Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 25 TN-A Bái 51-100: Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 20, 1-16a: “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”.
Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết.” Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao”? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?” Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
Mục lục:
TN 25-A51: Tự do Thiên Chúa. 2
TN 25-A52: DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO.. 5
TN 25-A53: Những người thợ làm vườn nho - Noel Quession. 9
TN 25-A54: LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA.. 13
TN 25-A55: BẰNG LÒNG VỚI CỦA CHÚA BAN.. 16
TN 25-A56: Ghen Tương, Tị Hiềm.. 18
TN 25-A57: GHEN TỊ 20
TN 25-A58: Rộng lòng đón nhận tha nhân. 24
TN 25-A59: Chiến thắng lòng ghen tị 27
TN 25-A60: CHÚA CÔNG MINH TRONG MỌI ỊƯỜNG LỐI CHÚA.. 29
TN 25-A61: Tình Yêu, tiêu chuẩn của Thiên Chúa. 32
TN 25-A62: GANH TỴ, CĂN BỆNH MÃN TÍNH CỦA CON NGƯỜI. 33
TN 25-A63: Thiếu Tự Tin Và Lòng Quảng Đại 37
TN 25-A64: Tư duy của Thiên Chúa và tư duy của phàm nhân! 40
TN 25-A65: HÃY VÀO LÀM VIỆC TRONG VƯỜN NHO.. 43
TN 25-A66: GHEN (CN 25. A) 47
TN 25-A67: VƯỜN NHO CỦA CHÚA.. 50
TN 25-A68: Chúa nhựt 25 năm A.. 54
TN 25-A69: TỰ DO VÀ LÒNG NHÂN LÀNH CỦA THIÊN CHÚA.. 57
TN 25-A70: PHI CƠ VÀ CÁI KẸP GIẤY.. 63
TN 25-A71: CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN - A –. 67
TN 25-A72: GANH TỴ.. 73
TN 25-A73: LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA.. 75
TN 25-A74: Chủ vườn nho. 81
TN 25-A75: THIÊN CHÚA QUẢNG ĐẠI BAO DUNG.. 82
TN 25-A76: VÀO VƯỜN NHO.. 85
TN 25-A77: TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN.. 88
TN 25-A78: TẤT CẢ ĐIỀU LÀ HỒNG ÂN.. 91
TN 25-A79: TRẬT TỰ MỚI 92
TN 25-A80: TỪ GIỜ THỨ NHẤT ĐẾN GIỜ CUỐI CÙNG.. 95
TN 25-A81: Công Bằng Hay Bác Ái?. 98
TN 25-A82: Vì tôi tốt bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu. 100
TN 25-A83: LÝ LẼ CỦA TRÁI TIM... 104
TN 25-A84: NÉN BẠC HY SINH.. 105
TN 25-A85: Do con người hay do Thiên Chúa. 108
TN 25-A86: LÝ NGƯỜI VÀ TÌNH CHÚA.. 109
TN 25-A87: Vui với người vui 112
TN 25-A88: ƠN GỌI LÀM VƯỜN NHO.. 113
TN 25-A89: GHEN RỒI TỊ HAY TỊ RỒI GHEN.. 115
TN 25-A90: PHẢI CHĂNG THIÊN CHÚA QUÁ BẤT CÔNG?. 116
TN 25-A91: Sự công bằng của Chúa. 118
TN 25-A92: Chúa Nhật 25 Thường Niên A.. 120
TN 25-A93: Chân dung gia chủ tốt lành... - Dã Quỳ. 122
TN 25-A94: Đấng nhân lành. 125
TN 25-A95: Ca tụng hay kêu trách. 126
TN 25-A96: Sự công bằng trong Nước Thiên Chúa. 129
TN 25-A97: LÒNG TỐT CỦA THIÊN CHÚA.. 131
TN 25-A98: TẤT CẢ ĐỀU LÃNH MỖI NGƯỜI MỘT ĐỒNG.. 135
TN 25-A99: CAO CẢ HƠN LÒNG CHÚNG TA.. 137
TN 25-A100: CẢM THÔNG VỚI THA NHÂN.. 139
------------------------------------------
Dụ ngôn nói lên một tính chất chung giữa chủ nhà và Chúa tể vũ trụ: Đó là sự tự do tối thượng: TN 25-A51
Dụ ngôn nói lên một tính chất chung giữa chủ nhà và Chúa tể vũ trụ: Đó là sự tự do tối thượng.
1) Đây là sự tự do của chủ vườn nho: Ông đã gọi vì ông muốn, khi ông muốn và gọi những ai ông muốn, sau khi đã quyết định phần thưởng và phân công.
Thiên Chúa cũng thế. Ngài hoàn toàn tự do khi lên tiếng kêu gọi. Không một tạo vật nào tự hào có quyền trước mặt Chúa. Mà khi nói đến ơn gọi là nói đến tự do. Giáo hội là một cộng đồng ơn sủng. Sau khi phạm tôi, tạo vật lại được nghe thấy tiếng gọi ân sủng mà đáng lẽ tạo vật đã bị vất bỏ: Tạo vật không hy vọng trở lại nữa: Đó là chân lý hiển hiện trong hình ảnh sứ thần cầm gươm canh cửa vườn địa đường. Thánh Phaolô cũng daỵ như thế trong thư gửi giáo đoàn Roma: Không có gì tuỳ thuộc vào ý chí hay hành động nhân loại, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào lòng từ ái Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể tự do gọi những kẻ Ngài muốn. “Ta thương Giacob và ghét Esau”. Thánh Phaolô so sánh hành động của Thiên Chúa với người thợ gốm muốn tuỳ ý nặn nên một vật gì tầm thường hay quí giá. Người thợ hoàn toàn tự do. Thiên Chúa cũng thế. Ngài gọi kẻ nào Ngài muốn: Người thì được gọi từ trong lòng mẹ như gọi một Tiên tri, người khác được gọi từ buổi thiếu thời, người khác khi đã đứng tuổi hay về già. Thiên Chúa quyết định thời gian.
Thiên Chúa tự do chọn lựa nơi nào Ngài muốn. Đức Kitô tuyên bố với Phêrô: “Người khác thắt lưng con, rồi dẫn con đến nơi mà con không muốn”. Mức độ ân sủng khác nhau tuỳ theo từng người. Người thì được gọi vào giờ đau khổ để được cứu rỗi. Kẻ khác được gọi để nên thánh. Người thì được gọi cứu linh hồn mình. Kẻ khác được gọi để cứu tha nhân. Những người khác nữa nhất là các thánh nhân được Thiên Chúa uỷ thác một sứ mệnh giữa Giáo hội chẳng hạn, các vị lập dòng, những người tiên phong, khởi xướng phong trào canh tân và các nhà tư tưởng…
Thiên Chúa tự do thưởng công: Ta chỉ nói về công nghiệp và phần thưởng theo cách bất toàn, và chính Đức Kitô theo sự tự do tuyệt đối của Ngài đã gọi phần thưởng là ân huệ được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa.
Tất cả những tính toán, những dự liệu pháp lý, những đòi hỏi, những tham vọng, phải tan biến trước oai nghiêm và tự do của Tạo hoá.
Các tông đồ của Chúa Giêsu phải học biết điều đó bằng kinh nghiệm riêng. Nếu họ đã không được gọi, họ đã sống cuộc đời vô nghĩa giống như các ngư phủ khác và bọn thu thuế tại Galilêa. Ngay cả sau khi đã được gọi làm môn đệ, họ cũng chỉ như những người vô danh khác, nếu Đức Kitô không phân biệt họ khỏi những người khác. Trong số các môn đệ, Simon đã chẳng trở thành Phêrô nếu Chúa không tự ý thánh hiến ông thành vị thủ lãnh. Mặt khác, dù ngã quỵ trước cơn thử thách nặng nề ngày thứ sáu tuần thánh, tất cả đã đánh mất ơn gọi, nếu sau khi sống lại, Chúa đã không tụ tập lại, và sai đi truyền giáo, nhất là đối với Phêrô; vì ba lần chối Chúa, ông đã đánh mất chức vụ thủ lãnh, nếu Chúa không ban lại sau ba lần tuyên xưng lòng mến. Nhờ ba lần tuyên xưng lòng mến này, Ngài lại trao cho ông quyền chăn dắt đoàn chiên. Đức Kitô hừa cho họ ngồi trên mười hai toà xét xử mười hai chi họ Israel. Đó là phần thưởng đổi lại lấy những gì họ đã từ bỏ vì Chúa. Tất cả đều là ơn huệ nhưng không. Nếu tất cả Kitô hữu ý thức về những ân huệ đã nhận được do Thiên Chúa tự ý ban cho, thì mười hai tông đồ và những ai sống giữa cộng đồng được lựa chọn, đã thụ hưởng một ơn gọi đặc biệt, là phải nhận biết ơn huệ Thiên Chúa và không ngừng nhớ tới.
2) Dụ ngôn này còn có một giá trị giáo huấn nữa. Thiên Chúa dùng tự do của Ngài để thực thi lòng nhân hậu. Thêm vào lời quyết đáp: “Ta lại không được quyền làm điều ta muốn ư?” Ngài nói: “Mắt các ngươi xấu vì thấy ta tốt ư?”.
Thiên Chúa tỏ ra nhân hậu và tự do, khi mời gọi tất cả moị người. Trước kia chỉ có một dân tộc duy nhất, một dân tộc nhỏ bé và được tuyển chọn. Nay nhờ Tin Mừng được loan báo cho tất cả các tạo vật, tất cả mọi quốc gia trở thành môn đệ Ngài (Mt 28, 16-20). Những tội nhân cũng sẽ được gọi đúng như lời Thánh Phaolô dạy: “Thiên Chúa đã để mọi người phạm tội để có thể thương xót mọi người”.
Lòng thương xót của Chúa thực là cao cả. Mọi người đều được mời gọi chung hưởng. Suốt đời, con người được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa. Được nâng lên bên trên bản tính tự nhiên, con người sẽ trở thành hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, bước đi trong ánh sáng của Ngài, tiến nhanh nhờ sức mạnh của Ngài, tham dự vào bản tính thần linh của Ngài. Do đó, tội nhân được gia nhấp cộng đoàn thánh nhân.
Lòng nhân hậu tự do của Thiên Chúa thực là cao cả, nên mới quyết giữ ơn gọi được miên trường. Ơn gọi không phải là một dịp tốt duy nhất, sẽ mất đi, nếu người ta không đáp lại. Ơn goị của Thiên Chúa theo dõi con người không ngừng và con người có thể đáp lại bất cứ lúc nào.
Như thế, chỉ khi nào ý thức về ơn sủng, con người mới hiểu được sự cao trọng của Thiên Chúa. Mỗi người có thể xử dụng tự do tuỳ ý. Thiên Chúa cũng sử dụng tự do để tha thứ, vì muốn thể hiện trọn vẹn tình yêu. Thiên Chúa ban phát mà không tính toán. Đến lượt con người họ cũng không được tỏ ra là người ganh tị hay ti tiện, trái lại, hãy mở rộng lượng của Đấng Tối cao. Các tông đồ đã nhận được nhiều sứ mệnh nặng nề. Phải ý thức điều đó để hoan hỉ trao ban những gì đã nhận lãnh. Những công nhân bất mãn đã cằn nhằn vì chịu khó nhọc nóng nực cả ngày mà không nhận được vào nước Chúa. Khi bắt chước Đức Kitô, những thử thách này là một đặc ân chứ chưa phải là một việc đền tội, một ơn huệ hơn là một bổn phận. Đó là cơ hội để chứng tỏ lòng yêu mến sâu xa và ưu tiên. Vì ta đã được gọi từ sớm để làm việc nhiều hơn. Con người phải từ bỏ tiêu chuẩn nhân loại để học biết suy nghĩ và phán đoán cách khác. Từ đây, mức độ là chính tình yêu. Nhưng tình yêu không bao giờ tính toán. Ai biết phó thác cho thánh ý Thiên Chúa theo tình yêu Ngài, sẽ tình nguyện tận hiến tình yêu cho Ngài. Vậy dụ ngôn này có một giá trị đặc biệt để giúp Kitô hữu suy nghĩ đúng đắn. Dụ ngôn này dạy ta phải hiểu biết cách hành động của Thiên Chúa, Ngài dùng tự do để bày tỏ tình yêu của Ngài.
----------------------------------
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ": Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi.: TN 25-A52
"Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ": Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.
"Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền": Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương đã thỏa thuận với nhau.
"Giờ thứ ba, ông ra.. ": Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem "việc thánh hóa hưu nhật" bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.
“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh": Qua câu nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan tiền.
"Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết": Đây là một việc dị thường đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.
"Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy": Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả lương cao hơn.
"Này bạn": Toán thợ giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x. Lc 15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi...". Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.
"Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay mắt bạn lườm nguýt) vì tôi tốt lành": Câu này là kết luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để hiểu dụ ngôn. Chữ "ghen tương", nếu dịch cho sát sẽ là: "mắt ác cảm", "mắt dữ tợn", một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và Huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người. Nếu đặt thành ngữ "mắt dữ tợn" vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: "Hay mắt bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?". Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
"Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết". Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó. Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64 của ngài: "Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau" (PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều ngang hàng như nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.
Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư ? hay về chuyện bị đẩy lui vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến làm việc sau cùng.
Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả lời duy nhất thích hợp: "Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao?". Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: "Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn...Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế... Há tôi lại không được phép.... sao?"
Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự (loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay do truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để thay thế cho câu nhập đề lịch sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.
2) Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.
3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn, giàu có hơn ta v.v... Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.
4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.
5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã "vác nặng cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy", song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì biết mình ở trong tay Thiên Chúa.
----------------------------------
Dụ ngôn "những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết" rất nổi tiếng. Người ta thường phê: TN 25-A53
Dụ ngôn "những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết" rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân" sẽ nói với bạn rằng không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn" là một thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những "thợ làm công nhật" trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?". Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi". Ông bảo họ: "Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là một "ông chủ" quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy: "Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?". Câu chuyện mà Đức Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của "Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào. "Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!" (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta phải đến gần “cao điểm" của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt !”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: "họ lẩm bẩm". Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những "kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm". Vào thời của Matthêu, những người "sau cùng" được đặt ngang hàng với những người "đầu tiên", đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu đãi, có đặc quyền. Những "người thợ của giờ sau cùng" được đối xử bình đẳng với những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa "giàu lòng thương xót" ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn ở trong một hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào "Vườn nho" của Người, trong hạnh phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ một cách dồi dào, Người "mời mọc" và "kêu gọi" mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng "nhân từ" không bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai rộng ra trong các thư Rôma và Galát: "Tất cả những ai tin đều được như thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện... Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
"Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức ?"
Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc "kể lại" câu chuyện này. Người còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. "Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương". Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong một thông điệp của ngài:
"Trong thế giới hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy... và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng... bởi lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa: "Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý" (Gioan Phaolô II).
----------------------------------
1. Hai sự kiện.
Báo Người Lao Động số 23.1993 có đăng bài: Chợ Người Hà nội. Người Hà nội bấy lâu nay đua: TN 25-A54
Báo Người Lao Động số 23.1993 có đăng bài: Chợ Người Hà nội. Người Hà nội bấy lâu nay đua nhau xây nhà. Nếu thiếu nhân công lặt vặt là có thể ra ngay chợ người mua sức lao động. Đội quân từ các tỉnh về Hà nội thường xuyên có đến hai ba chục ngàn người. Rỗi việc nhà nông, ở quê không có người phụ...không việc làm, họ ra Hà nội, tụ tập nhiều nhất là dọc đường đôi Giảng võ, trục đường dài theo đê Đại la, xuống Láng. ..đến chợ Mộc...Công việc có nhiều giá. Việc lặt vặt như dọn đất đá, khuân gạch tô vôi, quét vôi lóc thì khoán từ A đến Z, hoặc là cơm chủ hai bữa cộng tiền công ba, bốn ngàn, hoặc là tự lo bữa ăn. .thì 5,6 ngàn một ngày. Tiền công như vậy là rẻ mạt. Cũng đành vậy thôi. Họ chỉ có đôi tay. Và còn hơn là không có việc. Người thuê cũng có ít. Vì ngại, vì sợ người làm công quen cửa quen nhà mình rồi, làm xong biết đâu người ta “xin đểu”,”trộm cắp, nhờ vả”. ..rách việc thêm.
Báo Tuổi trẻ ngày 4.4.1996 có đăng bài: Chợ Người Ơ Định Quán. Nếu như ở Hà nội, dòng người xuất phát từ nông thôn đổ xô về thành thị “nhóm chợ’ tìm việc làm thì tại Định Quán (Đồng nai), một khu chợ mới đã hình thành trên quốc lộ 20 với những đặc trưng của nó. Đó là những người lao động hình thành từ những làn sóng “di dân tự do’ it đất, không có tư liệu sản xuất, đành phải bán sức lao động kiếm sống...Vùng này là vùng có nhiều đất, có nhiều đá lộ đầu nên việc dùng cơ giới trong nông nghiệp bị hạn chế. Do đó nhu cầu về lao động rất cao.Từ tháng tư đến tháng mười hai, thời gian diễn ra vụ trồng, ngày ngày có hàng trăm lao động tụ tập ở “chợ” chờ đợi. Những ngày cao điểm, vào vụ lên đến bốn năm trăm người. Những chiếc xe cải tiến, xe máy xới chạy ì ạch, chở đầy những lao động từ “chợ người” đi về các vườn cây, các nương rẫy. Mỗi lao động được từ 15.000 – 20.000đ /ngày. Những ngày cao điểm có thể đến 30.000 – 40.000đ. Hôm sau, mờ mờ sáng chợ lại đông.
2. Trọng tâm dụ ngôn
“ Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông. ..” Giữa một “chợ người” thời Chúa Giêsu ở đất nước Do Thái, tương tự như “Chợ người Hà nội” hay “Chợ người Định quán” bây giờ, một xã hội ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật. Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày. Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận như một ngày công lao động 15.000đ – 20.000đ Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau. Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều: - 3 giờ là 9 giờ sáng - 6 giờ là 12 giờ trưa - 9 giờ là 3 giờ chiều - 11 giờ là 5 giờ chiều
Theo lệ thường công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành nổi đe dọa, ghen tức. Vậy thì ông chủ có bất công không? Chắc chắn là không. Vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận tức là 1 đồng. Chính ông chủ trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ? Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông ta bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng. Trọng tâm của dụ ngôn là việc phân phát lương bổng lúc cuối ngày. 3. Ý nghĩa dụ ngôn
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài ngươì nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời. 1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa thì nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người thì nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Sự trả công của Ngài không làm thiệt hại ai, vẫn luôn bảo đảm tính công bằng.
Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, khô cứng, Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo. 4. Sứ điệp Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa thương xót. Đã là thương xót thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
----------------------------------
Is 55:6-9; Pl 1:20c-24, 27a; Mt 20:1-16
Chiều kích của thế giới mà người ta đang sống, tuỳ thuộc vào cái nhìn của mỗi người. Người ta có: TN 25-A55
Chiều kích của thế giới mà người ta đang sống, tuỳ thuộc vào cái nhìn của mỗi người. Người ta có thể mở rộng hay thu hẹp thế giới lại trong đầu óc mình. Khi người ta thu hẹp cái nhìn đời, là người ta chọn sống trong thế giới nhỏ bé. Và khi người ta càng chọn cái nhìn hẹp hòi, người ta càng mất hạnh phúc. Ðó là cách thế cắt nghĩa cho việc bất mãn của những người làm vườn nho cả ngày từ sáng sớm tinh sương trong Phúc âm hôm nay.
Thợ làm vườn nho từ sáng sớm đã thỏa thuận với chủ về đồng tiền lương (Mt 20:2), nhưng rồi họ lại cằn nhằn vì chủ trả cho những người đến sau cũng bằng họ. Xét về một vài khía cạnh, thì dụ ngôn hôm nay cũng giống dụ ngôn người cha nhân lành đối xử khoan hậu với người con phung phá. Khi người con phung phá trở về thì người cha cho mở đại tiệc ăn mừng khiến người con trưởng nổi ghen. Ðó cũng là phản ứng tiêu biểu của loài người.
Giới học giả Thánh kinh coi những người được gọi trước để làm vườn nho tượng trưng cho dân được chọn trong Cựu ước. Họ là những người được gọi trước để sửa soạn cho việc Ðấng Cứu thế đến. Khi Ðấng Cứu thế đến, họ lại từ khước Người. Còn những người dân ngoại được gọi sau này đã chấp nhận lời mời gọi của Chúa và họ được trở nên hàng đầu (Mt 20:16a). Dụ ngôn còn ám chỉ rằng bất cứ ai đáp lại tiếng gọi của Chúa và sống theo đường lối của Người thì cũng được đối xử khoan dung và nhân hậu. Ðó là trường hợp những người thu thuế và gái điếm được vào nước Trời trước các thượng tế và kì mục như Chúa bảo (Mt 21:31). Người thu thuế và gái điếm mà Chúa nói đến cũng là người Do thái nhưng họ biết hối cải và thi hành ý Chúa.
Bài học có thể được rút tỉa trong Thánh kinh hôm nay là lời mời gọi sống đức tin vào Chúa đến với mỗi dân tộc hay mỗi cá nhân khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Có người được gọi đến đời sống đức tin từ nhỏ qua Bí tích Rửa tội. Có người lớn lên mới được gọi vào đời sống đức tin. Chính lúc mà người ta đặt tin tưởng vào Chúa và gia nhập đạo Chúa qua Bí tích Rửa tội thì họ trở nên thành phần ngang hàng với nhau trước mặt Chúa. Gia nhập nước Chúa sớm hay trễ, trước hay sau không có khác biệt. Và tất cả những người được gọi làm vườn nho của Chúa để gia nhập nuớc Trời đều phải ghi ơn lòng quảng đại của Chúa.
Dụ ngôn nhấn mạnh đến điểm là trong việc cứu độ, Thiên Chúa sẽ quyết định những gì là công bình, những gì là bác ái trong việc thưởng công cho con cái loài người. Ðường lối của Chúa là đường nẻo công chính, nhưng sự công chính của Chúa luôn nằm trong bối cảnh nhân từ và lòng xót thương của Người. Chính vì thế mà ngôn sứ Isaia trong bài Thánh kinh Cựu ước hôm nay đã ca tụng lòng nhân hậu của Chúa: Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi (Is 55:8).
Trong việc trả lương cho những người đến làm sau hết cùng một số tiền như những người đến trước, người chủ đã không làm thiệt hại, cũng không lỗi đức công bình với những người đến làm từ sáng sớm vì họ đã thỏa thuận với chủ về số tiền lương mỗi ngày một quan tiền. Ðó là mức lương của một người thợ thời bấy giờ. Việc trả lương cho những người đến sau cùng một số tiền bằng thợ đến từ sáng sớm là do lòng đại lượng của chủ. Nói cách khác, đối với những người đến trước, thì chủ thi hành luật công bình, nghĩa là không lỗi giao kèo. Còn đối với những người đến sau, chủ thi hành luật bác ái.
Theo mạch văn trong Phúc âm hôm nay thì những người đứng không ở ngoài chợ, không phải là những người nhàn cư, ăn không ngồi rồi, nhưng vì không ai mướn họ (Mt 20:7). Ra chợ tìm việc làm và đợi tới giờ mười một1 - tức là năm giờ chiều, đến sáu giờ thì nghỉ việc - có nghĩa là họ cần việc làm. Tại đất Paléttin thời bấy giờ, chợ là nơi người thất nghiệp đến tìm việc và nhận việc, giống như tiệm 7-Eleven hay tiệm giải khát nào đó tại Hoa kỳ là nơi mà người thất nghiệp tụ họp đợi người khác đến thuê làm công vào thời gian hai mươi năm cuối thế kỉ hai mươi và cũng chừng hai mươi năm đầu thế kỉ hai mươi mốt. Theo nhà chú giải Thánh kinh William Barclay, cao độ của mùa hái nho tại Patéttin nhằm vào tháng Chín. Theo sau là mùa mưa. Vì thế chủ cần hái nho trước khi mùa mưa tới để nho khỏi bị ủng, nên ông cần càng nhiều thợ làm càng lợi ích. Như vậy xét theo kế hoạch kinh tế nông nghiệp, ông chủ là người quản lý tài sản giỏi. Còn xét theo Học thuyết Xã hội Công giáo, người ta phải khen ông chủ vườn nho có đầu óc xã hội, chứ không thể tố cáo ông mang óc thiên vị: nhất bên trọng, nhất bên khinh. Ông trả lương theo nhu cầu vật chất của thợ, chứ không dựa trên thời giờ làm việc của họ.
Khi nghĩ rằng ta tốt lành và siêng năng hơn người khác, mà người khác lại hơn ta về của cải vật chất và địa vị xã hội, ta sinh ra ganh tị, và còn hận Chúa. Do đó ta muốn đặt giới hạn cho lòng đại lượng và khoan dung của Chúa. Ðó chính là điều thắc mắc của ông chủ vườn nho: Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?(Mt 20:15). Ðáng lẽ những người làm vườn nho từ sáng sớm phải vui mừng với thợ đến sau vì họ cần tiền để độ thân hoặc nuôi gia đình. Khi đặt nặng về giá trị vật chất, mà thấy người khác hơn mình về của cải, việc làm, nhà ở thì người ta nổi máu ghen. Mà ghen tương lại làm cho người ta mất hạnh phúc. Mất hạnh phúc làm người ta khổ. Vậy thì ghen làm chi cho khổ? Còn nếu coi nhẹ giá trị vật chất thì khi thấy người khác hơn mình về những khía cạnh trên, người ta cũng không màng. Hôm nay mỗi người cần nhắc nhở cho mình rằng mọi sự ta có đều là của Chúa ban. Vì thế ta cần học để sống trong tâm tình biết ơn.
Lời cầu nguyện xin cho được bằng lòng với của Chúa ban:
Lạy Chúa, Chúa là Ðấng công minh và đại lượng
Chúng con cảm tạ Chúa về lượng công minh
và lòng đại lượng đối với loài người tuỳ theo nhu cầu cá nhân.
Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn
để con bằng lòng đón nhận những của lớn nhỏ Chúa ban.
Cũng xin cho con một tâm hồn quảng đại
để con hiểu được những đặc ân mà Chúa ban cho người khác
thay vì ganh tị với họ và kêu trách Chúa.
Và xin cho những người đến sau
cũng được mời vào làm việc trong vườn nho của Chúa. Amen.
LM Trần Bình Trọng
----------------------------------
Ca dao Việt Nam có câu: “Ớt nào mà ớt chẳng cay Gái nào…. Ghen tương, tị hiềm là một mầm giống: TN 25-A56
Ca dao Việt Nam có câu:
“Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”
Ghen tương, tị hiềm là một mầm giống bệnh tật nằm trong bản tính con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Cain vì ghen mà giết Aben, bởi em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của Giacob ghen với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đâm vào Đavít. Đavít ghen với Uria. Vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông.
Có nhiều người ghen và cũng có nhiều chuyện để ghen. Ghen tương thường đi đến kết thúc thật bi thảm. Thù oán, giận hờn và đôi khi giết hại lẫn nhau mà vẫn không áy náy lương tâm.
Chắc hẳn chúng ta còn nhớ vụ kiện Hai bà mẹ giành nhau đứa con trước tòa của Salômôn. Một bà nói: Hai chúng tôi ở cùng một nhà, nhưng con của bà ta bị chết vì bà nằm đè phải đứa con nên nó bị chết. Nửa đêm bà này thức dậy đánh tráo con tôi”. Nhà vua vung gươm sáng loáng ra lệnh chặt đôi bé còn sống để chia cho mỗi bà một nửa. Nghe vậy, người mẹ thứ hai thưa rằng: “Xin bệ hạ trả cháu nhỏ cho bà kia, đừng giết cháu tội nghiệp”. Bà thứ nhất thưa: “Cháu bé không phải của chị cũng không phải của tôi. Cứ phân đôi là công bằng”. Nhà vua liền trao cho người mẹ xin đừng giết đứa bé, vì đó là người mẹ thật.
Quả thực lòng ghen đánh mất tính người: “Không ăn thì hắt đổ đi”. Người ghen tương không chấp nhận người khác hơn mình. Và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có.”Trâu buộc ghét trâu ăn” là thế. Kẻ ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Kẻ ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Với cá nhân, ghen tị biến thành kẻ ác nhân, nơi đoàn thể biến thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng.. . . nhưng trong lòng lại “một bồ dao găm”, chỉ toan tính hại người.
Ở Ấn Độ có dụ ngôn như sau: Trong triều đình có hai vị quan. Một người thì ganh tị, một người tham lam.
Để chữa trị những tật xấu ấy, vua cho triệu vời cả hai vào triều đình. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai người vì đã có công phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Họ xin gì được nấy. Tuy nhiên người nào mở miệng trước thì sẽ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan lặng thinh ngẫm nghĩ. Kẻ tham lam thầm nghĩ rằng. Nếu tôi nói trước thì sẽ được ít hơn, còn người ganh tị thì lý luận, tội vạ gì mà mình xin trước để tên kia lãnh gấp đôi. Cứ như thế chẳng ai dám xin trước. Cuối cùng nhà vua phải yêu cầu người ganh tị nói trước. Hắn bèn dõng dạc tuyên bố: “Nếu thế thì xin vua cho tôi được chặt đứt một cánh tay để tên kia bị gấp đôi”. Sự ganh tị đã đánh mất tình người. Con người dễ dàng trở thành kẻ thù của nhau chỉ một miếng ăn, một chén gạo.. .
Dụ ngôn hôm nay muốn nói với chúng ta rằng đừng có ganh tị tham lam ích kỷ. Hãy tập “có sao chịu vậy” và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách chiến thắng lòng tham lam, bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tương.
Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng ai xứng đáng được thưởng một quan tiền. Người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn. Ai cũng có nỗi khổ riêng. “Thuyền càng to sóng càng lớn”. Mỗi người đều có mối lo lắng riêng. Điều quan yếu Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho bạn, cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng. Mỗi người một hoàn cảnh. Mỗi người một cuộc sống khác nhau hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Amen
Lm Jos Tạ Duy Tuyên
----------------------------------
Chúa Nhật 25 [Cr 1, 10-13,17]
Câu truyện đời thường
Có một nhà buôn rất sùng đạo. Dù hoàn cảnh cuộc sống vất vả thế nào thì cũng không bỏ việc cúng vái: TN 25-A57
Có một nhà buôn rất sùng đạo. Dù hoàn cảnh cuộc sống vất vả thế nào thì cũng không bỏ việc cúng vái thần thánh. Lời khẩn cầu vang lên tới trời, và thần tiên xuất hiện và ban cho ông ta những điều ước. Ông có thể xin cho mình, cho gia đình, cho hàng xóm hay cho đồng nghiệp đều được. Ông vui mừng, nhưng rồi lại buồn, vì nếu:
- Bây giờ mình xin một chiếc xe thì sợ tiên lại cho họ hai chiếc.
- Xin một căn nhà thì sợ họ được hai căn.
- Xin 1 tỷ thì hàng xóm được 2 tỷ.
- Xin cho được một người vợ đẹp, hiền, dịu dàng thì bạn bè lại được hai vợ.
- Và cứ thế, ông đưa ra đủ thứ ước muốn, nhưng lại không chọn gì cả, vì sợ mình được một thì người khác được hai.
- Cuối cùng ông quyết định: xin thần tiên cho con bị mù một mắt. Vì ông nghĩ nếu mình bị mù một thì người khác sẽ bị mù hai con mắt.
Vì ghen tị mà nhiều người muốn mình được hơn người khác về mọi mặt tốt, nhưng lại muốn người khác gặp thật nhiều rủi ro, bất hạnh.
Vì ghen tị mà con người tìm cách đẩy trách nhiệm cho người khác, còn mình ở ngoài cuộc.
Vì ghen tị mà con người có thể dùng mọi cách để làm lại, tàn sát lẫn nhau. Miễn là mình có lợi.
Vì ghen tị mà hiệp nhất biến mất, chia rẽ xuất hiện, bất hạnh ập tới.
Vì ghen tị mà nảy sinh bè phái, tranh chấp, chống đối, rồi trở nên mù loà về chân lý và sự thật.
Tính ghen tị biểu lộ thái độ ích kỷ cá nhân, biểu lộ sự tham lam: tiền bạc, lợi lộc, danh dự, uy tín… mà đem lòng ước muốn chiếm đoạt, làm hại, dù đó là anh em mình.
Câu truyện Lời Chúa
Cựu Ước. Khi Đavít đánh thắng quân Phiitinh trở về, nhiều người chúc mừng, tung hô, ca hát, nhảy múa: "Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn" (1Sm 18,6).
Vua ghen tị rồi tức giận vì: "Người ta cho Đavít hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi” (1Sm 18, 8).
Thế rồi ông bàn với triều thần ý định giết Đavít. Đavít được Giônathan, con vua báo cho biết ý định của cha mình. Rồi Giônathan can ngăn cha đừng đổ máu người vô tội, nhờ bàn tay Đức Chúa mà ta mới thắng được quân Philitinh. Nhà vua nghe theo lời khuyên của con, nhưng lòng ghen tị thì vẫn còn.
Thời gian sau, Đavít lại đánh thắng quân Philitinh, vua ghen tị và đã phóng cây ghim vào Đavít lúc đang gảy đàn, nhưng ông né được. Và ngay đêm hôm đó, Đavít phải trốn đi nơi khác.
Ghen tị về lợi lộc, danh tiếng, quyền chức mà Saun sẵn sàng tàn sát Đavít, người hết mình phục vụ cho nhà vua.
Tân Ước. Thánh Phaolô tông đồ đã lên tiếng với giáo đoàn Côrintô, vì trong cộng đoàn này đã có những đố kỵ, chia rẽ, bé phái, không hiệp nhất: “Trong anh em có những luận điệu như: Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô. Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư ?(1Cr 10,12-13).
Sự phân chia phe nhóm trong cộng đoàn một phần là do các sở thích và tình cảm cá nhân quá nặng, từ đó sinh ra ghen tị. Tôi thích người này, ghét người kia. Tôi theo người này, chống người nọ.
. Một số thấy Phaolô là con người cương trực, ăn nói ngay thẳng nên phục rồi quý mến và đi theo. Số khác thì không thích tính tình cương trực, thẳng thắn của ông, nên chạy theo Phêrô.
. Một số theo Phêrô, vì ông vừa là thủ lãnh, vừa dễ dãi, “sao cũng được". Thư Galat diễn tả: khi vắng mặt các thành viên Do thái trong cộng đoàn thánh Giacôbê, Phêrô đã ngồi ăn chung, uống chung với dân ngoại, nhưng khi thấy họ đến thì ông lại tránh đi. Một lần kia Phaolô đã trách Phêrô trước mặt mọi người. Có lẽ vì Phêrô dễ dãi như thế nên nhiều người thích và đi theo ủng hộ.
. Một số khác lại thích Apôllô. Ông này ăn nói lưu loát, có khả năng diễn thuyết hùng hồn, biện luận hay, sắc bén để chứng minh về Chúa Giêsu Kitô. Nên nên họ thích nghe hơn, và rồi cái gì Apôllô nói điều gì cũng đúng, cũng hay.
Khi đã thương ai, mến ai thì cái gì cũng tốt, cũng đúng, và tìm cách thu gom, chiếm đoạt phần tốt về cho mình, nhóm của mình, người của mình.
Những khuynh hướng nặng về tình cảm cá nhân đã tạo nên chia rẽ trầm trọng trong cộng đồng Dân Chúa thời sơ khai, cũng như thời nay, đến nỗi Phaolô phải lên tiếng: "Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng tâm hiệp ý với nhau. Đừng chia rẽ, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một thần trí và một tâm tình" (1 Cr 1, 10).
Câu truyện của Giáo xứ
Trước bàn thờ là hình ảnh của những ngọn nến, những bông hồng rất đẹp. Vâng, nó đẹp và sáng. Nhưng nó sẽ trở nên vô giá trị khi, một hôm:
- Ngọn nến nói với bông hồng: ánh sáng của tôi sáng, lung linh, đẹp quá, phải như vậy thì mới có giá trị. Còn bạn thì làm sao được như tôi.
- Bông hồng lên tiếng: sắc hoa, hương hoa của tôi làm cho con người vui thích, chiêm ngắm. Nếu không có tôi thì bạn không đẹp, con người cũng chẳng có gì để thưởng thức. Tôi mới có giá trị.
Chúng đang tranh đua hơn thua, thì bỗng nhiên, ngọn nến đổ xuống, rơi vào những bông hồng. Lúc này, lửa không còn để thắp sáng và sưởi ấm nữa, mà là lửa huỷ diệt. Lửa thiêu rụi những bông hồng. Còn nến thì bị gai của hoa hồng chọc nát, chầy chụa thân nến. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ, nhưng vì ghen tị, kiêu căng mà cả hai tự huỷ diệt chính mình.
Cùng phục vụ bàn thờ, nhưng vì ghen tị nên cả hai đã tự huỷ diệt nhau.
Hình ảnh của Tân ước thời các tông đồ cũng có ở thời nay. Nhìn vào các xứ đạo, chắc chắn ít nhiều, với hình thức này hay hình thức khác cũng có những đố kỵ, ghen tị giữa người này với người khác; giữa hội đoàn này với hội đoàn khác.
Nào là ca đoàn, giáo lý viên, ban lễ sinh và nhiều thứ hội đoàn các bà, các ông….. Nhóm thì theo cha sở, nhóm thì theo cha phó, nhóm khác theo thầy xứ, nhóm thì theo các sơ. Vì ghen tị mà gièm pha chỉ trích chống đối nhau. Ôi, thế là chia rẽ. Nhóm nào cũng đấu tranh tìm phần thắng, phần tốt về mình, còn phần xấu, phần trách nhiệm thì tìm cách đẩy cho nhóm khác. Giáo xứ trở nên lộn xộn, mất tình nghĩa.
Nếu phục vụ mà thiếu khiêm nhường thì những việc phục vụ của ta có thể trở thành đầu mối gây mất hiệp thông, là nguyên nhân gây ra chia rẽ. Vậy chẳng phải xưa, mà nay, vì thiếu khiêm tốn, vì ganh tị mà đã phanh thây thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô thành từng mảnh hay sao.
Hãy đồng tâm ý hiệp với nhau. Đừng vì sở thích, quan điểm, hay tình cảm cá nhân chi phối mà ủng hộ, hợp tác với người này người nọ hoặc chống đối, chê bai, lạnh lùng với người kia.
Đừng để ghen tương, đố kỵ chi phối lời nói, việc làm của ta, để rồi, từ ta, phát sinh nhiều phân rẽ, hận thù. Chúng ta hãy cùng nhau phục vụ Chúa Kitô.
Thánh Phaolô nói: "Nhân danh Chúa Kitô, tôi nài xin anh em hãy liên kết trong cùng một thần trí và một tâm tình. Thần trí đó là thần trí yêu thương, và tâm tình đó là tâm tình khiêm hạ. Chớ ao ước những điều bất chính, khổ đau cho kẻ khác. Đừng muốn mình chột để người ta bị mù. Nhưng hãy cầu cho nhau những sự may lành. Hãy vui với người vui, vì điều đó đôi khi còn khó hơn khóc với người khóc. Hãy tạ ơn Thiên Chúa cho nhau. Và điều quan trọng là hãy hiệp nhất với nhau”.
Hiệp nhất chính là tinh thần và sứ mạng của của người tông đồ: hiệp nhất con người với Thiên Chúa; hiệp nhất con người với con người; hiệp nhất những tâm hồn tan vỡ, để qua đó, tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ, được tuôn trào đến khắp trần gian.
Khiêm nhường kiếm tìm hiệp nhất là cách giải thoát những tâm hồn bị ghen ghét thống trị, chế ngự.
Ghen tị là liều thuốc độc giết hại đời ta, gia đình ta, cộng đoàn của ta.
Thanh Thanh
----------------------------------
VietCatholic News (Thứ Năm 18/09/2008 08:01)
Isaia 55: 6-9; Tv 145; Philipphê 1: 20c-24, 27a; Matthêu 20: 1-16
Anh chị em thân mến,
Tôi đã đi giảng cho nhiều giáo xứ trên khắp Hoa kỳ. Ở những nơi này, sẽ dễ dàng nhận thấy nó có những: TN 25-A58
Tôi đã đi giảng cho nhiều giáo xứ trên khắp Hoa kỳ. Ở những nơi này, sẽ dễ dàng nhận thấy nó có những nét đăc trưng riêng như: Bầu trời, sông nước, vùng vịnh, cây cỏ, các sắc dân khác nhau và các dân tộc sống chung với nhau, dân số v.v....đồng thời cũng có những hình ảnh quen thuộc khác rất phổ biến: Hệ thống các cửa hàng, tiệm ăn, ngân hàng, nhà thờ, sân vận động, đèn đường, v.v.... Tuy nhiên, đi đến đâu cũng thấy những cảnh trí giống nhau như: Những công nhân làm việc bên đường, tại các trung tâm thương mãi. Ở các thành phố, người ta biết phải tìm những công nhân lao động phổ thông ở đâu để thuê họ làm việc trong ngày. Người ta thuê họ để làm vườn, hay xây cất sửa chữa nhà, và làm việc trong các hệ thống dây chuyền. Luật cấm lao động nhập cư bất hợp pháp đã làm cho số lao động phổ thông bớt đi, nhưng mỗi khi Anh chị em lái xe vào thành phố, chúng ta vẫn thấy họ đứng từng nhóm nhỏ đợi có người cần nhân công đến tiếp xúc và chở họ đi làm việc.
Chúng ta nghe nói những người lao động như vậy thường bị người ta lợi dụng: Nơi làm việc của họ thường không vệ sinh, làm nhiều giờ, lương ít, và có khi họ làm việc xong thì có người đi báo cho Sở di trú đến bắt họ và thế là họ không được lãnh tiền. Những lao động phổ thông như thế có cuộc sống bấp bênh và không vững chắc. Không có gì để bảo vệ họ, và họ luôn lo lắng là không đủ tiền mang về cho gia đình, để trả tiền nhà và những nhu cầu khác trong cuộc sống hàng ngày.
Anh chị em không cần phải là công nhân lao động phổ thông mới hiểu được những lo lắng về vấn đề tài chính, nhất là trong thời kinh tế đang găp nhiều khó khăn. Những người làm it tiền sẽ chật vật mỗi khi bị thất nghiệp, gây khó khăn cho họ và gia đình họ. Khi bạn làm lương ít thì bạn không thể để mất một ngày làm việc. Bạn sẽ thấy sự khó khăn xuất hiện khi: Không đủ tiền mua thuốc chữa bệnh, đi khám bác sĩ hay đi bệnh viện. Nhưng hiện nay sự lo lắng về tài chính lan rộng đến cả những người trung luu trong xã hội… Những người này sợ không có đủ tiền để trả tiền nhà, sợ việc làm không chắc chắn, không đủ tiền trả tiền điện nước. Biết bao nhiêu người sống ở miền bắc sợ khi mùa đông đến, không đủ tiền để trả tiền dầu sưởi nhà. Ngay cả những xí nghiệp lớn cũng gặp khó khăn về kinh tế nên phải cho công nhân nghỉ việc. Ba công ty làm xe hơi chính ở Hoa kỳ và một số hãng hàng không v.v... cũng đã gặp khó khăn. Không một ai trong chúng ta, già hay trẻ, khó tránh khỏi sự lo lắng về chổ làm và kinh tế.
Hãy nhân lên gấp trăm lần những khó khăn nói trên, Anh chị em sẽ hiểu được những lo lắng của những người lao động thời Chúa Giêsu. Nhiều hoàn cảnh khó khăn trầm trọng, hơn 95% dân chúng là người nghèo đến mức phải chịu đói. Đối với nhiều người, tiền một ngày lương chỉ đủ ăn trong ngày. Cứ mỗi buổi sáng họ lại lo lắng: "Nếu hôm nay tôi không có việc làm thì sao? Làm sao tôi có tiền để nuôi con cái?" Ngay cả những người trẻ và những người có đủ sức làm việc cũng phải lo sợ như vậy. Nếu có việc làm, thường họ là những người được thuê trước tiên. Nhưng nếu không có công việc, thì ngay cả những người như họ cũng không được thuê.
Anh chị em hãy nhân gấp trăm lần những nỗi lo lắng sợ hãi trên cho người già yếu, người góa phụ có con nhỏ, các thiếu niên tìm việc, hay những người tật nguyền không thể có sức để lao động. Bạn đừng mong người ta mướn bạn trước tiên, hay mướn lại lần thứ hai hay thứ ba đâu. Còn nhiều người khác nữa thích hợp với công việc hơn bạn. Nhưng bạn cũng vẫn cần tiền lương từng ngày để sinh sống và nuôi gia đình. Một ngày lương sẽ giúp bạn thay đổi cuộc sống, hoặc có cơm ăn hoặc nhịn đói, hoặc còn sống hoặc chết đi. Thử hỏi bạn muốn được thuê làm suốt ngày hay đứng không, chờ đợi chán nản cho chính bạn trong khi gia đình, hy vọng bạn có được việc làm, và niềm hy vọng cứ từ từ giảm dần. Ngay cả lúc bạn được thuê chậm trễ trong ngày, thử hỏi bạn lãnh được bao nhiêu tiền và điều dĩ nhiên sẽ là lãnh tiền ít hơn người làm việc trọn ngày.
Người chủ vườn thường mướn người làm vào mùa gặt hái. Ông ta có nhiều kinh nghiệm về việc thuê mướn công nhân. Cũng có chủ vườn không cần để ý đến nhu cầu của công nhân. Nhưng bài dụ ngôn hôm nay nói về một chủ vườn không giống ai. Người này để ý đến nhu cầu của người làm công, vì ông ta biết họ đang mong có việc làm, mà ông ta thì rất rộng lượng.
Dụ ngôn này làm chúng ta thật sự ngạc nhiên. Dù sao chúng ta cũng thông cảm với những người được thuê trước tiên. Chúng ta làm việc nặng nhọc, những người đó có lẽ đã được gia đình hướng dẫn nên làm việc cần cù. Chúng ta cũng đang làm việc theo lối hướng dẫn đó, và biết thế nào là công bằng và chúng ta luôn nghĩ Thiên Chúa cũng công bằng như chúng ta hiểu…Chúng ta nghĩ vì đã làm việc cần cù thì chúng ta đáng được hưởng lương của Thiên Chúa. Chúng ta nghĩ như thế là đúng.
Đến đây chúng ta sẽ có chút nghĩ ngợi và bực tức vì chúng ta không được Thiên Chúa hậu đãi một cách "công bằng". Dẫu sao đi nữa chúng ta cũng đang làm việc với một Thiên Chúa, Đấng thông hiểu mọi sự. Thử hỏi chúng ta có muốn đòi hỏi sự công bằng về tiền bạc, về những suy nghĩ của chúng ta, về những điều đã nói và đã làm không? Như thế có lẽ chúng ta sẽ có dư nhờ chúng ta được một Chủ Vườn rộng rãi thuê mướn.
Đây là dụ ngôn không phải nói về chúng ta và những điều chúng ta đang được hưởng, nhưng nói về Thiên Chúa, về Nước Trời và cách tính toán của Thiên Chúa không giống (Matthêu 20:1-16) cách tính toán mà chúng ta đã kinh qua trong đời sống làm việc cực nhọc thường ngày. Dụ ngôn này và những dụ ngôn khác nói về Thiên Chúa rộng rãi chào đón chúng ta, Ngài không để chúng ta có mặc cảm là hạng người thứ hai, hay là hạng tôi tớ bề dưới. Chúng ta đã nghe nhiều dụ ngôn đủ cho chúng ta có kết luận về Thiên Chúa: Ngài dùng những người ngoài cuộc và đem họ vào trong cuộc. Thiên Chúa chúng ta không đối xử với chúng ta theo đúng sức của chúng ta nhưng theo ý của Ngài. Và nguyên tắc Ngài dùng được bày tỏ phần lớn trong dụ ngôn hôm nay. Đó là lòng rộng rãi của Thiên Chúa.
Mỗi chúng ta điều cần được ơn tha thứ, và ơn đó đã được ban một cách rộng rãi, cho dù chúng ta đáng được hưởng hay không. Có người trong chúng ta, ngay lúc này, cần được ơn cương quyết, kiên nhẫn hay được giảm bớt gánh nặng trong lòng. Chúng ta cần được giúp đỡ, và có thể chúng ta không đáng được hưởng nhiều ơn huệ của Thiên Chúa. Nhưng theo dụ ngôn hôm nay, Đấng chủ vườn muốn tỏ lòng rộng rãi ban cho chúng ta cái chúng ta được hưởng vượt quá sự suy nghĩ của mình. Có thể chúng ta chưa làm việc đủ để được Thiên Chúa nhậm lời, hay chúng ta có thể không đáng được Thiên Chúa để ý đến, nhưng Thiên Chúa lại nói là "Không sao, cứ vào đi, con được chọn. Và Ta muốn con thấy Ta rộng rãi."
Một vài câu hỏi được đặt ra: Vậy Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì? Nếu tin tưởng vào Thiên Chúa theo như dụ ngôn này, thì chúng ta cũng phải đối đãi rộng rãi với tha nhân như Thiên Chúa đã đối đãi chúng ta. Chúng ta hãy ngưng việc tính toán chi li, ngưng so kè với kẻ khác theo sức lực, theo học thức, theo bao nhiêu năm họ sống trong cộng đòan chúng ta, theo ý là họ "có đáng được" hưởng những điều chúng ta giúp không. Chúng ta cần dùng dụ ngôn ngày hôm nay như tấm gương để khi nhìn vào đó, chúng ta biết cách nhìn vào tha nhân như cách Thiên Chúa đang nhìn chúng ta.
Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP
Lm Jude Siciliano OP
----------------------------------
(Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 25 thường niên. Matthêu 20, 1-16)
Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được lãnh tiền công đúng như đã thoả: TN 25-A59
Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được lãnh tiền công đúng như đã thoả thuận với chủ từ đầu, thế nhưng họ vẫn không hài lòng, lại còn lẩm bẩm kêu trách chủ vườn đã cho những người đến làm sau được hưởng đồng lương bằng họ. Họ tỏ ra bất bình và ghen tị với các đồng nghiệp chỉ vì những người nầy ít tốn mồ hôi hơn mà cũng được hưởng tiền lương bằng mình.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với Aben là người em yêu quý của anh chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của anh thì bị Thiên Chúa khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Ca-in đánh chết em. Theo sách Samuen, Đa-vít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ít-ra-en bằng cách giao chiến một-chọi-một với tên Gô-li-át khổng lồ thuộc phe Phi-li-tinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ít-ra-en thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Phi-li-tinh thù nghịch. "Khi Đa-vít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ít-ra-en kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, ông Đa-vít hàng vạn". Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un, khiến nhà vua phóng giáo vào Đa-vít đang khi Đa-vít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đa-vít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đa-vít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 17-18)
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su ám chỉ đến lòng ghen tị của những người biệt phái đối với những người thu thuế và tội lỗi vì những người nầy được Chúa Giê-su yêu thương và tiếp đón. Người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh. Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển. Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Nó vẫn chế ngự và tiếp tục khống chế con người cho tới khi nhắm mắt tắt hơi.
Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, chúng ta cần sáng suốt nhận thức hai điều nầy:
1. Sự may lành của người, sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta.
Thế giới nầy cần phải có nhiều người tài giỏi hơn bạn và tôi, càng nhiều càng tốt. Nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng bạn và tôi thôi thì làm gì có máy bay, có TV, có điện thoại di động và máy tính!... Xã hội nầy cần phải có nhiều người giàu có hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nghèo như bạn và tôi thì lấy đâu ra vốn để đầu tư và phát triển và thế là quốc gia còn lâu mới thoát cảnh lạc hậu nghèo nàn. Đất nước nầy cần có nhiều người trí thức hơn, thông thái hơn, khôn ngoan hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nông cạn và thiển cận như tôi thì làm gì có văn minh và tiến bộ. Vậy thì hãy cầu mong cho có nhiều người trỗi vượt hơn ta về nhiều phương diện chứ đừng cầu mong người khác thua ta hoặc bằng ta, bởi vì: "con hơn cha thì nhà có phúc; sau hơn trước thì nước văn minh".
2. Tất cả mọi người làm nên một thân thể.
Qua Thánh Phao-lô, Thiên Chúa bày tỏ cho nhân loại biết rằng muôn người trên thế gian cũng chỉ là một:
"Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" I Cor 12, 12-13)
"Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (I Cor 10, 17)
"Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người biết mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa." (Ep 3, 5-6)
Xin cho mọi người hiểu rằng mỗi người là một tế bào trong cùng một thân thể lớn lao là nhân loại. Nói khác đi, mỗi người chúng ta là một bộ phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia là phổi… Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì? Tương tự, nếu như phổi mạnh lên thì toàn thân phải mừng cho phổi, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cơ thể khoẻ mạnh an lành; chứ nếu phổi lủng, phổi nám thì toàn thân cũng phải liên quan.
Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người; Vì thế, thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em bè bạn chung quanh vượt lên khỏi ta mà tiến tới, ta hãy thành thật chúc mừng vì nhờ thế đất nước nầy sẽ được tiến bộ, văn minh hơn.
LM Inhaxiô Trần Ngà
----------------------------------
Sao tôi lại làm người trong thân phận này ? Vóc dáng không cao, khuôn mặt không dễ nhìn, sắc tộc: TN 25-A60
Sao tôi lại làm người trong thân phận này ? Vóc dáng không cao, khuôn mặt không dễ nhìn, sắc tộc vào hàng thiểu số, gia cảnh thì nghèo hèn, hoàn cảnh xã hội quá khó khăn…Rất nhiều nổi băn khoăn, đúng hơn là nổi bất bình cho số phận mình, số phận bị chiếu bởi ngôi sao xấu nào đó. Chập chửng vào tuổi thanh niên, nhiều bạn trẻ không ít lần phiền trách số phận bản thân với hiện trạng đang là của họ. Nhiều giấc mơ xuất hiện như một sự giải tỏa khát mong thầm kín: giá như tôi là thế này, giá như tôi được như kia…Trời xanh có công mình chăng khi có kẻ sinh ra đã là con vua, còn rất nhiều kẻ lại mang kiếp con nhà chùa ?
Cùng với những người làm vườn nho từ sáng sớm hay gần cả ngày, chúng con lắm khi tự hỏi rằng chúng con cum cúp giữ đạo, chịu nhiều thua thiệt ở đời này so với rất nhiều bà con khác đạo và bà con không tôn giáo để rồi lại cũng sẽ lãnh mỗi người một đồng tiền lương sao ? Nói gì đến bà con lương dân hay bà con khác đạo sống ngay lành, người thu thuế Chúa kể chuyện chỉ đấm ngực và xin: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội, chưa hết, cái anh tử tội năm nào bị treo trên thập giá cạnh Chúa, chỉ với lời cầu xin: “lạy Ngài khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi” thì đều được công chính hóa, được phúc thiên đàng. Thế thì sự công bình ở đâu ?
“Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy.” ( Is 55,8-9 ).
Tư tưởng của Ta: Mọi người đều là hình ảnh của Ta, đều là con cái của Ta. Tất cả mọi người, ngươi và người khác đạo hay người chưa biết Ta, thậm chí người đang không nhận Ta, hết thảy không phải là cái gì xa lạ nhưng chính là hình ảnh của Ta, hết thảy không phải là là người nô lệ, kẻ làm thuê nhưng là con cái của Ta. Ta là người Cha nhân hậu, thiện toàn, cho mưa rơi đều xuống trên người con lành thánh lẫn đứa con bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người con công chính lẫn đứa con tội lỗi. Ta chẳng hề muốn một đứa con nào phải hư mất. Ta kiên nhẫn và tạo dịp thuận lợi để những đứa con hư hỏng biết ăn năn sám hối và được sống. Đã là con cái, thì với Ta, đứa nào cũng là quý giá và không có gì sánh được, thậm chí Ta vui mừng vì tìm được đứa con lạc đường, xa nhà, hơn là chín mươi chín đứa con đang ở trong gia đình.
Vấn đề là ngươi cố tìm hiểu tư tưởng của Ta, tấm lòng của Ta. Hiểu được lòng trí của Ta thì ngươi sẽ nhận ra người đồng loại, dù đó là người tội lỗi, người khác niềm tin, người khác chính kiến…họ thảy đều là anh chị em của ngươi. “Anh em như thể tay chân”. Ước gì ngươi cảm nhận được chân lý này.
Đường lối của Ta: Ta xử với con cái không như chúng đã làm, mà như chúng đang là. Ông chủ vườn nho đã đối xử với với đám nhân công không như họ đã làm được những gì, mà như họ là công nhân của ông ta. Có thế thôi. Vậy, Ta vốn là người Cha giàu lòng thương xót lại không đối xử với đàn con như chúng là con của Ta, những đứa con mà ta đã nhận làm dưỡng tử qua chính Con Một Ta hay sao ?
Chính các ngươi là người cha, người mẹ trần gia,n còn vương nhiều điều gian ác mà còn biết lấy của tốt mà trao cho con cái, còn biết lo lắng cho đứa con trong nôi chưa làm được sự gì, một lẽ tất yếu là vì chúng là con cái các ngươi. Thế thì sao các ngươi lại bực mình khi Ta tỏ lòng nhân hậu với những người hèn kém, những người tội lỗi…vì chúng nó là con cái của Ta, cũng như các ngươi.
Tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi tuy có bị tội lỗi làm sai lệch nhưng tiên vàn vẫn là do Ta đặt để ngay từ đầu buổi tạo dựng. Chính vì thế, tư tưởng của Ta và đường lối của Ta tuy có cao xa hơn tưởng và đường lối các ngươi nhưng vẫn có nét nào đó nơi tư tưởng và đường lối các ngươi, dĩ nhiên là chúng cần phải được chỉnh hướng.
Một vài cách thế chỉnh hướng tư tưởng và đường lối của các ngươi: Hãy mở lòng đế lắng nghe lời Con Một của Ta, Giêsu Kitô:
1. Lạy Cha chúng con ở trên trời ( Mt 6,9 ): Lời kinh nguyện duy nhất mà Con Một của Ta chỉ dạy các ngươi khi cầu nguyện, nhắc nhở các ngươi hãy xác định đúng vị thế các ngươi trước mặt Ta và trước tha nhân, bất kể họ là người thế nào. Ta là người Cha duy nhất và tất cả các ngươi đều là anh chị em với nhau cùng với người anh cả là Con Một của ta nhập thể làm người, Giêsu Kitô. Các người đừng quên rằng sự thường trong các buổi cử hành Phụng vụ, các người đều có cất lên lời kinh nguyện này: Lạy Cha chúng con ở trên trời…
2. Những gì các ngươi muốn người ta làm cho mình thì hãy làm những điều ấy cho người ta ( Mt 7,12 ). Không dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà cần phải tích cực làm những điều tốt đẹp cho tha nhân. Vì tất cả lề luật và lời Ngôn sứ đều quy về đó. Điều này sẽ thành hiện thực khi các ngươi chân nhận tha nhân là huynh đệ nghĩa thiết của các ngươi.
Đã là huynh đệ nghĩa thiết, tình như thủ túc, như chân tay mình, như chính bản thân mình thì chuyện ganh tị, đố kỵ sẽ chẳng còn lý do gì để tồn tại.
Trở lại với sự băn khoăn hay nổi bất bình về số phận xem ra chẳng may của nhiều người thì thú thật sẽ khó có lời giải thích thỏa lòng. Cùng tốt nghiệp cử nhân hạng ưu như nhau, nhưng một bạn trẻ xuất thân từ gia đình nghèo hèn, thiếu điều kiện, sẽ có niềm vui khác xa một bạn trẻ con nhà giàu có, đủ đầy điều kiện. Một thực tế của cuộc sống, hy vọng có thể giúp nhiều người thoạt sinh ra đã ở trong hoàn cảnh thiếu may mắn, xét dưới nhãn quan nhân loại. Dù Hy Lạp hay Do Thái, dù nô lệ hay tự do thì cái đích đến là được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc Nước Trời, thì đều ở trong tầm tay của mọi người. Hơn nữa dưới nhãn quan Tin Mừng thì những người xem ra kém may mắn, lại có nhiều thuận lợi để đạt đến hạnh phúc Nước Trời hơn. Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này qua các mối phúc, cũng như các mối họa ( x. Lc 6,20-26 ).
Dù ta ở trong hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi theo nhãn quan nhân loại hay theo nhãn quan Tin Mừng thì mọi sự tốt đẹp đều là có thể, nếu như chúng ta xem nhau như anh chị em. Xin được kết thúc những dòng chia sẻ này bằng câu chuyện sau: Trong một cuộc thi điền kinh môn chạy đường dài ( Maraton ), có hai anh em ruột cùng tham gia thi chạy với nhiều người khác. Còn khoảng một trăm mét là đến đích, về nhất. người anh ngoái đằng sau thấy em mình cũng bỏ đoàn chạy phía sau khá xa, nhưng dường như đạng bị chấn thương nào đó nên phải khập khểnh trên đoạn đường cuối. Người anh dừng lại chờ người em đến và dìu người em chạy nốt đoạn ngắn còn lại. Đứng trước vạch đích, hai anh em cùng hô một hai ba: chạm đích. Ban tổ chức hôm ấy đã phải trao hai huy chương vàng, dù không thể tiên liệu. Mọi sự đều là có thể trong tình yêu, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” ( 1 Ga 4,8 ).
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
----------------------------------
Theo quan niệm thông thường, thì ai làm nhiều sẽ hưởng tiền lương nhiều, ai làm ít thì hưởng ít. Thế nhưng: TN 25-A61
Theo quan niệm thông thường, thì ai làm nhiều sẽ hưởng tiền lương nhiều, ai làm ít thì hưởng ít. Thế nhưng câu chuyện trong Tin mừng hôm nay không như vậy. Người làm suốt ngày chỉ nhận được một đồng và người làm chỉ một giờ thôi cũng nhận được một đồng. Xem ra có vẻ bất công! Chủ vườn nho đó lại là chính Thiên Chúa. Điều này làm cho chúng ta ngạc nhiên. Ngay cả những người thợ làm từ giờ thứ nhất cũng đã lẩm bẩm trách chủ như thế là không đúng. Nhưng đó là cách thức hành động của Thiên Chúa. Thiên Chúa hành động khác với con người. Nói như ở bài đọc I là: “Vì tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của ta”.
Vậy thì dụ ngôn chủ vườn nho nói với chúng ta điều gì?
Trước hết dụ ngôn muốn nói với chúng ta rằng: - Thiên Chúa hành xử với chúng ta phải dựa trên sự công bằng nhưng là dựa trên tình yêu. Những người làm giờ thứ nhất được trả một đồng là theo tiêu chuẩn công bằng mà họ đã thỏa thuận. Nhưng những người làm giờ cuối cũng nhận được một đồng là theo tiêu chuẩn tình yêu.
- Dụ ngôn còn muốn nhận mạnh rằng: Nước Trời, Ơn cứu độ và ân sủng không phải là phần thưởng, là công trạng do công sức chúng ta làm nên, nhưng là quà tặng, là hồng ân của Thiên Chúa cho tất cả không có loại trừ ai.
Những người do thái thời Chúa Giêsu nghĩ rằng họ là những người thợ đầu tiên đáng hưởng một đồng, nghĩa là ơn cứu độ, còn những người khác thì không xứng đáng. Chúa Giêsu mang đến một sự mới mẽ qua dụ ngôn này là: Nước Trời, ơn cứu độ được ban tặng cho tất cả, kể cả những kẻ đến sau cùng, những kẻ tội lỗi và cả những người nhỏ mọn nhất nếu họ biết lắng nghe lời mời gọi trở về và cộng tác với Thiên Chúa.
Sự “vô lý” của Thiên Chúa là cơ hội cho chúng ta
Như thế, cách thức hành động của Thiên Chúa có vẽ là ngược đời, là vô lý, khác với lí luận của chúng ta. Hay như Đức Hồng Y Thuận nói cách dí dõm là: Thiên Chúa không biết tính toán! Nhưng chính sự “vô lý” của Thiên Chúa lại là cơ hội, là lối vào đưa chúng ta tới Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc chắn chúng ta phải chết rồi vì chúng ta đã đắc tội với Ngài, chúng ta chẳng được quyền hưởng gì, vì chúng ta chẳng có công trạng gì với Ngài.
Nhưng nếu Thiên Chúa hành xử với chúng ta theo tiêu chuẩn tình yêu và lòng từ bi của Người, thì đó lại là hy vọng, là cơ hội cho chúng ta được cứu độ.
Vì thế, bất kỳ lúc nào, dù là giờ cuối cùng, bất kỳ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta trở về, cộng tác với Ngài trong vườn nho của Ngài, và dù làm nhiều hay làm ít Thiên Chúa cũng ban ơn cứu độ, ân sủng cách dồi dào cho chúng ta theo lượng từ bi nhân hậu của Ngài.
Tất cả chúng ta cũng được mời gọi đi vào logic của Thiên Chúa, logic của Tinh Yêu, của lòng quảng đại. Nghĩa là hãy vươn tới tầm nhìn của Thiên Chúa, hãy mặc lấy tâm tình và cách cư xử của Đức Kitô, như thánh Phaolô hôm nay nói: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô”, để lượng giá cuộc đời, để nhìn đời và để đối xử với nhau cách lạc quan và vui tươi, hơn là dựa theo tiêu chuẩn tính toán, hẹp hòi ích kỷ, như những người thợ đầu tiên, thấy người khác thành công, được ưu đãi, may mắn là sinh ra ghanh tị và tìm cách đạp đổ. Vì bác ái là biết vui với người vui và khóc với người khóc.
LM Phêrô Nguyễn Hương
----------------------------------
Is 55,6-9; Ph 1,20c-24.27a; Mt20,1-16a
Nếu có giờ, mỗi người chúng ta mở lại trình thuật ông bà nguyên tổ trong sách Sáng Thế Ký xem: TN 25-A62
Nếu có giờ, mỗi người chúng ta mở lại trình thuật ông bà nguyên tổ trong sách Sáng Thế Ký xem, thật là hay. Trong trình thuật đấy, tác giả Sáng Thế Ký cho chúng thấy một mối tình thật tuyệt vời, thật đẹp, thật nên thơ giữa Thiên Chúa và hai ông bà nguyên tổ. Trình thuật ấy kể lại rằng: “Chiều chiều gió hiu hiu thổi, Thiên Chúa cùng đi dạo với hai ông bà trong vườn địa đàng !”. Thế đấy ! Cứ mỗi buổi chiều, thì mối tình thắm thiết giữa Thiên Chúa và hai ông bà cứ tái diễn. Thiên Chúa cho hai ông bà được thừa hưởng tất cả những cây trái trong vườn nhưng chỉ trừ một cây biết lành biết dữ.
Một ngày kia, khi Thiên Chúa chưa đến, vì tò mò, người đàn bà nguyên tổ của chúng sinh, đã mon men đến cái cây biết lành biết dữ đấy để tìm hiểu. Cay đắng thay khi bước đến, bỗng dưng con rắn trên cái cây biết lành biết dữ đã ngon ngọt dụ dỗ bà rằng: “Nếu bà ăn vào thì bà sẽ ngang bằng Thiên Chúa !”. Chắc có lẽ, bà cảm thấy được hưởng trái cây trong vườn địa đàng là chưa thoả mãn, chưa bình an và phải tìm mọi cách sao cho ngang bằng Thiên Chúa. Không chỉ ăn một mình, bà còn rủ rê thêm ông chồng của mình ăn nữa. Ăn xong rồi thì quả thật quá cay đắng cho cuộc đời. Kết quả, không phải như lòng mong ước là bằng Thiên Chúa nhưng bi đát thay là bất tuân lệnh Chúa truyền. Kể từ ngày đó, hai ông bà đã vi phạm “hợp đồng” tình cảm, tương quan giữa Thiên Chúa và hai ông bà nên hai ông bà đã phải bị phạt !
Tội căn bản của sự vi phạm hợp đồng ấy chính là do tính kiêu căng, lòng ganh tỵ, ghen ghét muốn làm sao mình phải bằng Thiên Chúa mới chịu. Nếu như không bằng Thiên Chúa thì tìm đủ mọi cách cho bằng Thiên Chúa, nhưng làm sao mà bằng Thiên Chúa được khi Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá còn mình chỉ là thụ tạo nhỏ nhoi trong lòng bàn tay của Ngài.
Lòng ganh tỵ ấy như là chứng bệnh di truyền, ăn vào máu của con người mỗi khi con người cất tiếng khóc chào đời. Bằng chứng là: cái tội bất tuân, cái tội ganh tỵ, cái tội kiêu ngạo ấy tưởng là bài học kinh nghiệm xương máu cho thế hệ mai sau, nhưng cứ đặt chân bước vào trần gian thì con người lại nhiễm trong mình dòng máu của ông bà nguyên tổ.
Lòng ganh tỵ nổi lên khi một người ý thức được rằng mình không có được những điều mà người khác có. Tại sao chúng ta ganh ghét một người nào đó? Nó không dính dáng gì đến người đó cả. Tại sao người đó phải chịu khiển trách vì cuộc sống chúng ta không được như ta mong muốn, hay sự không vừa lòng hay sự không biết ơn của chúng ta ? Đâu có phải là lỗi của họ đâu, tuy nhiên họ phải gánh chịu những bức xúc, áp lực vì sự không vừa ý, hay bực bội của chúng ta gây ra bởi lòng ích kỷ về lợi ích cá nhân hay lòng tham lam của mình.
Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta không bằng lòng cái tính chất đặc biệt mà mỗi chúng ta có được, vì không có một ai giống một ai về hành động hay suy nghĩ cả. Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta từ chối, không chấp nhận sự thật rằng mỗi một cá nhân, có hoàn cảnh khác nhau, phản ảnh đúng với những ơn lành mà Chúa ban cho chúng ta. Vì thế hoàn cảnh của chúng ta sẽ có cái gì đó không bằng người khác. Lẽ ra, chúng ta nên vui vẻ đón nhận nhưng chúng ta lại ganh tỵ.
Mỗi lần lòng ganh tỵ nổi lên, chúng ta nên tự nhìn vào chính mình và nhắc nhở chúng ta về những gì mà mỗi một chúng ta có được, và bằng lòng với những thứ đó thay vì ganh tỵ với người khác về những điều mà mình không có.
Tâm trạng ganh tỵ ấy ngày hôm nay bộc lỗ rõ nét nhất ở trang Tin Mừng, mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta đậm nét về lòng ganh tỵ mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta. Nói quá một chút là sự vô duyên và vô lý ! Đã thoả thuận với nhau mức lương từ ban đầu khi vào nhận việc. Đến trưa, đến chiều thấy có người vào làm việc thì đó là chuyện giữa ông chủ và người làm thuê chứ mắc mớ gì đến anh mà anh phải bận tâm ?
Tưởng chừng như dụ ngôn này quá quen thuộc, quá cũ với chúng ta nhưng thật sự ra nó vẫn cứ mới và cứ mãi mới trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hiểu sao trong chúng ta đa phần mang trong mình cái tâm trạng của người làm công vào giờ thứ ba vậy ! Thử nhìn lại thấy nó lộ lên làm sao ấy cái tính xấu, cái tính ganh tỵ ấy trong lòng chúng ta.
Nhìn vào người xung quanh chúng ta, thấy họ hơn chúng ta một chút về tri thức là chúng ta điên tiết lên, chúng ta tìm đủ mọi cách để nói này nói nọ để hạ danh dự của họ nhưng rồi có hạ được đâu ? Tại sao không cố gắng học hành, nghiên cứu, nghiền ngẫm để có kiến thức bằng họ mà chúng ta cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong sự ganh tỵ, hơn thua !
Đời sống vật chất cũng thế. Ngày nay hơn lúc nào hết, con người ta cứ mãi bận tâm vào chuyện vật chất. Người ta thành công trong cuộc đời, người ta làm lụng vất vả thì người ta được hưởng là chuyện đương nhiên. Ấy thế mà khi chúng ta nhìn vào những người ấy chúng ta lại lườm, lại nguýt họ vì họ sang trọng hơn chúng ta.
Bi hài nhất mà chúng ta không bao giờ nói ra cho người khác biết đó là chúng ta không bao giờ muốn ai bằng chúng ta cả. Chúng ta là nhất ! Còn thiên hạ chẳng là gì cả. Thật lòng mà hỏi tận đáy lòng, tận đáy lương tâm của ta thử xem một người nào đó trong gia đình, họ hàng, dòng tộc hay cộng đoàn tu của chúng ta đang sống xem. Mấy ai chung vui thật lòng với người thành công trong gia đình hay trong cộng đoàn tu ? Có chăng là những lời đầu môi chót lưỡi chúc mừng cho sự thành công của thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn nhưng bên dưới lời chúc mừng ấy là cả một sự ganh tỵ, hơn thua với người ấy. Sự ganh tỵ, hơn thua này khó mà kiểm chứng được.
Thử hỏi trong một vụ kiện nào đó, nếu nó thất bại thì mọi người quay lưng lại trách nhau rằng do người này người kia đã gây cho sự thất bại đó. Còn nếu như thành công thì lại mỗi người, chẳng ai bảo ai cứ cố tranh cho được một phần danh dự là do công lao của tôi.
Chúng ta quên rằng, tất cả những danh dự, những thành công đấy trong cuộc sống rồi cũng sẽ qua đi. Tại sao chúng ta lại cứ mãi đi tìm hư danh để mà cắn xé, để mà ghen ghét, để mà giận hờn, để mà ganh tỵ anh chị em đồng loại. Tại sao chúng ta không cố tìm một chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa mà chúng ta cứ mãi miết đi tìm chỗ đứng phù vân trong lòng người đời.
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê vừa nói với chúng ta: “Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ lưu lại và ở bên mà giúp anh em hết thảy tiến tới và được sự vui mừng của lòng tin, ngõ hầu anh em được tràn đầy vinh quang trong Đức Kitô Yêsu, vì cớ tôi, nhân dịp tôi được tái ngộ với. Chỉ có điều này là anh em hãy cư xử sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô, ngõ hầu - hoặc tôi đến và được thấy, hoặc tôi vắng mặt mà được nghe biết - anh em cứ đứng vững trong một Thần khí, cùng nhau chiến đấu, với một tâm hồn, vì đức tin do Tin Mừng đem đến” (Pl 1, 25-27). Ngài dặn chúng ta là hãy cư xử sao cho xứng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chứ không phải chúng ta cư xử theo cảm nghĩ, tình cảm xác phàm của chúng ta. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc thứ nhất đã khẳng định cho chúng ta điều ấy: “Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng của các ngươi !”.
Thế đấy ! Chúng ta vẫn cứ cư xử với nhau theo cái thói của người đời, những người không biết Chúa.
Đoạn cuối trang Tin Mừng mà chúng ta nghe: “Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải của tôi sao? Hay mắt bạn lườm nguýt vì tôi tốt lành?" Đau đớn lắm nếu như Chúa Giêsu nói với chúng ta như vậy. Chúng ta vẫn thường lườm nguýt sự tốt lành, sự nhân hậu của người khác để rồi chúng ta chúng ta đi nói hành nói xấu và lên án họ. Con mắt thể xác chúng ta vẫn nhìn thẳng nhưng con mắt lòng của chúng ta luôn luôn bị cái chứng bệnh là lườm nguýt khi người khác hơn chúng ta. Chúng ta phải xin Chúa để Chúa chữa con mắt lòng chúng ta bớt đi cái thói xấu là lườm nguýt, là ganh tỵ với anh chị em đồng loại.
Hôm nay, nhân dịp Chúa nhắc nhớ cho chúng ta về thái độ sống của những người ganh tỵ, chúng ta bỏ chút thời gian để lòng nhủ lòng, dạ hỏi dạ trước mặt Chúa thái độ sống của chúng ta. Chúng ta có vui với người vui, có khóc với người khóc hay không ? Hay là chúng ta bực bội, ganh tức với người vui còn với người hoạn nạn, đau đớn khóc than ta lại mỉm cười ?
Chuyện căn cốt như Thánh Phaolô mời gọi chúng ta đó là thái độ sống hợp với Tin mừng, hợp với những gì Chúa dạy và chúng ta nên nhớ rằng tư tưởng của chúng ta khác Chúa nhiều lắm. Chúa thì yêu thương, bao dung, rộng rãi còn chúng ta thì ghen ghét và ganh tỵ.
Nguyện xin Chúa Giêsu là ông chủ tốt bụng trong câu chuyện mà Chúa Giêsu kể hôm nay, luôn yêu thương và thông chuyển lòng tốt bụng của Chúa đến với mỗi người chúng ta, để lòng chúng ta bớt đi một chút ganh tỵ, bớt đi một chút hơn thua và tăng thêm một chút lòng mến, tăng thêm một chút tình yêu, tăng thêm một chút lòng bao dung với anh chị em đồng loại. Amen.
Anmai, CSsR
----------------------------------
Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một: TN 25-A63
Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao"? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?" Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? (Mt 20, 1-16a).
Có phải đời thường những người có tánh hay ghen tỵ là người đó có một cái bệnh gọi là thiếu tự tin và thiếu lòng quảng đại không!? Chẳng chỉ ở đâu cho xa mà chính tôi đây là con người có mang cái bệnh xấu ấy! Suy bụng ta mà xét cái bụng người là thế!
Cái người mà có mang chứng bệnh như tôi thì ôi thôi anh chị em cứ nghe chúng tôi ta thán cả ngày sáng đêm. Lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy bất an vì cả đời chẳng thấy cái gì là đủ và an phận cả! Vì tôi cứ mải nhìn quanh và so sánh mình cùng những anh chị em khác. Sao họ có cái này mà tôi chẳng có được? Sao họ có cái kia mà tôi không có? Rồi từ cái tâm bất an tôi chẳng cảm thấy cái gì tôi có, mang lại cho tôi hạnh phúc, vì luôn ao ước là phải như tôi được có cái đó giống như anh chị em thì tôi mới hả dạ chăng!? Để tôi thí dụ như thế này cho dễ hiểu hơn nhé, xem bạn nằm trong hoàn cảnh nào trong ba giới!? Hay như tôi là thuộc loại ba phải!?
Thông thường những giai cấp nghèo trong xã hội thì ít ai nhìn đến nhà của ai và hình như chẳng ai thèm để ý những gì bạn có vì từ cái ăn cái ở đều giống nhau hết thảy! Nghèo thì vấn nạn kiếm cho được ngày ba bữa cơm đã gọi là khó khăn lắm rồi! Vất vả lắm rồi! Tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt. Giăng nắng vì phải chèo ghe vác lúa. Tốn hao rất nhiều năng lực nhưng tiền kiếm được thì chẳng được bao nhiêu. Một người đi làm vất vả nuôi biết bao nhiêu là miệng ăn, thì làm sao mà không nghèo cho được cơ chứ! Trong nhà thì tất cả mọi thứ đều rất hỗn tạp chẳng có một thứ gì nó đi với thứ gì!? Có phải tất cả mọi thứ trong nhà đều có được là do đi xin về từ mấy cái hội từ thiện (nếu có), hoặc tìm mua và mang về từ chợ trời, garage sale, hay yard sale? Từ cái bàn, cho đến cái ghế, cái tủ, nồi, niu, soong, chảo, dụng cụ, quần áo, ôi thôi đủ thứ cả! Chẳng cái nào nó đi với cái nào. Ngay cả đũa ăn cơm mà cũng không chiếc nào nó giống được với chiếc nào. Có được để dùng là mừng và hạnh phúc lắm rồi! Chứ còn dám mà đòi hỏi nữa à!? Vào cái nhà thì nhức cho cái con mắt lắm quý vị ạ! Vì tất cả mầu sắc bày biện trong nhà không có mầu nào nó đi với mầu nào cả! Có thể chẳng ai thèm vào nhà của chúng tôi mà làm gì, vì sợ lây bệnh cũng có. Sợ phải dùng chung ly chén cũng có, hay vì ghê sợ khi nhìn thấy cái cảnh quá nghèo nàn này của chúng tôi mà thấy e ngại hay phải xót thương dùm!?
Chúng tôi là những thành phần nghèo trong xã hội nhưng rất hãnh diện là chúng tôi biết thương yêu và luôn giúp đỡ cho nhau và cái vấn nạn ghen tỵ lẫn nhau thì thiết tưởng hình như chúng tôi không có và nếu có thì cũng rất ít!? Hầu như chúng tôi không thấy ai ghen tỵ với ai cả!? Vì tất cả đều giống nhau trong cái lối sống, cái ăn cái ở, cái tay lấm chân bùn!? Nhà mà nếu như có con trai hay con gái thật đẹp cũng trở thành xấu xí. Vì đẹp làm sao được khi nước da cứ đen ngòm ngòm và quần áo thì luôn xốc xếch vì bận lo việc ruộng nương và đồng áng, phải ở ngoài đồng suốt từ sáng sớm cho đến xế chiều mới được về nhà. Nhất là nhà ở miền quê thì hình như nhà nào cũng có cái chuồng, ít nhất thì cũng được cái chuồng gà. Ống quần tay áo thì lúc nào cũng phải vén lên cho thật cao thì làm sao mà đẹp cho nổi!? Nghèo vậy chứ mà chúng tôi cũng được tiếng rất thơm tho là nghèo nhưng rất hiền lành và chất phát.
Bây giờ chúng ta thử bước lên một cấp cao hơn nữa xem cách sống của giới trung lưu như thế nào nhé! Bạn bè của tôi và tôi ở trong cái cấp này cũng nhiều lắm! Bên Mỹ này thì thường chúng ta hay nghe rất quen cái câu nói này là thà nghèo thì nghèo cho hẳn để được chính phủ giúp đỡ từ tiền chu cấp cho cả một gia đình là sức khoẻ, tiền ăn, và tiền ở, có con cái nhỏ thì được nhà trường nuôi ăn sáng ăn trưa; Lớn lên vào đại học thì được chính phủ nuôi ăn nuôi học, sướng lắm! Chưa kể có rất nhiều anh chị em đã dùng thời giờ rảnh của mình mà kiếm thêm tiền bỏ túi, cuộc sống kể rất ung dung thoải mái không một lo lắng trên đời!? Cứ cuối tháng hết tiền thì lại chờ chờ đến đầu tháng lại ra nhà băng lấy tiền. Quả sống nghèo bên cái xứ cờ huê này thì cuộc đời cứ như đang ở trên cung trăng vậy! Ấy vậy mà cái bệnh than thì vẫn cứ than. ... phải không các bạn? Chứ giở giở ương ương, trung lưu bên cái xứ cờ huê này thì thật là xui hết sức là xui? Là tất cả mọi thứ nhất nhất đều là tiền túi của mình bỏ ra mà không được chính phủ giúp cho một thứ gì! Đi làm thì cả hai vợ chồng đều đi cầy đầu tắt mặt tối, làm quên cả tháng cả ngày thì mới gọi là vừa đủ để lo ăn, lo ở, lo đóng tiền mua bảo hiểm sức khoẻ cho cả gia đình. Có thể vì là chúng tôi có một mức sống chỉ vừa đủ nếu đi làm trong mức giờ ấn định, nên chúng tôi phải rất cố gắng tranh thủ đi làm giờ thêm dù là ngày thứ bẩy hay chúa nhật, cho những gì chúng tôi ao ước muốn có được? Có phải vì chúng tôi làm việc quá vất vả, nên số tiền chúng tôi làm thêm là để mua cho được chiếc xe thật tốt thật có tên hiệu để làm oai với mọi người những khi cần thiết ra ngoài xã giao như đi chơi cuối tuần (nếu có vì bận đi cầy thêm), sắm quần áo cho thật theo mode để không thua bạn thua bè? Nhà cửa phải trang hoàng cho thật sang để năm thì mười họa nhỡ có ai lại nhà (vì bận đi cầy thêm)?
Theo kinh nghiệm của tôi thì trong giới trung lưu này mới thật sự có nhiều anh chị em nẩy sinh ra vấn đề ghen tỵ vì từ cái vấn đề mưu sinh quá khó khăn để quân bình cả hai tinh thần và thể xác. Thể xác làm việc vất vả quá nên phải cho thân xác được hưởng thụ và cho tinh thần được thoải mái. Phải như sự quân bình có được sự hướng dẫn thì chúng tôi không có những vấn nạn xẩy ra cho nhiều gia đình. Phải như sự quân bình của chúng tôi nếu để Chúa làm trung tâm điểm của cuộc sống và cuộc đời thì chúng tôi đã không có những vấn nạn xẩy ra. Từ cái thoạt đầu tiên là mong muốn để cho sự quân bình của cuộc sống không bị nghiêng lệch, thì càng ngày chúng tôi lại như bị rơi vào một thế giới của sai lầm, mất định hướng, nghiện ngập, ảo tưởng, một thế giới hoàn toàn như mê ngủ mà ta không còn là người chủ động được nữa! Cuộc sống của chúng tôi rồi như ai đó đang làm chủ mình và đã làm thay đổi hẵn con người xưa của chúng tôi. Tánh nết thay đổi hẳn là từ một con người hiền lành đã biến chúng tôi thành những con người khó thương và rất khó chịu. Chúng tôi trở thành những người bệnh hoạn của thời đại là hay ghen ghét, ích kỷ, tranh dành, bạo lực, thù hận, tỵ hiềm, độc ác, độc tài, không bao giờ muốn ai hơn mình, nhất là giầu có và giỏi hơn mình là không được. Đây là những kinh nghiệm từng trải và sống đời của tôi, nếu anh chị em không có giống như tôi thì tôi phải cảm tạ Thiên Chúa dùm cho anh chị em là đã luôn có Chúa làm đích điểm cho mình và cho gia đình.
Còn những anh chị em trong giới giầu có từng có những biệt thự, khách sạn 5 sao cho thuê, làm chủ bao nhiêu cây xăng, bao nhiêu tiệm rượu và nhà hàng, thì thiết tưởng họ cũng có những mộng ước cao xa lắm lắm mà vốn liếng và vốn dĩ tôi chẳng biết một tí ti gì về giới giầu này cả! Hay những anh chị em này lại có những tên bệnh còn siêu việt hơn giới trung lưu và giới nghèo như chúng tôi!? Có thể lắm anh chị em nhỉ!? Nhưng tôi biết và có nghe như thế này là nếu nước Mỹ này mà không ủy lạo nhiều nhất so với thế giới thì Thiên Chúa cũng đã phạt nước Mỹ này từ lâu rồi!? Vì sự thật thì rành rành không thể nào nói khác cho được là tuy nước Mỹ gây nhiều tội lỗi nhưng số người nghèo trên khắp cùng thế giới cũng rất đang trông đợi từ lòng quảng đại của những dân nhà giầu của nước Mỹ này!?
Để được tóm tắt bài Phúc Âm của Chúa dậy tuần này là chúng ta hãy nên từ bỏ tánh ghen tỵ và ghen ghét, vì ghen ghét thứ nhất chúng ta chẳng được một mối lợi nào mà ngược lại làm cho tâm hồn của chúng ta luôn ra bất an và không một ngày bình thản. Nếu lỡ chúng ta có cái tánh xấu này thì hãy tập bỏ từ từ mà thay vào đó là sự quan tâm và thông cảm cho người. Vì ít nhất chúng ta cũng được Chúa thay đổi là biết quan tâm tới sức khoẻ của mình và gia đình được hạnh phúc. Có được hạnh phúc từ nơi chính mình thì ta mới có thể đem hạnh phúc cho mọi người sống chung quanh ta.
Lậy Chúa! Ước gì cuộc sống phức tạp mà chúng con phải đối diện với từng ngày, đã làm chúng con ra mệt mỏi, thì nguyện xin Chúa ban cho chúng con tình yêu, bình an, và sức mạnh của Chúa để chúng con sống được trọn hảo và cho nên theo thánh ý Chúa và cùng đích của cuộc đời là chỉ mong được nghỉ yên bên Chúa mãi mãi muôn thuở muôn đời. Amen.
Tuyết Mai
----------------------------------
(Is 55,6-9; Mt 20,1-16a)
Có lẽ đa số chúng ta không đồng ý với ông chủ vườn nho được đề cập tới trong dụ ngôn hôm nay: TN 25-A64
Có lẽ đa số chúng ta không đồng ý với ông chủ vườn nho được đề cập tới trong dụ ngôn hôm nay. Dĩ nhiên, nếu dựa theo bài tường trình thì ông chủ vườn nho đã hành động đúng với hợp đồng. Ðàng khác ông cũng có toàn quyền sử dụng tài sản của mình theo ý muốn. Tuy nhiên cách hành xử của ông làm cho chúng ta có cảm giác không được công bằng, bởi vì dựa theo khuynh hướng so đo tự nhiên của con người, thì nó có vẻ kiêu kỳ và thiếu quan tâm đến người khác. Ðúng vậy, giữa loài người chúng ta luôn có sự ganh đua và so đo: Ai được nhiều, ai được ít! Ai phải làm việc nhiều hơn, ai được làm việc ít hơn! Anh chị em trong gia đình cãi cọ nhau, ai trong họ đã làm lợi nhiều cho gia đình và ai làm được ít hơn! Cả đến những cặp vợ chồng cũng không luôn nhất trí với nhau trong việc phân chia gánh nặng gia đình sao cho đồng đều! Trong nghề nghiệp người ta tìm cách trút gánh nặng lên người khác, để phần rách nhiệm của mình được bớt căng thẳng nặng nhọc hơn.
Tình trạng đó ở trong lãnh vực cá nhân nhỏ bé thế nào, thì ở lãnh vực xã hội to lớn cũng như vậy. Những đoàn thể xã hội chê trách ganh tị lẫn nhau, là người này người nọ hành động quá ít cho nhiệm vụ chung; giới thợ thuyền chỉ trích giới chủ nhân và ngược lại; về chính trị: đảng này kê tội và đả kích đảng khác. Do đó, điều quan trọng ở đây là ai làm gì có liên quan đến con người, ai giữ trách nhiệm nào trong xã hội, thì đòi hỏi phải có sự trưởng thành tâm lý, biết tự chủ và nhất là biết dẹp bỏ tính ganh tị và hờn dỗi nhỏ nhoi tự nhiên.
Còn trong Giáo Hội: tình hình như thế nào?
Không có gì khác lắm. Trong mỗi cộng đoàn giáo xứ luôn có những người rất hoạt động và dấn thân giúp đỡ bất cứ lúc nào, khi có ai nhờ tới, và rồi quanh đi quẩn lại cũng chỉ có những người đó mà thôi.
Vậy, còn những người khác ở đâu?
Kinh nghiệm cuộc sống cụ thể cho chúng ta thấy rằng, dù ở bất cứ xã hội hay thời đại nào, con người ta vẫn rất khác nhau: Người thì hăng hái bắt tay hành động, còn kẻ khác lại chỉ biết nói, chỉ biết đưa đủ thứ lý thuyết suông, chứ không muốn động tay động chân. Có nhiều vị Linh mục, nhiều bậc nam nữ Tu sĩ và nhiều giáo dân năng động và dấn thân hơn những người khác, và bên cạnh đó cũng có những người ít dấn thân hơn. Trong khi nhiều kẻ luôn mong đợi công việc của họ được mọi người biết đến và được ngưỡng mộ, được ca tụng, lại có người chỉ âm thầm hy vọng vào phần thưởng trọng đại hơn «ở đời sau». Trong Giáo Hội tiên khởi, tình trạng cũng đã xảy ra cách tương tự: Người hy sinh cho cộng đoàn nhiều, kẻ lại hy sinh ít. Từ đó phát sinh ra những ý kiến bất đồng, những giận hờn và tranh giành giai cấp thứ vị giữa các môn đệ. Những người hăng hái và có công hơn thì muốn mình phải nằm trong thành phần lãnh đạo. Vì thế, các môn đệ đã đưa vấn đề trình cả cho Ðức Giêsu hầu mong một sự giải quyết ổn thỏa nào đó: Ai là người lớn nhất trong Nước Trời? Trong thâm tâm chắc chắn các môn đệ đã dự đoán là những ai đã đi theo Thầy trước những người khác, thì đương nhiên có quyền được ưu tiên hơn. Trong một tình trạng như thế, dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay là một sự sửa sai lối tư duy chủ quan và nhắc nhủ chúng ta phải suy nghĩ.
Câu trả lời của Tin Mừng là: Ai có được Nước Trời là có được tất cả! Nước Trời không thể bị chia năm xẻ bảy ra từng mảnh, từng phần được, hầu kẻ này lãnh được nhiều, người khác nhận được ít.
Chúng ta thử tìm hiểu câu chuyện dụ ngôn của bài Tin Mừng. Vị chủ nhà hay chủ vườn nho là Thiên Chúa. Quan tiền là Nước Trời. Thiên Chúa hứa ban cho tất cả những ai được Người gọi vào làm vườn nho cho Người, mỗi người một quan tiền, là Nước Trời. Ðó là tất cả điều Thiên Chúa có thể hứa ban. Ai có được quan tiền, tức Nước Trời, thì có được tất cả. Người đó không thể và không cần nhận được gì hơn nữa. Và Nước Trời có nghĩa là sự kết hợp thân thiết với Thiên Chúa, là sống tâm giao với Cha trên trời. Người ta có được sự liên kết và tâm giao với Thiên Chúa hay không, chứ không có vấn đề: Có nhiều hay có ít. Ai có được sự liên kết nghĩa thiết với Thiên Chúa, người đó sẽ được hạnh phúc và đồng thời cũng mong muốn cho người khác đạt tới được sự liên kết đó với Thiên Chúa! Hạnh phúc Nước Trời và các ơn thánh Thiên Chúa ban không thể đưa ra so đo hoặc mặc cả theo tiêu chuẩn nhiều ít như của cải vật chất đời này được!
Do đó, nếu ai trong Giáo Hội mà nghĩ rằng, nhiều hay ít, mình cũng sẽ được phẩm định, được đánh giá cao, được kể công, v.v…, người đó chưa hiểu được Nước Trời là gì cả, chưa chiếm hữu được Nước Trời. Rất có thể người đó đã dấn thân nhiều, đã có công trạng hơn những người khác, nhưng người đó hành động chỉ vì ham muốn danh vọng, vì muốn được kể công hay vì một lý do trần tục nào đó, chứ không phải vì Nước Trời. Trái lại, nếu ai một khi đã hiểu được Nước Trời là gì, thì không còn thắc mắc ai làm nhiều ai làm ít, ai được hưởng nhiều ai được hưởng ít. Người đó chỉ lo thi hành thánh ý Thiên Chúa, với hết khả năng của mình mà thôi. Người đó không còn cần phải so sánh, ai làm tròn thánh ý Thiên Chúa tốt hơn, ai làm ít hơn và ai được thưởng công nhiều hơn, ai được thưởng ít hơn. Nước Trời là kho báu được giấu trong ruộng và vì kho báu đó người ta đem đổi hết mọi sự khác; Nước Trời là viên ngọc quý mà người ta sẵn sàng bán hết mọi sự để mua viên ngọc đó.
Câu trả lời của ông chủ vườn nho luôn có giá trị như một lời nhắc nhủ hay một lời kêu mời dành cho mỗi người trong chúng ta. Vì thế, có lẽ chúng ta cần phải hiểu lời kêu mời đó đúng đắn hơn. Nó có nghĩa là: Các ngươi hãy sám hối ăn năn, Nước Trời đã đến gần! Tuy nhiên, sám hối ăn năn không chỉ có nghĩa là từ nay các ngươi phải suy tư khác đi, các ngươi không được phép suy nghĩ cách trần thế nữa; không phải thế, chúng ta suy nghĩ cách trần thế, vì chúng ta vẫn là những con người trần thế, những con người bằng xương bằng thịt. Nhưng trước hết, sám hối ăn năn có nghĩa là: Các ngươi hãy quay trở về cùng Thiên Chúa, hãy hướng lòng trí về cùng Người. Hướng lòng trí về cùng Thiên Chúa có nghĩa là học biết Thiên Chúa, là tôn thờ Người và sống liên kết với Người. Bấy giờ quan điểm sống của chúng ta sẽ tự thay đổi. Vì ai sống kết hiệp với Thiên Chúa, người đó sẽ có được chuẩn độ mới.
Chúng ta tất cả là những người đang chờ đợi được Thiên Chúa kêu gọi vào làm vườn nho cho Người. Còn tiền lương, Người hứa trả cho một quan tiền, một cuộc sống kết hiệp với Người. Nhưng theo chuẩn độ nhân loại thì chúng ta từ khi được sinh ra và nhờ phép rửa tội, đã thực sự được mời gọi vào vườn nho của Thiên Chúa rồi. Vâng, ý nghĩa dụ ngôn về những người thợ trong vườn nho Thiên Chúa, đòi hỏi chúng ta phải có một sự đổi mới tư duy hoàn toàn. Nó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận tư tưởng của Thiên Chúa và phải đem tư tưởng của chúng ta thuần phục tư tưởng của Người. Bởi vậy, lời tiên tri I-sai-a là một lời nhắc nhủ khẩn thiết đối với chúng ta: “Hãy tìm kiếm Ðức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người khi Người còn ở kề bên” (Is 55,6).
Và ai tìm gặp được Ðức Chúa, người đó tìm gặp được cuộc sống. Cuối cùng Thiên Chúa đã dùng miệng vị tiên tri để nhắc bảo chúng ta cần phải ý thức rằng: “Tư tưởng của Ta thì không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi thì không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Is 55, 8-9).
“Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết thi hành thánh ý Chúa!”
Lm Nguyễn Hữu Thy
----------------------------------
[Is 55,6-9; Pl 1,20-24.27a; Mt 20,1-16a]
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Theo quan điểm của Ki-tô giáo, thế giới này là vườn nho của Thiên Chúa, một vườn nho khổng: TN 25-A65
Theo quan điểm của Ki-tô giáo, thế giới này là vườn nho của Thiên Chúa, một vườn nho khổng lồ, mà mọi người lớn/bé, già/trẻ, nam/nữ, tài ba/vụng về, trí thức/ít học, giầu/nghèo, lương/giáo... đều được Thiên Chúa là Chủ vườn nho mời vào làm việc trong vườn nho ấy.
Đã làm thì đương nhiên sẽ được trả công «hợp lẽ công bằng». Với một ông chủ giầu có và hào phóng như Thiên Chúa thì chắc chắn những người thợ siêng năng cần mẫn sẽ được hưởng nhiều hơn công sức họ bỏ ra.
Vậy điều quan trọng là mỗi người hãy lao động hết khả năng, nhiệt huyết và thời gian của mình cho Vườn Nho của Thiên Chúa để thế giới này và xã hội của chúng ta trở nên công bình và bác ái hơn.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Is 55,6-9): Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi .
6Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp,
kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.
7Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo,
người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có
mà trở về với Đức Chúa - và Người sẽ xót thương -,
về với Thiên Chúa chúng ta,
vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.
8Thật vậy, tư tưởng của Ta
không phải là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối các ngươi
không phải là đường lối của Ta
- sấm ngôn của Đức Chúa.
9Trời cao hơn đất chừng nào
thì đường lối của Ta
cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta
cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.
2.2 Trong bài đọc 2 (Pl 1,20-24.27a): Đối với tôi sống là Đức Ki-tô.
20Thưa anh em, Đức Ki-tô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: 21vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. 22Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. 23Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: 24nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em.
27Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 20,1-16a): Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?
1Khi ấy Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. 2Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng." 5Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" 7Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!" 8Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất." 9Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. 10Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. 11Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: 12"Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." 13Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? 14Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?" 16Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
- Là Đấng vô cùng cao siêu, tuyệt đối và khôn lường đối với khả năng trí tuệ của loài người, vì chính Người đã phán dậy rằng «tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi» và «đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta.»
- Là Chúa Giê-su, Đấng đã dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho để mời gọi hết mọi người không phân biệt sắc tộc/ngôn ngữ, lớn/bé, già/trẻ, nam/nữ, sớm/muộn, lương/giáo vào làm trong vườn nho của Thiên Chúa là thế giới này. Kế hoạch của Thiên Chúa là giao cho con người quyền bá chủ vũ trụ vạn vật để con người tổ chức điều hành theo Ý Thiên Chúa: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." (St 1, 28).
- Là Chúa Thánh Thần, Thần Khí Khôn Ngoan của Thiên Chúa, Đấng đã cùng với Chúa Cha tạo dựng vũ trụ vạn vật, đã cùng với Chúa Con cứu nhân độ thế. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng đang thúc đẩy và hướng dẫn mọi người làm việc cho Vườn Nho của Thiên Chúa.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho."
Làm việc cho/trong vườn nho là xây dựng các mối tương quan giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng và giữa cộng đồng này với cộng đồng kia. Mối tương quan ấy phải đậm tính nhân đạo, tôn trọng, tương thân tương ái và hổ trợ lẫn nhau. Mục đích là xây dựng một môi trường, một xã hội và một thế giới đầy tính nhân văn, công bình và văn minh giống như những người thợ chăm sóc vườn nho để cây nho cho trái ngọt và rượu ngon vậy.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, nhất là ơn được làm hòa, được xóa tội và thứ tha. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và biết ơn sâu sắc.
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa là mỗi người chúng ta kiểm điểm xem mình đã dấn thân vào công trình xây dựng Vườn Nho của Thiên Chúa là thế giới hôm nay, là xã hội Việt Nam hiện giờ như thế nào. Cụ thể là mỗi người hãy tự hỏi:
(a) Tôi đã dành bao nhiêu thời gian, tiền của, công sức và tài năng, [mà Thiên Chúa đã ban cho tôi] cho Vườn Nho của Thiên Chúa là môi trường và xã hội trong đó tôi đang sống?
(b) Tôi đã và đang làm những gì để Giáo hội tốt lành, thánh thiện hơn?
(c) Tôi đã và đang làm những gì để thế giới và xã hội hiện nay bớt bất công và tội ác?
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 «Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới hôm nay, để họ sớm nhận ra Thiên Chúa là Đấng cao sang, thánh thiện và siêu việt, vượt trên mọi trí khôn của loài người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 «Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ và cho toàn thể các tín hữu, để mọi người đều hăng say nhiệt thành với việc làm cho Vườn Nho của Thiên Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tín hữu trong giáo xứ/cộng đoàn chúng ta, để mọi người biết sống xứng đáng với Tin Mừng của Chúa Ki-tô mà họ đã được Thiên Chúa ban tặng cách nhưng không.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 «Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người vi phạm nhân quyền, coi thường sự thật và chà đạp công lý để họ nhận ra tội lỗi của mình mà cải tà quy chính.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
----------------------------------
Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? (Mt 20,15).
Tạo hóa trao ban cho mỗi thụ tạo một qùa tặng riêng, không ai giống ai. Sự hơn kém và khác: TN 25-A66
Tạo hóa trao ban cho mỗi thụ tạo một qùa tặng riêng, không ai giống ai. Sự hơn kém và khác biệt phẩm chất làm cho thế giới con người và các loài thụ tạo có muôn mầu, muôn sắc và sống động. Quan sát dòng đời, chúng ta nhận thấy rằng trên đời có kẻ đến trước, người đến sau. Có kẻ già người trẻ, có người sang kẻ hèn và có kẻ giầu người nghèo. Có kẻ sướng người khổ, có kẻ ăn trắng mặc trơn và có kẻ cả đời lam lũ. Có kẻ thông minh tài giỏi, có kẻ khờ khạo chậm chạp và có người lành kẻ dữ. Mỗi người dù sang hay hèn đều có một kiếp sống. Tuy cuộc đời và đời người không ai giống ai, nhưng ai ai cũng mong muốn có một cuộc đời vui vẻ và hạnh phúc.
Chúng ta không cần phải ngồi đó so sánh hơn thiệt. Mỗi người chúng ta có một định mệnh và căn tính riêng biệt. Chúng ta không thể trở nên giống người này, người nọ. Cho dù thay gan, thay tim, thay máu, thay các cơ phận và cả đổi giống, chúng ta vẫn giữ căn tính của mình. Ước muốn của mỗi người giống như các chiếc ly, chiếc chén, cần dung lượng đủ cho ước mơ của mình. Chén của tôi nhỏ, tôi mong ước đong đầy là vui rồi. Chén của bạn to hơn, bạn cần nhiều nhu cầu hơn. Mỗi người có một số phận, ước sao cho số mệnh mình được may mắn xuông sẻ là hạnh phúc rồi. Mọi người được sinh ra và sống đời dài hay vắn tùy theo số mệnh. Có một điểm chung cho tất cả mọi người là đồng hành đi về một hướng. Cuối con đường là sự chết.
Sự so sánh, ghen tị sẽ đưa đến tranh dành, chia rẽ và phá đổ. Ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất, lòng ham muốn đã xô đẩy con người vào đường lầm. Ông bà nguyên tổ ước muốn được biết mọi sự như Thiên Chúa, đã sa phạm vào bẫy của ma qủy. Con cái của ông bà đã chành cạnh, so sánh hơn thiệt đã gây ra thảm cảnh: A-ben cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng. Thiên Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt (Stk 4,5-6). Không cầm lòng được sự giân dữ và ghen tương, Cain đã giết em của mình: Ca-in nói với em là A-ben: "Chúng mình ra ngoài đồng đi! " Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông đến giết A-ben, em mình (Stk 4,8).
Con người cứ luẩn quẩn trong vòng ghen tương thù oán. Lòng tự ái bị chạm nên đã gây gỗ, xua đuổi và thù ghét. Bà Sara cho phép chồng được ở với đứa tớ gái, khi người tớ gái có con, bà lại nẩy sinh ra sự ghen tị và so sánh hơn thua. Bà mang tâm thức một chủ nhân nhưng thiếu lòng rộng lượng: Ông Áp-ram nói với bà Xa-rai: "Nữ tỳ của bà ở trong tay bà đấy; đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm! " Bà Xa-rai hành hạ Ha-ga khiến nàng phải trốn bà (Stk 16,6). Truyện của Rachel cũng giống như truyện đời của nhiều người. Không chịu đựng được những lời dèm pha hoặc những cử chỉ trái trai gai mắt. Bà muốn vin vào sự chết để than phiền, dọa nạt hay đòi hỏi: Khi bà Ra-khen thấy mình không sinh con cho ông Gia-cóp, thì ghen với chị và nói với ông Gia-cóp: "Cho tôi có con đi, không thì tôi chết mất!(Stk 30,1).
Anh em con cái của ông Giacob cũng rơi vào những sự thù oán ghen tương. Họ toa rập với nhau để bán người em của mình. Họ ghen ghét người em nhỏ vì em có những khả năng trổi vượt hơn họ. Họ tìm cách tiêu diệt vì ghen: Các anh ghen với cậu, còn cha cậu thì ghi nhớ điều ấy (Stk 37,11). Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ cũng ghi chép lại câu truyện không đẹp này của các anh em tổ phụ ông Giuse: Các tổ phụ ghen ông Giuse nên đã bán ông cho người ta đưa sang Ai-cập. Nhưng Thiên Chúa vẫn ở với ông (Tđcv 7,9). Trong thời gian Dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, có nhiều bô lão cũng đã tỏ lòng ghen tương với những người được lãnh nhận thần khí của Chúa: Nhưng ông Mô-sê trả lời: "Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ! " Vì Chúa đã ban Thần Khí của Người trên họ (Ds 11,29).
Những thói hư tật xấu cũng len lỏi vào đời sống cộng đồng của các môn đệ Chúa Giêsu. Khi bà mẹ của Gioan và Giacôbê xin Chúa cho hai đứa con được ngồi bên tả hữu của Chúa thì các môn đệ khác đã cảm thấy khó chịu và ghen tức: Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan (Mc 10.41). Mọi người mong chờ ơn cứu độ và cố gắng tu thân tích đức, nhưng rồi cũng cứ nhìn qua nhìn lại và so sánh hơn thua. Các môn đệ của ông Gioan cũng đã phải lên tiếng: Bấy giờ các môn đệ ông Gioan và các người Pharisêu đang ăn chay; có người đến hỏi Đức Giêsu: "Tại sao các môn đệ ông Gioan và các môn đệ người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay? "(Mc 2,18). Rồi tới những vị lãnh đạo tôn giáo cũng tìm lông bới vết, bắt bẻ và phê bình: Thấy vậy, những người Pharisêu nói với các môn đệ Người rằng: "Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy? "(Mt 9.11).
Kìa, xem thái độ tự mãn và khoe khoang của người Pharisêu. Họ cầu nguyện với Chúa nhưng ánh mắt và cõi lòng lại dèm pha những người khác. Vì thế lời cầu của họ không được Chúa nhậm lời: Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia (Lc 18,11). Cũng như những người Do-thái, họ nghĩ họ là con trưởng, chỉ dân tộc Do-thái mới được thừa hưởng ơn cứu độ. Họ khinh thường kẻ khác và phản đối tẩy chay cả những vị tông đồ được sai đến: Thấy những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phao-lô nói và nhục mạ ông (Tđcv 13,45)
Với lời lẽ chân thành, Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu ở Corintô: Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao? (1Cor 3,3). Ghen tương cãi cọ là thói xấu ở đời. Đứng núi này trông núi nọ rồi ngỏ lòng ham muốn của cải hay chức vị của người khác. Không biết hài lòng về chính mình là một nỗi khổ. Cuộc sống cứ thế phải chạy đua và tranh dành để gây ảnh hưởng, tìm uy tín. Càng tìm thì càng mất vì nó ngoài khả năng và tầm tay của mình. Có nhiều người không chiếm đoạt được theo ý mình thì đạp đổ và phá hoãng.
Suy về thái độ của những người vào làm vườn nho cho chủ. Kẻ đến sớm, người đến trễ đều được trả tiền công đồng đều. Càm ràm hay trách móc ông chủ cũng là câu truyện thường tình. Chúng ta thông cảm cho những khó chịu của những kẻ giãi nắng dầm sương từ sáng sớm. Chủ và thợ cũng đã thỏa thuận từ sớm, thuận mua vừa bán. Không có sự bất công. Dù sao, ông chủ có tự quyền quyết định, miễn là không vi phạm luật đã thỏa thuận. Thưởng công hay ban phát ân huệ là do ý muốn của chủ. Chúng ta không có quyền quyết định phần thưởng cho mình: “Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết"(Mt 20.16). Hình ảnh những người làm vườn nho trong bài Phúc âm, giúp chúng ta suy gẫm về chính đời sống người tín hữu. Chúng ta được mời vào làm vườn nho Nhà Chúa, chúng ta vẫn tự hào mình là đạo gốc đã ba bốn đời. Giữ đạo cha truyền con nối mà. Chúng ta hãnh diện đã được nhận Bí Tích Rửa Tội từ tuổi bé thơ. Trong khi có biết bao người biết Chúa muộn màng. Họ phải ra công tìm kiếm, chờ đợi và học hỏi mới được sinh ra làm con Chúa. Họ bị xem là bổn đạo mới hay tân tòng.
Qua Bí Tích Rửa Tội, Chúa hứa ban Nước Trời cho mọi con cái làm sản nghiệp. Dù sớm hay muộn màng, các tín hữu được hưởng mọi quyền lợi làm con Chúa và được gia nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô là Giáo Hội. Đôi khi, có người nói rằng: Ông bà đó xướng thật vì mới được Rửa Tội và nay được chết lành trong tình nghĩa Chúa. Đúng vậy, họ thật hạnh phúc được biết Chúa khi đời xế bóng. Chúng ta không nên ghen tị về phần thưởng. Còn chúng ta sống đạo thế nào đây? Chúng ta biết Chúa rất sớm. Được học biết về Chúa và sống hiệp thông trong Chúa qua các Bí tích. Chúng ta có nhiều cơ hội chúc tụng, ca ngợi, tôn thờ, tạ ơn và cầu nguyện với Chúa. Chúng ta được lãnh nhận tràn trề ân sủng trong suốt dọc cuộc đời. Cả đời được ngụp lặn trong tình yêu thương của Chúa. Chúng ta được nuôi dưỡng qua bàn tiệc lời Chúa và bàn tiệc thánh thể mỗi ngày và mỗi tuần. Chúng ta có gia đình, cộng đoàn, giáo xứ và Giáo Hội chở che. Thật là hạnh phúc biết bao!
Trong đời sống đạo, chúng ta hãy cùng khuyến khích nhau nên trọn lành. Đừng ghen tương hay dèm pha khi người khác làm được việc tốt. Đôi khi vì quá nhiệt thành, chúng ta dễ bị rơi vào ý hướng chủ quan hay chủ nghĩa cá nhân thời đại. Cứ nhìn qủa sẽ biết cây. Nếu hoa qủa ung nhọt, thì cây ắt phải cắt tỉa chăm bón lại. Mọi sinh hoạt trong đạo đều phải dẫn đến sự hiệp nhất, cảm thông và yêu thương. Nếu trong cộng đoàn giáo xứ có nhen nhúm sự chia rẽ, gây bè kéo cánh và lập dị, chúng ta phải tìm lại căn cội để sửa chữa. Hãy luôn gắn bó với Giáo Hội là Mẹ để tìm nguồn sống và sự chân thật. Chúa Giêsu đã trao quyền cho thánh Phêrô cai quản Giáo Hội. Vâng lời và lắng nghe giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta không sợ lạc đường. Lạy Chúa, xin dẫn dắt chúng con về nguồn chân, thiện, mỹ.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bronx, New York
----------------------------------
Suy niệm Lời Chúa CN 25 TN A
Ơn cứu rỗi cho mọi người
Niềm vui, niềm vinh dự, và là hồng ân lớn lao của mỗi Kitô Hữu Công Giáo là được kêu gọi: TN 25-A67
Niềm vui, niềm vinh dự, và là hồng ân lớn lao của mỗi Kitô Hữu Công Giáo là được kêu gọi vào Vườn Nho của Chúa.
-Vui vì Vườn Nho ấy là Giáo Hội Công Giáo Thánh Thiện. Trong vườn nho ấy có đông đảo con người trần thế này đang cùng chung một niềm tin, một niềm cậy trông hy vọng và một tình mến huynh đệ sum vầy.
-Vinh dự vì chính Chúa Giêsu là Thân Nho, các tín hữu được tháp nhập vào Thân Nho duy nhất ấy để trở nên những ngành nho, nhành nho, nhánh nho, cành nho sống bằng chính nhựa sống của Thân Nho.
-Và hồng ân lớn lao vì nhờ sống sức sống của Thân Nho Giêsu mà mỗi tín hữu đón nhận sự sống của Thiên Chúa, sự sống vĩnh hằng, sự sống vô biên.
Thiên Chúa không dừng lại, không giới hạn số người vào Vườn Nho của Người, vì Người muốn Giáo Hội của Người là Giáo Hội dành cho nhân loại, Vườn Nho của Người đón nhận tất cả nhân loại để tất cả được nhận lãnh ơn cứu rỗi. Vì thế, Thiên Chúa luôn mong chờ, kêu gọi mọi người “vào Vườn Nho” Chúa, không kể thời gian nào, không kể dân tộc nào, không kể đảng phái chính trị nào, cũng không kể giàu sang hay nghèo khó, trí thức hay thất học. Sáng trưa chiều tối của một ngày đời, của một đời người, hay của một đời thế gian này, tiếng Người vẫn đang thiết tha mời gọi vào Vườn Nho của Người:
“Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
Dấu chỉ “vào Vườn Nho”, dấu chỉ được tháp nhập vào Chúa Giêsu trong Giáo Hội của Người là lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Người vào trước, kẻ vào sau, người được rửa tội hồi lọt lòng mẹ, người được rửa tội lúc hai ba mươi, nhưng cũng có người đến năm bảy mươi hoặc được rửa tội vài ngày vài giờ trước khi xuôi tay nhắm mắt lìa đời…. Và hiện tại, cũng còn có biết bao người chưa vào Vườn Nho Chúa. Trong số đó, có cả những người không những không đáp lại lời mời gọi mà còn cả gan phá hoại, cả gan tách rời Thân Nho để thành lập một “Giáo Hội” theo cách của xã hội phàm trần.
Nhưng, dù lòng người có thế nào đi nữa, thì mỗi tín hữu Công Giáo vẫn vững tin rằng Giáo Hội Công Giáo của Chúa Giêsu mãi mãi bền vững. Đó là Đức tin của chúng ta. Và Giáo Hội luôn là Giáo Hội dành cho Nhân Loại, vì Thiên Chúa vẫn đang thiết tha kiên trì mời gọi mọi người vào Vườn Nho, cho đến lúc không còn ai trên trần gian này cưỡng lại nổi lời mời gọi của Người:
“Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ”. Is 55, 6-7
Cộng tác với Chúa
Hiểu được ý định của Chúa là cứu rỗi tất cả nhân loại, hiểu được đường lối Chúa là “nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng” (Tv 144,8), và tin tưởng vào Chúa “công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm”(Tv144,17), mỗi tín hữu cần cộng tác với Chúa để Vườn Nho Chúa mỗi ngày một thêm đông.
+Cộng tác bằng cách loại trừ lòng ganh tỵ hơn thua như những người làm vườn nho từ sáng sớm phàn nàn: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao"? Bởi lòng ganh tỵ, nhất là ganh tỵ về những ơn huệ của Chúa ban cho người khác, cách nào đó, nói lên một đức tin kém cỏi, một đức ái hẹp hòi, và một đức cậy trông mang đầy tính thực dụng hay trục lợi. Hơn nữa, lòng ganh tỵ là rào cản chính mình và nhiều người khác tiến đến sự hoàn hảo của con cái Thiên Chúa.
Lòng ganh tỵ nguy hiểm nhất là lòng ganh tỵ mang tính cộng đoàn.
-Sao ta không vui mừng khi có đông đảo người lớn, đông đảo các gia đình, đông đảo những người bần cùng lãnh nhận các Bí Tích Khai tâm Kitô Giáo, mà lại cho là đạo cơm đạo gạo, đạo viện trợ, đạo từ thiện?
-Sao ta không vui mừng khi thấy một nhóm truyền giáo của các linh mục Dòng nào đó đang bội thu nơi cao nguyên, đang được mùa ở miền Tây sông nước?
-Sao ta không thể ca tụng kỳ công của Chúa khi sử dụng những giáo dân là hội viên Legio quê mùa ít học đã len vào mọi ngõ ngách của cuộc đời để mang lại bao linh hồn cho Chúa?
-Sao không thể tạ ơn Chúa mà còn chê trách những nỗ lực của một Nữ Tu hay của một nhóm giáo dân đang hết tâm huyết cho công cuộc bảo vệ sự sống, đang lê la đầu đường xó chợ với những con người cùng khốn nhất để mang cho họ tin vui, đem cho họ niềm an ủi của Thiên Chúa, giúp họ biết đường lối Chúa mà giữ lại sự sống của các thai nhi, mà tránh tội giết người?
-Sao chỉ nghĩ đến thành tích lễ hội của cộng đoàn ta, mà quên đi hoặc phủ nhận những cố gắng thiêng liêng của những cộng đoàn âm thầm làm chứng cho Vườn Nho Chúa nơi những xứ đạo xa xôi nghèo xơ nghèo xác?
…..
+Cộng tác bằng cách yêu thương và quảng đại đón nhận những người vào Vườn Nho Chúa. Lòng yêu thương và quảng đại là mặc lấy tâm tình của Thiên Chúa, của Chúa Giêsu,
-hòa nhã, tôn trọng, lịch sự,
-bât chấp mọi gian khó, sỉ nhục
-gạt bỏ mọi kỳ thị, đố kỵ, thành kiến, cách ngăn, phân biệt,
-đơn giản hóa những thủ tục hình thức, để mở lòng ra mà đón nhận, mà tạo điều kiện thuận lợi để mọi người có thể vào làm vườn nho Chúa cách hân hoan nhất.
Đã có biết bao nhiêu đố kỵ vô bổ. Đã có bao nhiêu câu nệ vô bổ. Và cũng đã có bao nhiêu ngăn cản rất chủ quan làm cho khoảng cách của giáo lương, khoảng của Chúa Kitô và nhân loại càng lúc càng xa ra, càng cách biệt. Đó là lỗi của chúng ta.
….
+Cộng tác bằng cách sống đời sống công giáo gương mẫu, tạo điều kiện tốt nhất để những anh em tân tòng sớm hòa nhập với cộng đoàn dân Chúa trong tình yêu mến tin tưởng.
Một số người tân tòng đã bất ngờ nản lòng nản chí khi thấy những gương mù gương xấu của những người đạo dòng, đạo gốc, và nhất là của những bậc vị vọng, của những người đáng lý ra phải làm gương sống đạo chuẩn mực nhất.
Một số khác lơ là bê trễ đời sống kết hiệp với Chúa Giêsu và các bí tích vì ánh mắt phân biệt cũ mới, vì lời chê trách về vốn liếng giáo lý, vì cách đối xử trịch thượng của những người chỉ có tiếng là đạo dòng.
Một số khác sau khi vào Vườn Nho Chúa, đã bị cộng đoàn bỏ rơi, hầu như không ai quan tâm tới, không hội nhập được với cộng đoàn và càng lúc càng xa cách.
Lòng quảng đại yêu thương của Chúa đang mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà xây dựng một Giáo Hội huynh đệ thiêng liêng ngay trong bối cảnh sống gần gũi nhất, xây dựng một cộng đoàn cơ bản của Chúa Kitô.
……
Ông Năm C, ở Gx NL (XL) 35 tuổi Đảng. Vợ ung thư gan. Bà muốn theo đạo. Nhưng nếu bà theo đạo thì vợ chồng phải được phép chuẩn hôn nhân. Ông C xin theo luôn. Ông đến nhà thờ học đạo. Về dạy lại cho vợ. Hôm vợ ngặt mình. Vợ chồng ông đã được lãnh một lúc các Bí tích tại nhà: Rửa tội, Thêm sức, Hôn Phối, Thánh Thể. Công lớn nhờ Legio. Nay, Bà đã qua đời, ông lại là một hội viên Legio đắc lực.
Chị Linh 52 tuổi,ở GX HĐ, xin phép chồng con cho chị đơn phương xin học đạo và được rửa tội năm ngoái. Chị được ơn trở lại nhờ nỗ lực và gương sáng của mấy hội viên Lòng Thương Xót Chúa. Năm nay, chị bịnh nặng. Tâm hồn chị thanh thản bình an. Sau giờ đọc kinh cầu nguyện cho chị, có người nhắc lại câu lời Chúa “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết”.
Tôi đang viết bài này, được tin vui: Ông Hai Sơn, 4g chiều nay được rửa tội tại nhà thờ GX Ngọc Lâm. Vợ Ông Sơn đã chết chưa giáp năm. Khi vợ còn sống, ông muốn theo đạo mà chưa được vì tình trạng của vợ đang rối. Vợ ông được ơn lạ của Đức Mẹ 38 Kỳ Đồng Sài gòn. Và ông đã hứa vợ “Tôi cũng theo Chúa, để còn gặp lại bà trong cõi sống”.
Còn biết bao nhiêu tin vui, vì ngày nào, giờ nào, cũng có người vào làm Vườn Nho Chúa, nhờ ơn Chúa, và cũng có sự cộng tác của nhiều người.
Lạy Chúa, chúc con chúc tụng Chúa luôn “nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm”.
Xin cho chúng con biết vui mừng, vinh dự và tri ân hồng ân Chúa dã thương mời gọi chúng con vào Vườn Nho Chúa, đồng thời, biết cộng tác với Chúa để ngày thêm đông người vào làm Vườn Nho Chúa, vào hưởng lòng Thương Xót Chúa.
A men
PM. Cao Huy Hoàng 15-9-2011
----------------------------------
Mt 20,1-16ª
Chúa Giê-su dùng nhiều dụ ngôn để giúp chúng ta hiểu Nước Trời là gì. Nước Trời đã được: TN 25-A68
Chúa Giê-su dùng nhiều dụ ngôn để giúp chúng ta hiểu Nước Trời là gì. Nước Trời đã được Ngài vì hư: kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng, như viên ngọc quí, như men trong bột, như hạt cải…Đó là những dụ ngôn mà chúng ta đã nghe nói đến suốt mấy tuần nay. Hôm nay, chúng ta suy nghĩ đến một hình ảnh Nước Trời trong dụ ngôn ông chủ mướn nhân công vào làm vườn nho cho ông.
Sáng sớm,mướn người làm vườn nho là một chuyện thường ngày, nhưng mướn nhân công vào lúc bốn giờ chiều là một việc không ai làm, hơn nữa trả tiền cho những nhân công cuối cùng, chỉ làm có một giờ đồng hồ, bằng những người làm từ sáng sớm lại là một chuyện lạ thường hơn. Nhưng Nước Trời là như thế.. Nước Trời là hành động lạ thường của một ông chủ quảng đại, là chính ông chủ đầy nhân ái đó, là chính Đấng là Tình Yêu.
Ngài mời gọi mọi người , không trừ ai , vào làm vườn nho của Ngài.
Có những người Ngài gọi từ sáng sớm, và cũng có những người Ngài gọi vào lúc xế chiều. Những nhân công vào xế chiều nói: “ Không ai thuê mướn chúng tôi. Ông chủ cũng không loại trừ họ: “ Hãy vào làm vườn nho cho tôi.”
Đối với Thiên Chúa, mọi người đều được mời gọi. Chỉ có những người từ chối mới tự loại mình.
Cuối cùng, đến lúc trả tiền công mới thấy rõ, ai rộng rãi, ai hẹp hòi.Những người làm từ sáng sớm đã thỏa thuận một đồng bạc tiến công. Ông chủ đã bảo ông quản lý trả tiền cho những người đến sau hết bằng tiền công của người đến trước hết. Mọi người đều lãnh một đồng.
Những người đến trước tưởng rằng mình sẽ được nhiều hơn vì họ làm trước, nhưng họ thất vọng, họ chỉ lãnh một đồng. Họ phàn nàn phản đối ông chủ: “ Chúng tôi lao lực suốt cả ngày mà ông trả công cho chúng tôi bằng những người đến sau hết !” Ông chủ trả lời: “ Tôi có bất công với mấy anh đâu ! Mấy anh đã thỏa thuận với tôi là một đồng một ngày, thì tôi đã trả đủ cho mấy anh rồi. Tôi muốn trả cho những người đến sau bằng các anh thì có can gì đến các anh ? Hay là các anh ganh tị vì tôi rộng rãi ?”
Dụ ngôn cho thấy sự hẹp hòi của họ. Đáng lý ra, họ phải mừng cho những người đến sau, vì họ may mắn gặp được một ông chủ rộng lượng. Họ lại nhăn nhó vì lòng thương của ông chủ đối với những người đến sau.
Nhiều người trong chúng ta cũng hẹp hòi như thế. Không biết “khóc với người khóc, vui với người vui”. Lòng dạ chúng ta không giống Cha trên trời.
Nhiều người tưởng rằng, họ có quyền đòi hỏi, khi họ chỉ là những người làm công. Nhiều người trong chúng ta mang tâm trạng Pha-ri-sêu, tưởng rằng thờ phượng Chúa, giữ luật Chúa từ lâu, họ phải được ưu tiên, được đặc quyền đặc lợi. Gặp khó khăn, thử thách họ kêu trách Chúa.
Chúa Giê-su dạy chúng ta xem mình như “ những tôi tớ vô dụng” thôi.Chúng ta chỉ có quyền đón nhận hồng ân của Chúa với lòng biết ơn, vì Chúa luôn từ ái và rộng lượng hơn những công nghiệp nhỏ bé của chúng ta.
Tất cả là hồng ân. “ Có gì mà anh em không lãnh nhận ?”Hãy bằng lòng với những gì Chúa ban và hãy tôn vinh Chúa.
Hơn nữa, chúng ta không có quyền phê phán Thiên Chúa. Ngài là chủ tuyệt đối trên mọi sự. Chúng ta được gọi vào vườn nho của Chúa là một hồng phúc, Và Ngài sẽ không bất công đối với chúng ta. Ngài sẽ thưởng công xứng đáng cho bất cứ ai đã “ chịu nắng nôi khó nhọc” trong vườn nho của Ngài.Vườn nho của Chúa chính là thế giới phải phát triển, là xã hội phải kiện toàn. Vườn nho chính là gia đình, con cái phải nuôi dưỡng giáo dục, là bổn phận nghề nghiệp phải chu toàn, là những công việc hằng ngày của chúng ta.
Tất cả những khó nhọc, những giọt mồ hôi, những cố gắng của chúng ta đều mang lại lợi ích cho vườn nho Chúa. Bất cứ ai, bất cứ giờ nào, Chúa vẫn gọi công nhân lo vườn nho của Ngài. Chúa mời gọi mọi người cộng tác với Chúa để làm đẹp cuộc đời, góp phần vào việc sáng tạo. Nhưng vườn nho Chúa trao cho con người, họ đã làm gì ?
Vườn nho Chúa hôm nay đã trở thành một nơi tranh chấp ghê sợ, những bãi chiến trường đẫm máu, những bãi tha ma khổng lồ…
Những công nhân, thay vì cùng nhau chăm sóc để vườn nho sai trái và mọi người cùng hưởng trong thanh bình và hạnh phúc, họ đã tranh giành nhau, tàn phá… sau cùng vườn nho Chúa chỉ còn những cây nho trơ cành và mọi người đều khốn khổ.
Thay vì cùng nhau làm việc cho chủ, họ tước quyền của chủ, không cần biết ông chủ là ai, người đã trao cho họ vườn nho. Họ tưởng rằng họ là chủ của trái đất. Vũ trụ họ không tạo nên, họ đòi làm bá chủ. Sự sống họ lãnh nhận từ lòng mẹ, họ tưởng rằng đó là ngẫu nhiên. Không khí họ thở, ánh sáng họ hưởng nhờ họ tưởng là của họ… Thật đáng ngạc nhiên !
Những công nhân vào xế chiều, họ nghĩ gì ?
Chúa Giê-su không nói, nhưng chúng ta cũng có thể đoán rằng, họ ngỡ ngàng và vui mừng biết bao khi cầm trong tay đồng bạc tiến công mà họ không thể ngờ ! Họ không thể tưởng được rằng ông chủ tốt đến như thế ! Và họ trở về với lòng biết ơn tràn trề.
Đây mới là hình ảnh của Nước Trời.
Nước Trời chính là hạnh phúc được yêu thương vượt mức những gì có thể tưởng được. Chúng ta là gì ? Tại sao chúng ta được yêu thương như thế ? Chúng ta lãnh nhận nhưng không những gì chúng ta không xứng đáng lãnh nhận.
Những người công nhân vào xế chiều làm sao quên được hình ảnh của ông chủ quảng đại đã thương giúp họ, đã kêu gọi họ vào giờ chót và đã cho họ đồng lương vượt trên ước mơ của họ?
Chúng ta có ngỡ ngàng vì những hồng ân Chúa ban mỗi ngày không ? Chúng ta có nhớ đến khuôn mặt nhân ái của ông chủ lạ lùng đó không ?
Hơn thế nữa, ông chủ đó lại nhận chúng ta làm con của ông. Làm sao hiểu được tình thương của Ngài ? Tình thương không ranh giới, nhất là tình thương của Đấng là Yêu Thương.
Hãy mãi mãi tạ ơn vì kho tàng tình thương vẫn rộng mở và chúng ta dù hèn kém, vẫn được mời gọi vào tình thương.
Hãy đến. Thiên Chúa vẫn chờ đón đàon con dấu yêu của Ngài, nhất là trong giờ phút linh thiêng nầy, Ngài ban cho chúng ta hồng ân trên hết mọi hồng ân: Người Con yêu quí của Ngài, Chúa Giê-su. Ngài sẽ đến với chúng ta nơi bàn thờ để chứng tỏ tình yêu của Cha trên trời đối với chúng ta. Hãy đến ăn lấy tấm bánh tình thương để con tim chúng ta rộng mở như con tim của Ngài và khi ra về, vào vườn nho, chúng ta hãy ra công chăm sóc để “ mang nhiều hoa trái cho Nước Cha”.
Lm Trầm Phúc
-------------------------------
Thiên Chúa không bỏ qua bất cứ nỗ lực nào mà không ban thưởng, nhưng Ngài vẫn giữ lại cho mình quyền tự do tuyệt đối.
Lm. Vũ Phan Long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Trong các giáo huấn luân lý, ngay từ đầu Đức Giêsu đã tuyên bố rằng, là những con người: TN 25-A69
Trong các giáo huấn luân lý, ngay từ đầu Đức Giêsu đã tuyên bố rằng, là những con người, chúng ta không được tỏ ra thụ động, dửng dưng, chúng ta phải cộng tác để có thể thuộc về Nước Trời. Người đã khẳng định rõ ràng rằng chúng ta phải có một sự công chính “dồi dào hơn” (5,20), chúng ta phải làm thánh ý của Chúa Cha (7,21), để được vào Nước Trời. Trong dụ ngôn Kho tàng chôn giấu trong ruộng và Viên ngọc quý, Người cho thấy rằng Nước Trời xứng đáng được yêu cầu người ta dồn hết sức mà theo đuổi (13,44-46). Phêrô đã hỏi: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (19,27). Đức Giêsu không gạt bỏ câu hỏi về phần thưởng; Người hứa ban cho các môn đệ một phần thưởng gấp trăm và sự sống đời đời (19,29). Hành đông đúng và dấn thân trọn vẹn là những điều cần thiết, và chúng ta có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa quảng đại nhìn nhận và chúc phúc. Bài dụ ngôn Những người thợ vườn nho bổ sung cho nguyên tắc trên đây ở điểm: chúng ta không thể khẳng định một quyền gì trước nhan Thiên Chúa. Chính vì thế có liên từ “bởi vì/quả thế” (gar) mở đầu cho bài[1][1].
Bài này được ngỏ với các môn đệ, với người Pharisêu, hay là nhắm đến các tương quan giữa Do Thái và Dân ngoại? Ngữ cảnh gần cho thấy rất rõ là Đức Giêsu nói với các môn đệ: trong các bản văn trước cũng như trong các bản văn tiếp sau, các thính giả là các môn đệ. Và chính là nhân một câu hỏi rõ rệt của Phêrô mà Đức Giêsu kể dụ ngôn này. Có thể Người cũng nghĩ đến người Pharisêu hoặc toàn thể Israel, được tượng trưng bằng “những kẻ đứng đầu” lại thành “chót”? Rất có thể như thế, nhưng không có chi tiết nào trong bản văn bảo đảm như thế cả. Vậy phải giải thích dụ ngôn theo câu hỏi của Phêrô.
Nhân câu hỏi của Phêrô, Đức Giêsu đã nói về phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Người. Rồi Người kể dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho. Dường như tâm trí Phêrô là tâm trí tính toán: phải tha mấy lần? Ông sẵn sàng tỏ ra quảng đại tối đa: tới bảy lần (con số chỉ sự hoàn hảo). Đức Giêsu đẩy đi xa hơn: Phải tha tới bảy mươi lần bảy, nghĩa là cứ cố gắng hoàn hảo “hơn”. Trong thực tế, Đức Giêsu cho biết rằng người ta không thể dàn xếp các vấn đề quan hệ liên vị dựa theo kiểu khối lượng được.
Rồi trong hoàn cảnh hiện tại, Phêrô muốn biết những ai đã bỏ mọi sự để phục vụ Đức Kitô thì được thưởng thế nào. Hai vế của phương trình phải cân bằng: phục vụ và hy sinh bao nhiêu thì phần thưởng bấy nhiêu. Đức Giêsu nồng nhiệt trả lời và đảm bảo rằng họ sẽ được ban thưởng bội hậu. Thế nhưng câu hỏi của Phêrô sai chỗ và cho thấy có một thái độ sai lạc. Nước Thiên Chúa không dựa trên luật có qua có lại; trong Nước này, không có chuyện các công trạng cá nhân được đánh giá theo số giờ làm việc. Trước tiên, đây là vấn đề đón nhận một ân huệ.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Ông chủ vườn nho thuê thợ suốt ngày (20,1-7);
2) Cách trả lương (20,8-12);
3) Ông chủ giải thích (20,13-15);
4) Kết luận (20,16a).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền (2): Một đồng quan là lương thông thường một ngày làm việc vào thời Đức Giêsu. Ghi nhận về sự thỏa thuận này quan trọng để có thể đưa tới kết luận đầy kịch tính. Sách Mishnah tính là một người cần tối thiểu 200 quan một năm để có thể sống, tức giả thiết là một người làm công có thể tìm ra việc ít nhất 200 ngày một năm. Một quan có thể mua được từ 10 đến 12 ổ bánh mì nhỏ; 3 đến 4 quan thì mua được 12 lít lúa mạch (để làm được 15 ký bánh mì) hoặc một con chiên; 30 quan mua được một bộ quần áo nô lệ; 300 quan mua được một con bò. Theo giá đó, ta biết đời sống của một người làm công cũng khó khăn.
- Khoảng chín giờ sáng (3): Dịch sát là “Giờ thứ ba”. Mặc dù giờ pháp lý bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, người ta vẫn tính giờ kể từ khi mặt trời mọc. Do đó, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, giờ thứ chín và giờ thứ mười một tương đương với 9g, 12g, 15g và 17g. Ngày làm việc kết thúc vào khoảng 18g.
- bắt đầu từ những người vào làm sau chót (8): Cách trả lương như thế là bất thường. Nhưng câu truyện được xây dựng sao cho độc giả hiểu được lý do khiến những người thợ đầu tiên phải cằn nhằn.
- Này bạn (hetaire, 13): Hetairos là “người bạn đường”. Người ta thường dùng từ này để xưng hô với kẻ mà người ta không biết tên. Những người thợ làm giờ đầu đã không thưa gửi gì cả với ông chủ, nên ông chủ đã làm họ phải bẽ mặt khi bắt đầu câu trả lời bằng lời này. Ở đây hẳn là lời xưng hô này vừa toát ra sự tốt lành, vừa nhuốm màu trách móc.
- Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức? (15): Dịch sát là “Hay mắt bạn xấu vì tôi tốt lành?”. Câu này là chìa khóa mở ra bài học của dụ ngôn. Đối với người Do Thái, căn cứ của tư tưởng, tức của những tâm trạng tốt và xấu, là trái tim; trái tim thông truyền các phản ứng của nó ra bên ngoài qua con mắt. Do đó, phẩm chất của con mắt cũng chính là phẩm chất của trái tim, hoặc của tâm hồn (x. 6,22; x. Mc 7,22; Cn 22,9; 23,6-7; 28,22).
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Đức Giêsu đã tạo ra một dụ ngôn với khung cảnh là việc chăm sóc vườn nho. Ông chủ nhà (oikodespotês) đi ra chợ thuê mướn thêm thợ, từ lúc đầu ngày, khi mặt trời mọc, cho đến khi chỉ còn một giờ nữa là chấm dứt ngày làm việc.
* Ông chủ vườn nho thuê thợ suốt ngày (1-7)
Ông chủ mời gọi mọi người ông gặp, những người ông gặp ngay lúc sáng sớm, cũng như những người ông gặp lúc trưa, lúc xế chiều, thậm chí lúc trời đã về chiều. Với những người được mướn đầu tiên, ông đã thỏa thuận với họ tiền lương thông thường một ngày làm việc là một quan (c. 2); với những người khác, ông hứa trả cho họ hợp lẽ công bằng, và hẳn họ hiểu là chỉ một phần đồng quan thôi (cc. 4-5); còn những người cuối cùng, ông sai họ đi làm vườn nho mà không nói minh nhiên về phần lương (c. 7). Thời gian làm việc của mỗi nhóm rất khác nhau. Thuê thợ vào hai giờ cuối ngày là chuyện lạ lùng, khiến thính giả chú ý. Có những tác giả, chẳng hạn Jeremias và Flusser, giải thích rằng cần phải thu hoạch nho trước khi những trận mưa thu đến. Nhưng bản văn không xác định là đang thu hoạch nho trong mùa thu; biết đâu thợ đang làm cỏ cho vườn nho vào mùa xuân? Chi tiết này muốn thính giả hay độc giả phải tự hỏi về khả năng lên kế hoạch của ông chủ và chờ đợi xem cách trả lương vào cuối ngày.
Tác giả dành một khoảng thời gian cho những người được mướn vào giờ cuối cùng. Ông chủ hỏi tại sao họ đứng đây không làm gì cả. Họ trả lời câu hỏi “thừa” này là không có ai mướn họ cả. Dĩ nhiên, vì chính ông chủ cũng thấy là họ không có việc (cc. 6-7). Mẩu đối thoại ngắn này nhắm làm cho thính giả cũng phải dừng lại với những người thợ này. Phải chăng họ quá lớn tuổi, hay là đau ốm? Phải chăng họ ngủ quên, nên hụt mất giờ thuê mướn thợ sáng sớm? Tác giả không cung cấp một chi tiết nào để trả lời các câu hỏi này. Ngài chỉ muốn thính giả để ý tới họ thôi.
Thính giả có thể cũng đã quen với hình ảnh ông chủ vườn nho là Thiên Chúa; Ngài kêu gọi dân Ngài làm việc cho Ngài. Nhưng không có chỗ nào trong truyền thống kinh sư nói rằng ông chủ mướn thợ vào các giờ khác nhau. Do đó, dụ ngôn này vẫn giữ được tính độc đáo riêng.
* Cách trả lương (8-12)
Đến chiều (opsias genomenês), người ta trả lương. Đây là truyền thống của Kinh Thánh và Do Thái giáo (x. Lv 19,13; Đnl 24,14-15). Đến c. 8, “chủ nhà” (oikodespotês) đột ngột biến thành “chủ vườn nho” (kyrios tou ampelônos); chi tiết này cũng làm cho người ta nghĩ đến Thiên Chúa. Người quản lý (epitropos) xuất hiện chỉ để thi hành lệnh lạ lùng của ông chủ: trả lương trước cho những người làm giờ cuối cùng. Mục đích hẳn chỉ là để những người làm giờ đầu tiên thấy những người kia được nhận lương thế nào.
Những người đầu tiên đã làm mười hai giờ, “đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (c. 12). Những người cuối cùng chỉ làm có một giờ mà thôi. Như thế, những người làm giờ đầu tiên đã phải làm dài giờ mà còn phải chịu cái nóng nực, còn những người làm giờ cuối cùng đã làm ít giờ lại được hưởng cái mát mẻ của buổi chiều. Nếu cứ theo cách tính toán chính xác thông thường, những người cuối cùng hẳn là chỉ được nhận một phần mười hai số lương của những người đầu tiên, nghĩa là một phần mười hai của một quan. Thế nhưng với những người thợ cuối cùng, dù ông chủ không hứa gì cả, ông đã trả cho họ trọn một quan. Đây là điều hoàn toàn bất ngờ, trái với sự tính toán thông thường.
Vậy những người thợ đầu tiên nghĩ rằng họ sẽ được nhận nhiều hơn, và có lẽ các thính giả cũng nghĩ như vậy. Thế nhưng mỗi người cũng chỉ nhận được một quan.
* Ông chủ giải thích (13-15)
Do đó, ông chủ đã khiến những người đầu tiên càm ràm phản đối: dường như là ông chủ đã vi phạm cách võ đoán nguyên tắc căn bản về công bình khi coi những người chỉ làm có một giờ ngang hàng với những người suốt ngày phải chịu nặng nhọc và nắng nôi. Ông chủ đã trả lời trả lời cho người phát ngôn của nhóm thứ nhất, với lời thưa gửi mở đầu là “bạn” (hetaire). Trước tiên, ông bảo vệ cách cư xử của ông dựa trên nền tảng là công bình hình thức, theo những gì đã thỏa thuận (c. 13). Thế thì người phản đối chỉ có thể cầm lấy phần của mình mà về nhà. Ông chủ cũng bảo vệ cách cư xử của mình khi nói đến quyền của người chủ là được tự do định đoạt về của cải của mình (c. 15). Cuối cùng, ông nêu một câu hỏi cho thấy động lực chân thật thúc đẩy ông ứng xử như thế: Ông tốt bụng, cho dù ông không buộc phải hành động như thế. Phải chăng sự ghen tức đã thúc đẩy những người thợ đầu tiên phản đối ông?
Như vậy, ông đã trả lời để mở rộng cái nhìn hạn hẹp của họ và nhắc họ nhớ đến một loạt những yếu tố khác cũng quan trọng đối với việc lượng định lối xử sự của ông. Ông không nói với đám đông, nhưng nói với riêng một người. Các tôi tớ không được để cho mình bị ảnh hưởng bởi ý kiến của đám đông, nhưng mỗi người phải tự mình cân nhắc quan điểm của ông chủ.
* Kết luận (16a)
Có những tác giả coi câu này như câu cốt yếu của dụ ngôn. Nhưng thật ra những người đầu đâu có trở thành chót (trừ chuyện nhận lương); họ tất cả đều được hưởng một đồng lương như nhau. Đối với các người thợ, chỉ tiền bạc mới đáng kể. Câu này không được rút ra từ dụ ngôn, mà chỉ được thêm vào vì tương tự với đề tài. Trong thực tế, câu châm ngôn này nói đến sự đảo ngược các chỗ, còn dụ ngôn thì nói đến sự đối xử đồng đều.
+ Kết luận
Dựa trên c. 15, chúng ta hiểu được chiều hướng của câu truyện: nói đến lòng nhân hậu của Thiên Chúa được biểu hiện cụ thể trong đời sống của Đức Giêsu. Giống như ông chủ vườn nho cư xử với những người thợ cuối cùng, Đức Giêsu cư xử tốt với những người không có một chuẩn mực nào mà đòi hỏi Thiên Chúa. Nhân danh Thiên Chúa, Đức Giêsu bảo vệ những kẻ tội lỗi, những người không tuân giữ Lề Luật; những phụ nữ và những người nghèo, những người vì nhiều lý do, không giữ được trọn Lề Luật; những bệnh nhân bị loại khỏi cộng đồng; những người thuộc đám đông dân chúng, không biết Lề Luật là gì. Vậy bài dụ ngôn không chỉ kể về lòng nhân ái của Thiên Chúa, nhưng còn giải thích lối cư xử của Đức Giêsu đối với dân chúng.
Chúng ta không thể khẳng định mình có một quyền hay một giá trị gì trước nhan Thiên Chúa; không thể xác định được một sự tương ứng cứng ngắc giữa phần ta đóng góp và phần thưởng từ phía Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ qua bất cứ nỗ lực nào mà không ban thưởng, nhưng Ngài vẫn giữ lại cho mình quyền tự do tuyệt đối; và trên nền tảng là lòng nhân lành hoàn toàn tự do của Ngài, Ngài có thể ban tặng vượt xa mọi công trạng.
Hành động và các công trạng của con người không bao giờ thiếu ý nghĩa; chúng vẫn luôn có giá trị trước mặt Thiên Chúa, nhưng không thể áp đặt cho Ngài bất cứ quy tắc nào về ban thưởng, cũng không thể giới hạn tự do của Ngài trong lối hành động cũng như lòng nhân lành của Ngài. Với dụ ngôn này, Đức Giêsu lưu ý chúng ta là không được tính toán với Thiên Chúa, và quy định cho Ngài những gì Ngài phải ban cho chúng ta và người khác.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Nếu tác giả (Đức Giêsu) muốn cống hiến một bài học về công bình xã hội, thì hẳn là Người đã thất bại, bởi vì câu truyện không hề tôn trọng các luật lệ sơ đẳng nhất về sự bình đẳng. Thật ra tác giả không có ý giới thiệu một ông chủ thông thường, ban thưởng theo những đóng góp đã bỏ ra, nhưng là một ông chủ đặc biệt, có lối xử sự vượt quá kiểu tương quan bình đẳng. Giống như nhân vật chính của bài dụ ngôn, Thiên Chúa xử sự như thế trong tương quan với loài người, và theo đường lối Ngài, Đức Kitô cũng xử sự như thế khi ban ơn cứu độ cho loài người.
2. Thiên Chúa gọi mọi người đi vào vườn nho của Ngài, vào các thời điểm khác nhau. Những người Do Thái được gọi trước, nhưng rồi mọi người đều được chiếu cố, dù có lúc đã tưởng mình bị bỏ quên (“Vì không ai mướn chúng tôi”, c. 7). Bài dụ ngôn không nhấn mạnh đến sự quý chuộng riêng ông chủ tỏ ra với một ai, nhưng nhấn trên những quyền bình đẳng mà mọi người đều có trước lời mời và trước phần lương được ban. Nếu trước đây ông chủ đã hoặc có thể tỏ ra thiên vị, thì từ nay không còn như thế nữa.
3. Chúng ta không được so đo về các ân huệ của Thiên Chúa và than trách Ngài vì tưởng rằng chúng ta được nhận ít. Chúng ta phải chu toàn nhiệm vụ và đón nhận với lòng biết ơn những gì Ngài ban cho chúng ta. Chúng ta phải tôn trọng tự do và lòng nhân lành của Ngài, và vui mừng khi thấy bất cứ dấu chỉ nào cho thấy lòng nhân lành của Ngài, cho dù không liên hệ đến chúng ta mà liên hệ đến người thân cận.
4. Ông chủ không ban phát đồng quan cách ngẫu hứng, cho ai nhiều ai ít tùy hứng. Ông ban cho mọi người điều họ cần, và ông ban phát rộng rãi tùy theo nhu cầu của người ta. Ông không gây thiệt hại cho ai cả, nhưng lòng tốt thúc bách ông ban tặng điều cần thiết để sống, cho cả người không được may mắn. Bài học của dụ ngôn vẫn tiếp diễn trong lòng cộng đoàn các môn đệ Đức Kitô, trong đó vẫn vang lên lời kêu gọi sống khiêm nhường, sống tế nhị, quảng đại, như Đức Giêsu đã nhiều lần ngỏ với các môn đệ Người (x. 18,1tt; 20,22).
Lm. Vũ Phan Long, ofm
----------------------------------
Chủ đề: "Điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những gì chúng ta sắm được mà chính là tình yêu ở trong công việc chúng ta làm. "
Lm. Mark Link, SJ
Hãy tưởng tượng trên căn phố bạn ở có 4 căn nhà. Bạn là chủ căn nhà ở góc đường trị giá 300: TN 25-A70
Hãy tưởng tượng trên căn phố bạn ở có 4 căn nhà. Bạn là chủ căn nhà ở góc đường trị giá 300 ngàn đô, nhà thứ ba trị giá 200 ngàn đô và nhà cuối cùng trị giá 100 ngàn đô. Hãy tưởng tượng đứa con bạn nói với bạn: "Bố ơi nếu có ai đó chịu mua căn nhà mình với giá 500 ngàn đô thì bố có bán không?" hẳn bạn sẽ trả lời: "Nếu thế thì may quá bố sẽ bán ngay tức khắc". Một tiếng đồng hồ sau chuông điện thoại vang lên. Bạn bước tới máy để trả lời và rồi không thể nào tin nổi vào tai mình! Có một người đề nghị mua nhà bạn với giá 500 ngàn đô. Bạn thật là vui mừng và đồng ý bán ngay.
Ngày hôm sau, bạn nghe nói rằng chủ căn nhà bên cạnh cũng đã bán nhà họ cho chính người đã mua nhà của bạn. Và thật là tin sét đánh! Mỗi người trong họ cũng đã bán được căn nhà mình với giá 500 ngàn đô.
Nghe thế, bạn liền giận dữ đến nỗi gọi điện cho người mua nhà và phiền trách ông ta về việc ấy. Ông ta liền trả lời: "Bộ tôi phỉnh gạt anh à? Hay là anh ganh tị vì tôi đã rộng lượng".
Câu chuyện này ứng dụng vào dụ ngôn của Chúa Giêsu nêu ra bài Phúc âm hôm nay một cách hiện đại hơn.
Để đánh giá được tính chất độc đáo dụ ngôn của Chúa Giêsu, chúng ta nên nhớ rằng những kẻ đến làm vườn nho vào những giờ cuối, không hề là những kẻ biếng nhác. Họ là những người thợ làm công cần việc làm. Sự kiện họ vẫn chờ đợi mãi cho đến năm giờ chiều cho thấy họ khẩn thiết cần việc làm biết bao.
Trong thời Chúa Giêsu, nếu trong ngày người ta không kiếm ra việc làm thì ngày hôm sau gia đình người ấy thường không có gì ăn. Vì thế người nào kiếm được việc làm từ buổi sáng thì sẽ vui vẻ cả ngày và gia đình người đó cũng thế.
Tại sao Chúa Giêsu kể ra câu chuyện trên? Ngài muốn nêu ra bài học gì đây? Trong cuộc sống thực tế, ai được ví là đám thợ được thuê sớm và ai là đám thợ được thuê muộn? Những kẻ được thuê muộn là những kẻ tội lỗi trong thời Chúa Giêsu. Những người này lắng nghe lời Chúa giảng và ăn năn thống hối. Còn đám thợ thuê sớm là những người biệt phái. Đám người này giận dữ vì thấy những người tội lỗi ăn năn trở lại để rồi sau đó cũng được vào nước Chúa, và cũng nhận được phần thưởng y như họ.
Thái độ của đám biệt phái có thể so sánh với thái độ của một ai đó chỉ trích Chúa Giêsu vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá qua câu nói: "Hôm nay anh sẽ lên thiên đường cùng Ta" (Lc 23: 43).
Điều thú vị đáng ghi nhận là giả sử đám thợ được thuê sớm không hay biết số tiền người chủ trả cho đám thợ đến sau thì hẳn họ đã vui vẻ biết ơn khi trở về nhà rôi. Nhưng vì biết được, nên họ đã trở về nhà lòng đầy giận dữ và ghen tị.
Điều này gợi lên một vấn nạn.
Tại sao đám thợ được thuê sớm lại ganh tị với sự may mắn của những kẻ được thuê muộn? Cũng như tại sao bạn lại ganh ghét với phận may của bà chủ nhà trên cùng con phố ấy khi những người này cũng bán được nhà của họ với giá 500 ngàn đô? Tại sao quá nhiều người cảm thấy hạnh phúc hay buồn bã vì ý nghĩ của mình về người láng giềng khá hay tệ hơn?
Chúa Giêsu ám chỉ đến câu trả lời cho vấn nạn trên khi Ngài để cho chủ vườn nho nói với đám thợ được mướn sớm: "Bộ ta đã phỉnh gạt các người sao?. Hay là các người ghen tị vì thấy Ta quảng đại?"
Chúng ta thường ghen tương với phận may của kẻ khác bởi vì chúng ta ganh tị với họ. Nhưng điều gì khiến chúng ta ganh tị với họ? Lý do là vì chúng ta nghĩ rằng họ khá hơn chúng ta, họ có nhiều tiền hơn chúng ta, họ xinh đẹp dễ coi hơn chúng ta, họ tài năng hơn chúng ta.
Thật rủi thay! Khi chúng ta nghĩ thế là chúng ta đã phạm phải sai lầm lớn trong việc xét đoán thiên hạ theo những tiêu chuẩn trần gian chứ không phải theo tiêu chuẩn của Chúa. Nếu chúng ta xét đoán theo tiêu chuẩn của Chúa thì có lẽ chúng ta sẽ khám phá ra mình cũng khá giống như kẻ khác vậy.
Ai hiểu được điều này? Trong kế hoạch của Chúa, tài năng của chúng ta có thể còn đáng giá hơn tài năng của một kẻ nào đó mà thiên hạ đánh giá là thông thái hay quyền uy. Thánh Phaolô đã nêu rõ điểm này trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô đoạn 1 câu 27-28: "Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì mà thế gian xem là vô ý nghĩa để làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều mà thiên hạ chê bai, khinh bỉ, liệt vào hạng không ra gì, để tiêu huỷ những gì thiên hạ cho là quan trọng".
Tôi xin minh họa điều thánh Phaolô muốn nói:
Cách đây vài năm, một chiếc hoả tiễn thử nghiệm đắt tiền đang sắp đậu xuống căn cứ không quân Edwards ở Califonia. Khi viên phi công định hạ thấp cần số vào vị trí cho hạ cánh thì bỗng nó không hoạt động nữa. Viên phụ tá liền xem xét chớp nhoáng và khám phá ra vấn đề là do nơi mạch "rờ le" bị trục trặc. Thế là anh ta vội chạy đi kiếm một cái gì đó tạm sửa cái "rờ le" (mặt tiếp điện) để làm cho cần số hoạt động trở lại -- và anh ta đã tìm được một cái kẹp giấy, uốn cong nó lại, nhờ đó giải quyết được khó khăn và làm cho cần số hoạt động trở lại được. Cái kẹp giấy đó khác nào tấm bùa cứu cho chiếc phản lực đắt tiền khỏi bị đâm sầm xuống đất. Vào lúc đó, xét theo nhiệm vụ đặc biệt ấy, cái kẹp giấy tầm thường này còn quan trọng hơn toàn bộ dụng cụ trên chiếc máy bay.
Kế hoạch của Thiên Chúa cũng thường như thế đó. trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tiên tri Isaia đã nhân danh Chúa nói rằng: "tư tưởng của Ta - không giống tư tưởng các ngươi, và đường lối của Ta khác với đường lối của các ngươi. Trời cao hơn đất thế nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối và tư tưởng của các ngươi như thế".
Bài Phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta nghe theo lời khuyên của thánh Phaolô gởi tín hữu Galata. Thánh Phaolô nói: "Mỗi người chúng ta nên suy xét về cách cư xử của mình. nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình đã làm nhưng chớ nên so sánh với điều kẻ khác đã làm" (Gl 6: 4).
Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống này không phải là những gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc chăm chỉ như thế nào trong vườn nho của Chúa. Điều quan trọng là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta và tình yêu thôi thúc chúng ta làm việc.
Có câu chuyện về một nhà giảng thuyết trứ danh nọ. Ông ta biết mình là một diễn giả xuất sắc nên thường dùng các bài giảng gây danh tiếng cho mình. Vào cuối đời khi ông sắp chết thì có một điều gì đó rõ ràng đang quấy nhiễu ông. Bề trên dòng trông thấy và nói; "Thưa cha Matthêu, xin hãy bình an. Khi ngài ra trước Chúa Giêsu để chịu xét xử, ngài chỉ cần nhắc cho Chúa về những bài tuyệt hảo ngài từng giảng thuyết." Cha Matthêu liền đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu không để ý đến chúng, thì chắc hẳn con sẽ không nhắc cho Ngài nghe về chúng đâu".
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện của Đức Hồng Y Newman:
"Chúa đã uỷ thác cho tôi vài công việc mà Ngài không uỷ thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ.
Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều Ngài định làm…
Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài."
Lm. Mark Link, SJ
----------------------------------
Lm. Ignatiô Hồ Thông
Chủ đề: Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này, đặc biệt bài đọc I và Tin Mừng, nêu rõ: tư tưởng Thiên Chúa siêu vượt trên mọi tư tưởng phàm nhân.
Is 55: 6-9
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo sự giải thoát sắp đến và kêu mời những người lưu đày ở Ba-by-lon thật lòng hoán cải ngỏ hầu được Thiên Chúa thứ tha, bởi vì đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.
Pl 1: 20-24, 27
Bài đọc II được trích từ thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp. Thánh nhân đang bị cầm tù và đang bị giằng co đôi ngã: hoặc bị tuyên án tử, như thế được ra đi để được ở với Chúa; hoặc được phóng thích để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Mt 20: 1-16
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn thợ làm vườn nho, ở đó tấm lòng nhân ái của Thiên Chúa vượt lên trên sự công bằng sòng phẳng.
BÀI ĐỌC I Is 55: 6-9
Bản văn nầy là một trong những sứ điệp sau cùng ngôn sứ I-sai-a đệ nhị ngỏ lời với những người: TN 25-A71
Bản văn nầy là một trong những sứ điệp sau cùng ngôn sứ I-sai-a đệ nhị ngỏ lời với những người lưu đày ở Ba-by-lon, họ mong chờ Thiên Chúa sẽ ra tay giải phóng họ khỏi kiếp lưu đày tha hương, nhưng vài người trong họ tỏ ra nghi ngờ và nhụt chí.
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tác phẩm của ông được gọi “Sách An Ủi” (Is 40-55), vội làm mới lại những chủ đề hy vọng. Ông đặt dấu nhấn trên niềm tin vào một vị Thiên Chúa rộng lòng tha thứ, một vị Thiên Chúa siêu việt, Ngài có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn, không có gì mà không thể đối với Ngài.
1. Thiên Chúa là Đấng rất gần:
Thời gian cứu độ sắp tới phải là thời gian của cầu nguyện và hoán cải. Bản văn này được trích dẫn đầy đủ hơn vào đêm Vọng Phục Sinh, vào đêm đó, bản văn này được áp dụng càng rõ ràng hơn theo đó sự giải thoát khỏi cảnh đời lưu đày ở Ba-by-lon xem ra như tiên trưng về cuộc giải phóng khỏi tội lỗi, cuộc vượt qua từ sự chết đến sự sống được cử hành vào lễ Vượt Qua.
“Hãy tìm Chúa, khi Người còn cho gặp, kêu cầu đi, lúc Người ở gần bên”. Phải chăng Thiên Chúa có thể còn gần gũi với dân Ngài hơn khi Ngài ra tay giải thoát và cứu độ họ? Năm mươi năm đã trôi qua kể từ cuộc phát lưu đầu tiên, lúc mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết cho những người lưu đày hầu như theo cùng một cách như vậy: “Các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến” (Gr 29: 13-14).
2. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thứ tha:
Trở về với Thiên Chúa không gì khác hơn là tránh xa mọi điều gian ác: “Kẻ bất lương, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người gian ác, hãy bỏ tư tưởng mình đang có”. Lời kêu gọi thay lòng đổi dạ là sứ điệp thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Đối với ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, cuộc trở về Giê-ru-sa-lem phải cùng sóng đôi với cuộc trở về với Thiên Chúa. “Hãy trở về với Chúa, với Thiên Chúa chúng ta, Người sẽ xót thương vì rộng lòng tha thứ”. Động từ “tha thứ” nầy được dùng trong Cựu Ước chỉ với Thiên Chúa là chủ từ, vì sự tha thứ của Thiên Chúa không có chung cùng mức độ nào với sự tha thứ của con người.
Lý do cuối cùng của niềm tin tưởng nầy mà những người lưu đày phải thấm nhuần, đó là: Thiên Chúa là Đấng rất độ lượng từ bi. Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa cao vời trên cõi trời cao thẳm, trong khi tư tưởng của con người ở tận chốn đất thấp. Bởi vậy, mỗi khi con người nghĩ rằng tội lỗi của mình quá nặng nề không thể nào được tha thứ, thì Thiên Chúa mặc khải cho họ biết Ngài rộng lượng từ bi và sẵn lòng đón nhận những kẻ tội lỗi khi họ biết quay trở về với Ngài, cũng như sẵn sàng trả công bội hậu cho con người vượt quá công trạng của họ gấp trăm ngàn lần.
3. Thiên Chúa là Đấng cao vời khôn ví:
Ngôn sứ hoàn tất sứ điệp của mình bằng cách nhắc nhở rằng Thiên Chúa là Đấng cao vời khôn ví: “Trời cao hơn đất thấp bao nhiêu, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”. Các Thánh Vịnh cũng đã sử dụng hình ảnh về trời cao đất thấp để đánh dấu khoảng cách phân chia vô tận giữa Thiên Chúa và con người. Đây là ýý niệm truyền thống mà Đức Giê-su sẽ dạy cho chúng ta trong Kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
Vị ngôn sứ kết nối sự cao cả khôn ví của Thiên Chúa với lượng hải hà tha thứ khôn cùng của Ngài. Con người nhỏ bé, mõng dòn và yếu đuối bởi vì chúng là kẻ tội lỗi; Thiên Chúa thì cao vời khôn ví bởi vì Ngài ôm ấp những tư tưởng cứu độ.
BÀI ĐỌC II Pl 1: 20-24, 27
Thành phố Phi-líp-phê thuộc miền Ma-xê-đoan là thành phố Châu Âu đầu tiên đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phao-lô đã quyết định mạo hiểm rao giảng Tin Mừng cho lục địa nầy, ở đó các cộng đoàn Do thái thì thưa thớt, và lương dân thì đông đảo. Vào năm 49 hay 50, thánh nhân đặt chân lên thành phố Phi-líp-phê. Ngài luôn luôn dành cho các tín hữu Phi-líp trọn tấm lòng biết ơn và yêu mến của mình. Các tín hữu Phi-líp-phê giúp đỡ thánh nhân trong khi thánh nhân đang lâm cảnh túng thiếu. Chỉ duy từ họ mà thánh nhân đã chấp nhận giúp đỡ.
1. Bối cảnh của bức thư: Thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê hình thành nên một chứng liệu đặc biệt. Hơn bất cứ bức thư nào khác, bức thư nầy vén mở cho chúng ta con người nội tâm của thánh Phao-lô, những đức tính và tâm tình của thánh nhân gắn bó vào Đức Ki-tô. Dù tính tình thẳng thắn bộc trực, những lời khuyên bảo của thánh nhân lại chan chứa những niềm tin tưởng vô bờ.
Khi thánh Phao-lô viết bức thư nầy, ngài đang bị giam cầm, có thể ở Ê-phê-sô, vào năm 55 hay 56, không ai biết chính xác. Ngài không biết số phận của ngài sẽ như thế nào: hoặc bị kết án tử, như thế được hội ngộ với Đức Kitô; hay được phóng thích, như thế lại tiếp tục sứ vụ tông đồ của ngài, thánh nhân chỉ còn biết cầu mong. Thế đôi ngã mà thánh nhân trình bày trong đoạn văn nầy không là quyền chọn lựa cách nầy hay cách khác. Rõ ràng thánh nhân nhắm đến hai điều có thể xảy ra: sống hay chết, dù thế nào đi nữa: “Đức Giê-su sẽ bày tỏ quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết”.
2. Sống là Đức Ki-tô, chết là một mối lợi.
Nếu được chọn lựa, hiển nhiên thánh nhân thích được chết hơn: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô và chết là một mối lợi…ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều nầy tốt hơn bội phần”. Thánh nhân đã xác định rồi mục đích cuộc đời mình: “sống là Đức Kitô”. Vì thế, được chết vì Đức Ki-tô, thánh nhân lại được hiệp nhất trọn vẹn hơn với Ngài.
Nếu thư gởi các tín hữu Phi-líp-phê nầy được viết giữa hai bức thư gởi các tín hữu Cô-rin-tô, như ngày nay người ta có khuynh hướng nghĩ như vậy, thánh Phao-lô bổ sung tư tưởng của mình trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Vậy chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác nầy là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa… Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cr 5: 6-8).
3. Tư tưởng của thánh Phao-lô là tư tưởng Kinh Thánh: Trong đoạn trích nầy, tư tưởng của thánh Phao-lô rõ ràng nhuốm màu sắc tư tưởng Hy lạp, tuy nhiên, tất cả các bức thư khác của thánh nhân đều làm chứng rằng thánh nhân không hoàn toàn chấp nhận khía cạnh tiêu cực của nhị nguyên thuyết Hy lạp, tức là khinh bỉ thân xác (1Cr 3: 16-17; 6: 19; Rm 8-14; Ep 4: 15-16). Trái lại, vị sứ đồ ca ngợi thân xác nầy là “đền thờ của Chúa Thánh Thần” và sẽ được sống lại vào ngày sau hết.
Thánh nhân luôn luôn nhắm đến một sự hiệp nhất trọn vẹn với Đức Kitô sau khi chết, tuy thế, thánh nhân cũng không ngừng nói rằng sự hiệp nhất nầy vốn đã bắt đầu ngay từ cõi thế nầy rồi. Cuộc sống của người Kitô hữu vốn đã được Đức Kitô sở hữu rồi, là nơi Chúa Thánh ở cùng chúng ta. Thần Học Giáo Hội sẽ theo vị sứ đồ trên con đường nầy. Cái chết không làm gián đoạn cuộc sống của chúng ta trong Đức Kitô.
4. Nhu cầu loan báo Tin Mừng: Nhưng thánh nhân bị giằng co đôi ngã. Dầu rằng thánh nhân mong ước được ra đi để được ở với Đức Kitô, tuy nhiên thánh nhân nói với các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài, “ở lại đời nầy thì cần thiết hơn, vì anh em”. Vả lại, thánh nhân luôn luôn say mê sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài. Cuối cùng, thánh nhân khuyên bảo họ: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với Tin Mừng của Đức Kitô”.
TIN MỪNG Mt 20: 1-16a
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nầy khép lại một loạt dụ ngôn về Nước Trời trong giáo huấn của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê. Một lần nữa, Đức Giê-su cố gắng làm cho hiểu rằng điều xảy ra trong Nước Trời không giống chút nào với cách xử sự của con người. Đức Giê-su chủ ý chọn những ví dụ cực đoan để gây chú ýý ngõ hầu truyền đạt một sứ điệp khó khăn. Các dụ ngôn rất thuận tiện cho việc sử dụng lối ngoa ngữ, nhưng luôn luôn được dàn dựng theo chủ điểm của dụ ngôn, để rồi từ đó rút ra bài học.
Ở đây, câu chuyện đặc biệt thú vị ở nơi sự công phẩn của những người thợ được mướn từ tảng sáng. Mới đọc thoáng qua, dụ ngôn nầy như muốn loan báo: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu” ở bài đọc I.
1. Thiên Chúa hoàn toàn tự do: Vì thế, thật vô lýý nếu dụ ngôn nầy được hiểu dưới khía cạnh nghĩa đen và trần thế của nó, vì Đức Giê-su rõ ràng dạy rằng Nước Trời không là tiền thù lao, nhưng là ân ban. Thiên Chúa hoàn toàn tự do định liệu, nhưng không như một kẻ chuyên quyền độc đoán. Đây là một sự tự do phát xuất từ tình yêu. Lòng nhân ái của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng.
2. Tính hiện thực của dụ ngôn: Tuy nhiên, chúng ta hãy khảo sát dụ ngôn dưới gốc độ “người với người”. Dụ ngôn nầy làm thương tổn đặc biệt đến độ nhạy cảm rất gai góc của con người hiện đại về vấn đề công bằng sòng phẳng. Tuy nhiên, dụ ngôn nầy xem ra gần gũi hơn với thế giới hiện nay chúng ta đang sống, một thế giới mà biết bao người sống trong nỗi bồn chồn lo lắng cố bám víu vào bất kỳ một công việc nào để kiếm sống cho qua ngày đoạn tháng. Có biết bao người quanh chúng ta sống trong nỗi thấp thỏm đợi chờ ai đó thuê làm bất kỳ công việc gì để có thể đổi mồ hôi lấy bát cơm. Quả thật, ông chủ vườn nho đã năm lần bảy lượt ra ngoài phố chợ để mướn thợ vào làm vườn nho của mình, chỉ đến lúc ngày sắp tàn ông mới nhận ra “những người thợ cuối cùng” này.
Đọc dụ ngôn nầy, chúng ta cảm thấy lòng mình ấm áp khi thấy những người được thuê mướn bất đắc dĩ sau cùng này cũng nhận được tiền công nhật trọn ngày để có thể nuôi sống gia đình nhờ vào tấm lòng quảng đại của ông chủ vườn nho. Tiền công nhật được thỏa thuận là một đồng, đó là số tiền phải chăng để nuôi sống gia đình trong một ngày.
3. Tư thế sẵn sàng: “Chủ điểm” của dụ ngôn nầy được định vị ở nơi tư thế sẵn sàng của những người thợ được thuê mướn sau chót nầy. Họ nôn nóng chờ đợi từng phút từng giây cho đến lúc trời đã về chiều mới được mướn vào làm vườn nho. Nếu được thuê mướn sớm hơn, chắc chắn họ đã làm việc cho ông trọn ngày như bao nhiêu người thợ khác mà khỏi phải thấp thỏm đứng ngồi không yên.
Biết bao câu chuyện Tin Mừng theo cùng một hướng nầy: Đức Giê-su tìm kiếm những tấm lòng sẵn sàng nầy. Ngài tỏ mình ra cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri, không vì công trạng của chị, nhưng vì Ngài đã phát hiện ở nơi chị một tư thế sẵn sàng đón nhận mặc khải của Ngài. Ngài đề nghị với viên thu thuế Gia-kêu là Ngài sẽ trọ qua đêm ở nhà ông, vì Ngài nhận biết tư thế sẵn sàng đón tiếp Ngài ở nơi cõi lòng của ông.
4. Nỗi bất bình của những thợ đầu tiên. Những người thợ được thuê ngay từ sáng sớm sửng sốt đến bất bình khi ông chủ trả tiền công cho thợ. Ông trả công cho những người thợ được thuê sau chót chỉ làm có một giờ vào lúc trời chiều mát mẽ cũng bằng với những người thợ đã làm việc nặng nhọc suốt ngày trong cái nắng chói chang!
Dụ ngôn có nhiều điểm tương đồng với dụ ngôn đứa con hoang đàng. Người con cả công phẩn trước cách hành xử của cha anh. Anh không thể nào chấp nhận cách xử sự của cha anh đối với đứa em của anh, hắn vừa mới trở về nhà cha sau khi đã sống một cuộc đời hư thân mất nết, bởi vì anh xem cách hành xử của cha anh là bất công đối với anh: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà cha chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15: 29-30). Làm thế nào anh có thể hiểu được nỗi lòng của cha anh khi mà anh thiếu tấm lòng bao dung độ lượng?
Như người cha trả lời với người anh cả phẩn uất: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15: 31-32), ông chủ vườn nho cũng trả lời với một trong những người thợ bất bình: “Nầy bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Những người thợ vườn nho đầu tiên bất bình với ông chủ vì họ đòi hỏi sự công bình sòng phẳng, vì thế, họ không thấy được nhờ lòng tốt của ông chủ mà những người thợ sau cùng cũng có được một niềm vui gia đình ấm cúng chung quanh bàn ăn cùng với vợ và con cái vào buổi tối hôm đó. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Vua cũng quở trách người khách vào dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới cũng một cách như vậy: “Nầy bạn, làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới” (Mt 22: 11), Đức Giê-su cũng dịu dàng quở trách Giu-đa, kẻ phản bội Thầy, cũng như thế: “Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi!” (Mt 26: 50).
5. Sự công bình và lòng nhân ái: Những người thợ được thuê từ sáng sớm bị quở trách vì thiếu lòng nhân ái: “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghét tức?”. Không loại trừ rằng dụ ngôn có một hậu cảnh bút chiến nhắm đến nhóm Biệt Phái. Những người nầy tự hào tự phụ vì mình là người thợ đầu tiên được gọi vào làm vườn nho cho Thiên Chúa. Họ đã ra công vất vã trong việc tuân giữ Lề Luật một cách nghiêm nhặt đến từng chấm từng phẩy nên khỉnh bỉ những kẻ thu thuế và phường tội lỗi, những người mà Đức Giê-su đặc biệt quan tâm.
Văn hào Barnanos đã viết: “Nhân loại tự tách mình ra thành hai loại biệt phân tùy theo quan niệm mà người ta hình thành về sự công bình. Đối với những người nầy, công bình là một thế quân bình, một sự thỏa thuận. Còn những người khác, công bình là một sự thăng hoa, một sự đăng quang của lòng nhân ái”.
Đừng quên rằng dụ ngôn nầy nhắm đến việc gia nhập Nước Trời. Nó đem đến một niềm hy vọng tuyệt vời cho lương dân, những người đã đón nhận lời mời gọi của Ông Chủ chỉ sau một thời gian dài dân Ít-ra-en đã được tuyển chọn. Nhưng đây cũng là một niềm hy vọng tuyệt vời cho những ai khám phá Thiên Chúa chỉ ở vào những giờ phút cuối đời mình. Mẫu gương cảm động nhất đó không phải là mẫu gương của tên gian phi sám hối vào giây phút sau cùng cuộc đời mình đấy sao? Cả một đời gian phi nhưng chỉ một lời nói đầy cảm thương của anh vào giây phút cuối đời đã đem lại cho anh một lời hứa tức khắc của Đức Giê-su: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Nước Trời” (Lc 23: 43).
Lm. Ignatiô Hồ Thông
----------------------------------
Lm. Vũ Đình Tường
Dường như ganh tị xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi mà ganh tị biến đổi. Nó: TN 25-A72
Dường như ganh tị xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi mà ganh tị biến đổi. Nó biến đổi mà không phải là biến mất. Nó lui vào hậu trường nằm chờ cơ hội để cho mối ganh tị khác chiếm hữu trên sân khấu cuộc đời. Bằng chứng rõ ràng là có những ganh tị xảy ra lúc còn nhỏ, sau này thành người lớn nó lại xuất hiện và ngay cả tuổi cao niên nó vẫn còn tái diễn, trình làng. Nhiều vụ kiện cáo vì tranh nhau miếng cơm, manh áo. Nhiều người ham quyền cố vị vì ganh nhau ăn trên, ngồi trên, có cơ hội đọc diễn văn, tuyên bố, phát ngôn.
Cuộc sống Đông Tây đều có những điểm giống nhau như lúc nhỏ hay ganh ăn. Lớn hơn chút ganh chơi. Tuổi thiếu niên ganh nói. Tuổi thanh niên ganh xe mới. Tuổi sắp sửa lập gia đình ganh bồ nhí. Tuổi vào đời ganh nhà cao, cửa rộng, ganh chức tước, ganh tiền, hám danh. Có đủ ăn mặc, ganh đi đây đó. Khi về già ganh viện dưỡng lão và khi chết ganh đám táng lớn, mồ cao, mả rộng.
Ganh về tâm lí phát xuất do tự kiêu. Cho là mình hơn người mà không được trọng dụng. Cờ không đến tay không được phất. Chỉ trích, phê bình cho tài người xuống đề cao tài mình lên. Ganh trong trường hợp đó thường hay có phản ứng ngược vì càng cố khoe tài càng vạch ra nhiều kẽ hở bất tài.
Về của cải vật chất ganh tị nói lên điều không hài lòng, còn thiếu. Nếu hài lòng đã không ganh. Ganh vì tự thấy còn thiếu, muốn có hơn, nhiều hơn. Ganh vì lòng tham cũng có mà vì nghĩ về mình cũng nhiều. Nhiều người vay công, mượn nợ để trang hoàng nhà cửa, trưng đeo trên người để tỏ ra mình cũng như người hoặc hơn người.
Ganh ăn chính là trường hợp của người công nhân phàn nàn với ông chủ sau khi đã thoả thuận tiền công nhật là một đồng. Ông ta than phiền là phải vất vả nắng nôi suốt ngày. Người thợ thuê giờ sau hết cũng chịu nắng nôi giữa chợ suốt ngày. Cộng thêm cái lo lắng gia đình lấy của đâu ra cho bữa ăn tối. Đang lúc anh tuyệt vọng thì ông chủ đến cứu vớt anh. Không phải chỉ mình anh được ấm no, hạnh phúc mà cả gia đình anh, chung bữa cơm tối, được tụ họp xum vầy. Điều này cho thấy thực thi bác ái cho người nào đó thì không phải mình người đó hưởng mà cả người thân được hưởng nhờ việc tốt lành.
Nhóm thợ thuê buổi sáng sớm còn được bàn thảo giá cả thuê mướn công nhật. Nhóm thợ thuê vào giờ sau cùng không hề dám hé môi đặt vấn đề lương bổng. Có người thuê là mừng rồi. Còn đâu cơ hội để bàn định giá cả. Làm nguyên ngày có bữa cơm ngon; làm nửa ngày mong chén cháo lỏng. Dẫu thế, có vẫn hơn không. Nhóm thợ đầu tiên biết tiền công nhật một đồng một ngày. Nhóm thợ thứ hai nhận lời hứa được trả công xứng đáng. Nhóm thợ thứ ba không được hứa gì cả chỉ biết thế nào cũng được trả công. Ít nhiều hoàn toàn tuỳ thuộc vào tốt của chủ vườn nho. Chủ vườn nho thuê thợ không phải vì cần mà vì lòng thương họ bơ vơ, không công việc làm nuôi thân. Chính ông xác định điều này. Nếu cần thợ cho vườn nho có lẽ ông đã thuê sáng sớm. Ông thuê vào giấc giữa trưa, gần tối vì thấy thợ chờ suốt ngày không ai thuê nên ông thuê. Thuê vì thương hại hơn là nhu cầu. Như thế việc ít, thợ nhiều. Nếu tính lợi người ta đã chọn thợ giỏi, lành tay nghề. Ông chủ vườn nho không tính lợi cho mình mà nghĩ đến an sinh của thợ nhiều hơn. Làm như thế ông thiệt về tài chánh nhưng lợi về đàng nhân đức, đàng nhân lành.
Người thợ lên tiếng phàn nàn nếu có lòng thương người hẳn phải nhìn biết ông chủ là người tốt và mang lòng cám ơn. Đàng này điều anh ước mong không thoả nên anh lên tiếng phàn nàn. Anh thấy lòng tham của anh mà không thấy lòng tốt của ông chủ vườn nho. Cách nhìn này khá thông dụng giữa các Kitô hữu. Chúng ta hay than phiền về cuộc sống, về đau khổ, về bệnh tật, về rủi ro mà không nhìn thấy Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Chúng ta cũng hay ghen với người này, bì với người khác mà không biết đem lòng cảm tạ những ơn Chúa ban. Chúng ta không dùng khả năng phát triển tài năng Chúa ban mà phí phạm tài năng vào việc tìm tòi, để ý phê bình, ghen với người khác. Người mình phê bình thường là người quen, người từng làm ơn hay là bạn chân tình. Chúng ta thử áp dụng câu ông chủ vườn nho nói với chính mình. Đặt mình vào chỗ người ghen tị với bạn bè, bà con để xét xem việc mình ganh tị xứng đáng hay mình đang chê trách lòng nhân từ của ông chủ.
Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? (Mt 20,14tt).
Lm. Vũ Đình Tường
----------------------------------
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta:”Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và: TN 25-A73
Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta:”Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi”(Is 55,8). Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt bởi cách hàng động của Chúa không ? Những hành động đó không đúng với tính toán và dự liệu của chúng ta, và có khi đi ngược lại các dự tính của chúng ta.
Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa khác hẳn con người, khác nhau như trời cao đất thấp. Con người thì thấp hèn nhỏ nhen, hay so đo ghen tị, chỉ thích giữ công bằng mà quên đi Tình yêu. Còn Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài không thích chúng ta chỉ sống như người làm thuê, tính toán sòng phẳng như kẻ mua người bán, mà Ngài chỉ muốn là người Cha yêu thương hằng săn sóc đến con cái, cung cấp cho nó những cái gì cần thiết và tốt đẹp nhất.
Vì thế dụ ngôn những người thợ được thuê vào giờ thứ 11 mà phụng vụ hôm nay đọc lại cho chúng ta sẽ va chạm đến ý niệm của chúng ta về công bằng trong phân phát. Đấy là vì Chúa Kitô đặt công lý của Nước Trời trên một bình diện khác hẳn bình diện của chúng ta dưới thế gian, đến độ mà “đường lối và tư tưởng của chúng ta” bị xáo dộng và sửng sốt.
Chúng ta hãy cố gắng sống với Chúa như người con thảo, muốn làm đẹp lòng Cha yêu thương. Đừng bao giờ sống như người làm thuê trong nhà Cha mà so đo tính toán với Chúa. Hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, đừng kiêu ngạo, đừng phân bì với tha nhân. Hãy sống trong tình anh em con một Cha trên trời.
I. TÌM HIỂU DỤ NGÔN
1. Tình trạng thất nghiệp
Mọi người phải có công ăn việc làm để nuôi sống mình và gia đình. Ai cũng phải có một việc làm hoặc bằng chân tay hoặc bằng trí óc. Không có việc làm là thất nghiệp. Tình trạng thất nghiệp đã làm đau đầu các nhà lãnh đạo quốc gia vì phải tìm cách tạo công ăn việc làm cho dân. Ngay như nước Mỹ vẫn còn 9.500.000 người thất nghiệp, hơn 4 triệu người ăn xin, hơn 300.000 người tự tử hằng năm (theo đài Hà nội đưa tin hồi 07g15 sáng ngày 21.09.1987) . Ngày nay, những người thất nghiệp được nhận vào làm việc trong các nhà máy là một niềm vui và hy vọng. Ngày xưa cũng không thiếu gì người thất nghiệp cả ngày ngồi ở chợ, chờ đợi mà không có chủ thuê, nếu được gọi vào làm công cho người ta thì là một sự may mắn.
2. Cách thuê thợ ở Palestine
Ở Palestine, mùa hái nho chính vào đầu tháng 10. Sau đó là mùa mưa. Nếu không hái nho kịp trước khi mưa đến thì nho sẽ hư, vì vậy người ta phải chạy đua với thời gian để kịp thu hoạch. Bất cứ người làm công nào cũng được thu nhận dù người đó chỉ làm được một giờ.
Tiền công trả cũng bình thường, một denier (một quan tiền) là tiền công của một ngày bình thường của một người làm mướn. Những người đứng ở chợ không phải là những người biếng nhác ở đầu đường xó chợ, hạng ăn không ngồi rồi. Ở Palestine, chợ là nơi trao đổi lao động. Người ta đến đó vào sáng sớm, mang theo dụng cụ lao động của mình và chờ ở đó cho đến khi có người đến mướn. Họ ở đó chờ công việc, bằng chứng là trong số họ có người chờ đến 5 giờ chiều, chứng tỏ họ muốn làm việc như thế nào.
Thời giờ trong dụ ngôn cũng là thời giờ bình thường của người Do thái. Giờ của người Do thái bắt đầu từ 6 giờ sáng và được tính từ đó đến 6 giờ chiều. Tính từ 6 giờ sáng thì giờ thứ 3 là 9 giờ sáng, giờ thứ 6 là 12 giờ trưa, và giờ thứ 11 là 5 giờ chiều.
3. Ý nghĩa dụ ngôn
Để hiểu dụ ngôn này, chúng ta phải chú ý tới tâm trạng của người Do thái lúc bấy giờ. Họ quan niệm rằng: Nước Trời chỉ dành cho họ những con cái Abraham, còn người ngoại bang, dân ngoại bị loại trừ hoàn toàn. Người Do thái chiếm được Nước Trời là vì sự trung thành của họ đối với Lề luật Maisen, được thể diện ở giao ước Sinai giữa Israel và Giavê. Để đả phá quan niệm sai lầm này, Chúa Giêsu đã đưa ra dụ ngôn “Thợ vườn nho” đây, vì Nước Trời không phải là món tiền lương, hay một đặc ân, nhưng là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này là lời cảnh cáo đối với người Do thái. Người Do thái biết họ là dân được chọn, và không bao giờ quên được sự tuyển trạch đó. Kết quả là họ khinh người ngoại bang, chỉ muốn cho người ngoại bang bị hủy diệt. Thái độ này có nguy cơ được đem vào Hội thánh Chúa. Nếu người ngoại bang được cho vào thân hữu của Hội thánh thì phải vào như những kẻ thấp kém hơn.
Trong đạo Chúa không có quan niệm ưu đãi một dân tộc nào. Chính những người tin Chúa lâu năm có thể học hỏi được nhiều nơi những người tân tòng, những người mới bước vào cộng đồng đức tin.
Ông chủ trong Tin mừng hôm nay thật là siêu việt, ông đã thực thi và đề ra chính sách công bằng, bác ái vượt thời gian và không gian. Ông chủ đó chính là Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Đấng cứu thế đã đặt ra giải pháp cứu con người và truyền dạy con người phải biết sống công bằng và bác ái, như thế mới mong xây dựng được một xã hội tuyệt hảo.
Thế nhưng, con người từ bao nhiêu ngàn năm vẫn đố kỵ, ghen ghét lẫn nhau.”Họ lẩm bẩm kêu trách chủ rằng: bọn sau chỉ làm một giờ mà ông trả bằng chúng tôi sao” ? Ông buộc lòng phải sửa trị thói ghen tị đó bằng cách vạch ra cho họ thấy lòng bác ái cao cả của ông:”Chẳng lẽ tôi không có quyền cho của cải của tôi sao ? Hay vì bạn thấy lòng tốt của tôi, mà bạn ghen tức ư” ?
Truyện: Với Chúa không có mặc cả so đo.
Một người công giáo thấy mình chết phải đến tòa phán xét. Vừa bước chân vào pháp đình, một tòa nhà nguy nga đồ sộ, liền thấy một quang cảnh vừa uy nghiêm vừa im lặng đáng sợ. Trên ngai cao rực rỡ, Chúa Giêsu ngồi oai nghi xử án, có các Thiên thần mặc toàn trắng chầu chực giúp việc. Bên hữu Chúa có một cánh cửa rộng mở một lối đi tràn ngập ánh sáng. Còn bên tả cũng có một cánh cửa, nhưng lớn hơn và nhìn vào chỉ thấy đen thăm thẳm. Trước mắt Chúa đặt một chiếc bục để con người đến đứng trình diện . Cả một biển người đủ mọi lứa tuổi, mọi chủng tộc, sang hèn cao thấp chen chúc nhau, hồi hộp chờ đợi.
Và một hồi chuông rung lên, một Thiên thần cầm một quyển sổ đọc tên thì thấy một đứa bé da đen khoảng 10 tuổi đi đến đứng trên bục. Rồi Thiên thần trình cho Chúa một tờ giấy , thấy Chúa mỉm cười và giơ tay chúc lành cho em. Lập tức các Thiên thần xúm lại dẫn em vào cửa có ánh sáng giữa tiếng đàn đón chào tưng bừng.
Tiếp đến là một thanh niên da trắng và Thiên thần cũng làm như lần đầu, nhưng thấy mặt Chúa phẫn nộ giơ tay xua đuổi. Tức khắc, mấy thằng qủi nhảy tới chộp ngay lấy chàng thanh niên và lôi tuột vào cửa đen ngòm giữa tiếng la hét chửi rủa. Cứ như thế cuộc phán xét tiếp tục khi thì vui mừng khi thì đau thương.
Bỗng người công giáo thấy bà già bên luơng bước lên bục phán xét và bà ta được Chúa cho lên thiên đàng. Thấy thế, ông công giáo mừng thầm trong bụng. Đến lượt một người mà ông biết rất rõ và tin chắc thế nào cũng bị phạt vì đời sống của người ấy quá bê tha tội lỗi. Nhưng kìa Chúa mỉm cười và được các Thiên thần an ủi dẫn vào luyện ngục.
Đến đây người công giáo chắc mẩm mình sẽ được Chúa thương vì dù sao mình cũng đã theo Chúa bấy lâu nay. Do đó, khi được gọi lên toà phán xét, ông ta tỏ vẻ hiên ngang vui sướng, nhưng khi nghe Thiên thần báo cáo với Chúa về những gì đã sống thì ông ta xanh mặt run rẩy. Chúa phẫn nộ xua đuổi, lập tức ba thằng quỉ lôi tuột ông ta vào hỏa ngục. Ông ta thét lên đau đớn và tỉnh dậy. Té ra ông ta nằm mơ. Một giấc mơ hãi hùng khủng khiếp khiến ông lạnh toát cả người, suy nghĩ đặt lại vấn đề sống xưa nay. Vậy Chúa đã tỏ cho biết sai chỗ nào nghiêm trọng đến nỗi bị sa hoả ngục (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 117).
Đọc câu truyện trên, chúng ta thấy Chúa muốn chúng ta sống với Chúa như tình con thảo chứ không muốn chúng ta sống như một người làm thuê, tính toán sòng phẳng. Thực ra, những gì chúng ta có là do hồng ân Chúa ban, là món quà Chúa ban nhưng không.
Suy đi nghĩ lại, chúng ta thấy đó là sai lầm của ông công giáo kia đã hành xử suốt đời mình khi đặt mối liên hệ giữa ông ta với Chúa trên cơ sở trao đổi mặc cả giống như những người làm thuê từ sáng sớm đã lẩm bẩm kêu trách Ông Chủ trong dụ ngôn của Tin mừng hôm nay. Và phải chăng đây cũng là lối suy nghĩ và cung cách sống đạo của chúng ta thường mắc phải và cứ cho là đúng, nhưng thực tế lại sai lầm trầm trọng.
II. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA
1. Tư tưởng của Chúa và của ta
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào ? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai ?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có yêu thương và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng đứa con, Ngài không xem xét nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất.
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên lối suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông chủ đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm người buôn bán vô tình (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm A, tr 478).
2. Hai bài học cho ta
a) Bài học thứ nhất: Như đã nói: mọi công việc đối với Chúa đều bằng nhau, vấn đề không phải ở số lượng công việc nhưng ở tình yêu thúc đẩy làm công việc đó. Một người có thể tặng chúng ta một món quà cả trăm ngàn, chúng ta rất biết ơn người đó. Một em bé có thể tặng chúng ta một món quà chỉ đáng giá vài ngàn, nhưng đó là món quà dành dụm đầy nỗ lực và yêu thương của nó, dù món quà nhỏ không giá trị bao nhiêu nhưng nó khiến chúng ta cảm động nhiều hơn. Thiên Chúa không nhìn vào số lượng công việc của chúng ta. Bao lâu ta còn làm, công việc đều được xếp như nhau trước mặt Chúa.
b) Bài học thứ hai: Đó là tất cả mọi sự Chúa ban cho ta đều là ân sủng của Ngài. Chúng ta không thể làm ra những điều Chúa ban cho, chúng ta không xứng đáng với điều đó. Thiên Chúa cho chúng ta là do bởi lòng tốt của Ngài, bởi ân sủng Ngài. Tất cả những gì Chúa ban cho không phải là để trả công nhưng là quà tặng, đó không phải là phần thưởng nhưng là ân sủng.
3. Thái độ chúng ta phải có
Chúng ta phải chấp nhận như một người con khiêm nhường những hành động của Chúa vì chúng ta biết rằng động cơ duy nhất thúc đẩy người ta trong sự lựa chọn là tình yêu. Chúng ta hãy khôn ngoan chấp nhận những quyết định của Người với sự mau mắn và biết ơn.
Chúng ta phải hành động như Chúa đối với tha nhân: không ganh tị, không nghiêm khắc, không phán xét xấu, không lên án chung thẩm, nhưng phải thông cảm, ưu ái với “một nụ cười của tâm hồn”.
Muốn nên giống Chúa Kitô, chúng ta phải sống theo tinh thần Tân ước, không chỉ chú ý đến công bằng mà nhất là chú ý đến Bác ái. Đối với Chúa, đức công bằng chưa đủ vì như thế chúng ta còng đang sống theo tinh thần Cựu ước vì Cựu ước chưa được hoàn hảo.. Chính vì vậy mà dụ ngôn hôm nay nhắc cho chúng ta là phải chú trọng đến Tình yêu đối với Chúa và với tha nhân. Từ nay chúng ta đừng bao giờ phân bì với nhau mà hãy để cho Chúa hành động theo ý Ngài.
Truyện: Cha Sở và Cha Phó.
Tại một xứ đạo kia số giáo dân khá đông, có Cha Sở, Cha Phó. Một số giáo dân, vì cuộc sống bác ái chưa trưởng thành, nên có hai nhóm xung khắc với nhau. Một nhóm quí Cha Sở, nhóm kia mến Cha phó, vì ngài còn trẻ, năng nổ.
Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến trao đổi tâm tình với ngài:
Thưa cha, cha ở đây đã lâu năm, công dầy, đức cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ mình – bỏ đi công lao cha xây dựng? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng cảm tình về Cha Phó. Xin cha ngăn cản đi.
Cha Sở bình tĩnh trả lời:
Giữa tôi và Cha Phó ai vất vả hơn ?
Cha Phó.
Cha Sở chậm rải nói tiếp:
Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt động, phải dấn thân nhiều, và Chúa cũng lo liệu và trợ giúp Ngài bằng cách cho những tâm hồn biết thông cảm, cộng tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao các ông bà so bì với tôi – một người đáng lẽ đã về hưu?
Nghe Cha Sở nói sai tần số với mình, nhóm kia chống chế:
Cha cũng đã từng hoạt động dấn thân, có khi còn hơn Cha Phó bây giờ.
Cha Sở nói tiếp:
Và tôi cũng đã từng được người ta qúi mến, ủng hộ. Và biết đâu còn hơn Cha Phó. Vì bây giờ Cha Phó vẫn còn một số người thiếu thông cảm, muốn hạ thấp.
Đám người kia ra về, họ cảm phục Cha Sở “đức cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá! Từ đó nạn “bè phái” bớt nhiều.(Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, năm A, tr 175-177).
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác.
Người ta ghen tị về đủ mọi mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thỏa mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn.
Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong một hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt hàng cá... ghen tị nhau.
Bài Tin mừng trong Thánh lễ hôm nay nhắc cho chúng ta hai điều:
1. Chúng ta phải luôn luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không có gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban. Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Ta hãy nói như thánh Phaolô:”Tất cả là hồng ân”.
2. Mỗi nguời hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu.
“Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tâm tình tạ ơn vì muôn ơn phúc Chúa đã tặng ban cho chúng con suốt cả cuộc đời.
“Xin giúp chúng con lánh xa lối suy nghĩ do lòng ghen tị, và biết cố gắng làm cho trổ hoa kết trái ân phúc Chúa đã ban cho mỗi người, để Chúa được vinh danh, anh em được an bình và hạnh phúc”.
Ta hãy có tâm tình như Chúa Giêsu đã dạy trong Tin mừng:
Khi hoàn tất việc phải làm Nâng lòng lên Chúa mà than thở rằng: Này con vô dụng muôn phần, Phần con, con đã thi hành mà thôi.(Mt 5,16)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
-------------------------------
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu: TN 25-A74
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách giáo huấn: Nào là mùa nho tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp không có công ăn việc làm. Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống tối thiểu.
Từ đó, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện dụ ngôn ngày hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài muốn làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các ông chủ trên trái đất này. Họ có bổn phận giữ sự công bằng với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Ngài không có một bổn phận như thế đối với loài người vì Ngài đứng ở bên kia sự công bằng của loài người, một sự công bằng được giới hạn bởi những gì chúng ta mắc nợ.
Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với sức cố gắng của một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, và cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Ngài có khả năng vô biên. Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân từ của Chúa còn đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn.
Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay, một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh chính yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị ràng buộc bởi bổn phận và những gì chúng ta mắc nợ người khác.
Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng buộc bởi kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp trả, một sự ban phát hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận mà thôi. Hơn nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ cũng như nếp sống của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên, bởi vì chính chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi, và nhiều đòi hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản duy nhất của lòng nhân từ Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những anh em ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn những gì do lòng nhân từ của Chúa gợi ra.
-------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
Ghen tỵ luôn là cái gì thật đáng ghét đối với con người. Dù nói thế nhưng con người thường có: TN 25-A75
Ghen tỵ luôn là cái gì thật đáng ghét đối với con người. Dù nói thế nhưng con người thường có khuynh hướng ghen tỵ và một cách nào đó không thích ai hơn mình. Đối với Thiên Chúa thật là khác, Ngài mời con người nhìn sâu vào cõi lòng của Ngài. Người không chỉ là một Thiên Chúa công bình, thẳng ngay. Luôn một mực phán xét con người theo đường chính trực, nhưng Ngài là một người Cha từ ái, hay chạnh lòng thương xót. Ngài là Thiên Chúa tình yêu.
Dụ ngôn người thợ làm vườn nói lên tình thương bao la của Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Dụ ngôn này cho thấy người làm từ sáng sớm đã ghen tỵ với người chỉ làm có một giờ mà vẫn được Ông Chủ trả một đồng. Nếu Ông Chủ trả người làm một tiếng ít tiền hơn người làm từ sáng sớm hay người làm từ giờ thứ 8, thứ 9, thì quả không hề có vấn đề gì! Những người làm nhiều giờ hơn đã phàn nàn: ”Chúng tôi đã làm suốt ngày dưới cái nóng gay gắt“. Ông Chủ quả thực có lý khi Ông trả lời: ”Không phải tôi được tự do sử dụng tiền theo ý tôi sao?” Và Ông Chủ còn nói thêm một câu tỏ lộ điều cốt yếu của dụ ngôn này: ”Hay vì anh ghen tỵ vì tôi quảng đại chăng?“. Thực tế, dụ ngôn này Chúa dùng để cảnh cáo mọi người đừng tính toán, đừng so đo với Thiên Chúa vì những công phúc mình làm, Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con người, cho mỗi người chúng ta vì tất cả chúng ta đều là tội nhân cần có ơn tha thứ của Chúa. Công lao của con người làm sao có thể sánh với tình thương và lòng bao dung, tha thứ, quảng đại của Thiên Chúa được. Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn này để cảnh cáo người Do Thái đừng phân bì với những kẻ tội lỗi và những người ngoại giáo được ơn trở lại và thừa hưởng Nước Trời vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không Thiên Chúa trao ban cho con người, chứ không do công phúc của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu quả đã nói lên tất cả: ”Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao: cầm lấy phần của bạn mà đi đi…”. Thiên Chúa luôn nhân từ, luôn tha thứ tội lỗi cho con người chỉ vì lòng quảng đại, thương xót của Ngài mà thôi. Con người luôn có khuynh hướng, có óc hẹp hòi muốn giới hạn thình thương của Thiên Chúa.
Thiên Chúa luôn luôn công bình, nhưng điều quan trọng hơn hết là Ngài luôn luôn quảng đại. Thiên Chúa quảng đại với hết mọi người. Dụ ngôn nói tới người cùng vào làm vườn nho ám chỉ tất cả mọi người chúng ta. Thiên Chúa ban phát ân sủng cho con người chúng ta: Ngài ban cho chúng ta vũ trụ, vạn vật, xã hội, đời sống, gia đình, thế giới xinh đẹp với biết bao nhiêu con người đang cùng chúng ta sinh sống. Thiên Chúa ban cho chúng ta đức tin, lòng mến, lòng cậy trông và điều đặc biệt hơn là chúng ta được làm con Thiên Chúa, làm con của Giáo Hội. Tất cả đều là hồng ân.Tất cả đều là ân sủng Thiên Chúa tặng ban cho con người, cho mỗi người.
Thiên Chúa là tình yêu như thánh Gioan đã nói. Chính vì không cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, muốn ganh ghét, ghen tỵ mà Ađam và Eva đã phạm tội, Cain đã giết em mình là Aben, người anh cả đã ghen tương, không chấp nhận người em lầm lỡ trở về nhà Cha của mình, những người Pharisêu ghanh tỵ với những người tội lỗi ăn năn sám hối trở về vv…Viên bách quản ngoại giáo đã có lòng tin vững mạnh, nên đã được Chúa thương, làm phép lạ cho người đầy tớ của ông đang đau nặng được khỏi. Thiên Chúa giầu tình thương và luôn luôn tha thứ. Ai tư tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Những kẻ đứng chót sẽ được nâng lên (Mt 20, 16 ).
Nước Trời là phần thưởng nhưng không Thiên Chúa quảng đại tặng ban cho con người. Bí Tich Thánh Thể là lương thực nuôi sống con người, nuôi sống chúng ta. Chúa luôn dùng Mình và Máu của Người để dưỡng nuôi chúng ta. Thật sự, chúng ta không ai xứng đáng với ơn cao cả của Chúa. Chúng ta thú nhận sự bất xứng, tội lỗi của chúng ta: ”Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con lành sạch“.
Con người, đặc biệt chúng ta đừng bao giờ tính toán, so đo, hơn thiệt với Thiên Chúa. Công phúc chúng ta làm có đáng là bao so với ân sủng vô biên và nhưng không của Thiên Chúa.
Chúa nói:” Tôi chính là mục tử nhân lành.Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi“ ( Ga 10, 14 ). Ca nhập lễ chúng ta đọc hôm nay, Chúa phán: ”Ta là Đấng cứu độ dân Ta.Trong mọi cơn gian nan thử thách. Nếu chúng kêu cầu Ta, Ta sẽ thương nhận lời. Và cho đến muôn đời muôn thuở.Ta sẽ là Chúa Trời của chúng“.
Lạy Chúa, Chúa là Cha đầy tình yêu thương, luôn mở rộng vòng tay để chờ đón con người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về. Xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con biết tha thứ mọi lỗi lầm cho anh em và cùng anh em vui mừng tiến vào Nước Trời. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
Ông Chủ trong dụ ngôn Tin Mừng hôm nay là ai?
Nước Trời là phần thưởng gì?
Tại sao người làm từ sáng sớm đều lãnh được một quan tiền như những người làm trễ?
Người ghen tỵ là người thế nào?
Công phúc của chung ta có bằng lòng quảng đại của Thiên Chúa không?
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
-------------------------------
Lm. GIuse Nguyễn Hữu An
Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và: TN 25-A76
Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới: “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu…“Anh cũng đi vào vườn nho”…Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” (số 1-2).
Dụ ngôn “ thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông ...”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật . Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày. Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau. Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều: - 3 giờ là 9 giờ sáng - 6 giờ là 12 giờ trưa - 9 giờ là 3 giờ chiều - 11 giờ là 5 giờ chiều
1. Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọimột với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. "Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn". Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam 17-18).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
2. Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ? Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời. 1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
3. Sứ điệp
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận "giữ đạo" để được "lên thiên đàng". Nhưng người ta cũng có thể "sống đạo" chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành "nô lệ", thành "kẻ làm công". Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
Lm. GIuse Nguyễn Hữu An
-------------------------------
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Dụ ngôn này được gọi là dụ ngôn “ông chủ vườn: TN 25-A77
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Dụ ngôn này được gọi là dụ ngôn “ông chủ vườn nho tốt lành” hay “những người thợ làm vườn nho khác nhau”. Với hai cách gọi trên cũng nói lên hai ý nghĩa, hai vấn đề mà chúng ta cần tìm hiểu.
Trước hết, dụ ngôn cho chúng ta biết: ông chủ vườn nho đi thuê mướn thợ từng giờ. Có thể vì nhiều việc, hoặc vì lòng bác ái thương người, kiếm việc cho thợ làm lãnh công. Đến cuối ngày ông trả tiền công theo giá đã thỏa thuận và theo tình thương cũng như sự tự do của ông. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa có quyền tối thượng của Ngài, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta theo sự tự do và tình yêu của Ngài. Thực vậy, trước Thiên Chúa, không một tạo vật nào dám tự hào mình có quyền hay có công. Chúng ta hãy thử ngẫm nghĩ coi, chúng ta là ai ở trên đời này mà dám tranh đấu đòi Thiên Chúa phải thế này thế kia, phải ban cho mình điều này điều khác ? Có một người con nào lại ra lệnh cho cha mẹ phải thế này thế kia không ? Thế mà có nhiều người dám làm như thế đối với Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta phải luôn nhớ: tất cả là hồng ân, tất cả là do Thiên Chúa ban cho, Thiên Chua ban cho chúng ta điều gì hoàn toàn là do tình yêu của Ngài mà thôi, chứ chúng ta không đáng công lênh gì cả. Cho nên, chúng ta thấy dụ ngôn nói đến quyền tự do của phía ông chủ: ông chọn ai, giờ nào tùy ý của ông, và ông trả lương như thế nào cũng đúng với sự công bằng, và trên hết là tình thương của ông.
Cũng thế, mỗi người chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi vào Giáo Hội, khác nhau về nơi chốn, thời gian, tuổi tác. Có người theo Chúa từ khi lọt lòng mẹ như Gio-an Tiền Hô, có người được 18, 20 tuổi như Gio-an tông đồ, có người đã nhiều tuổi đời như Phê-rô. Trong Giáo Hội, cũng có những người nên thánh một mình như Si-mong cột, có người sống trong bốn bức tường đóng kín để cầu nguyện như Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu, có người đi khắp năm châu bốn bể như Phan-xi-cô Xa-vi-ê, có người sống giữa những người thượng Phi châu hay trại phong như cha Đa-miêng, đức cha Cát-sanh… những điều đó cho thấy: nước trời đón nhận sự đóng góp của từng đứa con, qua bổn phận mỗi ngày.
Như vậy, Thiên Chúa kêu gọi mỗi người khác nhau vào làm việc cho Ngài. Mỗi người hãy cảm tạ Chúa đã thương tuyển chọn mình làm việc cho Ngài, cộng tác với Ngài trong một chương trình vĩ đại là ơn cứu rỗi. Chúng ta được tuyển chọn không phải vì chúng ta đạo đức hơn ai, cũng không phải vì chúng ta có khả năng hơn người, nhưng chỉ là vì tình thương của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đang có mặt hôm nay đều đang phục vụ Chúa tùy hoàn cảnh, công việc, lãnh vực. Nhưng nếu chúng ta không được Chúa gọi và thêm sức cho, thì không ai có thể phục vụ Ngài, và không thể hoàn tất nhiệm vụ Ngài đã trao phó. Xin nhắc lại, Thiên Chúa kêu gọi chúng ta, không phải vì chúng ta xứng đáng. Trước mặt Chúa, không ai hội đủ điều kiện để Chúa thương và ban ơn cứu rỗi. Cho nên, tất cả đều là bởi Thiên Chúa ban nhưng không. Còn chúng ta chỉ là đáp ứng phần nào, đóng góp một phần rất nhỏ bé vào ơn lộc to lớn ấy. Chúa gọi, chúng ta trả lời, Chúa ban phát, chúng ta lãnh nhận. Thế thôi.
Tóm lại, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể là tình yêu. Ngài đầy nhân từ và đầy tốt lành. Đó là bài học chính yếu Chúa muốn gửi đến cho chúng ta qua dụ ngôn hôm nay. Tuy nhiên, cùng một lúc, dụ ngôn này cũng muốn cho thấy lòng dạ hẹp hòi và ích kỷ của con người đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm trễ, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ. Đó là tâm trạng chung của con người: hay so đo, thắc mắc, phân bì, ganh tị, ghen ghét.
Chúng ta biết ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình. Mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra buồn sầu, chán nản, tức tối và oán ghét với những thành công của người khác. Có người chỉ ghen ghét một người nào đó trong vòng một thời gian thôi, nhưng có người ghen ghét nhiều người và suốt đời. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị, ghen ghét nhau, chẳng hạn, chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá ghen tị nhau. Cái người ghen tị chẳng được một tí lợi lộc nào. Cái anh tham lam khi lấy được nhiều thì có vui thêm. Cái người kiêu ngạo càng kiêu sa càng hỉnh mũi, chứ cái anh ghen tị chẳng được gì. Khi ghen nhiều, họ càng thấy mình khổ thêm, thua thiệt thêm, bị tàn héo thêm. Người lớn hay ghen tị hơn tuổi trẻ, vì tuổi trẻ còn đang ganh đua và có nhiều điểm phải vươn tới, rồi họ lại dễ tha thứ. Cho nên, tuổi trẻ nếu có ghen tị thì chỉ là tạm thời, còn người lớn ghen tị thường lâu dài và đưa đến oán thù phá đổ.
Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ, cho nên thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chẳng ? Hay chúng ta lại còn căm hờn, tủi thân, mỉa mai, bôi bác họ. Gia đình bên cạnh, con cái chẳng đẹp gì mà được nhiều người chiếu cố, còn gia đình mình “đẹp như tiên” mà vắng hoe, chúng ta có vui với họ không ? Khó quá!
Chúng ta hãy nhớ, ghen tị sinh ra nhiều tai hại. Thứ nhất, ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh oán thù. Thứ hai, ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, vu oan, cáo vạ, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Thứ ba, ghen tị làm đứt mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế chúng ta phải ngưng ngay cái thói ghen tị vô lối lại. Chúng ta phải biết đánh giá trị đích thực của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh lòng ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa. Vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì, ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai, và cũng không phân bì, ghen tương ai.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
-------------------------------
Lm. An phong, OP
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn: TN 25-A78
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn cho ông, vào những thời điểm khác nhau. Nhưng cuối ngày, tất cả, từ người làm lúc sáng sớm cho đến người chỉ làm một giờ, đều lãnh một đồng tiền như nhau. Ý chính của câu chuyện là lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình. Lòng yêu thương quảng đại của Thiên Chúa tràn lan đến tất cả mọi người.
Dường như ông chủ đã thiếu công bằng đối với người làm nhiều giờ hơn ? Ông chủ đã giải quyết vấn đề "Tất cả chỉ là hồng ân", và lòng quảng đại của Thiên Chúa vượt trên tất cả".
"Tất cả là hồng ân" (grace) chứ không phải là "công lao", "khổ nhọc" (merite).
Hồng ân là một ơn ban, là điều cho không, dựa trên tấm lòng của người ban hơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn, vì nhận ra lòng quảng đại của ông chủ.
Còn công lao, khổ nhọc là tính toán dựa trên công sức người làm việc: một công sức bỏ ra, cần phải đòi lại điều gì tương xứng. Một "công lao" thì luôn phải "đòi công" bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm công xá. Người ta có thể chấp nhận "giữ đạo" để được "lên thiên đàng". Nhưng người ta cũng có thể "sống đạo" chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công xá sẽ làm cho người kitô hữư trở thành "nô lệ", thành "kẻ làm công"; và tôn giáo trở thành một áp-phe làm ăn. Ngược lại, cách sống đạo như một hồng ân làm cho người kitô hữu trở thành con cái, đầy lòng hiếu thảo, kính trọng đối với Thiên Chúa là Cha yêu thương; vì lòng quảng đại của Thiên Chúa vượt xa công xá ta có thể tính toán với Ngài.
Đức Giêsu vào trần gian để chia sẻ kiếp người với chúng ta, đó là hồng ân; Ngài đem đến một Tin mừng cứu độ; đó là hồng ân; Ngài mời gọi mọi người đến vườn nho Giáo hội, đó là hồng ân; và còn biết bao điều khác nữa.
Lẽ nào, chúng ta lãnh nhận hồng ân mà lại đòi hỏi công xá?
Lạy Chúa,
Ước gì con có thể nhận ra hồng ân của Chúa,
Nơi mọi sự,
Khắp mọi nơi
Trong mọi lúc
Tràn ngập cuộc đời con.
Để con chỉ biết hân hoan ca tụng Chúa,
Để con cùng biết vui mừng
vì hồng ân Chúa nơi anh chị em em của con.
Lm. An phong, OP
----------------------------------
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
Tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc xác định “mọi người sinh ra đều bình đẳng”. Nhưng thực tế vẫn có: TN 25-A79
Tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc xác định “mọi người sinh ra đều bình đẳng”. Nhưng thực tế vẫn có những chênh lệch. Làm sao dung hòa ? Làm sao lấp đầy khoảng cách giàu nghèo ? Đâu là tiêu chuẩn Tin Mừng ?
CÓ BẤT CÔNG HAY KHÔNG ?
Tin Mừng Mathêu khi đưa ra những tiêu chuẩn khác biệt nhau. Khi thì đề cao lương tâm công bình và đạo đức lao động (x. Mt 25:14-30, nhất là câu 29), làm càng nhiều thu càng bộn, như đoạn Tin Mừng trước đó (Mt 19:27-30). Lúc lại nói: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20:16a). Phải chăng có mâu thuẫn ?
Nếu đọc kỹ Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ thấy không có mâu thuẫn hay đảo ngược các giá trị. Trái lại, càng đọc càng xác tín vào sự trung thành và lòng đại lượng của Thiên Chúa đối với con người. “Dụ ngôn này làm cho nhiều người buồn phiền vì thách đố và đảo ngược các giá trị công ước, kể cả ý thức về công lý và công bình trong các độc giả đạo đức của Tin Mừng Mathêu” (NIB 1995:393). Dĩ nhiên, Đức Giêsu đã đặt những ý niệm cổ điển về công lý và công bình vẫn thường các thày rabbi nhấn mạnh trước một thách đố lớn lao. Công bình có thể tạo ảo tưởng cho con người. Người ta cứ tưởng dựa vào công bình để đòi Thiên Chúa phải trả công xứng đáng với những hi sinh này nọ. Đức Giêsu muốn cho mọi người thấy sự thật về lòng thương xót vô cùng lớn lao của Thiên Chúa. Chẳng ai có thể đòi Thiên Chúa phải trả công. Nhưng sở dĩ con người được ân thưởng chính vì Thiên Chúa muốn thi hành tất cả những gì Người đã hứa và ký kết với con người trong giao ước cứu độ.
Để minh họa tư tưởng đó, Đức Giêsu đã tưởng tượng trần gian như một vườn nho. Ngay từ sớm ông chủ vườn đã lo đi kiếm thợ. Có ba lớp thợ khác nhau. Lớp thứ nhất dựa trên một khẩu ước theo giá cả bình thường. Các nhóm sau được ông chủ hứa: “Tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng” (Mt 20:4). Thế nào là “hợp lẽ công bằng” ? Tất cả đều tùy thuộc vào ý thức và thiện chí ông chủ. “Mặc dù nhóm thứ nhất có một ‘khế ước’ và nhóm thứ hai chỉ có thể tin vào ý thức ông chủ về công lý, thực tế cả hai nhóm đều tùy thuộc vào lòng thành tín của ông chủ vườn nho” (NIB 1995:393)
Con người không thể dựa trên lẽ công bằng, nhưng chỉ dựa vào lòng Thiên Chúa xót thương để tìm đến đích điểm hạnh phúc. Nếu chỉ loanh quanh với tư tưởng loài người, không ai có thể suy tư vượt lên trên lẽ công bằng. Nhưng với con mắt đức tin, người ta có thể nhìn cao hơn và sâu hơn vào chính tình yêu trời bể của Thiên Chúa. Từ công bình đến lòng xót thương, một khoảng cách không có chi lấp đầy được. Chính vì thế, Thiên Chúa mới nói: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55:8). Tư tưởng và đường lối đó chung qui mạc khải cho mọi người biết Thiên Chúa là một ông chủ “tốt bụng” (Mt 20:15). Người không lệ thuộc vào lẽ công bằng của con người, nhưng hoàn toàn “có quyền tùy ý định đoạt về những gì”(Mt 20:15) Người muốn, vì “Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư” (Tv 24:1). Nhưng định đoạt bất cứ điều gì, Người cũng dựa trên tình yêu. Vì Thiên Chúa không thể làm ngược lại bản tính của mình.
Chính vì thế, hành động của Thiên Chúa đã trở nên một thách đố cho con người. Dụ ngôn hôm nay đã cân bằng quyền lợi “kẻ đứng chót” với “kẻ đứng đầu”, mà vẫn tránh được bất công. Không những thế, trật tự thế giới mới làm cho “những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20:16a; 19:30) Thật là kỳ diệu ! Nhưng cũng thật là nhức nhối cho những “kẻ đứng đầu”.
Đó là một bài học đắt giá cho các Kitô hữu ! Trong Giáo Hội không có cảnh “ma cũ bắt nạt ma mới”. Không thể khinh thường những anh chị em tân tòng. Thời kỳ Giáo Hội phôi thai, nhiều Kitô hữu gốc Do thái đã mắc phải lỗi lầm đó. Chính vì thế, Đức Giêsu muốn các Kitô hữu ý thức rằng: “Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12:13). Thần Khí chính là “một quan tiền” (Mt 20:2, 13). Thiên Chúa ban cho tín hữu. Mọi người tín hữu đều bình đẳng khi đón nhận “quan tiền” này, bất kỳ họ bắt đầu làm vườn nho từ giờ nào.
VƯỜN NHO HÔM NAY
Từ “một quan tiền” đó, nhiều hiệu quả phong phú khác nhau đã đem lại cho các thợ vườn nho niềm hãnh diện lớn lao. Không ai có thể tự hào hơn người khác. Vì công xá không được đo bằng thời giờ hay lao lực, nhưng tùy thuộc hoàn toàn vào ân huệ nhưng không của ông chủ là Thiên Chúa. Giáo Hội vườn nho trồng nhiều loại cây thập giá. “Thập giá là biểu tượng cao cả nhất của tình yêu”(ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 15.9.2002.). Từ cây tình yêu này sẽ sinh nhiều hoa trái ngon ngọt cho loài người thưởng thức. Quả thực, “thập giá trở thành dấu chỉ tuyệt vời của một nền văn hóa đem lại chân lý và tự do, tin tưởng và hi vọng từ sứ điệp Kitô giáo” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 15.9.2002). Đó là những giá trị nhân loại đang khao khát. Mất những giá trị đó, nhân loại sẽ mất tất cả. Chưa lúc nào nhân loại thấy choáng váng trước cơn lốc hoang tưởng và tuyệt vọng như hôm nay. Xã hội đang đánh mất thế quân bình và một nền tảng cần thiết cho hạnh phúc đích thực. “Trong một thế giới ngày càng tục hóa, tín hữu cần phải coi thập giá là nguồn ân phúc và ơn cứu độ. Biểu tượng chính của Kitô giáo là cây thập giá. Tin Mừng bén rễ ở đâu, thập giá là dấu chỉ Kitô hữu hiện diện tại đó”( x. ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 15.9.2002).
Kitô hữu nỗ lực làm chứng thập giá là nguồn phát sinh ân sủng, chứ không phải là dấu chỉ công lý. Hơn nữa, khi công bố thực tại thập giá Đức Kitô, Giáo Hội trình bày cho thế giới “ý nghĩa cao cả và trọn vẹn nhất của cuộc sống mỗi người và của toàn thể lịch sử nhân loại”(ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 15.9.2002). Chắc chắn ý nghĩa đó phải do tình yêu TC mạc khải nơi cây thập giá. Thực vậy, con người bất toàn làm sao có thể tạo nên ý nghĩa cuộc sống cho con người?
Cuộc sống đó bắt đầu từ gia đình, một vườn nho tí hon của Thiên Chúa. Giáo Hội kêu gọi mọi người hãy nâng cao vẻ đẹp gia đình thành một phương tiện làm cho việc toàn cầu hóa có bộ mặt nhân bản (Đại Hội Quốc tế về Thánh Gia: Zenit 16.9.2002). Thực thế, “như một cộng đoàn đức tin đón nhận từ Tin Mừng và ơn gọi theo lối sống riêng, Giáo Hội cống hiến một bộ mặt tích cực cho hiện tượng toàn cầu hóa” (ĐGM Francisco Gonzalez Zenit 16.9.2002), tránh xa nguy cơ bị chủ thuyết kinh tế thị trường và tân-tự do lôi kéo, chỉ biết có sản xuất và lợi nhuận.
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP
----------------------------------
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
Tiền công hay là hồng ân
Người Do-thái đương thời vẫn trách cứ Đức Giêsu vì thái độ khoan dung của Người đối với những: TN 25-A80
Người Do-thái đương thời vẫn trách cứ Đức Giêsu vì thái độ khoan dung của Người đối với những người tội lỗi và hèn kém. Để tự biện minh, Đức Giêsu đã thuật lại dụ ngôn về "những người thợ làm vườn nho."
Dụ ngôn quả là một câu chuyện gây nhiều khó chịu ! Tuy vậy, mục đích của dụ ngôn không hề có tính gượng ép: khi phá vỡ những quan điểm của loài người, dụ ngôn muốn giúp người nghe hiểu được đôi chút về mầu nhiệm Nước Trời.
Dụ ngôn cũng là một câu chuyện có nhiều ý nghĩa. Người ta có thể thấy trong đó mọi giai đoạn của kế hoạch cứu độ, bắt đầu từ A-đam, Nô-ê, Áp-ra-ham, và các ngôn sứ, cuối cùng là những người thợ vào giờ thứ mười một là các Tông Đồ. Người ta cũng có thể thấy kế hoạch đó vẫn còn đang thực hiện, và bất cứ ai cũng có thể được gọi vào "giờ thứ mười một".
Trong dụ ngôn, toàn bộ lịch sử thế giới được thu tóm lại trong một ngày. Lịch sử ấy diễn ra tại một địa điểm là vườn nho của Thiên Chúa.
Người chủ đi mướn người về làm vườn nho. Đầu tiên, hợp đổng giữa ông chủ và người làm thật rõ ràng và xứng hợp: một quan tiền. Đó là giá tiền công cho một ngày làm việc, người thợ cùng gia đình có thể sống trong một ngày. Như vậy, trong lịch sử, Ít-ra-en là người được gọi đầu tiên.
Thế nhưng, ông chủ không chỉ mướn thợ có một lần. Cứ ba giờ, ông lại ra tìm thêm những người thợ mới. Ông muốn gì vậy ? Có thực ông nghĩ rằng vẫn có thể gặp được những người đang chờ tìm việc làm ? Dầu vậy, với những người được gọi lúc sáng cũng như với những người được gọi vào lúc mười một giờ, tức là giờ cuối cùng trong ngày, ông vẫn nói với họ: "tôi sẽ trả công xứng đáng cho các anh."
"Giờ trả công", tức là giờ trả tiền cho những người thợ, thì cũng là giờ mà mỗi người tỏ rõ ý nghĩ của mình. Những người thợ, đặc biệt là những người được gọi vào làm trong vườn nho từ giờ đầu, nghĩ đến công lao vất vả của mình, nghĩ đến những giọt mồ hôi đã đổ ra suốt cả ngày, và mong rằng được hưởng một món tiền xứng đáng. Còn ông chủ vườn nho lại nghĩ rằng mình có quyền sử dụng của cải theo ý mình muốn mà không làm hại ai, không để cho ai bị thiệt thòi.
Vấn đề được nêu ra ở đây là thái độ tôn giáo: Có những người quan niệm giao ước của Thiên Chúa như một thứ thoả thuận về tiền công và họ tưởng rằng những hồng ân Thiên Chúa trao tặng cho họ là điều tất nhiên, xứng đáng với công việc họ đã làm và họ có quyền hưởng những đặc ân đó. Người khác lại vui mừng khám phá ra rằng tất cả là hồng ân, và những hồng ân đó được trao tặng cách nhưng không.
Một quan tiền hay là cả tình thương
Theo ý toán thợ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi vì điều kiện làm việc vất vả hơn, thời gian làm việc dài hơn mà lại không được trả lương cao hơn. Như vậy xem ra ông chủ có vẻ bất công, hay ít là ông đã xử không hợp lý mấy đối với họ.
Thật ra, ông chủ dư biết điều đó. Ông cố tình xử như thế để cho thấy sự tự do phân định cũng như lòng nhân hậu của ông. Ông nhắc lại cho toán thợ làm từ đầu ngày hiểu rằng ông không bắt họ chịu thiệt, vì hai bên đã thoả thuận giá cả rõ ràng. Còn việc ông trả cho những người thợ làm việc vào giờ cuối cùng là quyền của ông, và không gây thiệt hại cho những người làm từ đầu.
Ở đây, người ta nhận ra một giáo huấn về Thiên Chúa. Những người thợ trong dụ ngôn không phải là những nhân vật chính. Họ có mặt trong câu chuyện để làm nỗi lên cách cư xử khác thường của ông chủ vườn nho. Thiên Chúa là Đấng mà người ta không thể hiểu được theo sự công bằng bình thường. Người là Đấng luôn tiến về phía trước xuyên qua những gì có vẻ bình thường. Người là Đấng luôn cư xử theo tình yêu và vì vậy, có vẻ như bất công và điên rồ.
Chìa khoá của dụ ngôn nằm trong câu nói: "Hay là vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?" Thiên Chúa tốt lành, đó là khẳng định nền tảng. Tốt lành, như người ta có thể hiểu, là tính từ dành riêng cho Thiên Chúa. "Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng tốt lành." Đức Giêsu đã quả quyết như thế với chàng thanh niên giàu có trong đoạn văn đi liền trước dụ ngôn này.
Thiên Chúa tự do lựa chọn nơi nào Người muốn và Người tự do thưởng công. Thế nhng sự tự do này không có ý làm cho ai phải thiệt thòi, cũng như không nhằm đem lại lợi ích cho Thiên Chúa. Trái lại, sự tự do ấy chỉ có một mục đích duy nhất là bày tỏ lòng nhân hậu. Đó là sự tự do được điều hành nhờ tình yêu và hướng tới tình yêu.
Qua dụ ngôn, Đức Giêsu muốn cho thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa vượt quá các kiểu trả công của loài người. Thiên Chúa sử dụng tự do để tha thứ, để thể hiện tình yêu trọn vẹn, để ban phát mà không tính toán. Do đó, con người phải từ bỏ tiêu chuẩn nhân loại để học biết suy nghĩ và phán đoán cách khác. Tiêu chuẩn này phải đặt trên tình yêu.
Vì vậy, quan tiền có gì khác hơn là chính tình thương: Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, cứu thoát khỏi tội lỗi. Người mời vào Nước Trời bất cứ ai đáp trả lời mời của Người mà không đếm kể công lao trước kia. Tất cả đều do lòng nhân lành. Người ta không thể lấy công nghiệp hay một danh chức nào để tậu được lòng nhân lành của Thiên Chúa. Người ta có thể là người đến từ đầu ngày, có thể là người đến vào cuối ngày, nhưng tất cả đều được hưởng lòng nhân lành, hưởng trọn vẹn. Sự sẵn lòng ấy được thể hiện qua việc ông chủ ra tìm những người thợ vào làm trong vườn nho, dù là đã giữa trưa hay cuối ngày. Cách lý luận của toán thợ làm từ đầu ngày cũng giống như thái độ của người con cả khi người cha đón tiếp đứa con thứ trở về (x. Lc 15,1-32). Thiên Chúa vui mừng và hân hoan khi người tội lỗi trở về, và người ta không được ganh tị về thái độ đó, bởi vì chính họ cũng đang được Thiên Chúa yêu thương.
Vinh dự được làm việc trong vườn nho
Từ dụ ngôn này, có thể rút ra nhiều bài học.
Thiên Chúa làm việc vì tất cả mọi người. Người kêu gọi, kêu gọi không ngừng, kêu gọi vì tình thương. Người có thể không mời chúng ta, vì chúng ta chỉ là những tôi tớ vô dụng. Người có thể bỏ qua mỗi lần kêu mời. Một ông chủ thực sự có lẽ đã tìm đủ thợ vào làm trong vườn nho ngay từ đầu !
Thế nhưng, Thiên Chúa lại muốn chúng ta cộng tác vào công việc của Người. Vườn nho của Thiên Chúa đã trở nên hoang tàn vì tội lỗi, và Người mời chúng ta làm cho nó nên xinh đẹp, tốt tươi.
Bởi đó Thiên Chúa đã không ngừng kêu mời. Mỗi người sẽ đến làm việc vào giờ của mình. Nhiệm vụ của chúng ta không phải là xét đoán, càng không phải là loại trừ hay thu nhận, nhưng là hoàn thành phần việc của mình. Trong mỗi cộng đoàn địa phương của chúng ta vẫn có những vấn đề liên quan đến thói chuyên quyền và óc thủ cựu. Người ta vẫn có thói quen bám lấy một công việc chứ không muốn chia sẻ cho người khác. Người ta tự bào chữa: "chẳng ai có khả năng" hay "để như vậy công việc sẽ tốt hơn." Người ta cũng có thói quen nhìn những người mới đến với con mắt ít thiện cảm: "mấy người đó ở đâu, khi chúng tôi ..." Vì vậy, cần phải can đảm mời thêm những người mới, để con đường của cộng đoàn được tiếp tục.
Về phía cá nhân, mỗi người có thể nhận ra Thiên Chúa không ngừng kêu mời vào những giai đoạn khác nhau của cuộc sống: cả khi họ còn trẻ, cũng như lúc tuỗi đã cao. Và do đó, có thể nói Thiên Chúa là kẻ đi săn luôn kiên nhẫn, đợi chờ, Người vui mừng vì có thêm những người đến làm việc. Hy vọng không bao giờ là điều quá trễ.
Vậy, phải hiểu về lời mời đến làm trong vườn nho như là một vinh dự. Người làm từ ban đầu là người được chia sẻ tình thương của Chúa nhiều hơn. Làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa không như một thứ đỗi chác để lấy tiền công, nhưng là sự gia nhập vào trong lễ hội Thiên Chúa đang mở ra cho mọi người. Và phần thưởng lớn nhất chính là tình thương, là được cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa, là cùng hiệp thông với mọi người, kể cả những người đến trễ.
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP
----------------------------------
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu truyện: TN 25-A81
Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu truyện sau đây:
Trong một vở kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…”. Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.
Cha Louis Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện bất ngờ như vậy”.
Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta cũng bị chưng hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà ChúaGiêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay không?”. Câu trả lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc nhiên thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi không muốn cho người làm sau chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người khác?”. Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”.
Thưa anh chị em,
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương tí, thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.
Anh chị em thân mến,
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ mộ ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và bị “sốc”trước cách hành xử Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao! Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải, cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời sao? Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng sao?” (x.Lc 23,43).
Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
-------------------------------
Suy niệm:
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu, ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi: TN 25-A82
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu, ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Israel, được gấp trăm về mọi sự, và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng, một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh. Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên. Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau, nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng, thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng. Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó. Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”. Trong thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền (denarius), tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản. Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ông chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý. Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6) lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần. Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng, còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4). Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm, “đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền. Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy. Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công. Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công, vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất, những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa. “Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14). Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh: đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa. Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối, người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít. “Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn. Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người. Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15). Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng, ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành, đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân. Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một. Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng. Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh. Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người. Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành. Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời. Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn. Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ? Chắc chẳng được bao nhiêu. Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày. Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một, “những người không được ai mướn” (c.7), những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời, những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao. chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người làm từ sáng, biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền. Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo. Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế, kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân… Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ, quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được. Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho. Người còn thấy cả thời gian chờ. Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc. Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa, Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ, vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ. Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui. Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa. Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
-------------------------------
Dụ ngôn “Người làm vườn nho” trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay làm nhiều người thắc: TN 25-A83
Dụ ngôn “Người làm vườn nho” trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay làm nhiều người thắc mắc: “Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều?”. Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn này là:
1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: “Nước Trời là ân huệ Chúa ban”. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
***
Qua dụ ngôn “Người làm vườn nho”, ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa, và giúp con luôn đi trong đường lối của Ngài. Amen.
TGM. Ngô Quang Kiệt.
(BĐ1:Is.55: 6-9 * BĐ2: Pl.1:20-24.27 * PÂ: Mt.20:1-16 )
-------------------------------
Ghen tỵ là căn bệnh của mọi thời đại. Ngay cả thiên thần Luxiphe khi xưa, cũng chỉ vì ghen: TN 25-A84
Ghen tỵ là căn bệnh của mọi thời đại. Ngay cả thiên thần Luxiphe khi xưa, cũng chỉ vì ghen tức, kiêu ngạo muốn bằng Thiên Chúa nên đã phản bội, chống đối, quay lưng lại với Ngài. Nguyên nhân dẫn đến ghen tỵ thật ra là vì quá ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích bản thân, không muốn ai hơn mình, mà ngược lại, mình phải hơn mọi người. Hậu quả là không biết bao nhiêu câu chuyện bi thương xảy ra đầy dãy hằng ngày trên thế giới.
Câu chuyện dụ ngôn hôm nay là một bằng chứng thật xác thực, lột tả đến tận cùng những khía cạnh tinh tế nhất trong tính cách con người. Căn cứ trên sự công bằng của lẽ thường, Đức Giêsu đã trao trả tiền công cho mỗi người đúng như những gì Ngài thỏa thuận.
Người làm giờ thứ nhất, cho đến người làm giờ sau cùng, ai nấy được trả theo đúng như hợp đồng. Cách hành xử thật là công minh, chính đại, vậy mà vẫn bị xem là ngạo ngược, lạ đời, không thể lý giải nổi chỉ vì công sức bỏ ra chênh lệch mà lợi nhuận thu được lại hoàn toàn như nhau. Cho nên người làm công giờ thứ nhất phân bua, khiếu nại cũng là hiển nhiên. Hỏi đến, có ai lại không thấy sự bất công quá đáng trong việc chi trả như vậy. Công sức mệt nhọc từ sáng đến chiều cũng chỉ được y như người làm giờ sao cùng, cái gọi là vớt vát, kể ra là bất công thật.
Nhưng xét lại, đúng như lời Đức Giêsu tuyên bố, Ngài không hề làm sai những gì đã hiệp ước. Riêng việc chi trả cho người khác thế nào, là hoàn toàn thuộc vào quyền tự do của Ngài. Ngài là chủ, Ngài có quyền chi trả cho người ta những gì theo ý Ngài muốn, chỉ cần không làm thiệt hại, không gây bất công cho bất cứ ai là được.
Câu hỏi chất vấn của Đức Giêsu dành cho người làm công giờ thứ nhất cũng chính là câu hỏi dành cho từng người chúng ta, mỗi khi chúng ta so bì, tính toán, ganh đua, ghen tỵ với người khác. Nếu cứ ngồi đó mà nhìn những cái được, cái có của người, để rồi so đo với mình rồi đâm ra buồn phiền, trách móc, thì có lẽ trách móc muôn đời vẫn chẳng bao giờ hết. Bởi mỗi người là một con người, với những tính cách và khả năng khác biệt, không ai giống ai. Thiên Chúa là chủ, Ngài có quyền trao ban cho mỗi người những gì tùy ý Ngài. Tại sao tôi lại phân bì những điều tôi không có thay vì chấp nhận chính mình, chân nhận sự thật về mình để rồi cố gắng phát huy những gì đã tốt nên tốt hơn, những gì chưa có thì hãy làm cho có.
Vậy đấy, điểm chính yếu để hoàn thiện bản thân, thì con người lại loại bỏ, chỉ đi truy tìm những cái phụ, những điều không cốt yếu để rồi mãi luẩn quẩn trong vòng ganh tỵ, ghen ghét. Cái tham vọng muốn nổi trội, hơn người đã gây ra biết bao sóng gió, bi kịch. Ước gì nhân loại ai cũng lắng nghe được tiếng Thiên Chúa nói với mình: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn…” ( Mt 20, 13 ) có lẽ thế giới bớt tội lỗi. Nếu cảm nhận được phần Thiên Chúa ban cho mình, và bằng lòng với những gì mình có để mà làm lợi lên từ đó, nhân loại đã bớt lầm than. Khổ nỗi con người, ai cũng muốn làm Thiên Chúa, ai cũng muốn điều hành công việc của Ngài, để rồi tự tiện cắt đặt, phân chia, xét xử, kết án người khác theo ý mình. Quên Thiên Chúa có quyền tùy ý định đoạt những gì là của Ngài ( x. Mt 20, 15 ), đã khiến cho con người ngày càng lún sâu vào bi kịch của hận thù và tội ác.
Quả vậy, đôi khi nhìn thấy Chúa nhân lành, cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người ác, mà con người đâm ra oán trách. Thấy những hành vi tội lỗi của người ác mà Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn ban ơn lành cho họ, chờ đợi ngày họ hoán cải, từ bỏ tội lỗi, trở về với lòng thương xót, nhân lành của Ngài mà nhiều người không thể tin nổi, cũng như không tìm ra được lời giải đáp. Cho nên câu hỏi: “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà anh đâm ra ghen tức” ( Mt 20, 15 ) của Đức Giêsu đã chọc thẳng vào thói quen xấu cố hữu của nhân loại. Muốn vượt thắng điều đó, trên hết chỉ có yêu thương. Nhìn nhận tha nhân chính là mình, là hình ảnh của Thiên Chúa mới hòng mong thế giới bớt hận thù, ghen ghét.
Chỉ có một câu nói về Thiên Chúa, đó là câu nói yêu thương. Yêu thương chính là chìa khóa giải mã tất cả mầu nhiệm Thiên Chúa. Mọi hành động, lời nói, việc làm của Đức Giêsu đều qui hướng về Thiên Chúa là Cha yêu thương. Muốn hiểu Ngài, yêu mến, kết hiệp và sống với Ngài cần phải học yêu thương, tha thứ. Khi tự nhận bản thân đi chệch khỏi quĩ đạo yêu thương, chính là lúc nhận biết mình đã xa rời Thiên Chúa.
Lạy Chúa, ghen tỵ là điều không tốt, nhưng để từ bỏ nó chẳng dễ chút nào. Thế nhưng, tranh đua với những cái còn cái mất trên trần gian cũng chẳng đem lại lợi ích gì, nếu một mai có nằm xuống, buông xuôi hai tay, cũng trả tất cả phù vân về lại với phù vân mà thôi.
Vào đời, Ngài đã dạy con sống yêu thương và cố gắng hết mình với ân huệ Thiên Chúa ban. Chỉ vì ích kỉ, ghen ghét, ganh đua hơn thiệt mà con cứ lầm lũi luẩn quẩn trong những vòng xoáy của buồn bã, than thân trách phận hay hờn giận Thiên Chúa.
Xin dạy con hiểu rằng, kiên nhẫn và yêu thương chính là bí quyết Thiên Chúa dùng để chờ đợi tha nhân hoán cải. Tin tưởng hy vọng vào điều đó, hiểu được tấm lòng Thiên Chúa giúp con biết kiên nhẫn đợi chờ, khiêm nhường chu toàn bổn phận, bằng lòng với ân huệ, con kiên vững bước về Trời với nén bạc được trả bằng yêu mến, hy sinh.
M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG
----------------------------------
Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường TN 25-A85
Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Như chúng ta đã biết Thiên Chúa là Tình yêu. Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Ngài thực hiện những hành động mà tâm trí loài người chúng ta cho là nghịch lý. Thực vậy, nghịch lý của một Thiên Chúa vô cùng mà lại làm người hèn mọn. Nghịch lý của cội nguồn sự sống mà lại chấp nhận cái chết tức tưởi. Nghịch lý của Đấng thánh tuyệt vời mà lại gánh lấy tội lỗi của nhân loại và còn nhiều điều nghịch lý khác nữa được tìm thấy trong Phúc Âm. Chẳng hạn cả Nước Trời vui mừng vì một kẻ tội lỗi trở lại hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Hoặc những kẻ tội lỗi cùng với phường đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước cả những luật sĩ và biệt phái, vốn được coi là hàng đạo đức trong dân Do Thái. Hoặc ai vả ngươi má này thì hãy đưa cả má kia. Ai lấy áo trong hãy cho cả áo ngoài. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên đầy tớ. Chính vì thế thánh Phaolô đã thốt lên: Thiên Chúa đã dùng sự điên rồ của loài người để mạc khải sự khôn ngoan của Ngài.
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cũng thấy: Không phải chỉ có những người thợ vào giờ đầu ban sáng mới có những thắc mắc với ông chủ, mà hầu như ai trong chúng ta rơi vào trường hợp ấy, cũng đều có chung một phản ứng tương tự. Làm sao có thể chấp nhận được lối cư xử nghịch lý như thế? Vậy mà tình thương của Thiên Chúa đã mang lại lời giải đáp khiến chúng ta đi từ chỗ ngỡ ngàng đến khâm phục, vì ai mà chẳng trông mong được hưởng nhờ tình thương ấy. Chính tình thương ấy đã vượt lên trên sự công bằng phải lẽ và đã xoá tan đi hố ngăn cách giữa người lành và kẻ dữ. Thiên Chúa không muốn xoá sổ một ai cả, Ngài sẵn lòng kêu gọi sự hợp tác của con người, từ kẻ làm giờ thứ nhất đến người làm giờ sau cùng, hoàn toàn không phải do công lao của con người, nhưng là khởi nguồn từ sáng kiến đầy lòng thương xót của Ngài.
Không ít người trong chúng ta cũng tự hào vì đã đóng góp nhiều tiền của vào việc xây cất thánh đường, thức khuya dậy sớm tham dự những việc đạo đức, nhưng lại không muốn thấy ai hơn mình và lấy làm vui khi người khác thấp kém hơn ta. Chính vì mối ganh tỵ hẹp hòi đó mà con người sẵn sàng dốc toàn lực để mưu tìm cho bản thân chỗ đứng vững chắc trong xã hội, những mánh mung làm ăn đem lại nhiều lợi nhuận, cho dù phải giẫm lên người khác để mà tiến tới. Và cho đó là khôn ngoan, là hợp lý. Chúng ta có ngờ đâu chính cái khôn ngoan và hợp láy ấy lại đi ngược lại với đường lối đầy tình thương của Thiên Chúa. Thật đáng tiếc khi chúng ta đã làm méo mó bộ mặt của Thiên Chúa. Đã đến lúc chúng ta phải tự vấn xem chúng ta suy nghĩ như thế nào về Thiên Chúa, về tha nhân, về chính mình.
----------------------------------
Vào tối ngày thứ hai, 20.11.2006, khá đông Giáo Dân ở các Giáo Xứ lân cận đã đến Nhà Thờ Chí: TN 25-A86
Vào tối ngày thứ hai, 20.11.2006, khá đông Giáo Dân ở các Giáo Xứ lân cận đã đến Nhà Thờ Chí Hòa để tham dự giờ cầu nguyện do nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễ Du thực hiện. Đặc biệt có một Linh Mục ở Châu Đốc và nghệ sĩ Lê Vũ Cầu chia sẻ về ơn của Đức Mẹ đã ban ( Ảnh chụp ).
Chưa tới 19 giờ mà Giáo Xứ đã đặc kín người, rất trật tự và nghiêm trang. Mở đầu chương trình là phần dâng hoa lên tượng Đức Mẹ Mễ Du được đặt giữa khán đài. Trong phần chia sẻ, Linh Mục Giuse Bùi Trung Châu, chính xứ Châu Đốc, đã nói về một cô gái theo đạo khi lập gia đình, trong khi cầu nguyện cô cảm nghiệm được lời báo của Đức Mẹ cho biết sẽ bị liệt và cô được Đức Mẹ cứu chữa giữa sự chứng kiến của nhiều người.
Sôi nổi và sinh động nhất là phần chia sẻ của nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Trước khi chia sẻ, anh đã nói lên những lời cảm tạ Chúa vì Người đã ban cho anh Đức Tin và nhiều hồng phúc. Anh thấy Chúa đã đồng hành với anh qua một tình yêu thương hoàn hảo; anh thấy Đức Giêsu là vị Lương Y tuyệt vời nhất và anh còn thấy có một người Mẹ Hiền là Đức Maria đã đến bên cuộc đời của anh.
Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu đã bị bệnh viêm gan siêu vi, sơ gan cổ chướng thời kỳ thứ ba, bị hôn mê, không ăn uống, không vệ sinh được. Ở bệnh viện, người ta coi như đã chết lâm sàng, nhiều người chuẩn bị cái chết cho anh khi thấy bụng sưng to, chân bị phù. Song anh được đẩy xe lăn đến trước tượng Đức Mẹ mà khấn xin cho được sống hoặc cho chết không đau đớn, an lành. Khấn xong, anh về nhà vào phòng vắng trốn tránh báo chí và cả những người thân quen.
Có một nhóm anh chị em Công Giáo đến thăm, đặt tay lên người anh cầu nguyện; rồi anh được đưa đến Nhà Thờ cầu nguyện; được Linh Mục và nhiều anh chị em thiện chí nâng đỡ. Bỗng dưng anh ăn được, ngủ được, bụng và chân trở lại bình thường. Anh phấn khởi, năng lui tới Nhà Thờ và xin ghi danh học đạo. Khi buổi cầu nguyện này diễn ra thì chỉ còn ít ngày nữa là anh được trở thành người Kitô hữu.
Nhưng đáng phục nhất là lời cầu nguyện đầu tiên của anh với Chúa: “Chúa ơi, xin ban cho con Đức Tin. Con muốn được ơn tin vào Chúa !” Quả thực, đây là lời cầu nguyện rất chân thành và đáng khâm phục vì những ai chưa biết Chúa mà có được niềm tin thật sự từ sâu thẳm trong lòng là rất khó. Và anh còn tâm nguyện từ nay đến cuối cuộc đời sẽ làm nhiều việc lành phúc đức. ( Theo VietCatholicNews, 22.11.2006 )
Hai năm sau, cơn bệnh tái phát, anh Anrê Dũng Lạc Lê Vũ Cầu về với Chúa tảng sáng ngày 23.9.2008. Lm. An Mai, DCCT, đã khéo léo ví von anh là người thợ giờ thứ mười một, đã vinh dự hưởng đồng lương khá hậu hĩnh của Chủ Vườn.
Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay tường thuật dụ ngôn tuyển thợ làm vườn nho. Những người thợ được tuyển từ sáng sớm bất bình với chủ vườn, đã trả lương hậu hĩnh những người thợ vào làm chiều muộn. Thường lòng đố kỵ, ganh tương, ghen tỵ, hiềm khích luôn xuất hiện, khi thấy kẻ khác được trọng đãi, hay thành đạt, giàu có, giỏi giang hơn mình.
Tình Yêu Thiên Chúa nhân ái, bao dung, quảng đại vô bến bờ, tựa như vòng tròn bất biến vĩ đại bao phủ lên lý lẽ vuông vắn, sắc cạnh, nhỏ nhen, thấp kém của con người. Trong khi thiên hạ lại thường áp dụng cái lý lẽ phiến diện, hà khắc và bất định lồng ra bên ngoài cái tình cá nhân tủn mủn, hạn hẹp, tồi tệ.
Lý người
Lý lẽ, luật lệ, phong tục, tập quán đều là những quy ước của nhân gian dễ thay đổi, dễ biến dạng, thậm chí trái ngược nhau tùy theo dân tộc, thời gian và không gian. Nay hợp lệ, mai thành bất hợp lệ. Xưa cấm đoán việc này, nay xả láng cho tự do. Thế mà thiên hạ cứ cố chấp viện ra lý lẽ, luật lệ nhất thời mà vô tư lên án tha nhân, thoải mái đấu tố, hoặc ném đá vô tội vạ.
Bất bình, ganh tỵ, chấp nhất khi thấy người khác được ưu ái hơn mình, thành đạt hơn, tài giỏi hơn, nổi tiếng hơn, con người còn hay viện dẫn đến sự công bằng mơ hồ, do chính mình áp đặt, mà loại trừ đi tình người, sự thông cảm, bao dung, độ lượng. Thánh Phaolô đã tìm ra căn nguyên sự bất khoan dung: “Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao ?” ( 1 Cr 3, 3 ).
Con người thường nô lệ vào bản ngã, cái tôi ích kỷ, nên tầm nhìn lý lẽ, quan niệm, suy xét chỉ quanh quẩn bảo vệ, quy hướng lợi ích phục vụ cho chính mình. Do vậy, các lý lẽ, nhận xét, phê phán thường khó tránh khỏi chủ quan, lệch lạc, phiến diện. Chính vì thế, có sự khác biệt tương phản, sâu xa, rõ ràng giữa phàm nhân với Thiên Chúa, như lời khẳng định của Ngôn Sứ Isaia: "Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi và đường lối các ngươi không phải là đường lối Ta... Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy” ( Is 55, 8 – 9 ).
Tình Chúa
Thiên Chúa dào dạt yêu thương tạo vật, con người. Dù con người đã bất nghĩa, bất tín, bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, đã ban Con Một nhập thể cứu chuộc nhân loại. Tình Yêu Thiên Chúa vượt xa giới hạn lý luận của con người. Khi bỏ lại 99 con chiên, đi tìm một con chiên lạc mất, Ngài đã bất chấp sự khôn ngoan trần thế, vượt qua lý luận toán học, vượt qua sự tính toán nhỏ mọn, hơn thiệt của con người, chỉ vì Tình Yêu.
Thánh Phaolô đã lý giải sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn, để hạ nhục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian cho là hèn mạt, không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” ( 1 Cr 1, 28 – 29 )
Khi tha thứ cho người tử tội cùng chịu đóng đinh, Đức Giêsu chẳng hề tra hỏi về quá khứ, chẳng hề tính toán bao nhiêu lần vấp phạm. Người quên hết mọi tội lỗi chồng chất, khi phạm nhân biết sám hối, biết trở về Lòng Thương Xót. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng !” ( Lc 23, 43 ).
Khi trả công cho những người thợ giờ thứ 11, Chủ Vườn chẳng tính toán hơn thiệt, làm được nhiều hay ít, mà căn cứ vào tấm lòng chân thành, thiện chí, mà hoan hỷ trả công.
Đừng nói nhiều, làm ít, hoạt động dài, cầu nguyện vắn, nhận rộng rãi, cho hẹp hòi, khoan dung cho mình, khắt khe với người. ( Đường Hy Vọng, số 304 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn biết tôn trọng, yêu mến tha nhân, dù họ đức độ, tài năng giỏi giang, giàu có hơn chúng con. Xin cất đi khỏi lòng chúng con sự tỵ hiềm, ganh ghét, đố kỵ, chia rẽ, mà biết sống hòa đồng, chan hòa yêu thương, cùng biết cảm tạ Chúa đã ban cho họ và cho chúng con biết bao hồng ân, nhất là được biết Chúa, tin Chúa và theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương khiêm nhường và nhân ái, xin dạy chúng con luôn biết quan tâm, gần gũi, hòa nhã với tất cả mọi người, kể cả những người trổi vượt hơn chúng con nhiều mặt, để chúng con xứng đáng làm con Chúa. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lần người thầy của tôi đã nói: “Nếu ai có tính ghen tỵ là tự hành hạ và tự đầy đọa chính TN 25-A87
Có một lần người thầy của tôi đã nói: “Nếu ai có tính ghen tỵ là tự hành hạ và tự đầy đọa chính mình. Nó giống như có một con rắn độc trong tim, nên không bao giờ có thể yên vui để thưởng thức mọi niềm vui và hạnh phúc trên đời”
Đó cũng là nỗi đau của bà dì ghẻ của nàng Bạch Tuyết năm xưa. Bà đã sống trong đau khổ khi cố dùng mọi mưu trí hèn hạ để hại người, nhưng rút cuộc “gậy ông lại đập lưng ông”, chính bà nuốt nỗi khổ đau của sự thất bại suốt đời.
Nhưng đáng tiếc, sự ghen ghét, đố kỵ hầu như có mặt ở mọi nơi. Sự ghen ghét có thể ở trong mọi thành phần, mọi giai cấp. Sự ghen ghét thể hiện rất rõ trong những lần trà dư tửu hậu. Trong các quán café. Trong những quán cóc ven đường. Khi có vài người tụ tập thường là có sự ghen ghét nảy sinh. Vì dường như ai cũng có tính ghen ghét người khác hơn là khâm phục, khích lệ lẫn nhau.
Khi ai đó bàn luận về một người nào đó vừa đẹp, vừa tài năng lại vừa hạnh phúc, thì sẽ có ngay kẻ phán rằng, hạnh phúc đó là tạm thời, giả tạo. Và rồi, là tìm hiểu, moi móc, rêu rao khiếm khuyết của họ.
Sự ghen ghét khiến chúng ta không muốn người khác bằng mình và đương nhiên không bao giờ chấp nhận người khác hơn mình. Đôi khi còn đạp đổ để ai đó không có cơ hội phát triển thêm.
Sự ghen ghét còn ẩn chứa trong cả lời cầu nguyện khi không muốn người khác gặp may lành, và điều tệ hại là còn muốn anh em gặp sự dữ như câu chuyện vui sau:
Chuyện kể rằng có người đàn ông rất may mắn, được Trời cho ước gì được nấy. Tuy nhiên, đi kèm với sự may mắn đó là điều kiện: Bất cứ điều gì ông ta ước, người hàng xóm sẽ có gấp đôi. Thế là khi ông ta sở hữu ngôi nhà đẹp, người hàng xóm liền có một dinh thự lỗng lẫy. Ông ta ước mình giàu có, người hàng xóm có hẳn một mỏ vàng… Không chịu được sự "bất công" đó, người đàn ông may mắn liền ước mình bị mù một mắt để người hàng xóm bị mù cả hai!
Chính lòng đố kỵ đã tạo nên sự nhỏ nhen, biến thành cảm giác hận thù và suy nghĩ mù quáng cho ông ta: thà kém may mắn hơn một chút để người khác đau khổ hơn mình thay vì chọn điều ngược lại.Hôm nay, Chúa trách những người làm công vườn nho: “chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là các ông vì thấy tôi tốt bụng mà đâm ra ghen ghét?
Chúa trách là đúng. Vì ai Chúa cũng ban cho có phần, nhưng lại không muốn người khác được phần bằng mình. Khi tính ích kỷ ghen ghét đã lấn át. Cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân. Ai cũng cần cuộc sống được khá hơn, được thoải mái hơn, nhưng chúng ta lại không chúc phúc cho họ mà còn dèm pha và đạp đổ họ.
Thiên Chúa thì không như vậy. Tình yêu của Chúa vượt qua mọi tính toán thiệt hơn theo kiểu con người. Ngài không ban phát theo lẽ công bằng thường tình mà do lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài ban phát cho người thợ giờ thứ nhất cũng bằng người thợ thứ mười một, miễn là họ đã hoàn thành công việc được giao, với tất cả trách nhiệm và thiện chí của mình.
Điều này còn là dấu chỉ cho tình thương cứu rỗi của Thiên Chúa. Ngài sẽ cứu độ mọi người. Ngài dành tình thương cho mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng được cứu rỗi. Tình thương Chúa vẫn dành cho mọi người, nhưng điều quan yếu là họ đã đáp lại lời Chúa. Họ đã sống lời Chúa. Dù chỉ là thời gian ngắn thì họ vẫn được Chúa ban phúc thiên đàng cho họ như bao người tín hữu khác. Họ phải luôn khoác trong mình chiếc áo của ân sủng, chiếc áo của hiệp nhất trong Chúa thì không bị loại ra khỏi bàn tiệc.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra tình thương của Chúa vẫn dành cho chúng ta, dù rằng chúng ta không xứng đáng để nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết vui với người vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen tương, ích kỷ nhỏ nhen thường tình. Amen.
----------------------------------
Chúa Giêsu trình bày một dụ ngôn với khung cảnh quen thuộc đối với những người đương thời là: TN 25-A88
Chúa Giêsu trình bày một dụ ngôn với khung cảnh quen thuộc đối với những người đương thời là việc chăm sóc vườn nho. Đây là thời gian thu hoạch trái nho; lúc này cần nhiều thợ. Do đó, ông chủ vườn nho phải đi mướn thêm thợ, từ lúc đầu ngày cho đến khi chỉ còn một giờ nữa là kết thúc.
Thay vì sai người quản lí, ông chủ đích thân đi ra chợ và gặp những người thợ (c. 8). Năm lần bảy lượt, ông ra chợ từ sáng sớm cho đến chiều tàn. Gần hết ngày mà vẫn còn có những người đứng chờ để được thuê mướn, bởi vì không có ai thuê họ (c. 7). Mỗi lần ông đều mời gọi: “Hãy vào làm vườn nho cho tôi”.
Được Chúa gọi vào làm vườn nho là một vinh hạnh và là niềm hạnh phúc tuyệt vời. Trong toàn bộ Cựu Ước cũng như đối với những thính giả đầu tiên nghe Chúa giảng, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5, 1- 7; Gr 2, 21; Ed 17, 6; Os 10, 1; Tv 78, 9. 16). Do đó, vườn nho là một nơi hạnh phúc, một chỗ sum họp, một chốn hiệp thông. Hình ảnh ông chủ tất tả ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh Thiên Chúa yêu thương. Người không ngừng tìm chúng ta và mời gọi chúng ta đi vào hiệp thông với Người; Người dành cho chúng ta một sự ưu ái đặc biệt; Người cho chúng ta được hiện diện với Người; Người kí kết với chúng ta một giao ước; Người tín nhiệm giao vườn nho quý giá cho chúng ta; Người tạo cho chúng ta được cùng làm việc với những bạn thợ khác; Người phá vỡ cho chúng ta cái bế tắc đã trở thành “ám ảnh” đối với con người thời nay: thất nghiệp! Trong Kinh Tiền Tụng VI Thường Niên, chúng ta đọc: “Trong Chúa, chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động.”
Chúng ta đã nhận được quá nhiều ơn huệ trọng đại của Chúa. Chúa yêu thương chúng ta trong chính tình trạng hiện tại của chúng ta. Người không hề dò hỏi lí lịch quá khứ và “khả năng nghiệp vụ” của chúng ta. Thật vậy, nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban ơn, chúng ta chỉ là những kẻ thất nghiệp đứng lẻ loi bên lề đường cuộc đời trong thân phận người hành khất. Ân huệ xuất phát từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của chúng ta. Do đó, chẳng ai có quyền đòi hỏi, nhất là ơn Chúa ban lại vượt quá điều chúng ta mong ước.
Chúng ta không được so đo về các ân huệ của Thiên Chúa và than trách Người vì tưởng rằng ta nhận được ít. Chúng ta phải chu tòan nhiệm vụ và đón nhận với tất cả lòng biết ơn những gì Người ban cho chúng ta. Chúng ta cũng phải tôn trọng tự do và lòng nhân lành của Chúa, cho dù ơn ban không liên hệ đến chúng ta, mà liên hệ đến người thân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã gọi chúng con vào làm việc trong vườn nho của Chúa là Hội Thánh. Xin giúp chúng con luôn là những người thợ cần mẫn, biết tận dụng mọi khả năng và ân huệ Chúa ban mà phục vụ tha nhân, hầu xứng đáng lãnh nhận phần thưởng.
Gợi ý chia sẻ:
- Bạn học được những gương sáng nào nơi ông chủ?
- Bạn hiểu được tình thương của Chúa qua dụ ngôn này như thế nào?
Lm. Giuse Ngô Quang Trung, Long Xuyên.
----------------------------------
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN
Mt 20, 1-16
Lm Đa minh Đỗ Văn Thiêm Long Xuyên
Có con người là có ghen tị. Từ ngay thuở hồng hoang lịch sử nhân loại, lúc nhân loại mới có tí người: TN 25-A89
Có con người là có ghen tị. Từ ngay thuở hồng hoang lịch sử nhân loại, lúc nhân loại mới có tí người, sự ghen tị đã có mặt. Cain vì ghen tức đã giết chết em mình là Abel. Mười anh em con Giacob, vì ghen tị, đã âm mưu giết em mình là Giuse. Saulê ghen tức với Đavid, vì Saulê giết được một ngàn, Đavid giết được một vạn. Các cô thiếu nữ Do Thái hát to thế giữa đường, cho nên Saulê đã tức giận, mà tìm mọi cách để giết Đavid.
Lòng ghen tị có mặt ở khắp nơi, trong mội tổ chức, trong mọi hội đoàn, trong mọi tập thể. Nó đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ và đổ vỡ cho con người. Trong một góc độ nào đó, lòng ghen tị, chính là sự biến đổi gien đột ngột của lòng tự ái. Sự vượt trội của người kia, như làm phủ lấp giá trị của mình. Cho nên phải vùng lên, kéo hạ người kia rơi xuống, không được thì triệt hạ đối thủ bằng mọi cách. Nói cách khác là không muốn, không chấp nhận người khác hơn mình. Nhìn thấy, đấy là một trong những nguyên nhân gây đau khổ cho con người. Cho nên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thầy Chí Thánh Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn, để dạy về bài học này. Câu chuyện rất hay và vô cùng thực tế. Đúng ở mọi ngóc ngách trong xã hội con người.
Người được thuê làm từ sáng sớm, đến người ba bốn giờ chiều mới vào làm, tất cả mỗi người cũng đều chỉ được một đồng. Và những người làm từ sáng đã phản đối với ông chủ, bảo rằng ông ông đã xử sự bất công. Thực ra nói thế là oan cho ông chủ, là phủ nhận tình thương mà ông chủ đã dành cho họ. Họ quên mất một điều quan trọng này là: Họ được gọi vào làm là do tình thương của ông chủ. Nếu không thương, ông chủ đã không gọi họ vào làm. Họ đã vui, vì được làm với giá một đồng mà hai bên đã giao kèo. Thế nhưng, bây giờ thì họ quên, quên khuấy mất cái tình thương mà ông chủ đã dành cho họ, cũng như quên khuấy mất lời giao kèo vừa gật đầu với nhau. Họ quên vì lòng ghen nổi lên, để bắt đầu bì tị với những người đến làm sau.
Rắc rối và buồn cười thật cõi lòng của con người. Nói ra thì bẽ bàng! Nó còn bẽ bàng hơn nữa, khi lòng ghen tị còn lan sang cả đời sống tâm linh. Có người đã lấy làm khó chịu, bực dọc, vì mình đã mất công, mệt nhọc, vì phải giữ đạo từ nhỏ, rồi thì cũng chỉ được vào thiên đàng. Cũng như những người cả đời hoang đàng, lêu lỏng, bặm trợn, cuối cùng thì ăn năn hối cải, mà điển hình là tên trộm bên phải trên núi Sọ. Thực ra được vào thiên đàng là một hồng ân nhưng không to lớn của lòng thương xót Chúa. Chứ công phúc của ta, nào có nghĩa chi đâu?
Gợi ý suy niệm:
1- Trước thành công của người khác, bạn đã có thái độ nào?
2- Có khi nào bạn cầu nguyện cho kẻ mình không ưa?
-------------------------------
Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Do Thái. Có chăng thì ở khu vực: TN 25-A90
Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Do Thái. Có chăng thì ở khu vực Cam Ranh Nha Trang, nhưng cũng không nhiều. Còn đại đa số là những cánh đồng lúa; hoặc những khu rừng cao su, tiêu, cà phê hay điều... Vì thế, hình ảnh vườn nho có vẻ hơi xa lạ trong tâm thức đối với đại đa số người dân Việt.
Nhưng dù biết hay không thì cách thức chi trả lương cho những người làm thuê cũng có nhiều điểm tương đồng với những người làm công trong vườn nho của người Do Thái.
Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm. Vì thế, dù chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, kinh nghiệm hay mới vào nghề, và tham gia làm vườn giờ nào...! Nhưng chiều đến, khi lĩnh lương, tất cả họ đều giống nhau. Tại sao vậy? Ông chủ có bất công không?
Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân tại sao? Và Đức Giêsu có lý gì khi kể dụ ngôn này?
1. Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho?
Trước tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của vườn nho mà Đức Giêsu muốn nói tới ở đây.
Vườn nho được Đức Giêsu kể trong dụ ngôn chính là hình ảnh của Giáo Hội. Vườn nho ấy đến mùa thu hoạch, chính là sứ mạng truyền giáo đang cấp bách, điều này được bổ túc thêm khi Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”.
Thứ đến, người mời gọi là chính Thiên Chúa. Người gọi hết mọi người, không phân biệt tốt xấu, giỏi hay dốt, thành phần nào, già hay trẻ... Nhưng Người gọi bất cứ ai Người muốn! Cách thức này Đức Giêsu muốn thay đổi quan niệm nơi người Do Thái, họ chỉ coi là mình họ được cứu độ, còn những dân tộc khác thì không, họ tỏ ra khinh bỉ hay ghen tức với cách hành xử của Đức Giêsu với những người không thuộc Do Thái, vì thế, Đức Giêsu mới nói: "Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?"; “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” Thật vậy, Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Do Thái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém.
Tiếp theo, cách thức trả lương. Người không trả lương theo kết quả công việc. Cũng không trả lương theo kiểu làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Mà Người trả lương cách đồng đều theo sự thỏa thuận lúc ban đầu. Tức là một đồng cho tất cả mọi người. Người đến sớm cũng như kẻ đến muộn, người giỏi cũng như dốt, người già cũng như trẻ... Cách thức này cho thấy lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Thiên Chúa dành cho hết mọi người chứ không phải chỉ dành cho một số người đặc tuyển. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.
2. Hiểu và thực hành sứ điệp Lời Chúa
Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội và đều có trách nhiệm tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Thật vậy, tính phổ quát của của ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho chúng ta người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước, không trừ ai. Đồng thời, Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu. Vì thế:
Trước tiên, cần loại bỏ thái độ tự tôn, kiêu hãnh và coi thường người khác vì nghĩ rằng mình thuộc thành phần đương nhiên được cứu độ, còn người khác, họ chỉ là đám dân thường, tội lỗi, dốt nát, nên không cần quan tâm. Cũng cần có sự cảm thông, cộng tác để cùng nhau làm việc thiện thay vì ganh đua, ghen tỵ khi thấy người khác tốt lành hơn mình, hoặc người ta làm được nhiều điều hữu ích hơn chúng ta.
Tốt hơn là hãy ý thức mình chỉ là đầy tớ bất tài, vô dụng, nhưng lại được Chúa thương chọn và gọi để đi làm vườn nho cho Người. Vì thế, hãy dâng lời tạ ơn Chúa và cố gắng với khả năng của mình, làm sinh lợi nén bạc Chúa trao trong sự yêu mến với lòng nhiệt huyết tông đồ.
Thứ đến, hãy kiên trung, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng thất vọng vì thấy mình không giỏi giang hay tội lỗi. Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa luôn để ý đến những người“đứng chót”. Phần còn lại là của chúng ta, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa trong sự khiêm tốn, ắt Chúa sẽ trả công hậu hĩnh và Người sẽ làm những điều kỳ diệu khi: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.
Hiểu được tình thương của Thiên Chúa như thế, hẳn chúng ta thấy Thiên Chúa rất công bằng do lòng nhân từ của Người chứ không bất công như chúng ta đã lầm tưởng!
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn và yêu mến Chúa tha thiết. Biết gắn bó với sứ mạng truyền giáo trong Giáo Hội. Luôn tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với bổn phận của mình. Amen!
Jos. Vinc. Ngọc Biển
-------------------------------
Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi: TN 25-A91
Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không phải là đường nẻo của các ngươi. Với dụ ngôn những người thợ giờ thứ mười một, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa đường lối và cách cư xử của Chúa.
Thật vậy, một người chủ thuê thợ vào làm trong vườn nho của mình. Những người thợ này được thuê vào những giờ giấc khác nhau. Những người được thuê vào sáng sớm với giá thoả thuận là một quan tiền một ngày. Những người thợ khác thì được thuê vào giờ thứ ba, giờ thứ sáu và giờ thứ chín. Nhưng cũng có những người được thuê vào giờ thứ mười một, nghĩa là vào một thời điểm rất muộn. Tuy được thuê vào các giờ khác nhau, nhưng họ lại kết thúc công việc trong cùng một lúc. Như thế, số giờ làm việc có khác nhau, nhưng số tiền mọi người lãnh được lại bằng nhau, kẻ đến sớm cũng như người tới muộn, mỗi người đều nhận được một quan tiền, theo sự thoả thuận giữa ông chủ và những người thợ được thuê sớm nhất. Cách đối xử của ông chủ đã làm cho những người đến muộn vui mừng, nhưng lại tạo nên sự bất mãn nơi những kẻ được thuê từ sáng sớm. Bất mãn vì không được hơn người tới muộn, mà cũng có thể là bất mãn vì người tới muộn cũng được lãnh như mình. Và ông chủ đã trả lời cho những kẻ bất mãn về lý do hành động của ông như sau: Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn hay sao?
Những ám chỉ của dụ ngôn thật rõ ràng: Ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa. Những người thợ được thuê từ sớm là những người Do Thái. Còn những người thợ giờ thứ mười một là tất cả các dân tộc khác, được gọi là dân ngoại. Dụ ngôn là câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người biệt phái và Do Thái, từng kêu trách về sự ưu đãi của Chúa đối với những người họ gọi là dân ngoại. Đồng thời qua đó Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa thì vượt lên trên tất cả những loại trả công của nhân loại. Tuy nhiên, không phải vì thế mà hành động của Ngài lại mang tính cách tuỳ tiện và bất chấp sự công bằng. Đối với Nước Trời, không có vấn đề buôn bán hay trả giá, mà hoàn toàn chỉ vì lòng nhân từ và thương xót của Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Là những người thuộc về một gia đình đạo gốc và bản thân vốn lại là người siêng năng sốt sắng, trung thành tuân giữ mọi điều răn, có thể là từ nhỏ cho tới lớn, chúng ta nhiều khi tự cho mình cái quyền được hưởng những ân huệ của Chúa hơn những người khác, nhất là những người chẳng hề biết đạo và thực hành đạo như chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý một điều: Thiên Chúa là Đấng yêu thương và Ngài đối xử với mỗi người chúng ta quá lượng chúng ta có thể mong ước và mường tượng ra được. Bởi đó thái độ căn bản sẽ là cõi lòng biết ơn và vui mừng trước những gì Thiên Chúa ban cho người khác, cũng như ban cho chính bản thân chúng ta.
-------------------------------
Có lẽ ai trong chúng ta cũng ngạc nhiên trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn TN 25-A92
Có lẽ ai trong chúng ta cũng ngạc nhiên trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho nay không ai khác hơn là hình ảnh của chính Chúa Giêsu mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. Thiên Chúa không chỉ công bằng nhưng mà còn là Thiên Chúa xót thương.
Người chủ vườn nho thật hào phóng, ông ta vượt lên trên lẽ công bằng mà đúng hơn ông ta muốn thể hiện lòng xót thương. Ông ta xót thương cho số phận người ta, số phận của người thất nghiệp. Ông ta xót thương người ta nên đã thuê những người thợ. Vì xót thương nên ông ta quảng đại thuê luôn kẻ làm giờ thứ mười một, một người có thể gọi là thất nghiệp. Đối với người thất nghiệp này, ông chủ không hề tính toán so đo, không hề nghĩ ngợi lợi ích công việc cho mình, ông xót thương số phận người thất nghiệp, thương người thất nghiệp nhiều hơn, vì chiều nay rất có thể người thất nghiệp sẽ trở về nhà với đôi bàn tay trắng, không có tiền thì gia đình anh có thể sẽ chết đói, vợ con sẽ lên giường ngủ với cái bụng cồn cào vì không có tiền mua thức ăn.
Giống các người được thuê theo giá thoả thuận vào giờ thứ nhất, chúng ta cũng có lý không đồng ý với lòng xót thương của chủ vườn nho. Chúng ta có lý khi mình đã đến sớm và thoả thuận công việc và tiền công với ông chủ. Chúng ta có lý vì chúng ta đã vất vả đến sớm, nhọc nhằn vì công việc suốt ngày không mấy dễ dàng... chúng ta dễ so đo tính toán hơn thua với người thợ làm vào giờ thứ mười một, chúng ta không mấy thiện cảm cho những người bê trễ, lười biếng thậm chí ghét luôn với những người vào giờ chót ăn năn trở lại, vào giờ chết mới vào đạo, xin được rửa tội... lắm khi chúng ta vừa làm việc vừa than trách, kêu ca công việc nặng nhọc, vừa giữ đạo vừa phàn nàn Chúa, than thở các vị mục tử...không đáp ứng theo ý mình. Giữ đạo nhưng chúng ta dễ quên thậm chí không nhận ra Chúa đang thương chúng ta, nâng đỡ, che chở, chúc lành và thậm chí chúng ta quên ngay việc Chúa quá thương chúng ta nên tha thứ tội lỗi cho chúng ta, quên luôn không còn nhớ lỗi lầm dĩ vãng. Nếu chịu khó nhìn lại một chút, nhìn lại cuộc đời mình, chắc chắn chúng ta sẽ giật mình khi thấy mình giống người thợ làm vườn nho vào các giờ đầu tiên, đến sớm hễ đói thì được nuôi cơm sáng, có khi còn có bánh lót dạ thêm, rồi còn có càfê, có thuốc lá mà hưởng...Khi đến buổi trưa nếu đã làm cho chủ này thì ắt hẳn phải có được bữa cơm no nê, chưa kể hưởng thêm chế độ nước trà và bánh ngọt nữa chứ. Thế mà giống như những người này kêu ca, chúng ta ở trong Hội Thánh, hưởng nhờ ân sủng Chúa qua Hội Thánh, đón nhận nhiều thật nhiều hồng ân của Chúa, mỗi bí tích chúng ta lãnh nhận, mỗi Thánh lễ mà chúng ta cùng nhau cử hành, mọi phước lành của Chúa qua tay Mục tử mà chúng ta đang hưởng nhờ, tình yêu và lòng thương xót của Chúa mà chúng ta đang thụ hưởng, sự nhiệt tình và lòng quảng đại của Hội Thánh trao ban cho chúng ta hằng ngày,..và còn rất rất nhiều thứ khác nữa mà chúng ta không kể xiết. Chúng ta có biết trân trọng và biết ơn về điều đó không?
Đang khi chúng ta có còn những người khác thì chưa chắc họ có được như chúng ta. Nếu một người ăn năn trở lại vào giờ chót, hay một người mới biết Chúa rồi chết, một người vừa được rửa tội rồi qua đời...thử hỏi xem họ được đón nhận như chúng ta không. Từ cái nhìn, lối suy nghĩ dẫn chúng ta đi đến một thái độ ứng xử thiếu tình thương, thiếu tình người, thiếu tình của Chúa yêu thương chúng ta.
Quả thật, chúng ta nhìn nhận lòng thương xót của ông chủ này vô bờ bến. Hẳn nhiên, nếu người ta làm ăn theo kiểu này thì thất bại là cái chắc, và việc "phá sản" công ty là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, lòng ông chủ thương xót người, lo cho mọi người bằng chứng là ông trả tiền công nhật đúng theo như đã thoả thuận, ông lo cho ăn uống chu đáo bằng chứng là họ không phàn nàn gì hết mà họ chỉ thắc mắc lòng thương xót của ông chủ đối với người thợ làm vào giờ chót.
Chúng ta cũng hiểu được phần nào ông chủ này là hình ảnh mà Chúa Giêsu muốn nói đến chínhn là Thiên Chúa. Thiên Chúa đối xử không giống con người nhưng Ngài đối xử theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Ngài. Vì thế chúng ta cũng không lạ gì Isaia đã nói về Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta: "Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu".
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều thì người làm một giờ cuối trong câu chuyện trên có đủ lương nuôi sống cả gia đình không, hay con cái của họ đang túng thiếu, nghèo đói,...Chính vì lòng thương xót, vì thông cảm hoàn cảnh nghèo đói của người ta, hơn nữa vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm vườn nho cho mình vào bất cứ giờ nào và trả tiền cho họ bằng nhau, người đến sau cũng bằng với người đến trước. Rõ ràng ông chủ không muốn đối xử với người ta theo tương quan mua bán, tính toán nhưng theo tương quan tình thươn và lòng nhân hậu. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta cũng hãy bắt chước để đối xử với đồng loại như chính ông đã đối xử.
Chúng ta không mong mình là người đến sau. Chúng ta đã là người đến trướcnên chúng ta hãy biết cảm tạ ơn Chúa và quyết tâm làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa và cũng biết thể hiện tình yêu, lòng thương xót và sự chia sẻ cho tha nhân của mình.
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng cho họ. Người công chính đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị và kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ một ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu.
Thiên Chúa chúng ta thật là rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối nhỏ bé, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái họ có hơn mình hay cài mình không có, để bực tức ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt trên mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hoà tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì con tim nghèo nàn của chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có trái tim của Chúa, biết xót thương mọi người và sống yêu thương mọi người. Amen.
-------------------------------
Giữa một xã hội đề cao lợi nhuận và chú trọng đến năng suất, người ta chỉ ưa của chuộng công, muốn TN 25-A93
Giữa một xã hội đề cao lợi nhuận và chú trọng đến năng suất, người ta chỉ ưa của chuộng công, muốn lợi cho bản thân mà chẳng cần quan tâm đến người khác! Chúng ta, những Kitô hữu luôn được mời gọi đi theo đường lối của Thiên Chúa, suy nghĩ và hành động theo Tin Mừng. Vì Nước Trời chỉ dành cho những công dân biết hành xử đầy tình nghĩa và tốt bụng như Gia Chủ trong "Dụ ngôn thợ làm vườn nho" mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta.
Chắc chắn Chúa không muốn ủng hộ thực tế bất công của xã hội đã không trả cho những người thợ theo công việc họ làm, và Người cũng chẳng muốn xác định một mức lương độc đoán hoàn toàn theo cách của chủ nhân. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng gia chủ trong dụ ngôn không phải là một ông chủ bình thường theo thói đời. Bởi vì người ta không bao giờ thuê những người thợ chỉ làm 1 giờ trước khi kết thúc công việc của họ. Ở đây, mở đầu dụ ngôn, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết "Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình."(20,1) Vâng, đây là dụ ngôn về Nước Trời, thế nên "Vườn nho" này đã cho chúng ta nhớ lại "Bài ca vườn nho" biểu tượng mà Cựu ước và cả những thính giả của Chúa Giêsu đều hiểu rõ "Vườn nho" của Thiên Chúa, đó là Israel-dân được chọn, được ký kết Giao ước (x. Is 5,1.7)
Chính vì Thiên Chúa đã muốn dẫn dắt dân vào trong lãnh địa của Ngài, muốn họ được hạnh phúc và chung hưởng niềm vui của Ngài. Vì thế, mà gia chủ vẫn lại trở ra tìm mướn thợ dù đã 9 giờ, giữa trưa, 3 giờ hay 5g chiều "Gia chủ kia vừa tảng sáng đã ra mướn thợ...Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín ông lại trở ra... Khoảng giờ mười một, ông trở ra và..." (20,1-6) Chúng ta biết rằng việc thuê những người thợ này không phải là cho lợi ích của chính gia chủ, nhưng đây là một ông chủ đã hết sức bận tâm về tình trạng của những người thợ thất nghiệp "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" Thiên Chúa- Gia chủ vườn nho là Đấng trung thành, Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong tình trạng sầu khổ, nghèo nàn. Thiên Chúa yêu thương và quan tâm chúng ta với một tình yêu vô tận, ngay cả chúng ta yếu hèn tội lỗi cũng không ngăn cản Ngài yêu chúng ta và tìm kiếm chúng ta. Dẫu cho bao lần chúng ta cảm thấy như Ngài quên chúng ta khi ta đau khổ và bơ vơ, nhưng Chúa ở đó, vẫn đến và tìm gặp chúng ta, dẫn chúng ta vào trong vườn nho của Ngài dù cho có muộn màng.
Thực tế cuộc sống sẽ chẳng bao giờ có chuyện ông chủ đi tìm thuê thợ như vậy, và hơn nữa lại tốt lành tính công 1 giờ bằng một ngày "Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền." (20,9) Oái oăm thay những người vào làm sau cùng cũng lãnh một đồng như người vào làm trước nhất! Gia chủ này thật lạ, tấm lòng ông đầy nhân hậu, ông ưu tiên những người nghèo khổ, ông đặt những người cuối lên hàng đầu... Và điều đó chỉ có nơi Thiên Chúa Nhân Lành. Còn con người thì ngược lại, tư tưởng và hành động chất chứa đầy ganh tị. Nhìn ai hơn mình là khó chịu, là hằn học. Thậm chí chẳng liên quan đến mình hoặc mình không thua thiệt mà vẫn ghen tương "Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ..." (20, 9-11) Đối với Thiên Chúa, không có chuyện đặc quyền, đặc lợi. Đã được mời gọi, thỏa thuận và đồng ý thì sao lại phải so bì tính toán khi mình đã được lãnh nhận đủ phần của mình?
Trong Lịch Sử Cứu Độ, dân Israel là dân đã được mời gọi và hưởng ân huệ của Vườn Nho Thiên Chúa sớm nhất, còn những dân tộc ngoại bang là những người cuối cùng được mời đến, cũng được đối xử bình đẳng với Dân của Chúa. Chính vì vậy, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần làm nổi bật lên hình ảnh của những người nghèo, những người bị gạt ra lên xã hội và tôn giáo, những người "đứng chót". Thiên Chúa- Chủ Vườn Nho đã đối xử với chúng ta như người Cha đầy tình nghĩa yêu thương, quảng đại vô cùng với tất cả mọi người "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho những người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?" (20,13-15) Đây là bài học trọng tâm của dụ ngôn này. Và đây cũng là bức chân dung tuyệt vời mà Chúa Giêsu mô tả cho chúng ta về Chúa Cha:
- Một Thiên Chúa, Đấng yêu thương cả những kẻ đứng đầu và đứng chót, muốn dẫn đưa tất cả vào trong hạnh phúc của Ngài... Một Thiên Chúa, Đấng tuôn đổ ân huệ của Ngài trên tất cả và không ngừng mời gọi họ... Một Thiên Chúa, Đấng khoan dung và nhân hậu, không bao giờ bị chi phối vì lỗi lầm của chúng ta, nhưng Ngài trao ban một cách rộng rãi, không tính toán... Một Thiên Chúa, Đấng loại bỏ bất cứ ai đòi quyền lợi bằng cách ngăn cản người khác hưởng lợi ích...
Dụ ngôn này giúp chúng ta khám phá ra một điều cốt yếu: Ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta hoàn toàn nhưng không và chẳng cân xứng với công trạng nghèo nàn của nhân loại chúng ta. Chúng ta sẽ làm được gì hay hy vọng vào điều gì nếu ta chỉ cậy dựa vào tài sức của mình? Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi vào trong Vườn Nho Giáo Hội, chúng ta đã đón nhận hết ơn này đến ơn khác và chờ đợi tất cả nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương và muốn chúng ta được hưởng hạnh phúc với Người. Vậy Chúa cũng mời gọi và muốn chúng ta mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu, mang lấy cung cách hành xử theo văn hóa của Nước Trời là sống tình nghĩa yêu thương bao bọc nhau, quảng đại đón nhận mọi người như anh chị em con cùng một Cha. Có như thế, chúng ta dù là kẻ đứng chót sẽ được trở nên hàng đầu và được trở thành công dân của Nước Trời- Nước Tình yêu. Xin Chúa giúp chúng ta biết cộng tác trong sứ mệnh mở rộng Nước Chúa ngay tại quê hương Việt Nam thân yêu này mới chỉ có hơn 7% người Công Giáo, bằng cách chúng ta giới thiệu, mời gọi, dẫn dắt anh chị em đến với Chúa là Gia Chủ để rồi họ cũng được nhận vào Vườn Nho của Chúa và được hưởng ân phúc cứu độ mà Chúa luôn dành sẵn cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến tìm và sai chúng con vào vườn nho của Chúa. Xin ban cho chúng con ánh nhìn yêu thương và tấm lòng nhân hậu, để chúng con biết "ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Chúa" và thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
-------------------------------
Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa"(Lc 18,19). Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt TN 25-A94
"Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa"(Lc 18,19). Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt lành vô cùng, Ngài đối xử khoan hồng với con người, không tính thiệt hơn cho mình như loài người thường làm. Vì yêu thương nhân loại, Ngài vui lòng trao ban cho loài người ngay cả người Con Một yêu dấu của mình. Loài người chỉ có thể đáp trả bằng tấm lòng biết ơn và vâng giữ lời Ngài dạy.
Trong cuộc sống hằng ngày, quan niệm "tiền trao cháo múc", "bánh ít đi bánh qui mới lại", công khó phải được đo lường là bình thường. Thiên Chúa thì khác, Ngài đối xử rất tốt với con người. Ngài luôn tỏ ra quãng đại, cho đi nhưng không, không chấp lỗi loài người một chỉ muốn loài người được những điều tốt đẹp nhất. Ngài muốn cho loài người điều quí giá nhất là sự sống đời này và đời sau, Ngài ghi nhận mọi việc làm tốt của chúng ta ở đời này để thưởng công cho. Tuy nhiên, Ngài rất nhân từ, một người vừa mới được Rửa tội, hoặc mới trở lại cũng được Chúa hứa ban cho nước Thiên Đàng vì thực ra Chúa ban phần thưởng thiên đàng vì lòng thương chứ không phải vì công trạng của chúng ta.
Chúa biết rõ lòng mỗi người chúng ta chứ không theo lẽ bề ngoài mà xét đoán. Thật ra, tôi giữ đạo bao nhiêu năm nay nhưng đức tin, cậy mến đã tiến triển bao nhiêu? Tôi thường tự hỏi mình: tôi có làm mọi việc vì yêu mến Chúa chưa hay chỉ cậy sức mình. Sau khi làm xong việc gì, tôi có nhận ra tất cả là nhờ ơn Chúa hay tôi lại qui mọi thành quả về mình. Khi tôi làm việc lành, Chúa có phải nói với tôi câu: con đã được thưởng công rồi! (Mt 6,2.5)
Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cộng tác vào công việc của Ngài: thăng tiến xã hội loài người, phát triển bản thân và chinh phục vũ trụ này. Chúa không cần chúng ta ca ngợi hay làm cho Chúa điều gì nhưng vì Chúa muốn con người càng ngày càng trở nên giống chúa hơn, xứng đáng hơn trong địa vị làm con Chúa và được ơn cứu độ.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào Giáo hội cũng vì thương chúng ta, không phải vì bản thân Ngài, cũng không phải công lao của chúng ta nhiều hay ít. Chúng ta không có quyền đòi Chúa phải cho mình nhiều hơn những người khác nhưng biết phục vụ và Chúa sẽ ban phần thưởng xứng đáng. Chúa rất nhân từ nhưng cũng rất công bằng, không để ai phải thiệt thòi. Ông chủ trong dụ ngôn đã làm đúng theo thoã thuận với những người làm công. Sở dĩ chủ trả cho người đến sau ngang bằng những người kia vì Chủ có lòng nhân hậu chứ không bỏ lời đã hứa với những người đến trước. Chúa muốn dạy chúng ta học biết lòng nhân từ của Chúa, đừng dùng suy đoán của loài người mà đánh giá công việc Chúa làm.Vấn đề không phải chúng ta làm trước hay sau nhưng là làm đúng lúc Chúa mời, khi chúa gọi chúng ta có đáp trả hay không?
Trong cuộc sống, chúng ta thường phải chịu đựng tật xấu của người khác nhưng đôi khi những ưu điểm hay những đặc ân và sự may mắn của những người khác cũng làm chúng ta khó chịu đến ghen tương. Chúng ta phải loại bỏ tật xấu này và rèn luyện tâm hồn mình trở nên nhân từ quãng đại theo gương Thiên Chúa của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quãng đại, tha thứ yêu thương, phục vụ theo gương Ngài, biết sống vui tươi với mọi người, không ganh tỵ, so đo nhưng biết cho đi bản thân vì lòng yêu mến Chúa.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc – SJ.)
Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi đi vào làm việc trong vườn nho: TN 25-A95
Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi đi vào làm việc trong vườn nho, mặc khải cho chúng ta một cách tuyệt vời về cung cách hành động của Thiên Chúa, và về khó khăn sâu xa có nơi mỗi người chúng ta, khi đối diện với cung cách hành động này.
1. “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia…”
Trước hết, Thiên Chúa được ví như ông chủ vườn nho, hành động giống như bao ông chủ vườn nho khác: sáng sớm ra khỏi nhà để đi tìm thợ, thỏa thuận về thời gian và tiền công (mỗi ngày một quan tiền) và sai họ đi vào làm việc trong vườn nho của mình. Ở bước này, cho dù là tương quan giữa ông chủ vườn và người làm công xem ra rất bình thường và công bằng, nhưng những người làm công vẫn được mời gọi nhận ra việc làm của mình là một điều may mắn, thậm chí là một ơn huệ, và nhất là nhận ra lòng tốt của ông, khi ông đich thân ra khỏi nhà để đi tìm người thợ, thay vì người thợ đi tìm ông chủ đề “xin việc”.
Chúng ta có nhận ra hiện hữu, cuộc đời, ơn gọi gia đình hay tu trì của chúng ta là một ơn huệ không? Chúng ta có nhận ra lòng tốt của Chúa để luôn tạ ơn và ca tụng Ngài không? Và để sống và làm việc trong tâm tình tạ ơn và ca tụng không? Hay chúng ta coi tất cả những ơn huệ nhưng không này như một thứ “quyền lợi”, để đòi hỏi Thiên Chúa, để so bì và ganh tị với nhau? Nhưng khi đòi hỏi và ganh tị, chúng ta dựa vào điều gì, phải chẳng là công lao hay thành tích của chính chúng ta?
2. “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho” (c. 3-7)
Thực vậy, phần tiếp theo của dụ ngôn, mỗi lúc một mạnh mẽ và vượt quá cách hành động thông thường của một người chủ, có thể có trong kinh nghiệm sống của chúng ta, nhấn mạnh đặc biệt đến chiều kích ơn huệ và lòng tốt khác thường của ông chủ: giờ thứ ba (9 giờ sáng), ông lại ra khỏi nhà đi tìm thợ; giờ thứ 6 (12 giờ trưa), ông lại đi nữa; rồi giờ thứ 9 (3 giờ chiều), ông lại đi nữa; và đây là tột đỉnh của sự khác thường, vào giờ thứ 11 (5g chiều), ông vẫn ra khỏi nhà đi tìm thợ làm việc!
Nếu trong những trường hợp trước, ông chủ chỉ hứa trả công một cách hợp lí: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”, thì trong trường hợp sau cùng, ông chỉ mời gọi đi làm việc: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”. Như thế, được hiện diện trong vườn nho là một ơn huệ hoàn toàn nhưng không, diễn tả lòng tốt của ông chủ; và điều này cũng đúng với những trường hợp trước và phải được nhận ra và được ngợi khen bởi những người thợ đi vào trước, và kể cả những người vào làm việc đầu tiên nữa.
Tuy nhiên, câu chuyện của dụ ngôn, vốn diễn tả sự thật về chính chúng ta, lại diễn biến theo hướng lòng ghen tị và lời kêu trách, thay vì theo hướng chúc mừng và ca tụng. Dân Chúa đã kêu trách và ghen tị trong sa mạc (x. Ds 21,4-9, bài đọc I của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá); và loài người và mỗi người chúng ta được mời gọi nhận ra bản thân mình nơi Dân Chúa.
Như thế, đúng ra những trường hợp trước phải được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp sau cùng, để nhận ra lòng tốt của ông chủ được thể hiện từ đầu đến cuối. Vì, nếu hiểu ngược lại, nghĩa là các trường hợp sau được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp đầu tiên, người ta sẽ hiểu lệch lạc về ông chủ và về người khác: từ đó, phát sinh thái độ kêu trách và ganh tị.
3. “Bắt đầu từ những người vào làm sau chót…”
Và dường như ông chủ cố ý làm cho lòng ghen tị và lời kêu trách lộ diện, khi ông trả công, đúng hơn là ban phát, cách quảng đại cho người đến làm việc sau cùng, trước mắt mọi người:
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.
Bởi vì, làm cho cái xấu lộ diện, chính là cách tốt nhất để chữa lành. Thực vậy, khi đến lượt nhóm thợ đầu tiên đến lãnh tiền công, họ được nhận đúng với lời thỏa thuận của ông chủ và của họ và điều này làm bật lên sự khác biệt giữa họ và những người khác. Nhưng thay vì họ chúc mừng những người đến sau (vì họ làm ít hơn mình, nhưng lại nhận được nhiều như mình) và ca ngợi lòng tốt của ông chủ (ông chủ không chỉ trà công sòng phẳng, nhưng còn ban phát rộng rãi cho người khác, theo lòng tốt của mình), họ vừa lãnh công và vừa cằn nhằn:
Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.
Trong lời này, hàm chứa hai thái độ: so sánh mình với người khác: “mấy người sau chót này”, và kêu trách ông chủ: “thế mà ông lại…”. Lời kêu trách của họ dựa trên những sự kiện rất khách quan và rất đúng: họ làm việc nhiều hơn và vất vả hơn người khác; nhưng người khác lại được hưởng bằng họ! Nhưng rất tiếc, những điều rất đúng và rất khách quan này lại được nhìn bằng con mắt ghen tị! Và vì ghen tị, nên trở nên mù quáng, không mở ra để nhận ra những sự kiện lớn hơn và đúng hơn: người khác thật may mắn và ông chủ thật tốt lành, để chúc mừng họ và ca ngợi ông chủ, đê đi vào trong niềm vui của người ban phát và của người lãnh nhận. Và vì ghen tị, nên cũng mù quáng với chính những gì mình đang có, bởi lẽ điều mình dang có không phải là quyền lợi, nhưng là ân huệ, và vì người lãnh nhận không chỉ là người khác, nhưng cũng là chính bản thân mình. Mình có niềm vui, nhưng lại tự biến niềm vui của mình thành nỗi buồn, gây chết chóc, cho mình và cho người khác.
* * *
Xin cho Lời Chúa, là Lời sẽ dẫn chúng ta đến “Lời Thập Giá” (x. 1Cr 1,18) chữa lành đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37); bởi vì nơi Thập Giá, chúng ta vừa nhìn thấy hệ quả khủng khiếp của thái độ ghen ghét (nhìn thấy để được chữa lành), và vừa nhận ra tình yêu đến cùng của Chúa dành cho loài người và từng người chúng ta (để ca tụng Chúa, thay vì kêu trách).
-------------------------------
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20,13)
Thoạt nghe qua, chúng ta dễ có cảm tưởng rằng dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có vẻ không TN 25-A96
Thoạt nghe qua, chúng ta dễ có cảm tưởng rằng dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có vẻ không được hợp tình hợp lý cho lắm. Những người thợ làm việc lâu giờ hơn, vất vả hơn, vẫn không được trả lương cao hơn. Tại sao ông chủ vườn nho lại trả lương đồng đều cho tất cả các thợ, khi họ bắt đầu làm việc vào những thời khắc khác nhau. Theo lẽ thường tình, điều này xem ra có vẻ như ông chủ chơi không đẹp, không “fair play” chút nào.
Vấn nạn này chắc chắn sẽ được khơi lên, nếu chúng ta ở vào vị thế của những người thợ đã cực nhọc nắng nôi suốt cả ngày mà cũng chỉ nhận được một đồng giống như những người khác. Xét theo lô gíc thông thường, ông chủ đã sử xự một cách bất công .
Trong đám tang của ông ngoại tôi, lần đầu tiên, tôi được nghe giải thích ý nghĩa của dụ ngôn. Vị linh mục nói về người đã chết, một tân tòng mới gia nhập đạo Công giáo trên giường bệnh trước khi ông nhắm mắt xuôi tay, giống hệt như người thợ được mướn làm vườn nho lúc xế chiều. Vị linh mục đó cũng vay mượn một hình ảnh khác rất giản đơn để so chiếu. Ví dụ như nhiều người đi xe lửa đã đặt vé từ trước khá lâu, và họ đã có chỗ. Một số khác lại mua vé vào phút chót, cuối cùng cũng có chỗ dành cho họ, và họ cũng đến được nơi giống những người đã đặt vé rất lâu từ trước. Ông của tôi cũng vây, ông cũng đã đạt đến quê trời vào những giây phút muộn màng trong cuộc đời mình. Điều này khiến chúng tôi là những lớp trẻ hàng con cháu cảm thấy rất an lòng.
Thiết nghĩ, điểm nhấn của dụ ngôn, là Đức Giêsu muốn những người được gọi mướn đầu tiên, phải biết quảng diễn lòng thương cảm đối với những thợ khác được gọi mướn trễ hơn. Nhưng làm cách nào để có thể khơi dậy lòng yêu thương này, vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và khó chịu đối với chính cá nhân tôi.
Một phụ nữ cùng học Kinh Thánh với tôi trong nhiều năm, đã giúp tôi hiểu dụ ngôn dưới một góc cạnh khác. Chị ta là một phụ nữ đơn độc, một mình nuôi 3 đứa con nhỏ sau khi ông chồng bỏ rơi chị. Chị ta ít học, lại không có kinh nghiệm quán xuyến gia đình và ít khả năng giao tiếp. Ngày này sang ngày khác, tại văn phòng xin việc làm, chị ta vẫn kiên nhẫn xếp hàng đợi chờ, mặc dù hy vọng của chị rất mong manh.
Khi đọc dụ ngôn hôm nay, chị ta mới khám phá ra một điều, là những người thợ đứng đó suốt cả ngày để chờ được thuê mướn, không phải là những con người biếng lười. Họ sẵn lòng đi làm nếu có người đến thuê họ. Nhưng họ phải chịu đứng không và vẫn chờ, vẫn đợi, có lẽ vì họ già yếu, không đủ sức khỏe, lại ít khả năng, và không thể đảm nhận những công việc nặng nhọc như những người khỏe mạnh khác. Những người thợ đứng đội nắng cả ngày không tìm được việc làm, giống như trường hợp của chị ta, một con người đã trải nghiệm sự nghiệt ngã khi cứ phải lặng lẽ đứng xếp hàng rồng rắn tại văn phòng xin việc làm, hết ngày này sang ngày khác, đầy kiên nhẫn.
Khi suy tư phần cuối của dụ ngôn, chị ta nghiệm ra rằng nếu ông chủ vườn có trả công cho người thợ đợi chờ suốt cả ngày, đồng đều như những người khác, điều đó cũng rất hợp lý. Như trường hợp của chị, làm sao chị có tiền để nuôi 3 đứa con? Những người thợ đã làm suốt cả ngày từ sáng đến chiều, họ cũng hài lòng vì họ đã được trả lương sòng phẳng để họ có đủ tiền trang trải chi phí, nuôi sống gia đình. Sự công bằng trong trật tự Nước Trời, chị ta suy luận, chính là ở chỗ tất cả mọi người vào giây phút cuối cùng trong ngày, đều có tiền để sống, không cần xem khả năng của họ ra sao. Sự công bằng của Thiên Chúa không phải là điều chúng ta đắc thủ được do công cán hay sức lực, và việc Thiên Chúa thưởng công cũng không phải được cân đo theo khả năng làm việc của từng người.
Cách giải thích này, xem ra gần sát với cái nhìn của những khán giả khi nghe Đức Giêsu giảng dạy. Họ là những con người đang đói, đang khát, đang phải đấu tranh để được sống. Lời khẳng định của ông chủ vườn nho, là ông ta đã không hành xử bất công đối với những người thợ đầu tiên, là một thách đố đối với những ai đang giữ những vị thế đặc quyền trong xã hội bấy giờ, để giúp họ giám định lại cảm thức của họ về sự công bằng xem như thế nào. Những người thợ làm từ sáng đâu có thiệt thòi gì, đâu có lỗ lã gì, nếu những người làm sau hết cũng được trả lương giống như họ.
Câu hỏi của ông chủ vườn nho trong câu 15 của bài Tin mừng hôm nay, đã nêu bật sự ghen tương, chính là đầu mối gây ra biết bao đổ vỡ trong đời sống cộng đoàn. Ông chủ đã nêu câu hỏi “ Hà cớ gì mà mắt bạn ghen tị khi thấy tôi đối xử tốt lành (agathos) như thế? Câu hỏi đó gợi nhắc lòng nhân hậu của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên mọi người cách đồng đều, không loại trừ ai. Nó cũng đá động đến khó khăn thường xảy ra nơi chúng ta, vì con người chúng ta bản tính hay ghen tị khi thấy người khác cũng được hưởng nhận sự tốt lành từ nơi Thiên Chúa, ngay cả khi cuộc sống chúng ta đã đầy ắp ân huệ được Thiên Chúa ban trao một cách nhưng không, chỉ do lòng tốt của Ngài mà thôi. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng, sự công bằng mà Thiên Chúa thực thi hoàn toàn không theo nguyên tắc quy phạm và đường lối xét định của con người. Thiên Chúa yêu thương con người, không phải vì con người xứng đáng hưởng nhận tình yêu ấy. Nhưng tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương, chỉ vì Thiên Chúa muốn yêu thương con người.
-------------------------------
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông Huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của: TN 25-A97
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông Huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới: “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu… “Anh cũng đi vào vườn nho”… Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục Tử, các Giáo Sĩ, các nam nữ Tu Sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” ( số 1 – 2 ).
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông...” Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật. Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do Thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày. Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên. Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Ở Do Thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều. Giờ thứ ba tức là 9 giờ sáng. Giờ thứ sáu là 12 giờ trưa. Giờ thứ chín là 3 giờ chiều. Còn giờ thứ mười một là 5 giờ chiều, sắp hết ngày để sẽ bắt đầu một ngày mới.
1. Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt vào giờ thứ mười hai tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ vẫn còn ra thuê nhân công. Vì thế hững người làm từ giờ thứ mười một chỉ làm việc có một giờ là đã được nghỉ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động suốt mười hai giờ. Vậy mà cuối ngày, khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ được 1 đồng mà thôi.
Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai lần thiệt thòi: kẻ khác làm có một giờ mà họ đã phải làm đến mười hai giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, còn họ phải làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị.
Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không còn là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa và thiệt thòi cho họ.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật tốt đẹp của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật không tốt đẹp của Cain thì bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em.
Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. "Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn". Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua Saun lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy ( x. 1 Sm 17 – 18 ).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
2. Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không ? Chắc chắn là không, vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận từ trước là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông chủ bảo họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao ? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao ? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ?"
Đây là điểm chính yếu của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành. Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ thứ mười một không phải là do công bình, mà là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời điểm khác nhau. Thợ làm giờ thứ mười một là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn chính là nhóm Pharisiêu, Luật Sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính mà Đức Giêsu nhấn mạnh chính là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo Hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do Thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những quy tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi Tình Yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
3. Sứ điệp
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận "giữ đạo" để được "lên thiên đàng". Nhưng người ta cũng có thể "sống đạo" chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành "nô lệ", thành "kẻ làm công". Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo Hội ngang qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo Hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình. Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
-------------------------------
Hôm nay chúng ta bắt đầu chu kỳ ba dụ ngôn về vườn nho của Chúa Giêsu. Chúa Nhật 25, những: TN 25-A98
Hôm nay chúng ta bắt đầu chu kỳ ba dụ ngôn về vườn nho của Chúa Giêsu. Chúa Nhật 25, những người thợ sẽ vào làm vườn nho. Chúa Nhật 26, hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho, và Chúa Nhật 27, những người tá điền muốn giết con ông chủ vườn nho.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài ( Is 5, 1 – 7; Gr 2, 21; Ed 15, 4 ). Câu "hãy đi làm vườn nho ta" ( Mt 20, 4 ) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói: "Hãy đi vào trong Giao ước… Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta".
Chúa Giêsu tự khẳng định mình là cây nho: "Thầy là cây nho thật" ( Ga 15, 1 – 5 ). Chúng ta được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. "Hãy đi làm vườn nho ta" còn có nghĩa là "Hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi" ( Mt 25, 21 ). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng" ( Mt 20, 4 ). Có người hỏi: Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì ? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng ? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không ? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao ?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa "sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm" ( Rm 2, 6 ). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta: "Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta" ( Is 55, 8 ). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờnhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng "xtate" tiền cổ Hy Lạp là đồng được Thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền Thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra "điểm chính" trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu ở đây về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình" ( Mt 20, 1 ). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương Ơn Cứu Độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại ( những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm v.v… ) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa ( nhàn rỗi ). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người: "Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín".
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng "không ai thuê"; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào "buổi sáng, giờ thứ ba… và thứ mười một giờ" đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận… anh trộm lành được lên Thiên Đàng "vào giờ thứ mười một" anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời: "Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta" ( Lc 23, 43 ). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình; họ đi làm, nhưng "không ai thuê" ( Mt 20, 7 ), nếu người ta không thuê anh, anh "hãy đi làm vườn nho ta" ( Mt 20, 4 ).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta: "Từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng". Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn: "Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao ? "
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn "tốt lành," quảng đại và nhân đạo.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ
-------------------------------
Linh mục Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mt 20,1-16a
Suốt thời gian sống ở trần gian, Chúa Giêsu đã không ngừng giảng dạy, giải đáp thắc mắc của nhiều: TN 25-A99
Suốt thời gian sống ở trần gian, Chúa Giêsu đã không ngừng giảng dạy, giải đáp thắc mắc của nhiều người, kể cả các môn đệ, các tông đồ là những người thân tín của Chúa Giêsu, và đưa ra các quan điểm làm thay đổi giá trị nhân sinh: một trong dụ ngôn hôm nay chúng ta được đọc cho thấy quan điểm khác lạc,tuyệt vời của Chúa Giêsu “ Ông Chủ Vườn Nho “. Ở đây, chúng ta có thể xem đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho thánh Phêrô về câu hỏi phần thưởng cho những kẻ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Chính vì vậy,dụ ngôn này hình như có lý để nói với các tông đồ trước khi trải rộng đến các người Pharisêu, Biệt phái, Kinh sư, Luật sĩ, những kẻ thu thuế, người tội lỗi, Dân Do Thái và dân ngoại vv…
Như ông chủ vườn nho quảng đại, rộng rãi thương xót mọi người, đã ra các ngã đường mời gọi họ vào làm vườn nho, và trả lương rộng lượng với người này mà vẫn công bằng với người khác.Thiên Chúa cũng thế luôn trải rộng tình thương đến với mọi người mà không đếm xỉa đến sự suy tính theo kiểu người đời vì Chúa rất mực khoan dung, nhân hậu. Đây là một dụ ngôn, chứ không phải là ngụ ngôn. Do đó, ý tưởng nhắm vào ông chủ là Thiên Chúa hơn là các nhóm thợ làm vườn, và các chi tiết khác vốn được hiểu nhiều cách rất khác nhau. Thiên Chúa dùng hình ảnh vườn nho là hình ảnh rất thông dụng trong Kinh Thánh, chỉ về công việc của Thiên Chúa trong thế giới, trong thế gian, và đặc biệt nói về dân Do Thái. Một quan tiền mà ông chủ trả cho mỗi người làm việc trong một ngày. Người Do Thái xưa tính giờ: giờ thứ nhất,3, 6, 9, 11 tương đương với 6, 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, 15 và 17 giờ chiều.Nên, ngày làm việc của một người chấm dứt vào lúc 18 giờ chiều. Ông chủ rất rộng lượng, công bằng vì ông chủ đã thỏa thuận với tất cả những người làm việc trong vườn nho. Bởi vì ông và những người làm việc đã thỏa thuận sòng phẳng, tiền công là một quan tiền dẫu làm việc từ sáng hay làm vào buổi chiều. Ông chủ luôn xử công bằng với mọi người vì ông và những nhóm thợ đã thỏa thuận, giao kèo, giao ước với nhau là công nhật một ngày là một đồng. Ông chủ không xử bất công với thợ. Ông đã gọi họ làm đã giao kết, hứa, thỏa thuận với thợ là một quan tiền. Ông chủ rất công bằng trả lương để thợ có tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Đây là ông chủ
công bằng, rộng rãi không gây thiệt hại cho ai mà vẫn quảng đại với nhiều người. Đây cũng là câu trả lời cho thánh Phêrô và các bạn khi ông hỏi Chúa Giêsurằng các ông đã bỏ mọi sự mà theo Ngài, các ông sẽ được gì ? Thực tế, công việc của con người chỉ là gợi ý, việc trả công của Thiên Chúa vượt quá sự suy tính của con người. Nước Thiên Chúa không giống như sự hạch toán kinh tế, làm ăn của con người, mà là rộng lượng, quảng đại ‘ công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần’ ( Rm 14, 17 ).
Bài Tin Mừng và các bài đọc hôm nay làm đảo lộn cái nhìn của con người:vị kỷ, ghen tương, tính toán, so đo vv…Do đó, nó đòi hỏi con người phải thay đổi tư duy, cách làm, cách nghĩ, đổi mới từ ngữ, cách cư xử của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, từ bi,thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Thiên Chúa luôn đối xử với con người,với mọi người với tấm lòng yêu mến thiết tha. Nên, chúng ta phải đối xử với anh em, với tha nhân trong tương quan tình yêu chứ không phải ganh tị chỉ muốn hơn kém người.Tương quan của chúng ta đối với Thiên Chúa là tương quan siêu nhiên, ân sủng không chỉ dựa vào việc làm, công phúc của con người mà dựa vào tình thương vì Thiên Chúa chính là Tình Thương( 1 Ga 4, 8 ). Chính vì thế, Thiên Chúa muốn chúng ta xử sự với nhau như Thiên Chúa đã xử sự với chúng ta chứ không không chỉ dựa trên kinh tế, giờ làm việc, năng xuất vv…
Xin mượn lời của Nữ tu Emmanuelle Billoteau, ẩn sĩ Dòng Biển Đức để kết luận bài chia sẻ hôm nay:” Như mọi dụ ngôn, du ngôn Chúa nhật này nhằm mục đích buộc chúng ta có lập trường. Đến phiên chúng ta phải chọn! Hoặc là bám vào những quan điểm đã có sẵn-mà đó nghiễm nhiên là quan điểm của những người thợ của giờ đầu tiên, hoặc là mở lòng ra học đi theo đường lối của Thiên Chúa, mà “ tư tưởng và đường lối của Người không phải là tư tưởng và đường lối của chúng ta “ ( Is 55, 8 ). Một lối hành xử lạ thường đáng cho chúng ta lo ngại, nếu trong đức tin, chúng ta không biết động cơ nơi Thiên Chúa là lòng nhân ái chứ không phải là ý chí võ đoán:” Chẳng lẽ vì tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức ?” .Không phải để bóp nghẹt nơi chúng ta trực cảm bẩm sinh về lẽ công bình. Vì chẳng phải nhờ nó mà trong lịch sử nhân loại đã có những bước tiến đầy ý nghĩa tới một thế giới công bình hơn đó sao ? Đức công bình chẳng phải là một trong những thuộc tính của Thiên Chúa, như chúng ta nghe nhắc tới trong các câu cho thấy vị chủ vườn nho tôn trọng hợp đồng trả lương công nhật là một quan tiền đó sao ? Thế nhưng trực cảm về công bình cũng có thể là một cạm bẫy nếu nó trở thành điểm qui chiếu duy nhất, khiến chúng ta cứ đem so sánh, ganh đua-liếc mắt ghen ghét-, đóng cửa lòng mình lại với tha nhân, thậm chí muốn khai trừ họ khỏi gia nghiệp Thiên Chúa hứa ban, Đấng “ cao cả hơn lòng chúng ta “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con một đức tin mạnh mẽ để chúng con biết nhìn ra Đấng luôn yêu thương, quảng đại đối với chúng con.Xin cho chúng con có cái nhìn rộng mở đối với Thiên Chúa và có sự suy nghĩ, có cái nhìn yêu thương đối với tha nhân. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ông chủ có công bằng đối với bốn nhóm thợ làm vườn nho không ?Tại sao?
2.Ông chủ ám chỉ ai ?
3.Tại sao Thiên Chúa lại quảng đại rộng lòng ?
4.Trong một thế giới đầy bất công, người môn đệ Chúa phải làm sao ?
------------------------------------------
Is 55,6-9 ; Pl 1,20c-24.27a ; Mt 20,1-16a
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 20,1-16a
(1) Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vuờn nho nhà mình. (2) Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. (3) Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. (4) Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng” (5) Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy”. (6) Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết? “ (7) Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !”. (8) Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót cho tới những người vào làm trước nhất”. (9) Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. (10) Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn. Thế nhưng cũng chỉ được lãnh một người một quan tiền. (11) Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: (12)“Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ. Thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. (13) Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có đối xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao ? (14) Cầm lấy phần của bạn mà đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. (15) Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bung, mà bạn đâm ra ghen tức ? (16a) Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
2. Ý CHÍNH: DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO
Bài Tin Mừng hôm nay ví Nước Trời Đức Giê-su sắp thiết lập giống như câu chuyện một ông chủ: TN 25-A100
Bài Tin Mừng hôm nay ví Nước Trời Đức Giê-su sắp thiết lập giống như câu chuyện một ông chủ vườn nho đi kêu người làm vao làm việc trong vườn nho của mình. Có 4 tốp người được kêu vào làm vào 4 thời điểm khác nhau trong ngày: giờ thứ nhất, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, và cả giờ thứ mười một. Khi trả lương, chủ vườn lại trả lương từ người làm giờ thứ mười một tới người làm từ giờ thứ nhất. Mỗi người đều được trả lương bằng nhau là một quan tiền. Khi có người thắc mắc ông chủ đã cho biết ông không bất công khi trả lương sòng phẳng theo thỏa thuận ban đầu là một đồng. Còn việc ông trả cho người sau bằng người đầu là do lòng nhân hậu của ông. Cũng vậy, sau này Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ chung cho mọi người gia nhập vào Hội Thánh. Dù là dân ngoại vào trễ hay dân Do Thái vào từ ban đầu, đều được hưởng ơn cứu độ như nhau, miễn là phải có đức tin thể hiện qua đức cậy và đức mến.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc: Bên Do Thái vào mùa hái nho, ngay từ sáng sớm, các chủ vườn thường ra ngã ba đường hay ra chợ người để thuê người hái nho cho mình. Chủ vườn nho tượng trưng Thiên Chúa. Ngài mời gọi mọi dân tộc đều vào làm vườn nho, nghĩa là được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh. + thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền: Vào thời Đức Giê-su, chủ vườn nho thường trả lương công nhật cho thợ làm vườn là một quan tiền. Ở đây ông chủ đã hứa trả lương công nhật là một quan tiền ngay từ khi thuê họ vào làm việc.
- C 3-7: + Giờ thứ ba: Bấy giờ người Do thái tính thời gian một ngày từ lúc mặt trời lặn dựa vào lời tường thuật trong Sách Sáng Thế Ký: “Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: Đó là ngày thứ nhất…” (St 1,5). Vì thế luật qui định ngày Sa-bát bắt đầu từ 18g00 chiều thứ sáu. Còn về việc tính giờ, người Do Thái lại tính từ lúc mặt trời mọc vào buổi sáng. Thời gian từ mặt trời mọc đến mặt trời lặn được chia làm 12 giờ. Vậy giờ thứ nhất, thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một tương đương với 6 giờ, 9 giờ, 15 giờ và 17 giờ như ngày nay. Giờ lao động của người Do thái mỗi ngày bắt đầu từ 6 giờ sáng và kết thúc vào lúc 18 giờ chiều. + Ông chủ vườn mời người đi làm vườn nho: Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được ơn cưu độ, và người ta có thể gia nhập Nước Trời là Hội Thánh vào nhiều thời điểm khác nhau. + Tôi sẽ trả công cho các anh hợp lẽ công bằng: Trả lương công bằng, nghĩa là người làm thuê sẽ không bị thiệt thòi về tiền công. + Khoảng giờ thứ sáu rồi giờ thứ chín, ông lại ra và cũng làm y như vậy: Ông chủ nôn nóng đi kêu thợ làm vườn nho cho ông vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày mà không cần tính toán thiệt hơn cho mình. Điều này cho thấy lòng bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Ngài không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối để được sống. + Khoảng giờ mười một: Giờ thứ mười một tương đương với 17 giờ chiều, là giờ cuối cùng trong một ngày làm việc. Thợ chỉ phải làm một tiếng nữa là hết giờ lao động. + Vì không ai mướn chúng tôi: Những người đứng không suốt ngày do không được ai thuê mướn. + Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !: Ông chủ kêu thợ vào làm vườn nho vào giờ cuối cùng là do lòng thương muốn giúp đỡ người thất nghiệp, chứ không do nhu cầu của công việc đòi hỏi. Điều này cho thấy ơn cứu độ là một ơn ban không, hoàn toàn do tình thương của Thiên Chúa, chứ không do công khó của con người.
- C 8-10: + Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót cho tới những người vào làm trước nhất: Việc trả lương này khác thường. Vì thứ tự trước sau bị đảo lộn và tiền lương đều là một quan tiền cho các người thợ làm việc nhiều ít khác nhau. Khi sắp xếp việc trả lương như vậy, ông chủ muốn tạo cho người làm việc từ sáng sớm tưởng rằng mình sẽ được trả nhiều hơn. Vì thế họ đã thắc mắc khi được lãnh bằng với người mới vào làm việc từ giờ thứ mười một. Qua việc phát lương này, ta thấy người bị thiệt là ông chủ chứ không phải người thợ làm từ giờ thứ nhất. Điều này cho thấy tình thương của Thiên Chúa đối với hết mọi người. Bất cứ ai dù là Do thái hay dân ngoại, dù theo đạo từ khi mới sinh hay vào lúc sắp chết, nếu thành tâm tin yêu Thiên Chúa thì đều được Người cho hưởng hồng ân cứu độ.
- C 11-13: + Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Họ trách móc ông chủ hai điều: Một là họ phải làm việc vất vả suốt từ sáng sớm đến chiều tối, đang khi những người vào làm giờ thứ mười một chỉ làm một giờ. Hai là họ phải chịu sự nắng nôi khó nhọc, đang khi những người làm sau ban chiều khi mặt trời sắp lặn không bị nắng gắt nóng bức. Họ muốn được chủ trả lương cao hơn những người đến làm việc sau. + Này bạn: Đây là kiểu xưng hô của ông chủ với những người thợ chưa rõ tên. Kiểu xưng hô này vừa khoan dung vừa trách móc nhẹ nhàng để mong họ nghĩ lại. Giống như Đức Giê-su đã nói với Giu-đa khi anh ta dẫn dân quân Đền thờ đến bắt Người trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26,50). + Tôi đâu có xứ bất công với bạn ?: Việc trả lương một quan tiền cho những người thợ đến sau không gây thiệt hại gì cho những người làm trước. Những người làm từ giờ thứ nhất đã nhận đủ một quan tiền, đúng như đã thỏa thuận từ lúc vào làm việc.
- C 14-16b: + Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt: Việc trả lương cho người đến làm sau cũng được trả một quan tiền là do lòng tốt của ông chủ, chứ không phải do công khó của họ. Qua đó Đức Giê-su muốn dạy: Dân Do thái đừng ganh tị khi Thiên Chúa cũng ban cho lương dân thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ giống như họ. Người tín hữu đạo đức cũng đừng ganh tị với các tội nhân hay người lương khi thấy Chúa đối xử nhân từ cho họ được gia nhập đạo vào lúc cuối đời. + Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức: Ông chủ vạch rõ tâm địa ganh ghét xấu xa của nhóm thợ làm từ lúc sáng sớm. Họ không muốn người làm sau được trả lương bằng hay hơn họ. Đức Giê-su muốn các tín hữu chúng ta hãy noi gương lòng nhân từ của Thiên Chúa và đừng suy nghĩ hẹp hòi khi phê phán công việc của Ngài như người ta hay nói: “Lấy dạ tiểu nhân để đo lòng quân tử!”. + Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót: Theo Thánh Gio-an Kim Ngôn thì câu này không bắt nguồn trực tiếp từ dụ ngôn, cũng như không phải là câu tóm kết về bài học của dụ ngôn. Nó được thêm vào, vì có một sự tương tự nào đó xét theo câu chuyện. Câu này nói đến sự đảo lộn về việc phát lương trước sau, đang khi trọng tâm của dụ ngôn nhấn mạnh đến việc trả lương đồng đều giữa những người thợ làm trong thời gian dài ngắn khác nhau. Có lẽ tác giả khi viết thêm câu này để đóng khung dụ ngôn mà thôi.
4. CÂU HỎI:
1) Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn ám chỉ ai ? Việc ông chủ vườn nho đi mời người vào làm vườn nho cho ông ở nhiều thời điểm khác nhau trong ngày có ý nghĩa gì ? 2) Người Do thái thời xưa tính ngày mới bắt đầu lúc nào ? Mỗi ngày có bao nhiêu giờ lao động và thời giờ ấy tương đương thế nào với giờ hiện nay ? Giờ thứ mười một là mấy giờ hiện nay ? 3) Ông chủ hứa trả lương công nhật bao nhiêu và trả theo phép công bằng nghĩa là gì ? 4) Việc ông chủ đi kêu thợ làm vườn nho vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày, nhất là vào giờ thứ mười một cho thấy ông là người thế nào ? 5) Việc trả lương thợ của ông chủ vườn nho khác thường ở điềm nào ? Điều này nhằm nói lên điều gì về tình thương cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta ? 6) Những người làm từ giờ thứ nhất trách móc ông chủ những gì ? 7) Qua câu trả lời, ông chủ cho thấy việc ông trả lương bằng nhau cho những người làm trong thời gian nhiều ít khác nhau có bất công như họ đã kêu trách không ? 8) Ông chủ phê phán thái độ của bọn thợ vào làm vườn nho từ giờ đầu tiên ra sao ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?” (Mt 20,13-15).
2. CÂU CHUYỆN: ÔNG VUA NHÂN TỪ VÀ QUẢNG ĐẠI
Tại nước Tây Ban Nha có một ông vua tên là An-phong-sô rất nhân từ và quảng đại. Ngài thường cải trang làm thường dân rồi vi hành đi đó đây để tận mắt chứng kiến những nỗi đau khổ và oan ức của nhân dân do bọn quan lại địa phương gây ra, để kịp thời chấn chỉnh sửa sai. Ngày nọ, đức vua cải trang đến một tỉnh kia và thuê một phòng trọ trong một nhà nghỉ bình dân. Sáng hôm sau, nhà vua yêu cầu bồi phòng mang đến cho ông một chiếc gương để cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị khách, anh bồi phòng thấy khuôn mặt ông khách rất dễ mến, nên đã chủ động bắt chuyện: “Này ông, tôi có cảm tưởng ông không phải là loại khách du lịch xoàng”. Nhà vua tò mò muốn biết anh bồi phòng nghĩ gì về mình, nên hỏi lại: “Sao anh lại nói như vậy ?” Người bồi phòng trả lời rằng: “Vì tác phong và vẻ bề ngoài của ông có cái gì đó khác với những người bình thường. Chắc ông phải là người thuộc triều đình nhà vua tại thủ đô Ma-trit (Madrid) cũng nên”. Nhà vua chỉ đáp lại cách mập mờ: “Một cách nào đó anh nói cũng đúng đó !” Anh bồi phòng lại hỏi thêm: “Vậy hẳn ông phải là một quan chức luôn hầu cận bên đức vua ?” Nhà vua trả lời: “Anh đoán thật chẳng sai chút nào”. Người bồi phòng càng tò mò hơn và hỏi tiếp: “Phục vụ đức vua thì thông thường phải làm những việc gì hả ông ?” Nhà vua mỉm cười hóm hỉnh đáp: “Ồ, làm nhiều việc lắm, đại loại như bây giờ tôi sắp phải cạo râu cho ngài”.
Người bồi phòng trong câu chuyện trên đã gặp được chính đức vua và được ngài hé mở cho biết phần nào sự thật về ngài. Các câu đối đáp giữa đức vua và người bồi phòng là minh họa sống động về long nhân từ và bao dung của ông chủ vườn nho, tượng trưng cho Thiên Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Những người đi làm sau ám chỉ dân ngoại và những kẻ tội lỗi. Họ đều được Thiên Chúa mời gia nhập Hội Thánh vào các giờ khác nhau, đặc biệt vào giờ thứ mười một là lúc cuối đời. Đây cũng là trường hợp của người trộm lành cùng chịu đóng đinh trên cây thập giá bên cạnh Đức Giê-su. Nhờ lòng tin và thành tâm sám hối mà anh trộm lành đã được Người tha tội và ban hạnh phúc đời đời: “Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (x. Lc 23,42-43).
3. SUY NIỆM:
1) SO SÁNH NGƯỜI CON CẢ VỚI BỌN THỢ LÀM VƯỜN NHO ĐẦU TIÊN:
Trong dụ ngôn về người cha nhân hậu, anh con cả đã bất mãn với cha khi thấy cha tỏ lòng bao dung tha thứ tội lỗi của đứa em hư hỏng đã đi hoang trở về. Không những cha không trừng phạt tội bất hiếu của nó, mà còn truyền cho gia nhân giết bê béo ăn mừng khi thấy nó vẫn mạnh khỏe. Người con cả đã bày tỏ thái độ ganh ghét khi không thèm vào nhà và lên tiếng phiền trách cha: “Cha ơi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê nhỏ để con vui vẻ với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về, thì cha lại giết dê béo ăn mừng nó !” (Lc 15,28-30). Trong Tin mừng hôm nay, những người đi làm từ sáng sớm cũng cằn nhằn ông chủ vườn nho khi thấy ông trả lương cho người chỉ làm một tiếng đồng hồ cuối ngày cũng được trả một quan tiền, bằng với họ là những người phải chịu nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày.
Khi Đức Giê-su ra giảng đạo, các kinh sư và người Pha-ri-sêu đều khó chịu khi thấy Người đối xử thân tình với bọn thu thuế, gái điếm và những kẻ tội lỗi nói chung. Người là mục tử tốt lành đi tìm từng con chiên lạc. Người mang lại cho những người bất hạnh niềm vui và hạnh phúc. Người luôn mời gọi những người tội lỗi mau sám hối và hứa ban Nước Trời cho họ. Như vậy, người tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc ngang bằng với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Những người này vốn tuân giữ từng điều khoản nhỏ mọn của luật Mô-sê và tự coi mình là người công chính. Trước thái độ nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân của Đức Giê-su, các đầu mục này đã tỏ ra ganh ghét vì cho rằng mình đã không được Đức Giê-su tôn trọng hơn bọn người nghèo khổ tội lỗi kia.
2) THẾ NÀO LÀ THÁI ĐỘ GANH GHÉT ĐỐ KỴ?
Ngay từ thuở bình minh của nhân loại, sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, sự dữ đã lọt vào thế gian. Ca-in đã có thái độ ganh tị khi thấy Thiên Chúa chấp nhận lễ vật của A-ben và bỏ qua lễ vật của anh ta. Anh ta đã coi A-ben là kẻ thù và ra tay giết em, nên cuối cùng anh ta đã bị trừng phạt. Như vậy người có tính ganh tị là kẻ vừa huỷ diệt người khác, lại vừa hủy hoại chính mình. Những người thợ làm việc từ sáng sớm cũng cằn nhằn ông chủ vì đã trả lương cho người vào làm sau cũng được một quan tiền bằng với họ. Đang khi họ phải chịu nắng nôi vất vả suốt cả ngày. Giả như ông trả cho người làm sau số tiền lương ít hơn thì chắc họ đã không cảm thấy khó chịu như thế.
Kẻ ganh ghét đã không “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), vì họ thiếu tình yêu thương. Họ không coi các người kia là bạn, nhưng là đối thủ cạnh tranh với mình. Họ coi sự thành công của người khác là mối đe dọa cho họ. Ở đây, Đức Giê-su mời gọi các tín hữu chúng ta phải thay đổi cách nhìn về Thiên Chúa: Người là Đấng công bình, nhưng không cứng nhắc trong khuôn khổ Lề luật. Người hoàn toàn tự do thể hiện tình thương bao dung. Người giàu lòng từ bi nhân ái và luôn muốn ban ơn cứu độ cho loài người chúng ta. Thiên Chúa chứng tỏ Người là Chúa tể của kẻ trộm lành biết hồi tâm sám hối, là ông chủ của người thợ đi làm vườn nho vào giờ thứ mười một, nhưng Ngài cũng là cha đầy lòng từ bi nhân hậu với hết mọi người chúng ta.
3. CHÚA MUỐN TA PHẢI LÀM GÌ ?
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su mời gọi mọi người chúng ta đừng quá tự hào về bản thân. Người kêu gọi chúng ta đổi mới cách nhìn về người khác, để ngày càng thêm lòng kính trọng tha nhân, phá bỏ hàng rào ngăn cách như sự ganh ghét ích kỷ và sự trả thù ti tiện. Biết đến bao giờ người con cả mới chịu bước vào nhà cha để chia sẻ niềm vui với cha khi tìm thấy đứa con thất lạc trở về ? Biết đến khi nào những người thợ đi làm từ sáng sớm mới sẵn lòng chia sẻ niềm vui với những người vào làm giờ thứ mười một lúc cuối ngày ? Biết đến khi nào chúng ta mới cảm thấy niềm vui thật sự với những người hàng xóm gần bên, vì chúng ta đã nhận ra họ không phải là đối thủ, nhưng là anh em của chúng ta ?
4. THẢO LUẬN:
1)Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường hay ganh ghét kẻ khác vì những nguyên nhân nào ? Ta phải làm gì để bỏ đi thói xấu ganh tị này ? 2) Thánh Phao-lô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” có dễ thực hành không ? 3) Bạn thường cảm thấy thế nào khi thấy người khác trổi vượt hơn mình như: họ thi đậu còn ta bị rớt; Họ có tài hát hay được nhiều người tán thưởng và làm việc hiệu quả hơn ta ? Họ được nhiều người khác tín nhiệm hơn ta ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY THIÊN CHÚA CHA TỪ BI NHÂN HẬU. Tuy chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10), nhưng chúng con cũng xin hứa quyết: sẽ hết lòng phục vụ Hội Thánh, để làm cho Hội thánh trổ sinh nhiều hoa trái công bình và yêu thương. Xin cho chúng con biết cộng tác với Cha mời gọi nhiều người vào làm vườn nho Nước Trời. Xin cho chúng con biết chung vui với Cha khi có thêm tội nhân và anh chị em lương dân trở về làm con cái Cha trong gia đình Hội Thánh, để họ cũng được chia sẻ ơn cứu độ với chúng con. Vì chúng con biết rằng: “Cha muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ”.
- LẠY CHA. Xin hãy ban cho chúng con trái tim bao dung dịu dàng của Chúa Giê-su và trái tim đầy tình mẫu tử của Mẹ Ma-ri-a. Xin cho trái tim con không ích kỷ luôn khép lại để chỉ yêu mình và những người thân của mình, nhưng biết mở ra để đón nhận người khác. Xin uốn nắn trái tim sơ cứng của con nên giống trái tim nhân hậu bao dung của Chúa. Xin cho trái tim con vượt lên mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi trả thù ti tiện. Xin cho tâm hồn con luôn bình an, không giận hờn tranh chấp hoặc để bụng ganh ghét với những ai hơn mình. Xin giúp tình cảm của con luôn quân bình: không quá vui khi thành công, mà cũng chẳng chán nản khi thất bại. Xin cho con biết khiêm tốn bình tĩnh nghe những lời phê bình của kẻ khác. Xin cho trái tim con đủ lớn để yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ không ưa con và những người con không ưa họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để đón nhận cả thế giới, để không có ai là kẻ thù, nhưng sẵn sàng yêu thương tha thứ để biến kẻ thù thành bạn của con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
-----------
[1] Xem Bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn.
------------------------------------------