Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 26 TN-A: Bài 101-150 Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.
------------------------------------------
Tin mừng: Mt 21, 28-32
28 Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” 29 Nó đáp: “Con không muốn đâu !” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30 Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi.
31 Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” Họ trả lời: “Người thứ nhất.” Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. 32 Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” – Đó là Lời Chúa.
------------------------------------------
Mục lục
TN26-A101: VÂNG PHỤC THIÊN CHÚA.. 2
TN26-A102: BIẾT NHÌN LẠI MÌNH.. 4
TN26-A103: DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON.. 5
TN26-A104: SỰ THỐNG HỐI ĂN NĂN.. 10
TN26-A105: XIN ĐƯỢC MÃI LÀM “NGƯỜI CON THỨ NHẤT”! 12
TN26-A106: NÓI VÀ LÀM... 16
TN26-A107: NÓI và LÀM... 19
TN26-A108:HÀNH ĐỘNG TỐT THẮNG CÂU NÓI HAY.. 21
TN26-A109: HỐI LỖI 25
TN26-A110: Trở lại 28
TN26-A111: Cải thiện cuộc sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà. 29
TN26-A112: Nói và làm – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng. 31
TN26-A113: Nghe và làm – Lm. FX. Vũ Phan Long. 36
TN26-A114: Vào Nước Thiên Chúa. 40
TN26-A115: Họ Đã Tin. 42
TN26-A116: MÈO NÀO CẮN MÈO NÀO.. 44
TN26-A117: Chúa Nhật thứ 26 Thường Niên. 47
TN26-A118: CHÚA NHẬT 26 QUANH NĂM... 51
TN26-A119: CHÚA NHẬT 26 QUANH NĂM... 55
TN26-A120: CHÚA NHẬT XXVI - THƯỜNG NIÊN 2002. 57
TN26-A121: Bài Giảng Chúa Nhật 26 Thường Niên. 58
TN26-A122: CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN, NĂM A.. 60
TN26-A123: AI ĐÁP LẠI LỜI CHA ?. 62
TN26-A124: Nói và làm.. 65
TN26-A125: NÓI VÀ LÀM... 67
TN26-A126: Chúa Nhật 26 TN A.. 69
TN26-A127: Vâng lời – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. 71
TN26-A128: Thực hành đường lối Chúa. 73
TN26-A129: Nói và Làm.. 75
TN26-A130: Biết nhận ra sai lỗi và hối hận. 78
TN26-A131: CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN.. 82
TN26-A132: Sám hối, quay trở về là con đường dẫn đến ơn cứu độ. 84
TN26-A133: Người Biết Hoán Cải Có Chỗ Trong Nước Thiên Chúa. 85
TN26-A134: CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN.. 88
TN26-A135: Chúa nhật ngày 01 tháng 10 năm 2017. 90
TN26-A136: Chúa nhật XXVI Thường niên A.. 92
TN26-A137: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI - CN 26 TN A.. 96
TN26-A138: CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN A.. 100
TN26-A139: NGOAN NGOÃN và NGỖ NGHỊCH.. 104
TN26-A140: TN26-A141: Cách hành xử của Thiên Chúa. 109
TN26-A141: Hai con đường – Sr Mai An Linh, OP. 111
TN26-A142: Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxio Hồ Thông. 113
TN26-A143: Tuân hành Thánh Ý Chúa. 117
TN26-A144: Tin vào cha – Lm. Vũ Đình Tường. 122
TN26-A145: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 123
TN26-A146: Quan trọng là phần cuối 126
TN26-A147: Thực thi thánh ý Chúa - Lm. Minh Vận, CRM... 129
TN26-A148: Hai người lính – Lm. Mark Link, SJ. 132
TN26-A149: Hoàn thiện bản thân - Linh mục Inhaxiô Trần Ngà. 135
TN26-A150: DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CON.. 137
------------------------------------------
Mt 21, 28 – 32
Một lần nọ, người chủ ruộng dẫn con trâu đến mảnh đất để cày, con trâu và người chủ làm việc suốt: TN26-A101
Một lần nọ, người chủ ruộng dẫn con trâu đến mảnh đất để cày, con trâu và người chủ làm việc suốt buổi sáng. Đến trưa người chủ thả trâu cho nghỉ ngơi và ăn cỏ, còn người chủ cũng ăn uống lấy sức. Con trâu đang nằm nhơi cỏ, thì bỗng đâu có con cọp xuất hiện làm cho trâu hốt hoảng, nhưng cọp trấn an trâu và nói: thân mi to lớn, với sức khoẻ phi thường, tại sao mi phải lệ thuộc con người yếu đuối và chịu sự điều khiển như thế? Con trâu trả lời: con người tuy nhỏ bé, yếu đuối, nhưng họ có trí khôn, nên sức mạnh không làm gì được trí khôn của họ. Cọp mới hỏi trâu trí khôn là gì mà ghê thế? Trâu bảo cọp hãy đến hỏi con người. Cọp mới đến gần con người xin cho xem trí khôn. Con người bảo là để quên ở nhà, anh bảo cọp chờ anh ta về nhà lấy cho nó xem. Nhưng anh ta chợt suy nghĩ và bảo cọp. Mi hãy để ta trói mi lại, chứ nhở khi về lấy trí khôn cho mi xem, mi sợ và bỏ trốn thì sao? Cọp bị chạm tự ái, nên để cho người trói lại. Vừa trói xong, anh ta lấy một cây to đến bên cọp và đánh cho đến khi cọp không còn sức vùng vẫy nữa, anh ta bảo: trí khôn của ta đây nầy. Con trâu nhìn thấy thế và mỉm cười cho cọp.
Con trâu nhận ra được sức mạnh của con người nên nó vâng phục và không cưỡng lại, nên nó được an toàn và được sức mạnh đó bảo vệ nó. Còn con cọp, không biết được thực chất như thế nào nên nó bị sức mạnh đó tiêu diệt nó.
Hai người con trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy, họ không phải là những người bốc đồng hay thay đổi. Nhưng người con thứ nhất biết suy nghĩ và nhận ra được giá trị đích thực của cuộc sống, anh nhận ra được sức mạnh của tình yêu thương nơi người cha, nên anh hối hận và quay trở về với tình yêu thương và thi hành những gì mà người cha bảo anh làm. Còn người con thứ hai, chỉ sống hời hợt bên ngoài, anh tưởng nghĩ có thể lấy lòng người cha bằng cử chỉ bên ngoài; anh đã lầm, người cha rất buồn và có lẽ cũng đang chờ đợi anh hành động theo như những gì mình đã nói. Người thi hành ý muốn của cha, mới là người vâng lời cha thực sự, chứ không phải người nói khác nhưng thực hành hoàn toàn khác là có giá trị.
Ngôn hành bất nhất là những gì thường thấy nơi con người. Khi con người chỉ biết có chính mình mà không biết đến người khác, khi đó lời nói và hành động khó mà đi đôi với nhau được.
Những gì là thường tình của con người, những gì là của câu chuyện ngày xưa, nó có phải là những gì của mỗi người trong chúng ta ngày hôm nay không?
Nhiều lần trong cuộc sống, mỗi người chỉ nhìn thấy chính mình, nhìn thấy những gì mình có, những gì mình làm được, để rồi mang niềm tự hào đến tự phụ kiêu căng. Khi đó, Thiên Chúa không còn hiện diện và không có giá trị cho cuộc sống, vì khi đó chỉ có tài năng sức lực con người là trên hết. Thiên Chúa dường như phải thi hành để trả lại cho con người những gì đã ban ra. Những lúc đó, chúng ta giống như con cọp trong rừng, không biết mình cũng không biết người, không giá trị của mình như thế nào. Nếu cứ ngoan cố trong những ý nghĩ và suy tư của mình như thế, thì số phận của chúng ta không khác gì số phận con cọp bao nhiêu.
Nhưng nếu trong cuộc sống, chúng ta nhận ra quyền năng Chúa, chúng ta cũng nhận ra được những giới hạn của chính mình, để biết quay trở về và vâng phục thánh ý Chúa thì hạnh phúc biết bao.
Những lần chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh, những lời cầu nguyện chân thành, cùng với những việc làm tốt đẹp mà chúng ta nhìn thấy nhu cầu cần thiết của người khác và đáp ứng cho họ. Đó là những lần chúng ta thi hành thánh ý Chúa bằng cả lời nói và việc làm. Cũng có những lúc chúng ta thấy bất mãn trong cuộc sống, muốn bỏ cuộc, muốn buông trôi tất cả, muốn hành động cho thỏa cơn nóng giận, nhưng chợt kịp suy nghĩ và ngưng ngay lại, vì nhận ra đây là những điều không đẹp lòng Chúa. Đó là những lúc chúng giống như người con thứ nhất, nói không rồi chợt hối hận để sẳn sàng thi hành những gì đẹp lòng Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho mỗi người để biết nhận ra Chúa trong đời sống, đồng thời cũng biết nhận ra những yếu đuối của chính mình để biết quay trở về với tình yêu Chúa.
----------------------------------
Mt 21, 28 – 32
Một trong những khả năng độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người là khả năng hồi tâm.: TN26-A102
Một trong những khả năng độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người là khả năng hồi tâm. Nghĩa là con người biết nhìn lại những lời nói hay những việc làm của mình. Nhìn lại để thấy đâu là những điều tốt cần phát huy và đâu là những điều chưa tốt cần phải sửa chữa.
Người con thứ nhất trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay, đã biết sử dụng một cách tuyệt vời khả năng ấy. Lúc đầu khi nghe người cha kêu đi làm vườn nho thì nó trả lời: “Con không đi. Nhưng sau đó nó đã biết hối hận và đi làm”. (Mt 21, 29). Ngược lại đứa con thứ hai thì nhanh chóng đáp lời cha. Tuy vậy, đáng tiếc là nó lại không đi.
Hình ảnh đứa con thứ nhất Chúa Giêsu muốn nói đến là những người được coi là tội lỗi nhưng biết thật lòng ăn năn sám hối. Còn hình ảnh đứa con thứ hai chính là những thượng tế và các kỳ lão trong dân Do thái thời ấy. Bên ngoài thì họ làm ra vẻ rất ngoan ngoãn. Nhưng thực chất họ không những không đón nhận những lời chỉ dạy của các tiên tri mà cũng chẳng đón nhận Người cũng như những lời dạy bảo của Người. Đến nỗi một lần nọ Chúa Giêsu đã nói: “Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác,và nói:"Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: "Ông ta bị quỷ ám." Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: "Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi." (Mt 11, 16 – 19).
Chúng ta thường nghe nói: “Đánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại”. Cho nên Chúa Giêsu đã tuyên bố với các ông ấy: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31b). Bởi lẽ: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21). Như thế, không phải là Chúa Giêsu nhượng bộ hay dung túng cho những người được coi là tội lỗi này. Nhưng quan trọng là vì họ đã biết hối hận, sửa đổi lại cách sống sai trái của mình.
Là con người yếu đuối không ai là không có những lần sai lỗi. Điều quan trọng là sau những lần lầm lỗi đó chúng ta có biết nghe lời Chúa để quay đầu lại hay không. Augustinô là một trong những mẫu gương sống động cho chúng ta.
Hãy biết trân trọng và sử dụng sao cho có hiệu quả ơn độc đáo mà Thiên Chúa đã ban cho con người chúng ta. Đó là khả năng hồi tâm và biết sửa đổi.
----------------------------------
Mt 21, 28 – 32
Lm Đan Vinh
1) LỜI CHÚA: Đức Giêsu nói với họ: "Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21, 31).
2) CÂU CHUYỆN: - NGUYÊN NHÂN SỨC MẠNH SIÊU PHÀM CỦA MỘT CÔ GÁI ĐIẾM
Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc: TN26-A103
Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc (Ashoka) đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô thi thố tài năng để có dịp tận mắt chứng kiến và biết rõ thực hư ra sao. Trước mặt nhà vua cùng các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng tụ tập bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô có thể ra lệnh cho dòng sông đang cuồn cuộn chảy phải thay đổi chảy ngược lại, gây ra những tiếng động ầm ầm giống như long trời lở đất. Đang khi đo, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hằng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông ngày một lầm than đói khổ ! Nhà vua không thể tin đươc một cô gái điếm, thuộc hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức mạnh siêu phàm như thế. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng: "Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như ngươi lại có thể làm được việc lớn lao phi thường như thế ?" Cô gái đáp:"Tâu Đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ !". Đức vua lại cười khẫy và văn hỏi:"Thế đức hạnh của ngươi ra sao ?". Cô đáp: "Tâu đức vua, đức hạnh của tiên nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám thường dân, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ người nào cả !".
Như vậy, theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã nêu tên Gio-an Tẩy giả và đòi những ai muốn được ơn cứu độ phải tin ông Gio-an và đi theo đường công chính của ông như sau: "Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy" (c 32).
- ĐIỀU KIỆN ĐỂ LỜI CẦU XIN ĐƯỢC CHÚA NHẬM LỜI ?
Một chàng thanh niên kia cứ thắc mắc tại sao Chúa không ban những ơn cần thiết cho những kẻ tin vào Người. Một hôm Chúa đã cho anh ta nằm mơ thấy mình được đi theo Chúa Giê-su khắp đó đây. Anh đã thuật lại câu chuyện xảy ra trong chuyến đi ấy như sau:
Hôm ấy khi được Đức Giê-su cho đi theo một đoạn đường đất đỏ dẫn đến một làng nghèo nàn kia, thì anh nhìn thấy một người đàn ông đang hì hục đẩy chiếc xe thồ chất đầy hàng đang bị ngã đổ nằm nghiêng một bên đường, vì bánh xe chẳng may bị sụt ổ voi trên đường. Bấy giờ người chủ xe liền quỳ xuống giơ hai tay lên trời và lớn tiếng cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa Giê-su, xưa Chúa hay thương giúp những kẻ gặp gian nan khốn khó. Xin thương cứu giúp con:Chiếc xe của con đang bị lật ở giữa nơi thanh vắng này. Con tin vào quyền năng mạnh mẽ của Chúa. Chúa chỉ cần phán một lời là chiếc xe của con sẽ lật lại được, để con có thể tiếp tục đến chợ bán hàng. Lạy chúa, xin hãy mau đến giúp con !". Cầu nguyện rồi, ông ta cứ quỳ mãi để chờ Chúa làm phép lạ theo ý ông xin. Bấy giờ anh chàng đi theo Chúa Giê-su cảm thấy bức xúc khi nghe lời cầu nguyện của người chủ xe. Nhưng anh rất ngạc nhiên khi thấy Chúa Giê-su làm như không nghe thấy gì và cứ tiếp tục đi qua chỗ anh ta đang quỳ cầu nguyện.
Một lát sau, hai người đến gần một cái chợ, anh chàng đi theo Đức Giê-su lại nhìn thấy một cảnh đổ xe tương tự. Anh ta nghe thấy người chủ xe chỉ cầu nguyện vắn tắt như sau: "Lạy Chúa Giê-su, con đang gặp tai nạn vượt quá sức con. Xin Chúa hãy soi sáng giúp cho con biết con phải làm gì để có thể vượt qua hoàn cảnh khó khăn này". Cầu nguyện rồi, ông ta tìm cách dựng chiếc xe đổ lên như cũ. Sau một lúc làm không được, ông ta chạy đến nhờ người đi đường đến giúp. Bấy giờ anh chàng theo Đức Giê-su thấy Người tỏ vẻ quan tâm tới người chủ xe này. Người bảo anh ta: "Con hãy mau đến hợp sức giúp anh ta một tay !". Khi chiếc xe đã được lật lên như cũ thì người chủ xe lại cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã thương sai người đến giúp con". Sau đó, hai người lại tiếp tục lên đường. Bấy giờ anh ta mới hỏi Đức Giê-su rằng: "Lạy Chúa, tại sao người chủ xe trước tha thiết cầu xin lâu giờ mà Chúa lại dửng dưng và không làm gì để giúp đỡ ông ta ? Đang khi người chủ xe sau chỉ xin Chúa một câu thôi, thì Chúa lại tận tình thúc giục nhiều người đến giúp ông ta như vậy ?". Bấy giờ Đức Giê-su mới ôn tồn giải thích cho anh ta hiểu như sau: "Con không thấy lời cầu nguyện của hai người khác nhau hay sao ? Người chủ xe trước đã cầu xin Ta làm phép lạ giúp cho xe ông ta được lật lên, còn chính ông ta chỉ biết chờ đợi phép lạ. Nhưng Ta không muốn người ta làm biếng làm việc và chỉ biết ỷ lại vào Ta, nên Ta đã để mặc ông ta tự xoay sở lấy. Còn người chủ xe sau chỉ dám cầu xin ơn soi sáng, rồi cố gắng làm hết sức mình để khắc phục khó khăn. Chính vì thế mà Ta đã ra tay trợ giúp bằng cách thúc giục nhiều người khác, trong đó có con, đến giúp đỡ cho ông ta".
Như vậy, qua câu chuyện trên, tác giả muốn nói rằng: Mỗi khi gặp một điều gì khó khăn, vượt quá sức lực tự nhiên, chúng ta hãy vừa cầu xin Chúa ban ơn soi sáng trợ giúp cho ta, nhưng đồng thời cũng phải cố gắng xử dụng những phương tiện tự nhiên Chúa ban để tự mình vượt qua sự gian nan ấy. Tục ngữ có câu: "Hãy tự cứu mình, rồi Trời sẽ trợ giúp". Hoặc câu khác: "Hãy thắp lên một ngọn đèn, chứ đừng cứ ngồi yên mà nguyền rủa bóng tối". Còn bạn, bạn thường có thái độ thế nào khi gặp hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn?
3) SUY NIỆM:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tuyên bố một câu khiến những người đầu mục dân Do Thái đương thời phải sững sờ: "Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông". Một số nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích từ "vào trước" không chỉ có nghĩa là "trước" so với "sau", nhưng là "thay thế". Vì các đầu mục Do Thái "đã không tin" (c 32), nên họ sẽ không được vào nước Thiên Chúa, chứ không phải sẽ "vào sau". Như vậy câu này có thể được dịch lại như sau: "Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa thay thế cho các ông". Nếu những người thu thuế và gái điếm đã vào Nước Thiên Chúa thế chỗ của các đầu mục Do Thái rồi, thì chắc họ sẽ bị loại ra ngoài Nước ấy.
- TẠI SAO CÁC ĐẦU MỤC DO THÁI LẠI BỊ MẤT CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã nêu ra lý do thứ nhất: "Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết " (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang tốt khi đã từng sống tốt và được người khác đánh giá tốt, nên không ngờ có thể một ngày nào đó mình lại trở nên xấu. Để rồi đến giờ chết, khi định vào Nước Thiên Chúa, thì mới hay mình không có chỗ trong đó ! Bài Tin Mừng cho biết lý do thứ hai: Người cha đến nói với đứa con thứ hai: "Con hãy đi làm vườn nho cho cha". Nó đáp: "Thưa vâng, con đi". Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30). Thực vậy, người ta thường hay tự lừa dối khi nghĩ rằng mình chỉ cần nói: "thưa vâng" với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã "thưa vâng" nhiều lần khi họ tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng thường "thưa vâng" như thế khi giữ một số điều luật như đi lễ, đọc kinh. Nhưng những lời "thưa vâng" như thế cũng không phải là điều kiện để ta có chỗ trong Nước Thiên Chúa sau này.
- TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM CHIẾM CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong bài đọc một đã cho biết lý do thứ nhất như sau: "Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh,thì nó sẽ cứu được mạng sống mình" (Ed 18,27). Lý do thứ hai là thái độ đứa con thứ nhất lúc đầu từ chối, nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi (Mt 21,29). Thực ra cả hai câu trên đều cho thấy một lý do là: Biết hối hận về sai lầm trong quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như đời thường về những người có quá khứ tội lỗi như trọm cướp, trùm ma-phi-a nhưng họ không những đã được biến đổi nên người tốt, mà còn có lòng vị tha bác ái đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống một đời sống mới dạt dào tình thương yêu người khác. Họ thật xứng đáng vào trong Nước Thiên Chúa để thay thế những kẻ đã từng sống tốt, nhưng đã biến chất trở thành những kẻ giả đạo đức như bọn đầu mục Do Thái thời Đức Giê-su.
- VẬY CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Ki-tô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng lòng tin bên trong phải được biểu lộ ra bên ngoài: "Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2, 17). Lòng tin không phải chỉ là tuyên xưng ngoài miệng, nhưng phải được tuyên xưng bằng chính cuộc sống như Đức Giê-su dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21). Dòng đời luôn thay đổi, và con người cũng dễ dàng đổi thay: Hôm nay có thể ta đang là một con người tốt, nhưng ngày mai lại hoá ra xấu và ngược lại. Do đó chúng ta đừng vội hãnh diện với quá khứ đạo đức của mình, đến nỗi không thấy được là mình đã thay đổi trở thành kẻ xấu. Cần năng tự kiểm vào mỗi cuối ngày để biết rõ con người thực của mình, mình có giữ lời hứa hay không. Vì dù ta có nói giỏi nói hay và hấp dẫn bao nhiêu đi nữa, nhưng nếu ta không giữ được lời đã hứa, hoặc "ngôn hành bất nhất" thì ta tự làm mất uy tín của mình và làm cho những lời ta nói không còn được mấy ai nghe. Mỗi ngày chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta thay đổi những sai lỗi hay thiếu sót để ta ngày càng sống tốt hơn và xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này.
4) THẢO LUẬN:
Học Lời Chúa, nghe giảng Kinh Thánh có cần hay không? Học Lời Chúa cho thông suốt để đi tranh cãi hay để đi rao giảng Tin Mừng cho người khác đã đủ chưa?
Việc sống Lời Chúa giữ đời thường có giá trị thế nào trong đời sống đức tin của bạn? Người ta thường nói: "Lời nói tốt xấu ra sao, thì con người tốt xấu như vậy". Vậy hiện tại lời nói của bạn đang là lời xây dựng hoà bình và tình yêu thương hay đang gây chia rẽ, hiểu lầm và phân tán?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thấy việc sám hối không phải là điều dễ, vì chúng con hiện chưa đủ khiêm tốn để lắng nghe người khác phê bình chỉ trích thói hư khuyết điểm của mình. Chúng con chưa dám tự nhận lỗi về phía mình như lời kinh thú nhận: "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng!". Nhưng chúng con cũng ngỡ ngàng khi thấy Chúa dù là Đấng vô tội, nhưng đã đứng xếp hàng chung với các tội nhân để chờ đến lượt được Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa cho. Qua hành động ấy, Chúa muốn mang thân phận tội nhân giống chúng con để nêu gương khiêm nhường cho chúng con.
LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết năng tự kiểm về tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu xót của mình mỗi ngày. Xin cho chúng con thường xuyên điều chỉnh lối suy nghĩ nói năng và hành động của mình để tránh ảo tưởng về mình, và khỏi trở thành những Pha-ri-sêu giả đạo đức trong thời đại hôm nay. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn hoán cải, dám cắt tỉa đi những thói hư tật xấu nơi bản thân con. Hy vọng sau khi đã được Chúa ban ơn tha thứ như ông Gia-kêu, chúng con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn, sẽ quảng đại để hiến dâng cho Chúa tất cả những gì chúng con có, để Chúa sẽ ban tất cả những gì Chúa có cho chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
2) LẠY MẸ MA-RI-A. Xin cho chúng con tránh được thái độ của người con thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay: Thưa vâng rồi để đó không làm. Nhiều lần chúng con đã đi xưng tội, đã tham dự các buổi tĩnh tâm sám hối, đã thưa vâng với Chúa. Nhưng rồi sau đó đâu lại hoàn đó. Chúng con vẫn sống như cũ, chẵng có gì thay đổi, chẵng thêm gì mới cả!
LẠY MẸ . Xin cho chúng con biết hoán cải giống như người con thứ nhất. Tuy lúc đầu có lỗi phạm, nhưng đã hồi tâm sửa mình, thay đổi đời sống nên tốt hơn, bằng một thái độ quyết tâm đổi mới, để sẽ sẵng sàng lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu thánh ý Chúa muốn và quyết tâm thực hành lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Xin cho chúng con luôn giữ lời đã hứa, nói ít làm nhiều và nhiệt thành cải thiện môi trường sống của chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
------------------------------
Mt 21, 28 – 32
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa nhật XXVI thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi: TN26-A104
Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa nhật XXVI thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi gặp được lòng nhân lành của Thiên Chúa tình thương. Quả thật, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán: "Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ " (Os 6, 6; Mt 9, 13). "Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống" (Ez 33,11). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở cho hết những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui khôn tả là cả thiên đàng sẽ vui mừng (x. Lc 15,10).
Chỉ có Thiên Chúa không qui kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là "Cha đầy tình thương xót" (2 Cr 1,3), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn, luôn muốn điều tốt cho con cái. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa thương xót sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.
Trách nhiệm của con người
Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta. Nên chúng ta không được hành động nửa vời: vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Tiên tri Ezekiel cảnh báo: " Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết " (Ed 18, 28).
Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói "vâng", "tôi biết", "tôi thực hành giáo lý" mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói "không" với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.
Chúa Giêsu lên án các thượng tế và kỳ lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21, 31). Các thượng tế và kỳ lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, nên họ sẽ không dung tha cho Chúa Giêsu: ít ngày sau, chính họ là những kẻ sẽ lên án tử cho Người. Đúng, sự đồi bại của kẻ công chính sẽ dẫn đến cái chết, thậm chí dẫn đến cái chết của những người vô tội, như Hêrôđê dẫn đến cái chết của các thánh Anh Hài!
Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước
Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: "Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước" (Mt 21, 31).. Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ.
Những người thu thuế, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Roma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.
Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện... như Maria Madalêna, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).
Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào nước Thiên Chúa trước: "Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài" (Mt 21, 32).
Hoán cải không bao giờ là muộn.
Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì Không phải mọi kẻ nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa", là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên trời" (Mt 7, 21).
Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho (x.Mt 21, 32). Qua đó, Chúa mở mắt những người Do Thái để họ hiểu rằng khi khép kín lòng mình trong sự bất chính và sai lầm của chính họ là một sự từ chối Nước Trời.
Họ nói "vâng" với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói "vâng" nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gưỡng về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch: những người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói "không" với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói "có", nên Chúa Giêsu tuyên bố: "Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi" (Mt 21, 43).
Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói "có" ... " Con không đi'. Nhưng sau hối hận và đi làm" (Mt 21, 29).
------------------------------
Mt 21, 28 – 32
LM Trương Đình Hiền
1. Người con thứ nhất là những ai ?
Dụ ngôn “Hai người con” được Matthêu tường thuật hôm nay chắc chắn nằm trong một loạt những: TN26-A105
Dụ ngôn “Hai người con” được Matthêu tường thuật hôm nay chắc chắn nằm trong một loạt những dụ ngôn được Chúa Giêsu sử dụng trong các cuộc tranh luận với những người ký lục và biệt phái, để vạch trần tính kêu căng, hợm hĩnh, giả hình, bất khoan dung… trong cung cách sống đạo và ứng xử với tha nhân của họ.
Không chỉ liên quan đến những người luật sĩ và biệt phái ngày xưa, lời dạy của Chúa Giêsu trong dụ ngôn Tin Mừng vừa được công bố vẫn còn nguyên giá trị giáo dục đức tin dành cho tất cả chúng ta hôm nay.
Bởi chưng, khi dừng lại để kiểm điểm cuộc đời, nào chẳng phải đã bao lần chúng ta cố tình quên mất thân phận tội lỗi của mình để kiêu căng hợm hĩnh tự cho mình là kẻ không làm điều gì gian ác, chu toàn lề luật “trăm phần trăm” và an nhiên tự tại với lối sống đạo và đối nhân xử thế đầy sai lệch và ích kỷ của mình đó sao !
Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu mạnh mẽ lên án những người Ký lục và Biệt phái nói mà không làm, bắt kẻ khác giữ lề luật nhưng chính họ lại trốn tránh..Thì hôm nay, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy thể hiện niềm tin không chỉ bằng lý thuyết hay lời nói suống; mà phải là những chứng nhân sống động trong mối quan hệ thân tình với Thiên Chúa và nghĩa thiết với anh em.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã từng dị ứng với cách hành đạo của những luật sĩ và biệt phái khi họ bắt kẻ khác giữ những điều tỉ mỉ, có khi chính họ đã bày vẽ ra để chất thêm gánh nặng cho kẻ khác, nhưng chính họ lại phủi tay chẳng buồn thực hiện; thì hôm nay Lời Chúa cũng đang thúc bách chúng ta hãy chu toàn những điều bé nhỏ nhất cùng với anh chị em trong tình hiệp thông và liên đới cộng đoàn.
Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã thẳng mặt vạch trần lối sống đạo giã hình, kiêu căng, tự hào công chính và kế thừa di sản đức tin chính truyền, biến lề luật thánh thành những điều lệ vô căn cứ, biến Lời Hằng Sống của Thiên Chúa thành một mớ những giải thích vòng vo, những nghiêm lệnh nặng nề… để gạt ra ngoài những kẻ yếu đuối, tội lỗi, thấp cổ bé miệng…; thì hôm nay Chúa Giêsu cũng muốn dạy bảo chúng ta như Ngài đã dạy bảo dân Do Thái cách đây 2000 trước con đường "thực thi đức công chính mới" mà thái độ trước tiên chính là sám hối hoán cải, đó cũng chính là Tin Mừng mà ngay từ buổi xuất hiện công khai Ngài đã long trọng công bố: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14)
Mà chân lý nầy đâu có phải mới mẻ gì đâu ! Đó cũng chính là điều mà Thiên Chúa đã từng phán dạy ngày xưa trong thời Cựu ước như hôm nay chúng ta đã nghe sách sứ ngôn Ê-dê-ki-en trong bài đọc 1: “Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình…”. Đó cũng chính là điều mà dụ ngôn Tin Mừng hôm nay đã khắc họa bằng chân dung “người con thứ nhất”.
- Người con thứ nhất đó chẳng phải là một Lêvi bỏ bàn thu thuế, đứng dậy theo Đức Kitô để trở thành Tông Đồ sao ?
- Người con thứ nhất đó chẳng phải là một Maria Mađalêna với những giọt nước mắt sám hối chân thành nhỏ trên chân Chúa để từ đó đứng lên làm lại cuộc đời trong ánh sáng và tình yêu sao ?
- Người con thứ nhất đó chẳng phải là một Gia Kê với thái độ tò mò đến ngây thơ trèo lên cây sung để nhìn cho được mặt Chúa, rồi sau đó tiếp rước Chúa vào nhà mà bắt đầu một cuộc sống mới sao ?
Và - Người con thứ nhất đó chẳng phải là tên tử tội sắp sửa lìa đời đã ngước nhìn về phía của Chúa Chịu đóng đinh với những lời thân thương và đầy lòng trông cậy: “Khi Thầy vào Nước của Thầy, xin nhớ đến tôi”…Và Chúa đã hứa chắc: “Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”,
Vâng, - Người con thứ nhất đó cũng chính là những người mà Ngài đã long trọng công bố đích danh ngày nào trước mặt những ký lục và biệt phái: “Người thu thuế và hạng gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông”.
Phải chăng đó là một “nghịch lý của Tin Mừng, mà nói như Bosuet “sự trái ngược chỉ có Thiên Chúa mới làm được” hay như văn hào Mauriac: “Trong những tâm hồn trước đây lửa dục vọng nung cháy thì Chúa đến khơi lên một bầu lửa tình. Họ biết rằng họ càng dơ bẩn thì càng được Chúa thương nhiều. Thương nhiều vì dơ bẩn nhiều”.
Đó chính là tinh thần khiêm hạ, khó nghèo của Chúa Kitô đã chọn lựa để nhập thể, để sống và để chết như Thánh Phaolô đã khắc họa trong thánh thi Philip được công bố trong BĐ 2 hôm nay:
"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nổi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự...".
Cuộc đời đó, giáo huấn đó có gì xa lạ với nhịp sống đức tin của chúng ta hôm nay. Chính vì thế, ở giữa lòng Hội Thánh, trong "Vườn Nho Giáo Hội" hôm nay chúng ta hãy xin mãi được trở thành những "người con thứ nhất".
2. Xin được làm những “người con thứ nhất” !
Và cộng đoàn Giáo Hội ngay từ thuở ban đầu đã được làm nên bởi phần đông những con người như thế: những kẻ đã từng bỏ Thầy chạy trốn như các Tông Đồ, chối Thầy ba lần như Phêrô, bắt bớ đạo Chúa như Phaolô, những cô gái điếm hoàn lương, những anh chàng mù sáng mắt, những phụ nữ lẻo đẻo tháp tùng Chúa đi lên đồi Sọ, những bà góa nghèo chỉ có mấy đồng xu ten để bố thí, những kẻ phung cùi lành bệnh, những thanh niên đã từng bị quỷ ám, những trẻ thơ được Chúa chúc lành, người phụ nữ bệnh hoạn đã từng chạm đến gấu áo Chúa Giêsu…
Và sau đó, trong ký ức của Hội Thánh, chúng ta lại đọc thấy bao nhiêu bóng dáng những “người con thứ nhất” như:
- Augustinô đã có một thời thanh niên buông thả và lầm lạc, nhưng rồi, nhờ những giọt nước mắt nguyện cầu của người mẹ tuyệt vời Monica, sau đó đã trở thành Giám Mục và Giáo phụ thời danh của Hội Thánh trong những thế kỷ đầu tiên.
- Phanxicô Assisi, chàng thanh niên giàu có lêu lổng, đã một lần nghe tiếng gọi của Lời Chúa và cương quyết dấn thân vào con đương hẹp của Tin Mừng. Cuộc đổi đời và sám hối đó đã thổi vào Giáo Hội lúc bấy giờ và mãi cho tới hôm nay một luồng gió canh tân trở về nguồn cội của Tin Mừng.
- Trong lịch sử Giáo Hội Viêt Nam, cũng không thiếu những Chứng nhân anh hùng, như các Thánh Phan Viết huy, Bùi Đức thể, Đinh Đạt, là những quân nhân, dù cho đã có lần yếu đuối chối đạo, nhưng sau đã trở lại cương quyết làm chứng đức tin và đã anh dũng lãnh nhận cành lá thiên tuế Tử đạo…
Phải chăng đó là “những người con thứ nhất” mà dụ ngôn Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu từng ám chỉ. Và như thế, “Vườn Nho của Cha” mãi mãi đang cần những hạng “người con thứ nhất” đó để đi vào canh tác và xây dựng, để chăm sóc và giữ gìn. Và như thế, tất cả chúng ta đều có lý do để hân hoan cảm tạ, để phấn chấn và hy vọng ắp đầy. Bởi vì chúng ta đang thấy mình trong chân dung của “Người con thứ nhất”, người con đã hơn một lần nghe tiếng Cha vẫy gọi “Hãy đi làm vườn nho cho Cha nhé!” nhưng đã yếu đuối khước từ vì biết bao lỗi lầm thiếu sót, bao phản bội vong ân…
Sám hối ăn năn, làm lại cuộc đời, phải chăng đó chính là của lễ mà Chúa ưa thích nhất: “Tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát., một tâm hồn tan nát dày vò Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50), và đó cũng chính là tâm tình khiêm hạ và vâng phục của chính Chúa Giêsu, một chọn lựa căn bản để Ngài hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại (BĐ 2), một tâm tình mà mỗi người chúng ta luôn luôn mang lấy theo mình như lời thúc dục của Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay: “anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu-Kitô”. Và chính trong tâm tình đó, chúng ta sẽ nhiệt thành đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa trên mọi nẻo đường đời: “Con hãy đi làm vươn nho cho Cha nhé”… bằng lớp đáp khiêm nhu: “xin cho con mãi được làm người con thứ nhất”…
------------------------------
Trang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai người con, họ nhận cùng một lời mời gọi của cha: TN26-A106
Trang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai người con, họ nhận cùng một lời mời gọi của cha nhưng với hai thái độ khác nhau.
Người con thứ nhất
Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi. Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.
Người con thứ hai
Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng Tế, Kinh Sư, Pharisêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta có thái độ "ngôn hành bất nhất", "nói mà không làm", “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả.
Người con thứ hai ám chỉ những Thượng Tế, Kinh Sư và Pharisêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.
Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.
Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống.
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.
Nói ít làm nhiều
Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.
Nói nhiều làm ít
Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. ( x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, Gm. Vũ Duy Thống ).
Nói và làm, hai thái độ sống
Sau câu hỏi, Chúa Giêsu xác định một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Những Thượng tế, Kinh sư và Pharisêu không chịu nghe lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối. Có hạng người nói không làm và hạng người làm không nói.
Người nói mà không làm
Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.
Người không nói nhưng lại làm
Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.
Những bài học
Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng:
Việc làm quan trọng hơn lời nói
Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nỗi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” ( 1 Ga 3, 18 ).
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật Sĩ, Pharisêu, Kinh Sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” ( Mt 7, 21 ). Đức Tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là Đức Tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức Tin không có việc làm là Đức Tin chết” ( Gc 2, 17 ). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
Hãy làm một cách khiêm tốn
Những người Pharisêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải "đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài" để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisêu "ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy".
Khi phê phán người Pharisêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: "Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo… Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy… Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh" ( Mt 6, 1 – 6 ). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.
Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen.
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU AN
------------------------------
Mt 21, 28 – 32
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa Giêsu đã rao giảng Nước Thiên Chúa, Ngài muốn biến trần gian trở nên Nước Trời. Chính vì: TN26-A107
Chúa Giêsu đã rao giảng Nước Thiên Chúa, Ngài muốn biến trần gian trở nên Nước Trời. Chính vì thế, Ngài đã mời gọi các tông đồ, các môn đệ đi theo Ngài để Ngài giao cho nhiệm vụ mở mang Nước Trời. Chúa muốn qui tụ, cứu độ mọi người. Ai đón nhận và tích cực thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, biến trần gian, thế giới trở nên Nước Thiên Chúa thì người ấy thuộc về Chúa, và là con cái của Ngài.
Hôm nay, Chúa Giêsu đem ra một dụ ngôn nữa để dạy dỗ các người Pharisêu, Kinh sư và Biệt phái, đồng thời cũng nói lên quan điểm, lập trường của Ngài về những người được cứu rỗi.
Dụ ngôn này, được Chúa Giêsu đặt vấn đề theo thể văn đối thoại, đòi những người nghe phải trả lời, để một đàng gây chú ý hào hứng, vừa dễ dàng đánh đổ đối phương bằng phương pháp dĩ độc trị độc, gậy ông đập lưng ông ( Mt 21, 31 ). Điều này, trong Cựu Ước, chúng ta đã đọc thấy nơi sách 2 Samuen chương 12, 1-14. Thực tế, hai người con, chúng ta đã đọc thấy trong dụ ngôn ‘ người con hoang đàng ‘, ở đây được hiểu là dân Do Thái và dân ngoại giáo, tuy nhiên trong dụ ngôn này được hiểu về các thượng tế, luật sĩ, biệt phái, các người thu thuế, đàng điếm, tội lỗi. Tất cả đều bình đẳng trước Thiên Chúa và cùng được Chúa yêu thương mời gọi làm vườn nho cho Chúa. Giả sử, có sự phân biệt, bất bình đẳng bởi vì công việc của mỗi người sẽ làm đối với Lời Chúa mà thôi.
Tin Mừng cho hay người con thứ nhất, Cha bảo nó đi làm, nó nói không đi nhưng sau hối hận, nghĩ lại rồi đi. Người con thứ nhất tượng trưng cho những người tội lỗi, lúc ban đầu đã không đi vào con đường ngay chính, con đường thật, sau hối cải, ân hận đi vào con đường ngay chính. Người con thứ vâng dạ ‘nói đi’, nhưng lại không đi. Người con này ám chỉ các chức sắc Do thái lúc đó, lúc đầu họ luôn trung thành vâng theo và đi vào con đường Cựu Ước. Nay, những lời cựu Ước được thực hiện thì họ lại không đi vào.
Điều quan trọng dụ ngôn này muốn dạy chúng ta là Hành Động, chứ không chỉ Nói suông. Làm chứ không chỉ Nói. Và như vậy, người con thứ nhất đã đạt được yêu cầu. Thánh Matthêu trong dụ ngôn này còn cho hay hai hạng người thu thuế và gái điếm, đều là những con người tội lỗi nhưng họ đều vào được Nước Trời vì họ đã hoán cải và tin. Tin Mừng cũng nói đến kẻ trước người sau không chỉ theo nghĩa thời gian nhưng còn là thay thế chiếm chỗ vv…Thánh Gioan Tẩy Giả vừa là người công chính, vừa là người thi hành sứ vụ giúp con người, loài người, nhân loại dọn lòng đón Đấng công chính. Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi mọi người hoán cải vì Nước Chúa đã gần đến. Ngài đã cương quyết, mạnh mẽ cảnh giác những người biệt phái và bè Xađôc, nhưng họ đã không nghe ngài và cũng không chịu để ngài thanh tẩy.
Chúa Giêsu đã rất gắt gao với những người coi mình là đạo đức, thánh thiện, công chính bằng việc họ nói mà không làm. Điều này, chúng ta thấy rõ nơi người Pharisêu, Biệt phái, Kinh sư. Họ nói nhiều, giả hình, giả bộ, đạo mạo bề người, nhưng trong lòng đầy gian tà, đúng như Chúa nói:’ mồ mả tô vôi ’. Điều này cũng đang đúng với nhân loại ngày nay, khi mà có rất nhiều người nói một đàng làm một nẻo. Có những người chỉ mang danh Kitô nhưng thực ra họ không nghe, không thực thi Lời của Chúa. Chúa Giêsu đã có lần nói:” Không phải những ai nói’ lạy Chúa, lạy Chúa ‘ là được vào Nước Trời nhưng họ còn phải thực thi Lời Chúa ‘ ( Mt 7, 21 ). Chúa luôn nói với chúng ta: Hôm nay con đi làm vườn nho cho Ta… Đừng cứng lòng ( Tv 94, 7-8 ).
Xin mượn lời của Viện phụ Grégoire Zufferey để kết luận bài chia sẻ sáng nay:” Chỉ có người duy nhất nói tiếng vâng bằng miệng và nói cùng một tiếng vâng ấy bằng hành động của mình, bằng những cái nhìn của mình, bằng những tương quan luôn thấm đẫm sự thật và lòng tế nhị, bằng những lúc thinh lặng, bằng cả con người mình…Chỉ có một người duy nhất nói tiếng vâng bằng lời nói và việc làm của mình:đó là Đức Giêsu Kitô.
Người thưa: vâng, thưa Cha, con sẽ đi làm việc trong vườn nho của Cha dưới đất.Bằng cuộc nhập thể của Người, bằng cuộc sống và cái chết và sự phục sinh của Người, hành động của Người như là một tiếng xin vâng thường trực đối với ý Cha của Người.Về phần chúng ta, chúng ta thưa vâng với mệnh lệnh thánh hóa ngày Chúa nhật, ngày của Chúa…Đôi tay chúng ta tự động chắp lại để cầu nguyện, đôi tay chúng ta, trong Thánh Lễ, đưa ra để trao hay nhận một cử chỉ chào bình an. Nhưng hãy coi chừng, qua những cử chỉ ấy, chúng ta cam kết từ chối bo bo giữ lại của cải hay đặc ân nào đó. Những cử chỉ ấy nhắc cho ta nhớ rằng không thể từ chối đưa tay ra giúp đỡ bất cứ người nào !Để sống có thủy có chung, phải là những bàn tay biết phát minh những cách chia sẻ, những bàn tay chịu đi tới chỗ dính đồ dơ bẩn, mà chính nhờ vậy mà được giữ gìn trong trắng “.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con biết Chúa yêu thương chúng con bằng một tình yêu cao vời vô giá. Chúa yêu chúng con bằng tất cả con người của Chúa. Mỗi người chúng con không chỉ là một con số, nhưng tất cả chúng con đều có chỗ trong trái tim yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con biết chia sẻ niềm vui, đem ơn cứu độ đến cho người khác,bởi vì ơn cứu độ của Chúa trải rộng đến mọi người.Amen.
------------------------------
Mt 21, 28 – 32
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ngày nay người ta đề cao vai trò của “thế giới kỹ thuật số”. Vì thế, họ vận dụng nghành kỹ thuật này: TN26-A108
Ngày nay người ta đề cao vai trò của “thế giới kỹ thuật số”. Vì thế, họ vận dụng nghành kỹ thuật này như một phương tiện tối ưu cho vấn đề quảng bá trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi nghành này phát triển, họ đã không ngừng “kỹ xảo hóa” để làm bắt mắt người tiêu dùng và khai thác sự tò mò của người dân. Từ đó, sự gian trá trong lãnh vực này cũng leo thang. Nhiều người đã bị những viên: “Thuốc đắng bọc đường” đánh lừa.
Còn trong lãnh vực cuộc sống nhân sinh, con người ngày nay cũng đang phải đối diện với thực trạng tốt - xấu lẫn lộn. Khó có thể biện phân được đâu là người chân tình; đâu là người dối trá; đâu là người xây dựng, đâu là người phá hủy! Lý do là vì họ được bao bọc bởi cái mã bên ngoài rất tinh vi, quỷ quyệt!
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra hai hạng người tốt - xấu; thật - giả thông qua hình ảnh trong dụ ngôn: “Hai người con”, để nhằm giúp cho mọi người hiểu rằng: giá trị đích thực không phải ở chỗ nói nhiều, nhưng là thi hành đúng. Không phải ở chỗ nịnh hót, mà là toàn bộ đời sống của người đó có “ngôn hành đồng nhất” hay không.
1. Ý Nghĩa dụ ngôn
Khởi đi từ sách tiên tri Isaia giới thiệu về cách hành xử của Thiên Chúa như sau: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9), bởi vì: “... tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Thật vậy, đường lối của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối và tư tưởng của con người. Với chúng ta thì dễ nhìn về quá khứ và đóng khung trong đó như một định luật bất di bất dịch, hầu kết án hay khoan hồng. Nhưng với Thiên Chúa thì Người nhìn và hướng về tương lai để mong sao cuộc đời của mỗi người được tốt đẹp hơn và có cơ hội trở lại. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đạt được điều hoàn thiện lại không phải phụ thuộc vào lời nói, mà là nơi hành động.
Để làm sáng tỏ vấn đề trên, Đức Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh của hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Người thứ nhất không đi, nhưng sau lại đi. Người con thứ nhận đi, sau lại không đi.
Hình ảnh đứa thứ nhất được Đức Giêsu ám chỉ là những người tội lỗi, thấp cổ bé họng, bị xã hội ruồng bỏ. Họ cũng là những người dân ngoại, thu thuế và gái điếm, bị người Dothái khinh miệt. Vì thế, họ không dám tham gia vào công việc làm vườn của người cha, nhưng sau khi hiểu được lòng tốt của cha, họ đã sám hối, an tâm, can đảm và vui vẻ thi hành cách trung thực.
Còn đứa thứ hai là hình ảnh đại diện cho những Thượng tế, Kỳ lão, Luật sĩ và Biệt phái Dothái. Những người này luôn luôn tự hào mình là con cái Tổ Phụ Abraham, dòng dõi các Tiên tri và là những người trung thành với luật Maisen. Vì thế, cái vé vào Nước Trời là chắc chắn. Họ coi các dân tộc khác là những hạng người bị ruồng bỏ, là đứa con hoang, những hạng người như thu thuế, gái điếm thì khái niệm Nước Trời cũng không thể hiện hữu trong tâm tưởng phương chi nói gì đến ơn cứu độ!
Vì sẵn có tính tự kiêu, tự coi mình là con cưng, được ưu tuyển. Nên ban đầu, họ cũng nhận cho hài lòng người cha, nhưng vì kiêu ngạo, tự mãn, họ lại không làm. Điều này cho thấy, họ thuộc hạng người nịnh hót, nói một đàng, làm một nẻo.
Kết cục, Đức Giêsu phán: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16a); bởi vì: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31).
Đó là câu chuyện Tin Mừng thời Đức Giêsu, nhưng ngày nay, điều đó có còn không?
2. Thật giả vẫn luôn tồn tại
Chỉ cần ngồi lại để suy nghĩ một chút, chúng ta thấy hiện lên trong đầu rất nhiều tình huống thật giả, tốt xấu lẫn lộn đan xen quá nhiều. Nhất là trong lãnh vực quảng cáo. Họ tuyên truyền, thổi phồng tin tức, sự kiện để làm hấp dẫn điều muốn nói. Hay trong lãnh vực Marketing, người ta quảng bá những sản phẩm chất lượng tối ưu, bán chạy như tôm tươi, nhưng thực chất chỉ là thứ hàng giỏm, hàng giả.
Đôi khi điều đó là hành vi của những người xung quanh. Nhưng cũng không chừng, đó lại là của chính chúng ta!
“Căn bệnh giả dối” là đầu mối sinh ra những xói mòn về đạo đức, niềm tin của con người, từ đó phát sinh ra những suy thoái về giá trị tinh thần, nhất là làm lu mờ lương tâm.
Điều đáng nói là sự giả dối nó lan tràn và gần như là chuyện bình thường trong xã hội, nếu không muốn nói là nó đã trở nên ông chủ tồi chỉ đạo cuộc sống! Vì thế, nhiều khi muốn sống lương thiện cũng khó, làm người tử tế trong bối cảnh hiện nay không dễ!
Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì bậc thang giá trị không còn phụ thuộc vào sự thật nữa, cán cân công lý được điều chỉnh bằng tiền, quyền. Gian dối là bình thường, thật thà lại là bất thường, là ngu dốt, là kém cỏi... Vì thế, người ta thường có câu nói mỉa mai như sau: “Chân lý, chân giò cùng một giá”; “Lương thực, lương tháng và Lương Tâm bằng nhau”.
Thật vậy, nếu ai đóng kịch giỏi và giống thì sẽ được tôn vinh, kính trọng. Trong khi đó, người sống liêm chính thì phải chịu thân phận của 8 chữ “t”: “Thật thà thẳng thắn thì thường thua thiệt”. Còn kẻ vô tài, thất đức, lẻo mồm, tâng bốc, nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm láo, báo cáo hay”.
Vì vậy, không thiếu gì cảnh: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều). Những người này thường dùng chiêu thức: “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa che lại”, vì thế, họ ưa sống hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất bên trong trống rỗng. Họ thuộc hạng người: “Khác nào quạ mượn lông công. Ngoài hình xinh đẹp trong lòng xấu xa” (Ca dao), nên không sớm thì muộn, họ bị đặt nghi vấn: “Trông anh như thể sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không” (Ca dao).
Đứng trước thực trạng như thế, chúng ta nhiều khi thông cảm với cảm thức của người Việt là thích ứng và tùy nghi. Tuy nhiên, là người Kitô hữu, chúng ta không thể sống kiểu: “Gió chiều nào che chiều đó”. Sống như thế là trái với đạo lý của Tin Mừng, nghịch với Lương Tâm ngay thẳng. Khi sống như thế, ta chẳng khác gì một cây tầm gửi, hay ký sinh trùng ăn nhờ ở đợ người khác, nên khi họ bị thất thế, ngã gục thì cũng chết theo.
Thật vậy, chúng ta có thể "lừa dối vài người mãi mãi, có thể lừa dối mọi người một lúc nào đó, nhưng ta không thể lừa dối mọi người mãi mãi được". Là người Kitô hữu, chúng ta phải nằm lòng câu nói sau: “Mất tiền là mất ít, mất người là mất nhiều, nhưng mất niềm tin là mất tất cả!”.
3. Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về đường ngay nẻo chính để được hạnh phúc, bằng không sẽ phải chết trong sự thất vọng: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình”(Ed 18, 26-27).
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta cần loại bỏ tư tưởng đạo đức giả và cho mình thuộc hàng công chính, rồi sống trong sự tự mãn, kiêu căng. Đừng mang danh là Kitô hữu nhưng thực tế không có “chất Kitô”. Luôn có tinh thần sám hối, quay trở về với Chúa. Không được có thái độ tự ti để rồi tự nhận mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để buông xuôi trong sự thất vọng.
Mong sao tất cả chúng ta, mỗi người luôn ý thức rằng mình đều là những người đang lữ hành, nên chưa phải là hoàn hảo. Vì thế: “Không hề có tình trạng đã thành một Kitô hữu mà chỉ có trong tình trạng đang trở thành một Kitô hữu” (Soren Kierkegaard).
Nếu: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt là do ma quỷ mà ra”. Thực hành lập trường “ngôn hành đồng nhất”, nếu không sẽ dễ dẫn đến tình trạng “mâu thuẫn nội tại”. Và chúng ta bị rơi vào tình trạng nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như người: “Nói thì đâm năm chém mười, đến khi tối trời chẳng dám ra sân” (Tục ngữ).
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thuộc về sự thật và trở nên chứng nhân cho sự thật, bởi vì chỉ có sự thật mới giải thoát được chúng con mà thôi. Amen.
------------------------------
Mt 21, 28 – 32
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Kinh Thánh là một kho tàng vô giá bảo toàn tất cả những điều Thiên Chúa mạc khải về sự khôn ngoan: TN26-A109
Kinh Thánh là một kho tàng vô giá bảo toàn tất cả những điều Thiên Chúa mạc khải về sự khôn ngoan, các giá trị về đức tin, luân lý đạo đức và ân sủng cứu độ. Thiên Chúa đã chọn gọi các tổ phụ, cha ông, các tiên tri, tư tế và thầy dậy để ban truyền huấn lệnh và đường lối chính trực. Toàn bộ Kinh Thánh được hình thành trải qua cả ngàn năm tỏ bày sự khôn ngoan thương trí của Thiên Chúa. Các ngôn sứ và đặc biệt một số tác giả của sách Huấn Ca, sách Khôn Ngoan, Châm Ngôn và Thánh Vịnh… đã chia sẻ những trải nghiệm sống đức tin qua các biến cố thời đại. Khi thời gian đã mãn, Chúa Giêsu xuống trần đi rao giảng, Ngài đã khai mở một kho tàng ân sủng và con đường chính thật dẫn vào Nước trời. Trong tất cả các sách vở suy niệm, giảng giải, chia sẻ và các giáo huấn luôn nói lên những lời lẽ tích cực tốt đẹp, khuyên dạy và hướng thiện. Sứ mệnh rao giảng là mời gọi mọi người ăn năn hối cải, sửa đổi đời sống, nên gương tốt lành, làm việc siêng năng, cư xử hiền hòa, trau dồi nhân đức và thực hành bác ái yêu thương.
Tiên tri Ezekiel khuyến khích dân chúng hối lỗi để tìm về nguồn sống: Nếu kẻ gian ác, bỏ đường gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống (Ez 18, 27). Ngay từ thuở ban đầu mới tạo dựng, sự ác đã len lỏi vào lòng trí của loài người. Tổ tiên Adong và Evà đã bị sa vào cạm bẫy chiều theo ma quỉ và Cain cũng sa đà phạm tội giết em. Satan cứ rảo quanh tìm mồi để cắn xé. Con người yếu đuối dễ bị hướng chiều về đàng dữ. Chúng ta đang sống giữa một xã hội vàng thau lẫn lộn. Có nhiều người đang tiếp tay với ma quỉ để mở đường dẫn lối nhiều người đi xa lạc. Sự hướng dẫn của một số nhà lãnh đạo đã bị biến chất và tha hóa. Một số thầy dậy bị lôi kéo theo những thị hiếu của con người thời đại. Nhiều nhà lãnh đạo không còn giữ lập trường kiên định trong vấn đề luân lý đạo đức. Phần lớn thế hệ trẻ ngày nay nhìn vấn đề cuộc sống rất tương đối và tự do trong nhiều lãnh vực. Sự tốt sự xấu cận kề khó phân biệt. Những giới điều tôn giáo dần dần bị loại ra khỏi nơi công cộng hay trường lớp. Rất nhiều người không có định hướng cho lý tưởng sống, nhưng chỉ sống vui thỏa qua ngày.
Canh tân sửa đổi đời sống không phải luôn luôn dễ dàng. Trước hết, tự vấn là chúng ta có muốn cải thiện đời sống nên tốt lành thánh thiện hay không? Chúng ta có thể cậy dựa vào đâu để tìm một nguyên lý căn bản chính thật cho lý tưởng sống? Trong xã hội loài người, có rất nhiều niềm tin, ý thức hệ và quan niệm sống khác nhau. Vả nữa, nơi nhiều dân nước, chế độ, xã hội và tôn giáo có những chủ trương thực hành đạo lý khác biệt. Về tiêu chuẩn đạo đức luân lý cũng khó phân biệt. Một vấn đề đối với người này có thể là xấu, nhưng với người khác lại là hợp lý và tốt lành. Tùy theo cách nhìn vấn đề ở khía cạnh khách quan hay chủ quan và về khuynh hướng chính trị, xã hội, thương mại, tôn giáo, đạo đức và luân lý nhân bản. Chúng ta phải tìm về nguồn sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tỏ bày. Chúa đã mạc khải con đường hướng thiện qua chính Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô. Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống.
Giáo Hội dùng mọi cách trong mọi thời để nhắc nhở, khuyến khích và mời gọi mọi người hối lỗi bỏ đường gian tà mà trở về với Thiên Chúa. Từ xa xưa, tiên tri Ezekiel đã mở lối cho những người lầm lạc: Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống, chớ không phải chết (Ez 18, 28). Tiên tri nói đến sự sống viên mãn nơi quê trời, nơi niết bàn và là nơi an hưởng hạnh phúc. Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về sự yếu đuối, sa ngã và phạm tội. Thú thật, trong đời sống có một sự hấp dẫn vô hình nào đó kéo lôi chúng ta trì trệ trong vũng lầy của tội lỗi. Lạ một điều, dù biết là tội, biết là lỗi, nhưng chúng ta không muốn hối cải, tránh xa, trút bỏ, từ bỏ hay xưng thú. Đôi khi, chúng ta cứ khất lần để phạm thêm tội cho nhiều, rồi mới đi xưng tội. Hình ảnh thí dụ: Khi chúng ta có chiếc áo trắng mới tinh, một vết dơ nhỏ, chúng ta cũng cảm thấy khó chịu và muốn giặt sạch ngay. Khi áo đã cũ và ngả mầu, chúng ta không màng nữa, dơ cho dơ luôn. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy ăn năn hối cải và sửa đổi đời sống, vì chúng ta không biết ngày giờ sẽ đến. Sự hối lỗi trở về không bao giờ trễ.
Câu truyện về hai người anh em được cha sai đi làm vườn nho trong bài Phúc Âm hôm nay, giúp chúng ta suy gẫm về cuộc sống đạo của mình. Thường khi chúng ta hay có những phản ứng tiêu cực nhất thời khi chưa kịp nghĩ suy như cãi lời, phản ứng gay gắt, chối từ và phủ nhận. Nhưng rồi suy đi nghĩ lại, chúng ta có những đáp trả tích cực hơn. Trong câu truyện, người cha muốn con đi làm vườn nho: Nó thưa lại rằng: Con không đi. Nhưng sau đó hối hận và đi làm (Mt 21, 29). Chúng ta không lấy làm lạ về cách hành xử thường ngày này. Già trẻ lớn bé, ai cũng vướng phải. Trải qua kinh nghiệm trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội, chúng ta cần có sự kiên nhẫn và tâm tình quảng đại trong việc đối xử với nhau. Vì ai cũng có khả năng để thay đổi nên tốt hơn. Miễn là cho mỗi người một cơ hội.
Lồng trong câu truyện của hai anh em, Chúa Giêsu nhìn rõ hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Có nhiều người nghĩ mình tốt lành và thánh thiện, nên không cần hồi tâm xét mình. Do đó, một số người đã đánh mất cơ hội cho chính mình. Họ hay liếc mắt hướng về người khác, giơ tay chỉ trích phê bình anh em, khó chịu với cách buông thả và khinh khi lối sống của những người đang bị lầm lạc. Chúa Giêsu lên tiếng: Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông (Mt 21, 31). Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu làm chúng ta phải giật mình. Chúa nhìn thấu tâm can và lòng thành của mỗi người. Chúa ban cho ai nhiều, Chúa sẽ đòi hỏi lại nhiều. Chúa đã ưu đãi ban cho muôn vàn ân sủng và cơ hội để đổi mới, nhưng chúng ta lại cứ chứng nào tật ấy mà dậm chân tại chỗ. Thật ra, chúng ta không cần chờ đợi tới ngày mai, ngay lúc này đây, hãy dùng đôi phút xét mình, đấm ngực mình, hối lỗi, tìm cách sửa lỗi và xin ơn tha thứ.
Từ khi trở về cùng Chúa, thánh Phaolô rất nhiệt tâm thay đổi lối sống của chính mình và viết thơ khuyên bảo nhiều anh chị em: Chớ làm điều gì bởi cạnh tranh hay bởi tìm hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi kẻ khác vượt trổi hơn mình (Phil 2, 3). Có nhiều gương mù gương xấu đã xảy ra giữa các cộng đoàn dân Chúa. Cũng chỉ vì cái hư danh hão huyền mà gây xung đội. Sự cạnh tranh giữa các tín hữu đã xảy ra ngay từ khi thiết lập những cộng đoàn đức tin đầu tiên. Các tín hữu không tránh khỏi những thói tục trần thế. Vì Nước Trời giống như mẻ cá bắt được mọi thứ cá, lớn bé và tốt xấu. Giáo Hội là một cộng đoàn tín hữu, cần có hoàn cảnh và môi trường tốt lành để mọi người được học hỏi trau dồi nhân đức. Khiêm nhường là nhân đức căn bản giúp chúng ta học biết chính mình và tha nhân.
Thánh Phaolô đã viết 12 lá thơ gởi cho các cá nhân và các giáo đoàn. Ngài đã dùng nhiều cách để diễn tả tâm tình, đôi khi vì quá nhiệt tâm, đã dùng những lời lẽ cứng rắn, sửa đổi gay gắt, khiển trách nặng nề và trách mắng chua cay. Cũng có lúc tâm tình rất nhẹ nhàng yêu thương. Trong thơ gởi cho tín hữu Corintô, Ngài viết: Anh em hãy dành cho chúng tôi một chỗ trong lòng anh em. Chúng tôi không làm hại ai, không làm cho ai phải sạt nghiệp và không bóc lột ai (2Cor 7, 2). Nhiều khi những lời giáo huấn chân thật của Giáo hội và các chủ chăn cũng làm cho chúng ta cảm thấy chướng tai khó chịu. Tự hỏi: Tại sao chúng ta phải sám hối, phải ăn năn hối cải, phải hy sinh và phải đi vào con đường hẹp? Chúng ta nên nhớ rằng lời khuyên dậy của Giáo Hội luôn vì phần rỗi của chúng ta mà thôi.
Lạy Chúa, Chúa đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Phil 2, 8). Xin cho chúng con kiên trì dõi theo lối bước của Chúa để tìm về nguồn hoan lạc đời đời.
Nguồn vietcatholic.org
----------------------------------
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đặt chúng ta trước một người cha hiền lành và nhân hậu truyền bảo: TN26-A110
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đặt chúng ta trước một người cha hiền lành và nhân hậu truyền bảo hai người con của mình đi làm vườn nho. Thực vậy, hình ảnh người cha này chính là hình ảnh Thiên Chúa của Đức Kitô, hoàn toàn trái ngược với hình ảnh Thiên Chúa mà các thượng tế đã giới thiệu cho người Do Thái.
Đúng thế, người ta thường hay vẽ ra một Thiên Chúa thích trừng phạt và áp đặt những mệnh lệnh độc đoán, khác hẳn với hình ảnh Thiên Chúa do Đức Kitô mạc khải, là một người cha nhân từ và tha thứ. Ngay cả lệnh truyền của Ngài cũng chỉ là một lời mời gọi: Hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha.
Thái độ của hai người con cũng trái ngược nhau một cách đặc biệt. Hình ảnh hai người con có lẽ đã diễn tả được tính chất mâu thuẫn của hai quan niệm biết Chúa và sống đạo.
Người con thứ nhất khẳng định tự do của mình bằng tiếng không với cha anh. Nhưng sau đó, anh đã suy nghĩ lại và đã quy thuận, đặt tự do của mình phục vụ lợi ích chung của gia đình qua việc thi hành ý muốn của cha. Có một sự giằng co trong chọn lựa của anh. Để thực thi ý muốn của cha, anh đã phải can đảm từ bỏ cách sử dụng tự do theo tính tự phát của cái tôi ích kỷ, của những sở thích, những dục vọng đi ngược lại với hạnh phúc chung của gia đình xã hội.
Trái lại người con thứ hai từ đầu đến cuối đã tỏ ra bất nhất, vô trách nhiệm đối với ích lợi chung và chỉ biết có mình. Câu trả lời của anh ta: Thưa cha vâng, thật ra chỉ là một câu nói hình thức, dửng dưng, máy móc nhằm mục đích đánh lừa người cha. Anh ta không yêu mến cha mình và do đó cũng tỏ rõ mình là người ích kỷ, không thể yêu thương bất cứ một ai khác. Vì tình yêu không ở trong những điệu bộ khách sáo, đầu môi chót lưỡi mà phải đi vào hành động đi vào việc làm.
Trong thực tế, phần đông chúng ta đều cảm thấy khó mà thực thi ý Chúa bởi vì nó ngược với sở thích vị kỷ cá nhân của mình. Thái độ tránh né vốn là thái độ thường tình, nhất là khi gặp phải khổ đau và thử tháchy. Phải chấp nhận sự trăn trở, giằng co, chiến đấu với bản thân rồi mới nhìn ra thánh ý Chúa và can đảm thực hành. Giá trị cuộc đời chúng ta chủ yếu là nhờ sự phản tỉnh và quay trở lại cùng Chúa.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy còn đầy dẫy những chuyện bê bối, tiêu cực, chẳng hạn, vấn đề tham nhũng, trộm cắp và những tội phạm hình sự. Có lúc ở rất gần chúng ta, ngay bên trong giáo xứ và biết đâu, ngay bên trong bản thân chúng ta. Thử hỏi chúng ta phải làm gì? khoanh tay lên án theo kiểu Pharisêu hay kiên trì hành động, làm cho tình trạng nói không với Chúa, trở thành tình trạng nói có với Chúa, bằng một lòng xác tín vào tình thương tha thứ của Ngài. Bởi vì Ngài luôn luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, nếu chúng ta biết sám hối quay trở về với Ngài.
----------------------------------1
Đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm. Vì mọi người đều mắc phải lầm lỗi nên bất cứ ai cũng: TN26-A111
Đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm. Vì mọi người đều mắc phải lầm lỗi nên bất cứ ai cũng cần phải sám hối và sửa mình. Mắc phải lầm lỗi thì không đáng lên án, nhưng thái độ ngoan cố không nhận lỗi, không ăn năn hối hận và chìm đắm trong tội là điều tai hại và rất đáng tiếc. Thế nên, hôm nay Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học rất quan trọng giúp chúng ta ăn năn phục thiện để trở thành người tốt.
Để cụ thể hoá bài học của mình, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn sau đây: Một người cha có hai con. Sáng hôm ấy, ông đếnvới đứa con thứ nhất và bảo nó: "Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha". Nó ương ngạnh trả lời: "Không! Con không đi!". Người cha buồn lòng lặng lẽ quay sang đứa khác, mời nó ra vườn làm việc với ông. Cậu nầy dạ dạ vâng vâng: "Con sẽ đi!", nhưng rồi không thấy tăm hơi đâu cả. Sau đó, người con thứ nhất hồi tâm lại, thấy được sai trái của mình nên hối hận vác cuốc ra đồng cùng làm với cha.
Thế là người con thứ nhất, dù ban đầu có phần ương bướng, nhưng biết xét lại, biết nhận ra lỗi mình và có quyết tâm sửa chữa nên đáng tuyên dương. Khi nói với các thượng tế và kỳ lão rằng: "Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông", Chúa Giêsu có ý chê trách những người nầy vì không biết ăn năn sửa lỗi đồng thời ngợi khen những người tội lỗi biết sám hối ăn năn sửa mình.
Chúa Giêsu còn đặc biệt tỏ lòng yêu mến đốivới những người biết hối cải qua câu chuyện người cha nhân lành và đứa con phung phá. Khi người con hoang đã phá sạch cả nửa gia tài với bọn đàng điếm nhưng rồi biết hồi tâm lại, biết thống hối ăn năn và quyết tâm chỗi dậy trở về cùng cha thì người cha quên hết mọi lầm lỗi của nó, chạy ra ôm hôn nó, tiếp đón nó với tất cả tình yêu thương.
* Vào những năm kinh tế còn khó khăn, gia đình ông Tư sắm được một chiếc xe máy Honda đời 67. Ông ra công bảo quản nó rất chu đáo; ngày ngày tỉ mỉ lau chùi từng chân căm, rồi lại dành ra cả tấm mền để trùm cả chiếc xe cho khỏi bụi. Ông cưng xe hơn cưng con, chẳng cho ai đụng đến. Nếu xe bị trầy, ông vô cùng xót xa. Nếu xe có gì trục trặc, dù rất nhẹ, ông phải đưa ra thợ sửa chữa liền. Trong khi đó, bản thân ông mang nhiều tật xấu, thói hư, bị hàng xóm láng giềng chê cười xa lánh, thì ông chẳng quan tâm sửa mình.
Bản thân con người quý hơn xe cộ cả triệu lần, nhưng khi bản thân hư hỏng, xuống cấp… nhiều người không cho là quan trọng! Xe hư, máy hư thì lo sửa liền, còn người hư thì cứ để mặc. Cứ để hư cho đến chết thì thôi! Thật là điều phi lý.
Khi mặt mày chúng ta lem luốc vì lọ nghẹ hay dầu mỡ, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa cho sạch sẽ ngay. Khi thấy áo quần dơ bẩn và rách rưới, chúng ta sẽ thay áo khác liền. Khi cơ thể chúng ta dơ dáy và bốc mùi hôi, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa ngay không trì hoãn.Vậy thì khi tâm hồn chúng ta lem luốc, dơ bẩn vì tội lỗi thói hư, lẽ nào chúng ta lại cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác sao?
Trong công nghệ thông tin hay sản xuất hàng tiêu dùng, việc cải tiến chất lượng sản phẩm là vấn đề sinh tử của các công ty. Châm ngôn của các nhà phát minh và chế tạo là: “Cải tiến hay là chết.” Thế nên người ta không ngừng rà soát lại những nhược điểm của sản phẩm và phải khắc phục bằng mọi giá trước khi tung ra thị trường.
Giá trị con người vượt xa giá trị hàng hoá cả triệu lần. Ước gì trong lĩnh vực đạo đức, mỗi người cũng rà soát lại những khuyết điểm của mình để cải thiện cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa. Nguyện xin Chúa Giêsu ban ơn giúp sức cho chúng ta thực hiện được công cuộc cải thiện tối cần thiết nầy.
----------------------------------
Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo nói về “đổi mới tư: TN26-A112
Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo nói về “đổi mới tư duy”, Ông thường ký tên NVL. Nhiều người nghĩ đơn giãn đó là 3 chữ viết tắt tên của ông, (tên của ông nếu viết tắt thì đúng là 3 mẫu tự đó), như nhiều tác giả thường làm như vậy, nhưng khi được hỏi vì sao ông không ký tên trọn vẹn mà lại chỉ viết tắt, ông nói bút hiệu NVL của ông nó có nghĩa là “nói và làm”.
Đọc những bài báo đó, không biết chúng có thay đổi được gì thực tế xã hội không, nhưng chúng phản ánh một xã hội mà nhiều người đang có trách nhiệm trực tiếp trong guồng máy xây dựng xã hội thời điểm đó đang lâm cơn bệnh “nói nhiều làm ít”, thậm chí “nói mà không làm”, và còn hơn thế nữa, “nói một đàng làm một nẻo”.
“Nói nhiều làm ít” là thứ bệnh phóng đại, phô trương.
“Nói mà không làm” là thứ bệnh nói dốc, nói láo.
“Nói một đàng làm một nẻo” là thứ bệnh lường gạt, thủ đoạn, thâm độc.
Cách sống “nói và làm” kiểu đó sẽ đưa đến một xã hội phi đạo đức, vì đạo đức không thể cùng tồn tại với giả hình và bịp bợm.
Một con người chân chính bao giờ cũng coi trọng Việc làm hơn Lời nói. Bởi chỉ bằng những hành động thực tế mới chứng tỏ được mình suy nghĩ có đúng không, có ý chí thể hiện những suy nghĩ tâm huyết thành hành động thực tế hay không. Và chính điều đó cho biết anh là ai, là người có đáng tin cậy hay không. (…)
Vậy mà cho đến nay, căn bệnh khoa trương thích Nói nhiều Làm ít vẫn còn tồn tại trong xã hội chúng ta. Có lẽ căn bệnh này cũng là anh em chí cốt của căn bệnh thành tích và háo danh ở không ít các cấp, các ngành trong xã hội chúng ta. Điều này làm hạn chế tầm nhìn, không dám nhìn thẳng vào sự thật và nói đúng sự thật. Chỉ muốn đề cao thành tích mà không dám nhìn tới cội nguồn của khuyết điểm, càng không dám nhận trách nhiệm đúng mức về khuyết điểm, nhất là trách nhiệm cá nhân. Chính điều đó làm cho xã hội trì trệ, không bứt phá lên được trước những cơ hội mới cũng như thách thức mới. (Dân Trí).
Đối với xã hội trần gian còn như thế, huống cho là đối với Tôn Giáo. Không ai có thể là bậc chân tu tháng ngày miệt mài kinh kệ nhưng lại lạnh lùng trước những nỗi thống khổ của bá tánh.
Để “nói đúng” và ‘làm đúng”.
Để “Nói và làm” cho đúng, điều trước tiên, là cần phải nhận biết đâu là “đường công chính”. Không nhận biết đâu là “đường công chính”, thì không thể suy nghĩ và hành động đúng được.
Trong Tin Mừng hôm nay, những thượng tế và kỳ mục Do Thái chính là những người “sai lầm” từ cơ bản, họ không nhận ra đâu là “đường công chính”. Không có nền tảng sự thật thì dựa vào đâu để nói và làm hợp với lẽ phải được?
“Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy” (Mt.21,32).
Những thượng tế và kỳ mục không tin vào Gio-an, và từ đó, cũng không tin vào Chúa Giêsu, vì Gio-an làm chứng về Chúa Giêsu.
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. (Ga.1,29).
Và như vậy, tiếng kêu gọi sám hối của Gio-an không được những thượng tế và kỳ mục đón nhận, đơn giãn, vì họ không thấy họ sai lầm. Họ đang lầm đường lạc lối mà họ vẫn nhất quyết mình đang đi trên đường công chính.
“Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”(Ga.21,32).
Họ là những người mù mà vẫn tự cho mình là sáng mắt.
“Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy’, nên tôi các ông vẫn còn!”. (Ga.9,41).
“Sáng mắt”, đối với Tin Mừng, là “nhận biết” Chúa Giêsu, nhận ra “đường công chính”, và nhận ra Thiên Chúa đích thật.
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy." (Ga 14,6)
Chính nhờ Chúa Giêsu, con người mới nhận ra trọn vẹn Tình Yêu Thiên Chúa. Nhận ra ý muốn Thiên Chúa.
Nhưng các thượng tế và kỳ mục đã “mù” đến mức loại trừ Chúa Giêsu. Họ giảng dạy cho dân về Giới Luật Thiên Chúa, nhưng lại loại trừ Thiên Chúa, vì đường lối Thiên Chúa không như lòng họ mong muốn!
Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng:
Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật của phàm nhân. (Mt.15,7-9).
Đúng theo “Thánh ý Chúa”.
Người Ki-tô chân chính luôn luôn tự hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. - “Ý muốn Thiên Chúa” chính là lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các nghe hãy vâng nghe lời Người!” (Mt.17,5).
Vâng nghe Lời Chúa, là thực hành theo thánh ý Chúa, làm theo Lời Chúa dạy. Là thực thi Giới Luật Yêu Thương của Chúa Giêsu – Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng: "Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: "Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta". (Mc.3,31-35).
“Bản án” dành cho những người chỉ biết “nói mà không làm”.
Đại diện điển hình cho những người “nói mà không làm” trong Tin Mừng, đó là những người Pha-ri-sêu và cả những nhà thông luật. Điệp ngữ “khốn cho các ngươi… Khốn cho các ngươi…” được lập đi lập lại nhiều lần cho thấy mức độ quan trọng của lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với những hạng người này.
Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà…
Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa…
Khốn cho cả các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào…
Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất dấu chìa khóa của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản… (Lc.11,37-52).
Đừng noi theo những hành vi của họ!
Trong cuộc sống, Xưa và Nay, Đạo và Đời, ta luôn gặp những người “Nói mà không làm”, nổi bật nhứt, là những người có chức việc cao, có quyền lực lớn!
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm. (Mt.23,1-12).
Năm 2000, có mùa lũ lớn, một thầy tu cấp cao đã lớn tiếng hô hào tín đồ của mình hãy chia sẻ cơm áo cho những người đang gặp bất hạnh. Khi mùa lũ qua đi, trong một bữa tiệc, có người hỏi: - “Thưa ngài, ngài có đi đến nơi nào trong vùng lũ lụt vừa qua không?”. Vị thầy tu khả kính cười đáp: - “Tôi không biết lội!”. Có thể đây chỉ là một câu nói đùa, nhưng cũng... rất có ý nghĩa!
Thật ra, trong cuộc đời có biết bao người “thành đạt” mà không cần làm những gì mình nói, nhờ biết ứng xử “khôn ngoan”, thí dụ mấy quan nịnh thần, khéo uốn ba tấc lưỡi thôi, thì được thăng quan tiến chức, ngồi không hưởng bát vàng, xoa tay nhìn đời lòng ung dung tự tại: - “Âu cũng là số phận!”.
Thế nên, núp ẩn đằng sau những ngôn ngữ từ thiện, bác ái, yêu thương, rất nhiều khi có những việc làm hoàn toàn có mục đích ngược lại!
Trong Cổ Học Tinh Hoa, có câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được “. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy gì nữa. Thôi, các ngươi cứ cho tôi, sau này tôi có giàu, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
Ngày 15 tháng 9 năm 2011, nhà xuất bản Vatican, Giuseppe Costa đã tổ chức triển lãm 600 tác phẩm của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, nay là Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI.
Cuộc triển lãm được trình bầy cho Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo, nhưng cũng đã được mở ra cho các du khách tại Vatican và ngày 24 tháng 9 tại trụ sở của nhà xuất bản Herder tại Freiburg.
Trong dịp này, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi rất cảm động và khá ngạc nhiên được thấy số lượng các sách vở tôi đã viết. Hy vọng của tôi là những lời tôi viết trong đó không chỉ đến và đi, nhưng giúp cho các độc giả nam và nữ tìm được hướng đi của họ."
“Nói và làm” vì Đạo Hiếu.
Đạo hiếu dạy ta phải biết vâng lời cha mẹ. Một đứa con hiếu thảo luôn là đứa con biết vâng lời cha mẹ, luôn muốn làm cha mẹ vui lòng.
Thiên Chúa là Cha, và mọi người là con cái Thiên Chúa và là anh em với nhau. Đức Tin của chúng ta gói trọn trong Giới Luật Yêu Thương “Kính Chúa yêu người”. Tất cả những gì chúng ta nói và tất cả những gì chúng ta làm đều nhắm đến mục đích làm “sáng danh Chúa và phục vụ anh em”.
Đạt được điều đó, chúng ta sẽ là những đứa con ngoan trong Gia Đình Thiên Chúa.
Một đứa con ngoan luôn tuân theo “Giới Luật Thiên Chúa”, “Nói và Làm” những gì Thiên Chúa đã dạy.
"Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời" (Mt 7,21).
Lạy Chúa,
Lời Chúa dạy quá cao siêu,
Con nói thì nhiều, làm được bao nhiêu!
Xin tha thứ những điều con thiếu,
Đỡ nâng con, lạy Chúa Tình Yêu. Amen.
-------------------------------
1.- Ngữ cảnh
Nhìn vào dàn bài tổng quát của phân đoạn gồm các chương 21 và 22, ta nhận ra đặc tính bút chiến của: TN26-A113
Nhìn vào dàn bài tổng quát của phân đoạn gồm các chương 21 và 22, ta nhận ra đặc tính bút chiến của ba dụ ngôn Đức Giêsu kể ra nhằm biện minh cho kế hoạch của Thiên Chúa:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-32) xác định trong Israel có những người tội lỗi thực sự vì bất phục tùng.
2) Dụ ngôn Những tá điền sát nhân (21,33-43) vạch trần kế hoạch sát nhân của người Do Thái và loan báo chương trình của Thiên Chúa là sắp chuyển sứ mạng của người Do Thái cho Dân ngoại (c. 45 cho thấy rằng các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ, và như thế là gián tiếp nhìn nhận dự tính sát nhân của họ).
3) Dụ ngôn Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) gom lại các dữ kiện của hai dụ ngôn trước (từ khước vì bất phục tùng, sát hại người con trai, hủy diệt những kẻ sát nhân, kêu gọi những người khác).
Ba bài dụ ngôn này cũng được trình bày tiệm tiến (làm việc, cung cấp hoa trái, đến dự tiệc).
Dụ ngôn Những người thợ làm vườn nho (20,1-16) đã nêu bật rằng Thiên Chúa không hề bị lệ thuộc hành vi con người; Ngài hoàn toàn tự do và tốt lành. Trong dụ ngôn Hai người con, Đức Giêsu cho thấy lần nữa rằng thi hành ý muốn của Thiên Chúa là một bổn phận không thể tránh né.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm ba phần:
1) Dụ ngôn Hai người con (21,28-30);
2) Câu hỏi đặt ra cho thính giả (21,31);
3) Bài học kết thúc (21,32).
3.- Vài điểm chú giải
- Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai (28): Đức Giêsu hỏi ý kiến của các thính giả và cả các đối thủ của Người. “Người kia” tượng trưng Thiên Chúa; còn “hai người con” tượng trưng cho hai thành phần làm nên Dân Thiên Chúa vào thời Đức Giêsu: những người “tội lỗi”, không tuân giữ Lề Luật và các quy định của kinh sư, và những người “công chính” trung thành với tôn giáo chính thức, ở đây là các thủ lãnh của Dân. Cả hai bên đều được gọi là “con” của Thiên Chúa.
- nó hối hận (30): Tác giả Mt không dùng động từ “hoán cải” (metanoeô) mà là động từ metamelomai, chỉ có ở đây và ở Mt 27,3, nhưng được dùng nhiều trong Bản LXX theo nghĩa là “quay trở về với Thiên Chúa” (Ed 14,22; Tv 105,45; Xh 13,17…). Metamelomai có thể có nghĩa đơn giản là “thay đổi tâm trí, nghĩ lại”, nhưng ở đây, cũng như ở c. 32 và 27,3, rất có thể cũng có nghĩa là “hối hận”. Động từ này không có trọng lượng thần học của động từ metanoeô.
- vào Nước Thiên Chúa trước các ông (31): Động từ proagô thường có nghĩa là “đi trước”, nhưng ở đây có nghĩa là “chiếm chỗ”. Đây là một kiểu nói A-ram.
- Nước Thiên Chúa (31): Cụm từ basileia tou theou (Nước Thiên Chúa) không thông dụng trong Mt, nó đến từ truyền thống có trước, nhưng cũng có ý nghĩa như basileia tôn ouranôn (Nước Trời)
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn này được đặt trong khung cảnh một cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và kỳ mục trong dân (x. 21,23). Sau khi Người đã khéo léo từ chối trả lời họ về nguồn gốc của “quyền” của Người, Đức Giêsu kể dụ ngôn Hai người con. Dụ ngôn này mở đầu và kết thúc bằng một câu hỏi mà họ phải trả lời.
* Dụ ngôn Hai người con (28-30)
Cả hai người con đều được cha đề nghị với giọng thân tình là đi làm vườn nho cho ông. Phản ứng của họ hoàn toàn khác nhau. Người thứ nhất trả lời bằng một câu “Con không muốn” khô khan và bất lịch sự, không đưa ra một lý do nào. Nhưng rồi anh nghĩ lại, “hối hận” (metamelêtheis), và đi làm việc trong vườn nho. Người thứ hai đáp lại bằng một câu “Con đây, thưa ngài! (egô kyrie)” lịch thiệp và khả ái: một kiểu xưng hô hợp với một nô lệ hơn là với một người con; anh hứa vâng phục. Tuy nhiên, anh lại không đi đến vườn nho.
* Câu hỏi đặt ra cho thính giả (31)
Câu hỏi của Đức Giêsu (“Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”, c. 31a) quá rõ là chỉ có thể có một câu trả lời mà thôi. Người đã thi hành ý muốn của cha chỉ có thể là người con đã đi làm việc trong vườn nho mà thôi. Do đó, câu trả lời của họ là: “Người thứ nhất”. Nhưng vì đây là một dụ ngôn nhắm đưa tới một quyết định mang tính pháp lý làm mẫu, khi trả lời, họ đã tuyên bố án xử trên chính họ.
Với một câu có từ amen long trọng mở đầu, Đức Giêsu lại quay về trực tiếp với các đối thủ và áp dụng dụ ngôn vào họ. Những người thu thuế và những cô gái điếm là hai nhóm người ở bậc thấp nhất trong hệ thông tôn giáo đương thời và về giá trị luân lý. Họ là những con người bị coi là không có phẩm cách cả về tôn giáo lẫn luân lý, nhưng lại được Đức Giêsu đặc biệt chiếu cố đến (x. Mc 2,13-17; Lc 18,9-14; 7,36-50; Ga 7,53–8,11). Họ sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước các nhà lãnh đạo Israel.
Như thế, khi trả lời Đức Giêsu, các nhà lãnh đạo Do Thái đã phải tuyên bố chính bản án về mình. Tuy nhiên, không dễ mà áp dụng dụ ngôn vào họ, vì các khác biệt quá lớn. Đâu là sự đối lập giữa nói và làm mà bài dụ ngôn nêu bật? Có bao giờ họ đã thưa vâng với lời Gioan và Đức Giêsu công bố về Nước Thiên Chúa, mà rồi không chịu áp dụng giáo huấn của các ngài? Phải chăng những người thu thuế và các cô gái điếm đã vâng theo, rồi nay loại bỏ? Lại càng khó áp dụng câu amen (c. 31c) vào cuộc tranh luận cụ thể về quyền bính của Đức Giêsu và về phép rửa của Gioan ở cc. 23-27. Dường như cả dụ ngôn lẫn áp dụng ở c. 31c đều không liên hệ gì đến Gioan Tẩy Giả cả. Do đó, trong c. 32, tác giả Mt tìm cách làm sáng tỏ cách áp dụng và xây dựng mối liên kết với cc. 23-27.
* Bài học kết thúc (32)
Câu kết thúc liên kết dụ ngôn và cách áp dụng vào cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với các thượng tế và các kỳ mục ở cc. 23-27. Đức Giêsu thấy xuyên qua những chuyện họ thì thầm với nhau (c. 25). Bây giờ Người mới trả lời cho câu hỏi chính Người đặt ra về Gioan Tẩy Giả, và Người nói thẳng vào mặt các đối thủ: Gioan “đã đến với các ông trong đường công chính”, nhưng các ông đã không tin ông ấy. Có nghĩa là các ông đã không vâng lời ông ấy và nhìn nhận quyền bính thần linh của ông ấy. Do đó, các ông đã không hối hận (oude metemelêthête), và lại còn tệ hơn cả hai người con trong bài dụ ngôn. Cụm từ “trong đường công chính” (en [h]odô dikaiosynês) không phải là một công thức Kinh Thánh theo mặt chữ, nhưng ngôn ngữ Kinh Thánh vẫn nhắc nhớ rằng phải sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Đây là hướng phải theo để hiểu bản văn của chúng ta. Công thức này một đàng nhắc độc giả nhớ đến 3,15, là câu nói về sự công chính mà Gioan thực hiện khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, đàng khác, nhớ đến 11,18, là câu nói đến Gioan “nhà khổ hạnh” (“không ăn không uống”) “đến”. Câu 31c hàm ý là “những người thu thuế và các cô gái điếm”, không giống các nhà lãnh đạo Do Thái, “đã tin” Gioan. Câu này sai niên biểu (anachronism), bởi vì chúng ta chỉ nghe nói đến Đức Giêsu, chứ chưa bao giờ nghe nói đến Gioan như là người có quan tâm đặc biệt đến các người thu thuế và các cô gái điếm. Tuy nhiên, ý tưởng rút ra từ c. 31c là quan trọng: vị trí trước nhan Thiên Chúa của các thượng tế và kỳ mục một bên và các người thu thuế và gái điếm bên kia đã bị đảo ngược. Điểm khác biệt là ngữ cảnh đã làm cho từ “(đi) trước” tương đối của c. 31c trở thành một phân biệt tuyệt đối. Họ tin – nghĩa là vâng phục – trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái thì không. Trong khi các nhà lãnh đạo Do Thái đã thấy những người bị khinh dể đến với đức tin, kinh nghiệm vẫn không làm cho họ phải ghen tức (x. Rm 11,14), nên họ không giống người con thứ nhất, “sau đó (hysteron), đã hối hận”. Đối với tác giả Mt, “sau đó” đã đi đến hiện tại của ngài. Chính ngài và Hội Thánh ngài biết rằng “sự hối hận” này vẫn chưa xảy ra ngay ngày hôm nay.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy chúng ta đừng phê phán về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo một bảng phân loại các hạng người hoặc thể theo những cam kết về lý thuyết hay nguyên tắc. Nói cho cùng, chính cách xử sự cho thấy đáy lòng.
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn Người con hoang đàng, ta có thể thấy được là các quan hệ giữa Đức Giêsu và giới lãnh đạo Israel xấu đi rõ ràng. Người con nói không, rồi hối hận, có lẽ ít đáng bị trách hơn đứa con hoang đàng, nhưng người con nói vâng mà không làm gì cả thì bị phê phán nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tị. Trong bài dụ ngôn Luca (ch. 15), thính giả có ấn tượng là người cha gia đình còn hy vọng bao trùm sự ghen tương tồi tệ của đứa con cả bằng tình thương của ông. Nhưng khi nghe dụ ngôn Hai người con, ta đoán ra rằng Đức Giêsu không còn hy vọng hoán cải người Pharisêu được nữa. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy Giả, họ đã thấy những người thu thuế và các phụ nữ tội lỗi hoán cải, thế mà họ không hề băn khoăn nghĩ ngợi! Sự chai đá của họ thật vô phương cứu chữa!
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta học nơi Đức Giêsu bài học là không có nhận định kiểu thành kiến về giá trị tôn giáo của người ta dựa theo cách phân loại các hạng người tùy các dấn thân theo nguyên tắc hay các lý thuyết của họ. Chỉ lối sống thực tế mới cho thấy lòng dạ con người.
2. Dù đã nói “không”, hoặc đã sống xấu xa, chẳng một ai lại phải tuyệt vọng. Câu trả lời đầu tiên không phải là lời quyết định, nếu ta không ở lại trong lời ấy, nếu ta biết điều chỉnh nó và vượt thắng nó bằng lối cư xử đúng đắn tiếp sau. Và lối xử sự đúng đắn của những người trước đấy đã sống sai lạc hẳn là phải thúc đẩy những người vẫn tự nhận là tốt lành đi đến hoán cải, nhưng không khiến họ bắt chước hành động trước đây của mình.
3. Cần phải đi tìm biết ý Thiên Chúa và mau mắn đón nhận. Cần phải nhận biết các sứ giả Thiên Chúa gửi đến nhằm thông tri cho ta biết ý muốn của Ngài. Từ khước lấy lập trường là một cách lấy lập trường chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Lời nói không thể thay thế hành động hữu hiệu. Đã nói là vâng theo ý Thiên Chúa thì phải nghiêm túc thực hiện thánh ý Ngài trong đời sống mình.
4. Dù chúng ta hay người anh em có thế nào, tất cả đều là con của cùng một Cha, được Ngài thương trọn vẹn, tín nhiệm trọn vẹn, và giao công việc đồng đều: chăm sóc chính vườn nho của Ngài. Chúng ta có biết nhận ra vinh dự đó mà sống cho nghiêm túc đời sống và sứ mạng của mình, đồng thời giúp anh chị em cũng sống được như thế chăng?
------------------------------
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN, A (2011)
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 21:28-32)
Đối với người Pha-ri-sê và các kinh sư, Chúa Giê-su luôn nói thẳng nói thật. Ý của Người là muốn: TN26-A114
Đối với người Pha-ri-sê và các kinh sư, Chúa Giê-su luôn nói thẳng nói thật. Ý của Người là muốn họ nhìn thẳng vào sự thật, can đảm chấp nhận sự thật dù là phũ phàng và nhất là thành tâm thay đổi theo như sự thật đòi hỏi. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su áp dụng một “chiến thuật” mới. Trước hết Người kể một dụ ngôn rất thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày: câu chuyện một người cha bảo hai đứa con hãy đi làm vườn nho cho ông. Người con thứ nhất lúc đầu từ chối, nhưng sau đó hối hận và đi làm theo lời cha dạy. Còn người con thứ hai lúc đầu tỏ ra sẵn sàng, nhưng rồi lại không đi. Sau câu chuyện, Chúa Giê-su hỏi các thượng tế và kỳ mục là đứa con nào đã làm theo ý cha. Người muốn dẫn họ tới một chân lý không thể chối cãi. Họ trả lời đúng: “Người con thứ nhất”.
Đến đây, chúng ta nghĩ rằng họ đã đoán được Chúa Giê-su muốn nói gì. Nhưng thái độ cố chấp và kiêu căng của họ là tuy không thể chối cãi sự thật của câu chuyện dụ ngôn, nhưng lại không muốn áp dụng vào hoàn cảnh của chính họ, nên bắt buộc Chúa Giê-su phải nói thẳng với họ bằng những lời đanh thép. Người nói lên một sự thật phũ phàng về chính họ: Họ vỗ ngực xưng mình là những người công chính, nhưng thực ra họ còn thua kém những người thu thuế và những cô gái điếm, thua kém chính những người họ từng khinh miệt là “những kẻ tội lỗi”. Tại sao họ lại thua kém? Vì đứng trước cùng một lời kêu gọi sám hối của ông Gio-an Tẩy giả, “những kẻ tội lỗi” kia đã nghe lời kêu gọi của ông mà sám hối và thay đổi cuộc sống; còn họ thì vẫn cứ cho là mình công chính, không cần làm theo lời kêu gọi của ông Gio-an.
Trong câu chuyện dụ ngôn, ý muốn của người cha là hai đứa con ông hãy đi làm vườn nho để giúp ông và để sinh thêm hoa lợi cho gia đình. Còn trong áp dụng dụ ngôn ấy vào cuộc sống chúng ta, Chúa Giê-su muốn chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa Cha đã tỏ ra cho chúng ta biết ý muốn của Người qua lời giảng của ông Gio-an Tẩy giả, là chúng ta phải thay đổi cuộc sống để “vào Nước Thiên Chúa”. Hai người con trong dụ ngôn đều là những người có lỗi với cha mình, một người có lỗi vì lúc đầu đã cãi lại lời ông, một người có lỗi vì đã lừa dối ông. Họ khác nhau ở một điểm duy nhất: biết hối lỗi để làm đúng theo ý của cha mình. Trong đời sống, chúng ta đều có cả hai hình ảnh của người con, là những kẻ tội lỗi. Vấn đề khác nhau là chúng ta muốn chọn làm người con thứ nhất, biết “hối hận” mà tin Chúa Ki-tô, hay là chọn làm người con thứ hai, chỉ “nghe lời Chúa” bằng tai mà không bao giờ thực hành lời Chúa qua việc làm.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Vườn nho của người cha trong dụ ngôn Chúa kể lúc nào cũng mở cửa đón nhận những người con của ông vào làm. Vào làm trong đó sẽ làm cho cha mình vui lắm và dĩ nhiên còn được hưởng tất cả gia nghiệp của ông nữa. Đó cũng là hình ảnh mời gọi chúng ta hãy “vào Nước Thiên Chúa” mà Chúa Ki-tô đã mở cửa cho tất cả mọi người không trừ ai. Đi vào Nước Thiên Chúa là một diễn trình thay đổi. Những người thu thuế giống như ông Mát-thêu, ông Gia-kêu và bạn bè của họ đã thay đổi cuộc sống. Những người gái điếm giống như người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa tha thứ tại nhà ông Si-môn thuộc nhóm Pha-ri-sêu (Lu-ca 7:26-50). Hết thảy họ đã bắt đầu “vào Nước Thiên Chúa”, tích cực thay đổi lối sống của mình để trở thành môn đệ Chúa Giê-su. Vào Nước Thiên Chúa là công việc chúng ta phải bắt đầu ngay từ khi còn sống, ở đây và hiện lúc này, để chúng ta sẽ đi tới đích của Nước Chúa là thiên đàng và hạnh phúc vĩnh cửu.
Có lẽ chúng ta vẫn tự hỏi mình phải hối hận, phải thay đổi những gì? Phải thay đổi hết, toàn bộ đời sống! Chúng ta phải “sám hối”, nghĩa là quay lưng một trăm tám mươi độ khỏi tội lỗi để hoàn toàn hướng về Chúa. Dĩ nhiên chúng ta không thể quay lưng ngay trong một tích tắc, nhưng lời gọi của Chúa Giê-su, ân sủng của Thiên Chúa, soi sáng của Thánh Thần và cố gắng riêng của chúng ta, tất cả sẽ giúp chúng ta tùng bước từng ngày đi trong Nước Thiên Chúa và đến với Cha trên trời của chúng ta.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------
Mt 21:28-32: 28"Các ông nghĩ sao? Một người có hai con. Ði gặp đứa thứ nhất, ông bảo: "Này con, con hãy đi làm việc vườn nho!". 29 Ðáp lại, nó thưa: "Tôi không muốn!" Nhưng về sau nó hối hận và đã ra đi. 30Ði gặp đứa thứ hai, ông cũng bảo như vậy; đáp lại nó thưa: "Vâng! Thưa Ngài!" Nhưng nó đã không đi. 31 Ai trong hai người đã làm theo ý người cha?" Họ đáp: "Người thứ nhất". Ðức Yêsu nói với họ: "Quả thật, tôi bảo các ông, quân thu thuế, lũ đàng điếm qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa. 32 Vì Yoan đến với các ông theo đàng công chính, nhưng các ông đã không tin ông ấy. Còn quân thu thuế, lũ đàng điếm đã tin ông ấy. Còn các ông thấy vậy, các ông cũng không biết hối hận để sau đó cũng tin vào ông".
Dụ ngôn về hai người con (21:28-32) nằm ngay sau tranh luận về quyền bính của Chúa Giêsu (21:23-27).: TN26-A115
Dụ ngôn về hai người con (21:28-32) nằm ngay sau tranh luận về quyền bính của Chúa Giêsu (21:23-27). Dụ ngôn nầy tiếp tục cuộc đối thoại trước. Những dữ kiện chứng minh cho điều nầy. Trong đoạn trước, Chúa Giêsu đã không trả lời câu hỏi được đặt ra cho Ngài, và Ngài đã kể dụ ngôn nầy và áp dụng dụ ngôn nầy cho “các thượng tế và niên trưởng”. Các hạn từ liên kết hai đoạn: “các ông” (c. 28) là các thượng tế và niên trưởng”, “Gioan” vẫn còn bàn đến (21:25.26.32), cụm từ “các ông không tin vào ông ấy” (21:25) được lập lại ở 21:32. Vì thế để hiểu dụ ngôn, cần am hiểu đoạn tranh luận về quyền bính (21:23-27). Đoạn nầy có thể chia thành hai phần: - Dụ ngôn hai người con (cc. 28-31a) và Áp dụng dụ ngôn (cc. 31b-32).
Dụ ngôn hai người con (cc. 28-31a)
Dụ ngôn ngắn gồm một câu hỏi mở đầu “Các ông nghĩ sao?” (c. 28a), một tiền đề “Một người có hai người con”, và sau đó là hai đối thoại song song giữa người cha với hai người con (cc. 28b- 30). Từ prōtō, “người thứ nhất” đóng khung đoạn nầy.
Câu hỏi mở đầu “Các ông nghĩ sao?” lôi kéo sự chú ý. Matthêô dùng nhiều lần cách đặt câu hỏi nầy (x. 17:25; 18:12; 22:17; 22:42; 22:66). Điểm tương đồng gìữa hai người con nầy là có sự thay đổi ý nghĩ và hành động trong thời gian. Người con đầu từ “Con không muốn” đến “đã ra đi” làm vườn nho (c. 29). Người con thứ từ “Vâng! Thưa ngài” đến “đã không đi” (c. 30). Điểm tương phản giữa hai người là sự sám hối, metamelomai và kéo theo hành động. Chính sự sám hối nơi người thứ nhất làm thay đổi lời từ chối “Con không muốn” thành hành động “anh đã ra đi” làm vườn nho cho cha. Trong khi đó, người con thứ hai không có hành động nào cả. Người con nầy đã thưa lại với người cha một cách chắn chắn “Con đi! Thưa ngài!” nhưng lại không đi. Egō, “Con (đi)” được dùng là để nhấn mạnh, và cách xưng hô kyrie, “Thưa ngài/Chúa” cho thấy người thứ hai tỏ ra tử tế, ít là trong lời nói, đối với lời mời gọi của người cha. Tuy nhiên người con nầy lại không vâng lời đi làm vườn nho cho cha. Cách xưng hô “kyrie” nầy nhắc nhớ câu 7:21: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa", là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên trời” (7:21).
Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đặt ra cho các thượng tế và niên trưởng thêm câu hỏi thứ hai để dẫn họ đến kết luận: “Ai trong hai người làm theo ý người cha”. Lần nầy họ không giữ mình lại được như trong câu 27, mà trả lời: “Người thứ nhất” (c. 31a). Như thế, chính họ phán đoán đúng là người làm vui lòng Thiên Chúa là người làm theo ý Ngài.
Áp dụng dụ ngôn (cc. 31b-32)
Phần hai nầy mở đầu bằng một lời tuyên bố của Chúa Giêsu với công thức long trọng “Quả thật, Ta bảo các ông” là “người thu thuế và đi trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa” (c. 31b), và tiếp theo là câu giải thích, bắt đầu với gar, “vì” (c. 32).
Với khẳng định trên, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu “người thứ nhất” (c. 28.31) chính là “người thu thuế và đàng điếm”. Họ đã “làm theo ý Cha” (c. 31a); bởi đó họ được đi trước vào “Nước Thiên Chúa” (c. 31b). Và trong câu 32, Chúa Giêsu giải thích là những người nầy đã “tin vào Gioan”. Trong tin mừng Matthêô, không tìm thấy một bằng chứng hiển nhiên nào về sự hoán cải của người thu thuế và đàng điếm trước lời rao giảng của Gioan, ngoại trừ câu 3:5-6 trình bày cách tổng quát là “Bấy giờ Giêrusalem và cả xứ Giuđê và khắp vùng giáp cận sông Giorđan trẩy đến với ông và người ta nhờ ông thanh tẩy cho trong sông Giorđan mà xưng thú tội lỗi”. Trái lại, Matthêô để lại nhiều bằng chứng giữa họ với Chúa Giêsu, điển hình là cuộc trở lại của Matthêô và những lần Chúa Giêsu gặp gỡ những người nầy (9:9-10; 11:9; 21:32).
Lời khẳng định của Chúa Giêsu “Gioan đến trong đường công chính”, mở đầu câu 32, xác nhận Gioan là người Thiên Chúa sai đến; tương phản với 11:18. “Đường công chính” đồng nghĩa với “đường lối Thiên Chúa” (22:16; x. Gióp 24:13; Cn 2:20; 8:20; Tv 23:3; 2 Ph 2:21), nghĩa là đường lối theo ý muốn của Thiên Chúa và dẫn đến Ngài và sự sống đời đời (x. 3:15; 5:20; 6:33).
Đại diện cho người con thứ hai là các thượng tế và niên trưởng. Phần còn lại của câu 32 gồm ba mệnh đề theo cấu trúc A-B-A’: - A: “các ông không tin vào ông”, B: “người thu thuế và đàng điếm tin vào ông”, A’: “các ông không hoán cải mà tin vào ông”.
Cấu trúc nầy cho thấy, các thượng tế và niên trưởng đã không tin vào Gioan, động từ “tin” ở thể phủ định” (A), và để có thể tin vào ông, động từ “tin” ở thể khẳng định” như trong mệnh đề B về “người thu thuế và đàng điếm”, cần lòng sám hối, nhưng họ đã không có (A’). Động từ metamelomai, “hoán cải” (c. 32d) đã được dùng cho “người thu thuế và đàng điếm” (c. 29), lại được dùng cho “các thượng tế và niên trưởng”, nhưng ở dạng phủ định: “không hoán cải”. Điều nầy hàm ý trước đây “thượng tế và niên trưởng” giống như người thu thuế và đàng điếm. Tất cả đều là tội nhân, tất cả cần sám hối. Gioan Tẩy Giả gọi họ là “Nòi rắn độc!”và mời họ hoán cải (3:8tt), nhưng họ đã không thay đổi. Họ đã cho Gioan là “bị quỷ ám” (11:18), nên đã không tin vào ông, như lời họ thú nhận ngay trong đoạn trước: “Nếu ta nói: Tự Trời, - thì y sẽ nói với ta: Vậy tạo sao các ông lại không tin ông ấy?” (21:25). Vậy cần hoán cải để tin vào Gioan, nhưng họ đã không làm.
Tuy Chúa Giêsu Kitô không nói gì trực tiếp về mình, nhưng ai tin vào Gioan thì cũng tin vào Ngài. Và ai nhận quyền bính của Ngài, thì cũng nhận quyền bính của Gioan mà hoán cải và làm theo ý muốn của Thiên Chúa.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
------------------------------
Chúa nhật 26: Mt 21:28-32
Ở Mỹ mới được chín tháng, nhưng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về lối sống và suy tư của đồng bào: TN26-A116
Ở Mỹ mới được chín tháng, nhưng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về lối sống và suy tư của đồng bào mình tại đây. Có phải do ảnh hưởng của lối sống Mỹ, người Việt Nam thích hứa hẹn đủ điều, nhưng ít khi giữ được lời hứa. Họ thích hứa vì nghĩ mình có dư phương tiện. Trong một nước giàu có nhất thế giới này cái gì chẳng có. Nhưng người ta không ngờ có một cái vô cùng thiếu đó là thời giờ. Họ chẳng khác đứa con thứ hai trong dụ ngôn hai người con hôm nay.
HAI LỐI HÀNH XỬ
Căn cứ bên ngoài, ai cũng thấy người con thứ hai rất nhã nhặn và biết điều. Khi cha vừa ngỏ ý, anh đã thưa ngay: “Thưa ngài, con đây !” (Mt 21:30) Nghe thế, người cha nào chẳng mát ruột ? Thực tế anh không hề quan tâm tới lệnh cha hay quyêàn lợi gia đình. Anh thuộc loại người nói một đàng quàng một nẻo. Nếu ai cũng như anh, chắc chắn gia đình đã suy sụp từ lâu rồi. Hình như anh hiện diện như một cái xác, chứ không một chút gắn bó với người cha và không có một chút tinh thần trách nhiệm đối với những việc trong nhà.
Trái lại, người con thứ nhất rất đáng khen vì đã biết điều, mặc dù ban đầu anh có vẻ khó thương vì đã cưỡng lời bố. Thái độ buồn sầu của bố có thể làm anh nghĩ lại hay có thể hoàn cảnh đã bắt anh không thể làm khác. Anh suy tư rất nhiều. Anh đã “hối hận” (Mt 21:29). Chính hành động của anh sẽ đem lại cho bố niềm vui sâu xa và lâu dài.
Người Do thái đã hiểu rất rõ Chúa muốn nói gì. Họ càng chợt tỉnh khi Chúa vạch trần thái độ của họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” (Mt 21:31-2) Đưa ra những nhận định như thế thật là bạo phổi ! Ngay cả bây giờ ai dám lên tiếng chỉ trích những người trong cơ chế bằng một so sánh đảo lộn mọi nhận định bình thường như vậy ?
Nhận định đó bắt người Biệt phái không thể không suy nghĩ về thái độ cố chấp của mình trước Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Chúa đã làm mọi cách để thuyết phục họ. Chính mắt họ cũng chứng kiến biết bao phép lạ. Nhưng họ vẫn cố tình làm ngơ. Họ làm ngơ vì họ không có một tâm hồn rộng mở, không muốn nhận ra chương trình cứu độ nhân loại thực hiện nơi con người và cuộc đời Đức Giêsu. Bên ngoài ai cũng nghĩ và họ cũng tự cho mình là người am hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Họ còn giải thích và đặt ra đủ thứ lề luật như dẫn đường chỉ lối cho mọi người biết đường về Nước Thiên Chúa. Nhưng thực tế họ chỉ chất những gánh nặng không ai vác nổi. Còn chính họ không đụng ngón tay (xc Mt 23; Lc 11).
Người Biệt phái đua nhau kiếm tìm vinh quang hão huyền. Họ tự tâng bốc nhau. Đó không phải là thái độ Tin mừng, cũng không phải là thái độ xứng hợp để đón nhận Tin Mừng. Không bao giờ họ có thể thuộc bài học khiêm nhường của Thiên Chúa nơi con người Đức Giêsu, Đấng “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2:7). Bởi đó họ không thể khám phá nổi chân lý về chính mình và về Thiên Chúa. Chân lý đó chỉ dành cho những con người đơn sơ chân thành như những người tội lỗi biết sám hối. Kinh nghiệm cho thấy các em bụi đời thường có một tâm hồn chân thành. Các em là những người nhiệt tình. Chỉ vì thiếu người hướng dẫn hay hoàn cảnh đẩy đưa nên các em mới nên nông nỗi. Các em rất tốt khi đối xử với nhau và không thể chịu đựng được sự lừa dối của người cùng băng đảng, mặc dù chính các em thường làm cho người ngoài mất tin tưởng. Nếu thay đổi hoàn cảnh, nhiều em có thể trở thành người hữu ích cho xã hội.
THỜI SỰ NÓNG BỎNG
Những tâm hồn đơn sơ ấy không thiếu trong các tôn giáo bạn. Họ thực sự chân thành, khao khát tìm kiếm chân lý. Không ai có thể khinh thường những cảm nghiệm tôn giáo, lòng nhiệt thành, sức phấn đấu, lương tâm trong sáng nơi những tâm hồn như thế. Chính những ảnh hưởng văn hóa xã hội đã khiến niềm tin có những màu sắc khác nhau.
Ai dám nói Thiên Chúa không quan tâm tới vận mệnh của những con người như thế ? Nhưng vẫn có những người thiếu thiện cảm mới cố gò ép tâm trí khi nhìn sang những anh em khác tôn giáo với mình. Trong khi Giáo hội không còn dồn sức tập trung vào chính mình như trung tâm cứu độ, họ vẫn chủ trương: “Ngoài Giáo hội, không có ơn cứu độ”. Họ giữ một thái độ xa lạ đối với niềm tin khác biệt và tìm cách khống chế nhũng con người sống trong niềm tin ấy. Nhưng khác niềm tin đâu có nghĩa là xấu. Ngày nay Giáo hội đã chuyển sức tập trung từ Giáo hội sang Đức Kitô và từ Đức Kitô sang Thiên Chúa như nguồn ơn cứu độ duy nhất cho mọi người trong mọi hoàn cảnh.
Riêng trong hoàn cảnh Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đòi hỏi phải “nhấn mạnh hơn nữa việc đối thoại với các tôn giáo.” (VietCatholic) Lý do vì “Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo,” (Nostra Aetate) nhờ đó biết bao tâm hồn thánh thiện đã cảm nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa qua những hoạt động bí nhiệm của Thần khí.
Thực vậy tại Bangalore, miền Nam Ấn độ, các Thần học gia Á châu đã nhất trí nhận định: “Chúng ta cần nhìn nhận rằng sự đa dạng các tôn giáo là kết quả của hành động của Ngôi Lời-đang-hoạt-động và là việc cùng đáp trả trước kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa” (VietCatholic 31/8/1999). Kitô giáo không thể rao giảng trong một môi trường vắng bóng tôn giáo. Bởi vậy Giáo hội không thể coi thường ảnh hưởng của các tôn giáo. Trái lại, “sứ mạng Kitô giáo trong bối cảnh đa nguyên tôn giáo ở Châu Á phải nhìn nhận sự hiện hữu của các tôn giáo khác và vai trò hợp pháp của các tôn giáo này trong đời sống các tín đồ.” (Đại hội các Thần học gia Á châu: VietCatholic 31/8/1999) Kitô giáo tự bản chất là một lời mời gọi hơn là một sức mạnh chinh phục.
Chỉ khi nào đối thoại thực sự, chúng ta mới thấy được giá trị đích thực của những anh em không cùng niềm tin và mới khám phá được “mối quan hệ của Chúa Giêsu với tha nhân như là tha nhân.” (Đại hội các Thần học gia Á châu: VietCatholic 31/8/1999).
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
------------------------------
(25-9-2005)
Điều quan trọng là xác định được thánh ý Chúa là gì và thực hiện thánh ý Ngài
ĐỌC LỜI CHÚA
• Ed 18,25-28: (25) Hỡi nhà Ítraen, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?
• Pl 2,1-11: (3) Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. (4) Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.
• TIN MỪNG: Mt 21,28-32
Dụ ngôn hai người con
(28) Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: «Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho». (29) Nó đáp: «Con không muốn đâu!» Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. (30) Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: «Thưa ngài, con đây!» nhưng rồi lại không đi. (31) Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?» Họ trả lời: «Người thứ nhất». Đức Giêsu nói với họ: «Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. (32) Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Giữa người nói thật hay về Chúa, khấn hứa thật nhiều điều tốt đẹp, và người sống đúng thánh ý Ngài: TN26-A117
1. Giữa người nói thật hay về Chúa, khấn hứa thật nhiều điều tốt đẹp, và người sống đúng thánh ý Ngài, ai mới là người làm đẹp lòng Ngài?
2. Thời Đức Giêsu, có ai dám đánh giá bọn thu thuế và đĩ điếm cao hơn các tư tế, luật sĩ và Pharisêu không? Tại sao Ngài lại đánh giá ngược đời như vậy? Nếu Ngài sống ở thời đại này, Ngài đánh giá thế nào? Có khác với cách đánh giá của mọi người không? Ngài đánh giá theo tiêu chuẩn nào vậy?
3. Qua dụ ngôn hai người con và cách đánh giá của Đức Giêsu, ta thấy tiêu chuẩn để đánh giá của Ngài là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Bối cảnh bài Tin Mừng
Dụ ngôn hai người con của bài Tin Mừng hôm nay là câu trả lời của Đức Giêsu cho các tư tế và kỳ mục trong dân khi họ đến hỏi Ngài: «Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?» (Mt 21,23). Sở dĩ họ hỏi Ngài như vậy vì Ngài vừa mới «đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu» (Mt 21,12). Họ hạch hỏi Ngài vì họ thấy quyền bính và quyền lợi của họ bị va chạm. Chính họ cho phép hay chấp thuận cho người ta buôn bán thú vật cúng tế trong đền thờ, vì dân càng cúng tế nhiều con vật vào đền thờ thì họ càng có lợi. Thế mà Đức Giêsu lại dám ngang nhiên dẹp bỏ, không phải chỉ kêu gọi dẹp bỏ, mà Ngài dùng bạo lực buộc những người buôn bán trong đền thờ phải dẹp bỏ. Vì thế, họ phải bảo vệ quyền bính và quyền lợi của họ. Đức Giêsu đã không trả lời trực tiếp câu hỏi đó, mà đưa ra dụ ngôn hai người con để cảnh tỉnh họ.
Ngài muốn ám chỉ dân chúng, cách riêng những người thu thuế và gái điếm là những người bị các tư tế và luật sĩ cho là tội lỗi, giống như người con thứ nhất: tuy nói rằng không làm vườn nho cho cha, nhưng cuối cùng lại hối hận và đi làm. Vì những người này tuy mang danh là tội lỗi, nhưng khi Gioan Tẩy Giả và Ngài đến, thì họ đã ăn năn sám hối và sống theo lời hai Ngài dạy, là lời diễn đạt thánh ý của Thiên Chúa.
Và Ngài ám chỉ chính họ – giới lãnh đạo tôn giáo, giới giảng dạy đạo lý cho dân chúng – giống như người con thứ hai: tuy nói rằng sẽ đi làm vườn nho cho cha, nhưng cuối cùng lại chẳng làm gì cả. Vì họ, tuy mang danh là đạo đức, nhưng khi Gioan Tẩy Giả và Ngài là người của Thiên Chúa đến, họ đã không thèm nghe và làm theo. Trái lại họ còn mưu hại và giết cả hai Ngài nữa. Đức Giêsu còn dùng dụ ngôn các tá điền sát nhân (Mt 21,33-44) để ám chỉ họ.
Ngài nói: dù tin, nghe, rao giảng hay dạy người khác lời của Ngài, nhưng nếu không đem lời ấy ra thực hành, không sống lời của Ngài, thì chẳng lợi ích gì. Ngài đã từng nói: «Ai nghe lời Thầy nói mà chẳng đem ra thực hành, thì ví như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ tan tành» (Mt 7,26-27). Ngài nhấn mạnh sự cần thiết phải thực thi ý Thiên Chúa: «Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời thôi» (Mt 7,21). Vì thế, Ngài nói với họ: «Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông» (Mt 21,31)
2. Điều quan trọng là sống đúng thánh ý Thiên Chúa
Qua bài dụ ngôn hai người con của Đức Giêsu, ta thấy vấn đề quan trọng không phải là nói cho hợp, cho đúng ý Thiên Chúa (như người con thứ hai nói mà không làm), mà là thực hành ý của Ngài (như người con thứ nhất không nói mà làm).
Trong cộng đồng Kitô hữu, có những người nói về Thiên Chúa và thánh ý của Ngài rất tuyệt vời, nhưng chính bản thân họ thì chẳng sống điều họ nói. Có những người khấn hứa với Thiên Chúa nhiều điều tốt đẹp một cách rất long trọng, nhưng trong thực tế họ chẳng thực hành những điều đã khấn hứa ấy. Cũng có những người mang danh theo Chúa, được cả Giáo Hội công nhận là những người chính thức theo Chúa, nhưng đời sống thực tế của họ lại chứng tỏ rằng họ chẳng theo Chúa chút nào. Họ đối xử với mọi người ngay cả với nhau thiếu tình thiếu nghĩa, cách hành xử của họ chứng tỏ lòng họ cũng đầy tham sân si như những người tội lỗi, nhưng lại được ngụy trang khéo léo bằng cái vỏ bên ngoài thật hào nhoáng… Vì cái vỏ hào nhoáng bên ngoài ấy, họ lầm tưởng họ đã là người thánh thiện, rất đẹp lòng Thiên Chúa. Họ tự xếp mình vào thành phần ưu tú trong cộng đồng. Một cách vô tình hay cố ý, họ tự dối mình, dối mọi người, và dối cả Thiên Chúa!
Trái lại, có những người chẳng có danh phận gì trong cộng đồng, chính họ cũng tự đánh giá mình thuộc thành phần thấp kém, vì họ hiểu biết rất ít, chẳng biết nói gì nhiều về Thiên Chúa, về thánh ý của Ngài. Tuy nhiên họ vẫn cố gắng sống những gì họ nghe biết về đạo lý, về Thiên Chúa. Cụ thể nhất là họ biết đùm bọc nhau, sống có tình có nghĩa với nhau, với mọi người, biết hy sinh và chấp nhận đau khổ vì người khác, không coi «cái tôi» của mình quá quan trọng.
Qua dụ ngôn về hai người con này, ta thấy giữa hai hạng người trên, Thiên Chúa vẫn đánh giá hạng người sau cao hơn, và họ là đối tượng ưu tiên của Nước Trời hơn hạng người trước. Vì thế, Đức Giêsu tiên báo về ngày sau cùng: «Kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót» (Lc 13,30). Do đó ta cần phải cảnh giác, vì cách đánh giá của Thiên Chúa rất khác với cách đánh giá của chúng ta. Người thời Đức Giêsu, có ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa lại đánh giá những người thu thuế và gái điếm thời ấy cao hơn cả những tư tế, luật sĩ và người Pharisêu, thuộc hàng vị vọng trong tôn giáo thời ấy không? «Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông» (Mt 21,31)
3. Bài học cho chúng ta trong việc sống đạo
Thông thường, chúng ta có thói quen đánh giá và xếp hạng giữa mình và người khác, giữa người này với người kia. Ta tự cho mình là hơn người này, kém người kia. Tiêu chuẩn mà ta dựa vào để đánh giá hơn kém nhiều khi rất chủ quan, hoặc theo cách đánh giá thông thường của con người, hoặc dựa vào chức vụ cao thấp trong Giáo Hội. Cũng có khi ta dựa vào cách đánh giá của dư luận, của đa số: ta hay ai đó được mọi người ca tụng, lập tức ta tưởng rằng mình hay người ấy là đúng nhất, tốt nhất. Thế là ta bắt đầu tự tôn khi được mọi người ca tụng. Hoặc bắt đầu tự ty và ganh tỵ khi người khác được đánh giá cao hơn mình. Nhưng dù tự ty hay tự tôn, ta đều chỉ quy về «cái tôi» của mình. Cả hai thái độ ấy đều do tính kiêu ngạo.
Thật ra, cách đánh giá của Thiên Chúa rất khác với cách đánh giá của ta hay của trần gian. Tốt nhất là ta đừng tự đánh giá mình hay đánh giá người khác, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng xét đoán đúng theo tiêu chuẩn của Ngài mà thôi (x. Gc 4,12; Rm 14,4). Nếu cần phải xét đoán, ta nên theo lời thánh Phaolô khuyên trong bài đọc II: «Hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình» (Pl 2,3).
Điều quan trọng không phải là xét đoán ai hơn ai, mà là sống làm sao cho đúng với ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế, thay vì xét đoán, so sánh, ta hãy tự xét xem: mình đã coi việc sống theo ý muốn của Thiên Chúa là quan trọng nhất trong việc sống đạo chưa? Kế đến là xét xem: ta đã xác định được ý muốn của Thiên Chúa đối với mình là gì chưa? Và cuối cùng là xét xem: mình đã thật sự sống đúng theo ý của Ngài chưa? Đó là điều quan trọng nhất trong việc sống đạo, nhưng rất nhiều khi ta coi nhẹ. Ta thường sống theo truyền thống người đời (x. Mt 15,3), theo ý riêng mình mà ta tưởng là ý Chúa, theo một số thói quen mà ta vẫn tưởng là tốt lành.
Thiết tưởng người quan tâm sống theo ý của Thiên Chúa cần phải xác định được thánh ý của Thiên Chúa là gì. Thiên Chúa là tình yêu, nên thánh ý của Ngài đối với ta là làm sao để đời sống của ta phản ảnh được bản tính yêu thương của Thiên Chúa, để chính ta trở thành hiện thân của tình yêu Thiên Chúa giữa xã hội, giữa những người đang sống chung quanh ta. Tất cả những thứ khác – nghi thức, bí tích, lề luật, cầu nguyện, v.v… – đều chỉ là phương tiện giúp ta thực hiện mục đích ấy. Nếu những phương tiện ấy không giúp ta đạt được mục đích ấy thì chúng đã trở nên vô dụng đối với ta. Rất nhiều khi ta chỉ lo thực hiện những phương tiện ấy mà quên hẳn mục đích của chúng. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi ta ý thức lại vấn đề.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, trong đời sống đạo của con, nhiều khi con chưa xác định được điều cốt yếu nhất là phải thực hiện thánh ý của Cha, và cũng chẳng quan tâm tìm hiểu xem thánh ý của Cha cốt yếu nhất là gì. Vì thế, con cứ lo thực hiện những điều phụ thuộc mà con tưởng là cần thiết nhất. Còn điều cần thiết nhất là thể hiện tình yêu của Chúa đối với những người chung quanh con thì con lại cho là việc phụ thuộc. Xin giúp con ý thức và xác định lại vấn đề để sống đúng với thánh ý của Cha.
(JK)
------------------------------
(Mát-thêu 21: 28-32)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước về dụ ngôn thợ làm vườn nho đã cho ta có dịp suy niệm về: TN26-A118
Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước về dụ ngôn thợ làm vườn nho đã cho ta có dịp suy niệm về lời mời gọi “Hãy đi vào vườn nho”, tức là được gia nhập vào Giáo Hội Chúa Ki-tô và được lãnh nhận phần thưởng dành cho con cái Thiên Chúa. Dụ ngôn hai người con trong bài Tin Mừng hôm nay dường như để tiếp tục hoặc để giải thích thêm dụ ngôn trước. Đi vào vườn nho của Chúa đã thay đổi căn tính của ta: ta không còn là thợ làm vườn nho nữa, nhưng được trở nên con cái của Gia chủ. Mà nếu ta là con cái của Gia chủ thì Ngài sẽ là Cha và ta sẽ thi hành tất cả những gì Cha muốn. Có lẽ đó là lý do tại sao Phụng vụ Lời Chúa chọn câu truyện dụ ngôn hai người con để nói lên điều ta phải làm cho xứng phận làm con. Vậy Thiên Chúa muốn ta phải làm gì?
a) Thiên Chúa sai ông Gio-an đến chỉ cho ta biết đường công chính là Chúa Giê-su
Trước hết Chúa Giê-su kể một dụ ngôn, đơn thuần là một câu truyện thôi. Một người kia có hai người con. Khi người cha sai các con mình đi làm vườn nho, ông nói: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. Lời ấy không cho ta biết họ phải làm gì trong vườn nho. Công việc trong vườn nho là làm cỏ, cắt tỉa, bón phân, hái nho... Tuy nhiên những điều ấy không quan trọng. Điểm dụ ngôn muốn nói cho ta biết không phải là công việc, nhưng là những người lãnh công việc ấy có làm hay không.
Hai người con biểu tượng cho hai hạng người. Người con thứ nhất tuy lúc đầu không muốn đi làm, nhưng sau đó hối hận nên đổi ý và đi làm. Người con thứ hai lúc đầu ra vẻ ngoan ngoãn hứa đi làm, nhưng sau đó lại không đi. Kể dụ ngôn đến đây, Chúa Giê-su muốn thính giả đi tới một kết luận trước khi Người áp dụng dụ ngôn vào hoàn cảnh sống: người con nào đã thi hành ý muốn của người cha? Sau khi thính giả đồng ý với Chúa Giê-su rằng người con thứ nhất đã thi hành ý muốn của người cha và người con thứ hai thì không, Chúa Giê-su mới đưa họ sang một câu truyện có thực.
Câu truyện có thực này như sau. Thiên Chúa đã sai ông Gio-an Tẩy giả đến để kêu gọi dân Người hãy tin vào Đức Ki-tô là đường công chính. Sứ mệnh của Gio-an là rao giảng về Đấng Cứu Thế sẽ đến. Ông nói: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3:11-12). Ý muốn của người cha, ý muốn của Thiên Chúa là ta phải tin vào Đức Ki-tô. Ông Gio-an đã rao giảng về ý muốn ấy và kêu gọi ta hãy tiếp nhận Đức Ki-tô là Đấng làm cho ta được nên công chính.
Đáp lại lời giảng của Gio-an Tẩy giả, những người thu thuế và những gái điếm là những kẻ tuy bị liệt vào hạng tội lỗi nhưng lại biết mở lòng tin và đón nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu độ. Họ giống như người con thứ nhất, biết hối hận và trở về thi hành thánh ý Thiên Chúa. Trong khi đó, những người Pha-ri-sêu và kinh sư thì vỗ ngực xưng mình là thánh thiện, nhưng lại không muốn chấp hành thánh ý Thiên Chúa, mặc kệ những lời cảnh cáo nghiêm túc của Gio-an Tẩy giả (Mt 3:7-10).
b) “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”
Câu truyện hai người con chưa dừng lại ở đây, nhưng đưa ta đến một điểm chủ yếu là cần phải biết hối hận. Người con thứ nhất lúc đầu cãi lời cha, nhưng sau đó anh ta biết hối hận. Những người Pha-ri-sêu và kinh sư dù đã được ông Gio-an chỉ đường công chính và mời gọi hãy thay đổi, nhưng “họ vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”.
Khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, lời đầu tiên của Chúa Giê-su là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4:17). Nước Trời được thể hiện hoàn toàn nơi con người Chúa Giê-su, cho nên tiếp nhận Nước Trời là tiếp nhận chính Chúa Giê-su. Nhưng làm sao tiếp nhận Chúa Giê-su nếu người ta không thay đổi? Chúa Giê-su đã đưa ra một hình ảnh cụ thể để nói lên điều kiện người ta có thể thuộc về Nước Trời, đó là phải trở nên như trẻ nhỏ. Trở nên như trẻ nhỏ có nghĩa là thay đổi hoàn toàn lối sống để sẵn sàng đón nhận lối sống mới theo Tin Mừng Chúa Ki-tô.
Nhiều gương sám hối và tin vào Chúa Ki-tô đã được kể lại trong sách Tin Mừng. Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ (Lc 7:36-50), ông Da-kêu trưởng ban thu thuế tại Giê-ri-khô (Lc 19:1-10) là những người cho ta thấy phải sám hối thế nào. Người phụ nữ được tha thứ thì sẽ yêu mến nhiều hơn. Ông Da-kêu thay đổi con người mình bằng một con người mới đầy lòng quảng đại. Cả hai người đã đánh đổi những gì mình có để chiếm được Đức Ki-tô. Cuộc thay đổi ấy dĩ nhiên không thể hoàn tất một sáng một chiều, nhưng là một tiến trình Ki-tô hóa trong suốt cuộc sống. Mỗi ngày một chút, lối sống của ta sẽ rập theo khuôn mẫu lối sống của Chúa Ki-tô hơn.
c) Tránh não trạng thờ Chúa bằng môi miệng
Tác phong của người con thứ hai cũng dạy ta một bài học thực tế: nói mà không làm. Một khi ta đã chấp nhận tin theo Chúa Giê-su và làm môn đệ Người, ta phải là môn đệ chân chính. Đó cũng là ý muốn của Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã một lần cho ta thấy thế nào là môn đệ chân chính. Người nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).
Cũng như chiếc áo không làm nên thầy tu, lời nói suông không thể làm ta thành môn đệ chân chính của Chúa. Chỉ có việc làm mới thực sự biểu lộ con người của ta như thế nào. Việc làm của ta sẽ nói lên những đặc tính Ki-tô nếu ta thực sự thấm nhuần lối sống của Chúa Ki-tô. Chẳng vậy mà có lần Chúa đã quả quyết: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, ở điểm này là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Hành động yêu thương nhau của ta là bằng chứng cụ thể đã biểu lộ đặc nét Ki-tô nơi ta, đến độ người ngoài đều có thể nhận ra ta thuộc về Đức Ki-tô. Biết bao Ki-tô hữu chỉ có cái nhãn hiệu thôi, chứ thực chất con người họ không có một chút gì là Ki-tô cả. Nhận xét này ta đã gặp đi gặp lại nhiều lần rồi, nhưng có lẽ ta không muốn nhận là mình cũng ở trong số người đó. Hình ảnh người con thứ hai trong dụ ngôn chính là hình ảnh của ta đấy.
e) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi thường giống như người con thứ nhất (biết hối hận) hay như người con thứ hai (nói mà không làm)? Tôi có thể nhận xét những thái độ ấy trong những điều cụ thể nào khi sống làm Ki-tô hữu?
Vâng lời (Chúa, Giáo Hội, người trên...) thực sự có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi gặp khó khăn nào trong việc vâng lời?
Ý muốn của Thiên Chúa là tôi phải tin vào Chúa Giê-su và làm môn đệ Người. Vậy hành trình làm môn đệ của tôi như thế nào? Tôi có để cho Tin Mừng biến đổi tôi mỗi ngày không?
Cầu nguyện
“Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giê-su, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giê-su,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giê-su cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giê-su và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 69)
Lm. Trần Đình Nhi
24-9-2005
--------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Phi-líp-phê 2: 1-11
Ðây là đoạn văn quan trọng nhất của thư Phi-líp-phê và cũng được sử dụng cho Chúa Nhật Lễ Lá, đề cao vai: TN26-A119
Ðây là đoạn văn quan trọng nhất của thư Phi-líp-phê và cũng được sử dụng cho Chúa Nhật Lễ Lá, đề cao vai trò của Ðức Ki-tô và sự hiện hữu từ muôn đời của Người. Là một phần trong đoạn huấn dụ nói về sự hiệp nhất của cộng đoàn, đoạn văn trình bày Ðức Ki-tô như một gương mẫu về sự khiêm nhường, một yếu tố chính tạo nên sự hiệp nhất. Nhưng nếu xét theo chiều hướng chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa, thì sau khi suy niệm trong hai Chúa Nhật trước về ý nghĩa cuộc sống, Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay nêu chính cuộc sống của Ðức Ki-tô làm gương mẫu cho mọi Ki-tô hữu để họ biết tìm kiếm và thi hành thánh ý Thiên Chúa.
a) Những tâm tình của Ðức Ki-tô Giê-su
Trở lại tình huống cộng đoàn Phi-líp-phê đang có sự chia rẽ, có lẽ chúng ta hiểu được tại sao thánh Phao-lô khuyên tín hữu sống đoàn kết hiệp nhất với nhau, cư xử với nhau trong sự khiêm nhường và tìm lợi ích cho nhau. Muốn thực hiện những điều này, tín hữu hãy sống chính những tâm tình của Ðức Ki-tô.
Vậy thánh Phao-lô diễn tả những tâm tình của Ðức Ki-tô như thế nào?
Trong thánh thi nói về Ðức Ki-tô có hai phần rõ rệt. Phần thứ nhất (2:6-8) nói đến việc Ðức Ki-tô trút bỏ vinh quang Thiên Chúa, hạ mình làm người phàm để vâng phục Thiên Chúa. Cách diễn tả tài tình của thánh Phao-lô là giúp chúng ta hình dung ra Ðức Ki-tô cứ dần dần "xuống cấp" từng bước một, để rồi cuối cùng không còn mức độ nào thấp hơn nữa. Trước hết, từ đời đời Ðức Ki-tô vẫn là Thiên Chúa quyền năng. Bước đầu của việc hạ mình là Người từ khước quyền được ngang hàng với Thiên Chúa để nhận lấy thân phận làm người. Người từ bỏ vĩnh cửu và vô biên để chịu giới hạn trong thời gian và không gian. Người đã khước từ uy quyền toàn năng để nhận lấy sự yếu đuối của thân phận con người. Chấp nhận làm một người bình thường, tự do, đã là điều không tưởng đối với một vị Thiên Chúa, vậy mà Ðức Ki-tô còn muốn xuống cấp hơn nữa, đó là mặc lấy thân nô lệ. Làm nô lệ tức là sống vâng phục, chủ muốn gì thì làm nấy, không cằn nhằn, không cãi lại. Nhưng đây vẫn chưa là mức cuối cùng, vì ngài còn muốn vâng lời "đến nỗi bằng lòng chịu chết." Rồi chính ở cái chết, Ðức Ki-tô còn muốn hạ mình thêm một cấp độ chót, tức là không nhận lấy một cái chết bình thường, mà là cái chết ô nhục trên thập giá.
Khi Ðức Ki-tô sống tâm tình khiêm nhường và vâng phục là Người nhằm lợi ích cho nhân loại chúng ta. Người muốn tỏ ra tình yêu của Thiên Chúa thương loài người lớn lao và vô điều kiện như thế nào. Người lấy cả cuộc đời và cái chết của mình để chuộc lại lỗi lầm của nhân loại. Tóm lại, tâm tình của Ðức Ki-tô là Người đã muốn sống và chết cho chúng ta.
b) Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
Trong phần thứ hai (2:9-11) của thánh thi, thánh Phao-lô khai triển tiến trình "lên cấp" của Ðức Ki-tô. Từ cái chết ô nhục trên thập giá, Ðức Ki-tô được Thiên Chúa cho phục sinh. Người được phục hồi danh hiệu "Chúa" là danh hiệu dành riêng cho Thiên Chúa. Bài thánh thi còn trích dẫn I-sai-a 5:23 ("mọi gối phải quỳ xuống, mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng") để áp dụng cho Ðức Ki-tô, nghĩa là Người là Ðức Chúa, được tôn vinh làm Chủ Tể vạn vật, vượt trên hết muôn loài.
Lối diễn tả trút bỏ vinh quang và được tôn vinh mà thánh Phao-lô sử dụng ở đây cũng tương tự như điều Chúa Giê-su dạy trong sách Tin Mừng: những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, hoặc ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em (x. Mt 20:16,26). Ðó cũng là mẫu số chung của đời sống Ki-tô hữu, tuy rất khó học lối sống ấy. Nếu tín hữu Phi-líp-phê và chúng ta áp dụng lối sống ấy được, thì đó là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa Ba Ngôi và thể hiện được cuộc sống "thân tình và biết cảm thương nhau" (2:1), khiến cho "niềm vui của thánh Phao-lô cũng được trọn vẹn" (2:2).
c) Kiêu căng gây chia rẽ, khiêm nhường tạo hiệp nhất
Từ gương mẫu khiêm nhường và vâng phục của Ðức Ki-tô, thánh Phao-lô muốn rút ra một bài học thực tế cho đời sống cộng đoàn. Ở đâu và thời nào cũng vậy, kiêu căng tự phụ luôn là mầm mống gây chia rẽ. Thảm cảnh một cộng đoàn tan nát thường là vì linh mục cậy quyền, khinh thị bổn đạo, hoặc vì bổn đạo coi thường linh mục, hoặc vì quý chức này chê quý chức kia, hội đoàn này nổi hơn hội đoàn khác... Trăm sự cũng do cái đuôi kiêu căng nó ngoáy động trong tâm hồn chúng ta. Lịch sử Giáo Hội đầy những biến cố gây chia rẽ cũng là do kiêu căng. Chính vì thế, gương Chúa Giê-su phải luôn luôn được nêu cao, để những ai bắt chước sẽ không tìm lợi ích cho riêng mình, không coi mình hơn người khác. Sống tâm tình của Ðức Ki-tô, chắc chắn chúng ta sẽ tạo được một cộng đoàn hiệp thông trong Thần Khí của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Ðối chiếu với A-đam, tôi suy niệm thế nào về việc Ðức Ki-tô trút bỏ vinh quang?
Tôi nghĩ thế nào về bốn cái "nếu"(2:1, tức là liên kết với Ðức Ki-tô, tình bác ái khích lệ, hiệp thông trong Thần Khí, sống thân tình và biết cảm thương nhau) cần thiết cho đời sống cộng đoàn? Cộng đoàn chúng tôi còn thiếu cái nếu nào?
Chia sẻ một vài nguyên nhân gây chia rẽ trong nhóm hoặc cộng đoàn của tôi. Làm sao sửa chữa những rạn nứt ấy?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng đọc lại thánh thi Phi-líp-phê 2: 6-11.
Lm. Giuse Trần Ðình Nhi
--------------------------------
Anh chị em rất thân yêu,
Tiên tri Êdêkien cho thấy có một khoảng cách, nếu không muốn nói là mâu thuẫn, giữa cách nhìn: TN26-A120
Tiên tri Êdêkien cho thấy có một khoảng cách, nếu không muốn nói là mâu thuẫn, giữa cách nhìn của Thiên Chúa và cách nhìn của con người về công chính và tội lỗi. Theo tiên tri đối với Thiên Chúa điều thiết yếu làm cho một người là công chính tuỳ thuộc cơ bản vào sự quyết tâm hoán cải: "nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình". Thiếu tinh thần hoán cải con người trở thành kẻ gian ác: "người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết". Một cách nhìn như vậy thương không thể gặp thấy nơi nhân loại. Vì vậy thời đại nào, xã hội nào, cũng có những "bảng phong thần" dành cho những con người cần phải đề phòng và xa tránh. Ngày nay chúng ta lại chẳng thường nói tới xã hội đen, với những thành phần xì ke, ma túy, mại dâm...
Cách nhìn của Thiên Chúa mà Êdêkien loan báo đã thành hiện thực trong công trình cứu độ nơi Ðức Giêsu, như thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Philipphê: "Ðức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế."Ðấng mà chúng ta tuyên xưng dựa theo toàn bộ Mặc Khải "là Ðấng Công Chính", là "Con Chiên không tì tích", là "người vô tội", giờ đây và mãi mãi đồng hóa mình với người "nô lệ". Và không phải chỉ có thế, điều đáng phải chiêm ngưỡng nơi chân dung Ðấng Cứu Chuộc là việc Người "hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự."Vâng lời chẳng là thái độ sống của nô lệ, và chết trên thập tự chẳng là cái chết của những nô lệ gian ác sao? Ðối với Ðức Giêsu, dù vậy, cả danh xưng, cả kiếp sống "nô lệ" cũng không thể cầm giữ được Người trong quyết chí "chỗi dậy", "lên đường", "trở về với Cha". Và "Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu." Theo gương Ðức Giêsu, người môn đệ trong mỗi tương quan của cuộc sống đã không "làm chi vì ganh tị hay vì hư danh..." Như thế Tin Mừng về sự hoán cải làm nên niềm Hy Vọng cho toàn thể nhân loại..
Tin Mừng đó trước hết theo Ðức Giêsu chính là lời mời gọi không hề ngưng nghỉ: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho." Lời mời gọi làm vọng lại lời ở thời điểm Khởi nguyên: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." Ðó là Ân sủng được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa, vào kế hoạch và hành động của Người. Sự công chính hệ tại việc đáp lại lời mời gọi này.
Gioan được sai đến để chuẩn bị cho Ðức Giêsu một dân sẵn sàng, sứ mệnh của ông là rao giảng "sám hối", để đi trên con đường không phải chỉ là tốt lành mà thôi, nhưng còn là trong tình thân với Ðấng Tạo Hóa, hài hòa với chính mình và với vạn vật xung quanh; là việc làm chủ chính bản thân mình, tự do đối với ba thứ dục tình thường làm con người nô lệ các lạc thú của giác quan, sự ham mê của cải thế gian và đề cao "cái tôi" bất chấp những đòi hỏi của lý trí. Thực tế là chỉ những người vốn cảm nghiệm được cái ách xiềng xích do tội lỗi, do dục tình thì mới cảm nghiệm được lời mời gọi là ân sủng, và mau mắn đáp lời. Còn người vốn quen để cái vỏ công chính che lấp tội lỗi và lạc thú đã không cảm nghiệm tính ân sủng của lời mời gọi, và họ đã từ khước hoán cải. Chúng ta không cần phải qúa bị bức xúc trước lời đanh thép của Ðức Giêsu: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông." Bởi vì nếu không nhận ra thân phận tội lỗi để hoán cải, chúng ta sẽ cùng chung cái chết của kẻ gian ác.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
--------------------------------
I.(BỐI CẢNH MẠCH VĂN CỦA ÐOẠN TIN MỪNG)
Trong cuốn TM theo thánh Mat-thêu, Chúa Giê-su nói những lời này ở Giê-ru-sa-lem sau khi Người đã: TN26-A121
Trong cuốn TM theo thánh Mat-thêu, Chúa Giê-su nói những lời này ở Giê-ru-sa-lem sau khi Người đã vào thành cách long trọng và sắp đến những ngày chịu khổ nạn. Người muốn ám chỉ đến một tình trạng đang xảy ra lúc đó: Hạng bị coi là tội lỗi như đĩ điếm, thu thuế thì giống như người con thứ nhất, lúc đầu không sống theo yêu cầu của TC, nay đã sám hối, tin nhận lời Gio-an và đổi mới đời sống, họ được đánh giá là "người con đã thi hành ý muốn của người cha", còn những kẻ tự cho mình là đạo đức, có công nghiệp, tức là Biệt phái , Luật sĩ, Kinh sư, thì giống như người con thứ hai, có vẻ nhận lời TC cách mau mắn, nhưng lại chẳng làm theo. Do đó đang bị đánh giá là " người con không thi hành ý muốn của người cha" vì họ đã không tin lời dạy của Gio-an Tẩy giả, đã không tin ÐG, Ðấng Thiên Sai. Bằng lời nói thẳng của mình, ÐG cảnh báo về thái độ sai trái của họ, thậm chí công bố phán quyết nghiêm khắc về họ " hạng tội lỗi vào Nước TC trứơc các ông". (Theo một số nhà chú giải, chữ "trước" này có nghĩa mạnh là " thay thế các ông, và các ông thì không được vào Nước Trời" )
II. (BÀI TIN MỪNG CŨNG LÀ MỘT MẠC KHẢI VỀ CHÚA:)
Bên cạnh việc đề cập đến một tình trạng thực tế lúc đó, liên quan đến một bên là những kẻ tội lỗi, và một bên là Biệt phái , Luật sĩ, những lời này của Chúa còn là một mạc khải gían tiếp về thái độ và cách cư xử của Chúa nữa:
- thái độ của Chúa rất khác với thái độ của đa số chúng ta: thường thường con người chúng ta hay mắc phải khuyết điểm là có thành kiến cố định, là đóng khung kẻ khác, là thất vọng về kẻ sa phạm tội lỗi. Khi một người nào đó mắc một sai lầm, làm một việc xấu, phạm một tội, thì từ đó đến lâu về sau, ta luôn nghĩ về người đó như một kẻ xấu, ta khó tin là họ đã nên tốt, ta " ngã lòng" về cố gắng sửa mình của họ, ta mãi mãi đóng khung, cố định họ trong sai lỗi hay tính xấu của họ. Ta nhớ mãi quá khứ gọi là xấu xa của họ.
- còn Chúa thì nhìn vào hiện tại của một kẻ khi trước đã sai lỗi mà nay biết hoán cải và thay đổi. Chúa không xét quá khứ, không nhớ quá khư tội lỗi của họ nữa. Nghĩa là Chúa không giữ mải thành kiến xấu, không đóng khung ai trong điều sai lỗi, không thất vọngvề ai, nhưng đầy lòng xót thương tha thứ, luôn quảng đại, mở ngỏ, đợi chờ và hy vọng, Người vui mừng mở rộng vòng tay đon ôm một kẻ tội lỗi trở về và phục hồi sự sống cho kẻ đó như bài ngôn sứ E-zê-ki-en loan báo.
III. (THÁI ÐỘ TA KHÔNG Ỷ LẠI NHƯNG BIẾT ƠN VÀ YÊU MẾN)
Quả thật lời Chúa ta nghe hôm nay là một mạc khải quý báu về tình thương và cách đối xử của Chúa đối với kẻ sai lỗi. Phản ứng của phía con người sẽ thế nào? Có lẽ nhiều người trong chúng ta có ý nghĩ là vì Chúa yêu thương như thế nên ta cứ tiếp tục đi trong đàng tội , rồi sau này sẽ quay trở lại cũng không muộn.
Không, đó là một ý nghĩ rất sai lầm, đúng ra ta được mời gọi hiểu, biết lòng khoan dung của Chúa, hiểu biết thái độ quảng đại và chiếu cố đặc biệt của Chúa, để biết ơn Chúa và tích cực đền đáp, bằng cách mau mắn từ bỏ tội lỗi, trở về với Chúa. Mà chẳng những chỉ sám hối, xưng tội hôm nay, trong hiện tại, mà còn quyết tâm yêu mến và làm đẹp lòng Chúa suốt quãng đời còn lại nữa. Như chính gương ÐG mà thánh Phao-lô nêu lên trong Bài đọc thứ hai: ÐG chính là người con thảo hiếu nhất, người con hằng thi hành ý muốn của Cha mình, Ngừoi không mắc sai lỗi và không sống trong tội ở bất cứ giai đoạn nào trong đời Người. Trái lại từ đầu đến cuối đời, Người luôn là người con chí hiếu, mọi lúc bỏ mình, đề cao Chúa Cha, tiến đến tình mến tột cùng nơi thập giá. Nhờ đó, Người cũng được Chúa Cha nhìn nhận là "Người Con Chí Ái" và ban tặng điạ vị cao vời khôn sánh.
Xin Chúa Giê-su giúp mọi người chúng ta luôn sống theo gương mẫu của Người, chứ không trở thành bất hạnh, mất Nước Trời và sự sống vĩnh cửu, vì rơi vào tinh thần của Biệt phái Luật sĩ, tự mz4n về quá khứ đời mình và không sám hối, hoặc phải chịu số phận của "kẻ khi trước thì công chính, nhưng rồi từ bỏ đường công chính và phải chết vì điều bất chính mình làm
An-tôn Trần Thế Phiệt
(sáng 230/09/02)
--------------------------------
Mt 21,28-32
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
TÌNH YÊU CHÂN CHÍNH
Càng lúc nhóm biệt phái,luật sĩ và thông luật càng ghen tỵ, hiềm thù Chúa Giêsu,tìm cách gài Chúa: TN26-A122
Càng lúc nhóm biệt phái,luật sĩ và thông luật càng ghen tỵ, hiềm thù Chúa Giêsu,tìm cách gài Chúa Giêsu vào bẫy của họ nhằm có lý do bắt Chúa,giao nộp Chúa để lên án tử hình cho Chúa.Hạng có chức sắc trong tôn giáo của xã hội Do Thái lúc đó là những hạng người có nhiều đặc quyền đặc lợi,có nhiều quyền hành ăn trên ngồi trốc trong lớp xã hội hồi đó. Họ nói nhiều nhưng làm ít hay nói cách dân dã:nói mà không làm. Còn dân chúng cứ phải ì cổ ra làm mọi việc và thi hành mọi việc.Tin Mừng thánh Matthêu trong đoạn 21,28-32 nói lên nghịch lý này.
VẪN LÀ VƯỜN NHO
Chúa Giêsu vẫn dùng vườn nho để nói lên lập trường của Ngài . Chúa đưa ra dụ ngôn về hai người con được gửi đi làm vườn nho. Người cha nói với con của mình:"Bữa nay,con đi làm vườn nho nghe con ". Ðây là một lời mời gọi,một lời động viên chứ không có tính bắt buộc như một lệnh truyền. Tuy nhiên,hai người con có hai thái độ trái ngược nhau. Người con thứ nhất đã dùng tiếng không để đáp lại lời mời gọi của Cha. Tiếng không của anh ta nói lên tiếng nói hoàn toàn tự do,tự lập và có bản lĩnh của mình.Nhưng,sau đó anh ta đã tự loại trừ sự tự do ích kỷ của anh ta mà đặt lợi ích của gia đình,lợi ích chung lên trên và tuân hành ý cha của mình. người con thứ nhất đã có một sự giằng co trong chọn lựa và sau cùng anh ta đã quyết định cho lợi ích chung.Còn người con thứ,tiếng nói có:"Vâng con đi làm".Anh ta nói đi,nhưng chỉ là lời nói phỉnh lừa bề ngoài,nói để dối lòng,dối cha,nhưng kỳ thực anh ta không đi làm.Người con thứ sống ích kỷ,co cụm,chỉ nhắm lợi ích cho riêng mình.Anh không có một chút nào tình yêu thương đối với cha mình,chứ chưa kể đến gia đình và xã hội. Anh chỉ nói trên đầu môi chóp lưỡi.Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến nhóm biệt phái,luật sĩ. Họ nói nhiều nhưng không làm.Họ bầy biện đủ trò,đủ điều luật nhưng không mảy may giữ . Họ bắt người khác giữ. Họ chống lại cả Ðấng Thiên Chúa gửi đến là Chúa Giêsu và chống lại Tin Mừng của Ngài.Họ nghĩ ra một Thiên chúa ác nghiệt,cau có và hay giáng phạt hơn là một Thiên Chúa tình thương. Nên, Chúa Giêsu đã nói:".đừng bắt chước việc họ làm ".
"Bọn đĩ điếm và thu thuế sẽ vào nước trời trước họ ".
CHÚA NHÂN TỪ
Hình ảnh người cha trong dụ ngôn hôm nay là chính Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô. Ðức Giêsu Kitô là người cha nhân từ,chạnh thương và huệ ái. Ngài là vị mục tử tốt lành luôn qui tụ, và tìm chiên lạc. Chính vì không chịu nổi thái độ,cung cách của Chúa Giêsu cư xử đối với người tội lỗi, ngưởi yếu hèn,người bị bỏ rơi mà các người biệt phái,luật sĩ tìm cách làm hại,lên án Chúa Giêsu.Chúa Giêsu vẫn sống nhân từ dù rằng con người tội lỗi,yếu hèn hay phản bội . Chúa luôn thứ tha và luôn cảm thông với con người khi con người thực tình sám hối ăn năn. Gương của Phêrô,của Augustinô,của Charles Foucauld đã cho ta thấy,tình thương của Chúa quên đi lỗi lầm của con người khi con người thật lòng sám hối,ăn năn.
Trong dòng đời,trong đời sống tựa như sa mạc khô cằn,một lời an ủi,một sự cảm thông,động viên để người tội lỗi quay về với Chúa,luôn có sức mạnh an ủi con người,giúp con người có cơ hội trở về.Thực thi lời Chúa quả thực là khó khăn hơn là giả hình, nói trên môi miệng.Lời Chúa luôn nghịch với sở thích,với ý riêng của ta.
Trong cuộc sống,chúng ta có dám sống nghịch lại với những thói giả hình như các người biệt phái,luật sĩ đã sống hay không hay ta thỏa hiệp,sống hời hợt cho qua ngày mà thôi .Chúng ta có dám kiên trì hoán cải những cái xấu,để chúng trở nên tốt ,biến cái không thành cái có để đẩy lùi những tật xấu,khó khăn để mặc lấy sự tốt lành của Thiên chúa Cha nhân từ .
Lạy Chúa xin giúp chúng con hiểu được lòng nhân từ vô biên của Chúa.
--------------------------------
Tháng 7 năm 1951, sau khi lãnh chức phụ Phó Tế, thầy Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh được cử đ: TN26-A123
Tháng 7 năm 1951, sau khi lãnh chức phụ Phó Tế, thầy Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh được cử đi du học tại Hoa Kỳ. Tiếp tục học Thần Học tại Đại Chủng Viện Saint Meinrad, Indiana, thầy được chịu chức Linh Mục ngày 3.5.1952. Sau đó, cha Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh, được chuyển đến Đại Học Loyola tại Chicago để học môn Xã Hội Học. Tháng 6 năm 1954, cha tốt nghiệp master về Xã Hội Học. Đang tiếp tục dọn tiến sĩ thì ngài nhận được thư của cha Phêrô Nguyễn Huy Mai chuyển đạt lệnh truyền của Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê như sau: “Xin cha biên thư cho các cha Trương, cha Thông, cha Oánh, báo tin cho các cha ấy biết tôi muốn cho các cha ấy về Bắc. Các cha bỏ đi Nam nhiều, thiếu người làm việc. Tôi muốn mở lại các Chủng Viện. Tôi để tùy ý các cha, nhưng nếu các cha ấy về, thì tôi vui mừng lắm.”
Nhận được thư ấy, ngài lo âu suy nghĩ rất nhiều. Vì đang học dở dang. Vì hoàn cảnh quê nhà đang rối ren và những người thân thiết đều ngăn cản. Nhưng cha Thông nói với ngài: “Bỏ tất cả mà về, thì được Chúa Thánh Thần.” Thế là hai cha cùng nhau quyết định vâng lời Bề Trên trở về Giáo Phận dù rất băn khoăn lo lắng vì biết chắc sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tháng 9 năm 1955, về đến nhà, ngài lao ngay vào công việc, vừa làm thư ký cho Đức Cha, vừa dạy học cho Tiểu Chủng Viện Gioan, vừa dạy Giáo Lý cho giới trí thức. Vì lớp Giáo Lý có ảnh hưởng sâu rộng nên chính quyền ra lệnh đình chỉ. Ngài lại lui vào âm thầm, tổ chức đào tạo Giáo Lý Viên trong Tòa Giám Mục. Thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của ngài, và vì ngài không ủng hộ Ban Liên Lạc Công Giáo nên chính quyền quyết định bắt ngài cải tạo tại chỗ. Ngày 16.8.1965, ngài bị quản chế tại Chuôn Trung với kỷ luật nghiêm ngặt.
Tuy bị quản chế nghiêm ngặt, hằng ngày phải chịu đựng những thái độ, lời lẽ nghi kỵ, nhục mạ, luôn bị gọi lên thẩm vấn, điều tra, làm kiểm điểm, làm báo cáo liên tục, ngài vẫn luôn vui tươi. Ngài hăng hái làm việc tay chân như cuốc đất trồng rau, đào giếng. Và nhất là dù bị cấm đoán, ngài vẫn dâng Lễ vào lúc 2 giờ sáng để Giáo Dân có thể tham dự Thánh Lễ. Ngài dâng Lễ rất sốt sắng.
Trong suốt 20 năm, ngài thường xuyên liên lạc với Đức Cha Khuê bằng thư từ hoặc nhắn gửi. Đặc biệt trong những ngày lễ ngày tết, không bao giờ ngài quên viết thư chúc mừng Bề Trên Giáo Phận. Nhận được thư của ngài, Đức cha Khuê đều trả lời với lòng quý mến, rất ưu ái. Ngài cũng thường viết thư trao đổi với Đức Cha FX. Nguyễn Văn Thuận đang bị quản chế tại Hà Nội. Để trả lời ngài, Đức Cha Thuận cũng thường viết thư cho “em Oanh Sắc”. ( Đức Ông Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh, ( 1922-2007, Chân dung Linh Mục, Tổng Giáo Phận Hà Nội )
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh Mátthêu thuật dụ ngôn hai người con được người cha gọi đi làm vườn nho. Người con thứ nhất từ chối, nhưng sau hối hận, đi làm. Người con thứ hai tuy vâng dạ, nhưng lại không đi làm. Đức Ông Giuse Đích Nguyễn Ngọc Oánh xứng danh người con hiếu thảo, đã vâng lệnh Bề Trên, về làm vườn nho, dù biết trước bao gian nan, khó khăn, thách đố đang chờ đón ngài.
Trong cuộc sống đạo, với sự yếu đuối cố hữu, bất kỳ Kitô hữu nào cũng có thể nhập vai cả hai người con, tùy theo lửa mến nhiều hay ít, mà đáp lại lời mời gọi làm vườn của Chúa.
Người con hiếu thảo
Làm vườn nho với tâm hồn khiêm tốn, không tự mãn, không so bì, đố kỵ, mà chân thành ăn năn sám hối tội lỗi đã vấp phạm, người con thảo hiếu còn luôn tập sống xả kỷ vị tha, biết trân trọng, quan tâm và phục vụ tha nhân. Thánh Phaolô căn dặn khi vào làm vườn thì: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” ( Pl 2, 3 – 4 ).
Muốn thế, người con hiếu thảo luôn tha thiết cầu nguyện, gần gũi, đắm say lửa mến, để mặc lấy tâm tình Thầy Chí Thánh, khiêm nhu, hạ mình, vâng phục Thánh Ý trọn hảo: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu, vốn dĩ là Thiên Chúa…” ( Pl 2, 5 – 11 ).
Đồng thời, làm vườn nho là sống trọn vẹn giây phút hiện tại, có nghĩa đoạn tuyệt, quên đi quá khứ huy hoàng, thành quả tốt lành, hoặc giã từ những thất bại ê chề, tội lỗi nhám nhúa, để sám hối, canh tân. "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Chúa” ( Lc 9, 62 ).
Vì thế, sống giây phút hiện tại cũng là nhật nhật tân, hựu nhật tân, mỗi ngày mỗi đổi mới, mỗi thêm xả kỷ vị tha. Lời Chúa, Thánh Thể, cùng hồng ân hằng ngày của Người Cha thương ban, như lương thực dồi dào, bồi dưỡng tâm hồn, tăng sức đề kháng, tăng cường công lực, sẵn sàng dấn thân, người con thảo mới có thể an tâm lữ hành trên đường hy vọng.
Người Cha hằng hiện hữu
Vô thủy vô chung, “Thiên Chúa là Alpha và Omega, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng” ( Kh 22, 13 ). Ngài là Đấng Tạo Hóa hằng hiện hữu vượt ra bên ngoài không gian và thời gian, mà Ngài đã sáng tạo. Trong khi muôn loài thọ tạo thì chịu giới hạn và gắn chặt trong vòng kim cô của thời gian và không gian. Vì thế, tất cả biến cố, sự kiện diễn ra dưới trần thế, lòng vòng xoay vần như đèn cù, vẫn luôn mãi là thời hiện tại qua lăng kính kỳ diệu của Thiên Chúa.
Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu đang cầu nguyện, thì Trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người, dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” ( Lc 3, 21 – 22 ).
Đức Giêsu cũng luôn dùng thời hiện tại trong rao giảng. Như tại hội đường Nadarét, sau khi đọc xong một đoạn lời Ngôn Sứ Isaia, Người nói với cộng đoàn: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kính Thánh quý vị vừa nghe” ( Lc 4, 21 ). Đức Giêsu dạy Kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày…” ( Mt 6, 11 ). Khi Người mời gọi người thu thuế: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông.” Sau khi ông Dakêu sám hối, ăn năn hứa đền bù tội, Đức Giêsu hân hoan: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này... Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” ( Lc 19, 1 – 10 ).
Người Cha khoan dung hằng hiện hữu không chấp nhất quá khứ con cái, dù bất hiếu, ngỗ nghịch, bỏ đi hoang đàng, như qua lời cầu khẩn trong cơn quẫn bách, Vua Đavít đã tán dương, chúc tụng: “Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài chậm giận, lại giàu tình thương và lòng thành tín” ( Tv 86, 16 ).
Người Cha khoan dung, rộng lượng quên ngay tội lỗi đứa con hư đốn, ương ngạnh, đanh đá, cá cầy, biếng nhác, chối phắt đi làm. Người lại trở nên rạng rỡ vui vẻ ngay, khi đứa con hôm nay biết ăn năn, hối hận, hoán cải, hiếu đễ, chịu thương chịu khó, hăng hái đi làm vườn. Đó là vì Chúa Giêsu kém trí nhớ ! một trong mười khuyết điểm vô cùng đáng yêu của Đức Giêsu, mà Ðức Tổng Giám Mục FX. Nguyễn Văn Thuận đã chia sẻ lần đầu tiên vào sáng thứ bảy, ngày 12.9.1998, tại Nguyện Đường Dòng Truyền Giáo Ðức Mẹ Vô Nhiễm ( OMI ), Strasbourg, Pháp.
“Con sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình yêu. Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh. Ðường Hy Vọng do mỗi chấm hy vọng. Ðời Hy Vọng do mỗi phút hy vọng” ( Ðường Hy Vọng số 978 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin xóa đi niềm tự cao, tự đại trong tâm hồn chúng con, vì lầm tưởng rằng mình đạo gốc, công chính, đạo đức, dễ ngủ mê trong kiêu căng, tự phụ, đánh mất hết ân nghĩa của Chúa. Cũng xin Chúa xóa đi nỗi mặc cảm của chúng con tự ti, tội lỗi, xấu xa, gớm ghiếc, chua chát thất vọng, để có thể tỉnh ngộ, chân thành sám hối, ăn năn và trông cậy, trở về vòng tay yêu thương của Người Cha Nhân Từ.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn nhắc nhủ, giúp đỡ, cầu bầu cho chúng con sống trọn vẹn giây phút hiện tại, với tràn đầy tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Amen.
AM. TRẦN BÌNH AN
------------------------------
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Trong hai người, ai đã làm theo ý của cha mình?” (Mt 21,31).
Khác với các dụ ngôn khác, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dường như không đưa ra một vấn TN26-A124 Lương
Khác với các dụ ngôn khác, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dường như không đưa ra một vấn đề hóc búa hoặc khó trả lời. Người cha nói với cả hai người con ra vườn nho làm việc. Người con thứ nhất nói không, nhưng sau đó nó thay đổi và đi làm. Người con thứ hai nói vâng nhưng rồi lại không đi. Có vẻ như không khó khăn gì để trả lời câu hỏi của Đức Giêsu “Ai trong hai người đã làm theo ý của cha mình? Chắc chắn, câu trả lời của chúng ta, là đứa con lúc đầu tuy đã từ chối, nhưng sau đó lại thi hành mệnh lệnh của cha. Đối với não trạng văn hóa cổ xưa thì không phải vậy. Theo các bản văn ban đầu, người ta lại đánh giá người con thứ hai cao hơn, bởi vì nó nói có, cho dù sau đó nó không đi. Trong một nền văn hóa mà người ta trọng hình thức bên ngoài, thì có lẽ đứa con thứ hai đã mauchóng đáp trả lời mời gọi của cha,sẽ được trọng thị và tán thưởng hơn, cho dù xét về khía cạnh khác thì nó đáng xấu hổ vì đã không thực hiện lời hứa. Vào thời bấy giở, hình ảnh đứa con thưa vâng vẫn tốt hơn là đứa con công khai bất tuân lời cha, cho dù sau đó , nó hối hận và đi làm.
Theo mạch văn trong Tin mừng Matthêu, Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn để trực tiếp công kích thái độ của các lãnh đạo tôn giáo thời Ngài. Họ là những người cố tình công khai chống đối Đức Giêsu, không tin tưởng vào Ngài và thách đố quyền bính của Ngài. Đức Giêsu đã dùng một kỹ thuật giống như ngôn sứ Nathan đã sử dụng khi đến gặp Đavit, để nói cho nhà vua về tội mà ông đã phạm với bà Bát Seva, vợ của tướng quân Urigia. Nathan kể câu truyện về một gã nhà giầu đã tước đoạt con bê duy nhất của người hàng xóm nghèo sống bên cạnh nhà mình (2Sm 12, 1-12). Nathan gợi nhắc Đavit hãy đưa ra một phán quyết đối với tên nhà giàu gian tham ấy, và cuối cùng đó cũng chính là phán quyết dành cho chính nhà vua.
Tương tự như vây, dụ ngôn của Đức Giêsu cũng nhắc nhở những người lãnh đạo tôn giáo thời Ngài hãy hối cải, để làm sao những điều họ nói, họ giảng dạy tương hợp với những gì họ thực hành. Trước đó, Đức Giêsu cũng cảnh báo các môn đệ là không phải chỉ nói suông “Lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng còn phải thực hiện thánh ý của Thiên Chúa (Mt 7,21-27). Trong Mt 23,3Đức Giêsu cũng cảnh báo đám đông cũng như các môn đệ đừng làm theo những gì mà các người biệt phái và ký lục đã nêu gương, bởi vì họ chỉ nói nhưng không thực hành. Bài Tin mừng hôm nay vén mở ra một chân trời hy vọng để chờ đón họ: Vẫn còn thời gian để họ biết quay trở về, và thực hiện những gì tương thích với lời họ giảng dạy.
Chúa Giêsu đã kết thúc dụ ngôn bằng một lời nhắc nhở mạnh mẽ hầu có thể làm lay động trái tim chai lỳ của các vị lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ “ Tôi nói cho các ông biết, phường tội lỗi và đĩ điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Câu nói này không nhằm chỉnh sửa các môn đệ. Nó cũng không có dụng ý nêu bật sự tương phản giữa cái gì xấu nhất và cái gì tốt nhất mà chúng ta có thể nghĩ tưởng ra. Đích nhắm của Chúa Giêsu bắn thẳng vào các đầu mục Do thái giáo. Họ là những người có nhiệm vụ đưa dẫn kẻ khác vào Nước Trời, nhưng liệu họ có thực hiện được hay không. Chính những kẻ vẫn bị cho là nhỏ bé và thấp kém nhất, lại là những người trước tiên sẽ được vào Nước Trời, khi họ biết hối cải và tin vào Thiên Chúa.
Chúng ta rất dễ nhận ra sự khác biệt giữa lời nói và việc làm, nơi phong cách sống của một ai đó. Chúng ta rất dễ phê phán người Pharisiêu trong Tin Mừng hôm nay, hay những vị lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu, và thấy họ cần phải sửa đổi. Nhưng rất khó để chúng ta can đảm nhìn lại cuộc sống của chính chúng ta xem những điều chúng ta nói, chúng ta giảng dạy có đi đôi với việc chúng ta thực hành cụ thể hay chưa. Nói rằng tôi đang theo Đức Giêsu, thì quả là khá dễ dàng, nhưng để thực hiện những giáo huấn của Ngài không phải là chuyện giản đơn. Khi chúng ta tự nhủ với lòng mình, ví dụ tôi cần phải cầu nguyện, nhưng trong thực tế, liệutôi có dành đủ thời gian và chọn những nơi chốn thích hợp để thực hành việc đó hay không. Chúng ta nói, chúng ta quan tâm đến người nghèo, nhưng trong thực tế, chúng ta đã thực hiện một cách cụ thể ra sao?
Cũng may mắn thay, việc thực hiện một cách tương thích giữa lời nói và việc làm không phải là một gánh nặng chỉ đè nặng trên vai chúng ta mà thôi. Sự vâng phục của Đức Giêsu trên Thập giá vẫn mãi là gương mẫu để soi dẫn cho ta. Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô đã nói đến sự vâng phục này. Ngài đã tự biến mình ra không, và diễn tả một tình yêu sâu tận dành trao cho Thiên Chúa. Ngài trở nênkhuôn mẫu nội tâm, bơm thêm sức mạnh, giúp chúng ta không những chỉ nói vâng, nhưng còn biết thực hiện bằng những việc làm cụ thể. Sự vâng phục của Đức Giêsu sẽ soi sáng, giúp chúng ta canh tân đổi mới mỗi ngày, gọi mời chúng ta biết mở lòng để hoán cải, và giúp cho những con người hèn mọn bé nhỏ nhất có thể vào được Vương quốc Nước Trời khi biết thực hiện theo chỉ huấn này.
------------------------------
Mt 21, 28-32
Làm người bình thường ai cũng có miệng lưỡi và tay chân. Miệng để nói, tay để làm. Tuy nhiên có TN26-A125
Làm người bình thường ai cũng có miệng lưỡi và tay chân. Miệng để nói, tay để làm. Tuy nhiên có người ham nói mà lại không ham làm và có người hay làm mà lại không hay nói.
Người Việt Nam ta, ai cũng mến yêu người nói ít nhưng làm nhiều và ai cũng ghét những kẻ nói nhiều nhưng làm chẳng được bao nhiêu. Điều này đã được cha ông ta diễn tả qua những thành ngữ như: “Ba voi không được bát nước sáo; trăm nghe không bằng một thấy”.
Đức Giêsu, một người Dothái là Thiên Chúa thật và cũng là người thật, Ngài đã diễn tả sự tương phản giữa “nói” và “làm”, giữa nói “có trên môi miệng”, nhưng lại nói “không trong hành động” và nói “không trên môi miệng”, nhưng lại nói “có trong hành động” qua dụ ngôn hai người con đối xử với cha:
Người con thứ nhất xem ra từ chối lời cha, nhưng lại làm theo ý cha, chứ không làm theo ý mình.
Người con thứ hai xem ra vâng phục cha, nhưng lại không làm theo lời cha mà làm theo ý mình.
Từ thái độ của hai người con đối với người cha, Đức Giêsu dẫn người nghe đến một câu hỏi và một câu trả lời: Câu hỏi là trong hai người con, ai là người làm theo ý cha? Câu trả lời là ‘người con thứ nhất’. Câu hỏi là của Đức Giêsu - người kể chuyện, dành cho các thượng tế và kỳ lão Dothái ngày xưa và cho chúng ta ngày nay. Còn câu trả lời là của thính giả ngày xưa cũng như ngày nay.
Dựa vào thái độ của hai người con và câu trả lời của thính giả, Đức Giêsu đã đưa ra một khẳng quyết nhằm nhấn mạnh sự khác biệt giữa ‘đức tin và hành động theo đức tin’ với ‘không tin và không hành động theo đức tin’, giữa sám hối thay đổi đời sống và không sám hối thay đổi đời sống: “Tôi bảo thật các anh, những người thu thế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các anh. Vì những người thu thuế và những cô gái điếm đã tin lời Gioan Tẩy Giả mà sám hối ăn năn, còn các anh sau khi đã thấy điều đó, các anh vẫn không chịu tin lời Gioan Tẩy Giả mà sám hối, thay đổi đời sống”.
Thật vậy, xưa cũng như nay, trong đạo cũng như ngoài xã hội, người ta luôn thán phục tính hiệu quả và đề cao hành động. Người ta nghi ngờ những lời nói suông, những tuyên bố trống rỗng, những thề hứa, vâng dạ cho xong chuyện rồi chờ mãi chẳng thấy đâu. Chính những hành động mới quan trọng chứ không phải là ý định hay lời nói. Người ta có thể dùng đầu môi chót lưỡi để phỉnh lừa nhau..., nhưng chẳng ai dùng đầu môi chót lưỡi mà phỉnh lừa được Thiên Chúa: “Không phải bất cứ ai thưa với Thày: Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi thành ý muốn của Cha Thày, Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Tuy nhiên nhìn vào thực tế, xem ra đời sống của chúng ta gần với người con thứ hai hơn là người con thứ nhất trong dụ ngôn. Chúng ta tiền hậu bất nhất, nói mà không làm, thề hứa mà không giữ, tin đạo mà không sống đạo.
Quả thật, nói mà không làm là tự vả vào mặt mình, tin đạo mà không sống đạo là bôi bác và nhạo báng Chúa: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có cơm ăn áo mặc mà có người lại nói với họ: hãy đi bình an, mặc cho ấm, ăn cho no, nhưng lại không cung cấp cho họ những thứ thân xác họ đang cần thì nào có ích gì?
Cũng vậy, đức tin không có hành động quả là đức tin chết. Con người được trở nên công chính nhờ hành động theo đức tin, chứ không phải chỉ tin xuông mà thôi. Tổ phụ Abraham đã hành động theo đức tin, ông được kể là người công chính và là bạn của Thiên Chúa. Ra-kháp cô gái điếm cũng vậy, chính nhờ hành động đón tiếp và cứu giúp các sứ giả của Chúa mà cô được trở nên công chính. Thật thế, một thân xác không hơi thở là một thân xác chết, đức tin không có hành động là đức tin chết” (x. Gc 2,14-26).
Hành động theo đức tin, sống đức tin hay sống đạo là gì ? Là để cho đức tin hướng dẫn, chi phối, thanh luyện đời ta từ tư tưởng đến lời nói và việc làm khiến chúng luôn ăn khớp với nhau, nhằm biến tư tưởng xấu, lời nói xấu và việc làm xấu thành tư tưởng tốt, lời nói tốt và việc làm tốt.
Lạy Chúa, xin cho con biết thống nhất đời sống giữa lời nói và việc làm, giữa đi đạo và sống đạo. Amen
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu
--------------------------------
Con cha thì giống Cha. Là Kitô hữu chúng ta phải nghe và làm theo Lời Chúa. Chúa Giêsu muốn nói với TN26-A126
Con cha thì giống Cha. Là Kitô hữu chúng ta phải nghe và làm theo Lời Chúa. Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta, qua câu chuyện người cha và hai đứa con này. Đó là: Muốn vào Nước Trời, vấn đề không phải chỉ nói "có" ngoài môi miệng mà phải làm theo ý của Chúa Cha. Hai người con, không có người nào đem lại niềm vui trọn vẹn cho cha. Cả hai đều không làm cha mình hài lòng. Nhưng người con thứ nhất rõ ràng là tốt hơn người con thứ hai. Bởi vì, tuy lúc đầu anh đã nói "không", rồi sau đó anh đã đi làm theo ý Cha. Phải chi có người con thứ ba nói đi làm ngay là đi làm ngay, thì thật là tốt biết mấy! Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường gặp hai hạng người này: Thứ nhất là hạng hạng người nói nhiều hơn làm, họ hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả. Thứ hai là hạng người làm nhiều hơn nói, họ không hứa hẹn, ba hoa, khoác lác, nhưng người ta thấy họ làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Chúng ta ta thích hạng người này hơn, vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
Lời hứa không bao giờ thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử. Người con thứ hai tỏ ra lịch sự bên ngoài, khi lễ phép trả lời: "Thưa cha, vâng ạ". Nhưng rồi anh không làm. Lễ phép suông là một việc giả dối, hảo huyền. Lễ phép thật là vâng lời, thực hiện một cách sẵn lòng, vui vẻ. Các tín hữu của Chúa Kitô thực hành chứ không phải hứa hẹn. Người Kitô hữu đích thực là đón nhận mệnh lệnh của Cha với thái độ vâng phục và kính trọng, là người chấp hành mệnh lệnh trọn vẹn: nói là làm ngay.
Ngày nay, người ta thường nói: "Con đường dài nhất là con đường từ đầu đến tay". Chúng ta cần để cho Lời Chúa "đi từ lỗ tai đến tim óc và cuối cùng đến đôi tay". Nhiều khi chỉ nghe Lời Chúa bằng đôi tai thôi - tai này lọt qua tai kia là hết hay nhiều khi người khác để cho Lời Chúa đánh động quả tim và trí tuệ, nhưng rồi họ ngừng lại tại đó, không dám đi xa hơn, vì sợ phải hy sinh, từ bỏ,... Rốt cuộc Lời Chúa vẫn là cái gì mông lung, không thực tế, không liên quan gì đến đời thường: đời sống làm ăn, đời sống gia đình, đời sống tình cảm,... Lời Chúa vẫn bị nhốt trong nhà thờ, trong các cuộc tĩnh tâm, các buổi chiều cấu nguyện chia sẻ. Làm sao để Lời Chúa được đến "đôi tay", nghĩa là được người Kitô hữu đem ra thực hành xung quanh tha nhân. Chỉ như thế, men Lời Chúa mới có thể được trộn đều vào khối bột loài người và làm bột dậy men Tin Mừng.
Quả thực, con đường đi từ quả tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Để đi trên con đường này, người Kitô hữu phải được giải phóng khỏi cái tôi nặng nề, với những lo toan và sợ hãi, những tính toán và vun vén cho mình. Rung động trước nỗi khổ của người khác là một chuyện, cho người khác cái áo còn tốt của mình lại là chuyện khác. Thánh Gioan đã cảnh giác chúng ta: "Hỡi anh em, ta đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự" (1Ga 3,18).
Chúa Giêsu không thích những người sống giả hình, Luật Sĩ và Biệt Phái Pharisêu bị lên án dữ dội vì họ giả hình, nói mà không làm, đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng tránh né cho chính mình. Thế giới hôm nay cần thấy việc tốt của chúng ta trước khi họ tin nhận giáo lý của Chúa Kitô. Họ tin vào Đạo vì thấy những người dám sống đạo, dù phải chịu thiệt thòi và nguy hiểm. "Ánh sáng của anh em cũng phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16). Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?Đức tin bên trong của chúng ta phải được thể hiện ra việc làm bên ngoài: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2,17).
Chúa Giêsu là Người Con lý tưởng, Người Con đã thưa VÂNG ngay từ đầu và thưa VÂNG mãi mãi suốt cả đời. Nơi Ngài luôn là Có chứ không phải là Có khi Không. Ngài đã thưa với Chúa Cha: "Này con xin đến để thi hành Thánh Ý Cha" (Dt 10,9), và Ngài đã thi hành cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá. Như thế, Chúa Giêsu đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha một cách hoàn hảo và nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy noi gương Ngài để trở nên những người con đích thực của Cha chúng ta trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết làm theo thánh ý Chúa. Amen.
----------------------------------
“Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho!”
Nghe câu chuyện dụ ngôn này, tôi vẫn hay thắc mắc về ý nghĩa của việc ‘đi làm vườn nho’ vì đôi TN26-A127
Nghe câu chuyện dụ ngôn này, tôi vẫn hay thắc mắc về ý nghĩa của việc ‘đi làm vườn nho’ vì đôi khi nó không rõ ràng lắm. Từ lâu tôi đã nghĩ thật đơn giản: sống lành thánh, làm các việc lành phước đức, thi hành các việc tồng đồ, truyền giáo… tức là ‘làm trong vườn nho’ của Chúa rồi còn gì! Sau này tôi mới phát hiện ra khái niệm này xem ra không ổn khi áp dụng vào trường hợp cụ thể của hai người con trong dụ ngôn: đứa vâng ngoan trước lời kêu mời của người cha nhưng đã không đi, còn đứa ngang bướng rốt cuộc rồi lại ‘đi làm vườn nho’. Qua câu chuyện này tôi thấy hình như Đức Giê-su đã suy nghĩ rất khác: Người không phân thính giả thành hai loại ‘người vâng’ hay ‘người không vâng’, nhưng ngay trong mỗi thính giả vốn đã sẵn biện chứng ‘vâng và không vâng’, rốt cuộc họ vẫn được đánh giá qua việc ‘đi làm vườn nho’ mà thôi. Nhưng làm vườn nho hệ tại ở điều gì, theo tâm tưởng của Đức Giê-su?
Thói thường thì ai cũng hiểu là lời nói không trọng hơn việc làm. Khi sử dụng cùng một khái niệm này Đức Giê-su đã cho thấy: đối với Nước Thiên Chúa, sống tội lỗi như ‘những người thu thuế và những cô gái điếm…’, hoặc sống lương thiện công chính như các thượng tế và kỳ mục trong dân (đối tượng chính của dụ ngôn) vẫn chỉ là những lời nói ngang bướng hay vâng ngoan. Người còn cho thấy rõ, điều quan trọng hơn chính là ‘thi hành ý muốn của người cha‘, đó là ‘đi làm vườn nho’, tức là tin và tiếp nhận sứ điệp kêu gọi sám hối mà Gio-an Tiền Hô đã khởi sự và Đức Giê-su tiếp tục kêu mời. Như thế Người chỉ cho thấy một điều làm đảo lộn tất cả: ‘đường công chính’ hệ tại ở việc thi hành sám hối hơn là ở việc có sống ngay lành hay không; “Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy”. Sám hối đây chưa hẳn là đã sửa đổi được mình, cho dầu nỗ lực vươn tới là dấu chỉ cần thiết của chân thành sám hối, nhưng chính yếu hệ tại ở việc đón nhận ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho. Sứ điệp của Gio-an “Hãy sám hối!”, tức là hãy cải tà qui chính trong nội dung luân lý, đã được chính Đức Giê-su cập nhật: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ!” tức là tin vào Đức Ki-tô Giê-su mạc khải tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Sứ điệp này quả chất chứa một nội dung rất Tin Mừng! Trong số những người thu thuế và gái điếm tin vào Gio-an không phải tất cả đều đã đổi đời hoàn lương, nhưng tất cả họ đều đã khám phá ra và đón nhận lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa và tin vào Tin Mừng. Chính ở điểm này mà họ trở nên hơn hẳn các thượng tế và kỳ mục, tức các đấng bậc được coi là vị vọng trong dân, vì họ đã trở nên ‘công chính’ theo Tin Mừng; “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Như thế rõ ràng là để vào được Nước Trời, điều kiện quan trọng hơn cả là, thông qua sám hối những lỗi lầm đã phạm, mỗi người nhận ra tình yêu cứu độ Thiên Chúa đang tuôn đổ trên mình, và khiêm tốn mở lòng đón nhận. Các Pha-ri-sêu đã không thể đạt tới được sự công chính ấy; “Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.”
Nếu quả là như thế thì cuộc sống mỗi Ki-tô hữu chúng ta đều chất chứa cả hai phần: nói và làm. Riêng phần ‘nói’ nhiều lúc có thể là vâng ngoan, vì đã giữ đạo tử tế, đã làm các việc lành phước đức, đã có không ít các nỗ lực tu thân tích đức, sống bác ái, tông đồ phục vụ v.v…, nhưng đồng thời cũng có những hồi ngang ngược vì các yếu đuối lỗi lầm đã phạm. Nhưng cho dầu đã ‘nói’ thế nào đi nữa, thì lúc này đây, điều quan trọng hơn hết đối với mọi người vẫn phải là ‘đi làm vườn nho’, tức là khiêm tốn nghe lời kêu gọi sám hối của Gio-an để thật lòng tin vào Tin Mừng cứu độ mà Đức Ki-tô Giê-su đã mang lại. Có thể tôi ‘đi làm vườn nho’ vì tôi vốn ngoan hiền, và như thế là tuyệt vời vì tôi nói và tôi đi làm, nhưng cũng có lúc (và có lẽ trường hợp này còn nhiều hơn!) tôi đã từng nói ‘không đi’ nhưng rồi trong tác động của ân sủng tôi đã ‘… hối hận, nên lại đi’.
Đối với Tin Mừng trường hợp sau này có vẻ lại càng ý nghĩa hơn, vì sự ngang bướng rõ ràng dẫn tới hối hận, và trở thành động lực thúc đẩy ‘đi làm vườn nho’. Chính các yếu đuối lầm lỡ đã phạm có thể giúp ta dễ dàng hơn khám phá ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, để rồi… ‘sám hối và tin vào Tin Mừng’. Và như thế vô hình chung đã biến ‘Con không đi!’ ngang bướng trở thành cho ta ‘tội hồng phúc’, như thánh Âu-tinh đã từng diễn đạt cảm nghiệm của riêng ngài. Đáng lý ra toàn bộ cuộc sống Ki-tô hữu ngay từ đầu đã phải trọn vẹn là ‘vâng con đi’ và ‘đi làm vườn nho’, bởi vì qua Bí Tích Thánh Tẩy lãnh nhận họ đã công khai nói lên điều đó. Tuy nhiên thực tế cuộc sống cho thấy ngay cả nơi các Ki-tô hữu vẫn luôn tồn tại một ‘biện chứng’ giữa ‘vâng và không’, đúng như nội dung của dụ ngôn ‘hai người con’. Và vì không một ai nằm ngoài qui luật biện chứng này nên sám hối và lãnh nhận Bí Tích Cáo Giải vẫn luôn phải chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của tất cả mọi Ki-tô hữu trải qua các thời đại. Phải chăng thái độ ‘sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ’ mà cao điểm được diễn đạt nơi tòa giải tội, mới chính là việc ‘đi làm vườn nho’ của mỗi người chúng ta, và qua đó chúng ta được trở nên công chính?
Hơn ai hết, vì là Linh Mục nên tôi đã phải luôn nói ‘vâng’ với lời kêu mời sám hối và đón nhận lòng Chúa xót thương, thế nhưng hơn bất cứ ai khác, tôi phải biến lời ‘vâng’ này thành hành động: mau mắn lên đường ‘đi làm vườn nho’ Tin Mừng của Chúa. Chính tôi cũng cần sám hối không ngừng!
Lạy Cha từ nhân, cha không ngừng mời gọi con, cũng như mời gọi hết thảy mọi người, ‘đi làm vườn nho’ của Cha, vườn nho của đón nhận lòng từ ái và xót thương bao la. Rất có thể con đã tự cho mình là đứa con vâng ngoan vì ơn gọi tu sĩ và linh mục mà Cha đã ban cho con suốt trong những năm tháng dài đời con, nên đôi lúc con thấy không cần phải đi thêm nữa. Con đã từng đáp lại tiếng Cha mời gọi bằng câu thưa: “lạy Chúa, con đây”, thế nhưng vẫn luôn có nguy cơ ‘nhưng rồi lại không đi’. Xin cho con ít quan tâm hơn tới ‘nói’ và tập trung hơn vào ‘đi làm’ trong vườn nho của sám hối và đón nhận trọn vẹn lòng thương xót cứu độ của Cha. Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của John W. Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Vậy mà các anh lại nói, đường lối của Thiên Chúa không ngay thẳng” (Ez 18,25).
Nữ ca sỹ Frank Sinatra đã cất lên bài hát “Tôi đã làm theo đường lối của tôi, và cứ thế, tôi sẽ tiếp tục thực TN26-A128
Nữ ca sỹ Frank Sinatra đã cất lên bài hát “Tôi đã làm theo đường lối của tôi, và cứ thế, tôi sẽ tiếp tục thực hiện, nhiều hơn, nhiều hơn nữa”. Đây là một quan niệm khá phổ biến. Con người có tự do. Vì thế, chúng ta dễ xác tín vào cuộc sống của chúng ta và cứ thực hiện, cứ sống theo cách thế của mình, theo lương tâm, theo tài năng của mình và cũng chẳng cần màng đến giá trị của chúng ta ra sao nữa. Nhưng đến một lúc nào đó, Chúa mời gọi chúng ta đi theo đường lối Chúa, thì cách tốt nhất, là chúng ta hãy sống theo con đường mà Chúa đã vạch dẫn, giống như Đức Giêsu đã thực hiện, khi Ngài dấn bước vào cuộc hành trình Thập giá.
Tiên tri Ezêkiel nói cho dân Israel về đường lối của Thiên Chúa, một cách rất rõ nét. Đó là một lối đường ngay thẳng và tốt lành. Đồng thời trong đường lối đó, Thiên Chúa cũng trao phó cho con người trách nhiệm để họ ý thức về những tội lỗi của chính mình. Dường như hơi kỳ lạ, là dân chúng phản kháng, chống lại tuyên bố trên. Họ cho rằng họ chẳng có trách nhiệm gì hết. Chính vì thế Ezêkiel đã khơi lại lời ca thán của dân khi họ nói “Đường lối của Thiên Chúa quả thật, không ngay thẳng chút nào”. Với sự ngạc nhiên, Thiên Chúa đáp trả khi vặn hỏi lại dân “Có phải đường lối của Ta không ngay thẳng, hay chính đường lối của các ngươi không ngay thẳng?”.
Lời phàn nàn của dân chúng dường như phát nguồn từ một não trạng cứng ngắc nơi những con người hay tự mãn, luôn cho mình là ngay lành và chân chính. Nhưng khi kẻ ngay chính từ bỏ sự ngay chính của họ, hay những con người tốt lành bỏ xa con đường tốt lành mà họ đang dấn bước, thì hậu quả sẽ ra sao? Thiên Chúa phán quyết một cách nghiêm khắc “Khi người ngay chính bỏ con đường ngay thẳng của họ và phạm những tội bất chính, nó sẽ chết. Cũng thế, khi một người gian ác từ bỏ tội lỗi họ đã gây nên mà tuân giữ các lệnh truyền của ta, và thi hành điều chính trực công minh, chắc chắn nó sẽ sống và không phải chết. Sự hoán cải và trở nên công chính là tâm điểm nơi phán quyết của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ cân nhắc sự hối lỗi của chúng ta và Ngài sẽ đổi ý định giáng phạt. Kiên trung đi theo đường ngay nẻo chính là điều trọng yếu, chứ không phải chỉ khẳng định là mình đã sống chính trực trong quá khứ một cách nhất thời mà thôi. Vì thế, những ai biết suy xét, biết thay đổi đời sống, biết đoạn tuyệt với những sai phạm, họ sẽ được sống, và không phải chết.
Đường lối của Thiên Chúa luôn là đường ngay chính, cho dù lối đường này nhiều khi có vẻ đánh đố và làm chúng ta kinh ngạc, đặc biệt khi chúng ta không hiểu nổi lòng thương xót của Thiên Chúa sâu xa như thế nào. Chúng ta có thể cứng đầu cứng cổ cho rằng, lối đường của Thiên Chúa không ngay thẳng. Nhưng ngay cả khi chúng ta cố tình chống lại lối đường của Thiên Chúa, thì đường lối của Ngài vẫn luôn là cách thế tuyệt vời nhất để biểu tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với con người. Đức Giêsu chính là nguyên mẫu cho chúng ta. Ngài đã trọn vẹn đi theo đường lối của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã bắt đầu bài thánh thi ca tụng Đức Giêsu, bằng việc khuyến mời giáo đoàn Philip hãy có “cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” giống như Đức Giêsu đã thực hiện. Ngài xin anh chị em tín hữu “Hãy sống khiêm nhường, luôn coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích riêng cho cá nhân, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”. Theo Thánh Phaolô, cách thái này chính là lối bước trọn lành mà đức Giêsu đã vạch dẫn , và trên nẻo đường này, sự vâng phục Thiên Chúa luôn phải được thực thi cách triệt để.
Qua cách thái mà Chúa Giêsu đã thực hiện, Thánh Phaolô muốn ngỏ trao cho chúng ta một sứ điệp: “Đức Giêsu đã nêu gương cho ta, đã tự nguyện biến mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, sống kiếp phàm nhân. Khi mang thân phận con người, Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến chết và chết trên Thập tự”. Đây là con đường dẫn đến núi sọ và huyệt đá. Đây cũng chính là con đường mà trong vườn cây dầu, Đức Giêsu đã khiếp sợ khi phải đối diện, đến mức độ Ngài đã khẩn xin Chúa Cha cất mình tránh khỏi con đường đó. Tuy nhiên Ngài đã chấp nhận dấn bước trong khiêm tốn, trong vâng phục và hy sinh cho đến chết. Lẽ tất nhiên, nhiều lúc chúng ta cũng có thái độ giống như đám đông ngày xưa. Họ đã la toáng lên và nói với Ezêkiel “ Đường lối của Thiên Chúa chẳng ngay thẳng chút nào”. Sự cố chấp này trái ngược hẳn với thái độ của Đức Giêsu, Đấng luôn khiêm tốn và vâng phục cách triệt để. Họ phản kháng như thế không phải là để tra hỏi xem đường lối của Thiên Chua như thế nào, không giống như Đức Giêsu đã hành xử. Cũng không phải là họ nài xin Thiên Chúa thực hiện nơi họ một lối đường khác. Không phải thế. Chính họ đã phản kháng, ngoan cố chống lại Thiên Chúa và đường lối của Ngài. Khi chúng ta chối từ con đường mà Thiên Chúa đã vạch dẫn, chính là lúc chúng ta đang chống lại Ngài, và đang tìm cách để đào thoát cũng như xa tránh Ngài.
Tuy vậy, như Ezêkiel đã mô tả, ngay khi chúng ta đang tìm cách né tránh đường lối Thiên Chúa, Ngài vẫn còn tạo cho chúng ta cơ hội để giúp ta sám hối và quay trở về. Động thái khoan dung này được biểu tỏ qua dụ ngôn của Thánh Mathêu trong phụng vụ hôm nay với hình ảnh về hai người con. Trong dụ ngôn, đứa con thứ đã thưa không với cha, nhưng sau đó nó suy nghĩ lại và thay đổi quyết định, trong khi đứa thứ nhất nói có, nhưng lại không đi làm vườn nho cho cha nó. Nếu chúng ta là chính đứa con đã từng nói không với Thiên Chúa là Cha của chúng ta, chúng ta vẫn còn cơ hội để thay đổi. Ngay cả như đứa con thứ nhất tuy đã thưa vâng nhưng lại không đi, nó cũng vẫn có thể sám hối và đổi thay . Chúng ta hay thích làm theo ý chúng ta, thế thì tại sao, chúng ta lại không cố gắng tìm kiếm và thi hành theo đường lối của Thiên Chúa. Điều đó tùy thuộc vào thái độ nội tâm nơi mỗi người.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha với TN26-A129
Trang Tin Mừng hôm nay trình bày dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha với hai thái độ khác nhau.
- Người con thứ nhất: Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.
- Người con thứ hai: Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha. Nhưng thực tế nó lại không đi làm vườn nho theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng tế Kinh sư Pharisiêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Anh ta có thái độ "ngôn hành bất nhất", "nói mà không làm", “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một đời sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả. Người con thứ hai ám chỉ những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.
Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.
Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống.
Kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.
- Nói ít làm nhiều.
Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.
- Nói nhiều làm ít.
Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. (x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, ĐGM Vũ Duy Thống).
Nói và làm, hai thái độ sống
Sau câu hỏi, Chúa Giêsu xác định một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu không chịu nghe lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối. Có hạng người nói không làm và hạng người làm không nói.
- Người nói mà không làm. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.
- Người không nói nhưng lại làm. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.
Những bài học
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.
- Việc làm quan trọng hơn lời nói.
Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nổi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật sĩ Biệt phái Kinh sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
- Hãy làm một cách khiêm tốn.
Những người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải "đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài" để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisiêu "ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy".
Khi phê phán người Pharisiêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: "Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy... Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo... Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy... Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh" (Mt 6,1-6). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.
Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen.
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Có một tâm sự như sau: Lúc tôi còn là một chàng thanh niên nhà nghèo từ miền quê lên thành TN26-A130
Có một tâm sự như sau: Lúc tôi còn là một chàng thanh niên nhà nghèo từ miền quê lên thành phố học tập, mẹ tôi đã phải gồng gánh, chắt chiu từng đồng gửi cho tôi ăn học. Mỗi lần có dịp về thăm nhà, tôi thấy ngôi nhà ẩm thấp, nóng nảy ngày xưa vẫn không hề thay đổi. Trời tối nóng bức, mẹ tôi phải phe phẩy chiếc quạt nan cũ kỹ cả đêm. Tôi nói với mẹ: Tháng lương đầu tiên, con sẽ mua tặng mẹ cái quạt điện cho mát. Thời gian trôi qua, tôi cũng đã có việc làm, nhưng dường như tôi đã quên hẳn lời hứa với mẹ về tháng lương đầu tiên. Cuộc sống ở thành phố cứ cuốn tôi vào với dòng chảy của nó, bạn bè ngày càng nhiều hơn, các bữa tiệc ngoại giao ngày càng thường xuyên hơn, có những bữa tiệc tiêu tốn đến vài triệu.
Rồi một ngày, nhận được tin mẹ mất, tôi vội vã trở về với mẹ. Vẫn ngôi nhà đơn sơ năm xưa, mẹ tôi nằm đó, trên gương mặt còn đậm nét khắc khổ. Buổi chiều hôm ấy, khi người ta đặt mẹ vào quan tài, những người phục vụ đã không quên bỏ vào quan tài của mẹ chiếc quạt nan cũ kỹ năm xưa. Nhìn thấy chiếc quạt, tim tôi thắt lại, giật mình nhớ lại lời hứa về tháng lương đầu tiên sẽ mua tặng mẹ chiếc quạt điện. Tôi vô cùng hối hận vì đã không thực hiện được một lời hứa nhỏ bé dành cho mẹ. Kể từ đó, mỗi khi ngồi cạnh chiếc quạt điện tại văn phòng, tôi lại nhớ lời hứa năm xưa với mẹ mà lòng đau đớn.
Hối hận là gì? Thưa là tiếc nuối, day dứt về một hành động trong quá khứ, về một việc tốt có thể làm mà ta đã không làm và ước mong có cơ hội để chuộc lại sai lầm ấy.
Nếu hối hận chỉ là day dứt và tiếc nuối quá khứ thôi, thì chưa đủ ; trái lại, nó cần phải đi kèm một quyết tâm khắc phục sửa chữa sai lầm của mình trong quá khứ, đó mới là hối hận thực sự. Thiên Chúa cũng luôn chờ đợi con người nhận ra sai lầm của mình, hối hận và làm lại cuộc đời, và khi con người hối hận thực lòng, Thiên Chúa không còn xét đến quá khứ của người ấy nữa, Ngài sẵn sàng tha thứ và đón nhận người ấy như người con đi xa trở về với Cha. Những luật sĩ và biệt phái tỏ ra khó chịu khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế và tội lỗi. Họ tự cho mình là những người đạo đức, luôn chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, nhưng thực ra họ chỉ nói mà không thực hành, xét đoán khắt khe với người khác, nhưng lại không nhìn lại bản thân mình.
Câu chuyện dụ ngôn về hai người con hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa quan tâm đến hành động hối lỗi một cách cụ thể hơn là những lời nói suông trống rỗng. Cả hai đứa con trong câu chuyện đều được cha đến tận nơi và mời gọi: Con ơi ! Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha. Đứa con thứ nhất trả lời: Con không muốn đi. Người con này, lúc đầu nó từ chối lời mời của cha nó, nó làm cho cha hụt hẫng, đau lòng vì bị từ chối thẳng như thế ; nhưng sau đó, nó hối hận và đi làm. Chắc chắn khi thấy nó vào vườn nho làm việc, cha nó sẽ quên hết nỗi đau trước đây, và ông vui mừng vì sự hiện diện thiện chí của nó. Ngược lai, Người con thứ hai đã nhanh chóng trả lời: Vâng con sẽ đi. Nó nói để lấy lòng cha nó, nhưng rốt cuộc anh ta không đi.
Câu hỏi được Chúa Giêsu đặt ra với các thượng tế và kỳ mục rằng: Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha? Họ trả lời ngay: Người con thứ nhất. Như thế, ngay câu hỏi của Chúa Giêsu đã cho thấy: Thiên Chúa như người cha trong câu chuyện, Ngài chờ đợi không phải là những lời nói ngọt ngào, dễ nghe, mà Ngài mong muốn những người con làm theo ý Ngài. Khi kể câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn so sánh những thượng tế và kỳ mục giống như người con thứ hai. Khi Đức Giêsu đến giảng dạy về giới răn, lề luật của Thiên Chúa, gửi đến họ cơ hội để gia nhập Nước Trời, bên ngoài thì họ tỏ ra như một người con hiếu thảo, nhưng thực ra, họ lại không tuân giữ giới răn và không làm theo ý muốn của Thiên Chúa, mà làm theo ý mình. Còn những người bị coi là tội lỗi như những người thu thuế và gái điếm, trong con mắt mọi người, họ như những kẻ từ chối Thiên Chúa, nhưng khi nghe những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thì họ đã mau mắn hối hận và quyết tâm thay đổi tình trạng của mình. Vì thế, Chúa Giêsu đã quả quyết với họ: Những người thu thuế và các cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và các cô gái điếm lại tin.
Đối với Thiên Chúa, quá khứ không quan trọng bằng hiện tại, việc làm cụ thể thì quan trọng hơn lời nói trên môi. Nếu chỉ dừng lại ở quá khứ để tự dằn vặt, trách mình thì sẽ chẳng ích lợi gì. Nhưng điều quan trọng là khi biết thực lòng hối hận ăn năn, thì đối với Thiên Chúa, không bao giờ là quá muộn, Ngài sẽ vui lòng và sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm và quên hết quá khứ của tội nhân. Bài đọc một, Thiên Chúa đã nói qua miệng tiên tri Ezekiel như thế: Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính mà làm điều gian ác, nó sẽ phải chết vì những điều bất chính của nó. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ sự gian ác nó đã làm, mà thi hành điều chính trực, nó sẽ cứu được mạng sống mình, nó sẽ được sống.
Thiên Chúa không muốn chúng ta nhìn Ngài như một nhà độc tài hoặc một vị thần khó tính, mà Ngài muốn chúng ta nhìn Ngài như một Thiên Chúa tốt lành, một người Cha nhân hậu. Ngài luôn đối xử với chúng ta theo lòng khoan dung của Ngài. Ngài chờ đợi tâm tình thảo hiếu của người con đối với cha, như Đức Giêsu là mẫu gương thảo hiếu, hết lòng yêu mến, vâng phục Cha. Thánh Phaolô đã nhận ra và mời gọi chúng ta noi gương Ngài: Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu-Kitô.
Tâm tình của Đức Giêsu Kitô là tâm tình nào? Đó là tâm tình yêu mến và vâng phục Thiên Chúa, vâng phục một cách tuyệt đối. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm tình ấy qua bài ca: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Vì thế là môn đệ của Đức Giêsu, là con thảo của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải học nơi Đức Giêsu và phải có cùng một tâm tình vâng phục, yêu mến Thiên Chúa như Ngài.
Thưa quý OBACE, một trong những vấn đề của con người ngày nay, đó là họ làm điều tội, nhưng lại không cho là tội, làm tổn thương đến người khác mà vẫn coi như chuyện bình thường. Sự vô tâm đến vô tình ấy đã gây ra nhiều nỗi khổ cho người bên cạnh. Tình trạng ấy cũng đang xảy ra giữa nhiều người với Thiên Chúa. Họ gây tổn thương cho Thiên Chúa, từ chối lời mời gọi yêu thương của Ngài mà không hề áy náy hay hối hận. Ngoài ra, nhiều lần chúng ta không chỉ vô tình, mà còn cố ý xúc phạm đến Thiên Chúa, khi mang trên mình cái vỏ là Kitô hữu, nhưng thực ra, chúng ta từ chối giới răn lề luật của Chúa và để ngoài tai lời mời gọi của Ngài. Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở và mời gọi chúng ta, hãy can đảm nhìn vào tình trạng tâm hồn và đời sống của mình để biết hối hận ăn năn về những hành động, lời nói đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời tin tưởng vào Thiên Chúa để quyết tâm sửa chữa sai lầm. Hãy đến với Chúa nơi Bí Tích Giải tội để nhận ra sự bao dung, tha thứ của Thiên Chúa. Hãy để cho Lời Chúa soi sáng, chỉ dạy chúng ta và quyết tâm thực hành những điều Chúa muốn. Chúa đang nói với mỗi người qua Lời Chúa chúng ta nghe mỗi ngày và qua tiếng nói của lương tâm, là lời mời gọi từ trong tâm hồn mà Chúa nhắn gửi chúng ta.
Không chỉ hối hận với Thiên Chúa, chúng ta cũng cần khiêm tốn để nhìn ra những tổn thương mà chúng ta đã gây ra cho nhau: trong gia đình, với ông bà cha mẹ, với vợ chồng con cái, với bạn bè. Một lời nói, một cử chỉ nào đó có thể gây ra vết thương trong tâm hồn nhau. Hãy mạnh dạn bước đến với nhau để bày tỏ sự hối hận của mình. Trước hết, mỗi người hãy bày tỏ sự hối hận với các bậc làm cha mẹ. Các Ngài là những Đấng sinh thành, dưỡng dục chúng ta, dạy dỗ chúng ta nên người, nhưng ngược lại, khi khôn lớn, chúng ta đã không kính trọng và biết ơn các ngài cho đủ, mà có những lời nói, cử khỉ hỗn láo, khinh thường. Điều đó làm tổn thương các ngài biết bao. Hãy làm những việc cần thiết, để bày tỏ sự hốn hận của mình với các Ngài trước khi quá muộn.
Không chỉ con cái gây tổn thương cho cha mẹ, nhưng nhiều khi chính cha mẹ cũng gây tổn thương cho con cái, vợ chồng gây tổn thương cho nhau, bạn bè làm tổn thương nhau… Đối với người Châu Á, việc một người lớn nói lời xin lỗi với người bề dưới quả là không dễ, nhưng là những bậc cha mẹ hoặc những người lớn, chúng ta cũng cần xét mình lại và can đảm bước đến với con cái, với những người bề dưới để nói với họ rằng mình đã sai và cố gắng sửa chữa sai lầm. Việc làm đó không làm giảm uy tín của người bề trên, mà trái lại càng làm tăng lòng cảm phục nơi người bề dưới. Trong tương quan với bạn bè cũng thế, khi biết hối hận và khắc phục sai lầm, sẽ làm cho tình bạn ngày càng chặt chẽ hơn.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta không ngừng nhìn lại tương quan của mình đối với Chúa để biết sống trọn tình con thảo, và nhìn lại tương quan của mình với anh em để sống với nhau trong sự cảm thông và yêu thương. Amen.
----------------------------------
Thành tâm hối hận
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 21:28-32)
Sám hối và tin vào Tin Mừng là hai điều kiện căn bản để vào Nước Thiên Chúa. Mở đầu sứ vụ, TN26-A131
Sám hối và tin vào Tin Mừng là hai điều kiện căn bản để vào Nước Thiên Chúa. Mở đầu sứ vụ, Chúa Giê-su rao giảng sứ điệp: “Nước Trời đã đến gần. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đáp lại lời kêu gọi này, nhiều người tội lỗi đã đến với Chúa và nhận được ơn tha thứ, thí dụ người phụ nữ đã đến gặp Người ở nhà ông Si-mon (Lu-ca 7:36-50). Trong khi đó, những thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư lại ngoảnh mặt bịt tai không muốn đón nhận sứ điệp sám hối. Vì thế, Chúa Giê-su đã kể cho họ câu chuyện hai người con được cha sai đi làm vườn nho.
Ý muốn của người cha là hai đứa con đều đi làm vườn nho cho ông và trên thực tế cũng là vườn nho của cả hai đứa con nữa. Trước ý muốn đó, người con thứ nhất lúc đầu từ chối thi hành, rồi nghĩ lại và hối hận nên anh đã đi làm. Còn người con thứ hai đầu tiên thì tỏ ý sẵn sàng làm theo ý cha, nhưng sau đó anh chẳng làm gì cả. Rồi Người áp dụng câu chuyện hai người con vào trường hợp của hai hạng người: một nhóm là các người thu thuế và những cô gái điếm, còn nhóm kia là các thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư. Vậy trước lời kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng, nhóm nào thực sự là những người đã sám hối và tin vào Chúa Giê-su? Đó là nhóm người con thứ nhất, tức những người thu thuế và các gái điếm. Chúa Giê-su đan cử một thí dụ cụ thể để nói lên khác biệt giữa hai nhóm người. Ông Gio-an đến rao giảng về con đường công chính người ta phải theo. Trong khi đám thu thuế và gái điếm tin lời giảng của ông Gio-an, thì nhóm thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư “vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”. Cho nên Chúa Giê-su đã không ngần ngại nói thẳng vào mặt các thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư rằng: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và gái điếm vào Nước Trời trước các ông”.
Tại sao những kẻ tội lỗi và thu thuế lại vào Nước Trời trước những người tự vỗ ngực cho mình là công chính? Là vì sau khi nghe Chúa Giê-su rao giảng, họ thực sự nhận biết thân phận tội lỗi của mình nên muốn thay đổi cuộc sống, từ bỏ tội lỗi, để sẵn sàng thực hành lối sống mới theo những giá trị Tin Mừng. Hơn nữa, họ còn khiêm nhường nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giê-su và để cho Chúa dẫn dắt họ vào một tương quan mới đối với Thiên Chúa và anh chị em. Trong khi đó, nhóm thượng tế, Pha-ri-sêu và kinh sư kiêu căng cho rằng mình công chính và chu toàn Lề Luật nên không cần phải sám hối. Họ tự hào với những truyền thống vô bổ và thiếu nhân bản, nên thẳng tay tẩy chay giáo lý của Chúa Giê-su và không nhìn nhận sứ mệnh của Người. Thiên Chúa đã trao cho họ vườn nho Ít-ra-en và muốn họ hãy chăm lo để sinh hoa trái, nhưng giống như người con thứ hai trong câu chuyện dụ ngôn, họ vâng dạ cho qua chuyện rồi từ chối không muốn cộng tác với Người.
Thiên Chúa luôn quý trọng những tâm hồn sám hối. Vua Đa-vít dám cả quyết rằng Thiên Chúa chẳng ưa gì tế phẩm hay lễ toàn thiêu, nhưng Ngài “sẽ chẳng khinh chê tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò”, tức là tâm hồn sám hối. Chúng ta có quay lưng lại tội lỗi và hướng về Người, Thiên Chúa mới có thể “tạo cho chúng ta một tấm lòng trong trắng và đổi mới tinh thần chúng ta nên chung thủy” (Thánh Vịnh 51). Chúa Giê-su đang chờ đợi chúng ta sám hối, thay đổi não trạng, để Người xây dựng Nước Trời trong tâm hồn chúng ta!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Nơi mỗi người chúng ta đều hiện diện hình ảnh cả hai người con trong dụ ngôn. Có những khi chúng ta mau mắn thi hành ý Chúa, nhưng cũng không thiếu những lần chúng ta lần lữa hoặc quyết định rồi không chẳng bao giờ làm cả. Con đường sám hối song song với con đường tập tành nhân đức và phát huy mối tương quan giữa chúng ta với Chúa. Điều quan trọng dĩ nhiên là chúng ta phải hết sức tránh tội lỗi và sa ngã. Nhưng quan trọng không kém là chúng ta sống tinh thần sám hối, biết khiêm nhường nhìn nhận tình trạng yếu đuối của mình và tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Hình ảnh người con thứ nhất, với cách thành tâm hối hận và làm vui lòng cha, phải là hình ảnh khích lệ chúng ta đứng dậy sau lầm lỡ, để chúng ta sẵn sàng giúp cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” vậy.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
----------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Ed.18,25-28 Pl 2,1-11 Mt 21, 28-32
Thánh Phaolô đã nhiều lần nói:” Nếu có gì vinh vang, tôi chỉ có thể vinh vang trong sự yếu đuối của TN26-A132 Dalat
Thánh Phaolô đã nhiều lần nói:” Nếu có gì vinh vang, tôi chỉ có thể vinh vang trong sự yếu đuối của tôi…” hoặc “ Tôi coi mọi sự là thiệt thòi so vời mối lợi tuyệt vời là được nhận biết Đức Kitô…”. Thánh Phaolô luôn nêu lên sự yếu đuối và nghèo hèn của mình. Thật vậy, con người chỉ khi nào nhận ra sự yếu đuối của mình, nhận ra con người tội lỗi, nghèo hèn của mình, tự cảm thấy xấu hổ vì tội lỗi của mình, rồi nhìn lên Chúa, nhận ra lòng thương xót của Người, lúc đó con người mới chạy đến với Chúa, ăn năn sám hối để xin Người tha thứ tội lỗi cho mình.
Các bài đọc hôm nay, đặc biệt đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 21,28-32 diễn tả sự tương phản của hai người con. Người con thứ nhất đã thẳng thừng từ chối lời mời gọi đi làm của người cha. Người con này đã có thái độ xem ra hời hợt, thiếu suy nghĩ khi anh trả lời cùng Cha:” Con không muốn “. Trái với người con thứ nhất, người con thứ hai trước lời kêu gọi của người cha, anh đã tỏ vẻ khúm núm, xem ra đầy khiêm nhượng và phấn kích, khi mau mắn thưa cùng cha:” Vâng, thưa cha “. Với thái độ cung kính, khúm núm trước lời đề nghị của người cha. Chúng ta có cảm tưởng người con thứ hai sẽ chấp hành mau mắn, đi làm theo ý của cha. Với hai thái độ hoàn toàn trái ngược này: hai lập trường khác nhau, người con thứ nhất tuy thẳng thừng từ chối lời mời gọi của cha, nhưng sau đó anh hối hận, thống hối, chính sự sám hối thức đẩy anh trở lại, và ưng thuận đi làm vườn nho cho cha của mình. Còn người con thứ hai, tuy tỏ vẻ khúm núm, mau mắn:” Vâng, thưa cha “, nhưng cuối cùng anh đã không vâng lời, và không chịu làm gì hết.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người, Ngài luôn tôn trọng sự tự do của con người. Dựa vào đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu: với hai thái độ, hai cách ứng xử và hành động của hai người con, Chúa Giêsu đã quay lại chất vấn người chất vấn Ngài và hỏi họ:” Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của cha ?”. Vâng, mọi người và tất cả mọi người chỉ có thể đồng loạt:” Người con thứ nhất “. Người con thứ nhất và người con thứ hai chỉ được đánh giá theo hành động, chứ không theo lời nói xuông, lời nói trên môi miệng. Dựa vào câu trả lời này, Chúa Giêsu xoay ngược vấn đề:” Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ dạy đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin “. Rõ ràng Chúa Giêsu kết án những Pharisêu, Kinh sư, Biệt phái vì những người này lúc nào cũng tự kiêu, tự mãn, cho mình là con cháu Abraham, dân được tuyển chọn, những người tự cho mình là biết luật thấu đáo, tỉ mỉ giữ những điều luật không đáng giữ, bầy thêm nhiều điều luật nhằm đè trên đầu trên cổ người dân. Họ bắt người dân giữ nhưng họ không bao giờ đụng tới để giữ những điều Chúa dạy, nên họ giống như người con thứ:” Thưa cha, vâng! “, nhưng rồi vẫn ung dung, vẫn không thống hối để vâng lời, để vui vẻ đi làm. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con người, của chúng ta, bởi vì có những quyết định, có những việc làm của chúng ta chống lại, nghịch với ý định của Thiên Chúa, nhưng Người vẫn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta tỉnh hồi, ăn năn, sám hối, nhận ra lỗi lầm, nhận ra tội lỗi của chúng ta mà thành tâm quay trở về với Người để xin Người tha thứ và lãnh nhận ơn tha thứ của Người.
Đối với Chúa việc thành tâm nhìn ra lỗi lầm, xưng thú lỗi lầm và can đảm, mau mắn sửa đổi lỗi lầm không phải là hành động yếu hèn, làm mất nhân phẩm, phẩm giá con người, trái lại càng sám hối, càng sửa đổi để trở nên hoàn thiện, con người càng gần gũi, càng gắn chặt lấy Thiên Chúa và càng quảng đại, yêu mến hơn đối với tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết nhìn vào mình để nhận ra những yếu kém, những lỗi lầm của mình và thành thật ăn năn, sám hối, quay trở về với Chúa để nhận lãnh sự tha thứ của Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Người Cha ám chỉ ai ?
2.Người con thứ nhất tượng trưng cho những ai ?
3.Người con thứ hai đại diện cho những ai ?
4.Hành động và lời nói phải làm sao ?
5.Những người nghe lời Chúa mà không đem ra thực hành tượng trưng cho lớp người nào ?
----------------------------------
(Mt 21, 28-32)
Lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa TN26-A133
Lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu, nên khi người tội lỗi biết thống hối ăn năn sẽ gặp được tình thương nhân lành của Thiên Chúa, đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán: "Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ " (Os 6, 6; Mt 9, 13). "Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống" (Ez 33,11). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn mở rộng cho những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui cứu độ.
Chỉ có Thiên Chúa không qui kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là "Cha đầy tình thương xót" (2 Cr 1,3), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn muốn điều tốt cho con người và kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.
Trách nhiệm của con người
Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta, nên chúng ta không được hành động nửa vời, vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Tiên tri Ezekiel cảnh báo: " Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết " (Ed 18, 28).
Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói "vâng", "tôi biết", "tôi thực hành giáo lý" mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói "không" với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.
Chúa Giêsu lên án các thượng tế và kỳ lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21, 31).
Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước
Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi.
Các nhân viên thâu thuế Roma tham dự vào những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.
Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện... như Maria Madalêna, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).
Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào nước Thiên Chúa trước: "Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài" (Mt 21, 32).
Hoán cải không bao giờ là muộn.
Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì không phải mọi kẻ nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa", là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên trời" (Mt 7, 21).
Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng hôm nay: Có một người Cha, là chủ vườn nho sai hai người con trai đi làm việc: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!" (Mt 21,29). Nghe lời cha truyền, một người con thưa "vâng" nhưng nó lại không đi. Người con khác thưa "con không đi" nhưng nó lại đi. Cả hai trong số họ đều không tôn trọng lời cha.
Chắc một điều là người con thưa vâng ấy vẫn ở nhà, nó không đánh lừa cha nó. Nó lười biếng, không những "chẳng chịu làm việc" mà còn là lười suy nghĩ về lời nó hứa. Phương châm của nó: "Tôi không quan tâm đến những gì tôi đã nói hôm qua".
Người con nói "không", lại cảm thấy bất an về những gì anh đã đáp lới cha hôm qua. Anh hối hận về tính tự kiêu đối với cha mình. Từ sự ân hận ấy, anh quyết hoán cải và trỗi dậy đi làm vườn nho cha. Anh thự sự ăn năn về những lời sai trái của mình bằng hành động cụ thể. Phải chăng: "Bản chất của con người là lầm lỗi"? Vâng đúng như vậy, nhưng cái ở trong con người là sự cải hóa tự tâm. Sự hoán cải này đôi khi đòi chúng ta phải trả giá, vì điều đó có nghĩa là phải khiêm nhường, phá vỡ sự tự phụ và kiêu căng.
Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: "Chúa Giêsu không trực tiếp nói với họ: 'Tại sao các ông không tin vào Gioan?' Mà còn hơn thế nữa, Chúa lấy gái mại dâm ra để sách ví với họ: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông" (Mt 21,31). Như thế, Chúa mạnh mẽ khiển trách họ vì thói ngạo ngược và khoe khoang.
Họ nói "vâng" với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói "vâng" nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gưỡng về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch: những người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói "không" với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói "có", nên Chúa Giêsu tuyên bố : "Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi" (Mt 21, 43).
Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói "có" ... " Con không đi'. Nhưng sau hối hận và đi làm" (Mt 21, 29).
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
----------------------------------
Ki-tô Hữu Cần Phải Thay Đổi Não Trạng
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Ed 18:25-28; Pl 2:1-11; Mt 21:28-32)
Chúa muốn chúng ta nhận ra sự khác biệt giữa đường lối của chúng ta với đường lối của Người. Nhận TN26-A134
Chúa muốn chúng ta nhận ra sự khác biệt giữa đường lối của chúng ta với đường lối của Người. Nhận ra là để thay đổi lối sống và cách suy nghĩ sao cho phù hợp với đường lối và tử tưởng của Chúa. Sau Công Đồng Vatican II, ngày 17 tháng 2 năm1966, Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành Tông hiến Paenitemini để thay đổi luật lệ khắt khe về việc ăn chay. Thay vào đó, ngài nhấn mạnh đến việc sám hối như cuộc thay đổi não trạng (metanoia), từ não trạng thế gian sang não trạng của Thiên Chúa, để có thể sống theo đường lối của Thiên Chúa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày sự thay đổi ấy.
Qua ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Thiên Chúa đã thẳng thắn cho Ít-ra-en dân Người biết rằng họ đang đi theo con đường bất chính. Hậu quả sẽ là ngay kẻ công chính mà bỏ đường công chính cũng sẽ phải chết. Trái lại, kẻ bất chính biết bỏ đường gian ác của mình để trở về với Chúa thì sẽ được sống. Dĩ nhiên sống và chết ở đây là sống và chết đời đời. Lời cảnh báo rõ ràng này chắc đã đánh động tâm hồn nhiều người Ít-ra-en, khiến họ phải nhìn lại đời sống của mình, để xem những suy nghĩ, hành động và cách đối xử với anh chị em có phù hợp với những điều răn Chúa đã ban cho họ không. Ê-dê-ki-en còn đưa ra những đề nghị cụ thể giúp dân chúng trở về con đường công chính của Thiên Chúa. Ngài bảo họ: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới” (18:31). Trái tim và thần khí là biểu tượng của sự sống mới Thiên Chúa ban cho chúng ta, nếu chúng ta chấp nhận thay tim đổi óc. Mang lấy trái tim của Thiên Chúa để yêu thương như Chúa yêu thương và đón nhận não trạng của Chúa Giê-su để sống và phục vụ như con yêu dấu của Thiên Chúa. “Hãy trở lại và hãy sống”, đó là sứ điệp Ê-dê-ki-en chuyển tải cho Ít-ra-en và cho chúng ta nữa.
Nhưng đâu là bản mẫu để chúng ta căn cứ vào đó mà thay đổi não trạng? Trong đoạn thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô giới thiệu với chúng ta một bản mẫu (blueprint) là Chúa Giê-su, để chúng ta theo đó mà “trở nên đồng hình đồng dạng với Người”. Thánh Phao-lô mô tả một cuộc thay đổi kỳ lạ của Chúa Giê-su: từ ngôi vị Thiên Chúa xuống thân phận nô lệ chết tủi nhục trên thập giá. Diễn trình “trút bỏ vinh quang” của Chúa Giê-su cốt để nói lên đức khiêm nhường thẳm sâu của Người. Chúa xuống đến tận cùng như vậy cốt để đánh bại kẻ thù tội lỗi của nhân loại là sự kiêu căng, tức não trạng của con người, rồi thay thế bằng não trạng mới là đức khiêm nhường. Nhờ hành vi khiêm nhường khi Người “được giương cao” trên thập giá, Người sẽ đem chúng ta lên với Thiên Chúa Cha! (Gio-an 12:32). Chúng ta đừng nghĩ việc thay đổi để nên giống với Chúa Ki-tô sẽ xảy ra trong một sáng một chiều. Không đâu! Chính Phao-lô sau cuộc trở lại trên đường đi Đa-mát, cũng đã mất hết cả cuộc đời mình để cố gắng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Sám hối là thay đổi não trạng, là mang lấy những tâm tình của Chúa Giê-su, là quay lưng lại với tội lỗi và hướng mặt về Chúa. Câu chuyện dụ ngôn Chúa kể trong bài Tin Mừng là điển hình cho việc sám hối. Trong hai người con được cha sai đi làm vườn nho, người con thứ nhất từ chối lúc đầu, nhưng sau đó đã hối hận nên đổi ý và đi làm theo ý cha. Trái lại, người con thứ hai vâng vâng dạ dạ, nhưng rồi anh không đi làm vườn nho theo ý cha. Chúa không ngần ngại áp dụng câu chuyện vào ngay trường hợp của các thượng tế và kỳ mục. Người nặng lời với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Tại sao? Vì họ đã thay đổi lối sống và não trạng khi nghe ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng đường lối Thiên Chúa và kêu gọi họ hãy sám hối. Còn các thượng tế và kỳ mục thì vỗ ngực coi mình là thánh thiện, không cần sám hối, nên họ không tin lời giảng của ông Gio-an.
Đời sống Ki-tô hữu là một cuộc sám hối liên tục và kéo dài đến hơi thở cuối cùng. Để thay đổi một nết xấu và tập một nhân đức, chúng ta phải kiên trì và kiểm thảo thường xuyên, nếu không nói là mỗi tối trước khi đi ngủ. Mỗi ngày chúng ta hãy soi mình trong chiếc gương lương tâm để nhận ra mình đã nên giống Chúa Ki-tô như thế nào.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
----------------------------------
Mt 21:28-32
Bối cảnh Tin Mừng
Sau khi nghe đọc bài Tin mừng hôm nay, chắc hẳn mỗi người chúng ta tự hỏi mình: Tôi là ai trong TN26-A135
Sau khi nghe đọc bài Tin mừng hôm nay, chắc hẳn mỗi người chúng ta tự hỏi mình: Tôi là ai trong hai người con ấy?
Vẫn biết ông bà ta nói rằng: “cha mẹ sinh con trời sinh tính”. Con có cẩu thả, không cẩm thận là do tính của nó bừa bãi quen rồi, sửa mãi cũng vẫn cứ thế. Con có cầu toàn, làm việc gì cũng chăm chút cho đẹp, cho hay, cho đúng thì mới ưng cái bụng. Nếu không được thì sẽ thử đi thử lại cho đến khi nào hoàn thành mới thôi.
Tuy thế, trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giê-su đưa ra dụ ngôn của hai người con. Chúa Giê-su chẳng nói đâu là người con lớn hay anh này là con nhỏ. Chúa chỉ kể người thứ nhất và người thứ hai. Người con thứ nhất trả lời với người cha khi ông nói nó đi làm vườn nho: “ con không muốn.” Một câu trả lời cộc lộc. Không đưa ra một lý do nào. Không quanh co, không nhẹ nhàng chối từ với lời lẽ dễ nghe. “Con không muốn”. Chỉ ba chữ thôi cũng đủ làm bất cứ người cha người mẹ nào đau lòng như cắt. Nuôi con đến ngần này tuổi rồi, đến tuổi đi làm, giúp đỡ cha mẹ. Mình cần mới nhờ đến nó mà nó ngang nhiên trả lời con không muốn. Có tức “ lộn ruột” không chứ! Người thứ hai khi nghe ông bố nói đi làm vườn nho thì vâng ngay lập tức, không hỏi han, không vặn vẹo, không chối từ. Thái độ trả lời lúc ấy chắc hẳn đẹp lòng đấng sinh thành ra anh ta lắm! Anh ta nhận lời ngay mà không chút phân vân. Anh ta vâng lời Bố mình.
Cuộc đời đâu ai ngờ có chữ nhưng. Người mà trả lời mau mắn thì không thi hành lời hứa. Người mà dứt khoát không đi thì nghĩ lại và đi làm vườn nho. Tôi là ai trong hai người con ấy?
Trong cuộc sống thường ngày, tôi có hay hứa không? Tôi có giữ lời không? Tôi tự hứa giúp người khác hay người ta lên tiếng tôi mói nhận lời giúp? Khi nhận lời làm tôi có làm không? Tôi làm đến nơi đến chốn hay chỉ qua lần? Tôi làm với lòng yêu người mến Chúa hay tôi chỉ làm cho qua lần xong chuyện? Lời hứa của tôi chỉ bằng lời mà không bằng mặt? Hay lời hứa của tôi chỉ bằng mặt mà tay thì không vươn tới để làm? Làm người, đã là hứa thì phải giữ, và phải giữ sao cho thống nhất về lời nói, hành động và cả bằng tấm lòng chân thành của mình nữa. Làm người Ki-tô hữu, lời hứa của tôi càng phải giữ tuyệt đối hơn nữa.
Bây giờ chúng ta sang vấn đề thay đổi. Cả hai người con của ông bố đều thay đổi. Người thứ nhất trả lời cộc lốc như dao đâm thấu tim ông bố thì nghĩ lại và anh hối hận. Anh ra ruộng nho. Người thứ hai đáp lại lời cha mình ngọt ngào như mật ong nhưng anh thay đổi ý định và không thi hành. Tôi ở trường hợp nào trong hai người con này? Tôi có thay đổi không? Tôi thay đổi theo hướng tiêu cực hay theo hướng tích cực? Tôi ù lỳ không muốn giao tiếp với ai vì buồn chuyện gia đình, buồn chuyện chồng con, buồn chuyện hàng xóm, buồn chuyện hãng xưởng, buồn chuyện xã hội… và nhiều thứ khác làm cho tôi buồn. Tôi chẳng thiết tha gì với cái thế gian này nữa. Tôi lơ là, bỏ, mặc kệ mọi thứ cho đời cuốn trôi. Tôi có dám nghĩ lại, hối hận và thay đổi không? Tôi đang làm việc lành phúc đức, tôi đang tham gia hội đoàn cách tích cực, tôi đi lễ và siêng năng viếng Chúa, thăm hỏi anh chị em… chợt tôi thay đổi vì dạo này nhiều phim chiếu vào giờ lễ hay quá, hôm thì shopping sale nhiều quá, hôm khác lại nại lý do tôi không ưa chị này, không vừa lòng với câu nói của người kia… nên gặp thì không thích… Thế là tôi dần xa nhà thờ, dần xa tha nhân, xa dầ bạn hữu.
Cả hai trường hợp trên ai ai cũng đã một lần hay có thể sẽ rơi vào. Những lúc ấy, tôi có suy nghĩ lại, đứng lên nghe lời người Cha chúng ta là Thiên Chúa hay không?
Hay ở đời này, chúng ta thấy một người có tính xấu và chúng ta luôn dán nhãn cho người đó như vậy cho đến muôn đời. Chúng ta không tin người đó có thể thay đổi, có thể suy nghĩ lại và có thể trở thành người tốt.
Chúa Giê-su hôm nay bảo rằng: “ Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Lạ nhỉ, vâng Chúa Giê-su giải thích thêm vì những người này tin vào lời ông Gioan rao giảng. Còn chúng ta, chúng ta thấy mà không tin nên không được hưởng lời hứa Nước Trời.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giê-su, xin thêm sức cho chúng con để mỗi lần chúng con hứa chúng con giữ được điều mình hứa với chính bản thân mình, với tha nhân và với Chúa. Xin cho chúng con cũng biết thay đổi và nhìn người khác trong chiều hướng tích cực dưới ánh mắt đức tin. Amen
Sr. Maria Nguyễn Thị Minh Du
Dòng Đa Minh Rosa Lima, Việt Nam
----------------------------------
Suy niệm chú giải Lời Chúa - Chúa nhật XXVI Thường niên A - Lm. Inhaxio Hồ Thông TN26-A136
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm A nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người trước tội lỗi và khả năng hoán cải vẫn luôn được chờ đợi.
Ed 18: 25-28
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nói rằng thái độ của con người không bất di bất dịch trong sự công chính cũng như gian ác. Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng hồi tâm hoán cải để được sống.
Pl 2: 1-11
Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng sự đồng tâm nhất trí phải ngự trị giữa các người Ki-tô hữu và việc thực hành đức khiêm nhường theo gương Đức Ki-tô cũng quan trọng không kém.
Mt 21: 28-32
Tin Mừng Mát-thêu kể cho chúng ta dụ ngôn hai người con. Người thứ nhất khước từ lời mời gọi của cha mình, nhưng rồi sau đó hối hận nên thi hành ý muốn của cha mình. Người con thứ hai ngoan ngoãn vâng theo ý muốn của cha, nhưng rồi không làm gì cả. Điều quan trọng không phải là ngày hôm qua bạn đã trả lời với Thiên Chúa như thế nào, nhưng là ngày hôm nay bạn có thực sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa hay không.
BÀI ĐỌC I (Ed 18: 25-28)
Sau khi vương quốc Giu-đa bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm, ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc nhóm đầu tiên bị lưu đày. Ông gẫm suy ý nghĩa của các biến cố. Vừa tư tế vừa ngôn sứ, ông quan tâm đến người tội lỗi. Việc dân Ít-ra-en đang phải chịu một sự thử thách nặng nề đã khiến ông suy nghĩ về vấn đề án phạt tập thể và trách nhiệm cá nhân.
1. Án phạt tập thể
Dân Chúa chọn phải trả lẽ về tội bất trung dài lâu đối với Thiên Chúa của mình. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo tai họa. Trong số những người bị lưu đày, không ai không nghĩ đến bản văn của sách Lê-vi: “Các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân tộc, và đất của kẻ thù các ngươi sẽ nuốt các ngươi. Những kẻ còn lại trong số các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của chúng, trong đất của kẻ thù chúng; chúng sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của cha ông chúng, cộng với lỗi lầm của chúng” (Lv 26: 38-39).
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sắp phá vỡ quan niệm truyền thống này, lật đổ thuyết định mệnh bất di bất dịch đang đè nặng trên những người lưu đày biệt xứ trong hoàn cảnh khốn cùng của họ, theo đó con cháu phải còng lưng gánh tội cho cha ông như câu ngạn ngữ phổ biến này: “Đời cha ăn nho xanh, đời con phải ê răng”. Để họ lấy lại niềm tin vào tương lai, vị ngôn sứ gởi đến họ sứ điệp với những dấu nhấn mới: Mỗi người chỉ chịu trách nhiệm về chính mình, con người có thể trút bỏ được gánh nặng của quá khứ để khởi sự xây dựng hiện tại và xây đắp tương lai.
2. Trách nhiệm cá nhân
Trước đoạn trích dẫn hôm nay, vị ngôn sứ nói: “Sự công chính của người công chính ở với người công chính. Còn điều dữ của kẻ gian ác ở với kẻ gian ác” (Ed 18: 20). Tuy nhiên, không có gì là bất di bất dịch cả. Người công chính có thể sa ngã và kẻ gian ác cũng có thể hoán cải. Những người lưu đày quen với sự liên đới gia đình hay dân tộc, không sẵn lòng lắng nghe sứ điệp nầy khi phát biểu: “Đường lối của Đức Chúa không ngay thẳng!”. Vị ngôn sứ trả lời: “Không một chút nào, chính đường lối của các ngươi đấy chứ! Khi người công chính bỏ đường công chính mà làm điều gian phi, rồi vì thế mà nó phải chết, thì chính là vì điều gian phi nó đã làm, mà nó phải chết. Còn khi kẻ bất lương bỏ việc bất lương nó đã làm, mà thi hành điều công minh chính trực, thì nó sẽ được sống”.
Trước ngôn sứ Ê-dê-ki-en, sách Đệ Nhị Luật, khi duyệt xét lại Luật Mô-sê, đã đưa vào quan niệm về án phạt cá nhân: “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử vì tội của mình” (Đnl 24: 16). Tuy nhiên, ngôn sứ Ê-dê-ki-en còn đi xa hơn: ông cắt đứt mọi liên đới của toàn thể thế hệ này khỏi các thế hệ trước đó, và mỗi cá nhân khỏi quá khứ của mình: cốt là đổi mới và hình thành lại một dân tộc mới. Chủ yếu là lấy lại niềm tin tưởng vào sự công chính của Thiên Chúa, “Đấng không muốn người tội lỗi phải chết, nhưng hối cải để được sống”.
BÀI ĐỌC II (Pl 2: 1-11)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đã bắt đầu vào Chúa Nhật tuần trước. Trong cảnh “gông cùm xiềng xích” có thể ở Ê-phê-xô, thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, một bức tâm thư.
1. Đồng tâm nhất trí
Những lời khích lệ của thánh Phao-lô để lộ vài bất đồng trong cộng đoàn Phi-líp-phê. Chúng ta không biết họ bất đồng về chuyện gì. Bức thư chỉ kín đáo ám chỉ đến. Trong phần cuối của bức thư này, sự bất đồng giữa hai người Ki-tô hữu được gợi lên, nhưng trong đoạn trích nầy, những lời thiết tha gởi đến cộng đoàn để kêu mời mọi người hãy khiêm nhường mà đồng tâm nhất trí với nhau.
Cung giọng thân quen của bức thư không ngăn cản vài tư tưởng đẹp và văn chương bay bổng. Những lời gởi gắm chan chứa ân tình của thánh nhân được trình bày theo thể thức điều kiện đem lại cho lời mời gọi của ngài một sự trang trọng nào đó. Lời mở đầu: “Nếu quả thật, sự liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau” gợi nhớ lại lời cầu chúc cuối thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh em”. Rõ ràng, thánh Phao-lô muốn đặt lời mời gọi cộng đoàn đồng tâm nhất trí với nhau dưới dấu hiệu của sự hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Phao-lô không chỉ nói đến lòng mộ đạo của các tín hữu Phi-líp-phê, nhưng ngài còn nói đến tấm lòng của họ, đến tình nghĩa keo sơn bền chặt của họ đối với ngài. Thánh nhân xin họ cho ngài niềm vui lớn lao này là biết họ nên một lòng một ý với nhau.
2. Đức khiêm nhường
Đối với đức khiêm nhường, thánh nhân khuyên bảo: “Đừng làm vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”. Phương thuốc tốt nhất để chữa lành thói kêu căng và vị kỷ là quan tâm đến tha nhân. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy tâm tình của Đức Ki-tô, Đấng đã tự hạ mặc lấy thân phận con người của chúng ta cho đến bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá.
Lúc đó, thánh nhân trích dẫn một bài thánh thi, bằng chứng cổ xưa nhất và rõ ràng nhất về niềm tin Ki-tô giáo rất sớm vào thần tính và cuộc sống tiền hữu của Chúa Ki-tô.
TIN MỪNG (Mt 21:28-32)
Sau khi đã long trọng vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su thực hiện sứ vụ cuối cùng. Ngài đặt thính giả của Ngài trước một sự chọn lựa dứt khoát: hoặc nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa, hay loại bỏ Ngài. Vào lúc này, thánh Mát-thêu thuật lại ba dụ ngôn: dụ ngôn hai người con, dụ ngôn những tá điền sát nhân và dụ ngôn tiệc cưới, qua đó Ngài loan báo Nước Trời sẽ bị lấy đi khỏi những kẻ được hứa ban mà trao cho những người khác. Chúng ta sẽ đọc ba dụ ngôn nầy trong suốt ba Chúa Nhật liên tiếp nhau.
1. Đối tượng mà dụ ngôn nhắm đến
Đối tượng mà Đức Giê-su ngỏ lời là các thượng tế và kỳ mục. “Các thượng tế” là giai cấp lãnh đạo cao nhất của người Do thái vào thời Đức Giê-su. “Các kỳ mục” là những bậc vị vọng, những thành viên quý tộc và những điền chủ giàu có. Cả hai giai cấp này đều là những đối thủ không đội trời chung với Đức Giê-su. Ở đây, thánh Mát-thêu không nêu tên các kinh sư, chung chung họ thuộc về giai cấp trung lưu. Thánh Mát-thêu quy trách nhiệm nhiều hơn trên những giai cấp lãnh đạo có quyền thế nhất trong dân Ít-ra-en về cái chết của Đức Giê-su.
2. Lời mời gọi tối hậu của Đức Giê-su
Ngay từ đầu Tin Mừng, Đức Giê-su đề nghị các vị lãnh đạo Do thái suy nghĩ một điều khó hiểu theo hình thức dụ ngôn: “Các ông nghĩ sao về chuyện sau đây?”. Quả thật, đây là một lời cảnh báo tối hậu, một lời kêu gọi sau cùng thực thi ý muốn của cha, sau khi đã khước từ lời mời gọi của cha.
Nét đáng chú ý của dụ ngôn là việc chọn lựa “hai người con”, nghĩa là người cha đều dành cho cả hai đứa con mình tình thương yêu như nhau. Đứa con thứ nhất từ chối lời mời gọi của người cha: “Không, con không đi đâu”, nhưng rồi lại thi hành ý muốn của cha, trong khi đưa con thứ hai đã ngoan ngoãn đáp lại lời mời gọi của cha: “Thưa cha, vâng!”, nhưng rồi lại không thi hành ý muốn của cha.
Bản văn Ê-dê-ki-en nhắc lại rằng Thiên Chúa không muốn người tội lỗi phải chết, và vì sự tự do của con người mà không có gì bất di bất dịch: người công chính có thể sa ngã và kẻ tội lỗi có thể hoán cải. Đây là ý nghĩa phi thời gian của dụ ngôn về hai người con. Dụ ngôn giải thích sự thay đổi thái độ của người con thứ nhất: “Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi”, nhưng lại không nêu ra lý do nào người con thứ hai sau đó lại thay đổi triệt để như thế. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ đến một lời khác của Đức Ki-tô: “Không phải những ai nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời đâu, nhưng chính là thi hành ý muốn của Cha tôi”.
3. Ý nghĩa của dụ ngôn
Phần sau cùng của dụ ngôn nầy gây nên những tranh cãi. Những lời này của Đức Giê-su có thật sự được đặt vào ở đây chứ? Phải chăng chúng đã được đưa vào ở đây vào lúc biên soạn sau cùng của Tin Mừng chứ? Trước hết, thánh Mát-thêu hiếm khi nói “Nước Thiên Chúa” thay vì “Nước Trời”. Hơn nữa, tại sao tin vào lời của ông Gioan được dùng làm điểm mốc, trong khi đó chính trên thái độ đối với sứ điệp của Ngài mà Đức Giê-su ngầm đặt câu hỏi?
Đức Giê-su không ngần ngại nói thẳng ra: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế, những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông đấy”. Đức Giê-su chủ đích đưa ra cho giai cấp lãnh đạo Do thái hai mẫu người tội lỗi công khai bị khinh bỉ đặc biệt nhằm tác động thật mạnh vào tính tự cao tự đại cố hữu của họ. Quả thật, các thượng tế và kỳ mục đều đã biết sứ điệp của Gioan Tẩy Giả, nhưng không chịu tin, họ vẫn một mực từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa qua ông Gioan. Trái lại, phường thu thuế và bọn gái điếm đã lắng nghe ông Gioan và hoán cải.
Thiên Chúa chỉ xét đoán con người dựa trên thái độ hiện tại của họ, cho dù quá khứ như thế nào đi nữa. Chính những giây phút hiện tại mới là quan trọng. Đối với Thiên Chúa, cái ngày hôm nay mới là quan trọng. Vì thế, sứ điệp của sách Đệ Nhị luật luôn luôn bắt đầu với “ngày hôm nay”: “Phải chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người, đừng cứng lòng nữa”.
Lm. Inhaxio Hồ Thông
----------------------------------
Thiếu nhi chúng con yêu quí,
Chúng ta vừa nghe một dụ ngôn ........... Cha đố ...... .....Hơi khó phải không chúng con.Vậy cha TN26-A137
Chúng ta vừa nghe một dụ ngôn nữa của Chúa Giêsu.
Cha đố chúng con qua dụ ngôn hôm nay Chúa muốn nói với chúng ta điều gì?
………….
Hơi khó phải không chúng con.
Vậy cha cắt nghĩa cho chúng con.
Theo Cha thì qua bài dụ ngôn hôm nay Chúa muốn dạy chúng ta một đều thật quan trọng. Đó là lòng hối cải.
Cha hỏi chúng con: hai người con trong bài Tin Mừng hôm nay là những người như thế nào? Có phải là những người con ngoan ngoãn không?
Chắc là không, phải không chúng con?
Lý do vì cả hai đã làm buồn lòng cha của mình. Cả hai đã không mau mắn vâng lời cha mà đi làm ngay.
Rất may là người con thứ nhất đã hối hận và đi làm. Còn người con thứ hai khi được cha sai thì "ok" ngay nhưng rồi lại không đi.
Cha hỏi chúng con: thế thì người con nào đã làm người cha vui lòng?
- Thưa người con thứ nhất
- Điều gì đã làm cho người thứ nhất thay đổi như vậy?
- Thưa "sự hối hận"
- Rất chính xác. Chúng con giỏi.
Đúng là sự hối hận hay là lòng hối cải có một giá trị rất đẹp trong cuộc sống.
1. Trước hết lòng hối cải có thể làm cuộc sống của con người dễ trở nên tốt hơn.
Lý do: lòng hối cải có thể đem lại những điều thật bất ngờ.
Tin Mừng có nhiều truyện cho chúng ta thấy điều đó. Cha có thể kể ra cho chúng con những người này: Maria Mađalêna, Giakêu, người thiếu phụ xứ Samaria, người đàn bà ngoại tình, anh trộm lành.. . tất cả là những người đã đổi đời nhờ gặp Chúa Giêsu và đã hối hận về cuộc đời của mình. Nếu họ đã không hối hận chắc chắn cuộc sống của họ đã không trở nên tốt đẹp như vậy.
Cha kể cho chúng con nghe câu chuyện này:
Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất. Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất. Người em hỏi người anh:
- Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không?
- Không - người anh đáp.
Tuy thế. Người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi.
- Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó!
Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thắm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ. Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước của hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng:
- Anh đã ở đây bao lâu rồi?
Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp:
- Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đang đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi.
Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.
- Ông có vui lòng sang cửa hàng bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không? - anh ta đề nghị.
Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông rất giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ. ( Loren Fischer )
Đó chúng con thấy sự hối cải đã đem lại kết quả đẹp đẽ như thế nào!
2. Hơn thế nữa sự hối cải còn giúp cho người ta nên thánh.
Chúng con thấy: tội thì ai cũng có. Có một tác giả nổi tiếng bên nước Nga nói như thế này: "Chỉ có hai hạng người sau đây không có lỗi lầm: những người còn trong bụng mẹ chưa sinh ra và những người đã bỏ vào quan tài chờ ngày mang đi chôn". Đó là thân phận chung của mọi người. Chúng ta hãy nhìn vào hai nhân vật quen thuộc trong Thánh Kinh: Phêrô và Giuđa. Tội chối Chúa và tội bán Chúa cũng gần ngang nhau. Vậy mà số phận hai người lại khác hẳn nhau vì Phêrô nhờ hối cải mà được cứu sống, còn Giuđa thì chết trong tuyệt vọng.
Đối với chúng ta, việc nên thánh của chúng ta chỉ có thể đi ngang qua hai con đường: Hoặc bằng con đường trong trắng, hoặc bằng con đường hoán cải.
Những người đến với Chúa bằng con đường trong trắng có lẽ không nhiều. Chỉ có một số tâm hồn ưu tú mới có thể đi qua cuộc đời mà không vướng mắc gì nhiều, không bị bụi đường làm lấp láp nhem nhuốc. Chẳng hạn Têrêsa Lisieux. Louis Gonzaga, Đaminh Savio. . .
Còn con đường thứ hai: Con đường hoán cải là con đường chung mở rộng cho đa số. Kể cả các thánh lớn cũng cần đến con đường này.
Phêrô đã chối Chúa nhiều lần nhưng vẫn được Chúa đặt làm đoàn trưởng các Tông đồ. Phaolô đã tham gia bắt bớ Kitô hữu không nương tay trước khi trở thành Tông đồ của lương dân. Augustinô đã sống mấy chục năm buông thả trước khi khóc tội mình đến cạn cả nước mắt. Phanxicô Assisi, sau một thời tuổi trẻ ham chơi, đã dấn thân vào con đương hẹp của Tin Mừng. Và ngài coi ngày vào dòng của ngài là bước khởi đầu của một đời sám hối.
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì ngoài con đường trong trắng Chúa còn cho chúng ta con đường sám hối để đến với Thiên Chúa. Nếu không có con đường thứ hai này thì số phận chúng ta không biết sẽ ra sao. Chắc chắn là sẽ rất bi đát vì không có lối thoát. Thật vậy chẳng có mấy tín hữu còn giữ được ơn thánh tẩy trọn vẹn như đã hứa. Trong nghi thức thánh tẩy có phần trao áo trắng và nến sáng cho người được Rửa tội. Khi trao thì chủ tế căn dặn: Con hãy giữ áo này luôn trong trắng và ngọn lửa này luôn cháy sáng, cho tới khi Chúa trở lại. Lời nhắn nhủ này hàm chứa một sự cam kết của người mới được tái sinh. Nhưng thử hỏi trong thực tế có mấy người còn giữ được áo trắng và đến sáng cho tới ngày gặp Chúa ở cuối đời mình. Có lẽ khá họa hiếm.
Thật may mắn, chính Chúa đã gỡ kẹt cho chúng ta. Tội lỗi có đó, mạnh đó...nhưng còn có ơn tha thứ. Ơn đó luôn ở trong tầm tay của mỗi người. Bao lâu còn có lòng hối cải thì bấy lâu còn có ơn tha thứ. Chúa không bao giờ nỡ bẻ gẫy cây sậy đã dập và dập tắt tim đèn còn khói. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta chỉ một lần. Nhưng Ngài tái tạo chúng ta trong ơn tha thứ muôn ngàn lần, hầu như mỗi ngày. Thiên Chúa không biết mỏi mệt, chán nản. Có thế thì Ngài mới là Thiên Chúa.
Mẹ thánh Têrêsa nói: "Nếu chúng ta mắc phải lỗi lầm hãy tìm đến Chúa và nói: “Con xin lỗi, con thực sự hối tiếc”. Chúa là một Người Cha khoan dung. Lòng nhân từ của Ngài còn lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Ngài sẽ tha thứ cho ta. Amen.
Giuse Đinh Tất Quý
----------------------------------
Mt 21, 28-32
"Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông"(Mt 21,32)
Anh chị em thân mến,
Suốt mấy tuần vừa qua, chúng ta đã nói với nhau về những đức tính cần có trong đời TN26-A138
Suốt mấy tuần vừa qua, chúng ta đã nói với nhau về những đức tính cần có trong đời sống cộng đoàn. Bắt đầu từ hôm nay chúng ta nói với nhau về một vấn đề khác, cũng liên qua tới địa vị làm con Thiên Chúa, nhưng dưới một khía cạnh tích cực hơn: "Chúng ta phải sống như thế nào để xứng với địa vị làm con Thiên Chúa của chúng ta?".
A- Chúng ta hãy nghe bài dụ ngôn hôm nay:
Một người kia có hai người con. Hai người con, con của cùng một người cha. Ở đây chúng ta thấy Chúa cố ý không đề cập đến địa vị hay ngôi thứ của hai người con này. Chúa làm như thế với một chủ ý rõ rệt là cho người ta thấy trong cương vị làm cha thì ông dành cho hai người con một tình yêu y như nhau, và đồng thời cũng cho chúng ta thấy trong cương vị làm con thì cả hai đều có một giá trị như nhau trước mặt cha của mình.
Để anh chị em hiểu rõ được điều này, tôi xin lấy một thí dụ. Đây là thí dụ nằm ở trong kho tàng văn chương của chúng ta. Truyện kể như thế này. Có một ông nhà nho kia có đến hai bà vợ. Thông thường thì chúng ta thấy trong hai bà thì phải có một bà làm "cả" một bà làm "lẽ" hay “thứ”. Nhưng đối với ông nhà nho này thì ông ta muốn coi hai bà vợ như nhau, không bà nào hơn, không bà nào kém. Chính vì thế mà một hôm khi có người hỏi ông bà nào là cả bà nào là thứ thì ông trả lời "Cả hai vợ đều là vợ cả" Một câu trả lời có tính cách chơi chữ nhưng nó cũng nói lên được một cái gì có tích cách "cào bằng" trong ý nghĩa về một thực tế trong cuộc sống của người này.
Vậy thì trong dụ ngôn hai người con, chúng ta cũng thấy một ý nghĩa tương tự như thế. Cả hai người con đều là “con cả" và cùng là con của một người cha. Người cha này yêu thương hai người con y như nhau....đối xử với hai người một cách đồng đều. Và khi đã cư xử như thế thì chắc chắn ông cũng thầm mong là ông sẽ được cả hai người đáp lại tình yêu của mình cũng bằng một tình như nhau.
Mong thì là như thế, nhưng trong thực tế có được như vậy hay không thì lại là một truyện khác.
Lúc đầu khi ông kêu gọi người con thứ nhất. Nó đã đáp lại một cách cộc cằn và cứ bên ngoài mà xét thì nó thật đáng lên án. Nhưng sau đó nó hối hận rồi nó sửa lại lỗi lầm của mình không phải bằng lời nói nhưng bằng việc làm. "Nó hối hận và đi làm"(Mt 21,29).
Sau đó người cha cũng nói những lời y hệt như thế với người con thứ hai. Thái độ lúc đầu của người con thứ hai thật dễ thương "Vâng, thưa cha, con đi"(Mt 21,30). Thật là đẹp tuyệt vời. Và cứ theo cách bên ngoài mà nói thì chắc là chúng ta phải khen người con thứ hai này. Thế nhưng những cái đẹp ban đầu đó lại không đuợc tiếp tục đẹp. Nó đã nhanh chóng đổi chiều. Người con thứ hai đã nuốt lời một cách không hổ thẹn.
Như vậy chúng ta thấy cả hai người con cùng được mời gọi bởi cùng một người cha....để làm cùng một công việc và làm trong cùng một vườn nho.
Thế nhưng, bằng ấy cái cùng chưa đủ để có thêm những cái cùng khác:
Qua hai cách đối xử của hai người con, người ta đã được chứng kiến một sự đảo lộn giá trị đáng cho chúng ta phải suy nghĩ.
Cái mà người ta tưởng là xấu lại biến thành tốt và cái mà người ta tưởng là tốt lại trở thành tồi tệ.
Kết thúc câu truyện Chúa Giêsu đòi những người nghe phải tự lượng giá. Và câu trả lời đã đúng như Chúa mong đợi.
Nếu câu truyện kết thúc ở đây thì có lẽ chúng ta chẳng có gì phải bàn thêm. Đàng này sau khi nhận được câu trả lời của những người nghe, Chúa đưa ra những lời cảnh cáo khá nặng. Chúa nói như thế nào thì tất cả chúng ta đã nghe.
B. Chúng ta tự hỏi: Chúa nhắm điều gì khi đưa ra những lời cảnh cáo nặng như thế? Ai là hiện thân cho người con thứ nhất và ai là hiện thân cho người con thứ ai và ai là hiện thân cho người cha trong câu truyện.
Chúa không đưa ra một câu trả lời làm sẵn. Nhưng rõ ràng Chúa muốn vẽ ra một bức tranh gồm hai hạng người mà cả hai đều bất toàn mặc dầu trong đó có một hạng tốt hơn. Rõ ràng trong câu truyện này cả hai người con đều không làm hài lòng người cha vì cả hai đều không làm cho ông có được một niềm vui trọn vẹn. Hạng người thứ nhất là hạng người làm nhiều hơn là nói. Hạng người thứ hai là những người chỉ nói mà không làm. Họ hứa thật nhiều nhưng làm thì chẳng có gì cả.
Vậy người con hoàn hảo đối với Chúa là người con nào? Thưa là người sẵn sàng chấp nhận mệnh lệnh của cha với thái độ vâng phục và kính trọng, chấp nhận trọn vẹn và không thắc mắc. Chúng ta có thể nói họ là những người mà lời nói và làm luôn đi đôi với nhau. Đây mới là những người mà Thiên Chúa mong đợi.
Nhưng ai là những người như thế?
Chẳng cần phải dài dòng chúng ta cũng có thể tìm ra câu trả lời. Đó là những người hết lòng yêu mến Chúa đồng thời cũng hết lòng yêu mến anh em đồng loại của mình.
+ Bây giờ đến lượt chúng ta:
Tôi phải làm gì trước những đòi hỏi của Chúa?
- Đối với Chúa
Một linh mục ở một xứ đạo kia khi làm thống kê trong họ đạo của mình đã hỏi một người chủ gia đình như sau:
- Ở nhà có bao giờ gia đình cầu nguyện chung với nhau không?
- Thưa Cha chúng con không có giờ.
- Giả như anh và gia đình biết một người trong gia đình sẽ bị bệnh nếu không ai cầu nguyện cho người đó thì thử hỏi anh và gia đình có cầu nguyện không?
- Ồ con đoán là lúc đó gia đình chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả như anh biết một ngày nào đó vì gia đình lơ là trong việc cầu nguyện mà một tai họa sẽ xảy đến cho gia đình thì lúc đó anh và gia đình có cầu nguyện không?
- Tất nhiên là chúng con phải cầu nguyện rồi.
- Giả như mỗi ngày anh quên cầu nguyện, giáo luật sẽ phạt 5 dollars. Lúc đó anh và các con có dám sao lãng việc cầu nguyện không?
- Chắc là chúng con sẽ cầu nguyện nhưng ý của những câu hỏi cha hỏi chúng con mãi như thế là gì?
- Như vậy vấn đề ở đây không phải là không có thời giờ. Anh có thể tìm được thời giờ. Vấn đề ở đây là anh đã quá coi thường việc cầu nguyện: Coi thường hơn tiền bạc, hơn sức khỏe vv và vv. Như vậy vấn đề ở đây là anh và gia đình anh có thấy được những hồng ân Chúa ban cho anh cũng như gia đình anh qua việc cầu nguyện hay không. Nếu thấy được thì khỏi cần phải nói, không phải chỉ cầu nguyện mà chắc là anh sẽ còn làm hơn thế nữa. Còn nếu không thì chắc là chẳng bao giờ anh cầu nguyện dù chỉ là một kinh!
- Còn đối với những anh em của tôi thì sao? Phải Yêu Thương họ.
Thánh Têrêxa HĐGS nói: "Lòng yêu mến không cốt ở những tình cảm, nhưng cốt ở việc làm"
Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:
- Bằng vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo?
Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất. chợt một ứng viên trả lời:
- Đó là "Tình yêu" .
Vị Giám mục rất nhạc nhiên! Khi ngài sắp mở miệng nói "Sai ", ngài bỗng kịp thời ngậm miệng lại
----------------------------------
Ngoan Ngoãn và Ngỗ Nghịch ( hoặc Ngang Ngược ) là một trong nhữ “cặp đối” ( đối lập hoặc đối TN26-A139
Ngoan Ngoãn và Ngỗ Nghịch ( hoặc Ngang Ngược ) là một trong nhữ “cặp đối” ( đối lập hoặc đối nghịch ). Có rất nhiều dạng “cặp đối” như vậy: Tốt – Xấu, Cao – Thấp, Dài – Ngắn, Giỏi – Dốt, Giàu – Nghèo, Khôn – Dại, Hiền – Dữ, Tha – Thù, Cứu – Giết, Thánh – Quỷ, ... Nói chung, các dạng đối lập đó “đẩy nhau” như hai cực Dương – Âm, chúng trái ngược nhau, gọi là Thuận – Nghịch.
Trạng thái đối lập Thuận – Nghịch như thế có thể là tốt hoặc xấu – tùy trường hợp. Có những trường hợp thuận mà lại nghịch – gọi là thuận-lý-nghịch; có những trường hợp nghịch mà lại thuận – gọi là nghịch-lý-thuận.
Dạng Thuận – Nghịch cũng có trong toán học: tỷ lệ thuận và tỷ lệ nghịch. Nếu biết cặp giá trị tương ứng của hai đại lượng tỷ lệ thuận và một giá trị khác của đại lượng này, ta có thể tìm được giá trị tương ứng của đại lượng kia. Trong toán học cũng có quy tắc tam xuất đơn thuận và nghịch. Quy tắc tam xuất đơn thuận: Nếu A tăng N lần, B cũng tăng N lần ( nhân với N ). Quy tắc tam xuất đơn nghịch: Nếu A tăng N lần, B sẽ giảm N lần ( chia cho N ).
Ngoan Ngoãn và Ngỗ Nghịch là dạng đối lập về tính nết, thuộc lĩnh vực tinh thần – và cũng liên quan tâm linh. Khi nói về “tội phạm tới Chúa Thánh Thần”, loại tội không được tha cả đời này và đời sau, Chúa Giêsu có nói điều liên quan tình trạng thuận và nghịch: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” ( Mt 12, 30; Lc 11, 23 ).
Trong cuộc sống đời thường cũng có sự thuận và nghịch giữa những con người với nhau. Ở đây không có ý nói “theo phe” hoặc “chống lại” nhau, mà chỉ có ý đơn giản và rất ư bình thường. Đó là gì ? Tuy không là thù địch, nhưng vẫn có người này “hợp” với người kia hoặc “không hợp” với người nọ. Hai người “hợp” nhau thì dễ nói chuyện, dễ thông cảm, dù không cần nói gì khi ngồi bên nhau; ngược lại, hai người “không hợp” nhau thì rất khó nói chuyện và khó thông cảm, khoảng im lặng rất ngột ngạt. Nhưng nếu đối nghịch nhau thì “chiến tranh” rất dễ bùng nổ.
Mặc dù là phàm nhân với nhau mà tình trạng đối nghịch đã là mối nguy rồi, huống chi là tình trạng đối nghịch với Thiên Chúa. Ấy thế mà ngày xưa, dân chúng đã dám lộng ngôn và phạm thượng khi họ nói: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng” ( Ed 18, 25 ). To gan và lớn mật hết sức, liều lĩnh thật, có lẽ cũng chẳng kém gì Ông Bà Nguyên Tổ ngày xưa !
Rạch ròi và thẳng thắn, Thiên Chúa đặt vấn đề với họ: “Vậy hỡi nhà Ítraen, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay ĐƯỜNG LỐI CỦA CÁC NGƯƠI mới không ngay thẳng ? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết” ( Ed 18, 26-28 ). Và hôm nay, chính Thiên Chúa cũng đang chất vấn chúng ta y như vậy, chắc hẳn chúng ta chẳng thể nói được gì, bởi vì “trung tim đen” quá rồi. Đối với nhân loại, cái chết là thất bại lớn nhất, mà chính tội lỗi là thủ phạm khiến chúng ta phải chết ( Rm 5, 12 và 21 ), chứ Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài không hề muốn chúng ta phải chết.
Mặc dù phàm nhân chỉ là bụi đất ( St 3, 19 ), chẳng đáng chi cả, vậy mà những “hạt bụi” chúng ta lại dám “chọc giận” Thiên Chúa, thậm chí còn dám phản nghịch Ngài ( vì cứ phạm tội còn hơn cơm bữa ). Tuy nhiên, Ngài không chấp “lũ con nít” chúng ta, thế nên Ngài vẫn luôn nhớ đến và quan tâm ( Tv 8, 5 ), đồng thời Ngài còn kiên trì chờ đợi chúng ta hối lỗi: “Đối với các dân tộc khác, Chúa Tể nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tội lỗi chúng ngập đầu mới trừng phạt; còn đối với chúng ta, Người KHÔNG xử như thế” ( 2 Mcb 6, 14 ). Ôi, quả là Lòng Chúa Thương Xót quá lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, bởi vì chúng ta chẳng khác gì có cái đầu to mà não bã đậu, chỉ giỏi “chảnh” và giỏi “nổ” mà thôi. Tuy nhiên, nếu chúng ta vẫn cứng đầu thì tự đâm vào ngõ cụt, hết đường thoát: “Nếu các ngươi không chịu nghe Ta thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi GẤP BẢY LẦN vì tội lỗi của các ngươi” ( Lv 26, 18 ). Ôi chao, thật đáng sợ quá, lạy Thiên Chúa toàn năng của chúng con !
Người Việt có câu: “Khôn sống, mống chết, biết mới sống”. Ước gì chúng ta biết khôn ngoan mà thân thưa như Thánh Vịnh gia: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái” ( Tv 25, 4-5 ). Cầu xin và muốn được Thiên Chúa nhậm lời thì chúng ta phải biết chân thành sám hối. Thánh Padre Piô Năm Dấu ( 1887-1968, Linh Mục Dòng Phanxicô ) nói: “Người làm điều ác mà xấu hổ về việc đã làm thì gần Chúa hơn người tốt mà không dám làm việc lành”. Lời nhận định thật thú vị !
Đó là điều kiện thực sự ích lợi cho chính chúng ta mà thôi, chứ đối với Chúa chẳng “xi-nhê” gì. Vâng, Thiên Chúa lúc nào cũng chờ đợi và luôn sẵn sàng nghe chúng ta nhận lỗi mà thân thưa: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người” ( Tv 25, 9 ). Và Ngài tha thứ ngay lập tức.
Không ai được hứa suông, nghĩa là hứa rồi thì phải chấn chỉnh cách sống với nỗ lực hết mình. Thiên Chúa thừa biết chúng ta có “họ hàng” với chàng Cuội nên có khi cũng chỉ “lẻo mép” mà “hứa lèo” thôi. Tuy biết tỏng như vậy, Ngài vẫn chẳng hề chấp lách chi, mà chỉ “lưu ý” xem chúng ta có thực sự nỗ lực hết sức hay không. Đó mới là vấn đề ! Quả thật, “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được” ( Tv 130, 3 ). Tuy nhiên, đừng “được đằng chân lân đằng đầu”, cũng đừng thấy Ngài nhân từ mà làm tới hoặc ỷ lại. Không khéo chúng ta lại lợi dụng lòng thương xót của Ngài thì còn khốn gấp bội.
Hãy nghe Thiên Chúa cảnh báo: “Nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi GẤP BẢY LẦN vì tội lỗi của các ngươi. Nếu các ngươi chống Ta và không muốn nghe Ta thì Ta sẽ còn đánh phạt các ngươi GẤP BẢY LẦN tội lỗi các ngươi. Nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta mà cứ chống Ta thì Ta sẽ nổi cơn lôi đình chống các ngươi và Ta cũng sẽ sửa phạt các ngươi GẤP BẢY LẦN vì tội lỗi các ngươi” ( Lv 26, 18, 21, 27-28 ). Ôi, những cái “gấp bảy lần” thật đáng sợ !
Nhận ra lỗi lầm và biết sám hối chân thành là biết liên kết với Thiên Chúa. Biết mình “nghịch” thì cần chỉnh sao cho “thuận” với Ngài, càng sớm càng tốt, không thể chần chừ hoặc lần lữa. Thánh Phaolô khuyên: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng MỘT cảm nghĩ, cùng MỘT lòng mến, cùng MỘT tâm hồn, cùng MỘT ý hướng như nhau” ( Pl 2, 1-2 ). Sống được như vậy là “nên một” theo ý muốn của Đức Kitô ( x. Ga 17, 21-23 ).
Tuy nhiên, trong thực tế thì chưa được như vậy, vì thế mà chúng ta phải luôn nỗ lực và nỗ lực nhiều hơn. Xin “mở ngoặc” nhỏ: Một lần nọ, ban chấp hành của một hội đoàn Công Giáo ( thuộc Tổng Giáo Phận Sàigòn ) rủ tôi đi ăn uống, chỉ là để “cho vui” thôi chứ không có gì quan trọng. Tuy nhiên, chỉ sau khoảng 10 phút, tôi thấy người thì “vạch lá tìm sâu”, người thì “bới bèo ra bọ”, và họ trở nên “căng thẳng” với nhau, nhận thấy bất lợi nên tôi viện cớ để rút lui. Thật là đáng buồn ! Bản chất con người luôn đề cao “cái tôi”, vì thế mà rất nguy hiểm, và phải luôn cố gắng “đè nén” nó xuống càng nhiều càng tốt. Nên lưu ý rằng ngay cả khi chúng ta làm việc gì gọi là “vì Chúa”, thực ra chúng ta vẫn “vì mình” nhiều lắm, chứ Chúa chẳng “xơ múi” gì đâu !
Thật vậy, Thánh Phaolô cũng đã từng cảnh báo: “Đừng làm chi vì GANH TỊ hay vì HƯ DANH, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người ĐỪNG tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình NHƯ chính Đức Kitô Giêsu” ( Pl 2, 3-5 ). Khó lắm, vì thế mà luôn phải cố gắng “chết” triền miên – mọi nơi và mọi lúc.
Rất cụ thể với cách dẫn chứng của Thánh Phaolô: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” ( Pl 2, 6-9 ). Chắc hẳn chúng ta đã nghe đi nghe lại điều này nhiều lần rồi, thế nhưng đã mấy lần chúng ta chợt “giật mình”, hay là cứ nghe tai này rồi qua tai kia ? Thật là tội lỗi quá – tội với Chúa và tội với tha nhân !
Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, Chúa Giêsu có tất cả mọi sự, thế nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, vì thế mà Ngài xứng đáng được Thiên Chúa Cha siêu tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” ( Pl 2, 10-11 ). Thiên Chúa là tất cả của chúng ta, Ngài là Cố Vấn Kỳ Diệu, Thần Linh Dũng Mãnh, Người Cha Muôn Thuở, Thủ Lãnh Hoà Bình ( Is 9, 5 ) và là Bình An của chúng ta ( Ep 2, 14 ).
Khi đề cập tình trạng thuận và nghịch, chúng ta biết chắc rằng phải có hai đối tượng, không thể chỉ có một. Ví dụ: Đất trời có âm và dương, nam châm có âm và dương, nhân loại cũng có âm và dương ( nữ và nam ). Âm và dương là hai thái cực, nhưng âm và dương là để hài hòa chứ không để đối lập nhau. Và Chúa Giêsu cũng đưa ra hai con người trái ngược nhau qua dụ ngôn “Hai Người Con” – một đứa thuận, một đứa nghịch. Đây cũng chính là “hai con người” hoặc “hai bộ mặt” trong mỗi chúng ta.
Qua trình thuật Mt 21, 28-32, Thánh Mátthêu cho biết rằng, vào một ngày nọ, các thượng tế và kỳ mục hỏi vặn Chúa Giêsu về “quyền hành”. Rồi Ngài thản nhiên kể chuyện rằng một người cha nọ có hai con trai, ông bảo người con thứ nhất đi làm vườn nho, nhưng nó cãi ngay lập tức, nói thẳng là “không đi”, thế nhưng sau đó nó cảm thấy hối hận nên lặng lẽ đi làm. Ông cũng đi bảo người con thứ hai đi làm, nó ngoan ngoãn vâng lời ngay, nhưng rồi nó lại không đi.
Rồi Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho họ ai đã thi hành ý muốn của người cha trong hai người con đó. Họ trả lời ngay là người thứ nhất. Giả sử Ngài trực tiếp hỏi chúng ta, chắc hẳn mỗi chúng ta cũng dễ dàng trả lời được như vậy. Không gì hóc búa ! Và Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Mèn ơi ! Nghe chi mà “sốc” quá chừng ! Thế nhưng điều đó lại là sự thật, rất thật. Ngài biết họ đang ngẩn ngơ như chú Tàu nghe kèn, nên Ngài giải thích luôn: “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông KHÔNG TIN ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại TIN. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn KHÔNG CHỊU HỐI HẬN mà tin ông ấy”. Đúng là dạng cứng lòng còn hơn tảng đá !
Đã có lần Chúa Giêsu minh định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ GIỮ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì KHÔNG GIỮ lời Thầy” ( Ga 14, 23-24 ). Rất rõ ràng và mạch lạc, không hề khó hiểu, tất nhiên không ai có thể biện minh vì bất cứ lý do gì. Chữ YÊU rất ngắn gọn mà bao la quá chừng ! Có khi chúng ta là người con thứ nhất, có khi chúng ta lại là người con thứ hai. Lúc thuận, lúc nghịch. Biến hóa thất thường. “Cái tôi” to lớn và hung dữ lắm, do đó phải luôn cảnh giác cao độ đối với nó. Chính Thánh Phaolô cũng đã từng cảm thấy lo sợ: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” ( 1Cr 9, 27 ).
Ước gì mỗi chúng ta cũng luôn biết dẹp bỏ “cái tôi” và luôn tâm niệm giống như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Chúa phải LỚN lên, còn tôi phải NHỎ đi” ( Ga 3, 30 ). Làm vậy để làm gì ? Để Danh Chúa được tỏa sáng mọi nơi, để Nước Chúa hiển trị, để Ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời, và cũng là để dẹp bỏ cái-tôi-tồi-tệ của chính mình.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân, tức là những đứa con Ngỗ Nghịch, cả gan Ngang Ngược đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta tỉnh thức, tự nhận biết mình Ngỗ Nghịch để rồi hoán cải trở nên Ngoan Ngoãn. Và Thiên Chúa lại vui mừng phục hồi cương vị làm con cho chúng ta. Thật tuyệt vời và hạnh phúc biết bao đối với mỗi chúng ta !
Lạy Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự ( Sbn 28, 9; Gđt 8, 14; Et 5, 1; 2 Mcb 7, 35; 2 Mcb 9, 5; 2 Mcb 12, 22; 2 Mcb 15, 2; G 28, 27; Tv 139, 2; Cn 16, 2; Cn 21, 2; Cn 24, 12; Kn 1, 6; Kn 7, 23; Hc 23, 19; Hc 42, 20; Gr 11, 20; Gr 20, 12; 1 Cr 12, 4-6 ), xin thương “giữ gìn con như thể con ngươi và che chở con dưới bóng Ngài” ( Tv 17, 8 ), xin giúp con sống “thuận” theo Thánh Ý Ngài, biết “thuận” với mọi người và “nghịch” với tội lỗi, để con có thể làm trọn bổn phận của kẻ tôi tớ mọn hèn mà Ngài giao phó. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
----------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Có nhiều người coi thường thân xác, coi thân xác như ngục tù giam hãm linh hồn; tuy nhiên, con TN26-A140
Có nhiều người coi thường thân xác, coi thân xác như ngục tù giam hãm linh hồn; tuy nhiên, con người là tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, khi Thiên Chúa sáng tạo con người, Ngài thấy chúng rất tốt lành.
1. Còn thân xác là còn có thể lựa chọn
Platon và những người chịu ảnh hưởng bởi triết lý của ông cho rằng thân xác là ngục tù giam hãm linh hồn. Linh hồn được giải phóng vào giờ chết. Quan niệm này không chỉnh vì không đánh giá đúng đắn giá trị của thân xác. Theo quan điểm của Giáo Hội Công Giáo về mầu nhiệm Hội Thánh Thông Công, chính con người tại thế có thể lập công cho mình và giúp đỡ những linh hồn trong luyện tội bằng việc hy sinh vượt thắng những cám dỗ. Những linh hồn trong luyện tội có thể cầu nguyện cho những người tại thế, nhưng không thể lập công đền tội cho mình như những người tại thế.
Với thân xác, con người chịu chung số phận của vật chất: có sinh có tử, lớn lên và cằn cỗi, sai lầm và sửa chữa, vui và buồn, hy vọng và thất vọng. Hôm nay một người có thể đã hoặc đang làm điều bất chính, nhưng ngày mai họ có thể hối hận và trở thành con người mới. Hôm nay họ dở nhưng mai có thể họ tốt hơn. Hôm qua họ là kẻ bất nhân bất nghĩa nhưng hôm nay họ có thể là người tuyệt vời. Đã đành không dễ để một người thay đổi từ dở thành tốt, nhưng khi con người còn tại thế, con người có thể biến đổi. Ai có thể giúp một người biến đổi, hoặc làm sao để một người được biến đổi thành tốt hơn, là một điều khác; nhưng điều căn bản được lưu ý đặc biệt: con người có thể biến đổi thành tốt hơn hoặc dở hơn, tùy chọn lựa của mỗi người. Khi con người còn tại thế, còn có thể thay đổi chọn lựa của mình. Khi không còn thân xác, người ta không thay đổi chọn lựa của mình nữa; đó cũng là lý do tại sao những người ở hoả ngục không thể lên thiên đàng nữa, bởi vì họ đã vĩnh viễn cố tình chọn lựa thù hận.
Con người tự do, nghĩa là con người có thể chọn lựa, có thể làm điều này hay làm điều khác, có thể yêu hay ghét, giúp đỡ hay thù hận, đón nhận hay ruồng rẫy từ bỏ. Chính cái hay thay đổi, thuộc tính của vật chất, lại là điều làm con người đang ở trong tình trạng xấu còn có thể trở thành người tuyệt vời. Thời gian lữ hành, là thời gian con người còn có thể biến đổi chính mình, dở hơn hoặc tuyệt vời hơn. Khi còn ở trong thời gian, là con người còn có thể hy vọng.
2. Thời gian giúp con người trở nên tuyệt vời
Khi một người tốt bỏ đường công chính mà phạm tội ác, nó phải chết vì tội nó phạm; Ngược lại nếu người trước làm điều gian ác mà nay từ bỏ đường gian ác mà làm điều tốt, thì nó được sống. Người ta thường than trách Thiên Chúa đã đối xử bất công, đã quên những điều tốt hoặc xấu một người đã làm trước. Người ta đoán xét người khác bằng quá khứ, qua những điều bên ngoài; còn Thiên Chúa biết con người từ trong sâu thẳm của mỗi người, và Ngài đoán xét con người như họ đang là, theo như “họ là” ở giây phút này.
Trong dụ ngôn hai người con, người con thứ nhất khi được người cha mời đi làm vườn nho, đã từ chối không đi nhưng sau đó lại hối hận đi làm; còn người con thứ hai lúc đầu nói sẵn sàng đi làm nhưng cuối cùng lại không đi. Ai cũng nhận định được rằng chính người con lúc đầu từ chối lời gọi của người cha mà sau đó đi làm, là người đã vâng lời người cha; còn người con lúc đầu trả lời vâng lại là người không vâng lời cha. Quá khứ cũng quan trọng, nhưng hiện tại quan trọng hơn. Hiện tại quan trọng hơn cả quá khứ lẫn tương lai. Cho dù một người đã sống tốt ở quá khứ nhưng hiện tại lại sống dở, thì người đó vẫn dở; còn nếu một người có một quá khứ tội lỗi nhưng bây giờ họ trở lại, họ đã là người tốt trước mắt Thiên Chúa cho dù người đời vẫn đánh giá họ xấu và coi thường họ. Nếu một người cố gắng làm tuyệt vời những gì phải làm ở giây phút hiện tại, người đó là người tuyệt vời. Giây phút hiện tại là giây phút tuyệt vời, là giây phút làm con người trở nên thánh hay thành qủy, làm một người trở nên đáng yêu hay đáng sợ.
Thiên Chúa là Đấng làm điều tuyệt vời. Ngài cho con người thời gian, để rồi với thời gian con người hình thành chính mình. Với ân sủng Thánh Thần, Thiên Chúa vẫn đang giúp con người trở thành người tuyệt vời trong từng giây phút sống, cho dù con người đã từng từ bỏ Ngài. Thiên Chúa tạo dựng con người với thân xác, và qua đó Ngài cho con người thời gian và tự do để trở nên con cái Ngài. Thiên Chúa vẫn đang làm con người trở nên con cái của Ngài.
3. Cách hành xử của Thiên Chúa
Tự do là món quà rất quý Thiên Chúa ban cho con người. Ngài chấp nhận tất cả khi Ngài ban tự do cho con người. Ngài chấp nhận cả khả thể con người phản bội Ngài; tuy nhiên Ngài yêu con người vô cùng, và Ngài tin rằng tình yêu của Ngài có thể biến đổi lòng người. Ngài luôn mời gọi con người sống trong tình yêu của Ngài.
Với cơ cấu con người tại thế, giây phút hiện tại, là giây phút của tự do, và cũng là giây phút của vĩnh cửu. Sống trọn vẹn giây phút hiện tại, con người sẽ cảm nhận bình an và hạnh phúc. Con người được mời gọi chọn Chân Thiện Mỹ trong từng giây phút sống. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người; Ngài đã sống như một người với những giới hạn của thân xác, và Ngài đã xử dụng tự do một cách tuyệt vời. Chính khi làm người, Thiên Chúa làm cho con người nhận biết Thiên Chúa tuyệt vời đến độ nào; chính khi chấp nhận cái chết thập giá như một người, Ngài mặc khải giá trị tuyệt vời của con người với thân xác. Đức Yêsu trở thành mẫu gương sống của từng Kitô-hữu. Ngài trở thành người mẫu, thành người lý tưởng của các thanh thiếu niên. Con người trở thành tuyệt vời khi âm thầm khiêm tốn sống yêu thương như Ngài. Nếu muốn là người nổi danh, là người trổi trang, là người có cách sống của người hiền triết hiểu biết uyên nguyên sự vật, thì phải là người sống tự hủy khiêm tốn yêu thương như Đức Yêsu.
Thiên Chúa đã và đang cảm hoá con người bằng yêu thương đến độ tự hủy chính mình. Hiện tại của Thiên Chúa là yêu thương. Tự do để trở thành tuyệt vời hay không, đó là hiện tại của con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tự do luôn liên hệ đến hiện tại. Bạn hiểu sao về câu nói này?
2. Hiện tại, bạn có bị ràng buộc bởi điều gì không? Điều đó có làm bạn thành nô lệ không? Xin chia sẻ nếu được.
3. Bạn có kinh nghiệm về yêu thương tự hủy không? Xin bạn chia sẻ.
------------------------------
Ngay bài đọc I trích sách Egiêkiel 18,25-28, vị tiên tri đã vạch ra hai lối sống trái ngược nhau: Trước TN26-A141
Ngay bài đọc I trích sách Egiêkiel 18,25-28, vị tiên tri đã vạch ra hai lối sống trái ngược nhau: Trước công chính, sau lại bỏ thì người đó sẽ chết, còn người gian ác bỏ đường tội lỗi mà sống công chính thì thì họ sẽ được sống. Tư tưởng này phù hợp với bài Tin mừng, một người ban đầu không vâng phục, nhưng sau lại sống tốt, còn người kia thì ngược lại(x.Mt.21,28-32). Sau cùng Thánh Phaolô khuyên tín hữu hãy noi gương Đức Giêsu Kitô, Đấng hằng vâng phục Thiên Chúa Cha nên Người được tôn vinh.
Như thế Lời Chúa của Chúa Nhật 26 năm A này mời gọi mỗi người chúng ta, đang sống công chính hay trong tội lỗi hãy hướng về điều tốt mà thực hành, vì đây là con đường dẫn tới tương lai tốt đẹp, và Thiên Chúa chỉ đánh giá trong giây phút hiện tại mà thôi. Thậy vậy, giá trị của con người không đặt ở quá khứ tội lỗi hay đạo đức, mà hệ tại ở giây phút hiện tại người đó đã sống ra sao, công chính hay gian ác. Nó cũng không hệ tại ở những lời nói hay nói tốt, mà hệ tại ở việc làm.
Dụ ngôn hai người con cho chúng ta thấy, cả hai người đều ngôn hành bất nhất, thế nhưng phút cuối thì người con cả là người con mà chúng ta cảm thấy hài lòng. Đây là một dụ ngôn nhưng Chúa Giêsu muốn lái dụ ngôn này trở thành ngụ ngôn, để dạy cho người đương thời bài học: người con thứ nhất là những người thu thuế, gái điếm, tội lỗi, còn người con thứ hai là những người Biệt Phái. Những người thu thuế, gái điếm đã nghe lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả, quay lại đường công chính, còn những người Biệt Phái và Luật Sĩ đã tự cho mình là người công chính nên không đếm xỉa gì đến lời mời gọi của ông ” Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” và họ cũng chẳng nghe theo lới Chúa Giêsu khẩn thiết ” Hãy sám hối và tin vào Tin mừng”. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã qủa quyết ” những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ngươi”.
Nếu những người Biệt phái không sửa lại đường lối của mình thì sẽ bị khai trừ và người tội lỗi biết hóan cải thì họ sẽ chẳng những vào chỗ trong Nước Trời trước mà còn chiếm chỗ của họ nữa, vì cũng như người con thứ nhất đã từ chối thì lại ưng thuận đi làm vườn nho của cha mình, trong khi ấy người con thứ hai lại không làm như vậy mặc dù bên ngòai vâng lời. Thì cũng thế những người thu thuế, phường đĩ điếm sau khi đã không vâng lời Thiên Chúa lại tuân theo lời mời gọi củ Thánh Gioan Tẩy Giả để hóan cải, còn những nhà lãnh đạo của Do Thái thì công khai tuyên xưng vâng lời Thiên Chúa thì lại từ chối lời mời gọi mà Thiên Chúa gửi tới qua Đức Giêsu để hóan cải. Người có quá khứ tội lỗi biết sửa đổi thì vẫn tốt hơn người có quá khứ lành thánh nhưng đang theo con đường tội lỗi.
Chúng ta nên nhớ rằng con người không là một món đồ, trước thế nào thì nay vẫn vậy, trái lại con người là một tác phẩm đang đi đến hòan bị có thể đẹp hơn, nhưng cũng có thể không ra gì và người họa sĩ muốn bỏ. Thiên chúa cho chúng ta nhiều cơ hội để sửa đổi tại sao chúng ta không làm? Thiên Chúa đang chờ đợi hãy hãy làm nay khi trời còn sáng! Thánh Agustine là một mẫu gương trở lại cho chúng ta noi theo, đừng nản lòng cũng đừng chần chừ nữa.Dụ ngôn hai người con hôm nay là bài học cho chúng ta: Nếu trước đây chúng ta đã lỡ nói không với Chúa thì bây giờ chúng ta có thể nói lại ” xin vâng”, còn nếu chúng ta giống người con thưa ” vâng” thì đừng thay đổi như người con thứ hai.
Lạy Chúa xin cho chúng con mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa để hóan cải. Nhờ đó chúng con sẽ được đi vào hàng ngũ đón rước Chiên con trong ngày Chúa đến.
------------------------------
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm A nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người TN26-A142
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm A nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người trước tội lỗi và khả năng hoán cải vẫn luôn được chờ đợi.
Ed 18: 25-28
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nói rằng thái độ của con người không bất di bất dịch trong sự công chính cũng như gian ác. Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng hồi tâm hoán cải để được sống.
Pl 2: 1-11
Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng sự đồng tâm nhất trí phải ngự trị giữa các người Ki-tô hữu và việc thực hành đức khiêm nhường theo gương Đức Ki-tô cũng quan trọng không kém.
Mt 21: 28-32
Tin Mừng Mát-thêu kể cho chúng ta dụ ngôn hai người con. Người thứ nhất khước từ lời mời gọi của cha mình, nhưng rồi sau đó hối hận nên thi hành ý muốn của cha mình. Người con thứ hai ngoan ngoãn vâng theo ý muốn của cha, nhưng rồi không làm gì cả. Điều quan trọng không phải là ngày hôm qua bạn đã trả lời với Thiên Chúa như thế nào, nhưng là ngày hôm nay bạn có thực sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa hay không.
BÀI ĐỌC I (Ed 18: 25-28)
Sau khi vương quốc Giu-đa bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm, ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc nhóm đầu tiên bị lưu đày. Ông gẫm suy ý nghĩa của các biến cố. Vừa tư tế vừa ngôn sứ, ông quan tâm đến người tội lỗi. Việc dân Ít-ra-en đang phải chịu một sự thử thách nặng nề đã khiến ông suy nghĩ về vấn đề án phạt tập thể và trách nhiệm cá nhân.
1. Án phạt tập thể:
Dân Chúa chọn phải trả lẽ về tội bất trung dài lâu đối với Thiên Chúa của mình. Cũng như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo tai họa. Trong số những người bị lưu đày, không ai không nghĩ đến bản văn của sách Lê-vi: “Các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân tộc, và đất của kẻ thù các ngươi sẽ nuốt các ngươi. Những kẻ còn lại trong số các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của chúng, trong đất của kẻ thù chúng; chúng sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của cha ông chúng, cộng với lỗi lầm của chúng” (Lv 26: 38-39).
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sắp phá vỡ quan niệm truyền thống nầy, lật đổ thuyết định mệnh bất di bất dịch đang đè nặng trên những người lưu đày biệt xứ trong hoàn cảnh khốn cùng của họ, theo đó con cháu phải còng lưng gánh tội cho cha ông như câu ngạn ngữ phổ biến nầy: “Đời cha ăn nho xanh, đời con phải ê răng”. Để họ lấy lại niềm tin vào tương lai, vị ngôn sứ gởi đến họ sứ điệp với những dấu nhấn mới: Mỗi người chỉ chịu trách nhiệm về chính mình, con người có thể trút bỏ được gánh nặng của quá khứ để khởi sự xây dựng hiện tại và xây đắp tương lai.
2. Trách nhiệm cá nhân:
Trước đoạn trích dẫn hôm nay, vị ngôn sứ nói: “Sự công chính của người công chính ở với người công chính. Còn điều dữ của kẻ gian ác ở với kẻ gian ác” (Ed 18: 20). Tuy nhiên, không có gì là bất di bất dịch cả. Người công chính có thể sa ngã và kẻ gian ác cũng có thể hoán cải. Những người lưu đày quen với sự liên đới gia đình hay dân tộc, không sẵn lòng lắng nghe sứ điệp nầy khi phát biểu: “Đường lối của Đức Chúa không ngay thẳng!”. Vị ngôn sứ trả lời: “Không một chút nào, chính đường lối của các ngươi đấy chứ! Khi người công chính bỏ đường công chính mà làm điều gian phi, rồi vì thế mà nó phải chết, thì chính là vì điều gian phi nó đã làm, mà nó phải chết. Còn khi kẻ bất lương bỏ việc bất lương nó đã làm, mà thi hành điều công minh chính trực, thì nó sẽ được sống”.
Trước ngôn sứ Ê-dê-ki-en, sách Đệ Nhị Luật, khi duyệt xét lại Luật Mô-sê, đã đưa vào quan niệm về án phạt cá nhân: “Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử tử vì tội của mình” (Đnl 24: 16). Tuy nhiên, ngôn sứ Ê-dê-ki-en còn đi xa hơn: ông cắt đứt mọi liên đới của toàn thể thế hệ nầy khỏi các thế hệ trước đó, và mỗi cá nhân khỏi quá khứ của mình: cốt là đổi mới và hình thành lại một dân tộc mới. Chủ yếu là lấy lại niềm tin tưởng vào sự công chính của Thiên Chúa, “Đấng không muốn người tội lỗi phải chết, nhưng hối cải để được sống”.
BÀI ĐỌC II (Pl 2: 1-11)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-líp-phê mà chúng ta đã bắt đầu vào Chúa Nhật tuần trước. Trong cảnh “gông cùm xiềng xích” có thể ở Ê-phê-xô, thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê, một bức tâm thư.
1. Đồng tâm nhất trí:
Những lời khích lệ của thánh Phao-lô để lộ vài bất đồng trong cộng đoàn Phi-líp-phê. Chúng ta không biết họ bất đồng về chuyện gì. Bức thư chỉ kín đáo ám chỉ đến. Trong phần cuối của bức thư nầy, sự bất đồng giữa hai người Ki-tô hữu được gợi lên, nhưng trong đoạn trích nầy, những lời thiết tha gởi đến cộng đoàn để kêu mời mọi người hãy khiêm nhường mà đồng tâm nhất trí với nhau.
Cung giọng thân quen của bức thư không ngăn cản vài tư tưởng đẹp và văn chương bay bổng. Những lời gởi gắm chan chứa ân tình của thánh nhân được trình bày theo thể thức điều kiện đem lại cho lời mời gọi của ngài một sự trang trọng nào đó. Lời mở đầu: “Nếu quả thật, sự liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau” gợi nhớ lại lời cầu chúc cuối thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh em”. Rõ ràng, thánh Phao-lô muốn đặt lời mời gọi cộng đoàn đồng tâm nhất trí với nhau dưới dấu hiệu của sự hiệp nhất Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thánh Phao-lô không chỉ nói đến lòng mộ đạo của các tín hữu Phi-líp-phê, nhưng ngài còn nói đến tấm lòng của họ, đến tình nghĩa keo sơn bền chặt của họ đối với ngài. Thánh nhân xin họ cho ngài niềm vui lớn lao nầy là biết họ nên một lòng một ý với nhau.
2. Đức khiêm nhường:
Đối với đức khiêm nhường, thánh nhân khuyên bảo: “Đừng làm vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”. Phương thuốc tốt nhất để chữa lành thói kêu căng và vị kỷ là quan tâm đến tha nhân. Thánh nhân khuyên họ hãy mặc lấy tâm tình của Đức Ki-tô, Đấng đã tự hạ mặc lấy thân phận con người của chúng ta cho đến bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá.
Lúc đó, thánh nhân trích dẫn một bài thánh thi, bằng chứng cổ xưa nhất và rõ ràng nhất về niềm tin Ki-tô giáo rất sớm vào thần tính và cuộc sống tiền hữu của Chúa Ki-tô.
TIN MỪNG (Mt 21:28-32)
Sau khi đã long trọng vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su thực hiện sứ vụ cuối cùng. Ngài đặt thính giả của Ngài trước một sự chọn lựa dứt khoát: hoặc nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa, hay loại bỏ Ngài. Vào lúc nầy, thánh Mát-thêu thuật lại ba dụ ngôn: dụ ngôn hai người con, dụ ngôn những tá điền sát nhân và dụ ngôn tiệc cưới, qua đó Ngài loan báo Nước Trời sẽ bị lấy đi khỏi những kẻ được hứa ban mà trao cho những người khác. Chúng ta sẽ đọc ba dụ ngôn nầy trong suốt ba Chúa Nhật liên tiếp nhau.
1. Đối tượng mà dụ ngôn nhắm đến:
Đối tượng mà Đức Giê-su ngỏ lời là các thượng tế và kỳ mục. “Các thượng tế” là giai cấp lãnh đạo cao nhất của người Do thái vào thời Đức Giê-su. “Các kỳ mục” là những bậc vị vọng, những thành viên quý tộc và những điền chủ giàu có. Cả hai giai cấp nầy đều là những đối thủ không đội trời chung với Đức Giê-su. Ở đây, thánh Mát-thêu không nêu tên các kinh sư, chung chung họ thuộc về giai cấp trung lưu. Thánh Mát-thêu quy trách nhiệm nhiều hơn trên những giai cấp lãnh đạo có quyền thế nhất trong dân Ít-ra-en về cái chết của Đức Giê-su.
2. Lời lời mời gọi tối hậu của Đức Giê-su.
Ngay từ đầu Tin Mừng, Đức Giê-su đề nghị các vị lãnh đạo Do thái suy nghĩ một điều khó hiểu theo hình thức dụ ngôn: “Các ông nghĩ sao về chuyện sau đây?”. Quả thật, đây là một lời cảnh báo tối hậu, một lời kêu gọi sau cùng thực thi ý muốn của cha, sau khi đã khước từ lời mời gọi của cha.
Nét đáng chú ý của dụ ngôn là việc chọn lựa “hai người con”, nghĩa là người cha đều dành cho cả hai đứa con mình tình thương yêu như nhau. Đứa con thứ nhất từ chối lời mời gọi của người cha: “Không, con không đi đâu”, nhưng rồi lại thi hành ý muốn của cha, trong khi đưa con thứ hai đã ngoan ngoãn đáp lại lời mời gọi của cha: “Thưa cha, vâng!”, nhưng rồi lại không thi hành ý muốn của cha.
Bản văn Ê-dê-ki-en nhắc lại rằng Thiên Chúa không muốn người tội lỗi phải chết, và vì sự tự do của con người mà không có gì bất di bất dịch: người công chính có thể sa ngã và kẻ tội lỗi có thể hoán cải. Đây là ý nghĩa phi thời gian của dụ ngôn về hai người con. Dụ ngôn giải thích sự thay đổi thái độ của người con thứ nhất: “Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi”, nhưng lại không nêu ra lý do nào người con thứ hai sau đó lại thay đổi triệt để như thế. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ đến một lời khác của Đức Ki-tô: “Không phải những ai nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời đâu, nhưng chính là thi hành ý muốn của Cha tôi”.
3. Ý nghĩa của dụ ngôn.
Phần sau cùng của dụ ngôn nầy gây nên những tranh cãi. Những lời nầy của Đức Giê-su có thật sự được đặt vào ở đây chứ? Phải chăng chúng đã được đưa vào ở đây vào lúc biên soạn sau cùng của Tin Mừng chứ? Trước hết, thánh Mát-thêu hiếm khi nói “Nước Thiên Chúa” thay vì “Nước Trời”. Hơn nữa, tại sao tin vào lời của ông Gioan được dùng làm điểm mốc, trong khi đó chính trên thái độ đối với sứ điệp của Ngài mà Đức Giê-su ngầm đặt câu hỏi?
Đức Giê-su không ngần ngại nói thẳng ra: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế, những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông đấy”. Đức Giê-su chủ đích đưa ra cho giai cấp lãnh đạo Do thái hai mẫu người tội lỗi công khai bị khinh bỉ đặc biệt nhằm tác động thật mạnh vào tính tự cao tự đại cố hữu của họ. Quả thật, các thượng tế và kỳ mục đều đã biết sứ điệp của Gioan Tẩy Giả, nhưng không chịu tin, họ vẫn một mực từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa qua ông Gioan. Trái lại, phường thu thuế và bọn gái điếm đã lắng nghe ông Gioan và hoán cải.
Thiên Chúa chỉ xét đoán con người dựa trên thái độ hiện tại của họ, cho dù quá khứ như thế nào đi nữa. Chính những giây phút hiện tại mới là quan trọng. Đối với Thiên Chúa, cái ngày hôm nay mới là quan trọng. Vì thế, sứ điệp của sách Đệ Nhị luật luôn luôn bắt đầu với “ngày hôm nay”: “Phải chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người, đừng cứng lòng nữa”.
------------------------------
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Cây đinh rỉ sét và cong quẹo
"Người cha đến nói với đứa con thứ nhất: Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: Con không muốn đâu. Nhưng sau đó nó hối hận, nên đi" (Mt. 21, 28-29).
Một người nghiện rượu. Ông cũng xa rời Thiên Chúa và gia đình. Một hôm trong khi đi đường TN26-A143
Một người nghiện rượu. Ông cũng xa rời Thiên Chúa và gia đình.
Một hôm trong khi đi đường, ông hối hận vì cuộc sống hiện tại của mình, khi ông thấy một cây đinh rỉ sét và cong quẹo. Cây đinh đó nhắc nhở ông về bản thân và cuộc đời ông. Vì vậy, ông nhặt nó đem về nhà. Ông đặt nó lên đe, gò cho thẳng lại và lau sạch rỉ sét. Một giờ sau, cây đinh mới lại.
Cũng thế, ông cũng có thể uốn nắn và thanh tẩy cuộc đời ông. Suy nghĩ đó đã đem lại cho ông một sự biến đổi: ông bỏ rượu, trở về với Thiên Chúa và gia đình. Hiện nay ông vẫn giữ cây đinh đã được gò thẳng và lau sạch đó trong ví của mình.
Đã có bao giờ tôi hầu như giống cây đinh cong quẹo và rỉ sét đó không? Điều gì đã làm tôi thay đổi?
"Ai sám hối thì đã được sạch tội rồi" (Seneca) (Trích "Viễn tượng 2000").
2. Trong căn phòng khách sạn
Tomas Merton mồ côi cha mẹ năm lên 16 tuổi. Năm lên 23, cậu gặp được Chúa Kitô. Năm 24 tuổi, chàng làm phóng viên tờ Nữu Ước thời báo. Năm 26 tuổi, chàng thu gom tài sản vào cái túi vải, đến sống ở Kentucky và trở thành một thầy dòng chiêm niệm.
Trong cuốn "tự thuật", Tomas Merton thuật lại tiến trình hối cải của mình: Sau khi tốt nghiệp trung học, cậu đi du lịch qua Âu Châu và ở trọ trong khách sạn, cuộc đời buông thả. Nhưng cũng chính ở đây, một đêm nọ cậu ý thức tội lỗi của mình và ước muốn thoát khỏi thảm cảnh đó. Cậu cầu nguyện và đây là lần đầu cậu thực sự cầu nguyện và xin Chúa giúp cậu thoát khỏi quyền lực xấu xa cầm giữ tâm hồn cậu.
Câu chuyện Tomas Merton hôm nay minh họa sự hối lỗi của người con trong Tin Mừng hôm nay: "Nó hối hận nên lại đi làm vườn nho" (Mt. 21, 29)
Điều gì giúp con người hối cải?
Thần học gia Soren Kierkegaard nói: "Không có tình trạng đã thành Kitô hữu mà chỉ có tình trạng đang trở thành Kitô hữu". Như thế việc hoán cải là một tiến trình kéo dài cho đến lúc lìa đời, chứ không bao giờ chấm dứt. Và việc hối cải phải qua 3 giai đoạn:
Trước hết là sự bất mãn về kiếp sống sai trái hiện tại của mình.
Kế đến là quyết tâm làm một điều gì đó cho cuộc đời mình.
Sau cùng là thực hiện cho mình cuộc sống mới tốt đẹp đúng đắn.
Do đó, Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta khám phá cuộc sống của mình, để thấy những gì sai trái, những gì chưa thích hợp với Ý Chúa thì lo tu chỉnh lại. (Theo "Sunday homilies").
3. Con người bất lực
Thánh Phaolô đã xưng thú sự bất lực của ngài: "Tôi không hiểu nổi chính tôi, điều tôi muốn làm thì tôi không làm nổi; còn điều tôi ghét thì tôi lại làm. Ý muốn làm điều tốt thì thực sự có trong tôi, nhưng việc thực hiện thì không" (Rm. 7,15).
Thánh Phao lô là một trong số các tông đồ nhiệt thành năng nổ nhất của Chúa. Thế mà Thánh Nhân cũng phải nhìn nhận sự bất lực của bản thân mình. Sự bất lực của Thánh Nhân minh họa cho trường hợp hai người con trong Tin Mưng hôm nay. Khi người cha kêu gọi đi làm vườn nho, một người trả lời: "Con không muốn đâu! Nhưng sau đó nó hối hận nên đi". Còn người kia thì đáp: "Thưa ngài, con đây! Nhưng rồi lại không đi". (Mt. 21, 29-30)
Sau những kinh nghiêm sống đạo, chắc chắn chúng ta cũng ý thức về những bất lực của chúng ta. Chúng ta muốn vượt qua những yếu đuối để thực hiện các điều Chúa dạy, thực hành theo ý Chúa muốn, nhưng rồi chúng ta lại không làm nổi. Chúng ta hãy nhìn lại Thánh Phaolô. Ngài thú nhận không làm được điều tốt ngài muốn, nhưng cứ làm điều xấu ngài không muốn.
Nhưng chính trong những bất lực này, ngài cảm nhận được ơn Chúa nâng đỡ, như Lời Chúa hứa: "Ơn Ta đủ cho con". Và Ngài đã tin tưởng phó thác vào tình thương nâng đỡ của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Trong lúc cảm nhận những bất lực của bản thân, chúng ta tin tưởng vào ơn nâng đỡ, sự trợ giúp quyền năng của Chúa, hay cậy dựa vào khả năng bất lực của chúng ta hoặc một thế lực nào, một người nào khác.
Chúng ta hãy nhớ: chính nhờ chúng ta ý thức được sự bất lực của chúng ta mà Chúa Giêsu có thể bước vào cuộc sống chúng ta, như một Thiên Chúa có sức nâng đỡ phù trợ chúng ta, vì Người đã hứa: "Ơn Ta đủ cho con..."
4. Ngôn hành bất nhất
Tại một tu viện cổ kính, sau khi tiếng chuông nhà nguyện vang lên, các tu sĩ tập hợp nơi hành lang nguyện đường, chào đón một tập sinh mới trải qua giai đoạn thử thách, để trở nên thành viên chính thức của tu viện. Thầy giáo tập Laisasi trình bề trên:
- Thưa bề trên, con xin trình lên bề trên tập sinh Laicoasi. Trước đây tập sinh này là một con người hống hách ươn ngạnh, nhưng nay đã trở thành người mới, đáng được vào hàng ngũ tu sĩ chúng ta.
Thế là tập sinh Laicoasi được lệnh lên đứng trước các tu sĩ. Thầy giáo tập bắt đầu chữi bới và nặng lời phỉ báng tập sinh. Thầy còn tát vào mặt anh, đánh anh té xuống đất. Tập sinh Laicoasi vẫn im lặng, khiêm nhường, kiên nhẫn chịu thử thách.
Vị tu viện trưởng hết sức xúc động trước sự biến đổi lớn lao của tập sinh và tuyên bố:
- Tập sinh Laicoasi đã trải qua khảo hạch về kiên nhẫn, nên kể từ nay anh được trở nên thành viên chính thức của tu viện chúng ta. Xin chúc mừng và chào Laicoasi.
Bỗng đột ngột Laicoasi quay lại đánh thầy giáo tập tới tấp. Rồi anh cười nhìn thầy giáo tập đang nằm sóng sượt trên đất. Vị tu viện trưởng hoảng hốt hỏi:
- Sao anh đánh thầy giáo tập?
- Thưa bề trên, con muốn thử thầy giáo tập của con, xem thầy có thực hành những gì thầy đã dạy con không?
Câu chuyện vui trên đây minh họa thái độ của hai người con trong Tin Mừng hôm nay. Khi người cha bảo đứa con thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: Con không muốn đâu! Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: Thưa Ngài, con đây! Nhưng rồi lại không đi" (Mt. 21, 28-30)
Người con thứ nhất là người "ngôn hành hiệp nhất". Con người "ngôn hành hiệp nhất" chẳng những làm tròn bổn phận đối với mọi người mà còn được mọi người tôn trọng, vì lời họ nói luôn đi đôi với việc họ làm. Họ cũng là người khiêm nhường và can đảm. Một khi đã hứa là sẽ nỗ lực hết sức lực thực hành lời hứa. Họ biết rằng lời hứa của họ có liên quan đến vận mệnh người khác.
Còn người con thứ hai mà không làm, tức là "ngôn hành bất nhất". Họ hứa cách cẩu thả, không suy nghĩ xem mình có khả năng thực hiện điều mình hứa không. Những con người như thế, thoạt nhìn người ta tưởng họ là những người tốt, nhưng đó lại là những con người thiếu trách nhiệm, dối trá, sẽ gây đau khổ thất vọng cho người mong chờ lời hứa của họ được thực hiện.
Đó chỉ là bình diện nhân bản. Còn trong bình diện thiêng liêng, chúng ta cố gắng "ngôn hành hiệp nhất" trong suốt cuộc đời chúng ta đối với Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng trung tín, luôn giữ đúng lời hứa với chúng ta. Ngài đã lên án gắt gao các biệt phái và kinh sư về thái độ "ngôn hành bất nhất" của họ. (Theo "Ánh sáng thế gian").
5. Khiêm tốn
Trên chiếc xe lửa tiến về Paris (Pháp) một sinh viên trẻ ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi xe chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra chuỗi tràng hạt và cầu kinh.
Cậu sinh viên nhìn cụ lần chuỗi có vẻ bực bội nên lên tiếng:
- Cụ còn tin nhảm nhí à?
- Tôi tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười ngạo nghễ:
- Lúc nhỏ tôi tin. Nhưng bây giờ làm sao tin được. Khoa học đã giải thoát tôi khỏi những chuyện phù phiếm đó. Cụ hãy ném bỏ tràng chuỗi đó đi. Hãy học những khám phá mới của khoa học. Cụ sẽ thấy những gì cụ tin từ trước đến giờ toàn là mê tín dị đoan.
Cụ già điềm nhiên hỏi lại:
- Cậu vừa nói những khám phá mới của khoa học. Cậu có thể giúp tôi biết được không?
Cậu sinh viên khoái chí đề nghị:
- Cụ cứ cho tôi địa chỉ. Tôi sẽ gởi sách cho cụ học. Cụ sẽ say mê khoa học ngày nay thôi.
Cụ già từ từ lấy ra tấm danh thiếp trao cho cậu sinh viên. Đọc qua danh thiếp, người sinh viên xấu hổ tái mặt, lặng lẽ sang toa khác. Vì tấm danh thiếp ghi rõ: "Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris".
Louis Pasteur, nhà bác học thời danh nước Pháp đã không vì sự học cao hiểu rộng của mình mà vênh vang tự đắc như người sinh viên trẻ tuổi kiêu căng, mới lem nhem hiểu biết khoa học. Cụ vẫn khiêm tốn tin tưởng và cầu nguyện với tinh thần đơn sơ, phó thác. Cụ đã thực hành bài học của Chúa Giêsu:"Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng" (Mt. 11, 29).
Thánh Phaolô đã xác quyết trong bức thư của bài đọc hai hôm nay:
"Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn rút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Pl. 2, 6-7).
Là Kitô hữu, muốn theo gót Chúa Giêsu, chúng ta không thể chọn con đường nào khác hơn sống khiêm tốn, hạ mình xuống như Thầy chúng ta, để được Thiên Chúa nâng lên cõi sống muôn đời, và "tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu" (Pl. 2, 9)
(Theo "Maria Mẹ tuyệt mỹ).
------------------------------
Phúc âm Thánh Luca 15 và Mathêu 21 bắt đầu ngụ ngôn tình yêu người cha dành cho con vả TN26-A144
Phúc âm Thánh Luca 15 và Mathêu 21 bắt đầu ngụ ngôn tình yêu người cha dành cho con vả cách người con đáp trả tình yêu đó nhưng kết quả cuối cùng chính là nhấn mạnh đến sự tha thứ. Người con trai trẻ tin vào lòng từ ái của cha mình nhưng không chung niềm tin về cuộc sống như cha anh mong đợi. Anh tin cha anh rộng lượng đến độ khi anh đòi chia nửa gia tài cha anh sẽ chiều theo. Đúng thế, cha anh chia cho phân nửa gia tài. Có tiền trong tay anh tung cánh bay cao, lìa xa cha và người anh. Khi đòi chia gia tài anh chỉ nghĩ đến mình mà không quan tâm đến nỗi thương tâm của cha anh và người khác bởi anh chiều theo tính ích kỉ. Ích kỉ là chỉ nghĩ đến mình, lo cho mình, thoả mãn í muốn mình, không quan tâm đến cảm xúc của người khác. Ích kỉ là nguyên nhân gây chia rẽ, gây thương tích cho tình cảm con người. Nó ảnh hưởng đến cách ứng xử của ta trong cuộc sống, thiếu cảm thông với thân nhân, thiếu tình thương đồng loại và vắng bóng nhân ái trong hoàn cảnh thương tâm. Kiềm chế tính vị kỉ, ích kỉ, là điều rất khó. Kẻ ít, người nhiều khó ai tránh khỏi bệnh chung của nhân loại. Bản chất sanh ra đã ít nhiều mang tích ích kỉ. Ích kỉ không phải là tham lam mà là coi mình trọng hơn mọi người. Cả hai người con trong dụ ngôn này đều ích kỉ, quan tâm đến cá nhân mình nhiều hơn là quan tâm đến tình thương cha họ dành cho.
Có tiền trong tay là cơ hội giúp người con bỏ nhà ra đi, chạy theo những giấc mơ thầm kín anh từ lâu ước mong thực hiện. Quả thực tiền bạc giúp anh sống vương giả một thời gian cho đến khi hết tiền, cuộc sống vương giả cũng bay theo. Không còn tiền anh mất tất cả. Đầu tiên là những lời tâng bốc, ngon ngọt của bè lũ bu theo nịnh bợ, kiếm ăn. Sau đó anh mất luôn tư cách con người. Thực ra tư cách này mất từ khi anh lao vào chốn ăn chơi, coi thường đạo đức nhưng nó chưa thể hiện rõ ràng cho anh thấy, anh phải chờ cho đến khi khánh kiệt, không còn gì lúc đó anh mới nhận ra mình sai lầm. Tư cách con người bị xuống bùn đen khi anh xin đi chăn heo thuê và đói, thiếu cả cám heo để ăn. Anh sống trong cô đơn, tủi nhục. Giờ đây anh rõ mộng khác thực. Mộng đưa ra nhiều hứa hẹn có điều kiện. Không tiền mộng suốt đời chỉ là mộng. Ngay cả khi có tiền nó cũng chỉ là những hào quang chớp nhoáng, vinh quan bề ngoài và sớm tàn lụi. Trái lại, tình thương cha anh dành cho cũg có điều kiện. iều kiện không phải là tiền để thực hiện nhưng cần tình thương, vâng lời thực hiện theo í cha sống yêu thương.
Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu con (Ga 13,34)
Thiên tai, đói khổ, cô đơn mở mắt người thanh niên trẻ giúp anh phân biệt khác biệt giữa tình yêu cha anh dành cho và hứa hẹn hão huyền trong cuộc sống. Tình yêu cha anh không những chăm sóc, lo lắng và còn tha thứ khi anh lầm lỗi trong khi cuộc sống xã hội đã không tha mà còn tìm cách, nếu anh có tiền thì lừa gạt, nếu anh không tiền thì gạt ra ngoài, vứt bỏ. Nhận biết này giúp anh can đảm, mạnh dạn đứng dậy đi về cùng cha xin tha thứ. Một lần nữa anh lại đánh giá sai lầm tình yêu cha anh dành cho. Anh hy vọng về tạ tội và xin được làm công cho cha nhưng người kha khoan dung hơn những gì anh ước mơ. Trông thấy con trở về ông ông choàng đón nhận người con hoang trở về. Cho anh mặc áo mới, giầy mới là dấu chỉ tước vị người con trong gia đình. Ông lại mở tiệc mừng con về nhà bằng an.
Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Dùng ngôn gnữ thánh Phaolô diễn tả chúng ta là kẻ thừa tự trong nước trời. Thiên Chúa là người cha nhân từ rộng lượng hơn chúng ta tưởng tượng, tha thứ nhiều hơn là bắt lỗi và luôn mong chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Hãy mạnh dạn tiến về nhà cha để đón nhận lại tình nghĩa tử, cha con.
Đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô là con đường duy nhất dẫn đến cuộc sống trường sinh.
------------------------------
Trong xã hội chúng ta sống luôn tồn tại hai hạng người: tốt và xấu. Thông thường người ta đánh TN26-A145
Trong xã hội chúng ta sống luôn tồn tại hai hạng người: tốt và xấu. Thông thường người ta đánh giá kẻ tốt người xấu bằng cái nhìn từ bên ngoài. Nhưng thực tế, cái nhìn từ bên ngoài thì hay sai lầm.
Bởi vì, rất nhiều người bề ngoài có vẻ tốt lành, thánh thiện nhưng bên trong lại có tâm địa xấu xa: “Bề ngoài thớt thớt nói cười, trong lòng nham hiểm giết người không dao” (Truyện kiều) hoặc “Khẩu phật, tâm xà” (Tục ngữ). Ngược lại, có những người bề ngoài xem ra xấu xa nhưng cái tâm bên trong lại hết sức trong sáng, tốt lành. Vì thế, người ta mới nói “con người nhìn mặt, Thiên Chúa nhìn lòng”(x. 1Sm 16,7). Hay nói cách khác, chỉ có Thiên Chúa mới biết chắc chắn ai là người tốt và ai là kẻ xấu.
Đoạn Tin Mừng hôm, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thế nào là người con tốt, thế nào là người con xấu?
Người con tốt là người con làm theo ý của cha mình chứ không phải bằng lời nói suông. Chúng ta thấy hình ảnh này nơi người con thứ nhất. Lúc đầu nó chống lại lệnh của Cha mình: “Thưa Cha, con không đi”, nhưng sau đó nó hối hận, nên nó thay đổi thái độ và nó đi làm. Nó là người con tốt. Người con này tượng trưng cho dân ngoại: Tuy ban đầu họ từ chối ơn cứu độ, nhưng nhờ lời rao giảng của Đức Giêsu họ đã tin theo. Người con này cũng tượng trưng cho những người thu thuế, các cô gái điếm và những kẻ tội lỗi khác: Đây là hạng người bị dân Do thái khinh miệt, bị loại ra khỏi cộng đồng xã hội, nhưng khi Đức Giêsu rao giảng, họ đã lắng nghe, thành tâm sám hối và tin nhận đi theo phục vụ Đức Giêsu. Họ chính là những người làm theo ý muốn của Thiên Chúa.
Người con xấu là người con không làm theo ý cha mình mà chỉ bằng lời nói suông. Chúng ta thấy hình ảnh này nơi người con thứ hai. Lúc đầu nó đã mau mắn vâng nghe lời cha: “Thưa Cha, con đi,” nhưng sau đó nó lại không đi làm. Nó là người con xấu. Người con này tượng trưng cho các Kỳ mục và Thượng Tế: Họ thường tự hào mình là dân riêng Chúa chọn, là con cái Abraham, là những người tuân giữ luật Môisê một cách tỉ mỉ; họ mau mắn thưa “xin vâng” nhưng trong thực tế họ nói mà không làm; họ bắt kẻ khác tuân giữ luật nhưng chính họ lại không tuân giữ; họ chất lên vai dân chúng những gánh nặng mà chính họ lại không thể mang nổi; họ “giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế “(x. Mt 23,27). Đặc biệt, khi Đức Giêsu đến, họ không tin nhận và thực hành giáo huấn của Ngài. Họ đúng là những người nói một đàng làm một nẻo. Họ là những người con xấu.
Như vậy, để đánh giá một người tốt hay xấu, người ta không dựa vào lời nói suông mà dựa vào hành động. Khi Đức Giêsu hỏi những người Do thái: “Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?” và chính họ đã trả lời: “Người con thứ nhất”. Vì thế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng những cô gái điếm và những người thu thuế sẽ được vào nước Thiên Chúa trước các Kỳ mục và Thượng tế. Vì sao? “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài”(x. Mt 28, 31-32).
Tóm lại, lời nói không quan trọng bằng việc làm, người tốt hay xấu là ở tại việc làm chứ không phải ở lời nói suông. Nhưng thời gian có thể giúp con người thay đổi: Từ lời nói tới việc làm, từ người xấu trở thành người tốt, người tốt trở thành người tốt hơn và ngược lại người tốt cũng có thể trở thành người xấu. Bài đọc I, tiên tri Êdêkiel chứng minh cho chúng ta thấy điều đó: Thứ nhất, kẻ tốt có thể trở thành người xấu, đó là “khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết” (x. Ed 18,26). Thứ hai, kẻ xấu có thể trở thành người tốt: đó là “khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết” (x. Ed 18,27-28).
Nhưng khi thời gian chấp dứt, thì tốt – xấu không thể thay đổi nữa. Đó là thời gian chung thẩm, khi Con Người ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Ngài sẽ phân biệt kẻ dữ người lành, tách biệt chiên với dê. Lúc đó, người lành sẽ được vào Thiên đàng hưởng hạnh phúc muôn thuở, còn kẻ dữ phải sa Hỏa ngục đời đời, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng (x. Mt 25,31-46).
Chính vì thế, chúng ta hãy quyết tâm thực hành những điều sau đây:
Thứ nhất, nếu nhận thấy mình đang ở trong tình trạng tốt: Hãy cảm tạ Chúa. Hãy giữ vững tình trạng đó bằng cách gắn bó với Chúa trong đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, làm việc bác ái. Hãy cẩn thận với các chước cám dỗ: Ma quỷ, thế gian, xác thịt. Hãy nhớ lời khuyên của Thánh Phaolô rằng: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12).
Thứ hai, nếu nhận thấy mình đang ở trong tình trạng tội lỗi, xấu xa: Hãy khiêm tốn nhận ra tội lỗi của mình, thống hối ăn năn, xưng tội và quyết tâm thay đổi đời sống để trở nên tốt hơn. Tin mừng để lại cho chúng ta nhiều mẫu gương đã biết thay đổi đời sống từ xấu sang tốt, từ tội lỗi trở thành thánh thiện: Mathêu; Giakêu, Maria Mađalêna, người phụ nữ ngoại tình, đứa con hoang đàng và nhiều kẻ tội lỗi khác.
Thứ ba, nếu nhận thấy mình không tốt cũng không xấu, nghĩa là có thái độ sống đạo lưng chừng: Hãy có gắng thay đổi thái độ sống, vì thái độ sống đạo lưng chừng này đã bị Lời Chúa lên án: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (x. Kh 3,15). Tại sao Chúa lại ghét thái độ sống đạo lưng chừng như vậy? Vì sống đạo lưng chừng là đi ngược lại với Tin mừng. Chúa không chỉ muốn chúng ta tránh xa tội lỗi, nhất là tội trọng mà Ngài còn muốn chúng ta phải có lòng kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai lỗi nơi mình để ăn năn thống hối để trở nên người hoàn thiện một ngày một hơn. Amen.
-------------------------------
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
(Dụ ngôn hai người con đi làm vườn nho)
Trong kho tàng khôn ngoan La tinh, có một câu ngạn ngữ như sau: Nọc độc ở phía đuôi (Venenum TN26-A146
Trong kho tàng khôn ngoan La tinh, có một câu ngạn ngữ như sau: Nọc độc ở phía đuôi (Venenum in cauda). Câu này nếu hiểu sát nghĩa đen, thì chỉ trúng cho một số con vật, như bọ cạp, như con ong: nọc ở phía đuôi. Con rắn nọc độc không ở đuôi. Thằn lằn cụt đuôi vẫn sống và mọc đuôi khác. Vì thế nọc ở phía đuôi, không thể chỉ hiểu theo nghĩa đen mà phải hiểu theo nghĩa bóng mới đúng. Nọc: phần chính yếu, sự sống … mạch máu – nằm ở đuôi: phần cuối, phần kết.
Trong nghệ thuật kể chuyện đặc biệt chuyện vui – câu kết luôn là câu quan trọng. Nhờ nó mà ta nắm bắt được những tình tiết trong lúc kể chuyện.
Nhiều khi xem một vở kịch, một cuốn phim… ta nóng lòng muốn xem: để xem coi kết thúc ra sao. Chính cái kết thúc = phần cuối, cái đuôi: giúp ta hiểu được tại sao lại có cảnh này, người kia xuất hiện…Ta xem kịch, xem phim, không biết tại sao ông khách lạ kia lại quí mến người con gái của bà góa nọ như thế. Cuối phim, thì ra ông là bố ruột của cô.
Bài Phúc âm hôm nay nói về dụ ngôn người cha có 2 người con. Xét về mặt tâm lý, cả hai người con đều là người hay thay đổi. Trước lời mời gọi của người cha, “hôm nay, con hãy đi làm vườn nho cho cha”
- Người thứ nhất nói: con không đi – sau đó đổi ý – đi
- Người thứ hai nói: con đi – sau đó đổi ý – không đi.
Cả hai người đều thay đổi, nhưng quan trọng là phần cuối của đổi thay.
Người thứ nhất được khen vì kết bằng đi. từ không đi–đến đi
Người thứ hai bị chê vì kết bằng không đi. Từ đi – đến không đi.
Vậy chủ điểm mà chúng ta đang tìm hiểu đó là: quan trọng là phần cuối. Đặc biệt là cuối cuộc đời. Nọc nằm ở phía đuôi. (cuối ngày, cuối giờ, cuối năm, cuối đời…)
Cách đây khoảng ba chục năm, khi việc phong thánh cho 117 vị tử đạo tại Việt Nam đang hồi gay go căng thẳng. Lúc đó ở Hà Nội, Nhà Nước đã chuẩn bị sẵn một hồ sơ về một số vị tử đạo có tì vết. Tì vết về đời sống luân lý, hoặc tì vết về đời sống chính trị: như tham gia vào loạn quân, như đi với Pháp… Hay như thánh Gẫm có hai bà vợ… Có một vị chức sắc cao cấp trong Giáo hội Việt Nam đọc được những tài liệu đó, cảm thấy e ngại, nên muốn đề nghị HĐGM hoãn ngày phong thánh để duyệt xét lại …
ĐGM Nha trang (ĐGM Hòa) lúc đó đang ở Hà Nội cũng được thông báo cho biết có những hồ sơ như vậy, với một thách thức ngầm: coi chừng, lộn xộn, chúng tôi cho công bố hồ sơ bê bối đó. (Ở đây chúng ta không xét mức độ thật hư của các hồ sơ đó như thế nào, nó đúng hay sai, đúng bao nhiêu, sai bao lăm). Cái hay mà chúng ta muốn nhắc lại đây là câu trả lời của ĐGM Nguyễn văn Hòa. Các ông cứ cho công bố: Càng công bố càng làm nổi hơn cái chết vì đạo của vị thánh. Họ như vậy đó mà họ vẫn chọn cái chết như thế đó. Chúng tôi căn cứ vào cái chết để phong thánh cho họ. Ngày chết là ngày sinh trên trời của của mỗi vị thánh.
Một quá khứ đen tối không luôn luôn làm giảm giá cuộc đời của một vĩ nhân. Abraham Lincohn tổng thống 16 của Hoa Kỳ có một quá khứ thật ảm đạm, cùng cực, nghèo túng, nhưng đã vươn lên thành người có công thống nhất Nam Bắc nước Mỹ. Có người từng đi chăn bò, chăn trâu, ở đợ, nhưng sau làm giám đốc, chủ tịch… Nhưng, ngược lại thì không được: đã từng làm giám đốc, chủ tịch, nay đi chăn bò, chăn trâu…! Cái quan yếu là ở phần cuối, ở về sau. “Nọc ở phía đuôi”.
Cũng cách đây trên ba chục năm, khi đi ra chợ Nha Trang, một linh mục được một người bán hàng ở chợ Đầm mách bảo: ở Nha trang đang cho chiếu một bộ phim bài bác đạo ghê lắm! Chúng tôi đi xem, coi nó bài bác đến mức nào. Thật ra, nếu ai hiểu cốt truyện thì bộ phim không bài bác Đạo đâu, mà có khi trái lại nữa. Vì đạo diễn là Risac Be, người Ba Lan, công giáo. Bộ phim dựa trên tiểu thuyết của Anatole France. Tiểu thuyết lại dựa trên một câu chuyện có lẽ có thực, xảy ra vào thế kỷ 4-5. Bộ phim mang tựa đề: Thais.
Thais là một vũ nữ sống ở Ai Cập, nổi tiếng phóng đãng, xa hoa. Và vì là phim ảnh, nên cảnh ăn chơi sa đọa trụy lạc của lớp quí tộc thời Ai Cập cổ được phóng đại và trình diễn lên màn hình trong những căn phòng có bóng cây thánh giá. Đó là điều mà người bình dân nói là bôi bác đạo. Thật ra không phải thế. Nhà ẩn tu Papnuc (Pathnutius) khi nghe tin về người vũ nữ thì đã cầu xin Chúa soi sáng, giúp sức, quyết định đến tìm Thais để đưa nàng ra khỏi nơi ăn chơi sa đoạ và trở về với Chúa. Sau khi cải trang, vị ẩn tu đến nhà nàng và xin được gặp riêng nàng ở nơi kín đáo. Nhưng bởi vị ẩn tu luôn nói rằng nơi này chưa kín đáo đủ, nên bực mình, Thais nói: Chắc chắn không ai có thể nhìn thấy chúng ta nơi đây, nhưng nếu ông muốn tránh cái nhìn của Thiên Chúa, thì dù ông trốn bất cứ nơi nào kín đáo nhất, ông cũng không tránh được.
Khi nghe vậy, vị ẩn tu vội nói: “Cô cũng biết có vị Chúa ư?”
- Có lẽ thế, và tôi cũng biết có một thiên đàng dành cho người tốt và một địa ngục cho ác nhân.
- Vậy sao cô có thể sống cuộc đời tội lỗi như thế trước một vị Chúa luôn trông thấy cô?
Những lời này xoáy vào lòng Thais - nàng sấp mình xuống chân người của Thiên Chúa. Sau đó nàng đi theo ẩn sĩ Papnuc để tìm nơi tu trì nhiệm nhặt và rồi cuối cùng chết như một vị thánh.
Còn ẩn tu Papnuc, một tu sĩ khổ hạnh, qua việc đi cảm hoá người, hiểu được phần nào hương vị cay đắng ngọt ngào của tình yêu và cuối cùng, kết thúc của bộ phim: ẩn sĩ Papnuc trở thành kẻ phản đạo, không còn tin Chúa.
Qua bộ phim và qua tiểu thuyết, ta thấy thật dịu ngọt và cay đắng. Dịu ngọt vì khúc cuối, cái đuôi của một vũ nữ trước kia xa hoa phóng đãng nay được chết lành khi miệng luôn kêu tên Chúa lúc lìa đời. Còn cay đắng, vì vị ẩn tu suốt đời khổ hạnh, tìm cách cứu người – thì lại có phần cuối được bộ phim diễn tả bằng cảnh hoá thành con quỉ dơi đi xơi máu người.
Câu nói của Chúa Giêsu hôm nay với các trưởng lão Biệt phái thật thấm thía: “Thật, tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông” vì họ đã tin, vì phần đuôi, phần cuối của họ: họ hối cải. Còn vị ẩn tu kia khởi đầu và phần thân là đẹp nhưng kết thúc là bi thương, trở thành con quỉ dơi hút máu. Vị tông đồ Dân ngoại Phaolô đã có lần thốt lên: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại” (1Cr 9:27).
Vậy thì ta có thể cùng với đức cha Bùi Tuần thưa lên với Chúa lời nguyện này:
Lạy Chúa, vì con không biết – và thực ra Chúa cũng không muốn cho con biết – đâu là phần cuối của cuộc sống con. Nó có thể tới bất cứ lúc nào, nên con phải ở trong tư thế luôn nói tiếng “Có” với Chúa, luôn đi làm vườn nho của Ngài. Lạy Chúa, xin cho con, xin cho chúng con, đừng xét đoán ai trước thời buổi, vì nào ai biết được phần cuối trước khi Chúa đến. Xin cho con, xin cho chúng con khi Chúa đến, con vẫn còn tình trạng nói tiếng “Có”. Có đây tức là tin. Con tin Chúa. Amen.
-------------------------------
Khi Tom Mason về hưu, ông đã mua một thửa đất thật rộng lớn ở miền quê với ý định biến nó TN26-A147
Khi Tom Mason về hưu, ông đã mua một thửa đất thật rộng lớn ở miền quê với ý định biến nó thành một vườn hoa mênh mông. Chàng thanh niên thứ nhất đến xin việc, ông hỏi: "Anh có biết nghề làm vườn không?" Chàng ta tự thú mình biết rất ít về phương diện này. Ông bảo anh: "Anh thấy những bông hoa nhỏ đó chứ? Anh hãy dập chúng xuống đất cho tôi". Chàng thanh niên liền phản đối: "Tôi không biết cách làm vườn thật, nhưng tôi không biết đó là cách đối xử với các loại hoa nhỏ như thế". Nói rồi, chàng từ giã ra đi. Sáng hôm sau, một chàng thanh niên khác tới xin việc, Tom Mason lại cũng hỏi chàng có biết nghề làm vườn không và được chàng trả lời: "Không, tôi không biết nghề làm vườn, nhưng tôi sẽ rán học". Tom Mason nói tiếp: "Vậy anh dập những bông hoa nhỏ này xuống đất cho tôi". Chàng thanh niên vâng lời làm theo ý chủ. Thấy vậy, Tom Mason nói với chàng: "Tôi đoán anh muốn biết tại sao tôi lại bảo anh dập những bông hoa đó xuống đất". Chàng thanh niên đáp lại: "Tôi không biết tại sao, nhưng tôi nghĩ ông có lý do thì mới bảo tôi làm thế".
I. Ý NGHĨA DỤ NGÔN TRONG TIN MỪNG
Chúa Kitô thường dùng những hiện tượng, những sự kiện xảy ra trong đời sống hằng ngày hoặc dùng những dụ ngôn để dạy cho nhân loại những bài học luân lý hợp với giáo lý Ơn Cứu Độ của Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã nêu một dụ ngôn, một người cha sai hai người con đi làm vườn nho, ngụ ý nói tới hai loại người tương phản xung khắc nhau lúc đương thời. Hai loại người đó là:
1. Người phần thu: Những người thu thuế làm việc cho chính quyền đô hộ, bị người Do Thái đương thời liệt vào hạng người tội lỗi đáng khinh bỉ, là loại mọt dân, tay sai ngoại bang; vì lẽ, họ không trung thành với luật Maisen và những luật lệ lưu truyền của tiền nhân.
2. Người pharisiêu: Pharisiêu là một giáo phái Do Thái, được tôn trọng là bậc thông thái, là hàng đạo đức, là bậc quí phái, là thầy dạy của dân chúng... Họ chủ trương cặn kẽ tuân giữ luật Maisen và các lưu truyền của tiền nhân theo nghĩa đen của từ ngữ. Loại người này thường kiêu căng, lên mặt dạy đời. Họ hay tìm cách bắt bẻ lời giảng dạy, cách cư xử và xuyên tạc để giảm uy tín các phép lạ của Chúa Kitô đã thực hiện trong thời Người rao giảng Tin Mừng Cứu Độ. Họ chỉ rình mò để tìm cớ tiêu diệt Chúa, không tiếp nhận giáo lý của Người.
Chính Chúa đã dùng nhiều dụ ngôn để vạch trần âm mưu và cảnh tỉnh lương tâm chai đá của họ bằng dụ ngôn hôm nay, cũng như dụ ngôn hai người lên Đền Thờ cầu nguyện... Chúa đã lên án tội kiêu căng của bọn người Pharisêu tự cao tự đại và khen ngợi lòng sám hối của người Phần Thu biết khiêm tốn thú nhận tội lỗi của mình và thực tâm cải thiện đời sống.
II. CHÚA KITÔ, GƯƠNG TUÂN PHỤC
Dụ ngôn hôm nay tả 2 thái độ của 2 người con khi được người cha sai đi làm vườn nho.
1. Người con thứ nhất: Được lệnh cha truyền, chàng ta vùng vằng trả lời: "Con không đi", nhưng rồi chàng ta nghĩ lại và hối hận đi làm theo ý cha. Đó là hình ảnh những người Phần Thu hay thu thuế thường bị liệt vào hàng tội nhân, đã không tuân giữ luật Maisen và các lưu truyền của tiền nhân, nhưng họ đã thực lòng tiếp nhận giáo lý Chúa Kitô và tin tưởng tôn thờ phụng sự Ngài.
2. Người con thứ hai: Khi được lệnh cha truyền, chàng ta vui vẻ trả lời: "Con xin đi", nhưng rồi lại không đi, chàng ta chỉ nói cho qua lần và coi thường lệnh truyền của cha. Đó là hình ảnh những người Pharisiêu tự cao tự đại, hãnh diện vì mình là những người thông thái đạo đức, trung thành tuân giữ luật Maisen và các lưu truyền của tiền nhân. Chính luật Maisen lại chỉ cho họ nhận biết Chúa Kitô, nhưng nhất định họ không tiếp nhận giáo lý trong những lời giáo huấn của Ngài, không tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế Thiên Chúa sai đến.
3. Người con thứ ba: Dụ ngôn hôm nay đề cập đến hai người con, tuy người con thứ nhất chối không đi, sau lại hối hận ra đi làm theo ý cha; người con thứ hai vui vẻ chấp nhận, nhưng lại không thèm làm... Chúng ta lại có hình ảnh một người con thứ ba hoàn hảo, Ngài không những vui vẻ sung sướng chấp nhận mà đã thực hiện trọn hảo ý Cha Ngài muốn, để làm vui lòng Người. Đó là chính Chúa Kitô, Đấng đã nêu lên dụ ngôn này và kêu gọi chúng ta noi theo bắt chước mẫu gương Ngài đã để lại.
Bài Thánh Thư, Thánh Phaolô đã nhắc lại: Khi tới trần gian, Chúa Kitô đã thưa với Cha Ngài: "Lạy Cha, này Con xin đến để chu toàn thánh ý Cha" (Heb 10:7). Thánh nhân còn quả quyết: "Người đã tự hạ vâng lời và vâng lời cho đến chết trên Thập Giá" (Phil 2:8). Chính vì lòng ngoan thảo vâng phục cao cả đó, Chúa Cha đã được thỏa lòng khen ngợi: "Con là Con Cha yêu dấu, Con hằng làm vui thỏa lòng Cha" (Mt 7:5). Đó chính là mẫu gương sáng ngời chúng ta phải noi theo bắt chước, khi Chúa bày tỏ thánh ý Người cho chúng ta.
III. BỔN PHẬN CỦA CỦA CON CÁI CHÚA
Khi lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, được trở nên con cái Chúa, chúng ta đã long trọng tuyên thệ từ bỏ ma quỉ, từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những mơn trớn của xác thịt và quyến dũ của thế gian. Tin nhận Chúa và thực thi thánh ý Người. Thánh ý Chúa được thể hiện nơi những giáo lý Tin Mừng, nơi những giáo huấn và lề luật tốt lành của Giáo Hội, nơi tiếng lương tâm chân chính đã được Chúa phú bẩm nơi mỗi người chúng ta. Một đôi khi, thánh ý đó trái với bản năng tự nhiên của con người phàm tục, khiến chúng ta khó chấp nhận, nhưng thánh ý đó lại có sức giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của thần dữ hỏa ngục, khỏi những ràng buộc của tội lỗi đam mê dục vọng và gông cùm của thú tính đê hèn; lại ban cho tâm hồn chúng ta được hưởng sự bình an chân thật, nhất là ban cho chúng ta sức mạnh chiến thắng được những khó khăn, giúp chúng ta dễ dàng đạt tới Ơn Cứu Độ và Đích Thánh Thiện của con cái Chúa, là chính Hạnh Phúc Vĩnh Cửu đời sau Chúa dành cho con cái Chúa trên Quê Trời.
Kết Luận
Vậy chúng ta có mau mắn ngoan ngoãn, với hết tình con ngoan thảo sẵn sàng vui sướng chấp nhận và thực thi thánh ý Chúa qua các giáo huấn và tinh thần của Tin Mừng, lời dạy dỗ của vị Đại Diện Chúa, tiếng lương tâm chân chính đã được Chúa khắc ghi trong tâm hồn chúng ta không?
Để chúng ta cũng được sung sướng nghe lời Chúa phán với chúng ta như đã tuyên dương Chúa Kitô, Con Một Chí Ái của Người: "Con là Con rất yêu dấu của Cha, Con hằng làm vui thỏa lòng Cha" (Mt 7:5).
Vậy con hãy tới lãnh phần thưởng Cha dành cho con và vui hưởng hạnh phúc với Cha trong vinh quang vĩnh cửu Quê Trời.
-------------------------------
Chủ đề: "Khi nào chúng ta thấy khó lòng tha thứ cho kẻ khác thì chúng ta nên quay về Chúa Giêsu TN26-A148
Chủ đề: "Khi nào chúng ta thấy khó lòng tha thứ cho kẻ khác thì chúng ta nên quay về Chúa Giêsu, cầu xin Ngài giúp đỡ".
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa tiệm đồng hồ. Khi bọn Ðức Quốc Xã xâm chiếm Hoà Lan, gia đình cô bắt đầu giúp đỡ dân Do Thái đang bị truy nã có hệ thống và bị đem đi đến các trại tử thần. Cuối cùng có kẻ đã tố cáo gia đình cô. Thế là gia đình cô bị gởi đến trại tập trung. Corrie và em gái cô là Betsy bị gởi đến trại Ravens ô nhục. Cả gia đình Corrien chỉ mỗi mình cô còn sống sót sau cơn thử thách. Sau chiến tranh, cô đi du lịch khắp Aâu Châu rao giảng về sự tha thứ và hoà giải. Sau một cuộc nói chuyện ở Munich thuộc Ðức, một người đàn ông đã tiến đến cám ơn cô về bài nói chuyện. Corrie không thể nào tin nổi vào mắt mình. Gã này chính là một trong những tên lính gác Quốc xã từng có nhiệm vụ coi sóc phòng tắm vòi sen của phụ nữ tại trại Ravensbruck. Gã ta tiến tới tính bắt tay Corrie. Corrie như đông cứng người lại không thể nào giơ tay ra bắt được. Sự ghê tởm trại tập trung kèm theo cái chết của người em gái chợt trở lại trong ký ức của cô. Lòng cô tràn ngập nỗi oán hờn và ghê tởm. Corrie không thể tin được cách trả lời của cô. Chính cô vừa mới giảng một bài thật cảm động về lòng tha thứ, thế mà bây giờ cô lại không thể nào tha thứ được. Cô bị xúc động quá đến nỗi không thể nào bắt tay gã lính gác nọ được.
Thỉnh thoảng trong cuộc sống, tất cả chúng ta đã từng cảm nghiệm đôi điều tương tự như Corrie. Chúng ta cảm thấy mình không thể nào tha thứ cho một kẻ nào đó. Chúng ta thấy tình cảm mình như bị chận đứng lại đối với một kẻ nào đó đã từng gây đớn đau thương tích cho chúng ta.
Ðiều này nêu ra một vấn nạn xốn xang đau đớn. Làm sao chúng ta có thể xử lý một vấn đề như thế? Chúng ta phải làm gì đây khi không thể nào tha thứ cho một ai đó? Làm thế nào để thoát ra khỏi sự bế tắc tình cảm đang bít kín mọi nỗ lực tốt nhất của chúng ta nhằm để tha thứ? Làm thế nào thi hành giáo huấn về sự tha thứ mà Chúa Giêsu đưa ra trong phúc âm hôm nay? Thái độ của chúng ta phải như thế nào trước những lời cảnh cáo trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Lời cảnh cáo đó là: nếu chúng ta từ chối không xót thương anh chị em mình, thì đừng mong Thiên Chúa sẽ thương xót chúng ta.
Hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta về Corrie. Hãy xem cô ta xử lý trường hợp của mình thế nào. Trong lúc người cô như bị đông lạnh co cứng. Corrie liền im lặng cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con không thể tha thứ cho người này. Xin ban cho con sự tha thứ của Chúa". Ngay lúc đó, Corrie nói hình như có một sức mạnh của ai khác đẩy tới, tay cô bỗng nắm lấy tay gã lính gác trong niềm tha thứ thực sự. Và ngay lúc đó cô chợt khám phá ra một chân lý vĩ đại. Không phải dựa trên sự tha thứ của riêng chúng ta mà thế giới quanh ta được chữa lành mà chính là dựa trên sự tha thứ của Chúa Giêsu. Khi truyền bảo chúng ta yêu kẻ thù, Chúa Giêsu cũng trao cho chúng ta ân sủng cần thiết kèm theo để tha thứ cho họ. Như thế, phương cách thứ nhất để xử lý vấn đề không thể thứ tha cho một ai đó là cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ. Phương cách thứ hai để xử lý vấn đề trên được nhắc đến trong bài phúc âm hôm nay, đó là làm điều mà viên chức nọ đã không làm, là tự mình ngồi xuống trước mặt Chúa Giêsu và nhớ lại Chúa đã tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu lần. Ngài đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn Ngài yêu cầu chúng ta tha thứ cho kẻ khác. Ðiều nhỏ nhất chúng ta có thể đáp lại là giơ tay ra tha thứ cho anh em mình. Và phương cách thứ ba để xử lý vấn đề trên là cố gắng nhìn kẻ thù mình trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ, tức là nhìn họ không phải như kẻ thù mà là những con người đang đau khổ giống như chúng ta. Tôi xin cắt nghĩa rõ hơn điều tôi muốn nói:
Trong cuốn tiểu thuyết nhan đề "Mặt trận phía tây hoàn toàn yên tĩnh" (All quite on the Westem) có một cảnh đầy cảm động. Lúc đó cuộc chiến đang xảy ra dữ dội giữa đám lính Pháp và Ðức. Một chú lính Ðức trẻ nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên một người lính Pháp cũng nhảy vào cùng hầm ấy để tránh đạn pháo. Trước khi người lính Pháp kịp ra tay, thì chú lính Ðức đã đâm ngay người ấy vài nhát. Tuy nhiên người lính Pháp không chết liền mà nằm thoi thóp ra đó. Chàng lính Ðức, trẻ măng như một chú bé, chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp. Chú ta thấy miệng người lính Pháp này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta bèn động lòng thương và rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Cuối cùng khi người lính thù này qua đời, chú lính trẻ người Ðức cảm thấy ân hận sâu xa. Ðây là người đầu tiên bị chú ta giết. Chú thắc mắc không hiểu tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú ta liền kính cẩn rút ra xem chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một đứa bé gái.
Chú lính Ðức vô cùng cảm động. Bỗng dưng, chú nhận thấy người lính đã chết không phải là kẻ thù, mà là một người cha, người chồng -- tức là một người biết yêu và được yêu y hệt như chú vậy. Ðộng lòng thương xót, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ ông ta.
Ðiều gì đã xảy ra trong chiếc hầm đạn ấy? Phải chăng chú lính Ðức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại và chú tự bắt mình phải yêu thương người lính vừa mới chết? Không phải thế đâu!
Sự việc xảy ra như thế này: chú lính Ðức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Và chính sự thay đổi cách nhìn này là đã thay đổi thái độ của chú đối với người ấy.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các kẻ hành hình Ngài bằng một ánh sáng khác hẳn chúng ta nhìn nhiều. Ngài nhìn vượt lên trên vẻ bề ngoài của họ. Ngài nhìn ra bản chất thực sự của họ là những đứa con lạc đường của Cha Ngài.
Nếu muốn tha thứ cho kẻ thù, chúng ta phải bắt đầu nhìn thấy họ bằng một ánh sáng mới. Chúng ta phải bắt đầu nhìn họ giống như Chúa Giêsu nhìn thấy họ.
Tóm lại để xử lý cho trường hợp không thể tha thứ cho kẻ thù.
Thứ nhất chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ giống như Corrie đã làm.
Thứ hai, hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn là Ngài đang đòi chúng ta tha thứ.
Thứ ba, hãy cố gắng nhìn kẻ thù mình theo cách Chúa Giêsu nhìn quân thù Ngài, nghĩa là xem họ như những anh em đang lầm đường lạc lối.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta khám phá lại tương giao của mình với kẻ khác. Ðặc biệt với các thành viên trong gia đình mình. Bài phúc âm ấy mời gọi chúng ta tự vấn xem tương giao nào trong số này cần được cải thiện đồng thời mời gọi chúng ta khởi sự tiến trình chữa lành tương giao nào bị trục trặc.
Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh cầu của thánh Phanxicô:
"Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem hy vọng vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tăm tối, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an,
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ.
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".
----------------------------------
Mat-thêu (Mt 21, 28-32)
Tin mừng hôm nay thuật lại rằng: Khi người cha kêu mời đứa con thứ nhất đi làm vườn nho, ban TN26-A149
Tin mừng hôm nay thuật lại rằng: Khi người cha kêu mời đứa con thứ nhất đi làm vườn nho, ban đầu nó ương ngạnh từ chối, nhưng rồi nhìn lại thái độ và cách cư xử lầm lạc của mình, nó đâm ra hối hận và quyết định đi làm.
Trong khi đó, đứa con thứ hai thì mau mắn trả lời với cha là nó sẽ đi làm, nhưng mà chẳng đi. Thật đáng trách.
Như thế, những ai biết nhìn lại mình, thấy được những lầm lỗi của mình để hoán cải như người con thứ nhất trong dụ ngôn Tin mừng hôm nay là người đáng được tuyên dương.
Khi phạm phải sai lầm, bạn cũng như tôi, chúng ta xử sự thế nào?
- Một là không chấp nhận mình sai.
Có người làm nhiều điều sai trái, nhưng không thấy mình sai mà cứ khăng khăng cho rằng mình đúng. Những người như thế không thể sửa lỗi và phục thiện được.
- Hai là dù biết mình sai nhưng không muốn sửa.
Chẳng hạn nhiều người thừa biết rượu chè be bét là thói xấu tai hại nhưng không muốn bỏ, chẳng muốn chừa. Họ chủ trương rằng:
“Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thời hư vậy, say thời cứ say” (Tản Đà).
Thế là hạng người này không thể nào sửa lỗi, phục thiện được.
- Ba là muốn sửa chữa những sai phạm của mình nhưng không đủ nghị lực nên không sửa được.
- Bốn là quyết tâm sửa mình và có đủ nghị lực để hoàn thiện bản thân. Đây là lối xử sự tốt lành, đáng khâm phục.
Vào ngày Mồng Một tết, khi đến thăm một giáo dân trong xứ đạo đã ghiền thuốc lá lâu năm, anh ta khoe với tôi “chiến công” oanh liệt của mình. Anh cầm bao thuốc lá trên tay và nói:
“Con ghiền thuốc lá đã lâu. Con muốn bỏ nhưng không bỏ được. Con hút nó nhưng nó cũng “hút” con. Sức hút của nó mạnh đến nỗi con tưởng mình không thể nào thoát khỏi nó được. Thế rồi, cách đây một năm, con mua gói thuốc lá này và “thách thức” nó rằng: “Để xem mầy thắng tao hay tao thắng mầy? Không lẽ tao lại thua mầy ư?”
Và như cha thấy đây, bao thuốc đó vẫn còn nguyên vẹn không hao một điếu cho đến hôm nay. Con đã thắng!”
Có quyết tâm và nghị lực phi thường để chiến thắng như người đàn ông này không phải là chuyện dễ.
Về phần mình, chúng ta cần xét lại xem mình thuộc hạng nào trong bốn hạng người trên đây?
Cải thiện nội tâm là điều rất cần thiết
Khi biết mặt mày lem luốc, dơ bẩn, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa sạch sẽ ngay.
Khi thấy áo quần bẩn thỉu hôi hám, chúng ta thay đổi y phục liền.
Khi biết thân thể mình dơ bẩn, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa tức khắc.
Khi diện mạo hay vóc dáng của mình không được hài hoà xinh đẹp, nhiều người sẵn sàng bỏ ra tiền tỷ, đến các thẩm mỹ viện, để cải thiện vóc dáng, để làm tăng vẻ đẹp của bản thân.
Vậy mà khi tâm hồn trở nên xấu xa vì tội lỗi, thói hư và tật xấu, nhiều người vẫn cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác cho đến lúc xuống mồ!
Tại sao người ta hành xử như thế?
Vì nhiều người nghĩ rằng những dơ bẩn, những xấu xa trong tâm hồn không quan trọng, chỉ cần chăm sóc cái vỏ bên ngoài cho dễ coi là được.
Thực ra, những vết dơ trên thân thể không làm giảm sút giá trị con người bao nhiêu, chỉ có những xấu xa đê tiện trong nội tâm con người mới thực sự làm cho người ta ra nhơ uế và có sức tàn phá phẩm giá của của ta, làm mất danh thơm tiếng tốt của ta… Đó là những thứ đáng sợ, đáng ghét và đáng diệt trừ.
Chính vì thế, ăn năn, phục thiện để xoá sạch những xấu xa đê tiện trong tâm hồn, để làm cho tâm hồn nên đạo đức, thanh khiết, cao cả… là việc làm hết sức quan trọng.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin giúp chúng con hiểu rằng nét đẹp của tâm hồn quan trọng hơn vẻ đẹp thể xác và chỉ có những điều xấu xa đê tiện trong nội tâm con người mới thực sự làm cho người ta ra nhơ uế. Nhờ đó, chúng con sẽ quyết tâm rửa sạch tâm hồn, cải thiện nếp sống, để ngày càng trở nên người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
------------------------------------------
(Mt 21, 28- 32)
CÂU HỎI GỢI Ý
Hãy so sánh sự đối nghịch giữa “nói” và "làm" ở đây với câu kết luận của Diễn từ trên núi (7, 21) TN26-A150
1. Hãy so sánh sự đối nghịch giữa “nói” và "làm" ở đây với câu kết luận của Diễn từ trên núi (7, 21) và lời xác quyết ở 23, 3. Phải chăng đó là một chủ đề quan trọng trong Mt?
2. Ai là người đối thoại của Chúa Giêsu: đám đồng? Nhóm Biệt phái? Các môn đồ?
3. Đâu là điểm tương tự giữa dụ ngôn này và dụ ngôn đứa con hoang đàng? (Lc 15, 11 -32).
4. Chúa Giêsu muốn nói gì khi khẳng định quân thu thuế và lũ đàng điếm "qua trước các ông" mà vào Nước Thiên Chúa? Phải chăng đây chỉ là một vấn đề "trước" về thời gian, trước về thứ hạng?
5. Các người đối thoại của Chúa Giêsu đã nói vâng với Thiên Chúa theo nghĩa nào, và nói không theo nghĩa nào?
6. "Vì Gioan đến với các ông theo đàng công chính": câu này có nghĩa là gì?
1. Mt đã tập trung trong phần này (ch.19-23) ba dụ ngôn nói lên sự đoạn tuyệt, phân cách: hai người con (cc.28-32), thợ vườn nho sát nhân (cc.33-34), tiệc cưới (22,1- 14). Đầu bộ ba, mà có lẽ bắt nguồn từ truyền thống Aram, Mt ghi lại cơ hội nói lên chúng (21, 23-27). Đó là Chúa Giêsu đang tranh chấp với nhà chức trách Do thái tại Giêrusalem; họ đòi Người đưa ra bằng chứng về ủy nhiệm thần linh mà bấy lâu Người vẫn sách viện. Người liền lái vấn đề sang Gioan Tẩy giả: ủy nhiệm của ông từ đâu mà đến? Nếu từ Thiên Chúa, tại sao nhà chức trách Do thái không tin theo? liền đó là tới dụ ngôn ta đang nghiên cứu.
2. Chính các thính giả quy hướng dụ ngôn (cc.28-30) về lối giải thích thứ nhất (c.31). Đây là một phương sách thông dụng: người đối thoại được đưa đến chỗ vô tình bày tỏ lập trường và như vậy là tự lên án; y tán thành một dụ ngôn răn đời mà không ngờ mũi dùi của nó lại chĩa vào chính y. Các ngôn sứ đã dùng mánh lới này nhiều, chẳng hạn Natan đã khiển trách Đavít về tội ông phạm bằng cách lúc đầu nói thật bóng gió (2Sm 12). Đây đúng là một luận cứ ad hominem (luận cứ đối nhân). Lối giải thích thứ hai liên kết dụ ngôn với những gì đi trước bằng việc đề cập đến Gioan Tẩy giả; qua ông này, hầu như toàn bộ lịch sử cứu rỗi được gợi lại.
3. Dụ ngôn đưa vào sân khấu hai người con trai. Thiết tưởng cần nhấn mạnh một chút cái danh từ này (mà đúng ra nên dịch là “hai người con"). Thoạt nhìn, mối liên hệ giữa ông cha với hai đứa con thật in hệt. Vì không phải một bên là con, bên kia là tôi tớ, cũng chẳng phải một người là con thứ, một đứa là con trưởng. Hai kẻ được lệnh đi làm vườn nho đều là con hết. Nếu về phía người cha có một sự biệt đãi, thì đó chỉ là hậu quả do lối cư xử của các con ông, chứ không phải theo óc phân biệt mà ngay từ đầu hắn đã cho thấy tình yêu nơi ông có tính cách bất công, thiên vị.
Thành thử bản văn chẳng nhấn mạnh đến tính cách của hai người con và càng không nhấn mạnh đến điều chúng nói. Cái phân biệt chúng rốt cuộc chính là việc chúng sẽ làm hay không làm theo lời yêu cầu của cha. Đứa thứ hai bên ngoài trông đầy đủ đức hạnh: lịch sự đến độ khúm núm, cung kính ra vẻ đạo đức vồn vã ưng thuận quá mức độ thực hiện như lời. Còn đứa thứ nhất cứng đầu nhưng tốt lành tâm địa.
Tiếng vâng mà thực sự là không, tiếng không mà thực là vâng có lẽ làm độc giả nghĩ hai anh chàng thật bất định, ưa nghịch đời, đầy óc mâu thuẫn, nếu người ta chẳng tiết lộ vì sao tiếng không ban đầu của đứa nhất đã biến thành tiếng vâng dạ, thành một việc “thực hiện ý cha". Tính khí bất định không giải thích nổi sự chuyển hướng này, tính khí càu nhàu cũng chẳng cắt nghĩa gì hơn được. Cả hai tính khí không là chìa khóa của dụ ngôn. Nếu bảo là chìa khóa tức là cho xen vào những dữ kiện tâm lý chẳng mấy nằm trong nhãn giới Tin Mừng. Chỉ có thể giải thực.h việc thay đổi thái độ nơi người con thứ nhất bằng sự thống hối đích thực, một lòng thống hối mở được cửa nước trời lòng thống hối tạo nên niềm tin yêu.
4. Khi đã đồng ý nhìn nhận làm giá trị hơn nói, đáng ra các thính giả của Chúa Giêsu phải chấp thuận cái lý tiềm ẩn trong đó và phải bắt đầu đến lượt mình ăn năn hoán cải. Những người thu thuế và gái điếm (hạng vô luân thường đạo lý như ngày nay ta vẫn còn bảo) đã có thể sống nhiều năm xa cách Thiên Chúa. Họ đã có thể vô luân thường (vô lề luật) và vẫn còn có thể như vậy, nhưng họ không phải là không có đạo lý (đức tin). Để được cứu rỗi, họ đã chấp nhận phó thác và tín nhiệm vào một con người (Gioan Tẩy giả).
Như thế họ gần với ơn cứu rỗi hơn những Biệt phái giả hình nói vâng mà chẳng làm gì hết (x. 3, 3). Tiếng vâng của những kẻ này chỉ được cái bộ mã: một truyền thống lâu đời về sự mực thước, một sự trung tín bề ngoài không thể chối cãi nhưng lại từ chối công việc làm vườn nho, công việc lớn lao của Thiên Chúa là tin vào Chúa Giêsu Kitô. Việc họ tỉ mỉ giữ luật có lẽ sẽ làm cho họ vinh dự nếu họ ý thức mình làm là làm cho Thiên Chúa, và nếu họ không đặt tất cả tin tưởng vào chính bản thân và vào các nhân đức giả tạo của mình Họ có thể đã sống và sẽ còn sống với Lề luật, nhưng họ không có đức tin vậy.
5. Nói đúng ra, Chúa Giêsu chẳng loại bỏ sự phân biệt giữa những kẻ tuân hành và những kẻ vi phạm Lề luật. Người không chấp nhận sự buông tuồng của hạng này mà cũng chẳng lên án lòng trung tín của hạng kia. Nhưng người tỏ cho cả hai biết một con đường mới mà điều qui chiếu chủ yếu không còn là lề luật nữa. Một viễn tượng mới đã được mở ra: nó đem đến nhiều tự do hơn trước lắm yêu sách quá tỉ mỉ và ít câu thúc hơn trước một chương trình sống chỉ đè nặng và làm vấp ngã con người.
Viễn tượng mới này đòi hỏi phải tin vào sứ điệp của vị Tiền hô và do đó vào Chúa Kitô. Nó giả thiết lòng thống hối. Để vào Nước Trời, thực ra chỉ cần một điều kiện: lòng thống hối mà đức tin là một khía cạnh, cái lòng thống hối bao hàm một thái độ nội tâm sâu xa. Khi phạm tội, ta đã xây dựng lại với Thiên Chúa, bây giờ ta quay về với Ngài, với ý thức đầy đủ là ta không thể tự mình dứt bỏ được tội đã phạm, và vì thế phải trông cậy vào một Đấng khác. Các ngôn sứ đã xem đó là phương thế duy nhất tránh khỏi sự đoán phạt của Thiên Chúa, và “nhóm còn lại" chính là nhóm của những người thống hối ăn năn. Tính tự mãn của Biệt phái đã cản ngăn họ trở nên thành phần của nhóm còn lại này, vì thế họ tự đặt mình dưới án phạt của Thiên Chúa một cách tất nhiên.
6. Lòng thống hối, ơn của Thiên Chúa, một lần nữa dẫn ta về chính con người Chúa Kitô, và trong Người ta nói Amen (tiếng vâng của ta) cho vinh quang Thiên Chúa (2 Cr 1, 20). Dĩ nhiên phải mong rằng khi nghe lời yêu cầu của Chúa Cha, lập tức ta thưa vâng và đem thi hành ngay: vâng thì cho đúng là vâng vậy " (Gc 5,12). Và điều này ta có thể làm được trong Chúa Giêsu là Đấng "đã chẳng phải là vừa "vâng" vừa "không", trái lại chỉ toàn là "vâng" nơi Người " (2 Cr 1, 19 ), cái tiếng vâng của lời hứa mà Thiên Chúa không hề hối tiếc" (Rm 11, 29), nhưng cũng là tiếng vâng của con người đến để làm theo ý Đấng đã sai mình (Ga 4, 34 ; 5, 30 ; 6, 38...). Điều Chúa Giêsu yêu cầu thính giả Người đến lượt họ cũng hãy làm, là tin vào Người, người Con mà Chúa Cha đã sai đến (Ga 6, 29).
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Các ông nghĩ sao? Một người có hai con . . . ". Như ở 18, 12 và 22,42, Chúa Giêsu xin ý kiến không phải của môn đồ Người, mà là của các đối thoại viên hay địch thủ. Người này tượng trưng cho Thiên Chúa, như ta có thể diễn dịch dựa trên lời áp dụng Chúa Giêsu sẽ nói sau; hai đứa con của ông tượng trưng hai hạng làm nên dân Do thái thời đó: những "người tội lỗi” hay dửng dưng, không mấy giữ Lề luật và các qui định của giáo sĩ, và những "người công chính" hằng trung thành với tôn giáo chính thức, tức ở đây là các thủ lãnh của Israel. Hãy lưu ý là: hai hạng đều là con Thiên Chúa. Đối với cả hai, bản văn hẳn nhấn mạnh về tính chất (đạo đức, có chân lý tốt hay không), cũng như lời ăn tiếng nói của họ, mà về điều họ sắp làm hay không làm. Trên điểm này, Chúa Giêsu và đối phương người đều nhất trí với nhau (c.31b; xem thêm 23,3: các Biệt phái ngự tòa Môisen và dạy người ta làm, y như Chúa Giêsu). Ở đây cũng như mọi chỗ khác trong một, động từ làm (poiein) là căn băn.
"Hôm nay": Chữ này quan trọng chứ chẳng phải chơi; ông cha trong dụ ngôn không muốn mất giờ giả định về tâm tính, dữ kiện khác biệt của hai con mình; ông đặt cả hai đứa trước cùng các lệnh sẽ quyết định vận mệnh của chúng.
“Về sau": Không nên xem thành ngữ này là một ám chỉ đến lương dân, những kẻ vào Nước Trời sau người Do thái như một số nhà chú giải đã nghĩ. Lối giải thích gượng ép đó không ăn khớp với các hoàn cảnh mô tả trong dụ ngôn. Quả thế, người con thứ nhất trước tiên đã từ chối vâng lời, đó không phải là trường hợp của lương dân: sở dĩ họ vào muộn hơn trong Nước Trời, chỉ vì Nước Trời đã chưa được trình bày cho họ. Đàng khác, câu giải thích rõ ràng Chúa Giêsu thêm vào đã loại bỏ lối chú giải trên.
"Nó hối hận": Nơi đây Mt không dùng động từ "thống hối" (melanoiein) nhưng dùng một động từ khác (metamelesthai); động từ này chỉ xuất hiện thêm trong Mt 27, 3, nhưng lại được dùng nhiều trong bản 70 theo nghĩa hoán cải, trở về với Thiên Chúa (Ed 14, 22 ; Tv 105, 45 ; Xh 13,17...). Người ta không giải thích tại sao người con ấy lúc đầu bướng bỉnh, sau cùng lại hối hận, mà chỉ khẳng định sự kiện thôi. Nhưng gương của nó đáng ra phải làm đứa thứ hai suy nghĩ: chắc hẳn đấy là lý do tại sao nó được đưa vào sân khấu đầu tiên (dù có một số thủ sao đã đảo ngược vai trò, có lẽ để gợi lên sự đối chiếu Israel dân ngoại).
"Vâng, thưa Ngài": Tiếng “Ngài" đây, lạ lùng trên môi đứa con, có thể giải thích được dễ dàng nếu cho người cha là Thiên Chúa. Đây là một tiếng vụt qua bóng bẩy nhằm chuẩn bị cho lời áp dụng sắp tới.
"Qua trước các ông mà vào Nước Thiên Chúa": Động từ được dùng chỗ này là proagein; ở đây, chữ pro (trước) không có một nghĩa thời gian nhưng có một nghĩa khai trừ. Các người tội lỗi chẳng đi trước Biệt phái song sẽ chiếm chính chỗ của họ trong Nước Trời. Đây là một ngữ điệu Aram, như có một bản văn giáo sĩ đặt vào miệng Thiên Chúa những lời này: "Ai đã đi trước Ta trong việc sáng tạo?", nghĩa là: "Ta đã sáng tạo thế gian, chứ chẳng phải một ai nào khác" (Targ. Hi 41, 3).
"Theo đàng công chính": Thành ngữ (Cn 8, 20; 12, 28, Pr 2, 21) diễn tả việc chấp nhận không những hạnh kiểm luân lý của Gioan Tẩy giả, mà còn toàn thể sứ vụ của vị Tiền hô. Thực vậy khi công bố nước Thiên Chúa đang tới gần, Gioan Tẩy giả đã cho thấy dấu hiệu về sự công chính đích thực sắp đến, sự công chính mà Chúa Giêsu mang lại một cách sung mãn tràn đầy. Gioan và Chúa Giêsu đã không giảng dạy hai đường khác nhau, nhưng đã chỉ cùng một con đường duy nhất, con đường thống hối và quay về với Thiên Chúa: trong 3,2 và 4, 17, Mt đã cố công làm nổi bật sự tương đồng sứ điệp này khi đặt vào miệng hai Đấng những lời nói như nhau. Thành thứ kẻ không tin Gioan (nghĩa là chẳng xem ông như người đại diện hữu quyền của Thiên Chúa) cũng sẽ không tin Chúa Giêsu, Đấng mà Gioan loan báo vậy.
KẾT LUẬN
Khi so sánh dụ ngôn này với dụ ngôn đứa con phung phá, ta thấy được mối liên hệ giữa Chúa Giêsu với hàng thủ lãnh Israel đã đổi thay sắc thái đến độ nào. Đứa con nói không và về sau hối hận chắc hắn ít bị khiển trách hơn anh chàng phung phá, song đứa nói vâng rồi chẳng làm một tí mảy mạy thì bị lên án nghiêm khắc hơn người anh cả ghen tương. Trong trường hợp sau này, thính giả dụ ngôn có cảm tưởng người cha vẫn còn trông mong lấy tình yêu bao phủ lòng ghen tương đê tiện của đứa con cả. Nhưng khi nghe dụ ngôn hai người con, người ta đoán chắc Chúa Giêsu chẳng còn hy vọng hoán cải các người Biệt phái. Họ đã chứng kiến sự thánh thiện của Gioan Tẩy giả, lòng thống hối của những người thu thuế và tội lỗi mà rồi chẳng chút động tâm. Xem ra lòng chai đá của họ không thể biến cải được nữa.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Kitô dạy ta đừng dự đoán giá trị đạo đức của người ta theo các phạm trù chính thức cũng như theo các cam kết lý thuyết hay trên nguyên tắc. Vì cuối cùng, chính cách sống sẽ biểu lộ nhân tâm con người.
2. Tiếng Chúa Cha mời gọi ta đi làm vườn nho hãy còn được tiếp tục gởi đến cho ta. Nó sẽ gợi lên tiếng ta câu trả lời nào? Phải chăng ta sẽ là những kẻ khéo nói cố tránh đưa vào hành động những câu trả lời đẹp đẽ dựng lên? Phải chăng ta sẽ coi những ước vọng cao quí, những quyết định hay ho là những hành vi đã thực hiện.
3. Sự thống hối cần có để vào Nước Trời chẳng bao giờ chỉ làm một lần là đủ. Phải luôn luôn làm lại, hôm nay cũng như ngày mai. Nếu không, những người thu thuế và đàng điếm (mà ngày nay vẫn còn) sẽ chiếm mất chỗ của ta trong Nước Trời, vì đức tin của họ chân thật hơn đức tin của ta, và cuối cùng sẽ mang nhiều hoa trái.
4. Nơi người con thứ nhất, rõ ràng là cái ý thức về việc nó từ chối đã gây nên lòng hối hận và thúc đẩy nó vâng lời. Thành thử thật là lạ lùng, chính một lời từ chối thẳng thừng với Thiên Chúa, một tội lỗi quá hiển nhiên đã giúp người con kiểm điểm lại thái độ của mình đối với Ngài và đã sửa đổi. Cũng vậy những người thu thuế, đàng điếm, bị dân chúng liệt vào hạng tội lỗi, đã không thể bị ảo tưởng về tình trạng của họ trước mặt Chúa, nên vì thế dễ thấy, dễ ao ước và dễ thực hiện sự công chính mà Chúa đề nghị với họ hơn. Ở đây họ trở nên chân dung của tất cả chúng ta, theo một cấp độ rõ ràng nhiều hay ít. Được Chúa yêu cầu mãi, ta khám phá ra mình đã nhiều lần thản nhiên từ chối thánh ý Ngài, ta đo lường được khoảng cách giữa cái ta đang là với cái đúng ra ta phải trở nên, và đó là một điều kiện đầu tiên để vào Nước Chúa. Không phải là cần phạm tội thêm để làm như một con đường đến cùng Chúa: từ bản chất; tội chỉ làm ta xa Ngài. Nhưng một khi đã phạm, chính tội cũng có thể được sử dụng để trở về với Thiên Chúa. So sánh với một nhân đức giả hình, tội ít ra vẫn có cái "lợi" (nếu có thể nói được như thế) là tạo nên một ảnh trạng rõ rệt: người ta bị dồn vào chỗ phải thống hối hay tiếp tục ngoan cố trong điều dữ, trong lúc nhân đức giả tạo bên ngoài của người Biệt phái, vì bịt mắt không cho ông thấy mình xa Thiên Chúa, đã ngăn chận ông thực lòng hoán cải ăn năn.
5. Thành thử cái quan trọng chẳng phải là khởi điểm, là những lần từ chối đã qua, là các tội dồn đống từng làm nên bao tiếng không với Chúa. Cái quan trọng là nhìn lại những tiếng không của mình để đổi thành tiếng dâng. Điều đó luôn có thể làm được với ân sủng của Thiên Chúa.
Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt
----------------------------------