Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 25 TN-A Bái 101-150: Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng
------------------------------------------
Phúc Âm: Mt 20, 1-16a: “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”.
Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết.” Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao”? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?” Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------
Mục lục:
TN 25-A101: Chúa có quyền định đoạt và Người luôn tốt bụng. 2
TN 25-A102: Thiên Chúa Nhân Lành. 4
TN 25-A103: Chúa là “ông chủ tốt bụng”. 9
TN 25-A104: Hãy Đi Vào Vườn Nho. 11
TN 25-A105: KIẾN ĂN CÁ HAY CÁ ĂN KIẾN ?. 15
TN 25-A106: Chúa Nhật 25 mùa Thường niên, A.. 17
TN 25-A107: CON NGƯỜI NGHĨ KHÁC CHÚA.. 20
TN 25-A108: Chúa Nhật thứ 25 Thường Niên. 22
TN 25-A109: CHÚA NHẬT 25 QUANH NĂM... 27
TN 25-A110: CHÚA NHẬT 25 QUANH NĂM... 30
TN 25-A111: CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN – 2002. 32
TN 25-A112: LÒNG QUẢNG ÐẠI CỦA THIÊN CHÚA.. 34
TN 25-A113: Lòng nhân từ. 36
TN 25-A114: Đường lối của Thiên Chúa. 37
TN 25-A115: Công bằng hay lòng thương xót?. 40
TN 25-A116: Công bằng của lòng từ nhân. 42
TN 25-A117: Ông chủ quảng đại 44
TN 25-A118: Dụ ngôn ‘Những người làm vườn nho’ 45
TN 25-A119: HÃY CHẤP NHẬN HIỆN TRẠNG CỦA MÌNH.. 47
TN 25-A120: Đồng Lương Xứng Đáng. 48
TN 25-A121: CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN.. 51
TN 25-A122:BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 25 TN A.. 53
TN 25-A123: ÔNG CHỦ TỐT BỤNG.. 56
TN 25-A124: Chúa xót thương. 58
TN 25-A125: Bài 1: ÔNG CHỦ RỘNG LƯỢNG.. 63
TN 25-A126: Bài 2: LÝ LẼ CỦA CON TIM... 65
TN 25-A127: Bài 3: TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA.. 67
TN 25-A128: Bài 4: NIỀM HY VỌNG TUYỆT VỜI 70
TN 25-A129: Bài 5: CHÚ GIẢI 72
TN 25-A130: TÓM Ý.. 77
TN 25-A131: CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN A.. 80
TN 25-A132: “Lòng bao dung của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người". 87
TN 25-A133: CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN, NĂM A.. 89
TN 25-A134: Chúa Nhật Thường niên XXV 24.9.2017. 92
TN 25-A135: Ghen tị một trong Bảy Mối Tội Đầu. 93
TN 25-A136: Thiên Chúa- Đấng khác con người 96
TN 25-A137: Lòng quảng đại của Thiên Chúa. 98
TN 25-A138: Niềm vui nẩy sinh từ sự xẻ chia. 100
TN 25-A139: Đấng nhân lành "Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa". 103
TN 25-A140: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 104
TN 25-A141: Lòng tốt của Thiên Chúa. 106
TN 25-A142: Minh Họa Lời Chúa - Chúa Nhật 25 TN Năm A.. 110
TN 25-A143: Đếm từng ngày – Lm Xuân Nguyên. 116
TN 25-A144: Phải chăng Thiên Chúa quá bất công?. 118
TN 25-A145: Lòng quảng đại của Thiên Chúa. 121
TN 25-A146: Cách Thiên Chúa trả công. 122
TN 25-A147: Gia Chủ Tốt Bụng Đối Đãi Thợ Vườn Nho. 124
TN 25-A148: Lòng Tốt 129
TN 25-A150: Đường lối của Thiên Chúa. 134
----------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 20:1-16a)
Một công nhân xét lại sổ lương của mình và nhận thấy sở trả thiếu mình một giờ đồng hồ thôi, lập tức: TN 25-A101
Một công nhân xét lại sổ lương của mình và nhận thấy sở trả thiếu mình một giờ đồng hồ thôi, lập tức anh ta khiếu nại với văn phòng quản lý và lấy lại số tiền còn thiếu. Nhân viên văn phòng xin lỗi về sự sơ xuất này và lập tức làm theo lời yêu cầu của công nhân. Đó là lẽ công bằng của người đời nay. Hôm xưa cũng có người thợ làm vườn nho cằn nhằn ông chủ về sự “bất công”, vì ông đã coi những người thợ đến làm muộn cũng được “ngang hàng” với nhóm của anh ta là những người “đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”! Nhưng ông chủ đã khẳng định là ông không đối xử bất công, vì ông làm đúng theo thỏa thuận. Ông chỉ đối xử theo “quyền định đoạt” của mình và theo tính “tốt bụng” của ông mà thôi. Có lẽ đây là điểm chính dụ ngôn muốn áp dụng cho Thiên Chúa.
Giống như gia chủ vườn nho quyết định đi ra mướn thợ làm vườn cho ông, Chúa cũng quyết định đi gặp chúng ta và đưa chúng ta vào vườn nho Giáo Hội của Người ở trần gian này. Rồi Chúa định đoạt số phận đời đời của chúng ta là được chung phần vinh phúc với Người trên thiên đàng, khi Người kêu gọi mọi người nên thánh, khác nào gia chủ thỏa thuận trả cho mỗi người thợ là một quan tiền. Một quan tiền là lương dành cho người làm công một ngày, tượng trưng cho phần thưởng Chúa dành cho chúng ta sau khi chúng ta chu toàn bổn phận làm con Chúa ở đời này. Cách Chúa hành xử quyền định đoạt của Người trên chúng ta, không như một ông vua độc tài, nhưng như một người Cha yêu thương lo lắng cho tương lai tốt đẹp của con cái. Như thế chúng ta phải cảm thấy hạnh phúc và may mắn vì số phận chúng ta được định đoạt và nhất là được bảo đảm nhờ công nghiệp cứu độ của Chúa Giê-su. Hơn nữa, Chúa còn định đoạt khi Người thay thế vườn nho Ít-ra-en bằng vườn nho mới là Giáo Hội trên trần gian, đặt Con Một Người làm Đầu của Nhiệm Thể và cho chúng ta được trở thành các chi thể của Nhiệm Thể ấy. Suy niệm về việc định đoạt này của Thiên Chúa, thánh Phao-lô đã để lại những dòng tuyệt vời được mệnh danh là thánh ca Ê-phê-xô: “Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (1:8-10).
Đúng vậy, một kế hoạch yêu thương phải được thực hiện do một ông chủ “luôn tốt bụng” là Thiên Chúa, Cha chúng ta. Những cử chỉ ưu ái của ông chủ diễn tả sự “tốt bụng” của Chúa đối với chúng ta. Từ tảng sáng đến giờ mười một, ông chủ liên tục đi mướn thợ. Thợ mỗi người một hoàn cảnh, có người đến sớm, có người đến muộn. Quan tâm của ông là không muốn để bất cứ ai phải sống trong nỗi lo lắng không có việc làm và không chăm sóc nổi gia đình, kể luôn cả những kẻ “không ai mướn”. Tuy nhiên hành vi đáng kể nhất chứng tỏ lòng tốt của ông, đó là ông quảng đại giúp đỡ mọi người. Người làm sớm cũng như kẻ làm muộn, tất cả đều trông vào lòng tốt của ông, vào số tiền công nhật ông thỏa thuận. Đấy là hình ảnh của Thiên Chúa nhân lành. Người không tính công của chúng ta bằng thì giờ phụng sự Người và phục vụ tha nhân, nhưng tính bằng cơ hội. Người cho chúng ta những cơ hội làm việc trong vườn nho Giáo Hội và thế giới, để xây dựng Giáo Hội và giúp đỡ anh chị em nghèo khổ. Người muốn chúng ta chia sẻ lòng tốt chúng ta đã nhận được từ nơi Người với anh chị em chung quanh.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta chẳng xứng đáng lãnh nhận ân huệ cứu độ của Chúa do những việc lành chúng ta làm. Tất cả đều là do công nghiệp của Chúa Giê-su. Được Chúa ân thưởng phúc trường sinh là một ân huệ. Được trở nên một thành phần của Vườn Nho Chúa, quả thực là một vinh dự. Vì thế, Chúa Giê-su kể dụ ngôn hôm nay với chủ ý đánh tan ý tưởng cố hữu của chúng ta là nghĩ rằng mình xứng đáng được trả công vì đã làm việc lành phúc đức. Người cũng muốn chúng ta hãy biết tạ ơn Thiên Chúa vì Người nhân lành và tốt bụng với chúng ta. “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” Đó là lời Chúa mời gọi. Vậy chúng ta hãy đáp lại!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
----------------------------------
(Ys 55,6-9; Ph 1,20c-24.27a; Mt 20,1-16a)
Phúc Âm: Mt 20, 1-16ª
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết." Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao"? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?" Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
Suy Niệm:
Chúa Nhật XXV Thường Niên A
Ys 55,6-9; Ph 1,20c-24.27a; Mt 20,1-16ª
Bài Tin Mừng hôm nay rất quen thuộc. Chúng ta đã nhiều lần nghe đọc. Nhưng có lẽ chúng ta vẫn: TN 25-A102
Bài Tin Mừng hôm nay rất quen thuộc. Chúng ta đã nhiều lần nghe đọc. Nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa thấy sáng tỏ hoàn toàn. Thái độ của người chủ hộ hợp lý nhưng có lẽ không mấy hợp tình. Và nếu chúng ta chưa hoàn toàn chấp nhận được thái độ đó, chúng ta còn phải tìm hiểu, bởi vì nói đã được dùng để gợi lên thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta. Còn khúc mắc về thái độ ấy, lòng chúng ta tin vào Chúa vẫn chưa hoàn toàn và đời sống đạo đức của chúng ta chưa chân thực. Chúng ta cứ tìm hiểu bài Tin Mừng trước, vì quan trọng hơn. Rồi nhờ ánh sáng của chính Lời Chúa Cứu Thế, chúng ta sẽ dễ hiểu hai bài đọc kia.
A. Lời Khuyên Của Tin Mừng
Sách Tin Mừng theo thánh Matthêô có nhiều dụ ngôn về Nước Trời, vì chính Ðức Yêsu thường dùng dụ ngôn để nói với dân chúng. Có nhiều lý do để Người dùng hình thức này. Chân lý được diễn tả sống động và phong phú hơn. Nhất là dụ ngôn có thể thoát khỏi giới hạn của không gian và thời gian. Người ở mọi thời và ở mọi nơi cũng như ở mọi trình độ văn hóa đều có thể cảm thấy, nghe thấy, trông thấy một cái gì của chân lý qua hình ảnh và câu chuyện. Nhưng nói như vậy cũng có nghĩa là hình ảnh và câu chuyện gợi lên mầu nhiệm hơn là chứng minh chân lý. Hình ảnh và chuyện kể chẳng bao giờ hoàn toàn vì phải để chỗ cho mầu nhiệm và chân lý vượt xa hơn. Thế nên đối với dụ ngôn, người ta luôn phải vươn tới chân lý và mầu nhiệm, chứ không được dừng lại phê bình hình ảnh và câu chuyện.
Ðó là điều chúng ta phải áp dụng khi tìm hiểu mọi dụ ngôn, không riêng gì dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay. Người gia chủ đi thuê thợ làm vườn nho thật sớm. Ông mặc cả với họ công nhật một đồng. Ba giờ sau, tức là vào khoảng 9 giờ sáng, ông lại gặp những người thợ đứng không, chưa ai mướn. Ông thuê họ đi làm vườn nho cho ông và hứa sẽ trả công đích đáng, tức là không trên một đồng vì đã mặc cả với những người trước như thế. Vào lúc 12 giờ, rồi 15 giờ và 18 giờ, ông còn làm như vậy. Thái độ của ông thật lạ lùng. Ông khác với mọi người. Chỉ còn một giờ nữa là tối, mà còn đi thuê thợ. Nhưng trong dụ ngôn, chuyện kể không phải là điều cốt yếu. Nó dẫn đến một cái gì xa hơn và người gia chủ ở đây đưa về một con người khác.
Vậy sau đó dụ ngôn đã nói thế nào? Người gia chủ bảo viên quản lý trả công cho thợ, và bắt đầu từ người mướn sau cùng. Họ được một đồng. Chắc họ đã phải trố mắt ra bỡ ngỡ và sung sướng nhận đồng tiền không ngờ. Ðiều đó khiến những người trước chan chứa hy vọng. Họ tưởng sẽ được nhiều hơn và đã thầm quý ông chủ. Ai ngờ, họ cũng chỉ nhận được một đồng. Lập tức họ đã càm ràm. Chúng ta thông cảm với họ. Vì ở địa vị họ, ai cũng dễ làm như thế. Họ là loài người chúng ta, đang khi người gia chủ lại không thuộc thế gian này.
Hơn nữa, ở đây, họ còn là dân Dothái và là hạng Biệt phái, những người đinh ninh đã giữ trọn Lề luật và cho mình có quyền coi khinh những người khác, tưởng rằng hạng này sẽ chẳng bao giờ được bằng mình. Chúng ta có thể nghĩ như thế dựa vào những điều Matthêô viết trước đây. Vì trước khi kể dụ ngôn này, ông nói có người thanh niên đã đến hỏi Ðức Yêsu phải làm gì để được sống đời đời. Và anh khoe đã giữ trọn Lề luật. Nhưng đến khi Người bảo anh đi bán mọi sự và lại đây đi theo Người như Phêrô và các Tông đồ, những người đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa, anh đã bỏ đi một cách buồn phiền. Và Ðức Yêsu đã kết thúc câu chuyện của anh bằng câu: Kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết. Người cũng dùng câu ấy để chấm dứt câu chuyện về các người thuê mướn, khiến chúng ta như được mời gọi đồng hóa dân Dothái giữ Lề luật và hạng Biệt phái với những kẻ đến trước và mướn trước còn những người đến sau và mướn sau là các Tông đồ và Dân Mới, dân ngoại trở lại của Nước Trời sau này. Dưới mắt người Dothái, dân ngoại và các Tông đồ đi theo Ðức Yêsu chỉ là con nít và trẻ nhỏ sánh với các ông Biệt phái và Dân được tuyển chọn. Nhưng ở đây Ðức Yêsu vừa tuyên bố Nước Trời là của những người bé nhỏ. Và Người kể câu chuyện dụ ngôn hôm nay ở trong chiều hướng đó, khiến chúng ta khi hiểu như thế, sẽ thấy bài dụ ngôn sáng sủa hơn.
Vậy, những người được mướn trước đã phàn nàn thế nào? Họ nói: "Hạng cuối hết này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại kể ngang hàng với chúng tôi là những kẻ đã vác nặng cả một ngày trường với nắng nôi thiêu cháy". Họ so sánh, phân bì, ghen tương. Họ không chịu cho anh em được bằng mình. Họ nói lên tâm trạng của Biệt phái và người Dothái khi thấy Chúa thương xót người thu thuế tội lỗi và lương dân. Tâm địa còn được nhiều dụ ngôn khác nói lên. Như trong truyện "người con phung phá", người anh đã bất bình, không muốn chia sẻ tình thương của người cha với đứa em... Và trong chuyện Zakhê, các Biệt phái đã bất bình khi thấy Chúa Yêsu ngồi ăn với những thu thuế. Rồi trong chuyện xảy ra tại nhà ông Simon, người ta cũng càm ràm khi thấy người phụ nữ tội lỗi được lòng thương xót của Chúa. Và trong mọi câu chuyện trên, Ðức Yêsu đều muốn dạy người ta bài học này: "Ta muốn lòng nhân nghĩa chứ không phải hy lễ!".
Ở đây cũng vậy, Người muốn chúng ta đối với Nước Trời phải nên như trẻ nhỏ, không nên cậy dựa vào công việc của mình và nhất là không được biệt phái, kỳ thị anh em. Người kể dụ ngôn sau khi thấy người ta xua đuổi các trẻ nhỏ, không cho chúng đến với Người. Nhưng Người bảo Nước Trời là của những người giống như chúng. Thế thì những người thợ mướn cuối cùng đây cũng đáng thương. Người gia chủ đã thương họ khi gọi họ vào làm khi trời đã xế. Ông muốn những người đến trước cũng đồng phận như kẻ đến sau, phải nhìn nhận những người này như đồng liêu và tay chân của mình để sung sướng khi thấy họ cũng được hạnh phúc như mình. Nhưng khốn nỗi, người ta lại ích kỷ, không nghĩ như Chúa. Và đó là điều Chúa muốn nói lên trong bài dụ ngôn để người ta sửa lại. Và lời khuyên này Isaia đã tiên báo và Phaolô sẽ thi hành. Chúng ta hãy tìm hiểu hai bài đọc này.
B. Isaia Tiên Báo Ðường Lối Của Chúa
Nhà tiên tri loan báo Lời Chúa hôm nay vào khoảng cuối thời Lưu đày. Ðã 50 năm Dân Chúa phải xa quê hương. Còn có hy vọng trở về nữa không? Các tiên tri cứ loan tin Chúa sẽ cứu đấy. Nhưng bao giờ? Và cách nào? Cứ xem tình hình cụ thể, chẳng có gì hứa hẹn cả. Thế nên nhiều người đã tính chuyện làm ăn lâu dài ở đất khách, người khác nản chí đâm ra tội lỗi. Chỉ còn một thiểu số nhỏ nhoi tin vào Lời Hứa và chờ đợi. Họ được các tiên tri khích lệ, mà Isaia là một.
Hôm nay ông nói: Hãy tìm kiếm Chúa, vì Người còn cho gặp; hãy kêu khấn Người, vì Ngưòi còn ở gần bên. Nghĩa là nhà tiên tri bao dân đừng nản chí, đừng bỏ Chúa vì Người còn cho gặp và còn ở gần bên, chứ chưa đoạn tuyệt bỏ đi không đoái hoài đến chúng ta nữa. Người chỉ chờ ác nhân bỏ đường lối của nó và trở lại để Người chạnh thương.
Vẫn là những lời khuyên cũ kỹ ư? Dân nghe mãi những lời ấy rồi. Isaia biết như vậy. Ông phải đem đến cho Dân những ý tưởng mới mẻ. Hoặc ông phải thay đổi cách Dân suy nghĩ. Và đây là lời ông tuyên bố nhân Danh Chúa. Nói đúng hơn, ông xin Người nói thẳng cho Dân cứng đầu cứng cổ này. Và Chúa phán: "Ý nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi... vì trời cao hơn đất bao nhiêu cũng vậy đường lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi".
Những lời thật đơn giản và thật chắc chắn. Không cần biện minh gì cả. Trời với đất xa nhau. Chúa cũng xa chúng ta như vậy và đường lối Người sánh với ý nghĩ của chúng ta cũng thế. Chúng ta cứ quanh quẩn với những suy tư nhỏ bé của mình đang khi Chúa bao quát mọi sự một cách tuyệt diệu. Ai khôn thì cứ tin tưởng vào Người; và ai tin Người thì cứ lấy lời Người làm ánh sáng. Người bảo Người sẽ cứu Dân thì nhất định Người sẽ cứu cho dù lúc này không thấy có dấu chỉ nào.
Và quả thật Chúa đã cứu Dân một cách không ai ngờ được. Và việc giải cứu của Người vượt quá mọi dự liệu của người ta. Người ta được cứu mà tưởng như mơ... Lúc đó mới thật phúc cho những kẻ đã tin tưởng ở Lời Chúa và bẽ bàng thay cho những kẻ suy tính theo ý mình.
Thế mà nhiều người vẫn không sống theo chân lý mạc khải ấy, kể cả những người vẫn đọc sách Isaia như Biệt phái và Luật sĩ đời Ðức Yêsu. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy rõ họ vẫn suy nghĩ theo ý mình và không mảy may quan tâm đến Ý Chúa. Nên một lần nữa Chúa Yêsu lại phải dùng dụ ngôn để nhắc lại cho họ và kêu gọi họ hãy đi vào đường lối của Người. Họ hãy chia sẻ lòng thương xót của Người muốn cứu vớt tất cả mọi người là đồng liêu của họ, nhưng luôn luôn bị họ coi là rốt bét không đáng được công như mình. Thánh Phaolô thì cư xử khác hẳn.
C. Phaolô Thi Hành Ý Chúa
Thánh Tông đồ đã viết những hàng thư này khi đang bị cầm tù. Người không rõ số phận sẽ ra sao: được tha hay phải chết? Có điều chắc chắn "mọi lúc sao bây giờ cũng vậy, Ðức Kitô phải được tôn vinh nơi thân mình tôi, dù tôi sống hay tôi chết". Ước gì mọi người chúng ta có thể quả quyết như người. Người đã dâng cuộc đời mình cho Ðức Kitô hay như người nói trong câu tiếp, đối với người sống chính là Ðức Kitô. Nghĩa là Ðức Kitô là lẽ sống của người, thì dù sống hay chết, người vẫn thuộc về Ðức Kitô và làm vinh hiển Chúa nơi thân xác tức là trong cuộc đời của người. Người là Kitô hữu đầy đủ nhất và là gương mẫu của hết thảy chúng ta.
Vậy đối với người đã sống hoàn toàn cho Chúa thì vấn đề sống hay chết không còn ý nghĩa gì nữa. Nói đúng hơn không còn là vấn đề nữa; vì dù mạng sống của người ấy đã ở trong tay Chúa, họ vẫn còn tự do để suy nghĩ hầu tìm ra ý nghĩa cao cả của Ý Chúa nhiệm mầu. Và thánh Phaolô trong bài thư hôm nay đã làm như vậy. Một đàng Người chắc chắn dù sống hay chết, cuộc đời của người vẫn làm vinh hiển Ðức Kitô; thế nên người cảm thấy bình an, phấn khởi thật sự trước tương lai không rõ rệt. Ðàng khác, người vẫn cố suy nghĩ về Ý Chúa nhiệm mầu trong cả hai trường hợp hoặc sống hoặc chết, để có thể tôn vinh Chúa hơn khi kết hợp ý chí của mình vào thánh ý Chúa. Người nghĩ: chết là điều tối hảo gấp bội vì được thoát ly khỏi đời này và được ở cùng Ðức Kitô. Nhưng lưu trú trong thân xác lại khẩn trương vì người cần cho giáo dân và các linh hồn. Nghĩ như vậy, thì người thấy ngay chắc chắn người còn được sống để phục vụ vì Ý Chúa vẫn muốn xót thương cứu độ mọi người.
Thánh Phaolô quả thật đã thi hành Lời Chúa khuyên trong bài Tin Mừng và được Isaia báo trước. Chúa muốn chúng ta luôn tôn trọng quan điểm của Chúa và biết bỏ mình để làm theo Ý Người, Mà Ý của Người là cứu thế và cứu hết mọi người, kể cả những người mà chúng ta vẫn coi như là rốt hết. Người muốn cho họ cũng được hưởng lòng xót thương của Người và Người muốn chúng ta chia sẻ thái độ phải có đối với những người anh em lỗi phạm, nay được bổ túc bằng lời kêu gọi chúng ta đưa anh em vào trong hạnh phúc viên mãn mà chính chúng ta đang ao ước cho mình.
Thánh lễ này theo Ý Chúa cũng phải được cử hành trong chiều hướng đó. Chúa muốn tất cả mọi người được đưa vào kết hợp trong một thân thể mầu nhiệm, để trong cuộc sống hằng ngày, không ai loại trừ ai ; nhưng nhìn vào lòng Chúa xót thương mọi người, chúng ta bỏ mọi ý nghĩ so sánh ghen tương của mình để cầu mong và giúp đỡ cho mọi anh em được hạnh phúc như chúng ta và hơn chúng ta. Như vậy chúng ta sẽ đẹp lòng Chúa và đã thi hành Lời Chúa nói với chúng ta qua các bài Kinh Thánh hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
----------------------------------
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 20:1-16a)
Một quan tiền, đó là giá cả tiền lương ông chủ thỏa thuận với các người thợ ông mướn làm vườn: TN 25-A103
Một quan tiền, đó là giá cả tiền lương ông chủ thỏa thuận với các người thợ ông mướn làm vườn nho cho ông. Việc ông chủ trả cho các người thợ số tiền công như nhau mặc dù họ làm nhiều giờ hay ít giờ đã gây nên nhiều “vấn đề”! Vấn đề đầu tiên là về ông chủ khi những người thợ làm từ sáng sớm cằn nhằn là ông bất công. Nhưng vấn đề cũng là về những người thợ được ông chủ trả lời khi ông cho họ thấy chẳng những ông không bất công, mà chính họ lại là những người ganh tị vì thấy ông “tốt bụng” với người khác. Nói tóm lại, mọi “phiền phức” đã nảy sinh chỉ vì ông chủ vườn nho quá tốt bụng! Đây cũng là ý tưởng chính mà Chúa Giê-su muốn nói lên qua dụ ngôn Thợ làm vườn nho. Chúng ta hãy xem ông chủ tốt bụng như thế nào.
Trước hết sự tốt bụng của ông chủ được thể hiện qua việc ông đích thân đi mướn thợ làm vườn nho. Từ tảng sáng đến gần buổi chiều, cứ mỗi giờ là ông lại ra ngoài chợ để kiếm người làm. Thái độ “kiếm người” này rõ ràng cho thấy ông không quan tâm mấy đến vườn nho của ông cho bằng tình trạng thất nghiệp của đám người lang thang ngoài chợ để kiếm việc. Ông chỉ nghĩ tới hoàn cảnh của họ và gia đình họ. Không những cá nhân họ, mà cả vợ con họ cũng đều trông vào tiền công để mà sống. Thuê họ vào làm vườn chỉ là việc ông tạo cơ hội cho họ biểu lộ nhân phẩm và tư cách người làm chủ gia đình có thể bao bọc được vợ con. Khi ông chủ bảo những người sau cùng: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”, chúng ta thử tưởng tượng coi họ vui mừng biết chừng nào. Gần hết một ngày họ chờ đợi hầu như thất vọng, giờ đây vị cứu tinh tới. Chắc chắn hơn ai khác, họ là những người cảm nhận được sự tốt bụng của ông.
Tiếp đến, sự tốt bụng của ông lại càng rõ ràng hơn trong việc trả lương cho thợ. Khi trả lương cho những người vào làm trước hết, người ta khó mà nhận ra được sự tốt bụng của ông vì không có sự so sánh. Nhưng khi trả cho những người làm sau cùng một số lương như những người đầu tiên, thì quả thực ông đã tốt bụng đối những người sau này rồi! Chúng ta không hiểu được động lực nào khiến ông tốt bụng với họ như vậy, nhưng chắc chắn ông có lý do. Hơn nữa, đối với những người thợ đầu tiên, ngoài vấn đề công bằng ra, ai dám nói rằng ông chủ không tốt bụng? Vấn đề là họ không nhìn nhận hoặc không muốn nhìn nhận sự tốt bụng của ông chỉ vì ganh tị thôi. Nếu họ cũng “tốt bụng” như ông chủ, họ sẽ dễ cảm thông với những người đến sau.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chủ đề Thiên Chúa là Đấng nhân lành, quảng đại đã được nói đến nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước. Chúa Giê-su cũng có cách riêng để diễn tả Thiên Chúa nhân lành như thế nào, nhất là qua lời giảng khai triển Bài giảng trên núi. Hôm nay bằng một dụ ngôn lấy từ đời sống thực tế, ông chủ thuê thợ vào làm vườn nho, Người muốn nói với chúng ta về một Thiên Chúa “tốt bụng”. Sự tốt bụng của Thiên Chúa không chỉ để chúng ta thán phục lòng quảng đại của Người, nhưng cũng là dịp để chúng ta nhìn lại xem mình đã “cằn nhằn về Chúa” và “ghen tức với người khác” như thế nào. Thực ra thì hai điều này cũng là một mà thôi. Chúng ta cằn nhằn Chúa bất công với chúng ta, cho nên chúng ta ghen tức với người khác.
Thái độ cằn nhằn và ghen tức thường hoạt động giấu mặt chứ ít khi lộ liễu. Nó khôn khéo và từ từ đưa chúng ta xa dần Chúa, không còn tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Người nữa. Nó cố gắng phóng đại ý tưởng Chúa bất công trong tâm hồn chúng ta, bằng cách so sánh chúng ta với người khác. Nó thổi phồng sự “công bằng” và thu nhỏ sự “tốt bụng” của Thiên Chúa. Nó muốn làm cho trái tim chúng ta teo lại, không biết cảm thông và xót thương người khác nữ
a, để chúng ta gián tiếp “trả thù” Thiên Chúa vì Người bất công với chúng ta!
“Hãy đi vào vườn nho!” là lời Chúa kêu gọi hết mọi người. Cùng với lời gọi ấy, Chúa tốt bụng ban cho chúng ta đủ tài năng và điều kiện để có thể làm lợi cho vườn nho Giáo Hội của Người. Quan trọng là việc phục vụ, còn “một quan tiền” là do sự tốt bụng của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy mau mắn đáp lại lời gọi của “Ông Chủ tốt bụng” nhé!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
--------------------------------------------------------------------
Mt 20:1-16a:
1"Quả thế, về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông. 2Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền một ngày, ông sai họ vào vườn nho của ông. 3 Giờ thứ ba, ông ra và thấy có những người khác còn vô công rỗi nghề đứng nơi đầu chợ, 4 nên ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho! Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh." 5 Và họ đã đi. Lối sáu giờ, rồi chín giờ, ông còn ra và cũng làm như vậy. 6 Lối mười một giờ, ông đi ra và thấy có những người khác còn đứngđó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày vô công rỗi nghề thế?" 7 Họ đáp: "Ấy vì không có ai thuê chúng tôi cả". Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!" 8 Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người cai việc: "Ông gọi thợ ại và trả trọn công cho mọi người, khởi từ cuối hết cho đến hầu hết". 9 Những người vào làm lối mười một giờ đến và họ lĩnh mỗi người một quan tiền. 10Khi hạng đầu hết đến, họ cầm chắc là họ sẽ lĩnh nhiều hơn. Nhưng cả họ nữa, họ cũng chỉ lĩnh mỗi người một quan. 11 Lĩnh xong, họ kêu trách gia chủ rằng: 12 “Hạng cuối hết này chỉ làm có một giờ,thế mà ông lại kể ngang hàng với chúng tôi, là những kẻ đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”. 13 Ðáp lại chủ bảo một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi không xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? 14Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này bằng, tôi muốn thế. 15 Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao? Hay mắt bạn lườm nguýt vì tôi tốt lành?” 16 Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và những kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết. [Vì kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít.]
Vào cuối chương 19, Phêrô đặt ra vấn đề phần thưởng cho việc đi theo Chúa Giêsu Kitô. Và Chúa: TN 25-A104
Vào cuối chương 19, Phêrô đặt ra vấn đề phần thưởng cho việc đi theo Chúa Giêsu Kitô. Và Chúa đã hứa với các môn đệ một phần thưởng “gấp trăm và sự sống đời đời” (19:27-29). Dụ ngôn nầy liên kết với đoạn trên như một minh họa (“vì thế”, gar). Dụ ngôn 20:1-15 được đóng khung bởi hai câu 19:30 và 20:16, và chủ đề của dụ ngôn nói đến sự tự do của Thiên Chúa trong việc thưởng công. Về bố cục, dụ ngôn có thể phân thành hai phần: mướn người vào làm vườn nho (20:1-7), và trả tiền công (20:8-15). Các từ vựng chính chi phối trong dụ ngôn nầy liên quan đến giờ giấc và thứ tự: “giờ thứ nhất”, “giờ thứ hai”…, và “người trước hết”, “người cuốì hết”.
Mướn người làm công cho vườn nho (cc. 1-7)
Phần thứ nhất của dụ ngôn nói về việc mướn người vào làm vườn nho. Công thức mở đầu dụ ngôn cũng thấy trong 18:23, “Nước Trời giống như ông vua kia”. Thật ra, Nước Trời không giống “như ông vua”, mà giống như câu chuyện ông chủ mướn người vào làm vườn nho mình. Cũng như Nước Trời không giống như “người buôn ngọc quý”, mà như “viên ngọc quý” (13:45); Nước Trời không giống “ông vua làm tiệc cưới cho con mình”, mà giống “tiệc cướì” (22:2). Như thế chỉ có hiểu Nước Trời như thế nào từ những điều rút ra từ nội dung của dụ ngôn.
Ông chủ mướn người vào các giờ khác nhau vào làm vườn nho. Các hạn từ “Chủ nhà”, “chủ vườn nho”, “vào vườn nho”, eis ton ampelōna, (cc. 1.2.4.7.8), làm nghĩ đến Thiên Chúa và dân Israel, “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh đó là nhà Israel” (5:7). Việc thuê mướn và trả công, misthoomai, và nói đến trong dụ ngôn nầy mang ý nghĩa cánh chung (x. 5:12; 6:1; 10:41tt).
Sau dẫn nhập, Matthêô trình bày ông chủ mướn nhóm người đầu tiên từ sáng sớm (c. 2) tách biệt khỏi nhóm thứ hai gồm những người được mướn vào “từ giờ thứ ba” cho đến “giờ thứ mười một” (cc. 3-5). Nhóm người đầu tiên nầy có một điểm khác biệt tương phản so với nhóm sau là có sự thỏa thuận giữa họ với chủ nhà về tiền công nhật là “một quan tiền” (c. 2). Sự thoả thuận nầy cho thấy có sự mặc cả, tính toán. Matthêô đã khéo trình bày “đồng ý với thợ một quan tiền” trước, rồi mới đến “ông chủ sai vào vườn nho”.
Trái với nhóm sau, ông chủ chỉ hứa “Tôi sẽ trả công bằng cho các anh” (c. 4), và mệnh lệnh “Cả các anh nữa hãy đi làm vườn nho” (cc. 4.7). Về nhóm nầy, Matthêô ghi nhận là họ “đứng vô công rỗi nghề”. Tính từ argos, (= a + ergos), nghĩa là “không có việc”, “vô dụng” (x. 12:36). Qua tính từ nầy Matthêô cho thấy sự vô dụng của những người trong nhóm thứ hai, và lòng tốt của chủ nhà. Chủ nhà dùng động từ “cho”, didōmi, đối với những người nầy, thay vì “trả công”, misthoomai, đối với nhóm đầu tiên, hay theo cách suy nghĩ bình thường của những người vào giờ thứ mười một (c. 7). Didōmi dùng cho Thiên Chúa. Ngài ban ơn do lòng tốt, chứ không bởi công lao con người (6:11; 7:7).
Vậy với phần đầu tiên nầy Matthêô trình bày việc ông chủ mướn hai nhóm người vào làm vườn nho. Một nhóm đi làm dựa trên sự thỏa thuận có tính toán, và một nhóm nhiều người hơn, đến vào các giờ khác nhau. Phần thưởng cho nhóm người nầy dựa trên lòng tốt của chủ nhà.
Trả tiền công (cc. 8-16)
Phần thứ hai nói đến việc trả tiền công. Những câu đầu (cc. 8-10) trình bày bối cảnh và việc trả tiền công cuối ngày. “Chiều đến” (c. 8), chỉ dẫn thời gian, đóng khung lại một ngày làm công “từ sáng sớm” (c. 1). Người chủ nhà bây giờ được gọi là “chủ vườn nho”. Tất cả các người làm công, ergatēs, đều được gọi vào để trả tiền (c. 1.8). Thứ tự “người trước” và “người sau” bây giờ đảo ngược lại. Người làm giờ thứ mười một được gọi vào trước, và người làm công từ sáng sớm vào sau cùng. Thứ tự nầy cũng thấy trong câu kết đóng khung đoạn nầy (cc. 8.16).
Những câu tiếp đến trình bày cuộc tranh luận giữa chủ vườn nho và những người làm giờ đầu tiên (cc. 11-15). Trước tiên là phản ứng của những người nầy (cc. 11-12). Họ “lẩm bẩm”, gongyzō. Động từ nầy chỉ dùng một lần ở đây trong tin mừng thứ nhất. Thánh sử Luca cũng chỉ dùng động từ nầy một lần, và trong ngữ cảnh Chúa Giêsu “ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi” (Lc 5:30). Đối với người Pharisêô đó là điều trái luật. Như thế có thể hiểu là nhóm người đầu tiên nầy “lẩm bẩm” vì chủ vườn nho hành xử không đúng luật; vì thế mà chủ vườn nho hỏi “tôi không được phép làm điều tôi muốn” ở câu 15. Rồi họ đưa ra sự kiện là ông chủ “kể những người làm một giờ ngang hàng với chúng tôi” (c. 12). Như thế, họ muốn chủ vườn nho phải cư xử “đúng luật” là trả họ số tiền lớn hơn.
Tiếp đến là phản ứng của chủ vườn nho (cc. 13-15). Trong các câu nầy, chủ vườn nho ngỏ với “một người trong nhóm họ”. Trước tiên ông khẳng định về sự công bình. Ông đã không bất công với người ấy, ”ouk adikeō (c. 13a), và ông nhắc lại sự thoả thuận giữa đôi bên (c. 13b). Ở trên, nhóm người đầu tiên đặt mình so sánh họ với những người đến sau. Ở đây chủ vườn nho đặt họ so sánh với chính mình. Ông nói đến sự tự do của mình.
“Tôi muốn”, thelō, được dùng đến hai lần trong hai câu 14 và 15. Muốm là hành động. Trong câu 14, chủ vườn nho cho biết “tôi muốn” là động lực ông trả tiền cho người cuối ngang hàng với người ấy, chứ không theo bất cứ sự tính toán nào khác. Động từ didōmi lập lại ở đây, “Tôi muốn cho như bạn”. Ông tự do làm theo ý muốn của mình. Câu 15 gồm hai câu hỏi mà câu trả lời phải là “vâng”. Ông đặt ra tính hợp pháp của việc ông làm. Câu hỏi “Tôi không được phép, exestin, làm như tôi muốn?” hàm ý là đối với người đầu tiên việc ông đã làm là không đúng luật. Tuy nhiên Chúa Giêsu luôn luôn đứng trên lề luật. (12:12-13; 22:17tt).
Trong câu hỏi thứ hai, chủ vườn nho tiếp tục biện minh cho cách cử xử của mình: “mắt anh xấu vì tôi tốt lành?” (c. 15b). Có một số bản văn dịch chữ ponēros là “ghen tị”, “thèm muốn”. Ở đây tôi nghĩ cách tốt nhất là vẫn dùng chữ “xấu” cho từ nầy, và tìm cách giải thích từ nầy được hiểu theo nghĩa nào trong văn mạch nầy. Chủ vườn nho đặt đối chiếu “con mắt xấu” với “tôi là tốt”: “Hay là con mắt anh xấu vì tôi tốt lành?”.
Hiểu thế nào là “mắt xấu” được dùng như một ẩn dụ ở đây. “Con mắt” là một phần thân thể, nhưng chỉ cả con người, bên trong lẫn bên ngoài. “Mắt xấu, ponēros” dẫn đến tối tăm cả con người (6:23). Câu hỏi của chủ vườn nho làm cho người đối thoại phải đặt lại vấn đề về con mắt của mình; đồng thời cũng cho thấy nhận xét của chủ vườn nho về con mắt của người ấy. “Phải chăng là mắt anh xấu…?”, nghĩa là “nên mù loà, tối tăm vì không chịu nỗi sự tốt lành sáng ngời của tôi?” Sự tốt lành của chủ vườn nho làm cho người nầy thấy sự xấu xa của mình. Họ xấu vì họ đã không hài lòng với sự công bình mà họ đã thỏa thuận với chủ ngay từ đầu, bởi đó chủ mới bảo họ: “Hãy lấy phần bạn mà đi” (c. 14a). Họ xấu vì đã tỏ ra tính toán, ghen tị, tương phản với sự không tính toán và quảng đại của chủ vườn nho. Chúa đến làm cho tâm can mọi người thổ lộ (x. Lc 2:35). Nhận xét nầy làm liên tưởng đến thái độ không tốt của người anh cả đứng trước sự quãng đại của người cha nhân hậu trong Lc 15:11-32.
Câu 16 đóng khung lại phần hai nầy và cũng là kết luận của dụ ngôn. Người cuối cùng trở nên trước hết bởi lòng tốt của chủ vườn nho, và người trước hết lại nên cuối hết, vì họ không hiểu, nên không chấp nhận lòng tốt của ông. Trong văn mạch của đoạn 19:27-30, “người sau hết” có thể hiểu là các môn đệ. Họ là những người đến sau giữa những người đầu tiên như người giàu có (19:16-22). Và họ sẽ trở nên “người trước hết”. Điều nầy được Chúa Giêsu báo trước là họ sẽ “ngồi trên mười hai ngai và sẽ xét xử mười hai chi tộc Israel” (19:28). Như thế họ sẽ là “những người trước hết” trong Nước Trời.
Sự công bình của Thiên Chúa dựa trên lòng tốt của Ngài. Ngài quyết định theo ý muốn của Ngài chứ không theo tiêu chuẩn của con người. Bỏ mọi sự mà theo Ngài và làm việc cho vườn nho của Ngài, con người sẽ được ân thưởng vượt quá công nghiệp của mình và lòng mình ước mong.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
----------------------------------
Chúa nhật 25 Mt 20:1-16ª
Tuần qua, sau một ngày mệt nhọc câu được một thùng đầy cá nhỏ, chúng tôi đổi địa điểm xem làm ăn: TN 25-A105
Tuần qua, sau một ngày mệt nhọc câu được một thùng đầy cá nhỏ, chúng tôi đổi địa điểm xem làm ăn có khấm khá hơn không. Con đầu tiên tại địa điểm mới là con cá vô giá trị như loài trê biển to bằng cổ tay. Giận quá, chúng tôi ném cá ngay lên bờ và sửa soạn ra về.
Sau mười phút, cá đã bị kiến bu đầy. Kiến từng đoàn lũ kéo đến, reo hò như lần đầu tiên vớ được món bở nhất trên đời. Đàn kiến như mở hội trên thân mình béo mập này. Con bám râu, đục mắt. Con trèo lên mình. Con cắn sau đuôi. Trước cảnh tượng đó, cá nằm như bất động. Thực tế cá vẫn sống mặc dù đã bắt đầu ngả màu. Thấy tội nghiệp, tôi thả cá về biển. Vừa trở lại biển khơi, cá lao đi như chớp. Thế là đang ở thế chủ động, kiến biến thành mồi ngon cho cá. Tất cả đã đảo ngược.
CẠNH TRANH HAY PHI CẠNH TRANH ?
Trên đời khó lường được khi nào kiến ăn cá hay cá ăn kiến. Trong thế giới con người cuộc cạnh tranh ráo riết trên nhiều phương diện, hứa hẹn rất nhiều bất ngờ, thú vị và ngoạn mục. Không cạnh tranh, con người không thể tiến bộ. Cạnh tranh chính là định luật “mạnh được yếu thua”.
Chúa Giêsu muốn phá vỡ luật cạnh tranh đó trong Nước Thiên Chúa, mà vẫn không làm mất tính sáng tạo, lòng phấn khởi và nỗ lực con người. Nhưng nếu Chúa không tìm được một cái gì thay thế luật tự nhiên đó, người ta sẽ mất hết hứng thú trong việc xây dựng Nước Chúa ở trần gian.
Rất may, Người kêu gọi mọi người phải biết nhìn xa hơn công trạng. Chính Đấng thưởng công mới đáng kể. Nếu tất cả tùy thuộc Thiên Chúa, chắc chắn người ta sẽ tìm mọi cách thu hút lòng Chúa xót thương. Chỉ có một cách thu hút lòng Chúa xót thương đó là phải xót thương như Chúa. Thực vậy “phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). Đức Maria đã trở thành hấp lực mãnh liệt nhất lôi kéo đôi mắt nhân từ của Chúa.
Trong dụ ngôn vườn nho hôm nay, Chúa cho thấy ngườiø làm từ sáng sớm hay kẻ đến lúc chiều tà đều được hưởng một đồng lương như nhau. Thật là bất công ! Như thế còn ai cố gắng đến sớm làm chi ? Thực ra, từ hoàn cảnh con người nhảy vào thế giới Thiên Chúa, lý trí hầu như tê liệt. Chính Chúa nói rõ: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta” (Is 55:8).
Còn nghĩ tới công xá trong vườn nho Thiên Chúa tức chưa thấy được sự thật. Sự thật sẽ giải thoát khỏi những hạn hẹp của thế giới con người. Nếu chỉ căn cứ vào công trạng cá nhân, làm sao có thể hiểu nổi Thiên Chúa là Đấng thương xót.
Chính vì chỉ biết cá nhân với những công trạng đầy mình như ăn chay một tuần hai lần, bố thí một phần mười cho kẻ nghèo khó, anh Biệt phái đã trở về tay không. Trái lại người thu thuế lại chan hòa niềm vui vì được Chúa xót thương.
Quá chú ý tới công trạng sẽ quên mất Đấng thưởng công chính là Thiên Chúa. Thiên nhiên và cuộc sống đầy dẫy dấu vết lòng từ bi Chúa. Chúa Giêsu “không bao giờ mập mờ trong việc công bố lòng thương xót của Thiên Chúa, nhất là qua dụ ngôn và lời giảng, Chúa mạc khải lòng xót thương của Thiên Chúa khi tiếp xúc hằng ngày với quần chúng thuộc mọi giai tầng xã hội.” (Upton:654) Chúa đến để cho chúng ta thấy Thiên Chúa thực sự quan tâm, chăm sóc và lo lắng đến hạnh phúc con người.
TÌM MỘT HƯỚNG SỐNG
Qua dụ ngôn vườn nho hôm nay, Chúa Giêsu không những mạc khải Thiên Chúa đầy lòng thương xót, nhưng còn cho thấy lòng xót thương vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Hơn lúc nào xã hội hôm nay đang vắng bóng lòng xót thương. Lòng dạ chai đá đã tạo nên bao nhiêu thảm cảnh xã hội. Bạo lực đã phá vỡ những khung cảnh bình an nhất như học đường, thánh đường, bệnh viện v.v. Sự tàn bạo đã có mặt khắp nơi. Con người không thể tha thứ cho con người như Thiên Chúa đã tha thứ cho họ. Nhiều người vẫn còn sống theo luật rừng. Não trạng công bình quá mức có thể tạo nên bất công ngay trong những tương quan hằng ngày.
Không vượt qua được não trạng đó, Kitô hữu không thể xây dựng Nước Thiên Chúa ở trần gian. Bao lâu còn dừng lại ở cái tôi, họ không bao giờ hiểu được tại sao có những người chuyên môn “ăn cơm nhà vác ngà voi.” Có những anh em Kitô hữu hi sinh hơn họ tưởng. Nhiều người đã hi sinh mạng sống, thời giờ, sức lực, tiền của vì hạnh phúc tha nhân. Họ hăng say đóng góp cho những công việc xứ đạo mà không mong được một chút lợi nhuận nào, ngoài chính mối lợi là Đức Kitô, hiện thân của lòng xót thương. Hơn thế, họ còn tham gia tích cực vào công cuộc bác ái, thể hiện lòng Chúa xót thương đối với những người nghèo khổ.
Hăng say ngày đêm như thế chỉ vì họ cảm thấy đã được Chúa xót thương quá nhiều. Họ phấn khởi chỉ vì ý thức rằng “sống là Đức Kitô” (Pl 1:21). Trong Đức Kitô, kiến và cá sẽ sống chung hòa bình như chiên con nằm chung với sư tử vậy.
Lm Đỗ Vân Lực, OP
----------------------------------
Trong đời sống cộng đoàn, việc sửa lỗi anh chị em là điều cần thiết để giúp nhau trở nên hoàn thiện: TN 25-A106
Trong đời sống cộng đoàn, việc sửa lỗi anh chị em là điều cần thiết để giúp nhau trở nên hoàn thiện hơn. Một khía cạnh khác cũng không kém phần quan trọng, đó là quảng đại tha thứ cho nhau. Theo bản chất con người, tha thứ là điều khó khăn vô cùng, chưa nói đến những trường hợp người ta không bao giờ tha thứ được. Nhưng lại có những điều ta không thể làm được tự sức riêng loài người thì lại có thể làm được nhờ ơn Chúa trợ giúp, nhất là khi ta nhớ đến Chúa luôn tha thứ cho ta và khi ta liên kết với Chúa Ki-tô, một mẫu gương tuyệt vời về tha thứ.
1. “Đường lối của Thiên Chúa” là giàu lòng xót thương và rộng lòng thứ tha (bài đọc Cựu Ước – Is 55:6-9)
Nhiệm vụ của ngôn sứ I-sai-a là kêu gọi dân Ít-ra-en lầm lỗi hãy trở về với Thiên Chúa. Còn chịu ảnh hưởng của dân ngoại nên Ít-ra-en vẫn nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ cư xử với họ giống như các thần cư xử với dân ngoại, nghĩa là cư xử theo cách của loài người, lấy ác báo ác. Cứ theo lối suy nghĩ của người đời, kẻ làm điều ác là phải chịu phạt. Còn theo lối suy nghĩ của Thiên Chúa, kẻ ác cần phải hối cải và Thiên Chúa lúc nào cũng sẵn sàng tiếp nhận họ trở về chính lộ. Dân Ít-ra-en đã làm điều dữ đối với Chúa và họ biết mình sẽ bị phạt. Nhưng qua ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa nói cho họ biết họ cứ an tâm hối cải, vì Người “sẽ xót thương và sẽ rộng lòng tha thứ”. Người bảo họ đừng lấy lối suy nghĩ của người đời mà hiểu lối suy nghĩ của Thiên Chúa. Đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa hoàn toàn khác biệt với đường lối và tư tưởng của loài người, khác biệt như trời với đất. Thiên Chúa muốn con người hãy từ bỏ đường lối và tư tưởng của họ để đi theo đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa. Nhưng khác biệt như thế thì làm sao con người có thể làm chuyện thay đổi ấy được, ngay cả đến biết được đường lối của Chúa cũng là chuyện đội đá vá trời rồi.
Thiên Chúa đã có cách giúp nhân loại biết được và đi theo đường lối và tư tưởng của Người. Người cho ta thấy và hiểu được đường lối và tư tưởng của Người qua Chúa Giê-su Ki-tô. Chúa Ki-tô biểu lộ chính tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa. Chúa Ki-tô giàu lòng xót thương và rộng lượng thứ tha. Đó là điều ta dễ dàng gặp thấy qua mọi trang sách Tin Mừng. Trước những khổ đau của con người, lúc nào Chúa Giê-su cũng “chạnh lòng thương”, thí dụ khi Người đứng trước đám dân chúng đói khát vì họ đã đi theo Người mấy ngày rồi (Mt 14:14). Người đi tìm những người tội lỗi để ban ơn tha thứ cho họ, nào là cho những người tội lỗi, những người thu thuế, cho ông Phê-rô chối Người, và cả đến những kẻ đóng đinh Người trên thập giá. Giảng dạy và sống theo đường lối của Thiên Chúa, Chúa Ki-tô đã trở nên Thầy dạy ta biết đâu là tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa.
2. Dụ ngôn Chủ nhà trả tiền công cho thợ làm vườn nho minh chứng tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của ta (bài Tin Mừng – Mt 20:1-16a)
Sấm ngôn của Thiên Chúa qua ngôn sứ I-sai-a cho ta thấy sự siêu việt của tư tưởng Thiên Chúa. Còn Chúa Giê-su thì dùng một dụ ngôn đơn sơ để giúp ta hiểu tư tưởng Thiên Chúa khác tư tưởng loài người như thế nào. Dụ ngôn kể một người chủ nhà thuê thợ vào làm vườn nho cho ông và “thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền”. Những đám thợ lại được ông thuê vào những giờ khác nhau, từ tảng sáng cho đến giờ mười một. Như vậy, có người làm từ sáng sớm đến chiều, có người từ trưa đến chiều và cũng có người chỉ làm có một giờ. Chiều đến, những người thợ được trả công và ai ai cũng chỉ nhận được một quan tiền, mặc dù thời gian làm việc khác nhau. Những người làm nhiều giờ hơn thì phàn nàn cho là bất công. Nhưng ông chủ trả lời: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?... Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20:13.15). Những lời của ông chủ cho thấy ông vừa công bằng nhưng cũng vừa đầy lòng thương xót, thương xót cho hoàn cảnh thất nghiệp của những người thợ đến sau.
Tại Hoa-kỳ, hầu như ở đâu cũng gặp thấy cảnh những người anh em Nam Mỹ đứng tụm năm tụm ba gần những tiệm tạp hóa Seven-Eleven hoặc những tiệm ăn McDonald, để chờ xem có ai đến thuê mình đi làm công không. Thật là một cảnh đáng thương. Ta cứ tưởng tượng có người đứng đấy suốt ngày từ sáng đến chiều mà không có ai mướn họ, thì họ lo lắng biết chừng nào. Có lẽ người thợ làm vườn nho được ông chủ mướn vào giờ mười một cũng đã trải qua những giờ lo lắng buồn rầu như vậy, nên anh ta đáng được ông chủ đối xử tốt.
Với câu truyện dụ ngôn này, Chúa Giê-su nói lên sự khác biệt giữa tư tưởng của Thiên Chúa và tư tưởng loài người. Trong tình huống trả lương đồng đều cho người đến làm sớm cũng như làm muộn, loài người chỉ lấy sự công bằng làm vấn đề, nghĩa là phải xét sự việc theo lý trí. Nhưng Thiên Chúa lại lấy lòng nhân lành xót thương làm điểm chính, xét sự việc theo lý lẽ của con tim và xử sự bằng cả công bằng theo thỏa thuận lẫn lòng tốt theo bản chất thần linh của Người. Dùng dụ ngôn này để nói về Nước Trời, Chúa Giê-su muốn làm sáng tỏ một khía cạnh mầu nhiệm, đó là lòng nhân lành của Thiên Chúa. Người công bằng với tất cả mọi người và trong mọi sự, nhưng Người còn xử với ta theo lòng nhân lành nữa, bởi vì nếu Người chỉ đối xử theo lẽ công bằng, chấp tội lỗi của ta, thì thử hỏi “nào ai sống nổi”. Do đó ta có thể định nghĩa Nước Trời là cơ hội hoặc phương thế để Thiên Chúa biểu lộ lòng nhân lành của Người. Kêu gọi ta vào Nước Trời có nghĩa là kêu gọi ta hãy nhận biết lòng nhân lành của Thiên Chúa và hãy thực tâm sám hối để sống trong ân nghĩa với Người.
3. Sống theo đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa (bài đọc Tân Ước – Pl 1:20c-24.27a)
Lời Chúa và gương mẫu Chúa Ki-tô giúp ta hiểu tư tưởng Thiên Chúa khác với tư tưởng loài người, đồng thời cũng kêu gọi ta hãy thay đổi lối sống theo ý Chúa muốn, nghĩa là theo lối sống của Chúa Ki-tô. Thánh Phao-lô luôn luôn ao ước và cố gắng “trở nên đồng hình đồng dạng” với Chúa Ki-tô. Không những thế, ngài còn nêu gương sống theo lối sống của Chúa Ki-tô. Ngài bị giằng co giữa hai lựa chọn: một là chết để “được ở với Chúa Ki-tô”, hai là còn phải ở lại đời này để phục vụ tín hữu. Dĩ nhiên được ở với Chúa Ki-tô là điều thánh Phao-lô mong ước và điều mãn nguyện của ngài. So với việc ở lại đời này với anh chị em tín hữu, việc ngài ra đi mang lại lợi ích nhiều hơn cho cá nhân ngài. Để chọn lựa, ngài không theo lý lẽ của người đời, tức là chọn điều tốt hơn cho mình, nhưng chọn điều tốt hơn theo thánh ý Chúa.
Lựa chọn cách suy nghĩ và lối sống là đặc nét của Ki-tô hữu. Trên đời người ta bảo “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, nhưng đối với Ki-tô hữu khuôn mẫu suy nghĩ và hành động phải là khuôn mẫu Ki-tô. Thí dụ cụ thể cho thấy người đời yêu kẻ yêu họ và ghét kẻ ghét họ, nhưng Chúa Giê-su lại dạy ta yêu thương và tha thứ cho kẻ thù, vì “Cha anh em, Đấng ngự trên trời, Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính… Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Chọn lựa lối suy nghĩ và cách sống của Chúa Giê-su, ta sẽ phải lãnh chịu những hậu quả bất lợi. Nhưng như thánh Phao-lô cho thấy, vấn đề lựa chọn không phải chỉ là lợi và bất lợi, mà còn là có theo hay không theo ý Chúa nữa.
4. Sống Lời Chúa
Khi bắt đầu rao giảng về Nước Trời, Chúa Giê-su đã kêu gọi ta hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, nghĩa là từ bỏ lối sống theo người đời để sống theo những giá trị Tin Mừng. Cuộc thay đổi là cả một hành trình ở trần gian, để mỗi ngày ta cố gắng sống và thực hành những lời Chúa Giê-su dạy. Càng bỏ đi cách suy nghĩ và hành động theo người đời, ta càng dễ dàng hấp thụ cách suy nghĩ và hành động của Chúa. Ta sẽ suy nghĩ bằng não trạng của Chúa Giê-su. Ta sẽ hành động theo cách của Chúa Giê-su. Nếu đích thực tin vào Chúa và có Chúa ở cùng ta, ta sẽ thay đổi được, vì đức tin bằng hạt cải cũng có thể rời núi non.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô cho ta một nguyên tắc sống khi ngài nói: Với tôi, sống là Đức Ki-tô. Nguyên tắc này dạy tôi điều gì? Tôi áp dụng nguyên tắc ấy thế nào trong đời sống hằng ngày, nhất là trong cách đối xử của tôi với những người chung quanh?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả; xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con hết lòng theo đuổi. Chúng con cầu xin, nhờ Đức ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 26 mùa Thương niên).
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
13-9-08
----------------------------------
Mt 20, 1 – 16ª
Con người thường suy nghĩ và có cái nhìn theo cách của con người, còn Chúa có cái nhìn và hành: TN 25-A107
Con người thường suy nghĩ và có cái nhìn theo cách của con người, còn Chúa có cái nhìn và hành động hoàn toàn khác với loài người, với con người. Con người khác xa với Chúa không chỉ vì Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tối cao, siêu việt, là Đấng thánh thiện vô song, còn con người chỉ là loại thụ tạo tầm thường. Con người khác xa Chúa đến mức độ ghen tỵ hay kêu trách Chúa là bất công khi thấy Chúa xử sự nhân lành với người khác.Những bài đọc Chúa nhật XXV, năm A, đặc biệt bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy rõ sự nhân lành và công bằng của Chúa.
Ý NGHĨA TIN MỪNG HÔM NAY: Thực tế, thuê công làm việc cho gia đình, cho một tập đoàn, một công ty là một việc làm rất đỗi bình thường
Trong bất cứ một xã hội nào, một nước nào. Tuy nhiên, trong dụ ngôn thánh Matthêu viết hôm nay quả thực việc thuê thợ làm vườn nho không bình thường chút nào cả: tại sao ông chủ lại trả tiền công đồng đều cho mọi người thợ làm trong ngày vào các giờ khác nhau ? Chúng ta xem cách trả đó có công bằng không vì người chỉ làm có đúng một giờ cũng được ông chủ trả ngang tiền với người làm việc từ sáng sớm ? Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy cách cử xử của ông chủ rất đúng bởi vì ngay từ đầu thu thợ làm vườn nho ông chủ đã thỏa thuận với cách sòng phẳng: bất cứ người làm từ sáng sớm đến người làm từ buổi ban chiều, người làm chỉ một giờ rồi đến giờ ra về, ông chủ đều đã thỏa thuận trả đồng đều một đồng bạc, tất cả họ đã bằng lòng như thế.Do đó, ông chủ đã công bằng hết sức khi trả mỗi người một đồng bạc và đó là quyền của ông chủ. Dụ ngôn này nói lên hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa vô cùng tốt lành, nhân hậu, hơn ông chủ vườn nho bình thường không sao so sánh. Ngài tốt lành, lòng thương xót, nhân hậu của Thiên Chúa vượt qua mọi sự trả công của con người thường đối xử với nhau trong cuộc đời này. Đối với Thiên Chúa, con người chỉ có thể khẩn nài Thiên Chúa nhờ lòng thương của Ngài, chứ không nào dùng công nghiệp của mình để đổi lấy ân huệ của Ngài được. Đức Giêsu mời gọi con người, mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là một Thiên Chúa công bình, ngay thẳng, công minh mà còn là một người cha đầy yêu thương. Dụ ngôn “ Người con hoang đàng “ “ Con chiên lạc “ “ Đồng bạc đánh mất “ nói lên tấm lòng đầy yêu thương của Người. Bở vì tất cả đều là ân huệ của Người. tất cả đều do lòng nhân hậu lòng tốt của Thiên Chúa.
THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG MỌI NGƯỜI: chính vì yêu thương mọi người, yêu thương nhân loại tội lỗi, Thiên Chúa đã sai của Người là Đức Kitô đến trần gian để mang ơn cứu độ cho nhân loại và để đem hạnh phúc cho muôn người, cho nhiều người. Chúa không phân biệt đối xử với người này người nọ. Chúa luôn luôn công minh, chính trực và tốt lành đối với mọi người. Chúng ta vẫn còn nhớ câu ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ:”Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?” ( Mt 20, 15 ). Chúa tốt bụng với mọi người. Tốt bụng cả với người làm chỉ có một giờ vì Chúa đã trả anh ta sòng phẳng không thiếu một hào, một xu khi đã cùng anh cam kết khi bắt đầu làm việc.Biết bao hồng ân, biết bao phúc lộc chúng ta lãnh nhận nơi Thiên Chúa như thế chúng ta không còn lý do gì để ghen tỵ với người khác, với anh em của chúng ta. Bởi không nhận ra được tình thương của Thiên Chúa mà biết bao tội ác lan tràn trên trần gian, bao cuộc chiến tranh, bắt cóc, lộng hành, chiếm giết đã xẩy ra trên thế giới muôn thời. Cain đã giết Abel em của chính mình. Tháp Babel không thành vì con người ghen tương, không hiểu nhau, ai cũng muốn làm chủ, cũng muốn tự cao tự đại. Người anh cả ghen tỵ với đứa em thứ của mình vì không cảm nhận được tình thương cao vời của người cha và không biết tha thứ cho đứa em lầm lỡ.Người Pharisiêu kiêu ngạo đã ghen tỵ với người thu thuế được Chúa yêu thương và tha thứ, nhận lời. Thiên Chúa yêu thương mọi người miễn là con người biết mở lòng, biết sám hối quay trở về với Người để xin người ban ơn tha thứ.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ CUỘC ĐỜI: Chúa muốn gửi cho con người cho loài người một sứ điệp: Nước trời là phần thưởng nhưng không Ngài ban cho con người. Thiên Chúa ban cho con người chỉ vì tình yêu, lòng thương xót của Người mà thôi, chứ hoàn toàn không phải công lao con người tạo được cho mình và bắt Chúa phải thưởng công. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa vì Ngài ban những hồng ân quí giá cho người này người kia. Đừng ghen tỵ với họ bởi vì làm như thế là chúng ta muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa. Chúa hành động theo ý của Người, bởi vì lòng của Chúa thì bao la và lòng của con người có giới hạn. Chúng ta hãy nhớ lại lời của Chúa:” Những kẻ sau hết sẽ lên trước hết, còn những kẻ trước hết sẽ phải xuống hàng chót “( Mt 20, 16a)
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Dụ ngôn người chủ vườn nho nói lên điều gì ?
2.Tại sao người làm một giờ lại cũng được một đồng bạc như người đã làm từ sáng sớm ?
3.Ghen tỵ có tốt không ?
4.Dụ ngôn này muốn gửi cho chúng ta thông điệp gì ?
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
------------------------------`
(18-9-2005)
Thiên Chúa luôn rộng lượng, hào phóng.
Vì thế, đừng nên so đo tính toán với Ngài
ĐỌC LỜI CHÚA
· Is 55, 6-9: (8) Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi. (9) Trời cao hơn đất chừng nào, tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.
· Pl 1, 20c-24. 27a: (20c) Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết: (21) vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi.
· TIN MỪNG: Mt 20, 1-16°
Dụ ngôn thợ làm vườn nho
(1) «Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. (2) Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. (3) Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. (4) Ông cũng bảo họ: «Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng». (5) Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. (6) Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: «Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?» (7) Họ đáp: «Vì không ai mướn chúng tôi». Ông bảo họ: «Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!» (8) Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: «Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất». (9) Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. (10) Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. (11) Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: (12) «Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt». (13) Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: «Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao? (14) Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. (15) Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?» (16) Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Bạn nghĩ gì về cách hành xử của ông chủ trong bài Tin Mừng này? Ông có đối xử bất công hoặc: TN 25-A108
1. Bạn nghĩ gì về cách hành xử của ông chủ trong bài Tin Mừng này? Ông có đối xử bất công hoặc thiếu hợp lý không? Tại sao?
2. Trong việc xây nhà để gia đình ta ở, người thợ xây nhà cho ta và con cái của ta trong nhà, ai làm được nhiều việc hơn? Ta đối xử với thợ xây thế nào? Nay mai, khi ta mất, ta sẽ nhường căn nhà lại cho thợ xây hay cho con cái ta? Tại sao?
3. Ta đối xử với Thiên Chúa thế nào? Như những người thợ làm công hay như những đứa con trong nhà? Cách Thiên Chúa đối xử với hai loại người này có khác nhau không?
Suy tư gợi ý:
1. Ba loại người làm việc cho ông chủ
Một người chủ thật giàu có và rất phóng khoáng sẽ đối xử thế nào với những người làm việc cho mình? Để trả lời, ta tạm chia những người làm việc cho ông chủ thành ba loại người:
· Loại 1 là những người làm việc cho ông chủ hoàn toàn với tư cách làm công. Người làm công làm việc là để kiếm tiền, nếu không được trả tiền thì họ sẽ không làm việc. Điều họ yêu cầu là tiền công được trả thật sòng phẳng đúng như đã thỏa thuận khi nhận việc. Giữa họ với ông chủ có hợp đồng rõ rệt: tôi làm việc cho ông, và ông phải trả tiền cho tôi. Sau khi ông chủ trả tiền công thì đôi bên không mắc nợ nhau điều gì.
· Loại 2 là những người làm việc cho ông chủ với tư cách tình bạn. Họ làm vì tình cảm bạn bè. Anh có việc thì tôi giúp, mai mốt nếu tôi có việc thì anh giúp, nếu tôi không có việc thì thôi. Giữa hai bên không có hợp đồng rõ rệt, không có sự ràng buộc, nhưng có sự trao đổi qua lại về tình cảm.
· Loại 3 là những người làm việc cho ông chủ với tư cách con cháu trong nhà, họ làm vì yêu mến ông chủ và làm việc hết mình, không so đo tính toán. Họ không đòi hỏi ông chủ điều gì như một điều kiện phải có thì mới làm việc. Điều họ mong muốn là làm sao cho ông chủ mà họ yêu mến được thành công, hài lòng và hạnh phúc.
2. Cách đối xử của ông chủ đối với 3 loại người ấy
Đặt mình vào địa vị ông chủ, ta có thể suy ra cách ông ta đối xử với 3 hạng người ấy thế nào.
– Trước hết, đối với loại 1, ông chủ sẽ trả công sòng phẳng đúng theo hợp đồng, không hề lỗi công bằng hay làm gì khiến họ bị thiệt thòi. Vì họ đối xử với ông như người làm công, nên ông cũng đối xử với họ như với người làm công. Người làm công có thể làm được nhiều việc hơn những người thuộc loại 2 và 3, nhưng động lực để họ làm việc là tiền công chứ không phải là tình nghĩa. Vì thế, ông chủ chỉ phải trả họ tiền công cho sòng phẳng là đủ, chứ không có bổn phận phải biểu hiện tình nghĩa đối với họ.
– Với loại 2, ông tỏ ra hào phóng hơn. Ông đối xử với họ như đối với những người bạn, vì họ đã lấy tình bạn để đối xử với ông. Ông không trả công cho những việc họ làm, nhưng tỏ ra rất rộng lượng đối với họ, chiêu đãi họ những bữa tiệc thịnh soạn. Khi họ cần ông giúp gì, ông sẵn sàng giúp họ một cách hào phóng gấp bội những gì họ đã làm cho ông. Ông không tính toán với họ, vì họ chẳng hề tính toán với ông bao giờ. Tuy dù họ không làm cho ông được nhiều việc, nhưng những việc họ làm cho ông, họ đều vì tình nghĩa bạn bè mà làm. Ông quý họ là ở điểm ấy.
– Với loại 3, ông coi họ như con cái trong nhà. Những người này đã coi công việc của ông như chính công việc của họ. Họ làm việc cho ông cứ như là làm cho chính họ, bất kể có được trả công hay không. Chẳng những họ không mong được trả công mà còn sẵn sàng chịu thiệt thòi miễn sao công việc của ông hoàn tất tốt đẹp là họ thỏa mãn. Vì thế, ông đã coi họ như con cháu trong nhà, tất cả những tài sản ông có, ông muốn họ cứ việc sử dụng như của họ. Ông dự định nay mai ông có mệnh hệ nào, thì toàn bộ tài sản của ông sẽ thuộc về họ. Nếu so sánh những việc họ làm cho ông thì có thể chẳng là bao so với những việc mà những người làm thuê đã làm cho ông. Những người làm thuê đã làm cho ông rất nhiều việc, nhưng họ làm là để có tiền chứ chẳng phải vì yêu thương ông. Còn những người này tuy làm cho ông chẳng bao nhiêu việc, nhưng tất cả những gì họ làm thì họ đều làm vì ông, vì yêu thương ông. Vì thế, ông muốn họ được hưởng từ lòng hào phóng của ông nhiều gấp bội những gì mà những người làm công được hưởng.
Suy nghĩ về những loại người làm việc cho ông chủ và cách xử sự của ông chủ, ta dễ hiểu dụ ngôn mà Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng về những người thợ làm vườn nho. Những người làm việc từ đầu ngày tuy làm nhiều giờ hơn ai hết, nhưng họ đã làm như những người làm công: họ đã thỏa thuận với ông chủ số tiền ông phải trả. Những người đến làm càng về sau càng không đặt vấn đề tiền công, họ làm theo lời mời của ông chủ, và có thể họ đã làm việc với tất cả lòng nhiệt tình hăng say của họ mà không cần nghĩ đến tiền công. Vì thế, ông đã tỏ ra rất hào phóng đối với những người đến sau, vì họ làm không phải vì tiền. Còn với những người đến trước, ông đã trả công đúng như họ đã thỏa thuận với ông.
3. Ba loại người giữ đạo Chúa
Trong số những người theo Chúa, giữ đạo Chúa, ta cũng có thể tạm phân làm ba loại:
· Loại 1 là những người theo đạo Chúa để được Ngài thưởng công trên thiên đàng. Làm được việc gì tốt lành họ cũng đều làm với ý hướng được Chúa ghi công vào sổ để mai sau Ngài trả công bội hậu cho họ. Họ làm những điều tốt lành là vì hạnh phúc của họ ở đời này hay đời sau, hoặc vì phần thưởng mà Ngài đã hứa cho những ai làm như thế. Chứ không phải họ làm vì thấy những việc ấy là tốt đẹp, nên làm hay đáng làm. Giả như làm những điều tốt đẹp ấy mà không có lợi gì cho họ hay không được trả công thì họ sẽ không thèm làm.
Những người này Thiên Chúa sẽ trả công cho họ vì những việc tốt đẹp hay những hy sinh của họ, thậm chí bội hậu, đúng như lẽ công bằng đòi hỏi. Nhưng đó chỉ là phần thưởng Ngài dành cho những kẻ «làm công» cho Ngài thôi. Nó sẽ rất nhỏ so với phần thưởng Ngài dành cho những người hành xử như những đứa con hiếu thảo của Ngài, cho dù những việc họ làm được cho Ngài còn nhiều hơn những người này bội phần.
· Loại 2 là những người theo đạo vì thấy đạo là tốt lành, nên theo, không nhắm lợi ích cho mình. Khi làm những việc tốt lành, họ làm vì thấy đó là điều đáng làm, vì hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Họ sống rất lương thiện, nhưng không tích cực hoặc không sống chết với việc của Thiên Chúa là xây dựng Nước Trời tại trần gian.
Do họ không làm vì lợi ích của họ mà vì lợi ích của Ngài, nên Ngài cũng sẽ tỏ ra rất hào phóng với họ. Phần thưởng Ngài dành cho họ sẽ rất lớn lao tương tự như những món quà mà một ông chủ hào phóng dành cho bạn bè của mình.
· Loại 3 là những người thật sự yêu mến Thiên Chúa và hết lòng với công việc của Ngài. Họ nhận ra Thiên Chúa chính là cái gì cốt tủy nhất và sâu thẳm nhất của bản thân họ, là người Cha rất mực yêu thương họ. Vì thế, họ yêu mến Thiên Chúa là Cha mình, và yêu tha nhân là hiện thân của Ngài như yêu chính bản thân họ. Họ coi công việc của Ngài ở trần gian cũng là công việc của chính họ, như một đứa con thảo trong gia đình coi mọi việc trong nhà là việc của mình. Vì thế họ dấn thân hết mình cho công việc của Ngài mà không hề mong được trả công hay được một phần thưởng nào. Có người con hiếu thảo nào trong gia đình lại trông đợi cha mẹ thưởng công cho mình khi họ làm những việc chung trong nhà hay làm theo ý cha mẹ mình? Thấy cha mẹ mình vui, anh em trong nhà ấm no hòa thuận thì đó chính là hạnh phúc của họ và đã là phần thưởng cho họ rồi, cần gì một phần thưởng nào khác nữa? Tình thương đã trở thành yếu tố quan trọng nhất trong bản chất của họ. Chính tình thương đã thúc đẩy họ làm tất cả những gì đem lại lợi ích cho gia đình trong đó có lợi ích của họ, chứ họ không làm vì lợi ích riêng của họ.
Vì họ đã hành xử với Ngài như những đứa con thảo đối với Cha, nên phần thưởng Ngài dành cho họ là sản nghiệp của Cha để lại cho con. Tất cả những gì Ngài có và Ngài là, đều thuộc về họ. Đó là một phần thưởng vô cùng vĩ đại mà những kẻ «làm công» cho Ngài dù có làm được nhiều việc vĩ đại tới đâu cũng không dám mơ ước.
(Ở đây không nói đến những người mang danh làm cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội, nhưng thật ra họ là những người làm để được tiếng khen, được nổi danh, được lợi lộc ở trần gian này. Những người này thì Thiên Chúa không cần thưởng nữa, vì họ đã được trần gian thưởng công rồi).
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha chính là người Cha đã sinh ra con và yêu thương con vô cùng. Con muốn đáp lại tình thương vô bờ bến ấy bằng cách luôn yêu thương và làm tất cả những gì có thể làm được cho đồng loại ở chung quanh con, mà con luôn luôn coi như hiện thân của Cha. Hạnh phúc và sự tốt lành mà con làm được cho họ chính là hạnh phúc và niềm vui của con. Xin Cha giúp con thực hiện được điều ấy.
Joan Nguyễn Chính Kết
------------------------------
(Mát-thêu 20: 1-16a)
Thực khó mà xác định được điểm chính dụ ngôn thợ làm vườn nho muốn nói lên. Có thể là một câu: TN 25-A109
Thực khó mà xác định được điểm chính dụ ngôn thợ làm vườn nho muốn nói lên. Có thể là một câu truyện dùng để khai triển thêm đề tài về phần thưởng dành cho những người theo Đức Giê-su. Cũng có thể dụ ngôn muốn nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa mời gọi mọi người bước vào Nước Trời Người đã thiết lập trong Đức Giê-su. Nhưng nếu xét theo lối khai triển đề tài của Phụng vụ Lời Chúa, có lẽ ta sẽ chọn ý nghĩa về lòng quảng đại của Thiên Chúa để suy niệm, vì lòng quảng đại ấy đã thiết lập Giáo Hội để quy tụ mọi người tin vào Chúa Ki-tô và đồng thời lòng quảng đại ấy cũng là mực thước để mọi phần tử trong Giáo Hội lấy đó mà đối xử với anh chị em.
a) “Hãy đi vào vườn nho” là lời Thiên Chúa kêu gọi mọi người
Từ sáng sớm tới chiều, gia chủ vườn nho ra ngoài nhiều lần khác nhau để mướn thợ làm. Mỗi lần như thế, ông đều nói với họ: “Hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” Lời kêu gọi ấy thật khác thường, không hề nhắc tới việc làm, nhưng chỉ xin họ “hãy đi vào vườn nho” và bảo họ sẽ được trả lương xứng đáng.
Rõ ràng câu truyện muốn đề cao mối quan tâm của gia chủ đối với những người “ở không, đang đứng ngoài chợ”. Gia chủ không cần biết tới công việc của mình cho bằng quan tâm đến tình trạng thất nghiệp của những người thợ. Do đó, lời kêu gọi “hãy đi vào vườn nho” không nhắm mục đích để họ phải làm việc cho gia chủ, nhưng là để họ được trả lương xứng đáng, không phải là một hợp đồng làm ăn, nhưng là một biểu lộ lòng quảng đại và chăm sóc. Hiểu như vậy ta mới thấy dụ ngôn có ý nói lên lòng quảng đại của gia chủ, tức là Chúa Giê-su.
Nỗi thao thức của vị Mục Tử nhân lành hoặc của Chủ Vườn nho Giáo Hội là vẫn còn nhiều con chiên không thuộc đàn chiên của Người (Ga 10:16), hoặc vẫn còn nhiều người “đang đứng ngoài chợ”, ở bên ngoài Nước Trời. Ta có thể dùng hình ảnh những người thất nghiệp đang nóng lòng chờ đợi cho có việc làm để suy tư về tình trạng của những người đang khao khát được gọi vào Giáo Hội Chúa Ki-tô. Họ là những người chưa có đức tin, chưa có một cộng đoàn hoặc gia đình đức tin để thuộc về. Cảm nghiệm thuộc về là một nhu cầu của con người. Không ai là một hòn đảo. Cho nên ta có thể hiểu được tâm trạng lo lắng khắc khoải của những người “ngoại cuộc”. Có một lần tôi cần mấy người dọn đồ để di chuyển. Tôi lái xe đến McDonald, tại đó lúc nào cũng có những anh em Nam Mỹ đứng ở ngoài đợi xem có ai thuê họ làm gì không. Xe vừa trờ tới là đã có dăm bảy người chạy đến hỏi có muốn thuê họ không. Tôi có thể đọc được niềm vui trên gương mặt hai người được tôi mướn và nỗi thất vọng của những người còn lại.
Thiên Chúa không muốn ai phải thất vọng cả. Trong vườn nho của Người lúc nào cũng đủ việc làm cho tất cả nhân loại. Hơn nữa, Người chú trọng hơn tới hoàn cảnh và số phận của họ, tức là muốn cho họ được hưởng phần gia nghiệp của Người. Do đó, Người không quản ngại đến với họ và bảo họ: “Các anh hãy đi vào vườn nho.” Chúa Giê-su trước hết muốn thay đổi quan niệm nơi người Do-thái về lời gọi phổ quát của Nước Trời, nên Người mượn hình ảnh và lời nói của gia chủ để nhấn mạnh đến lòng quảng đại của Thiên Chúa: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Do-thái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Không phải ta có quyền giới hạn lòng quảng đại của Người. Trái lại, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém, vì “những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót!” Khi thi hành sứ vụ cứu thế, Chúa Giê-su đã làm theo kế hoạch cứu độ phổ quát này và Người đã đặc biệt đến với những người “đứng chót” trong xã hội (Lc 4:18-19).
b) Lòng quảng đại cần thiết cho đời sống cộng đoàn
Trong cùng một hướng khai triển đề tài về Giáo Hội, lòng quảng đại của Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho mọi người phải là mẫu mực để các phần tử trong Giáo Hội đối xử với nhau, đặc biệt trong những sinh hoạt có tính cách xây dựng như sửa lỗi anh chị em, cầu nguyện cho nhau, tha thứ cho nhau, là những đề tài ta đã có dịp suy niệm trong những Chúa Nhật trước.
Qua dụ ngôn thợ làm vườn nho, ta thấy rõ sự trái ngược giữa lòng quảng đại của gia chủ và lòng ghen tức của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Người, còn ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ. Ngay cả trong một cộng đoàn cũng vậy. Ta thường khó chịu về sự có mặt của những anh chị em xem ra không mấy đàng hoàng và luôn tìm cách loại trừ hoặc kỳ thị chứ không muốn chấp nhận họ. Chỉ có lòng quảng đại thực mới giúp ta dễ dàng chấp nhận những lỗi lầm yếu đuối của anh chị em. Tôi nhớ lại những lần lái xe qua những nơi nhiều anh em Nam Mỹ đứng chờ người đến thuê họ đi làm. Tôi cố gắng chống lại những tư tưởng tiêu cực chợt đến trong đầu óc, như họ là những người lười biếng, làm một ăn hai... Tôi phải quảng đại thay đổi những ý nghĩ tiêu cực ấy bằng những lý do tích cực hơn, thí dụ họ không có đủ trình độ để kiếm một nghề nghiệp chắc chắn, không có giấy tờ hợp lệ để đi làm, họ cũng đang nóng lòng chờ đợi một công việc nào đó để có tiền thường xuyên gửi về giúp gia đình...
Tấm gương quảng đại của Chúa Giê-su là những dấu chỉ cho hành trình của ta đáp lại lời Thiên Chúa Cha gọi ta vào vườn nho của Con Một Người. Người đã đón nhận những kẻ tội lỗi trở về. Người đã chịu đựng những yếu đuối và tham vọng của các tông đồ. Người đã xả thân cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Người đã quảng đại đến độ sẵn sàng chấp nhận cái chết trên thập giá cho nhân loại... Để nêu gương cho ta biết sống cho người khác và xây dựng một cộng đoàn yêu thương.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi có vui mừng và hết lòng tạ ơn Chúa vì Người đã cho tôi được làm Ki-tô hữu ngay từ khi mới sinh không?
Đối với những anh chị em chưa được diễm phúc làm con cái Chúa, tôi đã nghĩ gì về họ? Có khi nào tôi làm một điều gì đó để giúp họ nghe được lời mời gọi “Hãy vào vườn nho” của Chúa không?
Trong đời sống gia đình, tôi quảng đại hay ích kỷ đối với những người thân? Tôi có thuộc loại biết nghĩ đến người khác trong gia đình hay chỉ biết có mình? Tôi phải giáo dục con cái trong nhà thế nào để tránh được lối sống cá nhân chủ nghĩa của văn hóa Hoa-kỳ?
Tôi có quảng đại dành một chút thời giờ để đóng góp vào đời sống và sinh hoạt của cộng đoàn không? Tôi tự hỏi mình làm được gì cho cộng đoàn, hay chỉ biết đòi hỏi những gì cộng đoàn phải làm cho mình?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 3)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
16-9-2005
--------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Phi-líp-phê 1: 20c-24,27ª
Sự thống nhất tư tưởng của thánh Phao-lô và cách trích dẫn của Phụng vụ Lời Chúa đã giúp chúng ta: TN 25-A110
Sự thống nhất tư tưởng của thánh Phao-lô và cách trích dẫn của Phụng vụ Lời Chúa đã giúp chúng ta nhận ra sự liên hệ tuyệt vời giữa thư Rô-ma và thư Phi-líp-phê. Trước khi kết thúc thư Rô-ma, thánh Phao-lô đề cao ý nghĩa đời sống của chúng ta là "dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Ðức Ki-tô." Sau phần mở đầu thư Phi-líp-phê, ngài nêu lên vai trò của Chúa Ki-tô đối với sự sống của chúng ta: "Bây giờ cũng như mọi lúc, Ðức Ki-tô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết." Như vậy, chủ đề của Lời Chúa vẫn tiếp tục quảng diễn về ý nghĩa đích thực của cuộc đời chúng ta.
a) Ý nghĩa cuộc đời: Ðối với tôi, sống là Ðức Ki-tô, và chết là một mối lợi
Ý niệm sống và chết theo thánh Phao-lô quả là ngược đời. Người đời quan niệm cuộc sống của mình là tất cả những gì thuộc về mình, những gì là độc đáo không ai có, từ những của cải vật chất đến danh thơm tiếng tốt và cả những quan hệ tình cảm gia đình, bạn bè, những kẻ ái mộ... Còn cái chết đối với người đời là một sự mất mát, thiệt hại cho chính người đó và cho gia đình, bạn bè hoặc cộng đồng của họ. Ngược hẳn lại, Phao-lô có cái nhìn hoàn toàn đối nghịch. Thâm hiểu được lời và gương sống của Ðức Ki-tô, ngài đã nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời: sống là Ðức Ki-tô, và chết là một mối lợi. Bởi vì Ðức Ki-tô đã khẳng định: "Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8:35) và "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12:24).
Nhưng thế nào là ý nghĩa của chân lý "sống là Ðức Ki-tô và chết là một mối lợi"? Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội và Thánh Thể, Ki-tô hữu được tháp nhập vào Nhiệm thể Chúa Ki-tô, trở thành chi thể của Người. Do đó, sự sống thể xác và thiêng liêng của chúng ta đã được liên kết với sự sống của Ðức Ki-tô như cành nho liền với cây nho, đến độ chúng ta sống, nhưng không phải là chúng ta nữa mà là Ðức Ki-tô sống trong chúng ta. Như thế mới là đúng ý nguyện của Ðức Ki-tô: "Tôi đến để cho chúng được sống, và sống dồi dào" (Ga 10:10). Ngay cả những đau khổ và cái chết của thân xác chúng ta cũng thuộc về Ðức Ki-tô, và đây chính là nguyên lý đem lại ý nghĩa mới cho sự chết, tức là cái chết của Ðức Ki-tô đã đổi ngược lại quan niệm của người đời và chứng minh "chết là một mối lợi." Lợi, chứ không phải là thiệt hại hay mất mát, bởi vì sau khi chết chúng ta được lãnh nhận sự sống đời đời, nhờ sự chết của Ðức Ki-tô.
b) Kết luận thực hành: phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Ðức Ki-tô
Trước khi đề nghị với anh chị em cộng đoàn Phi-líp-phê một kết luận thực hành, thánh Phao-lô muốn chia sẻ chính kinh nghiệm bản thân. Ngài cũng cảm thấy bị giằng co giữa cái sống và cái chết. Một đàng thánh Phao-lô muốn chấp nhận ra đi, về với Chúa sau những tháng ngày tù tội, một đàng ngài muốn được sống để giúp đỡ, dạy bảo tín hữu. Ở đây Phao-lô làm một cuộc nhận định để chọn lựa ý Chúa: "ra đi" về với Chúa là tốt hơn cho cá nhân ngài; ở lại giúp đỡ tín hữu là cần thiết hơn cho cộng đồng. Vậy ngài chọn ở lại, sống cho tha nhân để phục vụ Tin Mừng của Ðức Ki-tô. Ðó cũng là lý do để tín hữu Phi-líp-phê hãnh diện về ngài.
Từ kinh nghiệm này, thánh Phao-lô mới thấy có đủ tư cách để khuyên tín hữu phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Ðức Ki-tô. Ngài không chỉ khuyên họ "sống" làm sao cho xứng, nhưng là hãy "ăn ở" làm sao cho xứng với Tin Mừng của Ðức Ki-tô. Theo nguyên ngữ Hy-lạp, "ăn ở" có nghĩa là "sống đúng tư cách người công dân", tuân thủ luật lệ dân sự và tôn giáo của đô thị mình sinh sống. Có lẽ thánh Phao-lô muốn nhắc nhở là chúng ta đang sống trong đô thị mới của Thiên Chúa, với Ðức Ki-tô là Vua, nên chúng ta là công dân Nước Thiên Chúa (x. Ep 2:19) và phải tuân giữ Luật của Tin Mừng.
Kết luận thực hành này rất quan trọng đối với tín hữu, đến độ thánh Phao-lô coi đó là mối ưu tư duy nhất của ngài khi ngài thốt lên: "Chỉ có một điều là..." Nếu tín hữu Phi-líp-phê và cả chúng ta nữa thực hiện được lý tưởng ấy, thì đến lượt ngài cũng có lý do để hãnh diện về tín hữu Phi-líp-phê và về chúng ta: Dù ở đâu, ngài "vẫn muốn được nghe người ta nói về (chúng ta) là (chúng ta) luôn đứng vững, cùng chung một tinh thần, một lòng một dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho (chúng ta)" (1:27b).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Cuộc sống của thánh Phao-lô là để "tỏ bày quyền uy cao cả của Ðức Ki-tô." Cuộc sống của tôi là để tỏ bày những gì? Quyền hành? Giàu có? Bằng cấp? Hào nhoáng bề ngoài? Tôi phải làm gì để tỏ bày quyền uy cao cả của Ðức Ki-tô?
Nghịch lý về ý nghĩa cuộc đời (quảng đại cho đi sự sống mới là sống đích thực và ích kỷ giữ lại sự sống cho mình nghĩa là chết) có thực sự khiến tôi đặt lại lý tưởng và lối sống của đời mình không? Cuộc sống của Ðức Ki-tô đã soi sáng cho tôi thế nào về lý tưởng sống?
Thánh Phao-lô nhận ra thánh ý Chúa muốn ngài sống vì tha nhân. Tôi chấp nhận lối sống ấy như thế nào đối với gia đình? Cộng đoàn? Giáo Hội? Xã hội?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát "Kinh hòa bình" của thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi, hoặc đọc kinh "Xin ơn quảng đại" của thánh I-Nhã.
Lm. Ðaminh Trần Ðình Nhi
--------------------------------
Lời mời gọi của tiên tri Isaia đặt trước mắt hết thảy chúng ta, dù là người lành hay kẻ xấu xa,một: TN 25-A111
Lời mời gọi của tiên tri Isaia đặt trước mắt hết thảy chúng ta, dù là người lành hay kẻ xấu xa,một vấn đề thật cấp bách và nghiêm túc: "hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với ÐỨC CHÚA - và Người sẽ xót thương -,về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ."
Cấp bách là vì dù là người lành hay kẻ xấu, chúng ta đang đứng trước một thế giới hầu như bị bế tắc, không tìm được ngõ thoát trước bao thảm họa diệt vong. Nghiêm túc vì ở đây lời mời gọi được gởi tới cả người lành lẫn người xấu tuy có sự khác biệt trong ý hướng và mục đích, nhưng tất cả đều phải đối diện thực sự với tình thương, và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Cách nào đó có thể nói theo Thánh Phao-lô "dù tôi sống hay tôi chết...cũng là Đức Ki-tô tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi".
Theo Tin Mừng, Thiên Chúa trong lòng thương xót vô biên của Người, Người luôn trung tín là Tình Yêu uy quyền và mạnh mẽ. Tình Yêu lớn hơn cả tội lỗi và bất trung của con người. Người luôn đặt để trước mỗi người dư tràn điều kiện để họ có sự sống sung mãn cho dù họ xứng hay không xứng.
Người môn đệ nhiệt thành của Đức Ki-tô trong mỗi quyết định cho đời mình, ông không đặt mối lợi, dù là mối lợi thiêng liêng thuần khiết lên trên sứ vụ Tình Yêu của Đức Ki-tô mà ông đã được kêu gọi tham phần. Và ông kết luận "phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Ðức Ki-tô".
Theo Tin Mừng đó, chúng ta được mời gọi làm chứng cho cách hành xử của Tình Yêu Thiên Chúa trong Đức Giê-su "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Yêu thương như Chúa yêu, đó là giới răn mới, là sự sống mới. Một tình yêu đã chết ngay cả cho kẻ bách hại mình, để tha thứ và cứu độ. Đây quả thực là điều thật khó chấp nhận trong thế giới nhân loại, kể cả nơi thời đại chúng ta. Thái độ chỉ có nơi những kẻ đã cảm nghiệm nơi chính thân xác mình Hồng ân yêu thương ấy như chính Phao-lô.
Vì thế hơn bao giờ, đúng như Dức Thánh Cha kêu gọi giới trẻ thế giới tại đại hội Toronto "Các thanh niên từ khắp nơi trên thế giới, tụ họp trong Ngày QTGT, mang theo những dấu hiệu của một nhân loại, tiếc thay thường không biết đến hòa bình và công lý. Quá nhiều mạng sống bắt đầu và kết thúc không một niềm vui, không một hy vọng. Ðây là một trong các lý do chính của việc tổ chức Ngày QTGT: Các thanh niên gặp nhau để dấn thân, nhờ sức mạnh đức tin của họ nơi Chúa Kitô, để phục vụ cho công cuộc của hòa bình và của tình liên đới nhân loại." Và Ngài mời gọi "Phúc cho các con nếu các con nghèo nàn trong tinh thần như Chúa Giêsu, nếu các con nhân hậu và thương xót, nếu các con biết tìm cái gì là công bình và thẳng thắn; nếu các con trong sạch trong tâm hồn, nếu các con là những người hoạt động cho hòa bình, nếu các con là những người yêu mến và phục vụ các người nghèo khổ ""Giữa vô vàn bất công và đau khổ, nguyện vọng con người từng ấp ủ là niềm hy vọng cho một nên văn mình mới được đánh dấu bằng tự do và hòa bình. Nhưng để cam kết được điều đó, phải cần đến một thế hệ những người xây dựng mới". "Các con phải là những người xây dựng đó. Tương lai nằm trong tâm khảm và trong bàn tay các con". " chúng ta đã thấy một ấn tượng sâu sắc rõ ràng về bộ mặt bi thảm của ác tâm con người. Chúng ta đã chứng kiến những gì xảy ra khi hận thù, tội lỗi và chết chóc làm chủ". "Nhưng hôm nay tiếng nói của Chúa Giê-su lại được cất lên giữa chúng ta đang tụ họp nơi đây. Chúa là một tiếng nói của sự sống, của niềm hy vọng, của lòng tha thứ; một tiếng nói của công lý và hòa bình. Chúng ta hãy nghe theo tiếng nói này".
Muốn kiến tạo một thế giới sung mãn hạnh phúc điều thiếy yếu phải đón nhận và sống Tin Mừng của Chúa Giê-su.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
--------------------------------
Mt 20,1-16ª
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Thiên Chúa là tình yêu.Con người sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa.Có Chúa hiện diện: TN 25-A112
Thiên Chúa là tình yêu.Con người sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa.Có Chúa hiện diện,mang Chúa trong lòng,trong cuộc đời,con người sẽ có cách đối xử tốt với nhau. Chúa yêu thương con người,mãi mãi yêu thương con người,dù con người có vô ân bội bạc.Chúa luôn xử công minh,phân chia công bằng với mọi người.Sống trong Chúa,con người sẽ múc được nguồn an ủi và hạnh phúc.Sự an ủi và tình yêu phát xuất tự trái tim hiến tế của Chúa Giêsu.Chúa nói:" Ta là Ðàng,là Sự Thật và là Sự Sống ".Lời Chúa hôm nay muốn trình bầy cho mọi người thấy mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
I.CHÚA GIÊSU DÙNG DỤ NGÔN ÐỂ NÓI LÊN GIÁO LÝ CỦA NGÀI
Trong cuộc sống rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cùng với nhóm 12 đã rảo quanh mọi nơi, khắp làng mạc,phố sá, khắp vùng đất Galilêa,vùng Giuđêa và Giêrusalem,đâu đâu,Chúa cũng giới thiệu về nước trời,đâu đâu Chúa cũng giới thiệu chính mình Ngài.Chúa thường dùng những hoàn cảnh,những biến cố,những việc xẩy ra thường ngày để giáo huấn,dậy dỗ,uốn nắn các môn đệ và mọi người.Chúa dùng các dụ ngôn như hai người lên đền thờ cầu nguyện,người con trai hoang đàng,thợ làm vườn nho vv.để nói lên giáo lý của Ngài . Tất cả những ví dụ,những tỷ dụ,những dụ ngôn của Chúa Giêsu đều có mục đích trình bầy một giáo lý,một bài học đạo đức,luân lý,Người dành cho nhân loại, cho con người.Có thể nói rằng,Chúa Giêsu không bao giờ nói trên mây,trên gió,nói không có sách,điều gì Ngài nói ra đều phù hợp với thực tế xẩy ra ở trần gian.Những hình ảnh như hoa huệ,cây cỏ,những con vật như chim trời, cá biển vv.nhất nhất đều nằm trong những trình bầy thực tế của Chúa Giêsu để nhân loại cứ nhìn đó, nghe đó mà nghiệm ra sự thật, nhận ra chân lý,bài học Chúa Giêsu muốn dậy bảo.
II.DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO
Chúa dùng dụ ngôn này để trình bầy sự công bằng và tình thương nhưng không của Thiên Chúa đối với nhân loại,đối với mọi người .Tất cả đều phát xuất từ lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa. Con người có là chi mà nhân loại phải nhớ đến. Chúa là tình yêu. Tình yêu do tự con tim của Chúa là tình yêu bền bỉ,chân thật,tình yêu không biên giới, vô vị lợi. Con người tự sức riêng không thể làm được gì , nếu con người cậy dựa vào sức riêng của mình,con người sẽ sụp đổ và thất bại.Vì "nếu Chúa không xây nhà thì người thợ cũng hoài,cũng chỉ luống công mà thôi".Không có Chúa,không cậy dựa và tin tưởng vào Chúa, con người sẽ chẳng ra chi.Các Rabbi,biệt phái,ký lục,và những nhà thông thái khi xưa cứ tưởng rằng mình giữ luật theo ý họ,làm việc nhiều, đọc kinh nhiều ngoài môi miệng mà lòng xa Chúa,sẽ đạt được nước trời,sẽ chiếm lấy gia tài vĩnh cửu vì họ cho đó là công phúc của họ,công phúc ấy sẽ giúp họ được thưởng. Thưởng là do công lao của họ,chứ không do Chúa.Nghĩ như vậy,họ đã lầm tưởng to. Chúa đến là để cứu vớt mọi người. Chúa yêu thương qui tụ mọi người." Người đau yếu mới cần đến Thầy thuốc.Ta đến để kêu gọi người tội lỗi.".Chúa đến để cứu vớt nhân loại khỏi tội lỗi vì tội lỗi con người quá ngập tràn,công phúc ta làm đâu có ăn thua gì với lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa.Ðối với Chúa không có người ở trong hay ở ngoài, người Do Thái hay Hy Lạp, La Mã vv.Chúa Giêsu cảnh cáo những người Do Thái hay so đo,ghen tỵ đối với những người ngoại được ơn quay trở về và đạt được nước trời, bởi vì phần thưởng nước trời là do lòng nhân hậu,đại lượng,quảng đại của Chúa chứ không do công phúc của con người, không do sức người tạo nên." Không có vấn đề người này muốn,người kia làm,nhưng chỉ có Thiên Chúa là Ðấng hay thương xót "( Rm 9,16; 9, 6-33 ).Ðối với Chúa:" đường lối và tư tưởng" của Chúa khác với đường lối và cách lý luận suy nghĩ của con người ( bài đọc I ),nhờ sống với Chúa, quan hệ với Chúa,mọi sự đều có ý nghĩa( bài đọc 2 ) và như thế,Chúa mời gọi con người lúc nào cũng phải sẵn sàng đi vào làm việc trong vườn nho Chúa. Chúa trả lời với những con người có óc ghen tỵ:" Này bạn,Tôi đâu có xử bất công với bạn.Bạn đã chẳng thỏa thuận với Tôi một quan sao." ( Mt 20, 13 ).Chúa mời gọi mọi người vào Giáo Hội Chúa .Người trước người sau,tất cả là do ân huệ nhưng không của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1.Anh Chị cảm nghiệm sao về lòng nhân hậu của Chúa
2.Anh Chị hiểu sao về câu:" Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi" ?
3.Anh chị có là rào cản cho người khác tới với Chúa không ?
--------------------------------
Anh chị em thân mến.
Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ, làm cho con người mất hết lý trí nên đưa đến sự tàn ác. Câu chuyện cổ tích TN 25-A113 Lương
Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ, làm cho con người mất hết lý trí nên đưa đến sự tàn ác. Câu chuyện cổ tích Tấm và Cám nói lên điều đó.
Trong một gia đình, đôi vợ chồng trẻ có được một người con gái xinh đẹp, nhưng người vợ không may mất sớm. Người chồng kết hôn với một người đàn bà khác, bà ta cũng có một người con gái. Tưởng rằng con mình có người để chơi đùa vui vẻ, nhưng không ngờ, những ngày gian khổ đến với tuổi thơ quá sớm. Người cha lo bận rộn công việc bên ngoài không biết con mình cực khổ như thế nào. Còn đứa con thì không dám nói điều gì: trước hết vì thương cha, không muốn cho cha phải lo lắng, đồng thời cô cũng bị hai mẹ con của nhà kia răn đe, nếu cho cha biết, họ sẽ hành hạ trả thù.
Việc gì đến cũng phải đến. Sự ích kỷ, lòng ghen tỵ thì lãnh phần của sự ích kỷ ghen tỵ. Sự nhẫn nại ngay thẳng thì được phần thưởng xứng đáng với những gì đã làm. Hai người làm điều ác hại người thì lãnh phần những gì mình gây ra. Còn người con gái nhân hậu thì lãnh phần thưởng xứng đáng của lòng nhân hậu.
"Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về".
Những người đã thoả thuận, nhưng giờ đây họ muốn hơn những gì mình thoả thuận, họ muốn hơn những gì mình đáng được. Họ nhìn vào người khác và họ tự cho mình có công hơn người khác. Họ nhìn vào những gì người khác được, nên họ muốn mình phải hơn những gì người khác có, vì họ cho mình có quyền như thế. Khi họ không được những gì mình muốn, họ tự cho mình quyền phê bình, chỉ trích, phán đoán người khác, ngay cả người có quyền trên họ mà họ cũng không hay biết. Khi đó họ chỉ còn nhìn thấy có bản thân mình, đòi hỏi lợi lộc riêng tư cho mình mà không cần biết đến người khác như thế nào. Họ phê bình người khác không công bình theo như họ muốn. Những gì họ thoả thuận, họ không còn biết đến. Họ muốn hơn cái mình đáng được, họ cũng muốn mình được hơn những gì người khác được, mà không cần biết mình có xứng đáng hay không.
"Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về. Hay mắt bạn ghen tỵ vì tôi nhân lành chăng?"
Lời phiền trách của ông chủ trong dụ ngôn đối với những người ghen tỵ, cũng là lời phiền trách chung cho mọi người của mọi thời đại. Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ vẫn tồn tại mãi trong con người, cả chúng ta nữa cũng không bị loại trừ ra cái thường tình của con người như thế.
Mỗi người trong chúng ta tự nhìn vào chính mình, nhìn qua những gì mình đã được, những gì chưa được mà đang ước muốn, nhìn vào cả những thực tại mà mình đang toan tính để đạt được. Có những điều mà mình quyết tâm đạt cho được những lợi nhuận, danh dự, những điều để thoả mãn tính tự phụ, nên dùng mọi thủ đoạn, mọi hành vi bất chính để đạt kết quả. Những lúc đó chúng ta có nói đến sự công bình trong cuộc sống không? Hay chúng ta không dám nói đến. Những lúc nhìn thấy người khác thành công mà mình thất bại, chúng ta cảm thấy khó chịu, bực mình. Càng khó chịu hơn khi thấy người khác không đạo đức, không tài năng, không có công trạng bằng mình, mà họ lại được ưu đãi hơn thì không thể nào chấp nhận được. Những lúc đó nếu chúng ta chịu bình tâm suy nghĩ và nhìn lại để đừng thốt nên những lời kêu ca phiền trách, thì thật là phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta phiền trách thì coi chừng sẽ nhận được lời nói cứng rắng như trong dụ ngôn: "Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy nhận phần của bạn mà đi về".
Những lúc chúng ta nhận được hồng ân Chúa, được thành công, đươc niềm vui bất ngờ, nếu chúng ta cảm nhận được mà biết tạ ơn Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta nhận ra được con người của chính mình không đáng là chi với những hồng ân Chúa ban, thì chắc là trong cuộc đời chúng ta không bao giờ dám kèo nài, trả giá và phiền trách Thiên Chúa của chúng ta được. Những lúc chúng ta không đạt được những gì như ý muốn, nếu chúng ta biết nhìn lại để cố gắng hơn với tất cả lòng chân thành, thì Thiên Chúa không bao giờ từ chối những gì phát xuất từ lòng chân thành.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết vui lòng chấp nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.
--------------------------------
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Đường lối của Thiên Chúa là gì? Suy tư về câu hỏi này, chúng ta thấy có hai nguy cơ trước mắt. TN 25-A114
Đường lối của Thiên Chúa là gì? Suy tư về câu hỏi này, chúng ta thấy có hai nguy cơ trước mắt. Nguy cơ đầu tiên, là nhiều người sẽ cảm thấy khó chịu và không lý giải được, khi họ muốn biết xem Thiên Chúa hành xử thế nào, hoặc đòi hỏi điều gì nơi họ. Từ đó dễdẫn họ đến thái độ vô tín, không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Bởi lẽ, nếu đường lối của Thiên Chúa đưa ra nhằm đánh đố con người, hay để lừa lọc những kỳ vọng nơi con người chúng ta, thì thử hỏi, còn tin vào Thiên Chúa để làm gì nữa. Nguy cơ thứ hai, là nhiều người khác lại quá cứng nhắc để dấn bước, tuyệt đối tin tưởng rằng đường lối Thiên Chúa đã vạch dẫn một cách quá rõ ràng qua mạc khải của Thánh Kinh, qua truyền thống của Hội Thánh, hoặc qua những chỉ huấn của Giáo hội. Họ không cần phải khám phá và tìm tòi. Họ cũng chẳng cần phải thắc mắc làm gì, vì đường lối của Thiên Chúa đã quá hiển nhiên và rõ ràng.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta đang toan tính quay lưng lại với Thiên Chúa, chúng ta vẫn bị cám dỗ muốn tinh giản đường lối Ngài qua một vài điều mà chúng ta nghĩ rằng chắc chắn Thiên Chúa sẽ thực hiện thánh ý Ngài giống như vậy. Khi chúng ta xác tín là mình đã thấu tỏ đường lối của Thiên Chúa một cách rõ ràng, chúng ta thường dễ dị ứng với ý tưởng cần phải sáng tạo hoặc cần mở lòng để Thiên Chúa có thể thực hiện một điều gì đó mới mẻ nơi chúng ta. Đồng thời, chúng ta hay có khuynh hướng giản lược mối thân tình của chúng ta với Ngài bằng một vài định thức có sẵn, chẳng cần phải phát huy sáng kiến hay tìm tòi. Ngôn sứ Isaia đã khuyên mời các đọc giả hãy sửa đổi quan niệm này. Ông nói “Hãy tìm Đức Chúa khi Ngài còn cho gặp, hãy kêu cầu Chúa khi Ngài còn ở gần bên. Kẻ gian ác hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương hãy bỏ tư tưởng mình đang có”. Trong mạch văn này, vị ngôn sứ có dụng ý nói về kế hoạch của Thiên Chúa muốn cứu Israel, và Thiên Chúa khẳng định “Tư tưởng của Ta, không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta”.
Khi đề cập đến việc đừngnên biến tướng đường lối của Thiên Chúa, và đừng cố tìnhlàm méo mó ý định của Ngài, Isaia muốn nhắc nhở dân Israel năm xưa, cũng như nhắn gửi chúng ta hôm nay một điều rất quan trọng. Đó là, khi chúng ta không thấu hiểu được cách thức Thiên Chúa hành động trong thế giới hay trong cuộc cuộc sống hiện sinh của chúng ta hôm nay, đan xen giữa bao hỗn độn và mơ hồ, chúng ta vẫn phải tin tưởng tuyệt đối rằng Thiên Chúa đang lèo lái, và dẫn dắt cuộc đời củachính chúng ta. Ngài vẫn đang thực hiện những kế hoạch mang lại thiện ích cho thế giới, và kéo mọi sự dữ ra khỏi cuộc sống của ta. Liệu chúng ta có xác tín như thế không? Đối với tất cả những ai nắm bắt được Thiên Chúa, đấng là căn nguyên mọi sự, thì họ sẽ cảm nhận ra Ngài luôn hiện diện và hành động trong cuộc đời này, ngay cả khi chúng ta không am hiểu đường lối Ngài.
Thánh Phaolô đã bị tống ngục, và chúng ta cũng không biết chính xác Ngài bị giam cầm ở đâu. Ở trong tù, Ngài đã viết một lá thơ cho giáo đoàn Philip. Trong thơ, Ngài đối diện với vấn đề là phải luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, ngay cả khi Ngài không hiểu Thiên Chúa muốn dẫn dắt Ngài đi đâu và đi như thế nào. Việc Ngài ngồi tù rồi sẽ ra sao, Ngài không biết. Những hành hạ và khổ nhục chốn lao tù xảy ra khiến Ngài có thể phải chết, nhưng Ngài vẫn tin tưởng rằng cái chết đối với Ngài là cửa ngõ dẫn đưa Ngài vào sự thông hiệp trọn vẹn với Đức Kitô, nên Ngài đã diễn tả “ Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Tuy vậy, dù Ngài mong muốn “chết để được nên một với Đức Kitô”, Ngài vẫn hy vọng “còn ở lại trong thân xác”, và Ngài thấy điều đó “cần thiết hơn, vì thiện ích của anh em”. Mong ước sâu xa nhất của Thánh Phaolô là Ngài muốn hoàn toàn quy thuận đường lối của Thiên Chúa, cho dù Ngài không hề biết thánh ý của Thiên Chúa muốn thánh nhân phải dấn bước theo nẻo đường nào.
Đặc biệt giữa cơn khủng hoảng và chao đảo trong tù ngục, sự khôn ngoan của Thánh Phaolô lại càng trổi trang hơn.Ngài đã nhắn nhủ giáo đoàn Philip một phương thức sống rất giản đơn, là“Anh em hãy ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng Đức Kitô” (Phil 1,27). Để thực hiện điều đó, chúng ta phải chuẩn bị hầu biết chấp nhận dấn bước trên những nẻo đường dẫn đến những nơi mà chúng ta không muốn đến, nhưng những nơi đó vẫn luôn vang vọng lời mời gọi của Thiên Chúa gửi trao cho chúng ta.
Tin mừng Matthêu kể lại dụ ngôn về Nước Trời, qua hình ảnh ông chủ vườn nho đi tìm thợ đến làm vườn cho mình. Vài người thợ được mướn vào buổi sáng từ 6 giờ, hay từ 9 giờ. Một số khác được mướn trễ hơn, vào ban trưa, hoặc xế chiều, lúc 3 hoặc 5 giờ chiều. Tất cả đều được trả công đồng đều, giống hệt nhau, cho dù họ bắt đầu làm việc vào nhữngthời điểm khác nhau. Dụ ngôn có đá động đến việc Thiên Chúa đối xử không công bằng. Lời cằn nhằn của những người thợ được mướn từ sáng sớm, nêu bật ý nghĩa trọng yếu của dụ ngôn: Đó là, lòng quảng đại của Thiên Chúa trao ban cho những người thợ bắt đầu làm việc vào lúc muộn giờ, không tương hợp với cách xử trí thông thường theo kiểu cách người đời. Nhưng nếu đọc kỹ dụ ngôn, chúng ta có thể trách cứ những người thợ đến làm từ sáng sớm. Họ ghen tỵ không đúng cách, vì những người thợ được mướn rất muộn màng, cho dù hầu như suốt cả ngày họ không làm gì, song thực chất họ vẫn đứng đó để chờ đợi trong sẵn sàng. Họ xứng đáng được thưởng công, bởi vì họ vẫn chăm chú đợi chờ, ngay cả khi niềm hy vọng của họ chỉ còn rất mong manh.
Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta luôn biết sẵn sàng trải lòng mình ra để Thiên Chúa thực hiện những điều mới mẻ, theo cách thế của Ngài, chúng ta sẽ tìm ra được lối bước mà Thiên Chúa muốn dẫn đưa chúng ta đi vào.
--------------------------------
Anh chị em thân mến,
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe, kể lại chuyện ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ để mướn người vào TN 25-A115
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe, kể lại chuyện ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ để mướn người vào làm cho ông. Một chuyện khá lạ là: không phải tất cả thợ đều được gọi vào làm ngay từ sáng sớm. Có nguời vào lúc giữa trưa; có người đến xế chiều mới vào làm, chỉ làm một giờ trước khi kẻng báo giờ nghỉ thôi. Vậy mà mọi người đều được lãnh như nhau: một đồng. Ta phải nói rõ: lương một ngày công của thợ là tương đương một đồng. Vậy nên những người làm ít giờ vừa khỏe lại có lợi, vì vẫn được một đồng. Còn nguời làm quần quật từ sớm cũng chỉ được như vậy. Do đó họ cằn nhằn cho là ông chủ không công bằng. Thực ra ông chủ cắt nghĩa thế nào? Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có hai hạng người chúng ta cần lưu ý:
* Ông chủ mướn công thợ: Bài dụ ngôn cho thấy, ông chủ rất quan tâm chuyện kêu gọi thợ đến làm vườn nho cho mình. Rõ ràng từ sáng sớm, ông đã ra đón thợ, mời họ vào làm vườn nho cho ông. Ông đã thỏa thuận với họ lương một ngày công là một đồng. Sau đó, lúc trưa, lúc xế ông lại ra, và gặp ai ông cũng mời họ vào làm cho ông. Rồi lúc 5g chiều, ông lại ra nữa, cũng thấy có mấy người đứng không đó, không có công ăn việc làm. Ông ngạc nhiên hỏi: Sao các anh ở không nhưng cả ngày như vậy? Họ trả lời: vì không ai mướn chúng tôi cả. Nghe vậy ông lại mời họ vào làm cho ông, dù họ chỉ làm có một giờ mà thôi. Cuối cùng khi hết giờ làm việc, ông cho phát tiền công; mỗi người đều được một đồng như nhau. Chính vì chuyện trả tiền công đồng đều như thế mà ông chủ bị phàn nàn...
Ở đây ta lại nhận thấy việc này: điều ông chủ quan tâm không phải là công việc, mà là những người khốn khổ, những người thiếu sống. Rõ ràng ông chủ quan tâm họ, vì họ không có việc làm, và ông sợ họ không kiếm đuợc tiền hàng ngày, để nuôi sống gia đình họ. Chuyện gọi họ vào làm công cho ông, chỉ là cái cớ, để ông trợ giúp kẻ thất nghiệp không công ăn việc làm. Như vậy ông chủ vườn nho cư xữ theo lòng thương xót, không phải theo lối công bằng sòng phẳng ở đời....
* Các người làm công ganh tị: Như trên đã nói, vì ông chủ thương xót nguời thất nghiệp, nên đã trả công cho một đồng, bằng lương cả ngày công lao động; tuy họ chỉ làm có một giờ thôi. Lối cư xử đầy lòng thương xót này đã vấp phải lời dị nghị của những con người chỉ quen thứ công bằng gắt gao, vị kỷ, sẵn sàng loại trừ kẻ yếu thế, cô thân. Rõ ràng lòng thương xót của ông chủ vượt xa lẻ công bằng; nó không cần đong đo xem có tương xứng không, giữa cái cho và cái nhận, cũng không cần nhìn đến sự thiệt hơn, chỉ nghĩ đến sự khốn cùng của con người, để cứu giúp không so đo tính toán...
b/. Chúa Giêsu muốn nói gì qua dụ ngôn này?
Dĩ nhiên, ông chủ ở đây chính là hình ảnh của Thiên Chúa; các người làm công ganh tị, là hình ảnh các pharisêu, luật sĩ. Họ đang phẩn nộ vì Chúa quan tâm đến hạng thu thuế, gái điếm, dân ngoại, đó là những người bị họ liệt vào hạng tội lỗi; trong khi xem ra Chúa đánh giá các luật sĩ, biệt phái thấp quá... Qua dụ ngôn này, Chúa nhắc khéo họ như lời Thánh vịnh: "Chúa công minh trong mọi đường lối, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm". Thiên Chúa không phải là ông quan tòa thưởng phạt chính xác, cũng không phải ông chủ tính toán chi li, cũng không phải ông thầu trả lương sòng phẳng, mà Người là Thiên Chúa lấy tình thương mà đối xử với con cái. Con cái nào Chúa cũng thương, nhưng đứa con Chúa thương hơn chính là vì nó bệnh tật, yếu ớt, đần độn...Cha thương con vì đó là con của Cha, không vì con đã làm cho Cha điều này điều nọ. Đứa con bệnh hoạn tật nguyền, Cha lại yêu hơn... Dụ ngôn này là một mạc khải sâu xa về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vì "tình yêu thì vượt xa lẽ công bằng..."
Câu chuyện: Có một người giáo dân hỏi cha sở: Thưa cha, con phân bì với anh trộm lành, người cùng chết với Chúa trên đồi Golgotha đó, vì Chúa hứa cho anh ta về thiên đàng ngay ngày hôm đó với Chúa. Anh trộm lành rõ ràng là một tên cướp với đủ thứ tội. Vậy mà Chúa hứa cho anh ta lên thiên đàng ngay với Chúa. Con không phục đâu. Cha sở cười hỏi lại: Vậy có phải nếu anh là Chúa, anh sẽ nói với anh trộm lành: "Tôi không quên anh đâu; nhưng còn vào thiên đàng hả? Chắc còn lâu quá! Vì anh phải đền tội trong luyện ngục cái đã chứ! Rồi sau đó mới lên thiên đàng đuợc." Có phải anh muốn nói thế không?: - Anh giáo dân cười nói: "Dạ phải vậy chứ! Anh ta là tay cướp khét tiếng, tội nào mà không có.." Cha sở nói: "Vậy rõ ràng anh không phải là Chúa rồi, cho nên anh đâu hiểu được đường lối của Chúa. Người ta thì đòi công bằng, nhưng Thiên Chúa lại cư xử bằng tình yêu. Chính tôi cũng không hiểu được Chúa nhiều về điểm này; nhưng tôi chỉ biết tình yêu và lòng thương xót của Chúa thì vượt xa lẽ công bằng mà thôi...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Mỗi người kitô hữu chúng ta đều được Chúa mời gọi vào làm cùng chung một việc là: làm trong vườn nho của Chúa, vào các thời điểm khác nhau. Thực ra Chúa không cần ta làm nhiều hay ít; điều quan trọng là ta có sẵn lòng làm cho Chúa trong tin yêu, khiêm tốn, quảng đại không ganh tị, cộng tác với mọi người không?
--------------------------------
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
“Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.
Câu nguyện dụ ngôn về tiền công trả cho các người làm vườn nho, nói gì thì nói, vẫn khó nuốt trôi, TN 25-A116
Câu nguyện dụ ngôn về tiền công trả cho các người làm vườn nho, nói gì thì nói, vẫn khó nuốt trôi, nhất là khi ta tự đặt mình vào tư thế các lao động nhóm một đã làm lụng vất vả suốt 12 tiếng ròng. Lời ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn…” xét về diện pháp lý thì không ai chối cãi được, nhưng vẫn còn đó một điều gì không mấy ổn, đăng đắng trong ruột gan… Ít nhiều ta vẫn còn thấy lời phàn nàn của đám thợ làm sớm có phần nào chính đáng. Nếu Nước Trời giống như câu chuyện này thì quả thật nó hàm chứa một điều gì quá bất thường và có phần nào khó hiểu lắm đấy.
Hầu như mọi tôn giáo đều tuân thủ cặn kẽ qui luật nhân quả, có nguyên nhân thì phải có hậu quả, ai làm thiện thì gặp lành, còn ai làm ác thì phải gặp dữ. Kể cả người Công giáo cũng thường được dạy, và đi tới xác tín như đinh đóng cột: nếu làm việc lành phước đức nhiều thì công phúc trên thiên đàng sẽ rất lớn, còn nếu sống tội lỗi và làm điều dữ thì sẽ bị trầm luân trong hỏa ngục đến muôn đời muôn kiếp. Đó là lẽ công bằng, đó là luật nhân quả quá hợp lý đã in sâu vào tâm khảm không dễ gì xóa nhòa; ngay cả đôi lúc nếu có xuất hiện một vài luật trừ ra ngoài định luật này, ta cũng còn thấy khó chấp nhận.
Khi kể câu chuyện dụ ngôn về ông chủ trả lương các người làm công theo cách thức đó, chắc hẳn Đức Giêsu chủ tâm cho thấy: một đàng công bằng vẫn được tôn trọng, “Tôi đâu có xử bất công với bạn…”, trong khi đó có một yếu tố ‘cào bằng’ rất lạ xuất hiện để trở thành nét đặc trưng của Nước Trời đang đến; “Tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng bằng bạn đó…” Thoạt tiên ‘cào bằng’ xem ra như đạp đổ tính công bằng của luật nhân quả, thưởng phạt, và đó là lý do của sự giận dữ kêu trách của những kẻ lẽ ra phải được coi trọng hơn. Tuy nhiên chính sự vô lý đó lại mời gọi ta khám phá ra nét độc đáo có một không hai đứng đàng sau Tin Mừng: “Tôi tốt bụng”, Thiên Chúa nhân lành, Ông Chủ đầy từ tâm.
Qua câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu đang vẽ lên hình ảnh một Thiên Chúa - Cha của Người khác xa hình ảnh Đức Chúa của Cựu Ước, khác xa với Ngọc Hoàng truy xét con người với tầm sét Thiên Lôi. Sự công bằng của Tin Mừng là công bằng của lòng từ nhân và thương xót. Nếu không thấu hiểu và chấp nhận sự công bằng này, sự công bằng mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể mạc khải bằng cả cuộc sống và cái chết của Người, thì có thể cả tôi nữa cũng sẽ phải cằn nhằn ghen tức Thiên Chúa mà thôi: “Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Và nếu Nước Trời chính là công bằng của lòng từ ái (tốt bụng) thì đúng là lúc đó tôi sẽ bị liệt vào hạng ‘những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót…’ Thật đáng tiếc, những người thợ của giờ thứ nhất đã không khám phá ra điều này để phải cằn nhằn với chủ và ghen tức với đồng bạn. Lẽ ra họ đã phải rất tự hào và sung sướng vì đã được diễm phúc làm lụng cho Ông Chủ tốt bụng suốt 12 tiếng, trong khi tiếc cho các bạn khác vì chỉ được gần gũi phục dịch Ngài trong một thời gian quá ngắn ngủi như thế.
Nếu không khám phá ra Thiên Chúa ‘tốt bụng’ của Đức Ki-tô, niềm tin và việc giữ đạo của Ki-tô hữu chúng ta cũng có nguy cơ trở thành một chuỗi những ‘công việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Chúng ta cũng sẽ rất dễ dàng phàn nàn và ghen tức khi thấy rằng mình, bất chấp các nỗ lực sống luân lý cách gương mẫu, cũng chẳng được ưu đãi hay nhận được ân huệ gì hơn những kẻ ‘tội lỗi và dân ngoại’ khác.
Khi áp dụng qui luật này vào chính mình, nhiều khi tôi cũng cảm thấy vui sướng và hãnh diện tạ ơn vì nhận được các ân huệ đặc biệt như trở thành tu sĩ, linh mục... vì cho rằng đó là phần thưởng xứng đáng cho những cố gắng tu luyện của mình; đồng thời những khi gặp thử thách gian nan tôi cũng dễ dàng chao đảo và mất lòng trông cậy. Thi thoảng khi thoáng nhận ra Thiên Chúa tốt bụng với kẻ khác... tôi cũng rơi vào tình trạng “hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Chính vì thế mà tôi vẫn thấy rất lý thuyết và xa vời cái tâm tình tạ ơn không ngừng của Ki-tô hữu; ‘tất cả đều là hồng ân’ không gì hơn một khẩu hiệu đầu môi chóp lưỡi… vì nhiều lúc tôi đâu có tìm thấy một lý do nào để mà cảm tạ. Ôi thật đáng thương cho tôi nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, và Tin Mừng tôi sống sẽ chỉ là một nửa dang dở!
Lạy Chúa từ nhân, con không muốn là người thợ ‘đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót’. Xin ban cho con ơn huệ vĩ đại là không ngừng nhận biết Chúa là Ông Chủ công bằng giầu lòng xót thương, nhờ đó con sẽ có khả năng cảm tạ Chúa không ngừng trước bất cứ điều gì xảy ra trong đời sống mình; và vui mừng vì nhận ra Chúa xót thương hết thảy mọi người, nhất là những kẻ thấp hèn và tội lỗi. Xin hãy giúp con luôn biết khiêm tốn dâng lời ca khen lòng nhân hậu Chúa không ngừng. Amen.
--------------------------------
Có qua có lại mới toại lòng nhau hay bánh ích đi thì bánh quy lại". Đó là cách cư xử bình thường của TN 25-A117
"Có qua có lại mới toại lòng nhau hay bánh ích đi thì bánh quy lại". Đó là cách cư xử bình thường của con người với nhau. Nói vắn gọn là công bằng và sòng phẳng. Đây là điều mà những người chủ cần biết quan tâm nhiều hơn với người của họ. Một người chủ sáng suốt và tài giỏi sẽ biết trả lương đúng với thực lực nhân viên của mình.
Với cái nhìn này, chúng ta sẽ thấy ông chủ trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay thật lạ lùng. Trước nhất là thông thường việc đi kiếm người làm thì do người quản gia. Còn ở đây chính ông chủ lại đi kiếm người làm. Chẳng những ông đi kiếm một lần trong ngày mà nhiều lần.
Lạ thứ hai là cách trả lương của ông chủ. Ông chỉ giao kèo với những người được mướn từ những giờ đầu. Còn những người vào làm những giờ gần cuối ngày thì không. Đến khi trả lương, ông lại trả cho những người vào làm cuối ngày trở lên. Lạ nhất là tất cả mọi người đều được hưởng lương như nhau. Do đó họ mới phàn nàn: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." (Mt 20, 12). Nếu như với thời buổi hiện nay, chắc chắn những người làm này sẽ tổ chức đình công ngay.
Hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn này có lẽ chúng ta sẽ hiểu ngay Chúa Giêsu muốn nói về ai. Đó chính là Thiên Chúa của chúng ta. Không phải chúng ta đi tìm Thiên Chúa mà chính Người đi tìm chúng ta. "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con" (Dt 1, 1 - 2)
Ơn cứu độ mà chúng ta được nhận lãnh là ơn ban hoàn toàn nhưng không chứ chẳng phải do công sức của chúng ta. Vì thế, Thiên Chúa có toàn quyền ban phát tuỳ theo ý muốn của Người. Thiên Chúa bao giờ cũng muốn cho mọi người đều được hạnh phúc. Thánh Phaolô đã nói: "Hãy vui với người vui và khóc với người khóc" (Rm 12, 15). Cho nên lẽ ra khi thấy anh chị em cùng được hạnh phúc thì chúng ta phải vui lên chứ không được phân bì. Phần chúng ta khi cảm nhận được mình đang được hưởng những ân huệ nhưng không thì hãy biết sống tốt hơn nữa. Có như thế chúng ta mới thật sự là những đứa con có hiếu.
--------------------------------
Thường thích nói cầu xin Chúa ban ơn. Để Chúa ban ơn phải sám hối và được Chúa tha tội để có ơn TN 25-A118
Thường thích nói cầu xin Chúa ban ơn. Để Chúa ban ơn phải sám hối và được Chúa tha tội để có ơn thánh hoá. Hôm nay nói rõ thêm: Phải làm việc "làm vườn nho Chúa" mới được trả công xứng đáng. Là củng cố cho khẳng định "ngoài Giáo Hội không có cứu độ".
Vườn nho là Nước Trời. Ông Chủ là Thiên Chúa. Thuê người làm là Thiên Chúa mời gọi. Gặp ai Người cũng đều mời gọi. Có làm vườn nho, có công mới có thưởng. Thiên Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự đáp lại lời Người mời gọi và tuỳ theo việc làm của mỗi người (theo sự đánh giá của Ngưòi). Thiên Chúa biết việc Người làm (chúng ta làm sao biết!). Phải hiểu bài Phúc âm theo những áp dụng trên.
CHÚ GIẢI
- Thuê người làm vườn nho: Thiên Chúa mời gọi mọi người mà Người gặp gỡ đi làm vườn nho là gia nhập và làm việc trong nước của Người là Giáo Hội.
- Thoả thuận với họ là mỗi ngày một đồng: hợp đồng "Làm việc" để được Nước Trời. Được hay không được. Không có ít hay nhiều.
- Ông sai họ đi làm vườn nho: Đức Giêsu, các tông đồ, Giáo Hội rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ai tin, chịu phép rửa, gia nhập Giáo Hội, làm việc "những điều Đức Giêsu dạy....."
- Giờ thứ ba, ông trở ra chợ thấy có những người ở không, ông bảo "hãy đi làm vườn nho Ta, Ta sẽ trả công xứng đáng: Gặp là gọi và hứa "trả công xứng đáng (tuỳ theo việc họ làm, không hợp đồng cụ thể). Không gặp thì không gọi được. Phải cho Chúa gặp.
- Giờ thứ sáu, giờ thứ chín, giờ thứ mười một..: Sao các anh "không làm gì hết", hãy đi làm vườn nho cho Ta: Không có giờ thứ 12 hay 13. Làm việc một giờ cũng là có làm. Giờ 12 thì có làm gì để đánh giá và thưởng. Chờ giờ 12, mới gặp (không gọi). Có người tính toán "để gần chết hãy xin rửa tội được lên thiên đàng ngay"? Không biết ai bày chuyện nầy?
- Chiều đến, trả công.. bắt đầu từ người đến sau hết: Nếu bắt đầu từ người trước hết cho họ về trước thì không có cãi cọ. Câu chuyện được sắp đặt (chứ không tự nhiên) để nói vế những người được mời gọi trước hết là Israel (nhất là biệt phái và luật sỉ) cằn nhằn, trở nên sau hết, bị loại trừ (như đã xảy ra mà không cằn nhằn được!). Muôn dân được mời gọi sau là do ý định của Thiên Chúa sắp xếp và rõ ràng họ "làm việc" tốt hơn người Do thái. Họ xứng đáng ơn cúư độ. Và chúng ta thấy không có vấn đề "cằn nhằn" vì Thiên Chúa trả công cho mọi người "xứng với việc họ làm" (theo đánh giá của Thiên Chúa).
- Những kẻ trước hết thì trở nên sau hết....: bị loại hết thì những kẻ sau hết tự nhiên được đôn lên trước hết. Do thái bị loại hết thì còn dân ngoại thôi. Sau trở thành trước.
- Được gọi thì nhiều mà được chọn thì ít: Có điều kiện như qui định thì mới chọn. Không có "nhưng không". Không đủ điều kiện thì bị loại là lẽ đương nhiên. Những kẻ được gọi phải "cho" điều kiện để được chọn. Không thể xấu tốt gì cũng chọn.
Thiên Chúa nhân hậu và công bình. Là sự công bình của con tim (chứ không phải của lý trí vô cảm). Thiên Chúa phải như vậy mới là Thiên Chúa toàn thiện, vừa công bình mà cũng vừa nhân hậu. Cằn nhằn vì không hiểu cách hành xử của Thiên Chúa.
Thiên Chúa gặp ai cũng gọi. Gặp trước gặp sau là do ý định của Người trừ khi người ta trốn tránh Thiên Chúa, cố tình từ chối Thiên Chúa, không chịu đi làm vườn nho.
Có công mới có thưởng. Vô công bất thụ lộc. Người chân chính không có công không nhận lộc. Con người thường xin Chúa ban "nhưng không". Làm vườn nho Chúa thì mới có công. Không chịu giữ đạo Chúa mà muốn lên thiên đàng hoặc đợi gần chết mới chịu phép rửa hoặc chịu phép rửa mà không giữ đạo đợi giờ chết nhờ người ta rước cha xức dầu. Muốn vào thiên đàng vào giờ thứ 25. Không làm vườn nho Chúa, Chúa đâu phải trả công "Nước Trời".
Thiên Chúa rất nhân từ nhưng cũng công bình vô cùng. Nhân từ có lý do. Nhưng lý do của Thiên Chúa chúng ta không biết nổi vì chúng ta hẹp hòi, ích kỷ. "Ta tốt bụng còn bạn thì hẹp hòi" cằn nhằn.Thiên Chúa không hề hà, hệt hạt, tuỳ tiện. Thiên Chúa thấy tường tận, chí lý khi hành động còn chúng ta chỉ thẩy phiến diện vì chúng ta bị giới hạn "thụ tạo".
Hãy nhân từ như Cha trên trời là Đấng nhân từ. Ngưòi muốn lòng nhân từ hơn của lễ.
--------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Is 55,6-9 Rm 14, 7-9 Mt 20,1-16ª
Việc so sánh người này với người khác dễ gây ngộ nhận, hiểu lầm và đưa đến nhiều điều không tốt TN 25-A119 Dalat
Việc so sánh người này với người khác dễ gây ngộ nhận, hiểu lầm và đưa đến nhiều điều không tốt đẹp mấy.Do đó, qua những bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy nhân loại, dạy chúng ta thái độ cần phải có đối với Thiên Chúa và đối với mọi người.
Tin Mừng cho thấy sự công bằng của Ông chủ bởi vì Thiên Chúa qua nhân vật Ông chủ đã hoàn toàn không thiên vị. Việc cam kết trả lương một đồng từ người làm việc ban sáng cho tới người việc giờ cuối cùng đã được những người làm công và Ông chủ thỏa thuận rõ ràng. Nên, ở đây không có sự mất công bằng vì người làm sau cũng như người làm trước. Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho mọi người, miễn là con người biết mở rộng lòng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Dân Do Thái xưa được Chúa chọn làm dân riêng của Ngài, họ lầm tưởng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho họ, nhưng thực tế, ơn cứu độ trải rộng cho mọi người. Bài Tin Mừng này cho thấy, đối với Thiên Chúa, chúng ta phải cảm tạ tri ân Ngài vì muôn vàn hồng ân Chúa đã tuôn đổ trên chúng ta. Những người thợ làm công trong vườn nho Chúa, là những người đại diện cho chúng ta. Con người và chúng ta được sinh ra, lớn lên ở đời là do Chúa, do hồng ân cao quý của Ngài, chứ không phải do công trạng của chúng ta. Nên, chúng ta phải tạ ơn Chúa mãi mãi và tạ ơn không ngừng.
Đối với những người anh em của chúng ta, được sinh ra và lớn lên trong thế gian, được làm việc trong vườn nho của Chúa. Chúng ta phải cộng tác với họ để làm cho công trình tạo dựng của Chúa luôn đẹp, luôn tươi xinh và triển nở. Chúng ta không được so đo, ganh tỵ với họ vì Chúa đều ban cho mỗi người những tài năng, những gia sản tùy theo khả năng của mình. Người làm sau giờ chót cũng được trả lương một đồng bằng người làm giờ sớm nhất không phải vì Chúa bất công, không công minh, công bằng nhưng Chúa biết từng nhu cầu của mỗi người và đáp trả cân xứng nhu cầu con người cần. Thiên Chúa ban cho con người bằng nhau, để tất cả mọi người no đủ, dư đầy. Chính vì thế, chúng ta không được ganh tỵ, so đo với người khác mà hãy bằng lòng và tạ ơn những khả năng, ơn lành Chúa đã rộng ban cho chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về lời của thánh tông đồ Phaolô gửi tín hữu Galata:” Mỗi người chúng ta nên suy xét về cách cư xử của mình.Nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình đã làm nhưng chớ nên so sánh với điều kẻ khác đã làm “ ( Galat 6, 4 ). Điều quan trọng ở đây không phải là những gì người ta nghĩ về chúng ta nhưng Thiên Chúa nghĩ thế nào về chúng ta và tình yêu của Đức Kitô thôi thúc chúng ta làm việc.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn có tấm lòng hy sinh, quảng đại để chúng ta vui khi thấy anh em chúng con thành công trong việc làm, trong cuộc sống vì:” Phaolô trồng, Apôlô tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên “. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ông chủ trong dụ ngôn này có công bằng không ? Tại sao ?
2.Người làm từ giờ sáng sớm, với người làm giờ sau hết, tại sao mỗi người đều được trả công như nhau ?
3.Ơn cứu độ dành riêng cho ai ?
4.Thiên Chúa có công bằng không ?
5.Ta có nên ganh tỵ, so đo với người khác không ?
--------------------------------
(Mt 20, 1 – 16a)
Chúa nhật này, tác giả Tin Mừng muốn tiếp tục quảng diễn cho chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu TN 25-A120
Chúa nhật này, tác giả Tin Mừng muốn tiếp tục quảng diễn cho chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời. Sứ điệp sâu xa chính là ý muốn cứu độ phổ quát cả và nhân loại của Chúa Cha, nên mọi người đều được mời đến làm vườn nho của Chúa.
Điểm nổi bật trong dụ ngôn này là cuộc nổi loại của những người đến làm việc trước. Những người (thợ làm vườn nho) sống và làm việc vì Nước Trời, nhưng coi đó như một trách nhiệm nặng nề ( "chúng tôi chịu đựng nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày " Mt 20,12) chứ không phải là hồng ân đến từ Thiên Chúa, tự coi mình như những tên đầy tớ xấu.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Tất cả chúng ta đều được Chúa mời gọi đi làm vườn nho của Chúa. Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7 ; Gr 2, 21 ; Ez 15, 4). Câu "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói: "Hãy đi vào trong Giao ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta".
Đi làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. Chúa Giêsu tự khẳng định mình: "Thầy là cây nho thật" (Ga 15, 1-5). Nên câu "Hãy đi làm vườn nho ta" còn có nghĩa là " hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi" (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng" (Mt 20, 4). Có người hỏi: Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì ? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao ?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa "sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm" (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta: "Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta" (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng "xtate" tiền cổ Hy lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra "điểm chính" trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình" (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người: "Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín".
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng "không ai thuê"; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào "buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ " đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng " vào giờ thứ mười một" anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời: "Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta" (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình ; họ đi làm, nhưng "không ai thuê" (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta: "từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng". Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn: " Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? "
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn "tốt lành," quảng đại và nhân đạo.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
--------------------------------
Lối Sống Của Chúa Ki-tô Là Lối Sống Của Chúng Ta
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Is 55:6-9; Pl 1:20c-24,óc 27a; Mt 20:1-16a)
Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là ...”. Tha thứ không ngừng, đó là một đặc nét trong lối sống Chúa TN 25-A121
“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Tha thứ không ngừng, đó là một đặc nét trong lối sống Chúa Ki-tô dạy chúng ta. Tuy nhiên Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tiếp tục trình bày lối sống ấy được biểu lộ qua cách chúng ta suy nghĩ, ăn ở sao cho xứng với Tin Mừng và theo gương “tốt bụng” của Thiên Chúa.
Con người là sinh vật có lý trí và tư duy là một trong những sinh hoạt chủ yếu. Giữa các sinh vật Chúa dựng nên, chúng ta là thụ tạo có giá trị nhất, vì “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy” (Thánh Vịnh 8:6). Tư tưởng của chúng ta nói lên rất rõ ràng lối sống. Sau khi nguyên tổ phạm tội bất tuân, lối suy nghĩ của chúng ta thay đổi, không còn theo đường lối của Thiên Chúa nữa. Con người đối nghịch với Thiên Chúa và biến thành “kẻ gian ác, người bất lương”. Ngôn sứ I-sai-a nói lên sự đối nghịch này. Thiên Chúa “xót thương và rộng lòng tha thứ”, còn chúng ta thì ngược lại, gian ác và giữ lòng thù hận. Hai lối sống, một theo đường lối của Thiên Chúa và một theo đường lối của loài người, xa cách nhau như trời với đất. Do đó, đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa cao hơn đường lối và tư tưởng chúng ta vô cùng.
Vậy thì làm sao chúng ta hiểu và tiếp cận được với đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa? Câu trả lời: Chúa Giê-su chính là gạch nối, là phiên bản lối sống của Thiên Chúa giúp chúng ta thực hiện điều chúng ta không thể tự sức mình làm được. Nhận thức chân lý quan trọng này, thánh Phao-lô khẳng định chắc chắn: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô”. Thật tuyệt vời! Đây là phương châm của ngài và cũng là nguyên lý dành cho tất cả các Ki-tô hữu chúng ta. Nó vừa ngắn gọn, rõ ràng, nhưng ý nghĩa vô cùng phong phú, để chúng ta suy nghĩ và sống cả một đời cho đến khi nhắm mắt. Chúa Ki-tô không những là gương mẫu để sống mà còn là gương mẫu để chết nữa. Đúng vậy, khi còn sống, Chúa Ki-tô “đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Công Vụ Tông Đồ 10:38). Còn khi Người trao Thần Khí trên thập giá, thì cái chết của Người là một “mối lợi” vô cùng vĩ đại, vì nó giao hòa toàn thể nhân loại với Thiên Chúa. Cuối cùng, thánh Phao-lô đã rút ra một điểm thực hành rất nghiêm túc: “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô”. Sống xứng đáng với Tin Mừng hoặc xứng đáng với Chúa Ki-tô thì cũng là một mà thôi!
Câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cái nhìn của Thiên Chúa về lẽ công bằng. Trong câu chuyện, có những sự kiện làm chúng ta phải thắc mắc. Với nhóm thợ đầu tiên, ông chủ vườn nho thỏa thuận trả cho họ mỗi ngày một quan tiền. Còn tất cả những nhóm thợ đến sau, ông chỉ bảo họ: “Tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”, mà không ấn định rõ ràng là bao nhiêu. Cuối ngày, ông trả tiền công cho thợ, bắt đầu từ nhóm đến sau cùng, mỗi người là một quan tiền. Nhưng khi nhóm đầu tiên chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền, họ lập tức phàn nàn là ông chủ không công bằng. Thực ra ông chủ không bất công, vì ông đã làm theo đúng thỏa thuận với họ. Đó là lẽ công bằng theo “đường lối loài người”. Còn việc ông trả công cho những người đến sau bằng với những người đến đầu tiên, thì đó là lẽ công bằng của một Thiên Chúa “tốt bụng”, nói khác đi, là lẽ công bằng đo bằng trái tim Thiên Chúa.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Lẽ công bằng theo đường lối của Thiên Chúa đã được Chúa Giê-su thực hiện qua sứ vụ của Người và nhất là qua cái chết của Người để cứu độ chúng ta. Chúng ta không thể đền bù được tội lỗi của mình, mà phải hoàn toàn nhờ vào công nghiệp của Chúa Giê-su. Người đã lấy lẽ công bằng của Thiên Chúa mà đối xử với chúng ta là để làm gương cho chúng ta. Người đã “tốt bụng” không những với người thánh thiện, mà càng tốt bụng hơn với những kẻ tội lỗi, thu thuế, đau yếu bệnh tật, bị quỷ ám… Khi kể dụ ngôn, có lẽ Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh đến lối sống tốt bụng của ông chủ vườn nho là Cha trên trời của chúng ta và đó cũng phải là lối sống của chúng ta nữa. Thánh Phao-lô đã chọn sống “vì anh em” thay vì “ra đi để được ở với Đức Ki-tô”. Vậy ta phải làm sao để sống tốt bụng cho xứng với Tin Mừng đây?
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
--------------------------------
Thiếu nhi chúng con yêu quí.
Chúng ta vừa nghe một bài dụ ngôn rất hay của Chúa Giêsu. Chúng con thấy ông chủ vườn nho TN 25-A122
Chúng ta vừa nghe một bài dụ ngôn rất hay của Chúa Giêsu.
Chúng con thấy ông chủ vườn nho trong bài Tin Mừng hôm nay thế nào?
- Thưa ông là một người tốt.
- Ông tốt ở chỗ nào chúng con?
Đây cha cắt nghĩa cho chúng con. Ông tốt vì ông giúp nhiều người thất nghiệp có công ăn việc làm. Ông tốt vì ông đã đối xử với họ rất công bằng và bác ái.
- Thế nào là công bằng chúng con?
Thưa ông công bằng vì ông đã trả công cho những người đã thoả thuận với ông đúng theo những gì họ đã giao ước thoả thuận với ông. Ông không để họ thua thiệt theo lẽ công bằng những gì ông đã thoả thuận với họ. Họ thoả thuận với ông bao nhiêu ông đã trả đúng như thế. Công mỗi người mỗi ngày một đồng. Với sồ tiền này theo thời giá và hoàn cảnh công nhân lúc đó: họ có thể đủ để nuôi sống họ và gia đình một ngày. Ông chủ tốt vì ông đã tạo việc làm cho họ và họ đã có tiền để nuôi sinh sống.
Thế ông còn tốt ở chỗ nào nữa chúng con?
- Ông còn tốt ở chỗ ông đã đi xa hơn sự công bằng. Ông đã tự cho mình có trách nhiệm phải tìm giúp những người thất nghiệp "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi" Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!"(Mt 20,7-8). Ông cảm thấy thương những người không được ai thuê mướn.
Tới đây cha mới thấy ông chủ này không phải là người thường tình như những người khác trong xã hội.
Tại sao cha nói thế?
Trong cuộc sống hằng ngày chúng con thấy người ta đối xử công bằng với nhau đã là điều tốt đẹp lắm rồi. Nhưng ở đây cha thấy, từ việc ông đã sống hết sức công bằng với mọi người, ông đã vượt qua cuộc sống cọng bằng thường tình để vươn lên cao, sống một đời sống mới, một đời sống cao hơn những cuộc sống thường tình của nhiều người. Chúng ta gọi cuộc sống ấy là cuộc sống bác ái yêu thương. Đây là cuộc sống mà chính Chúa Giêsu đã luôn sống và Chúa cũng muốn cho mọi người sống như thế.
Nếu chúng con hỏi cha: Tại sao cha nói như thế? Thì đây chúng con hãy nhìn vào cách ông trả lương cho những người thợ đã vào làm vườn nho cho ông chúng con sẽ biết.
Tin Mừng kể: "Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất". Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt". Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?"(Mt 20,8-16)
Hay quá chúng con! Ông chủ này thật là một người rất khôn ngoan. Ông đã làm cho những người có đầu óc ích kỷ hay ghen tương phải "câm miệng" vì ông đã đối xử thật công bằng hợp tình hợp lý với họ. Còn việc ông tốt bụng, ông cư xứ quảng đại đối với những người làm sau chót đó là quyền của ông. Ông đã sống công bằng với những người muốn công bằng khi thoả thuận một quan tiền trước khi vào làm vườn nho. Và ông đã sống bác ái yêu thương với những người làm việc sau cùng. Ông đã hoàn toàn có lý.
Tới đây thì cha thấy bài học Chúa muốn dạy mọi người đã rõ. Chúa muốn mọi người bắt chước Chúa sống yêu thương với tất cả mọi người như Chúa đã yêu thương chúng ta.
Thói thường từ bao nhiêu ngàn năm nay, con người vẫn thường để cho những đố kỵ, ghen ghét lẫn nhau chi phối cuộc sống của mình. "Họ lẩm bẩm kêu trách chủ rằng: bọn sau chỉ làm một giờ mà ông trả bằng chúng tôi sao?". Ông buộc lòng phải sửa trị thói ghen tị đó bằng cách vạch ra cho họ thấy lòng bác ái cao cả của ông: “Chẳng lẽ tôi không có quyền cho của cải của tôi sao? Hay vì bạn thấy lòng tốt của tôi, mà bạn ghen tức ư!”
Ông chủ không trả tiền thêm cho bọn thợ làm cả ngày, không phải vì ông keo kiệt, bóc lột. Nếu ông keo kiệt bóc lột, ông chẳng hậu đãi các thợ làm ít giờ. Nhưng ông phải giữ đúng công bằng vì không cho phép lòng tham của họ vơ vét thêm, làm dịp cho họ ăn chơi hoang phí.
Vâng! chỉ có cuộc sống bác ái yêu thương mới là cuộc sống đẹp lòng Chúa. Hay nói cụ thể hơn, chỉ khi nào chúng ta biết sống yêu thương chúng ta mới xứng đáng là con cái của Chúa. Thánh Gioan đã nói rất hay:" Thiên Chúa là tình yêu"
Chúng con hãy nghe câu chuyện này. Câu chuyện do chính mẹ thánh Têrêsa Calcutta kể:
Đêm hôm đó, có người tới nhà chúng tôi, báo cho tôi biết một gia đình Hindu tám đứa con đã nhiều ngày không được ăn gì. Họ không có gì ăn.
Tôi lấy cơm đủ cho họ một bữa ăn, đem tới nhà họ. Tôi thấy những khuôn mặt đói khát, thấy mắt của những đứa con đã sưng húp. Tình cảnh quá đáng thương!
Người mẹ nhận cơm trên tay tôi, chia lấy nửa phần cơm rồi bước ra. Lát sau chị trở về tôi hỏi:
- Chị đi đâu, làm gì vậy?
Nàng trả lời:
- Họ cũng đang đói?
Họ" là ai? Họ là một gia đình trong xóm, theo đạo Hồi cũng có số con tương đương, đang đói ăn và cũng không có gì ăn.
Người phụ nữ đó đã ý thức về tình cảnh của mình, nhưng bà can đảm và có lòng, nên đã chia phần cơm ít ỏi này với người khác. Tôi nghĩ nàng đã cảm thấy hạnh phúc: vì được chia sẻ với xóm giềng một chút gì tôi đã đem đến cho nàng, bất kể cả hoàn cảnh của mình.
Vì không muốn cướp mất niềm hạnh phúc của nàng, đêm đó tôi không đem thêm chút cơm nào cho nàng. Tôi chỉ mang thêm vào hôm sau.
Ít năm trước, Calcutta trải qua nạn khan hiếm đường trầm trọng. Có ngày, một cậu bé khoảng bốn tuổi tới thăm tôi cùng với cha mẹ. Gia đình này đem cho tôi một hộp đường nhỏ. Khi trao tay tôi hộp đường, cậu bé nói: "Đã ba bữa, con không được nếm một chút đường nào. Mẹ cầm lấy đi. Đây là phần của những người con của mẹ".
Cậu bé đã biết yêu thương. Cậu đã bày tỏ tình yêu bằng một hy sinh của bản thân. Tôi nhắc lại, cậu không quá ba, bốn tuổi và gần như chưa gọi được tên tôi. Tôi đã không biết cậu bé trước đó và chưa một lần gặp cậu, cũng chẳng gặp cha mẹ cậu. Cậu bé đã thực hiện quyết định đó, sau khi khám phá ra hoàn cảnh của tôi nhờ những người lớn.
--------------------------------
Mt 20,1-16
Chắc hẳn ai trong chúng ta khi nghe đọc bài Tin mừng hôm nay cũng cảm thấy bị sốc. Trên trần thế TN 25-A123 HN
Chắc hẳn ai trong chúng ta khi nghe đọc bài Tin mừng hôm nay cũng cảm thấy bị sốc. Trên trần thế này chẳng có ông chủ nào tốt bụng như vậy, nhất là thời buổi kinh tế thị trường, chạy theo lợi nhuận hôm nay. Vì nếu các chủ nhà máy xí nghiệp mà xử sự như ông chủ vườn nho trong Tin Mừng thì chỉ có nước phá sản.
Nhưng điều Chúa Giêsu muốn diễn tả không phải là lãnh vực trần thế mà là lãnh vực Nước Trời, không phải là lãnh vực kinh tế mà là lãnh vực siêu nhiên.
Trần thế không có ông chủ nào như vây, nhưng trên trời thì có. Đó là Thiên Chúa, “Đấng nhân hậu và từ bi, đầy kiên nhẫn và lòng thương xót, Chúa tốt lành với tất cả mọi người và yêu thương mọi kỳ công Người tác tạo” (x. Tv 144,8-9) .
Ngoài đời không có, nhưng trong Giáo Hội là "vườn nho" của Thiên Chúa và là hiện thân của Nước Trời trên trần gian này thì có.
Như ông chủ vườn nho trong Tin Mừng không muốn cho ai bị thất nghiệp. Ai cũng có công ăn việc làm. Và khi làm việc thì ai cũng đủ sống. Thiên Chúa cũng thế, Ngài không muốn cho ai phải đứng ngoài Giáo Hội, Ngài muốn mọi người đều trong Giáo hội. Khi ở trong Giáo hội thì ai cũng được Chúa yêu thương và cứu chuộc, không muốn cho ai phải hư mất. Phút chót, cuối đời Chúa cũng tìm cách cứu.
Như một vài đầy tớ trong dụ ngôn không hiểu ông chủ, nên đã lên án và kết tội ông, thì trong cuộc sống nhiều khi chúng ta không hiểu tình thương của Chúa và đường lối của Giáo Hội, nên chúng ta cũng lên án Chúa và kết tội Giáo Hội.
Chúng ta lên án Chúa và kết tội Giáo Hội theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian, chứ không phải theo tiêu chuẩn và đường lối của Chúa:
Đường lối thế gian – mà một vài tên đầy tớ làm đại diện - là làm nhiều thì phải được trả công nhiều: "trả lương theo sản phẩm".
Đường lối của Thiên Chúa - mà ông chủ vườn nho làm đại diện - trả công vì tình thương (nhưng không hại đức công bình), cho nên người làm ít giờ cũng được trả nhiều bằng kẻ làm suốt ngày, kẻ tin thờ Chúa trong ngày sau hết của đời mình và của thế giới cũng được hưởng hạnh phúc Nước Trời như những người tin thờ Chúa từ thuở sơ khai hay từ thuở mới sinh.
Đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa thì siêu vượt hơn đường lối và tư tưởng của người phàm: "Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi. Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu” (Is 55,5-6).
Khi chúng ta dùng đường lối và tư tưởng của thế gian mà lên án Thiên Chúa và kết tội Giáo Hội, là chính chúng ta tự bêu xấu và vạch tội chúng ta, giống như những tên đầy tớ ghen tỵ trước nghĩa cử tốt lành của ông chủ vườn nho, đã phơi trần sự độc ác nhỏ nhen, ích kỷ của chúng. Cho nên trong cuộc sống ta cần phải suy nghĩ thấu đáo đừng vội vàng đưa ra những lời nhận xét, vì: Có những lời nói, việc làm của ta để lại tiếng thơm muôn đời, nhưng cũng có những lời nói việc làm của ta để lại tiếng xấu muôn đời. Có những việc làm như là tấm huy chương khen ngợi ta, nhưng cũng có những việc làm như là văn bia tố cáo tội ác chúng ta như cổ nhân đã từng nói: “Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn bia miệng vẫn còn trơ trơ”.
Lạy Chúa, xin cho con thấm nhuần tình thương và đường lối của Chúa, để con luôn vui mừng phấn khởi, chứ không ghen ăn tức ở trước những ơn lành Chúa đã thương ban cho anh chị em con trong cuộc sống. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu
----------------------------------
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Mt 20, 1-16:
Nếu như Chúa xử công bằng thì: Chắc có lẽ, con đã chết từ lâu rồi! Và có một cái lời Thánh Vịnh TN 25-A124
Nếu như Chúa xử công bằng thì: Chắc có lẽ, con đã chết từ lâu rồi! Và có một cái lời Thánh Vịnh rất là hay: Chúa là Đấng từ bi hay thương xót, không chấp nhất nhưng chỉ có xót thương...
***
Kính thưa cộng đoàn,
Một lần kia, đang ngồi uống cà phê với mấy bạn ở ngoài quán. Một đứa bé nó bán vé số đến gần, và nó mời, thì con mới chọc nó:
- Con ơi, con bán cái gì?
Thì bé mới nói rằng: - Dạ thưa chú, con bán Mơ Ước.
Hỏi: Tại sao vậy con?
- Bởi vì, rõ ràng chú thấy rằng, tới chiều, ai cũng muốn mình được trúng số. Và đó chính là Mơ Ước của mọi người.
Mơ Ước đó, hình như ai cũng mơ ước cả. Bởi vì, ai cũng ước mơ mình được giàu sang phú quý, có thật là nhiều tiền, vợ đẹp, con khôn trên cuộc đời này.
Như, có một cái câu chuyện kia kể rằng:
Có một chàng thanh niên đi lên núi và gặp vị thiền sư và xin vị thiền sư cho bửu bối để làm sao thỏa mãn ước nguyện của mình. Và rồi vì tình thương, vị thiền sư đã cho chàng thanh niên ước mơ đó. Để khi trở về với cuộc đời, sau chốc lát, chàng thanh niên mơ ước có vợ đẹp con khôn. Và chỉ trong chốc lát thôi!
Thì anh ta có một ngôi biệt thự, và anh ta có một người vợ đẹp, và anh ta ước mơ rằng anh ta được là người giàu có. Và cũng chỉ trong chốc lát thôi! Anh ta đã được giàu có.
Thế nhưng, có một điều đáng nói rằng, vị thiền sư trao cho anh cái bửu bối đó và nói rằng: ma quỷ sẽ làm theo tất cả những điều mà anh muốn, anh ước mơ.
Nhưng mà nếu, mà anh không làm theo ước mơ đó, anh không ước mơ điều khiển được cho ma quỷ không có giờ nghỉ, thì ma quỷ sẽ quật lại anh. Và rồi đầy đủ rồi. Xong rồi, chỉ cần trong chớp nhoáng: vợ đẹp, con khôn, nhà lầu, biệt thự.
Và, hết giờ rồi nhanh quá! Và còn lại một thời gian rất dài anh ta mới sợ quá và đi lên núi gặp lại vị thiền sư anh ta hỏi rằng:
Thiền sư ơi! Bây giờ có cách nào làm cho quỷ nó không thất nghiệp, nó có việc làm? Để nó đừng quật lại tôi.
Vị thiền sư mới nói rằng: -Bây giờ ngươi hãy đi nói với con quỷ rằng, hãy đi lấy cái lông con chó mực, mà vuốt lại cho nó thẳng.
Thế rồi, chàng thanh niên đó đi xuống núi và gặp con quỷ và quỷ hỏi: - Bây giờ muốn làm gì cho anh nữa, tôi sẽ làm?
Chàng thanh niên nói rằng: ngươi hãy đi vuốt cái lông của đuôi con chó đó cho nó thẳng. Và quỷ hoàn toàn bó tay, bởi vì quỷ làm không được!
***
Và rồi, chúng ta lại thấy đó là ước mơ của con người. Bởi vì, ai ai cũng ước mơ: tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, đó là chuyện bình thường. Bởi vì, là con người trong cái phận người mình có cái ước mơ của mình.
Và Chúa Giêsu, Chúa Giêsu lại khác! Chúa Giêsu cũng có một cái Ước Mơ nhưng mà, không phải một cái ước mơ để mà giàu có, giàu sang, phú quý, quyền lực.
Mà ước mơ của Chúa Giêsu đó là gì?
“Thầy những ước mơ ném lửa vào trần gian, và lửa trần gian này cháy bùng lên.”
Nghe thấy sợ quá, hoảng quá! chính người Tin Lành đã bắt bẻ cái câu Kinh Thánh này!
Thực sự ra, không phải người Tin Lành mà cả người Công giáo, nếu nghe chưa có rõ, hiểu chưa tường, thì sẽ cảm thấy rất khó chịu và thấy Chúa Giêsu là một người rất gian ác. Bởi vì ước mơ gì? Ước mơ của Chúa Giêsu đó là: Nén lửa vào thế gian.
Mà lửa là gì? Lửa là thiêu rụi, là đốt cháy! Vậy mà Chúa Giêsu lại ước mơ đem lửa vào thế gian.
Cái lửa ước mơ của Chúa Giêsu đem vào thế gian không phải là cái lửa của sự chết, của sự cháy, của sự thiêu rụi mà đó chính là Tình Yêu.
Chúa Giêsu mang tới tình yêu của Thiên Chúa Cha vào trong cuộc đời mình và Chúa Giêsu muốn chuyển cái tình yêu đó cho nhân loại, cho anh chị đồng loại. Chúa Giêsu ước mơ làm sao cho cái Tình Yêu đó thắp sáng lên trong cuộc đời mỗi người Kitô Hữu.
Hôm nay chúng ta nghe một câu chuyện rất là vui. Khi mà trong cái hành trình đi rao giảng của mình, Chúa Giêsu lấy cái hình ảnh của Nước Trời có khi là tiệc cưới, có khi là lưới cá, có khi là viên ngọc quý. Và hôm nay, chúng ta lại được nghe, chúng ta bắt gặp hình ảnh của một Nước Trời như là một ông chủ Vườn kia, thuê người đi làm vườn nho nhà mình.
Và cái nét đặc biệt là: Trước khi thuê thợ vào làm vườn nho thì ông chủ đã thỏa thuận lương bổng cho tất cả những người làm với ông.
Và đặc biệt, có những người đến trễ nhưng ông vẫn vui vẻ để đón nhận vào làm công việc của ông. Thế nhưng, tưởng chừng rằng người chủ này rất là tốt bụng và rất vui vẻ. Khi đã mời gọi những người thậm chí đi làm giờ trễ vào làm. Người ta gọi câu chuyện này là câu chuyện giờ thứ 11.
Và ông chủ này rất là bất công, ông chủ này làm cho người ta khó chịu! Khi ông chủ kêu những người đến sau cùng và những người đến trễ đó để trả lương và điều đặc biệt hơn nữa làm cho những người đến làm trước nổi khùng lên.
Bởi vì, những người mới vào làm có một chút thôi thì ông chủ vẫn trả lương, và trả đúng 1 đồng như thỏa thuận. Và cái lòng ganh tị của những người đến trước đã bùng bùng lên.
Và rồi họ đã quở trách ông chủ và rồi ông chủ nói với những người mà ông chủ thuê giờ đầu:
- Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu? Chớ thì, bạn đã không thỏa thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy một đồng của bạn đi và hãy đi về. Bởi vì, tôi muốn trả cho ai hết là quyền của tôi.
Chúng ta thấy căn tính và nét đẹp của đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến cho trần gian này. Chúa Giêsu đến mang tình yêu đến cho trần gian này.
Và Chúa Giêsu lắp đầy trên cuộc đời của những con người, và đặc biệt những con người tội lỗi.
Những người công chính thì thường huênh hoang. Và nghĩ rằng mình chẳng cần đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
Còn những người tội lỗi họ biết mình, ý thức được mình là những con người tội lỗi và họ xin Lòng Thương Xót Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không xử với chúng ta theo sự công bằng. Nếu mà Chúa Giêsu xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc kẹt.
Ngay bản thân con, nhìn lại cuộc đời của mình: bốn mươi mấy năm trời, mười năm linh mục. Nhìn lại, không phải là nói lý thuyết, không phải là nói để được Chúa thương, không phải là nói để cho anh chị em thương hại đâu. Nhưng diện đối diện với lòng mình, thấy mình đặt mình trước mặt Chúa, thì mình thấy mình ngược lại với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu càng tuổi càng thêm nhân đức trước mặt Thiên Chúa và người đời.
Còn bản thân của mỗi người chúng ta và cách riêng bản thân của con, con cảm thấy rằng mình là con người quá tội lỗi. Vì nhiều lần, nhiều lúc, mình cũng nghĩ rằng, mình sẽ làm điều này, điều kia cho Chúa và anh chị em đồng loại của mình. Những người sống gần với mình, những người thân với mình đừng buồn. Thế nhưng chỉ vì cái tôi của mình, nhiều lần nhiều lúc mình đã làm cho những người đó buồn.
Và rồi, nếu! nếu như Chúa xử công bằng thì: Chắc có lẽ, con đã chết từ lâu rồi! Và có một cái lời Thánh Vịnh rất là hay: Chúa là Đấng từ bi hay thương xót, không chấp nhất nhưng chỉ có xót thương.
Căn tính của cuộc đời của Chúa Giêsu là chỉ xót thương thôi, Ngài quên đi những lỗi lầm của chúng ta, Ngài quên đi những yếu đuối của chúng ta và Ngài thương xót chúng ta như trong bài đọc thứ nhất:
Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Đường lối của các ngươi và đường lối của Ta cách xa nhau.
Tư tưởng của chúng ta là như thế.
Chúng ta vẫn sống công bằng với anh chị em. Nhiều khi cái công bằng đó đến nghiệt ngã! Nếu nhìn đến sự công bằng đi! chúng ta có công bằng không?
Khi xung quanh chúng ta có quá nhiều người kém may mắn hơn chúng ta. Những người khuyết tật, những người mù, và những người câm điếc. Liệu rằng, tất cả những gì chúng ta có, chúng ta có can đảm để chia sẻ cho những người bất hạnh đó một cách công bằng hay không?
Trong khi đó thực tế của cuộc đời chúng ta là những con người yếu đuối Chúng ta là những con người tội lỗi vậy mà CHÚA thương chúng ta nhiều. Chúng ta là những người thợ giờ thứ 11, làm ít thưởng nhiều nhưng trong lòng của chúng ta vẫn mặc lấy, mang lấy sự hơn thua, sự ích kỷ.
Nước Trời chắc có lẽ, không có trò của những người ganh tị. Nước Trời, chắc có lẽ, không có chỗ cho người hơn thua. Nước Trời, chắc có lẽ, không có chỗ cho người giành giật. Nước Trời là Nước mà nơi đó, chỉ có tình yêu, và tình yêu mà thôi!
Vẫn là những con người yếu đuối sống trong dòng chảy của xã hội. Ngày hôm nay kinh tế thay đổi nhiều, mà lòng người cũng thay đổi nhiều, khiến cho người ta ích kỷ nhiều hơn, ghen tuông nhiều hơn, đấu đá nhiều hơn.
Và xin Chúa cho mỗi người chúng ta, dành thời gian nhiều hơn với Chúa. Đặt mình trước mặt Chúa, để luôn luôn chúng ta ý thức rằng: Chúng ta là những con người tội lỗi. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương. Để rồi, chúng ta cũng lấy tình yêu thương, mà Chúa yêu thương chúng ta đó mà chúng ta yêu thương anh chị em đồng loại.
Bởi lẽ, Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa yêu thương chúng ta hơn chúng ta tưởng. Và khi cảm nhận được lòng thương xót đó, chúng ta sẽ yêu thương anh chị em đồng loại và chúng ta sẽ bớt đi những hờn ghen, những ganh tị. Bởi vì, Chúa là người quá yêu thương chúng ta trong khi chúng ta còn là tội nhân. Như Thánh Phaolô nói: Chúa đã yêu thương chúng ta khi chúng ta đều là tội nhân, Ngài đã chết, đã chết cho ta.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, để chúng ta nhìn lên Thập Giá, chúng ta cảm nhận được một lòng yêu thương, một lòng thương xót vô bờ mà Chúa đã dành cho chúng ta. Để rồi, chúng ta đừng bao giờ ganh tị với anh chị em đồng loại chúng ta như những người trong trang Tin Mừng ngày hôm nay. Amen.
----------------------------------
Chúa Giê-su thường dùng những câu chuyện đời thường để làm gì ? Chúa Giê-su thường dùng: TN 25-A125
1/ Chúa Giê-su thường dùng những câu chuyện đời thường để làm gì ? Chúa Giê-su thường dùng những sự kiện cụ thể xảy ra hằng ngày để xây dựng thành những đề tài giáo huấn dân chúng. Như sự kiện hôm nay là mùa nho đã tới, cần phải thuê thợ hái cho mau/ nào là những người thất nghiệp không có công ăn việc làm/ nào là số tiền lương công nhật một đồng tương xứng với mức lương ở thời điểm hiện tại.
2/ Ý Chúa Giê-su muốn dạy điều gì qua dụ ngôn? Chúa Giê-su đã kể lại một câu chuyện dụ ngôn và qua sự việc này Chúa muốn chúng ta hiểu rằng: “Thiên Chúa không giống với những ông chủ trên trái đất này/ họ có bổn phận phải giữ sự công bằng cho đám thợ. Còn Thiên Chúa, Ngài không có bổn phận như thế vì Ngài đứng bên ngoài công việc của loài người. Bởi vì loài người thường gây bất công với nhau nên cần phải có điều luật để giới hạn sự bất công đó. Loài người thường mắc nợ nhau nên cần áp dụng luật công bằng.
3/ Vì sao phải giữ sự công bằng? Nếu ai đó cố gắng làm việc trong một ngày, thì anh ta sẽ có tiền công tương xứng với một ngày không hơn không kém. Đồng thời với sức cố gắng của một giờ, theo lẽ công bằng của loài người ,sẽ trả tiền công cân xứng của một giờ, không hơn không kém.
4/ Có điều nào cao trọng hơn luật công bằng? Muốn đi xa hơn lẽ công bằng, chúng ta sẽ gặp được lòng nhân từ. Lòng nhân từ thì không có giới hạn nào khác hơn là khả năng rộng lượng ban phát, Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, khả năng của Ngài là vô biên cho nên lòng nhân từ vượt xa hơn lẽ công bằng. Lòng nhân từ của Thiên Chúa còn đi xa hơn những điều mà loài người đáng được hưởng.
5/ Dụ ngôn nhắc nhở chúng ta điều gì? Dụ ngôn nhắc chúng ta đừng dùng những cách suy nghĩ của loài người để dự đoán về Thiên Chúa, nhất là trong thời buổi nhiễu nhương hiện nay. Người ta đang muốn kéo ghì Phúc âm xuống ngang hàng với cách suy nghĩ của loài người. Sứ điệp tin mừng mà Chúa Giê-su rao giảng là tình yêu, là lòng nhân từ, mà khía cạnh quan trọng nhất của nó là sự tự do. Trong khi sự công bằng thì luôn bị ràng buộc bởi bổn phận và những gì chúng ta đang mắc nợ kẻ khác.
6/ Luật nào ràng buộc được lòng nhân từ và tình yêu? Tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng buộc bởi những gì đã giao kết. Đó là ban phát mà không cần đáp trả / một sự ban phát nhưng không, chỉ cần chúng ta biết mở lòng ra đón nhận / sứ điệp hôm nay đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ và nếp sống quá quen thuộc của con người.
7/ Vì sao dụ ngôn lại làm cho người biệt phái ngạc nhiên? Khi nghe Chúa nói điều này, họ đã quá sửng sốt. Vì ý dụ ngôn muốn đặt người ngoại giáo, như là những kẻ đến sau, được ngang hàng với con cái Israel, là dân Chúa chọn, ở trong Nước Trời.
8/ Chúng ta có ngạc nhiên về dụ ngôn này không? Dụ ngôn này cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên, vì chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình những công nghiệp, quyền lợi và nhiều đòi hỏi khác. Chúng ta hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản của lòng nhân từ Thiên Chúa, và hãy xin Chúa ban cho chúng ta cũng như ban cho những anh em ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn là những gì do lòng nhân từ mà Thiên Chúa muốn đưa ra.
9/ Chúa Giê-su muốn đưa ra cho chúng ta bài học nào? Trước hết, Chúa muốn chúng ta biết rằng: Đám thợ được thuê trước chính là bọn biệt phái, luật sĩ, còn những người vào làm sau là những kẻ tội lỗi / Vào thời Chúa Giê-su họ đã nghe lời Chúa, đã tin và đã sám hối ăn năn ,đã trở lại với Thiên Chúa .
10/ Thái độ của biệt phái đã phản ứng như thế nào? Họ giận dữ vì thấy những kẻ có tội, sau khi sám hối đã được vào Nước Trời và cũng lãnh nhận phần thưởng y như họ. Thái độ đó cũng giống như có ai đó lên tiếng chỉ trích Chúa, cụ thể là vì Chúa đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá vào những giây phút cuối đời:” Hôm nay anh sẽ được lên Thiên Đàng với ta “.
11/ Thái độ của chúng ta như thế nào? Nhìn từ thái độ của bọn biệt phái, chúng ta nhận thấy rất nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử với những người chung quanh giống như họ. Chúng ta cảm thấy tức tối khi người khác giàu hơn chúng ta, đẹp hơn chúng ta, giỏi hơn chúng ta, gặp may mắn hơn chúng ta, chúng ta sinh ra ghen tị với họ.
12/ Chúng ta mắc phải sai lầm nào? Khi cư xử như thế, chúng ta đã phạm phải một sai lầm lớn là: Đã xét đoán người khác theo tiêu chuẩn thế gian ,chứ không theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã diễn tả điều này như sau: Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì mà thế gian cho là vô nghĩa, để làm bẽ mặt đám người thông thái. Ngài cũng đã chọn những gì mà thế gian cho là yếu nhược, để khiến đám người thế lực phải hổ thẹn. Chúa đã chọn điều thiện mà họ chê bai, khinh bỉ, để tiêu hủy những gì mà họ cho là quan trọng.
13/ Chúng ta biết gì về đường lối của Chúa? Trong bàn tay của Thiên Chúa thì dù mỏng manh như chiếc màng nhện, cũng có thể trở nên một bức tường thành vững chắc, an toàn, bảo đảm cho chúng ta nương thân, ẩn náu. Như thế đoạn Tin Mừng mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với kẻ khác, mà hãy chấp nhận những gì mình đang có.
14/ Sức mạnh của Thiên Chúa nằm ở đâu? Mỗi người hãy nên suy xét về những điều mình làm. Nếu là tốt thì có thể hãnh diện, nhưng đừng so sánh với điều người khác làm, điều quan trọng không phải là thiên hạ nghĩ gì về mình hoặc chúng ta đã làm được gì trong vườn nho của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là Thiên Chúa đã nghĩ gì về chúng ta, mà nhất là tình yêu chúng ta dành cho Chúa có được bao nhiêu.
----------------------------------
Những việc làm nào sẽ có giá trị trước mặt Chúa? Mỗi người cần suy xét về cách cư xử của mình. TN 25-A126
15/ Những việc làm nào sẽ có giá trị trước mặt Chúa? Mỗi người cần suy xét về cách cư xử của mình. Nếu là điều tốt thì nên hãnh diện, nhưng đừng đem so sánh với điều người khác làm. Chúa bảo chúng ta đừng nên đem so sánh nhưng hãy chấp nhận hiện trạng mình đang có. Điều quan trọng không phải thiên hạ sẽ nghĩ gì về mình, hoặc chúng ta đã làm được gì trong vườn nho của Chúa. Nhưng điều quan trọng là Thiên Chúa đang nghĩ gì về chúng ta.
16/ Khi ban thưởng các ân huệ, Chúa có công bằng không? Nhiều người khi nghe dụ ngôn này, đều muốn đưa ra thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng với người làm nhiều? Chúng ta nên hiểu rằng: Ở đây chỉ là dụ ngôn, không phải là câu chuyện thật. Nhưng chỉ là hình ảnh dùng để giải nghĩa giáo lý của Chúa / nên Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng Chúa chỉ muốn nói về chân lý Nước Trời.
17/ Bài học thứ nhất của dụ ngôn: Khi phân tích về người thợ làm vườn nho ở giờ thứ mười một: Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho là Nước Chúa, Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa, người được thuê là người được mời gọi. Ông chủ ngày ra mướn người nhiều lần / Ngài là hình ảnh một ông chủ đầy lòng yêu thương.
18/ Ai đi tìm ai? Không phải ta đi tìm Chúa nhưng chính Chúa đi tìm ta, không phải đi tìm một lần mà đi tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ nọ.
19/ Những ai là người kém may mắn? Những người được thuê vào buổi sáng tượng trưng cho những người có số may mắn, có khả năng hơn người khác. Còn những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, luôn bị thiệt thòi trong xã hội.
20/ Thiên Chúa muốn tỏ bày điều gì? Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm đến chiều tà, từ người sang kẻ hèn, từ người giỏi đến người kém, từ người khỏe mạnh đến kẻ yếu kém, tất cả chỉ để nói lên lòng Chúa yêu thương mọi người. Chúa muốn mời hết mọi người, mong muốn cho mọi người được ơn cứu độ, cùng được hưởng hạnh phúc với Chúa.
21/ Bài học thứ hai của dụ ngôn: Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể vào được vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban, thì không ai có thể tự mình chiếm được Nước Trời. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên, làm nổi bật chân lý này là: Nước Trời là ân huệ Chúa ban, phát xuất từ tình thương chứ không do công đức của riêng ai. Vì thế nên đừng ai có quyền đòi hỏi hơn nữa, ân huệ này Chúa ban vượt quá lòng mong ước của mỗi người / khi hiểu được điều này, chúng ta phải hết lòng tạ ơn Chúa.
22/ Bài học thứ ba là gì? Chúa yêu thương và luôn mong chúng ta cũng yêu Chúa. Những người thợ làm sáng sớm không có gì để kêu trách về tiền lương vì họ đã được thỏa thuận từ trước, họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa mà thôi .
23/ Chúa muốn dạy chúng ta điều gì ? Chúa đã giải thích rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng. Phần mình đã được lãnh rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em thua sút kém may mắn đó ,lại cũng được lãnh ân huệ vào phút chót. Qua điều này, Chúa muốn dạy chúng ta: Hãy biết yêu thương những người có số phận kém cỏi, nghèo hèn.
24/ Muốn cho cuộc đời tươi đẹp, lý tưởng , chúng ta cần làm gì ? Muốn cho xã hội luôn tốt đẹp, chúng ta phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ, xã hội chỉ thật sự văn minh khi mọi người luôn biết quan tâm đến nhau, biết dìu dắt nâng đỡ những người kém may mắn.
25/ Làm sao có thể xóa bớt những ngăn cách do bất công mang lại ? Nếu ai cũng chỉ nghĩ đến bản thân mình, chúng ta chỉ thấy đời toàn những bất công. Nếu ai cũng biết nghĩ đến người khác, chúng ta sẽ thấy cuộc đời rất tươi đẹp, vì nó chan chứa tình người.
26/ Điều khác biệt giữa Thiên Chúa và con người: Qua dụ ngôn này, ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn với tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời, đó là không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng chỉ lo tìm hạnh phúc cho người khác, không khinh bần trọng phú, nhưng luôn yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí, nhưng dùng lý lẽ của con tim. Một con tim yêu thương luôn mong đem lại hạnh phúc cho mọi người.
27/ Làm sao để nước Chúa mau lan rộng ? Chúa mong con cái Chúa cũng có tư tưởng như Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng khắp nơi.
28/ Chúng ta đã tìm thấy điều gì khi đi so sánh với các vị Thánh lớn ? Không có lý do nào để chúng ta nghĩ rằng: Chúng ta là những người đã làm việc lâu giờ và nhiệt thành cho Chúa mà chúng ta lại tự giới thiệu mình như những người làm việc ở giờ thứ nhất, Thật sự chúng ta đã làm gì cho Chúa nếu chúng ta đem so sánh mình với các vị Thánh lớn trong suốt nhiều thế kỷ qua và như vậy chúng ta không có gì để phàn nàn về dụ ngôn này nữa.
29/ Hôm nay Thiên Chúa đã biểu lộ lòng quảng đại ở đâu ? Sự quảng đại của Thiên Chúa được biểu lộ qua suốt phụng vụ hy tế Thánh thể, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng thịt và máu Ngài. Chúng ta luôn thú nhận sự bất xứng của mình ‘Lạy Chúa, con chẳng xứng đáng Chúa ngự vào nhà con’ . Những vị Thánh cao cả nhất cũng không hề xứng đáng với phép Thánh Thể, các Ngài còn không được hưởng dồi dào bí tích ấy như chúng ta hôm nay / Sau khi thú nhận sự bất xứng, Chúa Giê-su lại mời chúng ta lãnh nhận mình máu Ngài trong Đức Tin.
------------------------------
Ý của bài Tin mừng hôm nay dạy gì? Chúa Giê-su muốn dùng dụ ngôn ông chủ thuê thợ làm vườn TN 25-A127
30/ Ý của bài Tin mừng hôm nay dạy gì? Chúa Giê-su muốn dùng dụ ngôn ông chủ thuê thợ làm vườn nho để cắt nghĩa về Nước Trời, không giống như một món tiền công mà Thiên Chúa phải trả cho con người. Nhưng ơn này phát xuất từ lòng nhân lành của Thiên Chúa
31/ Ông chủ vườn nho là ai? Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là giáo hội, thợ làm vườn nho là loài người. Muốn có được tiền lương, muốn có được ơn cứu độ thì mỗi người phải vào làm việc cho ông chủ vườn nho.
32/ Thời giờ mà những người thợ vào làm nghĩa là gì? Mỗi người thợ vào làm theo những giờ khác nhau. Có người vào làm từ đầu, khi mới sinh ra. Những người khác hiến thân vào làm theo những độ tuổi khác nhau: Thiếu niên, thanh niên, đứng tuổi và về già, một số chỉ trở lại trước khi chết.
33/ Một quan tiền có giá trị như thế nào? Đồng quan tiền, là tiền lương công nhật, theo Thánh Gioan Kim Khẩu thì đồng quan tiền chính là quyền, là tấm giấy thông hành, được vào Nước Trời.
34/ Sáng sớm ra thuê thợ, nghĩa là gì? Bên Do Thái, khi tới mùa hái nho, chủ vườn phường ra ngã ba đường, hoặc ra chợ để thuê thợ, thường là vào lúc sáng sớm. Ông chủ hôm nay xem ra tốt bụng đối với những người nghèo, những người thất nghiệp nên đã thuê thợ vào những múi giờ khác nhau mà không tính toán hơn, thiệt có nghĩa là lúc nào Thiên Chúa cũng mời gọi.
35/ Một đồng quan thoả thuận là gì? Một đồng thoả thuận để cho người đến trước biết rằng: họ không bị thiệt hại gì, và cũng để cho những người đến sau không có quyền đòi công một đồng như những người làm cả ngày. Nhưng vì lòng ông chủ nhân từ, đã thương cho họ một đồng để đủ nuôi sống gia đình họ.
36/ Ý nghĩa cụ thể là gì? Thiên Chúa mời mọi người vào trong giáo hội để được Nước Trới, là phát xuất phát từ lòng nhân từ của Thiên Chúa chứ không phải do công lao của con con người nhiều hay ít. Tuy Thiên Chúa rất nhân từ nhưng vẫn công bằng ngài không để ai phải chịu thiệt.
37/ Thời giờ bắt đầu và kết thúc của người Do Thái là như thế nào? Theo Do Thái giáo thì một ngày được bắt đầu từ lúc mặt trời lặn. Cho nên ngày sa bát cũng bắt đầu 18g00 chiều hôm trước. Nhưng khi tính giờ làm thì người ta lại tính lúc mặt trời mọc. Từ lúc mặt mọc, đến lúc lặn là 12g00. Và ngày lao động sẽ được kết thúc lúc 18g00. Vậy giờ trong dụ ngôn tương đượng với (3, 6 ,9,12,15,17 giờ).
38/ Ông chủ nói thế nào với những người mới vào làm sau? Ônh chủ không thoả thuận sẽ trả một đồng, mà ông chỉ nói sẽ trả công xứng đáng, cũng có nghĩa là ông chủ trả cho những người vào làm sau cũng chỉ là do lòng nhân lành, và ban ơn cứu độ cho họ cũng có nghĩa là Chúa sẽ mở lòng nhân từ và đợi chờ nhẫn nại cho họ ăn năn vì Chúa không muốn kẻ có tội phải chết. Như vậy lòng nhân từ đã vượt xa sự công bằng, theo cách tính của con người. Nếu Chúa xử công bằng thì con người sẽ chết hết.
39/ Nhu cầu công việc của ông chủ có nhiều lắm không? Thật ra những người thợ vào làm trễ là do họ thất nghiệp, do kém sức, kém tài, kém may mắn. Chúa thuê họ vào những giờ cuối cùng, là vì muốn họ có công ăn việc làm để nuôi sống họ và gia đình, chứ chẳng phải vì nhu cầu công việc. Như vậy qua cử chỉ của ông chủ. Thiên Chúa muốn nói rằng Ngài muốn ban nhưng không chứ không phải vì công lao của con người , hay vì quá cần .
40/ Tại sao lại trả lương người sau trước hết? Việc trả lương sau hay trước không quan trọng bằng đồng lương là bao nhiêu. Ở đây chỉ nói đến lòng nhân từ của Chúa đối với người đến sau, tất cả đều do lòng nhân từ.
41/ Người làm trước cũng chỉ lãnh một đồng là sao? Tất cả những ai phụng sự Chúa, tất cả những ai cộng tác với giáo hội đều được Thiên Chúa ban cho quyền vào Nước trời đây cũng là cách Chúa dạy chúng ta về bài học cần phải đối xử với nhau.
42/ Họ lẩm bẩm kêu trách, có đúng hay không? Thật ra khi họ đưa ra những lý do: vất vả suốt ngày, trời nắng nóng cháy. Tất cả những điều này nằm trong thoả thuận lúc ban đầu với ông chủ rồi. Cho nên những người này không có quyền dựa vào những lý do đó để đòi lương cao. Đây là cái thói phân bì ghen tỵ không đáng có vẫn nằm trong giáo hội. Họ không muốn cho ai hơn mình, điều này trái với lòng nhân từ của Thiên Chúa.
43/ Ông chủ trả lời như vậy nói lên điều gì? Ông chủ kêu người làm bằng bạn , chứng tỏ ông chủ có lối xưng hô dịu dàng, khác hẳn với lối nói cứng cỏi của mấy người thợ. Họ lẩm bẩm, cằn nhằn. Thế nhưng việc ông chủ trả lương cho những người vào làm giờ cuối cùng, cũng đâu gây thiệt hại gì cho họ.
44/ Ý muốn của ông chủ là gì khi trả lương như vậy? Là do ý ông muốn chứ không phải do những người vào làm sau cùng. Ý Thiên Chúa muốn biểu lộ lòng nhân từ là tuỳ thuộc vào ý muốn của Thiên Chúa. Ở đây ý Chúa muốn dạy rằng: Đừng ganh tỵ với tha nhân vì thấy Chúa đối xử quảng đại với họ.
45/ Tại sao ông chủ lại đối xử như vậy? Không phải do tính kỳ quặc, mau thay đổi hay là do tính khí bất công. Nhưng chỉ là do hiệu quả của lòng nhân từ. Ông chủ chỉ muốn tỏ lòng nhân lành với những kẻ đến sau thôi. Đừng thấy như vậy rồi đi phê phán công việc của ông.
46/ Kẻ đến sau hết sẽ lên trước hết là gì? Bài học hôm nay không hề đề cập đến việc đảo lộn địa vị. Nhưng chỉ nói tới cách chúng ta nên cư xử với nhau để nhấn mạnh rằng: Ta cần học cách đối xử như thế để giao tiếp với nhau trong cuộc sống hôm nay.
------------------------------
Bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta điều gì? Giáo hội muốn nhắc chúng ta phải biết đón nhận ơn TN 25-A128
47/ Bài Tin mừng hôm nay dạy chúng ta điều gì? Giáo hội muốn nhắc chúng ta phải biết đón nhận ơn Chúa chứ đừng dùng cách suy nghĩ của loài người mà phê phán, khen chê công việc của Chúa làm.
48/ Chúng ta đánh giá ông chủ như thế nào? Ông chủ này có tính khí rất nhân lành, ông thuê thợ không phải vì nhu cầu công việc. Nhưng ông chỉ muốn mọi người đều có công ăn việc làm để bảo đảm nồi cơm trong gia đình. Vì thế ông đã trả công đồng đều mà không tính khả năng, giờ giấc hay công việc.
49/ Những ơn mà chúng ta nhận lãnh được là do đâu mà có ? Là xuất phát từ lòng nhân từ, nó vượt xa khả năng chúng ta đáng được. Vì thế chúng ta phải luôn mở miệng ra để tạ ơn Thiên Chúa.
50/ Do đâu phát sinh lòng nhân hậu của ông chủ? Ông chủ không đưa ra bất cứ khế ước hay hợp đồng nào. Cũng chẳng có giới hạn hay luật lệ mà ông làm như thế chỉ vì những lợi ích của kẻ đón nhận. Thiên Chúa ban ơn không phải do ta tài giỏi hay xứng đáng, nhưng vì lợi ích cho phần rỗi chúng ta. Như thế ta nên đón nhận mà đừng nên kêu căng tự mãn, cũng đừng đòi điều kiện.
51/ Tại sao họ lẩm bẩm khi thấy ông chủ đối xử tốt với người đến sau cùng? Trong cuộc sống, chúng ta thường thấy những tật xấu của người khác. Ngay cả khi ta thấy những ưu điểm, những đặc ân và những may mắn mà người khác có được, cũng làm cho ta cảm thấy khó chịu phát sinh ghen tỵ rồi dem so sánh. Ta cần suy gẫm thêm về dụ ngôn này.
52/ Chúng ta nên đến sớm hay đến muộn? Làm việc trong vườn nho của Chúa hay bất cứ đâu, ta đều cần phải đến sớm. Cái lợi của việc đến sớm là chúng ta yên tâm khi đã có công ăn việc làm, không sợ thất nghiệp. Ở đây Chúa không có ý nói làm sớm hay làm muộn, nhưng ý Chúa bảo rằng: Khi nào được Chúa mời thì hãy vào làm cho Chúa ngay.
53/ Người đến sau có phải là do họ mánh mung, lười biếng không? Trong xã hội ta đang sống, chúng ta thấy có rất nhiều người không tôn thờ Thiên Chúa, hoặc có những người xem ra lỗi rất nặng nhưng lại không thấy bị Chúa phạt. Trái lại họ càng được may mắn, sức khoẻ danh vọng, thành công, thì ta đừng nên coi đó là cớ để ta chai lỳ. Vì khi Thiên Chúa ban ơn là tuỳ ý Ngài, kể cả những người không giữ luật Chúa cho nên khi đối xử như vậy Chúa cũng không xâm phạm đến quyền lợi của ai.
54/ Vì sao những người đến sớm nên an tâm? Tất nhiên kẻ đến sớm sẽ có lợi hơn vì chứng tỏ rằng họ là những tín hữu trung thành trong đức tin, là những người được Thiên Chúa ưu đãi so với những người vào làm muộn. Vì họ sẽ an lòng vì biết mình đã thuộc trọn về Thiên Chúa.
55/ Chúng ta nên hiểu Nước Trời như thế nào? Nước Trời là một ân ban chứ không phải giống như một món tiền dùng để trả thù lao. Tuy Thiên Chúa có quyền định đoạt mọi thứ. Nhưng Thiên Chúa không hành xử như một kẻ độc tài, độc đoán. Đây là sự tự do phát xuất từ tình yêu. Tình yêu ấy vượt quá sự công bằng.
56/ Chúng ta nên nhìn kinh tế thế giới dưới khía cạnh nào? Chúng ta hãy nhìn bài học dụ ngôn dưới khía cạnh con người. Dụ ngôn này muốn đã phá khía cạnh gai góc của con người hiện đại dưới khía cạnh công bằng, sòng phẳng. Tại sao càng văn minh thì thế giới càng suy thoái kinh tế, càng gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Nhiều người lại cứ phải nhắm mắt để bám víu vào một công việc nào đó để sống cho qua ngày đoạn tháng, nhiều người suốt ngày chỉ mong có ai đó thuê mướn họ, để họ có thể đổi lấy mồ hôi để có được bát cơm, nhưng vì không có ai mướn họ.
57/ Đọc qua dụ ngôn, chúng ta cảm thấy hài lòng ở chỗ nào? Cuối cùng thì những người thất nghiệp bất đắc dĩ sau cùng này đã có thể nhận được tiền công nhật trọn một ngày để có thể nuôi sống họ, gia đình, nhờ vào lòng quảng đại của ông chủ vườn nho, một đồng bạc là số tiền phải chăng để nuôi sống gia đình trong một ngày.
58/ Tâm trạng của những người cuối cùng này như thế nào? Trong lòng họ đang ngóng đợi công việc từng phút từng giây cho đến lúc trời đã về chiều, thì họ mới được thuê mướn, họ luôn thấp thỏm đừng ngồi không yên, càng về chiều càng lo âu thất vọng. Họ có sung sướng gì đâu, họ càng khổ tâm hơn , chứ không phải được sung sướng như những người kia đang ghen tỵ với họ.
59/ Chúa Giê-su luôn tìm kiếm những ai? Chúa luôn đi tìm những tâm hồn sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi. Chúa đã tỏ lòng mình ra cho chị phụ nữ Samaria, rõ ràng không phải vì công trạng của chị. Nhưng là vì Chúa Giê-su đã phát hiện ra ở nơi chị một tư thế sẵn sàng đón nhận mạc khải của Chúa.
60/ Vì sao có phát sinh ra sự bất bình? Những người thợ vào làm giờ đầu đã bất bình với những thợ mới vào làm 1 giờ sau chót. Dụ ngôn này có điểm tương đồng với dụ ngôn đứa con hoang đàng. Người con cả đã phẫn nộ trước cách đối xử rộng lượng của cha anh vì ông chưa bao giờ ưu đãi anh như với đứa con út. Hắn mới trở về nhà sau một thời gian sống hư thân mất nết. Ở đây không có gì khó hiểu. Bởi vì anh con cả thiếu tấm lòng bao dung rộng lượng.
61/ Chúng ta dễ dàng tìm thấy câu quở trách này ở đâu? Khi ông chủ trả lời với một trong những người thợ đang bất bình: Này bạn, tôi đâu có đối xử bất công với bạn? Ở chỗ khác đức vua cũng quở trách người khách vào dự tiệc cưới: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ cưới? Chúa Giê-su cũng ôn tồn quở trách Giu-da như thế: này bạn, bạn đang tính làm gì thì hãy cứ làm đi Mt 26,50.
62/ Hậu ý của dụ ngôn này là gì nữa? Chúa cũng nhắm đến cách sống của bọn Phariseu. Những người này luôn tự hào mình là những kẻ được mời gọi làm việc cho Thiên Chúa trước tiên. Họ quá vất vả trong việc tuân giữ lề luật một cách hết sức nghiêm ngặt đến từng dấu chấm, phẩy nên họ luôn dành sự khinh bỉ cho những người như thu thuế và gái điếm, là hai hạng người mà Chúa đã quan tâm cách đặc biệt.
63/ Dụ ngôn này còn nhắm đến anh em lương dân, tại sao? Vì nó đem lại một niềm hy vọng tuyệt vời cho lương dân. Vì sau một thời gian thật dài dân Israel được tuyển chọn cũng có nghĩa rằng: Đây là niềm hy vọng tuyệt vời cho những ai khám phá ra Thiên Chúa chỉ ở những giây phút chót cuối đời mình. Như là tên trộm lành chẳng hạn, dựa vào một lời hứa mà Chúa đã bảo anh khi Ngài còn chịu treo trên thánh giá: tôi bảo thật với anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Nước trời (Lc 23,43)
------------------------------
Đoạn 20 câu 1: Dụ ngôn mà Chúa Giê-su đang kể ở đây, ý tưởng được gắn liền với những câu ở TN 25-A129
1/ Đoạn 20 câu 1: Dụ ngôn mà Chúa Giê-su đang kể ở đây, ý tưởng được gắn liền với những câu ở chương 19. Lời thắc mắc của Phê-rô đã được giải đáp (Mt 19,28-30). Giờ thì Chúa Giê-su còn giải đáp tỉ mỉ hơn (Mt 20,1-16). Dụ ngôn nhấn mạnh đến phần thưởng cụ thể của việc phục vụ, được nói về phần thưởng tối hậu là sự sống đời đời, là phần thưởng ân sủng.
2/ Chúng ta có thể đối chiếu dụ ngôn này với dụ ngôn “Người con hoang đàng” (Lc 15, 11-32) và dụ ngôn “Người Pharisêu và người thu thuế” (Lc 18, 9-14). Qua 3 dụ ngôn này, Chúa Giê-su muốn minh giải thái độ của Ngài bằng cách trình bày cách hành xử của Thiên Chúa qua 3 tình huống nêu trên, và như thế qua kết cuộc của 3 câu chuyện đều chứng minh rằng: “Chúa Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa nhân lành ”
3/ Hình ảnh Nước Trời qua dụ ngôn này khiến người ta liên tưởng đến mùa thu hoạch nho kéo dài từ cuối tháng chín đến đầu mùa mưa. Nếu thu hoạch không đúng kỳ hạn thì có nguy cơ mất trắng. Vì vậy các chủ vườn nho gấp rút từ hừng đông đến chiều tà, có nghĩa là làm 12 giờ đồng hồ mỗi ngày (Yn 11,9).
4/ Dụ ngôn cho thấy: Đối với Thiên Chúa thì mùa gặt của Tin Mừng rất cấp bách hơn ai hết, Chúa biết rằng: Chẳng còn mấy thời gian dành cho các kẻ lầm lạc nên các môn đệ của Ngài cần phải làm gấp rút khi thời gian đó hãy còn.
5/ Đoạn 20 câu 2: Một Đê na-Rius, là đơn vị tiền tệ của Roma thì tương đương với một Đờ rát mê của người Hy Lạp hay một Sêken rưỡi của người Do Thái. Thông thường, đó là khoản tiền được trả cho một ngày công của lính tráng và người lao động (Tb 5,15) (thủ bản)
6/ Thời các hoàng đế Roma cai trị, trên đồng Đê na-rius có khắc hình và danh hiệu của đương kim Hoàng đế (Mt 22,19-21) về tỷ giá đồng Đê na-rius thì cứ 4 đồng có thể mua được một con chiên, nét nổi bật trong dụ ngôn là chỉ có nhóm thợ đầu tiên mới mặc cả tiền công trước khi vào làm. Còn không thấy có thỏa thuận nào giữa chủ vườn nho và đám công vào làm sau. Điều này nói lên rằng: Chỉ có nhóm thợ đầu tiên có bận tâm về chuyện lương bổng của mình, còn nhóm sau thì không.
7/ Đoạn 20 câu 3: Giờ thứ 3 vào khoảng 8,9 giờ sáng, chợ lao động thường nhóm họp ở gần cổng thành, những người này ở không vì chưa có việc chứ không phải do họ làm biếng. Họ đang ở tư thế chờ người đến thuê.
8/ Đoạn 20 câu 4: Trình thuật không cho biết ông chủ có đặt vấn đề tiền công với những người làm thuê này không, xem ra họ sẵn lòng làm bất cứ việc gì mà họ kiếm được, cũng có thể là họ nhận ra ông chủ này là người đáng tin và ngay thẳng. Có lẽ họ cũng nhận ra rằng: Họ sẽ không nhận được tiền công trọn ngày, xem ra đây là một thỏa thuận ngầm, hợp lý, hợp tình.
9/ Đoạn 20 câu 5 và 6: Giờ thứ sáu vào khoảng 11 giờ- đến giữa ngọ/ giờ thứ chín khoảng từ 2-3 giờ chiều, giờ thứ mười một khoảng 4-5 giờ chiều. Nếu như một ngày làm việc có 12 giờ thì người cuối cùng chỉ làm việc có 1 giờ. Điều đáng ngạc nhiên là đến cuối ngày rồi mà ông chủ vẫn cứ thuê người làm. Điều này chứng tỏ tính cấp bách của công việc, mùa màng phải được thu hoạch trước khi màn đêm buông xuống. Nếu như ông chủ không tìm gặp họ thì kể như hôm đó họ thất nghiệp và đói .
10/ Bài học ở đoạn này dạy gì? Việc mô tả ông chủ đi ra chợ lao động mấy lần để tìm người ,cho thấy Thiên Chúa đang có một công trình lớn lao, một mùa bội thu mà thợ thì quá ít (Mt 9,37-38)/(Yn 4, 35-36)/ Người có chỗ làm, có công việc có kế hoạch cho những ai muốn đáp lại lời mời gọi.
11/ Những thành phần được mời gọi: Có những kẻ cần phải chuẩn bị kỹ, có những kẻ e ngại khi phải dấn thân, còn kẻ khác lại thấy mình vô dụng. Nhưng Thiên Chúa vẫn luôn tìm kiếm và Người có thể tận dụng bất cứ ai, ngay cả những kẻ mà không ai thèm đoái hoài tới.
12/ Ông chủ đặc biệt lưu tâm đến ai nhất? Những người mà ông vừa tìm được họ ở giờ thứ mười một. Ông hỏi họ tại sao cứ đứng đây suốt ngày mà không làm gì hết. Ông cũng ngạc nhiên tự hỏi vì sao họ không hề biết đến lời mời gọi của ông trước đó. Nhưng ông vẫn quan tâm đến họ vì họ chẳng còn hy vọng kiếm được việc làm. Nói trắng ra: Tình cảnh của họ thật vô vọng vì ngày sắp tàn.
13/ Đoạn 20 câu 7: Câu trả lời cho thấy thất nghiệp là tình trạng chung của ngày hôm đó. Không thể nói rằng họ lười biếng vì có lẽ họ đã đứng ở chợ cả ngày với hy vọng sẽ có người thuê họ, nhưng không hiểu sao họ lại chẳng được ai quan tâm.
14/ Cách xử sự của ông chủ: Ông chủ hứa với những người thợ làm giờ thứ mười một là ông sẽ trả công họ cách công bằng như ông đã hứa với những người vào làm ở giờ thứ ba, thứ sáu, thứ chín. Việc này cho thấy Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi cho đến ngày cùng tận.
15/ Điều này áp dụng cho những ai? Điều này chỉ áp dụng cho những người chỉ bắt tay phụng sự Thiên Chúa vào lúc tuổi già. Rõ ràng tuổi tác không thành vấn đề, miễn là cứ đến cùng Chúa thì tội nhân sẽ được đón nhận. Nhưng điều này lại không áp dụng cho những kẻ chỉ mãi chống đối Thiên Chúa cho đến khi hết mùa gặt. Cả nhóm thợ này đều đáp trả ngay khi được gọi, vì thế giờ thứ mười một ám chỉ giờ của thời cánh chung của kỷ nguyên Giáo hội. Ai phục vụ Thiên Chúa trong tinh thần tông đồ, trong Đức Tin, Đức Mến thì sẽ nhận được phần thưởng cho công việc của mình.
16/ Việc mặc cả tiền công nói lên điều gì? Một số các nhà chú giải cho rằng việc mặc cả của nhóm thợ đầu tiên được sánh với việc Thiên Chúa ký kết giao ước với con cái Israel qua lề luật. Còn các tín hữu thời Tân Ước ( sau này) được xem là những kẻ đón nhận lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa.
17/ Đoạn 20 câu 8: Theo luật Do Thái, tiền công được trả vào cuối ngày, nghĩa là vào buổi chiều (Lv 19, câu 13) ( ĐNL 24,15). Đôi khi tiền công cũng được tính vào lúc khác, nhưng dù sao thì người làm công cũng được quyền đòi tiền công của họ. Lề luật giúp bảo vệ người nghèo khó / tránh không bị những ông chủ giàu có bóc lột.
18/ Nguyên do của bất mãn: Những người làm sau chót được ông chủ trả công trước tiên, cho thấy ông chủ rất quan tâm những người nghèo khó, thất nghiệp và yếu đuối. Vì thế, đã dẫn tới sự bất mãn của nhóm thợ đầu tiên về việc thanh toán tiền công (xem câu 10)
19/ Một số học giả cho rằng: Cách hành xử của ông chủ lập dị và không kinh tế. Nhưng chúng ta cần lưu ý rằng: Ông chủ ở đây là Thiên Chúa, Ngài quan tâm tới động lực chứ không quan tâm tới khối lượng thành quả công việc. Chúa chỉ quan tâm tới phẩm cách tinh thần như lòng vị tha, trung tín và sức dấn thân quên mình hơn là xét tới bề dày thâm niên công vụ.
20/ Một câu kết luận cần lưu ý: Thà phụng sự một giờ cho trọn tình con thảo trước nhan Chúa, còn hơn là phụng sự 12 giờ, nhưng làm cho xong, ngó chỗ nọ, xọ chỗ kia. Cũng nên nhớ rằng: Những lao động này đang thất nghiệp, họ đang cần việc làm, có được cơ hội làm việc là ơn huệ mà ông chủ vườn nho ban cho và vì thế: Tiền công mà họ nhận được cũng chỉ là một ân huệ .
21/ Đoạn 20 câu 9-10: Nhóm thợ làm mướn sau chót cũng được trả tiền công tương đương một ngày, khi ấy nhóm thợ đầu tiên đã tràn trề hy vọng khi thấy số tiền công mà những người làm lúc 11 giờ nhận được. Họ thầm nghĩ: Mình lao động cả ngày chắc ông chủ vườn nho sẽ thưởng đặc biệt cho họ. Nhưng rồi họ hoàn toàn thất vọng khi chỉ nhận được đúng như những gì họ đã mặc cả.
22/ Một bài học khác: Điều này cho thấy những ai xin với Thiên Chúa rằng mình chỉ phục vụ cho Chúa theo những điều kiện nhất định nào đó, thì có lẽ Chúa cũng sẽ chấp nhận để người ấy được làm như thế, nhưng anh ta cũng đừng mong rằng: Thiên Chúa sẽ làm hơn những gì anh ta đã xin.
23/ Thiên Chúa chỉ ban thưởng theo động cơ làm việc: Người thợ nào mặc cả tiền công thì sẽ nhận được đúng như thế. Người thợ nào phó thác vào ông chủ thì sẽ được ông chủ hào phóng thưởng công vì lòng trung tín của họ.
24/ Đoạn 20 câu 11: Khi nhóm thợ đầu nhận được tiền công một đồng, họ biết như vậy là tốt rồi, nhưng vẫn lên tiếng càu nhàu, kêu ca, tỏ vẻ bất mãn. Họ bất mãn vì đã lãnh một đồng. Do vậy, phần thưởng mà họ nhận được này tùy thuộc vào tinh thần và thái độ làm việc của họ.
25/ Qua đó, chúng ta nhớ lại bài học ở (Mt 6,1-6): Là ai phục vụ với một động cơ không chính đáng, sẽ bị chi phối bởi lời tung hê của người đời (ca tụng) hơn là mục đích phụng sự Thiên Chúa. Đức Giê-su bảo những người như thế thì đã được phần thưởng rồi (Mt 6,5) nghĩa là họ đã nhận được cái họ muốn và xem ra họ chỉ mong có thế. Các tín hữu nên biết rằng: khi được Thiên Chúa đoái thương đón nhận, chính là phần thưởng cao quý nhất rồi.
26/ Đoạn 20 câu 12: Có hai lý do khiến cho người thợ được mướn đầu tiên tỏ ra thất vọng:
a/ Họ phải làm lâu giờ hơn.
b/ Làm việc trong điều kiện khắc nghiệt hơn, làm việc trong những lúc nóng nhất trong ngày, mùa hái nho là khoảng thời gian nóng nhất trong năm tại Palestin (Gc 1,11). Tuy nhiên họ chẳng có lý do gì để than vãn bởi chính họ biết rõ điều đó ngay từ đầu khi đồng ý nhận việc.
27/ Các nhóm thợ đầu tiên tỏ ra ganh tị: Có nhiều người xem ra khổ sở trước sự thành công của người khác, nhất là khi họ cảm thấy mình mới là người xứng đáng hơn với sự thành công đó. Thái độ đó của họ dễ làm cho người khác khó chịu, mà còn khiến cho bản thân họ thêm cay đắng.
28/ Đoạn 20 câu 13: Họ cằn nhằn với ông chủ, còn ông chủ thì gọi người đại diện của họ bằng bạn, khiến họ càng thêm xấu hổ. Đồng thời nói thẳng với anh ta rằng: Ông không hề đối xử bất công vì lúc đầu họ đã thống nhất với ông là một đồng cho một ngày công.
29/ Đoạn 20 câu 14: Có lẽ người thợ này chưa chịu nhận khoản tiền công đó, mặc dù đồng tiền đó đang để ở trên bàn. Tiền công một ngày làm là khoản thu nhập tối thiểu. Tiền công chỉ một giờ lao động thì chắc chắn không đủ sống. Dụ ngôn này diễn tả ông chủ có quyền làm điều mình muốn, vừa trình bày sự hào phóng, lòng nhân hậu và tính thương người của ông chủ.
30/ Đoạn 20 câu 15: Ông chủ trong bài dụ ngôn là hình ảnh của Thiên Chúa. Tiền công nhắc đến hồng ân lớn lao là sự sống đời đời. Vì hồng ân cứu độ là ân sủng qua Đức Tin nên chẳng ai đáng được hưởng. Chính Thiên Chúa mới ban phát ân sủng của Người cho những kẻ Người muốn. Chẳng có ai đủ tư cách chỉ đạo hay chỉ trích sự hào phóng của Thiên Chúa. Chẳng có mệnh lệnh Thiên giới hay trần thế nào có thể thay thế được tính tự do của ân sủng Thiên Chúa.
31/ Thiên Chúa có quyền ban phát ân sủng hết sức tự do mà còn hết sức công bằng, vì Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng nên họ chẳng thể chỉ trích Thiên Chúa bất công mà chỉ có thể chỉ trích lòng nhân từ và tốt lành của Người. Kẻ ích kỷ thì không thể nào chấp nhận sự hào phóng như thế!
32/ Kẻ xấu bụng: Ám chỉ kẻ có thái độ ganh ghét, ích kỷ, thích phản bác, chê bai (Cn 23,6). Nếu cảm thấy mình có chút đố kỵ, người tín hữu nên dừng lại để xem xét mọi động cơ chi phối, xem mình đang làm việc vì ai, vì Chúa hay vì bản thân. Đức Mến thì không ghen tuông.**
33/ Trong dụ ngôn có hai nhóm người: Nhóm người đầu tiên là những người lên án ông chủ nhân từ khiến chúng ta liên tưởng đến giới lãnh đạo tôn giáo, tự cho mình là người công chính đáng được Thiên Chúa thi ân. Đám người sau ám chỉ những kẻ chậm hiểu và tội lỗi. Nhưng khi gặp, họ đã nhanh chóng tin vào Đức Giê-su.
34/ Đoạn 20 câu 16: Câu này là câu kết của dụ ngôn, khẳng định những kẻ đứng đầu tức là những kẻ tự cho mình là công chính, sẽ bị loại, còn kẻ được coi là không xứng đáng là kẻ đứng chót sẽ được thi ân.
Đây là lời giải đáp dành cho Phê-rô ở phần ông hỏi Chúa Giê-su về phần thưởng dành cho người môn đệ. Trong vương quốc của Thiên Chúa / Các môn đệ không được có thái độ ganh tị như thế.
------------------------------
Chúa Gie-su giáo huấn dân chúng như thế nào ? Chúa Giê-su luôn dùng những câu chuyện đời thường TN 25-A130
1/ Chúa Gie-su giáo huấn dân chúng như thế nào ? Chúa Giê-su luôn dùng những câu chuyện đời thường là những sự kiện cụ thể để xây dựng thành những đề tài để giáo huấn dân chúng.Hôm nay là câu chuyện ông chủ vườn nho thuê thợ vào hái nho. Những người thợ đang thất nghiệp và ông đã thỏa thuận trả cho họ một đồng cho mỗi công nhật.
2/Ý muốn của Chúa muốn dạy gì qua dụ ngôn ? Thiên Chúa là ông chủ vườn nho, không giống cách hành xử của các ông chủ trần gian. Họ thường gây bất công nên họ cần phải giữ luật công bằng để giới hạn sự bất công đó.
3/Thế nào là lòng nhân từ ? Thiên Chúa muốn đi xa hơn luật công bằng, vì Ngài có tất cả, Ngài muốn đối xử với chúng ta bằng sự nhân từ, nhân từ ban phát rộng lượng , lòng nhân từ đi xa hơn những gì mà loài người đáng được hưởng.
4/ Thiên Chúa thường hành động như thế nào ? Dụ ngôn nhắc chúng ta đừng dùng cách suy nghĩ của loài người để suy đoán những việc làm của Thiên Chúa. Nhất là trong thời buổi chủ nghĩa thực dụng hôm nay. Họ đang muốn kéo ghì Phúc Âm xuống cho ngang hàng với cách suy nghĩ của loài người. Khía cạnh của sứ điệp mà Chúa muốn mang đến hôm nay đó là tình yêu và lòng nhân từ, mà khía cạnh quan trọng nhất ,đó là sự tự do. Trong khi sự công bằng luôn ràng buộc chúng ta bởi những bổn phận và những gì chúng ta đang mắc nợ người khác.
5/ Tình yêu và lòng nhân từ mang ý nghĩa nào ? Tình yêu và lòng nhân từ không bị ràng buộc bởi những gì đã giao kết. Vì đó là ban phát mà không cần đòi đáp trả, sứ điệp hôm nay đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ và cách hành xử quá quen thuộc của con người.
6/ Vì sao biệt phái lại ngạc nhiên ? Dụ ngôn đã làm cho bọn biệt phái ngạc nhiên. Khi nghe Chúa đưa dụ ngôn này ra, họ đã rất sửng sốt khi hiểu rằng Chúa muốn đặt người ngoại giáo, những kẻ tội lỗi, là những kẻ đến sau, lại được ngang hàng với Dân Chúa chọn trong Nước Trời.
7/ Chúng ta nên hiểu thế nào về dụ ngôn này ?Dụ ngôn này cũng làm chúng ta ngạc nhiên. Chúng ta cũng có khuynh hướng muốn tự ban phát cho mình nhiều quyền lợi, nhiều công nghiệp, nhiều đòi hỏi khác, chúng ta hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản của lòng nhân từ Thiên Chúa đó là xin Chúa cũng ban cho các người ngoại giáo những ơn mà Chúa đã ban cho chúng ta. Không phải bằng sự công bằng mà bằng lòng nhân từ của Chúa.
8/ Thợ làm vườn nho là những ai ? Đám thợ vào làm trước là những biệt phái, luật sĩ. Đám người vào làm sau là những kẻ tội lỗi, những người ngoại giáo, họ vào trễ nhưng khi nghe được lời Chúa họ đã tin và đã ăn năn sám hối để được cứu rỗi.Cũng là những người như chúng ta đây /
9/ Vì sao bọn họ lại giận dữ ? Biệt phái đã giận dữ khi thấy kẻ có tội sau khi ăn năn sám hối cũng được vào Nước Trời y như họ, điển hình là anh trộm lành , Gia kêu ,…./
10/ Biệt phái giống như những ai ?Nhìn thái độ của biệt phái, chúng ta cũng nhận ra thái độ của mình đã rất nhiều lần cư xử với những anh em chung quanh giống như họ, chúng ta cảm thấy tức tối ghen tị khi thấy kẻ khác hạnh phúc hơn, giàu có hơn ta, may mắn hơn ta.
11/ Chúng ta thường dùng tiêu chuẩn nào để xét đoán ?Chúng ta đã xét đoán người khác theo tiêu chuẩn của thế gian, chứ không theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: Thiên Chúa đã chọn những thứ mà thế gian cho là điên rồ, là vô nghĩa, là yếu đuối, là đáng hổ thẹn và thiêu hủy những gì mà thế gian cho là quan trọng.
12/ Chúng ta nên cậy dựa vào ai ? Những gì là yếu đuối trong tay Thiên Chúa đều trở nên mạnh mẽ, đáng cho chúng ta tin tưởng, ẩn náu, đừng so sánh mình với kẻ khác nhưng hãy chấp nhận những gì mình đang có.
13/ Chúng ta có công trạng gì ? Mỗi người hãy tự suy xét về những gì mình làm. Chúng ta đừng nên nghĩ là mình đã làm được gì cho Thiên Chúa, điều quan trọng là Thiên Chúa đã nghĩ gì về chúng ta, và tình yêu chúng ta dành cho Ngài được bao nhiêu.
14/ Chúa muốn dạy gì về giáo lý nước Trời ? Khi nghe dụ ngôn này, chúng ta đừng thắc mắc là Chúa có cư xử công bằng hay không. Chúng ta luôn hiểu rằng ở đây chỉ là dụ ngôn, là hình ảnh dùng để giải thích giáo lý của Chúa nên Chúa không có ý dạy về kiến thức của người trần gian nhưng Chúa chỉ muốn dạy về chân lý Nước Trời.
15/ Dụ ngôn dạy ta bài học thứ nhất là gì ? Chúa yêu thương mọi người, nhất là những người hèn hạ, kém may mắn, Chúa muốn tất cả mọi người đều được ơn cứu độ. Người thợ vườn nho là chúng ta, là những người được Thiên Chúa mời gọi. Ông chủ ra mướn nhiều lần là Thiên Chúa đầy lòng yêu thương.
16/ Tại sao Chúa luôn đi tìm chúng ta ? Không phải ta đi tìm Chúa nhưng chính Chúa đi tìm ta, không phải tìm một lần mà là nhiều lần, tìm suốt ngày , Cũng vì yêu thương /
17/ Ý nghĩa của những người thợ vườn nho ra sao ? Người vào làm buổi sáng tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người khác, còn những người vào làm trễ tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, luôn bị thiệt thòi trong xã hội.
18/ Chúa muốn bày tỏ điều gì qua dụ ngôn ? Chúa muốn bày tỏ rằng: Người làm sớm hay kẻ làm muộn, người sang kẻ hèn, người giỏi hay người kém, người khỏe hay người yếu ớt, tất cả là để nói lên lòng Chúa thương xót mọi người. Chúa muốn mời mọi người, Chúa muốn cứu mọi người.
19/ Do đâu chúng ta có thể vào làm vườn nho ? Nếu Chúa không kêu gọi, thì không ai có thể được vào làm trong vườn nho của Chúa. Nếu Chúa không ban thì không ai có thể chiếm được Nước Trời. Người làm sớm hay người vào muộn làm nổi bật chân lý: Nước Trời là ân huệ Chúa ban xuất phát từ tình thương chứ không do công đức của riêng ai. Vì thế, đừng ai lấy quyền gì để đòi hỏi, hơn nữa ân huệ này là quá với lòng mong ước nên bất cứ ai cũng phải cảm tạ Ngài.
20/ Tại sao họ lại kêu trách Chúa? Nhóm thợ vào làm đầu tiên, họ không kêu trách Chúa vì tiền lương, nhưng họ kêu trách Chúa vì lòng nhân từ, vì Chúa quá quảng đại, yêu thương. Họ kêu trách vì họ không biết xót thương những kẻ kém may mắn hơn mình.
21/ Chúng ta nên làm gì cho xã hội ? Muốn cho đời được tốt đẹp, chúng ta phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ, thấp kém. Xã hội chỉ thật sự văn minh khi con người biết quan tâm đến nhau, biết dìu dắt nâng đỡ những người kém may mắn.
22/ Vì sao cuộc đời lại quá bất công ? Đời chỉ toàn bất công khi ai cũng chỉ nghĩ cho riêng mình. Đời chỉ tươi đẹp khi chúng ta biết nghĩ đến người khác. Đời sẽ rất tươi đẹp vì nó chan chứa tình người.*
23/ Chúa cư xử với chúng ta như thế nào ? Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng con người. Cách cư xử của Nưới Trời khác hẳn với cách cư xử của trần gian. Đó là không tìm lợi lộc cho bản thân. Nhưng chỉ tìm hạnh phúc cho kẻ khác. Luôn yêu thương, giúp đỡ người kém may mắn, không dùng lý lẽ, nhưng dùng tình cảm yêu thương của con tim. Mong mang lại hạnh phúc cho mọi người.*
24/ Tại sao chúng ta không nên phàn nàn ?Chúng ta sẽ tìm thấy được điều gì khi đem so sánh mình với các Thánh lớn, chúng ta cho rằng: Chúng ta làm việc mệt nhọc, lâu giờ ư? Thật sự chúng ta đã làm gì được cho Chúa? Như vậy, chúng ta sẽ không có gì để phàn nàn, nếu ông chủ phát cho chúng ta một đồng, như vậy là quá với công sức, quá với lòng mong ước của chúng ta.
25/ Chúng ta nê hiểu như thế nào ?Lòng quảng đại của Thiên Chúa hôm nay dành cho chúng ta được biểu lộ qua phụng vụ Thánh Lễ hy tế. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thịt máu Ngài, điều này các Thánh lớn có khi còn không được như chúng ta. Sau khi chúng ta thú nhận sự bất xứng,Thiên Chúa vẫn cừ mời gọi chúng ta đến để nhận lãnh mình máu thánh của Ngài.**R
Giuse Luca / Trưởng Nhóm Kinh Thánh Emmaus
------------------------------
LM. INHAXIO HỒ THÔNG
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV năm A này xoay quanh một chủ đề: lòng từ bi, nhân hậu, rộng TN 25-A131
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV năm A này xoay quanh một chủ đề: lòng từ bi, nhân hậu, rộng lượng và hay tha thứ của Chúa đối với muôn loài mà Ngài đã dựng nên, nhất là con người. Qua dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, Đức Giê-su viện dẫn tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán mà con người đòi hỏi. Một lần nữa, Tin Mừng nhấn mạnh rằng tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Chúa không là đường lối của con người.
CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN A
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV năm A này xoay quanh một chủ đề: lòng từ bi, nhân hậu, rộng lượng và hay tha thứ của Chúa đối với muôn loài mà Ngài đã dựng nên, nhất là con người.
Is 55: 6-9
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo cuộc giải thoát sắp đến và kêu mời những người lưu đày ở Ba-by-lon thật lòng hoán cải ngỏ hầu được Thiên Chúa thứ tha và cứu thoát, vì tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.
Pl 1: 20-24, 27
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang sống trong cảnh giam cầm, bị giằng co giữa đôi ngã: hoặc bị tuyên án tử, như thế được ra đi để được ở với Chúa; hay được phóng thích để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Thánh nhân phó thác số phận của mình vào lòng nhân hậu của Chúa.
Mt 20: 1-16
Qua dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, Đức Giê-su viện dẫn tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán mà con người đòi hỏi. Một lần nữa, Tin Mừng nhấn mạnh rằng tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Chúa không là đường lối của con người.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 6-9)
Đoạn trích dẫn nầy là một trong những sứ điệp sau cùng mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi đến những người Do thái lưu đầy ở Ba-by-lon vào khoảng những năm 545-540 trước Công Nguyên, họ đang mong chờ ơn giải thoát, nhưng vài người trong số họ nghi ngờ và nhụt chí. Trong bối cảnh như vậy, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tác phẩm của ông được gọi “Sách An Ủi” (ch. 40-55), khẩn thiết loan báo những chủ đề hy vọng; ông nhấn mạnh niềm tin vào một Thiên Chúa rộng lòng tha thứ, một Thiên Chúa toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điều gì mà Ngài muốn.
1.Thiên Chúa rộng lòng tha thứ:
Thời gian cứu độ sắp tới phải là thời gian của cầu nguyện và hoán cải:
“Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp,
kêu cầu Người lúc Người ở kề bên” (Is 55: 6).
Phải chăng Thiên Chúa vẫn hiện diện bên cạnh dân Ngài trong cảnh lưu đày còn gần gũi hơn khi Ngài còn ngự giữa họ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem? Năm mươi năm đã trôi qua kể từ cuộc phát lưu đầu tiên vào lúc ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết cho những người lưu đày hầu như theo cùng một cách diễn tả: “Các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến” (Gr 29: 13-14).
Hoán cải không gì khác hơn là tránh xa điều gian ác. Lời kêu gọi thay lòng đổi dạ là sứ điệp thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Đối với ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, cuộc trở về Giê-ru-sa-lem phải cùng chung nhịp bước với cuộc trở về với Thiên Chúa.
“Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo,
người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có
mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương -,
về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người rộng lòng tha thứ” (Is 55: 7)
Động từ “tha thứ” nầy được dùng trong Cựu Ước chỉ với Thiên Chúa là chủ từ, vì sự tha thứ nầy không có cùng mức độ nào với sự tha thứ của con người. Động lực tột cùng của niềm tin tưởng nầy mà những người lưu đày phải thấm nhuần đó là:
“Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55: 8).
Tư tưởng của Thiên Chúa cao vời trên cõi trời cao thẳm, trong khi tư tưởng của con người ở dưới tận chốn đất thấp. Làm thế nào đầu óc nhỏ bé của phàm nhân có thể hiểu được đường lối cao vời khôn ví của Thiên Chúa được chứ? Bởi vậy, mỗi khi con người nghĩ rằng tội lỗi của mình quá nặng nề không thể nào tha thứ được, thì Thiên Chúa mặc khải cho họ biết rằng Ngài vô cùng độ lượng, rộng lòng tha thứ và sẵn lòng đón nhận những kẻ tội lỗi khi họ cất bước trở về với Ngài, cũng như Ngài sẵn lòng trả công bội hậu vượt quá công sức của con người.
2.Thiên Chúa siêu việt và toàn năng.
Ngôn sứ I-sai-a kết thúc sứ điệp của mình bằng cách nhắc nhở rằng Thiên Chúa là Đấng siêu việt và toàn năng:
“Trời cao hơn đất thấp chừng nào
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Is 55: 9).
Ngôn sứ I-sai-a kết nối sự cao cả của Thiên Chúa với lượng hải hà tha thứ của Ngài. Con người nhỏ bé và mỏng dòn, bởi vì tất cả chúng ta là những tội nhân, còn Thiên Chúa thì cao vời khôn ví, bởi vì Ngài ôm ấp trong lòng những tư tưởng cứu độ. Các tác giả thánh vịnh cũng đã sử dụng hình ảnh về “trời cao đất thấp” để đánh dấu khoảng cách vô tận giữa con người và Thiên Chúa, như Tv 145 (144) mà Phụng Vụ mời gọi chúng ta cất cao lời chúc tụng Đức Chúa hôm nay:
“Chúa thật cao cả, xứng muôn lời chúc tụng,
Người cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145: 3).
Đây là ý tưởng truyền thống mà Đức Giê-su dạy cho chúng ta trong kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
BÀI ĐỌC II (Pl 1: 20-24, 27)
Thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a là thành phố Châu Âu đầu tiên đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phao-lô đã mạo hiểm loan báo Tin Mừng trên lục địa nầy. Ở thành phố này, các cộng đoàn Do thái thì thưa thớt, vì thế một đám thính giả đông đảo lắng nghe thánh nhân chắc hẳn đa số là lương dân. Vào năm 49 hay 50, kể từ khi đặt chân đến thành Phi-líp-phê, thánh nhân luôn luôn dành cho các tín hữu này một ân tình tròn đầy. Như chúng ta biết thánh Phao-lô đã không muốn đón nhận sự trợ giúp của bất kỳ cộng đoàn tín hữu nào, ngỏ hầu Tin Mừng mà thánh nhân rao giảng là một ân ban nhưng không. Tuy nhiên, thánh Phao-lô chỉ đón nhận sự giúp đỡ của các tín hữu Phi-líp-phê, vì thánh nhân muốn bày tỏ tấm lòng ưu ái của Ngài danh cho họ.
1.Hoàn cảnh của thánh Phao-lô khi viết thư gởi tín hữu Phi-líp-phê:
Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, chúng ta sẽ tiếp tục đọc nhiều trích dẫn bức thư nầy trong nhiều Chúa Nhật kế tiếp, chứa đựng một chứng liệu đặc biệt. Hơn bất kỳ thư nào khác, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê nầy vén mở cho chúng ta con người nội tâm của thánh Phao-lô, những đức tính và trọn một cuộc đời gắn bó vào Đức Ki-tô. Vốn tính tình bộc trực, ấy vậy những lời khuyên bảo của thánh nhân lại nồng nàn chan chứa những niềm tin tưởng vô bờ.
Khi thánh Phao-lô viết bức thư nầy, ngài đang sống trong cảnh giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô, vào năm 55 hay 56. Thánh nhân không biết số phận đang chờ đợi ngài: hoặc bị kết án tử và như thế được ở với Đức Ki-tô, hay được phóng thích và lại tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài, thánh nhân chỉ còn biết nguyện ước. Sự giằng co đôi đàng, mà thánh nhân trình bày trong đoạn văn nầy, không là thế đôi ngã mà thánh nhân có quyền chọn lựa nhưng là thuận theo thánh ý của Thiên Chúa. Rõ ràng thánh nhân nhắm đến thế đôi ngã nầy ở nơi lời kết luận ngay từ đầu đoạn thư trích dẫn: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn , trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Giê-su sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống, hay tôi chết” (Pl 1: 20).
2.Chết là một mối lợi.
Bị giằng co giữa hai giải pháp khả dĩ: chịu chết hay được phóng thích, hiển nhiên thánh nhân thích được chết hơn: “Vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi… ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều nầy tốt hơn bội phần”. Thánh nhân đã xác định rồi mục đích của cuộc đời mình: “sống là Đức Ki-tô”. Ở bên kia cái chết, thánh nhân được nên một với Đức Ki-tô cách trọn vẹn hơn.
Nếu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê nầy được viết giữa hai bức thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, như ngày nay người ta có khuynh hướng nghĩ như vậy, thì thánh Phao-lô hoàn thành tư tưởng của mình trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Vậy chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác nầy là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa… Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cr 5: 6-8).
Trong đoạn trích thư Cô-rin-tô nầy, tư tưởng của thánh Phao-lô rõ ràng nhuốm màu sắc “nhị nguyên thuyết” của tư tưởng Hy lạp; tuy nhiên, tất cả các thư khác của thánh nhân đều làm chứng rằng thánh nhân không hoàn toàn chấp nhận khía cạnh tiêu cực của triết lý Hy lạp này, tức là khinh bỉ thân xác. Trái lại, Vị Tông Đồ dân ngoại ca ngợi thân xác nầy là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” và sẽ được sống lại vào ngày sau hết. Thánh nhân luôn luôn nhắm đến một sự hiệp nhất trọn vẹn với Đức Ki-tô sau khi chết; tuy thế, thánh nhân cũng không ngừng nói rằng sự hiệp nhất nầy vốn đã khởi sự ngay từ cõi thế nầy rồi. Cuộc sống của người Ki-tô hữu vốn là đã được Đức Kitô sở hữu rồi, là nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ cùng với chúng ta. Thần học của Giáo Hội tiếp nối thần học của thánh nhân trên lộ trình nầy. Cái chết không làm gián đoạn cuộc sống của chúng ta trong Đức Ki-tô.
3.Niềm say mê loan báo Tin Mừng.
Nhưng thánh nhân bị giằng co đôi ngã. Dầu rằng thánh nhân mong ước được ra đi để được ở với Đức Kitô, tuy nhiên thánh nhân nói với các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài: “Ở lại đời nầy thì cần thiết hơn, vì anh em”. Vả lại, thánh nhân luôn luôn mang trong lòng mình niềm say mê loan báo Tin Mừng đến mức thánh nhân xem việc loan báo Tin Mừng như một trách nhiệm mà mình buộc phải chu toàn: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng”. Vì thế, lời căn dặn đầy tâm huyết sau cùng của thánh nhân gởi đến họ: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với Tin Mừng của Đức Ki-tô”.
TIN MỪNG (Mt 20: 1-16)
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nầy khép lại một loạt những dụ ngôn về Nước Trời trong giáo huấn của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê. Một lần nữa Đức Giê-su cố giúp cho thính giả của Ngài hiểu rằng điều xảy ra trong Nước Trời không giống chút nào với cách hành xử của con người. Đức Giê-su có chủ ý chọn những ví dụ cực đoan để gây chú ý ngõ hầu truyền đạt một sứ điệp khó khăn. Các dụ ngôn rất thuận tiện cho việc sử dụng lối ngoa ngữ, nhưng luôn luôn được sắp xếp hướng theo chủ điểm của dụ ngôn, để rồi từ đó rút ra một bài học. Ở đây, điều thú vị của câu chuyện hệ tại ở nơi sự công phẩn của những người thợ được mướn từ sáng sớm.
1.Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân lộc của Ngài.
Mới đọc thoáng qua, dụ ngôn nầy như muốn loan báo cùng một tư tưởng của Bài Đọc I:
“Trời cao hơn đất thấp chừng nào,
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55: 9).
Vì thế, thật là vô lý nếu chúng ta tiếp cận dụ ngôn nầy theo nhãn quang trần thế, vì Đức Giê-su rõ ràng dạy rằng Nước Trời không là tiền thù lao, nhưng là ân ban, Thiên Chúa hoàn toàn tự do định liệu, nhưng không là một kẻ chuyên quyền độc đoán; đây là một sự tự do được điều khiển bởi tình yêu. Lòng nhân ái của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán.
Tuy nhiên, trước tiên chúng ta nên khảo sát cách hành xử của con người với con người trong giao tiếp xã hội. Dụ ngôn nầy làm thương tổn đặc biệt đến độ nhạy bén của con người hiện đại, rất gai góc đối với vấn đề công bằng giao hoán. Tuy nhiên, dụ ngôn nầy xem ra rất gần gũi hơn với thế giới của chúng ta, một thế giới đang quần quại trong nỗi đau của đa số người cố bám víu vào bất kỳ một công việc nào để sống cho qua ngày đoạn tháng. Suốt ngày, họ đứng đó mong chờ bất kỳ ai thuê họ bất cứ công việc nào để đổi mồ hôi lấy bát cơm cho gia đình. Ông chủ trong Tin Mừng năm lần bảy lượt ra ngoài phố chợ để mướn thợ vào làm vườn nho của mình, thậm chí cho đến lúc ngày sắp tàn. Đọc đoạn Tin Mừng nầy hàm chứa một sự đắc ý nào đó khi ghi nhận rằng những người thợ bất đắc dĩ được mướn sau cùng đã nhận được tiền công nhật đầy đủ để có thể nuôi sống gia đình trong một ngày nhờ vào tấm lòng rộng lượng của ông chủ vườn nho. Tiền công nhật được thỏa thuận là một quan tiền, đó là giá trị phải chăng để nuôi sống gia đình trong một ngày.
2.Sống trong tư thế sẵn sàng:
“Chủ điểm” của dụ ngôn nầy được định vị ở nơi tư thế sẵn sàng của những người thợ giờ sau chót nầy. Họ chờ đợi suốt ngày trong tâm trạng nôn nao thấp thỏm và chỉ vào lúc xế chiều mới được mướn vào làm vườn nho. Nếu được thuê mướn sớm hơn, chắc chắn họ cũng đã làm việc cho ông trọn ngày như bao nhiêu người khác. Biết bao câu chuyện Tin Mừng theo cùng một chiều hướng nầy: Đức Giê-su tìm kiếm những tấm lòng sẵn sàng nầy. Ngài tỏ mình ra cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4: 26), không vì công trạng của chị, nhưng vì Ngài đã phát hiện ở nơi chị một tư thế sẵn sàng đón nhận Mặc Khải của Ngài.
3.Nổi bất bình của những thợ đầu tiên.
Những người thợ làm việc ngay từ tảng sáng sớm ngạc nhiên đến bất bình trước việc ông chủ trả tiền công: làm sao ông có thể trả công cho những người thợ sau chót chỉ làm có một giờ vào lúc khí trời mát mẽ cũng bằng với những người thợ đã làm việc nặng nhọc suốt ngày trong cái nắng như thiêu như đốt được chứ? Dụ ngôn có nhiều điểm tương tự với dụ ngôn của người con hoang đàng trong đó người con cả công phẩn trước cách đối xử của cha anh đối với người con út, kẻ lang bạt vừa mới chân ướt chân ráo trở về nhà cha, sau khi đã sống cho đến tận bùn nhơ của cuộc đời. Người con cả không hiểu cách hành xử của cha anh, bởi vì anh thiếu tấm lòng khoan dung rộng lượng của tình phụ tử.
Trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay, ông chủ trả lời một trong những người bất bình với một cung giọng quở trách: “Nầy bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan tiền sao?”, như Đức Giê-su quở trách Giu-đa, kẻ phản bội Thầy: “Nầy bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm!” (Mt 26: 50), hay như đức vua quở trách một trong những khách vào dự tiệc cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” (Mt 22: 12).
4.Công bình và lòng nhân ái:
Những người thợ được thuê từ sáng sớm bị quở trách vì thiếu tấm lòng nhân ái: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghét tức?”. Không loại trừ rằng dụ ngôn có một hậu cảnh bút chiến nhắm đến nhóm Biệt Phái. Những người nầy tự hào tự phụ là mình được gọi vào làm vườn nho cho Thiên Chúa trước tiên. Họ đã đổ nhiều công sức trong việc tuân giữ Lề Luật một cách nghiêm nhặt, không bỏ sót một điều luật nào, nên tỏ ra thái độ khỉnh bỉ những kẻ thu thuế và phường tội lỗi, những người mà Đức Giê-su quan tâm đặc biệt. Văn hào Barnanos đã viết: “Nhân loại tự tách mình ra thành hai loại khác biệt tùy theo quan niệm mà người ta có về công bình. Đối với những người nầy, công bình là một thế cân bằng, một sự thỏa hiệp. Còn những người khác, nó như một sự thăng hoa, một sự đăng quang vinh hiển của lòng nhân ái”.
Dụ ngôn nầy cũng đề cao mầu nhiệm Giáo Hội: Những Ki-tô hữu gốc lương dân là những người đến sau lại được gọi gia nhập Nước Trời và được hưởng vô vàn những ân lộc mà Thiên Chúa đã hứa với dân Do thái. Vì thế, dụ ngôn này đem đến một niềm hy vọng tuyệt vời cho những Ki-tô hữu gốc lương dân, những người đã đón nhận lời mời gọi của tôn chủ chỉ sau một thời gian dài dân Ít-ra-en được tuyển chọn.
Nhưng đây cũng là một niềm hy vọng tuyệt vời cho những ai khám phá Thiên Chúa chỉ vào những giờ phút sau cùng của cuộc đời mình. Ví dụ cảm động nhất không phải là ví dụ tên gian phi sám hối đấy sao? Cả một đời gian ác, nhưng chỉ một lời nói đầy cảm thương của anh vào giây phút cuối đời đã đem lại cho anh một lời hứa ngay tức khắc của Đức Giê-su: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Nước Trời” (Lc 23: 43).
LM. INHAXIO HỒ THÔNG
----------------------------------
Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha. Ngài thương TN 25-A132
Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha. Ngài thương hết mọi người và từng người, nhất là những tội nhân và những kẻ bé mọn.
Thiên Chúa không hành động nhỏ nhen như con người. Chúng ta thường có thói quen "suy bụng ra bụng của Thiên Chúa", có nghĩa là chúng ta thường gán cho Thiên Chúa những cách xử sự nơi thế giới nhân loại, cũng hận thù và tiểu nhân. Từ đó, chúng ta phàn nàn kêu trách Chúa khi đau khổ thiếu thốn. Tệ hơn, nhiều lúc chúng ta phê phán Chúa vì Ngài tốt bụng với người khác. Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta… Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I). Những lời này cho thấy chúng ta phải có cái nhìn rộng lượng hơn trong cách đối xử với tha nhân, đồng thời phải thận trọng trong những suy tư về lòng bao dung của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha. Ngài thương hết mọi người và từng người, nhất là những tội nhân và những kẻ bé mọn. Trong khi đó, nhiều người Do Thái, đặc biệt là người Biệt phái và các luật sĩ lại ghen tỵ vì Chúa Giêsu đi lại giao du với những người tội lỗi và những hạng bần cùng. Dụ ngôn "thợ làm vườn nho" mà Chúa Giêsu kể, nhằm diễn tả lòng bao dung của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người. Nếu Thiên Chúa là Đấng rộng rãi bao dung, thì con người lại quá nhỏ nhen ích kỷ. Những người thợ đã làm từ đầu ngày ghen tương trước lòng tốt của ông chủ, trong khi đó, ông chủ vẫn làm đúng điều ông đã cam kết. Ông không hề làm cho họ bị thiệt hại. Họ ghen tương một cách vô lý, chỉ vì ông chủ tốt với người khác. Thái độ của những người này làm chúng ta liên tưởng đến người con cả trong dụ ngôn "Người cha nhân hậu" được Chúa nói trong Tin Mừng Thánh Luca (x. Lc 15,25-32). Anh ghen tương và phẫn nộ vì cha mình xử tốt với đứa em khi nó đi hoang trở về. Đó cũng là thái độ của chúng ta, khi muốn Chúa phải xử theo ý muốn hẹp hòi của mình.
Khi khiếu nại và phàn nàn trách móc ông chủ, những người thợ dựa theo lý lẽ công bằng theo kiểu người đời, tức là người làm nhiều thì hưởng nhiều mà người làm ít thì hưởng ít. Tuy vậy, nơi Thiên Chúa không chỉ có công bằng, mà còn có tình thương. Đối lại với lời phàn nàn trách móc, ông chủ đã trả lời: "Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?" Qua hai câu hỏi này, ông chủ muốn phê phán những người thợ tự cho mình là đáng giá hơn người khác, để dựa vào đó mà phản đối lòng tốt của ông chủ. Người chủ vườn là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng bao dung nhân hậu. Ngài sai Con Một là Đức Giêsu đến trần gian để sống gần với họ. Điều này làm những người tự coi là "công chính" không hài lòng. Bởi lẽ, theo suy nghĩ của họ, chỉ có họ là được Chúa yêu thương. Việc Chúa Giêsu gần gũi những người thu thuế và những người tội lỗi được họ coi như một thiệt thòi đối với họ, vì thế mà họ nổi loạn và trách móc phàn nàn. Thiên Chúa yêu thương và cứu vớt những người bị đẩy ra bên lề cuộc đời. Họ là những người không ai thuê, mặc dù vào giờ thứ mười một, tức là đã xế chiều. "Không ai mướn chúng tôi!". Lời này đã diễn tả tình trạng bi đát và khốn khổ của họ. Không ai mướn, tức là ngày đó không có lương, và như thế, cả vợ con và gia đình họ cũng không có gì sống. Ông chủ vườn nho là người thấu hiểu điều đó. Vì vậy, ông trả lương cho họ giống như những người đã làm từ sáng. Đó là đồng lương của lòng nhân hậu.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng nhân hậu đối với con người, không phân biệt sang giàu hay đẳng cấp xã hội. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: "Đâu là thái độ của tôi đối với anh chị em đồng loại?". Vì Thiên Chúa nhân hậu bao dung, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối và bỏ đường tà, đoạn tuyệt với quá khứ, thay đổi con tim và canh tân cuộc sống: "Hãy trở về với Chúa - và Ngài sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta vì Ngài rộng lòng tha thứ" (Bài đọc I).
Những lo toan bận tâm thường ngày không cản trở chúng ta tìm kiếm Nước Trời. “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” – Thánh Phaolô khuyên chúng ta như vậy. Đối với thánh nhân, sự sống hay sự chết chẳng là một điều bận tâm, vì đối với những ai yêu mến Chúa thực sự thì họ chắc chắn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời. Lòng mến Chúa yêu người sẽ thôi thúc chúng ta thực hiện những gì Chúa muốn: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương” (Bài đọc I).
Chúa là chủ vườn nho bao dung nhân hậu. Tuy vậy, chúng ta không dựa vào lòng nhân hậu của Chúa mà trễ nải khi được mời gọi vào vườn nho của Ngài. Những người thợ được nêu trong Tin Mừng, khi được mời, đều sẵn sàng nhận lời. Vì vậy mà họ đáng được thưởng công. Vườn nho của Chúa là Giáo Hội, nơi mỗi người tìm thấy bầu khí gia đình thân thương. Vườn nho của Chúa chúng là cuộc đời, nơi chúng ta được sai đến để làm chứng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ý thức được điều này, chúng ta sẽ nhận ra giá trị của cuộc sống, nhất là niềm vinh hạnh vì được làm con cái Chúa.
+Gm Giuse Vũ Văn Thiên
----------------------------------
TÌNH YÊU NHƯNG KHÔNG
LỜI CHÚA: Mt 20,1-16
Tôi còn nhớ mãi câu truyện được nghe kể khi ở nhà tập: Một gái làng chơi nổi tiếng trong làng bị mọi TN 25-A133
Tôi còn nhớ mãi câu truyện được nghe kể khi ở nhà tập: Một gái làng chơi nổi tiếng trong làng bị mọi người khinh bỉ và kết án. Một hôm chị nghe tin một thầy tu hành trong tu viện gần nhà, nổi tiếng đạo đức đang hấp hối. Chị tò mò đến xem một vị thánh chết như thế nào. Khi tận mắt xem một người đạo đức nằm trên giường hấp hối được nhiều người sốt sáng đọc kinh cầu nguyện cho. Một bầu khí thánh thiêng lan tỏa, chị xúc động và không sao cầm được nước mắt, chị thốt lên trong tiếng nấc: Ước gì tôi được một cái chết giống như thế này! Nói xong chị lẻn ra ngoài trước sự ngỡ ngàng của những người đã biết đời tư của chị. Chị chạy nhanh để tìm một vị linh mục để xưng tội. Chị chạy nhanh đến nỗi vấp phải một gốc cây bên đường và chị đã vĩnh viễn từ giã cõi đời. Trên giường bệnh vị tu sĩ kia cũng tắt thở. Người vào làm vườn nho từ sáng sớm và người vào quá muộn màng.
Câu truyện này trùng hợp với bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay. Ông chủ thuê người làm vườn nho từ sáng tinh mơ đến lúc chiều tà. Ông là một ông chủ lạ thường. Ông lạ thường trong cách thuê thợ: Ai mướn thợ cũng muốn được việc và phải làm đủ giờ lao động, nhưng đàng này ngày làm việc đã hết nhưng ông vẫn tiếp tục thuê, thuê suốt ngày bất cứ giờ nào. Hình như ông không nghĩ được việc cho mình nhưng chỉ nghĩ đến người ở không.
Ông còn lạ thường hơn nữa trong cách trả lương. Đáng lẽ ông phải trả cân xứng với giờ làm việc của mỗi người, nhưng đây ông lại trả bằng nhau.
Ngày nay người ta đề cao sự công bằng nên câu truyện này làm nhiều người khó chịu. Nhưng đây không phải dụ ngôn về sự công bằng nhưng là dụ ngôn về lòng đại lượng của ông chủ. Sự đại lượng này không giống sự đại lượng bình thường. Người làm giờ thứ mười một không phải là người ăn không ngồi rồi, họ là những nhân công không được tôn trọng, họ bị khai trừ. Thế nhưng chủ vườn nho ở đây đã làm khác. Đây là điểm mạnh của dụ ngôn. Chúa Giê-su muốn tô đậm nét không bình thường này của ông chủ để làm nổi lòng nhân hậu và sự tự do của ông chủ. Từ cách thuê thợ đến cách trả lương, ông chủ đều tỏ ra là người nhân hậu khác thường, ông không nghĩ đến được việc mà chỉ nghĩ đến những người thất nghiệp. Ông chỉ sợ thợ không có việc làm và từ đó sinh ra những tệ nạn khác.
Lòng nhân hậu của ông vượt mọi khuôn thước bình thường, vượt xa sự công bằng: “ Tôi há không được dùng của tôi tùy ý tôi sao? Hay mắt bạn ghen vì tôi nhân hiền.” ( c. 15)
Chúa Giê-su nói về lòng đại lượng của Thiên Chúa. Ngài khác con người phàm nhân chúng ta: “ Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng khác đường lối của các ngươi bấy nhiêu.”( Is 55,9) Lòng yêu thương của Thiên Chúa vượt xa tình yêu của chúng ta. Chính vì thế mà những người thợ làm giờ thứ nhất lẩm bẩm: thật là kỳ cục và bất công khi người cuối được đối xử như người đầu.
Nhưng Chúa Giê-su cho chúng ta hiểu chỉ có lý do duy nhất là tình yêu.Thiên Chúa có quyền làm những gì Ngài muốn theo lòng nhân lành của Ngài: “ Phải chăng cái nhìn của ngươi xấu vì Ta tốt lành.” Thiên Chúa tốt lành và những gì Ngài làm thì chính đáng. Thiên Chúa thuê chúng ta vào làm vườn nho cho Ngài và Ngài trả công theo lòng nhân hậu của Ngài. Ngài mời gọi mọi người cần đến Ngài cũng như ông chủ mời gọi những người cần đến ông. Thiên Chúa gọi kẻ trước người sau nhưng gọi mọi người miễn là họ cần đến Ngài.
Chúng ta phải đón nhận từ Thiên Chúa sự công chính của Ngài với cái nhìn và trái tim mới. Thiên Chúa không làm gì sai lầm cho bất cứ ai nhưng Ngài tự hiến chính mình cho tất cả chúng ta. Chúng ta nhận tất cả mọi sự từ Thiên Chúa theo ơn gọi của mình. Thiên Chúa muốn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài để là anh em của nhau: “ Ta muốn cho người cuối bằng ngươi.” Rồi người kết luận: Người cuối sẽ lên đầu và người đầu sẽ xuống cuối. Đó là logic của Tin Mừng. Madalenna được thấy Chúa Phục sinh trước hết. Người trộm lành là người đầu tiên được nghe lời cứu độ: “ Hôm nay ngươi sẽ được ở cùng Ta trên trời”.
Thiên Chúa không sai lầm, Người không làm điều sai lầm nhưng Ngài chỉ làm điều tốt. Ngài làm những điều kỳ diệu với những người rốt cùng. Chúng ta là những kẻ rốt. Chúng ta vui sướng vì mình là người thợ thứ mười một và chúng ta cảm được tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Người chọn chúng ta cách nhưng không. Ngài gửi chúng ta vào vườn nho của Ngài cách vô tư. Chúng ta không ghen tương lẩm bẩm nhưng vui vì anh em chúng ta cũng được dự phần trong vườn nho như ta. Thiên Chúa là Đấng xót thương và chúng ta cũng phải là kẻ thương xót như Ngài.
Dụ ngôn này nói về Nước trời và logic của Nước Trời không phải là logic của thế gian này nhưng nó đối nhau: Người nhất sẽ xuống bét và người rốt cùng sẽ nhận được như người nhất. Ở đây không phải sự độc đoán của ông chủ nhưng là lòng tốt lành của ông chủ. Thật ra trong nước trời không có người đầu và người cuối. Ông chủ Nước Trời muốn mỗi người được dư tràn. Nhưng tội nghiệp, con mắt xấu của những người so sánh huân công của họ với người khác. Từ sự so sánh này sinh ra sự bất đồng, ghen tương và tính toán. Chúng ta thường đong đếm công lao của mình và cảm thấy mình hơn người khác, đại lượng hơn, xứng đáng hơn. Nhưng ông chủ Nước Trời không nhìn bằng con mắt của ta. Người muốn cho mỗi người nhận ơn phúc tối đa.Và trước hết cho những người nghèo khó nhất,những người làm ít nhất, những người đến trễ ở cửa Thiên đàng nhưng hết tình hết mình với công việc được trao trong giờ chót. Những người được gọi đầu tiên cũng không hối tiếc công lao của mình, họ vui sướng được gọi sớm sủa để thể hiện tình yêu của mình với ông chủ.
Trong Nước trời có chỗ cho mọi người và công lao chúng ta bỏ ra không thể sánh được với phần thưởng vô cùng Chúa dành cho ta. Những người đến muộn màng cũng được đón tiếp niềm nở như những người đầu. Mọi người đều được dư tràn và mỗi người sẽ nhận được phần thưởng vượt xa vô cùng những gì họ đã làm là Nước Trời. Đó là phần thưởng mà cha nhân từ ban cho chúng ta vì Người muốn tất cả chúng ta được hạnh phúc.
Lời Chúa hôm nay cật vấn chúng ta. Chúng ta là những bọn thợ đầu tiên ấy đã có thái độ ích kỷ đòi quyền lợi cho mình khi không bằng lòng với những ơn ban của Chúa. Đứng trước lòng nhân hậu của Chúa chúng ta không nhận ra và tưởng mình có quyền đòi hỏi Chúa. Do lòng ích kỷ mà chúng ta đã ghen tương và không hạnh phúc khi thấy chi thể khác được thương mến, hạnh phúc. Khi sống với những người hơn chúng ta, chúng ta luôn cật vấn Chúa: Tại sao Chúa cho họ hơn con. Tại sao con đau khổ, nghèo nàn, khốn đốn hơn họ. Chúng ta có con mắt ghen tương: “ Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen ghét”.
Xin Chúa cho chúng ta biết yêu thương anh em bằng tình yêu của Chúa để coi hạnh phúc của anh em cũng là hạnh phúc của chúng ta. Amen.
Nữ tu Faustina Lý Thị Báu
----------------------------------
Suy niệm: Mt 20,1-16
“Tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng” (Mt 20,4)
Chúng ta hãy nói về sự công bằng. Ông chủ trong dụ ngôn của Đức Giêsu đã hứa sẽ trả lương cho TN 25-A134
Chúng ta hãy nói về sự công bằng. Ông chủ trong dụ ngôn của Đức Giêsu đã hứa sẽ trả lương cho các công nhân của ông hợp lẽ công bằng, nhưng dường như ông đã không giữ lời hứa vào cuối ngày. Ít nhất, đó là những gì mà các công nhân được ông mướn lúc đầu suy nghĩ như thế. Trong mắt họ, ông chủ đang đối xử bất công với họ. Họ nhìn thấy những người công nhân bắt đầu làm sau đó lại nhận được tiền lương nhiều như số tiền ông chủ đã hứa trả cho họ. Vậy sự công bằng ở đâu?
Tuy nhiên, ông chủ có một loại công bằng khác hẳn trong tâm trí. Đối với ông, sự công bằng trước hết không phải là mọi người nhận được những gì họ xứng đáng hưởng, nhưng là mỗi người nhận được cái họ cần. Mỗi lần ông tới chợ, ông đều nhìn thấy những người đàn ông – những người chồng, những người cha, những người con trai, những người anh trai – những người không có việc làm ổn định, mà họ vẫn phải cung cấp thức ăn, quần áo và chỗ ở cho gia đình của họ. Làm sao ông có thể quay mặt đi với họ? Làm sao ông có thể chỉ suy nghĩ về điểm mấu chốt của mình?
Dĩ nhiên, các ông chủ không thể cho đi tất cả tiền của mình; họ cũng phải chăm sóc cho gia đình của họ. Nhưng ở đây Đức Giêsu không nói về những thực hành kinh doanh tốt nhất. Ngài đang nói về cảm thức công bằng của Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa, công bằng là vấn đề mọi người được cư xử với phẩm giá và danh dự. Đó là một vấn đề về sự bảo đảm rằng mỗi người được yêu thương và chăm sóc. Đó là một vấn đề làm nên sự chắc chắn rằng không ai bị bỏ lại phía sau.
Thật là một sự khác biệt với ý kiến chung của chúng ta về sự công bằng! Nhìn xung quanh, chúng ta nghe rằng sự công bằng đại khái là phần thưởng và sự trừng phạt. Nếu bạn làm việc chăm chỉ, bạn sẽ được thưởng với tiền lương. Nếu bạn vi phạm luật, bạn sẽ bị phạt cho đến khi bạn “trả lại” những gì bạn đã làm. Trong khi đó có một sự thật đối với những khẳng định hày, sự công bằng của Thiên Chúa vượt xa loại giải pháp thưởng phạt đầy keo kiệt và tính toán. Sự công bằng của Thiên Chúa bao hàm lòng quảng đại và tình yêu, lòng thương xót và sự cảm thông. Sự công bằng của Người còn đi xa hơn khi Người đã trao ban chính Con Một của mình để cứu độ chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết.
Giống như ông chủ trong dụ ngôn hôm nay, Cha trên trời của chúng ta cũng sẽ ban cho chúng ta một sự ngạc nhiên – và đảo ngược – tử tế và công bằng. Làm sao chúng ta không thể không ca ngợi Người vì một món quà vĩ đại như thế!
“Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì đã chăm lo cho mọi nhu cầu của con”.
Theo the Word Among us
Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang)
Ghen là một trạng thái cảm xúc tâm lý của con người được thể hiện qua hành động hay lời nói TN 25-A135
Ghen là một trạng thái cảm xúc tâm lý của con người được thể hiện qua hành động hay lời nói. Chúng ta thường có thói ghen tị và ghen tương. Hai tính cách này chúng ta tưởng là giống nhau nhưng khác nhau. Ghen tị (hay đố kỵ), tức là không bằng lòng về kết quả, thành tích, hoạt động hoặc sự hạnh phúc, thành công của người khác thể hiện qua thái độ không vui, khó chịu, tức tối, bực bội, hậm hực, bất mãn... Tại sao chúng ta hay ghen tị bởi vì mình nghĩa rằng những cái này tại sao họ có mà mình không có? Ví dụ, trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay: Những người làm trước hết mà lãnh bằng những người sau hết, sao được? Những người trước hết ghen tị vì đáng lẽ ra họ được nhiều hơn chứ. Còn ghen tương là không bằng lòng, không chấp nhận trước những thành công, hạnh phúc đáng lẽ mình có nhưng mình không có, mà người khác lại có. Ví dụ, tôi cũng học cùng lớp với anh ta mà anh ta làm lớn hơn tôi, hay là hai người buôn bán như nhau, tại sao chị kia mua may bán đắc hơn tôi.
Ghen tị là một mầm giống tội nằm trong bản tính con người cho nên nó là một trong bảy mối tội đầu của con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Eva ghen tị với Chúa muốn ngang hàng với Chúa nên nghe lời con rắn ăn trái cấm. Cain vì ghen tị với em mình nên giết Aben, bởi vì em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của tổ phụ Giacóp ghen tị với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen tị với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đòi đâm Đavít. Đavít ghen tị với Uria vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông. Quả thực có những hành vi ghen tị làm mất tính người: "Không ăn được thì đạp đổ". Lòng ghen tị sẽ đánh mất tình liên đới với tha nhân, không chấp nhận người khác hơn mình và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có cho nên ông bà có câu: "Trâu buộc ghét trâu ăn". Người ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Người ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Cho nên, ghen tị có thể biến người hiền thành kẻ ác nhân, biến người thật thà thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng... nhưng trong lòng lại "một bồ dao găm", chỉ toan tính hại người.
Qua Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng đừng có ghen tị mà sinh ra tham lam ích kỷ. Hãy tập "có sao hưởng vậy" và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách để chiến thắng lòng tham lam, sự bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ của chúng ta. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tỵ. Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng, ai ai xứng đáng được thưởng một quan tiền bởi vì người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn cả ngày. Ai cũng có nỗi khổ riêng, không ai giống ai. Điều quan trọng Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho anh chị em và cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng riêng, mỗi nén bạc riêng. Mỗi người một hoàn cảnh, một cuộc sống khác nhau nhưng hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Đừng than thân trách phận, trách Chúa bởi vì một người có một nhân phẩm và có giá trị trước mặt Chúa, và “Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14).
Thực tế trong cuộc sống, người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh. Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè hay người thân trong gia đình. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau. Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta cần sáng suốt nhận thức rằng: Thứ nhất, sự may lành hay sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta vì nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng chúng ta thì làm gì có máy bay, có TV, có Iphone, Ipad và máy tính! Nếu ai cũng nghèo hết thì có ai mà làm việc bác ái, giúp đỡ sẻ chia cho tha nhân được nhờ. Nếu ai cũng thông minh hết thì thế giới này sẽ ra sao? Rồi ngay cả trong gia đình cũng vậy, “Chồng giận thì vợ bớt lời - Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê” hay là “Thế gian được vợ hỏng chồng. Mấy khi lại được cả ông lẫn bà”. Còn con cái trong nhà thì "con hơn cha thì nhà có phúc; hậu sinh khả uý là điều hiển nhiên”.
Thánh Phaolô nói: "Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" ( 1Cr 12, 12-13). "Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (1Cr 10, 17). Vâng, mỗi người chúng ta là một bộ phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia là phổi... Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì? Tương tự, người kia thánh thiện, thì cộng đoàn hay gia đình chúng ta phải mừng, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cộng đoàn hay gia đình được tiến tốt, danh Chúa được rạng rỡ chứ, hà cớ gì ghen tị. Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người; thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em trong cộng đoàn hay gia đình chúng ta thánh hơn, thiện hơn, thì chúng ta hãy thành thật chúc mừng họ vì nhờ thế cộng đoàn hay gia đình nhân loại chúng ta hạnh phúc hơn và danh Chúa được sáng hơn.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay xin cho mỗi người chúng ta biết sống theo Lời Chúa dạy: Đừng ghen tị để ăn ở cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô. Đó là “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người” (Rm 12,14-18).
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Con người hay càm ràm than trách Thiên Chúa về những gì con người nghĩ Thiên Chúa làm cho TN 25-A136
Con người hay càm ràm than trách Thiên Chúa về những gì con người nghĩ Thiên Chúa làm cho mình, nhưng thật sự Thiên Chúa là Đấng rất khác con người. Ngài tuyệt vời hơn những gì con người có thể suy tưởng về Ngài.
1. Suy nghĩ của con người
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người làm vườn nho vào giờ thứ nhất những tưởng họ sẽ được lãnh tiền lương nhiều hơn người làm công giờ thứ mười một, bởi vì họ đã phải nắng nôi vất vả và tốn nhiều công sức. Ngày nay nhiều người đồng ý với họ, và cho rằng Thiên Chúa không công bằng, vì Ngài đã đối xử với những người lao cực nhiều bằng người chỉ tốn ít công sức.
Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ông chủ đã sòng phẳng theo lời thuận thảo; ông không lỗi đức công bằng khi trả một đồng lương cho người vào làm giờ thứ nhất. Ông chủ khi trả cho người làm công giờ thứ mười một bằng người làm công giờ thứ nhất, vì ông chủ là người tốt và nhân hậu, ông thông cảm với tình trạng của một người phải làm việc để nuôi sống chính mình và người thân, nên ông muốn giúp đỡ họ. Ông chủ đã cho người làm công giờ thứ mười một nhiều hơn điều họ đáng. Điều này diễn tả tình thương của ông chủ đối với người làm công giờ cuối cùng.
Tại sao người làm công giờ thứ nhất lại càm ràm than trách ông chủ? Phải chăng họ lấy chính họ làm tiêu chuẩn, họ muốn hơn người khác, và không muốn người khác được hơn họ. Họ cho rằng người khác được đối xử bằng họ, là họ được đối xử công bằng; và khi người khác được hơn họ, là họ bị đối xử bất công. Thực ra, công bằng đòi phải trả cho người khác điều họ được quyền hưởng; và tình yêu làm người ta được hơn điều người ta được quyền hưởng. Con người vẫn thường hay suy nghĩ và hành xử như người làm công giờ thứ nhất. Chúng ta vẫn thường ích kỷ và không muốn người khác được hơn mình.
2. Đường lối của Thiên Chúa
Một số người muốn Thiên Chúa phạt kẻ gian ác, bắt kẻ gian ác phải đền tội chúng đã gây ra cho người khác. Tuy nhiên Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đối với tội nhân, Ngài mong chờ họ trở lại như người cha nhân từ chờ đợi người con hoang trở về. Thiên Chúa hành xử như thể bất lực đối với tội nhân, như thể Ngài cam chịu để người ta hành hạ và giết Con của Ngài trên thập giá. Thiên Chúa như thể đã hành xử rất vô lý khi thương kẻ tội nhân hơn cả Con Một Ngài.
Cách hành xử của Thiên Chúa đối với kẻ gian ác, cho thấy Thiên Chúa không hành xử như con người thường nghĩ và đòi hỏi. Không phải là Thiên Chúa không công bằng đối với những người bị kẻ gian ác hãm hại, nhưng Ngài trổi vượt trên những suy nghĩ bình thường của con người. Ngài là Đấng công bằng để thưởng mỗi người, để không ai bị “lỗ”, nhưng lại là Đấng nhân từ đối với kẻ gian ác. Ngài muốn kẻ ác nhân bỏ đường lối của họ, Ngài muốn kể dữ bỏ những tư tưởng bất chính, Ngài muốn con người trở lại với Ngài. Cách hành xử của Thiên Chúa đối với người tội lỗi, giúp con người biết hơn về Thiên Chúa. Ngài là Đấng tuyệt vời khi tha thứ và tái tạo con người sa đọa.
Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Thiên Chúa cũng vượt trên tư tưởng của con người bấy nhiêu. Thiên Chúa là Đấng tuyệt vời, và Ngài tuyệt vời hơn cả điều mà con người có thể suy nghĩ được.
3. Thiên Chúa ở gần những ai kêu cầu Người
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở trên trời, Ngài ở xa con người đến nỗi không nghe được tiếng cầu khẩn của con người. Thật sự, Thiên Chúa luôn ở gần những ai kêu cầu Người. Ngài luôn yêu thương và cứu giúp con người.
Với những người siêng đi dự lễ và đến cầu nguyện nơi nhà thờ, Ngài hiện diện đặc biệt trong nhà nguyện, nơi giờ kinh và trong Thánh Lễ. Với những người bận công việc và không có thời gian và cơ hội tới nhà thờ, Ngài hiện diện với họ trong từng giây phút sống của đời họ. Với tất cả mọi người, Ngài hiện diện ở khắp nơi, trong cung lòng mỗi người. Ngài ở gần con người hơn cả người thân yêu nhất của mỗi người. Ngài luôn lắng nghe và tiếp cứu mỗi người trong những lúc khốn cùng nhất của họ; Ngài ban Thánh Thần an ủi và hướng dẫn để mỗi người đi trong đường lối của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài trổi vượt trên những gì phàm tục, và chỉ mình Ngài là Đấng Thánh. Ngài mời gọi con người trở nên con cái của Ngài, suy nghĩ và hành xử như Ngài. Ngài là nguồn sự sống và sung mãn. Nơi Ngài con người tìm được bình an và hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn hay kêu trách Thiên Chúa về điều gì nhất? Tại sao?
2. Theo bạn, Thiên Chúa là Đấng công bằng hay Đấng thương xót? Tại sao?
3. Suy nghĩ và hành xử giống Thiên Chúa, con người được gì và mất gì?
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
Tin Mừng Mt 20, 1-16:
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho của Chúa Nhật 25 thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua TN 25-A137
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho của Chúa Nhật 25 thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua dụ ngôn này chúa Giêsu muốn dạy cho ta biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa, cũng như Chúa đang nhắn nhủ chúng ta phải có cách sống rộng lượng giống như Thiên Chúa....
***
Để dân chúng hiểu rõ hơn những lời dạy của Chúa, đôi khi Chúa Giêsu cũng dùng dụ ngôn để làm sáng tỏ giáo huấn mà Chúa trao ban cho mọi người. Vì thế, dụ ngôn người thợ làm vườn nho của chúa nhật XXV thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua dụ ngôn này chúa Giêsu muốn dạy cho ta biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa, cũng như Chúa đang nhắn nhủ chúng ta phải có cách sống rộng lượng giống như Thiên Chúa.
1. Lòng quảng đại của Thiên Chúa:
Khi nghe đoạn Tin mừng có lẽ không ít người thắc mắc về cách làm của ông chủ vườn nho. Thắc mắc là phải, bởi vì từ người đầu tiên ra làm vườn nho lúc trời vừa tảng sáng, tiếp theo là người làm lúc giờ thứ ba, kế đến người làm lúc giờ thứ sáu, rồi tiếp người làm đến giờ thứ chín, sau cùng là người làm giờ thứ mười một, tất cả những người này từ người làm giờ sau hết đến giờ trước nhất, chỉ nhận lương từ tay ông chủ có một quan tiền mà thôi. Như vậy ý của ông chủ trong việc này là như thế nào? Chỉ khi nào chúng ta giải thích và tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn, chúng ta sẽ dễ chấp nhận và sẽ kính nể cách ứng của ông chủ vườn nho với hết mọi hạng người.
Trước hết ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê làm vườn nho là tất cả mọi người, dĩ nhiên trong số này còn có anh chị em lương dân. Vườn nho là Nước Trời là Giáo Hội. Tiền lương là phần thưởng trong Nước Trời. Những người được kêu gọi làm vườn nho từ giờ trước nhất cho đến giờ cuối cùng trong ngày, nghĩa là Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người gia nhập Nước Trời qua mọi ngày tháng và mọi thời khác nhau.
Nhờ những giải thích trên đây chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn mà Chúa mạc khải cho chúng ta. Trong dụ ngôn Chúa Giêsu dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha là người Cha tuyệt vời. Đó là người Cha luôn chủ động tìm kiếm những đứa con để đón nhận Nước Trời. Một người Cha luôn thao thức đi tìm con không biết mệt mỏi. Tìm mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Một khi đã gặp được con thì người Cha ấy không đặt vấn đề thời gian, không đặt nặng kết quả của công việc. Vì bản chất là quảng đại, nên người Cha ấy luôn thúc bách con của mình hãy mau tiến vào vườn nho, để khi thời gian làm việc kết thúc thì người con ấy cũng sẽ nhận phần thưởng giống như mọi người.
Chúa Giêsu đến trần gian để dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Vì là Cha chúng ta, nên Thiên Chúa mong muốn hết mọi người được đón nhận ân huệ nhưng không của Chúa, được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc và bình an trong Nước Chúa. Vì ơn cứu rỗi được khơi nguồn từ tình thương của Thiên Chúa nên chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa. Và lời tạ ơn chỉ đẹp lòng Chúa khi chúng ta có những cách sống giống như Chúa.
2. Lòng quảng đại của chúng ta:
Nếu như người làm vườn nho vào giờ trước nhất cằn nhằn ông chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng thiêu đốt” (Mt 20, 12), thì đến chúng ta, một khi mong cuộc đời mình được sống quảng đại như Chúa, tất nhiên chúng ta không được phép kêu trách lòng từ bi của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người. Chúng ta là anh em với nhau. Không lẽ chúng ta được Chúa ban hạnh phúc, còn anh chị em khác cũng được Chúa ban hạnh phúc giống như ta thì mình lại khó chịu chăng? Lòng quảng đại của chúng ta chỉ thực sự lớn lên, khi chúng ta xem niềm vui của người khác là niềm vui của mình, hay những khát vọng hạnh phúc của người khác cũng là khát vọng của mình. Lòng quảng đại của chúng ta sẽ phát triển, khi chúng ta đừng bao giờ xem thất bại của người khác là trò giải trí vui chơi của mình, hay thành công của người khác là nuôi lòng căm ghét thù hận và khó chịu trong mình. Lòng quảng đại của chúng ta sẽ không có chỗ dừng, khi chúng ta có cùng thao thức giống như Chúa, nghĩa là mong muốn cho mọi người được gia nhập vườn nho của Chúa, hăng say tìm kiếm mọi người để họ được sống trong Hội Thánh của Chúa, luôn cầu nguyện cho mọi người sớm tìm gặp Nước của Thiên Chúa là hạnh phúc viên mãn. Sau cùng lòng quảng đại của chúng ta sẽ trở nên vô biên, khi đời sống của chúng ta thuộc về Chúa, tình yêu của chúng ta không bao giờ lìa xa tình yêu của Chúa. Chính tình yêu Chúa sẽ biến đổi chúng ta trở nên một con người mới, đó là người luôn thao thức dấn thân giới thiệu Nước Trời và làm cho người khác đón nhận Nước Trời. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tách rời khỏi tình yêu của Chúa. Ước gì cuộc sống của chúng ta sẽ là chuỗi ngày được hiệp thông trọn vẹn với Chúa. Ước gì tâm tình của Thánh Phaolô trong bài đọc hai hôm nay được ứng nghiệm trong cuộc đời của chúng ta: “Anh em thân mến, dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi” ( Pl 1, 20).
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm Antôn Hà Văn Minh)
Tin Mừng Mt 20, 1-16:
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng TN 25-A138
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ
***
SUY NIỆM
Anh chị em thân mến,
Mấy ngày qua ở Việt Nam chúng ta người ta đang bàn tán nhiều về hình thức đầu tư BOT, và gần đây nhất là Hội phụ huynh học sinh như là nhóm lợi ích, và đang gây ra bao bất bình trong xã hội. Nhóm lợi ích đã tạo ra một thế lực để chi phối chính quyền, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực. Lợi ích nhóm chỉ nhắm quyền lợi của mình, họ không quan tâm đến thiện ích của người khác, và cũng chẳng màng chi đến nhu cầu của tha nhân. Họ sống ích kỷ và lòng ngập đầy sự tham lam. Nhóm lợi ích đó không chỉ xuất hiện trong thời đại hôm nay, nhưng nó đã hiện diện lâu đời, đó là điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nói tới: lợi ich nhóm trong cộng đoàn Giáo Hội, điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô nói đó là “tệ nạn xấu nhất đập vào Giáo Hội ngày nay”.
Được ông chủ mướn vào làm vườn nho, họ nghĩ rằng họ có đặc quyền được hưởng lương bổng theo ý họ, chứ không theo điều đã thoả thuận. Việc thoả thuận ban đầu chỉ là điều kiện để họ hình thành nhóm, và khi đã bước được vào vườn nho họ muốn thao túng, vì thế họ không chấp nhận việc ông chủ trả lương cho người đến sau bằng họ, và điều đó cũng có nghĩa, họ chỉ nghĩ đến lợi ích của họ và không muốn chia sẻ lợi ích cho ai. Họ đã giết chết khả năng tương giao với tha nhân, tâm hồn trở nên khô cứng để có thể nhận ra rằng, cuộc đời chỉ tràn đầy ý nghĩa khi cuộc sống biết xẻ chia, biết quan tâm đến người khác. Một lối sống ích kỷ như thể chỉ có thể đem đến cho họ sự cô đơn cùng cực. Bởi cuộc đời chỉ có niềm vui khi cuộc đời biết kiến tạo mối tương giao với tha nhân.
Quả thật, Giáo Hội cũng đang nhức nhối bởi những thái độ ích kỷ, thiếu cởi mở và xẻ chia của những người con của Giáo hội, những người con luôn tự hào về công trạng đóng góp của mình trong việc xây dựng Giáo hội, họ đang bóp nghẹt sức sống của Tin Mừng, một sức sống đến từ lòng bao dung độ lượng của Thiên Chúa. Trong chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Philippines vào trung tuần tháng 1-2015, một em bé đã hỏi Đức Thánh cha: Tại sao Chúa lại để xảy ra sự dữ như thế, và tại sao ít có ngừơi giúp chúng ta? Một câu hỏi đắng lòng, tại sao lại có quá nhiều người chịu khổ đau vì bất công trong một thế giới bước vào kỷ nguyên với nhiều thuận lợi và tiện ích cho con người? Thưa, bởi vì chủ nghĩa hưởng thụ, thực dụng đang khuynh đảo và làm xói mòn những giá trị nhân văn trong mối tương quan giữa người với người. Người ta chỉ còn quan tâm đến quyền lợi cá nhân và dần hình thành một lối sống vô cảm trước người khác. Sự vô cảm đó đang làm cho cuộc sống xã hội mất đi mối thâm giao và trái tim con ngừoi đang dần hoá đá. Nhà văn Helen Adams Keller đã nhận xét: “Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, đó là sự vô cảm của con người”.
Vì lợi ích của một nhóm, của một cá nhân, chúng ta đang đánh mất dần mối tương giao để nối vòng tay lớn. Khi chủ trương toàn cầu hoá người ta có tham vọng đưa con người lại gần với nhau, chia sẻ thiện ích cho nhau, thì điều ngược lại đã xảy ra thay vì mang đến cho nhau những cái hay tốt, thế giới lại ngập tràn một lối sống vô cảm và làm cho thế giới này đang khép dần các con đường dẫn tới sự gặp gỡ để xẻ chia, để yêu thương, và điều tệ hại nhất là con đường dẫn tới để gặp gỡ Thiên Chúa cũng bị bịt kín . Đó chính là nguyên nhân để sự dữ hoành hành khắp thế giới, và cuộc sống con người bất an.
Vâng, chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới có thể kiến tạo được sự bình an, bởi Ngài là Đấng giàu lòng từ bi và nhân ái, Ngài đã không để một ai đứng thất nghiệp ngoài đường. Ngài thấu hiểu nỗi lòng của những con người đang đới diện với nhiều âu lo. Kìa là người cha đang lo kiếm cơm gạo nuôi sống gia đình, kìa là ngừoi mẹ đang bươn chải để lo cho con có được cuộc sống ấm no, kìa những người khốn khổ đang lo âu cho cuộc sống… Tất cả đều được Chúa quan tâm, mỗi ngừoi đều được Chúa đói xử như nhau, kẻ làm từ giờ thứ ba tới giờ thứ 11, Người không tính sổ chúng đã làm bao nhiêu giờ, Ngài chỉ tính toán làm sao cho chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc. Thiên Chúa là thế đó, và vì thế chỉ có nơi Ngài chúng ta mới có thể tìm thấy được bình an. Một sự bình an được nẩy sinh từ tình yêu hướng tha, không quy ngã , một tình yêu biết chia sẻ, chứ không thu quén cho riêng mình. Và như thế sự bình an luôn được đâm chổi nẩy lộc trong mối tương giao đầy ắp tình người, từ con tim đến con tim.
Có câu chuyện kể rằng, ở một ngôi làng nọ có tục lệ khi một người trong làng tổ chức lễ cưới và người được mời khi đi dự tiệc cưới không cần mang gì hết ngoài một xị rượu, Tại cửa tiệc cưới người ta đặt sẵn một cái chum để khách dự tiệc cưới đổ rượu mà họ mang tới vào đó. Và khi tiệc cưới bắt đầu chum rượu được bưng vào, và khách dự tiệc sẽ uống rượu mà họ đã mang tới và đã được đổ chung vào với nhau. Thật tuyệt vời về sự chung chia niềm vui tiệc cưới. Nhưng thật kỳ lạ, khi mọi người cùng nếm rượu thì chẳng thấy mùi rượu đâu cả, mà chỉ toàn là nước lạnh. Điều gì đã xảy ra, thưa bởi vì khách được mời đều nghĩ rằng cả chum rượu thì một xị nước lã của mình thì ăn thua gì. Và thay vì mang rượu, họ đều mang nước lã, và kết quả là tiệc cưới không còn có niềm vui, không có nụ cười và chỉ còn là những tiếng hờn trách giận dỗi.Thật buồn, phải không anh chị em. Đó là hậu quả của thói ích kỷ, thiếu sự hiệp thông xẻ chia.
Lạy Chúa, chúng con khao khát có được cuộc sống bình an, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm sự bình an đó trong sự quan tâm đến tha nhân, biết sống quảng đại và bao dung, để không tị hiềm ganh tương. Vâng, lạy Chúa xin cho chúng con biết hành động như Chúa để chúng con biết kiếm tìm niềm vui trong sự xẻ chia. Amen.
----------------------------------
(Lc 18,19).
Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt lành vô cùng, Ngài đối xử khoan hồng với con người, không tính TN 25-A139
Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt lành vô cùng, Ngài đối xử khoan hồng với con người, không tính thiệt hơn cho mình như loài người thường làm. Vì yêu thương nhân loại, Ngài vui lòng trao ban cho loài người ngay cả người Con Một yêu dấu của mình. Loài người chỉ có thể đáp trả bằng tấm lòng biết ơn và vâng giữ lời Ngài dạy.
Trong cuộc sống hằng ngày, quan niệm "tiền trao cháo múc", "bánh ít đi bánh qui mới lại", công khó phải được đo lường là bình thường. Thiên Chúa thì khác, Ngài đối xử rất tốt với con người. Ngài luôn tỏ ra quãng đại, cho đi nhưng không, không chấp lỗi loài người một chỉ muốn loài người được những điều tốt đẹp nhất. Ngài muốn cho loài người điều quí giá nhất là sự sống đời này và đời sau, Ngài ghi nhận mọi việc làm tốt của chúng ta ở đời này để thưởng công cho. Tuy nhiên, Ngài rất nhân từ, một người vừa mới được Rửa tội, hoặc mới trở lại cũng được Chúa hứa ban cho nước Thiên Đàng vì thực ra Chúa ban phần thưởng thiên đàng vì lòng thương chứ không phải vì công trạng của chúng ta.
Chúa biết rõ lòng mỗi người chúng ta chứ không theo lẽ bề ngoài mà xét đoán. Thật ra, tôi giữ đạo bao nhiêu năm nay nhưng đức tin, cậy mến đã tiến triển bao nhiêu? Tôi thường tự hỏi mình: tôi có làm mọi việc vì yêu mến Chúa chưa hay chỉ cậy sức mình. Sau khi làm xong việc gì, tôi có nhận ra tất cả là nhờ ơn Chúa hay tôi lại qui mọi thành quả về mình. Khi tôi làm việc lành, Chúa có phải nói với tôi câu: con đã được thưởng công rồi! (Mt 6,2.5)
Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cộng tác vào công việc của Ngài: thăng tiến xã hội loài người, phát triển bản thân và chinh phục vũ trụ này. Chúa không cần chúng ta ca ngợi hay làm cho Chúa điều gì nhưng vì Chúa muốn con người càng ngày càng trở nên giống chúa hơn, xứng đáng hơn trong địa vị làm con Chúa và được ơn cứu độ.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào Giáo hội cũng vì thương chúng ta, không phải vì bản thân Ngài, cũng không phải công lao của chúng ta nhiều hay ít. Chúng ta không có quyền đòi Chúa phải cho mình nhiều hơn những người khác nhưng biết phục vụ và Chúa sẽ ban phần thưởng xứng đáng. Chúa rất nhân từ nhưng cũng rất công bằng, không để ai phải thiệt thòi. Ông chủ trong dụ ngôn đã làm đúng theo thoã thuận với những người làm công. Sở dĩ chủ trả cho người đến sau ngang bằng những người kia vì Chủ có lòng nhân hậu chứ không bỏ lời đã hứa với những người đến trước. Chúa muốn dạy chúng ta học biết lòng nhân từ của Chúa, đừng dùng suy đoán của loài người mà đánh giá công việc Chúa làm.Vấn đề không phải chúng ta làm trước hay sau nhưng là làm đúng lúc Chúa mời, khi chúa gọi chúng ta có đáp trả hay không?
Trong cuộc sống, chúng ta thường phải chịu đựng tật xấu của người khác nhưng đôi khi những ưu điểm hay những đặc ân và sự may mắn của những người khác cũng làm chúng ta khó chịu đến ghen tương. Chúng ta phải loại bỏ tật xấu này và rèn luyện tâm hồn mình trở nên nhân từ quãng đại theo gương Thiên Chúa của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quãng đại, tha thứ yêu thương, phục vụ theo gương Ngài, biết sống vui tươi với mọi người, không ganh tỵ, so đo nhưng biết cho đi bản thân vì lòng yêu mến Chúa.
----------------------------------
Ngày xưa, có hai người hàng xóm ghen ghét nhau. Người này ước mong người kia gặp hoạn nạn TN 25-A140
Ngày xưa, có hai người hàng xóm ghen ghét nhau. Người này ước mong người kia gặp hoạn nạn. Người kia ước mong người này chết. Vì thế, họ ăn không ngon, ngủ không yên khi ước mong xấu xa của họ chưa được toại nguyện.
Một hôm, hai người đang cãi vã, ẩu đã lẫn nhau, thình lình Quỷ Vương hiện ra và bảo rằng: “Ta cho chúng bay mỗi đứa một điều ước với điều kiện như sau: Điều ước ấy sẽ ứng cho mình và cùng lúc ứng gấp đôi cho người kia. Nhanh lên! Ta không có thì giờ để chờ đợi đâu”. Vì ganh ghét nhau, không ai muốn cho người khác hơn mình, cho nên người láng giềng thứ nhất ước: “Xin Quỷ Vương cho tôi đui một con mắt”. Thế là điều ước được thỏa mãn. Người này liền đui một con mắt. Và người kia đui cả hai con mắt. Người kia tức quá, liền ước trả đũa: “Xin Quỷ Vương cho tôi gãy một chân”. Lập tức anh ta gãy một chân. Và dĩ nhiên người láng giềng gãy luôn hai chân. Hậu quả: Người này bị đui một mắt và gãy hai chân. Người kia bị đui hai mắt và gãy một chân.
Trong xã hội chúng ta đang sống, nhiều người vẫn có cách cư xử tương tự như hai người trong câu chuyện trên đây: Thà chấp nhận mình “đui một mắt, gãy một chân” để người khác “đui hai mắt, gãy hai chân” chứ không muốn người khác hơn mình. Vì sao người ta lại cư xử với nhau như thế? Vì người ta ghen tị nhau. Người ta có thể ghen tị nhau đủ mọi phương diện: ghen tị vì thấy người khác giàu có hơn mình; ghen tị vì thấy người khác giỏi giang hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đẹp hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đạo đức hơn mình; ghen tị vì thấy người khác thành công hơn mình; ghen tị vì thấy người khác hát hay hơn mình; ghen tị vì thấy người khác được yêu mến hơn mình…Vì ghen tị nên sinh ra nói xấu, dèm pha, hạ bệ và thậm chí ẩu đã, chém giết lẫn nhau.
Chúng ta vẫn thấy điều này xảy ra trong Kinh Thánh: Khi Đức Chúa chấp nhận lễ vật của Abel mà không chấp nhận lễ vật của mình, vì lòng ghen tị, Cain đã giết chết Abel (x. St 4, 2-26); Khi dân chúng ca tụng “Đavít giết giặc được hàng vạn còn Saul chỉ giết được hàng ngàn”, vì lòng ghen tị, Saul tìm cách làm hại Đavít (x. 1 Sm 18, 6-9); Khi thấy dân chúng mến mộ, đi theo Đức Giêsu ngày càng đông, vì lòng ghen tị, những người lãnh đạo Do Thái tìm cách bắt bẻ, hạch sách, làm hại và cuối cùng đã giết chết Đức Giêsu.
Bài Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy, những người thợ làm vườn nho đến trước vì ghen tị nên không chấp nhận ông chủ trả công cho người đến sau cũng một đồng lương như mình: “Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,11-12). Hơn thế nữa, khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu còn nhắm tới việc dân Do Thái ghen tị cả về ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho dân ngoại. Thật vậy, người Do thái quan niệm rằng: Họ là dân riêng của Chúa, là con cái Abraham, là những người trung thành với lề luật của Môsê, được thể hiện ở giáo ước Sinai giữa Israel với Giavê. Vì thế, chỉ có họ mới xứng đáng được lãnh nhận ơn cứu độ, còn dân ngoại là dân đáng bị hủy diệt, không xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ. Đức Giêsu đã phá quan niệm sai lầm của người Do Thái và sửa trị thói ghen tị của họ bằng cách cho họ thấy lòng bác ái cao cả của Thiên Chúa thể hiện nơi ông chủ vườn nho: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 15). Thật vậy, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho dân Do Thái. Đồng thời, Ngài cũng ban ơn cứu độ cho dân ngoại. Nước Trời không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn cho cả dân ngoại. Vào Nước Trời không phải do bởi tiền lương hay do một đặc ân nhưng là do tình thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, vào Nước Trời là ơn ban nhưng không của Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta mới hiểu câu nói của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: Tư tưởng của Thiên Chúa khác xa với tư tưởng của con người (x. Is 55,8). Thật vậy, cách cư xử của con người chỉ ở mức công bằng: Người làm ít sẽ lãnh lương ít, người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều. Còn cách cư xử của Thiên Chúa thì vượt xa sự công bằng. Đó là tình thương và lòng quảng đại. Vì thế, Ngài đã trả cho người đến sau hết nhiều hơn so với lương anh ta được hưởng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mời gọi chúng ta thực hiện những điều sau đây:
Thứ nhất, phải loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta. Bởi vì, ghen thường đi liền với ghét. Ghét thường đi liền với nói xấu, dèm pha, làm hại nhau. Người ghen tị thường sống trong sự bất an, khó chịu, buồn phiền vì thấy người khác hạnh phúc, thành công hơn mình. Cho nên, ghen tị không những gây ra hậu quả vô cùng tai hại cho đối phương mà còn cho cả chính bản thân mình nữa. Nhà văn Balzac từng nói: “Người có tính ghen tị đau khổ hơn bất cứ một người bất hạnh nào, bởi hạnh phúc của người khác cộng với sự bất hạnh của mình làm cho ta đau khổ gấp nhiều lần”. Thánh Cyprian nói: “Những tội khác thì còn có giới hạn, còn tội ghen tị thì không!”. Vì vậy, hãy loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta.
Thứ hai, hãy tập sống khiêm nhường vì trước mặt Chúa chúng ta là thụ tạo bất toàn. Hãy vượt lên trên sự công bằng để sống yêu thương, quảng đại với mọi người vì những gì chúng ta có đều do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Hãy vui khi thấy người khác gặp may mắn, thành công. Hãy vui khi có nhiều người tội lỗi trở về với Chúa, nhiều người ngoại đạo gia nhập Giáo hội…Hãy chia sẻ sự rủi ro, hoạn nạn, đau khổ của những người xung quanh. Thánh Phaolô dạy: “Hãy vui với người vui, hãy khóc với người khóc” (Rm 12,15).
Thứ ba, hãy làm việc vì lòng mến Chúa chứ không phải để tính toán với Ngài. Chúa không muốn chúng ta là kẻ làm thuê để Ngài trả tiền lương. Chúa không muốn chúng ta tính toán với Ngài về số lượng công việc chúng ta làm nhưng Ngài muốn chúng ta sống với Ngài giống như người con hiếu thảo đối với cha mẹ mình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống, xin cho chúng con biết đối xử với nhau bằng tình yêu thương và lòng quảng đại như Chúa. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 20, 1-16:
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn TN 25-A141
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài...
***
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới: “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu…“Anh cũng đi vào vườn nho”…Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” (số 1-2).
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông...”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật.
Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày.
Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều:
- 3 giờ là 9 giờ sáng
- 6 giờ là 12 giờ trưa
- 9 giờ là 3 giờ chiều
- 11 giờ là 5 giờ chiều
1. Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. "Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn". Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam 17-18).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
2. Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức?
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
3. Sứ điệp
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận "giữ đạo" để được "lên thiên đàng". Nhưng người ta cũng có thể "sống đạo" chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành "nô lệ", thành "kẻ làm công". Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
-------------------------------
Thiên Chúa nhân hậu với mọi người
1. Giá bốn căn hộ bằng nhau
Một dãy phố nọ có bốn căn hộ. Căn một trị giá 40 ngàn đô, căn hai 30 ngàn đô, căn ba 20 ngàn đô TN 25-A142
Một dãy phố nọ có bốn căn hộ. Căn một trị giá 40 ngàn đô, căn hai 30 ngàn đô, căn ba 20 ngàn đô và căn tư 10 ngàn. Bạn là chủ căn một. Một hôm có người gọi đến xin mua căn hộ của bạn là 50 ngàn đô. Thế là bạn vui mừng và đồng ý bán ngay, vì thực giá căn hộ của bạn chỉ có 40 ngàn đô thôi. Nhưng hôm sau, bạn nghe tin người mua căn hộ của bạn cũng mua hết ba căn hộ kia, và mỗi căn cũng với giá 50 ngàn đô. Thật là một tin sét đánh! Bạn giận dữ, gọi điện kêu trách người mua. Ông ta trả lời:
- Tôi đâu có đối xử bất công với bạn, bạn đã thỏa thuận với tôi với giá 50 ngàn đô. Hay là bạn ganh tị vì tôi rộng lượng đối với ba người kia.
Câu chuyện trên đây minh họa câu chuyện của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay.
Thời Chúa Giêsu, những người được thuê mướn vào làm vườn nho chỉ những kẻ tội lỗi. Họ nghe lời Chúa kêu gọi mới ăn năn thống hối trở lại với Chúa. Còn đám thợ được thuê từ sáng sớm là những người Biệt Phái. Họ giận dữ ganh tức vì thấy những kẻ tội lỗi mới ăn năn trở lại mà cũng được vào nước Chúa, được thưởng như họ.
Tại sao những người được thuê làm vườn nho từ sáng sớm ganh tức với đám thợ được thuê muộn?
Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?... Hay là vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức". (Mt. 20, 13-15).
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với kẻ khác, mà hãy chấp nhận hiện trạng của chúng ta, theo lời khuyên của Thánh Phaolô: "Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình, và bây giờ sẽ có lý do hãnh diện vì chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác... Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời" (Gl. 6, 4.7-8)
Điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những gì người khác nghĩ về chúng ta hoặc chúng ta nghĩ gì về người khác, mà là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta. (Theo "Sunday homilies").
2. Những cử chỉ lạ thường
"Hãy thực thi sự tử tế một cách gàn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa".
Đây là một khẩu hiệu đã được rất nhiều người ở khắp nước Mỹ hiện nay.
Một buổi sáng mùa đông nọ, trên chiếc xe chất đầy quà giáng sinh, một người đàn bà đã làm cử chỉ lạ thường. Khi dừng xe lại để đóng thuế cầu bắc qua vịnh San Francisco, bà đưa tiền thuế và nói:
- Tôi đóng thuế cho xe tôi và 6 chiếc xe sau tôi.
Bà hành động cách khác thường như thế vì đã đọc trên tủ lạnh của người bạn.
"Hãy thực thi sự tử tế một cách gàn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa".
Tại New Jersey, ngày nọ người ta thấy 12 người dọn dẹp sân cỏ của những người già. Tại Chicago, có cậu thiếu niên cào tuyết cho chỗ đậu xe của người hàng xóm...
Và không biết bao nhiêu những hành động tử tế như thế được thực thi cách gàn dở và những cử chỉ được làm cách vô nghĩa như thế.
Trong Kinh Thánh có rất nhiều hành động hết sức bất thường như thế, như Con Thiên Chúa vô cùng cao cả sinh ra nghèo hèn, chết nhục nhã trên khổ giá. Bất thường quái lạ đến nỗi người Do Thái cho là điên rồ, người Hy Lạp gọi là yếu đuối. Thánh Phaolô cũng gàn dở không kém khi ông tuyên bố: "Vinh dự của tôi là chính thập giá Đức Kitô". Nhưng với Thiên Chúa, đó chính là kẻ khôn ngoan và sức mạnh, là tình yêu và trao ban vô vị lợ, quảng đại, khoan dung như trong Tin Mừng hôm nay, những người làm vườn nho giờ chót cũng được lãnh lương bằng những kẻ vào làm từ sáng sớm "Phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt" (Mt. 20. 12).
Nhưng đó chính là hành động của Thiên Chúa: Trao ban mà không tính toán, cho không cần cho lại, hành động mà không kể gì khen chê, không chỉ yêu thương bạn hữu mà cả kẻ thù. Đó chính là cách hành xử của Chúa khi nhập thể cứu chuộc nhân loại. Và người Kitô hữu cũng được mời gọi hành xử theo cung cách và lối suy nghĩ đó của Chúa, là vượt lên cái bình thường, bước vào cõi sống siêu nhiên, cõi sống của những người con sống nhân từ quảng đại như Cha trên trời. (Theo "Tin vui mùa đông").
3. Thiên Chúa công bình
Một hôm Thiên Chúa đi vào thiên đàng. Ngài ngạc nhiên thấy tất cả những người chết đều được vào đó cả, không ai bị sa hỏa ngục. Ngài suy nghĩ phải chăng Ngài không phải là Đấng công bình vô cùng. Ngài gọi sứ thần Gáp-rien đến và bảo:
- Con hãy tập trung mọi người đến trước mặt Ta. Đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.
Sứ thần đọc giới răn thứ nhất và Chúa phán bảo:
- Những kẻ nào phạm giới răn thứ nhất đó, hãy xéo khỏi mặt Ta, đi vào hỏa ngục ngay.
Một số người từ từ rời khỏi đám đông và buồn bã khóc lóc đi vào hỏa ngục. Và sứ thần đọc tiếp các giới răn khác, cứ sau mỗi giới răn đều có số người rời khỏi đám đông và than khóc đi xuống hỏa ngục. Sau cùng chỉ còn lại có một người, người đó là một ẩn sĩ già.
Thấy vậy, Thiên Chúa hỏi sứ thần:
- Chỉ có một người này được vào Thiên Đàng hay sao?
Nói xong, Ngài bảo sứ thần gọi đám đông lại và cho họ trở vào thiên đàng. Thấy đám đông tội lỗi xấu xa thế mà Chúa lại tha thứ cho trở lại thiên đàng, vị ẩn sĩ tức giận nói với Chúa:
- Chúa không phải là Đấng công bình!...
Thiên đàng chính là ngôi nhà của tha thứ, của quảng đại khoan dung. Tha thứ khoan dung của Thiên Chúa dành cho con người và tha thứ bao dung của con người dành cho nhau.
Thiên Chúa đã ví thiên đàng như một bữa tiệc, trong đó từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, địa vị, giàu nghèo, nhất là không phân biệt bạn thù đều đồng bàn với nhau. Thiên đàng ấy không chỉ ở đời sau mà bắt đầu ngay tại đời này. Mỗi khi con người biết tha thứ nhân hậu với nhau, mỗi khi họ chấp nhận đồng hành với nhau, sống khoan dung rộng lượng với nhau là lúc thiên đàng được rộng mở...
Chúa Giêsu đã mở cửa thiên đàng đó cho những người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay. Những người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà Chúa cũng cho họ vào thiên đàng như những kẻ đã làm việc nặng nhọc cả ngày. Như thế làm sao khỏi bị ganh tức.
Nhưng Chúa Giêsu còn mở cửa thiên đàng khi Người đồng bàn với những người thu thuế, những người tội lỗi, những người bị xã hội loại bỏ, và nhất là khi Người tha thứ cho những kẻ đã giết treo Người trên thập giá. Vì ngôn sứ Isaia đã xác quyết: "Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu" (Is. 55,9) (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày, tập III).
4. Bất hạnh vì ganh tỵ
Traund là một kiến trúc sư nổi tiếng và rất thành công trong sự nghiệp. Anh có vợ là Êlisabét và hai đứa con ngoan. Gia đình sống rất đầm ấm hạnh phúc. Và công việc làm ăn của anh ngày càng phát triển đến nỗi một mình làm không hết , phải hợp tác với Đavít mới đáp ứng hết nhu cầu của khách hàng.
Lúc đầu mọi việc êm xuôi tốt đẹp. Tình bạn đôi bên cùng sâu đậm. Nhưng sau một thời gian, Traund nhận thấy khách hàng quý chuộng Đavít hơn, nhờ anh đứng thầu nhiều dự án xây cất hơn. Thế là Traund nổi ghen lên, kiếm chuyện xích mích với bạn mãi, làm cho mối quan hệ giữa hai người ngày càng căng thẳng, lôi kéo luôn số nhân viên chia rẽ kình địch nhau.
Nhưng tai hại hơn cả là tình cảnh gia đình Traund. Mỗi khi đi làm về, anh cáu gắt với vợ con. Đời sống gia đình trở nên địa ngục sầu thảm. Rồi bàn tay phải của anh bắt đầu bị sưng khớp đau nhức, bắt buộc anh phải bỏ công việc, vào bệnh viện chữa trị. Khi xuất viện về nhà, anh như con sư tử bị giam trong củi.
Buồn khổ quá, vợ anh gọi điện thoại đến Cha Micae Pacli là một linh mục chuyên chữa bệnh tâm linh. Cha tới gặp anh, khuyên anh bỏ lòng ghen tuông, làm hòa với Đavít, để mọi việc được trở lại tốt đẹp an vui. Anh không đồng ý mà còn giận dữ. Nhưng sau một lúc cầu nguyện chung với anh, cha Micae đã khuyên bảo được anh viết thư xin lỗi Đavít.
Và lạ thay, từ đó ghen tuông của anh tan biến, tay anh không còn bị sưng khớp nữa. Gia đình anh trở lại êm ấm hạnh phúc, công việc làm ăn trở nên niềm vui cho anh như trước.
Ganh tỵ là mãnh lực có sức tàn phá lớn lao, nó phá hủy khả năng yêu thương. Chính sự ghen tuông đã thúc đẩy các Biệt Phái sát hại Chúa Giêsu, họ coi Ngài là kẻ thù không đội trời chung với họ.
Trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính vì ganh ghét mà nhóm người làm vườn nho từ sáng sớm phê bình chỉ trích ông chủ bất công, khi ông chủ trả lương họ bằng những người chỉ vào làm lúc năm giờ, vì họ thấy ông chủ "tốt bụng với những người này mà họ đâm ra ganh tức".
Qua câu chuyện của kiến trúc sư Traund và dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta là tín hữu của Người sống quảng đại như Người, luôn yêu thương tha thứ cho nhau. Tình thương phá tan ganh tức. Nhất là khi chúng ta quảng đại yêu thương tha thứ thì chúng ta được sống an bình hạnh phúc. (Theo "Thiên đàng là thế đó).
5. Lòng quảng đại chân chính
Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan cùng leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài bảo mỗi ông hãy mang theo một hòn đá. Ông Phêrô nhặt một hòn đá nhỏ bỏ túi, còn ông Gioan vác cả một tảng đá to. Do đường xa vác nặng, ông Gioan thở hổn hển và đến nơi sau hết. Còn ông Phêrô bước đi nhẹ nhàng thảnh thơi nên đến nơi trước. Chúa Giêsu cho hai ông ngồi xuống, rồi đọc lời chúc tụng, biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên chiếc bánh của ông Phê rô nhỏ bé, không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào của ông. Còn ông Gioan thì ăn no nê dư dật.
Lần khác, Chúa gọi hai ông leo lên núi với Ngài nữa. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang theo một tảng đá to, phải cố gắng hết sức mới vác nổi lên núi. Đến nơi, Chúa Giêsu bảo hai ông ngồi xuống. Ông Phêrô trông đợi Chúa làm phép lạ nhưng Chúa bảo các ông ngồi lên tảng đá mà các ông đã vác theo. Phêrô cảm thấy xấu hổ trách Chúa, nhưng Chúa bảo:
- Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại tính toán.
Chúng ta thường nói: "Có qua có lại mới toại lòng nhau". Chúng ta cho là để được cho lại, chúng ta làm ơn là để được trả ơn. Chúng ta lập công là để được thưởng công. Chúng ta làm việc là để được lãnh lương như các người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay.
Óc vụ lợi chi phối tất cả mọi quan hệ của chúng ta với tha nhân cũng như đối với Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn những người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đảo lộn quan niệm thông thường của chúng ta. Qua toàn bộ cuộc sống và cái chết của Ngài, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa quảng đại đến độ trao ban cách nhưng không cho chúng ta Con Một của Ngài. Qua cách cư xử của Ngài, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta, Ngài yêu thương mà không mong đền đáp nào của chúng ta.
Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại tính toán. Tình yêu đích thực là trao ban cách nhưng không.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời, sống quảng đại, sống san sẻ, sống yêu thương cho đến cùng, như chính Ngài đã chết trao trên khổ giá. Tình yêu ấy mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Người, tình yêu ấy mời gọi chúng ta thanh luyện tình yêu ích kỷ, vụ lợi của chúng ta.
(Theo "Chờ đợi Chúa").
-------------------------------
Có lần Cha Nguyễn Tầm Thường gặp tôi. Chúng tôi tâm sự về cuộc đời: Tất cả xem ra qua TN 25-A143
Có lần Cha Nguyễn Tầm Thường gặp tôi. Chúng tôi tâm sự về cuộc đời: Tất cả xem ra qua đi mau quá! Mới vào tiểu chủng viện ngày nào ở Châu Đốc, ngài nói, mà giờ đây đời tụi mình đã bắt đầu đếm từng ngày. Chúng tôi cười thoải mái. Tôi trả lời: Mình đã bắt đầu đếm từng ngày khi ở tù Cộng Sản rồi, vì trong tù hôm nay còn sống sót thì biết có hôm nay, ngày mai rao sao chỉ là bóng tối thấp thoáng của tử thần. Mình đã đếm và vẫn tiếp tục đếm từng ngày..., và sẽ đếm cho tới ngày sau cùng cuộc đời xem có xứng đáng lãnh được một đồng công như Chúa Giêsu phán trong dụ ngôn đón thợ vào làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay không!
Có lẽ ít người muốn đếm từng ngày đời mình, vì vừa mất giờ, nhưng có thể vừa bi quan vì thấy đời lúc nào cũng trôi nhanh như giấc mơ qua mau, để rồi in trên đời niềm sầu tủi yếm thế phí lý. Tôi thiết nghĩ nếu có đủ can đảm đếm từng ngày đời mình, qủa thực là một cái thú hết sức kỳ diệu, bởi từng ngày từng ngày qua trong đời luôn ẩn hiện những kỳ diệu của bàn tay an bài Thượng Đế. Càng đếm càng thấy con đường đi đời mình chẳng giống ai, chỉ riêng cho mình trong tương quan quan phòng của Thiên Chúa. Như thế, ngay cả những khổ đau nhất mà đời cho là xui, lại trở thành ân huệ quí giá Thiên Chúa ban tặng. Chẳng hạn bạn thử ngồi đếm lại từng ngày đời mình lúc vượt biên và ở trại tỵ nạn. Ai cũng cho là khổ, nhưng giờ đây có muốn sống lại dù chỉ một ngày như thế cũng chẳng còn, vì cái khổ lúc đó đã dệt nên những niềm vui khôn tả cho đời mình hôm nay ở đất nước thứ ba này. Biết bao người đã thành công giàu có, hoặc đã ung dung nhìn đàn con đang hạnh phúc trong những ước mơ đã thành sự thật...
Như thế đếm đời mình từng ngày trước hết là để ca tụng tình thương vô biên của Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng trả công bội hậu cho chúng ta như cái giá Ngài đã mặc cả để cứu chuộc nhân loại. Nếu tôi được Chúa trả một đồng công cứu độ thì đã hạnh phúc lắm rồi, vì tôi chắc chắn sẽ được Chúa rước vào Nhà hạnh phúc bất diệt của Ngài. Điều quan trọng là tôi có dám nhận làm trong vườn nho của Chúa không, cho dù tôi đã thất nghiệp lang thang cả nửa đời, hoặc ba phần tư, hoặc ngay cả lúc chỉ còn vài phút cuối ngày cuộc đời. Chúng ta hãy bắt đầu đếm đời mình đi, chắc chắn sẽ nhận ra tình thương kỳ diệu và vô biên của Chúa. Nhờ tình thương ấy, mình sẽ không còn ganh tỵ với tha nhân, dù họ bắt đầu làm vườn nho Chúa từ lúc nào không biết, nhưng tất cả sẽ ca ngợi đồng công tình thương và ơn cứu độ của Chúa vào hạnh phúc cuối ngày. Nào: Một, hai, ba: Đếm!
LÀ CÔNG BẰNG HAY LÒNG NHÂN LÀNH!
Chúng ta chẳng hề biết thật rõ về cách ông chủ cư xử với những người làm công trong vườn nho của ông, nếu chỉ nhìn dưới khía cạnh công bằng được tính theo thời gian làm việc từ ba, sáu, chín, mười một giờ, nghĩa là bắt từ sáng sớm, từ sáu giờ, vv... mà tiền lương vẫn được lãnh như nhau! Thế nên họ mới thắc mắc, và chắc chắn đã không được thỏa mãn với câu trả lời của ông chủ. Với họ, xem ra ông chủ luôn luôn thiên tư, cho dù ông có giàu có, nhân từ và quảng đại.
Đến lượt chúng ta khi đọc và nghiệm lại cuộc sống của mình, cũng sẽ thắc mắc thật nhiều về cách thức Thiên Chúa đối xử xem ra không công bằng với con người, bởi vì có quá nhiều người giàu có, nhiều tài năng, nhiều may mắn; có quá nhiều quốc gia thịnh vượng xung túc, tràn đầy quyền lực, trong khi biết bao người và rất nhiều nước đang sống trong lầm than cơ cực nghèo khó, bị thống trị, vv… Bức tranh cuộc đời mình còn thê thảm hơn khi chính mình trực tiếp hỏi Chúa tại sao mình đã nhiệt tình làm việc và dùng hết thì giờ vào các cố gắng xây dựng đời sống gia đình, xã hội, vv… mà vẫn không khá hơn; ngược lại luôn gặp những rủi ro, đàn áp, bỏ vạ cáo gian, vẫn thua kém hơn những người xem ra lười biếng, nhiều chuyện và ngay cả gian ác! Sự công bằng như không hề có ở đời này. Lạy Chúa, tại sao vậy?
Đây là những trả lời chính xác của Chúa Giêsu: Vườn nho là của Chúa. Thời gian là của Chúa. Sự sống con người có là quà tặng, cho dù tính theo thời gian dài hay ngắn, nó vẫn luôn là qùa tặng quí giá nhất. Sự hiện hữu và cách thức hiện hữu dài hay ngắn theo ý Chúa đều trọn vẹn trước mặt Chúa, nên mới có canh ba, canh sáu hoặc chín... Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nhìn sự hiện hữu này như những chiếc ly chứa đầy nước ở trên trời. Ly nào cũng tràn đầy cả, không thể đổ thêm dù chỉ một giọt.
Người ta quan niệm công bằng dựa trên tiền công theo giờ lao động. Nói cách khác, càng được nhiều của cải vật chất, tài năng, danh vọng ở đời này thì càng công bằng hơn. Còn Chúa Giêsu bảo sự công bằng ấy đã được định đoạt bằng giao kèo trước khi vào vườn nho làm việc. Ai cũng được trả bằng nhau. Nên cuối ngày cuộc đời, chẳng ai có quyền đòi được trả, nghĩa là chẳng ai tự mình được định đoạt cuộc sống bằng các giá trị vật chất, nhưng là sự mặc cả giá trị thiện chí làm việc đúng với thời gian mình có như ý ông Chủ muốn. Dĩ nhiên dụ ngôn không nói rõ từng người làm công được phân định làm việc gì và làm việc thế nào, nhưng chắc chắn mỗi người tuỳ theo tài năng và sức lực của mình mà ông chủ thuê vào từng thời điểm khác nhau trong ngày, để chu toàn những việc ngổn ngang trong vườn nho của ông. Sự công bằng này xác định rõ hơn điều mà Chúa Giêsu trả lời cho người làm công thắc mắc: Hãy cầm lấy tiền của bạn mà đi, tôi không làm bạn thiệt hại đâu. Hay mắt bạn ganh tị vì tôi nhân lành chăng?
Đến đây chúng ta khám phá ra ánh sáng cho sự công bằng, tức sự nhân lành của ông Chủ, Thiên Chúa vườn nho vũ trụ và vườn nho cuộc đời chính là thước đo công bằng tuyệt đối. Chính nhờ sự nhân lành của Thiên Chúa mà vũ trụ và muôn loài hiện hữu, trong đó có đời sống từng người chúng ta. Cách thức hiện hữu của vũ trụ và con người nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Riêng với con người thì Ngài ban cho tự do để điều khiển và đáp lại tiếng gọi hiện hữu trong vườn nho của Ngài. Cuối ngày cuộc đời, một đồng công được trả cho chúng ta bằng sự nhân lành của Chúa, bởi vì chúng ta tự sức riêng không thể vượt qua giới hạn của sự chết để vào miền đất sống vĩnh cửu vườn nho Thiên Chúa. Vì thế tốt nhất hãy biến sự ganh tỵ hôm nay thành lòng nhiệt thành làm việc theo thánh ý Chúa. Người ta sẽ mãi mãi không thể giải đáp được bí mật sau khi chết và cách thức trả một đồng công của Thiên Chúa, bao lâu vẫn còn trên hành trình đức tin trong vườn nho của Thiên Chúa hôm nay.
Chúng ta hãy học bài ca tạ ơn của muôn tạo vật khi bình mình thức giấc, ca ngợi hồng ân diệu kỳ mà Thiên Chúa tặng ban cho mình, để mỗi ngày sống sẽ nối tiếp trong niềm vui nhờ lòng nhân lành bao la và vô cùng quảng đại của Thiên Chúa. Và mỗi người sẽ cảm nghiệm sự công bằng của Thiên Chúa chính là lòng nhân lành của Ngài bao phủ qua mọi biến cố cuộc đời: lúc nhàn rỗi canh ba; lúc thất vọng, lúc thất nghiệp, lúc cô đơn canh sáu; lúc đau khổ, lúc đối diện với bóng tối, lúc chơi vơi giữa giòng đời canh chín; hay lúc hầu như rã rời muốn rời xa sự hiện hữu vào giờ mười một;... và nhất là lúc vui mừng lãnh đồng công sau cùng cuộc đời do Thiên Chúa trao tặng trong vườn nho vĩnh cửu của Ngài. Xin tạ ơn và tạ ơn muôn đời lòng nhân lành của Thiên Chúa, Đấng có tên là Tình Yêu muôn thuở.
-------------------------------
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Tin Mừng Mt 20, 1-16:
Bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả TN 25-A144
Bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm...
***
Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Dothái. Có chăng thì ở khu vực Cam Ranh Nha Trang, nhưng cũng không nhiều. Còn đại đa số là những cánh đồng lúa; hoặc những khu rừng cao su, tiêu, cà phê hay điều... Vì thế, hình ảnh vườn nho có vẻ hơi xa lạ trong tâm thức đối với đại đa số người dân Việt.
Nhưng dù biết hay không thì cách thức chi trả lương cho những người làm thuê cũng có nhiều điểm tương đồng với những người làm công trong vườn nho của người Dothái.
Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm. Vì thế, dù chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, kinh nghiệm hay mới vào nghề, và tham gia làm vườn giờ nào...! Nhưng chiều đến, khi lĩnh lương, tất cả họ đều giống nhau. Tại sao vậy? Ông chủ có bất công không?
Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân tại sao? Và Đức Giêsu có lý gì khi kể dụ ngôn này?
Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho?
Trước tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của vườn nho mà Đức Giêsu muốn nói tới ở đây.
Vườn nho được Đức Giêsu kể trong dụ ngôn chính là hình ảnh của Giáo Hội. Vườn nho ấy đến mùa thu hoạch, chính là sứ mạng truyền giáo đang cấp bách, điều này được bổ túc thêm khi Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”.
Thứ đến, người mời gọi là chính Thiên Chúa. Người gọi hết mọi người, không phân biệt tốt xấu, giỏi hay dốt, thành phần nào, già hay trẻ... Nhưng Người gọi bất cứ ai Người muốn! Cách thức này Đức Giêsu muốn thay đổi quan niệm nơi người Dothái, họ chỉ coi là mình họ được cứu độ, còn những dân tộc khác thì không, họ tỏ ra khinh bỉ hay ghen tức với cách hành xử của Đức Giêsu với những người không thuộc Dothái, vì thế, Đức Giêsu mới nói: "Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?"; “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Thật vậy, Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém.
Tiếp theo, cách thức trả lương. Người không trả lương theo kết quả công việc. Cũng không trả lương theo kiểu làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Mà Người trả lương cách đồng đều theo sự thỏa thuận lúc ban đầu. Tức là một đồng cho tất cả mọi người. Người đến sớm cũng kẻ đến muộn, người giỏi cũng như dốt, người già cũng như trẻ... Cách thức này cho thấy lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Thiên Chúa dành cho hết mọi người chứ không phải chỉ dành cho một số người đặc tuyển. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.
Hiểu và thực hành sứ điệp Lời Chúa
Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội và đều có trách nhiệm tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Thật vậy, tính phổ quát của của ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho chúng ta người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước, không trừ ai. Đồng thời, Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu. Vì thế:
Trước tiên, cần loại bỏ thái độ tự tôn, kiêu hãnh và coi thường người khác vì nghĩ rằng mình thuộc thành phần đương nhiên được cứu độ, còn người khác, họ chỉ là đám dân thường, tội lỗi, dốt nát, nên không cần quan tâm. Cũng cần có sự cảm thông, cộng tác để cùng nhau làm việc thiện thay vì ganh đua, ghen tỵ khi thấy người khác tốt lành hơn mình, hoặc người ta làm được nhiều điều hữu ích hơn chúng ta.
Tốt hơn là hãy ý thức mình chỉ là đầy tớ bất tài, vô dụng, nhưng lại được Chúa thương chọn và gọi để đi làm vườn nho cho Người. Vì thế, hãy dâng lời tạ ơn Chúa và cố gắng với khả năng của mình, làm sinh lợi nén bạc Chúa trao trong sự yêu mến với lòng nhiệt huyết tông đồ.
Thứ đến, hãy kiên trung, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng thất vọng vì thấy mình không giỏi giang hay tội lỗi. Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa luôn để ý đến những người “đứng chót”. Phần còn lại là của chúng ta, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa trong sự khiêm tốn, ắt Chúa sẽ trả công hậu hĩnh và Người sẽ làm những điều kỳ diệu khi: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.
Hiểu được tình thương của Thiên Chúa như thế, hẳn chúng ta thấy Thiên Chúa rất công bằng do lòng nhân từ của Người chứ không phải bất công như những người Dothái và ngay cả chúng ta đã lầm tưởng!
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn và yêu mến Chúa tha thiết. Biết gắn bó với sứ mạng truyền giáo trong Giáo Hội. Luôn tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với bổn phận của mình. Amen.
-------------------------------
Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà chú giải TN 25-A145
Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.
Câu truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống quảng đại với mọi người.
-------------------------------
Thời nào cũng có: “Kẻ ăn không hết người lần chẳng ra”. Có nhiều người chạy đến với Thiên Chúa TN 25-A146
Thời nào cũng có: “Kẻ ăn không hết người lần chẳng ra”. Có nhiều người chạy đến với Thiên Chúa để được chúc phúc trong công việc làm ăn, nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo. Nhiều người chẳng tin vào Thiên Chúa, họ vẫn được giàu sang. Trong thực tế đó, chúng ta có lý khi “chất vấn” Thiên Chúa rằng: Liệu Ngài có công bằng?
Nếu mở Tin Mừng[1] Chúa Nhật 25 hôm nay, chúng ta cũng dễ dàng “trách Chúa”. Số là ông chủ (Thiên Chúa) mướn người vào làm Vườn Nho. Sáng sớm, nhiều người đã vào. Buổi trưa, ông chủ tiếp tục nhận công nhân. Thậm chí gần hết giờ làm, ông chủ vẫn chấp nhận người ta vào làm công. Mâu thuẫn đã xảy ra. Ông chủ trả công từ người vào sau hết với mức lương như những người trước hết. Đó là nghịch lý mà chỉ có nơi ông chủ lạ lùng này!
Dĩ nhiên Thánh sử Mátthêu không ghi lại chuyện làm ăn kinh tế, cách trả lương. Trái lại, chúng ta hãy nhìn câu chuyện Tin Mừng này dưới khía cạnh trong sứ mạng của Đức Giêsu. Ngài đến trần gian để kêu gọi hết mọi người. Lịch sử cứu độ ghi nhận số người được chọn trước hết là dân tộc Israel. Đó là dân được Thiên Chúa ưu ái cho hưởng nhiều ân huệ. Tiếc là có nhiều người không trân quý hồng ân ấy. Cao trào là giới lãnh đạo tìm cách giết “người con của ông chủ”, là Đức Giêsu. Phải chăng họ là những người đang càm ràm với ông chủ trong câu chuyện này. Họ không biết rằng Tin Mừng cứu độ, lời gọi của Thiên Chúa lúc này cũng dành cho hết thảy mọi người.
Khi vào làm trong Vườn Nho của Chúa, chúng ta thuộc về thành phần của Giáo Hội. Đó là Giáo Hội công giáo. Điều này có nghĩa là tất cả mọi người đều được kêu gọi trở thành dân Chúa và Hội Thánh là phương tiện cứu rỗi cần thiết mà Chúa Giêsu đã thiết lập. Những ai muốn được dự phần vào sự sống đời đời cần phải thuộc về Hội Thánh qua những cách thế khác nhau. (x. LG 14–16). Thật may mắn là Thiên Chúa luôn sẵn lòng kêu gọi hết mọi người trở nên con Chúa. Kẻ trước người sau đều nhận được sự ưu ái này.
Khi đó chúng ta có một Người Cha tốt lành, và chúng ta là anh em với nhau. Dù nên con Chúa sớm hay muộn, mỗi người đều xứng đáng hưởng những phần thưởng Chúa trao. Chỉ những ai yêu mến đủ, họ mới vui với người vui, khóc với người khóc (Rm 12,15). Nếu những người vào làm trước chúc mừng cho những người vào làm sau, trong bối cảnh này, thì thật đẹp biết mấy. Bởi vậy, người con của Chúa hạnh phúc khi thấy ai đó gia nhập vào Giáo Hội. Ước sao chúng ta cùng nhau đón nhận những gì Thiên Chúa ban cho.
Ai cũng nhận được “một quan tiền”. Đó là ân sủng của Thiên Chúa luôn đổ xuống trên con người. Ai cũng nhận như nhau. Bạn nghĩ sao khi chúng ta so sánh ơn Chúa lớn hoặc nhỏ. Mọi ơn lành của Chúa đều như nhau! Đừng quên Ngài biết điều gì tốt cho từng người. Trong ý hướng này, có nhà thần học ví von rằng: “Công bằng mà không thương xót là không yêu thương, thương xót mà không công bằng là giảm giá cả hai.” (Friedrich Von Bodelschwingh). Trong hoàn cảnh này, tôi và bạn nhận được ân huệ của Chúa như thế là tốt nhất. Trong hoàn cảnh khác, Chúa lại ban cho chúng ta sự trợ giúp cần thiết. Ân huệ để nói lên rằng Thiên Chúa luôn công bằng và Ngài “biết” cách để cứu độ con người. Thật đúng như lời Thánh Phaolô chia sẻ với chúng ta: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” (1 Tx 5,18).
Thật lãng phí thời gian nếu ngồi so bì người này may mắn, người kia được yêu mến hơn. Thiên Chúa muốn mỗi người sống như chính mình. Hãy nên thánh theo phong cách của mình. Chúa chọn gọi bạn và tôi vào làm vườn nho của Chúa là một may mắn. Chúa càng vui hơn khi chúng ta có những cách nên thánh, cách riêng để chăm bón cho Vườn Nho của Chúa. Bạn nghĩ sao khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắn với người trẻ:
“Các con phải khám phá ra các con là ai và phát triển cách sống riêng của mình để nên thánh, bất chấp người khác nói gì hay nghĩ gì. Nên thánh có nghĩa là trở nên chính mình cách đầy đủ hơn, trở thành con người mà Thiên Chúa đã muốn mơ ước và dựng nên, chứ không phải một bản sao.” (Đức Kitô Sống 162).
Trong ý nghĩa đó, Thiên Chúa có cách rất riêng để làm cho mỗi người hạnh phúc trong Vườn Nho. Chúa sẽ trách tôi và bạn, nếu chúng ta có lối nhìn so bì, đòi hỏi và ghen tuông. Nhiều khi chúng mình quên mất: “Thiên Chúa có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của Ngài!” (Mt 20,15). Sẽ bi đát nếu chúng ta cứ đòi Thiên Chúa ban ân sủng cho mình như người khác. Trong khi đó, Chúa đang đối xử, đang ưu ái dành nhiều tình yêu cho bạn và tôi. Lúc này và ở đây.
Nếu cứ chăm chú vào cách ông chủ trả lương, chúng ta sẽ quên mất khía cạnh tốt lành của Thiên Chúa. Chẳng lẽ Ngài tốt lành lại ưu đãi người này, trù dập người khác. Không! Ông Chủ là Thiên Chúa luôn đối xử với con người bằng tình yêu. Công bằng và tình yêu luôn đi với nhau. Bởi thế từ xa xưa, dân chúa đã cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin xử cho con theo lẽ công bình của Chúa.” (Tv 35,24).
Để kết thúc, rõ ràng cách Thiên Chúa đối xử với con người luôn dựa trên tình yêu và lòng thương xót. Ngài chẳng bất công với người được gọi vào trước. “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?” (Mt 20,13). Chìa khóa cho cách hành xử của ông chủ là tình yêu. Chúa chẳng ghét người vào trước, không ruồng bỏ người vào sau. Trong ánh mắt Chúa, mỗi người đều quý giá và độc nhất. Tuy nhiên, các Chúa ban ân sủng cho mỗi người có khi khác nhau. Lý do là Ngài hiểu thân phận của từng người, biết nhu cầu của mỗi người.
Lạy Chúa Giêsu, được Chúa gọi vào làm trong Vườn Nho của Chúa là một hạnh phúc lớn lao. Nơi ấy chúng con được chung chia hạnh phúc với anh chị em đồng loại. Giả như có ai đó “may mắn” hơn con, xin giúp con chia vui với họ. Nếu ai đó “bất hạnh” hơn con, xin cho con chia bớt nỗi đau của họ. Được như thế, con thấy lúc nào Chúa cũng dành phần tốt nhất cho con người. Ngài trả công theo cách của tình yêu, của con tim đầy lòng trắc ẩn. Amen.
Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
-----------------
[1] Chúa Nhật 25 mùa TN. Mt 20,1-16.
-------------------------------
Trước hết, tư tưởng và đường lối của Chúa cao xa vượt quá trời xanh theo Tiên Tri I-sa-i-a. Nên con TN 25-A147
Trước hết, tư tưởng và đường lối của Chúa cao xa vượt quá trời xanh theo Tiên Tri I-sa-i-a. Nên con không hiểu nổi tại sao Ngài chịu chọn lựa Abraham (chừng 2000- 1800 BC) để thành lập Dân Tộc Do Thái và Ông đã trở thành tổ phụ niềm tin của ba mối đạo lớn: Do Thái, Kitô Giáo và Hồi Giáo. Rồi cũng không hiểu nổi tại sao Chúa Giêsu lại đầu thai làm người vào thứ dân tộc lắm chuyện nầy để cứu chuộc nhân loại, trong khi có nhiều dân tộc khác sẳn sàng hơn. Thêm nữa, phải nhìn thấy những biến cố lịch sử lớn nhỏ để chuẩn bị, đều có bàn tay của Chúa hướng dẩn sắp xếp khi thăng lúc trầm, kể cả quốc nạn bị lưu đày sang Babylon (586-538 BC) để cho dân tộc nầy học thuộc những bài học tôn giáo của Chúa.
Dựa vào đoạn Sách Tiên Tri I-sa-i-a bên trên trong Thánh Kinh, Thiên Chúa sai Ông đến để nâng cao lòng tin và khích lệ dân đang bị lưu đày, tin tưởng vào Chúa và lòng yêu thương của Người, để chuẩn bị hồi hương. Tất cả đều hướng tới mục đích và yêu cầu dọn đường cho lòng tốt bao la của Thiên Chúa, qua dụ ngôn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm về Ông chủ tốt bụng, khi trả công cho từng đợt công nhân làm vườn nho; kẻ bắt đầu sáng sớm và người khi chiều tà tới lúc gần tàn.
Muốn rõ hơn ý Chúa, xin đọc ba bài Thánh Kinh bên dưới theo Lịch phụng Vụ Chúa Nhật Thường Niên Năm A (ngày 20/09/2020) để ngộ thêm Chúa muốn mình hiểu và làm theo những gì.
BÀI ĐỌC I: Trích sách Tiên tri Isaia. 55: 6-9
Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình, và kẻ bất lương, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ.
Vì tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta, Chúa phán như vậy. Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.
BÀI ĐỌC II: Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê. 1: 20c-24. 27a
Anh em thân mến, dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi. Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, còn chết là một mối lợi. Nhưng nếu sống trong xác thịt này đem lại cho tôi kết quả trong việc làm, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Tôi đang lúng túng trong hai điều này: là ước ao chết để được ở với Đức Kitô thì tốt hơn bội phần, nhưng cứ ở lại trong xác thịt thì cần thiết cho anh em. Anh em hãy sống xứng đáng với Tin Mừng của Đức Kitô.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. 20: 1-16a
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”.
Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết.” Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.
Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao”? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?” Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.
Vài ghi chú và cảm nghiệm.
Nhân đây cũng nên biết một nét tổng quát, với 66 chương, Bộ Sưu Tập Isaia là cuộn sách dài thứ hai sau Bộ Thánh Vịnh. Sách ghi lại những sự việc và biến cố trong hơn hai thế kỷ từ năm (740 – 500 hay 450 BC) tới khi dân còn sót lại hồi hương từ Babylon, về Giêrusalem xây dựng lại đền thờ.
Cũng xin thêm một ghi nhận nữa, danh từ Tiên Tri có nghĩa là người nói trước, báo trước, sau khi đã tri kiến được thực nghĩa thần linh của lời Chúa phán hay ý Chúa. Tiên Tri còn là đại diện và phát ngôn viên của Chúa, nên Việt Nho và những xứ đồng văn, có thêm từ ngữ khác rất xúc tích chính xác, là “Ngôn Sứ”. Nói cách khác, Tiên Tri là người thay Chúa nói với dân và cũng ngược lại, làm trung gian thay dân đàm đạo với Chúa. Hôm nay, theo ngôn từ thời đại, Tiên tri cũng còn gọi là “Cán Bộ Lời Chúa” vì cán là đảm đang, chỉnh đốn, làm thay thế cho; và bộ: bộ phận, thành phần, thành viên . Mà Lời của ai thì cũng lại chính là người đó.
Qua bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn Nước Trời. Khi mới nhìn, ai cũng dễ thấy bực mình và dễ bị bị sốc, bị đả kích. Điều làm mình chú ý và còn muốn phê phán tệ hại là những người được thuê từ sáng sớm phàn nàn nhà chủ bất công, vì trả lương công nhân làm sớm và chót nhất, ca thợ chỉ làm 1 tiếng đồng hồ trước khi đóng cửa, như nhau, 1 đồng. Nhưng đọc kỷ, thấy nhà chủ nắm cán, nhờ có hợp đồng giao kèo rõ ràng đúng luật lệ Do Thái thời đó, 1 đồng/ngày. Chủ gia (Chúa) ở đây,như trong ca dao bình dân, thuộc “người khôn đón trước rào sau. Để cho người dại (là thợ ganh tị, là mình đây) biết đâu mà mò”.
Về mặt trả công kiểu nầy, Đức Cố Hồng Y Nguyễn V Thuận (1920-2002) có nhận xét vui nhộn, đánh thức ai đang buồn ngủ, rằng Chúa Giêsu qua dụ ngôn trên, là ngưòi không biết làm kinh tế. Trả lương cho công nhân kiểu Chúa Giêsu thế nào cũng xập tiệm. Vì lẽ công ty tư bản hay vô sản nào trên đời, cũng trả lương dựa trên số giờ hay thành phẩm vật chất mà công nhân làm được. Nhưng công ty nước Trời của Chúa Giêsu lại cân đo số lương trên tiêu chuẩn khác, đó là tiêu chuẩn tinh thần hay tấm lòng. Vậy tấm lòng đó là cái đi gì?
Nói cho gọn nhẹ và rõ ràng, Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn, chuộng mặt tinh thần quan trọng nhất. Bằng chứng là lần kia Chúa Giêsu quan sát dân chúng dâng tiền cho đền thờ, rồi bảo thật cho môn đồ: bà goá nghèo đã bỏ vào thùng dâng cúng nhiều hơn ai hết, vì mọi người đều rút tiền dư thừa của mình mà bỏ vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào tất cả tài sản, tất cả nguồn nuôi sống bà.” (Máccô12:41-44 và Luca 21:1-4).
Do đó, lòng tốt củaThiên Chúa vượt trên hàng rào luật lệ mà loài người cần phải có cho xã hội ổn định, công bằng và hợp lý khi giao tế. Thêm nữa, Thiên Chúa, không như con người chỉ thấy bên ngoài, mà nhìn từ bên trong, tận đáy lòng như trường hợp Chúa chọn David trong 1 Samuel 16:7.
Bài đọc II Trích Thánh Phaolô gởi từ nhà tù cho tín hữu Philip đi thăm nuôi Ngài rằng: Ngài có thể được tự do để tiếp tục rao giảng Chúa Kitô hay chết đi để êm xuôi về với Chúa. Con đường nào cũng vì vinh danh Đức Giêsu Kitô. Lòng tin của Ngài ở đây, giúp nhớ lại và đem ra thực hành ít nhiều khi đọc một câu tương tự trong Cor. 10:31. “Vậy, dù khi ăn, dù khi uống, hay dù khi làm bất cứ sự gì khác, anh em hãy làm tất cả vì sáng danh Chúa”.
Gói gọn, xin ghi ra câu chuyện rất có ý nghĩa, dựa vào Tin Mừng Chúa Nhật Thường niên A, do Cố Linh Mục Vũ Hùng Tôn (1937-2014) lớp đầu tiên của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 1958, cảm nghiệm và chia sẻ khi còn giữ chức vụ Thầy Cả quản nhiệm Cộng Đồng Công Giáo Các Thánh Tử Đạo của mình.
Chính Cha rất chú ý tới và khích lệ những người mới theo đạo, bằng cách để giờ dạy giáo lý cho những dự tòng đặc biệt. Ngài cũng thường hay thăm viếng lớp giáo lý dự tòng mỗi sáng Chúa Nhật. Lần kia, Cha chia sẻ rằng anh chị em dự định theo Chúa, nhưng đừng có mặc cảm tự ti, đừng coi mình thấp hèn hay không đạo đức bằng quí tu sĩ các cấp hoặc giáo dân đạo cũ, vì Chúa tính sổ tấm lòng của anh chị em, chứ không phải dựa và chức tước hay những việc được thấy bên ngoài.
Cha Tôn đưa ra tiêu chuẩn tinh thần qua hai từ Anh Ngữ: believe: tin, hay belief: niềm tin. Thí dụ: người ta tin có Ông Trời hay Ông Chúa. Tôi tin trong túi bạn có tiền, vậy thôi. Không liên can gì tới tôi. Còn xét về mặt Faith, Faithful, Faithfulness lòng trung thực, chính xác, thiện ý, chí thành, thành tín nhờ “có qua có lại mới toại lòng nhau” và cũng nhờ đó mà Chúa cân đo được cường độ lòng thành của ta, thì một tu sĩ chưa chắc đã chí thành với Chúa hơn thường dân hay anh chị em. Mà Chúa lại tính sổ và trả công cao cho mặt nầy. Nên Chúa mới để lại cho thế hệ thời Tân Ước dụ ngôn làm bài học về nhà chủ tốt bụng với mọi ca thợ làm vườn nho bên trên.
Đôi dòng tâm kinh.
Cảm tạ Chúa yêu thương đã tạo cơ hội cứu giúp thăng tiến, đổi mới, hoàn thiện cho hết mọi người xấu tốt lành dữ. Nhưng riêng thâm tâm con còn phân biệt thân sơ, thị phi, cũ mới, bên mình, bên kia … nhiều thứ lắm Chúa ơi!
Tiếp theo, con mắt xấu nơi con thường thấy người được may mắn thì chẳng ưa, đó là chưa kể ghen tương lập mưu hại người.
Ba là, có khi con ỷ mình là đạo dòng mấy đời, nên coi thường đạo mới, mà quên rằng Chúa tính sổ theo thành quả của con tim từ bên trong, không theo ngày giờ năm tháng trên bút tích rửa tội.
Bốn là, xin cho những vị lãnh đạo tinh thần đang phục vụ dân Chúa, lòng trung thành, rộng lượng và bao dung trong mục vụ như tấm gương của Chúa vác chiên lạc trên vai về chuồng.
Thứ năm, xin cho lòng bao dung thiện hảo của Chúa hướng dẩn mọi sinh hoạt hằng ngày trong đời sống chúng con.
Sau hết, xin giúp chúng con nhìn thấy mẩu gương Chúa nhân hậu, từ bi, kiên nhẫn, xót thương và tốt lành với mọi người…và làm theo được bao nhiêu quí bấy nhiêu.
-------------------------------
Người ta thường nói rằng: “Lòng tốt là thứ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy TN 25-A148
Người ta thường nói rằng: “Lòng tốt là thứ mà người điếc có thể nghe và người mù có thể thấy”. Bởi vậy hãy bắt đầu làm điều tốt lành cho ai đó xung quanh mình, bạn sẽ thấy điều đó ở khắp nơi. Hương thơm của lòng tốt lan tỏa rất xa. Hương vị của lòng tốt chan hòa trong một cuộc sống an lành. Không cần “khắc cốt” những gì mình đã trao đi, nhưng cần “ghi tâm” những gì mình được nhận từ những người khác, đó là điều thật đáng quý.
Tin mừng hôm nay kể về Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”. Ông chủ vườn nho 5 lần trong ngày đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau, cuối ngày ông trả tiền công cho mỗi người 1 đồng. Ý nghĩa dụ ngôn diễn tả lòng tốt của Thiên Chúa. Lòng tốt vượt trên lẽ công bình. Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng nhân hậu của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông …”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật. Chúa Giêsu quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày.Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Những người được vào làm vườn nho trước nhất: “Sau khi đã thỏa thuận với họ là mỗi ngày một đồng, ông sai họ vào vườn nho làm việc”. Đây là sự công bằng.
Những người được vào làm vườn nho sau hết. Họ muốn có việc làm, họ đứng đợi từ sáng sớm. Khi nghe ông chủ nói: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”, họ rất đỗi vui mừng, vội vàng đi làm việc mà không có thỏa thuận. Đây là tình thương do lòng tốt của ông chủ.
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. Vậy mà lúc 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động cả ngày. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng nóng. Họ càm ràm với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, bởi lẽ họ không biết yêu thương.
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức?”. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Chúa Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa quảng đại vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công, không làm thiệt hại ai, Ngài luôn công bằng. Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng thi thố lòng thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Nhiều lần trong ngày ông chủ ra chợ tìm thuê thợ làm việc vườn nho là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải con người tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm con người. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người khác, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Ông chủ thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, là hình ảnh diễn tả tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ngài muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
Một xã hội công bằng bác ái, ai ai cũng ước mơ và hướng tới. Công bằng luôn phải đi đôi với bác ái.Thiên Chúa là Đấng công bình và yêu thương, Ngài ân thưởng, trả công cho mỗi người đúng theo việc họ làm. Chúa Giêsu cũng đã từng dạy: làm thợ thì đáng được trả công. Tuy nhiên, tình yêu Thiên Chúa bao la, con người không thể hiểu thấu. Bài đọc 1, ngôn sứ Isaia nói: lòng nhân từ của Thiên Chúa vô biên, vượt trên mọi toan tính của con người, vượt qua mọi chuẩn mực, vượt trên tất cả những lý sự và mong ước của con người. Con đường Ngài đi là con đường tình yêu, vượt lên trên mọi luật lệ, phép tắc của con người. Tình yêu của Ngài cũng vượt lên trên cả đức công bình, vượt xa mọi ranh giới và mọi nghĩ suy của con người. Thiên Chúa không chỉ là một ông chủ mà còn là một người cha. Thiên Chúa công bình yêu thương, tốt lành. Hồng ân Ngài ban chan chứa. Con người đón nhận với lòng biết ơn.
Hồng ân thì khác với công lao. Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Có một sự khác biệt giữa lối sống đạo dựa trên hồng ân và lối giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận “giữ đạo” để được “lên thiên đàng”. Nhưng người ta cũng có thể “sống đạo” chỉ vì muốn đền đáp hồng ân bao la của Thiên Chúa. Lối giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữu trở thành “kẻ làm công”. Chẳng hạn, việc quét nhà thờ hàng tuần, nhiều người so bì cò kè tính toán, với cái nhìn ích kỷ ghen tị với người khác. Tại sao mình không nghĩ đến bao nhiêu ơn lành Chúa đã thương ban cho mình và gia đình, mỗi tháng chỉ dành 1-2 giờ quét nhà thờ làm sạch sẽ đẹp khuôn viên, công việc ấy như một tâm tình đáp lại hồng ân Chúa thương ban?
Sống đạo kiểu người làm công nên người ta hay càm ràm phản đối ông chủ: “Chúng tôi lao lực suốt cả ngày mà ông trả công cho chúng tôi bằng những người đến sau hết!”. Ông chủ trả lời: “Tôi có bất công với mấy anh đâu! Mấy anh đã thỏa thuận với tôi là một đồng một ngày, thì tôi đã trả đủ cho mấy anh rồi. Tôi muốn trả cho những người đến sau bằng các anh thì có can gì đến các anh? Hay là các anh ganh tị vì tôi rộng rãi?”. Các anh thật hẹp hòi. Đáng lý ra, các anh phải mừng cho những người đến sau, vì họ may mắn gặp được một ông chủ có lòng tốt. Tại sao các anh lại nhăn nhó vì tình thương của ông chủ đối với những người đến sau?
Lối sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình. Sống yêu thương quan tâm đến những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn.
Một xã hội tốt đẹp là mọi người ân cần giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội văn minh khi mỗi người biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình, ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật tươi đẹp và chan chứa tình người.Cuộc đời ai cũng cảm thấy ấm áp khi được quan tâm, bởi vậy lòng tốt là một nguồn năng lượng tích cực giúp cho con người xích lại gần nhau hơn.Lòng tốt giúp con người có thêm niềm tin. Tin rằng mình luôn làm điều tốt thì mình đang đi trên con đường yêu thương. Lòng tốt mang đến cho ta niềm vui, niềm hy vọng.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
-------------------------------
TN 25-A149: Vượt lên chính mình - Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại rằng: Khi những người thợ làm việc từ sáng sớm thấy những người TN 25-A149
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại rằng: Khi những người thợ làm việc từ sáng sớm thấy những người khác làm muộn hơn cũng được lãnh tiền công bằng mình thì đâm ra ganh tị, tức tối…
Ganh tị là căn bệnh trầm kha phát sinh từ thời kỳ đồ đá và sẽ tồn tại mãi cho tới ngày tận thế.
Khi loài người có mặt trên địa cầu là bắt đầu có ganh tị. Sau khi hai anh em Ca-in, A-ben dâng lễ vật cho Thiên Chúa, Ca-in nổi cơn ganh tị vì lễ vật của A-ben được Chúa vui nhận còn lễ vật của mình thì không. Lòng ganh tị bùng lên mãnh liệt trong lòng đã xui khiến Ca-in giết chết người em vô tội của mình.
Trong xã hội hôm nay, lòng ganh tị cũng đang nhen nhúm trong tâm hồn khi người ta thấy người khác đẹp hơn, giàu có hơn, sang trọng hơn, thành công hơn, nổi bật hơn mình… Ganh tị sinh ra ganh ghét, ganh ghét sinh ra chia rẽ, hận thù, bất hòa, bất thuận.
Phương thức diệt trừ lòng ganh tị
Ganh tị là căn bệnh trầm kha, rất khó diệt trừ. Tuy nhiên, bệnh nào cũng có thuốc chữa. Vậy chúng ta thử xem có phương thế nào có thể hạn chế hoặc ngăn ngừa chứng bệnh này không.
Nguyên nhân sinh ra ganh tị là vì người ta so sánh phận mình với thân phận người khác và thấy mình thua kém. Vậy thì cách tốt nhất để diệt trừ ganh tị là đừng so sánh phận mình với bất cứ ai.
Mỗi người được sinh ra trên đời là một nhân vật độc đáo, mỗi người một vẻ, không ai giống ai, mỗi người đều có tính cách riêng, một sứ mạng riêng, một trách nhiệm riêng…
Trong lĩnh vực âm nhạc, có nhiều nhạc cụ khác nhau với những tính cách khác nhau: đàn guitar điện (ghi-ta) và guitar bass (ghi-ta bass) na ná giống nhau nhưng tấu lên những âm thanh có cung bậc trầm bổng khác nhau; đàn organ và piano có hình thù gần giống nhau nhưng phát ra tiếng nhạc khác nhau…
Mỗi thứ nhạc cụ đều có cái hay riêng của mình; vì thế, guitar bass đừng “buồn” vì âm thanh của mình trầm đục, không sôi nổi như âm thanh guitar điện. Dù sao, những âm trầm, đục của guitar bass là một hỗ trợ rất cần thiết, làm cho ban nhạc sinh động hơn.
Tương tự như thế, piano cũng không nên “ganh tị” vì âm thanh của mình không đa dạng, nhiều sắc màu như organ, vì piano cũng là một nhạc khí cần thiết cho nhiều ban nhạc khi trình diễn.
Vậy thì đừng đem tiếng đàn guitar điện so với tiếng đàn guitar bass hay so tiếng đàn piano với tiếng đàn organ để phân định hơn thua… So sánh như thế là hoàn toàn khập khiễng.
Giữa con người với nhau cũng vậy. Mỗi người có một số khả năng riêng, cũng như các nhạc cụ có những âm sắc riêng... Đem tiếng đàn guitar điện so với tiếng đàn guitar bass để xác định hơn thua là khập khiễng như thế nào, thì đem khả năng của người này so với khả năng người kia cũng khập khiễng như vậy.
Vậy thì ta đừng so sánh hơn thua với người khác. Tốt nhất là so sánh bản thân ta hôm nay với bản thân ta năm ngoái, xem hơn thua thế nào. Nếu thua thì nên lấy làm tiếc và cố gắng để tiến lên; nếu cái tôi trong hiện tại tốt hơn cái tôi quá khứ thì hãy vui mừng và tiếp tục cố gắng để vượt lên chính mình. Đây là cuộc ganh đua lành mạnh và bổ ích; còn ganh đua với người khác thì chỉ sinh ra ganh tị, ganh ghét mà thôi.
Tóm lại,
Đừng so sánh mình với người khác để phân định hơn thua mà hãy so sánh bản thân mình hôm nay với chính bản thân mình hôm qua.
Đừng mong thắng người khác. Hãy mong tự thắng mình. Nhờ đó, ta mới có thể vượt qua chính mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Ganh tị là căn bệnh trầm kha đã có từ thửa ban đầu và tồn tại mãi cho đến ngày tận cùng của nhân loại. Căn bệnh này như một cơn lốc xoáy cuốn hút muôn người vào vòng ganh đua, ganh ghét, chia rẽ bất hòa.
Xin Chúa ban ơn giúp chúng con không để mình bị cuốn hút vào cơn lốc quái ác này nhưng được thoát ra khỏi vòng oan nghiệt đó, để vượt thắng mình mỗi ngày, để càng ngày càng trở nên hoàn thiện và giống Chúa hơn.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
------------------------------------------
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm A nêu rõ: đường lối của Thiên Chúa không TN 25-A150
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm A nêu rõ: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.
Is 55: 6-9
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo sự giải thoát sắp đến và kêu mời những người lưu đày tại Ba-by-lon thật lòng hoán cải ngõ hầu được Thiên Chúa thứ tha, bởi vì đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.
Pl 1: 20-24, 27
Bài Đọc II trích từ thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê, trong đó thánh nhân bị giằng co thế đôi ngã: hoặc bị tuyên án tử, như thế được ra đi để được ở với Chúa; hay được phóng thích để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Mt 20: 1-16
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn thợ làm vườn nho, trong đó Đức Giê-su viện dẫn tấm lòng xót thương của Thiên Chúa vượt lên trên sự công bằng giao hoán.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 6-9)
Đoạn trích nầy là một trong những sứ điệp sau cùng của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi đến những người Do thái lưu đày tại Ba-by-lon vào khoảng những năm 545-540 tCn, để báo tin cuộc giải phóng sắp gần kề, nhưng vài người trong họ nghi ngờ và nhụt chí. Trong sứ điệp sau cùng này, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị nhấn mạnh Đức Chúa là Thiên Chúa sẵn lòng tha thứ và là Đấng toàn năng.
1.Thiên Chúa sẵn lòng tha thứ (55: 7-9)
Theo ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, thời gian cứu độ sắp tới gần phải là thời gian của cầu nguyện và hoán cải, vì vào lúc này Thiên Chúa ở bên dân Ngài gần gũi hơn bao giờ hết để giải thoái và cứu độ họ.
“Hãy tìm Đức Chúa, khi Người còn cho gặp,
kêu cầu đi, lúc Người ở gần bên” (55: 6).
Đã gần năm mươi năm trôi qua kể từ cuộc phát lưu đầu tiên lúc mà ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết cho những người lưu đày hầu như theo cùng một cách: “Các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến” (Gr 29: 13-14).
Lòng hoán cải mà Thiên Chúa trông đợi là “trở về với Ngài”, Ngài là một vị Thiên Chúa luôn sẵn lòng tha thứ. Chân thành trở về với Thiên Chúa không gì khác hơn là tránh xa những tư tưởng gian tà, chấm dứt những việc làm gian ác:
“Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo,
người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có” (55: 7).
Đối với ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, cuộc trở về Giê-ru-sa-lem phải đồng nhất với cuộc trở về với Đức Chúa. Động lực tột cùng của niềm tin tưởng nầy mà những người lưu đày phải thấm nhuần đó là: Thiên Chúa là Đấng vô cùng độ lượng. Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa cao vời trên cõi trời cao thẳm, trong khi tư tưởng của con người ở tận chốn đất thấp. Bởi vậy, mỗi khi con người nghĩ rằng tội lỗi của mình quá nặng nề không thể nào được tha thứ, thì Thiên Chúa mặc khải cho họ biết Ngài rộng lượng từ bi đón nhận những kẻ tội lỗi khi họ quay về với Ngài, cũng như sẵn sàng trả công bội hậu cho con người vượt quá công sức của họ gấp trăm ngàn lần.
2.Thiên Chúa là Đấng toàn năng (55: 9):
Ngôn sứ hoàn tất sứ điệp của mình bằng cách nhắc lại hình ảnh “trời cao đất thấp” để đánh dấu khoảng cách phân chia vô tận giữa con người và Thiên Chúa:
“Trời cao hơn đất chừng nào
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (55: 9).
Đây là ý niệm truyền thống mà Đức Giê-su sẽ dạy cho chúng ta trong kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời” (Mt 6: 9).
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã kết nối quyền năng cao vời khôn ví của Thiên Chúa với tấm lòng sẵn sàng tha thứ của Ngài. Con người nhỏ bé và mõng dòn, bởi vì chúng là kẻ tội lỗi trong khi Thiên Chúa thì cao vời khôn ví, bởi vì Ngài cưu mang những tư tưởng cứu độ.
BÀI ĐỌC II (Pl 1: 20-24, 27)
Thành Phi-líp-phê miền Ma-xê-đoan là thành phố Châu Âu đầu tiên đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phao-lô thử mạo hiểm loan báo Tin Mừng trên lục địa nầy. Vào lúc đó, cộng đoàn Phi-líp-phê gồm một số ít là người Do thái và đa số là lương dân. Vào năm 49 hay 50, thánh nhân đến Phi-líp-phê, ngài luôn dành cho các tín hữu Phi-líp-phê một ân tình sâu sắc. Các tín hữu Phi-líp-phê giúp đỡ thánh nhân trong khi thánh nhân đang lâm cảnh túng thiếu. Chỉ duy từ họ mà thánh nhân chấp nhận giúp đỡ.
Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê (chúng ta sẽ tiếp tục đọc nhiều trích dẫn thư nầy trong nhiều Chúa Nhật kế tiếp) hình thành nên một chứng liệu đặc biệt. Hơn bất kỳ thư nào khác, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê vén mở cho chúng ta con người nội tâm của thánh Phao-lô, những đức tính và một tấm lòng gắn bó của thánh nhân vào Đức Ki-tô. Từ tính khí bộc trực, những lời khuyên bảo của thánh nhân lại chan chứa những niềm tin tưởng vô bờ.
Khi thánh Phao-lô viết thư nầy, ngài đang bị giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô vào năm 55 hay 56. Thánh nhân không biết số phận đang chờ đợi ngài: hoặc bị kết án tử và như thế được ở với Đức Ki-tô, hay được phóng thích và lại tiếp tục sứ vụ của ngài. Sự giằng co đôi ngã, mà thánh nhân trình bày trong đoạn văn nầy, không là thế đôi ngã của sự chọn lựa. Rõ ràng thánh nhân nhắm đến thế đôi ngã nầy ở nơi lời kết luận ngay từ đầu: “Đức Giê-su sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống hay tôi chết” (1: 20).
1.Chết là một mối lợi.
Bị giằng co giữa hai đàng, hiển nhiên thánh nhân thích được chết hơn: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều nầy tốt hơn bội phần” (1: 23). Thánh nhân đã xác định mục đích của cuộc đời mình rồi: “sống là Đức Ki-tô”. Bên kia cái chết, hiệp nhất với Đức Ki-tô lại còn trọn vẹn hơn.
Nếu thư gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê nầy được viết giữa hai thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, như ngày nay người ta có khuynh hướng nghĩ như vậy, thánh Phao-lô hoàn tất tư tưởng của mình trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Vậy chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác nầy là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa…Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cr 5: 6-8).
Trong đoạn trích nầy, tư tưởng của thánh Phao-lô rõ ràng nhuốm màu sắc tư tưởng Hy lạp, tuy nhiên, tất cả các thư khác của thánh nhân đều làm chứng rằng thánh nhân không hoàn toàn chấp nhận khía cạnh tiêu cực của nhị nguyên thuyết Hy lạp, tức là khinh bỉ thân xác. Trái lại, thánh nhân ca ngợi thân xác nầy là “đền thờ của Chúa Thánh Thần” và sẽ được sống lại vào ngày sau hết. Thánh nhân luôn nhắm đến sự hiệp nhất trọn vẹn với Đức Kitô sau khi chết, tuy thế, thánh nhân cũng không ngừng nói rằng sự hiệp nhất nầy vốn đã bắt đầu ngay từ cõi thế nầy rồi. Cuộc sống của người Ki-tô hữu vốn là đã được Đức Ki-tô chiếm đoạt rồi, là nơi Chúa Thánh cư ngụ cùng với chúng ta. Thần Học của Giáo Hội tiếp nối thánh nhân trên con đường nầy. Cái chết không gây nên một sự đứt đoạn cuộc sống chúng ta trong Đức Kitô.
2.Nhu cầu loan báo Tin Mừng.
Nhưng thánh nhân bị giằng co đôi ngã. Dù thánh nhân mong ước được ra đi để được ở với Đức Ki-tô, tuy nhiên thánh nhân nói với các tín hữu Phi-líp thân yêu của ngài: “Ở lại đời nầy thì cần thiết hơn, vì anh em”. Vả lại, thánh nhân luôn luôn say mê theo đuổi sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài. Cuối cùng thánh nhân khuyên bảo họ: “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô” (1: 27).
TIN MỪNG (Mt 20: 1-16)
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nầy đóng lại một loạt dụ ngôn về Nước Trời trong giáo huấn của Đức Giê-su ở Ga-li-lê. Một lần nữa Đức Giê-su cố gắng làm cho hiểu rằng điều xảy ra trong Nước Trời không giống chút nào với cách hành xử của con người. Đức Giê-su chủ ý chọn những ví dụ cực đoan để gây chú ý ngõ hầu truyền đạt một sứ điệp khó khăn. Các dụ ngôn rất thuận tiện cho việc sử dụng lối ngoa ngữ, nhưng luôn luôn được sắp xếp làm thế nào hướng đến chủ điểm của dụ ngôn, để rồi từ đó bài học được rút ra.
Ở đây, sự thú vị của câu chuyện nằm ở nơi sự công phẩn của những người thợ được mướn từ sáng sớm. Mới đọc thoáng qua, dụ ngôn nầy như muốn loan báo lời Đức Chúa phán qua vị ngôn sứ của Ngài trong Bài Đọc I:
“Trời cao hơn đất bao nhiêu,
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu” (Is 55: 9).
1.Thiên Chúa hoàn toàn tự do.
Thật vô lý nếu người ta tiếp cận dụ ngôn nầy theo khía cạnh trần thế, vì Đức Giê-su rõ ràng dạy rằng Nước Trời không là tiền thù lao, nhưng là ân ban, theo đó Thiên Chúa hoàn toàn tự do định liệu, nhưng không là một kẻ chuyên quyền độc đoán; đây là một sự tự do được điều khiển bởi tình yêu. Lòng nhân ái của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán.
Tuy nhiên, chúng ta hãy khảo sát cách hành xử của con người với con người. Dụ ngôn nầy làm thương tổn đặc biệt đến độ nhạy bén của con người hiện đại, rất gai góc đối với vấn đề công bằng giao hoán. Tuy nhiên, dụ ngôn nầy xem ra gần gũi hơn với thế giới của chúng ta đang khủng hoảng, một thế giới đang quần quại sống trong nỗi đau của đa số người cố bám víu vào bất kỳ một công việc nào để sống cho qua ngày đoạn tháng. Họ chờ đợi suốt ngày bất cứ công việc nào để đổi mồ hôi lấy bát cơm. Ông chủ năm lần bảy lượt ra ngoài phố chợ mướn thợ vào làm vườn nho của mình, thậm chí cho đến lúc ngày sắp tàn. Đọc đoạn Tin Mừng nầy, chúng ta cảm thấy một sự đắc ý nào đó khi ghi nhận rằng những người thợ bất đắc dĩ được mướn sau cùng đã nhận được đầy đủ tiền công nhật để có thể nuôi sống gia đình trong một ngày nhờ vào tấm lòng rộng lượng của ông chủ vườn nho. Tiền công nhật được thỏa thuận là một đồng, đó là giá trị phải chăng để nuôi sống gia đình trong một ngày.
2.Sống trong tư thế sẵn sàng:
“Chủ điểm” của dụ ngôn nầy được định vị ở nơi tư thế sẵn sàng của những người thợ giờ sau chót nầy. Họ chờ đợi suốt ngày trong sự nôn nao thấp thỏm và chỉ vào lúc xế chiều mới được mướn vào làm vườn nho. Nếu được thuê mướn sớm hơn, chắc chắn họ đã làm việc cho ông suốt ngày như bao nhiêu người khác.
Biết bao câu chuyện Tin Mừng theo cùng một hướng nầy: Đức Giê-su tìm kiếm những tấm lòng sẵn sàng nầy. Ngài tỏ mình ra cho người phụ nữ Sa-ma-ri, không vì công trạng của chị, nhưng vì Ngài đã phát hiện ở nơi chị một tư thế sẵn sàng đón nhận mặc khải của Ngài.
3.Nổi bất bình của những thợ đầu tiên.
Những người thợ làm việc ngay từ sáng sớm ngạc nhiên trước tiền công mà ông chủ trả công cho những người thợ sau chót chỉ làm có một giờ vào lúc trời mát mẽ cũng bằng với những người thợ đã làm việc nặng nhọc suốt ngày trong cái nắng chói chang! Dụ ngôn có nhiều điểm tương tự với dụ ngôn của người con hoang đàng. Người con cả công phẩn trước cách cư xử của cha anh đối với người con út, kẻ lang bạt vừa mới chân ướt chân ráo trở về nhà cha, sau khi đã sống cho đến tận bùn nhơ của cuộc đời. Người con cả không hiểu nỗi tấm lòng của cha anh, bởi vì anh thiếu tấm lòng khoan dung rộng lượng.
“Nầy bạn” ông chủ trả lời với một trong những người bất bình. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su nhẹ nhàng quở trách Giu-đa, kẻ phản bội Thầy cũng một cách như thế: “Nầy bạn” (Mt 26: 50). Vị vua cũng quở trách người khách vào dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới cũng một cách thế như vậy (Mt 22: 12).
4.Công bình và lòng nhân ái:
Những người thợ được thuê từ sáng sớm bị quở trách vì thiếu tấm lòng nhân ái: “Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghét tức?”. Không loại trừ rằng dụ ngôn có một hậu cảnh bút chiến nhắm đến nhóm Biệt Phái. Những người nầy tự hào tự phụ vì mình được mời gọi làm vườn nho cho Thiên Chúa trước tiên. Họ đã vất vã nhiều trong việc tuân giữ Lề Luật một cách nghiêm nhặt đến từng chấm từng câu nên khỉnh bỉ những kẻ thu thuế và phường tội lỗi, những người mà Đức Giê-su quan tâm đặc biệt. Văn hào Barnanos đã viết: “Nhân loại tự tách mình ra thành hai loại khác biệt tùy theo quan niệm mà người ta có về sự công bình. Đối với những người nầy, công bình là một thế cân bằng, một sự thỏa hiệp. Còn những người khác, nó như một sự thăng hoa, một sự đăng quang vinh hiển của lòng nhân ái.”
Dụ ngôn nầy cũng đề cao mầu nhiệm Giáo Hội: Ki-tô hữu là những người đến sau được gọi gia nhập Nước Trời. Dụ ngôn này đem đến một niềm hy vọng tuyệt vời cho lương dân, những người đã đón nhận lời mời gọi của tôn chủ chỉ sau một thời gian dài dân Ít-ra-en được tuyển chọn.
Nhưng đây cũng là một niềm hy vọng tuyệt vời cho những ai khám phá Thiên Chúa chỉ vào những giờ phút cuối đời mình. Ví dụ cảm động nhất chắc hẳn là câu chuyện của tên gian phi sám hối. Cả một đời gian phi nhưng chỉ một lời nói đầy cảm thương của anh vào giây phút cuối đời đã đem lại cho anh một lời hứa ngay tức khắc của Đức Giê-su: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Nước Trời” (Lc 23: 43).
------------------------------------------