Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 28 TN-A Bài 51-100: Các ngươi gặp bất cứ ai, thì hãy mời vào dự tiệc cưới
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 22, 1-10 {hoặc 1-14}: “Các ngươi gặp bất cứ ai, thì hãy mời vào dự tiệc cưới”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: “Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới”. Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: “Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
{Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: “Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?” Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: “Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít”.} - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
Mục Lục:
TN 28-A51: Hãy đến dự tiệc cưới 2
TN 28-A52: Không có gì vui hơn tiệc cưới 4
TN 28-A53: Những người được chọn và được gọi. 5
TN 28-A54: Dụ ngôn tiệc cưới – Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 7
TN 28-A55: Suy niệm của Noel Quession. 10
TN 28-A56: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI HOÀNG GIA.. 14
TN 28-A57: CHÚA MỜI CHÚNG TA DỰ TIỆC NƯỚC TRỜI 21
TN 28-A58: MỘT TIỆC CƯỚI - Domergue, SJ. 26
TN 28-A59: TIỆC CƯỚI VÀ CHIẾC ÁO CƯỚI 28
TN 28-A60: Lời mời gọi 30
TN 28-A61: TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI - Lm Giuse Đinh lập Liễm.. 31
TN 28-A62: MỘT TIN MỪNG CHO MUÔN DÂN - Lm Trần Thanh Sơn. 37
TN 28-A63: ÁO CƯỚI KITÔ HỮU - Rev. Gioan Trâ. 40
TN 28-A64: CHIẾC ÁO CƯỚI MANG NHÃN HIỆU GIÊSU.. 42
TN 28-A65: CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - John Nguyễn. 44
TN 28-A66: LỜI MỜI GỌI VÔ ĐIỀU KIỆN - Lm. An Phong,OP. 48
TN 28-A67: NIỀM VUI CỨU ĐỘ - Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP. 49
TN 28-A68: THIỆP HỒNG- Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP. 52
TN 28-A69: LỜI MỜI CỦA TÌNH THƯƠNG.. 54
TN 28-A70: TIỆC CƯỚI - ÁO CƯỚI 58
TN 28-A71: HỘI THÁNH CÒN CHỜ ĐƯỢC HOÀN TẤT.. 60
TN 28-A72: LỜI MỜI GỌI CỦA THIÊN CHÚA - Gp. Vĩnh Long. 65
TN 28-A73: TIỆC NƯỚC TRỜI - Gp. Vĩnh Long. 66
TN 28-A74: SAN SẺ NIỀM VUI - Gp. Vĩnh Long. 68
TN 28-A75: DỰ TIỆC MIỄN PHÍ - Gp. Vĩnh Long. 70
TN 28-A76 DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI 71
TN 28-A77: Đám cưới vĩ đại 81
TN 28-A78: MẶC ÁO CƯỚI 83
TN 28-A79: PHẦN HOA LỢI CỦA TA ĐÂU ?. 85
TN 28-A80: Đồng phục của Nước Trời là tình yêu chân thực. 88
TN 28-A81: Tiệc Cưới Thần Linh. 93
TN 28-A82: Làm việc lành. 98
TN 28-A83: TIỆC CƯỚI, ÁO CƯỚI 99
TN 28-A84: Y phục lễ cưới của Ki-tô hữu. 101
TN 28-A85: Được chọn thì ít 103
TN 28-A86: Chúa Nhật 28 mùa Thường niên, A.. 107
TN 28-A87: SÁM HỐI VÀ TIN CHÚA GIÊ-SU.. 111
TN 28-A88: CHÚA NHẬT 28 QUANH NĂM... 119
TN 28-A89: CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – 2002. 122
TN 28-A90: CHÚA NHẬT 28 QUANH NĂM... 124
TN 28-A91: TIỆC CƯỚI, ÁO CƯỚI 126
TN 28-A92: SAO LẠI GIẾT OAN TÔI?. 128
TN 28-A93: Chiếc áo cưới 129
TN 28-A94: Nếu cuộc sống thiếu tình yêu?. 131
TN 28-A95: Tiệc cưới, áo cưới – Radio Veritas Asia. 133
TN 28-A96: Tiệc cưới đã sẵn sàng – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu. 134
TN 28-A97: Những kẻ được mời không xứng đáng”. 136
TN 28-A98: Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên. 138
TN 28-A99: Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng. 142
TN 28-A100: TIỆC CƯỚI 145
------------------------------------------
Có vẻ như Chúa Giêsu không bao giờ từ chối một cuộc mời ăn tối, không có vấn đề người chủ: TN 28-A51
Có vẻ như Chúa Giêsu không bao giờ từ chối một cuộc mời ăn tối, không có vấn đề người chủ đó là ai hay ai sẽ là những thực khách ở đó. Vào thời ấy, Người đã bị không ít phiền phức với những người công chính đương thời, họ bị sốc “khi Chúa tiếp đón những người tội lỗi và ăn uống với họ”. Có thể Chúa Giêsu chấp nhận cuộc mời ăn tối bởi vì Chúa là một người rao giảng lưu động, rày đây mai đó như chính Người đã thú nhận là nhiều lần, Người đã không có ngay cả một cục đá để tựa đầu nữa. Người sẵn sàng dự phần vào một bữa ăn ngon.
Sâu xa hơn là Chúa Giêsu đã nhìn thấy bữa ăn trong kinh nghiệm của con người nhân loại là một biểu tượng sự hiệp nhất chúng ta với Người và Cha Người trên thiên đàng, chúng ta sẽ trở nên một nhờ Chúa Thánh Thần, sự liên kết tình yêu. Đó là lý do vì sao người ám chỉ Nước Trời giống như một bữa tiệc cưới. Niềm vui và tình bạn bè, ngày lễ và tiệc mừng là những đặc tính của một bữa tối long trọng dành cho đôi bạn mới nối kết với nhau bằng sợi dây hôn nhân, là một hình ảnh không bao giờ tàn úa của những điều kỳ thú nơi Thiên đàng.
Vì sao những thực khách được mời trong dụ ngôn lại từ chối lời mời đến dự tiệc, một lời mời của một bậc vị vọng như là một vị vua? Dụ ngôn muốn ám chỉ đến những người chống đối Chúa Giêsu, những người đã bị sốc khi thấy Người thân mật với những người thu thuế và những người tôi lỗi. Trong sự tự kiêu giả dối của họ, họ không muốn Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc của họ chút nào. Thật ra họ đang âm mưu giết Người và khi đứng dưới chân thập giá chỉ để cười nhạo Người.
Một số ít biết tình yêu của Chúa Giêsu rất lớn lao, Người đã chết vì họ cũng như Người đã chết vì mẹ Người và các môn đệ của Người. Chúa Giêsu giang rộng đôi tay trên thánh giá là để tiếp đón hết thảy mọi người sẽ đến với Người trong đức tin và sự khiêm nhường. Thật ra, trên thánh giá mọi sự đã được biểu hiện bằng bữa tiệc cưới đã viên mãn.
Thánh giá cũng có nghĩa là sự giảng hoà của chúng ta với Thiên Chúa. Một cách nào đó thì nòi giống nhân loại giống như một người vợ bỏ chồng mà đi theo trai vậy, cô ta đã quên đi tình yêu thuở ban đầu mà họ đã cùng sống với nhau. Ly dị đã củng cố sự cách biệt. Chúa Giêsu đã can thiệp vào hoàn cảnh đáng buồn của chúng ta. Người được Cha Người sai đến để tìm lại cô dâu của mình. Bằng cái chết, Chúa Giêsu đã xé đi cái quyết định ly dị và bằng chính Máu của Mình, Chúa Giêsu đã viết và ký tên một bản hôn ước mới xác thực và vĩnh cửu, giao ước đã được đóng dấu sự hợp nhất của hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Người (hình ảnh minh hoạ này của tiên tri Hôsê, ngài đã trình bày Thiên Chúa như người chồng và dân Người như người vợ).
Giao ước hôn nhân mới và vĩnh cửu này được cử hành trong một bữa tiệc cưới cao cả, đó là hy tế Thánh Thể. Bữa tiệc cưới được cử hành một lần duy nhất, ngay lập tức sau khi cuộc hôn nhân vừa diễn ra. Nhưng sự hợp nhất của chúng ta với Thiên Chúa cũng quan trọng như vậy mỗi khi chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Chúng ta hiện diện nơi đây là vì chúng ta chấp nhận chứ không loại bỏ lời mời của Thiên Chúa.
Đừng để cho chúng ta bị sai lầm. Chúng ta hiểu rằng trong khi tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc là chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa. Trong lúc cử hành hy tế Thánh Thể, chúng ta sẽ vui mừng và sung sướng vì Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta, rằng Người đã đến để dắt chúng ta đến với Cha Người. Khi thời gian chúng ta ở trên thế gian này chấm dứt, Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta đến sống nơi nhà của Cha Người cho đến muôn đời. Ở đó chúng ta sẽ tiếp tục bữa tiệc cưới vĩ đại, bữa tiệc đời đời cho tình yêu hợp nhất của chúng ta với Thiên Chúa trên Nước trời. (Có vẻ tốt hơn khi dùng hình thức của Phúc âm, từ khi nhiều nhà thông thái nói rằng câu chuyện người không có trang phục áo cưới là một dụ ngôn riêng biệt).
----------------------------------
Mỗi thánh lễ nhắc lại dụ ngôn của sự mời gọi này: ”Phúc cho những người dược mời tới dự tiệc: TN 28-A52
Mỗi thánh lễ nhắc lại dụ ngôn của sự mời gọi này: ”Phúc cho những người dược mời tới dự tiệc của Chúa!”. Nhưng Matthêu nhà đạo đức nhanh chóng báo động với chúng ta: Khốn thay kẻ từ chối lời mời và khốn thay kẻ nào đến mà không cố gắng để làm cho mình xứng đáng dự tiệc.
Dầu sao tôi cũng muốn ở giây lát trong niềm vui trong sáng. “Nước Trời giống như một ông vua dọn tiệc cưới cho con trai mình”. Khi nói điều ấy, Chúa Giêsu thấy được nhiều điều! Chúa Cha và đám đông con người. Và Ngài, Con của vua và là người anh em phổ quát. Ngài là Đấng không chỉ “ở giữa” Chúa Cha và con người mà thôi, nhưng “hướng về Chúa Cha” và “được trao ban cho con người”. Kết hợp Thiên Chúa với nhân loại trong các tiệc cưới lạ lùng. Không có gì vui hơn tiệc cưới. Đừng bao giờ đánh mất cái nhìn về lễ hội vô cùng của Tin Mừng là lễ hội mở tất cả các cửa của Thiên Chuá cho tất cả mọi người.
Chúa Giêsu nhấn mạnh trên sự miệt mài của Chúa Cha để nói với chúng ta: các ngươi hãy đến, tất cả đã sẵn sàng! “Ngài sai các đầy tớ... Ngài lại sai các đầy tớ khác... Ngài nói với các đầy tớ: các ngươi hãy mời tất cả những người mà các ngươi có thể gặp”. Kẻ nào không cảm thấy vui vẻ vì được Thiên Chúa mời thì kẻ ấy không nhận biết Thiên Chúa.
Thế thì tại sao có nhiều người từ chối? Matthêu phác hoạ còn Luca thì xác định những lý do: “Người thì đi ra đồng, kẻ thì lo buôn bán”, Matthêu nói như thế. Còn Luca thì bảo: “Tôi vừa mua một đám ruộng... Tôi vừa mua mấy con bò... Tôi mới cưới vợ”.
Đó là những lý do tuyệt vời, và biết bao Kitô hữu cuối cùng từ chối những lời mời của Thiên Chúa bằng mọi lý do tốt đẹp! Giờ đây dụ ngôn không còn được nói lên cho những người Do thái bị đe doạ là những người ngoại đạo sẽ thay thế họ nữa, dụ ngôn được nói với những Kitô hữu. Trong các bài phỏng vấn về cách thức sống đức tin, những Kitô hữu nói với tôi: “Tôi không hành đạo, tôi không đọc kinh”. Những lý do họ nêu ra đôi khi bi đát, nhưng thường thường tôi nghe gần giống như những từ trong dụ ngôn: “Tôi quá bận bịu vì chuyện này chuyện nọ...”
Bởi vì bạn đang đọc những bài suy niệm này nên bạn không ở trong trường hợp đó, nhưng chúng ta hãy chú ý, Thiên Chúa lúc nào cũng mời gọi.
Chúng ta có thể nghĩ rằng có hai dụ ngôn: dụ ngôn vói về lời mời gọi lớn lao và những lời từ chối, và dụ ngôn người được mời bị loại ra. Thực ra, đây cũng cùng một ý tưởng mời gọi, nhưng sự mời gọi rộng rãi đến nỗi cuối cùng trong phòng tiệc có cả “người tốt lẫn kẻ xấu”. Điều này nhắc lại các dụ ngôn cỏ lùng và lưới cá trong đó Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng bất cứ những người nào được Thiên Chúa mời gọi cũng sẽ có cơ may trở nên tốt lành.
Ở đây nữa họ cũng phải nỗ lực. Dụ ngôn bắt đầu bằng sự biết ơn đầy kinh ngạc: “Phúc cho những kẻ được Chúa mời dự tiệc!”. Dụ ngôn kết thúc bằng việc trở lại thái độ của người được mời. Chúng ta đang ở trong phòng tiệc, đây chính là Giáo hội, cộng đoàn dự lễ Chúa nhật, tiệc Thánh thể. Cũng không thiếu lời mời gọi chúng ta: “Chúng ta hãy nhìn nhận chúng ta là những kẻ tội lỗi...”. Và trước khi rước lễ: “Lạy Chiên Thiên Chúa, xin thương xót chúng con, xin cho chúng con một bộ đồ cưới”.
----------------------------------
Thánh Matthêu trình bày ở đây ba dụ ngôn mà chắc chắn Chúa Giêsu đã nói đến trong những: TN 28-A53
Thánh Matthêu trình bày ở đây ba dụ ngôn mà chắc chắn Chúa Giêsu đã nói đến trong những: hoàn cảnh khác nhau. Nhưng đúng ra, được quy hợp thành một toàn thể, các dụ ngôn đó giúp khám phá những viễn tượng mới cách phong phú hơn, vì những dụ ngôn đó chứng tỏ lập trường của những nhóm khác biệt đối với nước Thiên Chúa. Nhóm thứ nhất gồm có nhiều hạng người lãnh đạm hờ hững. Thái độ lãnh đạm của họ rất trầm trọng, vì đây là một việc tối hệ, dụ ngôn nói về tiệc cưới của Thái Tử, đó là một cuộc lễ duy nhất chỉ có những ai sang trọng mới được dự. Hơn nữa, lời mời gọi được lập lại nhiều lần biểu thị tính chất bất nhất của khách mời. Thái độ nhửng nhưng hình như là một xúc phạm.
Áp dụng dụ ngôn vào giáo hội, họ là những người đáng lẽ phải hiểu biết ý nghĩa dụ ngôn để cải hóa, nhưng vẫn đứng ngoài như những kẻ không tha thiết gì cả. Thương mại làm họ chú tâm hơn kinh nguyện, dương thế có giá trị hơn Thiên đàng, thời gian có ý vị hơn vĩnh cửu, bản ngã quý hơn Thiên Chúa. Họ không phải là thù địch, cũng không phải là vô thần, cũng không phải là vô tôn giáo. Nhưng họ không có thì giờ, chỉ hoàn toàn bận tâm với những lo âu trần thế.
Rồi sẽ ra sao? Thiên Chúa cũng không chú ý đến họ, để họ bị bỏ rơi và quên lãng. Nếu họ ngoan cố trong tình trạng này, họ sẽ bị kết án vĩnh viễn: “Ta không biết các ngươi. Ngày nay trước nhiệt tình đấu tranh chính trị, trước nhịp độ vội vã của cuộc sống kinh tế, trước cảnh náo động của thế giới, nhóm này hình như quan trọng đặc biệt.
Nhóm thứ hai gồm những người tự xưng là đối thủ. Trong dụ ngôn, đó là những người xử dụng tiệc cưới để nổi loạn và từ chối không theo hoàng vương. Mọi việc đều sôi nổi tạo nên một cuộc tranh chấp đẫm máu và thanh trừng tàn bạo. Áp dụng vào giáo hội, họ là những người vô thần cuồng tín, chiến đấu mạnh mẽ, là những bè phái tự cho là sáng suốt, là những người coi tôn giáo là một loại thuốc phiện mê dân, coi đức tin như một loại ký sinh trùng bám vào nhân loại; coi luân lý công giáo làm suy giảm ý thức quốc gia, coi Giáo Hội là một chế định do những người đen tối thiết lập để che chở những kẻ trí thức nhỏ bé. Họ chống đối Kitô giáo và Giáo Hội bằng lời nói, bút mực, hay hành động có tổ chức. Khi họ nắm chính quyền họ xử dụng luật pháp, cảnh sát, và trong trường hợp thất bại, họ dùng đến quân đội, thanh toán Kitô giáo: Đó là mục đích họ theo đuổi.
Tuy nhiên, cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa luôn luôn thất bại thảm khốc. Quan niệm tạp chủng về một siêu nhân loại sẽ gây nên cảnh trụy lạc dưới ảnh hương củ ác quỷ và phi nhân. Khi cả gan chống lại Thiên đàng sẽ bị rơi xuống hỏa ngục.
Nhóm thứ ba, gồm những người bước vào phòng tiệc nhưng không mặc áo cưới. Bên ngoài, họ là những người được mời, nhưng tâm tình bên trong của họ không hòa hợp với hoàn cảnh. Có lẽ họ cũng có áo cưới, nhưng họ coi việc mặc áo vào là vô ích. Phong độ của họ chứng tỏ họ khinh bỉ chủ tiệc. Thuộc về nhóm này còn có những ai thực sự là thành phần của Giáo Hội và tham dự vào đời sống Giáo Hội như những người Công Giáo sùng tín, nhưng mặt khác, họ khinh chê lời các Tông đồ, không mặc lấy Đức Kitô, không thấm nhuần tinh thần của Ngài. Đó là những chi thể chết của nhiệm thể. Họ tha hóa nhiệm thể và bóp méo nhiệm thể. Họ là những cành cây héo úa của Thiên Chúa, những cành cho khô khẳng, là những người Công giáo trong ngày Chúa nhật. Bên ngoài họ có vẻ quen thuộc với tôn giáo, nhưng trong tâm hồn họ vẫn xa lạ với tinh thần Đức Kitô. Trong dụ ngôn, số phận của họ là bị trục xuất khỏi lễ tiệc vì họ đã làm phiền lụy đến buổi tiệc và bóp méo hình ảnh buổi tiệc. Nếu họ cố chấp trong tình trạng của họ, họ sẽ bị Chúa tuyên phạt đời đời.
Sau cùng, nhóm thứ tư gồm những người đã chấp nhận lời mời gọi và rất mực khôn ngoan vì được hạnh phúc bất ngờ. Họ đến từ khắp nơi, dù biết rằng họ không có liên quan gì đến đặc ân này. Họ vô cùng hân hoan. Đó là những người ý thức về ơn sủng. Họ biết rằng, tiếng gọi của Chúa là do lòng thương xót, được ban xuống cho những người xa lạ, những chiên lạc, những tội nhân và những người bất xứng. Nhưng khi đã nghe tiếng gọi đó, họ cố gắng trả lời. Vì thế đời sống của họ là một đại lễ. Họ được tham dự vào tiệc cưới Con chiên. Họ vui sướng như ở Cana, bên những bình đầy rượu cách lạ lùng. Họ sẽ vẫn là những người bạn của quân lang. Tiếng gọi được ban xuống cho nhiều người, nhưng trong số những người đó có những người biệt phái coi mình là những kẻ ưu tuyển rồi lên mặt khoe khoang. Họ chỉ là thiểu số. Ngược lại, trong nước Chúa, cũng có những người tùy thuộc vào một thành phần ưu tuyển luân lý và công giáo, song vẫn không dám giả hình kiêu ngạo, tự mãn với ơn chọn lựa.
----------------------------------
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Về nước Trời cũng giống như vua kia”. Nước Trời không giống như một ông vua; nhưng: TN 28-A54
“Về nước Trời cũng giống như vua kia”. Nước Trời không giống như một ông vua; nhưng trong Nước Trời được Chúa Kitô khai mào, sẽ xảy ra điều mà dụ ngôn sắp kể lại (x. 13, 24; 18, 23; 25, 1). Cựu ước và Do thái giáo năng chỉ Thiên Chúa dưới những nét của một vì vua (Tl 8, 23; 1 Sm 8, 7; Xh 19, 6; Tv 11, 4; 47, 3; 93, 1- 2; 95, 3- 5; 103, 19; Gr 10, 7...).
“Làm tiệc cưới cho hoàng tử". Hình ảnh bữa tiệc thiên sai chắc chắn được vay mượn từ Cựu ước (Is 25, 6; 55,1-3). Nó diễn tả tính cách nhưng không của ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho dân Ngài và được tiên trông qua bữa ăn của Môisen với 70 kỳ lão, trước sự hiện diện của Đấng Vmh cửu trên núi Sinai, sau hy tế đền tội (Xh 24,11). Sách Khải huyền cũng trình bày ngày quang lâm của Nước Thiên Chúa như là việc cử hành lễ cưới của Con Chiên (Kh 19).
“Nhưng họ không muốn đến": Sự từ chối được diễn tả một cách rành rẽ qua động từ muốn động từ rất được Matthêu ưa thích (x. 11,14; 16,24; 18,30; 19,17; 23,27b). Việc đáp lại lời mời không phải là chuyện khuynh hướng bẩm sinh hay chuyện tình cảm, nhưng là chuyện quyết định tự ý hoàn toàn. Xa hơn chút nữa (c.5), Matthêu cho thấy các thực khách không thèm đếm xỉa đến lời mời, không quan tâm, đó chính là thái độ hờ hững đáng tội, là sự thờ ơ hiểu theo nghĩa mạnh nhất.
“Khách mời đã không đáng dự”. Sự bất xứng của các kẻ được mời không do tự nhưng khiếm khuyết hay vô tri tự nhiên, vì sau đó đủ mọi hạng người sẽ được triệu mời, lành cũng như dữ" (c.10); họ bất xứng vì đã từ chối.
“Vậy các người hãy ra các ngã đường, hễ gặp ai thì mời vào tiệc cưới”. Kiểu nói ‘vậy hãy đi’ (poreuesthe oun) nhắc cho ta nhớ những tiếng mà Chúa Giêsu sẽ dùng để sai các môn đồ đến với dân ngoại: “Vậy các ngươi hãy đi thâu nạp các môn đồ khắp muôn dân" (28, 19). Ơn cứu độ nhưng không của Chúa Kitô, dù bị người Do thái khinh chê, vẫn được cống hiến cho bất cứ ai nghe lời mời gọi của các kẻ phục vụ Tin Mừng trong khắp nẻo đường thế giới: "Nhiều kẻ sẽ từ phương Đông, phương Tây mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước Trời" (8, 11). Sự cứng lòng và từ chối của Israel chỉ khai mào thời gian của Giáo Hội, thời gian mà một khi Tin Mừng được rao giảng cho mọi dân tộc (24, 14), phòng tiệc sẽ tràn ngập đủ hạng người. Thành thử việc sai các gia nhân lần thứ ba tương ứng với việc sai các sứ đồ đến với dân ngoại sau khi Chúa Giêsu phục sinh. Ở đây, chúng ta gặp lại chiều hướng phổ quát và truyền giáo rất được Matthêu chú trọng (2,1-2; 3,9; 8,5-10; 8,28-34; 15, 21-28; 13, 47; 21, 43...).
"Bất luận dữ hay lành”. Chi tiết này làm ta liên tưởng tới dụ ngôn lưới cá (13, 47-50); “kẻ dữ" đây là những người có tội được mời cách nhưng không, sẽ cải thiện đời sống một khi đã vào trong Nước Trời hay Giáo Hội, hoặc là các kẻ dữ theo nghĩa tuyệt đối mà một ngày kia sẽ bị loại ra khỏi Nước Trời (hay khỏi Giáo Hội). Các câu 11-14 tiếp theo sau xét đến hạng kẻ dữ này.
“Nhà vua đi vào coi khách dự tiệc”. Đây là cuộc phán xét sau cùng; hãy so sánh với các dụ ngôn của chương 13 (vd: cỏ lùng, lưới cá) và của chương 25 (mười trinh nữ nén vàng, chiên và dê): trong các dụ ngôn ấy nói tới sự lựa chọn, phân tách kẻ dữ người lành. Những câu này, của riêng Matthêu, chắc chắn là để sửa lại một lối giải thích tự do quá trớn về các câu 1-10. Dĩ nhiên, việc gia nhập vào Giáo Hội là nhưng không thật đấy, song chớ quên rằng đó là Giáo Hội của Vua. Thiên Chúa "khám xét" dân mới của Ngài kỹ lưỡng vô cùng vì ân sủng Ngài luôn luôn đòi hỏi.
"Sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ cưới?": Y phục lễ cưới này là cái gì vậy? Đó chỉ có thể là thực tại và được biểu hiệu trong dụ ngôn thợ vườn nho qua hình ảnh hoa quả Nước Trời. Đó là sự công chính luôn được Tin Mừng Matthêu đòi hỏi nơi tín hữu, sự công chính hay là sự trung thành mới mà các chương 5-7 đã cho một vài ví dụ (5, 20; 6, 33...). Để đi vào Nước Trời, cần phải mặc “áo cứu độ" (Is 61, 10), "mặc lấy Chúa Kitô" (Ep 4, 24; Gl 3, 27). Vì thế, chỉ những ai đã "giặt áo mình trong máu Con Chiên" (Kh 7, 9-17) mới có thể đứng vững trước ngai Con Chiên trong ngày lễ cưới (x. Kh 19, 6-8).
“Người ấy câm miệng": Người Do thái quan niệm rằng các việc lành phúc đức sẽ bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa. “Ai thực thi huấn lệnh thì người ấy sắm cho mình một kẻ chuyển cầu" (Châm ngôn tiên tổ 4, 13). Một ý tưởng tương tự cũng được tìm thấy trong Cv 10,4. Người khách đã không thực thi việc phúc đức thành ra câm miệng lại: chẳng một ai chuyển cầu biện hộ cho y.
KẾT LUẬN
Dân Do thái, kẻ thừa hưởng lời hứa của Thiên Chúa, là những người đầu tiên được đón nghe Tin Mừng, do từ chính Chúa Giêsu (Người chỉ giảng dạy cho họ) cũng như do các sứ đồ (các vị luôn luôn bắt đầu từ nơi họ, ngay cả Phaolô, trong các thành ngài rao giảng), nhưng họ đã không sẵn sàng tiếp đón. Tuy nhiên, sự cứng lòng của họ, dầu bí nhiệm đến đâu (Ga12, 37-43), cũng không thể làm cho ý định quan phòng của Thiên Chúa thất bại. Các dân ngoại, được rao giảng Tin Mừng muộn hơn, sẽ dần dà đi vào trong Giáo Hội của Chúa Kitô. Và chính thánh Phaolô (Rm 11, 26) có hé mở cho thấy trong tương lai, Israel sẽ trở lại với Người cách ồ ạt, khiến sau cùng Do thái và dân ngoại, hiệp nhất trong một Giáo Hội, có thể cùng nhau tạo thành Israel của Thiên Chúa. trong lúc chờ đợi, mỗi người phải cố gắng mặc lấy Chúa Kitô bằng cách thực thi việc làm.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Bàn tiệc cưới của Giáo Hội là bàn tiệc Thánh Thể, được Chúa Ki-tô khai mạc với các sứ đồ trong bữa tiệc ly (Mt 26, 26- 29) và luôn được tái diễn từ ngày Hiện Xuống trong Giáo Hội sơ khai (Cv 2, 42) cũng như trong các cộng đoàn Kitô hữu mới (1Cr 11, 23-29). Để xứng đáng tham dự bàn tiệc Thánh Thể này, phải mặc áo cưới, nghĩa là sống một đời phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô. Và từ bàn tiệc Thánh Thể này đến bàn tiệc Thánh Thể khác, chúng ta sẽ càng ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc thiên quốc trong tình thân mật với Thiên Chúa, nơi đó Thiên Chúa sẽ là tất cả niềm vui của chúng ta.
2) Khi lãnh nhận phép Thánh tẩy, chúng ta đã được mặc một chiếc áo trắng và linh mục đã chúc chúng ta gìn giữ nó tinh tuyền cho đến ngày phán xét trước tòa án của Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã làm bẩn chiếc áo rửa tội này, chúng ta luôn có thể trình diện nơi tòa án của lòng thương xót là Bí tích Giải tội. Ở đó Chúa Kitô, qua lời Bí tích của vị đại diện Người, sẽ tẩy sạch áo cưới của chúng ta và lại kêu mời chúng ta dự tiệc cưới của Vua, trong niềm vui của tình thân được tái lập. Đừng có làm như những người được mời đầu tiên của dụ ngôn mà từ chối hồng ân lớn như thế.
3) Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta vào trong tình thân mật của Ngài, mời ta hưởng niềm vui được phục vụ Ngài (phục vụ là thống trị vì Chúa). Người ta có thể phản đối lời mời ấy bằng một thái độ thù nghịch công khai, điều này rất may là họa hiếm. Thường thường người ta phản đối bằng thái độ lãnh đạm tôn giáo, được che dấu dưới nhiều cớ dễ dãi: không có thì giờ, nhiều việc khác cấp bách hơn v.v... Như những kẻ đầu tiên được mời của dụ ngôn, ta không thèm đếm xỉa đến lời mời đã nhận được. Trong phương diện này, trách nhiệm Kitô hữu nặng nề hơn trách nhiệm của người ngoại, vì Kitô hữu biết rằng mình được mời đự tiệc, trong khi lương dân chỉ có thể trực giác cách mơ hồ thôi, trong đáy sâu thẳm của lòng họ.
4) Chúa nói dụ ngôn cho chúng ta, là Người đang sống trong Giáo Hội. Người cảnh giác chúng ta: đừng tưởng rằng các ngươi đã đến đích, đã an vị; giữa các ngươi có đủ loại, kẻ dữ người lành, cỏ lùng lúa tốt. Các gia nhân của Ta dã quy tụ các ngươi, họ đã lấy tất cả những gì họ gặt: tốt cũng như xấu. Chẳng phải vì các ngươi ở trong mà các ngươi được xét đoán kẻ ở ngoài, những kẻ đã từ chối không chịu đến. Vì có một cách khác làm sỉ nhục cho Đấng mời gọi chúng ta là định cư trong nhà Người như thể trong nhà của chúng ta, quên rằng Người đã mời gọi chúng ta, quên rằng chúng ta ở trong Giáo Hội là nhờ ân sủng thuần túy, quên rằng chỉ có cách sống đạo của chúng ta mời định đoạt về số phận được tuyển chọn cuối cùng.
5) Mặc lấy Chúa Kitô là mặc lấy các tâm tình: lân tuất, nhân hậu, khiêm nhu, nhẫn nại, hiền từ (Cl 3, 9-13), là tha thứ như Người đã tha thứ cho ta, là yêu mến như Người đã mến yêu ta, là trở nên một Kitô khác, là được biến đổi trong Người, là chân thật trong các cuộc giao tiếp với anh em, là đừng để cho cơn giận có thời giờ ra chai cứng lại thành hiểu lầm nhau, là nỗ lực làm việc để có thể chia sẻ cho những người túng thiếu.
6) Thiên Chúa mời chúng ta dự tiệc của Ngài không những là qua tiếng nói của Giáo Hội hay các linh mục, nhưng còn qua bất cứ một người vô danh nào mà chúng ta biết lắng nghe, qua một biến cố lay động cuộc sống, qua một thử thách mà chúng ta trải vượt, qua một niềm vui mà chúng ta thường thức. Trong mức độ mà các con người và các biến cố ấy kêu gọi chúng ta, thúc bách chúng ta phản ứng, buộc chúng ta chọn lựa sống đạo, vì đó chính là các gia nhân đến nài xin tự do của ta, đến thông ban cho ta một Tin Mừng: "Tiệc cưới đã sẵn".
----------------------------------
“Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình...”
Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những định nghĩa to tát trừu tượng về Thiên Chúa, về: TN 28-A55
Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những định nghĩa to tát trừu tượng về Thiên Chúa, về thiên đàng, về Giáo Hội. Không? Tin Mừng đúng ra là một là một cuốn sách cao cả bằng nhiều hình ảnh. Khi nhìn sự thành công về mặt truyền hình của các đám với hoàng gia thì hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng trong thời đại ấy xem ra còn mới... dù hình ảnh ấy có tính chất Phương Đông rõ nét.
Như thế, Đức Giêsu trình bày với chúng ta một Thiên Chúa làm đám cưới cho con trai mình: đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, câu chuyện tình yêu đẹp nhất! Rõ ràng là câu chuyện liên quan đến Người. Đức Giêsu là người yêu. Người đã cưới một hôn thê mà Người yêu say đắm: hôn thê đó là nhân loại. Hình ảnh hôn lễ này như “một sợi chỉ vàng" xuyến suốt toàn bộ Kinh Thánh: Hs 1-3; Is 54,4-8; 61,10; 62,4-5; Gr 2,2 - 31,3; Ed 16; Tv 45,7-8, toàn bộ sách Diễm Ca; Mc 2, 19; Ga 3;29; Mt 25, 1-13; 9,1-5; Ep 5,25; 2Cr 19,29; 21,2-9; 22,17; Kh 20,9; 21,2-9 v.v...). Vâng, từ đầu này đến đầu kia của mạc khải, những quan hệ của Thiên Chúa với nhân loại là một "Giao ước" một "Lễ cưới". Điều đó sẽ thay đổi gì cho tôn giáo của tôi nếu như thay vì chỉ quan niệm tôn giáo ấy như những chân lý phải tin và những quy tắc về đạo đức phải tuân thủ, tôi đi đến chỗ quan niệm tôn giáo của tôi thật sự là "một câu chuyện tình yêu”?
Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới...
Thiên Chúa mơ đến một bữa tiệc hoàn vũ cho nhân loại một bữa tiệc thật sự "vương giả"... một lễ hội! Bạn hãy thử hỏi bất cứ đứa trẻ nào để biết những trường hợp làm chúng rất sung sướng. "Đó là khi có nhiều khách mời đến nhà?". Bữa ăn ngày lễ hội hoàn toàn là một biểu tượng của niềm vui được chia sẻ. Và ngày hôm nay vẫn thế, bữa tiệc cưới thường quy tụ nhiều khách khứa vui vẻ nhất: Món ăn chọn lọc, rượu ngon, tiếng nhạc lời ca, y phục lễ hội, khiêu vũ... Đến ngày lễ hội, bàn ăn đã sẵn sàng, Thiên Chúa cũng quy tụ các khách mời của Người. Nhưng khách được mời sắp làm gì?
Nhưng họ không chịu đến.
Ông vua tội nghiệp và thất vọng biết bao! Có gì mà chán nản.
Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rãi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!".
Như trong dụ ngôn "những tá điền sát nhân", nhưng sự từ chối của nhân loại dường như không làm Thiên Chúa ngạc nhiên. Không chán nản, Người sai những đầy tớ khác đi để một lần nữa mời họ. Đây không phải là một câu chuyện cũ trong quá khứ. Hiện nay vẫn luôn luôn có những lời mời gọi. Trước tiên đây không phải là lời mời gọi của những người khác. Thiên Chúa đã gửi cho tôi một "thẻ" vào cửa. Tôi có nhận thức tôi đang được chờ đợi và có một chỗ dành cho tôi ở bàn ăn không? Thật vậy, tôi phải dùng thời gian để mỗi buổi tối tự hỏi về những lời mời gọi mà Thiên Chúa đã không ngừng gọi đến tôi suốt một ngày. Và mỗi Chúa nhật, hãy dùng thời gian để tự hỏi tôi đã bỏ lỡ những lời mời gọi nào của Thiên Chúa trong tuần.
Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.
Như trong "mùa hái nho đẫm máu” của Chúa nhật vừa qua chúng ta như chìm ngập vào bi kịch. Tiệc cưới đẫm máu cũng là biểu tượng cho sự khước từ Thiên Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu kể lại câu chuyện này, có lẽ một ít ngày trước cuộc khổ nạn của Người, trong tuần lễ cuối cùng của Người. Cái chết của Người đã được các thủ lãnh ở Giêrusalem quyết định trong bóng tối. Nhưng, chúng ta biết rõ không chỉ liên quan đến những người đồng thời của Đức Giêsu. Chính tôi, chính thế giới hiện nay, đang từ chối lời mời của Thiên Chúa. Sự mô tả tâm trạng sâu kín của những khách được mời ấy có tính thời sự nóng bỏng. Đức Giêsu mô tả hai hạng người: 1/ Những người "thờ ơ” với một sự lãnh đạm hầu như tự nhiên không có vẻ gì quan tâm đến việc mình được mời, và một cách rất đơn giản họ để cho công việc của họ cuốn họ đi. 2/ và đến những người "phản bác” họ từ chối lời mời một cách có ý thức và tham gia dùng bạo lực giết hại các đầy tớ.
Như thế Đức Giêsu mô tả cho chúng ta tình trạng của thế giới hiện đại một cách chính xác. Chỉ cần đưa ra một vài ví dụ xác đáng của ngày hôm nay dưới những từ ngữ của ngày xưa. "Làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ? Tôi chỉ có một ngày Chúa nhật để chơi bóng đá và quần vợt. Đó là ngày mà tôi sẽ di du lịch. Đó lâu ngày mà tôi sửa chữa máy móc trong nhà. Tôi đã nhảy đầm cả buổi tối thứ bảy, làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ ngày Chúa nhật. Và rồi, tôi còn có bài tập phải làm và các kỳ thi phải ôn thi...". Thế đấy chúng ta đều bị xã hội tiêu thụ và chủ nghĩa duy vật ở xung quanh khống chế. Và chúng ta đều có nguy cơ cho Thiên Chúa đứng ở chỗ cuối. Biết bao âm thanh khác lấp mất những 'lời' kêu gọi của Người. "Hãy đến dự tiệc cưới của Ta?". Và chúng ta không hề nghe thấy!
Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng.
Lịch sử phương Đông cổ đại cung cấp cho chúng ta những giai thoại thuộc loại này. Nhưng một lần nữa, chúng ta biết mình đang ở trong thể loại dụ ngôn. Không nên tìm kiếm ý nghĩa chính xác cho mỗi chi tiết. Tuy nhiên, thành phố bị thiêu hủy làm chúng ta nghĩ đến một biến cố lịch sử chính xác đã lầm tổn thương những người Do Thái và những Kitô hữu của thế kỷ đầu tiên và đó là cơ hội để Hội Đường và Hội Thánh đoạn tuyệt nhau (Do Thái giáo và Kitô giáo tách rời nhau). Khi Matthêu viết câu chuyện này thì trong thực tế những đạo quân của Titus đã tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70. Một số phận như thế đã có thể xảy đến cho thủ đô nổi tiếng của dân tộc Israel như thế nào? Những biến cố lịch sử có thể được giải thích theo nhiều cách. Tuy nhiên, các ngôn sứ đã giải thích sự tàn phá của các thành phố lớn như một hình phạt của Thiên Chúa" (Is 5,26-29; Gr 5,15-17).
Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới". Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Vậy đây là những khách mời mà người ta không chờ đợi và chính họ chấp nhận lời mời. Những người Do Thái, những người khách mời đầu tiền, vì thế sẽ nhường chỗ cho dân ngoại.
Nhưng một lần nữa, chúng ta phải cảnh giác với sự tự mãn về chủng tộc. Bởi vì đây cũng là vấn đề của chính chúng ta. Một cách chân thật, chúng ta có thể đáp "vâng" với những lời mời gọi mà Thiên Chúa lặp lại trong đời sống hàng ngày của chúng ta hay không?
Đức Giêsu đã báo trước cho chúng ta: Căn phòng tiệc cưới sẽ đầy cho dù các "ông lớn" không thèm đáp lại. Người sẽ làm đầy phòng tiệc với những người rách rưới, bị loại trừ, những người đầu đường xó chợ. Thánh Luca trong bài dụ ngôn song song xác định rõ thành phần: "Các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt" sẽ thế chỗ cho những người được mời đầu tiên (Lc 14,21). Và Matthêu, trong một đoạn văn khác cũng đã nói với chúng ta điều dó: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông"
Vậy các người đi ra các ngã động gặp ai cũng mời, tốt xấu gì cũng mời ...". Chúng ta hãy để cho những lời khác thường ấy tra vấn chúng ta. Chúng ta có được tấm lòng cũng bao la như Thiên Chúa hay không? Chẳng phải chúng ta luôn luôn bị chủ nghĩa ưu tuyển cám dỗ sao? Chẳng phải chúng ta luôn luôn mơ đến một Giáo Hội của những người thanh khiết, những chiến sĩ, những người có đức tin hoàn toàn sáng suốt sao? Chẳng phải chúng ta coi nhẹ những thực hành của "tôn giáo bình dân sao?".
Còn Thiên Chúa, Người mời gọi mọi người, không phân biệt, đủ mọi thành phần. Người lại còn ưu ái đến những người nghèo, những người ở bên lề, những người bị bỏ rơi vì thiếu thốn, những người nghèo khổ.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?". Người ấy câm miệng không nói được gì.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người xấu và tốt, không vì thế mà buông xuôi thành nhu nhược Biểu tượng về y phục thường gặp trong Kinh Thánh. Ơn cứu chuộc không bao giờ tự động có được: phải "đáp ứng" lời mời gọi của Thiên Chúa bằng sự biến đổi chính mình Phải "mặc lấy con người mới" (Gl 3,27; Ep 4,24; Cl 3,10).
Bấy giờ nhà vua bảo những người phục dịch: Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng?"
Hình phạt to lớn này và những từ ngữ khuôn sáo (Mt 8,12; 13,42; 24,51; 25,30) dùng để mô tả sự xét xử ấy làm nổi bật tính chất hoàn toàn tượng trưng của "Y phục lễ cưới", của chiếc áo dài hôn lễ! Đi vào trong phòng tiệc cưới một lần rồi thôi chưa đủ. Tiếp nhận Lời Chúa không phải để sau cùng cất Lời ấy vào chỗ an toàn.
Những người đã thay thế cho những khách mời đầu tiên cũng thế, không Phải là những người có quyền ưu tiên: nếu họ tỏ ra bất xứng với tiệc cưới của Thiên Chúa, họ sẽ bị ném "ra ngoài". Lời cảnh báo ấy rất nghiêm trọng? Nó cáo giác sự an toàn dễ dãi của chúng ta? Người tín hữu được nhắc nhở đến trách nhiệm của mình.
Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô cùng. Nhưng người ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người. Khi chúng ta được linh mục "mời gọi" đến hiệp lễ trong thánh lễ chúng ta nghe Ngài đọc: "Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa". Và chúng ta chỉ có thể nói tiếng "vâng" nhưng trước hết phải nói rằng: “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con... nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh".
----------------------------------
Mátthêu 22,1-14
Cũng như dân Do-thái đã bị loại bởi vì họ đã tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đã đón nhận lời mời.
Lm PX. Vũ Phan Long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Cả ba dụ ngôn nối tiếp nhau – Hai người con (21,28-32), Những người thợ vườn nho (21,33-46) và Tiệc: TN 28-A56
Cả ba dụ ngôn nối tiếp nhau – Hai người con (21,28-32), Những người thợ vườn nho (21,33-46) và Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) – đều được gửi đến cho các thượng tế và các kỳ mục của Dân (x. 21,23) và đều mang một sứ điệp rất giống nhau. Bằng các dụ ngôn này, với một lời khuyến cáo lặp đi lặp lại, nghiêm túc, mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn làm cho họ mở mắt ra để hiểu tương quan của họ với Thiên Chúa. Các thượng tế và các kỳ mục không được chạy theo ảo tưởng nào, nhưng phải thấy rõ tương quan đó trước khi quá muộn và phải điều chỉnh bản thân cho kịp thời.
Thật ra các dụ ngôn và các lời khuyến cáo không phải chỉ được dành cho giới lãnh đạo Do-thái giáo, nhưng cũng được gửi đến cho thính giả mọi thời. Thiên Chúa không ép buộc; Người ngỏ với chúng ta và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Các người con được mời đi làm việc trong vườn nho của cha; những người thợ vườn nho được nhắc nhở giao nộp hoa lợi thuộc về ông chủ; những khách được mời được kêu gọi đến dự tiệc cưới. Không một ai bị bó buộc phải xử sự theo cách nào cả. Thiên Chúa kiên nhẫn và đại lượng ước muốn rằng lời mời của Ngài được đón nhận.
II. BÔ CỤC
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Mở (22,1);
2) Dụ ngôn Tiệc cưới (22,2-[6-7]10);
3) Dụ ngôn Áo cưới (22,11-13);
4) Kết luận (22,14).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- mở tiệc cưới cho con mình (1): Hình ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu Ước (Is 25,6; 55,1-3). Nó diễn tả tính nhưng-không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho Dân Người.
- nhưng họ không chịu đến (3): Dịch sát là “không muốn đến”. Mt dùng động từ “muốn” (thelô), là một động từ ngài ưa chuộng (x. 11,14; 16,24; 18,30; 19,17; 23,27b) để diễn tả một quyết định rõ ràng.
- Vậy các ngươi đi ra các ngả đường (9): Công thức mệnh lệnh poreuesthe (các ngươi hãy đi) oun (vậy) khiến chúng ta hướng tới công thức phân từ poreuthentes oun có giá trị như một mệnh lệnh ở Mt 28,19, khi Đức Giêsu sai phái các môn đệ đi đến với Dân ngoại (“muôn dân”)
- bất luận xấu tốt (10): Những người “xấu” này có thể là những người tội lỗi, một khi đã được kêu gọi nhưng-không, sẽ sửa mình khi đã vào trong Vương Quốc hoặc trong Họi Thánh; mà cũng có thể là những người xấu theo nghĩa tuyệt đối, sẽ bị loại trừ ngày nào đó khỏi Vương Quốc (hoặc khỏi Họi Thánh). Các câu 11-14 hiểu theo nghĩa thứ hai này.
- quan sát (11): Động từ theaomai có nghĩa là “nhìn xem; chiêm ngưỡng; quan sát”. Bên Đông phương, các nhân vật quan trọng không ngồi ăn chung với các khách mời, nhưng chỉ xuất hiện vào một lúc nào đó để chào cách quan khách. Phân đoạn gồm cc. 11-13 hẳn là một bản văn áp dụng cho đời sống Họi Thánh (trong khi cc. 1-10 áp dụng cho lịch sử dân Do-thái), nay được đưa vào đây để sửa chữa một lối giải thích quá tự do cc. 1-10. Quả thật, việc đi vào Họi Thánh là chuyện nhưng-không, nhưng cũng không được quên rằng đấy là Họi Thánh của Đức Vua! Đã nhận ơn, thì phải sống theo chiều hướng của ơn đã nhận.
- không có y phục lễ cưới (12): “Y phục lễ cưới” này hẳn cũng là thực tại được dụ ngôn Những người thợ vườn nho nói đến, đó là các hoa trái của Vương Quốc. Đây là “sự công chính” thường được TM Mt nói đến (ch. 5–7: 5,20; 6,33…). Xem thêm: Is 61,10; Ep 4,24; Gl 3,27; Kh 19,6-8; 7,9-17.
- kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít (14): Ngôn ngữ Híp-ri không có những hình thái đặc biệt cho các tính từ ở dạng so sánh (comparative: better; more) hay tối thượng cấp (superlative: best; most); do đó, người ta dùng cách kiểu nói quanh (paraphrases). Phải dựa vào ngữ cảnh thì mới xác định được nghĩa so sánh nằm ở dưới. Xem Mc 9,42; Mt 22,36; 26,24; Lc 10,42; 18,14…
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Mở (1)
Dụ ngôn này được ngỏ với những thính giả đã được nói đến (“họ” = “các thượng tế và người Pharisêu”, x. 21,45), những người phải gánh lấy tất cả trách nhiệm và tội lỗi, khi từ khước Đức Kitô. Ta thấy dụ ngôn này và dụ ngôn trước có những điểm giống nhau. Một bên, đó là ông chủ nhà có một vườn nho, ở đây là một vị vua. Ông chủ nhà sai đầy tờ hai lần đến vườn nho để nhận hoa lợi; đức vua sai các đầy tớ hai lần đi mời khách tới dự tiệc. Trong cả hai trường hợp, các tôi tớ đều thất bại vì những người họ đến gặp tỏ ra xấu xa. Trong cả hai trường hợp, có liên quan đến một “người con [trai]”. Những điểm song song đó cho hiểu rằng hai câu chuyện nhắm đến một số nhân vật như nhau. Ông chủ vườn nho và đức vua chỉ là một, đó là Cha trên trời; người con trai chắc chắn là Đấng đã tự gọi mình là “Người Con” (11,27). Các tôi tớ chính là các ngôn sứ. Còn những người được mời chính là Dân bất trung của Thiên Chúa.
* Dụ ngôn Tiệc cưới (2-[6-7]10)
Tuy nhiên, hai dụ ngôn cũng có những điểm khác nhau. Trong dụ ngôn Những người thợ vườn nho, vấn đề là một đòi hỏi về công bình; ở đây là một lời mời, một vinh dự diễn tả cho một ai đó. Một bên là ông chủ đòi hỏi điều thuộc về ông, bên kia là vị vua quảng đại, muốn mời tối đa nmgười ta đến thông phần vào niềm vui của ngày cưới hoàng tử. Trong trường hợp sau này, thái độ thiếu quan tâm càng đáng trách hơn, vì ở đây không còn chuyện vi phạm một quyền, nhưng là một xúc phạm nặng nề đến danh dự. Đã thế, thái độ thiếu quan tâm còn trầm trọng đến mức trở thành sự căm thù chẳng hiểu vì sao. Ngay ở đây cũng có thể đặt lại câu hỏi của dụ ngôn trước: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” (21,40). Câu trả lời không còn phải là một đe dọa, nhưng là một hành động trừng phạt. Như thế, từ dụ ngôn kia sang dụ ngôn này, có một sự tiệm tiến.
Những “người đã được mời” (keklêmenous) là những người được báo tin về tiệc cưới đúng thời điểm. Đây là các bạn hữu, những người đang sống trong những tương quan thân tình với nhà vua. Việc nhà vua sai đầy tớ đến và mời thúc bách (c. 4) cho thấy cử chỉ tối hậu của lòng tốt của nhà vua, nhưng đã không được đáp lại. Đúng ra, nhà vua chỉ nhận được một sự từ khước dứt khoát (“không muốn đến”, c. 3); các động lực thâm sâu là họ có những mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất (chủ đề của Mt: x. 8,18-22; 19,21). Thế là từ tư cách những người đầu tiên được ưu đãi, người Do-thái trở thành những đối thủ đầu tiên chống lại ơn cứu độ, và mục tiêu đầu tiên cơn giận Thiên Chúa nhắm tới. Họ bị đánh giá là “không xứng đáng” (c. 8) không phải vì họ có những thiếu sót hay sự ngu dốt nào tự nhiên, nhưng do họ từ khước.
Đức vua đã huy động quân lính đi “tru diệt bọn sát nhân và thiêu hủy thành phố của chúng” (c. 7). Tại sao sự việc lại trở nên gia trọng đến mức ấy? Dường như các khách được mời sống ngay trong thành phố nơi tổ chức lễ cưới. Các kẻ sát nhân chỉ là một vài người trong số khách được mời thôi. Chẳng lẽ mọi người khách mời khác đều đáng xử như những kẻ sát nhân? Đàng này, cả thành bị thiêu hủy, hẳn là với tất cả những người vô tội. Nếu muốn tiếp nối câu chuyện cho hợp lý, thì phải nói đến việc mời những người khác. Tất cả các thắc mắc này khiến ta phải nhìn nhận rằng cc. 6-7 là một câu lạc lõng.
Rất có thể tác giả đang nghĩ đến cuộc tàn phá Giêrusalem đã xảy ra vào năm 70. Chỉ điều này mới giải thích được vì sao tác giả gán một tầm quan trọng đặc biệt cho chuyến hành quân trừng phạt và cuộc thiêu hủy thành phố. Và những kẻ sát nhân không phải chỉ là một vài người tạo cớ cho tác giả viết dụ ngôn, nhưng là tất cả các thợ làm vườn nho đã giết người con sau khi bàn bạc với nhau (21,38-39). Như thế ở đây Mt không chỉ làm chứng trung thành về các lời của Đức Giêsu đã được truyền đạt cho ngài, nhưng còn cung cấp cho chúng ta cách thức giải thích các lời này cho các thành viên của các cộng đoàn tiên khởi của Họi Thánh. Hai phương diện này được kêt nối chặt chẽ với nhau. Chỉ lời được Họi Thánh phát xuất từ các tông đồ hiểu và giải thích đúng đắn mói có thể được coi như là Lời Chúa, được Chúa Thánh Thần linh hứng và buộc chúng ta tin nhận.
Các đầy tớ có nhiệm vụ ngỏ lời mời với những người khác, mà không chọn lựa. Họ có nhiệm vụ đưa tất cả những ai họ gặp trên đường vào phòng tiệc, không cần tên tuổi, màu da. Do đó phòng tiệc hẳng mấy chốc đã đầy một khối người đa tạp. Sự đa tạp này không do khác nhau về y phục, về địa vị xã hội hay về những yếu tố bên ngoài. Đây là một sự khác biệt bên trong, chủ yếu, giữa “người xấu và người tốt (c. 10). Chúng ta chỉ hiểu được tình trạng này nếu khởi đi từ thực tế tác giả đang nghĩ tới. Lời mời đã được ngỏ với dân Ít-ra-en, nhưng họ đã không muốn đón nhận; thế là lời mời được gửi đến một dân mới, Dân ngoại. Đây không còn phải là một dân gồm những người trong sạch và các thánh, mà là một xã hội đa tạp gồm những người xấu và những người tốt. Ta gặp thấy có cả hai hạng người này trong Họi Thánh, như cỏ lùng giữa lúa tốt (13,28; x. dụ ngôn Chiếc lưới: 13,47-50). Dù sao, phòng tiệc cũng đã đầy vì mọi người được tự do đi vào. Nhưng sẽ có một cuộc biện phân quyết định: lời mời không khẳng định là người ta sẽ thực sự được tham dự vào lễ cưới. Trước tiên phải có một cuộc phán xét: phải tách cỏ lùng khỏi lúa tốt. Đây chính là mục tiêu của phần thứ hai của bài dụ ngôn.
* Dụ ngôn Áo cưới (11-13)
Đến đây khung cảnh vẫn là bữc tiệc, nhưng sự chú ý lại xoáy vào chiếc áo cưới. Ông chủ dường như không còn phải là vị vua trước đây nữa. Ông không đến để chiêu đãi một bữa tiệc linh đình nữa, mà đến để “quan sát” (theasasthai; x. 2 V 9,18) các khách dự tiệc. Dĩ nhiên người ta tự hỏi là làm thế nào người kia có thể có một cái áo cưới (và tất cả những người khác thì lại có sẵn áo cưới!) khi mà anh ta bị mời đột ngột giữa đường. Như thế là bất công trắng trợn! Chính điểm gây “sốc” này cho hiểu rằng đây không phải là vấn đề một cái áo theo nghĩa cụ thể. Chúng ta đã được chuẩn bị cho cách giải thích này bởi vì dụ ngôn đã ghi trước đó là trong phòng có kẻ xấu người tốt. Rõ ràng người không có áo cưới thuộc về hạng kẻ xấu. Cũng chính điểm này mới giúp hiểu cách đối xử người ấy sẽ phải chịu: không phải là đuổi ra ngoài, nhưng “quăng ra chỗ tối tăm”, nơi sẽ phải “khóc lóc nghiến răng”, tức là người ấy bị tiêu vong. Sự “câm miệng” của người khách này chứng tỏ lời trách của ông chủ là đúng. Người này, cũng như những người đầu tiên, đã không hề quan tâm đến vinh dự đã nhận; họ đã đến tiệc cưới với đầu óc tầm thường, thô thiển, không trân trọng, không biết ơn.
Bữa tiệc là hình ảnh Nước thiên sai; chiếc áo tượng trưng cho các tư thế căn bản để được vào và ở lại đó. Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ phải có một “sự công chính dồi dào hơn” (x. 5,20); đây chính là tinh thần mới người ta phải có để sống các tương quan với Thiên Chúa.
Nhận được lời mời không đương nhiên là được cứu độ vĩnh viễn. Con số những người được kêu gọi thì nhiều, điều này có nghĩa là nhiều người được để cho đi vào, không phân biệt, không điều kiện. Họ không cần phải giữ luật Môsê, họ không cần phải chịu cắt bì. Nhưng khả năng đi vào không có nghĩa là một bảo đảm; đi vào trong sự hiệp thông Họi Thánh không có nghĩa là được đi vào trong Nước Thiên Chúa và lúc tận thế. Phải phân biệt giữa niềm cậy trông đầy tín thác và phó thác với sự tự phụ, tự hào không cơ sở là mình có ơn cứu độ.
* Kết luận (14)
Câu kết luận “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít” thường được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất cho rằng “những người được chọn” đây là những người được nhận một ơn đặc biệt khiến họ có thể sống gần kề hơn với những sự thuộc về Thiên Chúa và có thể cậy dựa nhiều hơn vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa đối với họ. Dĩ nhiên con số này ít, còn đa số chỉ nhạn được một ơn thông thường. Cách thứ hai, phổ biến hơn, giới hạn khẳng định của Đức Giêsu vào trường hợp những người Do-thái thời Người mà thôi: tất cả đều được gọi vào Nước Trời theo nghĩa là tin vào Người, nhưng tuyệt đại đa số đã từ khước đi vào Nước ấy khi loại trừ Đấng Mêsia.
Cả hai cách giải thích này đều có phần giá trị, nhưng không khớp với dụ ngôn. Cách thứ nhất giả thiết rằng người khách bất xứng đã bị quăng ra ngoài bởi vì đã lén đi vào một nhóm nhỏ gồm những người được ưu tuyển; nhưng bản văn nói rõ là người ấy bị loại bởi vì thiếu điều tối thiểu cần thiết cho sự đoan trang của bữa tiệc. Cách thứ hai cũng không thỏa đáng. Bởi vì người khách bị loại đã đi vào với nhóm thứ hai, nên người này là một người ngoại chứ không phải là một người Do-thái; thế nhưng lại chính vào lúc loại trừ người ấy mà Đức Giêsu mới công bố lời nói về nhóm nhỏ những người được chọn. Đàng khác, hiểu sát bản văn, chúng ta thấy câu này không phù hợp với các sự hiện: trên con số lớn các khách dự tiệc, chỉ có người bất xứng này bị loại trừ; làm sao có thể nói đến một số “ít” (nhỏ) những người được chọn?
Do đó, giải pháp đơn giản nhất nằm ở bình diện ngữ học: đây là hai công thức so sánh theo ngôn ngữ Sê-mít ở thể ngầm, mà ta có thể dịch ra như sau: “Những kẻ được gọi thì nhiều [hơn], nhưng những người được chọn thì ít hơn”. Hiểu như thế, chúng ta thấy phù hợp với ngữ cảnh: con số người được gọi thì rất đông, nhưng rồi có những người từ khước và có người bị loại trừ. Quả thật, nhiều người được gọi, nhưng những người được chọn thì ít hơn. Do đó, điều hết sức quan trọng là để ý mà thực hiện những điều kiện cần thiết để cho việc chúng ta được kêu gọi đưa chúng ta đến chỗ được chọn vĩnh viễn (x. Lc 13.22-24 trong chiều hướng này).
KẾT LUẬN
Tầm nhìn của bản văn có thay đổi: Từ chỗ minh họa lời rao giảng của Đức Giêsu, dụ ngôn đã trở thành một minh họa đời sống của Họi Thánh. Đã là những người được thừa hưởng những lời hứa của Thiên Chúa, người Do-thái cũng là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng, từ phía Đức Giêsu cũng như từ phía các tông đồ. Vậy mà họ vẫn không tin: thái độ cứng tin này quả là một mầu nhiệm, nhưng cũng không làm hỏng được các kế hoạch của Chúa quan phòng. Vào lúc tác giả Tin Mừng viết, thì Họi Thánh đã quy tụ lại nơi bàn tiệc thứ hai rồi. Các tín hữu thuộc về Họi Thánh cũng như các khách dự tiệc phải luôn luôn trong y phục chỉnh tề vì bất cứ khi nào vị thẩm phán cũng có thể xuất hiện và loại họ khỏi phòng tiệc vĩnh viễn. Cũng như dân Do-thái đã bị loại bởi vì họ đã tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đã đón nhận lời mời.
Tuy nhiên, chính chúng ta phải thấy mình được Thiên Chúa kêu gọi và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Thiên Chúa vẫn cứ nhắc lại các lời kêu gọi và tiếp tục gửi đến các sứ giả của Người.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Hoàn cảnh hiện tại có đặc điểm là Thiên Chúa kêu gọi qua trung gian các tôi tớ, sự tự do của con người và sự đại lượng của Thiên Chúa. Từ hoàn cảnh này, ta không được rút ra những hậu quả sai lạc. Ta không được cho rằng tiếng gọi của Thiên Chúa là một đề nghị không quan trọng, rằng chúng ta có thể tùy nghi đón nhận hoặc từ khước, rằng chúng ta có một tự do không giới hạn có thể không những chọn lựa mà còn xác định được các hậu quả của sự chọn lựa, rằng sự tự do của Thiên Chúa là dấu cho thấy Ngài yếu đuối và dửng dưng. Bây giờ Thiên Chúa là Đấng kêu gọi và mời mọc; con người là những người hành động, đáp trả với khả năng quyết định tự do. Nhưng đến cuối, Thiên Chúa sẽ là Đấng hành động và xác định vĩnh viễn. Ai từ chối làm việc trong vườn nho sẽ bị loại khỏi Nước Trời (x. 21,31). Ai không giao nộp các hoa lợi của vườn nho và xử tệ với các tôi tớ của ông chủ sẽ bị mất vườn nho và phải chịu một kết thúc thảm thương (21,41). Ai không đón nhận lời mời đến dự tiệc, sẽ bị loại trừ (22,8).
2. Chúng ta có thể chọn lựa tự do, nhưng chúng ta không còn tự do nữa đối với các hậu quả của sự chọn lựa của chúng ta, bởi vì chúng ta không thể tự do xác định chúng, nhưng chúng thuộc về cách do Thiên Chúa xác định. Chúng ta có thể nói không với tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể đạt được sự thể hiện tốt đẹp cuộc sống chúng ta với tiếng không này. Cần phải ý thức như thế để không xử sự cách phi lý, khi không đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa.
3. Bữa tiệc không chứa những yếu tố khiến có thể nghĩ đến tiệc Thánh Thể, nhưng chính hình ảnh vẫn có thể gợi ra những bữa tiệc agapê và các cuộc cử hành phượng tự thường xuyên trong Họi Thánh. “Các đầy tớ” (douloi) của dụ ngôn thứ nhất ở đây được gọi là “những người phục dịch” (diakonoi); từ ngữ diakonoi khiến ta nghĩ đến các thừa tác viên trong các cử hành phụng vụ. Áo cưới nêu bật tình trạng thánh thiện và ân sủng mà người ta phải có để được đến gần bàn tiệc của Chúa.
4. Vào ngày chúng ta được rửa tội, chúng ta đã được mặc một áo trắng, và vị chủ lễ đã chúc chúng ta giữ cho nó được tinh tuyền cho đến ngày Phán xét. Nếu chúng ta đã làm hoen ố bộ áo rửa tội này, chúng ta vẫn có thể đến trình diện trước tòa của lòng từ bi thương xót, đo là bí tích hòa giải. Tại đây Đức Giêsu lại giặt sạch bộ áo cưới của chúng ta và lại mời chúng ta vào tham dự bữa tiệc vương giả của Người, trong niềm vui của tình thân mật đã tìm lại được. Như thế, cũng đừng bao giờ tự hào rằng mình đã “tới nơi”, cũng đừng phê phán ai. Không phải vì ta đang “ở trong” mà ta đã được bảo đảm, và có quyền xét đoán những người “ở ngoài”, những người chưa biết mà đi vào, hoặc thậm chí những người đã từ khước. Cho dù có ở trong Họi Thánh hay Nước Thiên Chúa, chúng ta vẫn chỉ là “khách được mời”, do ân huệ nhưng-không.
Lm PX. Vũ Phan Long, ofm
----------------------------------
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
Mt 22,4
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Có nhiều niềm hạnh phúc chúng ta đang hưởng mà không ý thức, chẳng hạn hạnh phúc được làm con: TN 28-A57
Có nhiều niềm hạnh phúc chúng ta đang hưởng mà không ý thức, chẳng hạn hạnh phúc được làm con Chúa, hạnh phúc được ở trong Giáo Hội, hạnh phúc mỗi tuần được dự tiệc của Chúa.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta ý thức những hạnh phúc ấy; và chúng ta cũng xin Ngài dạy chúng ta biết sống thế nào để xứng đáng với tấm lòng của Chúa.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Tuy vẫn biết hạnh phúc Nước Trời là quý báu nhất, nhưng rất nhiều khi chúng ta coi trọng những giá trị vật chất hơn. Nhiều lần chúng ta từ chối ơn Chúa.
Dù đang ở trong Nước Chúa và làm công dân Nước Chúa, nhưng cách sống của chúng ta chưa xứng đáng.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 25,6-9)
Bữa tiệc mà ngôn sứ Isaia mô tả có những nét đáng chú ý sau đây:
Người thết đãi là "Chúa các đạo binh"
Khách được mời dự là tất cả các dân
Nơi dọn tiệc là "trên núi này", tức là núi Sion.
Trong bữa tiệc đó, người dự không chỉ được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu, tủi hổ, tang chế.
Ðó chính là hạnh phúc Nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai.
2. Ðáp ca (Tv 22)
Tv 22 này rất quen thuộc đối với mọi tín hữu: Thiên Chúa là một mục tử chăm sóc đoàn chiên hết sức chu đáo: lo cho chiên có cỏ xanh để ăn, nước trong để uống, bóng mát để nghỉ ngơi, và còn bảo vệ để chiên có thể "ăn tiệc" thoải mái ngay trước mặt quân thù.
3. Bài đọc II (Pl 4,12-14.19-20) Chủ đề phụ
Trong thời gian Phaolô bị cầm tù, tín hữu Philipphê đã rộng rãi giúp đỡ ông. Trong lá thư cám ơn gởi cho họ, Phaolô nói 2 ý:
Thực ra ông cũng không cần những giúp đỡ vật chất ấy, vì một mặt ông đã quen thích nghi với mọi hoàn cảnh, và mặt khác ông còn được Chúa trợ giúp, cho nên "Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi".
Tuy nhiên việc tín hữu Philipphê trợ giúp vật chất cho ông là một điều rất quý. Phaolô xin Thiên Chúa đền đáp lại xứng đáng cho họ.
4. Tin Mừng (Mt 22,1-14)
Ý nghĩa của dụ ngôn bữa tiệc: Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Ðiều trước mắt che khuất điều ở xa
Hạnh phúc Nước Trời, hay--nói cho dễ hiểu--hạnh phúc thiên đàng là thứ hạnh phúc trọn vẹn nhất, vững bền nhất, hơn tất cả mọi thứ hạnh phúc ở trần gian. Ai cũng biết thế.
Tuy nhiên, loài người chúng ta có một cái tật, là bị những cái trước mắt che khuất nên không nhìn thấy cái ở xa, giống như tật cận thị.
Cái trước mắt mà chúng ta thấy hằng ngày là hạnh phúc mà trần gian mang lại qua việc làm ăn, buôn bán. Nói cách khác, trước mắt phải lo làm ăn để có một cuộc sống bảo đảm về vật chất; thiên đàng thì còn xa, sau này từ từ lo.
Suy nghĩ như thế có phần đúng, vì ta phải sống thực tế với hiện tại. Nhưng cũng có phần sai khi chỉ biết hiện tại mà không hề nghĩ tới tương lai.
Ðiều sai lớn nhất mà bài Tin Mừng này vạch ra là chẳng những ưu tiên lo cho hiện tại, mà còn "không đếm xỉa gì" đến bữa tiệc Nước Trời, thậm chí còn nhục mạ và hành hạ những sứ giả mà Thiên Chúa sai đến mời ta dự tiệc của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho chúng ta một số điều để suy nghĩ: Chúa không hề trách vì chúng ta lo cho cuộc sống vật chất. Nhưng lo đến nỗi quên hẳn cuộc sống mai sau thì sẽ đáng trách. "Tiên vàn chúng con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, mọi sự khác Ngài sẽ lo cho chúng con".
Vì chúng ta dễ quên hạnh phúc mai sau, nên nhiều lần và nhiều cách Thiên Chúa sai người này người nọ đến nhắc nhở chúng ta. Chúng ta có khó chịu với những người ấy, xua đuổi họ, nhục mạ họ và ngược đãi họ không?
2. Tại sao họ đã chối từ?
Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Mát thêu ghi lại hai lý do: "người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán". Thánh Luca thì ghi rõ hơn, tới 3 lý do: "Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: Tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được" (Lc 14,18-19)
3 lý do trong Luca có thể gom thành 2 loại là làm ăn (thăm đất và thử bò) và thụ hưởng (cưới vợ). Thực ra hai điều ấy không cấp bách đến nỗi phải lập tức làm ngay để đành từ chối lời mời ưu ái của nhà vua. Tuy nhiên, đó là hai nguyên do khiến nhiều người chối từ lời mời của Thiên Chúa. Ta có thể rút ra hai khuyến cáo:
Quá mê làm ăn có thể kéo ta xa Chúa.
Quá lo thụ hưởng cũng có thể kéo ta xa Chúa.
3. Những ông chủ trại, những thương gia và những kẻ ngoài đường
Chúng ta hãy lưu ý rằng hai hạng người từ chối dự tiệc cưới là những ông chủ trại và những thương gia. Họ không đến vì còn phải lo đi thăm trại và đi buôn bán. Còn những người mau mắn đến dự tiệc là những kẻ ở các ngã đường. Họ nghèo, họ đang đói cho nên được mời ăn tiệc là đến ngay.
Người no đủ không thích ăn tiệc bằng người đói khát.
Bởi thế, Ðức Giêsu đã nói rất chí lý: "Khốn cho các ngươi là những kẻ no đủ... Phúc cho chúng con là những người đói khát".
4. Y phục tiệc cưới
Phần cuối dụ ngôn này làm người đọc thắc mắc và khó chịu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc. Thế mà ông vua lại bắt một người không có áo lễ tống giam vào ngục.
Nên nhớ đây là một dụ ngôn, nghĩa là các chi tiết ám chỉ đến một ý nghĩa nào đó. Nếu bữa tiệc cưới là hình ảnh của Nước Trời, thì chiếc áo cưới tượng trưng cho nếp sống phù hợp với Nước Trời. Tự nhiên được mời vào Nước Trời đã là một hồng phúc, cho nên để đáp lại thì phải có một nếp sống phù hợp với Nước Trời.
Chiếc áo tượng trưng cho cách sống. Chúng ta hãy suy nghĩ về chiếc áo / cách sống hiện tại của chúng ta: Nó có tốt hơn, đẹp hơn chiếc áo / cách sống của những người không được ở trong phòng tiệc không?
Chiếc áo tốt đẹp nhất của người dự tiệc Thiên Chúa chính là sống như Ðức Kitô, như lời Thánh Phaolô nói: "Anh em hãy mặc lấy con người mới" (Ep 4,24), "Hãy mặc lấy Ðức Kitô" (Gl 3,27)
5. Chuyện minh họa: Viện Cớ
Chúng ta có rất nhiều cớ để không làm điều mình phải làm, và nhiều cớ để làm điều lẽ ra không nên làm.
Ngày xưa có một anh thợ may rất khéo. Bao nhiêu áo đẹp của mọi người trong thành đều do anh may. Tuy nhiên bản thân anh thì chỉ có mỗi một chiếc áo rách. Lúc nào anh cũng mặc chiếc áo rách ấy, ngay cả trong những buổi tiệc lớn của thành phố. Có người thấy thế hỏi anh:
Sao anh có thể may bao nhiêu chiếc áo đẹp cho mọi người mà lại không may cho anh được một chiếc áo lành lặn.
Vì tôi phải may áo kiếm tiền, không có giờ may áo cho mình.
Vậy anh hãy cầm lấy 20 đồng tiền này và may cho anh một chiếc áo, kể như tôi mướn anh may cho tôi vậy.
Anh thợ may cầm tiền về nhà. Ðến buổi tiệc tiếp theo, anh lại đến với chiếc áo rách cũ. Người bạn hỏi:
Sao anh không may áo cho anh?
Chiếc áo cho chính bản thân tôi mà giá chỉ có 20 đồng thì quá rẻ, nên tôi không may!
Người bạn chẳng nói gì nữa, bởi vì có nói gì nữa thì anh thợ may cũng sẽ tìm được một cớ khác thôi.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa mời gọi, ban phát tình thương và ân sủng một cách vô giới hạn cho tất cả mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1. Chúa Giêsu đã dùng bí tích Thánh tẩy mà quy tụ chúng ta vào trong Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh Thần hiệp nhất đến trong Hội Thánh / để Người loại trừ mọi bất hòa / ghen ghét và chia rẽ giữa những người có cùng một niềm tin.
2. Chúa Giêsu là vua đem lại hòa bình / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tiêu diệt mầm móng chiến tranh / và cho muôn dân được an cư lạc nghiệp.
3. Ðời sống thường ngày đem lại cho con người hạnh phúc thì ít / mà phiền muộn đau khổ lại nhiều / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh Thần / là nguồn an ủi kỳ diệu đến trần gian / đề Người lau sạch nước mắt cho những ai đang khổ sầu.
4. Ngày phán xét chung / Chúa chỉ căn cứ vào một tiêu chuẩn duy nhất / để thưởng công hay luận tội người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận / đặc biệt là biết chân thành yêu thương hết thảy mọi người.
CT: Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp chúng con sống trọn vẹn ơn gọi kitô hữu, nhờ đó chúng con có thể mạnh dạn nói như Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galát: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi". Chúng con cầu xin…
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
----------------------------------
Chúng ta nên ghi nhận ngay rằng Nước Thiên Chúa, quyền bính của Thiên Chúa trên mọi sự: TN 28-A58
Chúng ta nên ghi nhận ngay rằng Nước Thiên Chúa, quyền bính của Thiên Chúa trên mọi sự, được giới thiệu như một lễ mừng. Ngưng công việc để sống trong niềm vui. Người ta nghĩ đến lễ cưới của Con Chiên trong Khải huyền 21. Lễ cưới của Thiên Chúa với nhân loại để chúng ta chỉ còn là một thịt với Người. Trong bài dụ ngôn của chúng ta, chúng ta chỉ là những khách được mời, nhưng lại có những bản văn khác nói với chúng ta rằng chính chúng ta chỉ là một với Người Con. Dù sao, đây chúng ta được mời đến dự một bữa tiệc.
Chúng ta biết tầm quan trọng của lương thực trong Kinh Thánh. Đề tài được đề cập đến ngay từ chương đầu tiên của sách Sáng thế, ở câu 29. Và điều đó được tiếp tục : ở chương 2, chúng ta đọc thấy rằng người nào ăn quả của cây bị cấm để trải nghiệm sự dữ sẽ phải chết. Ở đầu mút kia của Kinh Thánh, các sự việc bị đảo lộn : đây lại có một cây mới, tại đó có treo yết quang cảnh của sự dữ của chúng ta, của sự điên rồ đưa đến cái chết của chúng ta, và mạc khải về sự thiện tuyệt đối, về tình yêu đã đưa Chúa Con đến chỗ hiến tặng mạng sống để cho chúng ta được sống. Khi đó, ngược lại với Sáng thế 2, người nào ăn quả của cây đó sẽ được sống, kẻ nào từ chối ăn quả sẽ phải chết (đọc lại Gioan 6). Chúng ta đành phải bỏ việc lấy ra tất cả các bản văn Kinh Thánh nêu bật chủ đề lương thực, bữa ăn, như Manna, bàn tiệc được dọn sẵn trong hoang địa đói và khát (Thánh vịnh 78,29). Chúng ta chỉ cần ghi nhớ rằng thập giá là giường tân hôn của Người Con với nhân loại và bữa tiệc trở thành Thánh Thể, nghĩa là Lễ Tế Tạ Ơn.
CÁC KHÁCH ĐƯỢC MỜI
Tôi vừa nói rằng chúng ta vừa là những khách được mời vừa là những chàng rể/cô dâu. Khi chúng ta nói "chàng rể/cô dâu", chúng ta nhấn mạnh trên sự kiện là Thiên Chúa, trong Ngừơi Con, đến nhận lấy xác thịt chúng ta làm xác thịt của Người ; khi chúng ta nói "những khách được mời", chúng ta nhấn mạnh rằng chuyện này không xảy ra được nếu không có sự đồng thuận của tự do chúng ta. Về phía chúng ta, phải có một sự chuyển dịch nhằm đáp lại "sự chuyển dịch" mà chính Thiên Chúa đã làm để đến gặp chúng ta. Tiếng "xin vâng" của chúng ta, là tiếng vọng của tiếng "xin vâng" của Mẹ Maria trong "bài tường thuật" về Truyền tin, là điều cần thiết.
Trong bài dụ ngôn của chúng ta, chúng ta được nghe nói rằng nhựng người được mời đầu tiên, những người mà Đức Vua đã chọn, đã khước từ. Chúng ta không được quên rằng, kể từ chương 21, Đức Giêsu lại ngỏ lời với các thượng tế của dân và người Pharisêu. Thế là những người được mời đã tìm cách tránh né. Thế vào chỗ của họ, bây giờ là những kẻ vô danh được chiêu mộ trong các phố phường và ruộng vườn. Bất cứ ai, bản văn nói rõ - kẻ xấu cũng như người tốt. Điều này có thể gây ngạc nhiên ! Thật ra, vấn đề không phải là tốt hay xấu : ai dám tự phụ là mình tốt ? Vấn đề là đáp lại hoặc không đáp lại lời mời, một lời mời được gửi đến tất cả mọi người. Từ khước có nghĩa là khinh thường ân ban của Thiên Chúa. Ân ban chính mình Người. Những người được mời đầu tiên không quan tâm đến tiệc cưới được đề nghị. Họ còn đi đến chỗ tàn sát những người đi chuyển lời mời. Đây là cảnh báo trước việc giết Người Con và những người sẽ loan báo Tin Mừng sau này.
ÁO CƯỚI
Lạ lùng chưa, Đức Giêsu ấy. Hẳn người ta đã có thể nghĩ rằng dụ ngôn chấm dứt với việc mời những kẻ không có một tư cách gì mà đến dự tiệc cưới. Thế mà đây, một chương mới lại được mở ra, nói về việc loại trừ người không mặc áo cưới ! Có những nhà chú giải đã nói đến "tình trạng ơn thánh", sự ngay thẳng luân lý, v.v. Tôi nghĩ rằng một lần nữa, chúng ta phải nhắc lại chủ đề y phục trong toàn bộ Kinh Thánh, dù phải sau đó phải bỏ đi hay tóm lại. Chủ đề này bắt đầu có sớm : ở Sáng thế 3, Kinh Thánh nói với chúng ta về nỗi xấu hổ của Ađam và Evà khi thấy mình trần truồng. Sự trần truồng biểu tượng, dĩ nhiên : họ đã lên kế họach nên "giống như Thiên Chúa" (câu 5) để rồi bây giờ thấy mình giống như con rắn (kẻ "xảo quyệt" ở câu 1 cũng có thể dịch là "trần truồng"). Trắng tay và vô phương tự vệ. Cuối cùng, chính Thiên Chúa sẽ mặc cho họ áo da thú : họ lại trở về với hình ảnh cái thú tính mà họ phải chế ngự. Ở cực kia của bài tường thuật Kinh Thánh, chúng ta sẽ gặp lại, trên thập giá, con người trần truồng, bị lột hết áo xống, và các đao phủ đã chia nhau y phục. Vậy sự trần truồng là bộ áo cưới mà Chúa Kitô mặc trên giường tân hôn với nhân lọai. Tôi nghĩ rằng chúng ta phải giải thích khởi đi từ hình ảnh con người bị loại khỏi bữa tiệc trong dụ ngôn. Chúng ta chỉ có thể đạt tới sự hợp nhất với Thiên Chúa nếu chấp nhận trắng tay, bị tước lột, không có một tư cách nào mà tự hào. Ân ban của Thiên Chúa chỉ có thể là hoàn toàn nhưng-không.
Domergue, SJ
----------------------------------
- Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Mt 22,1-14
Sống ở đời không nhiều thì ít chúng ta cũng được mời đi tham dự một lễ cưới, một tiệc cưới nào: TN 28-A59
Sống ở đời không nhiều thì ít chúng ta cũng được mời đi tham dự một lễ cưới, một tiệc cưới nào đó. Và đó là những sinh hoạt đời thường trong cuộc sống hàng ngày. Hôm nay, Chúa nhật 28 thường niên, năm A, các bài đọc và đặc biệt đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu trình bầy dụ ngôn một ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Nếu đám cưới như mọi đám cưới chúng ta thường thấy trong xã hội, trong thôn làng chúng ta đang sống thì chẳng cần nói làm gì. Đàng này, tiệc cưới ông vua tổ chức xem ra khác thường, từ những vị khách mời, đến cách tham dự, nhất là cách xử sự của vua, cho chúng ta thấy có điều gì không bình thường, và đó là điều chúng ta phải lưu tâm và đó là điều Chúa Giêsu muốn dạy.
MỘT TIỆC CƯỚI KHÁC THƯỜNG :
Chúng ta đã nhiều lần tham dự các tiệc cưới, những lễ nghi cưới hỏi vv…Thực tế, không có một tiệc cưới nào lại khác lạ như tiệc cưới mà dụ ngôn hôm nay trình bày. Đây không phải là tiệc cưới bình thường như những tiệc cưới khác. Nhưng, nói đúng hơn, tiệc cưới này là tiệc cưới nước trời. Ông chủ là Thiên Chúa, Đấng đã đứng ra mở tiệc để khoản đại nhân loại, khoản đại mọi người. Thiên Chúa mời gọi mọi người, Người không loại trừ bất cứ ai, miễn là khi vào dự tiệc cưới, họ phải mặc áo cưới. Thiên Chúa dọn sẵn bữa tiệc cưới linh đình, vui nhộn, vinh quang. Không có một tiệc cưới nào ở trần gian lại có thể so sánh với bữa tiệc nước trời do Ngài khoản đãi. Thiên Chúa mời gọi con người tham dự tiệc cưới qua miệng các ngôn sứ và đặc biệt qua Chúa Giêsu. Thiên Chúa mời gọi nhân loại, con người và mỗi người chúng ta sửa soạn bộ áo cưới bằng những công việc bác ái, kính Chúa yêu tha nhân. Áo cưới cũng còn có nghĩa là sự hoán cải, thống hối và trở về của con người đối với Chúa. Đó là sự sám hối chân thật.
CHÚA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI :
Rõ ràng tiệc cưới Thiên Chúa khoản đãi mọi người và Thiên Chúa không loại trừ bất kỳ ai cả. Nhân loại nói chung và mỗi người chúng ta đã có nhiều đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa qua trung gian Con Một yêu dấu của Ngài là Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúng ta là Kitô hữu đến dự tiệc không chỉ với tư cách khách được mời nhưng đúng hơn chúng ta là người trong gia đình Giáo Hội. Chúng ta mỗi ngày đã được tham dự vào bữa tiệc cưới ấy qua Bí tích Thánh Thể, nguồn lương thực nuôi sống linh hồn và thể xác đợi ngày cánh chung trong tiệc cưới nước trời. Thiên Chúa sai Con Một của Ngài tới trần gian để mang ơn cứu độ và ơn cứu độ không dành riêng cho một dân tộc nào, một cá nhân nào mà ơn cứu độ có tính phổ quát, bao gồm tất cả mọi người : tất cả mọi người sinh ra đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ, nhất là những người yếu hèn, tội lỗi. Điều này diễn tả sáng kiến do lòng thương xót, nhân từ của Thiên Chúa.
NHÂN LOẠI.MỖI NGƯỜI PHẢI ĐÁP TRẢ THẾ NÀO ?:
Ơn cứu độ Thiên Chúa mang đến hoàn toàn nhưng không. Người Do Thái đã vịn nhiều lý do để từ chối ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đối với nhân loại, đối với mỗi người chúng ta, chúng ta phải đáp trả lời mời gọi này của Thiên Chúa như thế nào ? Hay chúng ta vẫn như người thanh niên giầu có trong Tin Mừng vẫn còn thích dính bén tiền của, vật chất, danh vọng mà quên đi lời mời gọi của Chúa Giêsu. Do đó, muốn vào tham dự tiệc cưới nước trời, chúng ta phải mặc áo cưới nghĩa là có ơn thánh để vượt thắng những cản trở và trang sức cho tâm hồn.Ơn thánh là việc thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, làm những điều lành, bác ái, hy sinh. Thiên Chúa đầy tình thương, lòng của Ngài đầy xót thương và giầu tha thứ. Chúng ta phải đáp lại tình thương của Ngài thì mới xứng đáng tham dự vào bữa tiệc tình thương của Ngài. Chúng ta là Kitô hữu sống trong Giáo Hội của Chúa, được làm con của Chúa và Giáo Hội qua Bí tích thanh tẩy. Điều đó vẫn chưa đủ cho chúng ta được cứu rỗi, nhưng chúng ta còn là người được chọn. Bởi vì Chúa gọi thì nhiều mà chọn thì ít. Chúng ta luôn được đề cao tỉnh thức, sám hối và làm những việc bác ái, đồng thời sống bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ :
Thiên Chúa mời gọi con người vào dự tiệc nước trời. Tuy nhiên, đời sống con người là một cuộc chiến đấu không ngừng. Cuộc hành trình tiến về nước trời đòi phải phấn đấu, hy sinh. Con đường dẫn tới bàn tiệc nước trời là con đường hẹp, đường thập giá . Do đó, Kitô hữu phải là người luôn ý thức vai trò, nghĩa vụ của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân. Sống trong Giáo Hội chưa đủ để con người được ơn cứu rỗi, nhưng nó còn đòi hỏi mỗi Kitô hữu phải nhất quyết đẩy lùi tội lỗi, đẩy xa nhưng dính bén của vật chất, danh vọng và dục vọng, sống bền đỗ tới cùng mới nhận được phần thưởng xứng đáng là thấy mặt Chúa và được cuộc sống vĩnh viễn trên nước trời.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tiệc cưới trong bài Tin Mừng hôm nay ám chỉ gì ?
2.Tại sao người Do thái lại chối từ ơn cứu độ ?
3.Ơn cứu độ có tính gì ?
4.Những ai được mời gọi vào dự tiệc cưới nước trời ?
5.Muốn dự tiệc cưới nước trời chúng ta phải làm gì ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
------------------------------
Tại một xứ đạo ở một thành phố lớn, trong lớp giáo lý cha sở để ý thấy một em nhỏ xanh xao: TN 28-A60
Tại một xứ đạo ở một thành phố lớn, trong lớp giáo lý cha sở để ý thấy một em nhỏ xanh xao khoảng 13 tuổi. Ngày kia em đến với cha và cặp mắt đỏ hoe, em nói: Con không thể xưng tội rước lễ lần đầu. Tại sao? Vì cha mẹ con ngăn cấm. Cha sở bảo: Con thử về xin phép cha mẹ con một lần nữa xem thế nào? Mấy ngày sau, em lại đến với một điệu bộ thất vọng: Không được đâu cha ạ, bố mẹ con đã nổi nóng và đã đánh con. Cha sở an ủi: Con hãy cầu nguyện và Chúa sẽ giúp đỡ con. Ngày trọng đại đã đến nhưng vẫn không có em nhỏ trong số những em được xưng tội rước lễ lần đầu. Rồi một tuần sau, vào một buổi sáng, em chạy đến nhà xứ, hổn hển thưa: Xin cha giải tội cho con, kẻo mẹ con hay biết. Cha sở giải tội cho em rồi nói: Bây giờ con hãy về kẻo má con biết được. Em do dự một lát rồi nói với một giọng van xin: Cha có thể cho con rước lễ được chứ? Dĩ nhiên cha sở chấp thuận và ngài đã phát biểu: Tôi đã tổ chức nhiều cuộc xưng tội rước lễ lần đầu một cách trọng thể nhưng không lần nào làm tôi cảm động cho bằng lần này.
Chúng ta cũng vậy, có lẽ chúng ta cảm phục em bé đói khát Mình Máu Thánh Chúa. Trong khi đó những người khách trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay lại có một thái độ lãnh đạm. Họ đã được mời nhưng lại không đến. Nhưng đâu là ý nghĩa của dụ ngôn?
Vào thời Chúa Giêsu những kẻ được mời là những người Do Thái. Còn bây giờ những kẻ được mời lại là những Kitô hữu. Mọi sự đã sẵn ngay từ lúc chúng ta còn nhỏ bé: Các bí tích và những ơn lành của Chúa. Hằng tuần bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa cũng đã được dọn sẵn. Chúa vẫn kêu mời: Hãy đến vì tất cả đã sẵn. Nhưng người ta đã đưa ra những lý do: tậu bò, cưới vợ, mua đất để từ chối. Nếu chúng ta coi bí tích Thánh Thể là một quà tặng quý giá và chúng ta là những kẻ túng thiếu thì lẽ nào chúng ta lại từ chối.
Không phải chúng ta chỉ là những khách dự tiệc, mà hơn thế nữa, chúng ta còn là những gia nhân của Chúa, chúng ta có bổn phận tiếp tay với Chúa và kêu mời những người khác còn ở ngoài đường trở về bàn tiệc của Chúa qua những hoạt động tông đồ và truyền giáo. Thiên Chúa muốn rằng mọi người đều được dự tiệc vì phòng tiệc thì lúc nào cũng còn chỗ. Những kẻ còn ở ngoài đường, còn ở ngoài Giáo Hội, đó là những anh em lương dân chưa nhận biết Chúa, nhất là những người khổ đau và túng thiếu, chúng ta không được phép bỏ rơi họ.
Phương thế hiệu nghiệm hơn cả để cảm hoá họ, đó chính là tình thương, đó chính là bác ái được biểu lộ qua việc thăm viếng và giúp đỡ. Nhờ tình thương và bác ái, chúng ta sẽ gây được những cảm tình tốt đẹp và tạo được những điều kiện cần thiết, để rồi một ngày kia họ quay trở về với Chúa và nhất là họ sẽ hưởng được sự dịu ngọt tình thương của Chúa và tiệc cưới chính là niềm hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ.
------------------------------
I. TÌM HIỂU DỤ NGÔN.
1. Phong tục tổ chức tiệc cưới.
a) Mời thành hai giai đoạn.
Những công việc diễn tiến trong dụ ngôn này hoàn toàn phù hợp với phong tục bình thường của dân: TN 28-A61
Những công việc diễn tiến trong dụ ngôn này hoàn toàn phù hợp với phong tục bình thường của dân Do thái. Đối với những bữa tiệc cưới, khi thiệp mời được gửi đi thì thời giờ không được xác định rõ, và khi mọi việc đã xong đâu vào đấy thì những người giúp việc mới ra đi mời lần cuối cùng xin quan khách đến dự. Như vậy, vị vua trong câu truyện này đã gửi thiệp mời dân lâu rồi, nhưng đến khi mọi việc sẵn sàng thì lời mời cuối cùng mới gửi đến và đã bị người ta từ chối.
Truyện : tiệc cưới hoàng tử
Mùa xuân năm 1947, cả thế giới chú ý tới hàng tin lớn trên báo chí cho biết : công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ đẹp duyên với hoàng tử Philippe, người Hy lạp. Cuộc tình duyên này quan trọng, bởi vì công chúa Elizabeth sẽ lên ngôi kế vị vua cha vì không những trên vương quốc Anh và Bắc Ái nhĩ lan, mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm trên 50 quốc gia lớn nhỏ như Ấn độ, Canada, Úc, Tân tây lan... Ai cũng tò mò theo dõi lễ cưới lịch sử này. Cuộc lễ được tổ chức ngày 20.11.1947 tại tu viện cổ kính Westminter, nơi chôn cất các bậc vương quân và những nhân vật lớn nước Anh. Người ta không những theo dõi những nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới. Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt, từ những vị nguyên thủ quốc gia đến các vị thủ tướng và các nhà chính trị, từ những nhà qúi tộc đến những nhà tỉ phú. Nói tắt, tất cả những nhân vật quan trọng hàng đầu của nước Anh và nhiều nước trên thế giới đều lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó.
(Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng năm A, tr 215)
b) Khách được mời tham dự.
Theo phong tục của nhiều dân tộc xưa, tiệc cưới hoàng tử chẳng những các đại thần được ưu tiên mời, mà còn tất cả thần dân đều được hưởng lộc của nhà vua. Tiệc cưới hoàng tử Nước Trời chẳng những ưu tiên cho dân tộc Do thái, mà còn cho toàn thể muôn dân, vì toàn thể nhân loại đều là thần dân của Ngài. Như tiên tri Isaia đã loan báo :”Chúa Tể trời đất sẽ thiết tiệc đãi muôn dân”.
2. Ý nghĩa dụ ngôn.
a) Đối với người Do thái.
Đây là lời tố cáo người Do thái. Quan khách đã được mời nhưng đến giờ lại từ chối không đến. Họ tiêu biểu cho người Do thái. Từ xưa họ đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài, nhưng khi Con Chúa Trời xuống thế gian, và họ được mời gọi theo Ngài, tin nhận Ngài thì họ lại khinh dể, đã từ chối lời mời đó. Rốt cuộc lời mời của Thiên Chúa đến trực tiếp với những tội nhân và người ngoại bang, là những kẻ không bao giờ kỳ vọng được mời vào Nước Trời.
Còn một chi tiết nữa là vua thịnh nộ với kẻ từ chối, lại còn sỉ nhục và giết các đầy tớ của vua, sai quân đi diệt những kẻ không nhận lời mời và đốt thành của chúng. Chi tiết này dường như không ăn nhập với việc mời dự tiệc cưới. Nhưng chúng ta nhớ lại, khi Matthêu viết sách Phúc âm của ông vào giữa năm 80-90 SC, những gì đã xẩy ra trong thời gian giữa lúc Chúa Giêsu sống và lúc viết sách Phúc âm ? Câu trả lời là : kinh thành Giêsrusalem bị quân Rôma phá hủy khoảng năm 70 SC. Giêrusalem thực sự bị tàn phá, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, đền thờ bị cướp phá và bị đốt, tại hoạ này đã đến cho những kẻ không nhìn nhận Con Thiên Chúa khi Ngài đến trong thế gian.
b) Đối với mọi thời đại.
Lời mời gọi trong dụ ngôn này là lời mời gọi của Thiên Chúa đối với mọi người chúng ta. Được mời gọi vào dự tiệc cưới, tiệc cưới Con Thiên Chúa, là một vinh dự lớn lao, lại không phải mất tiền. Khi Kitô hữu được mời là được mời đến để vui vẻ, và chúng ta sẽ mất niềm vui nếu chúng ta không nhận lời mời.
Nhưng nhiều khi chúng ta lại từ chối lời mời gọi của Chúa vì những lý do chẳng ra cái gì như đi thăm ruộng, đi buôn bán... Người ta dễ bận rộn với điều tạm bợ và quên những điều liên quan tới đời đời. Quá bận tâm với những điều mắt thấy được thì dễ quên với những điều mắt không thấy được. Quá chăm chú nghe những lời mời gọi của thế gian, thì khó nghe được tiếng gọi êm dịu của Chúa Giêsu.
Lời mời gọi của Chúa dành cho ta là lời mời gọi của ân sủng. Những kẻ được qui tụ là những nẻo đường không có quyền đòi hỏi gì nơi nhà vua cả. Họ không bao giờ có thể ngờ rằng mình sẽ được dự tiệc cưới và càng không xứng đáng để dự tiệc đó. Những việc xẩy đến với họ không bởi điều gì khác hơn là lòng quảng đại của nhà vua mở rộng đôi tay đón tiếp họ. Bởi ân sủng, lời mời được ban ra, và bởi ân sủng mà người ta được nhóm lại.
3. Dụ ngôn chiếc áo cưới.
Chúng ta có thể coi chiếc áo cưới là phần nối tiếp của dụ ngôn khách mời dự tiệc, hoặc coi như là một dụ ngôn riêng. Tuy coi như dụ ngôn riêng nhưng cũng là câu chuyện nối tiếp và giải rộng ý nghĩa câu truyện trước, trong câu truyện ở đây có một thực khách đến dự tiệc của nhà vua, nhưng không chịu mặc lễ phục.
Thuần phong mỹ tục coi lễ cưới là ngày lễ trọng đại của gia đình, tất nhiên có nghi thức long trọng với những trang phục đẹp đẽ chỉnh tề. Những hạng người bê bối thô lỗ tục tằn, vô lễ, vô kỷ luật đều bị loại bỏ vì nó bôi nhọ nếp sống văn hóa trong sáng và đạo đức.
Nếu ai nhận chiếc áo cưới gắn liền với dụ ngôn trên thì thắc mắc : ra đường mời vào, ở giữa ngã ba đường cái làm gì có áo cưới ? Trả lời cho thắc mắc đó, ta để ý : người đó không chữa tội gì cả, là dấu anh ta có lỗi, không cần biết nguyên do. Theo thói quen, thời xưa khách qua cửa đã có người trao áo cho, không biết người Do thái có thói quen nào ? Có áo mà không mặc là lỗi tại mình vì thế nên không mở miệng chữa tội được câu nào.
Muốn vào dự tiệc cưới thì tối thiểu phải có y phục lễ cưới. Theo thánh Matthêu, muốn vào dự tiệc cưới trong nước Thiên Chúa thì mỗi người phải nhận thức rằng Giáo hội càng ngày càng đông, nhưng Giáo hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không có một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương kẻ có tội và Giáo hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh, nhưng dù sao, muốn vào Giáo hội, Chúa cũng đòi hỏi có sự ước muốn trở lại chân thật, một “chiếc áo trắng rửa tội”, một sự ao ước “mặc lấy Chúa Kitô”.
Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Thánh kinh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.
II. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
1. Dấn thân gia nhập vào Hội thánh.
Thiên Chúa mời gọi ta : Ngài muốn có những người tham dự tiệc cưới đó. Ngài có sáng kiến trước. Lời mời gọi đó được chuyển đến ta qua các vị sứ giả của Chúa, nhất là Chúa Kitô. Chúa Kitô đến trên trần gian để mời gọi ta và sửa soạn cho ta có bộ áo cưới, tức là cứu rỗi ta. Việc sửa soạn áo cưới được cụ thể hóa bằng việc mến Chúa yêu người, tức là đời sống đức tin nhờ ơn thánh.
Nhân loại chúng ta đáp lại lời mời gọi qua trung gian là Chúa Kitô và Giáo hội. Chúng ta đến dự tiệc cưới không phải với tính cách là “khách” mà thôi, nhưng còn với tư cách là con cái trong gia đình, nhờ đó sự vui vẻ thân mật càng tăng thêm. Hiện thời bữa tiệc đó đã bắt đầu nhờ Chúa Kitô vì ta đã có ơn thánh và hằng ngày tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể chờ ngày Chúa lại đến.
Tuy chấp nhận lời mời gọi của Chúa đâu phải là sự dấn thân mang tính chất nhất thời. Đó là một tiến trình đòi hỏi phải liên tục dấn thân và thích ứng bởi vì cuộc sống thường nhật rất dễ khiến chúng ta sao lãng và bỏ quên mất sự sống đời đời, bởi vì thức ăn tầm thường của cuộc đời này dễ nhét đầy bụng chúng ta và làm cho chúng ta quên đi bữa tiệc vĩnh cửu.
Chấp nhận lời mời của Chúa không chỉ là vấn đề gật đầu một lần rồi sau đó quên tuốt đi, và việc này giống như câu nói “Tôi đồng ý” trong hôn nhân. Câu “tôi đồng ý” này đâu phải là điểm kết cho một tiến trình mà chính là điểm khởi đầu. Nhận lời Chúa cũng giống như tốt nghiệp đại học bởi vì sự tốt nghiệp không phải là điểm kết thúc cho công cuộc học vấn mà chỉ là bệ phóng cho sự học hỏi tiến xa hơn mà thôi.
2. Dự tiệc Thánh Thể hằng ngày.
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta tham dự bữa tiệc của Nước Trời. Trong Thánh kinh, nhiều bữa được nhắc đến : như bữa ăn tổ phụ Abraham khoản đãi ba người khách lạ dưới lều vải (St 18,1-8), như bữa tiệc người cha già mừng người con đi hoang trở về (Lc 15,22-32). Chúa Giêsu đã đi dự đám cưới ở làng Cana (Ga 2,1-10), Ngài cũng dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (Ga 21,1-14), cho dân chúng được ăn no tự 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tất cả để báo hiệu bữa tiệc Thánh Thể.
Thì, hôm nay, tiên tri Isaia ví Nước Trời như một bữa tiệc mà Chúa khoản đãi mọi dân tộc, nhất là những ai đói khát tự do, công chính. Chúng ta cũng hãy sốt sắng tham dự vào bữa tiệc thánh là Lời Chúa và Thánh Thể, hãy “hân hoan vì Chúa khoản đãi và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.
3. Y phục xứng kỳ đức.
Tục ngữ Pháp có câu :”La soutane ne fait pas un moine” : chiếc áo dòng không làm nên ông thầy tu. Câu tục ngữ ấy có ý nói rằng muốn trở thành một tu sĩ thực thụ thì cần phải có đời sống xứng đáng với bậc tu của mình. Người ta quí trọng tu sĩ là do đời sống thánh thiện của họ chứ không phải do cái áo của họ. Cho nên quần áo thì phải đi đôi với đức độ, nghĩa là phải có cả bề trong lẫn bề ngoài.
Cung cách một người thể hiện tinh thần của người đó. Khi đến thăm một người bạn, ta sẽ không mặc bộ đồ làm vườn mà đến. Chúng ta biết rõ rằng quần áo không thành vấn đề đối với bạn chúng ta, cũng không phải chúng ta muốn trình diễn, nhưng vì vấn đề phải tôn trọng nên chúng ta đến nhà bạn một cách gọn gàng và chỉnh tề. Chuẩn bị trước như thế là chúng ta bầy tỏ cảm tình và sự tôn trọng của mình đối với bạn.
Đối với nhà của Chúa cũng vậy, ví dụ này không quan hệ gì đến việc ăn mặc của chúng ta khi đến nhà thờ để trình diễn, nhưng cần có trang phục cho linh hồn, tấm lòng và tâm trí của chúng ta. Đó là sự khao khát, trông đợi, lòng khiêm nhường và thống hối, đức tin và sự tôn kính. Đây là bộ áo lễ nếu không mặc vào thì sẽ không dám đến gần Chúa. Điều thường xẩy ra là chúng ta hay đến nhà Chúa mà không sửa soạn chút nào. Nếu mỗi người chúng ta đều sửa soạn trước khi đến nhà thờ bằng lời cầu nguyện ngắn, suy nghĩ và tự kiểm điểm bản thân thì sự thờ phượng mới đúng là sự thờ phượng thật. Một sự thờ phượng đem lại nhiều tốt lành cho tâm hồn mỗi người, cho Hội thánh và cho thế giới.
Chúng ta đã nhận lời mời của Chúa mà vào dự tiệc Nước Trời. Đây là một vinh dự lớn lao Chúa dành cho ta. Nhưng vinh dự ấy đòi chúng ta phải vươn lên bằng một đời sống lành thánh, một đời sống kết hợp với Chúa, để có thể nói như thánh Phaolô :”Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Trách nhiệm của chúng ta là phải giữ mình không để cho vật dục hay của cải trần gian lôi kéo xuống giống như con vật, ngược lại phải vươn lên làm con cái ánh sáng để xứng đáng là công dân Nước Trời.
Truyện : đại bàng con
Chuyện kể rằng : Có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bàng. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.
Một ngày kia, đang bưới móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bàng con bỗng thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không trung thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ :
- Mẹ ơi, sao mình không bay như chim kia trên trời ?
- Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được !
- Thế chúng ta là ai ?
- Chúng ta là gà rừng !
Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bàng mẹ bay lượn trên đầu gọi :
Bay lên con ơi, bay lên đại bàng con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này ! Bay lên đi con.
Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo :
Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.
Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bàng kia cứ bảo ta là đại bàng con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có khó khăn gì, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thử lần nữa xem. Thế là cậu đại bàng đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi.Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn(Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm A, tr 145-146)
Kitô hữu là người được Thiên Chúa tuyển chọn, làm con cái của Người. Họ là những con đại bàng, luôn ngước mắt nhìn cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Họ luôn sống trong tâm tình của thánh Augustinô :”Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.
Đừng bao giờ nghĩ mình là giống gà rừng, để cúi đầu bươi chải, an phận với những hạnh phúc nhỏ nhoi tầm thường. Tuy được những con sâu bọ là miếng mồi ngon đấy, nhưng chúng cũng nằm trên đống rác, đống phân. Chúng ta hãy vươn mình lên, vươn lên mãi cho tới trời cao, nơi quê hương thật của chúng ta ở đó. Chúng ta hãy thực hiện lời thánh Phaolô đã dạy :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người”(Pl 3,20-21).
Lm Giuse Đinh lập Liễm
-------------------------------
1. TỪ MỘT LỜI HỨA :
Một Tin mừng cho muôn dân. Điều này đã được ngôn sứ Isaia báo trước cách đó hơn 600 năm. Lúc: TN 28-A62
Một Tin mừng cho muôn dân. Điều này đã được ngôn sứ Isaia báo trước cách đó hơn 600 năm. Lúc bấy giờ, dân Do Thái đang phải lưu đày tại đế quốc Babilon. Đất nước bị mất vào tay dân ngoại, đền thờ bị tàn phá, dân Chúa tưởng chừng như không còn gì để hy vọng. Niềm tin vào Giavê Thiên Chúa bị lung lay. Họ không biết Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban Đấng Messia như thế nào. Nhưng chính giữa cảnh lưu đày đau thương đó, ngôn sứ Isaia đã loan báo một tin vui, đem lại niềm hy vọng lớn lao cho họ: “Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời, Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người” (Is 25, 7-8). Không chỉ giải thoát dân Do Thái trở về, đem lại tự do cho họ, nhưng Thiên Chúa còn làm cho họ trở nên một dân lớn, và muôn dân trên khắp thế giới sẽ nhận biết Ngài là Thiên Chúa. Lúc đó, “Chúa các đạo binh sẽ thết đãi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25, 6).
Như thế, Giavê Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa của một dân tộc Do Thái, nhưng là Chúa của muôn dân; và thực khách trong bữa tiệc của Ngài không chỉ là dân Israel, nhưng là toàn thể các dân tộc. Mọi dân tộc sẽ được hưởng sự chăm sóc, yêu thương của Ngài như cảm nghiệm của thánh vương Đavít trong bài đáp ca: “Chúa chăn dắt tôi, nên tôi không thiếu gì; Người cho tôi nằm trong đồng cỏ xanh tươi. Người đưa tôi nghỉ ngơi nơi bờ suối nước; Chúa dọn bàn tiệc đãi tôi trước mắt quân thù tôi” (Tv 22, 1-2. 5a).
Dù vậy, đây cũng chỉ mới là một lời loan báo, một lời hứa. Năm 587, dân Do Thái đã được hồi hương. Thế nhưng, từ nơi lưu đày trở về họ vẫn tiếp tục bị các đế quốc Ba Tư, rồi Hy Lạp, và La Mã đô hộ. Do đó, dân Israel vẫn tiếp tục chờ mong bữa tiệc thịnh soạn mà ngôn sứ Isaia đã loan báo.
2. GIÁO HỘI, LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN :
Với sự xuất hiện của Đức Giêsu, lời hứa của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện. Chính Ngài là Đấng qui tụ muôn dân để thết đãi họ một bữa tiệc. Điều này được Đức Giêsu diễn tả qua dụ ngôn tiệc cưới trong bài Tin mừng hôm nay. Thực khách của bữa tiệc này, trước hết là dân Do Thái, một dân tộc đã được tuyển chọn. Thế nhưng họ đã từ chối. Tin mừng ghi lại thái độ của họ như sau: “Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến”. Thậm chí, họ còn “không đếm xỉa gì và bỏ đi”. Dân tộc Do Thái, một dân đã được vinh dự mời đến dự tiệc cưới của một vị hoàng tử, có tên gọi là Giêsu, nhưng họ đã không nhận ra hồng ân này. Họ đang còn bận rộn với những công việc thường ngày của họ: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán”. Họ đã từ chối Người hảo ý của nhà vua. Thậm chí, họ còn “bắt các đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”. Họ đã phải trả giá đắt cho hành vi vô ơn, bội nghĩa của mình, nhà vua đã “sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó”. Đúng là “rượu mừng không uống, lại muốn uống rượu phạt”.
Dân được chọn đã từ chối mà tiệc cưới thì không thể không có thực khách, nhà vua đã nói với các đầy tớ: “Các ngươi hãy ra các ngã đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”. Như thế, thực khách của bữa tiệc này đã không còn bị giới hạn. Tất cả mọi người đều được mời vào để dự bữa tiệc đã được đã được dọn sẵn. Và “phòng cưới chật ních khách dự tiệc”. Một dân mới được thiết lập để thay cho dân cũ. Dân mới này chính là Giáo Hội. Giáo Hội là dân mới được Đức Giêsu thiết lập để thay thế cho dân cũ đã từ chối Ngài. Mọi người đều được mời gọi vào Giáo Hội “bất luận tốt xấu” để tham dự tiệc cưới của Con Chiên tinh tuyền là Đức Kitô (x. Kh 19, 7-9) nơi bàn tiệc Thánh Thể.
Tuy nhiên, để thực sự xứng đáng với bữa tiệc này, mỗi người cần có “y phục lễ cưới”.
3. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THAM DỰ TIỆC CƯỚI :
“Y phục lễ cưới” chính là điều kiện duy nhất cho người tham dự bữa tiệc vui này, bất kể đó là nam hay nữ, giàu hay nghèo, bất kể màu da, ngôn ngữ, sắc tộc hay tuổi tác. Tất cả nếu muốn tham dự bàn tiệc này cần có “y phục lễ cưới”. Khi cho gọi tất cả đủ mọi hạng người vào dự tiệc cưới, nhà vua không đặt ra cho họ một điều kiện nào ngoài “y phục lễ cưới”.
Chiếc áo cưới này phải chăng là một đời sống công chính trong Đức Kitô. Mỗi người được mời gọi vào Giáo Hội nhờ phép Rửa, không đương nhiên là được cứu độ. Vào ngày lãnh nhận phép Rửa, chắc hẳn quý ông bà anh chị em còn nhớ lời căn dặn của thừa tác viên: “Con hãy nhận lấy chiếc áo trắng này và hãy mang lấy và gìn giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Như thế, muốn xứng đáng là một thực khách trong bữa tiệc của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta phải mặc lấy Đức Kitô, hay nói theo cách nói của thánh Phaolô, chúng ta phải “mặc lấy con người mới” (x. Ep 4, 24; Cl 3, 10). Giữ chiếc áo trắng ngày Rửa Tội cho thật tinh tuyền cho đến mãn đời, quả thật là điều khó, nếu không muốn nói là vượt quá khả năng tự nhiên của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta biết trông cậy vào Thiên Chúa thì lại là chuyện khác, thánh Phaolô xác tín: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”.
Mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần, chúng ta được mời đến dự bàn tiệc của Thiên Chúa, bàn tiệc Thánh Thể. Thế nhưng chúng ta đã đáp lại lời mời này của Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta có cảm thấy niềm vui và vinh dự khi được đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể không? Hay là chúng ta cũng như những người Do Thái vẫn dửng dưng với lời mời gọi này. Chúng ta nghĩ rằng rước lễ cũng được mà không rước cũng chẳng sao. Số phận của những người từ chối hôm nay là một lời nhắc nhở cho từng người chúng ta. Mặt khác, để có thể rước lễ một cách xứng đáng, mỗi người chúng ta cũng cần có “y phục lễ cưới”, nghĩa là giữ tâm hồn sạch khỏi mọi tội trọng và dọn mình chu đáo.
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, ước gì mỗi người chúng ta mau chóng đáp lời mời đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Đồng thời cũng mặc lấy áo cưới là tâm hồn sạch tội. Nhờ đó, chúng ta sẽ hưởng được niềm vui sung mãn trong bữa tiệc của Thiên Chúa. Amen.
Lm Trần Thanh Sơn
-------------------------------
Tiên tri Isaiah diễn tả, "Ngày ấy Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi này một: TN 28-A63
Tiên tri Isaiah diễn tả, "Ngày ấy Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc với thịt béo và rượu ngon. Sự chết, tang chế, khóc than, tủi hổ, đói rách sẽ không còn nữa." "Này đây Chúa chúng ta, Ðấng chúng ta chờ đợi. Người sẽ cứu chúng ta." Thánh vịnh đáp ca cũng xướng lên "Chúa dọn bàn tiệc đãi tôi. . . Chúa xức dầu trên đầu tôi, chén rượu tôi đầy tràn chan chứa." Cũng chính trong bối cảnh của bữa tiệc Nước Trời này, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn Tiệc Cưới Hoàng Tử để giảng giải. Ngài nói, "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử." Bữa tiệc đã dọn sẵn, nhưng những người được mời đã khước từ hoặc viện lẽ này cớ kia để không đến. Có những người lại hành hung và giết cả người đi mời. Vì những người được mời đã không đến, cho nên nhà vua quyết định cho mời tất cả những người ở các ngả đường vào cho đầy phòng tiệc. Khi nghe dụ ngôn này, các trưởng lão và những người lãnh đạo trong dân Do Thái rất bực tức; vì họ biết rằng Chúa Giêsu đã có ý nói về họ. Vì họ không tiếp nhận Ðức Kitô, có nghĩa là không nhận lời mời của Thiên Chúa; cho nên Nước trời bây giờ không còn là dành cho riêng họ, nhưng cho tất cả mọi người, mọi dân tộc; với một điều kiện: những người đáp lại lời mời gọi vào dự tiệc cưới đòi buộc phải mặc áo cưới.
TIỆC CƯỚI
Chúa Giêsu không dùng thí dụ tiệc cưới của đôi nam nữ bình thường, nhưng Ngài đã dùng thí dụ tiệc cưới của hoàng tử, con vua. Người được mời dự tiệc cưới của hoàng tử phải là những khách quý, những người thân thích với Hoàng gia, những người có địa vị quan trọng. Ðược mời tham dự buổi tiệc như thế là một niềm hãnh diện và vinh dự lớn lao. Tuy vậy, người được mời vẫn có quyền tự do nhận lời hay không nhận lời. Nhận lời hay từ chối tùy thuộc ở tâm tình của người được mời. Nếu họ coi trọng tình nghĩa với nhà vua và hoàng tử thì họ sẽ nhận lời. Nếu tình nghĩa của họ với nhà vua và hoàng tử không quan trọng bằng những cái khác thì họ sẽ kiếu từ. Chúa Giêsu nói rằng nhiều người đã kiếu từ không đi dự. Ðiều đó nói lên rằng họ đã không coi trọng tình nghĩa với nhà Vua và Hoàng Tử.
Vì số người được mời trước đã không đến. Phòng tiệc còn trống cho nên nhà vua ra lệnh cho mời tất cả mọi người ở các ngã đường. Khi phòng tiệc đã đầy người, nhà vua thấy một người đã không mặc áo cưới. Nhà vua hỏi, "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh không trả lời. Vua liền ra lệnh: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng."
MẶC ÁO CƯỚI
Có điều gì dường như không ổn. Chúng ta thấy cảm thương cho số phận người được mời từ ngã ba đường vào dự tiệc cưới để rồi bị loại ra vì đã không mặc áo cưới. Làm sao mà họ biết trước là mình sẽ đi ăn cưới để mà ăn mặc cho xứng hợp? Tại sao người ta đang đi ở ngoài đường bỗng dưng mời họ vào, rồi lại bắt lỗi để đuổi người ta ra? Chúa Giêsu không có ý nói đến bộ áo cưới của những người đi dự những đám cưới trần thế. Ngài dùng hình ảnh tiệc cưới của Hoàng Tử để nói lên tính cách quan trọng và đặc biệt có một không hai của bữa tiệc cưới đời đời trong nước trời. Ðây là tiệc cưới giữa trời và đất, tiệc cưới của Con Thiên Chúa với nhân loại. Thiên Chúa muốn phòng tiệc cưới được đầy kín. Mọi người đều có cơ hội để được vào dự tiệc cưới trong Nước Thiên Chúa. Nhưng để được tham dự chúng ta phải mặc áo cưới; có nghĩa là phải chấp nhận mặc vào mình những đức tính và tinh thần của Ðức Kitô.
Bộ áo cưới của Nước Trời mà Chúa Giêsu nói đến là tấm áo Rửa Tội của người Kitô hữu, được trang điểm bởi các bông hoa nhân đức của tinh thần Phúc Âm. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ, "Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Ðức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh." Là Kitô hữu có nghĩa là chúng ta luôn phải mặc tấm áo này ở nhà hay ngoài đường, hoặc nơi phố chợ. Ðể bất cứ khi nào và ở đâu, hay trong hoàn cảnh nào, nếu chúng ta được mời vào bàn tiệc đời đời với Con Thiên Chúa thì chúng ta cũng sẵn sàng và đang ăn mặc xứng với tước vị Kitô hữu của mình. Người nào không mang lấy tấm áo Rửa Tội trong Ðức Ktiô thì không thể vào dự tiệc trong nước trời. Như vậy có nghĩa là những ai chưa có áo Rửa Tội trong Ðức Kitô thì cần tìm để mua sắm mặc cho mình tấm áo đó. Còn những người đã lãnh nhận tấm áo Rửa Tội trong Ðức Kitô thì phải tiếp tục mặc, giữ gìn và trang điểm cho tấm áo ấy được lộng lẫy thêm lên bằng những nhân đức của Ðức Kitô.
Vậy lúc này đây, bạn và tôi tấm áo Rửa Tội của chúng ta như thế nào? Lành lặn và mang rõ hình nét của Ðức Kitô, hay đã bị phai mờ, hoen ố, nhàu nát và cũ kỹ? Chúng ta còn mặc trên mình tấm áo Rửa Tội hay đã thay bằng tấm áo khác? Những tấm áo của tiền bạc? Của danh vọng? Của tội lỗi đam mê? Của ghen ghét? Của cờ bạc rượu chè? Hay của bất cứ cái gì khác không phải là Ðức Kitô? Nếu Thiên Chúa đến và nhìn thấy chúng ta không mặc áo cưới và Ngài hỏi chúng ta, "Tại sao lại không mặc áo cưới?" Chúng ta sẽ thưa lại với Ngài như thế nào? Hay giống như người trong dụ ngôn, chúng ta cũng cúi đầu lặng thinh không nói gì cả?
TINH THẦN TIỆC CƯỚI
Chấp nhận làm Kitô hữu tức là chấp nhận đi dự lễ cưới của Con Thiên Chúa. Là những người nhận lời mời đi dự tiệc cưới của Con Thiên Chúa, chúng ta không được có thái độ như một số người coi việc đi dự tiệc cưới là đi "trả nợ" "đi gọi là cho có" "Ði cho tròn bổn phận." "Ði để đáp lễ " Hằng ngày hằng tuần chúng ta quy tụ gặp gỡ nhau trong cộng đoàn Giáo Hội, chúng ta đọc kinh cầu nguyện, ca hát, xưng tội, rước lễ, cử hành phụng vụ là chúng ta đang tham dự vào bữa tiệc cưới của Nước Trời. Do đó chúng ta cần làm cho việc sống đạo của chúng ta mang sắc thái vui tươi của bữa tiệc cưới. Chúng ta sống đạo có nghĩa là chúng ta đi ăn tiệc cưới trong tinh thần vui tươi vì lòng quý mến Con Thiên Chúa; chứ không phải là chúng ta đi vì bổn phận, hay là đi để trả nợ cho Thiên Chúa. Việc giữ đạo và sống đạo của chúng ta cần mang một sắc thái tích cực, vui tươi và phấn khởi.
Thêm vào đó, là Kitô hữu có nghĩa là chúng ta thuộc Hoàng gia. Chúng ta là con cái trong gia đình Thiên Chúa. Ðã thuộc hoàng gia, và là con cái của Thiên Chúa thì đương nhiên chúng ta thuộc thành phần tham dự tiệc cưới, và đóng góp vào việc chuẩn bị cho tiệc cưới. Chúng ta cần phải có thái độ dấn thân không những chỉ đến dự tiệc; nhưng còn mau mắn vui vẻ tham gia vào việc trang hoàng phòng tiệc, đón khách, tiếp chuyện, rót rượu, ca hát, nhảy múa. Có nghĩa là chúng ta dấn thân cộng tác làm cho phòng tiệc trong nhà của Thiên Chúa được vui vẻ, náo nhiệt, và đông khách hơn bằng cách hăng say dấn thân hoạt động tông đồ. Tham gia các đoàn thể Công Giáo Tiến Hành để hoạt động mở mang Nước Chúa. Chúng ta cần đóng vai là những gia nhân của Hoàng Gia đi ra các ngả đường mời gọi mọi người vào nhà của Thiên Chúa để dự tiệc cưới của Con Thiên Chúa. Phòng tiệc cưới của Con Thiên Chúa vẫn còn nhiều bàn trống. Chúng ta cần phải tích cực đi mời để cho phòng tiệc được đầy.
Rev. Gioan Tr̀n Khả
-------------------------------
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
Mt 22, 1-14
Với dụ ngôn “tiệc cưới”, Tin mừng hôm nay muốn khép lại những thắc mắc hay đúng hơn là: TN 28-A64
Với dụ ngôn “tiệc cưới”, Tin mừng hôm nay muốn khép lại những thắc mắc hay đúng hơn là những hạch hỏi sách nhiễu do các thượng tế và kỳ mục Dothái đưa ra nhằm “hạ bệ” Chúa Giêsu, nhưng đồng thời đó cũng là dụ ngôn- cách nào đó, Chúa Giêsu muốn gửi đến không chỉ cho giới thượng tế và kỳ mục, mà còn cho hết mọi thành phần dân Chúa với lời nhắn : Hãy duyệt xét lại lời mời tham dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa và không ngừng chuẩn bị cho mình có được bộ y phục lễ cưới trong ngày trọng đại ấy.
Mở đầu dụ ngôn, Chúa Giêsu sánh ví Nước Trời như bữa tiệc cưới của hoàng tử diễn ra trong triều đình. Tiệc cưới trong đám thường dân đã là việc trọng đại huống gì là tiệc cưới của bậc vua chúa trong triều. Tin hoàng tử kết hôn được loan đi cùng với đó là “thiệp hồng” báo tin ngày thành hôn của hoàng tử cũng được gửi đến tất cả các bậc vị vọng trong triều đình cũng như các quan cận thần. Để tránh cho quan khách sự cố do lu bu nhiều chuyện mà quên việc đại sự, nhà vua còn cẩn thận sai đầy tớ đến từng nhà để mời họ tới. Những tưởng trước sự quý mến và hết mực tha thiết của vua, quý quan khách sẽ mau mắn đáp lại, thế nhưng họ tỏ ra ù lỳ, không chịu đến.
Trước sự khinh thường của các nhân vật hệ trọng, nhà vua không tỏ ra khó chịu, tức giận hay ngã lòng. Trái lại, ông nhẫn nại sai những đầy tớ khác đến với họ một lần nữa và lần này thông điệp ông muốn gửi đến họ là lời mời cách khẩn thiết và rõ ràng : “Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến tham dự tiệc cưới”. Còn lời tha thiết nào hơn những lời mà nhà vua vừa gửi đến cho những nhân vật VIP này. Thế nhưng họ chẳng thèm đếm xỉa. Chưa hết, đã không đếm xỉa, khinh thường lời mời của nhà vua thì thôi, đàng này họ lại bắt đầy tớ vua sỉ nhục và giết chết nữa chứ. Thật là tội tày đình. Bởi thế việc vua nổi cơn thịnh nộ cũng là điều dễ hiểu.
Rõ ràng thái độ phạm thượng của đám người “ưu tuyển” này đã không vì thế làm cho tiệc cưới nhà vua đang tổ chức cho hoàng tử vắng khách. Trái lại, từ khắp các ngả đường, đủ mọi thành phần chứ không còn thành phần ưu tuyển nữa, tất cả đều được mời vào tham dự tiệc cưới. Phòng cưới chật ních khách. Thế nhưng trong bữa tiệc đó, chúng ta thấy có một người không mặc y phục lễ cưới bị nhà vua tra hỏi. Điều này xem ra vô lý vì trước đó, nhà vua cho đầy tớ ra các ngả đường gặp ai bất luận tốt xấu đều mời vào cả, vậy tại sao vua lại tra vấn anh ta vì anh ta không mặc y phục lễ cưới? Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy dụ ngôn nói đến việc anh này “câm miệng không nói được gì” trước sự tra vấn của nhà vua. Tại sao như vậy? Chúng ta có thể lý giải thế này. Hẳn nhiên anh ta không nằm trong số bị ép vào dự tiệc, vì nếu bị ép, anh ta đã lên tiếng khống chế rồi. Như thế anh là người được nhà vua mời trước, nhưng vì lôi thôi, thiếu sự chuẩn bị nên đến giờ vào tiệc cưới, chiếc áo lẽ ra đã được chuẩn bị từ lâu nay lại không có.
Nếu bữa tiệc cưới được nhà vua thết đãi tượng trưng cho Nước Trời thì y phục lễ cưới tượng trưng cho một lối sống chuẩn mực, phù hợp với công dân của nước ấy. Đành rằng “chiếc áo không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc, cách nào đó chúng ta cũng thấy được tính cách của người đó. Như thế, y phục lễ cưới mà dụ ngôn muốn nhắm đến là gì? Được Thiên Chúa mời gọi vào bàn tiệc nước Thiên Chúa là một hồng ân, nên cách nào đó, chiếc áo mà chúng ta cần phải có chính là một đời sống phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi cơ bản mà Thiên Chúa muốn chúng ta thực hiện. Chiếc áo đó chính là đời sống của Đức Kytô như thánh Phaolô đã từng nhắc nhở các giáo đoàn của ngài. Qua bí tích rửa tội, mỗi người chúng ta trở nên con người mới, nghĩa là con người được tái tạo trong Đức Kytô qua cái chết và phục sinh của Người. Chính vì thế, thánh Phalô khuyên chúng ta vì đã trở nên “con người mới”, nên chúng ta cần phải “mặc lấy Đức Kytô”, nghĩa là cần phải được biến đổi theo hình ảnh của Người (x. Gl 3, 27.28; Ep 4, 24). Như thế, chiếc áo mà chúng ta mặc cần phải được biểu lộ không chỉ nơi đời sống cá nhân của mỗi người mà còn phải tỏ hiện trước mặt cộng đồng nữa. Cho hay, mặc lấy Đức Kytô chính là mặc lấy sự công chính, mặc lấy sự thánh thiện và ngược lại, không mặc lấy Đức Kytô cũng đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ không thể trả lời câu chất vấn như nhà vua đã đặt ra cho anh chàng dự tiệc không mặc y phục lễ cưới trong dụ ngôn hôm nay.
Tạ ơn Chúa vì Kytô hữu- qua bí tích rửa tội, chúng ta được Thiên Chúa “gửi thiệp hồng báo tin” tham dự tiệc cưới Nước Trời. Chính vì thế cuộc sống nơi trần thế là thời gian để chúng ta dệt nên “chiếc áo con người mới” và “chiếc áo mang nhãn hiệu Đức Kytô” được thêm công chính và thánh thiện. Có như thế, ngày vào bàn tiệc thiên quốc sẽ là ngày chúng ta hân hoan tiến bước, đồng bàn với Đức Vua, với Hoàng Tử Giêsu chứ không phải là ngày “câm miệng không nói được gì”, là ngày khốn cùng, bị đẩy vào nơi “khóc lóc và nghiến răng”.
Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb
-------------------------------
1. HAI CHỦ Ý CỦA DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có hai chủ ý: Chủ ý thứ nhất tương tự như dụ ngôn những tá: TN 28-A65
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có hai chủ ý:
Chủ ý thứ nhất tương tự như dụ ngôn những tá điền sát nhân Chúa Nhật tuần trước: ơn cứu độ hay nước Trời ưu tiên dành cho người Do Thái rồi mới tới dân ngoại, nhưng người Do Thái đã tỏ ra hờ hững hay bất xứng với sự ưu tiên ấy. Vì thế, sự ưu tiên ấy đã được trao cho các dân tộc khác.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, 1. Đức vua ám chỉ Thiên Chúa; 2. Tiệc cưới = Nước Trời; 3. Các đầy tớ đi mời dự tiệc = Các ngôn sứ, trong đó có Đức Giê-su; 4. Các quan khách ưu tiên được mời mà không thèm đến = Dân Do Thái; 5. Những người ở ngoài đường được mời dự tiệc = Dân ngoại, các dân tộc khác. Chủ ý này đã được khai triển trong bài Chia sẻ Chúa Nhật tuần trước (27 Thường Niên), nên bài này không bàn tới nữa.
Chủ ý thứ hai là: để vào Nước Trời, cần phải có một nỗ lực cá nhân để trở nên xứng đáng với Nước Trời, tức phải trở nên người công chính. Trong đó, y phục lễ cưới tượng trưng cho sự công chính, hay sự quang minh chính đại mà mọi người Ki-tô hữu cần phải có.
2. GIẢI THÍCH DỤ NGÔN
Đây là tiệc cưới mà nhà vua làm cho hoàng tử, nên chắc chắn được tổ chức rất sang trọng và trang nghiêm. Những người được nhà vua ưu tiên mời đã không đến, mặc dù đã được ngài khẩn khoản mời tới hai lần. Chẳng những họ không đến, mà còn có những người sỉ nhục và giết chết những đầy tớ mà nhà vua sai đi mời nữa. Họ đã phạm tội khi quân một cách nghiêm trọng. Những người này ám chỉ dân Do Thái nói chung, đặc biệt những thành phần ưu tú trong Do Thái giáo (hàng tư tế, lê-vi, ráp-bi, kinh sư, luật sĩ
). Họ đã được các ngôn sứ và Đức Giê-su ưu tiên rao giảng Nước Trời cho họ, nhưng chẳng những họ không thèm nghe để đón nhận Nước Trời, mà còn giết các ngôn sứ và cả Đức Giê-su nữa. Vì thế, để trừng phạt, dân Do Thái đã bị đế quốc Rô-ma xóa tên trên bản đồ vào năm 70 sau công nguyên.
Những người ở ngoài đường, đáng lẽ ở ngoài danh sách được mời dự tiệc, nay vì các quan khách ưu tiên từ chối, nên họ được mời thay thế. Vì đây là tiệc cưới của nhà vua, nên theo phép lịch sự, những người được mời đều có bổn phận phải về nhà mặc quần áo cho tề chỉnh để đi dự tiệc. Vả lại, tại những tiệc cưới sang trọng như vậy, thì theo phong tục Do Thái, chủ tiệc cũng sẵn sàng cung cấp những lễ phục phù hợp cho các khách dự tiệc. Vì thế, những ai không mặc lễ phục đám cưới đều phạm tội khi quân vì đã xúc phạm đến nhà vua, và đáng chịu hình phạt.
3. ÁP DỤNG DỤ NGÔN CHO NGƯỜI KI-TÔ HỮU
Chúng ta không là người Do Thái, mà là người thuộc những dân tộc khác vốn bị người Do Thái coi là dân ngoại. Vì thế, trong dụ ngôn này, chúng ta thuộc thành phần những người ở ngoài đường được mời vào dự tiệc, tức được Thiên Chúa mời gọi tham dự mầu nhiệm Nước Trời. Chúng ta đã đáp lại lời mời gọi ấy qua bí tích rửa tội, vì thế, chúng ta thuộc về Giáo Hội của Đức Giê-su, là dấu chỉ của Nước Trời. Chúng ta đang ở giai đoạn «đã bước vào bàn tiệc cưới nhưng chưa bắt đầu dự tiệc». Trước khi bữa tiệc bắt đầu, nhà vua còn phải vào phòng tiệc và quan sát khách dự tiệc: ai không có y phục lễ cưới thì bị loại ra ngoài. Vì thế, muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ, mà còn phải bận y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng sự công chính. Nếu không công chính, chắc chắn ta không phải là đối tượng của Nước Trời. Điều này cho thấy sự sai lầm của những người quan niệm rằng: chỉ cần là người Ki-tô hữu, hay chỉ cần được rửa tội là đã đủ để vào Nước Trời, mà không cần phải cố gắng sống cho xứng đáng với danh hiệu Ki-tô hữu.
Khi chọn y phục lễ cưới để ám chỉ sự công chính, rất có thể Đức Giê-su đã dựa vào những câu Kinh Thánh như: «Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang» (Is 61,10; xem thêm Da 3,3-5); Về sau sách Khải Huyền cũng dùng hình ảnh áo cưới để chỉ sự công chính, trong sạch: «Tại Xác-đê, ngươi có một ít người đã không làm nhơ bẩn áo mình; họ sẽ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng. Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của Người» (Kh 3,4-5)
4. SỰ CÔNG CHÍNH LÀ GÌ?
Để hiểu về sự công chính, ta nên theo chỉ dẫn của Kinh Thánh, là cở sở đáng tin cậy nhất, hơn là theo quan niệm, sự hướng dẫn hay truyền thống của người đời.
Đức Giê-su đã cho ta 3 yếu tố căn bản của lề luật, tức 3 yếu tố căn bản của sự công chính: «Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23).
Công lý hay sự công bằng: là sự tôn trọng hay đòi hỏi những quyền lợi tinh thần hay vật chất mà cá nhân (hay tập thể) có quyền đòi hỏi cá nhân (hay tập thể) khác phải trả hay phải tôn trọng. Chẳng hạn đã là người được sinh ra trong xã hội ngày nay thì đều có quyền tự do về thân thể, về tư hữu, về ngôn luận, v.v
mà mọi người khác kể cả chính quyền đều phải tôn trọng. Ai không tôn trọng là có lỗi, là sai trái, là vi phạm công lý hay công bằng. Công lý không chỉ bao hàm việc mình phải tôn trọng công bằng đối với người khác, mà còn bao hàm việc mình phải đòi hỏi người khác phải tôn trọng quyền lợi của của tha nhân và của tập thể. Im lặng để mặc kẻ ác vi phạm công lý một cách trầm trọng đối với tha nhân khi chính mình có thể can thiệp, cũng là không tôn trọng công lý. Công lý hay công bằng là nền tảng của tình thương. Tình thương hay lòng nhân ái không xây dựng trên nền tảng công lý, thì đó là tình thương giả tạo. Không ai có thể tự hào mình thương yêu người khác khi chính mình đang cố tình vi phạm sự công bằng đối với người ấy.
Tình thương: Công chính hay thánh thiện Ki-tô giáo theo nghĩa chính xác nhất của danh từ là trở nên hoàn hảo giống Thiên Chúa. Mà yếu tính của Thiên Chúa là tình yêu: «Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8.16). Vì thế, cốt yếu của sự công chính hay thánh thiện chính là tình yêu. Không có tình yêu, thì dù có giữ luật hoàn chỉnh đến đâu cũng không phải là công chính hay thánh thiện: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3). Tình yêu là nhân đức cao trọng hơn cả (x. 1Cr 13,13). Có thể nói, người có tình yêu đích thực là người công chính hay thánh thiện. Càng yêu thương nhiều thì càng công chính hay thánh thiện. Tình yêu chính là nền tảng của công chính. Nhưng cần nhớ: nền tảng của tình yêu lại chính là công lý hay sự công bằng. Không thể có tình yêu đích thực khi không tôn trọng công lý hay công bằng.
Sự chân thật: là luôn luôn thành thật, không dối trá, gian xảo, không có ý lừa dối hay lường gạt người khác. Đây cũng là một đức tính căn bản của sự công chính. Một người có tính không thành thật không thể là một người công chính được, vì điều gì gian dối đều xuất phát từ sự ác, đi ngược lại với công chính. Đức Giê-su nói: «Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ» (Mt 5,37).
Ngoài những đức tính mà Đức Giê-su đề ra như nền tảng của công chính, còn một số đức tính khác được đề cập đến trong Thánh Kinh như:
Đức Tin: «Dân ngoại (
) được nên công chính là nhờ đức tin» (Rm 9,30; x. 1,17; 5,1; 9,32; 10.6; Gl 3,11).
Đức khiêm nhường: Trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14), người thu thuế mặc dù tội lỗi nhưng có lòng khiêm nhường nhìn nhận mình tội lỗi, nên Đức Giê-su tuyên bố ông là người công chính: «Tôi nói cho các ông biết: người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người Pha-ri-siêu thì không» (Lc 14,18).
Tính quên mình, vị tha, xả kỷ: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23).
Vậy, để vào Nước Trời, ngoài việc chịu phép rửa và gia nhập Giáo Hội, người Ki-tô hữu cần sống công chính, quang minh chính đại, xứng đáng với danh hiệu Ki-tô hữu, với phẩm giá cao quí của «con cái Thiên Chúa». Tình thương chính là điều căn bản nhất của sự công chính.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con đã đáp lại lời mời gọi của Cha để trở nên con cái Cha, đã chịu phép rửa và gia nhập Giáo Hội là dấu chỉ của Nước Trời. Nhưng quả thật, con vẫn chưa sống công chính xứng đáng với danh hiệu con cái Cha, hay với danh hiệu Ki-tô hữu. Con giống như những người dự tiệc cưới của hoàng tử mà không ăn mặc cho xứng đáng, đó chính là tội khi quân. Xin cho con ý thức được việc con mang danh hiệu con cái Cha mà lại không sống công chính xứng với danh hiệu ấy chính là một xúc phạm đến Cha. Vì «chó gầy hổ mặt chủ nhà», hay con cái làm điều xấu thì hổ mặt cha mẹ.
John Nguyễn
-------------------------------
Mt 22,1-14
Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của con trai Đức Vua. Nhưng các người được: TN 28-A66
Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn tiệc cưới của con trai Ðức Vua. Nhưng các người được mời lại không chịu tới, vì bận trăm ngàn công việc khác nhau. Ðức Vua đã cho mời tất cả mọi người khác, bất luận tốt xấu. Trong số những người đến sau này, có một người "không mặc áo cưới".
Tiệc cưới là bàn tiệc Cứu Ðộ Thiên Chúa dọn cho mọi người. Những người được mời là dân Israen. Họ đã khước từ Thiên Chúa. Những người đến sau là tất cả những ai - kể cả chúng ta - tin vào Ðức Giêsu. Còn người không mặc áo cưới là người không có lòng sám hối, không đoạn tuyệt với quá khứ xấu xa (nếu có) khi đã bước vào Giáo hội.
Hẳn là không ít người hãnh diện vì mình là "đạo gốc", "đạo dòng" và dường như tự cấp cho mình một "giấy thông hành bảo đảm vào Nước Trời". Nhưng liệu "một kitô-hữu hữu danh" có thay cho "một kitô-hữu chính danh" hay không ? Rất có thể một trong số chúng ta là người "không mặc áo cưới".
Thiên Chúa luôn là Ðấng kêu gọi con người đến tham dự bàn tiệc Cứu Ðộ. Ngài là một người Cha hào phóng, rộng lượng, yêu thương con người hết mình. Ngài muốn mọi người được cứu độ. "Cha yêu con bằng một tình yêu vô tận, miên trường" (Gr 31,3) và con người chỉ việc đáp lại tình thương đó, "các bạn phải yêu mến Thiên Chúa là Chúa bạn hết tâm hồn…" (Ðnl 6,5). Một lời mời gọi vô điều kiện đòi một lời đáp trả vô điều kiện.
Ðôi lúc chúng ta đi tìm hạnh phúc ngoài bàn tiệc Thiên Chúa. Chúng ta dành cho Thiên Chúa điều tối thiểu, và muốn mình được tối đa bổng lộc. Chúng ta nghĩ rằng mình còn nhiều việc phải lo, và những việc đó không can dự gì đến Thiên Chúa. Chúng ta quên mất rằng : "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ" (Mt 6,24).
Qua bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày, Thiên Chúa đang mời gọi và dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc cứu độ đời đời. Bàn tiệc Thánh Thể của Ðức Kitô luôn sẵn sàng dành cho chúng ta; miễn là chúng ta "mặc áo cưới", tức là "sám hối và tin vào Tin mừng".
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã mời con dự tiệc Mình Máu Thánh Chúa; Nơi đây, Chúa cho con một tình yêu thương lớn lao, tình yêu của người "hy sinh mạng sống vì bạn hữu". Xin Chúa cho con biết đón nhận hồng ân lớn lao đó, Ðể con vui mừng vì được ơn Ngài Cứu Ðộ.
Lm. An Phong,OP
----------------------------------
Mt 22,1-14
Có gì vui bằng tiệc cưới ? Có ai dám chối từ niềm vui ấy ? Thế nhưng ai ngờ một cuộc từ chối : TN 28-A67
Có gì vui bằng tiệc cưới ? Có ai dám chối từ niềm vui ấy ? Thế nhưng ai ngờ một cuộc từ chối tập thể đã diễn ra ngay trong một đám cưới Hoàng tử. Một bi kịch mở màn …
THIỆP MỜI
Câu truyện bắt đầu với tiệc cưới hoàng tử : "một vua kia mở tiệc cưới cho con mình." (Mt 22:2) Còn vinh dự nào hơn khi được nhà vua mời tham dự tiệc cưới đó ! Thực tế, các quan khách đều "không chịu đến" (Mt 22:3) hoặc "không thèm đếm xỉa tới" (Mt 22:5) lời mời của nhà vua. Bi kịch bắt đầu từ việc từ chối lời mời của nhà vua. Không những gởi lời mời trước, nhà vua còn sai các đầy tớ đến tận nơi trịnh trọng mời lại nhiều lần. Nhưng tất cả đã bị chối từ thẳng thừng, vì ai nấy đều có bận tâm riêng về quyền lợi mình. Niềm vui nhà vua không quan trọng bằng những quyền lợi đó. Còn gì xỉ nhục hơn nữa ? !
Trước thái độ vô cùng bất nhã của các quan khách, nhà vua vẫn điềm tĩnh. Sau khi nhóm đầy tớ đầu tiên thất bại, "nhà vua lại sai những đầy tớ khác" (Mt 22:4) đi giải thích và nài nỉ : "Mọi sự đã sẵn. Mời quí vị đến dự tiệc cưới !" (Mt 22:4) Mặc dầu với đầy đủ quyền lực trong tay, ông đã không cho cơn giận bùng lên ngay. Nhưng chờ tới khi một số quan khách "bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết, ông mới thấy tất cả bộ mặt đầy nham hiểm." (Mt 22:6) Lạ thật ! Không ngờ quan khách lại trở thành kẻ thù. Phải có một thái độ kịp thời ngăn ngừa hậu hoạ. Lập tức, "nhà vua nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng." (Mt 22:7) Ðúng là ác giả ác báo ! Cảnh máu đổ đầu rơi diễn ra khắp hang cùng ngõ hẻm. Phản ứng như thế có quá đáng không ? Thực tế chắc khó xảy ra. Tuy thế, có lẽ Tin Mừng Mathêu chỉ muốn diễn tả cảnh "Giêrusalem bị phá huỷ, cảnh phán xét Israel bạo loạn vì đã từ chối đón nhận Ðấng Thiên Sai." (NIB 1995:418)
Khác hẳn với thái độ thận trọng trước đây, nhà vua quyết định sai các đầy tớ "ra các ngả đường gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới, bất luận xấu tốt." (Mt 22:9.10) Một cảnh tượng ồn ào không thể tưởng tượng được ! Tiệc cưới trở thành một cơ hội cho mọi người chung vui với nhà vua. Thế nhưng, nhà vua muốn niềm vui ngày cưới phải trọn vẹn. Nhận lời mời và hiện diện trong tiệc cưới cũng chưa phải là thực sự chia vui với nhà vua. Cần phải có "y phục lễ cưới" (Mt 22:12) mới xứng đáng là thực khách triều đình. Một người ngoài đường làm sao có thể chuẩn bị kỹ càng như thế ? Thế nhưng, ở đây "thực tế phải hi sinh cho ý nghĩa thần học. Thời kỳ Kitô giáo sơ khai, việc trở lại mang một cá tính mới, thường được diễn tả qua việc mặc áo mới; người ta dùng tiếng thay áo để diễn tả việc bỏ lối sống cũ mặc lấy cá tính mới của Kitô hữu (x. Rm 13:12-14; Gl 3:27; Ep 6:11; Cl 3:12; Lc 15:22; Kh 3:4; 6:11; 19:8). Hình ảnh đó ngụ ý, con người phải có những hành động đích thực Kitô giáo, tương đương với 'hoa quả' trong hình ảnh dụ ngôn trước đó." (NIB 1995:418)
Mặc dù biết con người bất xứng, Thiên Chúa vẫn lên tiếng mời gọi "đến dự tiệc cưới của Con Chiên !" (Kh 19:9) Nhưng mấy người đã đáp lại tiếng mời gọi khẩn thiết của Người ? Mấy người nhập tiệc với đầy đủ "y phục lễ cưới" (Mt 22:12) ? Họ có đầy đủ thời giờ, nhưng lúc nào cũng quá bận rộn với chuyện bên đường. Họ là quan khách được Vua Cả Nước Trời thiết mời, nhưng vẫn một mực từ chối với đủ lý do. Nhưng nếu thật tình nhận lời, họ sẽ được "Thiên Chúa thoả mãn mọi nhu cầu một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Ðức Kitô Giêsu" (Pl 4:19)
ÐƯỜNG VÀO HẠNH PHÚC
Sự giầu sang đó rõ nét nhất nơi cái đẹp thiên hình vạn trạng trong thiên nhiên và cuộc sống. Một chiếc áo cưới đẹp đem lại niềm vui cho toàn thể tiệc cưới. Cao hơn nữa, nơi vẻ đẹp Thiên Chúa đã muốn con người "khám phá ra con đường Phúc âm hoá và hiệp nhất" (Zenit 7.10.2002) nhân loại. Ðiều đó đã được chứng nghiệm nơi cuộc đời thánh nữ Bridget, một nhà thần bí Thuỵ Sĩ thế kỷ 14. Khi sống cuộc đời của một người vợ và một người mẹ, sau đó của một tu sĩ và nhà sáng lập dòng, thánh Bridget (1303-1373) đã trở thành một mô hình hội nhập vào đời mình đường lối thể hiện việc hiệp nhất qua cái đẹp." (Zenit 7.10.2002) Thánh nhân đã trở thành gương mẫu cho cuộc sống giáo dân và tận hiến. "Thánh Bridget khuyến khích mọi người 'tái khám phá vẻ đẹp Tin Mừng sống,' và mời gọi các cộng đồng Kitô hữu Âu châu lần bước theo những nét đẹp phát xuất từ Tin mừng, nét đẹp xây trên những giá trị nhân bản và Kitô giáo.'" (Nữ tu Rohdin: Zenit 7.10.2002) Nét đẹp đó được thể hiện rõ nét nơi "thánh nữ Bridget, một chiếc cầu nối liền các Giaó hội Bắc Âu với Roma và giữa các Giáo hội Luther và Công giáo." (Nữ tu Rohdin: Zenit 7.10.2002) Nét đẹp đó cũng thấy nơi cuộc đời thánh nữ Catarina Siena, "một người nhiệt tình bênh vực chân lý và quan tâm tới những vấn đề chính trị và công lý." (Nữ tu Rohdin: Zenit 7.10.2002) Thế giới đang cần những nét đẹp như thế. Ðúng hơn, để có thể kiến tạo hoà bình cho nhân loại, Giáo hội cần "tái khám phá mối liên hệ bền vững giữa vẻ đẹp và công lý mà Kitô giáo đã có thể tổng hợp ngay từ đầu." (Nữ tu Rohdin: Zenit 7.10.2002)
Hoà bình cũng chỉ là một trong những khát vọng hạnh phúc. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể thoả mãn mọi khát vọng hạnh phúc sâu xa nhất của con người nơi Ðức Giêsu Kitô. Thực vậy, chỉ "những mối phúc thật của Ðức Giêsu giải thoát chúng ta khỏi quan niệm hạnh phúc tầm thường, đưa lại một chiều sâu đích thực, và vạch ra con đường riêng cho con người nhìn thấy mối liên kết giữa sự thiện tuyệt đối, sự thiện hiện thân - tức là Thiên Chúa - và hạnh phúc." (ÐHY Ratzinger : Zenit 8.10.2002) Từ chối Thiên Chúa tức là phủ nhận chính khát vọng hạnh phúc tiên khởi và cao cả nhất của con người. Hành vi luân lý không đủ đạt đến hạnh phúc đó. Chỉ có lòng tin sâu xa và sự đáp trả hồng ân tình yêu Thiên Chúa mới giúp con người thực hiện được tất cả mọi ước vọng trên đời. Theo ÐHY Ratzinger, tất cả những cách đáp trả đó có thể tìm thấy nơi Cuốn Giáo Lý Công Giáo. Quả thực, "dựa vào Kinh Thánh và nguồn Truyền thống toàn cầu vô cùng phong phú, và được Công Ðồng Vatican II gợi hứng, Cuốn Giáo Lý đó đã cho ta cái nhìn tuyệt vời và có hệ thống về toàn bộ Ðức Tin Công Giáo, một vẻ đẹp làm nổi bật chân lý diễm lệ," (ÐHY Ratzinger : Zenit 8.10.2002) không đóng khung nhưng mở ra con đường "đối thoại vượt qua được những hận thù và bạo lực giữa các tôn giáo." (Diễn Ðàn Truyền Thông Kitô giáo tại Jakarta : Zenit 8.10.2002) Chính vì thế, các Giám mục Âu Châu xác tín rằng dân chúng "hôm nay tận cơ bản đang sẵn sàng lắng nghe Tin mừng." (Zenit 8.10.2002) Bởi vậy, Hội Nghị các Giám mục Âu châu xác tín về viễn tượng "Phúc âm hoá và truyền bá đức tin. Giáo hội không phải là một pháo đài bị bao vây. Ðúng hơn, Giáo hội cam kết trở thành một động lực thúc đẩy việc truyền giáo và văn hoá hơn. Mỗi Kitô hữu được kêu gọi đóng vai chính trong sứ mạng đó, nhưng theo nghĩa này, các ơn gọi đặc biệt trong đời sống thánh hiến và linh mục có một vai trò bất khả thay thế. Số ơn gọi đó đang giảm sút trong một vài quốc gia Âu châu." (Zenit 8.10.2002) Thế giới đang thiếu vắng bước chân sứ giả đem Tin Mừng đến mời gọi mọi người đến nhập tiệc cưới Con Chiên.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
----------------------------------
Có lẽ đời người không bao giờ vui bằng ngày cưới. Người ta chuẩn bị rất lâu. Bao nhiêu bạn : TN 28-A68
Có lẽ đời người không bao giờ vui bằng ngày cưới. Người ta chuẩn bị rất lâu. Bao nhiêu bạn bè họ hàng không thể thiếu sót một người. Bởi thế thiệp hồng phải vẽ thật đẹp và gởi đúng nhân vật, đúng thời điểm. Tiệc cưới là dịp quy tụ lớn lao. Đời người chỉ đẹp một lần, nên người ta không ngại tốn phí và trổ hết năng lực để làm vừa lòng mọi người.
Nếu đám cưới thường còn mệt như thế, phải nói sao về tiệc cưới hoàng tử ? Phải chuẩn bị tới mức nào cho một niềm vui lớn như vậy ? Tuy nhiên trong tiệc cưới này có một cái gì không bình thường. Vấn đề vượt quá phạm vi một đám cưới. Nói đúng hơn, tiệc cưới đã trở thành một biểu tượng, một dụ ngôn nói lên tính cánh chung và phổ quát của Nước Trời.
MỘT LỜI MỜI GỌI
Như thường lệ, tiệc cưới này cũng gởi giấy mời tới các quan khách. Các quan khách nhà vua chắc chắn phải thuộc loại sang trọng lắm. Những vị đó phải được tuyển chọn đặc biệt. Bởi đấy nhà vua phải dọn bữa tiệc thịnh soạn, ê hề "bò tơ và thú béo" (Mt 22:4). Vua đã dồn hết tâm lực và tài lực để tổ chức tiệc cưới cho con mình. Nhưng các quan khách không quan tâm tới biến cố lớn lao đó. Họ tỏ thái độ rất kỳ cục. Họ coi quyền lợi và đời sống thường ngày quan trọng hơn. "Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn" (Mt 22:5). Càng khó hiểu hơn khi họ "bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết" (Mt 22:6). Bạo lực đã có mặt ngay khi chưa mở tiệc.
Làm sao nhà vua còn tâm trí tổ chức tiệc cưới nữa ? Nhà vua còn có một chút ảnh hưởng và quyền bính gì trên họ không ? Có lẽ họ đã mượn dịp này để trả thù vua chăng ? Nghĩ vậy nên nhà vua đã nổi giận. Tất cả đã sụp đổ. Lòng ưu ái đổi thành hận thù. Trong giây lát, nhà vua đã "sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng" (Mt 22:7). Aùc giả ác báo. Nếu không ra tay có ngày họ sẽ nổi loạn, lật đổ triều đình.
Tuy tức giận, nhưng nhà vua vẫn bình tĩnh phản ứng. Tiệc cưới chuyển hướng. Thay vì dành riêng cho một nhóm người ưu tuyển, tiệc cưới mở rộng cho mọi người. Nhà vua ra lệnh cho các đầy tớ : "Các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới" (Mt 22:9). Cuối cùng "phòng tiệc cưới đã đầy thực khách" (Mt 22:10). Thế mới biết phòng tiệc rộng biết chừng nào và bữa tiệc phong phú tới đâu. Phòng tiệc không còn thiếu một hạng người nào. Họ không nhận được giấy mời. Họ không có gì đặc biệt, bởi vì sau khi nghe lệnh "đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại" (Mt 22:10). Nếu các quan khách đáp lại lời mời của vua, thử hỏi bao giờ đám đông này mới vào nổi phòng tiệc cưới này ?
Biến cố này cũng cho thấy tầm nhìn của vua đã mở rộng. Vua đã di sát với thực tế, chứ không còn bị lệ thuộc vào địa vị, chức quyền, tiền bạc. Một mặt nhà vua rất nghiêm thẳng. Mặt khác ngài đầy lòng xót thương, bao dung. Mục đích vẫn đạt được, nhưng trong một chiều kích khác.
TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI
"Nhà vua ở đây chính là Thiên Chúa ; tiệc cưới là hạnh phúc thời Messia và hoàng tử chính là Đấng Messia đó" (The New Jerusalem Bible). Thiên Chúa đã chuẩn bị thật chu đáo. Người đã sai các đầy tớ là các tiên tri và các tông đồ đạt giấy mời người Do thái đến tham dự lễ cưới Con Chiên. Nhưng cuối cùng tất cả giấy mời phải bãi bỏ vì thái độ kiêu hãnh và đầy tự ái của dân riêng. Tuy thế Thiên Chúa không hủy bỏ chương trình cứu độ. Người tìm mọi cách thực hiện niềm vui cực kỳ lớn lao cho tất cả mọi người, dù họ chưa bao giờ nhận được giấy mời. Vào phòng cưới mà thực khách cứ tưởng mình như đang đi trên mây.
Trong đám khách đông đảo đó, có biết bao người tội lỗi và dân ngoại. Dù chưa sẵn sàng, họ đều mặc áo cưới sang trọng, xứng với tiệc cưới hoàng tử. Thế mà vẫn có người bước vào tiệc cưới, lười biếng đến nỗi không khoác cho mình một chiếc áo cưới treo sẵn ngoài hành lang cho mọi người. Bởi đó nhà vua nổi giận và có những biện pháp cứng rắn. Sang lãnh vực thiêng liêng, ân sủng chính là chiếc áo cưới mỗi người tín hữu phải mặc khi vào dự tiệc cưới Con Chúa.
Khác hẳn người không mặc áo cưới, một nhân vật thu hút lạ lùng vì nhan sắc tuyệt vời và áo cưới rực rỡ, một người không được nhắc tới trong dụ ngôn tiệc cưới, nhưng cực kỳ quan trọng, đó là cô dâu. Tại sao đám cưới chỉ đề cập tới chú rể ? Cô dâu chính là Hội Thánh mà tiên trưng là Đức Maria. Mẹ là cô dâu tuyệt vời đã xuất hiện trong bộ áo cưới lộng lẫy. Chưa một cô dâu trần gian nào đẹp như Mẹ, vì chính Thánh Linh đã chuẩn bị cho Mẹ ra mắt Chúa Thượng và toàn thể triều đình. Toàn dân sẽ tràn ngập niềm vui khi chiêm ngắm cô dâu khả ái trong cung điện cực kỳ sang trọng như thế. Mẹ cực kỳ diễm lệ vì đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.
Lòng tin ấy mô hình sống động cho toàn thể Hội Thánh. Sống trong Hội Thánh không thể không biết tới bản chất "Công giáo" của Hội Thánh. Còn sống theo não trạng cục bộ, bè phái là chưa sắm cho mình áo cưới để sẵn sàng dự tiệc cưới Con Chúa. Đặc tính Công giáo đòi đòi hỏi họ phải biết vượt lên trên ranh giới chủng tộc, màu da, văn hóa. Càng bị lệ thuộc vào những thực tại trần gian, nhất là vào cái tôi của mình, càng cảm thấy lúng túng, thẹn thùng khi nhà vua bước vào phòng cưới.
Ngay trong nhiều cộng đoàn tu trì cũng có những đầu óc hẹp hòi như thế. Ơn gọi và sứ mệnh Kitô luôn mang chiều kích phổ quát. Đánh mất chiều kích phổ quát đó, liệu ơn gọi còn được gọi là ơn gọi Kitô nữa không ? Sứ mệnh có hoàn thành được không ? Tại sao còn có những băn khoăn về ưu tiên này nọ cho những người cùng chủng tộc, văn hóa với mình ?
Đã đến lúc tiệc cưới không dành riêng cho một thứ thực khách nào. Ơn cứu độ không dành riêng cho một dân tộc nào. Cánh cửa phòng cưới đã mở rộng. Chắc chắn Thánh Linh đang may cho mỗi người chúng ta một chiếc áo cưới. Nhưng chúng ta có muốn mặc để dự tiệc cưới hay không ? Ai cũng nhận được thiệp hồng, nhưng thử hỏi chúng ta có đáp lại lời mời gọi của nhà vua hay không ?
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
----------------------------------
Lm.Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Mt 22,1-14
Số phận của những người tôi tớ
Trong câu chuyện bài Tin Mừng tuần trước, những người tôi tớ của ông chủ đã không được đối: TN 28-A69
Trong câu chuyện bài Tin Mừng tuần trước, những người tôi tớ của ông chủ đã không được đối xử như những vị sứ giả. Họ đã bị ngược đãi, bị hành hạ, thậm chí còn bị giết. Trong dụ ngôn về tiệc cưới hôm nay, số phận những người này cũng không khá hơn. Có thể nói rằng họ đã thất bại. Họ đến gặp những khách mời, nhưng chẳng ai nghe họ. Người ta đã xua đuỗi, hành hạ họ, mặc dù không giết chết. Những người sống sót này không làm được gì hơn là trở về báo cáo cho ông chủ về thái độ của các vị khách được mời.
Trong thực tế, nơi mà họ có thể chu toàn sứ mạng của mình, nơi mà người ta đón nhận lời mời của họ, chính là đường phố, hay chính xác hơn là những ngã ba đường. Tại đây, các tôi tớ đã gặp những người qua đường, những người đi qua đi lại, những người chẳng có ruộng đổng, cũng chẳng bận việc buôn bán, và những người chẳng có nhà ở nhất định. Không cần biết họ là người xấu hay người tốt : điều quan trọng là họ đã nghe lời mời của các tôi tớ, những lời mời được gửi đến ở mọi nơi, mọi thời ...
Hình ảnh những người tôi tớ bị trần gian hất hủi cũng giống như hình ảnh chính Người Con của Vua. Người con này là một người tôi tớ đúng nghĩa : chính Người đã bị đánh đòn, đã bị ngược đãi, đã bị giết chết do bàn tay của những người được Chúa Cha mời gọi ngay từ đầu để tham dự vào lễ hội sự sống. Chính Người là người qua đường đúng nghĩa, đã rong ruỗi trên khắp những nẻo đường của trần gian, của đời người và của những tâm hổn. Chính Người đã chịu đóng đinh vào cây thập giá như vào một ngã ba của cuộc đời. Mỗi người sẽ phải đi qua ngã ba ấy, nếu muốn tiến đến sự sống.
Số phận của những người tôi tớ, và của Người Tôi Tớ là số phận hẩm hiu, có thể nói như thế. Vậy mà có những người tự nhận là "tôi tớ", nhưng lại không dám chấp nhận số phận tôi tớ. Ðó là những "tôi tơ" chỉ có trên danh xưng, còn trong thực tế lại là những ông chủ. Họ muốn sắp xếp một thứ phục vụ mà không dấn mình vào sự liều lĩnh, không chấp nhận mọi điều kiện. Họ muốn mang danh nghĩa tôi tớ mà vẫn sống ung dung, an toàn, vẫn có một thứ đẳng cấp về quyền hành.
Những người này là tôi tớ, nhưng là để phục vụ cho bản thân mình, cùng với những tiện nghi. Họ là tôi tớ, nhưng là phục vụ cho những ham muốn của mình, những ham muốn dường như vô tận và núp dưới những danh nghĩa đầy tính cách đạo đức.
Vị trí duy nhất của người tôi tớ, đó là ngã ba đường, đó là thập giá. Chỉ khi nào chấp nhận thực tại này, họ mới thực sự là tôi tớ, theo gương Thầy mình.
Gọi và chọn
"Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít" Dụ ngôn tiệc cưới đã được kết thúc như vậy.
Câu nói này vẫn thường được trưng dẫn để khuyến khích hay để làm cho người khác sợ mà mau mắn hối cải. Nếu Nước Trời có ít chỗ, thì tại sao không vội vã, không hy sinh tất cả để có thể vào trong đó ?
Thật ra, trong Tin Mừng, Ðức Giêsu đã nhiều lần nhắc lại tính khẩn cấp của lời mời gọi, và cần phải hy sinh, phải từ bỏ tất cả để đáp ứng. Nhưng ở đây, bản văn có ý nghĩa khác.
Trong bữa tiệc của Thiên Chúa, những người được tuyển chọn đang hiện diện không nhiều ; ngược lại, số những người được mời và đáp ứng lời mời thì khá nhiều. Bởi vì ngay từ ban đầu, những người được chọn, dân được tuyển chọn là Ít-ra-en. Nhưng dân này đã không đáp ứng lời mời, đã không đến dự tiệc cưới. Bấy giờ ông chủ tiệc mới sai tôi tớ đi mời tất cả những người ngoài đường phố -những người này, vào lúc ban đầu, có vẻ như xa lạ với cuộc lễ- và đám người này đã mau mắn đáp ứng.
Như vậy, bản văn Tin Mừng hôm nay không có ý thu hẹp lại, nhưng cho thấy chân trời do Ðức Giêsu đem lại đã mở rộng thêm như thế nào, và mỗi ngày một rộng thêm đang khi sứ mạng nguyên thuỷ của Người có vẻ như thất bại rõ ràng. Sứ mạng ấy là quy tụ dân Người, biến họ trở thành ánh sáng chiếu soi mọi dân tộc. Ở đây có thể hiểu như một thứ chuyển dịch cho họ hiểu rằng, chương trình của Thiên Chúa có thể được thực hiện theo một cách thức khác với điều họ hiểu lúc ban đầu. Ðây cũng là điều thánh Mát-thêu muốn nhấn mạnh với các Ki-tô hữu thời sơ khai. Những người này cảm thấy bị thương tỗn khi họ phải từ bỏ những lợi ích vẫn có theo truyền thống xa xưa để chấp nhận lợi ích của dân ngoại.
Theo ý nghĩa của bài Tin Mừng này, họ không là những người phản bội lại ơn gọi của Ít-ra-en, nhưng họ thuộc vào số ít những người nghe được lời mời gọi và đã đáp ứng.
Dầu vậy, lời mời rộng rãi này vẫn không làm giảm bớt điều gì trong các đòi hỏi của Ðức Giêsu : những người được mời mà không mặc áo cưới, vẫn bị đuỗi ra khỏi phòng tiệc. Tại sao vậy ?
Mặc dù lời mời vào Vương quốc của Thiên Chúa là lời mời nhưng không, nhưng chớ quên rằng Vương quốc ấy là của Vua. Thiên Chúa sẽ "khám xét" dân mới của Người cách kỹ lưỡng vô cùng. Họ được gọi vào Hội Thánh, nhưng không phải đương nhiên và tự động được cứu thoát vĩnh viễn. Ðược gọi vào Hội Thánh cách nhưng không, họ phải đáp ứng lại bằng lòng tin (như tỗ phụ Áp-ra-ham) kèm theo những việc lành phúc đức (x. Hoàng M. Tuấn, "Ðọc Tin Mừng thánh Mát-thêu", tập 2, trang 344-345).
Tất cả đều được mời
Theo Tin Mừng thánh Mát-thêu, các tôi tớ "đi ra các nẻo đường, gặp ai bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại". Thật là lạ lùng ! Không hề có chuyện thu hẹp, giới hạn. Tất cả đều được mời, bất kể người đó là ai.
Có một số người nghĩ rằng việc gặp gỡ Ðức Ki-tô đòi phải có sự thoả thuận trước, phải có những điều kiện đặc biệt, và một sự chấp nhận nào đó. Những người này tưởng rằng việc sám hối chỉ dành cho những người nào không có nhiều lỗi lầm, không có những đam mê nặng nề, hay những người có tính khí "dễ dàng", và những người mà quá khứ cũng như những khuynh hướng hiện tại không làm họ phải thẹn thùng xấu hỗ.
Cửa nhà Thiên Chúa luôn rộng mở. Cần phải loan báo cho mọi người biết điều này, nhất là những người nghĩ rằng mình không xứng đáng với tình thân thiện của Ðức Ki-tô.
Ðoạn Tin Mừng này cũng gửi đến chúng ta, những người được mời ngay từ lúc ban đầu và không có giờ rảnh. Nếu chúng ta không nhận ra một cơ may mới đang được dành cho chúng ta, thì chúng ta sẽ như thế nào ? Thật là sai lầm khi nghĩ rằng Thiên Chúa không kêu mời chúng ta nữa, sau khi đã nhiều lần ngỏ lời. Và bây giờ chúng ta cứ mặc kệ. Chỉ cần ghi nhớ điều đơn giản này : "gặp ai thì mời hết vào tiệc cưới". Có thể chúng ta là người xấu và chúng ta có thể đưa ra nhiều lời xin lỗi rất hợp lý để không đáp lại lời mời. Coi chừng đó chỉ là những cớ giả tạo, và chúng ta chỉ có ý trốn tránh Thiên Chúa !
Nếu thực sự chúng ta là người xấu, chỉ cần chúng ta thú nhận và xin tha thứ, chỉ cần chúng ta gia nhập vào đám đông khốn khỗ được mời đến dự tiệc. Ông chủ tiệc sẽ rất vui mừng khi thấy chúng ta đến dự tiệc -không phải với thái độ kiêu hãnh- cùng với những người nghèo khỗ, những người được gom lại từ khắp mọi nẻo đường.
Vì thế, cần phải hối cải, cần phải thú nhận rằng chúng ta đã không đủ bao dung, không có thái độ sẵn sàng, không yêu mến đủ ; chúng ta đã đánh lừa lương tâm của mình và đã ngủ quên. Tuy nhiên, không chỉ hối cải mà thôi, còn phải hành động nữa. Và để hành động, đừng đợi đến khi có những thích thú hay ít bị cuộc sống lôi kéo. Kinh nghiệm về Thiên Chúa không loại trừ sự vất vả, nỗi khó nhọc, bệnh tật hay buổn phiền.
Không một khó khăn nào -vật chất hay tinh thần- có thể ngăn cản chúng ta một khi chúng ta đã biết được tầm mức của chúng. Có thể chúng ta cảm thấy không có thời giờ, nhưng một khi chấp nhận lời mời, chúng ta sẽ tìm được thời giờ. Người ta sẽ luôn tìm thấy thời giờ để thực hiện điều mình yêu mến, và thay vì phải chịu đựng, tất cả mọi sự đều trở nên sinh động và thân thiết nhờ lòng yêu mến này.
Ðiều quan trọng là nói lên lời ưng thuận và tìm cách dập tắt những tiếng nói ngăn cản nhận ra lời kêu mời của Thiên Chúa. Nếu chúng ta nhận ra lời mời, lời mời đầy tha thiết, chúng ta sẽ khám phá ra cách đáp trả.
Lm.Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
----------------------------------
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Mt 22,1-10
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã từng đi dự tiệc tại Ca-na, tại nhà La-da-rô, tại nhà: TN 28-A70
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã từng đi dự tiệc tại Ca-na, tại nhà La-da-rô, tại nhà của một nhóm Pha-ri-sêu, tại nhà Mát-thêu và Gia-kêu… từ đó, Chúa rút ra một chân lý là “phúc cho ai được mời tới dự tiệc”. Đây chỉ là một câu nói ám chỉ, có nghĩa là hạnh phúc cho những người được chọn vào nước trời, bởi vì bữa tiệc là hình ảnh Chúa Giêsu dùng để nói về nước trời. Vậy, những ai muốn được dự hạnh phúc ấy thì phải làm sao ? Chúa Giêsu đã đưa ra những dụ ngôn khác nhau để nhắc nhở người ta phải tỉnh thức, phải sẵn sàng, phải đúng giờ… hôm nay, bài Tin Mừng lại kể cho chúng ta một dụ ngôn nữa, đúng ra là hai dụ ngôn: dụ ngôn tiệc cưới và dụ ngôn áo cưới, dạy chúng ta phải sẵn sàng hi sinh tất cả mọi lo lắng cá nhân, dù là cần thiết đi nữa. Hay nói khác đi, Chúa dạy chúng ta phải biết chọn lựa cho đúng.
Bài Tin Mừng kể một lễ cưới long trọng được tổ chức do một ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Câu chuyện tiệc cưới này có cái gì khác thường, từ thực khách cho đến những sự tham dự, và nhất là cách xử sự của chủ tiệc, cho chúng ta thấy có điều gì không bình thường, và đó chính là điều Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Trong thực tế, có lẽ chẳng có tiệc cưới nào diễn ra như thế. Đúng, đây không phải là một tiệc cưới bình thường, mà là tiệc cưới nước trời : đức vua mở tiệc cưới là Thiên Chúa. Hoàng tử của nhà vua là Chúa Giêsu. Các đầy tớ được sai đi mời khách là các ngôn sứ. Khách được mời lần đầu là dân Do Thái. Họ đã từ khước lời mời của Thiên Chúa và giết hại các ngôn sứ, thậm chí họ còn giết luôn cả hoàng tử Giêsu. Những người được mời kế tiếp là dân chúng ở khắp hang cùng ngõ hẻm, tức là mọi người, bất kỳ ở đâu, cũng được mời gọi vào nước Chúa.
Đúng thế, Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi người. Ngài yêu thương mọi người, không phân biệt ai. Ngài mời gọi mọi người, bất kể tốt xấu. Ngài không loại bỏ ai bao giờ, nhưng đáp lại hay từ chối là do mỗi người, Qua hình ảnh những người được mời dự tiệc, chúng ta thấy có những người đã từ chối với những lý do khác nhau. Tin Mừng Lu-ca cho biết : người thì nói mới tậu ruộng cần phải đi xem, người thì nói mới tậu được năm đôi bò cần phải đi thử, người thì lấy lý do mới cưới xin để từ chối. Đây không phải là những lý do cần thiết và cấp bách. Nhưng khi người ta đã không muốn, không thích, thì người ta luôn tìm được những lý do để từ chối, để bào chữa, chống đỡ cho mình, dù cách chống đỡ đó vô duyên mấy cũng cứ được, cũng cứ an tâm bình chân như vại. Thực vậy, đi xem ruộng, đi thử bò thì thiếu gì lúc, có thể để sang ngày khác, ngày mai ngày mốt cũng được, chẳng muộn gì, cần gì phải vội vàng như thế, cả việc mới cưới xin cũng vậy. Nói chung, những người trên đều từ chối khéo ơn huệ của nhà vua chỉ vì coi mình trên người khác. Tất cả đều lấy mình làm căn bản. Tất cả mọi chuyện đều lấy của cải làm mối lo và giải quyết mọi chuyện theo đó. Như vậy, dụ ngôn này dạy chúng ta bài học : phải biết lựa chọn cho đúng.
Một điều nữa chúng ta cần tìm hiểu, đó là hình ảnh chiếc áo cưới. Khi đọc dụ ngôn này, có người thắc mắc : “Nhà vua có cư xử bất công không khi phạt một người khách vì được mời cách bất ngờ nên đã không mặc áo cưới ? ở ngã ba đường thì làm sao có áo cưới để mặc ?”. Thực ra, đây là hai dụ ngôn riêng biệt, nhưng thánh Mát-thêu đã nối kết lại với nhau. Nếu tách riêng ra thì không có chi thắc mắc về vấn đề áo cưới, vì đã có sự chuẩn bị trước ở nhà. Nhưng cả trong trường hợp kể trong Tin Mừng Mát-thêu, người không mặc áo cưới bị phạt thì cũng không có gì là bất công. Vì tại sao bao nhiêu người khác cũng được mời bất ngờ mà vẫn mặc áo cưới ? (có lẽ khách đến dự tiệc đều được phát cho áo cưới chăng ?). Đàng khác, khi bị hạch hỏi người này đã không nói được lời nào để chữa tội. Dù sao dây cũng chỉ là câu chuyện dụ ngôn, nhằm trình bày bài học ngụ ý hơn là chú trọng về khía cạnh xác thực. Điều tác giả dụ ngôn muốn nói là người không mặc áo cưới chính là kẻ xấu không chịu hồi tâm sửa mình. Chính vì thế mà y đã bị kết án.
Bài học cho chúng ta, cuộc đời chúng ta, chúng ta tự quyết định lấy. Chúng ta phải biết can đảm chống lại những khuynh hướng xấu, phải dứt khoát với những cám dỗ, những cái xấu. Những lầm lỗi trong cuộc sống là điều không tránh khỏi : nhân vô thập toàn. Nhưng điều quan trọng là biết nhìn nhận mình sai, biết dừng lại, biết hối hận và quyết tâm sửa đổi. Chúa luôn kêu gọi chúng ta bằng nhiều cách khác nhau, cụ thể như lời Chúa hôm nay, chúng ta có nghe không ? Có đáp lại không ?
Theo tâm lý thông thường, ai cũng sợ phải chờ đợi, ít hay nhiều, sự chờ đợi nào cũng là một cực hình. Nhưng cũng thật mâu thuẫn, khi chính chúng ta lại biến cuộc đời mình thành một thứ đợi chờ : cả tuần lễ, chúng ta chờ đến Chúa Nhật để được nghỉ ngơi. Chúa Nhật đến, chúng ta lại chờ Chúa Nhật khác. Tháng này đến, lại chờ tháng khác. Năm này đến, lại chờ năm khác. Lên xe mong đến nơi, đến nơi lại mong về. Đi dự lễ, dù lễ chưa xong, lại có người muốn vội đứng lên để ra về. Họ làm như thể chỉ đến nhà thờ để mong cho đến giây phút tan lễ. Cứ thế, chúng ta khiến cuộc đời chúng ta là một chuỗi những dự phóng và không bao giờ thực hiện, đang khi tiếng mời gọi của Chúa với chúng ta chính là “ở đây và lúc này”. Hãy nắm bắt giây phút hiện tại trong tin tưởng và phó thác, cũng như trong niềm vui của Tin Mừng.
Hôm nay, Chúa đang gọi tôi, đừng khất lần vào dịp khác, đừng chờ đợi đến một cơ hội tốt hơn, một hoàn cảnh thuận lợi hơn. Hãy tiến vào tiệc cưới mà tận hưởng những gì chúng ta đang có và đang sống. Hãy sống cho thật tròn đầy những giây phút của ngày hôm nay. Những gì có thể làm hôm nay, chúng ta không nên để đến ngày mai, có một bậc thầy đã nói : “Cái ngày nguy hiểm nhất trong đời một người là khi người đó học được chữ ‘ngày mai’”. Vì biết có ngày mai nên chúng ta mới trì hoãn công việc đáng phải làm trong ngày hôm nay. Dĩ nhiên có những việc chúng ta có thể để đến ngày mai, nhưng có những việc chúng ta không bao giờ nên để ngày mai, nhất là việc sám hối, cải thiện đời sống. Bởi vì chúng ta không biết chắc được có ngày mai cho chúng ta hay không ?
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
----------------------------------
- Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
(Ys 25,6-10a; Ph 4,12-14.19-20; Mt 22,1-14 hoặc 22,1-10)
I. PHÚC ÂM: Mt 22, 1-10 {hoặc 1-14}
"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì hãy mời vào dự tiệc cưới".
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
{Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".}
II. SUY NIỆM:
Nghe đọc xong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người trong chúng ta đã bắt đầu nghĩ đến thân phận : TN 28-A71
Nghe đọc xong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người trong chúng ta đã bắt đầu nghĩ đến thân phận của mình: giờ đây trong thánh lễ chúng ta không được mời đến dự tiệc của Vua trời đất hay sao? Chúng ta quen gọi Thánh Thể là một bàn tiệc; nên chúng ta có thể không những hiểu bài Tin Mừng hôm nay mà cả bài sách Isaia nữa về Thánh Thể. Và chúng ta có thể dựa vào những bài Kinh Thánh ấy để nói đến vinh dự và nhiệm vụ của chúng ta trong giờ cử hành thánh lễ này.
Nhưng cả Isaia, cả thánh Matthêô đã có một cái nhìn rộng hơn. Trực tiếp, các bài Kinh Thánh kia đã không muốn nói về Thánh Thể nhưng Hội Thánh. Và hôm nay chúng ta có thể dựa vào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe để hiểu hơn về ơn gọi và nhiệm vụ của chúng ta ở trong Giáo hội và giáo xứ.
A. Isaia Ðã Tiên Báo Thời Ðại Chúng Ta
Thời ấy, Isaia đang sống trong một hoàn cảnh thật đen tối. Chưa bao giờ Dân Chúa cảm thấy tuyệt vọng hơn. Không còn quê hương, không còn đền thờ, không còn nghi lễ. Cảnh lưu đày đã kéo dài nhiều chục năm. Người ta không còn nghĩ đến Yêrusalem nữa. Và có nghĩ đến, cũng chỉ còn là để than khóc, xót thương. Theo suy nghĩ của loài người, Chúa đã bỏ rơi dân rồi.
Nhưng chính ở cảnh tiêu điều vô vọng ấy mà Lời Chúa nói với Isaia, thức tỉnh lòng tin của ông và nhờ ông đến phấn chấn Dân lưu đày. Chúa các đạo binh phán thế này: Người sẽ tập họp đoàn dân tản mác của Người lại nơi núi thánh. Và như thói quen sau những ngày đại thắng, Người sẽ thết dân một bữa tiệc linh đình. Không những thức ăn sẽ dồi dào, mà rượu quý cũng sẽ dư dật. Không phải chỉ có một dân bé nhỏ trước đây được phục sinh và mời đến; nhưng toàn thể các dân thiên hạ đều tuôn lại. Sion trở thành đỉnh cao của các dân tộc vì bàn tay Thiên Chúa đã đặt trên Núi ấy và ơn cứu độ của Người sẽ từ đó chảy xuống đến muôn dân.
Tự sức mình, Isaia không thể nói được những lời như vậy. Không có cơ sở nào cho phép ông nghĩ được những điều như thế. Chính Thần khí Chúa đã ở trong ông. Và chính Chúa đã đặt Lời của Người vào miệng ông. Ông đã nói nhân Danh Chúa. Ông đã thi hành sứ mạng tiên tri... Ông tuyên bố kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Người sẽ dùng một số người nhỏ bé trong thiên hạ để làm ra gia đình nhân loại được cứu rỗi. Người thi ân cho những con người tuyệt vọng để họ trở nên nguồn cứu độ cho mọi dân.
Lời sấm của Isaia đã bắt đầu được thực hiện khi Chúa cứu dân lưu lạc trở về. Nó được thực hiện thật sự với thời Ðấng Thiên Sai, khi Chúa Cứu thế thiết lập Hội Thánh tràn lan khắp các dân tộc. Nhưng nó chỉ thực hiện hoàn toàn vào thời cánh chung, lúc Ðức Kitô trở lại đưa tất cả nhân loại và vũ trụ được cứu rỗi vào Trời Mới và Ðất Mới. Và như vậy lời tiên tri Isaia đang thực hiện nơi chúng ta.
Chúng ta hãy dâng lên Chúa lời hân hoan cảm tạ. Người thương gọi chúng ta vào Hội Thánh. Người cho chúng ta được ở trong Nước của Con yêu dấu Người. Hằng ngày Người lại bày tiệc trên Núi Thánh để chúng ta chứng kiến tình Người phong phú. Và chưa hết, Người sẽ đưa Hội Thánh chúng ta đi vào Trời Mới và Ðất Mới. Khi ấy lời sách Isaia mới hoàn toàn thực hiện. Vì khi ấy, Chúa mới cất hẳn tấm khăn đang bao trùm muôn dân, tấm khăn đã khiến muôn nước đi trong tối tăm lầm lạc, tấm khăn chít trên đầu của bao thế hệ loài người đau khổ, tấm khăn của tử thần trùm trên mạng sống con người. Người xua đuổi hẳn tà thần. Người lau sạch mọi giòng nước mắt. Người hủy bỏ toàn thể hệ thống đau khổ.
Hiện nay, Người đã khởi sự làm những điều ấy rồi. Tử thần không làm gì được thân xác Ðức Kitô và Ðức Mẹ nữa. Ðau khổ cũng đã được bớt đi nhiều lắm ở trên mặt đất này. Và ở trong Hội Thánh, được ánh sáng đức tin soi dẫn, người ta không còn phải mò mẫm đi trong tối tăm lầm lạc. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa Kitô đã khai sinh cho chúng ta một lịch sử mới. Chúng ta tin tưởng trông đợi ngày Chúa trở lại, để những lời sách Isaia bấy giờ đã khởi sự, sẽ được hoàn tất trong hạnh phúc bất diệt.
Nhưng đó mới chỉ là một bài học của Lời Chúa hôm nay. Với bài Tin Mừng theo thánh Mátthêô, phụng vụ của Hội Thánh còn muốn chúng ta hiểu bài sách Isaia một cách cụ thể hơn nữa. Chúng ta sẽ thấy Chúa Cứu thế tổ chức bàn tiệc cánh chung của Isaia thế nào? Và chúng ta sẽ được Hội Thánh nhắn nhủ làm sao khi được dự bàn tiệc ấy?
B. Chúa Cứu Thế Thực Hiện Lời Tiên Tri
Dân lưu đày đã được trở về quê hương. Nhưng rõ ràng lời sấm của Isaia chưa được thực hiện hoàn toàn. Người ta không thấy các dân tuôn về Sion. Và ở đây cũng không có những ngày hội như nhà tiên tri đã loan báo. Ngược lại bầu trời Yêrusalem lại bắt đầu đen tối. Hết Hylạp lại đến Lamã thay nhau cai trị Dân Chúa. Isaia đã nói dối sao? Không, lời của ông phải nghĩ về thời Ðấng Thiên sai, mà chúng ta biết là chính Ðức Yêsu Kitô.
Vậy, Người đã thực hiện lời sách Isaia thế nào? Theo bài Tin Mừng Matthêô hôm nay, quả thật Thiên Chúa đã mở tiệc khoản đãi mọi dân tộc khi ban ơn cứu độ cho loài người. Bắt đầu Người đã mời dân Dothái đến dự. Người sai các tiên tri của Người đến mời họ. Nhưng họ không đến. Người lại sai một lớp tiên tri nữa đến mời, với những lời nhắn nhủ rõ rệt rằng: tiệc đã sẵn, thức ăn đã la liệt, tức là ơn cứu độ đã hoàn thành. Người có ý nói đến công cuộc cứu thế của Ðức Kitô đã làm xong trên thập giá. Và như vậy chúng ta phải hiểu lớp tiên tri thứ hai được sai đi đây chính là các Tông đồ của Ðạo Mới, đang khi lớp đi trước là các Tiên tri của Ðạo Cũ. Nhưng như họ đã không nghe Môsê và các tiên tri, thì bây giờ người Dothái cũng từ chối lời mời của các Tông đồ mới. Họ viện những lý do thông thường của những kẻ quen sống ích kỷ, không biết tạm hoãn những công việc riêng để đến chia sẻ niềm vui "cả đời mới có một lần" của một gia đình có tiệc cưới. Họ được dịp để hân hoan mà họ không muốn. Hơn nữa họ còn đập đánh và giết chết nhiều sứ giả Tin Mừng của Ðức Kitô. Và điều này có ý nói rằng: người Dothái đã bắt bớ giết hại nhiều Tông đồ của Hội Thánh. Họ tệ hơn cả cha ông họ. Thế nên Thiên Chúa đã phải thịnh nộ. Người đã sai quân xâm lăng tới, giày xéo thành trì của họ vào năm 70. Chắc chắn thánh Matthêô đã muốn ám chỉ biến cố này khi viết những lời trên. Và rõ ràng người muốn khẳng định rằng: Phúc âm từ nay sẽ được đem đến rao giảng cho các dân ngoại, khi người viết tiếp: các tông đồ đã được sai đi các ngã đường để gặp ai thì mời vào dự tiệc cưới.
Do đó, qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêô đã muốn phác họa một cách vắn tắt lịch sử ơn cứu độ loài người. Người muốn nói đến việc thành lập Nước Trời do Chúa Cứu thế. Ðó chẳng khác gì một bàn tiệc linh đình mà Isaia đã tiên báo. Chúa bắt đầu mời dân Dothái đến dự. Họ đã từ chối nghe lời Môsê và các tiên tri. Chúa sai Con của Người đến hoàn thành sứ mạng cứu thế và dạy các Tông đồ đi loan báo cho người Dothái. Không những họ lại từ chối, mà còn bắt bớ các Tông đồ. Chúa buộc lòng phải phạt họ và sai các Tông đồ đến với các dân ngoại. Hết mọi dân đều được đưa vào Hội Thánh; và như vậy, lời tiên tri Isaia đã thực sự được thực hiện.
Nói đúng ra, đây mới chỉ là khởi sự. Ðọc tiếp bài Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy thánh Matthêô cũng muốn nói xa hơn, và nhất là trực tiếp hơn đối với chúng ta.
C. Hội Thánh Còn Chờ Ðược Hoàn Tất
Thật vậy, Hội Thánh hiện nay tuy gồm hết mọi dân tộc nhưng hãy còn pha trộn người tốt và người xấu. Ít ra trong Giáo hội tại thế, có rất nhiều bộ mặt trước đây là những con người tội lỗi. Hằng ngày mọi người đều được mời dự Tiệc Thánh và chia sẻ niềm hân hoan của ơn cứu độ. Tuy nhiên người ta không được quên Ngày Chúa sẽ trở lại. Người sẽ thấy chúng ta thế nào? Bây giờ chúng ta có mang áo dự tiệc không, tức là chúng ta có đời sống công chính và các việc lành phúc đức không? Nhiều tác giả vẫn quen dùng hình ảnh "áo cưới" để nói đến những công việc này. Và ở đây thánh Matthêô muốn chúng ta nghĩ về ngày chung thẩm, ngày Chúa Kitô trở lại. Có như vậy, chúng ta mới hết thắc mắc vì sao đã cho người ra các đầu đường gặp ai thì mời vào dự tiệc mà sau đó lại đòi người ta phải có áo cưới. Là vì giữa thời gian được mời vào Hội Thánh và ngày chung thẩm, người ta ai cũng có thời giờ và bổn phận trang trí đời sống của mình bằng sự công chính và các việc lành phúc đức. Và chúng ta có thể nói, sống trong Hội Thánh không phải chỉ là dự tiệc các Bí tích mà còn phải nỗ lực sống thánh thiện và phục vụ bác ái. Chỉ có như vậy, ngày chung thẩm mới được lau sạch nước mắt; bằng không, sẽ phải khóc lóc nghiến răng như lời các tác giả đạo đức hay diễn tả về các cực hình ở đời sau.
D. Giáo Dân Philip Làm Gương Cho Chúng Ta
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cho chúng ta biết giáo đoàn Philip cố gắng sống theo ơn gọi. Từ ngày được mời vào Hội Thánh, tín hữu ở đây luôn nỗ lực làm việc lành, như để sắm áo cưới cho ngày chung thẩm. Gặp lúc thấy Phaolô bị giam giữ vì đạo Chúa, họ mau mắn và rộng rãi gửi đồ và tiếp tế cho người. Người viết thư cám ơn, không phải để họ gửi thêm vì thực ra, bản thân người vẫn biết cách sống thích nghi với hoàn cảnh và bất cứ khi nào người vẫn lấy ơn Chúa làm đủ. Nhưng đây là dịp để họ biết sống quảng đại và thực thi bác ái, phù hợp với ơn gọi Kitô hữu. Thánh Phaolô thấy họ đã làm, thì người nói lên lý do sâu xa để khi làm việc bác ái, họ biết mình đang sống đẹp lòng Chúa, Ðấng sẽ ban cho họ chan chứa ơn lành trong Ðức Yêsu Kitô.
Dĩ nhiên phụng vụ của Giáo hội hôm nay cũng muốn dùng chính những lời của thánh Phaolô để khuyên nhủ chúng ta một cách cụ thể. Chúng ta đã thấy qua bài sách của tiên tri Isaia, Chúa hứa đưa chúng ta vào bàn tiệc Nước Trời. Người đã khởi sự làm việc ấy khi đưa chúng ta vào Hội Thánh. Tuy nhiên muốn duy trì và phát triển ơn cứu độ hiện nay ở nơi mình, chúng ta phải sống thánh thiện và bác ái. Vì nếu những người trước đây được mời dự tiệc mà đã không đến và bị phạt, là vì họ sống ích kỷ, không biết nghĩ đến người khác, thì chúng ta chỉ có thể được ở trong bàn tiệc cánh chung nếu chúng ta biết săn sóc các nhu cầu của tha nhân.
Thánh lễ này cho chúng ta được dự tiệc Bí tích nhưng là để đi đến bàn tiệc trên trời. Giữa hai bàn tiệc dưới đất và trên trời, chúng ta phải theo gương Chúa xả thân cho ta mà đi vào đời sống để săn sóc và chia sẻ nếp sống vui buồn của đồng bào. Công việc này chúng ta sẽ được lôi cuốn để làm, mặc dù gặp nhiều trở ngại, khi chúng ta đã thật lòng mộ mến thái độ của Chúa trong việc xả thân cho chúng ta. Vậy chúng ta hãy sốt sắng dự lễ, để dễ sống nhiệt tình hơn với mọi người hầu được đi vào bàn tiệc cánh chung.
Gm. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
----------------------------------
Mt 22,1-14
Thiên Chúa là vị Vua đầy quyền năng, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài muốn. Tuy: TN 28-A72
Thiên Chúa là vị Vua đầy quyền năng, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài muốn. Tuy nhiên, Ngài đã ban sự tự do cho con người để con người chọn điều tốt, làm điều lành hầu xứng đáng với phần thưởng đời đời Chúa ban.
Khi được tự do chọn lựa, con người có thể có xu hướng chọn những cái thấy được trước mắt, coi trọng vật chất hơn những ơn thiêng liêng Chúa ban, không biết thờ phượng Chúa cho phải đạo. Dụ ngôn tiệc cưới này đã nhắc nhở chúng ta biết chọn lựa đúng đắn. Thực tế cho thấy có rất nhiều người từ chối lời mời của Chúa, họ phủ nhận Thiên Chúa những vì mãi lo việc vật chất phần đời mà bỏ quên Thiên Chúa. Những khách được mời trong dụ ngôn này đã không chịu đến, sai người đến nhắc cũng không đến, Vua lại sai nhiều người khác đến mời mọc, họ cũng không đến, lại còn đối xử tệ bạc với những đầy tớ của Vua ! Thật là quá lắm!
Ông chủ trong dụ ngôn thật là tốt bụng, ông kiên nhẫn với nhóm khách được mời, tạo cơ hội cho họ đến nhưng họ cứ khăng khăng từ chối : vua lại sai các đầy tớ khác… nhưng lần này họ còn ra mặt chống đối, đánh đứa này, giết đứa kia. Chúa Giêsu kể dụ ngôn này có ý ám chỉ đến những người Do thái, họ đã được các tiên tri kêu gọi, nhắc nhở, loan báo và chuẩn bị cho việc đón nhận Chúa Cứu Thế. Thế nhưng, khi Chúa Cứu Thế đến thì họ lại từ chối và còn đối xử cách bất công nữa.… Nghe dụ ngôn chúng ta thấy bất bình với những người được chủ mời dự tiệc này, nhưng có khi nào chúng ta cũng giống như họ chăng! Tiệc của hoàng tử mà chúng ta lo là, không lo sửa soạn sẵn sàng mà lại lo tìm những thú vui giả trá chóng qua!
Thiên Chúa quá nhân từ khi đối xử với con người, Ngài có quyền nhưng cứ nhân từ, nhẫn nại, không ép buộc mà chỉ mời; còn con người lại không biết nghĩ đến Chúa, cứ một lo chuyện đời theo ý riêng. Sẽ có lúc Chúa phải xét xử công bằng với chúng ta. Ngài không để sự dữ hoành hành mãi được. Lúc đó, không ai thoát khỏi kết quả mình làm lúc còn trên dương thế. Tội của những kẻ chối từ lời mời gọi của Thiên Chúa trầm trọng lắm vì đã không tin vào Đức Kitô, Đấng vì họ mà đến trong thế gian. Chúng ta không chống đối Thiên Chúa nhưng chúng ta hay chối từ lời mời gọi của Chúa trong Giáo hội, không tuân giữ lời Chúa dạy trong Kinh thánh, chưa nghe theo lời khuyên của những người Chúa chọn, chúng ta có thể sẽ bị chúa trách cứ về điểm này.
Giáo hội trần thế hôm nay còn có người lành kẻ dữ lẫn lộn. Thiên Chúa kêu gọi tất cả hãy đến với Người, mặc lấy tâm tình xứng hợp để được vào Nước Trời. Những ai hoán cải và giữ lời Chúa dạy, làm việc lành thì giống như người có mặc áo cưới, có tâm tình và diện mạo xứng hợp để vào dự tiệc cưới. Bao lâu chúng ta duy trì đời sống công chính, gia tăng những việc lành thì chúng ta đang khoác cho mình chiếc áo cưới sẵn sàng chờ Chúa gọi.
Bữa tiệc Thánh Thể vẫn được lặp lại hàng ngày trong Thánh lễ, ai muốn tham dự phải mặc áo ân sủng Chúa và sống theo Tin Mừng. Để đi vào Nước Trời, chúng ta phải giặt áo mình trong máu Con Chiên, phải mặc lấy Chúa Kitô và thể hiện ra bên ngoài bằng đời sống tốt đẹp hơn, bác ái, quãng đại hơn…(x. Ep 4, 24).
Lạy Chúa Giêsu, con xin cám tạ Chúa đã kêu gọi con vào nhà chúa, con sẽ cố gắng đáp trả tiếng Chúa và dùng những khả năng Chúa ban để phục vụ cho Nước Chúa mau trị đến trong các tâm hồn.
----------------------------------
Mt 22,1-14
Trong một đời người chắc ai cũng có rất nhiều lần dự tiệc, nào là tiệc cưới, sinh nhật, bổn mạng... Nhưng: TN 28-A73
Trong một đời người chắc ai cũng có rất nhiều lần dự tiệc, nào là tiệc cưới, sinh nhật, bổn mạng... nhưng vì tình nghĩa chúng ta cũng rất ít lần bỏ qua. Họa hoằn làm chúng ta mới bỏ qua một lần, nhưng lần đó chỉ là những trường hợp bất khả kháng chúng ta không thể nào đi được. Cho dù buổi tiệc đó có lớn đến đâu, nhân vật quan trọng như thế nào đi nưa thì đó cũng cũng chỉ là buổi tiệc mau tàn, chóng qua. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta thấy một buổi tiệc vô giá, buổi tiệc quan trọng hơn gấp bội phần buổi tiệc của trần gian nay. Đó chính là buổi tiệc nước trời mà Thiên Chúa giống như vua kia tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Nước Trời có nghĩa là gia đình Thiên Chúa trên trần gian. Tiệc cưới là bàn đặt lương thực thiêng liêng. Còn mỗi người chúng ta là đầy tớ của vua cao cả. Chúa Kitô là Con của Ngài. Cha trên trời sai chúng ta đi mời mọi người chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng do Giáo hội của Ngài khoản đãi.
Nhưng ai là người chúng ta có thể mời ? Thực tế là mọi người. Có nhiều người Công Giáo không bao giờ tham dự những ngày đại phúc, tĩnh tâm hay học hỏi về đạo. Những người công giáo lơ là về đạo ấy, chỉ cần một chút thúc giục để họ bắt đầu quay về với gia đình của Thiên Chúa. Họ hăng say tham gia vào buổi tiệc mà chính Chúa đã dọn, đã mời gọi. Chính khi họ đi dự tiệc họ cũng có thể mời gọi người khác cùng đi
Hơn nữa chúng ta cũng cần nghĩ đến những người bạn chưa hề nghe, chưa hề biết, chưa hề cầm được tấm thiệp mời, đó chính là những người bạn khác niềm tin khác tôn giáo đang tìm kiếm của ăn thiêng liêng. Chúng ta có thể gặp những người khách này ở đâu ? Họ có thể là người láng giềng, bạn học, bạn công nhân cả đến những người thân thuộc. Họ có thể là người quen biết trong cuộc chơi, ở tiệm bán hàng, trên xe buýt, ở phòng đợi bác sĩ, bạn đừng giới hạn sự mời đón vào những người gọi là đáng kính. Bạn hãy mời những người thấp kém, vô gia cư, tội lỗi. Như trong Tin Mừng hôm nay, ông vua truyền lệnh: “Hãy ra các ngả đường, mời bất cứ ai bất luận tốt xấu”.
Hãy mời họ thường xuyên tới dự thánh lễ, hay những dịp lễ dặc biệt lễ Giáng sinh, viếng máng cỏ, nghi lễ rửa tội, lễ cưới, lễ an táng hay là viếng nhà thờ trong tuần một vài lần...
Nếu có thể, bạn hãy nói trước với cha sở về những người khách ấy. Có lẽ Ngài mong được biết có sự hiện diện của họ, và có một vào người hứơng dẫn cho họ chung quanh nhà thờ. Điều này làm họ cảm thấy được cần đến và giúp sửa được ý niệm sai lầm là người công giáo chúng ta không muốn người ngoài đạo tham dự các lễ nghi.
Giả sử như họ từ chối lời bạn mời, thì bạn cũng đã một trọn bổn phận của bạn, bổn phận của lòng tin và bác ái. Bạn đang cổ động sự hiểu biết giữa những người có niềm tin khác nhau. Bạn đang tỏ ra rằng: đức tin của bạn có một ý nghĩa đối với bạn. Bạn lưu tamâ và ân cần mong muốn người khác chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng chúng ta tham dự trong chính giờ này.
Lạy Chúa, Chỉ có tình yêu mới đáp trả được tình yêu, chỉ có lòng thành mới mới đáp trả được lời mời gọi thiết tha mà Thiên Chúa đã kêu gọi. Xin cho con biết nhân ra đâu là thánh Ý Chúa để con hăng say đáp trả bằng tình yêu và lòng nhiệt thành. Amen
Gp. Vĩnh Long
----------------------------------
Mt 22,1-14
Anh chị em thân mến.
Có lần vào tiệm ăn sáng, tôi nhìn thấy hai trường hợp trái ngược nhau: Một đứa trẻ được mẹ dắt vào: TN 28-A74
Có lần vào tiệm ăn sáng, tôi nhìn thấy hai trường hợp trái ngược nhau: Một đứa trẻ được mẹ dắt vào quán ăn, ngồi vào bàn, được một phần ăn riêng biệt. Nhưng nó tỏ vẻ khó chịu, không biết vì lý do gì mà nó không vui, nó không nhìn đến phần thức ăn của mình. Người mẹ thì nhìn con với vẻ ái ngại, bà năn nỉ con, nhưng vô hiệu. Cuối cùng hai người đứng lên với phần ăn còn nguyên.
Một đứa trẻ khác, trên tay có một cái lon, chạy ngay lại phần ăn còn nguyên trên bàn mà người chủ đã không cần dùng đến, nó cho tất cả vào trong chiếc lon và mang ra bên ngoài, cùng với một đứa trẻ khác nhỏ hơn, tận hưởng niềm vui của một người không cần đến.
Tôi chợt suy nghĩ: phần ăn là chất bổ dưỡng, là niềm vui cho một người, nhưng chính người đó không vui khi nhận thấy phần của mình. Một người khác nhận được niềm vui không phải chuẩn bị cho mình, nhưng lại được hưởng trọn vẹn. Nếu đứa trẻ cằm chiếc lon, không biết chuẩn bị những gì cần thiết để có thể mang phần ăn ra bên ngoài tận hưởng, thì làm sao nó có thể hưởng trọn niềm vui được.
Trong dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy viễn ảnh một tiệc cưới, những vị khách quý đã được mời, sau đó còn được nhắc lại. Nhưng những người đã được mời đó, không một ai được dự tiệc vì có người không muốn tham dự, họ không còn nhớ đến lời mời gọi trước kia, họ chỉ sống cho mình và chỉ biết có chính mình. Có người không dự được vì họ đã bị trừng phạt. Họ không muốn dự tiệc, là một việc không phải phép, nhưng họ còn hành hạ những người đến nhắc nhở cho họ về những gì họ đã hứa, nên họ bị trừng phạt. Còn những người dự tiệc, là những người đang cần đến thức ăn và có sự chuẩn bị để đón nhận thức ăn một cách xứng đáng và không phung phí nó. Những người dự tiệc là những người không cần được báo trước, nhưng họ biết sẵn sàng đáp lại lời mời gọi với lòng chân thành.
Mỗi người trong chúng ta được mời gọi sống làm người, chúng còn được mời gọi để sống trong hồng ân Chúa cách đặc biệt hơn qua việc chúng ta được lãnh bí tích rửa tội. Đó là chúng ta được mời gọi để sống đời sống một người Công Giáo. Thiên Chúa còn mời gọi mỗi người sống trong môi trường sống của mình, sống xứng đáng với địa vị trong xã hội, trong môi trường thực tế của công việc để sống theo thánh ý Chúa. Lời mời gọi đó chúng ta cũng thường được nghe nhắc nhở lại rất nhiều trong đời sống hằng ngày: kêu gọi chu toàn trách nhiệm, kêu gọi sống xứng đáng hơn, kêu gọi sửa đỗi đời sống. Nhiều lúc những lời đó làm cho chúng ta khó chịu, không muốn nghe. Có những lúc chúng ta phản ứng mạnh mẽ hơn vì những lời đó làm cho chúng ta ái ngại. Những lời mời gọi và nhắc nhở đó, những lời làm cho chúng ta khó chịu đó là những lời kêu mời chúng ta đến dự bàn tiệc nước trời. Nhưng mỗi người đáp lại như thế nào? Cứ nhìn lại đời sống, nhìn lại những hành động đã qua, xem chúng ta đáp lại lời mời như thế nào?
Chúng ta hứa vào dự tiệc, nhưng nhiều lúc chúng mãi bận rộn với những toan tính thiệt hơn hằng ngày, chúng ta mất quá nhiều thời gian với gia tài riêng tư của mình: đó là sự ích kỷ, sự hẹp hòi và cả những cố chấp trong con người của mình, nên không còn nghe thấy gì ngoài bản thân mình. Chúng ta chỉ còn biết tính toán thiệt hơn, cố làm sao mang cho mình thật nhiều những gì mình muốn, không cần biết đó là đúng hay sai, đồng thời cũng để ngoài tai những lời nhắc nhở chân thành. Như thế thì làm sao chúng ta có thể ngồi vào bàn tiệc đã dọn sẵn và đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta giống như đứa bé, ngồi trước phần ăn nhưng không chịu dùng những gì của mình.
Nếu chúng ta chu toàn trách nhiệm hằng ngày, cho dù những khó khăn vất vã, nhưng vẫn chấp nhận và can đảm vượt qua. Nếu chúng ta biết lắng nghe và nhìn lại chính mình, để nhận ra những gì sai lỗi, để làm lại cho tốt. Nếu chúng ta lắng nghe tiếng Chúa qua những việc làm tốt đẹp, những cử chỉ yêu thương, những lời nói ủi an khi cần thiết; đó là chúng ta đang bước vào phòng tiệc với chiếc áo cưới chuẩn bị sẳn sàng, và dự tiệc vui mừng với chủ.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa kêu mời, để xứng đáng dự tiệc Nước Trời.
----------------------------------
Mt 22, 1 – 14
Một lần nọ, tôi nghe được mẫu đối thoại như sau:- Lúc này sao “Giấy báo thuế”đến liền: TN 28-A75
Một lần nọ, tôi nghe được mẫu đối thoại như sau:
Lúc này sao “giấy báo thuế” đến liền liền. Rầu hết sức!
Giấy báo thuế là gì?
Là thiệp mời đi đám đó.
Được nhiều người mời là niềm vinh dự chứ sao lại rầu.
Biết vậy rồi, nhưng đâu phải đến ăn không rồi về được. Phải có bao thơ chứ. Mày biết không trong vòng một tháng mà có đến 5 cái thiệp mời. Hầu hết là những chỗ không thể bỏ được nên phải bấm bụng vay tiền để đi chứ làm sao có đủ!!!
Qua mẫu chuyện nhỏ trên đây, chúng ta thấy được mời dự tiệc là một niềm vinh dự. Vì niềm vinh dự ấy chúng ta phải chịu mất tiền và mất thời gian. Niềm vinh dự ấy lại tăng thêm cho chủ nhà khi những người được mời đi dự đầy đủ. Thế nhưng, thật là buồn cho chủ nhà khi tiệc đã dọn sẵn mà những người được mời chẳng thấy ai. Tâm trạng này phần nào phản ảnh tâm trạng của ông vua trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay.
Nhà vua sai đầy tớ đi tận nhà những người được mời và dặn: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới! " (Mt 22, 4)
Đáng buồn thay, những người được mời họ viện đủ lý do: “Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết” (Mt 22, 5b – 6). Họ đâu biết rằng làm như thế sẽ khiến nhà vua buồn như thế nào. Buồn ở đây không phải vì họ không ông nhưng ông buồn vì chính những người được mời này đã tự làm hại đến chính mình. Họ đã từ chối niềm hạnh phúc nhà vua chuẩn bị sẵn cho. Chắc chắn nhà vua là người giàu sang nên chẳng cần bao thơ làm chi. Nhà vua dọn tiệc và mời họ đến dự miễn phí nhưng họ lại từ chối.
Hình ảnh nhà vua này chính là Thiên Chúa của chúng ta. Thiên Chúa chuẩn bị sẵn cho chúng ta bữa tiệc Nước Trời và mỗi Thánh lễ cũng chính những bữa tiệc Thánh miễn phí. Thiên Chúa ban cho chúng ta một cách hoàn toàn nhưng không. Thế nhưng, đáng buồn thay có nhiều người lại tìm đủ mọi lý do để từ chối. Họ quên rằng khi từ chối như vậy là họ đang tự làm hại chính mình.
Hãy xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết nhanh chóng đáp lại lời mời gọi của Chúa đến hưởng hạnh phúc Nước Trời mà Người đã dọn sẵn cho chúng ta.
Gp. Vĩnh Long
----------------------------------
Mt 22, 1 – 14
Thánh Mátthêu cố gắng nhấn mạnh đến trách nhiệm của những ai không chấp nhận Chúa Giêsu: TN 28-A76
Thánh Mátthêu cố gắng nhấn mạnh đến trách nhiệm của những ai không chấp nhận Chúa Giêsu. Trước dụ ngôn Chúa Nhật hôm nay, dụ ngôn Tiệc Cưới ( Mt 22, 1 – 14 ), Thánh Mátthêu thuật lại dụ ngôn các tá điền gian manh và vô nhân đã từ chối không cung cấp hoa lợi của vườn nho cho chủ, mà họ là người làm công. Và rồi không những vậy họ còn giết cả gia nhân của chủ vườn, khi gia nhân đến để thu lợi nhuận cho chủ và sau cùng mức gian manh của họ đến tột độ, đến nỗi họ ra tay giết cả chính con của ông chủ.
Tất cả những những yếu tố đó chúng ta đã có dip suy niệm tuần qua ( Mt 21, 33 – 44 ). Mối tranh chấp đối với thế giới tôn giáo Do Thái không chấp nhận Chúa Giêsu được đề cập đến rõ như ban ngày. Trong bối cảnh tranh chấp, khước từ và thù nghịch đó của thế giới Do Thái giáo đối với Chúa Giêsu, bài dụ ngôn về Tiệc Cưới hôm nay được Thánh Mátthêu viết ra.
Dụ ngôn Tiệc Cưới cũng được Phúc Âm theo Thánh Luca đề cập đến ( Lc 14, 16 – 24 ), nhưng chỉ có Thánh Matthêu đặt dụ ngôn này trong bối cảnh tranh chấp, phản bác giữa Chúa Giêsu và các kỳ mục và kinh sư Do Thái.
Sau câu giới thiệu thời gian tính, tiếp theo những gì đã xảy ra trước đó: "Chúa Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ" ( Mt 22, 1 ). Quang cảnh khởi đầu cho chúng ta biết nhà vua đang tổ chức một buổi Tiệc Cưới cho con trai của mình và cho các đầy tớ đi báo tin cho những người đã được mời ( Mt 22, 2 – 7 ). Lời mời lịch sự và thân thiện của vua bị các quan khách được mời đáp ứng bằng câu trả lời từ chối thẳng thừng, nếu không nói là khinh dễ và bất lịch sự, vô lễ, coi thường nhà vua bởi lẽ họ chỉ khước từ suông, không cần đưa ra lý do nào để biện bạch và cáo lỗi: "Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến" ( Mt 22, 3 ).
Mặc cho thái độ bất lịch sự và khinh thường đó, nhà vua cũng còn đại lượng, bỏ qua, ông lại sai các đầy tớ khác đến nói với khách được mời là thời gian gấp rút, cần phải đến dự tiệc ngay, bởi ở lẽ buổi tiệc mọi việc đều đã được dọn sẵn: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự Tiệc Cưới !" ( Mt 22, 4 ).
Nhưng tình trạng của lần mời lần thứ hai này không có gì sáng sủa hơn, nói đúng hơn, còn tệ hại hơn lần trước, bởi lẽ các khách được mời, có lẽ vì được mời bất thình lình, không đươc chuẩn bị trước, nên họ có diện lý do, diện đủ lý chứng để không đến và còn tỏ ra thái độ bực bội: "Nhưng quan khách không thèm đếm xiả đến, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết" ( Mt 22, 6 ).
Dù sao đi nữa, thì họ cũng coi lợi thú cá nhân quan trọng hơn vua, cho thấy họ đánh giá vua không ra gì và không những tỏ ra khinh khi lời mời gọi của vua, không những đánh giá buổi Tiệc Cưới vô giá trị, mà còn ám sát cả các sứ giả của vua gởi đến để mang thư mời.
Trước thái độ quá đáng đó, nhà vua không còn cầm lòng được nữa, mà phải ra tay loại trừ bọn sát nhân và thiêu hủy thành thị của đồng bọn: "Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng" ( Mt 22, 7 ).
Quang cảnh kế đến ( Mt 22, 8 – 13 ), là phản ứng của vua đối lại thái độ thù nghịch, vô ân và bất lịch sự của những kẻ mà vua lưu tâm ưu đải vừa kể, "...này cỗ bàn ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn" ( Mt 22, 4 ). Phản ứng của vua đối với thái độ vô ân và nhẫn tâm đó là sai các đầy tớ khác ra đi khắp nẻo đường, gặp ai mời nấy vào dự tiệc.
Cách hành xử đó của vua, mở rộng vinh thự và bàn ăn của hoàng tộc tiếp đón hết mọi người, không bao lâu làm cho phòng tiệc trở thành chật ních: "Vậy các người hãy đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào Tiệc Cưới. Đầy tớ liền ra các nẻo đường, gặp ai bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng Tiệc Cưới đã đầy thực khách" ( Mt 22, 10 ).
Đến đây mọi chuyện đều xảy ra xuôi chảy, nhưng bỗng xảy ra một biến cố bất hạnh, một người được mời không mặc y phục lễ cưới, nên bị loại ra khỏi phòng tiệc ( Mt 22, 11 – 13 ): “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới... Nhà vua liền bảo những người phục dịch: Tòi chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó nó sẽ phải khóc lóc nghiến răng !" ( Mt 22, 12 – 13 ).
1. Được mời và từ chối
Tiệc Cưới là cơ hội vui mừng của mọi gia đình, còn nói gì đến Tiệc Cưới cho thái tử, là dịp hân hoan cho hoàng cung và cho cả đất nước. Nhà vua mở Tiệc Cưới cho con mình, nói lên mối hân hoan của cả hoàng tộc, của vương quốc, bởi đó ông sai các đầy tớ đem tin cho các khách thân tín đã được báo trước đến dự tiệc, đồng thời cũng cho thấy các khách được mời đó là những nhân vật có địa vị, thân tín và quan trọng đối với vua.
Nhà vua cũng muốn nói với họ một cách tế nhị được thấy cả triều đình sum hợp chung quanh mình và là những người ủng hộ chính sách cai trị đất nước của mình. Nếu được nhà vua là vị nguyên thủ quốc gia hân hạnh được tiếp đón và dùng bửa đồng bàn với họ, thì chắc chắn khách được mời phải lấy làm hảnh diện được vua chú ý đến mình như vậy. Bởi đó cả triều đình đều đang ở trong bầu không khí sôi động, lễ lạc, phấn khởi.
Nhưng sự kiện chắc khó ai có thể nghĩ tới, là thái độ không chấp nhận lời mời của các quan cận thần, thân tín vừa kể, mặc dầu họ không cho biết lý do của việc khước từ: "Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến" ( Mt 22, 3 ).
Thái độ khước từ mà không cho biết lý do, cho thấy cách hành xử bất lịch sự và có thể cả là thái độ thù nghịch đối với nhà vua. Thái độ đó khiến cho ai biết suy nghĩ có thể cho rằng sắp có một cuộc nổi loạn, đảo chánh, lật đổ chẳng hạn.
2. Mời thêm một lần nữa nhưng vẫn bị ngoan cố từ chối
a. Mặc cho thái độ bất lịch sự, bất thân thiện và cũng có lẽ ngầm khởi loạn vừa kể, nhà vua cũng không có cách ăn ở hẹp hòi, ông lập lại lời mời gọi thân tình và khẩn cấp của ông, bằng cách gởi thêm những sứ giả khác để báo cho khác biết là lễ cưới không thể triển hạn được nữa, bởi lẽ tất cả đều đã được dọn sẵn: "Hãy thưa với quan khách được mời rằng: "Này cỗ bàn ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự Tiệc Cưới" ( Mt 22, 4 ).
Cách diễn tả chi tiết "bò tơ và thù béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn" cho thấy nhà vua ước muốn đón tiếp các khách đã được mời. Nếu không, không thể giải thích được tại sao vua nhấn mạnh và căn dặn đến như vậy: "Xin mời quý vị đến dự tiệc".
Lần trước khách được mời có thể cho rằng là lời mời hời hợt, mời lấy có lấy lệ, bởi lẽ những đầy tớ đến mời không cho biết rõ chi tiết, lần này quan khách được mời không có lý do để coi thường lời tha thiết thân tình mời gọi của vua, "...cỗ bàn ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn".
Nhưng cử chỉ vô lý của những kẻ được mời, không ai có thể tiên đoán và giải thích được. Không những vậy, lời từ chối của họ, thái độ coi thường lòng ưu đãi của vua đối với mình còn được biện giải bằng những lý do lợi thú khác, được coi là quan trọng hơn lòng ưu ái và thân hũu của vua, lại thêm cả việc dùng bạo lực tàn nhẫn đối với các đầy tớ của vua: "Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết" ( Mt 22, 6 ).
Thật là thái độ bất thường, thái độ vừa kể của các khách được mời đối với vua. Nhưng nói là bất thường, không có nghĩa là không hề xảy ra. Bởi lẽ không phải là không có đôi khi một vài người chỉ sống với đầu óc quy tóm, hạn hẹp vào mục đích ích kỷ, lợi thú riêng tư của mình, hay "coi đồng tiền to bằng bánh xe", nói như người Việt chúng ta thường nói, không còn nghĩ gì đến mối tương quan thân hữu và ân nghĩa với người khác.
Việc làm và lợi lộc kinh doanh, buôn bán ngày nay vẫn còn là những thực thể lắm khi có thể làm cho con người tối mắt trước những giá trị khác, tình cảm gia đình, tình liên đới, mối liên hệ thân hữu hỗ tương và ngay cả tâm tình Cha – con đối với Chúa. Lòng ích kỷ đó nảy sinh và tăng trưởng nhân lên như tế bào của bệnh ung thư, sinh sôi nẩy nở mau chóng, nhiều khi chưa kịp đi bệnh viện, tế bào ung thư đã loan truyền đến khắp cả thân thể, tiêu diệt các bộ phận trong người, chỉ còn chờ chết.
Tế bào ung thư ích kỷ lợi thú riêng tư đó, không phải hiếm, nhiều khi tiêu diệt hết mọi mối liên hệ người với người, chỉ còn có “tiền bạc là trên hết !" Là thái độ báo hiệu cho ngưỡng cửa tử thần đang sát vách, ở phía bên kia, con người đang hủy hoại mình, tiêu diệt hết mọi cách sống con người !
Ý thức được lối cư xử vì lợi thú ích kỷ gần như man dại đó, cộng thêm với các lời thoá mạ, đối đãi tàn nhẫn và dã man đối với các sứ giả được sai đi của mình: "...kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết", nhà vua liền phản ứng: "Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi trù diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng" ( Mt 22, 7 ).
Thái độ của nhà vua là phản ứng tự nhiên của một con người, bởi lẽ một vài sứ giả của vua bị sỉ nhục, nhiều kẻ khác bị giết. Nhưng so với thái độ khước từ, cho thấy là thái độ khinh miệt, có thể chống đối và có thể bất tuân phục bên dưới, sự việc các sứ giả bị giết có thể được coi là thứ yếu hơn.
Tuy vậy, chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi: các quan khách được mời không có tự do tiếp nhận hay tự do từ chối sao ? Thái độ của nhà vua "...nổi cơn thịnh nộ...trù diệt và thiêu hủy thành phố của chúng" không phải là phản ứng quá đáng của kẻ đã quen với cách được đối xử độc tôn, độc quyền sao ?
Lý luận hợp lý của cách xử sự giữa con người với con người là việc chấp nhận hay từ chối đều có thể hiểu được, chỉ cần có thái độ "biết cách sống" ( "savoir vivre", nói như người Pháp thường nói ), tức là cử chỉ từ chối có lễ độ và tốt hơn nữa, nếu được có lời xin lỗi kèm theo, hẹn dịp khác, chắc chắn sẽ không dám vắng thiếu như hiện tại nữa, bởi vì là mình hiện đang ở trong tình trạng "bất khả thi" ( situation impossible a faire d'autrement ).
Trong dụ ngôn đang suy niệm, trái lại, các lời khước từ không có lý chứng gì để có thể biện minh, xin lỗi, mà chỉ là thái độ từ chối thẳng thừng: không muốn đến, không thèm đến ! Chỉ có vậy thôi.
Lần mời gọi thứ hai, nhà vua mời gọi trong tư thế nóng lòng mong được đáp ứng, các người được mời trả lời bằng cách tỏ ra tình cảm trái ngược, "nhưng họ không thèm đếm xỉa tới". Hơn nữa, còn tỏ ra thái độ ích kỷ của họ và bất cần sự ưu ái của vua: "...lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn", cho thấy thái độ khinh khi rõ rệt đối với vua. Còn nữa, không những khinh khi, họ còn tỏ ra thù nghịch: "...còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết đi". Đến đây thì mọi thiện chí đã cạn. Không còn gì để nói cho nhau nữa, không những coi thường, khinh rẻ, mà còn thù nghịch.
Cách xử thế thông thường của con người, ai lại đi giết các đầy tớ được sai đến để mời mình, quá lắm là nhắn gởi các đầy tớ về nói với ông chủ những câu nói xiên xéo, ẩn ý, miệt thị là cùng.
Trong một ít dòng của dụ ngôn được kể, Thánh Mátthêu có ý tóm gọn dòng lịch sử cứu rỗi và vẻ thất bại bên ngoài của chương trình cứu rỗi được diển ra: Thiên Chúa ( hay nha vua ), qua trung gian các ngôn sứ ( hay các tiên tri ) đã nhiều lần mời gọi, đôn thúc các người được mời ( dân Israel trong dòng lịch sử ), đến dự phần vào Giáo Ước của Người ( Tiệc Cưới ), nhưng vẫn không gặt hái được gì hơn là thái độ dửng dưng, khinh thị và thù nghịch đối ngược. Thiên Chúa còn tiếp tục đại lượng thử gởi các Ngôn Sứ khác đến, nhưng vẫn bị từ chối, sỉ nhục và giết đi. Tinh trạng càng ngày càng tệ hại hơn.
Việc nhà vua nổi cơn thịnh nộ sai quân đi "trù diệt bọn sát nhân ấy và hủy hoại thành phố của chúng" ( Mt 22, 7 ) đã xảy ra năm 70 sau Thiên Chúa Giáng Sinh, quân Roma do tướng Vespariano cầm đầu đã thiêu đốt và biến Giêrusalem thành một đống gạch vụn. Và từ đó quốc gia Israel thời đó được xem như không còn nữa: "Khi Chúa Giêsu từ trong Đền Thờ đi ra, các môn đệ Người lại gần chỉ cho Người xem công trình kiến trúc Đền Thờ. Nhưng Người nói: Anh em nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không ? Thầy bảo thật anh em: tại đây sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ" ( Mt 24, 1 – 2 ).
Công đồng Kitô giáo tiên khởi đọc những dòng vừa kể của lịch sử như là sự kết thúc vai trò lịch sử – tôn giáo ơn cứu rỗi của Israel. Giai đoạn lịch sử – tôn giáo của Israel đã kết thúc, nhưng lịch sử vẫn còn nối tiếp với các cộng đồng những người mới được mời. Tiệc Cưới được nhà vua chuẩn bị chu đáo sẽ không bị trì trệ, cũng như hủy bỏ, bởi thái độ đáng tiếc của những nhân vật được nhà vua quý trọng trong quá khứ. Từ dân này truyền sang dân khác, từ thời này đến thời khác và lan rộng ra khắp các miền đất thiên hạ, nhà vua vẫn tiếp tục mời gọi mọi dân nước đến tham dự.
Như vậy, chỉ có đọc bài dụ ngôn trong ý nghĩa Thần Học như vừa kể, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của dòng Lịch Sử Cứu Rỗi được và đang tiếp nối.
3. Những người mới được mời
Cách giải thích chúng ta vừa đề cập giúp chúng ta hiểu được phần thứ hai của dụ ngôn Tiệc Cưới hôm nay. Thiên Chúa không chùn bước trước thái độ chối từ của con người. Đàng khác, với nhãn quan Thần Học, không ai có thể hiểu được làm sao con người có thể chặn đứng được đồ án của Thiên Chúa. Dĩ nhiên là đồ án đó có thể bị thay đổi thời gian và hướng đi, khi con người khôg muốn cộng tác với Thiên Chúa.
Trở lại nội dung của dụ ngôn, chúng ta biết được lễ cưới của thái tử phải được cử hành và dĩ nhiên lễ cưới cần có khách tham dự. Những người được mời trước kia không còn nữa, nhưng những người mới phải được mời đến. Bởi đó chủ nhà lại gọi gia nhân một lần nữa đi mời các thực khách đến.
Vậy thì mời ai ? Và đó là chuyện bất ngờ ! Họ là những người ngoại cuộc, từ mọi thành phần dân chúng hay ngay cả mọi thành phần chủng tộc.
Họ không cần phải là hàng quý tộc, quân vương, chức tước, mà là bất cứ ai các đầy tớ của vua gặp được ở các nẻo đường, "kẻ tốt, người xấu" cũng vậy, để nói lên nhà vua không có một chỉ thị chọn lựa, dành ân huệ trước sau nào cả, đã được chỉ thị cho gia nhân: "Rồi vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưói đã sẵn rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các nẻo đường, gặp ai cũng mời hết vào Tiệc Cưới" ( Mt 22, 9 ).
Đó là một chỉ thị mời gọi tất cả, không dành ưu tiên cũng không loại trừ bất cứ ai, không có ý định thăng thưởng ai, cho thấy là một ân huệ hoàn toàn nhưng-không. Các gia nhân ra đi thực hiện đúng như ý muốn của nhà vua, mời tất cả đều đồng đẳng vào tham dự chung như nhau. Về phía các người được mời bất thần đó, Tiệc Cưới thật là một danh dự lớn lao, được vào hoàng cung cùng dự tiệc với vua, không do công trạng cũng không cần phải chuẩn bị quà cáp gì trước.
Cũng vậy, chúng ta cũng nên đọc phần hai của dụ ngôn Tiệc Cưới trong nhãn quan Lịch Sử Cứu Rỗi. Thái độ khước từ của Israel làm cho cả "thế giới ngoại giáo" đặc tâm lưu ý.
Thật vậy, chỉ sau một thời gian ngắn đưọc rao giảng ở Giêrusalem, Lời Chúa được Thánh Phêrô và các môn đệ khác rao giảng cho cả dân ngoại, khiến họ hứng khởi chấp nhận. Sách Tông Đồ Công Vụ là một minh chứng hùng hồn: viên bách đội trưởng ( centurion ) Cornelio, dân chúng ở Antiochia, ở Philippi, ở Thessalonica, ở Corinto, chỉ việc liệt kê sơ lược một vài nơi, và còn thêm bao nhiêu dân chúng ở các nơi khác nữa hân hoan đón nhận Tin Mừng Cứu Rỗi.
Cả họ cũng vậy, một khi nhận được Phép Rửa trong Thánh Thần và lửa ( Mt 3, 11 ), họ cũng được nhận vào Tiệc Cưới Lời Chúa và Thánh Thể. Và như vậy họ cũng trở nên thành phần Dân Chúa.
Như vậy, cộng đồng Kitô Giáo tiên khởi bắt đầu nhịp thở của mình trong bầu không khí mới, mở rộng kho tàng sứ điệp cứu rỗi của mình cho tất cả mọi người, tiếp tục công việc và cách thức rao giảng Nước Trời của Chúa Giêsu. Cộng đồng Giáo Hội tiên khởi bắt đầu rao giảng ơn Nước Trời cho cả "bọn thu thế và quân tội lỗi” ( Mt 9, 11 ) hay cho "người thu thuế và các cô gái điếm" ( Mt 21, 31 ) và còn nói thẳng "người thu thuế và các cô gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông" là những kẻ không biết hối hận.
Hạt giống phổ quát đó của Ơn Cứu Rỗi được Chúa Giêsu gieo vãi, bắt đầu được mọc lên và lan rộng khắp nơi, không còn chỗ cho các mối kỳ thị phân chia giai cấp trong cộng đồng quốc gia Do Thái, cũng như giữa các dân tộc với nhau, bởi lẽ mọi người đều là con người, được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa ( St 1, 27 ) và có quyền gọi Thiên Chúa bằng Cha ( Mt 6, 9 ).
4. Không có y phục lễ cưới
Một lần nữa, chúng ta phải dựa vào hoàn cảnh lịch sử, Thần Học - Giáo Hội Học để hiểu được đoạn kết của dụ ngôn hôm nay: "Bấy giờ nhà vua tiến vào quan khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ? Người ấy câm miệng , không nói được gì. Nhà vua liền bảo nhưng người phục dịch: "Trói tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiếng răng !" ( Mt 22, 11 – 13 ).
Dĩ nhiên một người đọc đoạn Tin Mừng vừa kể như chúng ta sẽ phải đặt câu hỏi: Làm sao mà một người được mời bất thình lình, đang ở đầu đường xó chợ, ở khắp các nẻo đường lại có thể có sẵn "y phục lễ cưới", như nhà vua muốn đòi hỏi được như những gì đã được tường thuật lại ở đoạn trên ? ( x. Mt 22, 9 ).
a. Giả thuyết để tìm cách giải thích thứ nhứt, dựa vào các khám phá khảo cổ được khai quật không lâu mới đây cho biết trong thời cổ ở thị xã Mari, vùng sông Euphrate, theo đó thì trong dinh thự vua, có phòng dành cho y phục lễ lạc, người tham dự phải đi ngang qua đó, được trao cho y phục lễ thích ứng, mặc vào trước khi bước vào cung điện chính thức để dự lễ. Như vậy, người bị phát giác không mặc lễ phục Tiệc Cưới hôm nay cho thấy thái độ ương ngạnh, bất cần, không muốn tuân giữ nghi thức lễ lạc, coi thường luật lệ hoàng tộc, trở thành phạm pháp và có thể bị kết tội.
Nhưng chúng ta cũng có thể nghi ngờ rằng Thánh Mátthêu biết được nghi thức bắt buộc đó ở Palestina. Bởi đó giả thuyết vừa kể không có gì là lý chứng xác thực có tính cách thuyết phục. Chúng ta hãy để cho những nhà khảo cổ làm việc và tìm ra những chứng cứ mới có tính cách thuyết phục hơn.
b. Hiểu như vậy, chúng ta nên tìm hiểu đoạn dụ ngôn vừa kể theo lãnh vực Giáo Hội Học và Thần Học hơn. Mặc y phục lễ cưới, được nêu ra trong Giáo Hội có thể là để cảnh giác và ngăn chận cách ăn ở nhẹ tính, nhẹ dạ của một vài tín hữu tiên khởi, làm xáo trộn cuộc sống trong Cộng Đồng Giáo Hội tiên khởi.
Ơn Chúa gọi chắc chắn là quà tặng nhưng-không, không có ranh giới giai cấp hay biên giới quốc gia, dân tộc, là ơn gọi ban nhưng-không cho mọi người. Nhưng ơn gọi Chúa ban nhưng không như là quà tặng, không có nghĩa là không cần đáp ứng lại bằng có cách sống xứng đáng.
Ơn Chúa ban cho có tính cách phổ quát, không phân biệt lằn ranh cấp bực hay ranh giới quốc gia dân tộc. Đúng ! Nhưng dù sao cũng có những lề luật nền tảng cần phải vâng giữ. Trong Cộng Đồng Giáo Hội, lúc đó cũng như hiện nay, một vài người có cách ăn thói ở nhẹ dạ đối với đời sống chuyên cần mà Phép Rửa đòi buộc người tín hữu phải có.
Qua Phép Rửa, mọi người trở thành kẻ "dự Tiệc Cưới", được dự phần vào Nước Trời, nhưng một vài người đã không hành xử, không dấn thân với lòng hăng say vào sứ mạng của Giáo Hội, không tham dự vào cộng đồng Dân Chúa, vào việc thục hiện sứ mạng được Chúa giao cho Giáo Hội, như là thành phần đáng lý phải có.
Đọc lại các Thư của Thánh Phaolô cũng như Thư của Thánh Gioan, chúng ta không khó khăn gì thấy được những thiếu sót, thờ ơ, chểnh mảng bổn phận đó, "không y phục lễ cưới" trong Cộng Đồng Tiệc Cưới của Giáo Hội: "Chúng ta đừng bỏ các buổi họp như vài người đang làm; trái lại, phải khuyến khích nhau, nhứt là khi anh em thấy ngày Chúa đến đã gần" ( Dt 10, 25 ).
Thái độ của một vài người khác đang làm cho mối tương giao trong Cộng Đồng Côrintô bị rạn nứt, rách nát, cũng như nhiều vấn đề khó khăn cho những mối liên hệ với Thánh Phaolô là đề tài bức xúc thường được đem ra bàn cãi: "Thưa anh em, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi xin tất cả anh em hãy đồng lòng với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng, một ý với nhau" ( 1Cr 1, 10 ). "Vậy tôi đã quyết định không trở lại với anh em trong lúc ưu phiền. Thật vậy, nếu chính tôi gây ưu phiền cho anh em, thì ai là người làm cho tôi vui được, nếu không phải là kẻ ưu phiền vì tôi" ( 2Cr 2, 1 – 2 ).
Cả trong sách Khải Huyền, chúng ta cũng gặp được những vấn đề tương tợ: "Ngươi có lòng kiên nhẫn và chịu khỗ vì danh Ta mà không mệt mỏi. Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu" ( Kh 2, 3 – 4 ). "Nhưng Ta có điều trách ngươi: ở đó ngươi có những kẻ nắm giữ đạo lý của Balaam. Ông này đã dạy Balak gây cớ vấp ngã cho con cái Israel, khiến chúng ăn đồ cúng và làm chuyện gian dâm" ( Kh 2, 14 ). "Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi dung túng Jezabele, người đàn bà xưng mình là nữ ngôn sứ; nó mê hoặc các tôi tớ của Ta, dạy chúng làm chuyện gian dâm và ăn đồ cúng" ( Kh 2, 20 ).
Còn nữa, thư thứ nhất của Thánh Gioan đã phát hiện được ngay cả cộng đồng Kitô Giáo tiên khởi là nguồn gốc của những gì chống lại Chúa Kitô: “Chúng xuất thân từ hàng ngũ chúng ta, nhưng không phải là người của chúng ta; vì nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta. Nhưng như thế mới rõ: không phải ai ai cũng là người của chúng ta" ( 1Ga 2, 19 ).
Qua những gì vừa đề cập, chúng ta hiểu được y phục là dấu tỏ ra và nói lên địa vị của người mặc, nói lên giá trị thể lý và luân lý của con người đó. Ngôn Sứ Isaia đã đề cập đến y phục giải thoát: "Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao ! Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang" ( Is 61, 10 ). Rõ ràng hơn cả, Thánh Phaolô nói rằng người nhận Phép Rửa là kẻ "mặc lấy Chúa Kitô": "Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Chúa Kitô, đều mặc lấy Chúa Kitô" ( Gl 3, 27 ).
Qua những điều vừa trích dẫn, không mặc y phục tương xứng có nghĩa là không có điều kiện thiêng liêng tương xứng cần thiết để tham dự vào Tiệc Cưới, để thông hiệp với Thiên Chúa. Và như vậy, bối cảnh buổi Tiệc Cưới được diễn tả lúc đầu bỗng nhiên trở thành buổi phán xét mà mỗi người chúng ta phải ra trình diện trước mặt Chúa. Ý nghĩa vừa kể được diễn tả qua cách hành xử của nhà vua: "Bấy giờ vua tiến vào quan sát quan khách dự tiệc..." ( Mt 22, 11 ).
Và rồi qua câu hỏi được vua nêu lên, một người dự tiệc không thốt lên được câu trả lời, có nghĩa là mặc nhiên anh ta nhận tội lỗi, sai quấy của mình: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới ?" Người ấy câm miệng không nói được gì" ( Mt 22, 12 ).
Và sau đó là bản án được vua sai thi hành đối với người bất xứng: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiếng răng" ( Mt 22, 3 ).
5. Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được gọi thì ít ?
Câu 14 của Phúc Âm Thánh Mátthêu trong đoạn Tin Mừng hôm nay được bản Việt Ngữ dịch ra trong ý nghĩa làm cho mọi người nãn chí: "Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được gọi thí ít" ( Mt 22, 14 ). Hiểu theo văn mạch từ ngữ của bản dịch Việt Ngữ ( Thánh Kinh Trọn Bộ, Nxb.TPHCM 1998, trg. 1885 ), chắc chắn không ai còn muốn giữ đạo. Bởi lẽ cả đoàn lũ được gọi, "...phòng Tiệc Cưới đã chật đầy khách" ( Mt 22, 10 ), vậy mà người "người đã được chọn thì ít", vậy thì ai sẽ được may mắn đuợc vào số phận "kẻ được chọn thì ít” đó ?
Trước hết câu nói được dùng ở câu 14 vừa đề cập, là câu được lấy lại từ tục ngữ Aramaico – Do Thái. Lời trích dẫn được tiền giới từ aramaico "gar, bởi vì", với ý nghĩa được hiểu theo câu tục ngữ thường nói trước đó.
Bản dịch Việt Ngữ như vừa thấy làm cho người đọc không thể hiểu được bởi lẽ trước đó ở câu 10, cho thấy "phòng đã chật đầy khách", và chỉ có một người không có y phục lễ cưới nên bị đuổi ra, do đó theo lý luận phải hiểu là nghĩa: “số người được kêu gọi thì nhiều và số người được chọn thì cũng nhiều không kém" ( bởi lẽ chỉ có một người bị loại mà thôi ).
Vấn đề càng không giải quyết được bằng cách liên kết câu kết luận với trường hợp những kẻ được gọi đầu tiên, vì không ai trong nhóm đó được tham dự vào buổi Tiệc Cưới, chính họ đã từ chối đến dự tiệc ( Mt 22, 3 ). Bởi đó, muốn hiểu được ý nghĩa thực sự của câu 14, kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải hiểu theo tinh thần lối hành văn Aramaico – Do Thái, đó là cách diễn tả số đông bằng cách nói đối ngược lại với số ít: thay vì nói Ta thương Giacob, nhiều hơn thương Esau, Thư Thánh Phaolô gời các tin hữu Roma viết "Như đã có lời chép: Ta thương Giacob, mà ghét Esau" ( Rm 9, 13 ).
Như vậy để so sánh số người được vào Nước Trời và số người không được vào, theo ý nghĩa của văn mạch chúng ta phải hiểu "số người được gọi thì nhiều vô số kể, số người được chọn thì ít hơn" ( so sánh giữa "phòng Tiệc Cưới đã đầy thực khách" và việc chỉ có một người bị "trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài" ).
Hiều được như vậy chúng ta thấy rằng đây là lời cảnh cáo mà Thánh Mátthêu muốn được ghi lại để nhắc nhở người tín hữu Chúa Kitô, nhằc nhớ rằng người tín hữu Chúa Kitô phải đáp ứng thực sự bằng một tâm tình sám hối ( một y phục mới, hay ý phục lể cưới tương xứng với địa vị hiện trạng của mình ), đáp ứng lại ơn Chúa ban nhưng-không cho mình được trở thành Kitô hữu, được tham dự vào Tiệc Cưới, được vào Nước của Chúa.
Hiểu như vậy, không phải ai là người được kêu gọi trở thành thành phần của Giáo Hội, được mời gọi tham dự vào Nước Trời là đương nhiên sẽ được tham dự vào bàn tiệc Thiên Chúa, mà còn phải mặc lấy chiếc áo lễ cưới của mình, phải mặc lấy chính Chúa Kitô mà mình nhận trong Phép Rửa, bằng cuộc sống xứng đáng của mình mỗi ngày. để gìn giữ nguyên vẹn ơn Chúa ban cho mình, bằng cách sống Tin Mừng đối với Chúa và đối với anh em.
NGUYỄN HỌC TẬP
----------------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của : TN 28-A77
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Đại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định cưới một người Á Châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Đông sang Tây. Ông cũng hy vọng có được một người con nối dõi với hai dòng máu Đông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Đám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Đại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường Hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng người được coi là đoạt nhiều giải nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được một cành lá chiến thắng. Alexandre Đại đế giải thích như sau: Chỉ có vinh quang mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.
Thưa anh chị em,
Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Đại đế với Công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời và Đất, của Thiên Chúa với nhân loại. Đây là hôn nhân mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy đã diễn ra qua biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Tất cả nhân loại đều được mời đến dự tiệc cưới vĩ đại này. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã sánh ví tiệc cưới nầy với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng Tử. Chỉ có một điều khác biệt là những khách được mời -những khách quý đầu tiên- đã tỏ ra hết sức khinh thường và hung dữ đối với các sứ giả của Nhà Vua. Họ không những đã chối lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà Vua phái tới.
Bài học mà Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho thính giả thời của Ngài, tức là Dân Israel, một dân tộc ngay từ đầu đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài- làm những người khách mời đặc biệt vào dự Tiệc Nước Chúa- Nhưng đến khi Chúa Giêsu đến loan báo ngày mở tiệc và mời gọi họ thì họ lại từ chối. Vì thế, các khách được mời đầu tiên này sẽ được thay thế bằng bất cứ ai- người tốt cũng như kẻ xấu- gặp được ở các ngã đường. Dân Israel đã từ chối lời mời gọi gia nhập Nước Chúa sẽ được thay thế bằng lời các dân tộc khác, cả những người ngoại giáo và tội lỗi, những người thu thuế và các cô gái điếm.
Anh chị em thân mến,
Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia mà Chúa Giêsu đã kể lại luôn có giá trị đối với thính giả ngày xưa cũng như ngày nay. Là Kitô hữu, chúng ta là những khách được mời dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi chúng ta “do lòng từ bi của Ngài, chứ không do công trạng nào của chúng ta”. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta một điều kiện- cũng là vinh dự của chúng ta là con người có lý trí và tự do- đó là đáp trả lời mời gọi yêu thương quảng đại của Ngài.
Trong các khách được mời dự tiệc cưới, chúng ta là những khách được mời cuối cùng để thay thế vào chỗ những khách đặc biệt được mời từ đầu mà đã chối lời mời của Chúa. Qua các thời đại, Thiên Chúa vẫn sai các sứ giả của Ngài đi qua mọi nẻo đường thế giới, mời gọi mọi người vào phòng tiệc, bất cứ họ là ai, tốt hay xấu. Thiên Chúa không loại bỏ ai, chính chúng ta tự loại mình. Nhưng không phải cứ vào phòng tiệc là được dự tiệc đâu, còn cần phải có áo cưới nữa, nếu không sẽ bị tống cổ ra ngoài. Nói cách khác, không phải cứ ghi tên vào sổ Rửa Tội, là người Công Giáo, là người có đạo, là được vào Nước Trời đâu. Cần phải sống đời sống kitô hữu, phải tin, yêu và theo Chúa Kitô nữa.
Dụ ngôn cho thấy, cuối cùng phòng tiệc đầy khách, gồm đủ hạng người. Cũng thế, Giáo Hội ngày càng đông, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới. Nhưng Giáo Hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương người có tội và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh. Nhưng dù sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi có một ước muốn trở lại chân thật, “một chiếc áo trắng Rửa Tội”, “mặc lấy con người mới, được Thiên Chúa tạo dựng và tái sinh trong công chính và thánh thiện”.
Phải, thưa anh chị em, Giáo Hội là một “Bữa Tiệc của người tội lỗi”, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến. Tình thương đòi hỏi tình thương đáp đền, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.
Anh chị em thân mến,
Thánh lễ là một bữa tiệc của Chúa. Giáo Hội là tập thể những người được mời dự tiệc, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, màu da, ngôn ngữ. Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là những món ăn “có chất lượng”. Áo cưới trong trắng Chúa đã ban cho chúng ta trong bí tích Rửa Tội và Giải Tội là điều kiện xứng đáng dự Tiệc Thánh này. Và Tiệc Thánh hôm nay bảo đảm cho việc dự tiệc cưới trong Nước Trời mai sau.
----------------------------------
Đọc dụ ngôn “Tiệc Cưới” trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta không khỏi ngỡ ngàng trước: TN 28-A78
Đọc dụ ngôn “Tiệc Cưới” trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, ta không khỏi ngỡ ngàng trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời con người đến dự tiệc cưới Con của Ngài. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương con người.
Đó là một tình yêu nhưng không. Thiên Chúa là vị vua cao sang. Ta chỉ là đám tiện dân hèn hạ. Sao Chúa lại mời ta. Theo lẽ thường ở đời người ta chỉ mời những người ngang vai bằng vế. Một bữa tiệc thường có mục đích củng cố uy tín của chủ nhân và ràng buộc khách mời vị vọng để khi hữu sự cần nhờ. Vua Trời mời tiện dân hèn hạ thì có lợi gì. Không những hèn hạ mà còn đui, què, mẻ, sứt nữa. Ta là những hạng rác rưởi của xã hội, chẳng có gì đền đáp cho chủ nhân. Chẳng đem lại một chút vinh dự nào cho chủ nhân. Thế mà Người vẫn mời ta. Rõ ràng là do tình thương của Người. Đó là tình yêu nhưng không. Người không mong ta có gì đền đáp. Người mời ta chỉ vì yêu thương ta mà thôi.
Đó là tình yêu chia sẻ. Thiên Chúa tràn đầy vinh quang không còn thiếu thốn gì. Tại sao Người còn mời những con người hèn hạ vào Nước Trời làm gì cho thêm bận. Thưa vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Người vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Người vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu mãnh liệt khiến người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một mặc lấy bản tình loài người để nâng loài người lên. Mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với hàng thần thánh trên trời.
Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.
Tôi phải mặc áo cưới tới dự. Tình yêu Thiên Chúa tha thiết nhưng vẫn tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Chúa mong tôi tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Chúa mong tôi bước vào. Khi mời gọi, Chúa mong tôi trả lời. Khi bày tỏ tình yêu, Chúa mong tôi đền đáp. Tuy nhiên, nhận lời đền đáp đòi phải có điều kiện. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.
Mặc áo cưới là mặc lấy nhân phẩm. Được mời vào dự tiệc cưới Con Vua, tôi không còn là phường rác rưởi của xã hội nữa. Tôi đã được Chúa trân trọng. Nâng lên hàng thượng khách, là khách mời của Vua. Mặc áo cưới ở đây là tự trọng, cư xử như người tự do. Chúa đã phục hồi nhân phẩm cho tôi, tôi phải trân trọng giữ gìn.
Mặc áo cưới là mặc lấy tình yêu. Vì yêu thương, Chúa đã mời tôi vào chung hưởng hạnh phúc với Người trong tiệc cưới. Đáp lại, tôi phải có tình yêu mến đối với Người. Tình yêu đáp đền tình yêu. Mặc áo cưới là trân trọng tình yêu của Chúa, là muốn đáp lại tình yêu của Chúa.
Mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27). Được ơn cứu độ, ta trở thành em Chúa Kitô, vì thế ta phải noi gương Người mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha. Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24).
Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đáp lại, ta phải đổi mới đời sống cho phù hợp với Nước Chúa, với tình yêu của Chúa và với địa vị mới của ta.
Lạy Chúa, xin cho con biết mạnh dạn đáp lại lời Chúa mời gọi. Amen
TGM. Ngô Quang Kiệt
(BĐ1: Is.25, 6-10a * BĐ2: Pl.4:12-14. 19-20 * PÂ: Mt.22:1-10 )
----------------------------------
Thưở Cựu Ước, Vườn Nho của Chúa là Nhà Israel ( Is 5, 7a ).
Thiên Chúa đã yêu thương xây dựng Vườn Nho này xinh đẹp và đã đầu tư tối đa cho Vườn: TN 28-A79
Thiên Chúa đã yêu thương xây dựng Vườn Nho này xinh đẹp và đã đầu tư tối đa cho Vườn Nho với ước mong Vườn Nho sinh hoa, kết trái, như bài ca trong sách Isaia đã nhắc đến Vườn Nho tuyệt vời này: “Người tôi yêu có một Vườn Nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, cuốc đất, nhặt đá, chọn giống nho quý đem trồng, xây vọng gác giữa vườn, khoét bồn ép nho trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho tươi tốt ”, nhưng đáng tiếc thay, Vườn Nho “sinh toàn nho dại” ( Is 5, 1 – 2 ).
Bài ca ấy nói về con cái Israel bị nô lệ tội lỗi, không sống xứng đáng là Con cái Thiên Chúa “Ta trông mong nó thực hành điều chính trực, nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” ( Is 5, 7b ).
Các ngôn sứ được Thiên Chúa gửi đến, nhưng bị Dân Chúa chối từ như trong dụ ngôn “tá điền sát nhân”: “Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm Vườn Nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy ( Mt 21, 34 – 36 ).
Và chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa được sai đến, cũng bị các tá điền đối xử tệ đến mức phải mất mạng: “Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: "Chúng sẽ nể con ta." Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi ! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó ! " Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài Vườn Nho, và giết đi” ( Mt 21, 37 – 39 )
Thời Tân Ước, và hôm nay, Giáo Hội, Giáo Phận, Giáo Xứ, gia đình, và chính mỗi chúng ta là một Vườn Nho của Chúa – Vườn Nho chính Chúa Giêsu đã thiết lập và giao lại cho chúng ta trông coi để Vườn Nho tươi tốt và trổ sinh hoa trái ngon ngọt cho đến vụ mùa Ông Chủ đến thu phần hoa lợi.
Cùng làm Vườn Nho Chúa với danh nghĩa “tá điền”, dù cho là người tá điền của Vườn Nho lớn như Giáo Hội, Giáo Phận, hay nhỏ hơn như Giáo xứ, như gia đình, tất thảy đều có chung nhiệm vụ là không chỉ duy trì sự hiện diện của “ông chủ vườn” đầy yêu thương, đáng kính trọng nơi Vườn Nho mình mà còn phải trung thành với Chủ và sinh lợi cho Chủ bằng những vụ nho ngon ngọt sai trái, trúng mùa.
Người tá điền với vai trò vừa canh tác vừa quản lý. Canh tác, chăm bón, vun tưới cho từng cây nho được khỏe mạnh, tươi tốt, lại còn phải canh phòng những thứ dịch bệnh, vi khuẩn có thể làm tổn hại đến sức sống của cây nho. Quản lý Vườn Nho là quản lý tài sản của Ông Chủ, không để thất thoát vì bất cứ lý do gì, không để cho kẻ trộm cắp, kẻ phá hoại cướp đi tài sản mà chính ông chủ đã lập nên bằng chính cốt nhục của Ông, bằng bửu huyết của Con Ông.
Nghe dụ ngôn ‘tá điền sát nhân”, chắc hẳn mỗi “tá điền” hôm nay đều phải trả lời cho câu hỏi của Ông Chủ: “Vụ mùa của Ta đâu ?” hay “Phần hoa lợi của Ta đâu ?” Và chắc chắn câu trả lời không thể là: “Thưa Ông, Vườn Nho sinh toàn trái tật nguyền” hoặc “Thưa Ông, tôi đã giao nó cho… Nhà Nước !” Bởi, như vậy là đồng nghĩa với việc “Tôi đã không dại gì mà làm lợi cho ông !” hoặc “Tôi đã chiếm hữu cả tài sản của ông, tôi đã chiếm hữu quyền làm chủ của Ông !”
Mỗi tín hữu, chắc chắn cũng được Chúa hỏi: “phần hoa lợi của Ta đâu ?” Chúng ta sẽ trả lời sao ? Ít là một gia trưởng hay hiền mẫu, cũng được Chúa ban cho một Vườn Nho xinh đẹp. Việc cưu mang sinh dưỡng và giáo dục con cái nên những con người tốt cho Nước Thiên Chúa vừa là một thiên chức vừa là một trách nhiệm của người tá điền trong Vườn Nho gia đình.
Ông Bà X. năm nay mới có 65 tuổi, mà trông như đôi cụ già 80. “Trời ơi ! Sao xuống sắc nhanh thế ?”… “Tụi tui rầu cho mấy đứa con quá lẽ. Sinh con ra, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, xinh đẹp như thiên thần, có để đứa nào bịnh hoạn gì đâu. Ra đời, chúng nó rước vào thân bao thứ bệnh, do rượu chè, trai gái, do bỏ Chúa mà đi. Nói gì cũng không nghe. Bây giờ thì nằm đó mà nghe “thằng sơ gan cổ trướng bạn với thằng diêm vương” đang nói to nói nhỏ gì với nó”…. “Tui nói, con xét mình đi, ăn năn tội đi, để ba mời cha đến giải tội cho con, mà nó chưa chịu”.
Bạn và tôi có thể nhập vai ông X. để hiểu và thương ông, một ‘tá điền” buồn đúng việc, lo đúng việc. Và từ vai người cha trong gia đình ấy mà hiểu ra được nỗi lòng của Ông Chủ Vườn Nho, của Người Cha trên Trời là Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng đau khổ biết chừng nào khi nhìn thấy Vườn Nho của Ngài đang sinh trái tật nguyền, tật nguyền bẩm sinh bởi những cây nho bệnh hoạn. Tôi bỗng nhớ câu chuyện:
“Thưa ông, xin ông mua ít sản phẩm để ủng hộ cho quỹ chất độc màu da cam”.
“Là thế nào ?”
“Là có một số cha mẹ nhiễm chất độc màu da cam trong chiến tranh, nay sinh con ra bệnh hoạn, xã hội phải có trách nhiệm sẻ chia, giúp đỡ…”
“Thế hả, ở chỗ tôi toàn người dân tộc, năm đó, máy bay C 130 sáng nào cũng rải mù như sương… mà từ đó đến nay, nhà người dân tộc nào cũng đẻ năm bảy đứa, có nhà trên chục, mà chẳng có đứa nào quẹo đầu, quẹo cổ, quẹo tay chân, dị hình, dị tướng gì cả. Tôi chưa tin là do chất độc màu da cam ông à”.
“Thế ông không biết….?”
“Không, tôi nghĩ là do mấy ông bắt chị em ta dùng thuốc ngừa thai quá nhiều và liên tục, hủy hoại sức khỏe của bạn mình, hủy hoại luôn khả năng sinh con xinh đẹp, hủy hoại luôn hạnh phúc gia đình của họ mà thôi”.
…….
Chuyện “chất độc màu da cam” mà người ta hay “đổ thừa” để vừa chạy tội vừa kiếm chác là chuyện nhỏ, chuyện chẳng đâu ra đâu. Thiết nghĩ, chuyện lớn hơn là chuyện con người ta đã loại trừ Thiên Chúa với quyền Ông Chủ Vườn Nho ra khỏi đời mình. Uống thuốc ngừa thai, uống độc dược giết người vào mình, người phụ nữ tưởng như thế là sự giải phóng. Họ có ngờ đâu, đó chính là sự nô lệ những dục vọng ngắn hạn, từ chối sứ mệnh thiêng liêng cao cả và duy nhất của Thiên Chúa ban cho, và hơn hết, họ tước luôn quyền sáng tạo của Thiên Chúa.
Hơn nữa, nếu những người làm cha mẹ đang u buồn vì có những đứa con sa đàng tội lỗi gian ác, mất nhân tính, rượu chè, trai gái, thuốc lắc, hút chích, đàng điếm, cuộc sống vô độ dẫn đến bao hậu quả ê chề… thì Thiên Chúa hãy còn đau đớn biết bao, khi thấy “Đứa Con Thừa Tự” của mình cho đến nay vẫn còn bị đánh đập, đóng đinh cho đến chết từ lâu rồi mà Vườn Nho vẫn cứ còn sinh trái tật nguyền…
Vườn Nho vẫn sinh trái tật nguyền. Có vẻ như bài ca buồn của Isaia thuở ngàn ngàn năm xa trước vẫn còn vẳng bên tai: “Ta trông mong nó thực hành điều chính trực, nhưng đây toàn sự gian ác. Ta trông mong nó thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan”.
Lời Chúa hôm nay đang mời gọi mọi người đón nhận Ngôi Lời của Thiên Chúa, là chính Đức Giêsu, đứa Con Thừa Tự của Ngài, để nhờ Ngài mà sinh hoa kết trái trong Vườn Nho tâm hồn mình, gia đình mình, trong Giáo Xứ và trong Giáo Hội. Hãy xác tín “nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài” – “viên đá bọn thợ loại ra, nhưng Thiên Chúa đã làm cho trở nên viên đá góc” chúng ta mới có đủ sức xây dựng Vườn Nho Thiên Chúa, xây dựng Giáo Hội vững bền.
Cụ thể hơn, Thánh Phaolô hướng dẫn thêm: “Thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy tưởng nghĩ những sự ấy” ( Pl 4, 8 ).
Lạy Chúa, con phải chịu trách nhiệm về Vườn Nho của con: thân xác con, linh hồn con, gia đình con… Xin cho con biết kết hiệp với Chúa Giêsu Đá Tảng vững bền, để làm người tá điền nhiệt tình và trung thành, đem lại phần hoa lợi liêng liêng cho Ông Chủ của con là chính Thiên Chúa đầy lòng thương xót. Amen.
PM. CAO HUY HOÀNG, 28.9.2011
--------------------------------
ĐỌC LỜI CHÚA
• Is 25, 6-10a: (6) Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.
• Pl 4, 12-14. 19-20: (13) Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi làm được hết. (19) Thiên Chúa sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người.
• TIN MỪNG: Mt 22, 1-14
Dụ ngôn tiệc cưới
(1) Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: (2) «Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. (3) Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. (4) Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: «Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!» (5) Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, (6) còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. (7) Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. (8) Rồi nhà vua bảo đầy tớ: «Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. (9) Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới». (10) Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
(11) «Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, (12) mới hỏi người ấy: «Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?» Người ấy câm miệng không nói được gì. (13) Nhà vua liền bảo những người phục dịch: «Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! (14) Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Ý nghĩa này đúng trong quá khứ, nhưng liệu có: TN 28-A80
1. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Ý nghĩa này đúng trong quá khứ, nhưng liệu có đúng trong hiện tại và tương lai không? Nếu đúng trong hiện tại, thì bạn có cảm nghiệm nó đúng thế nào không? Nó diễn tiến trong hiện tại ra sao?
2. Nếu dụ ngôn này cũng đang diễn tả tình trạng hiện tại của thế giới, của Giáo Hội, thì chính bạn đang đóng vai trò gì trong đó?
3. «Y phục lễ cưới» trong dụ ngôn này ám chỉ điều gì? Ý nghĩa của nó có quan trọng trong đời sống đạo của chúng ta không?
4. Các ngôn sứ chỉ có vào thời xưa trong đạo Do Thái, hay cũng có trong mọi thời đại, mọi tôn giáo, mọi xã hội? Nếu có trong mọi thời đại, thì ta có thể nhận ra ngôn sứ của thời đại mình không? Họ là người của Thiên Chúa, nhưng tại sao họ lại cứ bị dân Chúa bách hại, tẩy chay vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa dụ ngôn tiệc cưới
Dụ ngôn tiệc cưới có ý nghĩa phần nào giống như dụ ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21,33-46). Nhưng dụ ngôn này nói đến toàn dân Israel nhiều hơn giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái.
a) Ông Vua ám chỉ Thiên Chúa Cha: Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người bằng cách mời họ gia nhập vào Nước Trời.
b) Tiệc cưới ám chỉ Nước Trời: Nước Trời trước hết là tình trạng an bình, hạnh phúc ở trong những tâm hồn biết yêu thương, kế đến là một xã hội lý tưởng – vừa tại thế vừa tại thiên – trong đó mọi người đều được an vui hạnh phúc vì biết yêu thương nhau.
c) Con Vua ám chỉ Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, đến trần gian để thành lập Nước Trời.
d) Các quan khách được mời ám chỉ dân Do Thái: Nước Trời được dành ưu tiên cho dân Do Thái, là dân đặc biệt của Thiên Chúa.
đ) Đầy tớ Vua ám chỉ các ngôn sứ: Các ngôn sứ đã đến trong lịch sử để mời gọi người Do Thái gia nhập Nước Trời. Nhưng người Do Thái đa số không màng tới lời mời ấy, vì họ mải mê tìm những lợi lộc trần gian hơn là tìm sự công chính, lối sống yêu thương.
e) Người ở các ngả đường được mời vào dự tiệc ám chỉ dân ngoại được mời vào Nước Thiên Chúa. Người Do Thái không chịu gia nhập Nước Trời, nên Thiên Chúa đã mời dân ngoại vào thay thế họ.
g) Y phục lễ cưới: Theo phong tục văn hóa Do Thái thời ấy, trong đám cưới của nhà vua (hay của những nhà quý tộc), mỗi người vào dự tiệc đều được phát cho một chiếc áo cưới. Từ chối không mặc áo cưới này là tỏ ra khinh thường nhà Vua, nên mắc tội khi quân. Y phục lễ cưới này ám chỉ tình yêu thương chân thực, là điều kiện tất yếu phải có để được vào Nước Trời. Không có tình yêu thương chân thực, không thể vào được nước Trời. Vì Nước Trời là thế giới của tình yêu, nên chỉ những ai có tình yêu đích thực mới có thể ở đây. Những ai không có tình yêu đích thực thì bản thân họ không phù hợp với chốn này.
2. Dụ ngôn này đã ứng nghiệm trong quá khứ
Dân Do Thái là đối tượng ưu tiên được Thiên Chúa mời gọi vào Nước Trời. Ngài đã sai các ngôn sứ đến để mời gọi họ, yêu cầu họ sống tốt đẹp để gia nhập Nước Trời của Ngài. Nhưng hầu hết các ngôn sứ đến với dân Do Thái đều bị bách hại, ném đá hoặc giết chết, vì những lời cảnh cáo của các ngôn sứ không lọt tai họ. Họ chỉ thích nghe những ai nịnh nọt, ca tụng họ, phù hợp với quan niệm cố hữu của họ, chứ họ không thích những lời «thẳng mực tàu đau lòng gỗ» của các vị, hoặc những quan niệm mới mẻ, đúng đắn và phù hợp với thời đại hơn. Ngay cả Đức Giêsu cũng bị họ giết chết. Vì thế, bài Tin Mừng nói: «Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng» (Mt 22,7). Câu này đã được ứng nghiệm vào năm 70, sau khi Đức Giêsu bị dân Do Thái giết khoảng 40 năm sau. Năm đó, đế quốc Rôma đã tiêu diệt và phá bình địa đất nước Do Thái. Dân Do Thái bị mất nước và phải lưu lạc mãi đến năm 1947 mới lập quốc trở lại.
Người Do Thái từ chối lời mời gọi vào Nước Trời của Thiên Chúa, nên Ngài đã mời những người ngoài Do Thái vào. Và dân ngoại được Ngài mời gọi vào Nước của Ngài đã trở thành một tôn giáo là Kitô giáo ngày nay. Nhưng để vào được Nước của Ngài, những kẻ được mời phải có một trang phục thích hợp đó là tình yêu thương. Vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8.16). Nước của Ngài cũng là nước của tình yêu, nên dân trong nước ấy cũng phải là những người có tình yêu đích thực, biết yêu thương và biết sống vì tha nhân. Do đó, những người ích kỷ, chỉ biết sống cho mình, không biết nghĩ đến người khác, cho dù có được người đời tưởng là đạo đức tới đâu, hay có chức vụ cao trong tôn giáo tới đâu, đều không thể là đối tượng của Nước Trời. Hiểu được điều này, ta sẽ không lạ gì khi nghe Đức Giêsu nói với «các thượng tế và kỳ mục trong dân»: «Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông» (Mt 21,31). Hoặc nghe Ngài nói với những người có khả năng nói tiên tri, trừ quỷ, làm nhiều phép lạ trong ngày phán xét cuối cùng: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,23).
Nghe bài Tin Mừng này, chúng ta cần nhận thức: khi gia nhập Kitô giáo, là ta đã chấp nhận lời mời của Thiên Chúa để vào Nước Trời. Nhưng ta có vào được Nước Trời hay không, điều này còn tùy thuộc vào việc chúng ta có chịu mặc vào mình chiếc «áo cưới», đồng phục của Nước Trời hay không. «Áo cưới» ấy chính là tình yêu chân thực, tương tự như tình yêu của Thiên Chúa. Hay ta lại cứ nhất định mặc chiếc «áo cưới» theo ý của ta, là sống đạo kiểu hương nguyện, chủ hình thức, chủ lễ nghi, chủ lề luật giống như những người Pharisêu xưa, mà thiếu hẳn chất «yêu thương», «vị tha», «quên mình» trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội. Nếu thế, dù ta có mang danh đạo đức cỡ nào trong cách sống đạo ấy, ta vẫn chẳng vào được Nước Trời đâu!
3. Tiếng nói của các ngôn sứ trong đời sống
Ngày xưa, có dân Do Thái và dân ngoại. Dân Do Thái là những người ưu tiên được mời vào Nước Trời, nhưng họ không thèm vào, nên Thiên Chúa đã phải mời dân ngoại vào. Và dân ngoại thời ấy, những người nhận lời mời của Thiên Chúa đã trở thành dân Kitô giáo thời nay. Tuy nhiên hiện nay, ngoài Kitô giáo vẫn còn có dân ngoại mới, là những người ngoài Kitô giáo. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa đã mời gọi người Kitô hữu sống yêu thương như giới răn chính yếu nhất của Ngài. Nhưng đã đến lúc ta thử xét xem: với tư cách từng cá nhân Kitô hữu cũng như với tư cách tập thể Kitô giáo (chẳng hạn cộng đoàn giáo xứ, hội đoàn, giáo phận, giáo hội địa phương, Giáo Hội hoàn vũ), chúng ta đã đáp lại lời mời gọi sống yêu thương của Ngài chưa?
Khi dân Chúa không sống đúng với lời mời gọi của Thiên Chúa, Ngài thường sai đến những ngôn sứ để nói lên tiếng nói của Ngài. Nhưng thường thì các ngôn sứ đều bị đối xử như được diễn tả trong bài Tin Mừng: «Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết» (Mt 22,5-6). Chẳng mấy ai nhận ra được ngôn sứ của thời đại mình, vì các ngôn sứ thường nói ngược lại với quan niệm chính thống của thời đại, để sửa sai, hoàn chỉnh hoặc nâng cấp quan niệm ấy cho phù hợp với trình độ và nhu cầu tâm linh mới của con người thời đại. Vì thế, các vị thường bị những đồng đạo đương thời cho là phá hoại, sai lầm, thậm chí bị tẩy chay, bách hại, giết chết, hay ít ra là không thèm nghe, không đếm xỉa tới. Ngôn sứ đích thật luôn luôn bị đối xử như thế (x. Lc 6,22-23), chỉ có ngôn sứ giả mới được ưu đãi thôi (x. Lc 6,26). Tuy nhiên, những người nào thành tâm thiện chí, luôn luôn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa để sống phù hợp với ý Ngài, sẽ nhận ra chân lý trong lời của các ngôn sứ.
Chúng ta có bao giờ để tâm lắng nghe tiếng nói của những ngôn sứ đồng thời với mình, mà Thiên Chúa sai đến để mời gọi ta sống đúng với thánh ý Thiên Chúa, để sửa sai, để nâng cấp quan niệm của thời đại không? Hay chúng ta sẽ hành xử giống những người Pharisêu xưa là: cứ tôn vinh, ca tụng các ngôn sứ thời đại trước mà cha ông họ đã bách hại và giết chết; nhưng chính họ lại bách hại và giết chết các ngôn sứ thời đại mình mà chỉ con cháu họ về sau mới nhận ra và tôn vinh là ngôn sứ (x. Mt 23,29-32)? Ôi cuộc đời thời nào cũng thế! Lịch sử cứ lập đi lập lại mãi những màn kịch và bài học giống nhau mà người đời không sao học được, nên cứ lầm lỗi mãi, cho dù đã được cảnh báo trước! Thời nào các ngôn sứ cũng bị người đồng thời đối xử như thế! Những gì đã xảy ra trong Do Thái giáo, liệu có đang xảy ra trong Giáo Hội và thế giới của chúng ta không?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con nhận ra bộ đồng phục mà con cần phải có để vào được Nước Trời chính là tình yêu thương đích thực của con đối với đồng loại. Không có đồng phục này, thì dù con có mặc những y phục khác đẹp đẽ đến đâu, con cũng sẽ không được nhận vào Nước Trời. Xin cho con có được bộ đồng phục ấy. (JK)
Nguyễn Chính Kết
--------------------------------
Cốt Lõi của Dụ Ngôn Tiệc Cưới Thần Linh
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII Năm A tuần này, Chúa Giêsu tiếp tục nói với thành phần: TN 28-A81
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII Năm A tuần này, Chúa Giêsu tiếp tục nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái là các trưởng tế và kỳ lão một dụ ngôn nữa, tiếp ngay sau hai dụ ngôn hai tuần trước. Qua ba dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái này, chúng ta thấy Người muốn từ từ tỏ cho họ thấy Mạc Khải Thần Linh về Người.
Thật vậy, dụ ngôn tuần vừa rồi về thái độ của nhóm tá điền bất lương, trong việc họ giết các thừa sai của chủ, kể cả người con trai yêu quí nhất của ông, chỉ vì họ có ý định muốn cướp đoạt gia tài của người con duy nhất này, đã làm sáng tỏ ý nghĩa của dụ ngôn tuần trước đó, dụ ngôn về một trong hai người con cứ tưởng rằng chỉ cần thưa “vâng con đi” là đủ, tức là, theo họ, chỉ cần giữ những luật lệ tỉ mỉ là đã làm theo ý cha, nhưng thực ra những việc ấy lại không hợp với ý của cha, vì Ngài cần lòng tin tưởng của họ hơn là việc làm của họ, hay nói cách khác, nếu việc giữ luật lệ của họ không làm cho họ tin tưởng Ngài thì kể như họ đã không chịu đi làm vườn nho cho Ngài, hay không làm đúng như ý muốn của Ngài. Đó là lý do, trong đoạn cuối của dụ ngôn về hai người con, Chúa Giêsu đã đề cập đến lý do đứa con không đi làm vườn nho cho cha là vì không tin vào cha, tức tin vào những vị thừa sai của cha, như Gioan Tẩy Giả. Đúng thế, trong ba dụ ngôn liền nhau này, chúng ta thấy Mạc Khải Thần Linh về Chúa Kitô cũng như thấy được vấn đề Đức Tin Tuân Phục (x Rm 1:5) được từ từ tỏ hiện như thế này.
Trước hết, trong dụ ngôn hai người con được cha kêu gọi đi làm vườn nho cho cha, Gioan Tẩy Giả đã được Chúa Giêsu nhắc đến, vì thánh nhân là tiền hô đến để dọn đường cho Người là Đấng đến sau nhưng cao trọng hơn (xem Jn 1:30), vị tiền hô mà ai không tin tưởng cũng không thể chấp nhận Đấng được vị tiền hô ấy loan báo. Sau nữa, trong dụ ngôn bọn tá điền làm vườn nho cho chủ vườn, Chúa Giêsu đã bắt đầu tỏ cho thấy mình là Đấng đến sau, sau các vị tiên tri tới trước, mà Gioan Tẩy Giả là vị cuối cùng, một Đấng đến sau nhưng cao trọng hơn nơi người con trai duy nhất được Thiên Chúa sai đến để thu hoa lợi cho Thiên Chúa là Cha mình, nhưng vì không nhận biết Người (x Lk 23:34; Acts 3:17) nên bọn tá điền này đã giết Người. Sau hết, trong dụ ngôn vua làm tiệc cưới cho con trai của mình của Chúa Nhật XXVIII Năm A tuần này, Chúa Giêsu tỏ cho thấy người con trai duy nhất của chủ vườn nho sai đến bị bọn tá điền sát hại ấy chính là vị thái tử của vua trời, là Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người, Đấng đã thành hôn với nhân loại, hay đã nên một thân thể với nhân loại nơi Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp của mình, một mầu nhiệm chẳng những làm cho Thần Tính vô cùng cao trọng và toàn thiện nên một với nhân tính vô cùng thấp hèn và bất toàn nơi bản thân Chúa Kitô Thiên Sai, mà còn làm cho toàn thể nhân loại được mời gọi đến dự Tiệc Cưới Thần Linh, tức được tham dự vào Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Mầu Nhiệm Cứu Độ, Mầu Nhiệm Hiệp Thông, Mầu Nhiệm Sự Sống, “một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10).
Thành Phần được mời Tham Dự Tiệc Cưới Thần Linh
Đó là lý do, nơi Mầu Nhiệm Thần Linh Thiên Chúa Làm Người nơi Chúa Giêsu Kitô này, theo dự án cứu độ của mình, Thiên Chúa là vua trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này đã sai các đầy tớ của Ngài là các vị tiên tri ngôn sứ thuộc mọi thời đại lịch sử loài người đi mời toàn thể nhân loại đến tham dự, trước hết là dân Do Thái, sau mới tới Dân Ngoại, thành phần ở đầu đường xó chợ, đủ mọi thứ hạng giai cấp trong xã hội, miễn sao tiệc cưới đã dọn ra phải có người đến tham dự và hoan hưởng như ý Ngài muốn.
Thế nhưng, dụ ngôn của bài Phúc Âm cho thấy, những kẻ được mời đến trước là dân Do Thái, một số, chỉ vì bận bịu với những việc làm thường nhật của mình, (trong việc giữ lề luật Moisen chẳng hạn), đã chẳng những từ chối không chịu đến, tức không chịu tin vào những vị được Thiên Chúa Giao Ước của họ sai đến tiên báo cho họ biết về Đấng Thiên Sai, mà một số trong họ còn ra tay sát hại các vị thừa sai này nữa. Hậu quả của việc dân Do Thái cứ tin theo những gì mình nghĩ hơn là vào Thiên Chúa, hơn là vào những vị ngôn sứ thừa sai của Ngài, đã khiến họ, như bài dụ ngôn trong Phúc Âm cho thấy, đã bị vua nổi giận đến nỗi đã sai quân đội (Rôma do tướng Titô lãnh đạo năm 70AD) đến hủy diệt họ (phân tán khắp nơi trên thế giới) và phá hủy thành đô (Giêrusalem) của họ, một hậu quả vô cùng khốc liệt cũng đã được Chúa Giêsu nhắc đến, sau khi Người vinh hiển vào Thành Thánh cũng như vào lúc các môn đệ của Người ca tụng vẻ nguy nga đồ sộ của thành này (x Mk 13:1), đó là: “Rồi những ngày sẽ đến với ngươi khi quân thù vây hãm ngươi tứ bề. Họ sẽ loại trừ ngươi, cả ngươi (thành thánh) lẫn con cái của ngươi trong thành (dân Do Thái), và sẽ không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời gian ngươi được viếng thăm” (Lk 19:43-44).
Chính vì thành phần được mời đến tham dự trước là dân Do Thái đã không chịu đáp ứng mà Dân Ngoại đã được mời đến thế chỗ của họ. Thật ra, không phải là Dân Ngoại được mời đến để điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa đâu. Vì Thiên Chúa Thần Linh hóa thành nhục thể nơi Con Người Giêsu Kitô đã mặc lấy nhân tính như mọi người mà toàn thể loài người, không trừ ai, một cách nào đó, như Công Đồng Chung Vaticanô II trong Hiến Chế Vui Mừng Và Hy Vọng Gaudium et Spes, đoạn 22, đều được nên một với Người, đều được mời đến tham dự và hoan hưởng Tiệc Cưới Thần Linh. Chỉ có điều là kẻ đến trước người đến sau thôi, chứ không phải Tiệc Cưới Thần Linh, Con Thiên Chúa Làm Người này, chỉ giành cho kẻ đến trước là dân Do Thái. Nếu vậy thì dân Do Thái đâu có bao nhiêu so với Dân Ngoại, làm sao Dân Ngoại có đủ chỗ tham dự trong trường hợp được lùa vào thay chỗ cho dân Do Thái được chứ? Đúng thế, nếu lời Thiên Chúa hứa với Abraham tổ phụ dân Do Thái là Ngài sẽ làm cho ông trở thành cha của một dân tộc vĩ đại, vô số như sao trời, hằng hà như cát biển (x Gen 17:4; 22:17-18), thì dân tộc này chính là Dân Ngoại, thành phần tin vào Thiên Chúa nơi Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu Kitô, qua việc turyền giáo của Giáo Hội, qua những chứng nhân tông đồ được Con Ngài sai đi rao giảng tin mừng cho muôn dân (x Mt 28:18-19; Mk 16:15-16), tức những người đầy tớ trong bài Phúc Âm được vua sai đi mời đủ mọi thứ hạng vào tham dự Tiệc Cưới Thần Linh. Chính nhờ việc mời mọc thành phần đến sau này mà thành quả cho thấy, cuối cùng, như bài Phúc Âm kết luận, “phòng tiệc cưới đã đầy những người tham dự”.
Giá Trị đòi hỏi của Tiệc Cưới Thần Linh
Đến đây, theo cảm nhận trần gian, chúng ta có thể nghĩ rằng bữa Tiệc Cưới Thần Linh này cũng chẳng ra làm sao, vì là bữa tiệc giành cho những người ở đầu đường xó chợ, thành phần pha trộn lung tung, chứ không phải thành phần quan khách đặc biệt được chọn lọc đàng hoàng. Đúng, đó là Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa. Đó là lý do đã được Lời Nhập Thể, Vị đồng bàn với thành phần tội nhân, đã khẳng định với thành phần cho mình là thanh liêm công chính, tưởng mình là kẻ lành mạnh không cần đến thày thuốc (x Mt 9:11-12): “Con Người đến để tìm kiếm những gì đã hư trầm” (Lk 19:10). Nếu Chúa Kitô là vị mục tử đến tìm từng con chiên lạc một về với đàn chiên của mình (x Lk 15:4-5), thì Tiệc Cưới Nước Trời quả thật dù trước hết có tính cách đại đồng, tính cách Công Giáo, giành cho tất cả mọi người, nhưng trên hết giành riêng cho thành phần thấp hèn trước mắt thế gian, thậm chí cho thành phần xấu xa tội lỗi trong thế gian như vậy thôi. Tuy nhiên, không phải vì thế, vì đối tượng được mời hạ cấp mà Tiệc Cưới Thần Linh mất giá. Trái lại, như Thiên Chúa Thần Linh vô cùng Toàn Thiện và cao cả đã nhập thể nơi Chúa Giêsu Kitô để thăng hoa và thần linh hóa cả bản tính lẫn thân phận thấp hèn của loài người phàm trần thế nào, như bài thì Tiệc Cưới Thần Linh này cũng vậy, một bữa tiệc được khoản đãi trên núi cao với tất cả những món thịnh soạn nhất, như Tiên Tri Isaia diễn tả trong bài đọc một, “xứng với sự phong phú cao cả của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô”, như Thánh Phaolô đề cập đến trong bài đọc hai, cũng được Thiên Chúa khoản đãi nhân loại để họ được trọn vẹn hiệp thông Sự Sống Thần Linh với Ngài như vậy.
Đó là lý do, trong phần Phúc Âm được Giáo Hội để trong ngoặc không buộc đọc ở cuối dụ ngôn, người đến tham dự Tiệc Cưới Thần Linh này cũng cần phải tỏ ra mình xứng đáng, qua việc ăn mặc đàng hoàng, tức ý thức về đặc ân nhưng không của mình và sống xứng đáng với đặc ân tham dự Tiệc Cưới Thần Linh, chứ không phải tưởng rằng chủ tiệc cưới cần mình chứ mình không cần chủ tiệc. Chính vì con người chẳng là gì và chẳng biết trước được đặc ân tham hưởng Tiệc Cưới Thần Linh vô cùng cao trọng này đã cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người trước (x 1Jn 4:19,10), yêu thương một cách hoàn toàn và tuyệt đối nhưng không. Tuy nhiên, cũng chính vì tình yêu vô cùng trọn lành nhưng không này mà con người cần phải nhận thức và đáp trả một cách xứng đáng theo khả năng của mình, bằng không, tình yêu của Thiên Chúa sẽ trở thành án phạt cho họ, như trường hợp của một trong thành phần tham dự Tiệc Cưới Thần Linh được bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này thuật lại.
TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI
Bạn có nhận được thiệp mời dự đám cưới hoàng tử Charles và công nương Diana không? Hoặc bạn đã có lần nào được mời tham dự đám cưới của một minh tinh, tài tử Hollywood nào chưa? Nếu có, chắc là bạn hãnh diện và sung sướng lắm. Và trong niềm hãnh diện và sung sướng ấy, bạn đã phải để bao nhiêu ngày giờ suy nghĩ về y phục bạn sẽ mặc hôm đó. Không những áo quần, mà còn đầu tóc, và trang sức nữa. Bạn phải chạy đầu này, đầu nọ để sắm sửa và chuẩn bị. Và dĩ nhiên, bạn cũng phải chi ra một số tiền khá lớn cho những chuẩn bị đó.
Nếu không được vinh dự mời tham dự những đám cưới lịch sử như thế, hẳn là bạn cũng đã nhiều lần được mời tham dự những đám cưới của con cháu, họ hàng, hoặc bạn hữu xa gần. Cùng một thái độ hãnh diện, sung sướng ấy, bạn cũng đã phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng. Không chỉ để đáp lại sự quí mến của người mời, mà còn để khỏi phải mất mặt giữa các thực khách. Tóm lại, bạn không thể đến tham dự một tiệc cưới mà lại ăn mặc lôi thôi, lếch thếch. Đám cưới càng danh giá, địa vị, sự chuẩn bị càng công phu và tốn kém.
Thế nhưng đó lại không phải là thái độ của phần lớn các Kitô hữu. Những người mà khi tham dự đám cưới một người trần gian thì lại chuẩn bị kỹ càng, nhưng khi được mời tham dự một tiệc cưới vô cùng quan trọng và danh dự – tiệc cưới Nước Trời – Tiệc cưới của hoàng tử Nước Trời, thì lại rất lôi thôi, lếch thếch. Vì bàn tiệc Nước Trời là gì? Nếu không phải là ơn gọi sống đời Kitô hữu? Một lời mời gọi phát xuất từ lòng Chúa xót thương, mà chúng ta tất cả chỉ là những thực khách bơ vơ nơi đầu đường, xó chợ, không danh giá, không địa vị, và không được người đời biết đến: “Tiệc cưới đã dọn sẵn, nhưng những kẻ được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất kỳ bất cứ ai thì mời vào dự tiệc cưới” (Mt 22: 8-9).
Đặc biệt trong Năm Thánh Thể, chúng ta hãy nghĩ đến lời mời gọi này mỗi khi tham dự Thánh Lễ và mỗi lần rước Mình và Máu Thánh Chúa. Đây là một bàn tiệc đúng nghĩa hy tế, trong đó mọi Kitô hữu đều được tham dự và nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu trở nên lương thực cần thiết cho chúng ta trên hành trình cuộc sống, và trên con đường về quê hương vĩnh cửu. Tư tưởng này nhắc nhở chúng ta về vị trí của mình, và đồng thời biết chuẩn bị để mình không phải là những thực khách, những khách bị loại ra khỏi bàn tiệc mà mình đã được mời để tham dự. Đức Bênêđíctô XVI, trong bài giảng bế mạc Đại Hội Thánh Thể Nước Ý lần thứ 24 tại Bari đã nói: “Chúa Giêsu thực sự hiện diện giữa chúng ta. Sự hiện diện của Ngài không phải là tĩnh lặng. Đó là một sự hiện diện thực sự, làm cho chúng ta thành như Ngài, Ngài đã đồng hóa chúng ta với chính Ngài. Thánh Augustine đã hiểu rằng trọng tâm của Thánh Thể là Đức Kitô, Đấng đã thu hút chúng ta lại với chính Ngài; Đấng đem chúng ta ra khỏi chính mình để biến chúng ta nên một với Ngài. Trong cách này, Ngài giới thiệu chúng ta với cộng đồng anh chị em mình.”
Do nhận ra thân phận mình thấp hèn của mình, và vì thấy mình được mời tham dự một tiệc cưới cao trọng như thế, Kitô hữu chúng ta nhẽ ra phải coi làm trọng, phải hãnh diện và tham dự với tất cả lòng biết ơn. Nhưng thực tế lại khác, rất nhiều Kitô hữu đã “không mặc áo cưới”, đã khước từ, hoặc thậm chí đã coi lời mời đó như một cái gì đáng ghét cần phải loại bỏ. Bằng lối diễn tả của Thánh Kinh, đó là những Kitô hữu đã chối từ , đã coi thường lời mời tham dự bàn tiệc Nước Trời tức là tham dự vào việc thừa hưởng sức sống thần linh của Thiên Chúa, khước từ địa vị làm con Thiên Chúa, và cũng khước từ tham dự vào gia tài thiên quốc.
Người thực khách không mặc áo cưới trong bữa tiệc hôm đó, cũng như các thực khách đã khước từ lời mời tham dự bữa tiệc, là những hình ảnh để Kitô hữu chúng ta tự vấn về đời sống và ơn gọi của mình. Chúng ta có tham dự vào bàn tiệc do Thiên Chúa thỉnh mời với tấm lòng biết ơn, hay ngược lại, bằng với thái độ bất kính. Một thái độ đưa đến kết quả là bị loại ra khỏi Nước Thiên Chúa, và bị tước đoạt quyền làm con Ngài. Và đó chính là:
1. Những kẻ thuộc về thế gian: Thiên Chúa đã gửi thiệp mời đến tất cả mọi người chúng ta. Ngài đã mời gọi tất cả. Nhưng xem như thiệp hồi âm quá ít. Những người được mời tham dự đã không hồi báo. Lý do, người thì bận đi thăm trang trại, hoặc bận lo làm ăn buôn bán. Đối với thành phần thực khách này, lời mời gọi của Nước Trời. Hạnh phúc được tham dự tiệc cưới Nước Trời – tức sự sống đời đời - không quan trọng so với những của cải vật chất và thế gian. Và do đó, họ đã không thèm đếm xỉa tới.
2. Những kẻ thù ghét Thiên Chúa: Không những không coi việc được mời là quan trọng, danh dự và là niềm hãnh diện, một số khác còn tỏ ra đối nghịch và trở thành kẻ thù đối với lời mời tham dự. Những hình thức bách đạo, ngăn cấm, tra tấn, tù đầy và giết hại các Kitô hữu qua các thời đại đã cho biết là có những kẻ hết sức ác cảm và hận thù Thiên Chúa. Sự độc ác, dã tâm của họ đã được Thánh Ký phác họa như những kẻ “bắt bớ đầy tớ vua mà hạ nhục và giết đi”.
3. Những kẻ coi thường và khinh xuất: Họ là những thành phần đã nhận lời tham dự tiệc cưới, có hồi báo, nhưng lại tỏ ra khinh xuất và coi thường. Họ vào tiệc cưới mà “không mang y phục cưới”.
Trước lời mời gọi tham dự bàn tiệc Lời Chúa, bàn tiệc Thánh Lễ, bàn tiệc Thánh Thể, và bàn tiệc cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta phải có thái độ nào: Dửng dưng, khước từ, hay thù ghét? Và liệu chúng ta có bị loại ra ngoài vì thái độ bất xứng hoặc dửng dưng coi thường của chính mình? Xin Mẹ Maria, Mẹ của Thánh Thể, giúp chúng ta yêu mến và sốt sắng tham dự lời mời của Thiên Chúa bằng cuộc sống chứng nhân đích thực trong chính ơn gọi của mỗi người.
T.s. Trần Quang Huy Khanh
--------------------------------
Câu chuyện vừa nghe đối với chúng ta có phần nào khó hiểu. Tại sao một ông vua làm tiệc cưới TN 28-A82
Câu chuyện vừa nghe đối với chúng ta có phần nào khó hiểu.
Tại sao một ông vua làm tiệc cưới cho hoàng tử, mà các khách mời lại đồng loạt từ chối, không tới dự? Có thể là Chúa Giêsu đã sử dụng một câu chuyện có sẵn, đang được loan truyền trong dân gian. Câu chuyện ấy như thế này: Có một người thu thuế, nhờ làm mà ăn phất lên mau chóng, nên cũng muốn học làm sang, nên đã mở tiệc và cho mời đông đảo khách khứa. Vì không muốn để cho người thu thuế, vốn dĩ bị mọi người coi rẻ, lợi dụng sự hiện diện của mình tại nhà y để huênh hoang. Tất cả những người được mời đã nhất loạt từ chối không đến.
Chúa Giêsu đã từng cho thấy là Ngài không ngần ngại sử dụng những câu chuyện dân gian để cho chúng ta hiểu về thái độ của Thiên Chúa. Thực vậy, các khách được mời dự tiệc cưới, đã được thông báo nhắc nhở tới hai lần nhưng chẳng những đã không tới, mà có người lại còn hành hạ và giết cả những người được chủ sai đi mời. Như thế khách được mời đã không tới, chẳng phải vì quên hay vì bận việc khác, mà hoàn toàn vì ác ý. Hậu quả là họ đã bị trừng trị vì thái độ của họ.
Thay vào chỗ của họ là tất cả mọi người mà các đầy tớ của nhà vua có thể gặp được ở khắp cả ngã đường. Tất cả mọi người đều được mời không phân biệt người tốt kẻ xấu. Chúng ta có thể hiểu chi tiết này bằng hai cách: hoặc là trong Nước Trời, trước ngày phán xét, kẻ tốt người xấu lẫn lộn như cỏ lùng mọc chung với lúa tốt. Hoặc là Thiên Chúa qua lòng nhân lành của Ngài, đã mời gọi mọi người nhất là những kẻ tội lỗi vào dự tiệc mừng của Nước Trời.
Thế nhưng ám chỉ của dụ ngôn xem ra khá rõ. Vị vua làm tiệc cưới cho hoàng tử là Thiên Chúa, Đấng sẽ thực hiện chương trình cứu độ. Những người được mời trước là các thành phần của dân được tuyển chọn, nghĩa là người Do Thái. Nhưng họ đã khước từ lời mời gọi của các tiên tri và cuối cùng là của chính Chúa Giêsu. Những người được mời gọi lần thứ hai, từ khắp các ngã đường, tượng trưng cho mọi dân tộc, không phân biệt cũ mới, nguồn gốc. Như thế dụ ngôn cho thấy diễn tiến của chương trình cứu chuộc. Sự khước từ của người Do Thái đối với giáo huấn của Chúa Giêsu, việc những người tội lỗi và những người không phải là dân Do Thái được đón nhận Tin Mừng của Ngài là những dấu chỉ cho thấy thời cứu độ đang thực sự diễn ra.
Tuy nhiên, phần cuối của dụ ngôn, có thể là do cộng đoàn tiên khởi thêm vào, lại là một lời cảnh cáo đối với các tín hữu. Chiếc áo cưới mà những người dự tiệc phải mặc tượng trưng cho lòng tin, cho niềm vui, cho sự công chính, nghĩa là những việc lành luôn luôn được thánh Matthêu nói tới. Lời kêu gọi của Chúa không phải là không có những đòi hỏi. Chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ từ tình thương của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải sống ơn cứu độ đó bằng cách làm những công việc tốt lành, để nhờ đó chúng ta xứng đáng được Chúa cho vào tham dự bàn tiệc Nước Trời.
--------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 22, 1-14
Đọc xuyên suốt Tin Mừng Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được thế nào là Nước Trời mà Ngài luôn: TN 28-A83
Đọc xuyên suốt Tin Mừng Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được thế nào là Nước Trời mà Ngài luôn công bố. Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để nói về Nước Trời. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu ví : “ Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình “ ( Mt 22, 2 ). Tin Mừng cho thấy ý nghĩa sâu xa của dụ ngôn.
Tiệc cưới trong đoan Tin Mừng Matthêu 22, 1-14 có một cái gì thật khác lạ, có một cái gì đó lạ đời bởi vì Ông chủ tức Vị Vua mở tiệc cưới cho hoàng tử nhưng các khách được mời đều kiếm lý do để từ chối, người lý do này kẻ lý do khác, thậm chí họ còn sỉ nhục các đầy tớ vua sai đi mời và giết đi. Rồi sau cùng, vua sai đầy tớ đi mời tất cả mọi người bất kể tốt xấu vào dự tiệc cưới vua đã dọn sẵn. Vua đi vào quan sát và thấy một thực khách vào dự lễ cưới nhưng lại không mặc áo cưới. Vua ra lệnh cho gia nhân :” Trói chân tay nó lại quăng nó ra chốn tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng ! Vì kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít “ (Mt 22,14 ).
Tại sao những khách được mời tới dự tiệc trong dụ ngôn lại từ chối lời mời đến dự tiệc cưới, lời mời của một vị vua ? Dụ ngôn muốn ám chỉ đến Kinh sư, Pharisêu và những người chống đối Chúa Giêsu, những người đã bất mãn với thái độ thân tình của Chúa Giêsu đối với những người thu thuế và những người tội lỗi. Thực tình, họ đang chế diễu Chúa Giêsu, không muốn chấp nhận Ngài là Đấng Cứu Thế. Những hạng người này đang âm mưu giết Chúa và khi đứng dưới chân Thánh Giá, họ cười nhạo Ngài.
Chúa Giêsu đã dùng bữa ăn để nói lên những giá trị cao quí nhất trong đời sống con người. Bữa ăn là nơi gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, vui mừng, hân hoan. Vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa đã dùng bữa ăn, tiệc cưới để nói lên những thực tại Nước Trời. Chiếc áo cưới là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui mừng, phấn khởi con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Chiếc áo cưới cũng có nghĩa là chiếc áo trắng mỗi Kitô hữu đều mặc ngày lãnh nhận Bí tích rửa tội. Chiếc áo trắng là tâm hồn trong trắng, đơn sơ, thanh khiết của những môn đệ Chúa đã được thanh tẩy bằng máu Chúa Kitô và được thanh luyện bằng Lời Chúa. Chiếc áo trắng là tâm hồn thánh thiện, đạo đức khi người Kitô hữu lãnh nhận Mình Máu Chúa Kitô.
Cuộc đời người môn đệ Chúa không bao giờ được đóng khung trong cái nhãn hiệu mình là người Công giáo mà lại quên đi những thực tại trần gian này rồi sẽ qua mau, cuối cùng chỉ còn lại sự sống vĩnh cửu và Nước Trời mà Kitô hữu luôn khát khao tìm kiếm. Chúa phán “…Nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì ?” ( Mt 16, 26 ).
Có những người sau hết sẽ lên trước nhất và những người trước hết sẽ nên sau hết. Điều này, quả thực rất đúng với người Do Thái vì họ được Thiên Chúa tuyển chọn nhưng họ đã chối từ Chúa, không tin nhận Chúa là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Người Kitô hữu là người đã mặc chiếc áo trắng ngày lãnh nhận Bí tích rửa tội, họ mặc lấy Đức Kitô, mặc lấy con người mới, nghĩa là họ tin tưởng, tín thác nơi Chúa và tin tưởng ơn cứu chuộc do Chúa mang đến cho họ.
Người môn đệ Chúa sẽ mất Nước Trời, nếu họ chỉ nói “ Lạy Chúa ! Lạy Chúa “, nhưng không mặc lấy Đức Kitô và không lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong đời sống của mình.
Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội.
Nào có ai đứng vững được chăng ?
Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ,
Lạy Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en ( Tv 129, 3-4 ).
Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy ( Lời nguyện nhập lễ, Chúa nhạt XXVIII thường niên, năm A ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao Chúa Giêsu lại hay dùng bữa ăn để nói về Nước Trời ?
2.Áo cưới ám chỉ gì trong dụ ngôn này ?
3.Người không mặc áo cưới là người thế nào ?
4.Vua trong dụ ngôn này ám chỉ ai ?
5.Những người trước muốn nói đến những người nào ?
------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 22:1-14)
Chúa Nhật trước, chúng ta đã có dịp nghe câu chuyện những tá điền giết cậu con trai của: TN 28-A84
Chúa Nhật trước, chúng ta đã có dịp nghe câu chuyện những tá điền giết cậu con trai của ông chủ vườn nho, ám chỉ những nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái chối bỏ Chúa Giê-su khi Người được Chúa Cha sai đến thiết lập Nước Thiên Chúa. Hôm nay, qua dụ ngôn ông vua mở tiệc cưới cho con mình, Chúa Giê-su muốn nhắm đến những thành phần được mời gọi đón nhận Nước Trời. Những người được mời ưu tiên là các quan khách, tức là dân Ít-ra-en, nhưng họ lại viện đủ lý do để từ chối không đến dự tiệc cưới, có người còn hành hạ hoặc giết các đầy tớ vua sai đi mời họ. Do đó, nhà vua “nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy”. Rồi nhà vua cho các đầy tớ “đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”. Điều này nói lên tính cách phổ quát của Nước Thiên Chúa, không có sự phân biệt hoặc loại trừ, mà toàn thể nhân loại đều được mời gia nhập.
Tuy nhiên câu chuyện dụ ngôn ở phần cuối lại hướng về một sự kiện đặc biệt, đó là việc một trong những khách dự tiệc không mang y phục lễ cưới. Có lẽ đây chính là đề tài dụ ngôn muốn nhắm tới, nói lên tư thế người ta phải có khi muốn làm một phần tử của Nước Thiên Chúa. Vậy y phục lễ cưới, điều kiện cần thiết để được dự tiệc cưới Con của Vua trời đất là gì?
Trong lễ Rửa tội, tấm áo trắng đã được trao cho người tân tòng mặc vào. Nó biểu tượng cho sự sống mới Chúa Giê-su đem lại cho họ nhờ cái chết trên thập giá của Người. Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới mà sống theo Tinh Thần của Chúa Ki-tô. Tất cả những ai muốn được dự Tiệc Cưới của Chúa Ki-tô do Thiên Chúa Cha đãi tiệc, đều phải tiếp nhận lối sống ấy. Khi Vua trời đất tiến vào và nhận ra một người đã không mặc y phục lễ cưới, Người nổi giận. Người nổi giận vì người ấy câm miệng không nói được gì. Anh ta không thể biện hộ cho việc mình khinh thường nhà vua, bởi vì chắc chắn nhà vua đã cung cấp y phục lễ cưới cho mọi người được mời. Vấn đề của anh ta là ngoan cố không muốn mặc y phục đó mà thôi! Cũng thế, Chúa Cha đã ban cho tất cả chúng ta cơ hội để cùng chết đi con người cũ với Chúa Ki-tô và được sống lại với Người trong đời sống mới. Vì thế, nếu chúng ta tự ý không muốn sống lối sống của Chúa Ki-tô thì chúng ta cũng phải “câm miệng không nói được điều gì” khi đến trước mặt Chúa!
Ngoài ra còn có một lời của Chúa Giê-su khiến chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ: Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít! Đây là lời khích lệ, chứ không phải dọa nạt làm chúng ta lo sợ. Lời gọi nên thánh là lời gọi phổ quát dành cho mọi người không trừ ai. Nhưng đáp lại lời gọi nên thánh để được kể vào số những người được chọn thì không dễ dàng. Nó đòi hỏi chúng ta cố gắng và kiên nhẫn để cho “y phục lễ cưới” là lối sống của Chúa Ki-tô thay đổi chúng ta dần dần trong những ngày tháng hành trình đức tin trên trần gian này.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Khi chúng ta có một cái áo đẹp bị vấy bẩn, chắc chúng ta cảm thấy bức xúc và muốn đem giặt ngay để thấy nó luôn luôn xinh đẹp. Có bao giờ chúng ta cũng cảm thấy như vậy khi chúng ta xét mình và thấy cuộc sống của mình mang những vết nhơ tội lỗi, không xứng hợp với sự sống Chúa Ki-tô đã ban cho chúng ta qua Bí tích Rửa tội không? Nếu có thì đó chính là những lúc chúng ta biết “mở miệng” để xin Chúa thứ tha, để nói lời yêu thương trở về nhà Cha và quyết tâm sống làm môn đệ Chúa Ki-tô.
Y phục lễ cưới của chúng ta cần được chăm sóc hằng ngày. Bị vấy bẩn là điều có thể xảy ra cho mọi người. Nhưng quan trọng là chúng ta có đem nó đến “giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Khải Huyền 7:14) hay không? Nhìn lại cách đối xử với chính mình, với người khác để xem có phù hợp với nhân cách của Chúa Ki-tô hay không sẽ giúp chúng ta tẩy trắng y phục lễ cưới của mình mỗi ngày. Nếu cần, chúng ta phải mang nó tới tòa giải tội, để ở đó Chúa Giê-su sẽ trả lại cho nó sự trong trắng đẹp xinh!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------
Mt 22:1-14: 1 Đức Yêsu lên tiếng và lại dùng ví dụ mà nói với họ rằng: 2 "về Nước Trời, thì cũng in như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. 3 Nhà vua sai các tôi tớ đi gọi khách đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không màng đến. 4 Nhà vua lại sai tốp đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói với khách khứa đã mời: này, tiệc ta đã dọn sẵn, bò bê thú béo đã hạ, mọi sự đã sẵn sàng! Hãy đến dự tiệc cưới!" 5 Nhưng không thèm đếm xỉa, họ bỏ đi: người ra đồng, kẻ trẩy đi buôn. 6 Thậm chí có nóm khác bắt lấy tôi tớ nhà vua mà hành hạ rồi giết đi. 7 Vua thịnh nộ và phái quân binh đi tru diệt lũ sát nhân ấy và thiêu hủy thành của chúng. 8 Bấy giờ vua nói với tôi tớ: "Tiệc cưới đã sẵn, nhưng khách mời đã không đáng dự. 9 Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, hễ gặp ai thì mời vào tiệc cưới." 10 Tôi tớ ra các nẻo đường, thâu nạp mọi người gặp được, bất luận dữ hay lành. Và phòng tiệc cưới đã đầy khách dự tiệc.
11 Nhà vua đi vào coi khách dự tiệc, mới thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới, 12 nên mới nói với y: "Này bạn, làm bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng. 13 Bấy giờ, vua bảo quân hầu: "Hãy trói chân tay nó lại mà đuổi nó ra tối tăm bên ngoài: ở đó nó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng".
14 "Vì kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít"
Dụ ngôn Tiệc cưới (22:1-14) nằm ngay sau dụ ngôn Tá Điền Vườn Nho. Đây là dụ ngôn cuối: TN 28-A85
Dụ ngôn Tiệc cưới (22:1-14) nằm ngay sau dụ ngôn Tá Điền Vườn Nho. Đây là dụ ngôn cuối cùng trong loạt ba dụ ngôn liên quan với nhau. Trong dụ ngôn tá điền vườn nho, Chúa Giêsu đã nói đến việc chuyển giao Nước Trời cho một dân tộc biết sinh hoa trái cho Thiên Chúa (21:43). Chủ đề của dụ ngôn nầy nói về sự thay thế ấy: những người “tốt và xấu ở các ngả ba đường” được mời vào dự tiệc cưới. Họ thế chỗ những người đã được mời mà không đến.
Các hạn từ chính trong dụ ngôn nầy: basileus, “vua” (cc. 2.7.11.13), gamos, “tiệc cưới” (8 lần), doulos, “tôi tớ” (cc. 2.3.6.8.10), kaleô “kêu gọi/mời” (cc. 3.4.8.9 và 14). Từ basileus, “vua” (cc. 2.13) và gamos, tiệc cưới” (cc. 2.12) đóng khung đoạn nầy. Ngoài câu dẫn nhập (c. 1) và kết luận (c. 14), dụ ngôn tiệc cưới (cc. 2-13) có thể chia thành hai phần chính bởi tote, “bấy giờ” (c. 8): - Vua và những người đã được mời (cc. 2-7); Vua và những người từ các ngả đường (cc. 8-13). Cấu trúc của mỗi phần tương tự nhau: - Vua sai các tôi tớ đi mời và họ thực hiện lệnh của vua (cc. 3.4 và 9), - Hành động đáp trả của những người được mời (cc. 5.6 và 10.12), - Hành động của vua đối với những người được mời (cc. 7 và 11. 13).
Dẫn nhập (c. 1)
Lần nữa Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để nói với các lãnh đạo tôn giáo Israel (21:23. 45). “Các dụ ngôn”, số nhiều, chỉ cả ba dụ ngôn trong 21:28-22:14. Sau dụ ngôn thứ hai thánh Matthêô ghi nhận phản ứng tiêu cực của những người nầy. Vì họ đã không hiểu là Chúa Giêsu muốn họ hoán cải khi Ngài nói cho họ các dụ ngôn nầy (x. 21:32), nên họ mới đi đến quyết định là tìm cách bắt Chúa Giêsu (21:46).
Vua và những người đã được mời (cc. 2-7)
Khung cảnh của dụ ngôn là tiệc cưới. Thánh sử tập trung cái nhìn trên lời nói và hành động của vua, cũng như khách được mời. Vua chính là Thiên Chúa (21:40), “người con”, hyios, là Chúa Giêsu Kitô (21:37-38). Ngài là chàng rể của tiệc cưới (x. 9:15; Kh 19:7-9; 21:2.9), các tôi tớ là các ngôn sứ, sứ giả của Thiên Chúa (21:34.36), và “khách đã được mời” là Giêrusalem và dân Isreal.
Trong màn đầu, vị vua sai các tôi tớ đi mời khách dự tiệc đến. Ngài không có một hành động nào khác ngoài việc truyền cho các tôi tớ của ông những điều phải nói: “Hãy nói…” (c. 4), “Hãy gọi…” (c. 9). Thời ấy người ta đi mời trực tiếp bằng miệng; keklçmenos (cc. 3.4.8) là những “người đã được mời/gọi”. Thiên Chúa gọi/mời qua miệng các tôi tớ là Ngài đề nghị với con người một chọn lựa, như Ngài đã mời gọi người vào vườn nho cho Ngài (20:8). Ngài để cho con người tự do quyết định.
Màn tiếp theo là những hành động đáp trả khác nhau của “những người đã được mời”; điểm chung của họ là không đến dự tiệc cưới. Trước tiên họ “không muốn đi” (c. 3) nghĩa là không muốn đến dự tiệc. Động từ “muốn” ở thì quá khứ chưa hoàn thành cho thấy đã nhiều lần họ không sẵn lòng đáp trả cách tích cực lời mời gọi liên tục của Thiên Chúa qua các tôi tớ của Ngài, “Ông sai các tôi tớ” (c. 3) và “lại sai các tôi tớ khác” (c. 4). Ở câu 23:37 Chúa Giêsu dùng hình ảnh ẩn dụ gà mẹ muốn qui tụ đàn con để ám chỉ điều nầy, “họ không muốn” (x. Ga 5:40).
Tiếp đến, “họ không đếm xỉa và bỏ đi” (c. 5). Trong các câu 4-6, Matthêô cho thấy những tương phản giữa hai bên. Về phía các tôi tớ của vua, họ cố gắng thuyết phục những người đã được mời nầy. Họ mở đầu câu đầu tiên bằng idou, “Nầy xem”, để lôi kéo sự suy xét (x. 10:16; 11:8; 22:4). Bữa tiệc của vua, “của tôi”, đã sẵn sàng; hetoimazô và tính từ hetoimos đóng khung câu nầy. Cách diễn tả “bò bê thú đã hạ” chỉ mọi sự sẵn sàng, và tiểu từ deute, “Hãy đến!” đầu câu hai dùng để khích lệ (21:38; 28:6); do đó chỉ còn một việc mà thôi là vào dự tiệc (x. Lc 15:23), “Hãy đến dự tiệc cướì!”. Thế mà, về phía những người đã được mời, thay vì họ “đến dự tiệc”, eis tous gamous, theo lời mời, họ lại “bỏ đi”, arperchomai, “ra đồng của họ”, eis ton idion argon. Tính từ idion, “riêng” đối lại với “ bữa tiệc của tôi” (nhà vua). Họ đi đến ruộng riêng của họ hơn là dự tiệc của vua. Động từ ameleô, “thờ ơ”, “không chú ý”, có đối tượng là lời mời của nhà vua. Họ chỉ quan tâm đến ruộng vườn và việc buôn bán của họ (c. 5). Sau cùng câu 6 mô tả họ đã đối xử bằng bạo lực với các tôi tớ, như các tá điền trong dụ ngôn trước (21:35.38). Trước sự từ chối ấy, bấy giờ vua ra tay hành động. Ngài hành động sau khi những người được mời đã quyết định. Việc họ bị tru diệt họ và thành họ bị thiêu hủy (21:41; 18:34) cho thấy sự chọn lựa của họ gắn liền với hậu quả. Vậy con người có tự do chọn lựa, nhưng lại không có tự do trước hậu quả/kết quả của chọn lựa ấy đến với họ.
Vua và những người từ các ngả đường (cc. 8-13)
Phần hai nầy dành nhiều chỗ cho lời nói và hành động của vua, cũng như cho các tôi tớ của ông. Những người được mời không có hành động nào được mô tả, ngoại trừ “thinh lặng” của người không mặc áo cưới (c. 12b).
Trước khi sai các tôi tớ đi lần nữa, vị vua đưa ra một đánh giá về “tiệc cưới” và “khách đã được mời”. Câu 8 được xem như chuyển tiếp sang phần hai của dụ ngôn tiệc cưới. “Tiệc cưới đã dọn sẵn” được lập lại ở đây, vì đến lúc nầy vẫn chưa có người vào dự tiệc cưới. Thiên Chúa đánh giá những người đã được mời là “đã không xứng đáng”, ouk axioi. Họ đã không xứng đáng vì đã từ chối mọi lời mời gọi. Họ không nghe theo lời mời gọi của các tôi tớ Ngài mà hoán cải, tin vào Chúa Giêsu Kitô để được dự tiệc Nước Trời (x. 3:8; 8:12). Bởi đó vua chọn người khác vào dự tiệc cưới.
Trong màn sai đi lần nầy, Matthêô dùng đến hai lần động từ ở thể mệnh lệnh trực tiếp “Hãy đi”, “Hãy mời/gọi” (c. 9). Động từ poreuomai, “đi” thay thế cho apostellô, “sai đi” (c. 3.4), chỉ sứ vụ đặc biệt mà Thiên Chúa ủy thác cho (2:20; 10:6; 21:2), và sứ vụ nầy liên quan đến những người chưa nhận biết Thiên Chúa (28:19); họ không phải là “những người đã được mời” (cc. 3.4.7). Dioxodos là “các đường từ đó các đường khác đi ra. Theo mạch văn của dụ ngôn, đó là những chỗ trước khi vào thành. Các con đường từ thôn quê dẫn đến đó và chấm dứt tại đó. Thành thử đó cũng là những đường đi về thôn quê (Obadiah 1:14; Ezek. 21:21). “Các ngả đường” theo nghĩa bóng tượng trưng cho lãnh thổ các dân tộc mà các tông đồ sắp đi đến” (THAYER).
Tuân theo lệnh vua, các tôi tớ đã hành động: họ “đi ra”các đường, và “tìm thấy”, “thu gom” người về dự tiệc; chủ vườn nho cũng đã làm tương tự là ông đã đi ra ngoài và đưa vào làm vườn nho tất cả những người ông tìm thấy ở bất cứ giờ nào (20:6.8). Matthêô trình bày là các tôi tớ đã thu gom tất cả những người họ tìm thấy; osous, “bất cứ người nào”, nhiều chừng nào có thể”; bất kể họ là “người tốt hay người xấu” (c. 10; 5:45); khác với Lc 14:21. Họ chính là dân tộc, ethnos, được nói đến trong 21:43; họ được ví những “tất cả các loại cá” được bắt vào trong lưới Nước Trời (13:47); họ là những người mà Cha trên trời cho mặt trời chiếu soi cho (5:45). Và phòng tiệc cưới đã đầy người dự tiệc.
Các câu 11-13 tiếp theo nói đến các hành động của vua đối với những người đã vào phòng tiệc cưới. Cảnh được mô tả trong các câu nầy được trình bày như khung cảnh phán xét trong ngày cùng tận mà chúng ta gặp thấy ở những nơi khác: Thiên Chúa sẽ xuất hiện và mọi người hiện diện trước mặt Ngài (x. 13:40-41; 22:10; 25:19), kẻ xấu sẽ tự phân biệt với người tốt qua việc họ đã làm đối với Thiên Chúa (24:48-50; 22:12; 25:24-25), và chịu hậu quả của việc họ đã làm “quăng ra ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng” (13:42; 13:49-50; 22:13; 24:51; 25:30). Như thế vua xuất hiện lúc nầy, sau khi phòng tiệc đã đầy (c. 11), là để tách người không mang y phục lễ cưới ra khỏi những người trong phòng tiệc (c. 12-12); lúc nầy được ví như lúc người ta ngồi xuống lựa cá (13:48; 25:32).
Người ta đặt ra vấn đề “y phục lễ cưới”. Thật sự không có một bằng chứng nào hiển nhiên trong kinh thánh cho biết là người đi dự tiệc cưới có mang y phục cưới hay không. Nếu có, làm sao những người được đưa vào từ các ngả ba đường có sẵn y phục? Nếu không có sẵn y phục, tại sao vua lại trừng phạt người nầy? Tuy nhiên, có một số chỗ trong kinh thánh ủng hộ cho lý chứng là có thể nhà vua đã cung cấp y phục cho những người đến dự tiệc cưới (x. Quan án 14:12; Est 6:8–9; Zach 3:3–5; Lc 15:22; Kh 19:8).
Đem so sánh cảnh sau cùng của dụ ngôn nầy (cc. 11.13) với các dụ ngôn khác về phán xét trong ngày cùng tận, chúng ta sẽ thấy có những điểm tương đồng. Và dựa trên những tương đồng ấy, có thể kết luận là vua đã cung cấp y phục cho người dự tiệc cưới. Trước hết là trước ngày phán xét Thiên Chúa đối xử mọi người giống nhau: các người quản lý đều được đặt lên coi sóc gia nhân (24:17); mọi người đều được nhận một số nén bạc nào đó tùy khả năng (25:14tt ); mười cô trinh nữ đều được đi đón chàng rễ (25:1); do đó, có thể nghĩ rằng những người đã được mời vào phòng tiệc (c. 11a) đều được vua cung cấp y phục lễ cưới, “Bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới?” (c. 12). Rồi khi đến ngày phán xét, các dụ ngôn đều cho thấy là có một số người không làm theo ý của Thiên Chúa: người quản lý không chu toàn bổn phận (24:49-51), người đem nén bạc đi chôn dấu (25:26-27), năm cô trinh nữ khờ dại không đem theo dầu dự phòng (25:9-10), và ở đây có “một người không mang y phục lễ cưới” (22:12). Vậy “y phục lễ cưới nầy” có thể hiểu như là một điều kiện người dự tiệc phải hoàn thành mới có thể thật sự dự tiệc cưới Nước Trời; tương tự như những nén bạc phải làm lợi, đèn dầu phải sẵn sàng...
Kết luận ở câu 14 áp dụng cho cả dụ ngôn. Cả hai hạng người, “người đã được mời” và những người từ các ngả đường, đều được Thiên Chúa mời vào dự tiệc cưới. Tất cả họ đều là klçtos. Tuy nhiên, eklektos là những người được tuyển chọn giữa những người được mời gọi nầy để tham dự tiệc cưới nầy (x. 24:31) thì không phải nhiều. Câu kết luận nầy không có ý nói đến số lượng, mà là một lời khuyến cáo. Lời khuyến cáo nầy áp dụng cho cả hai hạng người dụ ngôn đã đề cập đến. Với “những người đã được mời”, vì họ đã từ chối đến dự tiệc cưới, nên bị loại ra ngoài (x. 8:11-12). Với những người từ ngả ba đường, họ đã bằng lòng đến, nhưng không phải tất cả đều được chọn vào dự tiệc cưới, vì có người không “mang y phục lễ cưới”, nghĩa là không làm theo ý của Thiên Chúa, cũng bị loại ra ngoài.
Thiên Chúa vẫn mời gọi mọi người đến lãnh nhận ơn cứu độ. Nghe lời Thiên Chúa mời gọi để vào trong Hội Thánh Chúa Giêsu chưa đủ. Thực hiện thánh ý Thiên Chúa mới là bảo đảm để được chọn vào ơn cứu độ đời đời.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
------------------------------
Đây là lần thứ hai Chúa Giê-su dùng dụ ngôn để nói với các thượng tế và kỳ mục về Nước Trời: TN 28-A86
Đây là lần thứ hai Chúa Giê-su dùng dụ ngôn để nói với các thượng tế và kỳ mục về Nước Trời . Lần trước trong dụ ngôn các tá điền gian ác, Chúa Giê-su đã tố cáo những nhà lãnh đạo Ít-ra-en không nhìn nhận sứ mệnh cứu độ của Người và không mở lòng đón nhận Nước Trời. Hôm nay, Chúa Giê-su dùng một dụ ngôn khác để trình bày cùng một sự tố cáo giống như lần trước, đó là dụ ngôn tiệc cưới. Vườn nho và tiệc cưới là những hình ảnh quen thuộc trong Cựu Ước diễn tả Thiên Chúa quy tụ dân được Người tuyển chọn. Với dụ ngôn tiệc cưới, Chúa Giê-su nhấn mạnh đến chỗ đứng của Người trong Nước Trời và việc tham dự vào Nước Trời của tất cả những ai được mời gọi.
1. Ngôn sứ I-sai-a tiên báo về Nước Trời (bài đọc Cựu Ước – Is 25:6-10a)
Thế giới sống trong một cảnh tượng buồn thảm. Đói khát dằn vặt mọi người. Tất cả đều sống gò bó trói buộc sau “chiếc khăn che phủ mọi dân” và “tấm màn trùm lên muôn nước”. Tử thần chẳng để một ai thoát được lưỡi hái của nó. Lệ chảy không ngừng và nỗi nhục nhã không sao diễn tả. Quả thực đây là những hậu quả do tội nguyên tổ và tội lỗi của con người đã gây nên, những hậu quả không ai trong nhân loại có thể tiêu diệt được.
Nhưng bỗng nhiên ngôn sứ I-sai-a loan báo cho nhân loại một tin vui trọng đại. Thiên Chúa sẽ xóa bỏ tất cả những nỗi cơ cực buồn đau của nhân loại. Người sẽ đập tan tội lỗi và những hậu quả tàn khốc do nó gây nên. Những điều ấy Thiên Chúa sẽ thực hiện vào một ngày nào đó “khi thời gian đã mãn” và “trên núi này”. Người thực hiện những điều ấy qua Chúa Ki-tô, Đấng do Người sai đến để thiết lập một cuộc tạo dựng mới. Để xóa đi những đói khát của nhân loại, không chỉ đói khát thể chất, nhưng nhất là đói khát tinh thần, đói khát chân lý và bình an, Thiên Chúa sẽ ban cho họ một bữa tiệc thịt béo rượu ngon. Nước Thiên Chúa dưới sự lãnh đạo của Chúa Ki-tô sẽ là một bữa tiệc phong phú. “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10), hoặc “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:51). Bóng tối và màn che bao trùm nhân loại sẽ bị xua đi, vì “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8:12). Dòng lệ không còn lăn trên khuôn mặt mọi người, thay vào đó là niềm hân hoan. “Bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em không ai lấy mất được” (Ga 16:22).
Ngôn sứ I-sai-a nhấn mạnh đến “ngày ấy”, ngày Thiên Chúa đến ở giữa nhân loại (Emmanuel) để mọi người được nhận biết ơn cứu độ. Giới thiệu Chúa Cứu Thế ngự đến trần gian, ngôn sứ loan báo: “Ngày ấy, người ta sẽ nói: ‘Đây là Thiên Chúa chúng ta… Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ’” (Is 25:9). Bữa tiệc Thiên Chúa đãi muôn dân sẽ được thực hiện để đem lại sự sống và niềm hạnh phúc cho nhân loại, nhưng cũng là dịp để loài người nhận ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Bữa tiệc Thiên Chúa đãi vào “ngày ấy, trên núi này” sẽ là tiệc cưới Nước Trời, một dụ ngôn do Chúa Giê-su kể để mời gọi mọi người đến dự phần vào ơn cứu độ.
2. Chúa Giê-su kể dụ ngôn Tiệc cưới để nói về việc đón nhận Nước Trời (bài tin Mừng – Mt 22:1-14)
Điểm đầu tiên khiến ta chú ý là Chúa Giê-su “dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân”. Thánh Mát-thêu hiểu rằng sở dĩ Chúa nói dụ ngôn tiệc cưới cho nhóm thượng tế và kỳ mục, vì chính họ là đám quan khách được mời nhưng không đến, thậm chí còn giết hại những người được sai đến để mời họ. Họ đã khinh thường tính cách quan trọng của tiệc cưới. Trước hết tiệc cưới là quan trọng vì do vua đãi, cho nên từ chối không dự ngay cả khi có lý do chính đáng cũng là điều không nên làm. Thế mà đám quan khách lại “không thèm đếm xỉa tới và bỏ đi”! Một số khác còn khinh thường nhà vua đến độ dám “hành hạ và giết chết” những người được vua sai tới để mời họ. Tiếp đến, tiệc cưới quan trọng vì là tiệc cưới của hoàng tử, lại còn là hoàng tử duy nhất của vua. Do đó, đám quan khách khinh thường luôn cả hoàng tử nữa. Hậu quả của việc khinh thường ấy là: “Nhà vua bèn nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng”. Dụ ngôn không có ý nói nhà vua thiếu lòng nhân từ nên đã tiêu diệt bọn sát nhân, nhưng là bọn sát nhân ấy đáng lãnh nhận hình phạt do tội ác chính họ đã gây nên.
Chắc chắn đám thính giả thượng tế và kỳ mục đã hiểu Chúa Giê-su nói dụ ngôn tiệc cưới ám chỉ họ chính là đám quan khách gian ác kia, vì “bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su phải lỡ lời mà mắc bẫy” (Mt 22:15). Có tật giật mình nên họ mới bàn nhau tìm cách chống lại Chúa Giê-su! Tuy nhiên câu truyện dụ ngôn cũng có thể áp dụng cho bất cứ ai được mời gọi nhưng từ chối không tiếp nhận Nước Trời. Đặc biệt phần tiếp theo của câu truyện, kể lại việc vua tiến vào quan sát tiệc cưới, nhận thấy một người không mặc y phục lễ cưới nên truyền cho những người phục dịch lôi cổ tên ấy ra ngoài và giam vào chỗ tối tăm, làm cho ta nghĩ rằng cách hành xử của ông vua liệu có hợp lý hay không. Nhưng dụ ngôn không nhất thiết phải là một câu truyện “hợp lý”, mà chỉ đơn thuần là một câu truyện được dùng để nói lên một điều gì đó người kể muốn nói hoặc người nghe muốn nghe. Do đó, người khách dự tiệc không mang y phục lễ cưới có thể là một câu truyện được thêm vào để nói về thái độ dấn thân trọn vẹn cho việc tiếp nhận Nước Trời. Nói khác đi, đã nhận ân sủng trở thành con cái Chúa trong Giáo Hội thì Ki-tô hữu phải tiếp tục trung thành với ơn gọi và sống xứng đáng một Ki-tô hữu đích thực cho đến chết, chứ không thể sống nửa vời rồi đến giờ chết mới phân bua với Chúa: Chúa ơi, con không kịp mặc áo cưới!
Tuy dụ ngôn nhấn mạnh đến thái độ tiếp nhận ơn cứu độ, nhưng cũng không bỏ qua dịp nói lên tính cách phong phú và phổ quát của ơn cứu độ. Giống như bữa tiệc có thịt béo rượu ngon được ngôn sứ I-sai-a tiên báo, bữa tiệc ơn cứu độ trong dụ ngôn của Chúa Giê-su cũng đề cập đến sự dồi dào và phổ quát của ơn cứu độ. “Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!” (Mt 22:4). Nghĩa là “Nước Trời đã đến gần”, ở trong tầm tay của mọi người, bởi vì Vua vũ trụ đã sai các đầy tớ đi mời: “Các ngươi hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới!” (Mt 22:9). Ơn cứu độ càng phong phú thì càng chứng tỏ tình yêu thương Thiên Chúa dành cho ta thật là lớn lao vô biên.
3. Tiếp nhận Nước Trời là nhận biết tình yêu bao la của Thiên Chúa (bài đọc Tân Ước – Pl 4:12-14.19-20)
Tiếp nhận Nước Trời hoặc tiếp nhận tình yêu cứu độ là ý mong mỏi của Thiên Chúa. Ta có thể hiểu được tâm trạng không vui của ông vua khoản đãi tiệc cưới khi những quan khách được mời đã từ chối không đến. Ta cũng hiểu được nỗi thất vọng của hoàng tử khi thấy khách mời đã không nể vua cha và cũng chẳng tôn trọng mình. Suy nghĩ về việc tiếp nhận ơn cứu độ, thánh Phao-lô tông đồ cảm nghiệm được sự giàu sang của Thiên Chúa, giàu sang về lòng nhân từ thương xót. Ngài cảm nghiệm điều ấy ngay trong những nhu cầu cuộc sống của ngài. Trong bất cứ hoàn cảnh sống nào, no hay đói, thiếu thốn hay dư dật, ngài đều nhận ra một điều là Thiên Chúa luôn ban cho ngài sức mạnh và ơn can đảm để tập quen, để chịu dựng. Hơn thế nữa ngài còn xác tín ơn Chúa không chỉ dồi dào cho riêng ngài, mà còn phong phú đối với những anh chị em Ki-tô hữu đã quảng đại “chia sẻ” và giúp đỡ ngài. Tuy nhiên ngài không quên nhắc nhở ta rằng sự giàu sang của Thiên Chúa được biểu lộ “trong Đức Ki-tô Giê-su”, nghĩa là nếu ta tiếp nhận Chúa Ki-tô là ta tiếp nhận kho tàng giàu sang của chính Thiên Chúa vậy. Nhận thức Chúa Ki-tô là sự giàu sang phong phú của Thiên Chúa, thánh Phao-lô đã “coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người” (Pl 3:8-9a). Thánh Phao-lô thường kêu gọi ta hãy bắt chước ngài. Ngài không ngừng rao giảng về sự phong phú của tình yêu Thiên Chúa, mà còn sống và chia sẻ tình yêu ấy. Ngài “tôn vinh” Thiên Chúa giàu lòng thương xót và lúc nào cũng muốn nói cho mọi người biết và lãnh nhận lòng thương xót ấy. Đứng trước một Thiên Chúa như thế, ta không còn lời nào thích hợp hơn là lời chúc tụng: “Xin tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta, đến muôn thuở muôn đời! A-men.” (Pl 4:20).
4. Sống Lời Chúa
Vì yêu thương ta, Chúa đã dọn sẵn bàn tiệc ơn cứu độ để thỏa mãn khát vọng được hạnh phúc muôn đời của ta. Bàn tiệc ấy trước hết là Giáo Hội Chúa Ki-tô. Mọi người được mời gọi lãnh nhận áo trắng bí tích Rửa tội để làm con Chúa, giống như khách dự tiệc mang y phục lễ cưới trong tiệc cưới hoàng tử. Tấm áo trắng là biểu tượng cho căn tính Ki-tô của ta. Tiệc cưới cũng là bàn tiệc Thánh Thể để ta đến dự và lãnh nhận tình yêu phong phú của Thiên Chúa, nhất là được kết hợp với Hoàng Tử Bình An là Chúa Ki-tô. Noi gương thánh Phao-lô, ta cố gắng đánh đổi mọi sự để được Đức Ki-tô là gia nghiệp Thiên Chúa Cha ban cho ta ngay tại đời này và đời sau.
Suy nghĩ: Cuối dụ ngôn, Chúa Giê-su kết luận: Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít. Tôi có coi lời này như một cảnh cáo cho chính mình không? Tôi có giống như người khách được mời không mang y phục lễ cưới không? Nói khác đi, căn tính Ki-tô của tôi còn hay mất? Tôi phải sống thế nào để duy trì và biểu lộ căn tính ấy?
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì Ân Sủng Chúa là Đức Ki-tô vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 28 mùa Thường niên).
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
------------------------------
Is 25,6-10a ; Pl 4,12-14.19-20 ; Mt 22,1-14
LÀ Y PHỤC DỰ TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 22,1-14
(1) Đức Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: (2) “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. (3) Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. (4) Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: “Này cỗ bàn, ta đã dọn xong. Bò tơ và thú béo đã hạ rồi. Mọi sự đã sẵn. Mơi quý vị đến dự tiệc cưới !” (5) Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: Kẻ thì đi thăm trại, người thi đi buôn. (6) Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. (7) Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy, và thiêu hủy thành phố của chúng. (8) Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. (9) Vậy các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới. (10) Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. (11) Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát thực khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục tiệc cưới (12) mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?” Người ấy câm miệng không nói được gì. (13) Bấy giờ, nhà vua bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng ! (14) Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”.
2. Ý CHÍNH: DỤ NGÔN TIỆC CƯỚI
Đức Giê-su trình bày dụ ngôn tiệc cưới, ám chỉ lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa qua hai giai đoạn chính: TN 28-A87
Đức Giê-su trình bày dụ ngôn tiệc cưới, ám chỉ lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa qua hai giai đoạn chính như sau:
Đầu tiên Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi dân riêng Ít-ra-en gia nhập vào Nước Trời do Đấng Thiên Sai thiết lập, nhưng họ đã từ chối tình thương cứu độ của Người. Sau đó Thiên Chúa đã mời gọi tất cả các dân tộc gia nhập Nước Trời. Tuy nhiên muốn được tham dự vào bàn tiệc Nước Trời đời sau người ta tối thiểu phải mặc y phục lễ cưới, tức là phải có “lòng ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng” do Chúa Giê-su rao giảng. Ai cố tình không mặc y phục lễ cưới sẽ không được vào dự tiệc Nước Trời và còn bị phạt trong hỏa ngục muôn đời.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Nước Trời giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình: Thiên Chúa khai mở bữa tiệc thời Thiên Sai bằng việc cho Con Một Người xuống thế làm người (x. Mt 24,1-12; Kh 19,9). Tuy dụ ngôn về tiệc cưới của hoàng tử, nhưng lại đề cập nhiều đến thái độ phải có của các khách được mời đến tham dự. + Nhà vua sai đầy tớ: Đầy tớ ám chỉ các ngôn sứ (x. ls 25,6). + Đi thỉnh các quan khách đã được mời trước: Quan khách ám chỉ dân Ít-ra-en được Thiên Chúa ưu tuyển. + Nhưng họ không chịu đến: Các đầu mục đã hướng dẫn dân Ít-ra-en khinh thường lời mời của Thiên Chúa.
- C 4-6: + Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi: Điều này cho thấy lòng khoan dung của Thiên Chúa. Ngài luôn kiên nhẫn trước thái độ bất trung ngỗ nghịch của Ít-ra-en dân riêng của Ngài. + Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: Họ không đếm xỉa tới lời mời vì không tin vào các ngôn sứ do Thiên Chúa sai đến. + Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn: Đi thăm trại hay đi buôn bán là những lý do biện minh cho hành động không đến tham dự bữa tiệc cưới, cho thấy dân ít-ra-en đã coi trọng của cải vật chất và các việc trần gian hơn lời hứa cừu độ của Thiên Chúa. + Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết: Các đầu mục đã xúi dân bắt bớ giết hại các ngôn sứ là những gia nhân do Thiên Chúa sai đến. Điều này cho thấy tội bất trung của họ đã lên đến tột cùng và đáng bị trừng phạt.
- C 7-8: + Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ: Sự dửng dưng, từ chối và còn giết hại các ngôn sứ thời Cựu ước và các Tông đồ thời Tân ước khiến cho Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ. + Sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy: Sự cố chấp chống lại tình thương cứu độ, khiến dân Do Thái không còn xứng đáng được hưởng sự khoan dung nữa và đáng bị trừng phạt. + Và thiêu hủy thành phố của chúng: Việc thiêu hủy thành phố ám chỉ biến cố thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy bình địa vào năm 70 sau Công nguyên. Điều này cho thấy Tin mừng Mát-thêu được biên sọan vào sau năm 70, khi ấy tác giả đã được chứng kiến cảnh hoang tàn đổ nát của thành Giê-ru-sa-lem. + Những kẻ đã được mời lại không xứng đáng: Ơn cứu độ đã được hứa ban cho dân Ít-ra-en, nhưng họ lại không đáng được hưởng do thái độ dửng dưng và từ chối gia nhập vào Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập.
- C 9-10: + Vậy các ngươi đi ra các ngả đường: Nhắc lại lệnh của Đức Giê-su truyền cho các môn đệ trước khi về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Ra các ngả đường còn nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ như lời Đức Giê-su: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngòai, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 8,11-12). + Gặp ai bất luận xấu tốt cũng tập hợp cả lại: Câu này cho thấy ý của Thiên Chúa là muốn cho tất cả mọi người đều được vào Nước Trời (x. Mt 9,13). + Phòng tiệc cưới đã đầy thực khách: Từ nay Hội thánh gồm đủ mọi dân tộc và mọi thành phần tốt xấu trong xã hội. Ở đây cũng nhắc lại ý nghĩa của dụ ngôn Cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) và Chiếc lưới (x. Mt 13,47-50).
- C 11-12: + Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc: Sự quan sát ám chỉ cuộc phán xét cuối cùng của Đức Giê-su, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm “Chúa” (x. Pl 2,6-11) và làm “Vua” xét xử muôn dân (x. Mt 25,31-46). Tuy “Hội thánh lữ hành” ở trần gian còn bao gồm cả người tốt lẫn kẻ xấu, nhưng “Hội thánh chiến thắng” trên trời lại chỉ gồm những người đã trải qua cuộc phán xét chung. Khi ấy chỉ những người có đức tin, thể hiện qua lối sống khiêm tốn phục vụ mới được tham dự bàn tiệc Nước Trời. + Có một người không mặc y phục lễ cưới: Trong Thánh Kinh không chỗ nào đề cập đến tục lệ chủ nhà sắm quần áo cưới cho quan khách đến dự tiệc mặc trước khi vào phòng tiệc nhưng chỉ cần họ ăn mặc lịch sự là đủ. Y phục lễ cưới ở đây ám chỉ chiếc áo trắng chiến thắng (x. Kh 7,9b), áo chính trực công minh (x. Is 61,10) và công chính (x. Mt 5,16.20), tượng trưng con người mới công chính thánh thiện (x. Ep, 4,24), giống như Hiền thê được trang điểm và được mặc áo sáng chói tinh tuyền đi đón Con Chiên (x. Kh 19,8). Tóm lại, y phục lễ cưới chính là chiếc áo trắng tinh khi chịu phép rửa tội. + Người ấy câm miệng không nói được gì: Người không mặc y phục lễ cưới đã không thể biện minh cho thái độ khinh thường chủ tiệc của mình.
- C 13-14: + Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: Đây là những hình phạt tượng trưng cho hỏa ngục, nơi dành cho những kẻ sống bất chính và thù ghét Thiên Chúa. Nơi đó họ sẽ phải khóc lóc đau khổ và nghiến răng tủi hờn. + Kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít: Nhiều ít không phải về số lượng, nhưng đúng hơn là sự non kém. Nên câu này có thể được dịch lại như sau: “Kẻ được gọi thì đông hơn, và người được chọn thì ít hơn”. Câu này lẽ ra được đặt ngay sau dụ ngôn Tiệc Cưới. Vì người được gọi thì rất nhiều “chật ních phòng tiệc”, và chỉ có người được mời trước từ chối và “một người không mặc áo cưới bị loại ra mà thôi (x. Lc 13,22-30). Việc người được gọi thì nhiều mà được chọn thì ít không phải do Thiên Chúa không mời, nhưng tại loài người đã cố tình từ chối lời mời của Thiên Chúa, hay vì không mặc áo cưới công chính tinh tuyền, không sống giới răn yêu thương của Chúa Giê-su (x. Mt 3,8 ; 5,20 ; 7,21 ; 13,48 ; 21,32).
4. HỎI ĐÁP:
- Hỏi 1: So sánh dụ ngôn Tiệc cưới trong hai Tin mừng Mát-thêu (22,1-14) và Lu-ca (14,16-24), ta thấy Tin mừng Lu-ca không nói đến việc ông vua phát hiện ra có một kẻ không mặc áo cưới và trừng phạt y. Vậy Tin mừng nào thuật lại đúng hơn ?
ĐÁP:
Ngày nay một số nhà chú giải nghĩ rằng: dụ ngôn Tiệc Cưới do Đức Giê-su giảng thực ra đã chấm dứt ngay sau khi vua cho mời những kẻ nghèo khó, tàn tật mù què vào đầy phòng tiệc, để thế chỗ cho những kẻ được mời mà không đến (x. Lc 14,16-24; Mt 22,1-10). Còn phần sau trong Tin mừng Mát-thêu (22,11-14) thực ra là một dụ ngôn khác, là dụ ngôn “Áo Cưới”, nhưng đã được đặt liền sau dụ ngôn “Tiệc Cưới”.
- Hỏi 2: Ông vua có bất công không khi phạt một người khách không mặc y phục lễ cưới chỉ vì bất ngờ được mời, nên không có thời gian chuẩn bị trước. Hơn nữa, do được mời ở ngã ba đường và bị ép vào phòng tiệc, thì lấy đâu ra áo cưới ?
ĐÁP:
Những ai nhận đây là hai dụ ngôn được ghép lại thành một thì sẽ không thắc mắc gì về vấn đề áo cưới, vì ai cũng có thời giờ chuẩn bị trước ở nhà. Tuy nhiên ngay cả trường hợp được mời đột xuất thì việc phạt người không mặc áo cưới cũng không phải là bất công. Vì tại sao bao nhiêu người khác cũng được mời bất ngờ như vậy mà vẫn mặc y phục lễ cưới ? Hơn nữa, khi bị hạch hỏi, người không mặc áo cưới này lại làm thinh, không bào chữa gì được cho hành vi của mình. Nhưng đây cũng chỉ là một câu chuyện dụ ngôn, nhằm dạy bài học hơn là chú ý đến các chi tiết xác thực. Điều dụ ngôn muốn nói là: Người khách không mặc áo cưới là một kẻ xấu xa gian ác, cố tình không sám hối, nên hắn ta đáng bị vua trừng phạt trong hỏa ngục đời đời.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?” Người ấy câm miệng không nói được gì (Mt 22,11-12).
2. CÂU CHUYỆN: Y PHỤC CỦA SỰ HÂN HOAN, YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ
Để trả lời cho những người muốn biết Nước Trời ở đâu, Đức Giê-su đã dạy: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,21). Như vậy, mỗi gia đình, cộng đoàn hay bất cứ tập thể nào cũng có thể trở thành thiên đàng hay hỏa ngục. Có người đã tưởng tượng ra cảnh thiên đàng và hỏa ngục tương tự như hai bàn tiệc sau đây:
Cả hai bàn tiệc trên thiên đàng hay dưới hỏa ngục đều có đầy thức ăn ngon, và mỗi người đều được phát một đôi đũa. Có điều các đôi đũa đều dài quá khổ, đến nỗi tuy người ăn có thể gắp được đồ ăn trên bàn, nhưng lại không sao đưa được vào miệng của mình. Trong bàn tiệc trên thiên đàng thì mọi người đồng bàn đều có lòng vị tha bác ái, thể hiện qua thái độ phục vụ người khác và làm vui lòng người khác. Họ gắp đồ ăn lẫn cho nhau, nên mọi người đều được ăn no và không khí bàn tiệc rất vui vẻ bình an và hạnh phúc. Ngược lại, tại bàn tiệc trong hỏa ngục thì mọi người đồng bàn đều có thái độ ích kỷ khi chỉ nghĩ đến mình. Vì không thể tự đưa đồ ăn vào miệng, và lại ganh tị không muốn người khác hơn mình, nên mọi người trong bàn tiệc đều bị đói, và hậm hực thù ghét lẫn nhau. Bầu khí nơi bàn tiệc lúc thì căng thẳng, lúc lại nặng nề khiến trong số các kẻ ngồi ăn: Người thì chán nản khóc lóc, kẻ lại nghiến răng giận hờn.
3. SUY NIỆM:
1) THIÊN CHÚA BAN ƠN CỨU ĐỘ CHO LOÀI NGƯỜI QUA HAI GIAI ĐOẠN:
a- Đầu tiên : Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến với dân It-ra-en báo tin về một Đấng Thiên Sai sẽ đến thiết lập một “Triều Đại của Thiên Chúa”, và mời dân này gia nhập. Khi gần đến ngày đã định, Thiên Chúa lại sai Gio-an Tẩy Giả là vị tiền sứ của Đấng Thiên Sai đến nhắc lại lời mời gọi ấy như sau: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). Nhưng dân Ít-ra-en vẫn tỏ thái độ thờ ơ và vua Hê-rô-đê đã giết hại Gio-an và về sau dân này còn hè nhau giết hại chính Người Con do Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su.
b- Tiếp đến : Trước sự cứng lòng từ chối ơn cứu độ của dân Ít-ra-en, Thiên Chúa đã mời hết mọi dân tộc tham dự tiệc cưới Nước trời như lệnh truyền của Đức Giê-su trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Sau khi nhận ơn Thánh Thần, các Tông đồ đã thi hành sứ mạng rao giảng Tin mừng khắp muôn dân. Nhờ Thánh Thần tác động mà số người gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng.
2) ĐÁP LẠI LỜI MỜI CỦA THIÊN CHÚA THẾ NÀO ? :
a- Phải mặc y phục lễ cưới:
Chúng ta vốn là dân ngoại, nhưng đã đáp lại lời mời của Đức Giê-su để gia nhập vào Hội thánh (x. Mc 1,15). Nhưng muốn được tham dự bàn tiệc Nước Trời đời sau, chúng ta cần mặc chiếc áo trắng tinh khi chịu phép rửa tội và sống đức tin bằng việc thực thi đức cậy và đức mến (x. Mt 7,21; Lc 11,28). Thực ra, Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn được nên con cái của Người, là để chúng ta sống xứng với ơn ấy. Cần hoán cải và canh tân mỗi ngày (x. Mt 3,2), cần sống khiêm tốn, yêu thương và phục vụ Chúa trong người chung quanh, nhất là những người bệnh tật, nghèo khổ và bị bỏ rơi (x. Lc 17,10; Mt 25,34), chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng (x. 1 Cr 9,16). Mỗi tối khi tự kiểm trước khi đi ngủ, chúng ta hãy tự hỏi: Hiện giờ tấm áo trắng rửa tội của tôi có còn tinh tuyền không ? Hôm nay tôi đã sống giới răn mến Chúa yêu người như thế nào ? Giả như đêm nay Chúa gọi tôi về trình diện, thì tôi có đủ điều kiện tham dự bàn tiệc Nước Trời là Thiên đàng hay không ?
b- Y phục lễ cưới là thực hành ba nhân đức đối Thần là “Tin, Cậy, Mến”:
Thánh Phao-lô khuyên đồ đệ Ti-mô-thê : “Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến, phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng, và đức tin không giả hình” (1 Tm 1, 5). Đó chính là y phục lễ cưới Nước Trời. Trong lễ nghi Rửa tội, tấm áo trắng được trao cho người tân tòng mặc vào biểu tượng sự sống mới được Chúa Giê-su mang lại nhờ cái chết trên cây thập giá của Người. Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới theo Chúa Ki-tô. Tất cả những ai muốn được dự Tiệc Cưới của Chúa Giê-su do Chúa Cha khoản đãi, đều phải có được lối sống Tin Cậy Mến này.
c- Các tín hữu cũng cần nhìn lên những điều cao siêu trên trời:
+ Câu chuyện ngụ ngôn về một con chim đại bàng như sau:
Một con gà rừng mẹ đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ trứng của nó có một trứng to của chim đại bàng. Khi đến ngày giờ, các quả trứng đều nở ra thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên các chú gà rừng như anh chị em ruột trong gia đình gà rừng.
Một ngày kia, khi đang bới móc trong đống rác kiếm ăn giun đất chung với đàn gà rừng, đại bàng con chợt thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không với dáng vẻ oai phong đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ rằng:
- Mẹ ơi, sao bọn mình lại không bay lên cao như chim đại bàng trên trời kia hả mẹ ?
- Chúng ta không phải đại bàng nên không thể bay lên được con ạ !
- Thế chúng ta là ai hả mẹ ? Đại bàng con hỏi tiếp.
- Chúng ta chỉ là loài gà rừng mà thôi !
Rồi vài ngày sau đó, khi đang khi bươn chải kiếm ăn trên đống rác, đại bàng con lại thấy chim đại bàng mẹ bay lượn trên cao gọi cậu:
- Hãy bay lên cao với mẹ hỡi con của ta ! Thế giới của con là trời cao biển rộng, chứ đâu phải đống rác nhơ bẩn dưới đó ! Mau bay lên với mẹ đi con.
Đại bàng con cố đập cánh bay lên theo lời mẹ gọi, nhưng bay được vài cái là lập tức bị rơi xuống đất giữa tiếng cười chế nhạo của anh em gà rừng. Bọn chúng bảo đại bàng con rằng:
- Chú chỉ là loài gà rừng, làm sao bay lên cao được hả chú bé ?
Đại bàng con tự nhủ : Nếu ta chỉ là gà rừng thì sao mẹ đại bàng trên cao kia cứ gọi ta là đại bàng con ? Đàng khác, ta thấy bay lên cao cũng đâu phải quá khó ! Có lẽ tại ta chưa tập thành thạo đó thôi. Vậy bây giờ ta thử bay thêm lần nữa xem sao.
Thế là đại bàng con đủ lông đủ cánh đã bay được lên trời và cứ tiếp tục bay lên cao mãi. Cậu bay theo sau đại bàng mẹ tiến về một phương trời mới. Lần đầu tiên trong đời, đại bàng con được nhìn xuống đất từ trên cao. Cậu cản thấy lòng tràn ngập niềm vui vẻ hạnh phúc.
+ Kitô hữu là người được Thiên Chúa tuyển chọn để nên con cái của Ngài. Họ là « Giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chua » (1 Pr 2,9). Tuy sống trong thân phận con người trần gian, nhưng luôn ngước mắt nhìn lên trời cao, mong về cùng Thiên Chúa Cha đầy tình yêu thương. Cần sống trong tâm tình của thánh Au-gút-tinô như sau: ”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa.Và tâm hồn con vẫn còn thao thức mãi, cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”.
+ Chúng ta đừng nghĩ mình là loài gà rừng hèn hạ, để chỉ biết cúi đầu bươi chải đống rác hôi thối để tìm kiếm thức ăn, chỉ biết bằng lòng với những hạnh phúc tầm thường chóng qua do tiền tài danh vọng sắc dục mang lại. Tuy trước mắt đồ ăn có vẻ hợp khẩu vị đấy, nhưng chúng chỉ có giá trị nhất thời ở đời này. Khi chết là chấm dứt mọi sự. Chúng ta cần phải nhìn lên cao, cố gắng tập vươn tâm hồn lên những gì là cao thượng, phù hợp với Thiên đàng đời sau như lời thánh Phao-lô dạy: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
4. THẢO LUẬN:
1) Thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16b). Vậy thiên đàng ở đâu ? 2) Bạn có thể làm cho gia đình hay cộng đoàn của bạn trở thành thiên đàng được không ? 3) Theo Tin Mừng Mát-thêu (Mt 25,40-45): Để tránh bị Chúa trừng phạt trong ngày tận thế, ngay từ bây giờ bạn phải làm gì ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Xin cho con biết luôn quên mình để làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa. Xin cho con biết khiêm hạ, luôn làm việc để tôn vinh Thiên Chúa và vì phần rỗi tha nhân.
- Lạy Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong tình thương của Chúa. Ước gì con biết đón nhận tất cả những gì xảy đến cho con và trung thành bước theo Chúa đến cùng. Xin đừng để điều gì thuộc trần gian quyến rũ con lạc xa Chúa. Xin hãy thương xót con và giúp con thêm lòng tin yêu Chúa. Xin hãy giúp con biết noi gương Chúa làm và sống lời Chúa dạy, hầu sau này con đáng được hưởng kiến Thánh Nhan Chúa Cha trên trời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
------------------------------
(Mát-thêu 22: 1-14)
Những dụ ngôn “vườn nho” đã cho ta một ý niệm rõ ràng về việc Thiên Chúa thiết lập Nước: TN 28-A88
Những dụ ngôn “vườn nho” đã cho ta một ý niệm rõ ràng về việc Thiên Chúa thiết lập Nước Trời, Triều Đại của Đấng Cứu Thế, và Người quảng đại mời gọi mọi người không trừ ai hãy tham dự vào Nước ấy. Để nói lên việc đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, Chúa Giê-su nói dụ ngôn tiệc cưới. Câu truyện có một kết thúc khác thường khiến cho các học giả Kinh Thánh nghĩ rằng kết thúc này được thánh Mát-thêu lấy từ một câu truyện nào đó và ráp lại thành một câu truyện, nhằm diễn tả hai điều: phần thứ nhất của câu truyện (câu 1-10) nói về việc Chúa gọi Ít-ra-en và Dân ngoại vào Nước Trời, và phần thứ hai (câu 11-14) nói về việc đáp ứng của mỗi người trước lời mời gọi ấy. Vậy ta cứ để qua một bên những điểm xem ra không thích hợp với lối suy nghĩ thường tình, để có thể nhận ra được sứ điệp thực sự câu truyện muốn nói.
a) Thiên Chúa khai mở Triều Đại cứu thế cho nhân loại
Triều Đại Thiên Chúa hay Nước Trời được Chúa Giê-su mô tả bằng những hình ảnh khác nhau như vườn nho, mẻ lưới cá, tiệc cưới... Hôm nay, có lẽ ta cảm nghiệm được vẻ trịnh trọng của Chúa Giê-su khi Người mở đầu câu truyện dụ ngôn tiệc cưới bằng những lời sau đây: “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình”. Chắc chắn Người ám chỉ Chúa Cha là vua và Người là con. Mỗi khi nói về những gì Chúa Cha làm, bao giờ Chúa Giê-su cũng nói với một vẻ trịnh trọng, tôn kính và tâm tình cảm tạ. Ta có thể lấy sự kiện Chúa giảng tại hội đường Na-da-rét làm thí dụ.
Chúa Giê-su vào trong hội đường và tuyên đọc đoạn Sách Thánh ngôn sứ I-sai-a 61:1-2. Thánh Lu-ca đã kể lại bầu khí trịnh trọng này như sau: “Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: ‘Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe’. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” (Lc 4:20-22). Chúa Giê-su công bố công việc của Chúa Cha bắt đầu được thực hiện và vai trò của Người trong kế hoạch nhiệm mầu của Chúa Cha. Đây là một Tin Vui cho nhân loại.
Khi kể dụ ngôn tiệc cưới, Chúa Giê-su đã mô tả thái độ quảng đại và ân cần của nhà vua giống hệt như thái độ của gia chủ vườn nho chăm sóc lo lắng cho những người thợ thất nghiệp. Ưu tư duy nhất của nhà vua là phải làm sao cho tiệc cưới thật linh đình, một điểm độc đáo để nói lên lòng quảng đại của ông. Trước hết, nhà vua quảng đại với chính con mình. Ông đã không ngại bỏ ra một số tiền lớn để chi phí, miễn sao con mình được vui. Ông cũng quảng đại cả với những người không đáng đến dự tiệc. Có thuở nào mời khách đến dự tiệc cưới mà lại sai các đầy tớ “đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”? Chỉ người điên khùng mới làm chuyện đó. Thế mà Chúa Giê-su áp dụng hình ảnh ấy cho Chúa Cha, Đấng “đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình” làm giá chuộc tội họ. Không ai hiểu được lý lẽ của con tim Thiên Chúa!
Chắc chắn phải là một tiệc cưới linh đình, vì Thiên Chúa muốn khai trương một triều đại mới của Người. Triều đại cũ đã đến hồi bế tắc, không thể tiếp tục thực thi được kế hoạch yêu thương của Người nữa. Vẫn còn trở ngại trong quan hệ giữa con người với Thiên Chúa và khoảng cách không nối liền được. Cho nên Thiên Chúa đã sai Con Một đến để khai thông, mở ra một con đường mới dẫn con người đến với Thiên Chúa. Ta hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời Chúa Giê-su: Ta là đường, sự thật và sự sống. Người ta tưng bừng khánh thành một xa lộ mới và dân chúng thật vui vì từ nay họ không phải chạy vòng nữa. Cũng vậy, hôm nay, Thiên Chúa mở hội tiệc cưới giữa Con Một Người với nhân loại, bắt đầu cho một triều đại tràn đầy ân sủng (grace upon grace).
b) “Tại sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?”
Chắc chắn thánh Mát-thêu không có ý để ta tranh luận về điểm xem ra thật vô lý này. Đang ở ngoài đường rồi đột xuất được mời đến dự tiệc cưới thì làm sao có y phục lễ cưới được! Dụ ngôn không phải là câu truyện có lý hay vô lý, mà là câu truyện được dùng như phương tiện để chuyên chở một hay nhiều sứ điệp. Vậy thánh sử muốn ta đi vào sứ điệp của đoạn kết này, là việc mang y phục lễ cưới tượng trưng cho tác phong của khách dự tiệc, hoặc nói khác đi, tượng trưng cho lối sống của Ki-tô hữu, những người đã được Thiên Chúa quy tụ trong Giáo Hội Chúa Ki-tô.
Qua những bí tích khai tâm, ta đã trở nên con cái Chúa, công dân của Triều Đại Thiên Chúa và làm chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Ki-tô. Trong Giáo Hội, ta đã được lãnh nhận ân sủng qua bí tích và cầu nguyện, cũng như có đủ mọi phương tiện và hướng dẫn để sống như con cái thực của Thiên Chúa. Do đó, trong giờ Chúa đến phán xét ta, giống như khi nhà vua bước vào phòng tiệc, ta không thể viện lý là không có thì giờ mặc y phục lễ cưới. Nhưng cũng như người không mặc y phục lễ cưới trong dụ ngôn, ta sẽ phải “câm miệng không nói được gì”.
Có lẽ Chúa Giê-su cũng nêu lên một thực tại đáng buồn, là “kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”. Chắc chắn không thiếu gì những người đã được rửa tội, được làm con cái Chúa ngay sau khi mới sinh, nhưng lại không mang y phục lễ cưới, không sống đức tin Công giáo mà họ đã lãnh nhận. Chứng thư rửa tội không phải là cái giấy thông hành bảo đảm cho ta vào Thiên đàng, mà chỉ đánh dấu một lời gọi, mời gọi ta hãy “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”. Nếu mang danh là người Công giáo mà không sống như người Công giáo thực, thì họ cũng không hơn gì những người đã được mời dự tiệc cưới nhưng không đến, tức là người Pha-ri-sêu và kinh sư. Do đó, Chúa Giê-su đã dặn dò ta: “Thầy bảo cho anh em biết: nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20).
Phụng vụ Lời Chúa của những Chúa Nhật cuối năm phụng vụ muốn ta hướng dần về ngày cánh chung và mời gọi ta chuẩn bị cho ngày Chúa Ki-tô lại đến. Ta được hồng phúc làm con cái Chúa và được Chúa ban cho một môi trường sống là Giáo Hội Chúa Ki-tô để phát triển con người mới của ta theo gương mẫu Chúa Ki-tô. Tiệc cưới ở đời này là đời sống được ân nghĩa với Chúa sẽ đưa ta vào tiệc cưới vĩnh cửu bên cạnh Đức Vua và Con của Người.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi đã được gia nhập Giáo Hội, tức là được diễm phúc sống trong “Triều Đại Thiên Chúa”. Vậy tôi có đón nhận hồng ân cao cả này với thái độ ân cần và biết ơn không? Hay tôi giống như một trong những loại người từ chối không đến dự tiệc cưới?
Chúa muốn nói gì với tôi khi Người bảo: “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”?
Tiệc cưới tôi tham dự hằng ngày hoặc mỗi Chúa Nhật là Thánh lễ, đòi hỏi tôi phải chuẩn bị tâm hồn cho xứng đáng. Tôi đã chuẩn bị thế nào?
Cầu nguyện
“Lạy Cha từ ái,
cảm tạ Cha đã ban cho chúng con
ơn nhận biết và tin vào Đức Giê-su Con Cha,
và được lớn lên trong lòng Giáo Hội...
Cha muốn chúng con noi gương Đức Giê-su
chu toàn thánh ý Cha trong cuộc sống.
Xin cho chúng con mỗi ngày
biết múc lấy ánh sáng và sức mạnh
từ những phút giây trầm lặng bên Cha,
gặp gỡ Đức Giê-su và nhìn lại chính mình.
Cha đã cho chúng con trí tuệ và quả tim
để góp phần xây dựng một thế giới
ấm no và chan chứa tình người.
Xin cho chúng con biết say mê học tập,
biết đưa ánh sáng đức tin vào chuyên môn
và biến tri thức khoa học thành lời tôn vinh Cha không ngừng.
Cuối cùng, xin Cha nâng đỡ tình bạn giữa chúng con
để chúng con hiệp thông với nhau
trong mọi nỗi vui buồn của cuộc sống.
Ước gì sau một đời yêu thương và phục vụ,
chúng con lại được cùng sống bên Cha
và bên nhau trong Nước Trời. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 76)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
7-10-2005
----------------------------------
Anh chị em rất thân yêu,
Giữa một hoàn cảnh qúa nhiều đe doạ chiến tranh, một hoàn cảnh mà cuộc sống càng ngày: TN 28-A89
Giữa một hoàn cảnh qúa nhiều đe doạ chiến tranh, một hoàn cảnh mà cuộc sống càng ngày càng bấp bênh và suy thoái, thì nói đến các bữa tiệc linh đình chắc chắn chẳng được ai hoan nghênh. Phải chăng vì thế mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay thật không thích thời ? Không phải thế, là vì vào thời Isaia, vào thời của Đức Giêsu, cũng như thời Phaolô, những thời kỳ đen tối nhất của Israel, trong khi người dân lầm lũi dưới những "vành khăn tang", "dòng lệ" không ngừng chảy vì "ô nhục" mất nước, thì nơi cung vua phủ chúa vẫn yến tiệc linh đình. Và ngay giữa thời đại chúng ta đang sống, trong khi đại đa số người dân lao động bòn nhót từng đồng cho từng miếng cơm manh áo, thì giới thượng lưu ăn chơi xả láng, nhà hàng sang trọng dù mọc lên như nấm vẫn không đủ đáp ứng những đòi hỏi mỗi ngày một cao. Và ngay trong lòng mỗi con người lao động cùng khổ ấy vẫn còn một giấc mơ một vài bữa ăn thịnh soạn cho những ngày lễ gia đình. Lời Chúa thực sự muốn là câu trả lời cho ước vọng thầm kín của những con người nghèo, dọn cho họ "tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế" mà theo Phaolô "thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời". Chính Đức Giêsu cũng khẳng định điều ấy "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!".
Thế nhưng, có một điều cần phải được tái khám phá không ngừng về "bàn tiệc Nước Trời" mà Lời Chúa loan báo ở đây : không phải là "thịt béo, rượu ngon", không phải là "cỗ bàn, bò tơ, thú béo" làm nên bữa tiệc, nhưng chính là "Đức Chúa các đạo binh" "Chính Người là Đức Chúa chúng ta trông đợi", là "Thiên Chúa của tôi" như Phaolô nói, là "Vua Nước Trời".
Rất nhiều người trong thực tế chỉ quan tâm đến những gì được bày ra trên bàn tiệc, và họ đã có lý "kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết" lý do thật đơn giản, những gì được bày ra mâm, họ cũng có thể tìm thấy ở nơi khác, và tìm được nhiều hơn... Thậm chí, có khi cũng có người đã ngồi vào bàn tiệc nhưng lại "không mặc y phục lễ cưới". Ngược lại, những người như Phaolô, những kẻ tin vào Chúa, nhận lời đến dự tiệc của Chúa, thì không ít lần đã phải "sống thiếu thốn, đói, hay túng bấn".
Nếu nhìn vào chính "Đức Chúa các đạo binh", người ta sẽ cùng Isaia nhận ra là chính "Người xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người.", người ta cũng sẽ cùng Phaolô và Đức Giêsu để thấy sự kiên trì lạ lùng để cầu cạnh người ta,(nói được là thế), vào dự bàn tiệc của Người, và còn hơn thế nữa, dường như Người phải hạ mình để cầu xin ngay cả với những kẻ khố rách áo ôm vào bàn tiệc Nuớc Trời. Cái nhìn như vậy cho thấy không phải là thịt béo rượu ngon làm nên bàn tiệc, nhưng chính là Mối Tình của Đức Chúa, của Đức Vua. Mối Tình đã nhìn đến cảnh tang chế, những dòng lệ, những lúc thiếu thốn hay dư dật, những khi quẫn bách của con người. Mối Tình muốn chia sẻ sự sung túc Nước Trời, mà thánh Phaolô nói đó là "sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su", cho mọi người. Mối Tình muốn trao ban chính niềm vui và sự sống của mình cho mỗi một và cho hết mọi người, dù họ là ai và có thái độ nào. Nếu nhìn vào chính Đức Chúa, người ta được no thỏa không phải bởi thịt bánh trên bàn tiệc, nhưng là : "bởi được Người cứu độ."
Anh chị em rất thân yêu,
Đó cũng chính là cách nhìn của Giáo Hội trong Chuỗi Mân Côi. Qua từng ngắm của chuỗi kinh thân thương này, Giáo Hội được Mẹ Maria dẫn vào mối tình thẳm sâu của Thiên Chúa đã thành hiện thực trong con người và cuộc đời Đức Giêsu. Chính khi đón nhận Đức Giêsu trong lòng dạ, Mẹ, người nữ nghèo khó cơ bần Nazareth lại đã có thể thốt lên "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!". Sự no say Đức Giêsu cũng đã từng làm cho Simêon không còn thấy thế gian này còn một ý nghĩa nào khác khi ông thốt lên bài ca :"Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài." Cùng với Lời Chúa, cùng với Thánh Thể, chuỗi Mân Côi thực sự là bàn tiệc có thể đáp ứng mọi đói khát của con người vậy vì ở đó là Mối Tình Trung Tín và mãnh liệt của Thiên Chúa chúng ta.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
----------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Phi-líp-phê 4: 12-14,19-20
Cuộc sống có những hoàn cảnh khác nhau và phải đối phó với những thách đố về nhiều phương diện: TN 28-A90
Cuộc sống có những hoàn cảnh khác nhau và phải đối phó với những thách đố về nhiều phương diện. Một cuộc sống có thể là mầm mống gây chia rẽ nếu chúng ta cứ tự cao tự đại, coi mình là cái rốn vũ trụ và người khác chẳng ra gì (xem bài đọc Chúa Nhật 26). Có thể một cuộc sống mất bình an cũng muốn làm cho người khác hay cộng đoàn mất bình an (bài đọc Chúa Nhật 27). Qua bài đọc hôm nay, lấy kinh nghiệm bản thân, thánh Phao-lô muốn dạy thêm một cách sống khác: vui với hoàn cảnh mình đang sống.
a) Thế nào là vui với hoàn cảnh mình đang sống?
Thoạt nghe lời chia sẻ của thánh Phao-lô, chúng ta tưởng ngài thuộc loại ba phải, sao cũng được. Thực ra không phải tiêu cực như vậy đâu. Trái lại ngài phải phấn đấu và nhất là tập tin tưởng vào Chúa là Đấng ban sức mạnh. Khi ngài viết: "Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả." Nói đến tập tành là nói đến bí quyết tập luyện, ý chí tập luyện và nhất là động lực tập luyện. Tập quen một điều tốt tức là đạt được một nhân đức sau bao tháng ngày lập đi lập lại cùng một điều, dựa vào cùng một động lực. Thí dụ khi tôi tập luyện sự kiên nhẫn là tôi phải tập đối phó hoàn cảnh với thái độ bình tĩnh, không nóng nảy, biết chờ đợi... Ngày này sang ngày khác. Từ hoàn cảnh này tới hoàn cảnh kia. Xét lại sự việc hôm qua để rút kinh nghiệm cho sự việc hôm nay. Thêm vào đó, điều rất quan trọng là động lực tại sao tôi tập luyện sự kiên nhẫn. Là để tình yêu vợ chồng tôi không bị sứt mẻ hay tan vỡ nhưng càng thêm nồng nàn thắm thiết. Để đứa con tuổi mới lớn chóng qua cơn khủng hoảng dậy thì. Để bắt chước Chúa Giê-su, Đấng đã kiên nhẫn khi rao giảng Tin Mừng và khi đối phó với thái độ cố chấp của Pha-ri-sêu và dân chúng...
Vậy đâu là bí quyết thánh Phao-lô sử dụng để tập luyện vui sống với hoàn cảnh hiện tại? Đó là: "Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết" (c. 13). Bí quyết đơn giản vậy thôi sao? Nói vậy chứ không phải vậy! Bí quyết đòi hỏi một lòng tín thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa, nguồn sức mạnh, động lực chính của việc tập luyện. Chúng ta cứ tưởng tượng ra một Phao-lô tập quen, tập chịu đựng trong mọi hoàn cảnh. Trước hết ngài "đã học sống tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào" (c. 11) để khỏi trở thành gánh nặng cho người khác (xem 2 Tx 2:9). Vừa làm việc thợ dệt, vừa thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Quan trọng nhất đối với Phao-lô là phải nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi hoàn cảnh, lúc đói cũng như khi no. Thường thường chúng ta chỉ nghĩ đến Chúa, chạy đến với Người lúc cần thiết hay thiếu thốn, còn khi no đủ là chúng ta quên Người. Ý thức sự hiện diện của Chúa giúp cho chúng ta sống tâm tình biết ơn khi no đủ và được mạnh mẽ khi phải đối phó với thiếu thốn. Sự hiện diện của Thiên Chúa được thể hiện rõ rệt nơi Đức Ki-tô là gương mẫu của chúng ta. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thánh Phao-lô mời gọi chúng ta "Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Ki-tô."
Một điểm quan trọng khác thánh Phao-lô muốn nêu lên là khi quẫn bách cũng như khi được dư dật, chúng ta phải biết sử dụng những gì mình lãnh nhận được "để tìm kiếm những gì sinh hoa kết quả dồi dào cho anh em," hoặc nói theo thánh I-Nhã là để phụng sự và tôn vinh Thiên Chúa. Thường khi được dư dật, chúng ta hay có tật muốn tích lũy, giữ lấy cho mình, mà không biết chia sẻ. Cho nên không phải vì tôi đang túng thiếu mà không muốn chia sẻ, hoặc vì tôi quá lo phòng bị cho tương lai mà không dám cho đi.
b) Từ sự đầy đủ đời này tiến đến sự giàu sang trong Đức Ki-tô
Bài học thánh Phao-lô dạy không chỉ giới hạn trong lãnh vực đời sống vật chất thường ngày, nhưng ngài muốn hướng chúng ta tới một lý tưởng cao vời hơn: mỗi người chúng ta được mời gọi phải đạt tới sự sung mãn trong Đức Ki-tô. Mọi nhu cầu hiện tại của chúng ta chỉ là để giúp chúng ta trong cuộc hành trình trần gian này. Thiên Chúa, "Đấng ban sức mạnh," đã lo lắng cho chúng ta trong mọi nhu cầu ấy. Nhưng cũng chính Thiên Chúa, "Thiên Chúa của tôi sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của anh em... trong Đức Ki-tô Giê-su," sẽ đưa chúng ta tới tình trạng đầy đủ "một cách tuyệt vời" tức là được chia sẻ chính sự sống đời đời với Người.
Điểm đặc biệt ở đây là Phao-lô gọi Thiên Chúa là "Thiên Chúa của tôi." Điều này nói lên cảm nghiệm đích thực của ngài là đã ý thức được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình tới độ có thể gọi được Thiên Chúa là tất cả đối với mình. Sống bí quyết vui với hoàn cảnh hiện tại như thế, Phao-lô thực sự là một gương mẫu rõ rệt và rất đáng khâm phục. Sống ý thức Chúa hiện diện trong đời sống mình tất nhiên sẽ giúp chúng ta dễ dàng biết "tôn vinh Thiên Chúa là Cha chúng ta, đến muôn thuở muôn đời. A-men."
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Kinh nghiệm sống túng quẫn trong quá khứ đã dạy tôi bài học gì? Tôi đã sống như thế nào trong hoàn cảnh ấy?
Tôi có nhận ra giúp đỡ anh chị em trong cơn quẫn bách là một bổn phận không? Tôi đã giúp với thái độ nào? Hoặc tôi đã có thái độ nào khi được giúp?
Đã khi nào tôi "tập quen" làm một điều gì tốt chưa? Nói khác đi, tôi có để ý tập tành một nhân đức không? Tập nhân đức nào cần thiết nhất cho tôi trong lúc này? Tôi sẽ dùng bí quyết nào để tập? Nhóm có thể giúp tôi những gì?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc kinh sau đây:
"Lạy Chúa, xin dạy con vững bước trong đêm trăng mờ ảo hay ngày sáng rạng ngời.
Xin dạy con nhìn phía trước, đừng lầm lẫn những gì của ngày mai với hôm qua.
Xin dạy con cùng Ngài làm nên ngày mới,
đừng tích tụ hoa tàn nhụy rữa bên lối cũ đường xưa.
Xin dạy con mở toang những vách ngăn thành cánh cổng của một lộ trình mới.
(ĐHY Roger Etchegaray, trích RABBOUNI, lời nguyện 75)
Lm. Đaminh Trần đình Nhi
----------------------------------
Mt 22,1-14
Đạo công giáo do Chúa Giêsu thiết lập là Đạo tình thương. Đã là yêu thương,Đạo của Chúa cốt: TN 28-A91
Đạo công giáo do Chúa Giêsu thiết lập là Đạo tình thương. Đã là yêu thương,Đạo của Chúa cốt thiết toát lên một niềm hân hoan,vui mừng. Đạo tình thương là Đạo hân hoan,phấn khởi và hạnh phúc.Đạo Kitô là Đạo Tin Mừng, đạo vui tươi. Tin Mừng trong trích đoạn thánh lễ chúa nhật 28 thường niên,năm A hôm nay mời gọi con người hãy mặc lấy tâm tình vui tươi như lẽ sống vì Chúa chính là Tình Yêu.
BỮA ĂN,TIỆC CƯỚI GỢI LÊN HÌNH ẢNH CỦA CUỘC SỐNG VÀ NƯỚC TRỜI:
Bữa ăn bao giờ cũng gợi lên hình ảnh thân thương,sum họp của một gia đình.Trong bữa ăn,con người thể hiện những giá trị cao quí nhất của cuộc sống.Đây là lúc con người chia sẻ,hiệp thông,thân mật trò chuyện trong tình đầm ấm,trao ban và gặp gỡ nhau.Chúa Giêsu khi đi rao giảng đã mượn hình ảnh tiệc cưới,bữa ăn để nói lên thực tại của nước trời.Ngài coi đây là dấu chỉ rất ưu việt để loan báo Tin Mừng cứu độ và trình bầy giáo lý của Ngài.Chúa Giêsu coi nước trời như bữa tiệc và như thế,trong cuộc đời rao giảng của Ngài,Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc,tiệc cưới để nói về nước trời nhiều nhất và mặc cho nó một ý nghĩa thâm thúy,đặc biệt,cao sâu.Chúa Giêsu đã dự tiệc với ông Giakêu khi Ngài gợi ý tới thăm gia đình ông trước dù rằng trên cây sung,Giakêu đã cố gắng hết sức để nhìn Chúa và muốn mời Chúa. Chúa đã tới tiệc cưới Cana với Mẹ Maria và các tông đồ. Trong bữa tiệc này,Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho nước hóa thành rượu ngon cho gia đình nhà đám được vui tươi, hạnh phúc và hãnh diện.Chúa dự tiệc với ông Lêvi,các người tội lỗi và những người xã hội cho là không tốt.Ngài đồng bàn,chia sẻ,hiệp thông với họ . Chúa Giêsu không những đồng bàn và đáp lại lời mời gọi của những người tội lỗi,nhưng điểm rất đặc biệt nơi Ngài là Chúa không chê,không chối từ lời mời gọi của những người biệt phái,những người giầu có. Ngài tới dùng bữa thân mật với nhà Matta,Maria và Lagiarô.Trong bữa tiệc ly,Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể để lại cho nhân loại chính Mình Máu của Ngài,để mỗi lần con người dự tiệc Thánh,sẽ được rước chính Mình và Máu Đức Giêsu Kitô.Chúa phục sinh đã dùng bữa với hai môn đệ trên đường Emmaus và khi hiện ra với các môn đệ bên bờ hồ, Chúa chuẩn bị bữa ăn cho họ và dùng bữa với họ.Có thể nói bữa ăn,tiệc cưới nói lênn ý nghĩa rất tốt đẹp,cao sâu vì nó tượng trưng cho bàn tiệc nước trời,nơi Đức Kitô phục sinh hiện diện và mọi người được mời gọi chung hưởng hạnh phúc.
CHÚA MỜI GỌI MỌI NGƯỜI MẶC ÁO CƯỚI ĐI VÀO BÀN TIỆC CƯỚI
Bữa tiệc nói lên niềm vui, sự hạnh phúc của mọi người được mời.Các người biệt phái và Pharisiêu nói nhiều nhưng không thực hiện điều họ nói.Họ chỉ nói mà không làm.Họ sống giả hình bề ngoài vì thế họ tìm mọi cách từ chối nước trời,khước từ những gì tốt đẹp nhất Chúa ban cho.Họ giống như những khách mời kiếm đủ mọi lý do tầm thường để từ chối lời mời gọi của ông chủ.Như người Do Thái xưa không phải họ không biết ơn cứu độ Thiên chúa hứa ban cho họ và chíng Đức Kitô sẽ đem ơn giải thoát cho họ,Đấng mà các tổ phụ và các ngôn sứ đã tiên báo cho họ,nhưng vì tội lỗi và những tư dục yếu hèn đã làm họ có cái nhìn không tốt và lệch lạc,họ thiên kiến và luôn nghĩ xấu về Chúa.Họ tránh Chúa tới gõ cửa lòng họ.Thái độ này được ví như những người khách mời vịn hết lý do này lý do khác để vắng mặt trong tiệc cưới vua mời,họ đã bị vua kết án.Ở đây,nổi bật một thái độ rất đáng trân trọng phát xuất do lòng thương xót của vị vua đầy lòng nhân hậu. Vua cho đi mời tất cả mọi người ở khắp mọi nơi,ở khắp các ngả đường vào dự tiệc cưới con vua đã được dọn sẵn.Ơn cứu độ có tính phổ quát.Ơn cứu độ thuộc về mọi người không dành riêng cho bất cứ ai.Tuy nhiên,con người luôn phải có thái độ ăn năn,sám hối và phục thiện.Con người phải mặc áo cưới khi vào dự tiệc nghĩa là họ phải mặc lấy Đức Kitô,mặc lấy những tâm tình xót thương và hiền hậu của Chúa.
Tiệc đã dọn sẵn nhưng có kẻ trước hết sẽ nên sau hết và kẻ sau hết sẽ trở nên trước hết.Kẻ được gọi thì nhiều,kẻ được chọn thì ít. Chúa mời gọi mọi người,nhưng liệu con người có sẵn sàng đi vào tiệc cưới hay không ?
Gợi ý chia sẻ:
1.Chiếc áo trắng anh chị lãnh nhận ngày chịu bí tích rửa tội giờ này ra thế nào ?
2.Anh chị có siêng năng lãnh nhận bí tích Thánh Thể ?
3.Anh chị có hay xét mình không ?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
----------------------------------
Mt 22, 1-14
Đọc xong dụ ngôn, có lẽ ai cũng hiểu được dụ ngôn ấy có ý muốn diễn tả Tình Yêu vô cùng to lớn, mà: TN 28-A92
Đọc xong dụ ngôn, có lẽ ai cũng hiểu được dụ ngôn ấy có ý muốn diễn tả Tình Yêu vô cùng to lớn, mà Thiên Chúa đã dành cho dân tộc được tuyển chon là Do Thái. Nhưng rồi, Tình Yêu quảng đại ấy đã bị phụ bạc một cách phũ phàng. Ở đây, chúng ta không mở rộng về chuyện tình đau thương ấy, mà là đi vào một góc nhìn nhỏ hơn, nhưng sâu sắc hơn.
Mở tiệc cưới mừng hoàng tử. Mời khách đến dự tiệc. Đó là một tấm lòng bao dung Thiên Chúa muốn mời gọi và cho những người tầm thường được tham dự vào sự sống dồi dào của Ngài. Cho họ vào bàn tiệc, là muốn nâng họ lên, để họ có thể được ngồi cùng bàn với Ngài. Nghĩa là cho họ có được một sự thân mật trong tương quan với Ngài. Thế nhưng, hầu hết họ đã từ chối. Những lý do họ đưa ra hoàn toàn chính đáng: người thì đi buôn, người thì đi cày.
Nhưng có một khía cạnh tuy rất nhỏ, nhưng lại vô cùng quan trọng cần lưu ý, đó là những lý do đưa ra để từ chối đều liên quan tới đời sống VẬT CHẤT. Khi người ta đã no cơm ấm áo, thì người ta sẽ dễ bỏ quên đời sống linh hồn. Khi người ta luôn thành công trên con đường danh lợi, thì người ta sẽ thấy chẳng cần gì đến Thiên Chúa. Và Thiên Chúa sẽ trở thành dư thừa, bởi đã có gã thần tài để nương tựa. Quên mất một điều, nếu họ có được một cuộc sống vật chất no đủ ấy, cũng chính là nhờ bàn tay khéo léo cai trị của vị vua tài năng là Thiên Chúa. Của cải vật chất, có một sức hấp dẫn rất lớn. Nó có thể khuynh đảo con người, lật đổ những bậc thang giá trị mà Thiên Chúa đã quy định, để đạp giá trị linh hồn tụt xuống, và leo lên thống trị con người.
Không chịu nổi trước những sự phụ bạc đểu giả ấy, nhà vua đã ra lệnh giết chết bọn chúng. Có vẻ như thế là bị giết oan. Nhưng thực ra không phải thế. Những người ấy, trong một cái nhìn sâu sắc, đã chà đạp lên những hồng ân của Thiên Chúa. Chỉ lo mải mê với những thứ vật chất tầm thường, từ chối sự sống vĩnh cữu ở đời sau của mình.
Câu hỏi gợi ý:
1* Qua việc làm trong dụ ngôn, bạn thấy Đức Vua ấy là người thế nào?
2* Bạn xếp mình vào loại người nào trong dụ ngôn?
Lm. Đaminh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
----------------------------------
Không ai biết đích xác được là con người đã bắt đầu biết may mặc từ thời nào, nhưng chắc chắn là: TN 28-A93
Không ai biết đích xác được là con người đã bắt đầu biết may mặc từ thời nào, nhưng chắc chắn là rất xa xưa. Cái mặc đã đi theo cái ăn như là một trong hai cách thế hiện thân độc đáo của loài người, và ngay từ sớm, nó đã vượt ra ngoài cái ý nghĩa sở đẳng là một vật dụng để che thân cho kín đáo, cho ấm áp, hầu mang lấy những ý nghĩa khác có tính cách văn hoá, kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Thực vậy, cái áo có thể cho chúng ta biết được giai cấp, địa vị, nghề nghiệp, và thậm chí đến cả tư cách và tính tình của một người. Người nông dân nghèo không ăn mặc như một cậu công tử thành phố. Ông quan không mặc như người lính, thầy tu không mặc như dân thường. Người con gái nết na kín đáo thì không thích ăn mặc hở hang khêu gợi. Người khiêm tốn không ăn mặc loè loẹt phô trương. Cái áo do đó có một vai trò, một ý nghĩa quan trọng trong đời sống con người. Vì thế mà Chúa Giêsu đã sử dụng nó như một hình ảnh để nói lên cái tư cách của một người công dân Nước Trời.
Bài Tin Mừng vừa nghe ghi lại hai dụ ngôn. Dụ ngôn tiệc cưới và dụ ngôn chiếc áo cưới. Hai dụ ngôn này, nguyên thuỷ có lẽ đã được Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp riêng biệt, nhưng đã được Matthêu chắp lại thành một đề tài chung vì thấy có liên hệ với nhau.
Dụ ngôn thứ nhất ám chỉ dân Do Thái là dân hai lần được mời gọi tham dự tiệc cưới, nhưng họ đã từ chối và không những thế, họ còn sát hại những sứ giả của Thiên Chúa. Bởi đó cuối cùng, Ngài lại sai các sứ giả đi khắp các ngả đường để mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt tốt xấu. Tuy nhiên lời mời gọi ấy đã được đưa ra với điều kiện là phải sám hối, phải hoán cải, phải đổi đời.
Sám hối, hoán cải hay đổi đời được diễn tả qua dụ ngôn chiếc áo cưới, là dụ ngôn thứ hai đã được ghi lại. Như chúng ta đã nói cái áo không phải chỉ là một đồ dùng để che thân mà còn là một trang phục, nghĩa là một phương tiện tô điểm, đánh giá con người, nói lên địa vị, nghề nghiệp cũng như tư cách của một con người. Đã hẳn tuyệt đối mà nói, cái áo không làm nên thầy tu, nhưng bình thường thì thầy tu vẫn có cái áo của thầy tu. Nhưng lính có cái áo của người lính hay ít ra thầy tu không được ăn mặc loè loẹt diêm dúa.
Ngoài ra cái áo còn là điều kiện để cho con người nhập cuộc với tha nhân: không ai ở trần và và mặc quần xà lỏn mà đi ăn đám cưới, trái lại không ai mặc bộ đồ vét mà lại đi hôi cá dưới ao.
Khi Chúa Giêsu dùng dụ ngôn chiếc áo cưới để nói về những điều kiện mà kẻ đón nhận Tin Mừng phải có để được vào Nước Trời, dĩ nhiên Ngài không muốn nói đến cái áo theo nghĩa thông thường mà là nói tới cái thái độ bên trong, tới những đức tính, hay nói đúng hơn đến cái tinh thần mà người đó phải có. Nói theo thánh Phaolô thì mặc áo cưới ở đây là mặc lấy con người mới được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Hay nói một cách mạnh mẽ hơn, đó là hãy mặc lấy Đức Kitô.
Mặc lấy Đức Kitô là mang những tâm tình của Ngài, là sống hiền từ và khiêm tốn, biết chia sẻ nỗi bất hạnh của người anhem, biết yêu thương cho đến cùng như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta.
Mặc lấy Đức Kitô là nên giống Ngài, đó là chiếc áo cưới mà tất cả những ai được nghe Tin Mừng và đón nhận lời mời vào Nước Chúa phải mặc lấy. Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta đã thực sự mặc lấy Đức Kitô như thế hay chưa?
----------------------------------
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ở đời có yêu nhau người ta mới dám hy sinh dành thời giờ cho nhau, mới hy sinh làm vui lòng: TN 28-A94:
Ở đời có yêu nhau người ta mới dám hy sinh dành thời giờ cho nhau, mới hy sinh làm vui lòng nhau. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại ngăn sông cách núi để "Tam tứ núi cũng trèo - Thất bát sông cũng lội, thập cửu đèo cũng qua". Ngược lại nếu không có tình yêu thì cuộc đời sẽ không có hy sinh và càng không cần làm vui lòng nhau. Phải chăng đó cũng là lối cư xử thiếu tình yêu của con người đối với Thiên Chúa mà bài tin mừng hôm nay Chúa Giê-su đề cập đến? Phải chăng lời Chúa hôm nay là bức tranh tương phản giữa tình yêu quảng đại của Thiên Chúa và thái độ vô ơn, bất kính của con người?
Thiên Chúa là chủ tiệc. Thiên Chúa thiết đãi một bữa tiệc chứa chan hạnh phúc cho con người. Nhưng tiếc thay, con người đã từ chối lòng tốt của Thiên Chúa. Ngay từ đầu trong vườn địa đàng, Adam đã từ chối chung bàn với Thiên Chúa. Ông muốn loại trừ Thiên Chúa. Ông muốn bước đi theo lối đi của ông. Một lối đi theo ý mình. Một lối đi không có Thiên Chúa. Hậu quả là đau khổ và sự chết đã đi vào kiếp người. Cũng từ đây tình yêu của Thiên Chúa theo đuổi con người suốt dọc dài lịch sử ơn cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục kiên nhẫn mời gọi, dẫn dắt con người trở về trong sự hiệp nhất với Ngài. Các tiên tri và Chúa Giê-su đều dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về niềm vui của sự xum vầy bên Chúa và bên nhau trong hoan lạc hạnh phúc.
Thế nhưng, cho thì nhiều mà đáp trả chẳng bao nhiêu. Con người qua mọi thời đại vẫn tìm nhiều cách để khước từ lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa. Nhiều người vẫn đang tìm cho mình một lối đi không có Thiên Chúa. Họ muốn tự hành xử theo ý mình và bắt người khác theo ý mình. Một thế giới không có Thiên Chúa chỉ dẫn đến chiến tranh hận thù, nghị kỵ và kết án lẫn nhau. Một thế giới không có Thiên Chúa sẽ dẫn đến một nhân loại gồm toàn những người quá đề cao cái tôi đến nỗi chẳng ai chịu nghe ai. Đó là kinh nghiệm đắng cay nhưng đáng tiếc, chẳng mấy ai chịu sửa sai!
Có nhiều người hôm nay nhân danh đạo tại tâm để từ chối việc đến nhà thờ, ngay cả thánh lễ Chúa nhật họ vẫn dửng dưng xem thường. Họ cho rằng đạo tại tâm là không cần biểu lộ ra bên ngoài nhưng họ quên rằng cái tâm đó phải thể hiện ra bên ngoài bằng thái độ giữ đạo chân thành, không giả dối, không khoe trương. Đây là điều mà Chúa Giê-su đã từng nói: "nghe và thực hành Lời Chúa" mới là điều quan trọng. Và chính Chúa thêm rằng: "Ai xưng mình là môn đệ của Thầy trước mặt người đời, thì Thầy mới xưng nó trước mặt Cha Thầy".
Có nhiều người viện lý do ghét người này người nọ để từ chối việc đến nhà thờ. Họ cho rằng "tin đạo nhưng không tin người có đạo". Điều đó có thể đúng, nhưng không thể "vơ đũa cả nắm" càng không thể "đánh lận con đen", Đạo và người có đạo như nhau. Đạo là đường. Người có đạo đang đi trên con đường đó. Đường ta ta đi. Tại sao vì một vài người mà mình lại bỏ đạo? Tại sao ta không tiếp tục đi để nâng đỡ anh em đang vấp té trên đường? Tại sao ta không trở thành bạn đồng hành để giúp anh em sai lỗi biết sống và thực hành đạo? Xem ra đó chỉ là nguỵ biện cho thái độ từ chối thông hiệp với Thiên Chúa của chính mình!
Bên cạnh những người bỏ đạo còn có những người lấp lửng nửa vời. Họ nại vào lý do "có thực mới vực được đạo". Họ không đi lễ vì phải lo kế sinh nhau. Lo đồng tiền bát gạo trước, rồi khi rãnh mới tranh thủ đi lễ. Họ là những người thờ thần tài trên cả Thiên Chúa. Họ say mê tìm kiếm của cải trần gian mau qua, mà lãng quên giá trị vĩnh cửu là Nước Trời. Họ là những người sống theo chủ nghĩa thực dụng. Cái gì có lợi trước mắt là làm ngay. Họ quên rằng: mọi sự thế gian này sẽ qua đi, và những gì họ đã một đời bán mạng để tìm kiếm cũng thuộc về người khác. Công việc tìm kiếm danh vọng của họ chỉ là "dã tràng xe cát biển đông".
Hình ảnh vị khách đã không mặc áo "xứng kỳ đức" có thể là chính chúng ta. Những người mang danh ky-tô hữu nhưng không có nếp sống phù hợp với tư cách của người môn đệ Chúa. Chúng ta vẫn khoác trên mình biết bao thói hư tật xấu, biết bao những đam mê lầm lạc. Chúng ta chưa dám mặc lấy Đức Ky-tô. Chúng ta không dám sống như lời thánh Phaolo đã từng nói: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Ky-tô sống trong tôi". Vì thế, cuộc đời chúng ta vẫn đầy những lầm lạc, gian dối và tội lỗi.
Phải chăng, bài dụ ngôn này là lời nhắc nhở chúng ta hãy chỉnh đốn lại lối sống cho phù hợp với tình yêu của Thiên Chúa? Hãy nhìn lại tương quan của mình với Thiên Chúa cho đúng, để có cách sống cho phù hợp. Chúng ta là thụ tạo hãy biết lệ thuộc vào Đấng tạo hoá. Chúng ta là tôi tớ hãy sống theo ý của chủ. Chúng ta là môn đệ của Chúa hãy từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Con người của ân sủng không bị lệ thuộc vào những đam mê thấp hèn làm mờ lương tri. Chúng ta là con Chúa hãy sống thông hiệp với Chúa và với nhau để xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, thắm đượm tình Chúa tình người.
Ước gì chúng ta luôn biết chọn Chúa làm gia nghiệp thay cho những phù vân ở đời mau qua. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình Chúa để dám dành thời giờ cho Chúa hơn là lao mình vào những danh vọng trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người bằng chiếc áo ân sủng của Chúa luôn gìn giữ chúng ta trong sạch và tinh tuyền. Amen.
----------------------------------
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong: TN 28-A95:
Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng.
Trong rất nhiều sinh hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Ðến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Có người đã tưởng tượng ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.
Ước gì niềm vui bàn tiệc thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
----------------------------------
Suy Niệm
Dụ ngôn hôm nay nói về một tình yêu bị từ chối. Chẳng có gì long trọng và tưng bừng cho bằng tiệc: TN 28-A96
Dụ ngôn hôm nay nói về một tình yêu bị từ chối.
Chẳng có gì long trọng và tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.
Tiệc cưới này do chính nhà vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.
Vua đã mời các quan khách từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.
Trước những lời mời trân trọng của nhà vua, họ đã chối từ.
Thái độ của quan khách thật không sao hiểu nổi.
Họ chẳng sợ xúc phạm đến nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi
quan trọng hơn chuyện dự tiệc cưới hoàng tử (c. 5).
Thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).
Những khách quý bây giờ trở thành kẻ sát nhân.
Họ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.
Như thế tiệc cưới cho hoàng tử sẽ đi về đâu?
Ai là người sẽ được mời tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng?
Nhà vua đã đưa ra một quyết định rất bất ngờ.
“Hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).
Như thế phòng tiệc bây giờ vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.
Dụ ngôn trên đây lại được kết nối với một dụ ngôn khác.
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy nhà vua đi vào phòng tiệc
để quan sát cách ăn mặc của những vị khách đến từ đường phố (c. 11).
Có người không mặc y phục lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).
Tại sao lại phạt anh, khi anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới?
Nhưng đừng quên các người khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,
nên anh chẳng nói được gì để tự biện minh (c. 12).
Lịch sự với Thiên Chúa là điều ta dễ quên.
Ngài vẫn trân trọng mời ta dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.
“Mọi sự đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới” (c. 4).
Đối với Ngài, sự hiện diện của chúng ta đem lại niềm vui lớn.
Khi đa số dân Do-thái, những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,
Ngài đã không muốn phòng tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.
Thiên Chúa chấp nhận mở cửa phòng tiệc cho mọi người.
Họ đến từ muôn phương, có người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.
Giáo hội gồm những người được mời và được gọi một cách nhưng không.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,
cần mặc y phục lễ cưới một cách đàng hoàng.
Y phục ấy chính là một đời sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Các kitô hữu chúng ta đã được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.
Chúng ta đã được mời và được gọi để sống trong Giáo hội,
nhưng chưa chắc chúng ta nằm trong số những người được tuyển chọn.
Số người được chọn bao giờ cũng ít hơn số người được gọi.
Để vào số những người được chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.
Có khi chúng ta cũng coi chuyện buôn bán làm ăn của mình
quan trọng hơn những lời mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta giữ được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự)
1. “Làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới”
Chuyện dài nhiều tập của những kẻ coi thường mọi hành rào của luân thường đạo lý. Chuyện thật: TN 28-A97
Chuyện dài nhiều tập của những kẻ coi thường mọi hành rào của luân thường đạo lý. Chuyện thật dễ hiểu của nét văn hóa dành cho những người học thức: khi ta biết tôn trọng người khác thì người khác cũng sẽ tôn trọng mình. Thường người ta chỉ thích và bắt người khác tôn trọng ý riêng mình, còn ngược lại thì lại làm lơ tất cả, thậm chí coi thường và tỏ ra mình là phường vô học. Thái độ không đúng mức sẽ bị trừng phạt như những kẻ được mời nhưng không xứng đáng.
Thật hớ hênh và lố bịch khi chúng ta “không có lòng tự trọng”. Thật khó coi, khi chính mình muốn được người khác kính trọng và đánh giá cao về mình, thì chính hành động lố bịch của chúng ta tự tố cáo sự trơ trẽn của mình. Cũng thật công bằng, khi chính mình không biết tôn trọng tha nhân hay không biết tự trọng mình, thì chẳng ai dại gì mà kính trọng chúng ta.
Thật trơ trẽn khi chúng ta không biết trân trọng “lời mời” của Đức Vua khi vào dự tiệc cưới của Hoàng Tử. Được mời vào dự tiệc cưới của Hoàng Tử, được chung chia vinh dự cùng với khách dự tiệc, được hưởng dùng những “cao lương mỹ vị”… Quả là điều vượt mọi ước mơ của mỗi người chúng ta. Không còn biết đâu là trọng, đâu là hèn, đâu là điều cần phải làm, đâu là điều phải tránh; thì tự thân giá trị của người đó trở thành con số không. Chẳng ai dại gì mà phải kính trọng những hạng người chỉ biết sống cho mình, vì mình, vì cái chỗ đứng của mình mà chẳng bao giờ biết trân trọng những giá trị khác ngòai mình!
Thật xấu hổ khi chúng ta không biết chuẩn bị, không biết sắm sửa được một “bộ cánh đàng hoàng” cho chính mình. Và cũng thật nhục nhã khi chính chúng ta bị “tống vào ngục”, không tự lo được cho phần rỗi mình. Con cái trong nhà, lẽ ra là người được ưu tiên hơn cả, nay lại bị đuổi ra ngoài đường, là kẻ ngoại cuộc. Quả thực là quá xấu hổ và đáng thương thay cho họ.
2. “Những kẻ được mời không xứng đáng”
Trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta có “một chỗ đứng rất riêng và khác biệt” Ngài muốn tất cả chúng ta thuộc về Ngài và không để một ai phải hư mất. Ngài mời gọi từng người chúng ta vào vui hưởng hạnh phúc của bàn tiệc muôn đời.
Trong tình thương của Thiên Chúa, Ngài mời gọi tất cả chúng ta dự tiệc cưới của Hoàng Tử không loại trừ ai, dù là những người nghèo khổ, hèn kém “không có tiền để mua rượu và thịt” Trong tình thương của Ngài không có từ ngữ loại trừ, nhưng rộng mở để đón nhận tất cả, ôm trọn tất cả và tha thứ tất cả.
Nhưng Thiên Chúa lại luôn tôn trọng tự do của mỗi người chúng ta. Ngài không áp đặt quyền của Ngài trên sự tự do và chọn lựa của mỗi người chúng ta. Ngài muốn tất cả chúng ta tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Chiếc áo cưới mà mỗi người phải biết chuẩn bị cho mình, chính là chiếc áo tình thương mà mỗi người phải tự sắm. Trong bữa tiệc vui của gia đình, chẳng ai dại mời một người xa lạ vào dự tiệc, khi họ không hề có một chút liên hệ tình cảm hay chút tình nghĩa gì. Khoác tấm áo Lời Chúa, mặc vào thân giới răn yêu thương của Chúa, chúng ta sẽ trở thành người nhà của Chúa.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, thật vinh dự cho mỗi người chúng con khi được Chúa mời gọi vào tham dự Bàn Tiệc Nước Trời. Nhưng Chúa cũng đòi hỏi chúng con phải tự kiếm cho mình chiếc áo cưới. Thật xấu hổ khi cả đời chúng con không tự dệt nổi cho mình chiếc áo cưới. Xin giúp chúng con biết tích cực tích lũy những giá trị cho đời mình, để xứng đáng hơn với lời mời của Chúa. Amen.
----------------------------------
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Giữ quân bình cho cuộc sống
Nhu cầu vật chất, nhất là ăn uống, có thể nói là nhu cầu căn bản nhất của con người. Để có thể thỏa mãn: TN 28-A98
- Nhu cầu vật chất, nhất là ăn uống, có thể nói là nhu cầu căn bản nhất của con người. Để có thể thỏa mãn nhu cầu này, con người phải dành hầu hết thời gian để làm việc kiếm tiền, để chuẩn bị nấu nướng, và để thưởng thức. Tuy nhiên đây không phải là nhu cầu duy nhất của con người, bên cạnh đó, con người còn có những nhu cầu về tình cảm, hiểu biết, và nhất là mối tương quan với Thiên Chúa. Các Bài đọc Chủ Nhật tuần này đều hướng về nhu cầu ăn uống, nhưng với những bài học khác nhau.
- Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah hướng lòng con người về Bữa Tiệc Nước Trời. Chỉ có Bữa Tiệc này mới hòan tòan thỏa mãn mọi khát vọng của con người.
- Trong Bài đọc II, thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết làm chủ cuộc đời, khi no cũng như khi đói, khi đầy đủ cũng như lúc tùng thiếu. Điều quan trọng là biết trông cậy vào Chúa trong mọi lúc; chỉ có Ngài mới có thể thỏa mãn mọi nhu cầu của con người.
- Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh mọi người: Quá bận rộn với nhu cầu vật chất có thể làm cho con người quên đi hay từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa vào tham dự Bàn Tiệc Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bàn Tiệc Nước Trời
Tiên tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước hòan cảnh đau khổ của dân tộc Do-Thái khi phải sống lưu đày bên Assyria và Babylon. Họ sẽ phải đau khổ vì đói khát, vì chết chóc, và vì bị Thiên Chúa bỏ rơi; nhưng ông cũng thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ khôi phục và cho họ trở về. Đó là ngày họ sẽ được hân hoan vào dự Bàn Tiệc Nước Trời. Giống như cuộc lưu đày của dân Do-Thái, cuộc đời con người cũng được ví như những chuỗi ngàu lưu đày xa Chúa, con người cũng ra sức tìm kiếm để thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc đời; nhưng con người sẽ không tìm thấy bất cứ đâu ngòai Bàn Tiệc Nước Trời. Những nhu cầu căn bản được tiên tri Isaiah ghi lại trong Bài đọc hôm nay:
(1) Hai nhu cầu căn bản cho cuộc sống con người là ăn và uống. Con người ra sức làm việc và dành rất nhiều thời gian cho hai nhu cầu này, nhưng vẫn không hòan tòan thỏa mãn cho đến ngày: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.”
(2) Con người có thể đạt mọi ước mơ trong cuộc đời: vợ đẹp, con khôn, giàu có, danh vọng, quyền lực … Nhưng khi phải đối diện với tử thần, con người không thể kéo dài cho đời mình dù chỉ một giây phút ngắn ngủi. Sự chết là nỗi đau khổ lớn nhất của con người vì nó tước đọat tất cả những gì mà con người vất vả xây dựng. Nhưng con người vẫn còn hy vọng thắng được cái chết, vì ngày ấy: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.”
(3) Con người muốn hạnh phúc nhưng cuộc đời là bể khổ. Đau khổ vì trăm ngàn thứ bệnh tật, đau khổ vì hận thù chiến tranh, đau khổ vì thiên tai bão lụt... Con người chỉ tìm thấy sung sướng hạnh phúc trong Ngày ấy, ngày mà: “Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy.”
(4) Không có sự dằn vặt nào lớn hơn sự dằn vặt của con người có mặt trong cuộc đời mà không biết ai sinh ra mình. Không những thế, con người còn được nghe và xem thấy rất nhiều những sự tốt lành và hứa hẹn của Đấng ấy, như lời của Thánh Augustine trong tác phẩm Tự Thú: “Thiên Chúa dựng nên con cho Ngài, và hồn con những khắc khỏai mong chờ, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa.” Niềm mong đợi sâu xa nhất của con người cũng sẽ được thỏa mãn trong Ngày đó, ngày mà người ta sẽ nói: "Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ."
Chỉ khi nào những niềm trông đợi trên của con người được hòan tòan thỏa mãn thì “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ.”
2/ Bài đọc II: Tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn là tin tưởng nơi con người.
2.1/ Cần luyện tập để trở thành con người có bản lãnh: Có những người đã quá quen với cuộc sống sung túc nên cảm thấy rất đau khổ khi phải sống thiếu thốn. Ngược lại, có những người đã sống trong cảnh nghèo lâu năm, không biết phải cư xử làm sao khi bỗng chốc trở nên sang giầu vì trúng số hay được thừa hưởng gia tài; rốt cuộc, tiền của cũng hết mà cuộc sống còn tàn tệ hơn trước. Người có bản lãnh là người biết điều khiển cuộc sống mình trong mọi hòan cảnh như thánh Phaolô: “Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải.”
2.2/ Thiên Chúa sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời: Cái đau khổ nhất của con người là không tin nơi Thiên Chúa; vì thế, họ phải vất vả để lo cho mình. Thánh Phaolô nhắc nhở những người này: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Giêsu Kitô.” Hơn nữa, có những điều mà con người không thể tự lo cho mình được: sức mạnh để chịu đau khổ, sự chết, ơn cứu độ. Một thái độ tin tưởng nơi quyền năng và tình yêu Thiên Chúa sẽ giúp con người sống vui vẻ, bình an, và hạnh phúc trong cuộc đời hơn.
3/ Phúc Âm: Tiệc cưới Nước Trời: Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.
3.1/ Quan khách được mời vào dự tiệc cưới Nước Trời: Giống như Bàn Tiệc Nước Trời trong Cựu Ước của tiên tri Isaiah, Chúa Giêsu cũng ví Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Người Vua này là hình ảnh của Chúa Cha, Người Con đây là Chúa Giêsu, quan khách được mời là người Do-Thái, dân riêng được Chúa tuyển chọn. Các đầy tớ của nhà Vua là các tiên tri, các Tông Đồ, và những môn đệ của Chúa. Nhà vua tuy có quyền lực để truyền lệnh hay bắt tới, nhưng ông rất kiên nhẫn sai các đầy tớ đi mời quan khách ít là hai lần; nhưng các quan khách vẫn từ chối không chịu đến.
3.2/ Phản ứng của quan khách: Tuy nhà vua đã làm đủ mọi cách, nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới. Phúc Âm tường thuật 2 phản ứng chính:
- Kẻ thì ra đồng, người thì ra tiệm: Phản ứng này có lẽ là thông thường nhất. Con người vì quá bận rộn với công việc làm ăn khiến họ không còn thời giờ và từ chối lời mời gọi vào dự tiệc cưới Nước Trời.
- Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. Phản ứng của hạng người này thật khó hiểu: không đi thì thôi, tại sao lại bắt người, sỉ nhục, và giết chết? Nếu chúng ta quan sát những gì đang xảy ra ở Hà-Nội, chúng ta có thể hiểu phản ứng của những người này. Được mời gọi để tôn trọng công bằng và sự thật, họ đáp lại bằng bất công, gian trá, đàn áp, và đe dọa tù đày! Được mời gọi để hướng lên Trời suy nghĩ về đích điểm của cuộc đời, họ từ chối không nhìn lên và tiếp tục nhìn vào những mối lợi vật chất mà họ sẽ mất. Nếu đã được chứng kiến niềm tin của biết bao tín hữu coi thường cái chết và sẵn sàng chịu đau khổ để làm chứng cho Tin Mừng, mà họ vẫn giả điếc làm ngơ thì con người mới thấu hiểu được sự tức giận của nhà vua khi biết họ đối xử tàn tệ với các đầy tớ của mình.
3.3/ Phản ứng của nhà Vua: Khi hay tin các phản ứng của quan khách đối xử tàn tệ với các đầy tớ của mình, nhà Vua liền nổi cơn thịnh nộ và làm 2 việc chính:
(1) Trước tiên, nhà vua sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. Sự phá hủy tan tành của Jerusalem vào năm 70 AD bởi đế quốc Rôma có lẽ là những gì mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây.
(2) Thứ đến, nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới." Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. Vì người Do-Thái khước từ không chịu tiếp nhận Con Thiên Chúa, nên Tin Mừng được loan báo cho tất cả mọi người, mọi quốc gia, mọi thành phần trong xã hội: tốt cũng như xấu.
(3) Dự tiệc cưới mà không mặc y phục lễ cưới: Khi nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!” Nhiều người cho phản ứng của nhà Vua khó hiểu ở đây vì những khách dự tiệc được mời sau không có thời giờ để chuẩn bị y phục lễ cưới. Lý do này không vững chắc vì tại sao biết bao nhiêu người khác với hòan cảnh tương tự như anh ta lại có thời giờ chuẩn bị? Hơn nữa, không phải tất cả những người được mời là xứng đáng được chọn, như lời Chúa kết luận: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít." Để được vào Nước Trời, con người cần đáp ứng những điều kiện đưa ra bởi Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không có gì trên thế gian có thể thỏa mãn hòan tòan những khát vọng của con người. Chỉ có Bàn Tiệc Nước Trời mới có thể thỏa mãn mọi khát vọng đó.
- Chúng ta cần phải ăn uống để sống, nhưng đừng quá lệ thuộc vào chúng mà quên đi những nhu cầu khác. Như thánh Phaolô, chúng ta cần làm chủ cuộc sống khi đói cũng như khi no; và trong mọi lúc, chúng ta phải luôn trông cậy vào Chúa, là Đấng duy nhất có thể cho con người thỏa mãn hòan tòan.
- Chúng ta phải rất cẩn thận để đang khi phải lo lắng làm việc kiếm của ăn cho thân xác, chúng ta đừng quên lời mời gọi của Thiên Chúa vào dự Tiệc Cưới Nước Trời. Thiên Chúa đã gọi nhưng để được vào con người có tự do đáp trả, như Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít."
----------------------------------
TỪ BÀN TIỆC THÁNH
Câu chuyện về cái chết của triết gia Socrates như sau: Năm 399 BC. Meletus và Anytus đã tố cá: TN 28-A99
Câu chuyện về cái chết của triết gia Socrates như sau:
Năm 399 BC. Meletus và Anytus đã tố cáo Socrates là “vô đạo và làm hư hỏng thanh niên”. Socrates bị 11 vị Thẩm phán của chính quyền Hy Lạp kết án tử hình về tội dụ dỗ thanh niên theo tà thuyết và phản loạn. Trong các hình phạt dành cho tử tội, ông chọn chén thuốc độc. Apollodore luôn đầm đìa nước mắt, có lúc gào lên, làm cho Platon không thể cưỡng lời thầy, khóc theo. Còn Criton thì như đứt từng khúc ruột, nhưng sợ thầy, ông lén ra ngoài khóc cho bớt đau khổ. Tuy vậy, khi thấy các học trò khóc, Socrates phải quát lên: “Các con làm gì kỳ vậy? Sở dĩ thầy đuổi hết các bà các cô ra ngoài, là để tránh sự mất bình tĩnh như vậy. Các con phải cương nghị. Chúng ta phải chấm dứt cuộc đời một cách êm ái, thảnh thơi chứ!
Buổi chiều hôm ấy, mặt trời xuống dần, Socrates bước ra từ phòng tắm, ông gặp ba người con một lúc rồi bảo họ ra ngoài chỗ mấy người đàn bà đang sụt sùi. Chỉ mấy người môn đệ của ông là được ở lại. Người cai ngục bước ra bảo ông hãy tự uống chén thuốc độc, đã có người mang tới, sẵn sàng ở phòng bên. Người này tỏ ra mến phục nhân cách của ông, thậm chí anh ta cũng khóc sướt mướt lúc vĩnh biệt ông. Socrates ra dấu cho Criton môn sinh của mình, bảo người mang thuốc độc vào cho ông uống. Criton nói: “Thưa thầy, mặt trời chưa lặn. Đừng vội lìa bỏ chúng con. Thiếu gì người nấn ná, ăn uống, chuyện vãn với gia đình, họ hàng rất lâu”, Nhưng Socrates mắng ông: “Họ làm như vậy có được thêm lợi lộc gì đâu. Thầy không muốn bám chặt thêm cuộc sống, khi chẳng thể giữ nó mãi được! Con hãy nghe lời thầy”…
Cầm chén thuốc trong tay, ông căn dặn lại các môn đồ: “Hãy bình tĩnh, đừng thay đổi sắc diện” rồi từ từ đưa chén độc dược lên miệng uống một hơi êm ái hiền hoà. Lúc ấy, Plato và các môn đệ khác nhìn ông uống từng hớp tử thần mà chết đứng, tê cóng người. Nước mắt tuông trào như hai giòng suối mà không dám để tiếng nức nở thoát ra. Trong Phaedo Plato thốt lên: “Từ đây thế là hết!”, ông không khóc cho thầy, vì một người như thầy mình, không cần ai khóc khi qua đời. Tôi khóc cho chính tôi, vì từ đây, tôi đã mất đi một người thầy, một người anh, một người bạn, mà không sao có thể kiếm được người thứ hai trên cõi đời này.
Đó là một cái chết can đảm. Socrates đã bước vào thế giới vĩnh hằng với sự “chấm dứt cuộc đời một cách êm ái và thảnh thơi”. Đó là bài học cuối cùng ông dạy cho các môn sinh.
ĐẾN VỚI CHÚA VỚI TÂM HỒN TRONG TRẮNG
Đời ai cũng có một đoạn kết, để bước vào cõi bất tử. Cho dù con người có lý tưởng và tâm linh thế nào, một sự ra đi bình an vẫn là niềm mong đợi. Một sự ra đi bình an để vào thế giới hạnh phúc, đó là niềm tin tôn giáo. Thế giới Tình Yêu và được chung hưởng vinh quang Thiên Chúa, là niềm tin Kitô hữu.
Đối với niềm tin chân chính, người vào thế giới vĩnh hằng đều có một tâm hồn trong sáng. Họ rửa sạch tâm hồn họ theo tiếng gọi của Đấng Tối Cao mà nhiều khi họ chưa hiểu rõ về Ngài. Họ sống theo nẻo thiện lương, ăn ngay, ở lành, và họ được Thiên Chúa yêu thương vì tâm hồn đơn sơ như trẻ thơ của họ.
Đối với niềm tin Công Giáo, tâm hồn họ đã được tẩy rửa trắng tin trong máu Đức Kitô, và họ không ngừng được thanh luyện qua các bí tích.
Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế…
"Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên". (Kh.7,9-14).
“Chiếc áo trắng tinh” ấy là mặc lấy Đức Kitô, là “y phục lễ cưới” mà Thiên Chúa muốn con người mặc vào trong tiệc cưới dành cho mối duyên Con Thiên Chúa và nhân loại. Là tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
“Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng; cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”. (Rm 13, 12-14).
Thiên Chúa yêu thương con người vô điều kiện, nhưng để thật sự gọi là tình yêu, bao giờ cũng có sự tự nguyện đón nhận. Nó không phải là điều kiện để yêu, mà là điều kiện để có thể gọi là tình yêu. Yêu, là yêu ai. Tự dưng nói yêu, động từ yêu trơ trọi, nó chỉ là một từ ngữ vô nghĩa!
Tình yêu chỉ đạt được trọn vẹn, khi tình yêu có sự tự nguyện đáp lại. Con người đáp lại tình yêu Thiên Chúa khi họ đã tự nguyện thanh luyện để vươn lên với tình yêu của Ngài.
Nếu con người không đáp lại tình yêu Thiên Chúa, con người thuộc về thế giới đen tối - thế giới Sa-tan - thì làm sao có tình yêu tồn tại được?
Sao lại không mặc “y phục lễ cưới”? Y phục lễ cưới đã có sẵn ở phòng trang điểm, người không màng vì tới khâu chuẩn bị vào dự tiệc, chắc chắn lòng cũng không tha thiết gì đến niềm vui tiệc cưới. Không có sự tôn trọng, có tình yêu không?
TỪ BÀN TIỆC THÁNH ĐẾN TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI.
Một bé gái bệnh nặng, một hôm biết mình khó qua khỏi, em gọi cha mình lại để nói chuyện. Người cha này rất nguội lạnh, lại hay chè chén ăn chơi, không bao giờ đến nhà thờ. Em hỏi: - “Cha có thương con không?”. Người cha cảm động nói: - “Sao con lại hỏi thế, cha rất yêu con!”. – “Con sắp xa cha rồi, con sắp về với Chúa rồi!”. – “Không! Con sẽ mạnh, cha thương con lắm!”. Người cha ôm con khóc nức nở. – “Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng con cũng yêu cha, con không muốn xa cha, cha có muốn gặp lại con không?” – Người cha nghẹn ngào đáp: - “Có, con yêu!”. – “Vậy cha hứa với con là cha sẽ đi nhà thờ nhé! Con muốn được gặp lại cha trên Thiên Đàng”. Người cha trả lời trong nước mắt: - “Cha hứa!”. - “Con vui lắm rồi, con sẽ gặp lại cha nhé!”. Bé gái nhìn cha mỉm cười, sau đó vài phút, nó ra đi.
Người cha từ đó trở thành một con chiên ngoan đạo, rồi ông giúp nhiều việc ở nhà thờ.
Để đến Bàn Tiệc Thánh, đến với bí tích Thánh Thể, người Công Giáo có sự chuẩn bị trước đó: “mặc chiếc áo tâm hồn trắng tinh” để đón nhận Mình Thánh Chúa.
Và từ Bàn Tiệc Thánh trong Giáo Hội Lữ Hành này, người Công Giáo đã sẵn sàng cho mình “y phục lễ cưới” để vào dự Tiệc Cưới Nước Trời.
“Họ đã giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”, trong bí tích Rửa Tội, và họ không ngừng chiến đấu trong cuộc đời để giữ mãi màu áo trinh nguyên ấy trong ăn năn sám hối, trong bí tích Hòa Giải, trong ơn sủng của những bí tích thánh hóa, trong việc thực thi Giới Luật Yêu Thương.
Từ Bàn Tiệc Thánh, đời sống người có Đức Tin luôn thăng hoa, họ tránh xa được những dục vọng hạ đẳng, những ước muốn thấp hèn, đời sống nhân bản của họ được đặt trên nền tảng của Tình Yêu Thiên Chúa. Tình yêu biến đổi lòng họ để họ xứng đáng đón nhận tình yêu bao la mà Thiên Chúa dành cho họ. Người ta luôn vượt qua những thử thách, từ bên ngoài hay chính tại lòng mình, để gìn giữ tình yêu. Vì tình yêu cho ta hạnh phúc. Chúa là Tình Yêu, là suối nguồn hạnh phúc, sao ta không vượt qua thử thách để gìn giữ Tình Yêu đó. Sao ta không mặc “y phục lễ cưới” để bước vào Tiệc Vui của Ngài?
Chiếc áo trắng tinh nào mà không cần phải tẩy sạch. Tâm hồn trong sáng nào mà không cần sám hối ăn năn!
Vì thế, từ Bàn Tiệc Thánh, từ Thánh Thể, người Công Giáo đã chuẩn bị sẵn sàng “Y phục lễ cưới” vào dự Tiệc Cưới Nước Trời – “Bàn Tiệc Thánh Đời Đời” trong Vương Quốc Tình Yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy…
Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền;
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết… Amen.
------------------------------------------
Mt 22, 1 – 14
Sr Mai An Linh, OP
Thánh Kinh Cựu Ước thường dùng bữa tiệc, nhất là tiệc cưới để diễn tả niềm vui, hạnh phúc, trong đó: TN 28-A100
Thánh Kinh Cựu Ước thường dùng bữa tiệc, nhất là tiệc cưới để diễn tả niềm vui, hạnh phúc, trong đó mọi lo toan, mọi buồn phiền đều được giải thoát, chỉ còn là vui mừng hoan lạc (Is.25,6-10a). Tiệc cưới ấy mọi người được mời gọi tham dự, bất kể giầu nghèo, tốt xấu (Mt.22,1-14). Tuy nhiên, muốn được hưởng niềm vui trọn vẹn không dễ, cần phải có ơn Chúa ban “vì tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Phil.4,12-14).
Quả là phụng cụ Lời Chúa, Chúa Nhật 28 hôm nay rất liên kết và nhất quán, từ bài đọc I đến bài đọc III và cả Đáp Ca nữa đều nói về bữa tiệc. Tuy nhiên trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn để nói với tính giả Do Thái, chúng ta thấy có những điều gây thắc mắc, đó là thái độ của ông vua lẫn khách được mời dự tiệc rất kỳ quặc, khó hiểu.
Điều khó hiểu trước tiên là thái độ của khách mời: Bình thường khi được các vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện, đi khoe mọi người. Ở đây không phải là một chức sắc nhưng là nhà vua có quyền sinh sát mời dự tiệc, và cũng không phải là tiệc bình thường mà là tiệc cưới cho Hoàng Tử. Như thế họ phải vô cùng hãnh diện, mong tới ngày đó biết bao! Vậy mà những khách được mời ở đây lại không hãnh diện và không sợ quyền hành của vua, họ đưa ra nhiều lý do rất tầm thường để khước từ : đi buôn, thăm ruộng…tệ hơn nữa, họ không đến dự tiệc lại còn hành hạ những nhân viên đi mời và giết đi.
Điều khó hiểu thứ hai là hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự. Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giầu nghèo. Thế nhưng khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới thì đòi ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng. Thật vô cùng khó hiểu!!!
Thật ra khi nói dụ ngôn, Chúa Giêsu cố ý đưa ra những điều bất thường khó hiểu, để những thính giả Do Thái phải phản tỉnh, nghĩ đến họ và tổ tiên họ, để nhận ra sự “ quái gở” của cha ông họ, cũng như bản thân họ. Họ cũng như tổ tiên họ được ưu đãi, nhưng đã chẳng tiếp nhận đặc ân lớn lao đó còn ngược đãi sứ giả của Đấng ưu đãi mình. Chúa Giêsu đã không nói thẳng mà dùng dụ ngôn, tạo ra những điều bất bình thường, khó hiểu gần như không thể xẩy ra trong thực tế. Điều ấy chắc hẳn Ngài muốn cho người nghe thấm cảm về sự bất bình thường của những người khách được mời. Có như thế khi biết dụ ngôn áp dụng cho chính họ, họ mới thấm thía được cái “ quái gở” của bản thân mình.
Tiệc cưới mà Chúa Giêsu đưa ra muốn ám chỉ đến Nước Trời tại thế là Hội Thánh, mọi người được mời tham dự bất luận lành dữ. Hiển nhiên kẻ không mặc áo cưới thuộc vào hạng người dữ, nên mới bị đuổi ra ngoài và ném vào nơi tối tăm, chỗ khóc lóc. Như thế áo cưới là điều cần phải có để được hưởng ơn cứu độ, đừng tưởng cứ gia nhập Hội Thánh là được hưởng ơn cứu độ đâu. Vì Hội Thánh trần gian có cỏ lùng mọc bên cạnh lúa tốt, nên sẽ có sự lựa chọn ngay trong hàng ngũ các kẻ tin. Họ đã được mời, nhưng không phải vì thế mà họ đương nhiên được vĩnh viễn cứu thoát. Số người được gọi rất đông, có nghĩa là người ta để cho nhiều kẻ đi vào mà không phân biệt ai, không đặt một điều kiện nào cả. Họ chẳng cần giữ luật Môsê, chẳng cần phải cắt bì, vì lối vào, được mở rộng thênh thang. Nhưng việc tự do gia nhập này không làm nên một bảo đảm, vào trong cộng đòan Hội Thánh chẳng có nghĩa là vào Nước Trời của thời thế mạt đâu.
Phần chúng ta, Chúa Thánh Thần là sứ giả của Thiên Chúa mời chúng ta đến kết hợp với Ngài, ta đối xử với sứ giả của Thiên Chúa như thế nào? Hàng ngày Ngài mời gọi chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh, chúng ta có thường dùng lý do này lý do nọ để thoái thác không ? Hãy sống theo Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ cảm thấy không còn luật lệ nào ràng buộc, ngoại trừ luật của tình yêu. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng ta vào con đường mở rộng, con đường của tự do để gặp gỡ Đấng là nguồn mạch sự sống.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ca đảm dứt bỏ mọi vấn vương thế trần, để đáp lại lời mời gọi tham dự tiệc thánh hàng ngày, để nhờ của ăn thần diệu là Mình Máu Chúa, chúng con được sức mạnh đỡ nâng trên hành trình về Trời.
------------------------------------------