thế và thiêng liêng của chúng ta. Thánh Phaolô đã dạy: “Những gì ta nợ ai, thì phải trả cho người ấy. Hãy nộp thuế cho kẻ có quyền thu thuế hay trả công cho kẻ có quyền lấy công, hãy sợ kẻ đang sợ, hãy kính kẻ đáng kính” (Roma 13,7). Những cái đó là những món nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đói hỏi ở nơi ta.
Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Thi hành việc bác ái cho tha nhân chính là trả nợ cho Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Những gì làm cho họ “là” làm cho chính Ngài”. (Mt 25,40)
Mong rằng: chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Ngài đã trao cho chúng ta khi được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội. Và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi tay Chúa mà còn phải là một hình ảnh tươi đẹp gấp bội nữa, bởi vì chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
--------------------------------
Ngày Quốc Tế Truyền Giáo được toàn thể Giáo Hội mừng vào Chúa Nhật XXIX Thường: TN 29-A17
Ngày Quốc Tế Truyền Giáo được toàn thể Giáo Hội mừng vào Chúa Nhật XXIX Thường Niên hôm nay, nhằm nhắc nhở cho mỗi người Kitô hữu chúng ta ý thức được bổn phận của mình trong xã hội, trong môi trường mà chúng ta đang sinh sống. Xin Chúa thường giúp mỗi người chúng ta sống trọn vẹn với ơn gọi và sức mệnh của mình mỗi ngày một hoàn hảo hơn.
Bài Phúc âm hôm nay (TN29A) có một câu đặc biệt thường được trưng dẫn, đó là: "Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng làChúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: "Những gì của Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy".
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Hôm nay chúng ta mừng ngày Quốc Tế Truyền Giáo, ngày mà Giáo Hội mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng lời cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đây đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
--------------------------------
“Có được phép nộp thuế cho Cêsarê?”
Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với các địch thủ Do Thái đã đến hồi gay cấn và sẽ đưa cuộc tử nạn: TN 29-A18
Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với các địch thủ Do Thái đã đến hồi gay cấn và sẽ đưa cuộc tử nạn. Để chống lại Chúa, họ dùng lý, dùng mực, dùng luật.
Hôm nay, Matthêô nói: “Họ dùng mưu để bắt bẻ Chúa”. Tuy nhiên họ nhập đề một cách rất khôn khéo và gian trá, dùng lời khen đi trước để giăng bẫy đàng sau. Chúng ta cũng phải ghi nhận rằng họ nhận xét về Chúa, vị Rabbi trẻ rất đúng, với ba đặc tính: “Thầy là người ngay chính”. Ngài phản chiếu sự thật, nói làm sao sống làm vậy. “Thầy chẳng cần để ý đến ai”, “Thầy không tây vị người nào”. Sau phần dẫn nhập, họ đi vào đề: “Thưa Thầy, có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?”
Chúng ta đang ở vào năm 30 dưới Hoàng đế Cêsarê Tibêriô và quân đội ông đang chiếm đóng xứ Do Thái gây nhiều nhiễu thương cho dân chúng; phong trào cách mạng chống đối đang âm ỉ lan rộng.
Họ mong rằng Chúa sẽ trả lời: “không”, đứng hản về phía dân chúng. Rabbi lại không biết đến thời sự, biết chí quật cường từ đời các vị anh hùng nhà Macchađê đang nóng lòng trong dân chúng, chống lại ách đô hộ của La Mã sao?
Câu hỏi đặt Chúa vào tư thế chẳng đặng đừng phải trả lời có hay là không: “Có được nạp thuế cho Cêsarê hay là không?”
Câu trả lời của Chúa làm cho họ sửng sốt, Ngài lướt trên chiếc bẫy mà họ giương ra. Ngài không trả lời có hay không mà trả lời theo chiều hướng sứ điệp của Ngài, sứ điệp cứu rỗi.
Cầm đồng bạc trong tay, Người hỏi: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa: “Của Cêsarê”. Chúa bảo: “Vậy cái gì của Cêsarê hãy trả cho Cêsarê và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.
Một câu nói đi vào lịch sử. Một câu nói chiếu sáng như gương. Con người không phải có chỗ đứng duy nhất trong xã hội trần thế. Được tạo dựng nên bởi Thiên Chúa là để chia sẻ sự sống của Chúa thì phải “trả lời cho Chúa cái gì thuộc về Chúa”, nghĩa là tất cả con người chúng ta, linh hồn và thể xác. Vì thế trong tương quan trần thế, quyền bính cũng như quốc gia không được độc tài, quốc gia không phải là Thiên Chúa.
Nói vậy, không có nghĩa là hạ thấp giá trị của quốc gia. Quốc gia có trách nhiệm do Chúa trao phó để cổ võ, bảo vễ quyền lợi thế trần của mỗi công dân và mỗi Kitô hữu hay không đều phải tuân phục. Thật là khó khăn khi trong thực tế, thế quyền hay tỏ ra độc tài, áp bức thần quyền, gây nhiều khó khăn cho người tín hữu. Vì thế Giáo Hội khuyên người tín hữu, ai có thể được, hãy tham gia vào phạm vi chính trị. Đó là một cách thực hành đức bác ái Phúc Âm và nhờ đó Giáo Hội có tiếng nói trong phạm vi chính trị thế trần.
“Hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê và cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa”.
Trong lịch sử Giáo Hội phải mất bao nhiêu thế kỷ mới giải quyết được vấn đề Nước Đức Giáo Hoàng. Đây là một ơn của Chúa. Mãi đến năm 1929, vấn đề mới được giải quyết. Đức Giáo Hoàng chỉ còn lại một giải đất Vatican đi trong 45 phút là hết một vòng. Thế quyền mất, nhưng thần quyền lại tăng lên. Chưa bao giờ uy thế của Giáo Hội lại lên cao như ngày nay.
----------------------------------
Suy Niệm
"Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?"
Câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi.Nếu Đức Giêsu bảo phải nộp, ắt Ngài chẳng yêu nước yêu: TN 29-A19
Câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi.
Nếu Đức Giêsu bảo phải nộp, ắt Ngài chẳng yêu nước yêu dân.
Thứ thuế thân nộp cho đế quốc Rôma thật là điều ô nhục. Nhưng nếu Ngài bảo đừng nộp, hẳn Ngài sẽ bị tố cáo.
"Cho tôi xem đồng tiền dùng để đóng thuế."
Khi đưa cho Đức Giêsu đồng bạc có hình Xê-da, những kẻ giương bẫy thú nhận họ có dùng thứ tiền này, và như thế họ đã mặc nhiên nhìn nhận quyền của Xê-da.
Khi biết hình và dòng chữ trên đồng bạc là của Xê-da, Đức Giêsu đã nói một câu không dễ hiểu: "Vậy hãy trả lại cho Xê-da những gì của Xê-da".
Ngài nhìn nhận một sự độc lập nào đó của ông. Ông có quyền điều hành đế quốc của ông như ông muốn. Đối với người Do Thái sử dụng đồng bạc của Xê-da, Đức Giêsu không hề ngăn cản họ nộp thuế cho ông ấy, như sau này có kẻ tố cáo (x. Lc 23,2). Nhưng Ngài cũng không buộc mọi người phải nột thuế cho Xê-da, vì có người coi việc nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma là phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Chẳng những Đức Giêsu không bị mắc bẫy mà Ngài còn nhân cơ hội đi lên một bình diện cao hơn: "Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa." Đây mới thật là vấn đề Ngài hết sức quan tâm.
Chúng ta tự hỏi: có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài?
Phải trả lại cho Xê-da đồng tiền mang hình và tên ông, nhưng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình Ngài, những gì đã được ghi khắc tên Ngài trên đó.
Hình ảnh nổi bật nhất là con người (x. St 1,26).
Toàn bộ con người mang dấu ấn của Thiên Chúa. Không ai được khinh miệt phụ nữ, thai nhi hay người già. Không ai được làm hoen ố sự trong sáng của lương tâm. Xúc phạm con người là phạm đến nơi sâu thẳm của Thiên Chúa. Mọi quyền bính đạo đời đều nhằm phục vụ con người, đều nhằm làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa nơi nó. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài trên đời ta.
Cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa: đất, rừng, sông biển, không khí, tài nguyên và muôn sinh vật. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ trong lành, hiền hậu, nghĩa là trả lại cho con người món quà Ngài đã tặng.
Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa (x.Ga 19,11). Chúng có giá trị và sự tự lập, nếu phù hợp với ý Ngài, cũng là phù hợp với quyền lợi chính đáng của con người. Chúng ta có chiếm đoạt điều gì của Thiên Chúa không?
Hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi rõ hay mờ nhạt? Có lớp bụi nào che khuất khuôn mặt Chúa nơi tôi? Ước gì tôi đọc được tên Thiên Chúa, tên Đức Giêsu trên những người tôi gặp, những biến cố tôi sống mỗi ngày.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về những điểm giống nhau và khác nhau giữa quyền của quốc gia và quyền của Hội Thánh? Theo bạn, đâu là giới hạn của những quyền này?
Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người nhiều khi đã bị che lấp và những hình ảnh khác đã chiếm chỗ. Theo bạn, đâu là những hình ảnh khác đang in dấu trên con người hôm nay?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, có những người bạn trẻ thích xăm hình lên người, hay muốn ăn mặc, đi đứng theo kiểu một ngôi sao thể thao hay điện ảnh. Họ vui khi thấy mình giống hệt những thần tượng mà mình yêu thích.
Xin Cha giúp chúng con biết hãnh diện vì mang nơi mình hình ảnh cao quý của Cha và sống theo phong cách của Cha: Cha quảng đại mở ra để chia sẻ hạnh phúc thần linh, Cha khiêm tốn tôn trọng tự do của con người, Cha yêu thương đến nỗi dám trao hiến Người Con Một chí ái, Cha bao dung tha thứ trước những tâm hồn hoán cải, Cha luôn tận tụy làm việc để nâng đỡ cả thế giới.
Ước gì người ta biết Cha trên trời, khi gặp chúng con ở dưới đất. Ước gì người ta đọc thấy tên Cha trong tim của chúng con, và nhận ra chúng con là con Cha. Amen.
----------------------------------
Đế quốc Rô-ma bắt đầu đô hộ đất Pa-lét-tin từ năm 63 trước Công nguyên. Xét về mặt pháp lý: TN 29-A20
Đế quốc Rô-ma bắt đầu đô hộ đất Pa-lét-tin từ năm 63 trước Công nguyên. Xét về mặt pháp lý, có ba hạng người trong xã hội: những người có quyền công dân Rô-ma, những người tự do nhưng không có quyền công dân Rô-ma và các nô lệ. Đức Giêsu thuộc loại thứ hai, một thứ thường dân. Các thường dân thì phải nộp thuế thân, thuế này đồng đều cho mọi người, chỉ trừ người già và trẻ em là được miễn.
Người Do thái vẫn băn khoăn về thứ thuế này. Họ có những thái độ khác nhau. Các người thuộc phái Sa-đốc hay Hê-rô-đê thì chấp nhận việc nộp thuế cho Hoàng đế Rô-ma (Xê-da). Họ cần bảo vệ chỗ đứng của họ nhờ được chính quyền Rô-ma che chở. Còn các người Pha-ri-sêu thì miễn cưỡng chấp nhận. Họ coi ách đô hộ của người Rô-ma là một hình phạt của Thiên Chúa, cần phải tu thân tích đức để được tha thứ. Cuối cùng là thái độ của nhóm người không chấp nhận sự hiện diện của quân Rô-ma trên quê hương đất nước. Họ chủ trương dùng vũ lực để đánh đuổi thực dân Rô-ma, họ coi việc nộp thuế thân cho Rô-ma là điều ô nhục, xúc phạm đến Thiên Chúa. Thuế thân là dấu hiệu cho thấy sự lụy phục của dân Thiên Chúa đối với đế quốc ngoại giáo. Vậy nộp thuế thân là không chấp nhận để cho Thiên Chúa thống trị hoàn toàn trên Ít-ra-en, là dân thánh của Người.
Người Do thái lấy Luật Mô-sê làm nguyên lý hướng dẫn đời họ, cả trong từng chi tiết. Chính vì thế có lần người ta đã hỏi Đức Giêsu những câu như: "Có được phép chữa bệnh trong ngày hưu lễ không?" (Mt 12,10), hay " Có được phép rẫy vợ không?" (Mt 19,3). Ở đây chúng ta bắt gặp câu hỏi: "Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?". Nộp thuế cho Hoàng đế Rô-ma thì có đi ngược với Luật của Mô-sê không? Đây là một câu hỏi nghiêm túc, nhưng là một câu hỏi gây nguy hiểm cho người trả lời. Các người Pha-ri-sêu thừa biết chuyện đó, và họ cố dùng câu hỏi này để đưa Đức Giêsu vào bẫy. Đức Giêsu bị đặt trước một chọn lựa dứt khoát. Nếu Ngài trả lời "được phép", Ngài sẽ bị nhiều người Do thái có ác cảm, vì thấy Ngài ngả về phe quân Rô-ma mà quên đi quyền tối thượng của Thiên Chúa. Nhưng nếu Ngài trả lời "không được phép", Ngài sẽ trở thành một người kích động quần chúng nổi dậy chống đế quốc Rô-ma, nhà cầm quyền hẳn sẽ không bỏ qua một trọng tội như thế.
CÁCH GIẢI QUYẾT CỦA ĐỨC GIÊSU
Đứng trước một câu hỏi như vậy, Đức Giêsu đã giải quyết như thế nào?
Trước hết, Ngài tố giác sự giả hình của họ. Họ làm bộ khen Ngài bằng những lời đẹp đẽ nhất dành cho một vị kinh sư Do thái giáo: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa một cách chân thật. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không đánh giá người ta theo bề ngoài." Lời khen khéo léo này đòi buộc Đức Giêsu phải trả lời thẳng vào câu hỏi mà họ sắp đặt ra. Tuy là một lời khen không thực lòng, nhưng ta vẫn thấy trong đó phản ánh khuôn mặt thật của Đức Giêsu. Ngài là con người không chùn bước trước quyền uy, nhưng dám đưa ra những phán đoán khách quan và vô tư, dám đứng về phía người nghèo, người bị bỏ rơi để bênh vực quyền lợi của họ.
Sau đó, Ngài đòi họ cho Ngài xem đồng tiền dùng để nộp thuế cho Xê-da, vì Ngài không mang đồng tiền đó. Đó là một đồng tiền bằng bạc, nặng 3,8 gam. Đồng tiền này đã được lưu hành trong thế giới Rô-ma từ năm 268 trước Công nguyên, mãi đến năm 200 sau Công nguyên vẫn còn được dùng. Trên mặt đồng tiền có hình bán thân của Hoàng đế Ti-bê-ri-ô, và dòng chữ bằng tiếng La tinh "Ti-bê-ri-ô Xê-da, con của Âu-gút-tô thần linh, Âu-gút-tô". Đức Giêsu cầm đồng tiền trên tay, Ngài đặt câu hỏi: "Hình và dòng chữ này là của ai?" Khi biết là của Xê-da, Ngài đã nói: "Những gì của Xê-da, hãy trả lại cho Xê-da, và những gì của Thiên Chúa, hãy trả lại cho Thiên Chúa."
Phải nhìn nhận rằng câu nói bất hủ trên đây của Đức Giêsu không phải là dễ hiểu lắm. Trong bao thế kỷ, người ta đã tranh luận về câu này.
Một số tác giả ngày nay cho rằng trong câu nói trên đây của Đức Giêsu, điều mà Ngài quan tâm không phải là chuyện nộp thuế cho Xê-da hay không, nhưng là một vấn đề quan trọng hơn nhiều: đó là thuộc về Thiên Chúa.
"Đồng tiền thuộc về Xê-da, nhưng anh em thuộc về Thiên Chúa… Đồng tiền mang hình ảnh của Xê-da, nên chúng ta phải trả cho Xê-da. Còn chúng ta là người mang hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta phải dâng trả chính bản thân mình cho Thiên Chúa" (G. Bornkamm).
Đức Giêsu không nói một cách rõ ràng là phải nộp thuế cho Xê-da để bày tỏ sự phục tùng. Nếu ta được phép nộp thuế vì nghĩa vụ, thì đừng quên rằng mình thuộc về Thiên Chúa. Ngài mới là Đấng có quyền tối thượng, và là Đấng ta phải yêu mến trên hết mọi sự (Mt 22,37). Tóm lại, tiền bạc của con người có thể thuộc về Hoàng đế, nhưng chính bản thân con người thì lại thuộc về Thiên Chúa. Như thế Đức Giêsu đã nâng vấn đề lên một bình diện khác. Không phải chỉ là chuyện nộp thuế cho Xê-da, nhưng là chuyện Thiên Chúa có quyền tối cao trên mọi người và mọi quyền hành trần thế.
"Những gì của Thiên Chúa, hãy trả lại cho Thiên Chúa." Đây là một lời nhắn nhủ bất ngờ khiến chúng ta phải tự kiểm điểm. Chúng ta được mời gọi thoả mãn những đòi hỏi của Thiên Chúa và tôn trọng những quyền lợi của Ngài; chúng ta phải làm những điều đó một cách nghiêm túc khi đáp ứng những bổn phận trần thế.
NHỮNG GÌ CỦA XÊ-DA, HÃY TRẢ LẠI CHO XÊ-DA
Một cách kín đáo, Đức Giêsu coi việc nộp thuế cho Xê-da là được phép, nhưng Ngài đã tránh được cái bẫy của người Pha-ri-sêu. Vì đồng tiền dùng để nộp thuế là đồng tiền Ro-ma, thuộc về Xê-da, nên nộp thuế chẳng qua là trả lại cho Xê-da điều đã thuộc về ông ta rồi.
Dù sao Đức Giêsu cũng đã mặc nhiên nhìn nhận vai trò của chính quyền trong việc cai trị đất nước. Lãnh vực trần thế là một lãnh vực riêng cần được tôn trọng. Tuy nhiên, vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tối thượng, nên quyền của Xê-da cũng phải lệ thuộc vào quyền của Thiên Chúa. Xê-da không có quyền đòi hỏi thần dân của mình những điều ngược với ý định của Thiên Chúa.
Ngoài bổn phận tôn giáo, người tín hữu cần làm tròn bổn phận công dân. Tín hữu vừa là công dân của trời cao (P 3,20), vừa là công dân của quê hương đất nước. Chúng ta cần đóng góp tích cực để xây dựng trần thế sao cho mọi người được hưởng tự do và hạnh phúc.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Công đồng Va-ti-ca-nô II mời gọi chúng ta hãy có lòng yêu mến quê hương và cộng tác vào việc xây dựng đất nước (LG 75). Bạn có thể đáp lại lời mời gọi này ra sao trong hoàn cảnh cụ thể của bạn?
2. Theo ý bạn, đâu là "những điều thuộc về Thiên Chúa" mà cá nhân và xã hội nào cũng phải tôn trọng?
----------------------------------
Năm 1920 thánh Grandhi hô hào dân chúng Ấn không đóng thuế cho đế quốc Anh, để tranh: TN 29-A21
Năm 1920 thánh Grandhi hô hào dân chúng Ấn không đóng thuế cho đế quốc Anh, để tranh đấu cho nước được độc lập.
Đóng thuế là nghĩa vụ của dân đối với chính quyền. Dân Ấn không đóng thuế là không công nhận người Anh là chính quyền của mình, là chống lại đế quốc xâm lăng để giải phóng đất nước thoát ách thực dân.
Câu hỏi của phái Pharisiêu nói với Đức Giêsu: “Có nên đóng thuế cho Xêda, hoàng đế Rôma không ?”
Không phải họ mong Ngài đứng lên hô hào dân Do thái chống đế quốc như ông Grandhi, vì họ đã đi với phe Hêrôđê, thân đế quốc, đến hỏi Đức Giêsu. Cũng không phải họ mong Ngài hô dân đóng thuế cho Xêda, vì họ thuộc phái ái quốc quá khích, bài đế quốc.
Vậy họ muốn gì ở câu đáp của Đức Giêsu ?
Họ chỉ muốn Ngài đáp có hay không thôi, nên họ tâng bốc khen ngợi Ngài rất khéo léo: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy không vị nể ai. Không đánh giá người ta theo bề ngoài”. Như vậy, họ đặt hai cái bẫy: một bẫy tâng bốc để buộc Ngài phải trả lời, một bẫy nộp thuế để kẹp ngài giữa hai gọng kìm phải đáp có hay không.
Đức Giêsu đáp đúng như họ khen, chứ không đúng như họ gài bẫy.
Đúng như họ khen: “Thầy là người chân thật, không đánh giá theo bề ngoài”. Ngài đã thành thật đánh giá đúng lòng, đúng tim, đúng đầu óc tâm tư của họ. Ngài nói: “Các ông thật giả hình, các ông có ác ý gài bẫy tôi !”
Đánh giá họ xong, Ngài cứ sự thật dậy đường lối của Thiên Chúa: “Của Xêda, trả về Xêda. Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”
+ Của Xêda, trả về Xêda: Tiền của Xêda, trả về Xêda ; của ai trả về chủ nó. Không xài nó, không lợi dụng nó để mua tiên hay phạm tội ác. Cũng không để nó lôi kéo mình, bắt mình làm nô lệ nó. Của ai trả về họ, vừa thực thi công bằng vừa giải thoát mình, cho mình sống tự do, thanh thoát. “Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo” (Nguyễn công Trứ)
+ Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa: Đây là mục đích chính của Đức Giêsu. Đấng Cứu thế đến giải thoát mọi người khỏi nợ trần gian, khỏi ách satan, trả họ về Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu nói đến của Thiên Chúa, Ngài muốn cứu đối phương thoát khỏi vòng kiểm tỏa chính trị đang dằn vặt họ, đang buộc trói họ, khiến họ âm mưu dùng thủ đoạn chính trị hắc ám gài bẫy ngài. Ngài muốn nhắc nhở họ nhận biết: Chính họ là của Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã sinh thành, bảo trợ họ, chọn họ làm dân riêng, chính ra họ phải nên giống như vua Ky-Rô, dù là dân ngoại, đã được Thiên Chúa chọn làm mục tử của Ngài. Vua đã biết Thiên Chúa là Đấng nắn ra ông từ lòng mẹ, Đấng cứu chuộc ông, Đấng tác thành mọi sự (Is. 44, 24.28). Đấng đã xức dầu tấn phong ông, đã cho muôn dân suy phục ông, đã bắt các vua phải hạ khí giới. Đấng đã trang bị đầy đủ cho ông, để ông làm cho từ đông sang tây, thiên hạ biết Ngài là Thiên Chúa của họ, chẳng có thần nào khác (Bài đọc I - Is. 45, 1. 4-6). Vua Ky-Rô đã biết ơn Thiên Chúa và đã thành tựu mọi ý muốn của Thiên Chúa (Is. 44, 28).
Chính ra, họ phải lo thành tựu mọi ý muốn của Thiên Chúa như vậy, chứ đừng lo âm mưu tiêu diệt những người của Thiên Chúa. Những người của Thiên Chúa là Đấng Messia và tất cả thiên hạ. KyRô cũng như Moisen chỉ là hình bóng Đấng Messia. KyRô chỉ giải thoát dân Israel khỏi nô lệ Babilon. Moisen cũng chỉ giải phóng con cháu Giacop khỏi nô lệ Ai Cập. Đấng Messia mới thực là Đấng Cứu thế từ trời xuống giải phóng muôn dân thiên hạ khỏi kiếp sống lưu đầy trần gian, khỏi thần chết quỷ dữ để trả muôn dân về làm con cái Thiên Chúa muôn đời. Đấng Messia đó chính là Đức Giêsu Kitô, đã đến tuyên bố năm hồng ân, thời kỳ đại xá, xóa tội trần gian, bắt đầu thời đại mới. Thời đại Tin mừng cứu độ, mở toang cửa tình yêu Thiên Chúa cho muôn dân được kết hợp cùng Thiên Chúa là Cha, như Hội thánh “Thessalonica đang kết hợp cùng Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu Kitô trong ân sủng và bình an” (Thes. 1,1). Để rồi tất cả đều làm việc vì lòng tin, gánh vác những nỗi khó nhọc vì lòng mến, và kiên nhẫn chịu đựng những nghịch cảnh vì trông đợi Chúa Giêsu Kitô (Bài đọc II – Thes. 1,5).
Lạy Chúa, tất cả là của Chúa, tất cả đều được Chúa mến thương, tất cả đều được Chúa ban Tin mừng cứu độ, tất cả đều được mời gọi làm con Chúa và là anh em với nhau, dù Xêda, Hêrôđê hay Pharisiêu. Xin cho tất cả mọi người biết thành tựu ý muốn của Chúa như Đức Kitô, như KyRô, như thánh Phaolô và Hội thánh Thessalonica để tất cả đều được xác tín sâu xa là mọi sự đều là của Chúa và biết cảm tạ Chúa với lòng thương mến chân tình, thoát mọi âm mưu tranh giành, gài bẫy nhau. Amen.
----------------------------------
Người Do Thái lúc bấy giờ đang sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã. Họ thường phải: TN 29-A22
Người Do Thái lúc bấy giờ đang sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã. Họ thường phải nộp những thứ thuế khá nặng cho hoàng đế César. Đứng trước vấn đề này, họ có ba thái độ khác nhau.
Thái độ thứ nhất của những người thuộc phái Sađốc và đảng Hêrôđê, họ chấp nhận việc nộp thuế, nhằm bảo đảm cho chỗ đứng của họ và sự bao bọc của chính quyền Rôma.
Thái độ thứ hai là của bọn Biệt phái, miễn cưỡng chấp nhận nộp thuế. Họ coi ách đô hộ của người La mã là một thứ hình phạt của Thiên Chúa, vì thế cần phải tu thân tích đức để được tha thứ.
Cuối cùng là thái độ của những người ái quốc, họ không chấp nhận sự hiện diện của ngoại bang trên quê hương đất nước. Họ chủ trương dùng võ lực để đánh đuổi thực dân và coi việc nộp thuế là điều ô nhục, xúc phạm đến Thiên Chúa, vì không chấp nhận để Thiên Chúa thống trị trên Israel là dân riêng của Ngài.
Còn thái độ của Chúa Giêsu là như thế nào? Trước hết, Ngài tố giác sự giả hình của bọn Biệt phái: Họ giả bộ khen ngợi Ngài bằng những lời đẹp đẽ nhất:
- Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy chẳng vị nể ai và không đánh giá theo bề ngoài.
Thế nhưng bên trong những lời đẹp đẽ ấy lại là một ý đồ đen tối, muốn gài bẫy để hại Ngài. Bởi vì nếu Ngài trả lời phải nộp thuế thì Ngài sẽ bị dân chúng phản đối. Còn nếu Ngài trả lời không phải nộp thuế thì họ sẽ tố giác Ngài với chính quyền Rôma.
Vì thế, Ngài bảo họ cho xem đồng tiền nộp thuế. Đây là một đồng tiền bằng bạc, được lưu hành trong toàn đế quốc La mã từ năm 268 trước công nguyên, mãi đến năm 200 sau công nguyên vẫn còn được xử dụng. Trên mặt đồng tiền có hình bán thân của hoàng đế Tibêriô Xêda. Chúa Giêsu cầm đồng tiền và hỏi:
- Hình và dòng chữ này là của ai?
Và khi biết là của Xêda, Ngài bèn nói:
- Của Xêda hãy trả cho Xêda, còn của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Câu nói đó có ý nghĩa: Đồng tiền mang hình Xêda nên chúng ta phải trả cho Xêda, còn con người chúng ta mang hình ảnh Thiên Chúa, nên chúng ta phải trả toàn bộ bản thân chúng ta cho Thiên Chúa. Ngài không nói một cách rõ ràng là phải nộp thuế cho Xêda để bày tỏ sự phục tùng, nhưng nếu chúng ta được phép nộp thuế vì nghĩa vụ thì cũng đừng quên rằng mình thuộc về Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài mới có quyền tối thượng, mới là Đấng chúng ta phải yêu mến trên hết mọi sự.
Tóm lại, tiền bạc của con người có thể thuộc về hoàng đế, còn chính bản thân chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa. Vì Ngài có quyền tối thượng trên mọi người và mọi quyền bính trần gian.
Những gì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa. Đó là lời nhắn nhủ thật bất ngờ khiến chúng ta phải kiểm điểm lại cuộc sống, bởi vì chúng ta có bổn phận phải tôn trọng những đòi hỏi của Ngài. Thế nhưng khi bon chen trong lãnh vực trần thế, chúng ta đã thực sự chu toàn những bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa hay chưa?
----------------------------------
* Suy tư gợi ý
Cái bẫy mà những người Pha-ri-sêu cùng với phe Hê-rô-đê âm mưu gài Đức: TN 29-A23
1. Là công dân của đô thị trần gian và Nước Trời, chúng ta có nghĩa vụ đối với thế quyền và nghĩa vụ đối với Thiên Chúa.
Cái bẫy mà những người Pha-ri-sêu cùng với phe Hê-rô-đê âm mưu gài Đức Giê-su quả thật tinh vi: họ đưa ra một vấn đề hóc búa của bối cảnh xã hội chính trị lúc bầy giờ để đưa Đức Giêsu vào tròng: nghĩa vụ của người Do Thái đối với nhà cầm quyền ngoại bang La mã: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” (Xê-da là Hoàng đế của Đế quốc La-mã lúc bấy giờ). Có nghĩa là “Người Ít-ra-en có được phép nộp thuế cho chính quyền ngoại bang đô hộ không?” Nếu Đức Giê-su trả lời là “không được phép nộp thuế cho Xê-da” thì những người Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê, thù nghịch với Người, sẽ gán cho Người tội phản loạn, chống đối Nhà Nước, không tuân thủ pháp luật đều là những tội đáng chết! Còn nếu Đức Giê-su trả lời là “được phép nộp thuế cho Xê-da”, thì họ sẽ ghép cho Người tội phản quốc, phản dân tộc cũng là những tội tày trời đáng phải bị ném đá, vì là công dân Ít-ra-en mà lại lụy phục Nhà Nước ngoại bang đang đô hộ dân riêng của Thiên Chúa. Trả lời cách nào Đức Giê-su cũng “kẹt”.
Thế mà diễn tiến câu chuyện cho chúng ta thấy: chẳng những Đức Giê-su đã thoát ra khỏi cái bẫy mà kẻ thù giăng ra cho Người một cách khôn ngoan, khéo léo và an toàn, mà Người còn lợi dụng cơ hội hiếm có này để khẳng định một điều quan trọng đối với người dân cũng như với nhà cầm quyền: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” Có nghĩa là nhà cầm quyền có những quyền hạn chính đáng thì người dân phải tôn trọng; nhưng không ai được quên rằng Thiên Chúa cũng có những quyền hạn chính đáng và vì thế mọi người cũng phải tôn trọng những quyền hạn của Người. Nói cách khác, cùng một lúc, con người là công dân đô thị trần gian và công dân Nước Trời hay Vương quốc của Thiên Chúa thì con người phải chu toàn nghĩa vụ đối với nhà cầm quyền cũng như phải chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa. Có người cho rằng khi Đức Giê-su tuyên bố: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” là Đức Giê-su đã trả lời một câu hỏi đã được đặt ra và một câu hỏi khác chưa được đặt ra. Câu hỏi đã được đặt ra là: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” Và câu trả lời là: “Của Xê-da, trả về Xê-da” Còn câu hỏi không được đặt ra là: “Thiên Chúa có những quyền hạn gì trên chúng ta không?” Và câu trả lời là: “Có, Thiên Chúa có nhiều quyền hạn trên chúng ta và những gì thuộc về Thiên Chúa thì chúng ta phải trả lại cho Người”. Những người gài bẫy Đức Giêsu thì quan tâm đến câu hỏi thứ nhất. Còn Đức Giê-su thì quan tâm đến câu hỏi thứ hai, tức đến quyền lợi của Thiên Chúa mà con người – là cá nhân hay cộng đoàn - không được lãng quên.
2. Làm thế nào để chúng ta chu toàn hai nghĩa vụ của mình?
Là công dân của Nước Trời hay Vương quốc của Thiên Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải tìm kiếm, nhận biết, tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa và làm cho Nước Thiên Chúa được mỗi ngày một rộng mở. Ngày nay người ta dễ bị cuốn hút vào đời sống vật chất, tiện nghi, hưởng thụ, ích kỷ nên rất khó nhớ tới và chu toàn các nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và Cứu Độ.
Còn là công dân của đô thị trần gian, chúng ta có bổn phận phải chu toàn các nghĩa vụ công dân để làm cho xã hội phát triển, cho mọi người ấm no hạnh phúc, cho dân giầu nước mạnh. Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Va-ti-ca-nô II đã khẳng định ”sao lãng trách nhiệm trần gian là sao lãng phần rỗi của mình”
Thật ra thì vấn đề cũng đơn giản và không gây khó khăn gì cho người tín hữu trong đại đa số trường hợp. Khó khăn chỉ xuất hiện khi người tín hữu phải làm nghĩa vụ đối với nhà cầm quyền lại chính là quyền lực cai trị mang tính áp bức, bóc lột và bất công thôi. Đó cũng chính bối cảnh của trình thuật trong Phúc Am hôm nay. Quan điểm của Đức Giê-su đã soi sáng giúp người tín hữu biết phải ứng xử thế nào: “Của Xê-da, trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” Lời của Thánh Phao-lô còn rõ ràng hơn: “Mỗi người phải tùng phục chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt” (Rm 13,1-2). Và Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 1902) giúp chúng ta hiểu giới hạn hay điều kiện để một chính quyền được người dân kính trọng và tuân phục: “Về mặt luân lý, không phải người cầm quyền làm gì cũng hợp pháp. Họ không được xử sự cách chuyên chế, nhưng phải hành động cho công ích vì quyền bính là một sức mạnh tinh thần đặt nền tảng trên tự do và ý thức trách nhiệm (xem Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, số 74). Luật pháp của loài người chỉ mang tính luật lệ khi phù hợp với lẽ phải và như thế nó bắt nguồn từ lề luật vĩnh cửu. Một khi nó xa lìa lẽ phải, thì phải coi nó là bất công, không còn tính chất luật pháp nữa mà chỉ là một hình thức bạo lực” (Tôma Aquinô, tổng luận thần học I,II, 93,3).
Giáo lý trên chính là Giáo huấn xã hội của Giáo hội, hay còn được gọi là Giáo huấn của Giáo hội về các vần đề xã hội. Giáo huấn của Giáo hội về quyền bính phù hợp với ý nghĩa nguyên thủy của từ “quyền bính”. Quyền bính trong cổ ngữ La tinh của người La Mã là “AUCTORITAS”. Danh từ auctoritas xuất phát từ động từ augere, có nghĩa là “làm tăng thêm” Do đó, theo nguyên ngữ “quyền bính” hay “nhà cầm quyền” có trách nhiệm làm cho mọi người dân được giầu có thêm, được tự do, sung sướng, hạnh phúc, phát triển hơn.
----------------------------------
Ngày nay trước vấn đề tục hoá, vai trò của tôn giáo dường như mỗi lúc một mờ nhạt. Thế nhưng: TN 29-A24
Ngày nay trước vấn đề tục hoá, vai trò của tôn giáo dường như mỗi lúc một mờ nhạt. Thế nhưng rải rác đó đây vẫn còn những sự kiện đáng cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn giáo chủ Khomenei ra lệnh hành quyết đối với nhà văn Salman Rushdie vì ông này đã báng bổ Hồi giáo qua cuốn "Vần thơ của ác quỷ". Và cũng đã lâu, các học giả Hồi giáo đòi lấy đầu bà Thủ tướng Butto nước Pakistan vì bà này dám huỷ bỏ luật chặt tay những kẻ trộm cắp. Trong bối cảnh đó thì đoạn Tin Mừng sáng hôm nay có ý nghĩa gì?
Đây là lần đầu tiên bọn biệt phái và phe Hêrôđê liên kết với nhau tưởng rằng sẽ mưu cầu đại sự, ai ngờ chỉ nhằm loại bỏ Chúa Giêsu bằng cách gài bẫy Ngài trước một vấn đề xem ra nan giải: Có được phép nộp thuế cho César hay không? Nêu lên câu hỏi này, bọn biệt pháp chỉ chờ câu trả lời có để ghép tội Chúa Giêsu là kẻ chống phá tôn giáo, đi với đế quốc. Trong khi phe Hêrôđê thì lại chờ câu trả lời không để xếp Ngài vào số những kẻ thù địch với chính quyền. Có hay không, phần thiệt luôn nghiêng về Chúa Giêsu.
Nhưng thật bất ngờ đến độ chưng hửng, Chúa Giêsu không những đã vạch trần thủ đoạn nham hiểm của họ, mà còn đẩy họ tới chỗ phải chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Ngài nói: Của César hãy trả cho César. Đây là một sự kiện thực tế bởi vì họ tiêu dùng tiền Rôma thì cũng phải đóng thuế cho Rôma. Quyền lợi đi liền với nghĩa vụ. Nộp thuế cho César không phải là một hành vi phạm thánh như bọn biệt phái cố tình dàn dựng, nhưng là một hành động hợp lý với những ai có ý thức xã hội.
Bọn biệt phái thì chưng hửng còn phe Hêrôđê thì cụt hứng. Những tưởng đã chụp mũ được Chúa Giêsu trong góc độ chính trị, nếu Ngài phủ nhận quyền bính của César, nhưng Ngài lại muốn khẳng định mình trong cương vị tôn giáo. Thế nên, chẳng thể bảo Ngài là thoả hiệp hay chống đối, bởi vì Ngài là con người tôn giáo biết chu toàn mọi bổn phận công dân.
Vượt trên vấn nạn của kẻ thù, Chúa Giêsu còn mời gọi họ bước tới với trách nhiệm tôn giáo. Dù đứng trong lập trường nào, họ đều là những người Do Thái, kính mến Thiên Chúa và tuân giữ luật lệ của Maisen, nên bổn phận trước hết của họ phải là bổn phận tôn giáo: của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Qua đó Ngài cũng xác quyết vê quyền tối thượng của Thiên Chúa. Thực vậy, Thiên Chúa là chủ và quyền năng của Ngài bao trùm mọi lãnh vực. Ngài không tự đặt mình ngang hàng với César để tranh chấp hay bảo vệ những quyền lợi của mình. Bởi vì nộp thuế hay không nộp thuế cho César đâu có thêm bớt được cho vinh quang của Ngài. Do đó, chúng ta có thể chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa mà vẫn cứ an tâm nộp thuế cho César.
Chúng ta không phải chỉ ngỡ ngàng và thán phục cung cách trả lời của Chúa Giêsu, mà còn ngỡ ngàng và thán phục hơn nữa với nội dung của lời giải đáp, có sức làm bật tung những lối nhìn tù túng. Có thể nói được rằng chỉ có một bổn phận duy nhất là làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng bao trùm trong mọi lãnh vực. Bởi vì đạo chỉ đẹp hơn khi ở trong đời và đời chỉ tốt hơn khi ở trong đạo.
----------------------------------
- Lâm Thái Sơn
Mt 22, 15-21
Đọc bài Phúc âm hôm nay, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu, thay vì trả: TN 29-A25
Đọc bài Phúc âm hôm nay, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu, thay vì trả lời thẳng vào câu hỏi của đối phương đề cập đến pháp luật của hoàng đế La Mã và chuyện có nên nộp thuế cho Cêsarê hay không thì Ngài lại nói đến quyền hành của Thiên Chúa.
Thực tế mà nói, vấn đề nộp thuế là chuyện đương nhiên, không cần phải bàn. Vả lại câu hỏi được đặt ra cũng không đúng vào đâu, chẳng qua đối phương muốn bàn mưu để bắt bẻ và ám hại Chúa mà thôi. Cái gút mắc của vấn đề là: dân Do Thái thời bấy giờ đang bị đế quốc La Mã xâm chiếm và đô hộ, vì thế họ xem người La mã như dân vô đạo và thù nghịch, vậy thì nộp thuế cho hoàng đế Cêsarê (một kẻ ngạo mạn phách lối dám tự cho mình là thần thánh) là một hành vi nhục mạ điều luật Thiên Chúa (vì ngươi chỉ tôn thờ một Chúa duy nhất mà thôi). Cho nên: nếu bảo rằng phải nộp thuế, Chúa Giêsu sẽ bị họ tố cáo là kẻ phiến loạn. Trước câu hỏi đầy mưu mô của đám Hêrôđê và biệt phái. Chúa Giêsu lên tiếng: ẪHãy trả cho Cêsarê những gì Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa những điều thuộc về Thiên ChúaỮ. Qua câu trả lời này, ta thấy Chúa phân biệt rõ quyền hạn của Cêsarê và quyền lực của Thiên Chúa.
Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời của Chúa Giêsu cũng như từ muôn thuở. Một thí dụ điển hình trong lịch sử Pháp quốc: vào năm 1801, một Ẫhoà thân điều ướcỮ (concordat) đã được ký kết giữa hoàng đế Nã Phá Luân đệ I vàĐức Giáo Hoàng Piô VII; cho đến năm 1905 thì sự tách lìa hai quyền bính thiêng liêng và trần thế đã được tuyên bố dứt khoát.
Trở lại bài Phúc Âm, Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, Ngài không muốn được coi như vị cứu tính chính trị theo ý của người Do Thái. Ngài không đến để nắm lấy chính quyền, đảm nhận trách nhiệm và chúc vụ như một vị hoàng đế Cêsarê hay như một vị vua Hêrôđê. Trong thực tại, Ngài phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên, nhưng Ngài tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Ngài đang rao giảng và đang thể hiện nơi Ngài hoàn toàn khác biệt và không cạnh tranh với đế quốc của Cêsarê, vì Nước Trời là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không phân chia kẻ đô hộ và người bị trị.
Thái độ của Chúa cho thấy rõ chính trị có giá trị riêng của nó. Các xã hội ngày nay cần phải có sự tổ chức theo phương diện chính trị, nhưng Thiên quốc không được lẫn lộn với bất cứ thể chế hoặc cơ cấu tổ chức trần thế nào, cho dù chế độ đó có hoàn mỹ chăng nữa.
Chính trị là nghệ thuật và khoa học bảo đãm đời sống con người một cách hài hòa trong một xã hội. Mục đích chủ yếu là: kiếm tìm ấm no hạnh phúc cho từng người, tôn trọng và bảo vệ an ninh trật tự cho mọi công dân v..v... Những mục tiêu này cần phải hoà hợp với các tôn chỉ của Nước trời nơi mà tình yêu và sự kính trọng Thiên Chúa được gắn liền với tha nhân. Nơi nào có liên hệ đến số mệnh của con người thì nơi đó có Thiên Chúa. Vì thế Giáo hội vẫn kêu gọi các tín hữu không nên khinh thường sứ mệnh và trách nhiệm của những nhà lãnh đạo quốc gia, đồng thời phải thi hành đúng bổn phận người công dân (nộp thuế, nghĩa vụ...) cũng như tích cực góp phần xây dựng xã hội cho tốt đẹp hơn.
Để đạt mục đích này, các xã hội trần gian sử dụng nhiều phương thế khác nhau, có những chính sách phức tạp và cơ cấu tổ chức đa diện đôi khi cũng tương phản nữa... Nhưng trong lãnh vực chính trị, Giáo hội luôn tôn trọng sự tự trị của quyền bính thế trần với mỗi cách thức riêng biệt của nó, và dĩ nhiên Thiên Chúa không tự biểu lộ dưới hình thức các đảng phái chính trị: thật là sai lầm khi gán ghép Thiên Chúa trong phe tả hoặc phe hữu. Tiếc rằng trên chính trường thế giới ngày nay, ta thấy có những chính thể dám khinh thường và chống chọi quyền bính của Thiên Chúa, hoặc ngược lại tuyên bố hữu thần nhưng ngang nhiên áp bức, bốc lột, chà đạp phẩm giá và tự do của con người. Và chúng ta đã thấy rõ nơi nào mà tất cả không được tôn trọng thì nơi đó con người cũng không được đề cao. Khi quyền lực của một quốc gia coi rẻ nhân phẩm thì đương nhiên công dân sẽ bị áp bức chà đạp. Một chính thể vô thần thì cũng vô nhân đạo một cách bi thảm.
Vì thế, những gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê và những gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa. Chúng ta đều biết Cêsarê là hiện thân cho một đế quốc hùng lực và giàu mạnh của thời lịch sử đã qua, nhưng Cêsarê cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc hay tham vọng quyền bính và lợi danh dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người... nhưng xin đừng lên án vội, vì Cêsarê có thể là kẻ khác mà cũng có thể là chính mỗi người chúng ta. Cho nên trong cái phức tạp của đời sống, trong sự giằng co thường nhật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta nên nhận thức rõ vấn đề chọn lựa và chu toàn trách nhiệm.
Trước một câu hỏi chỉ nêu lên vấn đề pháp lý trần thế, Chúa đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Vậy thì lúc mà chúng ta chu toàn công việc hằng ngày là lúc mà chúng ta đang trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê, và đến lúc tham dự Thánh Lễ, khi bánh và rượu mà Chúa ban cho chúng ta được dâng lên trước bàn thờ, thì lúc đó chúng ta đang dâng lên Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài.
Paul-Maurice Lâm Thái Sơn
----------------------------------
Người truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng: TN 29-A26
Người truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng nhất định phải là người có sự sống của Chúa trong mình.
Tôi vẫn nghĩ như vậy. Và tôi có kinh nghiệm như thế.
Người ta không nhìn thấy Chúa trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào sự hiện diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ. Một trong những dấu chỉ dễ thấy nhưng lại chắc chắn, đó là sự khiêm nhường. Trước khi khiêm nhường được nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức tính nhân bản. Ngay trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn hoá Việt Nam vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm nhường, coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người. Trong xử thế, khiêm nhường là chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta.
Trái lại, kiêu căng dễ gây nên ác cảm. Khi ác cảm đã chớm nở, thì lý luận dù đanh thép đến đâu, chứng từ dù rõ ràng đến mấy, người ta cũng không muốn đón nhận ta và những gì ta trình bày, kể cả khi ta trình bày Tin Mừng cứu độ. Cái kiêu căng dễ xúc phạm đến người khác nhất, chính là sự tự đắc cho mình là đúng, là đẹp, là đáng kính trọng; còn người khác thì bị coi là sai, là xấu, là phải loại trừ. Nhất là trong việc phê phán tôn giáo, tín ngưỡng và những lựa chọn liên quan. Người tự tôn, hay khinh miệt người khác rất dễ rơi vào những sai lầm trầm trọng và sự mù quáng thê thảm. Hơn nữa, họ có thể làm cho chính mình lâm vào tình trạng điên rồ.Để rồi, sẽ làm sụp đổ mọi sự nghiệp đạo đức của mình chỉ trong giây phút. Thảm thương nhất là kẻ kiêu căng cứng lòng sẽ vô tình mở rộng cửa lòng mình, rước quỷ Satan là thần kiêu ngạo vào ngự trị trong đó, để rồi lập liên minh với các hình thức kiêu căng khác, chống lại Nước Thiên Chúa.
Đọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta phải hết sức tránh mọi hình thức kiêu căng như:Đừng thích tìm địa vị cao trước công chúng, như trong đám tiệc (Lc 14,7).Đừng giả hình đạo đức bằng cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì dơ bẩn (Mt 23,5-25).Đừng căn cứ vào mấy việc đạo đức của mình, để khinh chê người khác (Lc 18,9-14).Đang khi đó, Kinh Thánh rất khen người khiêm nhường.Đến mức Chúa Giêsu coi họ là những người được Chúa Cha mạc khải cho biết nhiều điều cao siêu, mà Người không cho những người khôn ngoan và thông thái biết (Lc 10,21). Chính bản thân Chúa Giêsu cũng rất khiêm nhường. Ngài nói: "Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng" (Mt 11,29). Hơn nữa, suốt cuộc đời, từ khi sinh ra trong hang đá cho đến lúc chết trên thánh giá, Chúa Giêsu luôn làm chứngĐấng cứu thế không phải là một quyền lực, nhưng là tình yêu xót thương phục vụ khiêm nhường. Do đó, sự khiêm nhường của người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính nhân bản, mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ từ sự khiêm nhường củaĐức Kitô.Đức Kitô truyền sang cho họ sự khiêm tốn của Người, để nhờ đó, họ sẽ luôn nhận được thêm chân lý và sự sống cứu độ của Người.
Chính ở điểm này, mà đến lượt mình, chính người truyền giáo cũng là người cần được Chúa Giêsu thường xuyên truyền giáo cho. Và đây chính là một kinh nghiệm quí báu họ có được về người được truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy người được truyền giáo rất cần có lòng khiêm tốn. Thuở xưa, các thầy thượng tế, các kỳ lão, các kinh sư, các biệt phái đã nghe tận tai chính Chúa Giêsu giảng, đã xem tận mắt những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng không mấy người trong họ đã tin. Hơn nữa, càng nghe thấy và càng nhìn thấy Chúa Giêsu, họ càng đâm ghét. Sau cùng họ đã giết Người.
Sở dĩ Tin Mừng đã không vào lòng họ được, chính là vì sự kiêu căng tự đắc đã khoá chặt lòng họ. Thời nay cũng thế. Những người đơn sơ, khiêm tốn dễ đón nhận được những cái mới mẻ của Tin Mừng hơn những người tự phụ kiêu căng.
Vì thế, tôi nghĩ rằng: Người truyền giáo cần phải khiêm nhường. Người được truyền giáo cũng cần khiêm nhường.Để có đức khiêm nhường, chúng ta không thể coi thường việc tập luyện mình về nhiều mặt. Một người không được uốn nắn tập luyện kỹ lưỡng về đức khiêm nhường sẽ dễ trở nên hư hỏng: Hư hỏng do những thất bại và do cả những thành công, do những thực tế cuộc đời và cả do những ước mơ và ảo tưởng của mình, nhất là do sự cố chấp tôn thờ cái tôi và làm nô lệ cho ý riêng mình. Không những chúng ta cần tập luyện để nên khiêm nhường, mà cũng cần cầu nguyện khẩn xin Chúa ban ơn khiêm nhường.
Ơn khiêm nhường, mà Chúa ban cho kẻ cậy trông nài van Chúa, sẽ đặt ta dưới cái nhìn thánh thiện của Chúa. Nhờ đó ta sẽ nhận ra Chúa nơi người khác và ta là kẻ tội lỗi, bất xứng, mọi sự Chúa ban cho ta đều do tình xót thương nhưng không của Chúa. Càng được ơn khiêm nhường, ta càng hiểu thấm thiá lời thánh Giacôbê: "Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (Gc 4,6). Và chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ thói quen tìm đắc thắng, phô trương, trịch thượng, bất bao dung trong truyền giáo không những đang trở nên quá lỗi thời, mà còn gây nhiều thiệt hại cho Hội Thánh. Bởi vì đó là những điều rất trái nghịch với thánh ý Chúa. Một điều lợi nữa, mà ơn khiêm nhường hôm nay sẽ đem lại cho ta, đó là nó giúp ta biết kiểm điểm lại bổn phận đón nhận Tin Mừng và bổn phận loan báo Tin Mừng. Ai trong chúng ta cũng có hai bổn phận đó.
Trong hoàn cảnh cụ thể ta đang sống, Chúa vẫn gửi cho ta vô số Tin Mừng mới mẻ. Ta đã đón nhận thế nào? Trong địa vị cụ thể của ta và với những phương tiện cụ thể của ta, ai trong chúng ta cũng vẫn có thể góp phần không nhỏ vào việc loan báo phần không nhỏ vào việc loan báo Tin Mừng, hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách khác. Ta đã thực hiện bổn phận đó thế nào?
Nếu khiêm tốn biết mình, khiêm tốn ăn năn, khiêm tốn sửa mình về bổn phận truyền giáo, chúng ta sẽ có một lương tâm truyền giáo đổi mới.Để từ nay, ta biết nhận lãnh, biết sinh lời và biết chia sẻ Tin Mừng cho những người gần xa, mà ta có thể gặp. Nếu ta ý thức được như vậy và cố gắng làm như vậy, thì đời ta sẽ mang ý nghĩa cao đẹp, đi theo đúng hướng về với Cha trên trời.
----------------------------------
Suốt tuần qua, tôi đi nhiều nơi trong giáo phận, để tham dự cuộc tĩnh tâm hàng tháng dành: TN 29-A27
Suốt tuần qua, tôi đi nhiều nơi trong giáo phận, để tham dự cuộc tĩnh tâm hàng tháng dành cho các linh mục tu sĩ. Ở đâu, tôi cũng được nghe tâm sự về truyền giáo. Tới đâu, tôi cũng được thấy những công trình truyền giáo. Những gặp gỡ này cho tôi cảm tưởng là tôi đang ở trong bầu khí truyền giáo, trong luồng gió truyền giáo, trong dòng nước truyền giáo.
Tôi thao thức hỏi mình: Trong tình hình đang có nhiều chuyển biến này, việc truyền giáo nên cứ như cũ, hay nên thêm bớt? Ý Chúa là thế nào? Tôi suy nghĩ và tìm tòi.
Trưa thứ sáu, ngày 05 tháng 10 vừa qua, tôi kết thúc chuyến đi. Vừa tới nhà, tôi lợi dụng chút thời giờ rảnh, để theo dõi tin tức thời sự và tìm thư giãn. Mở một đài truyền hình địa phương, tôi thấy đài đang chiếu một cảnh sa mạc Bắc Phi, một vùng Hồi giáo. Người thuyết minh giải thích đó là nơi Charles de Foucauld đã từng sống. Nghe vậy, tôi ngỡ ngàng, tưởng mình nghe lầm. Một lát sau, tôi thấy chiếu ảnh cha Charles de Foucauld. Y phục cha mặc là y phục kẻ nghèo. Nhà cha ở là căn nhà nghèo. Dân chúng xung quanh cha là những người nghèo. Ảnh đó không xa lạ gì đối với tôi. Bởi vì đã từ lâu, tôi có hàng trăm ảnh đó trong phòng.Đúng là đài truyền hình đã chiếu một mảnh đời cha Charles de Foucauld.Đối với tôi, đây là một cách chia sẻ Chúa dành cho tôi, đang lúc tôi băn khoăn về truyền giáo. Tôi nghĩ: Tình hình càng phức tạp, càng nên đẩy xa hơn việc truyền giáo.
Để đẩy xa hơn việc truyền giáo, tôi nhìn cha Charles và tôi thấy gương sáng của cha gợi ý cho tôi hiểu: Cần phát triển thêm một yếu tố. Yếu tố đó là lửa yêu mến trong lòng mình.
Khi lửa yêu mến Chúa cháy rực trong lòng ta, ta sẽ chỉ mong muốn sống theo thánh ý Chúa, như lời kinh sau đây của cha Charles: "Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha, nên con thấy cần phải hiến thân con trọn vẹn trong tay Cha... Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha... Con sẵn sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn là ý Cha được trọn vẹn trong con, trong tất cả mọi loài Cha tạo dựng". (trích kinh cha Charles đọc thường ngày).
Nhưng làm thế nào để thắp lên được ngọn lửa mến Chúa trong lòng ta, để rồi ta dám hiến thân trọn vẹn cho Chúa và thực sự sẵn sàng làm bất cứ sự gì Chúa muốn ta làm?
Thưa: Mỗi người có thể nhận được lửa mến Chúa một cách riêng biệt. Phần tôi, tôi xin phép giãi bày: Tôi nhận được lửa mến Chúa qua nhiều con đường khác nhau, nhưng nhất là con đường đơn sơ này, đó là năng cầu nguyện vớiĐức Mẹ bằng kinh "Thánh MariaĐức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội".
Tôi càng cầu nguyện với ý thức mình tội lỗi, thìĐức Mẹ càng cầu bầu cho tôi được thêm ơn trở về gắn bó với Chúa. Từ đó, tôi có cảm nghiệm càng ngày càng sâu hơn về tình Chúa xót thương dành cho những kẻ yếu đuối, lầm lạc, tội lỗi. Chính qua con đường này mà lửa yêu mến được thắp lên, một đàng là kính mến Chúa, một đàng là yêu thương những người khốn khổ.
Như vậy, người thắp lên lửa mến trong tôi là chínhĐức Mẹ. Mẹ đốt lửa, khi lòng tôi cầu nguyện. Cầu nguyện với tâm tình nghèo khó, từ bỏ ý riêng. Từ đó, Mẹ đưa tôi trở về con đường sống theo ý Chúa Cha. Ý Chúa Cha, mà tôi thấy rất rõ hiện nay là muốn chúng ta làm chứng cho Ngài bằng cách bắt chướcĐức Kitô, nhất là ở điểm này: Hội nhập vào thân phận những kẻ nghèo. Thực vậy,Đức Kitô đã sống nghèo, giữa dân nghèo. Ngài sống gần gũi họ, để phục vụ yêu thương họ, chia sẻ hy vọng với họ, khám phá ra nơi họ những tiềm năng cứu độ.
Hôm nay, lớp dân nghèo nhiều nơi trên thế giới vẫn còn bị ba nguy cơ đe doạ: Bị khai thác, bị loại trừ, bị huỷ diệt.Đang khi đó, tội ác lại thường không ở phía họ, mà ở phía những quyền lực tăm tối. Một thí dụ: Mỗi ngày có từng trăm thai nhi bị giết.Đó là những cuộc khủng bố xảy ra ở nhiều nước văn minh giàu có. Trước tình hình này, Chúa Cha sai chúng ta đi. Nhiều người đã nhận ra được tiếng Chúa sai đi. Họ đã ra đi. Họ đã gặp đượcĐức Kitô đang đau khổ cùng với đám dân nghèo khổ, bất kể là công giáo hay ngoài công giáo. Với những phương tiện nghèo, họ đã cùng với Chúa dần dần đem Tin Mừng vào lòng những người nghèo.Để rồi, những người nghèo sẽ đóng một vai trò đáng kể trong việc làm mới lại bộ mặt địa cầu. Ngay bây giờ, bao người nghèo đang dạy chúng ta nhiều bài học đạo đức quí báu.
Đến lượt những người nghèo này, họ lại ra đi, mang theo lửa thiêng của Chúa. Nhưng lửa đó cần được thêm nhiều hơn nữa, cả nơi họ, cả nơi chúng ta. Thêm lửa mến Chúa. Thêm lửa xót thương kẻ nghèo. Thêm lửa thiêng này không phải do thêm tư tưởng tự tôn và hoạt động ồn ào. Nhưng thêm một cách âm thầm, bằng cầu nguyện chiêm niệm từ Lời Chúa, phép Thánh Thể,Đức Mẹ dưới chân thập giá, và từ cuộc sống quên mình, trong bình an vui vẻ, phó thác.
Lửa mến nồng nàn này sẽ đổi mới con người đến tận những cõi thẳm sâu của chính mình.Để rồi, truyền giáo sẽ không chỉ là đưa ra các giáo lý, nhưng sẽ còn là giới thiệu những chứng từ sống động nơi những người được Lửa thiêng đổi mới. Thiết tưởng tất cả những điều trên đây có thể gợi ý cho việc tân Phúc Âm hoá.Đây sẽ là những vẻ đẹp thiêng liêng rất thích hợp, để đáp ứng nhu cầu truyền giáo trong giai đoạn lịch sử đang hình thành với nhiều nét mới mẻ.
----------------------------------
+ GB. Bùi Tuần
LỬA TRUYỀN GIÁO
(Bài giảng thánh lễ Truyền Dầu ngày 28 tháng 3 năm 2002)
Một trong những niềm vui lớn của tôi, khi nhìn giáo phận nhà, là thấy số linh mục tương đối: TN 29-A28
Một trong những niềm vui lớn của tôi, khi nhìn giáo phận nhà, là thấy số linh mục tương đối đông, đa số còn trẻ, tất cả đều hợp nhất. Nói chung, tất cả các linh mục của chúng ta đều có thiện chí làm tốt bổn phận của mình. Hiện nay, bổn phận linh mục tại Việt Nam nói chúng và tại địa phương chúng ta nói riêng không phải dễ dàng. Ngoài những bổn phận thông thường vốn đi liền với chức linh mục, thì còn một số bổn phận mới.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những giá trị truyền thống với những đổi mới có giá trị.Để sống đạo được nhìn nhận như một mời gọi hấp dẫn, thăng tiến, chứ không phải như một lối sống khép kín, lỗi thời.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những kiến thức tôn giáo với những kinh nghiệm nội tâm.Để sống đạo được nhìn nhận như một chiều kích thiêng liêng đi sâu vào con người, chứ không phải chỉ là một lý thuyết suông.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp giáo lý với thực tế cuộc sống.Để sống đạo được coi như ánh sáng của đương thời, chứ không phải như bóng mờ của một cõi xa xôi, lạnh lùng, huyền ảo.
Nhất là bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp mục vụ và truyền giáo.Để linh mục là người ra khơi thả lưới, chứ không phải chỉ là người chủ chăn.
Riêng về bổn phận trên đây, tôi muốn chúng ta cùng nhau dừng lại, để suy nghĩ thêm. Bởi vì truyền giáo là một trách nhiệm quan trọng, một tiếng gọi bức xúc. Nếu coi thường bổn phận này, tôi sợ chúng ta sẽ phạm một lỗi lầm lớn, đạo sẽ cằn cỗi, bản thân ta sẽ chìm sâu xuống thung lũng vô hình cực kỳ nguy hiểm.
Suy nghĩ truyền giáo của chúng ta sẽ được gợi ý bằng mấy việc truyền giáo của Chúa Giêsu, để từ đó chúng ta sẽ thấy việc truyền giáo có thể thực hiện được trong hoàn cảnh mục vụ hiện nay.
Tôi xin nêu lên ba trường hợp của Chúa Giêsu.
Trường hợp thứ nhất là cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria (Ga 4,7-42). Bà này là người ngoại giáo. Do đời sống gia đình lôi thôi, bà sống giữa xã hội như kẻ bị loại trừ. Bà không chủ ý đi gặp Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đã như vô tình gặp bà. Bắt đầu là một đối thoại vắn về đời sống, về khổ đau, rồi sau đó Chúa làm một cử chỉ cứu độ. Chúa giúp bà vượt qua ranh giới mặc cảm tội lỗi. Bà tin vào Chúa. Hơn nữa, bà trở thành người đứng đầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa dân ngoại.
Trường hợp thứ hai là cuộc gặp gỡ với vị sĩ quan thành Caphanaum (Ga 4,46-54). Ông là người Rôma ngoại giáo. Ông thuộc lớp người có chức có quyền. Ông xin Chúa chữa con ông đang hấp hối. Cũng sau một đối thoại về khổ đau, Chúa đã làm một cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp ông vượt qua được biên giới phân biệt giai cấp, tôn giáo và dân tộc. Ông tin vào Chúa. Hơn nữa, ông trở thành người đứng dầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa giai cấp chức quyền.
Trường hợp thứ ba là cuộc gặp gỡ với người bại liệt (Ga 5,1-18). Anh này sống chung với một đám người tật bệnh nghèo khổ.Đã 38 năm anh nằm một chỗ cô đơn, lầm lũi trên bờ hồ Bết-da-tha. Anh là kẻ bị xã hội loại trừ. Chính Chúa đã chủ động đến gặp anh. Cũng bắt đầu bằng một đối thoại về khổ đau, sau đó là cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp anh vượt qua biên giới cùng khổ. Anh tin vào Chúa. Hơn nữa, anh trở thành người đứng đầu một nhóm nhỏ loan báo Tin Mừng ngay giữa những người phản đối Chúa.
Ba trường hợp trên đây gồm một người ngoại đạo trong cảnh bê bối, một người quyền chức trong cảnh khó khăn, một người tật bệnh trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng. Chúa đã gặp họ, đã nói chuyện với họ về các vấn đề thuộc về cuộc sống, rồi đã làm cho họ một việc cứu độ.
Tôi thấy các loại người như thế hiện nay vẫn còn rất nhiều trong xã hội chúng ta. Nhiều người công giáo đã gặp họ. Cũng đã có những chuyện trò về cuộc sống, về khổ đau, rồi trong lúc thuận tiện đã có những cử chỉ cứu độ. Kết quả rất bất ngờ: Nhiều người trước đây xa lạ nay nhận được Tin Mừng. Sau đó, chính họ gây dựng nhiều nhóm nhỏ để bàn về Tin Mừng và loan báo Tin Mừng. Có nhóm trong khuôn khổ giáo xứ. Có nhóm ngoài cơ chế giáo phận.
Tất cả những gì tôi vừa nêu trên đều làm chứng rằng: Trong mục vụ có vô số cơ hội để truyền giáo. Hơn nữa, trong sống đạo cũng có vô số dịp để làm việc truyền giáo. Linh mục làm, tu sĩ làm, giáo dân cũng làm. Thậm chí người ngoại giáo cũng làm. Làm qua những nẻo đường cuộc sống. Làm qua những vấn đề bức xúc của con người. Nếu không làm thì thiết tưởng không phải không có dịp để làm, nhưng là không có nhiệt tâm và tỉnh thức.
Như thế, điều quan trọng trong truyền giáo là người truyền giáo phải có hồn truyền giáo. Hồn đầy lửa mến Chúa. Hồn đầy lửa thương người.
Lửa đó là lửa từ trái tim Chúa chia sẻ ra. Lửa đó được chia sẻ cho những hồn khiêm tốn, từ bỏ mình, thiện chí muốn gieo trồng sự thiện.
Lửa đó là lửa thanh luyện, lửa cầu nguyện, lửa canh thức, lửa thương cảm, lửa cháy trong thánh giá.
Nhờ lửa như thế, người truyền giáo mới gần gũi được với con người, mới thương cảm được với thân phận từng người, mới hiểu được các vấn đề luôn mới trong dòng lịch sử đầy chuyển biến của xã hội và con người. Nhờ vậy, mà họ là người đáng tin.Đồng bào Việt Nam thời nay không còn dễ tin vào những người nói mạnh nói khéo. Nhưng họ tin vào những người có cái tâm yêu thương, chân thành, khiêm tốn, vừa sâu về đời sống thiêng liêng, vừa cởi mở thông cảm về phía con người.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin anh chị em cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được trở thành một Hội Thánh truyền giáo. Xin hãy cầu nguyện cách riêng cho các linh mục của chúng ta, để mọi linh mục và từng linh mục, bất cứ trong chức vụ nào, ở tuổi nào, với hoàn cảnh nào, luôn coi bổn phận truyền giáo là một trách nhiệm mà Chúa đòi phải chu toàn. Chu toàn một cách khôn ngoan theo ý Chúa. Mình có trách nhiệm thì cố gắng chu toàn. Còn kết quả ra sao thì hãy để mặc Chúa. Chúng ta cần nâng đỡ các linh mục của chúng ta trong bổn phận truyền giáo. Bởi vì công việc truyền giáo thường được bắt đầu từ các ngài và được phát triển cũng nhờ các ngài.
Chớ chi thời nay truyền giáo trở thành một đặc điểm sáng chói của mọi linh mục tại Việt Nam chúng ta.
+Đức Giám Mục G.B. Bùi Tuần
----------------------------------
Lm Phanxicô M. Trần Hưng Long,
Mt 22, 15-21
Câu hỏi “có nên nộp thuế cho Caesar hay không?” là một câu hỏi hóc búa dồn Chúa Giêsu: TN 29-A29
Câu hỏi “có nên nộp thuế cho Caesar hay không?” là một câu hỏi hóc búa dồn Chúa Giêsu vào con đường cùng. Nếu Ngài trả lời là nên, thì sẽ bị mang tội phản bội dân tộc đất nước của Ngài. Nếu Ngài trả lời ngược lại, không nên thì sẽ bị mang tội phản loạn chống đối chính quyền Rôma và sẽ bị tống ngục. Cả hai câu hỏi đều đưa Ngài vào chỗ chết. Tuy nhiên Ngài đã thoát khỏi cạm bẫy bằng câu trả lời rất khôn khéo: “Những gì của Caesar thì trả cho Caesar, những gì của Chúa thì trả cho Chúa.”
Dựa vào câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy những đòi hỏi của Chúa và của quốc gia không nhất thiết đối nghịch nhau.
Là những Kitô hữu, chúng ta có thể vừa là phần tử của nước Thiên Chúa vừa là công dân của đất nước chúng ta đang sống. Chúng ta có bổn phận đối với Chúa, với tổ quốc, xã hội, và phải trung thành với cả hai.
Đối với xã hội, chúng ta được hưởng rất nhiều quyền lợi. Chúng ta được luật lệ bảo vệ để được sống an toàn bình an. Chúng ta được hưởng dùng những tiện nghi công cộng như phương tiện di chuyển, điện, nước. Chúng ta được chính phủ trợ giúp việc học vấn, thuốc thang, tiền thất nghiệp,v...v...
Tất cả những đặc ân đó đòi chúng ta có bổn phận đối với chính quyền. Chính quyền chính đáng đòi chúng ta phải tôn trọng quyền lợi, luật lệ, và tùng phục những người lãnh đạo.
Những người có trách nhiệm lãnh đạo xã hội đóng một vai trò rất quan trọng trong việc kiến tạo một xã hội công bình bác ái, và thăng tiến đời sống nhân loại. Vì vậy khi họ có lòng thương đối với người nghèo khó, bệnh tật, tàn tật, khi họ quan tâm tìm những phương thế không phải bạo động để giải quyết những khó khăn giữa quốc gia, các nhóm, hay cá nhân, khi họ mở rộng đôi tay đón nhận những người lầm lạc, khi họ cố gắng bảo vệ mạng sống của những thai nhi theo tinh thần Phúc Âm, thì đòi chúng ta phải trung thành phục tùng.Đó là những lúc chúng ta trả lại cho Chúa những gì là của Chúa.
Ngoài ra, là những Kitô hữu, là những công dân của Nước Trời, chúng ta còn có bổn phận đối với Chúa. Chúng ta được tuyển chọn để trở thành những đôi chân đôi tay cứu rỗi của Chúa, được mời gọi để đem tin mừng đi khắp nơi bằng nhiều cách, tới nhiều thành phần. Chúng ta có trách nhiệm đem tin mừng của Chúa vào mọi biến cố và chi tiết của cuộc sống chúng ta và của những người chung quanh. Những giây phút thinh lặng, tĩnh tâm, cầu nguyện ở nhà thờ, ở gia đình, cũng như những mối liên hệ với đồng loại trong sở làm, trong cửa tiệm, văn phòng, nơi nông trại, trên xe, trên thuyền, trên máy bay đều là những nơi quan trọng và cần thiết giúp chúng ta tìm gặp Chúa.
Bình thường bổn phận đối với Chúa và xã hội đi đôi với nhau. Tuy nhiên trong xã hội tân tiến ngày nay, chúng ta phải đương đầu với nhiều khó khăn thử thách, phải va chạm với chính quyền hay luật lệ không hợp tinh thần Kitô giáo, những lúc đó chúng ta cần phải đặt luật của Chúa và trung thành với luật Chúa trên hết.
Chúng ta có cả một đời để trả cho Chúa những gì là của Chúa. Chớ gì chúng ta hãy luôn luôn đặt trách nhiệm và bổn phận đối với Chúa lên trên hết; đồng thời hãy cố gắng chu toàn bổn phận trách nhiệm đối với gia đình, với xã hội, và cộng tác với những anh chị em đồng loại để làm cho đất nước xã hội trở nên tốt đẹp hơn cho mọi phần tử.Được như vậy, phần thưởng bình an hạnh phúc ở đây và muôn đời trên Nước Trời sẽ thuộc về chúng ta.
Lm Phanxicô M. Trần Hưng Long, CMC
----------------------------------
Vincent Trần Văn Luận
Mt 22, 15-21
Chúng ta nhớ lại vụ em bé Jessica McLure rơi xuống giếng ở Midland, Tiểu bang Texas: TN 29-A30
Chúng ta nhớ lại vụ em bé Jessica McLure rơi xuống giếng ở Midland, Tiểu bang Texas. Những giàn khoan dầu với những lưỡi khoan đặc biệt được đưa tới, các nhà chuyên môn về cứu cấp những người bị tai nạn được triệu tập. Hầu như cả thế giới hướng về em bé này, nhiều người gửi tiền và tặng vật, người khác thì cầu nguyện. Hàng triệu người cố gắng những gì có thể làm được để góp phần vào việc cứu một em bé.Đó là những nghĩa cử cao đẹp, biểu lộ tình thương yêu kẻ khác.
Nếu tất cả mọi người Công Giáo trên thế giới đều biết thực hiện sự yêu thương mà Chúa đã dạy trong cuộc sống hằng ngày, thì chúng ta xoa dịu được biết bao những đau khổ, bất công trong xã hội này. Những người đang sống trong tội thì có khác nào em bé Jessica nằm dưới đáy giếng tối tăm, em được cả hằng ngày người tới cứu, còn những người đang sống trong tội có ai cầu nguyện cho họ không?
Cái gì của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa. Lời của Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa muốn dạy ta điều gì?
Sống cho Chúa: Chúng ta được Chúa tạo dựng nên, có nghĩa là chúng ta thuộc về Chúa. Vì yêu chúng ta mà Chúa tạo dựng nên chúng ta. Vậy đạo Chúa là đạo yêu, chúng ta thuộc về đạo yêu, và chúng ta sống là sống cho tình yêu: yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân. Không có gì đền đáp lại tình yêu của Thiên Chúa cho bằng yêu Chúa hết lòng, hết sức mình. Hãy trả lại Thiên Chúa bằng chính tình yêu của Ngài đã ban cho ta. Hãy yêu Chúa và yêu thương những gì Chúa yêu, hãy ghét bỏ những gì Chúa ghét bỏ, đó mới là sống cho Chúa.
Rao giảng nước Chúa: Chúa muốn tất cả chúng ta đều quy về một mối, hay nói rõ hơn Chúa muốn chúng ta hết thảy thuộc về Chúa. Hơn hai phần ba dân số trên thế giới chưa nhận biết Chúa hoặc không muốn nhận biết Chúa. Chúng ta đã trả lại cho Chúa được gì khi Chúa kêu gọi chúng ta làm TôngĐồ, khi Chúa truyền dạy cho chúng ta nhiệm vụ rao giảng Nước Chúa. “Hãy đi rao giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 25,20).
Không ai có thể tự mình sống biệt lập mà không cần đến người khác. Như thế, việc sống chung trong cộng đồng xã hội chính là cơ hội để mỗi người chúng ta làm việc tông đồ, đưa Chúa đến với người khác bằng chính cách cư xử, tiếp xúc hằng ngày, mỗi hành động, lời nói đều quy thuộc về Chúa như lời thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi.” (1 Cor 15,10).
Lạy Chúa, Chúa ban cho con rất nhiều, nhưng con đã làm được gì để trả lại cho Chúa đâu. Chúa đã hiến thân để cứu chuộc con, vậy mà con còn cứ dửng dưng, chạy theo những cám dỗ của thế gian, con đã lệ thuộc vào thế gian. Con quên đi những nhiệm vụ con phải làm. Xin Chúa giúp con, để từ nay con chỉ biết sống cho chúa, và làm chứng nhân cho Chúa. Xin giúp con biết khinh chê của thế gian, để ngày sau thân xác và linh hồn con được trả về cho Chúa.
Vincent Trần Văn Luận
-------------------------------
A. Gợi ý Cảm nghiệm, Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
Bài Tin Mừng hôm nayĐức Giêsu biết những người Pharisiêu có ác ý, nên Người nói: TN 29-A31
1/ Bài Tin Mừng hôm nayĐức Giêsu biết những người Pharisiêu có ác ý, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình!" Thiên Chúa đã ban cho tôi thân xác, tâm hồn, ...và tôi đãhọc biết về Ngài nhiều. Tôi đã nhận ra tình yêu của Ngài chưa? Tôi có giống người Pharisiêu không ? Tại sao? Jesus recognized their bad faith and said to them: "Why are you trying to trip me up, you hypocrites? " (Math.22, 18 )
2/ Sau khi hỏi bọn Pharisiêụ,Đức Giêsu bảo họ; "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." Quyền Thiên Chúa là trên hết và bao gồm mọi quyền của con người qua mọi dân tộc và mọi thời đại để họ phục vụ cho nhau vì Chúa. Bạn làm gì cho quyền lợi chính đáng của xã hội và dân tộc? At that He said to them: "Then give to Caesar what is Caesr's, but give to God what is God'". (Math.22, 21 )
3/ Tiên tri Isaia viết Lời Chúa như sau: "...Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiêu, dù ngươi không biết Ta." Chúa đã dùng vua Kyrô là khí cụ của Thiên Chúa, Ngài cần mọi người như khí cụ bình an của Ngài trong gia đình, và xã hội này. Tôi đang thực hiện những ước muốn nào của Chúa? ...I have called you by your name, giving you a title, though you knew me not. ( Isaia 45, 4 )
4/ Thánh Phaolô khiêm tốn nói: "Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà có quyền năng, có Thánh Thần."Đúng vậy, nhờ quyền năng và Thần Khí Chúa đã thúc đẩy nhiều người phục vụ Chúa rất âm thầm và vô vị lợi. Bạn đã làm gì mỗi khi phục vụ người nghèo? Our preaching of the Gospel proved not a mere matter of words.. but one of power...in the Holy Spirit. (1 Thess.1, 1- 5 )
B. Câu Kinh Thánh tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: ( The Best God's Word )
CỦA XÊ-DA TRẢ VỀ CHO XÊ-DA, CỦA THIÊN CHÚA TRẢ VỀ THIÊN CHÚA . (Math. 22, 21) Return to Caesar what is Caesar's, and to God what is God's.
C. Ngay tuần này tôi làm gì để đưa Lời Chúa vào đời sống: ( So what am I doing / For Action ) a/ Tôi chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng hàng ngày. b/ Bạn tỏ ra kiên nhẫn, chịu đựng để trông đợi Chúa đến, trong một việc thật khó khăn đang gặp phải.
D. Tôi cầu nguyện không ngừng và thực hành lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
1-Lạy Cha, ngoài Cha ra không còn Thiên Chúa nào khác, dù con không biết Cha, nhưng Cha đã trang bị cho con đầy đủ. Xin Cha dạy cho con luôn Sống đem bình an cho mọi người trong gia đình và xã hội. 2- Thánh Phaolô đã khuyên dạy: Khi tôi loan báo Tin Mừng cho anh em không phải chỉ là lời tôi nói mà nhờ quyền năng và Chúa Thánh Thần. Xin giúp con luôn khiêm tốn và trông cậy vào ơn Chúa khi phục vụ.
Lời hay ý đẹp: LƯƠNG TÂM TRONG SÁNG LÀ CHIẾC GỐI ÊM ÁI A clear conscience is a soft Pillow HuyềnĐồng
----------------------------------
Br. John Quốc Toản, CMC
Mt 22,15-21
Thông thường phe Biệt phái và Hêrôđê có chiều hướng ngược hẳn nhau. Bọn Biệt: TN 29-A32
Thông thường phe Biệt phái và Hêrôđê có chiều hướng ngược hẳn nhau. Bọn Biệt phái luôn phải đối việc nộp thuế cho một vị vua ngoại bang vì họ tin chỉ có Thiên Chúa là vua duy nhất. Phái Hêrôđê, ngược lại, là những người trung thành ủng hộ cho quyền thu thuế của đế quốc Rôma trên dân Do thái. Nhưng vì cả hai nhóm đã bị Chúa dùng nhiều dụ ngôn để phơi bày những việc xấu của họ nên rất căm phẫn với Chúa Giêsu. Trong bài Tin mừng hôm nay, họ đã gạt bỏ sự khác biệt qua một bên và hợp tác để gài bẫy Chúa.
"Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" (Mt 22,17). Câu hỏi này xem ra rất đơn giản. Chỉ cần trả lời có hoặc không là xong. Nhưng thực tế không phải đơn giản như ta nghĩ. Một khi hai phe với đường hướng khác nhau đã chịu ngồi lại để nêu lên một câu hỏi thì dĩ nhiên là không đơn giản như ta tưởng. Nếu đi sâu vào vấn đề, ta sẽ thấy câu hỏi này thật là một con dao hai lưỡi bởi vì Chúa trả lời cách nào cũng bị rơi vào bẫy của chúng.
Nếu Chúa trả lời "có" thì bọn Biệt phái sẽ cho Ngài là kẻ phản bội dân Do thái.Đàng khác, nếu Chúa trả lời "không" thì bọn Hêrôđê sẽ cho Ngài là kẻ nổi loạn và nộp Ngài cho quân Rôma. Nhưng Chúa Giêsu, Thầy khôn ngoan, biết được mưu của chúng nên đã lợi dụng thời cơ để nhắc nhở cho họ cũng như chúng ta biết rằng: chúng ta không chỉ có bổn phận với chính quyền trần thế nhưng còn phải làm trọn bổn phận đối với Thiên Chúa.
Điều ngạc nhiên trong câu trả lời của Chúa không phải ở câu "cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê", nhưng là ở lời "và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa" (Mt 22,21) Ý Chúa muốn nhắc nhở bọn Biệt phái cũng như chúng ta thi hành bổn phận đối với Chúa. Chúa biết chắc là phường Biệt phái sẽ nộp thuế cho chính quyền Rôma vì nếu không, quân Rôma sẽ có cách ép buộc ai làm một việc gì. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ ép buộc ai làm một việc gì. Ngài chỉ đón nhận những công việc do lòng muốn chân thành. Vì thế Ngài chỉ nhắc nhở, "và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa". (Mt 22,21)
Sống trên nước Mỹ tự do, chúng ta được hưởng rất nhiều lợi tức. Nhưng để được hưởng những lợi tức chúng ta phải làm trọn bổn phận của một công dân. Một trong những bổn phận đó là việc nộp thuế. Hằng năm mọi người đều cố gắng làm xong tờ quan thuế (income tax) vào trước ngày 15 tháng 04.Đúng thế, bổn phận này không cần ai phải nhắc. Tự nhiên ai cũng lo làm trọn trách nhiệm, nếu không thì chính quyền sẽ có cách...Đây chỉ là bổn phận của một công dân trần thế. Còn đâu là bổn phận của một công dân Nước Trời? Nếu tiếp tục đọc Phúc Âm Matthêu 22,34-34, Tin mừng cho Chúa nhật tuần tới, ta sẽ biết được đâu là bổn phận của một công dân Nước Trời, đó chính là giới răn MẾN CHÚA - YÊU NGƯỜI: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi... và... Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình người" (Mt 22,37-39). Như đã nói, Thiên Chúa không bao giờ ép buộc ai làm một việc gì. Ngài chỉ muốn mọi người làm vì tự nguyện. Trên hết, Ngài ước ao mọi người làm mọi việc vì lòng yêu chân thật và xả kỷ như chính Ngài đã làm cho chúng ta. Nói cách khác, việc giữ giới răn Mến Chúa - Yêu Người phải phát xuất từ đáy con tim của mỗi người.
Là một Kitô hữu chúng ta có hai quyền công dân đi đôi với nhau. Chúng ta là công dân của hai thế giới, trần thế và thiên quốc. Trong khi thi hành bổn phận của một công dân trần thế, chúng ta nên nhớ mình còn có một bổn phận quan trọng hơn đối với Nước Trời. Lời Chúa hôm nay nêu lên cho chúng ta một câu hỏi trắc nghiệm: "Chúng ta đã trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa chưa?" Chúng ta đã sống xứng đáng để đón nhận những lời thánh Phaolô ca tụng tín hữu Thessalonica trong bài đọc II: "Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em.. tôi hằng nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vàoĐức Giêsu Kitô?" (1 Thes 1,2-3).Để được thế chúng ta phải sống đức tin vững vàng để người khác nhận ra chúng ta là một người Công giáo qua những cử chỉ bác ái như giúp đỡ tha nhân, thăm viếng kẻ liệt và nhất là luôn bày tỏ niềm hy vọng nơi Chúa Kitô trong những lúc cuộc sống xem ra tối tăm, đau khổ. Nói gọn lại là chúng ta phải luôn hăng hái và sẵn sàng trả lời "CÓ" khi Chúa hỏi: "Con có sẵn sàng trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa?"
Br. John Quốc Toản, CMC
----------------------------------
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Mt 22,15-21
Trong Phật giáo có một câu chuyện nổi tiếng: Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết sợ ai, luôn: TN 29-A33
Trong Phật giáo có một câu chuyện nổi tiếng:
Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Ðức Phật dạy rằng đừng bao giờ lấy ác báo ác và một ngày kia, hắn đến gặp Ðức Phật và dự tính xem Phật có sống được điều Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và gọi Ngài là tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì Ðức Phật vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Ngài mới lên tiếng: "Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho thì món qùa ấy sẽ đi về đâu"? Gã cay cú đáp: "Thằng điên nào mà chẳng biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem cho". Ðức Phật liền nói: "Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa mạ nhưng ta chẳng nhận đâu nhé". Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào nữa. Ðoạn Ðức Phật nói tiếp: "Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng giống như hắn ta khạc nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra khôntg làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại sẽ rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế kẻ nào thóa mạ một người nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt hắn mà thôi." (Trích tuyển tập chuyện hay, Giấc mộng vàng trang 167)
Câu chuyện trên là một minh họa cho cuộc tranh luận nổi tiếng giữa các Pharisiêu, Luật sĩ và Chúa Giêsu qua bài Tin mừng hôm nay.
Nhóm Biệt phái bàn mưu để làm cho Ðức Giêsu lỡ lời mắc bẩy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn Người về vấn đề nộp thuế. Nhóm Biệt phái ghét cay ghét đắng người Rôma đang đô hộ Israel, còn phe Herôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Ðức Giêsu. Một mình đối nghịch với Ðức Giêsu trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Biệt phái không làm được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hêrôđê để gài bẫy Người trong vấn đề chính trị. "Chúng tôi có được nộp thuế cho Xêda hay không?" Câu hỏi đặt Ðức Giêsu trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, bẫy gài sắc như con dao hai lưỡi. Trả lời có cũng mắc bẫy, không có cũng mắc bẫy. Nếu Ðức Giêsu bảo không thì nhóm Hêrôđê tố cáo là không trung thành với Hoàng đế. Còn nếu Người bảo có thì Người sẽ bị nhóm Pharisiêu tố cáo là không trung thành với dân tộc. Hai đàng, đàng nào cũng trọng tội. Trước gọng kềm đang siết chặt, Ðức Giêsu rất bình tĩnh, rất tự chủ, không ngạo mạn khiêu khích nhưng cũng không khúm núm sợ sệt. Người bảo họ đưa cho xem đồng tiền và hỏi: hình va ødanh hiệu này là của ai?. Khi được trả lời là "của Xêda" Ðức Giêsu liền tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Câu trả lời của Người làm cho 2 phe nhóm bẽ bàng hụt hẫng. Ðức Giêsu phân biệt đâu ra đó: của Hoàng đế hãy trả cho Hoàng đế, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Ðức Giêsu không dùng miệng lưỡi mình để kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tự tuyên án cho mình như có lời chép rằng: Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án (Mt 12, 37).
Sứ mạng của Ðức Giêsu khi đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với Thiên Chúa chứ không phải là chính trị. Chính Người đã từ chối làm vua, làm Messia đánh đông dẹp bắc theo mong đợi của người Do Thái. Câu trả lời của Ðức Giêsu làm nổi bật chân lý ấy. Với sứ mạng tôn giáo, Ðức Giêsu nhắc cho họ nghĩa vụ phải trở về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa. Những kẻ chất vấn muốn nhìn Ðức Giêsu dưới gốc độ chính trị thì Người làm cho những kẻ có lập trường chính trị phải thấy Người là con người tôn giáo.
Một cuộc đối thoại giữa thần quyền và thế quyền, giữa Thiên Chúa và Xêda. Cũng như sau này trong cuộc đối thoại với Philatô, Ðức Giêsu trịnh trọng tuyên bố: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Qua lời tuyên bố này Ðức Giêsu có vẻ như khẳng định vương quyền của mình, một vương quyền mà Philatô chưa có thể hiểu thấu.
Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời Chúa Giêsu cũng như từ muôn thưở. Ðức Giêsu không muốn được coi như vị cứu tinh chính trị theo ý của người Do thái. Người không đến để nắm lấy chính quyền, thống trị như một vị hoàng đế Xêda hay như vua Hêrôđê. Trong thực tế Người phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên nhưng Người tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Người đang rao giảng, đang thể hiện hoàn toàn khác biệt vàkhông cạnh tranh với đế quốc của Xêda, vì Nước Trời là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không có thống trị, chỉ có niềm vui, bình an và hạnh phúc miên trường.
Những gì của Xêda hãy trả cho Xêda. Xêda là hiện thân cho một đế quốc hùng mạnh và giàu có của một thời lịch sử đã qua. Xêda cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc, tham vọng quyền bính và danh lợi dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người.
Những gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Ðức Giêsu đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Ngài, những gì được khắc ghi tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St 1, 26). Toàn bộ con người mang dấu ấn Thiên Chúa và cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài. Trả vũ trụ trong lành cho Thiên Chúa cũng là trả lại cho con người món quà lớn lao mà Ngài đã trao tặng.
Mỗi người Kitô hữu luôn hãnh diện vì mang trong bản thân mình hình ảnh cao quý của Thiên Chúa và luôn sống phong cách của Ngài: quảng đại chia sẻ, yêu thương trao hiến, bao dung tha thứ, khiêm tốn phục vụ. Ðược như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn làm cho hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời mình.
--------------------------------------
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Nhìn vào thế giới hiện nay, người ta có cảm tưởng rằng con người đang tìm đủ mọi cách để thu nhỏ: TN 29-A34
Nhìn vào thế giới hiện nay, người ta có cảm tưởng rằng con người đang tìm đủ mọi cách để thu nhỏ phạm vi ảnh hưởng, thậm chí xóa bỏ sự hiện diện, của Ki-tô giáo và của chính Thiên Chúa. Người ta gây ra chiến tranh, xâm phạm quyền con người, hạn chế tự do dân chủ, cấm cản và bách hại Ki-tô giáo, bóc lột và giết hại trẻ em và phụ nữ, buôn bán ma tuý và khí giới ở khắp nơi. Người ta còn sáng chế ra những cách nghĩ, cách sống coi thường luân thường, đạo lý và chỉ biết có đồng tiền và lợi nhuận. Tất cả đều nhắm mục đích gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người và của xã hội. Trong bối cảnh ấy thì lời tuyên bố “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” của Chúa Giê-su trong bài Phúc âm hôm nay rất đáng chúng ta suy nghĩ.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM
2.1 Lắng nghe Lời Chúa: Mt 22, 15-21: Nộp thuế cho Xê-da.
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy.
Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người thuộc phê Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dậy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”
Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ gỉa hình! Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ liền đưa cho Người một quan tiền, Người hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xê-da.” Bấy giờ, Người bảo họ: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
2.2 Trong đoạn Tin Mừng Mt 22, 15-21 trên, chúng ta khám phá Chúa Giê-su là Ai?
Đoạn Phúc âm Mt 22,15-21 rất dễ bị cắt nghĩa không đúng với chủ ý của Chúa Giê-su và của Thánh Mát-thêu. Dựa vào câu tuyên bố của Chúa Giê-su: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” nhiều người lầm tưởng rằng đoạn Phúc âm này khẳng định vai trò độc lập của thế quyền (Xê-da) và thần quyền (Thiên Chúa). Thật ra không phải như vậy! Xét về cấu trúc bản văn thì vế thứ hai của câu nói (của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa) mới là ý chính và là chủ ý của Chúa Giê-su. Vế trước (của Xê-da, trả về Xê-da) chỉ là “trái đệm” làm nổi bật ý của vế sau mà thôi. Chúng ta nên đi sâu hơn nữa vào bối cảnh và nội dung của đoạn Phúc âm Mt 22,15-21 để khám phá Chúa Giê-su là Đấng nào và sứ điệp của Người là gì.
a) Bối cảnh của câu chuyện trong Mt 22,15-21 là nhóm Pha-ri-sêu chủ ý gài bẫy Chúa Giê-su. Họ ranh mãnh đưa ra vấn đề ‘nhạy cảm’ nhất trong đời sống tôn giáo xã hội thời bấy giờ: việc nộp thuế cho người La mã đang đô hộ đất nước Pa-lét-tin. Có nhiều người ủng hộ sự đô hộ ấy như những người thuộc phe Hê-rô-đê mà tổng trấn miền Ga-li-lê lúc bấy giờ là Hê-rô-đê Antipas. Nhưng cũng có nhiều người âm thầm hay công khai chống đối sự đô hộ ấy. Bản thân những người biệt phái thì chống đối việc cai trị của người La mã (vì ý thức hệ tôn giáo) nhưng lại thỏa hiệp với những người thuộc phe Hê-rô-đê để ủng hộ chính quyền ngoại bang (vì quyền lợi tôn giáo, xã hội và kinh tế). Họ giả hình và tự mâu thuẫn với chính mình là vì vậy!
b) Sau khi rào trước đón sau và tâng bốc Chúa Giê-su bằng những lời giả trá, họ đưa ra một câu hỏi hắc búa và đầy ác ý: “Vậy xin Thầy cho ý kiến: Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” Nếu Đức Giêsu trả lời CÓ thì những người chống chính quyền La mã sẽ kết tội Người là theo ngoại bang, là phản quốc và giáo lý của Người sẽ chẳng còn được người Do Thái nào mến chuộng và tin theo nữa. Còn nếu Đức Giêsu trả lời KHÔNG thì những người ủng hộ chính quyền La mã sẽ vu khống và kết án Người về tội xách động hay có ý làm loạn và quân đội La mã sẽ ra tay ngay tức thì. Trả lời đàng nào thì Chúa Giê-su cũng ‘mắc bẫy’ nham hiểm của họ.
c) Thế mà Chúa Giê-su chẳng những không mắc bẫy mà còn làm cho những người kia phải ê mặt. Chúa đã khôn ngoan dùng phương pháp ”gậy ông đập lưng ông”: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”- “Của Xê-da.” Chúng ta biết “thời Chúa Giê-su, đồng tiền La mã (denarius) khắc hình Tiberius (14-37 Công nguyên) và hàng chữ “Tiberius con hoàng thượng Augustus thần linh, là thượng tế tối cao” Những người thuộc nhóm biệt phái đặc biệt nhức nhối về đồng tiến này, bởi nó gán nhãn hiệu thần thánh cho các vị vua chúa La mã. Do đó sở hữu đồng tiền denarius là thờ phượng tà thần” (1) là điều không thể chấp nhận được đối với người tín hữu của Đền Thờ.
d) Lời tuyên bố của Chúa Giê-su: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” như một viên đạn bắn trúng hai mục tiêu: (a) Chúa Giê-su thoát khỏi cạm bẫy thâm độc của người biệt phái một cách an toàn, không sứt mẻ gì (b) Chúa Giê-su khẳng định quyền tối thượng của Thiên Chúa mà cả người La mã lẫn người Pha-ri-sêu đều vi phạm! Người La mã vi phạm khi tự ý chiếm đoạt danh xưng và quyền tối thượng của Thiên Chúa. Người biệt phái vi phạm khi coi trọng tiền bạc, danh vọng, địa vị xã hội, thậm chí lề luật hơn cả Thiên Chúa.
2.3 Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 22,15-21 dạy chúng ta điều gì?
Như vậy thì rõ ràng là bài Phúc âm hôm nay muốn dạy chúng ta về quyền tối thượng của Thiên Chúa. Nói cách khác con người có nghĩa vụ phải trả lại Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa. Mà thử hỏi, trừ tội lỗi ra, có thứ gì trên mặt địa cầu này mà không là của Thiên Chúa hay không thuộc về Thiên Chúa? Thật vậy, Giáo lý Công giáo dậy chúng ta rằng tất cả những gì tốt lành chúng ta đang có, đang hưởng (tài năng, sức khỏe, của cải, công việc, hoàn cảnh và địa vị xã hội, chức vụ trong cộng đoàn Giáo hội …) đều do lòng từ bi Thiên Chúa ban cho. Không phải Thiên Chúa ban những thứ ấy cho riêng cá nhân chúng ta để chúng ta thụ hưởng một mình mà là Chúa ban cho chúng ta để chúng ta đem những thứ ấy ra phục vụ tha nhân, mở rộng Nước Trời.
Đi sâu vào Ơn Đức Tin Ki-tô giáo, chúng ta biết rằng: Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên con người và vũ trụ từ hư không để con người nhận biết, thờ phượng, yêu mến Thiên Chúa và sống theo lề luật của Người. Chúng ta cũng biết rằng: Vì yêu thương, Ngôi Lời Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể làm người, sống cuộc sống phàm nhân và đã chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta còn biết rằng Thánh Thần Thiên Chúa được ban cho chúng ta để giúp chúng ta sống đúng tư cách là con cái Thiên Chúa. Chúng ta còn biết rằng Giáo hội được Chúa Giê-su thiết lập để giúp chúng ta sống ơn gọi và thực hiện sứ mạng Ki-tô hữu của mình. Vậy chúng ta nợ Thiên Chúa ơn tạo dựng, ơn cứu độ, ơn thánh hóa và ơn là thành viên của Giáo hội.
“Trả về cho Thiên Chúa những chi thuộc về Ngài đòi hỏi chúng ta toàn tâm, toàn ý phụng sự Ngài; toàn tâm, toàn ý thương yêu đồng loại. Đã có rất nhiều gương sáng về điểm này, dù biết Chúa hay không. Mục sư Luther King tranh đấu cho những người da đen ở Mỹ, Mahatma Gandhi ở Ấn độ, Bartolomeo de las Casas ở Châu Mỹ La Tinh, thủ tướng Dietrich Bonhaeffer của Đức chống lại Hitler, Dorothy Day chống lại các đạo luật bất công của chính phủ Mỹ v.v..” (2).
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Mỗi nguời hãy tự xét mình xem Thiên Chúa có quyền tối thượng như thế nào trong cuộc sống thường ngày của mình? Cụ thể là Thiên Chúa có quyền như thế nào trên tài năng, của cải, sức khỏe, hoàn cảnh và địa vị xã hội của mình? Thiên Chúa có là vua, là chúa ngự trị trong tâm hồn mình không? Xét mình xong thì mỗi người đưa ra một quyết tâm sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp.
IV. CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha lòng lành vô cùng, xin Cha tha thứ tội lỗi và sai lầm của loài người chúng con. Nhiều người, nhiều quốc gia lầm tưởng rằng họ không cần phải biết có Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, cứu độ và thánh hóa. Nhiều người, nhiều quốc gia không muốn nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa để muốn làm gì thì làm, muốn sống sao thì sống. Nhiều người, nhiều quốc gia muốn giết chết Thiên Chúa trong tâm hồn trẻ thơ và thanh thiếu niên bằng cách truyền bá và nhồi sọ những lý thuyết sai lạc và lừa gạt, những cách sống vô luân lý, vô trách nhiệm. Cha ôi, nhân loại này hôm nay tội lỗi ngập tràn…. Xin Cha xót thương thứ tha và cứu vớt hết mọi người. Chúng con xin vì công nghiệp Chúa Giêsu Kitô, Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Sàigòn ngày 30.09.2005 (Lễ Thánh Bổn Mạng).
--------
Chú thích:
(1) Đọc bài chú giải Chúa nhật 29 Thường niên năm A của Fr. Jude Siciliano,OP, đăng trên Vietcatholic News ngày 25 tháng 09 năm 2005.
(2) Như trên.
--------------------------------
Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 22, 15-21
Suốt ba tuần vừa qua phụng vụ đã cho thấy thâm ý của Chúa Giêsu, Ngài đưa ra ba dụ ngôn ám: TN 29-A35
Suốt ba tuần vừa qua phụng vụ đã cho thấy thâm ý của Chúa Giêsu, Ngài đưa ra ba dụ ngôn ám chỉ về Ngài hầu làm sáng mắt các vị lãnh đạo tôn giáo, các luật sĩ và biệt phái, nhưng như thế vẫn chưa đủ làm cho các kẻ chống đối Chúa tan rã hàng ngũ. Trái lại, họ còn âm mưu liên kết với nhau người biệt phái với luật sĩ, người Pharisiêu với nhóm Hêrôđê. Họ quyết tâm làm cho Chúa phải rơi vào bẫy của họ. Vấn đề họ đặt ra là việc nộp thuế. Người Do Thái thời Chúa Giêsu quan niệm không nộp thuế là làm loạn. Cam chịu nộp thuế nghĩa là công nhận sự có mặt của ngoại bang và ngoại đạo. Dân Israen chỉ tin nhận có một Thiên Chúa hay người đại diện của Thiên Chúa mà thôi. Vấn đề nộp thuế hay không thời đó cũng được các luật gia Do Thái đôi khi đưa ra tranh luận.
MỘT CÂU HỎI HỐC BÚA VÀ THÂM ĐỘC:
Vấn đề các người Pharisiêu và biệt phái đặt ra cho Chúa Giêsu về việc nộp thuế cho thấy nhiều khuynh hướng trong bọn họ đối với Đế quốc Roma chiếm đóng. Người Pharisiêu đành nhắm mắt chấp nhận sự có mặt của người Roma như một điều xấu xa, miễn sao tự do tôn giáo được thực hiện. Những người phe Hêrôđê ủng hộ gia đình Hêrôđê lại thân với người Roma,. Nhóm quá khích ( Zélote ) lại tỏ ra chống đối mãnh liệt việc nộp tiền cho người Roma. Họ đặt vấn đề nộp thuế với Chúa Giêsu sau vài câu mở đầu hết sức phỉnh phờ:” Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ? Hỏi như thế trả lời đàng nào cũng rơi vào bẫy của họ. Khi đặt vấn đề như thế, họ ghen ghét, căm tức Chúa Giêsu và muốn cho chính quyền cũng thù ghét Chúa Giêsu. Nếu trả lời không nộp thuế, Chúa Giêsu sẽ công khai bị liệt vào tội chống đối Hoàng đế Xê-da. Nếu trả lời có, Chúa Giêsu sẽ mặc nhiên nhìn nhận sự có mặt của Roma và chấp nhận sự vô đạo, hợp thức hoá sự có mặt của người vô đạo trên phần đất thánh mà Thiên Chúa đã ban cho tổ phụ Abraham và con cháu của Ngài. Do đó, trước mắt của một dân đang trông chờ một cuộc giải phóng quốc gia, Chúa Giêsu sẽ mất hết tín nhiệm vì sẽ không được coi là Đấng Mesia đến để thực hiện những mơ ước của dân và như thế, những người Pharisiêu sẽ vịn vào đó để tố cáo Chúa Giêsu về chuyện này.
NHỮNG ĐỐI THỦ CỦA CHÚA BỊ LỘ CHÂN TƯỚNG:
Chúa Giêsu rất khôn ngoan, Ngài không trả lời liền, nhưng đưa họ đi vào thực tế của con người, đi vào sự thật mà họ phải khựng lại. Họ đưa cho Chúa Giêsu một đồng tiền. Rõ ràng trên đồng tiền có hình của” Xê-da, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với danh hiệu: Xê-da Tibêriô con của thần Augusto”. Chúa hỏi họ:” Hình và danh hiệu này là của ai đây ? Họ đáp:” của Xê-da”. Và Chúa nói lên một câu bất hủ khiến họ tất cả phải ngạc nhiên, thán phục ( trong lòng tuy không thể nói ra ):” Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa “. Trả lời như thế, Chúa Giêsu muốn cho họ và mọi người hay rằng Xê-da tìm địa vị mình bằng hình tượng trên đồng bạc, Thiên Chúa cũng tìm hình ảnh Người trong linh hồn con người vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Theo sách Sáng Thế ký, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh của Người. Mất đồng bạc, mất hình ảnh của Xê-da con người lại tìm được nhiều đồng tiền khác có hình ảnh của Xê-da, nhưng mất hình ảnh của Thiên Chúa ghi trong tâm hồn, con người không đau khổ, nhục nhã sao được. Theo gương Đức Kitô, Đấng đã tận hiến mình trên thập giá để cứu độ con người, người Kitô hữu luôn bắt tay xây dựng đời sống mới, đời sống huynh đệ trong công bình, bác ái và tình thương. Chúa đã làm lộ chân tướng của những kẻ thù của Ngài khiến họ không thể nói gì thêm nữa…
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
--------------------------------
Bài Đọc 1: Is 45:1, 4- 6
Cyrô là vua dân ngoại, nhưng lại được Thiên Chúa xức dầu để trở nên công cụ phục vụ cho Ngài: TN 29-A36
Cyrô là vua dân ngoại, nhưng lại được Thiên Chúa xức dầu để trở nên công cụ phục vụ cho Ngài trong việc giải thoát dân Chúa và làm cho danh Chúa được nhận biết khắp muôn nơi. Lời của Chúa nhắc đi nhắc lại cho Cyrô biết rằng chỉ có một Chúa chứ không còn có Chúa nào khác. Thiên Chúa đã chọn ông để làm những điều đó cho dân của Ngài ngay từ khi Cyrô còn chưa nhận biết Ngài. Nơi đây chúng ta nhận thức và tin tưởng rằng Thiên Chúa có quyền trên mọi dân tộc và trên mọi nhà lãnh đạo. Thiên Chúa có thể dùng bất cứ một dân tộc hay một nhà lãnh đạo nào để thi hành chương trình và ý định của Ngài, bất kể là dân tộc hay nhà lãnh đạo đó có nhận biết Ngài hay không.
- Làm sao một người không nhận biết Chúa lại có thể trở nên dụng cụ của Chúa? Bạn có thể cho một vài thí dụ ai là những người đang thi hành ý định và chương trình của Thiên Chúa trong thế giới ngày nay? Và họ thi hành như thế nào?
Bài Đọc 2: 1 Thessalonica 1,1- 5
Thánh Phaolô đã cảm tạ Thiên Chúa có các Kitô hữu Thessalonica vì cuộc sống sinh hoa kết trái của họ đối với Tin Mừng. Đời sống của họ đã nêu cao tinh thần đức tin, đức mến và lòng trông cậy. Họ đã chứng tỏ ra được rằng Thiên Chúa đã tuyển chọn họ qua Tin mừng mà Phaolô đã rao giảng cho họ. Họ đã thể hiện tinh thần Tin Mừng trong cuộc sống không chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín. Họ đã bắt chước gương của Phaolô và đã trở nên gương sáng cho những giáo đoàn khác.
- Chúng ta phải làm gì và sống như thế nào để thể hiện tinh thần Tin Mừng trong đời sống của cá nhân cũng như của gia đình và xứ đạo?
- Chúng ta đã tin tưởng sống những điều chúng ta nói và nói những điều chúng ta sống như thế nào?
Bài Phúc Âm: Matt 22,15- 21
Các người Biệt phái đã tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng câu hỏi có được phép đóng thuế cho vua Cêsarê của Rôma hay không. Nếu trả lời là có thì Ngài sẽ bị coi là kẻ phản quốc đi nộp thuế cho vua dân ngoại. Những người Do Thái chính hiệu sẽ không chấp nhận điều đó. Trái lại nếu trả lời là không, có nghĩa là Ngài công khai chống lại đế quốc Roma và Cêsarê là người đang nắm quyền cai trị. Như thế Ngài có thể bị bắt và bị kết tội là kẻ phản loạn. Đức Giêsu thừa hiểu lòng dạ của họ. Ngài bảo họ đưa cho Ngài đồng tiền nộp thuế, và trên đồng tiền có khắc hình của Cêsarê; do đó Ngài bảo họ, "Vậy cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa."
- Làm thế nào chúng ta biết được những thứ gì thuộc về Thiên Chúa để trả về cho Thiên Chúa?
- Quyền đạo và quyền đời nên tách biệt nhau, nhưng quyền đạo và quyền đời có được tách biệt khỏi Thiên Chúa và đường lối của Thiên Chúa hay không? Tại sao?
Bài Giảng Gợi Ý
Khi những người biệt phái dùng tên của Cêsarê để đưa vào cuộc tranh luận với Đức Giêsu có nghĩa là họ đã mánh lới để đưa Ngài vào bẫy nguy hiểm chính trị: "Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào? Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" Đứng trước vấn nạn này, Đức Giêsu bị đặt vào một thế không thể thắng. Nếu nói là cứ đóng thuế cho Cêsarê thì Ngài sẽ bị coi là đồng hạng với những người phản quốc; và nếu nói là không nên đóng thuế cho Cêsarê thì Ngài bị ghép vào tội xúi bảy người khác làm loạn chống lại hoàng đế La Mã. Biết là họ không có thiện ý, Ngài đã khiển trách họ là những kẻ giả hình. Ngài bảo họ đưa cho Ngài xem đồng tiền nộp thuế. Trên đồng tiền có khắc hình ảnh của Cêsarê. Ngài hỏi họ, "Hình tượng và danh hiệu này của ai?" Họ trả lời là của Cêsarê; và Ngài nói với họ, "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê", và ngài nói thêm, "Cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa." Đức Giêsu đã nghiêm chỉnh cho biết là họ có trách nhiệm đối với chính quyền và trách nhiệm đối với Thiên Chúa. Họ sống với hai chế độ: Chế độ nước trời và chế độ trần thế.Thiên Chúa và Cêsarê đều có quyền trên họ, cả hai thần quyền và thế quyền không loại trừ nhau.
Hình Tượng và Danh Hiệu Này Của Ai?
Đây chính là câu hỏi không những làm cho những người biệt phái phải suy nghĩ, nhưng chính chúng ta cũng phải suy nghĩ. Đồng bạc có khắc hình và danh hiệu của Hoàng đế La Mã. Do đó Đức Giêsu nói "Của Cêsarê thì hãy trả về cho Cêsarê." Thuộc địa và những người sống trong thuộc địa cũng như hệ thống tiền tệ thuộc về Hoàng đế La Mã. Những người sống và xử dụng hệ thống tiền tệ đó phải nộp thuế cho Hoàng đế La Mã. Nhưng Đức Giêsu lại nói thêm, "Cái gì của Thiên Chúa thì trả về cho Thiên Chúa". Điều này nói lên rằng khi Ngài hỏi hình tượng và danh hiệu này của ai thì Ngài cũng nhắc cho những người hỏi Ngài và cho chúng ta biết rằng hình ảnh của Cêsarê được khắc ghi trên đồng bạc thì trả về cho Cêsarê, nhưng hình ảnh của Thiên Chúa đã được khắc ghi trong linh hồn, con tim và thân xác con người chúng ta thì phải trả nó về cho Thiên Chúa. Lời sách Sáng Thế Ký đã ghi rõ, khi Thiên Chúa tạo dựng con người, Ngài đã nói, "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta" (1:26). Như vậy chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Và đó chính là lý do tại sao Đức Giêsu đã kết luận những gì của Thiên Chúa thì hãy trả về cho Thiên Chúa. Chúng ta không những chỉ thuộc quyền và có trách nhiệm đối với đất nước và chính quyền trần thế mà thôi. Trái lại chúng ta và tất cả mọi chính quyền còn thuộc quyền và có trách nhiệm đối với Thiên Chúa.
Tiên tri Isaiah trong bài đọc thứ nhất đã nói về vua Cyrô. Ông thờ thần riêng của xứ sở ông. Ông thi hành chính sách ông nghĩ ra, và lo làm những gì có lợi nhất cho ông. Ông không biết gì về Thiên Chúa của dân Do thái. Nhưng Thiên Chúa đã biết rõ ông và dùng ông làm khí cụ để giải cứu dân của Ngài. Giúp họ trở về quê hương và tái thiết đền thờ Giêrusalem cho họ. Thánh Phaolô trong bài đọc hai, đã gởi thư chào hỏi các tín hữu thuộc giáo đoàn Thessalonica. Ngài đã cảm tạ Thiên Chúa cho họ. Đức tin, lòng trông cậy và tinh thần yêu thương của họ là công việc của chính Đức Kitô và Thần khí của Đức Kitô. Họ thuộc về Đức Kitô. Họ hoạt động dưới sự chỉ đạo của Chúa Thánh Thần. Mỗi người đã được tuyển chọn bởi Thiên Chúa và nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần. Họ thuộc về một tổ chức tinh thần, là thành phần của Thân Thể Đức Kitô. Do đó chúng ta không được quên rằng chúng ta không những chỉ là công dân của một đất nước trần thế, nhưng chúng ta cũng là công dân của cả nước trời dưới quyền thống trị của Đức Kitô. Và như thế chúng ta có trách nhiệm với cả hai.
Trả Cho Cêsarê Những Gì Thuộc Về Cêsarê
Cyrô và Cêsarê là hình ảnh đại diện cho chính quyền đời trong xã hội con người. Tất cả mọi người đều thuộc về một xã hội và được hưởng những quyền lợi cũng như những sự phục vụ của xã hội đó mang lại cho họ. Và do đó họ phải có trách nhiệm đóng góp xây dựng xã hội đó. Khi Đức Giêsu nói, "Của Cêsarê thì hãy trả về cho Cêsarê" có nghĩa là không ai được quyền trốn tránh trách nhiệm đóng góp của mình cho xã hội. Hầu hết chúng ta đang thi hành điều này hàng ngày. Khi đi mua sắm hay đổ xăng xe chúng ta đều phải trả tiền thuế cho mỗi mặt hàng. Mỗi tháng chúng ta phải trả tiền ga, điện, nước, tiền điện thoại. Hàng năm chúng ta phải trả tiền thuế nhà, thuế đất, thuế lợi tức. Ở Hoa Kỳ cứ vào ngày 15 tháng tư hàng năm là tất cả mọi công dân phải có trách nhiệm khai và nộp thuế cho chính phủ. Sống ở Hoa Kỳ chúng ta xài tiền Dollars, và ai cũng thích kiếm được nhiều dollars. Chúng ta có trách nhiệm phải đóng thuế không được miễn trừ. Tuy nhiên hình như khi phải đóng thuế thì nhiều người lại cố tìm mọi cách để trì hoãn hoặc trốn tránh. Làm như thế là phản lại tinh thần của Đức Giêsu đã dạy. Theo như lời của Ngài thì đóng thuế là một trách nhiệm nghiêm chỉnh của mọi công dân. Trong một quốc gia mà tất cả mọi người dân ý thức được trách nhiệm của mình để đóng thuế cách nghiêm chỉnh thì chính quyền sẽ có phương tiện để phát triển và phục vụ cho đời sống của người dân được an ninh và trật tự. Trái lại nếu người dân cứ tìm cách gian lận trốn thuế thì chính phủ không thể làm việc hữu hiệu được. Người dân cũng có bổn phận phải tham gia vào đời sống chính trị, bầu cử và chọn lựa những người thanh liêm chính trực vào làm việc trong chính quyền để phục vụ lợi ích chung. Đây chính là ý nghĩa mà Đức Giêsu muốn nói, "Của Cêsarê thì hãy trả về cho Cêsarê."
Trả Cho Thiên Chúa Những Gì Thuộc Về Thiên Chúa
Vấn đề không phải chỉ đơn giản là trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê, nhưng chúng ta còn phải trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Là những Kitô hữu, chúng ta được đưa vào một cộng đoàn xã hội thiêng liêng. Mỗi người chúng ta chính là đồng bạc của Nước Trời. Trên đồng bạc đó có khắc ghi hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta hỏi mình xem hình ảnh của Thiên Chúa khắc ghi nơi chúng ta có còn sáng tỏ hay đã bị phai mờ? Nếu chúng ta là đồng bạc có khắc ghi hình ảnh của Thiên Chúa thì điều đó có nghĩa là tất cả mọi sự nơi chúng ta là của Thiên Chúa và chúng ta phải trả nó về cho Thiên Chúa. Thánh Ignatiô Loyola được ơn nhận biết Thiên Chúa là chủ quyền trên ngài nên đã viết lên lời kinh tận hiến như sau: "Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy tất cả tự do, trí khôn và ý chí của con. Tất cả những gì con có và làm chủ, Chúa đã cho con tất cả. Con xin dâng lại cho Chúa. Tất cả là của Chúa. Xin Chúa xử dụng hoàn toàn theo tôn ý. Lạy Chúa, xin hãy ban cho con Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa. Đối với con như thế là đủ."
Chúng ta có đọc lên được lời kinh tận hiến như thế đối với Chúa hay không? Mới đây một người bạn E-mail cho tôi suy tư sau đây làm chúng ta phải suy nghĩ thêm:
Thật Kỳ Lạ
Thật kỳ lạ khi thấy tờ $100 có giá trị quá lớn khi bỏ vào giỏ trong nhà thờ, nhưng lại quá nhỏ khi đưa nó đi chợ mua sắm.
Thật kỳ lạ khi thấy một tiếng đồng hồ trong nhà Chúa thì quá lâu mà một tiếng đồng hồ xem đấu bóng rổ thì qua đi thật nhanh.
Thật kỳ lạ khi ở nhà Chúa hai tiếng đồng hồ thì thấy lâu, nhưng nếu xem xinê thì lại quá lẹ.
Thật kỳ lạ khi cầu nguyện thì chẳng biết nói gì, nhưng khi nói chuyện với bạn thì chẳng hết chuyện để nói.
Thật kỳ lạ vì chúng ta thấy rất hồi hộp khi trận đấu bóng phải kéo dài thêm mấy phút phụ trội, nhưng lại càm ràm khi một bài giảng được kéo dài hơn mọi khi.
Thật kỳ lạ vì chúng ta thấy khó khăn để đọc một đoạn Kinh Thánh, nhưng lại rất dễ dàng đọc hàng trăm trang tiểu thuyết.
Thật kỳ lạ khi thấy nhiều người thích ngồi những hàng ghế đầu khi đi dự những buổi đại nhạc hội hay các trận đấu bóng, nhưng lại tìm ngồi ở những hàng ghế cuối ở thánh đường.
Thật kỳ lạ khi chúng ta cần phải có hai hay ba tuần lễ trước để sắp xếp thời giờ cho những công việc nhà Chúa, nhưng lại dễ dàng thích ứng thời giờ cho những chương trình khác trong chớp nhoáng ở phút chót.
Thật kỳ lạ sao thấy quá khó khăn để nhớ một đoạn Kinh thánh hầu có thể thuật lại cho người khác, nhưng lại rất dễ dàng để hiểu và nhớ những lời 'đàm tiếu dèm pha ' để kể cho người khác nghe.
Thật kỳ lạ sao chúng ta dễ tin những gì báo chí đăng tải nhưng lại nghi nan đặt vấn đề những gì Kinh Thánh dạy.
Thật kỳ lạ sao ai cũng muốn lên Thiên đàng nếu họ không phải tin, không phải suy nghĩ, không phải nói hay làm gì cả.
Thật kỳ lạ khi có thể gởi các câu "tiếu lâm" qua hệ thống Email và nó sẽ được chuyền đi thật nhanh, nhưng khi gởi những gì liên quan đến Thiên Chúa thì người ta lại suy nghĩ cẩn thận xem có nên gởi đi chia sẻ với người khác hay không.
--------------------------------
Mt 22,15-21
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý CHÍNH: " TỐT ĐỜI ĐẸP ĐẠO" - Lm Đan Vinh
Một số người Pha-ri-sêu liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm cách gài bẫy Đức Giê-su, để có cớ tố cáo: TN 29-A37
Một số người Pha-ri-sêu liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm cách gài bẫy Đức Giê-su, để có cớ tố cáo chống lại Người. Nhưng cuối cùng Người không những không bị mắc bẫy của họ, mà còn giúp họ ý thức bổn phận sống "tốt đời đẹp đạo", vừa tôn trọng thế quyền lại vừa tôn trọng thần quyền bằng nguyên tắc như sau: "Của Xê-da trả về Xê-da; Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
2) CHÚ THÍCH:
* (c 15) Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy:
Những người Pha-ri-sêu được dân Do thái đánh giá là có lòng ái quốc, chống lại đế quốc Rô-ma bấy giờ đang cai trị nước Do thái. Các người Pha-ri-sêu rất tôn trọng Thiên Chúa, tuân giữ tỉ mỉ từng điều khoản trong bộ luật Mô-sê, nhất là luật về ngày hưu lễ (Sa-bát) và việc thanh tẩy, nhưng họ lại không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a). Vì Đức Giê-su nhiều lần quở trách thói giả đạo đức và kiêu căng, nên họ luôn chống đối Người. Ơ đây họ bàn mưu tính kế để tố cáo Người về lời nói.
* (c 16) Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật mà cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta:
+ Những người phe Hê-rô-đê: Đây là một đảng phái chính trị, là tay chân ủng hộ vua Hê-rô-đê và thân với chính quyền Rô-ma. Họ theo văn hóa Hy-lạp và không quan tâm đến luật Mô-sê. Có thể nói phe này đối lập với nhóm Pha-ri-sêu cả về chính trị lẫn tôn giáo.
+ Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê: Hai nhóm người đối nghịch nhau giờ đây lại liên kết với nhau để đối phó với Đức Giê-su là kẻ thù chung của họ, như Tin Mừng Lu-ca viết: "Họ rình rập và sai một số người giả bộ là người công chính, đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giê-su lỡ lời, để nộp Người cho các nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn" (Lc 20,20).
+ Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật: Đây là một lời khen giả dối với mục đích tránh bị Đức Giê-su nghi ngờ về ý đồ đen tối của họ. Họ chào hỏi Người như là một ông Thầy (Rab-bi), khen Người là người trung thành với lề luật Thiên Chúa và không bị người đời chi phối. Đây là hai đặc tính tiêu biểu của một người công chính được Kinh Thánh nhắc đến (x Cv 10,34; Gc 2,1-9; Cl 3,25).
* (c 17) Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-đa hay không?":
+ Xin Thầy cho ý kiến: Họ xin Đức Giê-su cho ý kiến để giải quyết một vấn đề phức tạp mà nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Hê-rô-đê bất đồng ý kiến với nhau.
+ Xê-da: Tước hiệu ám chỉ hoàng đế đang trị vì đế quốc Rô-ma. Trong Tân Ước, tước hiệu Xê-da ám chỉ 3 vị hoàng đế Rô-ma: Một là AU-GÚT-TÔ: cai trị từ năm 29 trước Công Nguyên đến năm 14 sau Công Nguyên, vào thời điểm Đức Giêsu giáng sinh tại Bê-lem (x LC 2,1). Hai là TI-BÊ-RI-Ô: cai trị từ năm14 đến năm 37 sau Công Nguyên, trong thời gian Đức Giê-su giảng đạo công khai. Tin mừng nhắc đến tước hiệu này 3 lần: khi Đức Giê-su chịu phép rửa (x Lc 3,1), khi Người bị gài bẫy về việc nộp thuế (x Mt 22,17) và khi Người bị dân Do Thái đòi kết án tử hình thập giá (x Ga 19,12). Ba là NÊ-RÔNG: cai trị từ năm 54 đến năm 68 sau CN. Sách Công vụ dùng tước hiệu này để chỉ hoàng đế Nê-rông, khi ông Phao-lô gặp khó khăn với người Do Thái tại Thê-xa-lô-ni-ca (x Cv 17,7), và khi ông tự biện hộ rồi kháng án lên hoàng đế Xê-da (x Cv 25,10; 28,19)
+ Nộp thuế: Người Do Thái hằng năm đều phải nộp hai thứ thuế: Một là thuế tôn giáo hay thuế Đền Thờ (x Mt 17,24). Hai là thuế nhà nước:Ngoài nhiều loại thuế khác, mỗi năm người Do Thái trong hạn tuổi từ 14 đến 65, đều phải nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma. Người Do Thái coi việc nộp thuế này là một sự ô nhục, biểu lộ thái độ thần phục hoàng đế Rô-ma. Vì thế Nhóm Quá Khích có tinh thần ái quốc đã cấm thành viên của mình đóng thuế cho ngoại bang.
+ Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?: Câu này có nghĩa là người Do Thái theo lương tâm có được nộp thuế cho hoàng đế Xê-da vừa là dân ngoại, vừa là vua của đế quốc đang thống trị dân Do Thái hay không? Như vậy vấn đề nộp thuế ở đây được đặt trên bình diện chính trị. Đây chính là một cái bẫy mà theo thâm ý của họ thì Đức Giê-su trả lời đàng nào cũng không ổn: Nếu bảo phải nộp thuế, thì nhóm Pha-ri-sêu sẽ tố cáo Người là kẻ phản quốc và chắc chắn không phải là Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) mà dân Do Thái đang mong đến, để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của dân ngoại. Ngược lại, nếu Người bảo không phải nộp thuế, thì phái Hê-rô-đê sẽ dựa vào đó để tố cáo với tổng trấn Rô-ma rằng Đức Giê-su là kẻ phản động, đang âm mưu chống lại chính quyền Rô-ma, cụ thể là xúi giục dân không nộp thuế, để tổng trấn ra lệnh bắt bớ giết hại Người
* (c18) Nhưng Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình!:
+ Đức Giê-su biết họ có ác ý: Những kẻ chất vấn Đức Giê-su đã tỏ ra giả dối trong hai chuyện: Một là họ làm ra vẻ băn khoăn về một vấn đề lương tâm, đang khi thâm ý của họ là muốn gài bẫy làm hại Đức Giê-su. Hai là trong cuộc sống đời thường, họ vẫn phải xử dụng đồng tiền của Xê-da để giao dịch mua bán, tức là họ đã mặc nhiên chấp nhận quyền cai trị của hoàng đế Rô-ma rồi. Thế nhưng họ vẫn làm ra vẻ như không chấp nhận quyền ấy.
+ Tại sao các người lại thử tôi ?: Qua câu này Đức Giê-su cho thấy Người đã biết rõ ý đồ đen tối của bọn người này là muốn giăng bẫy để làm hại Người.
+ Hỡi những kẻ giả hình: Giả hình là không trung thực, là giả bộ, thái độ và lời nói bên ngoài trái với ý nghĩa trong thâm tâm. Họ đặt câu hỏi không phải vì muốn biết điều đúng để theo, nhưng là muốn đưa Người vào thế "tiến thoái lưỡng nan", để hoặc tố cáo làm mất uy tín của Người trước dân chúng, hoặc tố cáo Người với nhà cầm quyền Rô-ma để mượn tay họ giết hại Người.
- (c 19) "Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi !". Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. (c 20) Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này của ai đây ?" (c 21) Họ đáp: "Của Xê-da". Bây giờ, Người bảo họ: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa":
+ Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi:Đức Giê-su đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế là tiền của Rô-ma đang lưu hành ngoài xã hội, trên đó có khắc hình và danh hiệu của hoàng đế Xê-da. Mười điều răn trong luật Môi-sê có khoản như sau: "Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ" (Xh 20,4). Trên danh hiệu hoàng đế Rô-ma có chữ thần linh, vì hoàng đế tự coi mình là thần, nên người Do Thái đạo đức không muốn xử dụng đồng tiền ấy. Dân Do Thái trước khi nộp thuế Đền Thờ hay ủng hộ việc trùng tu Đền Thờ, phải đổi từ tiền Rô-ma dùng bên ngoài sang loại tiền riêng của Đền Thờ tại những bàn đổi tiền (x Mt 21,12).
+ Họ đưa cho Người một đồng bạc: Người Do Thái có lòng yêu nước chân chính sẽ không mang theo đồng tiền của đế quốc Rô-ma. Ở đây khi lấy từ túi áo một đồng tiền để đưa cho Đức Giê-su, tức là những người này đã mặc nhiên thừa nhận quyền cai trị của hoàng đế Xê-da.
+ Hình và danh hiệu này là của ai đây ?: Đức Giê-su đã quá biết hình và danh hiệu khắc trên đồng tiền là của Xê-da. Nhưng Người muốn chính miệng họ phải nói ra điều này, trước khi Người trả lời những thắc mắc của họ.
+ Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da: Một khi họ nhận quyền của hoàng đế trên dân tộc mình, thì việc nộp thuế cho hoàng đế Rô-ma cũng là lẽ đương nhiên (x Rm 13,5-7). "Vì mọi quyền hành đều phát xuất từ "(Ga 19,11), hoặc như thánh Phao-lô viết: "Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập" (Rm 13,1-4). Thánh Phê-rô cũng dạy tương tự (x 1 Pr 2,13-14). Nói cách khác, khi người ta tùng phục quyền bính chính đáng của thế quyền, thì cũng là làm theo thánh ý của Thiên Chúa.
+ Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa: Nhưng khi thế quyền chống lại Thiên Chúa, thì các tín hữu phải chọn đứng về phía Thiên Chúa, vì Người mới là nguồn gốc mọi quyền bính của loài người, như tông đồ Phê-rô đã trả lời trước Thượng Hội Đồng Do Thái, khi bị họ ngăn cấm rao giảng danh Đức Chúa Giê-su: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm " (Cv 5,29).
Tóm lại, qua câu trên, Đức Giê-su muốn dạy rằng: nộp thuế thì cứ nộp, vì dù muốn dù không thì ta cũng đang sống dưới quyền cai trị của đế quốc, thể hiện qua việc phải xử dụng đồng tiền của đế quốc. Nhưng chỉ được tôn thờ một Thiên Chúa độc nhất, và ngoài Người ra không còn thần linh nào khác. Như vậy theo lời Đức Giê-su, người ta phải chu toàn cả hai bổn phận: Vừa tôn trọng quyền lợi của hoàng đế, lại vừa tôn trọng quyền lợi của Thiên Chúa.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) LỜI CHÚA: "Của Xê-da, trả về Xê-da; Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa" (Mt 22,21).
2) CÂU CHUYỆN:
SỰ LỰA CHỌN CỦA THÁNH TỬ ĐẠO THO-MÁT (THOMAS MORE).
Vua HĂNG-RI THỨ TÁM (Henry VIII) nước Anh, muốn Toà Thánh hủy bỏ cuộc hôn nhân chính thức trước đó để tái hôn với cô En-nơ Bô-lơn (Anna Bolen). Nhưng vì không hội đủ lý do tiêu hôn, nên Toà Thánh đã từ chối giải quyết yêu cầu của vua. Nghe vậy HĂNG-RI tức giận và tuyên bố thành lập một giáo hội Anh quốc ly khai khỏi Công Giáo. Sau đó, ông tự huỷ bỏ cuộc hôn nhân trước để tái kết hôn theo ý ông muốn. Ông tự phong là giáo chủ của Anh giáo, và ra lệnh cho các chức sắc tôn giáo như Hồng Y, Giám Mục và các Quan chức trong triều, các vị tướng lãnh, quý tộc và các thành viên trong nghị viện Anh phải ký tên vào một văn bản công nhận quyền tái hôn của ông, và gia nhập Anh giáo ly khai. Nhiều người phản đối, nhưng vì sợ bị chém đầu, nên đành ký tên vào bản văn ấy. Bây giờ Tho-mát Mo-rơ đang là một quan chức cao cấp của nhà vua.
Ông đã bị giằng co giữa hai bổn phận: một là của người tín hữu phải trung thành với Thiên Chúa và như thế sẽ bị kết tội làm phản và bị tử hình. Hai là bổn phận của một bề tôi phải trung thành với nhà vua và được hứa sẽ cho làm Tổng Giám Mục để hưởng nhiều bổng lộc và vinh hoa phú quý. Nhưng Tho-mát Mo-rơ đã chọn trung thành với Thiên Chúa. Sau đó Ngài đã bị bắt giam trong một nhà ngục ở Luân Đôn.
Trong phiên toà xét xử ngài, sau khi nghe vị quan toà tuyên án tử hình về tội phản nghịch dám chống lại nhà vua. Tho-mát Mo-rơ đã phát biểu như sau: "Tôi biết lý do tại sao tôi bị kết án, chỉ vì tôi đã không ủng hộ cuộc hôn nhân bất chính của nhà vua.Tôi chấp nhận từ bỏ cuộc sống đời tạm này, để bước vào cuộc sống mới trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin đón nhận linh hồn con: Đây vừa là một lời cầu xin mà cũng là niềm hy vọng của tôi. Tôi xin Chúa sớm nhận lời tôi cầu xin cho nhà vua mau sám hối trở về với Chúa".
Sau đó Ngài đã anh dũng chết vì đạo vào ngày 06 tháng 07 năm 1525. Cuộc đời của thánh Tho-mát Mo-rơ đã chấm dứt trong sự thánh thiện và vinh quang như thế.
Còn bạn, khi gặp hoàn cảnh phải chọn một trong hai: Thiên Chúa hay tiền bạc, địa vị con Thiên Chúa hay chức quyền trần gian. Trong trường hợp đó, bạn sẽ chọn theo điều nào: Chọn theo Chúa và chấp nhận bị coi là kẻ khờ dại và bị loại trừ, hay chọn theo những kẻ gian ác tham nhũng để được an thân và được thăng quan tiến chức?
ĐỒNG BẠC RÔ-MA THỜI ĐỨC GIÊ-SU:
Khi đến viện bảo tàng MEN-SÉT-TƠ (Manchester) bên nước Anh, và đi thăm khu vực trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời đế quốc Rô-ma, bạn có thể tìm thấy đồng tiền De-na-ri-út (Denarius) bằng bạc, trên đó có đúc niên biểu và hình của hoàng đế Rô-ma. Quan tiền này được lưu hành trong nước Do Thái vào thời Đức Giê-su. Trong lúc cầm quan tiền trên tay và lật qua lật lại, bạn có thể liên tưởng đến dụ ngôn người Sa-ma-ri ngoại đạo, đã đưa cho chủ quán hai quan tiền như thế, để nhờ chăm sóc một người Do Thái bị bọn cướp trấn lột và đánh trọng thương (x Lc 10,35). Bạn cũng có thể liên tưởng đến dụ ngôn các thợ làm vườn nho trong Tin Mừng Mát-thêu. Ông chủ vườn đã trả lương cho mỗi người thợ làm vườn một quan tiền như đồng bạc đó (x Mt 20,9-10). Nhất là, bạn có thể liên tưởng đến quan tiền mà Đức Giê-su đã dùng để trả lời cho hai nhóm Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê liên minh với nhau gài bẫy Người. Trên quan tiền này, bạn chăm chú nhìn vào khuôn mặt của một vị XÊ-DA là TI-BE-RI-ÚT (Cesar Tiberius) đang cai trị đế quốc Rô-ma vào thời Đức Giê-su rao giảng Tin Mừng (x Lc 3,1). Mặt sau của đồng bạc là hình bà LI-VI-A, mẹ của vua TI-BE-RI-ÚT. Bà đang ngồi, cầm một cành cây ô-li-va trên tay, tượng trưng cho hoà bình.
3) SUY NIỆM:
Đến chất vấn Đức Giê-su là những người thuộc hai nhóm đối lập nhau về chính trị là nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Hê-rô-đê. Để đối phó với Đức Giê-su là kẻ thù chung, hai nhóm này tạm thời liên minh đặt ra một cái bẫy để từ đó tố các giết hại Người:
CÁI BẪY ĐƯỢC GIƯƠNG RA:
"Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?", một câu hỏi thật sắc bén do họ đặt ra, để đưa Đức Giê-su vào thế bí, mà theo họ thì trả lời đàng nào cũng không ổn: Nếu Đức Giê-su bảo phải nộp thuế cho đế quốc, thì nhóm Pha-ri-sêu vốn có lòng ái quốc sẽ đi rêu rao rằng Người là kẻ bán nước, là tay sai của ngoại bang để đàn áp bóc lột đồng bào, hầu dân Do thái không tin Người là đấng Mê-si-a, mà họ đang tha thiết mong chờ. Nhưng nếu Đức Giê-su bảo rằng không được nộp thuế cho Xê-da, thì phái Hê-rô-đê vốn thân chính quyền, sẽ thừa cơ chụp mũ cho Người là một kẻ phản động, âm mưu xách động quần chúng chống việc nộp thuế cho hoàng đế Rô-ma, để Người sẽ bị chính quyền bắt bớ và kết án.
CÂU TRẢ LỜI CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
Trước hết Đức Giê-su đã vạch trần âm mưu đen tối của họ khi nói: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình !" Rồi sau đó Người đòi họ đưa ra đồng tiền nộp thuế. Đồng tiền này bằng bạc, trên có khắc hình và tên hiệu của Xê-da là hoàng đế Rô-ma. Khi được hỏi hình và tên hiệu là của ai, họ thưa: "Của Xê-da". Dĩ nhiên, Đức Giê-su đã biết rõ hình đó là của ai, nhưng Người muốn chính miệng họ nói ra điều này, để cho họ thấy: Một khi họ đã chấp nhận xử dụng đồng tiền của Rô-ma, tức là họ đã mặc nhiên công nhận quyền cai trị của Xê-da và coi ông là hoàng đế của mình. Từ đó, Đức Giê-su tuyên bố hai điều như sau:
"Của Xê-da trả về cho Xê-da": Nghĩa là phải trả cho Xê-da đồng tiền mang hình và danh hiệu của ông. Khi đã chấp nhận quyền cai trị của hoàng đế Rô-ma, thì đương nhiên cũng phải chu toàn bổn phận đóng thuế cho Xê-da ! Đây là đáp án cho câu hỏi "Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không ?"
"Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mt 22,21): Tuy bọn người này không hỏi về bổn phận đối với Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su vẫn nói đến: Phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Người. Đây là một bổn phận quan trọng mà những ai muốn là con hiếu thảo của Thiên Chúa không thể bỏ qua.
4) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
Các tín hữu chúng ta vừa là công dân của nước trần gian, lại vừa là công dân của Nước Trời. Là công dân nước trần gian, chúng ta được hưởng những quyền lợi công dân theo Hiếp Pháp và luật pháp quy định, như quyền tự do cư trú, tự do tín ngưỡng, quyền được bảo vệ tài sản tính mạng, quyền ứng cử và bầu cử. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng có trách nhiệm phải thi hành nghĩa vụ công dân như đóng thuế, bảo vệ an ninh tổ quốc... những kẻ vi phạm các nghĩa vụ công dân vừa có tội với đất nước, lại vừa có lỗi với Thiên Chúa như thánh Phao-lô đã dạy: "Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập" (Rm 13,1; Ga 19,11a). Trừ phi thế quyền buộc chối bỏ đức tin, thì bấy giờ phải theo nguyên tắc mà thánh Phê-rô đã nêu ra trước Thượng Hội Đồng do thái: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm" (Cv 5,29).
Là công dân của Nước Trời, chúng ta sẽ được hưởng những quyền lợi thiêng liêng tinh thần cũng như có trách nhiệm chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa. Chu toàn nghĩa vụ với Thiên Chúa, là tôn trọng các công trình do Người sáng tạo, nhất là tôn trọng con người là tạo vật được Thiên Chúa tạo nên giống hình ảnh Người (x St 1,26). Bên cạnh đó, chúng ta cũng có nghĩa vụ truyền giáo, là giúp cho người lương nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa, và ăn ở như con cái hiếu thảo đối với Đấng đã tác thành nên mình. Ngoài ra chúng ta còn phải tôn trọng các tài nguyên thiên nhiên và muôn sinh vật do Thiên Chúa dựng nên. Nhất là phải xử dụng những hồng ân Chúa ban như sức khoẻ, thời giờ, tiền bạc, và tài năng để làm vinh danh Chúa và phục vụ hạnh phúc cho tha nhân. Đó là trách nhiệm mà các tín hữu phải thực hiện nếu không muốn bị loại ra khỏi Nước Trời trong cuộc phán xét vào ngày tận thế (x Mt 25,41-45).
5) THẢO LUẬN:
Phân biệt quyền của nhà nước với quyền của Hội thánh khác và giống nhau thế nào? Theo Thánh Kinh, bạn có phải vâng phục thế quyền không? Tại sao? Khi thế quyền vi phạm quyền tự do tín ngưỡng thì bạn cần có thái độ nào? Muốn nên giống Thiên Chúa là tình yêu, bạn cần làm những gì cho tha nhân ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1. THIÊN CHÚA LÀ CHA ĐẦY NHÂN ÁI. Ngày nay nhiều người, nhất là các bạn trẻ, thường hay để đầu tóc, mặc quần áo theo kiểu của một ngôi sao điện ảnh, một ca sĩ nỗi tiếng hay một cầu thủ bóng đá mà mình ưa thích. Về phần chúng con, chúng con sẽ không theo bất cứ thần tượng nào, nhưng chỉ tôn thờ một Thiên Chúa Cha, chỉ học theo gương sáng của một vị Thầy tối cao là Đức Giê-su, và chỉ làm theo lời của một người chỉ đạo là Đức Ki-tô Con yêu dấu của Cha (x Mt 23,8-10).
LẠY CHA. Xin cho chúng con quyết tâm noi gương Đức Giê-su là "Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha". Xin cho chúng con có lòng bao dung nhân hậu để đón nhận mọi người là anh em. Xin cho chúng con biết chia sẻ hạnh phúc được làm con Cha cho những người chưa nhận biết và tôn thờ Cha. Xin cho chúng con luôn khiêm hạ phục vụ và tôn trọng tha nhân như Cha đã làm gương cho chúng con. Xin cho chúng con dám yêu đến cùng và cho đi tất cả để được Cha yêu thương tha thứ lỗi lầm, và ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
2. MẸ MA-RI-A. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã dạy các tín hữu phải yêu mến và xây dựng tổ quốc trần gian bằng việc chu toàn các nghĩa vụ công dân, khi nói: "Của Xê-da trả về Xê-da". Nhưng Người cũng nhắc chúng con ý thức rằng: dù đang sống giữa thế gian, nhưng chúng con không thuộc về trần gian như lời thánh Phao-lô: "Quê hương chúng ta ở trên Trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta" (Pl 3,20). Do đó, ngay từ bây giờ, chúng con phải chu toàn bổn phận mến Chúa yêu người như gương Chúa Giê-su làm và theo lời Người dạy.
LẠY MẸ. Ước gì người ngoài khi gặp thấy chúng con sẽ nhìn thấy Thiên Chúa qua lối sống khoan dung nhân hậu của chúng con. Ước gì người ngoài có thể nhận biết Chúa Giê-su đang sống trong chúng con, vì chúng con luôn sống theo Lời người. Ước gì chúng con năng thăm viếng, giúp đỡ cho nhiều người, để giúp họ nhận biết, tôn thờ và ca ngợi tình thương của Thiên Chúa, như Mẹ đã làm khi mang Đức Giê-su thai nhi đến thăm gia đình Gia-ca-ri-a, chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho Gio-an, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế và dâng bài kinh "Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa" (kinh Ma-nhi-phi-cát).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
--------------------------------
Mt 22, 15-21
Thưa quí vị.
Thời Chúa Giêsu, đồng tiền La mã (denarius) khắc hình Teberius (14-37 công nguyên) và hàng chữ ": TN 29-A38
Thời Chúa Giêsu, đồng tiền La mã (denarius) khắc hình Teberius (14-37 công nguyên) và hàng chữ "Tiberius con hoàng thượng Augustus thần linh, là thượng tế tối cao". Những người thuộc nhóm biệt phái đặc biệt nhức nhối về đồng tiền này, bởi nó gán nhãn hiệu thần thánh cho các vị vua chúa La mã. Do đó, sở hữu đồng tiền denarius là thờ phượng tà thần. Họ đã tìm ra phương thức trả thuế mà không cần dùng tiền denarius của La mã. Trong Tin Mừng hôm nay, họ không trực tiếp đến gặp Chúa Giêsu để khỏi phải tiếp xúc với đồng tiền gớm ghét. Họ sai đầy tớ cùng đi với những kẻ thuộc đảng Hêrođê. Và thánh Matthêo muốn sử dụng sự kiện này để làm nổi bật câu nói của Chúa Giêsu: " Hãy trả lại cho Xê-da, những gì thuộc về Xê-da và Thiên Chúa, những gì thuộc về Thiên Chúa". Đây là cái véo nặng nề vào nếp sống giả hình của Pharisêo nói riêng và nhân loại nói chung.
Trong giáo lý của giới cầm quyền đền thờ, có rất nhiều vấn đề gây tranh cãi và người ta dễ bị gài bẫy. Người Do Thái trong Sách Tin Mừng giăng bẫy Chúa Giêsu tất cả bốn lần. Đây là lần thứ nhất, ba lần còn lại là vấn đề kẻ chết sống lại, điều răn trọng nhất và con vua Đa-vít. Họ hỏi và Chúa trả lời. Lần nào Ngài cũng làm cho họ ngạc nhiên và cuối cùng không dám hỏi nữa. Có lẽ đây cũng là câu trả lời của cộng đồng thánh Matthêo cho những người thắc mắc về giáo lý của cộng đồng. Câu chuyện trả thuế cho Roma để đế quốc có tiền nuôi dưỡng một đạo binh tàn ác áp bức chính những người nộp thuế là vô lý rõ ràng. Đa số dân chúng Do Thái miễn cưỡng phải làm việc này, thẳng thắn thì chẳng ai ưa một việc hại dân, hại nước đến thế. Phái Pharisêo cay đắng cực lực phản đối. Nhưng trớ trêu thay họ lại liên minh với đảng Hêrođê, là những kẻ chủ trương nộp thuế để được yên thân làm giàu. Họ gài bẫy Chúa Giêsu. Mới hay lòng dạ con người! Sẵn sàng xóa bỏ nguyên tắc, bán rẻ lương tâm để đạt mục tiêu trước mắt. Các chính trị gia thời nay cũng vậy thôi, kể cả các nhà lãnh đạo tôn giáo! Họ đặt Chúa Giêsu vào tình huống tiến thoái lưỡng nan. Nếu Ngài chấp thuận nộp thuế, Ngài phản bội dân tộc và sẽ bị kết án vong bản. Không ai còn tin giáo lý của Ngài nữa. Nếu Ngài chống đối nộp thuế, Ngài sẽ bị quân đội Roma hành quyết ngay, hay tối thiểu cũng ngồi tù đếm lịch trọn kiếp.
Câu trả lời của Chúa Giêsu thật bất ngờ. Ngài gọi những người đến chất vấn Ngài là giả hình! Tại sao vậy? Bởi câu trả lời nằm ngay trong túi áo họ! Để cho sự việc rõ ràng hơn, Ngài yêu cầu cho xem đồng tiền nộp thuế: họ đưa cho Ngài một quan tiền Roma. Quan tiền đó in hình và dòng chữ của Xê-da. Một dấu hiệu rõ ràng chủ quyền của nhà vua về sở hữu chính trị và tôn giáo. Một người phàm mang dáng dấp thần linh! Một hôn quân cai trị dân Thiên Chúa. Một sự tủi nhục cho bất cứ người Do Thái nào! Nguyên do tại đâu thì ai nấy đều biết rõ! Đó là toàn dân đã phản bội giao ước với Thượng Đế. Những người mang đồng tiền đó đương nhiên phải trả thuế cho Xê-da, nghĩa vụ bắt buộc theo lẽ công bằng. Như vậy Chúa Giêsu công nhận quyền bính thế tục, nhưng Ngài không đưa ra một tiêu chuẩn nào tuyệt đối. Phần lý giải thuộc lãnh vực loài người. Thực tế, hơn hai nghìn năm nay đã có biết bao nhiêu trường phái giải thích và người ta vẫn chưa đồng ý được với nhau về phương án tuyệt hảo!
Đó là truyện lý thuyết, còn trên thực tế thì mọi công dân, có đạo hay không, đều được nhà nước chỉ bảo cho những bổn phận khá rõ ràng: nộp thuế, đi bầu, luật lệ căn bản, lòng yêu nước, yêu đồng bào v.v... Các Hội đồng Giám mục cũng thường đưa ra những khuyến dụ về các lựa chọn trong cuộc sống hàng ngày của giáo dân, ví dụ về giáo dục, y tế, thuế khóa, bầu cử... Thường thì trong các cuộc bầu cử các ngài chẳng chỉ định một ứng cử nào, nhưng kêu gọi tiêu chuẩn ngay chính cho các vấn đề đạo đức: phá thai, giúp đỡ người nghèo khổ, vay nợ nặng lãi, lựa chọn người ngoại kiều, thất nghiệp, đời sống xứng đáng cho mỗi công dân. Lương tâm mỗi người sẽ đưa ra những quyết định cụ thể.
Phần thứ hai của câu Chúa Giêsu trả lời, càng làm cho chúng ta ngạc nhiên hơn nữa: "Của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa". Trên trần gian này có cái chi là không của Thiên Chúa? Chính bản thân hoàng đế La- mã cũng là của Thiên Chúa. Cho nên ngoại trừ tội lỗi còn hết muôn loài muôn vật đều thuộc quyền Thiên Chúa. Vậy thì hết mọi sự trên trời dưới đất đều phải trả về cho Đấng tối cao! Nếu những người Pharisêo và cấp lãnh đạo đền thờ hiểu ra câu này hẳn họ đã qui phục giáo lý của Chúa Giêsu. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn chưa hiểu, bằng chứng là chúng ta vẫn cư xử quá ư ích kỷ, chiếm đoạt tài sản, danh dự và vinh quang Thiên Chúa. Chúng ta phân rẽ đạo, đời để từ chối thánh ý của Thiên Chúa trên vạn vật! Trả về cho Thiên Chúa những chi thuộc về Ngài đòi hỏi chúng ta toàn tâm, toàn ý phụng sự Ngài, toàn tâm, toàn ý thương yêu đồng loại. Đã có rất nhiều gương sáng về điểm này, dù biết Chúa hay không. M. L. King tranh đấu cho những người da đen ở Mỹ, Mahatma Gandhi ở Ấn độ, Bartolomeo de las Casas ở Châu Mỹ La tinh, Thủ tướng Dietrich Bonhaeffer của Đức chống lại Hitler, Dorothy Day chống lại các đạo luật bất công của chính phủ Mỹ v.v..
Chúng ta chẳng thể khoanh tròn đời sống tôn giáo khỏi phạm trù trần tục. Sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa không thể giới hạn vào một phạm vi hạn hẹp nào. Nó bao trùm hết mọi lãnh vực. Đó là điều tiên tri Isaia đề cập tới trong bài đọc một hôm nay. Quan niệm của chúng ta về Thiên Chúa thường khi là thiển cận. toàn bộ vũ trụ này được Thiên Chúa tạo dựng và thuộc quyền sở hữu của Ngài, chẳng trừ điều chi. Trái tim, linh hồn, thân xác, trí khôn chúng ta đều thuộc về Thiên Chúa.
Vậy câu nói của Chúa Giêsu, trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc quyền Ngài, đòi hỏi mỗi người phải xét lại não trạng sống của mình. Chúng ta có những lầm tưởng tai hại mà sau này phải trả lẽ. Thiên Chúa đòi lòng trung thành tuyệt đối của chúng ta mọi nơi, mọi lúc với chủ quyền của Ngài. Bí tích rửa tội không phải là công việc bán thời gian. Nó là toàn thể cuộc sống mỗi người trong Hội Thánh. Vì vậy không thể sống lúc này thì phụng thờ Chúa, lúc khác theo dục vọng bất kham của mình.
Thánh tông đồ Phao lô đã truyền dạy: Chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi để sống cuộc đời đức tin và lòng mến. Hiện thời chúng ta đã có ơn đức tin, thì chúng ta phải sống ơn đó bằng hết cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa và các công việc của Ngài! Thí dụ, chúng ta có gia đình thì phải dấn thân nuôi nấng vợ con toàn thời gian, không chia sẻ chút chút cho mối tình mèo mỡ nào khác. Chúng ta được kêu gọi để phục vụ tha nhân, khấn những lời khấn khó nghèo, vâng lời và trong sạch, thì không nên đòi lại những chi mình đã khấn hứa. Nhờ ơn Chúa chúng ta đi trọn con đường mình đã dấn thân.
Có một nhà đạo sĩ khổ công tu luyện 40 năm trên mỏm núi cao, cạnh một con sông. Ông thành công đắc đạo đến độ cả miền đều hay biết tiếng tăm. Một nông dân thấy vậy, bán tín bán nghi, cất công tới thăm nhà đạo sĩ. Bác nông dân hỏi: "Quả nhân nghe nói về tôn sư như vậy đó, đúng không?" "Đúng chứ sao không!" Nhà đạo sĩ trả lời, rồi trổ tài bay qua sông và trở lại mỏm đá: "Nhà ngươi thấy chưa?" Bác nông dân hết lòng khâm phục, ngẫm nghĩ một lát, bác kêu người chèo đò thuê chở bác qua sông, rồi lại trở về. Tới bến, bác nông dân nói với nhà đạo sĩ: "Tưởng gì chứ ông tu bốn mươi năm mà chỉ làm được công việc tôi chỉ cần mất có bốn mươi xu". Nói xong người nông dân bỏ đi. Chúng ta không thể thành công kiểu đó, nhưng phải trong thánh ý và đường lối của Thiên Chúa. Vậy lời Chúa Giêsu dạy bảo: Trả về cho Thiên Chúa những chi thuộc quyền Ngài, quả là chí lý. Xin hãy suy gẫm kỹ bài Tin mừng và thực hành đầy đủ, chúng ta sẽ không thành công theo kiểu nhà đạo sĩ.
Tôi còn nhớ như in, trong một lần bầu cử ở nước Hoa kỳ, tác giả John Kavanaugh nhận xét dưới ánh sáng Tin Mừng hôm nay như sau: " Từ miệng vương giả của cả hai đảng đều tuôn ra những lời hoa mỹ rỗng tuyếch. Một đảng lắp bắp về "luân lý", phe khác về "điều phải". Nhưng đàng sau các từ ngữ liến thoắng đó là thế này: hãy bầu cho chúng tôi, quốc gia sẽ tiến triển đẹp đẽ hơn. Nhưng người ta chẳng thể tìm thấy một lời nào kêu gọi lòng quảng đại, từ tâm, kỷ luật hay tinh thần hy sinh xả kỷ. Những nội dung đó, nếu có, thì dành riêng cho giai cấp nghèo khổ, khố rách áo ôm. Thản hoặc có nói đến lòng thương cảm thì đó là vì chủ nghĩa tự tôn." (American Magazine).
Thiết nghĩ, câu hỏi của Chúa Giêsu: " Hình của ai đây?" là cơ hội thuận tiện để chúng ta suy nghĩ cặn kẽ hơn. Trong đồng tiền Roma mang ảnh tượng của Xê-da, nhưng tất cả chúng ta đã được tạo dựng theo họa ảnh và hình tượng Thiên Chúa. Không ai dám từ chối sự thật đó. Vậy thì trong cuộc sống hằng ngày chúng ta phải là những "Icon" (ảnh tượng) của Thiên Chúa, dù là trong đời sống chính trị, tôn giáo, kinh tế hay bất cứ lãnh vực nào. Chúng ta thuộc về Thiên Chúa cho nên trong hành động, lời nói, việc làm phải bày tỏ dấu ấn của Ngài, ngoài ra là phản bội. Khi thế lực chính trị xúc phạm hình ảnh Thiên Chúa trong linh hồn mỗi người, cá nhân hay cộng đồng, chúng ta phải mãnh liệt phản kháng lại, bảo tòan nguyên vẹn tính thánh thiêng của nó. Tuy nhiên, hãy luôn nhớ: cả nạn nhân, cả người áp bức đều đã được tạo dựng theo cùng họa ảnh Thượng Đế. Như vậy, Vương quốc Thiên Chúa và thế tục không có ranh giới rõ ràng. Ưu tiên là phải trung thành với Thiên Chúa. Quyền lợi của Ngài là trên hết và phải được bảo toàn nguyên vẹn. Khiếm khuyết phần nào là tội lỗi phần đó. Lại còn phải thăng tiến và truyền bá để toàn thể nhân loại tôn trọng và kính mến. Tác giả Charles Cousar cho ý kiến: "Khi hình ảnh Thiên Chúa trong cá nhân nào bị làm lu mờ, thì lúc ấy cá nhân đó không còn là con người đúng nghĩa. Do đó, Tin Mừng hôm nay chứa đựng nhiều yếu tố cách mạng cho cả hai, người bị áp bức và kẻ áp bức."
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta sẽ được lãnh nhận toàn vẹn Đấng trung tín tuyệt đối: Đức Giêsu Kitô thành Nazareth. Ngài đã dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa và công việc thần linh. Ngài không hề lay chuyển hay thỏa hiệp. Lương thực này sẽ ban cho chúng ta khả năng trung thành để giúp đỡ chúng ta chu toàn mọi bổn phận cách tuyệt hảo. "Những chi thuộc về Thiên Chúa?" Thưa tất cả mọi sự mọi loài. Bí tích Thánh thể sẽ biến đổi "giấc mơ" đó thành hiện thực. Amen.
--------------------------------
Mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có ý chí. Có lý: TN 29-A39
Mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có ý chí. Có lý trí để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Trước khi dựng nên loài người, Thiên Chúa phán: “Ta hãy dựng nên con người như hình ảnh Ta và giống Ta… và Thiên Chúa đã thực hiện dự định ấy: Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa”. Cái hình ảnh ấy con người mang trong mình từ khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên giống Chúa hơn. Tư tưởng ấy Chúa Kitô đã nhắc lại cho chúng ta hôm nay trong dịp tranh luận với nhóm Pharisêu.
Chúa là sự thật hiện thân, là chân lý vĩnh cửu, nên Ngài rất ghét những kẻ giả hình: bề ngoài thơn thớt nói cười mà bề trong nham hiểm giết người không gươm. Họ định đến gài bẫy để bắt lỗi Chúa thế mà họ chỉ dùng toàn những lời tâng bốc xu nịnh: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật… chẳng vị nể ai…”. Chúa không thể chịu được cái giọng dối trá ấy, vì đối với Ngài thì “có phải nói là có, không thì nói là không, còn những cái quá trớn đều là xấu xa”. Vì không thể chịu được nên Chúa đã phải gọi họ là bọn giả hình, và Ngài đã cho họ biết những mánh lới quỷ quyệt của họ không làm gì nổi Ngài. Chúa bảo họ cho Ngài xem một đồng tiền vẫn đóng thuế. Thời ấy ở Palestine, dân chúng tiêu dùng hai thứ tiền: khi đóng thuế vào đền thờ thì bắt buộc phải dùng tiền Do Thái, bởi vì theo luật Do Thái, không một hình ảnh sinh vật nào được đưa vào khu vực đền thờ, mà tiền ngoại quốc lại thường có hình người hay vật, còn tiền Do Thái chỉ có số và niên hiệu mà không có hình ảnh gì. Trái lại, khi nộp thuế cho chính phủ bảo hộ thì phải dùng tiền Rôma, tiền của Xêda. Ai đổi lấy tiền ấy, tức là bằng lòng đóng thuế. Chúa bảo đưa Chúa xem không phải là Chúa không biết thứ tiền ấy, mà Ngài chỉ muốn đưa họ vào chính cái bẫy mà họ đã gài định mưu hại Chúa. Nghĩa là Chúa làm cho họ thú nhận bằng lời nói và việc làm rằng họ muốn hay ít nữa bằng lòng đóng thuế cho Xêda rồi. Chúa sẽ không trả lời câu họ hỏi có nên hay không nên nộp thuế mà Ngài chỉ nói: “Của Xêda thì trả về Xêda”, nghĩa là các ông đã có tiền của Xêda tức là các ông đã sẵn sàng đóng thuế cho Xêda rồi, còn hỏi làm gì nữa ? Hãy đưa cái của nợ ấy mà hoàn lại cho Xêda, thế là xong. Câu trả lời của Chúa còn bao hàm một ý nghĩa về quyền lợi của chính phủ hay chính quyền hợp pháp, “Quyền hành hợp pháp là do Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô đã viết như thế cho giáo đoàn Rôma và Ngài còn thêm: “Những gì ta nợ ai thì phải trả cho người ấy”, mắc sưu thì trả sưu, mắc thuế thì trả thuế, mắc tôn trọng thì trả tôn trọng, mắc yêu mến thì trả yêu mến. Những cái đó cũng là những món nợ: nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đòi hỏi ở chúng ta. Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi, mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Để làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng, Chúa Giêsu đã không ngần ngại thêm: “Và hãy trả về Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Chúng ta nợ Chúa những gì ? Chúng ta nợ tất cả. Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Ngươi có cái chi mà ngươi đã không nhận được? Nếu ngươi đã nhận được ở chỗ khác thì sao lại hãnh diện như là không”. Ngoài những đức tính, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người: linh hồn, lý trí, ý chí, những cái chúng ta nhận được khi thụ thai, những cái làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh, nhiều vốn khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh Con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xoá đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có nhiệm vụ bảo tồn hình ảnh ấy được nguyên vẹn, mà chúng ta còn có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, tươi đẹp. Hình ảnh ấy không thể chỉ là bức hoạt hoạ hay hí hoạ. Bức hoạt hoạ chỉ làm trò cười cho thiên hạ thôi. Bức hình ấy phải là bức ảnh truyền thần tô mầu, đúng chân dung Chúa Kitô: Chúa là Đấng đáng yêu mến, quý trọng… thì hình ảnh của Ngài cũng phải gợi lên được những tâm tình ấy, nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng yêu mến quý trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí hoạ của Chúa. Những người mới tập vẽ hay những hoạ sĩ kém khi vẽ một bức chân dung xong, cho dù cố gắng mấy vẫn còn phải đề tên người được vẽ ở dưới, không thì người xem bức hình ấy sẽ không biết là ai. “Hình này là hình ai đây?”. Câu ấy có thể là một câu mà Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng ? Có biết bao tín hữu đều là những bức hình cần phải đề tên rõ ở dưới, nghĩa là nếu không có một mẫu ảnh, một tấm áo hay một huy hiệu nào trên người họ thì người khác không thể biết được họ là tín hữu. Trên cổ họ có lẽ lúc nào cũng cần phải đeo một tấm bảng nhỏ ghi: “Đây là một tín hữu”, bởi vì họ không mang trên mình họ, trong con người họ, trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động của họ một nét nào là nét Chúa nữa.
Hôm nay, Chúa đòi và mong muốn chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Chúa đã trao cho chúng ta khi chúng ta được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội, và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi Chúa, mà còn phải là một hình ảnh đẹp gấp bội nữa, bởi vì nén vàng nén bạc trao cho chúng ta cần phải sinh lời ra nữa, bức hình trao cho chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa. “Hình ai đây?”. Hằng ngày chúng ta hãy tự cảnh tỉnh mình như thế: tôi làm việc này, tôi nghĩ ngợi như thế, tôi ăn nói như vậy có giống Chúa không ? Hành động này, tư tưởng ấy, lời nói kia là hình ảnh ai đó ? Chúa hay Xêda ? Hãy trả ngay cho Xêda những gì là của Xêda. Và nhất là hãy giữ lại để trao về cho Chúa những gì là của Chúa.
--------------------------------
Thật là sai lạc khi nghĩ rằng Giáo hội Công giáo thì chống đối lại nhà nước. Với chúng ta thật: TN 29-A40
Thật là sai lạc khi nghĩ rằng Giáo hội Công giáo thì chống đối lại nhà nước. Với chúng ta thật rõ ràng và minh bạch, khi chúng ta trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, nhưng chúng ta cũng không quên trả lại cho quê hương đất nước những gì thuộc về quê hương đất nước. Thế nhưng, trong trường hợp có những nhà nước chủ trương một chính sách bài trừ tôn giáo, xoá bỏ địa vị của Thiên Chúa, thì chúng ta phải phản ứng như thế nào ?
Tôi nghĩ rằng chúng ta phải đấu tranh, phải phản kháng nhưng không phải với bạo lực và sức mạnh, bởi vì đối với chúng ta chống lại chính quyền hợp pháp là một tội, lỗi điều răn thứ tư. Chúa Giêsu cũng đã không giảng dạy sự bạo động nhưng đã giảng dạy đức vâng lời, cho dù là vâng lời một chính quyền ngoại đạo.
Thánh Phaolô cũng chủ trương như thế khi ngài viết cho các tín hữu Rôma: Ai chống đối lại quyền bính thì cũng chống đối lại Thiên Chúa. Các tín hữu đầu tiên đã không dùng gươm giáo để chống lại những sự bắt bớ cấm cách, nhưng đã chấp nhận tù đày và chết chóc. Cuộc chiến đấu của chúng ta là một cuộc chiến đấu cân não, là một cuộc chiến đấu siêu nhiên. Bằng những đường lối hợp pháp, chúng ta thành thực bày tỏ những nguyện vọng chính đáng của chúng ta. Trong trường hợp có những luật lệ đi ngược với đường lối của Thiên Chúa, thì chúng ta không buộc phải tuân giữ, bởi vì chúng ta hãy nhớ tới lời thánh Phaolô: Thà vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.
Đức thánh Cha Léo XIII đã cho biết một kinh nghiệm quí giá: trong thời bình cũng như trong thời chiến, những Kitô hữu nhiệt thành bao giờ cũng là những người công dân tốt. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau, và ngay cả cái chết để không chối bỏ Thiên Chúa và Giáo Hội, bởi vì nhà nước không phải là Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng tối cao và quyền năng mà thôi.
Hẳn chúng ta còn nhớ trước toà án Philatô, Chúa Giêsu đã trả lời: Nếu từ trên không ban cho ông thì ông chẳng có quyền hành gì đối với tôi. Hay như thánh Phaolô cũng đã viết: Mọi quyền bính đều xuất phát bởi Thiên Chúa để phụng sự cho Thiên Chúa. Còn trong trường hợp nhà nước tôn trọng tự do tín ngưỡng, đảm bảo cho người công dân được thi hành niềm tin tưởng của mình, thì chúng ta có bổn phận phải cộng tác. Mặc dù có sự phân biệt giữa đạo và đời, nhưng chúng ta vẫn có thể tạo được một sự hợp nhất chân thành để cùng nhau làm tốt đời đẹp đạo. Bởi vì của César phải trả cho César và của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa.
Chúng ta mong muốn, chúng ta nguyện ước cho nhà nước luôn được như thế. Có người cho rằng nhà nước và Giáo Hội là hai cơ chế riêng biệt, như hai đường thẳng song song, mà sự hợp nhất chỉ đem đến những lạm dụng tai hại. Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi giữa nhà nước và Giáo Hội có nhiều điểm khác biệt, thế nhưng cả hai cùng theo đuổi cái lợi ích, cái tốt lành cho dân chúng. Chính ở khởi điểm này mà có thể hợp nhất với nhau. Nếu nhà nước và Giáo Hội cùng cộng tác và nếu mỗi người chúng ta cùng nỗ lực làm tốt đời đẹp đạo, thì chắc chắn đất nước này sẽ mỗi ngày một phát triển và quê hương này sẽ mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.
--------------------------------
Một thương gia tuổi đã trung niên, vừa đáp máy bay xuống phi trường sau một chuyến đi làm ăn: TN 29-A41
Một thương gia tuổi đã trung niên, vừa đáp máy bay xuống phi trường sau một chuyến đi làm ăn xa trở về. Bà vợ ra phi trường đón chồng ngay tại cửa máy bay. Vừa bước ra khỏi cửa, người chồng gặp cô chiêu đãi viên hàng không trẻ đẹp và hấp dẫn đi ngang qua. Với vẻ mặt rạng rỡ, ông thương gia nói với cô chiêu đãi viên hàng không rằng: “Tôi hy vọng chúng mình sẽ bay chung với nhau nữa, cô Saunders”. “Làm sao anh biết tên cô ấy ?” Bà vợ liền hỏi chồng. Ông chồng trả lời ngon lành, “Em nhìn thấy không, tên của cô ấy được ghi trên bảng ngay phía trước máy bay, dưới tên của người phi công chính và phi công phụ”. Căn cứ vào lời chồng nói, bà vợ hỏi tiếp, “Thế hả, vậy anh nói cho em biết tên của người phi công chính và phi công phụ đi ?” Ông thương gia đỏ mặt lúng túng. Sự gian dối, giả hình đã bị lộ tẩy.
Phúc âm hôm nay, cho chúng ta thêm một ví dụ nữa về lòng dạ gian dối của những người Pharisêu khi họ cố tình gài bẫy Chúa Giêsu. Ngài thường lên án sự giả hình và gian dối của họ bằng những lời lẽ thật nặng nề: “Tại sao các người lại thử Ta, hỡi những kẻ giả hình !” “Khốn cho các ngươi, hỡi những người Pharisêu !”
Trong chương trình “Late Show” kể chuyện hài hước trên tivi, Jay Leno nói về bài diễn văn nhận chức tổng thống của tổng thống George Washington kéo dài chỉ có một phút rưỡi mà thôi. Leno đã nói: “Tôi đoán rằng sẽ chẳng có chuyện gì nhiều để nói nếu bạn là một nhà chính trị mà lại không nói dối !”
Những người Pharisêu là những chức sắc trong tôn giáo, mặt trong họ chống lại chính quyền Lamã đang cai trị dân Do Thái, mặt ngoài họ thoả hiệp với chính quyền để củng cố và duy trì địa vị. Họ đã bàn tính với những người thuộc phái Hêrôđê, đang điều hành guồng máy chính quyền Lamã thu thuế ở Palestine, hỏi Chúa Giêsu rằng: “Có được phép nộp thuế cho Cêsarê không ?”. Nếu trả lời không, Chúa sẽ bị chính quyền Lamã bắt vì tội phản loạn. Nếu trả lời có, Chúa sẽ bị những người Do Thái ái quốc và quần chúng đang theo Ngài bỏ rơi. Trả lời cách nào Chúa cũng bị thiệt thòi, theo như họ đã nghĩ. Một cách khôn ngoan, Chúa không trả lời “không” hay “có”, nhưng chỉ vào đồng tiền có hình Cêsarê mà nói: “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”.
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta không nên giải thích rằng Thiên Chúa và Cêsarê nằm trên hai đường thẳng song song, không nên nghĩ rằng Thiên Chúa và xã hội trần gian sẽ không bao giờ gặp gỡ nhau. Thiên Chúa luôn nắm giữ quyền tối thượng trên mọi sinh hoạt của con người.
Một câu chuyện huyền thoại cổ kể về một ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải làm theo ý mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được là phá huỷ niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn thông thái nhất nước đến và hỏi: “Tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân chúng sẽ không thể tìm thấy Ngài ?” Nhà thông thái thứ nhất trả lời: “Hãy dấu Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng sẽ không tìm ra Ngài”. Nhà thông thái thứ hai không đồng ý: “Như thế không được ! Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào không gian, tới những hành tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt hơn hết là dấu Ngài xuống đáy đại dương”. Người thứ ba phản đối: “Như thế cũng không được ! Một ngày nào dân này sẽ biết cách lặn xuống đáy biển, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa. Tốt hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của mỗi người ; không ai có thể tìm thấy Ngài cả !”
Thiên Chúa hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, và con người, một loài thụ tạo, có bổn phận phải nhận biết và yêu mến Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo đã dạy ở số 1. bắt đầu sách giáo lý rằng: “Trong một dự tính hoàn toàn do lòng nhân hậu, Thiên Chúa vô cùng toàn hảo và hạnh phúc nơi bản thân mình, đã tự ý sáng tạo nên con người để cho con người được thông phần vào sự sống diễm phúc của Ngài. Bởi vậy, ở mọi nơi và mọi thời, Ngài muốn ở gần con người. Ngài kêu gọi con người, giúp con người tìm kiếm Ngài, nhận biết và yêu mến Ngài hết sức mình”.
--------------------------------
Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của Cêsarê ? Đây không chỉ là vấn đề của những người Phari: TN 29-A42
Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của Cêsarê ? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người có bổn phận phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”,
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư gửi tín hữu, thánh Gioan đã viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy… ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình”.
Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay lấy đi quyền này của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi chính quyền chu toàn bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành cả hai bổn phận trung thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính quyền theo đuổi một chính sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người, người dân không thể chu toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên tiếng trả lời.
Sách Giáo lý Công giáo số 2242 đã nói: “Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta”.
Vua Henri nước Anh, đã có vợ rồi, nhưng muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng ấn không ký, vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã bị hành quyết và trở thành một vị thánh.
Dietrich Bonhoeffer đã dám đi ngược lại đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới tột đỉnh ở Đức. Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình, và sau này những lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói, “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để trung thành”. Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
Một tờ báo cổ vũ về giá trị của đời sống gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến thăm thủ đô Washington D.C… Ông rất cảm động trông thấy những nghị sĩ và dân biểu mà từ trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn ngắm những toà nhà của chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước. Nhưng cái cảnh gây ấn tượng mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu khi viếng thăm toà nhà quốc hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington, ộng tự nghĩ: “Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ !”
Sau này, người đàn ông đó có dịp đến thăm một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia đình này sau khi đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà. Ngồi vào bàn ăn tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng nghe những câu chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng khi người cha của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay nhau, cúi đầu tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội, cho bạn bè, cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc, cho tổng thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt đầu suy nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra mình đã sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý thức rằng quyền lực thực sự của một quốc gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức của chính quyền. Quyền lực thực sự của một quốc gia được tìm thấy trong những mái gia đình đang tự do: “trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”.
--------------------------------
Nghi thức hôn phối được bắt đầu khi nghe tiếng đàn vọng lên. Họ hàng bên đàng gái hồi hộp: TN 29-A43
Nghi thức hôn phối được bắt đầu khi nghe tiếng đàn vọng lên. Họ hàng bên đàng gái hồi hộp đợi chờ tiếng đàn vang lên. Nhưng đợi mãi vẫn không thấy, nên người giúp lễ đã ra hiệu cho người đánh đàn bằng cách búng tay. Những vẫn không thấy động tĩnh gì. Người giúp lễ liền vỗ tay để ra hiệu, cũng không ăn thua. Vì mọi người đang chờ, cho nên người giúp lễ hoảng hốt vội vàng kêu tên của người đánh đàn to tiếng: "Quì... Quì." mọi người trong nhà thờ liền quì xuống.
"Kurios Christos!" (Chúa Kitô là Chúa) là bản tuyên xưng đức tin của nhóm người La Mã sống vào thế kỷ đầu tiên công nguyên. Họ là những người được gọi là Kitô giáo. Vào thời kỳ này vua là chúa mọi người vì thế mọi người phải quì bái trước bàn thờ của vua Caesar. Mỗi năm họ buộc phải kêu tên nhà vua, "Kurios Caesar," nghĩa là "Caesar là chúa tể." Khi nhóm người Kitô giáo hồi đó đọc bản tuyên xưng của họ thì cũng có nghĩa là "Quốc gia-Caesar-không phải là chúa!"
Họ đã minh chứng những gì đã được tuyên xưng trên núi Sinai: "Chúng tôi sẽ không có chúa nào khác ngoài Thiên Chúa". Họ cũng xác định sự trung thành đối với Chúa cao hơn đối với quốc gia. Chính vì thế, nhiều người đã bị quẳng cho sư tử ăn thịt. Tuy nhiên, lòng cương quyết của họ vẫn không ngừng cho dù phải chết cách nào đi nữa họ vẫn thưa, "Không!" vì họ nghĩ, "quốc gia này phải luôn luôn dưới quyền của Chúa, và quốc gia này sẽ bị Chúa phán xét."
Một thương gia vào khoảng 45 tuổi được vợ đón tại phi trường sau khi thi hành công tác. Khi cô chiêu đãi viên xinh đẹp đi ngang qua hai người, người chồng liền nói với cô ấy: "Tôi hy vọng sẽ được bay với cô trong chuyến bay khác. Cô Lan." Người vợ nghe thấy vậy, nóng mặt hỏi chồng: "Làm sao anh biết được tên cô ta?" Ông chồng đáp: "Tên cô ta được ghi trong danh sách của chuyến bay, anh còn biết tên cô ta ở dưới tên của người phi công nữa." Người vợ hỏi tiếp: "Vậy tên của người lái máy bay tên gì. Anh có thể cho em biết được không?" Ông ta thua trận và sự giả dối của anh ta đã bị lộ.
Chúa Giêsu chỉ trích mạnh mẽ về sự giả hình. Ngài lên án những hạng người chỉ bày tỏ vẻ bề ngoài khi họ ăn chay và cầu nguyện: "Giả hình, vì họ làm như vậy để được khen ngợi và được mọi người biết đến." Ngài lên án những người làm đầu trong đền thờ vì họ chỉ ca tụng Chúa trên môi miệng, nhưng lòng họ thì trống rỗng.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, nhóm Pharisiêu cố gắng dụ Chúa Giêsu vào cạm bẫy của họ bằng cách làm cho Ngài lỗi luật quốc gia. Họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho Caesar hay không. Họ nghĩ Chúa Giêsu sẽ chống lại việc nộp thuế cho chính phủ La Mã, như vậy có lợi cho nhóm người tư tế, và Ngài sẽ bị bắt vì chống lại nhà nước. Và nếu Chúa Giêsu làm ngược lại thì làm phật lòng nhóm tư tế. Họ gài Chúa Giêsu vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nhưng Chúa Giêsu trả lời họ cách khôn ngoan, tránh né không đi vào phe nào. Ngài cắt nghĩa cho họ biết những gì của Caesar thì trả cho Caesar, còn những gì của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Ngài nhìn thấu sự giả hình của bọn họ, Ngài không muốn bước vào cạm bẫy của bọn chúng.
Nhưng những gì của Caesar? Những gì của Thiên Chúa? Đó không phải là những câu hỏi khó trả lời chỉ riêng đối với nhóm Biệt Phái, nhưng cũng là những câu hỏi khó giải quyết đối với các Tông đồ. Và ngay trong thời đại này cũng là một vấn nạn trong tôn giáo. Chính phủ thay đổi, hình thức cũng thay đổi, quốc gia, kinh tế, văn hóa và xã hội luôn được thay đổi nhưng vấn nạn thì không bao giờ thay đổi.
Những gì là của Chúa? Những gì là của Caesar? Chúa Giêsu để cho chúng ta tự giải quyết lấy chính mình. Hơn thế nữa, Ngài đã dùng chính mạng sống mình để giải quyết vấn nạn đó. Ngài ban cho chúng ta lề luật thông thường nhất, nhưng chúng ta đã làm cho nó trở nên phức tạp khi thi hành. Luật đó được đặt ra khi người ta hỏi Ngài về giới luật nào trọng nhất. Ngài trả lời: "Ngươi phải yêu Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức và hết linh hồn ngươi." đó là điều răn thứ nhất và trọng nhất. Còn điều răn thứ hai: "Ngươi phải thương yêu kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22:38).
Chúa Giêsu đã đề cao giới luật này trong suốt cuộc sống công khai của Ngài trong mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Ngài tuyên bố hai giới luật này không bao giờ tách rời được. Chúng ta không thể chu toàn giới luật thứ nhất nếu không hoàn tất giới luật thứ hai. Nói yêu Chúa nhưng không thương yêu tha nhân thì hoàn toàn trái nghịch. Thánh Gioan nói," Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì họ không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không trông thấy. Đây là giới luật mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình (1 Jn 4:20,21).
Nếu như vậy khi nào chúng có thể vừa thi hành luật Chúa và đồng thời thi hành luật quốc gia? Thiên Chúa ban cho chúng ta phẩm tính con người khi tác tạo nên chúng ta. Mỗi cá nhân được hưởng quyền đó. Mọi người đòi buộc phải trọng kính nhân phẩm này. Khi luật quốc gia vi phạm đến nhân phẩm con người như: phá thai, kỳ thị, nô lệ vân vân... chúng ta không tuân theo cũng không lỗi luật quốc gia, vì chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa hơn luật con người.
Chúng ta hãy trao lại Chúa những gì thuộc về Ngài. Chúng ta phải vâng phục Thiên Chúa. Chúng ta phải bỏ đi những gì làm chúng ta xa lìa Chúa.
--------------------------------
Bài Phúc âm hôm nay có một câu đặc biệt thường được trưng dẫn, đó là: "Của Xêsa hãy trả cho: TN 29-A44
Bài Phúc âm hôm nay có một câu đặc biệt thường được trưng dẫn, đó là: "Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng làChúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: "Những gì của Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy".
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Hôm nay Lời Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng lời cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đây đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
--------------------------------
Mt 22,15-21
A. Hạt giống...
Sự khôn khéo của Chúa Giêsu trong chuyện này không phải chỉ là không để mình mắc bẫy: TN 29-A45
Sự khôn khéo của Chúa Giêsu trong chuyện này không phải chỉ là không để mình mắc bẫy những người thuộc hai nhóm pharisêu và Hêrôđê, mà còn là dạy lại cho họ một bài học “Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”: họ chỉ mãi lo chuyện thế tục (“của Xêsa”: vấn đề nộp thuế) mà quên lo bổn phận tối thượng là thờ phượng Thiên Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa đã làm gương cho chúng ta phải có những lập trường sống rất rõ rệt và dứt khoát: trong lãnh vực nào thì phải sống như thế nào ? đối với hạng người nào thì phải cư xử như thế nào ? đối với vấn đề gì thì phải có lập trường gì ? v.v. chứ đừng ba phải để mình bị lôi cuốn đẩy đưa theo hoàn cảnh, theo dư luận hoặc theo áp lực. “Của Xêxa hãy trả cho Xêxa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” là một lập trường sống rõ ràng về vấn đề thế quyền và thần quyền. Nhưng còn nhiều lãnh vực khác nữa: thí dụ tôi có lập trường thế nào về tương giao với phụ nữ ? về cách xài tiền ? về danh vọng, địa vị ? về gian nan thử thách ? v.v.
2. Câu “Của Xêxa hãy trả cho Xêxa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” còn dạy tôi không được nhập nhằng lẫn lộn, hay nói cách khác là “giờ nào việc ấy”. Giờ làm việc thì làm việc hết mình, giờ chơi thì chơi hết mình, giờ cầu nguyện thì cầu nguyện hết mình… đừng lấy giờ cầu nguyện để làm việc, đừng lấy giờ làm việc để chơi, cũng như đừng lấy giờ chơi để làm việc v.v.
3. Câu trên còn cảnh giác chúng ta về một thói xấu chúng ta thường vấp phạm, đó là lấy của Thiên Chúa để trả cho Xêxa. Chẳng hạn lấy giờ cầu nguyện để làm việc khác.
4. Nhiều nhà nuôi ong chuyên nghiệp có thể chăm sóc tổ ông mà không cần mang mạng che mặt hoặc quần áo đặc biệt gì cả. Nhờ đâu ? Kỹ thuật rất đơn giản: phải rất bình tĩnh và cử động phải rất chậm chạp và dứt khoát. Nhờ đó các con ông cũng bình tĩnh không hoảng sợ mà tấn công lại. Ngay cả khi các con ông đậu trên tay, trên mặt họ, họ cũng không khiến chúng sợ hãi.
Câu chuyện trên là minh họa thêm cho ta thấy rõ hơn một đức tính của Chúa Giêsu: luôn bình tĩnh trước bất cứ tình huống nào.
5. “Giận dữ là ngọn gió thổi tắt ngọn đèn của trí khôn” (Robert Ingersoll)
6. Mầm khác:
--------------------------------
Thời Chúa, dân tộc Do Thái đang phải sống dưới ách nô lệ của người Lamã. Sẵn sàng nộp thuế: TN 29-A46
Thời Chúa, dân tộc Do Thái đang phải sống dưới ách nô lệ của người Lamã. Sẵn sàng nộp thuế cho người Lamã (nộp thuế cho vua Césarê), tức là nộp cho kẻ thống trị mình, là thiếu tinh thần ái quốc, nhưng không chịu nộp thuế, thì sẽ bị gán vào tội làm phản loạn. Cũng vì thế mà ta thấy những người biệt phái đã gài bẫy Chúa, trong câu hỏi họ đưa ra. Trả lời có, hay không đều bị mắc bẫy. Dân chúng lúc đó lại đang dùng tiền có in hình Hoàng Đế Césarê, nên Chúa đã khôn khéo trả lời cho họ là đồng tiền có in hình Césarê, tức là của Césarê thì phải trả cho Césarê, và nhân cơ hội này, Ngài lại đưa chúng ta vào một nghĩa vụ siên nhiên, là những gì thuộc về Thiên Chúa thì phải trả cho Thiên Chúa.
Theo đức Tin, Chúa đã tạo dựng nên muôn loài, kể cả loài người chúng ta, và mỗi người chúng ta đều lệ thuộc vào Chúa trong mọi phương diện. Chẳng những chúng ta phải giữ các điều Chúa truyền dạy, mà khi cần thiết, chúng ta phải hy sinh cả mạng sống của ta Chúa Chúa.
Sau đây là tấm gương sáng lạn, của một người mẹ cũng như một người con am hiểu và sống theo chân lý trên.
Suốt một năm bị giam trong ngục, Anh Anrê Trọng (tử đạo ngày 28-11-1835, 21 tuổi) chịu cơ cực, đau khổ, nhưng cơ cực đau khổ đã hun đúc tâm hốn anh thêm vững đấn cùng. Những món quà tiếp tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên mọi người quí mến. Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.
Khi biết tin có Cha ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, anh Trọng xin viên cai ngục cho phép về nhà một ngày dưới sự canh giữ củ một người lính. Sau đã biết rõ nơi ở của Linh mục, Anrê Trọng và người lính chèo thuyền đến bên đò kia vào giữ trưa. Lúc bước qua thuyền của Cha Ngôn, đẩy thuyền trôi nhẹ ra giữa dòng, anh quỳ xuống lãnh phép lành và ơn tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, Cha Ngôn hẹn anh sáng hôm sau tại Kẻ Văn (Hải lăng, Quảng Trị). Thế rồi anh và người lính chèo thuyền trở lại Kim Long qua đêm. Hai người về ngủ tại nhà anh Trọng. Mẹ anh, tuy rất thương con, nhưng đã hết lời khích lệ động viên anh mạnh mẽ và can đảm chấp nhận chết để tuyên xưng đức Tin.
Sáng hôm sau, anh Trọng và người lính gác vội vã chèo thuyền đến điểm hẹn ở Kẻ Văn. Gặp lại vị Linh mục, anh quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha ngọn chúc lành: “Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời.” Anh thưa: “Amen.”Rồi trong niềm hân hoan vì chén hồng ân cứu độ vừa lãnh nhận, anh vui vẻ trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.
Sau một năm giam tù, Anrê Trọng vẫn không đổi ý, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28-11-1835. Sáng hôm đó, anh gặp lại người anh họ nình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lờ: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn luôn trung thành với Chúa, cho đến chết.” Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ phải xử. Gặp con, bà chỉ hỏi một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con.”
Khi được con cho biết không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng,anh đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.” Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.
Hôm ấy là ngày trước áp lễ Thánh Anrê Tông đồ, Anrê Trọng bị xử cùng với hai tên cướp. Bà mẹ Anrê Trọng can đảm, bước ra đòi viên quan chỉ huy trao thủ cấp con bà.
Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:
“Ôi con yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”
Rồi bà đem về an táng trong nhà.
Sau 8 tháng phục vụ trong quân ngũ, tháng 11-1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ Công giáo phải khai báo. Không chút sợ hãi, Anrê Trọng với 12 đồng đội cùng ở Thợ Đúc đến trình diện quan. Quan dáy các anh tuân lệnh vua, bỏ đạo và đạp lên Thánh giá. Cả 13 chiến sĩ Công giáo đều can đãm tuyên xưng đức Tin. Các quan dùng biện pháp tra tấn… Lần lượt 12 người bỏ cuộc, chỉ còn một mình Anrê Trọng trung kiên đến cùng. Lính trói anh, khiêng qua Thánh giá, nhưng anh co chân lên, quyết không xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống sang trại giam. Các quan kết án tử hình, nhưng giam hậu cho thời hạn một năm, nếu không bỏ đạo sẽ thi hành án xử.
Án xử đã được thi hành ngày 28-11-1835.
--------------------------------
Tham nhũng là vấn đề đang gây nhức nhối cho mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với: TN 29-A47
Tham nhũng là vấn đề đang gây nhức nhối cho mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước nghèo, khi mà những khỏan tiền khổng lồ chảy vào túi các quan tham, thay vì được dùng để phát triển đất nước, tạo công ăn việc làm, giúp đỡ dân nghèo. Hẳn nhiên không ai muốn đầu tư vào những nơi, mà ý định tốt đẹp của họ cho cả một dân tộc, lại bị một nhóm nhỏ thao túng, làm giàu. Tham nhũng, do vậy, chủ yếu xảy ra đối với những kẻ có quyền có thế, có cả những ô dù che chở, bảo vệ. Công bằng không còn chỗ đứng. Những khoản tiền mờ ám, nhưng khổng lồ ấy, lại chẳng bao giờ mất một xu đóng thuế, là thứ mà hôm nay liên minh quỷ quái Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê muốn dùng để “nắn gân” Chúa Giê-su: có nộp thuế cho kẻ thù dân tộc chăng ?
Phi-la-tô không nộp thuế, không phải vì ông là người Rô-ma, mà vì ông nắm quyền sinh sát ở nơi ông tìm đủ cách để vơ vét cho đế quốc Rô-ma ( và cho cả túi tham của ông ): chủ yếu là thuế đánh lên tất cả mọi thứ có thể đánh được. Ngay cả việc kiểm tra dân số ( trước khi Chúa Giê-su sinh ra ) cũng không nằm ngòai mục đích thu vét thuế.
Hê-rô-đê không nộp thuế, vì tuy làm thân khuyển mã cho đế quốc, ông cũng có phần đất để cai trị và ông sẽ giữ được vương quyền bền vững, kể cả cha truyền con nối, giàu sang phú qúy, bao lâu ông còn ngoan ngoãn tùng phục. Và biểu hiện của lòng trung thành, chính là vơ vét của cải, cống nộp trên cả chỉ tiêu cho trung ương Rô-ma. Ông cũng áp dụng sưu cao thuế nặng đối với dân chúng.
Người dân Do-thái phải đóng đủ mọi thứ thuế, kể cả những loại thuế phi lý nhất, cho cả Phi-la-tô lẫn Hê-rô-đê, nhưng đám thượng tế, luật sĩ hình như thấy dân họ chưa đủ khổ nhục, lầm than, cho nên lại đua nhau vơ vét thuế thập phân dưới danh nghĩa luật. Trong tình thế ấy, dân đành phải... gian: trốn tránh được chừng nào, hay chừng nấy! Lòng căm hận vì thế mà luôn chờ dịp bùng phát. Liên minh Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê cần một vật tế thần, một mũi tên ba bốn đích: thuế má họ vẫn hưởng, lòng căm thù của người dân có chổ để trút và... quên tội lỗi của chúng, là những kẻ đang bóc lột và sống trên mồ hôi xương máu của họ. Người lãnh đủ chắc chắn là Chúa Giê-su !
Chúa Giê-su sẽ đóng thuế, chấp nhận làm một công dân tốt – để bị dân chúng ghét bỏ, khinh khi –, hay là đồng tình với dân chúng, mà chống lại việc nộp thuế, ít là về những khoản thu vô lý – và trở thành tội phạm, phản loạn ?
Chúa Giê-su... ba phải ư ? Trả lời mà như không trả lời !?!
Chúa Giê-su không bị sợ đụng chạm chính trị, nhưng Người không thể chịu được việc người ta muốn lợi dụng Tên Người, Lời Người, cho mục đích đen tối, xấu xa. Không thể có chuyện “cầm nhầm” giữa Giáo Lý của Chúa và mưu mô, nghĩa là phần tối của cuộc đời, dù đó là cá nhân hay tập thể. Không thể đem Tin Mừng để biện minh cho một lối ứng xử cá nhân gây gương mù gương xấu cho người khác, chứ chưa nói đến tai hại nó gây ra, nhiều khi ngang với tội phản giáo. Hội Thánh không tránh né những vấn đề lắm khi cũ kỹ, phi lý hoặc chỉ được đưa ra với mục đích làm khó, bôi nhọ và – theo suy nghĩ cũng như mong ước của những kẻ chủ trương – dồn Hội Thánh tới chân tường ! Hội Thánh chỉ không muốn “của thiên, trả địa”, mà luôn rành mạch như Đầu Hội Thánh: hãy tập sống vững vàng, minh bạch và tách bạch. Đừng luyến tiếc hoặc bị mê muội vì “những gì của Xê-da”, để dùng đủ lý lẽ ngụy biện mà biến nó thành “của Thiên Chúa”, hòng giữ lại ! Cũng đừng “tục hóa” những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chà đạp, làm ô uế, đem bán rẻ cho thế gian và ma quỷ.
Vậy rút cuộc, điều Chúa Giê-su muốn chúng ta tôn trọng và thực hành, chẳng phải xa xôi, cao siêu gì. Đó chỉ là vấn đề công bằng: công bằng khiến ta không được phép lầm lẫn, đánh đồng giữa các giá trị trần tục và linh thiêng, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa chân lý Tin Mừng và sự gian tà núp bóng Phúc Am, giữa quyền lực trần thế và Thiên Chúa. Công bằng buộc người ta phải ngay thẳng, không được lắt léo, không được ác tâm.
Cuối cùng, hãy nhớ rằng: Chúa không cho phép bất cứ ai “quỵt” thuế phải nộp cho Chúa, là phần mà Chúa có quyền đòi hỏi, vì đơn giản là nó “thuộc về Thiên Chúa”, không có ngoại lệ, không có trường hợp miễn trừ. “Của thiên” do vậy, không thể đem “trả địa”, hoặc ngược lại !
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Đi Tìm Đáp Số Tình Yêu 122
-------------------------------
(Mt 22,15-21)
Thưa qúi vị,
Tin mùng hôm nay cho chúng ta ấn tượng: sống trên thế gian hoặc trong một đất nước, chúng ta phải: TN 29-A48
Tin mùng hôm nay cho chúng ta ấn tượng: sống trên thế gian hoặc trong một đất nước, chúng ta phải ứng xử cho hợp thời cơ, hợp phong thổ. Gió chiều nào che chiều ấy: “Hãy trả cho Caesar những gì thuộc Caesar và Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”. Thoạt nghe, câu nói có thể gây hiểu lầm. Thế giới chia làm hai lãnh vực rõ rệt. Một thuộc trần tục, lãnh vực khác thuộc Thiên Chúa. Sinh hoạt hàng ngày cũng chia làm hai khoản hay hai chiếc hộp. Hộp thuộc Thiên Chúa chứa đựng “tài sản” của Ngài và hộp thuộc “Caesar” chứa đựng của cải thuộc ông ta. Trong hộp Caesar chúng ta bỏ vào những quan tâm trần tục: Những sinh hoạt thực tế như lao động, giáo dục, vui chơi, giải trí, nhất là trách nhiệm công dân như thuế má, nghĩa vụ, bổn phận, lao động công ích, luật lệ quốc gia, địa phương, chính trị, xã hội, quân sự, ngoại giao.v.v. Hộp này xem ra to lớn hơn hộp của tôn giáo rất nhiều, bởi nó chiếm hầu hết khả năng của chúng ta. Nó cũng ảnh hưởng phần lớn các quyết định của nhân loại: Thí dụ chọn nghề nghiệp, chọn trường học cho con cái, đầu tư tiền bạc, quyết định nơi ăn chốn ở, thuế má phải trả.v.v.
Cao hơn nữa, là các lãnh vực chính trị, văn hoá, khoa học, một số người phải suy xét nên chăng cộng tác với chính quyền địa phương, quốc gia, quốc tế. Những lúc ấy, điều quan trọng trước nhất là lương bổng, an sinh xã hội, tiền hưu, bảo hiểm sức khoẻ, các phúc lợi gia đình, nếu chúng ta dấn thân nhận công việc, để được bảo đảm và tiến thân. Nhưng nếu chính sách công cộng thay đổi và nhiều luật lệ chúng ta không đồng ý như phá thai, trợ tử, tế bào gốc, thụ thai nhân tạo, đồng tình luyến ái, mang bầu thuê… Chúng ta sẽ chịu áp lực nặng nề: thi hành không không thi hành? Tất cả đều thuộc chiếc hộp của Caesar! Rồi còn trường hợp phải trả thuế để nâng đỡ các chương trình như vậy! Chỉ còn biết nhún vai bỏ mặc vấn đề luân lý vào tay Thiên Chúa.
Tuy nhiên làm như vậy đã ổn đâu! Đàng sau công việc thuộc lãnh vực xã hội hay chiếc hộp Caesar, là các nguyên tắc hướng dẫn lương tâm con người sống ngay chính. Chúng cũng ảnh hưởng đến các lựa chọn của chúng ta. Niềm tin tôn giáo khiến chúng ta sống lương thiện với các giá trị thiêng liêng. Nhưng trừ phi thật rõ ràng là sai trái, còn thì thường thường chúng ta tiếp tục sống như nếp sống xưa nay, và hành động không mấy quan tâm đến chiếc hộp của Thiên Chúa. Chúng ta bơi lội trong biển đời trần thế với chiếc hộp của Caesar một cách thoải mái. Nếu không thì cũng bắt các nguyên tắc Phúc Âm bớt gay gắt cho hợp với thời đại. Dầu thế nào đi nữa, thì chúng ta “phải” sống với thế gian, làm việc như những công dân, công nhân, để kiếm lương thực, thực phẩm cho bản thân và gia đình. Chúng ta phải vật lộn với những khó khăn hàng ngày để có được cuộc đời tốt đẹp. Các người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng phải vất vả luồn lách giữa hai thế giới: tôn giáo và trần tục. Họ là những công dân của một đất nước bị đế quốc Roma thống trị, và yếu tố nhắc nhớ về sự hiện diện và quyền bính của Rôma là đóng thuế. Có hai loại thuế: cho đế quốc và cho đền thờ, tức dân sự và tôn giáo. Một đất nước với hơn 90% là nghèo đói thì áp lực thuế khoá thật nặng nề, hết mọi người dân đều cảm thấy như luôn bị chúng đè bẹp. Họ chẳng có lựa chọn nào khác ngoài nổi loạn, dùng bạo lực để thoát khỏi sự kìm kẹp. Nhưng thường xuyên là thất bại. Vì vậy người ta lập ra đảng phái thân Roma gọi là đảng Herôđê. Đảng này giúp mẫu quốc thu thuế nghiệt ngã hơn. Tuy nhiên dân cư vẫn âm ỉ chống đối, mặc dầu phải đóng góp tiền bạc nuôi quân đội ngoại bang. Nổi loạn đẫm máu không phải là hiếm và quân Roma giết chóc không gớm tay. Chúng ta hiểu được câu hỏi người Biệt Phái đặt ra cho Chúa Giêsu quỉ quyệt biết bao. Nó có thể giết chết Chúa trong giây lát, hoặc do dân chúng hoặc do quân đội Roma, tuỳ vào câu trả lời của Chúa. Thánh Mattheo ghi lại: “Bấy giờ những người Phariseo đi bàn bạc với nhau, tìm cách nào làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê, đến nói với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật… vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Caesar hay không?” Câu hỏi không thuộc lãnh vực thần học cần bàn cãi, mà là bổn phận trả thuế hằng ngày. Những người Do Thái đạo đức, tin thật vào Thiên Chúa của tổ tiên, không khi nào muốn liên minh với ngoại bang, thờ ngẫu tượng, kìm kẹp đồng bào mình một cách tàn bạo. Như chúng ta vừa thấy câu hỏi của Phariseo và phe Herôđê chỉ là một cái bẫy. Chúa Giêsu đã nhanh chóng khám phá ra cái bẫy đó và ý định độc ác của thế lực tôn giáo. Ngài yêu cầu cho xem một đồng bạc nộp thuế. Đó là đồng “Denarius” in hình và huy hiệu của thượng vị Roma Tiberius. Đối với phần đông người Do Thái đạo đức, mang hình và chữ viết của vua Roma ngoại đạo là một tội phạm thượng, họ không tôn thờ ai khác ngoài Thiên Chúa. Mang tiền đó vào khuôn viên đền thờ chẳng khác nào tuyên bố mình bỏ đạo cha ông, về phe với quỉ thần ngoại quốc; không những phạm thượng nặng nề mà còn phản bội dân tộc. Án phạt là tử hình ném đá.
Họ không ngờ thượng trí của Thiên Chúa, Ngài bẻ quặt câu hỏi của họ, làm cho vấn đề trở thành viên đá đè nặng trên vai đối thủ. Ngài yêu cầu cho xem đồng tiền trả thuế. Dĩ nhiên ai đó trong nhóm họ có mang tiền Denarius trong túi áo. Như vậy là họ đã có ý trả thuế. Câu hỏi không còn là có hay không nữa mà chỉ là bắt tội Chúa Giêsu mà thôi. Câu trả lời dứt khoát của Chúa: “Trả cho Caesar những gì của ông ta và trả về Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài” làm cho mọi người phải suy nghĩ, đắn đo. Ngài nói thẳng đến nhiệm vụ của chúng ta đối với chiếc hộp của Thiên Chúa. Chiếc hộp đó phải chứa đựng tất cả, gồm luôn vũ trụ càn khôn và Caesar với triều đình lộng lẫy của ông ta. Nói cách khác: “Những gì thuộc về Thiên Chúa” không có nội dung hạn định bao gồm hết mọi lãnh vực của cuộc sống nhân loại và vũ trụ bao la, không thể phân biệt được khi nào chúng ta hành động cho Thiên Chúa, khi nào cho thế gian! Vậy thì quan niệm hai chiếc hộp như trên là hoàn toàn không đúng. Quan niệm ấy sai một cách nguy hiểm, có hại đến phần rỗi mỗi người. Chúng ta phải tôn trọng quyền lợi của Thiên Chúa trước tiên, các quyền lợi khác là phụ thuộc. Xét về kẻ ra luật lệ cũng vậy, phải tuân theo sự thật và lẽ phải, ngoài ra là sai trái, không thể bắt thiên hạ tuân phục. Tuân phục lúc ấy biến thành vâng lời ma quỉ hay vâng lời kiểu trâu ngựa. Cho nên chúng ta phải suy xét kỹ lưỡng các luật lệ quốc gia, dân sự. Chúa Giêsu không chỉ ủng hộ việc tuân thủ vương quyền của Caesar, Ngài còn nhắc nhớ đến quyền lợi của Thiên Chúa nữa, quyền lợi của Thiên Chúa là tối cao. Chúng ta chỉ có thể phục tùng quyền dân sự khi nó am hợp với luật lệ Thiên Chúa. Như vậy sự tuân phục quyền bính dân sự có tính tương đối. Trả về cho Caesar những gì thuộc ông ta cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh. Những bạo chúa bóc lột, dĩ nhiên, không thể đòi hỏi các quyền lợi ấy. Ngược lại cũng không vì tôn giáo mà khước từ thuế má và nghĩa vụ chính đáng cho nhà nước. Thánh Phaolô viết: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy tra cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế.” (Rm 13,7). Tuy nhiên khi vâng lời quyền bính dân sự và các ảnh hưởng thế gian, chúng ta luôn phải lưu tâm đến quyền lợi của Thiên Chúa. Trả cho Thiên Chúa những chi thuộc quyền Ngài.
Xét cho cùng, mọi việc Chúa Giêsu làm, mọi hành động Ngài thực hiện, đều chỉ ra rằng thánh hiến cho Thiên Chúa và tuân phục ý muốn của Ngài là con đường cao cả nhất chúng ta phải lựa chọn. Chúa nhật tuần sau các đối thủ của Chúa Giêsu sẽ đưa ra một câu hỏi khác: Giới răn nào quan trọng nhất trong toàn thể bộ luật Mosê. Xin nhớ luật Do Thái có tới 613 khoảng và rất phức tạp, khó trả lời. Nhưng Chúa nói: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Lệnh truyền thứ hai cũng giống như vậy: Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình.” Thiên Chúa là ưu tiên số một trong các lựa chọn của chúng ta, của Hội Thánh và của nhân loại. Không có lựa chọn nào đi trước Ngài. Vậy mà hàng ngày chúng ta lựa chọn sung sướng xác thịt hơn Thiên Chúa. Và tội lỗi từ đấy mà sinh ra! Cứ như lý luận trên, mỗi khi có sự xung khắc giữa bổn phận đối với Thiên Chúa và nghiã vụ dân sự thì chúng ta phải lựa chọn Thiên Chúa trước. Cho nên không có bán thời gian dành cho Ngài và thời gian khác lo việc trần tục. Mọi sự đều thuộc về Vương quốc trên trời. Chúng ta thi hành bổn phận trần thế là bước đầu của cuộc sống Thiên Cung. Chỉ có một cuộc sống cho hai thế giới hữu hình và vô hình.
Cho nên học thuyết xã hội của Hội Thánh đã rõ ràng. Chỉ những người áp dụng học thuyết ấy là còn lẫn lộn và có khi sai lầm. Người tín hữu được kêu gọi dấn thân vào thế giới và mang Phúc Âm xây dựng hạnh phúc cho loài người. Thâm nhập vào mọi chiều kích con người để thánh hoá họ, nâng họ lên với nhân phẩm đích thật mà Chúa Giêsu đã mạc khải. Công đồng Vatican II nhắc nhớ mọi tín hữu đem chân lý Phúc Âm đến tận học đường, phố chợ, xưởng làm, nơi giải trí để soi sáng sinh hoạt của mọi người. Chúng ta thường lãng quên bổn phận này. Chỉ đua nhau kiếm nhiều lợi lộc tiền tài để xây dựng những cơ sở vật chất vô hồn. Chúng ta nên đọc lại các tông thư, tông huấn của các Đức Giáo Hoàng, thơ luân lưu của Hội đồng Giám mục đề cập đến các vấn đề thiết yếu của cuộc sống con người như nghèo khó thế giới, địa phương, toàn cầu hoá kinh tế, chiến tranh, phá thai, bất công xã hội, trợ tử, hình phạt tử hình, sức khỏe, môi trường. Chúng ta sẽ nhận rõ tính hời hợt của các sinh hoạt thường nhật. Chúng xem ra thuộc lãnh vực Caesar. Nhưng kỳ thực nó thuộc bổn phận của các môn đệ Chúa Kitô. Nó không tồn tại ngoài thế giới mà chúng ta có bổn phận biến đổi. Mẫu mực chúng ta nhắm tới là nước trời. Nước đã được Đức Giêsu thiết lập và truyền cho các Tông đồ rao giảng. Mỗi tín hữu được kêu gọi góp phần thực hiện, làm thế nào mỗi ngày nước đó hiện hình rõ nét hơn trên hành tinh nhỏ bé này mà Chúa đã cứu chuộc. Viễn tượng của Chúa cho nhân loại không vượt quá sức lực loài người. Điều không làm được là chúng ta chẳng cố gắng đủ, hoặc hiểu sai ý nghĩa nước trời, cho nó chỉ là mục tiêu cá nhân, đạt được nhờ thu vén những tiện nghi, khoái lạc trần thế, chứ không phải bằng hy sinh, khổ chế. Nếp sống vật chất mỗi người tố cáo tư duy thực của họ. Lời nói có thể là lừa dối hoặc sáo ngữ có sẵn, không phát xuất từ tâm can và cuộc sống. Người theo Chúa Giêsu thực sự phải cố gắng biến đổi thế giới nên chỗ ở hạnh phúc cho mọi người, tôn trọng công lý và hòa bình, an vui và bác ái. Họ có thể làm việc dưới nhiều chế độ chính trị khác nhau, nhiều hình thức xã hội dân sự. Nhưng không thể đương nhiên ủng hộ các chế độ ấy, hình thức ấy nếu luật pháp của nó không am hợp với những điều răn dạy của Chúa Giêsu. Thánh ý Chúa là mọi người phải được đối xử công bằng và bác ái, không phân biệt màu da, ngôn ngữ, tôn giáo, cấp bậc xã hội. Đặc biệt những kẻ yếu kém phải được săn sóc, nghèo hèn phải được kính trọng và giúp đỡ, tất cả đều được phẩm giá là con cái Thiên Chúa. Thư Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay nói đến phẩm giá này: “Thưa anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em. Vì như chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần và một niềm xác tín sâu xa”. Cho nên bất cứ hành động nào, đối xử nào ngược với đức tin căn bản của người tin Chúa, chúng ta phải tránh xa. Nếu không tỏ thái độ thì chúng ta đã chọn lựa chiếc hộp của Caesar và đánh mất căn cước Công Giáo của mình. Nếu Chúa cứu thế thuận theo quan điểm hẹp hòi của Pharisiêu và phái Hêrôđê về những chi thuộc quyền lợi Thiên Chúa, thì Ngài đã không làm cho họ giận sôi tiết và người Rôma đã không đóng đinh Ngài.
Tóm lại Thiên Chúa muốn chúng ta hành động thăng tiến xã hội trần gian, biến đổi nó thành Nước Trời. Chúng ta được kêu gọi để đưa nội dung Chúa dạy về những chi thuộc Thiên Chúa vào thế giới của Caesar. Chúng ta cần xác định dứt khoát, cuối cùng lòng trung tín của mình nắm ở đâu? Nếu thực sự thuộc Thiên Chúa thì ngay cả quyền bính Caesar cũng không khuất phục được mình, làm mình rút lui khỏi lòng trung tín đó. Chúng ta không phải là hạng người chia cuộc đời làm hai mảng, mỗi mảng bỏ vào một chiếc hộp. Nhưng chúng ta phải hòa hợp cả hai nội dung và ý thức rằng nội dungThiên Chúa sẽ tác động cho toàn thể hỗn hợp được lên màu thánh thiện. Amen.
Lm Jude Siciliano, OP
-------------------------------
Tin mừng: Mt 22, 15-21.
Anh chị em thân mến,
Làm người, ai cũng có những bổn phận phải làm và những trách nhiệm phải chu toàn, làm người ai: TN 29-A49
Làm người, ai cũng có những bổn phận phải làm và những trách nhiệm phải chu toàn, làm người ai cũng có những cái tốt và cái xấu, ai cũng có những khuyết điểm và ưu điểm, bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã nói với chúng ta như sau: của Cesar thì trả về cho Cesar và của Thiên Chúa thì trả lại cho Thiên Chúa, đó là điều mà chúng ta phải suy nghĩ luôn trong cuộc sống của mình.
Mỗi người là một đồng tiền có hai mặt: mặt trái và mặt phải, mặt trái thì đi ngược lại với những giáo huấn Chúa Giêsu và của giáo hội, luôn xúi giục con người làm điều ác và đối nghịch lại với Thiên Chúa, luôn tìm cách hãm hại tha nhân và sống trong sự bất an. Mặt phải thì luôn muốn thực hành lời của Chúa Giêsu dạy, luôn tìm cách giúp đỡ tha nhân và sống hiền hòa với mọi người.
Mỗi người có hai bổn phận phải chu toàn: bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với xã hội. Tất cả mọi người đều có bổn phận thờ kinh Thiên Chúa -nhất là những người Kitô hữu- vì Ngài là Đấng tạo thành vũ trụ và là Cha của mọi người, bổn phận của người Kitô hữu là làm chứng cho mọi người biết có một Thiên Chúa là Cha muôn loài, Ngài yêu thương hết mọi loài, và sống xứng đáng với bổn phận làm người Kitô hữu của mình. Bổn phận đối với tổ quốc, với xã hội và với những người thân cận chung quanh chúng ta, chúng ta sẽ không làm tròn bổn phận của một người Kitô hữu nếu chúng ta không chu toàn bổn phận đối với xã hội, bởi vì khi chúng ta nói yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương anh chị em thì chỉ là lời nói dối.
Cùa Cesar trả về Cesar, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa, của Cesar là những lo toan tính toán trong cuộc sống, của Cesar là những đố kỵ ghen tương với người khác, của Cesar là những tham vọng ăn trên ngồi trước.v.v...tất cả những thứ đó hãy trả lại cho Cesar.
Của Thiên Chúa là yêu thương và phục vụ, của Thiên Chúa là chu toàn bổn phận mục tử của linh mục và tu sĩ, là chu toàn bổn phận của người Kitô hữu; của Thiên Chúa là lòng xót thương trước cảnh bất công đói nghèo của tha nhân, tất cả những cái đó là của Thiên Chúa nơi người Kitô hữu, hãy trả về cho Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Của ai thì trả về cho người ấy, nhưng trong cuộc sống chúng ta thường đi đôi với sự dữ hơn là sự lành, đi đôi với ma quỷ hơn là với Thiên Chúa, chúng ta hồi tâm lại thử xét mình xem sao, để rồi thấy được mình đã đi quá đà tự do mà Thiên Chúa ban cho để chối bỏ hoặc quên mất Thiên Chúa:
1. Tôi thích làm những gì tôi thích hơn là làm theo lời của Chúa Giêsu dạy, chẳng hạn như Ngài dạy tôi phải sẵn lòng bỏ qua những lỗi lầm của tha nhân, nhưng tôi vẫn cứ nhớ căm căm trong lòng...
2. Của Thiên Chúa là thánh lễ ngày chủ nhật và các bí tích, nhưng tôi thường lợi dụng ngày chủ nhật để đàn đúm ăn chơi, để thỏa mãn cái dục vọng con người, nên tôi bỏ cả thánh lễ, thế là tôi chỉ trả về cho Cesar mà không trả về cho Thiên Chúa những cái thuộc về Ngài, đó là chu toàn lề luật của ngày chủ nhật...
3. Của Cesar là tham danh tham vọng, là ham tài háo sắc, những việc ấy tôi tích cực tìm kiếm, nhưng của Thiên Chúa là khiêm tốn là nhẫn nại, là bao dung thì tôi lại không kiếm tìm...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 29 thường niên tại nhà thờ Thánh Tâm-Taiwan.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
------------------------------------------
Dẫn nhập đầu lễ:
Chúa Nhật hôm nay mang đến cho cộng đoàn chúng ta sứ điệp Lời Chúa giống như một kết luận: TN 29-A50
Chúa Nhật hôm nay mang đến cho cộng đoàn chúng ta sứ điệp Lời Chúa giống như một kết luận cuối cùng cho cuộc hành trình đức tin của người Kitô hữu, cho định hướng mục vụ và dấn thân truyền giáo của Giáo Hội: Yêu thương phục vụ con người, chu toàn nghĩa vụ trần thế đó chính là: “Của Cêsa hãy trả lại cho Cêsa”; và sẵn sàng đem chân lý Đạo trời giả sáng giữa trần gian lại chính là: “của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Và như thế, Thiên Chúa và nhân loại, Đạo và Đời: Tất cả đều tìm gặp ý nghĩa cuối cùng trong Đức Kitô. Hay nói cách khác, “Những cánh hoa Đạo phải tỏa hương thơm ngát ở giữa cánh đồng Đời”.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
Vào khoảng năm 30 của thế kỷ thứ 1, dưới triều hoàng đế Tibêriô cai trị đế quốc La mã, trong một bối cảnh xã hội nát như tương, mãnh đất Palestine khô cằn sỏi đá đang bị Rôma đô hộ lại bị chia manh xẻ múng bởi nhiều phe cánh chính trị tôn giáo đã lắm cực đoan lại nhiều suy đồi biến chất. Cánh Hêrôđê chấp nhận ôm gót giày đế quốc Rôma để tìm một chút vinh thân phì gia cho nên nơm nớp lo sợ những phần tử do Thái cực đoan âm mưu phản động; trong khi đó bè Biệt phái lại kiêu căng hợm hĩnh muốn độc quyền bảo vệ và thực thi tôn giáo của Cha ông đến độ cố chấp loại trừ mọi khuynh hướng tự do cởi mở. Trong bối cảnh ấy, Nhà “tiên tri áo vải Giêsu đến từ Na-da-rét”, xem ra là một mối đe dọa cho cả hai khi một đàng Ngài đang hấp dẫn một bộ phận quần chúng dân đen đông đảo tụ tập xung quanh để nghe thuyết giảng về tình huynh đệ đại đồng, về một “Vương Quốc” xa xôi huyền nhiệm nào đó. Một đàng Ngài mạnh mẽ phê bình, đả kích thậm tệ cái lối hành đạo và cuộc sống giả hình kiêu căng của nhóm Biệt Phái. Chính vì thế, cả hai cánh Hêrôđê cũng như biệt Phái, cho dù bất đắc dĩ, cũng phải liên minh lại để đối đầu và nếu có thể triệt hạ tên “Giêsu phá đám nầy”. Câu chuyện “vấn nạn “có” hay là “không” nộp thuế” mà Tin Mừng thuật lại hôm nay chính là một cái bẩy tuyệt vời của “liên minh ma quỷ” nầy giăng ra để chụp bắt con mồi Giêsu trong cái “gọng kìm lưỡng đao luận” mà theo họ, cho dù thần thông đến đâu, nhà tiên tri Na-da-rét cũng khó bề né tránh. Nếu trả lời “không nộp” ! Cánh Hêrôđê sẽ còng tay mang Ngài đi ngay về dinh Philatô với tội danh phản động, bất tuân Hoàng Đế, chống lại mẫu quốc. Còn nếu câu trả lời là “Có”: Chắc chắn cánh Biệt Phái sẽ kéo Ngài ra công trường cho dân ném đá; vì chủ trương nộp thuế cũng có nghĩa là ôm gót giày ngoại bang, phục tùng đế quốc, phản lại đồng bào đang rên siết lầm than ! Quả thật, “có” hay ‘không” phần thiệt trăm phần trăm nghiêng về phía Chúa Giêsu. Một mệnh đề nghi vấn thật tinh quái và hiểm ác !
Thế nhưng, tất cả đều chưng hửng ! Đã không bắt bí được Ngài mà lại được Ngài dạy cho một bài học đích đáng ngay trong chính câu trả lời mà họ không ngờ lại có thể xảy ra: “Của Xê-da hãy trả cho Xê-da, của Thiên Chúa hãy trả về Thiên Chúa”. Bài học chất chứa trong câu trả lời đó chính là: “quyền tối thượng của Thiên Chúa” phải được trân trọng và ‘trách nhiệm đối với tha nhân” phải chu tất”.
1. Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa:
Quả thật Dân Chúa cho tới thời Chúa Giêsu, niềm tin tinh ròng và sắt son dành cho Gia-vê Thiên Chúa như cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy” nơi hoang mạc Si-Nai, như thời mới an cư lập nghiệp với các Vị Quan Án hay như thuở thái bình thịnh trị dưới triều đại Thánh vương Đa-Vít…đã không còn. Đền thờ Giêrusalem đáng lẽ phải là trung tâm của các lễ nghi thánh thiện, phụng vụ trang trọng…thì đã nên như cái chợ hổn tạp: “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi đã biến thành hang trộm cướp”, đến độ Đức Kitô đã “nổi cơn lôi đình” sử dụng “biện pháp mạnh” để ra tay thanh tẩy. Trong khi đó, những điều răn tối thượng được Thiên Chúa mặc khải trên Núi Si-Nai đã lần lần được thêm thắt, chú giải sao cho phù hợp với những đặc quyền đặc lợi của những kẻ ăn trên ngồi trước. Cũng thế, mối quan hệ Chúa-người, thay vì phát triển trong tâm tình và thái độ Phụ-tử tình thâm nghĩa trọng, đã biến nên một loại mê tín giả hình mà việc thờ phượng nguyện cầu đã trở nên lạnh lùng cách biệt. Chúa Giêsu đã dùng quyền “ngôn sứ” và cũng đã lặp lại những lời răn dạy của các ngôn sứ lừng danh thuở trước để canh tân tình trạng tôn giáo xuống cấp nầy:”Quân nầy thờ kính Ta bằng môi mép, còn tấm lòng thì cách xa vời vợi”.
- “Trả về cho Thiên Chúa” phải chăng đó là “sự cất bước quay về của ngươi con hoang đàng tội lỗi để hân hoan trong chiếc áo mới của tiệc mừng trong nhà của Cha.
- “Trả về cho Thiên Chúa” phải chăng đó là sống tâm tình của “con chiên lạc được bồng ẵm trên vai của người mục tử nhân lành đã cất công dãi dầu tìm kiếm.
- “Trả về cho Thiên Chúa” phải chăng đó là “những người thợ sẵn sàng nghe tiếng chủ đẻ dán thân đi làm vườn nho cho dù đến trễ.
- “Trả về cho Thiên Chúa” phải chăng đó là “những đầy tớ trung tín biến những nén vàng được chủ trao sinh lãi được gấp trăm”
- “Trả về cho Thiên Chúa” phải chăng đó là “những mảnh đời đã trở thành đất tốt để hạt giống Lời Chúa sinh hoa kết trái”
- “Trả về cho Thiên Chúa” phải chăng đó là những Matthêô, Giakê, Maiđệliên, người trộm lành bên thánh giá biết quay đầu hối cải và làm lại cuộc đời trong phó thác tin yêu.
- “Trả về cho Thiên Chúa” phải chăng đó là những tâm hồn khiêm hạ khó nghèo như Đức Trinh Nữ Maria, thánh cả Giuse, các Tông Đồ…luôn biết hát bài “Magnificat” để tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa về những hồng ân cao cả và những việc lạ lùng Chúa đã ân trao…
- “Trả về cho Thiên Chúa” phải chăng đó là luôn nhận thấy tình thương và sự quan phòng của Cha trên cuộc đời của những con chim sẻ, của những cây hoa huệ giữa cánh đồng hay những sợi tóc trên đầu bất chợt rơi xuống !
Vâng, Chúa Giêsu quyết mang đến một “Tin Mừng” về một Thiên Chúa là Cha mà nhân loại phải trở về để tin yêu và lụy phục như những người con trung hiếu nghĩa tình. “Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài” trong tâm ý của Đức Kitô phải chăng chất chứa nội dung như thế đó.
Bởi chưng, “nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đến những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha.”. Lịch sử nhân loại đã chứng minh cho thấy những tang thương hủy diệt, những mất mát đọa đầy, những lầm than khốn khổ của những cuộc đại chiến, những cuộc tàn sát dân lành không thương tiếc của những tên bạo chúa như Nêron, Tần thủy Hoàng, Hiler, Mao Trạch Đông, Stalin, Pôn Pốt,…Phải chăng những vết đen khủng khiếp của lịch sử đó là kết quả của những ý thức hệ, những triết thuyết vô thần, đòi loại trừ Thiên Chúa ra khỏi văn minh nhân loại, đòi “giết chết Thượng Đế” ngay trong xã hội đang có và đang cần sự hiện diện của chính Ngài. Và hôm nay, trong xã hội chúng ta đang sống, cũng vì không biết “trả về cho Thiên Chúa những sự thuộc về Ngài”, mà có biết bao thai nhi phải chết oan chết ức trước khi được cất tiếng khóc chào đời, có biết bao nhiêu gia đình tan nát, vợ chồng ly dỵ, con cái đi hoang, có biết bao thanh niên thiếu nữ buông thả cuộc đời trong thác loạn ma túy, rượu chè, dâm đảng…biết bao nhiêu những kẻ có chức có quyền đánh mất lương tâm để chỉ biết tham ô, vơ vét cho đầy cái túi tham và thỏa mãn đam mê quyền lực.
Làm người Kitô hữu hôm nay phải chăng là phấn đấu để biết từng ngày “trả về cho Thiên Chúa” những sự thuộc về Ngài, là không ngừng thánh hóa bản thân theo những đòi hỏi và kích thước của tin Mừng, là tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa ngang qua các dấu chỉ của cuộc sống, là trung thành hiệp thông với Giáo Hội trong phụng vụ và nguyện cầu.
2. Trả cho Xê-da những gì của Xê-da:
Thế nhưng, Thiên Chúa không dành hết cho Ngài để con người chỉ còn biết ngoãnh mặt làm ngơ trước anh em đồng loại. Vì chưng “giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất: ngươi phải yêu thương anh em như chính mình ngươi”. Và vì thế, Tin Mừng của Đức Kitô lại đòi hỏi chúng ta “phải trả cho Xê-da những gì của Xê-da”.
- “phải trả cho Xê-da những gì thuộc Xê-da” khi chúng ta biết quỳ xuống rửa chân cho anh em, nhất là rửa chân cho những nguời nghèo hèn khốn khổ như Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã nêu gương.
- “phải trả cho Xê-da những gì thuộc Xê-da” khi chúng ta biết tha thứ cho anh chịh em không phải 7 lần nhưng 70 lần 7.
- “phải trả cho Xê-da những gì thuộc Xê-da” khi chúng ta biết trở thành người Samari nhân hậu để giúp đỡ anh chị em chúng ta trong nững lúc khốn khó ngặt nghèo.
- “phải trả cho Xê-da những gì thuộc Xê-da” khi chúng ta biết liên đới với mọi người để dựng xây hòa bình, để kiến tạo bầu khí huynh đệ, hiệp thông, để đẩy lùi những đói nghèo bệnh tật, để xoa dịu những vết thương chiến tranh, giúp đỡ hàn gắn những đổ nát của thiên tại địch họa và nổ lực làm cho bộ mặt trái đất mỗi ngày thêm đẹp thêm xinh.
Như thế, bài học mà Đức Kitô dạy cho những người thuộc nhóm Hêrôđê tham quyền cố vị, cho nhóm Biệt Phái giả hình kiêu căng mãi mãi vẫn còn “thời sự” đối với hết mọi người chúng ta, đối với Hội Thánh muôn nơi và muôn thuở. Nếu ngày xưa, một ông hoàng ngoại giáo, vua Cyrus của ba Tư, mà còn được Thiên Chúa xức dầu tấn phong và dạy cho biết “chẳng có ai là Thiên Chúa ngoại trừ Ta”, và ông đã nhất nhất vâng lệnh Chúa truyền khi đem Dân Chúa trở về quê cũ và tái lập việc phượng thờ Giavê (BĐ 1), thì hôm nay bài học “trả về cho Thiên Chúa, trả lại cho Xê-da” phải chăng cũng là đường đi nước bước của Dân mới, của mọi người chúng ta hôm nay. Vì một cách nào đó, cũng như ơn gọi của vua Cyrus, thánh Phaolô hôm nay cũng nói với chúng ta như đã nói với tín hữu Thessalonica rằng: “chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, những người được Thiên Chúa thương mến” (BĐ 2)
LM. Giuse Trương Đình Hiền
------------------------------------------