Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 5-A Bài 51-100: Các con là sự Sáng thế gian
------------------------------------
Phúc Âm: Mt 5, 13-16: "Các con là sự Sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn sử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
"Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời". - Ðó là lời Chúa.
-----------------------------------
TN 5-A51. CHÚA NHẬT V TNA.. 2
TN 5-A52. Muối và ánh sáng của chúng ta. 5
TN 5-A53. MUỐI VÀ ÁNH SÁNG.. 6
TN 5-A54. Trở nên ánh sáng. 8
TN 5-A55. CHIA SẺ.. 13
TN 5-A56. CHÚA NHẬT 5 QUANH NĂM... 17
TN 5-A57. CHÚA NHẬT 5 QUANH NĂM... 20
TN 5-A58. CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN (A) 23
TN 5-A59. CHÚA NHẬT V-TN 2002. 25
TN 5-A60. CẤP BẬC GIÁ TRỊ 28
TN 5-A61. NHIỆM VỤ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ.. 30
TN 5-A62. ANH EM LÀ MUỐI, LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN.. 35
TN 5-A63. MUỐI VÀ ÁNH SÁNG CHO ĐỜI 37
TN 5-A64. Các con là muối đất... Các con là sự sáng thế gian. 45
TN 5-A65. Hãy trở nên “vị mặn tình yêu Giêsu”. 47
TN 5-A66. Ướp mặn cuộc đời và soi sáng thế giới 49
TN 5-A67. Muối 51
TN 5-A68. Sống có ích cho tha nhân – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền. 52
TN 5-A69. Muối và ánh sáng. 55
TN 5-A70: Vì đời và cho đời – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng. 56
TN 5-A71: Muối và ánh sáng. 59
TN 5-A72: CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN A.. 60
TN 5-A73: Dụ ngôn hạt muối – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền. 61
TN 5-A74: Giác ngộ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 63
TN 5-A75: Sự sáng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 68
TN 5-A76: Suy niệm của Lm Stêphanô Bùi Thượng Lưu. 71
TN 5-A77: Suy niệm của Lm. Phaolô Trịnh Duy Ri 73
TN 5-A78:Ướp đời – Lm Vũ Đình Tường. 75
TN 5-A79: Bảo vệ căn tính - Lm Vũ Đình Tường. 77
TN 5-A80: Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. 79
TN 5-A81: Anh em là muối ướp đời 81
TN 5-A82: Men muối và ánh sáng cho đời 84
TN 5-A83: Gần đèn thì rạng! 87
TN 5-A84: Người Kitô Hữu Là Muối Đất Và Là Sự Sáng Thế Gian. 90
TN 5-A85: TRỞ NÊN MUỐI VÀ ÁNH SÁNG.. 93
TN 5-A86: CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN.. 95
TN 5-A87: Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT 5. 96
TN 5-A88: Sứ mệnh của Kitô hữu: là muối và ánh sáng - Dã Quỳ. 100
TN 5-A89: Muối và ánh sáng – ViKiNi 102
TN 5-A90: Hãy là muối và ánh sáng cho trần gian - Huệ Minh. 104
TN 5-A91: Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành. 108
TN 5-A92: ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN VÀ MUỐI CHO ĐỜI (*) 111
TN 5-A93: SỨ MẠNG CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA KITÔ.. 117
TN 5-A94: BÀI GIẢNG LỄ THIẾU NHI 122
TN 5-A95: Học hỏi Phúc Âm: Chúa Nhật 5 TN A.. 126
TN 5-A96: Vị mặn Tin Yêu. 129
TN 5-A97: CÁC CON LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN.. 131
TN 5-A98: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG.. 134
TN 5-A99: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG.. 137
TN 5-A100: MUỐI VÀ ÁNH SÁNG.. 148
------------------------------------
Bài Phúc Âm (Mt 5, 13- 16) hôm nay , Chúa Giê-su đưa ra hai hình ảnh rất cụ thể để định: TN 5-A51
Bài Phúc Âm (Mt 5, 13- 16) hôm nay , Chúa Giê-su đưa ra hai hình ảnh rất cụ thể để định nghĩa cho đời sống Ki-tô-hữu, sống nên ánh sáng và muối ướp cho đời: "Các con là muối cho đời, là ánh sáng cho trần gian". Vậy thì muối và ánh sáng có ý nghĩa gì?
Trong cuộc sống, muối và ánh sáng rất cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Muối là một loại vật chất cần thiết cho nhu cầu con người trong nhiều lãnh vực. Thời xưa, Người HyLạp coi muối như thần linh. Trong một câu ngạn ngữ bằng tiếng La-tinh: "Nil utilius sole et sale" (Không có gì hữu ích hơn là mặt trời và muối). Vào thời Chúa Giêsu, muối được nối kết với ba đức tính cao quý của con người: sự thanh khiết, bảo trì, và khẩu vị. Thật thế, Người La Mã nghĩ rằng muối là vật thanh khiết vì nó đến từ sự thanh khiết nhất đó là mặt trời và biển cả. Do đó muối là của lễ đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi kết thúc một ngày, những lễ vật của người DoThái được dâng lên với muối. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải là một gương mẫu của sự thanh khiết.
Thời cổ xưa, muối là một phương tiện phổ thông nhất để giữ gìn cho đồ ăn khỏi bị hư thối, muối bảo trì và giữ nó tươi. Muối khi dùng để ướp thực phẩm sẽ giúp cho khỏi bị ung thối, làm tăng thêm hương vị, và tẩy sạch mùi hôi. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt phải có một ảnh hưởng chống lại những điều độc hại giống như vi trùng trong cuộc sống. Những đặc tính vĩ đại và hiển nhiên nhất của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon miệng, đồ ăn thiếu muối sẽ trở nên nhạt nhẽo. Giống như muối làm cho lương thực trở nên ngon, người Kitô hữu cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.
Muối cũng được dùng để đốt lửa cho hiệu quả hơn. Thời đó muối còn dùng để giúp cho sự đốt cháy. Ở vài nơi trên thế giới, các thiếu nữ trộn muối vào phân lừa và phân lạc đà và đóng thành từng bánh tròn, phơi khô và dùng để đun lò. Người ta đun lò đất bằng cách chất những bánh phân khô trên một lớp muối. Khi đốt lò, muối sẽ giúp đốt cháy những bánh phân. Khi muối mất vị mặn sẽ không còn giúp đốt cháy nữa và sẽ bị đổ đi. Hình ảnh của muối đùng để đốt cháy liên kết với hình ảnh của lửa chiếu sáng thế gian... Muối còn được dùng để trị bệnh trong y học dân gian: muối sát trùng, đắp vào chỗ bong gân, ngăn ngừa bệnh tật; muối để giúp tiêu hóa, ... Ngoài ra, muối còn có nhiều công dụng khác nữa, kể cả cho các loài động và thực vật.
Về ánh sáng. Là một loại vật chất mà nhờ nó, người nhận thấy các sự vật xung quanh mình. Ở những nơi tối, người ta càng cần đến ánh sáng và càng nhận thức rằng ánh sáng rất cần cho cuộc sống. Có thể nói: không có ánh sáng thì không thể có sự sống.
Sau khi so sánh các muôn đệ của mình với muối, Chúa Giêsu lại dùng một hình ảnh ánh sáng cụ thể để nói về vai trò của họ: "Các con là ánh sáng cho trần gian" (Mt 5,14). Chúa Giêsu nói về chính mình: "Ta là ánh sáng thế gian" (Ga 8, 12). "Bao lâu Chúa Giêsu còn ở thế gian, Ngài là ánh sáng thế gian" (Ga 9, 5). Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện diện nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế của Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vài trò ánh sáng thế gian. Vì họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản chiếu lại ánh sáng đó (Ga 13,15). Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta, những Ki-tô hữu hãy sống như con cái sự sáng, hãy tỏa ánh sáng Chúa Ki-tô, tỏa hương thơm tốt lành là những việc thiện để người đời nhận biết Chúa Ki-tô, Ánh Sáng của Muôn Dân và Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian.
Ngày chịu phép rửa tội, mỗi người chúngta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô. Qua lời hứa của cha mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhậ phản chiếu ánh sáng Đức Kitô đó bằng chính đời sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng của Đức Tin trong đời sống Kitô hữu.
Sách giáo lý công giáo số 1216 xác định rằng: Trong phép rửa tội, người được rửa tội nhận lầy Ngôi Lời là "ánh sáng đích thực soi sáng mọi người" (Ga 1, 9) và sau khi được soi sáng như thế họ trở nên "con của sự sáng" (1Tx 5, 5) và chính bản thân họ là "ánh sáng" (Ep 5, 8).
Công Đồng Vatican II khuyên như sau: "Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc Âm và thánh hoá. Chính đời sống Kitô hữu và những việc lành được làm với Thiên Chúa, vì Chúa phán: "Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời" (Mt 5, 16) (Apostolicam Actuositatem, đoạn 6).
Như vậy, bản chất của muối là mặn. Cũng thế, bản chất của người môn đệ Chúa Ki-tô là rao giảng Tin Mừng, là con cái Thiên Chúa, là giữ gìn cho thế gian khỏi phải hư đi.Tôi là một Ki-tô-hữu, vậy tôi phải có "vị mặn Ki-tô". Nếu tôi không có "vị mặn Ki-tô" thì tôi không giúp gì cho thế gian cả. Như chúng ta đã biết muối được dùng để bảo quản thức ăn và đem lại hương vị đậm đà. Thế nhưng, nếu một khi muối đã lạt, nó sẽ chẳng còn giá trị nữa. Lúc đó nó sẽ bị vứt ra ngoài đường và bị chà đạp dưới chân. Cũng thế, người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như muối mặn, đem lại tình thương, niềm vui mừng và hy vọng cho mọi người. Hơn nữa, người Kitô hữu sống giữa lòng cuộc đời phải là như ánh sáng chiếu trong u tối, soi đường dẫn lối cho người khác tìm gặp Đức Kitô. Để thực hiện được điều này, chúng ta xin ơn Chúa trợ giúp để ta có ý chí mà thi hành. Trong giây phút này, mỗi người hãy nhìn vào cuộc sống để xem mình đã thực sự trở thành muối, cũng như đã trở thành ánh sáng của Đức Kitô hay chưa ?
Ước gì trong cuộc đời người Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa cho chúng ta tình yêu của Chúa để chúng ta can đảm làm theo điều Chúa muốn.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết gìn giữ ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, để chúng con can đảm sống chứng nhân là muối là ánh sáng cho trần gian trong tình yêu và lời mời gọi của Chúa. Amen.
------------------------------------
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 5:13-16)
Nói với dân chúng, Chúa Giê-su trình bày bài học đầu tiên Tám mối Phúc, là hạnh phúc của những: TN 5-A52
Nói với dân chúng, Chúa Giê-su trình bày bài học đầu tiên Tám mối Phúc, là hạnh phúc của những người biết đặt Chúa lên trên hết trong cuộc sống. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su nói với các môn đệ, Người nêu lên một lý tưởng chung cho tất cả những ai muốn làm môn đệ Người: Hãy là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. Nói khác đi, làm môn đệ Chúa không chỉ vì ích lợi cho cá nhân mình, mà còn là một cộng tác viên với Chúa để biến đổi nhân loại và làm vinh danh Thiên Chúa.
Phải chăng đó là một sứ mệnh quá lớn lao và ngoài tầm tay của Ki-tô hữu chúng ta? Làm sao tôi có thể là “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian”? Đời tôi đây còn nhạt nhẽo vô vị, sao tôi có thể muối đời người khác cho mặn được! Cuộc sống tôi vẫn còn bao tối tăm che phủ, sao tôi có thể soi sáng cho cuộc sống người khác được! Chẳng lẽ Chúa đặt trên vai chúng ta một sứ mệnh không thể thực hiện? Không đâu! Chắc chắn Người biết chúng ta có thể thi hành và Người trợ giúp chúng ta bằng ân sủng của Người. Chúng ta không có muối và ánh sáng, nhưng chúng ta có thể lãnh nhận muối và ánh sáng từ nơi Chúa. Qua mối tương quan mật thiết của chúng ta với Chúa Giê-su, muối và ánh sáng của Người sẽ tràn dâng và đổ đầy tâm hồn chúng ta. Càng gần Chúa, chúng ta càng trở nên muối mặn và ánh sáng mạnh mẽ hơn. Vị mặn của muối và cường độ ánh sáng tăng triển tùy theo mức độ chúng ta trở nên giống Chúa Giê-su bao nhiêu. Càng suy nghĩ và hành động giống như Người, thì vị mặn và độ sáng càng tăng thêm trong lối sống và cách đối xử của chúng ta. Hoặc khi ấy nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi”. Thực ra Chúa sử dụng chúng ta để muối đời cho mặn và soi chiếu cho mọi người. Chúng ta chuyển tải muối và ánh sáng của Chúa đến cho anh chị em thôi. Tuy nhiên, Chúa lại không nói “Anh em làm muối và làm ánh sáng”, nhưng Người dạy “Anh em là muối và là ánh sáng”. Như thế sứ mệnh của chúng ta quả là tích cực khi chúng ta lấy muối và ánh sáng của Chúa làm muối và ánh sáng của chính mình.
Sứ mệnh chúng ta là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian nhắm mục đích giúp anh chị em tìm thấy ý nghĩa đích thực của cuộc đời và biết sống theo thánh ý Chúa là nên thánh. Nhưng còn một mục đích tối hậu mà chính Chúa Giê-su đã đạt được và Người mời gọi chúng ta cùng chia sẻ với Người, đó là để “tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Chúng ta có những cách tôn vinh Cha trên trời bằng cầu nguyện và cảm tạ. Nhưng cách tôn vinh ý nghĩa nhất, đó là cách Chúa Giê-su đã làm và dạy chúng ta hãy cùng làm với Người: ánh sáng của chúng ta “phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Vì thế, ánh sáng của chúng ta chiếu giãi bằng “những việc tốt đẹp” chứ không phải bằng lời nói suông hoặc hoa mỹ.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Muối và ánh sáng là hai yếu tố làm cho cuộc sống chúng ta có ý nghĩa. Đã khi nào chúng ta phải ăn lạt hoặc sống trong tối tăm chưa? Chắc chắn là khó chịu lắm. Chúa muốn chúng ta “sống và sống dồi dào” (Gio-an 10:10) và Người cũng muốn chúng ta giúp anh chị em có cuộc sống ấy. Loại muối nhạt lách, hết vị và ngọn đèn để dưới cái thùng đều không nói lên được căn tính người môn đệ đích thực của Chúa. Vậy muốn cho muối không bao giờ nhạt và đèn không bao giờ leo lét, chúng ta phải nuôi dưỡng nó bằng “những công việc tốt đẹp”. Mà chúng ta lại chỉ có thể có được “những công việc tốt đẹp” khi chúng ta làm theo gương mẫu hành động là Chúa Giê-su, trong tinh thần của Người là Thánh Thần và nhắm mục đích Người nhắm là làm vinh danh Thiên Chúa Cha.
Vâng, lạy Chúa, chúng con là muối và ánh sáng của Chúa! Xin Chúa gìn giữ và nuôi dưỡng muối và ánh sáng ấy bằng tình yêu là động lực khiến chúng con phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em trong mọi sự!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------------
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN, năm A
Mt 5, 13-16
Chúa Giêsu luôn dùng dụ ngôn và những sự việc, những hình ảnh trong đời thường để dạy dỗ: TN 5-A53
Chúa Giêsu luôn dùng dụ ngôn và những sự việc, những hình ảnh trong đời thường để dạy dỗ con người, để nói lên một sứ điệp, một sứ mệnh nào đó của Giáo Hội, của người Kitô hữu. Muối là đồ gia vị để ướp mặn, đèn dùng để soi sáng. Muối và ánh sáng là hai hình ảnh Chúa Giêsu dùng để nói lên sứ mệnh của Giáo Hội nơi trần gian.
Thực ra, ngay từ thuở ban đầu, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh của mình bởi vì Giáo Hội là muối, là ánh sáng cho đời bởi vì Giáo Hội là Thân Thể của Đấng đã mạc khải là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Do đó, Giáo Hội có sứ mệnh phải loan báo con người bởi đâu mà ra, con người sẽ đi về đâu ? Giáo Hội cho nhân loại biết cùng đích của con người là sống và về với Thiên vì con người phát xuất tự Thiên Chúa. Tin Mừng viết:” Anh em là muối cho đời. Anh em là ánh sáng cho trần gian “ ( Mt 5,13-14 ). Tin Mừng nói lên sứ mệnh cao cả, nói lên bản chất của Giáo Hội, của người Kitô hữu là truyền giáo, là giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Chính vì bản chất của Hội Thánh, của người Kitô hữu là truyền giáo. Cũng như muối nhạt thì không phải là muối. ánh sáng phải chiếu sáng. Nên, người Kitô hữu không thể sống mà không loan báo Tin Mừng, không truyền giáo. Người môn đệ Chúa khi đã sống lắng nghe và thực thi Lời Chúa, đã sống các Mối Phúc Thật thì không thể nào không có tác động, không có ảnh hưởng trên những người khác.
Khi ví người Kitô hữu là muối cho đời, Chúa Giêsu đã trao cho các môn đệ, đã trao cho con người một trọng trách cao cả, một sứ mệnh quí giá. Muối không thể thiếu trong thực phẩm, trong phân bón, muối làm gia vị, ướp mặn và làm cho cá không ươn, không thối. Muối là đồ gia vị không thể thiếu được trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của con ngưới. Do đó, con người đặc biệt người Kitô hữu không thể nào sống khơi khơi mà không ý thức vai trò, trách nhiệm của mình là làm gương tốt và giới thiệu Chúa Kitô cho nhiều người chưa biết Chúa. Chính vì thế, người môn đệ Chúa phải làm cho những người xung quanh bớt tẻ nhạt, bớt vô vị, người Kitô hữu phải làm cho người khác biết được Chúa và nhờ đó họ yêu mến Chúa.
Và khi ví con người là ánh sáng, Chúa Giêsu muốn mạc khải Ngài là ánh sáng:” Tôi là ánh sáng thế gian “ ( Ga 8, 12 ). Chúa Giêsu là ánh sáng, là Mặt trời soi chiếu trần gian. Nhờ măt trời mới có mầu sắc, vẻ sinh đẹp, thảo mộc, cây cối xanh tươi và con người mới sống được. Mặt trời là hình ảnh đẹp nhất về Thiên Chúa. Người Kitô hữu chỉ là hình ảnh phản chiếu, họa lại hình ảnh của Đức Kitô. Tuy nhiên, Ngài luôn muốn con người trở nên muối và ánh sáng cho anh em minh. Thánh Phaolô trong thư thứ 2 gửi tín hữu Corintô đã viết:” Thiên Chúa đã phán ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm ! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bầy cho thiên hạ biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên khuôn mặt Đức Kitô “ ( 2 Co 4, 6 ).
Vâng, muối và ánh sáng là hai thực thể quan trọng cho đời sống con người và cho thế giới mọi thời. Muối ướp mặn cho đời và làm cho đặm đà các món ăn. Ánh sáng chiếu soi và làm cho sự sống được trường tồn.
Giáo Hội Chúa Kitô là muối, là ánh sáng cho thế gian. Nên, mỗi Kitô hữu cũng thực thi Lời Chúa:” Chính anh em là muối, chính anh em là ánh sáng “…Người Kitô hữu chỉ có thể trở nên muối, trở thành ánh sáng nếu họ sống Tin Mừng và thực thi Lời Chúa cách nghiêm túc, chân thành…Người Kitô hữu sẽ không còn là muối, là ánh sáng nếu họ mất đi phẩm chất đạo đức, thánh thiện mà chạy theo những dễ dãi, những móc ngoặc, lọc lừa, thỏa hiệp ngược với chân lý, nghịch với Tin Mừng của Chúa Kitô.
Người Kitô hữu phải sống bản chất truyền giáo là như thế, nghĩa là họ phải luôn trở nên muối mặn cho đời và trở thành ánh sáng chiếu soi thế gian, dọi chiếu xã hội để bô mặt của Chúa được rạng rỡ, được nổi bật giữa thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm đức tin, sức mạnh cho chúng con, để cho dù chúng con chỉ là thiểu số giữa biển đời mênh mông, chúng con vẫn tỏa hương thơm ngát, trở nên muối ướp mặn cho đời và trở thành ánh sáng chiếu soi mọi người. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
------------------------------------
Chúa Nhật 5 Mùa Thường Niên Năm A
(Ys 58,7-10; 1 C 2,1-5; Mt 5,13-16)
Phúc Âm: Mt 5, 13-16
"Các con là sự Sáng thế gian".
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn sử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
"Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
Suy Niệm:
(Chúa Nhật 5 Thường Niên A)
(Ys 58,7-10; 1 C 2,1-5; Mt 5,13-16)
Chúa dạy chúng ta phải là muối đất và ánh sáng của thế gian. Người bảo chúng ta phải làm việc: TN 5-A54
Chúa dạy chúng ta phải là muối đất và ánh sáng của thế gian. Người bảo chúng ta phải làm việc lành để ánh sáng của chúng ta rực sáng lên trước mắt mọi người. Tiên tri Isaia đan cử một số việc lành để thật sự chúng ta là ánh sáng; đang khi thánh Phaolô khẳng định chính việc người rao giảng Đức Kitô bị đóng đinh là sự khôn ngoan soi sáng cho mọi người. Như vậy chủ đề trong Lời Chúa hôm nay là Ánh Sáng. Và chúng ta phải suy nghĩ về vai trò ánh sáng của mình.
A. Chúng Ta Là Ánh Sáng Thế Gian
Chúng ta chỉ là người như mọi người. Hơn nữa xét về nhiều mặt, chúng ta còn thua kém nhiều người. Chính Chúa đã gọi chúng ta là đàn chiên nhỏ và thánh Phaolô đã có lần nhìn vào Giáo hội và bảo: anh em chỉ là những gì không không trước mặt thế gian. Thế mà hôm nay Chúa lại khẳng định chúng ta là muối đất và là ánh sáng của thế gian; Người muốn chúng ta phải vươn lên, sáng lên ở trước mặt mọi người, chẳng khác nào thành xây ở trên núi và như đèn đặt trên đế. Dung hòa thế nào được giữa những quan niệm mâu thuẫn như vậy? Bài giảng trên Núi, đọc ngày Chúa nhật trước, bảo chúng ta phải khiêm nhường, hiền lành, sẵn sàng chịu khinh bỉ, bắt bớ... Hôm nay tiếp nối Bài giảng ấy Chúa lại dạy chúng ta phải sáng lên trước mặt mọi người. Như thế không mâu thuẫn sao? Và phải hiểu thế nào đây?
Chắc chắn chúng ta không được bỏ mất những kết quả đã thu lượm được trong khi suy nghĩ về Bài giảng trên Núi. Chúng ta luôn luôn phải có tinh thần khó nghèo. Và chính tinh thần này phải giúp chúng ta đón nhận Lời Chúa hôm nay.
Trước hết không nên bỏ qua Lời Chúa dạy: chúng ta là muối đất. Hình ảnh này khiêm tốn hơn. Nó giúp chúng ta suy nghĩ về câu sau: chúng ta là ánh sáng thế gian. Chữ "muối đất" đã làm tốn mực của nhiều học giả. Muối ướp đồ ăn hay là phân muối? Muối thường hay là muối dùng rắc trên các tế vật? Muối ước mặn thì chắc chẳng bao giờ hóa nhạt được. Phân muối thì có thể hư đi được lắm vì đó là một hóa chất, không thể để lâu. Dù sao hình ảnh muối đất cũng rất khiêm tốn. Hơn nữa, đi với câu Chúa phán sau, nó tạo nên một cảm giác đáng sợ. Chúa bảo: nếu muối nhạt nó sẽ bị ném ra ngoài cho người ta đạp lên. Quả thật, phân muối hư rồi thì sẽ bị quẳng đi. Nhưng Lời Chúa ở đây gợi lên những câu khác về ngày thẩm phán: con cái trong nhà sẽ bị hất ra ngoài, tống vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Phải, ở đây cũng như ở nhiều đoạn Tin Mừng khác, Chúa cảnh cáo chúng ta nếu không sống đầy đủ ơn gọi của mình sẽ bị gạt ra ngoài Nước Trời. Những ý tưởng này chúng ta không nên quên khi suy nghĩ về vai trò ánh sáng của mình, vì chính Chúa đã gợi lên, trước khi dạy: "Chúng con là ánh sáng thế gian".
Tự nhiên, chúng ta không phải là ánh sáng. Trước kia chúng ta cũng ở nơi tối tăm. Nhưng dân đi trong tăm tối đã nhìn thấy một ánh sáng lớn. Chính Chúa là Ánh sáng đã soi dọi chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi tối tăm, đi vào Nước Ánh sáng của Con yêu dấu Người. Như vậy mọi vẻ sáng ở nơi chúng ta chỉ là thứ vay mượn sao? Không phải thế. Chúa yêu chúng ta vô ngần, không những đã đưa ta vào Nước sáng láng để ta được sáng, mà còn cho ta tham dự vào bản tính sáng láng của Người để thật sự chúng ta trở thành ánh sáng. Chúng ta mang trong mình sự sống của Chúa, chúng ta mang Đức Kitô trong mình, chúng ta là Kitô hữu. Như vậy, nhờ phép Rửa tội, chúng ta thật sự đã trở nên tạo vật mới; chúng ta không còn là con cái của tối tăm, nhưng đã là con cái sự sáng. Ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta được trao cây nến sáng, thắp từ ngọn nến Phục sinh biểu hiệu của Đức Kitô sống lại, để chúng ta đi trong ánh sáng và soi sáng mọi người mọi nơi.
Đó là việc Chúa làm cho chúng ta một cách nhưng không, hoàn toàn do lòng thương xót vô bờ. Nếu có ai tự phụ, thì cũng chỉ được tự phụ trong Chúa. Nhưng tốt hơn, nên chú tâm tìm hiểu ánh sáng mình đang mang và cố gắng để nó khỏi tắt.
B. Ánh Sáng Đó Là Gì?
Như trên đã nói, bản chất chúng ta không phải là ánh sáng. Các việc chúng ta làm chỉ là tối tăm. Nhưng nhờ ơn phép Rửa, chúng ta đã trở nên ánh sáng. Đó là một sự gì mới ở nơi chúng ta cần được tìm hiểu.
Nói thật ra, chính sự sống mới mà phép Rửa mang đến cho chúng ta là ánh sáng ở nơi ta. Đó là sự sống Thiên Chúa, sự sống của Đức Kitô phục sinh. Người đồng thời là sự sống và là sự sáng. Nhưng diễn tả sự sống thần linh và phục sinh ấy như thế nào để người ta có thể hiểu được? Trực tiếp trình bày sự sống ấy chắc chắn là khó. Có lẽ dễ hơn nếu ta thử trỏ cho người ta thấy những gì đem lại sự sống đó cho chúng ta.
Khi đó chúng ta sẽ thấy chính Lời Chúa mà chúng ta tin đã khiến chúng ta được lãnh nhận sự sống của Chúa vì: "Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được sống đời đời". Như vậy, Lời Chúa và đức tin đã đưa chúng ta vào Nước sáng láng của Con Chúa. Lời Chúa và đức tin đã soi sáng chúng ta và đang hướng dẫn ta đi trong ánh sáng. Chúng ta là ánh sáng thế gian, khi mang Lời Chúa và đức tin trong mình. Lời Chúa và đức tin càng sáng và càng sống ở nơi ta, ta càng có khả năng soi sáng cho người khác. Do đó khi bảo ánh sáng của ta phải sáng lên trước mắt mọi người và phải đặt lên nơi cao như đèn trên đế, như thành trên núi, Tin Mừng Luca muốn dạy chúng ta phải suy tôn Lời Chúa, phải sống đức tin, phải đem Lời Chúa vào đời sống, phải lấy niềm tin mà suy nghĩ cùng hành động. Cá nhân chúng ta có được vinh dự thì cũng chỉ như cây đèn mang ánh sáng. Cây đèn không chiếu sáng; ánh sáng mà mọi người được nhờ, phát ra từ ánh sáng trên cây đèn. Chúng ta có thể nói như Yoan: Người phải tiến lên, tôi phải nhỏ đi, vì Yoan cũng đã được ví như cây đèn và Đức Kitô mới là ánh sáng thật đến trong thế gian.
Và khi đến, không những Người đã trở thành Lời hằng sống ban đức tin, nhưng còn ban Thịt Máu và chính sự sống Người cho chúng ta. Các Bí tích Người đã lập đều quy về Thánh Thể đều đem lại sự sống hay gia tăng sự sống và sự sống của Người là ánh sáng. Thế nên các bí tích chúng ta lãnh nhận thêm sức sáng cho chúng ta. Phát triển các ơn bí tích là soi sáng thêm cho thế gian. Lễ nghi bí tích nào mà không huy hoàng? Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể, Hôn nhân, Truyền chức... tất cả đều được Giáo hội cử hành để làm sáng con người. Và nếu người ta phát triển ơn bí tích đã lãnh nhận, đời sống nhất định phải đẹp, phải sáng. Sự sáng này không phát xuất từ con người tín hữu, nhưng từ các bí tích mà họ đã lãnh nhận. Do đó người ta sẽ ca tụng Cha trên trời hơn là khâm phục người mang ơn.
Và để vắn tắt, không kể hết mọi yếu tố thần linh chiếu sáng nơi người tín hữu, chúng ta hãy nói đến điều mà thánh Phaolô gọi là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Đó chính là Thánh giá Chúa Kitô. Sự sống của Thiên Chúa du nhập vào thế gian và xác thịt, đã tỏ ra mạnh mẽ hơn hết, sáng láng hơn hết ở trong chính sự chết, khi làm nó nổ tung để chúng ta nhìn thấy sự sống lại. Chính Đức Kitô đã coi việc Người bị treo lên Thập giá là đường đưa Người tới vinh quang. Người tuyên bố sẽ được vinh hiển khi bị treo lên. Ở nơi người tín hữu, Lời Chúa với đức tin và các ơn bí tích tỏ ra thần diệu một cách đặc biệt trong đau khổ và sự chết. Các tử đạo tức khắc được vinh quang. Các bậc chân tu dễ được người ta ngưỡng mộ. Thế nên chúng ta hiểu lời thánh Phaolô "Ước gì tôi đừng có vinh vang nơi một điều gì trừ phi là nơi Thập giá của Chúa chúng ta" (Ga 6,14). Hay như hôm nay người nói: tôi không muốn biết gì ngoài Đức Kitô và là Đức Kitô bị đóng đinh Thập giá.
C. Chiếu Giải Ánh Sáng Đó
Như vậy chúng ta không cần nói thêm về thư Phaolô. Chúng ta đã biết ý của Chúa khi Người dạy: chúng con là ánh sáng thế gian, và ánh sáng của chúng con phải rực lên trước mắt mọi người. Chúng ta không sợ phải đề cao mình. Ngược lại khi biết ánh sáng chúng ta đang mang là của Chúa, chúng ta phải có tinh thần khó nghèo để luôn luôn nhận được thêm và phải có thái độ khiêm nhu kẻo "ánh sáng ấy tắt đi vì gió kiêu ngạo". Hơn nữa các bài Kinh Thánh hôm nay thúc giục chúng ta phải làm cho ánh sáng ấy rực lên.
Isaia đã đề ra một số các việc làm giúp ta thi hành bổn phận trên. Thực ra không phải Isaia, nhưng là một tác giả vô danh, một tiên tri mà ta không biết, đã sống với Dân Chúa sau thời lưu vong. Từ Babylon về xây dựng lại Thánh địa, người ta đã tổ chức lại đời sống tôn giáo, từ việc trùng tu Đền Thờ đến việc cử hành lễ tế và tuân thủ Luật pháp. Dân muốn trở nên huy hoàng, cậy dựa vào đạo Chúa. Nhưng kết quả: đời sống vẫn không tiến bộ và dường như ánh sáng của Yêrusalem cứ tắt dần. Chính lúc đó, nhà tiên tri xuất hiện. Ông công bố Lời Chúa. Dân muốn sáng lên trong đêm tối và trở thành ánh sáng cho muôn nước, nhưng tại sao cứ làm những việc bất công? Không thể lấy các lễ nghi, kinh kệ mà phủ lấp được tội lỗi. Lời Chúa và đức tin, kinh kệ và các bí tích chỉ rực lên trong đời sống cụ thể của con người. Tách biệt đời sống đạo đời để chỉ thờ phượng bằng môi miệng và lòng thì ở xa Chúa, là giả hình, không phải tôn thờ chân thật.
Đức Kitô đã cho ta một tiêu chuẩn đơn sơ, sáng tỏ để kiểm điểm việc thờ phượng chân thật là hãy thờ phượng trong ngôi đền mới, tức thân xác của Người đã sống lại sau 3 ngày nằm xuống trong mầu nhiệm Tử nạn. Chỉ trong Đền thờ đó, chúng ta mới được soi sáng, mới trở nên ánh sáng và mới rực sáng lên trước mắt mọi người. Đi vào Ngôi đền đó, ở trong Thánh điện ấy, chúng ta phải chấp nhận kết hiệp với mầu nhiệm Thập giá. Đọc Thánh Kinh mà không để Lời Chúa trở thành gươm hai lưỡi xé nát xác thịt, đức tin không thể chiếu sáng nơi chúng ta. Lãnh nhận các bí tích mà không tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh là làm một nghi lễ bề ngoài chứ không có ý lãnh nhận sự sống mới của Đức Kitô phục sinh. Sau cùng sống đạo mà không đem tinh thần mới mẻ vào đời sống, không đưa mầu nhiệm Thập giá vào các sinh hoạt, nhưng luôn luôn vị kỷ và trục lợi, thì chỉ khiến người ta lăng nhục Danh Chúa.
Đức Kitô làm Hiển Danh Chúa Cha khi đi vào mầu nhiệm Thập giá; và chính khi ấy cũng như chỉ khi ấy Đức Kitô đã được tôn vinh. Ngày nay, đặc biệt trong các thánh lễ, Người còn mở ra con đường ấy để kêu gọi chúng ta đi vào. Nếu chúng ta chấp nhận từ bỏ mình, sự sống phục sinh của Người sẽ ùa vào trong chúng ta. Chúng ta sẽ trở nên con cái sự sáng; đời sống của chúng ta sẽ có khả năng chiếu sáng, khi trong thực tế chúng ta thực hiện tinh thần Thánh giá: hy sinh dục vọng ích kỷ và phát triển lòng bác ái phục vụ tha nhân. Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ trong chiều hướng ấy.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
------------------------------------
Câu hỏi gợi ý:
Thiên Chúa mong đợi gì nơi Giáo Hội, nơi mỗi người chúng ta? Giáo Hội và mỗi người chúng ta đã: TN 5-A55
1. Thiên Chúa mong đợi gì nơi Giáo Hội, nơi mỗi người chúng ta? Giáo Hội và mỗi người chúng ta đã đáp ứng sự mong đợi của Ngài thế nào?
2. Giáo Hội có phải là gương mẫu cho thế giới noi theo không? Mỗi người chúng ta có phải là gương sáng trong môi trường mình sống không?
Suy tư gợi ý:
1. Vật hư không sử dụng được thì chỉ có nước vứt bỏ
Một vật bị hư, không sử dụng được nữa – chẳng hạn cái quạt máy không quay nữa, cây viết không ra mực nữa – thì chỉ có nước đem sửa. Nếu sửa không được thì đành phải vứt vào thùng rác. Khi còn sử dụng vật nào thì ta lo bảo vệ, chăm chút cho nó, khi đã bỏ vào thùng rác rồi thì ta mặc kệ nó, ai đốt, ai phá hủy, ai làm gì nó ta cũng chẳng quan tâm. Đó là chuyện tự nhiên và hợp lý. Còn Thiên Chúa, Ngài hành xử ra sao đối với những thứ vô dụng, bị mất bản chất, không còn sử dụng được nữa?
– Trong «bài ca vườn nho», Isaia (5,1-7) kể chuyện: Bạn ông «có một vườn nho trên sườn đồi màu mỡ». Anh bỏ ra rất nhiều công lao và tiền bạc đầu tư cho nó, «những mong nó sinh trái tốt». Anh nói: «Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?» Nhưng khốn thay «nó lại sinh toàn nho dại». Tìm hết cách mà vẫn không kết quả gì khá hơn. Vậy thì anh phải làm gì với vườn nho ấy? Anh đã không thèm đoái hoài gì tới nó nữa, mặc cho «bờ tường bị đập đổ», «vườn bị giày xéo», «thửa vườn thành mảnh đất hoang vu», «gai góc mọc um tùm». – Isaia kết luận: «Vườn nho Chúa chăm sóc ấy chính là nhà Ítraen; cây nho Chúa quý chuộng ấy chính là người Do Thái. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than» (Is 5,7).
– Tin Mừng Mátthêu 21,18-19 thuật lại chuyện Đức Giêsu rủa cây vả không ra trái khiến nó bị khô héo ngay. Đang mùa vả mà vả chỉ có cành lá xum xuê chứ không có trái, đánh lừa khách lỡ đường bị đói, thì cây vả ấy đáng bị đốn bỏ. Gioan Tẩy Giả cũng nói: «Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa» (Mt 2,10).
– Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng chủ trương: «Muối mà nhạt đi, thì (…) thành vô dụng, chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi» (Mt 5,13). Cũng vậy, đèn hư, không sáng được, thì chỉ còn nước vứt vào sọt rác.
2. Thiên Chúa mong Giáo Hội là muối ướp, là đèn soi trần gian
Trần gian đầy dẫy đau khổ vì con người quá tội lỗi. Tội lỗi chính là xa rời Thiên Chúa, sống ngược với bản tính Thiên Chúa là tình yêu, với bản chất của mình là «hình ảnh của Thiên Chúa». Sống ngược với bản chất của mình nghĩa là sống thiếu tình thương, không tôn trọng sự công bằng. Vì thế, con người thường xuyên phải sống trong bất công, áp bức, bóc lột, ghen ghét, hận thù, từ trong môi trường nhỏ nhất là gia đình cho đến quốc gia, xã hội, và lớn nhất là thế giới. Do đó con người phải chịu đựng biết bao đau khổ: «Đời người là biển khổ», «nước mắt của chúng sinh bao nhiêu thế hệ cộng lại còn nhiều hơn nước sông Hằng» (Lời Đức Phật).
Để cứu trần gian khỏi đau khổ, một trong những mục đích của Đức Giêsu khi đến trần gian là khai mạc Nước Thiên Chúa tại đây. Và Nước Thiên Chúa – hay Nước Trời – là từ trong Tin Mừng để chỉ một xã hội toàn hảo, trong đó tất cả mọi người đều được hạnh phúc, vì mọi người đều đối xử với nhau bằng tình thương, một cách cụ thể và thực tế. Nhờ tình thương, xã hội không còn tranh chấp, hận thù, mọi người đều sống an vui, từ trong tâm hồn ra đến ngoài xã hội.
Đức Giêsu lập nên Giáo Hội những mong Giáo Hội dần dần trở thành Nước Thiên Chúa ở trần gian, thành cánh tay hữu hình và nối dài của Ngài để giáo hóa, thánh hóa, cứu chuộc, phục vụ cho bình an và hạnh phúc của nhân loại. Ngài mong Giáo Hội là nhịp cầu nối con người với Thiên Chúa, mong Giáo Hội thành một xã hội gương mẫu để mọi xã hội trên trần gian bắt chước. Và để thực hiện cụ thể mong ước ấy, Thiên Chúa đã kêu gọi một số người trong nhân loại trở thành Kitô hữu, gia nhập Giáo Hội, để họ thành gương sáng cho mọi người noi theo, để tích cực biến trần gian thành Nước Thiên Chúa.
3. Giáo Hội phải là một thể chế gương mẫu cho mọi xã hội
Giáo Hội thời sơ khai quả một xã hội lý tưởng, rất phù hợp với mô hình Nước Thiên Chúa, trong đó các Kitô hữu đều yêu thương nhau, chia sẻ với nhau một cách rất cụ thể. Trong khi các xã hội thời ấy đều theo thể chế quân chủ và phong kiến, thì Giáo Hội đã là một xã hội rất dân chủ và rất tiến bộ. Chẳng hạn, theo sách Công Vụ (Cv 1,15-25), để chọn vị tông đồ thay thế Giuđa đã thắt cổ tự tử, thánh Phêrô, thủ lãnh Giáo Hội thời ấy không hề tự mình quyết định việc này, mà yêu cầu 120 Kitô hữu có mặt hôm đó đề cử 2 người rồi bỏ phiếu bầu một trong 2 người ấy. Và Matthia đã được chọn làm tông đồ thứ 12 thay thế Giuđa. Cho đến thế kỷ thứ 4, năm 347, thánh Ambrôsiô ngay khi còn là lương dân, đã được dân chúng bầu lên làm giám mục, về sau thành một vị thánh. Chỉ sau khi được bầu làm giám mục, ngài mới chịu phép rửa tội, được truyền chức linh mục và giám mục. Giáo Hội thời ấy cũng là một xã hội cộng sản lý tưởng nhất mà các xã hội cộng sản ở thế kỷ 20 phải thua xa một trời một vực. Sách Công vụ cho biết:: «Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ được toàn dân thương mến» (Cv 2,44.47).
Phải nói rằng về mặt thể chế, Giáo Hội thời sơ khai «tiến bộ» hơn hẳn các thể chế trần gian cùng thời rất nhiều, Giáo Hội thời ấy thật đáng làm gương cho mọi thể chế xã hội. Nhưng tiếc thay, phải 17 thế kỷ sau nhân loại mới có những quốc gia chập chững noi theo thể chế dân chủ của Giáo Hội Kitô giáo ban đầu. Thật vậy, mãi đến năm 1690 John Locke ở nước Anh, và năm 1748 Baron de Montesquieu ở Pháp mới viết được những tác phẩm giới thiệu cho nhân loại tinh thần dân chủ mà Giáo Hội thời sơ khai đã thực hiện trước đó cả 16 thế kỷ. Và đến năm 1917, thế giới mới xuất hiện thể chế cộng sản với lý tưởng rất cao vời nhưng trong thực tế chẳng thực hiện được. Thế mà lý tưởng ấy đã được thực hiện trong Giáo Hội sơ khai một cách rất tuyệt vời, đã thật sự đem lại hạnh phúc cho các thành viên Giáo Hội thời ấy.
Tiếc thay kể từ thế kỷ thứ 4 về sau, khi được tự do truyền đạo, Giáo Hội lại rập khuôn theo thể chế quân chủ của đế quốc Rôma, và vẫn tiếp tục cho đến nay. Trong khi đó, từ mấy thế kỷ nay, rất nhiều quốc gia trên thế giới đã từ bỏ thể chế ấy để bắt chước thể chế của Giáo Hội thời sơ khai, tuy rằng còn xa mới đạt được mức lý tưởng như Giáo Hội thuở ấy. Thiết tưởng chúng ta cũng cần tự hỏi: thể chế của Giáo Hội hiện nay có phải là một thể chế gương mẫu mà các nước trên thế giới muốn hoặc cần noi theo không?
4. Giáo Hội và mỗi Kitô hữu phải là muối, là ánh sáng
Thiên Chúa đã thất vọng vì dân Do Thái – dân tộc được Ngài đặc biệt tuyển chọn để làm cầu nối giữa Ngài với nhân loại – đã không đáp ứng lại những điều Ngài mong muốn nơi họ. Vì thế, Thiên Chúa không còn chúc lành cho họ, khiến họ lâm vào nhiều tình huống khó khăn suốt 20 thế kỷ qua: mất nước, lưu lạc khắp nơi, bị Hitler tìm cách tiêu diệt thời thế chiến thứ hai, lập quốc trở lại năm 1947 thì sau đó là chiến tranh liên miên.
Để thay thế dân tộc Do Thái, cách đây 20 thế kỷ, Thiên Chúa đã lập một dân mới cho Ngài, đó là Giáo Hội, những mong Giáo Hội hoàn thành được sứ mạng Ngài giao phó là trở nên muối ướp và đèn soi cho nhân loại. Đến nay, sau 2000 năm thành lập, thử hỏi Giáo Hội có đáp ứng được sự mong đợi của Thiên Chúa chưa? Thiết tưởng đó phải là câu hỏi mà mỗi Kitô hữu – với tư cách là thành viên của Giáo Hội – đều phải tự đặt cho mình để ý thức trách nhiệm của mình trước sự mong đợi của Thiên Chúa nơi Giáo Hội.
Muốn Giáo Hội trở thành một thể chế gương mẫu cho thế giới noi theo, thì trước hết mọi thành viên của Giáo Hội phải trở nên gương mẫu cho những người chung quanh, phải tích cực hoạt động để môi trường mình đang sống tốt đẹp hơn, yêu thương nhau hơn. Cụ thể nhất là phải biến bản thân mình, rồi đến gia đình mình, giáo xứ mình thành Nước Thiên Chúa đã. Cha mẹ phải là gương sáng cho con cái, linh mục là gương sáng cho giáo dân, giám mục là gương sáng cho linh mục, bề trên là gương sáng cho bề dưới. Đó chính là trở nên muối cho đời, nên đèn sáng cho trần gian.
Muối của chúng ta sẽ lạt đi, đèn của chúng ta sẽ tối lại,
– khi chúng ta sống ích kỷ, không có tình yêu, khi chúng ta cũng đầy tham sân si, cũng ham danh lợi thú và cũng chẳng tốt lành gì hơn những người ngoài Kitô giáo;
– khi chúng ta sẵn sàng nhắm mắt làm ngơ trước các nhu cầu cấp bách và đau khổ của người khác (xem lại bài đọc 1: Is 58,7-10);
– khi chúng ta không dám bênh vực và làm chứng cho sự thật, sự thiện, công lý, và sẵn sàng im lặng để được an thân trước các bất công xã hội, để mặc những thế lực xấu tự do hoành hành;
– khi chúng ta chỉ biết cầu nguyện mà không cảm thấy phải hành động, chỉ biết thờ phượng Chúa mà không hề quan tâm đến đồng loại, hoặc ngược lại, chỉ biết hành động mà không cầu nguyện, chỉ biết quan tâm đến đồng loại mà không màng đến bổn phận đối với Thiên Chúa.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hiện nay nhân loại đang rất cần những gương sáng cụ thể và sống động để noi theo hơn là những lý thuyết trừu tượng, cần những vị thánh hơn là những nhà thuyết giảng hùng hồn. Nhưng dường như Kitô hữu chúng con lại có khuynh hướng cung cấp cho thế giới theo chiều ngược lại. Xin giúp chúng con ý thức điều đó để sám hối, để trở thành men, muối và đèn sáng cho mọi người chung quanh.
Joan Nguyễn Chính Kết
------------------------------------
(Mát-thêu 5: 13-16)
Tám Mối phúc đã đặt nền móng cho bài giảng trên núi được tiếp tục quảng diễn. Nhưng trước: TN 5-A56
Tám Mối phúc đã đặt nền móng cho bài giảng trên núi được tiếp tục quảng diễn. Nhưng trước khi đi vào một số chi tiết cụ thể, so sánh giữa Lề Luật cũ Thiên Chúa ban cho dân Ít-ra-en qua ông Mô-sê với Lề Luật mới Thiên Chúa ban cho tất cả nhân loại qua nơi con người Đức Giê-su, thánh Mát-thêu ghi lại một lệnh truyền Chúa Giê-su nói với các môn đệ: Anh em là muối cho đời và anh em là ánh sáng cho trần gian. Chắc chắn chỗ đứng của lệnh truyền này phải thực sự quan trọng, vì nó được để ngay sau “hiến chương Nước Trời.” Vậy đâu là tầm quan trọng của lệnh truyền này và môn đệ Chúa Giê-su là mọi Ki-tô hữu phải thi hành lệnh truyền ấy như thế nào?
a) Sứ mệnh làm muối và ánh sáng cho đời
Khi trình bày Tám Mối phúc, Chúa Giê-su đã chỉ cho ta thấy những con đường Thiên Chúa dùng để đến với ta trong những hoàn cảnh đặc biệt của mỗi người, hay nói khác đi, đâu là những người được Thiên Chúa đặc biệt thương mến. Nhưng với Tám Mối phúc, Chúa Giê-su đồng thời cũng mở cho ta những con đường để đến với anh chị em, chứng tỏ cho anh chị em thấy được những vẻ đẹp của hình ảnh Thiên Chúa phản ánh qua những gì ta làm cho họ. Vậy thì sứ mệnh của ta đã nằm ngay trong những mặc khải của Chúa Giê-su về Tám Mối phúc rồi. Cho nên thay vì lập lại từng mối phúc và sai ta đi làm chứng nhân, Chúa Giê-su dùng một hình ảnh sống động, lấy ngay từ kinh nghiệm đời sống thường ngày để diễn tả sứ mệnh làm chứng cho Tám Mối phúc Thiên Chúa ban cho ta: làm muối và ánh sáng cho đời.
Đời cần sự thay đổi, vì đời đã trở nên nhạt nhẽo, không còn đậm đà tình yêu; đời cần được bừng sáng lên, vì hiện nay đời đang đắm mình trong đêm tối, đêm tối của tội lỗi và sự chết. Cùng với đời, con người cũng cần phải hối cải và tin vào Tin Mừng, một hành động gồm hai động tác: quay lưng lại (hối cải) với tội lỗi và lối sống thuộc về thế gian, để hướng về Tin Mừng, đón nhận Tin Mừng và đem Tin Mừng vào cuộc sống.
Trước cảnh huống và nhu cầu như thế, Chúa Giê-su đã hướng về các môn đệ. Họ là những người Chúa Giê-su tin tưởng, những người đã có kinh nghiệm “sám hối và tin vào Tin Mừng” và đã “nếm biết Chúa thiện hảo dường bao”, giờ đây được Chúa Giê-su trao sứ mệnh làm chứng tá cho những giá trị Tin Mừng. Việc làm chứng của họ sẽ có mãnh lực biến đổi trần gian, y như muối làm cho thức ăn không còn nhạt nhẽo nhưng thật là đậm đà, hoặc như ánh sáng làm cho căn nhà trở nên sống động, ấm cúng và mọi người nhận biết nhau là anh chị em con cùng một Cha.
Chứng tá của ta có một mãnh lực tiềm ẩn, tuy bề ngoài không dễ nhận thấy, nhưng qua hiệu quả người ta mới nhận ra được nó. Làm sao ta thấy được muối và ánh sáng hoạt động như thế nào đâu? Từ từ nhưng chắc chắn, muối thấm nhập vào thức ăn, ánh sáng từ trên cao lan tỏa ra toàn thể căn nhà, không gì ngăn cản nổi. Cho nên Chúa Giê-su đã sử dụng một hình ảnh hết sức thực tế để nói lên đặc tính của sứ mệnh chứng tá Người ủy thác cho ta.
b) Ta phải thi hành lệnh truyền ấy như thế nào?
Những ví dụ (simile) và tỉ dụ (metaphor) trong sách Tin Mừng thường không dễ dàng hiểu ngay được. Nhưng tỉ dụ muối và ánh sáng thì khỏi cần cắt nghĩa, ta cũng hiểu được dễ dàng. Rõ ràng Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh đến công dụng hữu hiệu của muối và ánh sáng. Qua việc nhấn mạnh ấy, ta biết được Chúa muốn nói với ta phải thi hành lệnh truyền của Người như thế nào. Cũng như công dụng của muối và ánh sáng, chứng tá của ta sẽ có hiệu năng đích thực nếu đó là những chứng tá đích thực. Vấn đề là làm sao ta vẫn luôn luôn là muối đích thực và ánh sáng đích thực.
Muối dùng để muối thức ăn sẽ tan đi sau khi thấm vào thức ăn. Ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn dầu sẽ tắt khi dầu cạn. Vậy ta sẽ lấy thêm muối từ đâu và dầu từ đâu? Ta phải trở về kho. Chúa Giê-su là kho muối để ta múc lấy đem vào đời sống mình. Chúa Giê-su là ánh sáng nguyên thủy (Ga 1:9; 8:12) và là kho dầu để ta đến lấy mà đốt lên ngọn đèn của mình. Qua cầu nguyện, qua những tiếp xúc với Chúa khi ta sống mối quan hệ với Người, muối và dầu sẽ được chuyển qua cuộc đời ta. Những gì Chúa Giê-su đã sống để biểu lộ Tám Mối phúc của Thiên Chúa sẽ được tiếp tục trong đời sống ta. Khi ấy ta sẽ là muối đích thực và ánh sáng đích thực.
Chúa Giê-su còn nhắc đến “những công việc tốt đẹp anh em làm” như những phương tiện để ta thi hành lệnh truyền đem muối và ánh sáng đến cho anh chị em. Không phải chỉ làm chứng tá bằng lời nói suông, nhưng là bằng những việc làm cụ thể. Ta khó mà giải thích cho người khác hiểu thế nào là lòng thương xót, nhưng qua một cử chỉ cảm thông và giúp đỡ của ta, họ sẽ hiểu được ngay. Nhưng quan trọng hơn nữa, họ sẽ biết được căn tính của ta là con cái của “Đấng giầu lòng xót thương” (Lc 6:36) và sẽ “tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”
“Anh em là muối cho đời. Anh em là ánh sáng cho trần gian.” Sứ mệnh của ta là cho đời và cho trần gian. Mục tiêu làm chứng tá phải là cho những người sống chung quanh ta. Đời và trần gian không hẳn là từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, nhưng là phạm vi nhỏ bé, giống như một chén đồ ăn hoặc căn nhà một phòng của người Do-thái, là những môi trường ta sống, làm việc và ở trong mối liên đới với những người chung quanh. Không cần ta phải cao vọng đi tới những miền xa xôi làm chứng tá cho Chúa, nhưng ta hãy bắt đầu từ chính gia đình ta, sở làm, cộng đoàn của ta. Không cần ta phải thực hiện những việc to lớn, nhưng là những việc nhỏ mọn thường ngày. Không cần ta phải huyênh hoang cho mọi người biết, nhưng cứ để cho những việc làm của ta “âm thầm” tác động trên người khác, kín đáo như muối thay đổi vị lạt và ánh sáng phóng đi những hạt li ti mắt thường không thấy được.
Về những công việc tốt đẹp nào thì Chúa Giê-su đã nêu lên trong Tám Mối phúc là những công việc tốt đẹp Thiên Chúa đã làm cho nhân loại và cho ta. Do đó, khi ta làm “những công việc tốt đẹp” là ta giúp cho người khác nhận ra những công việc tốt đẹp của chính Thiên Chúa vậy.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Nhìn lại đời sống mình, tôi tự hỏi tôi có thực sự là khí cụ Chúa dùng để rao giảng Tám Mối phúc không? Nói khác đi, tôi có ý thức sứ mệnh làm chứng cho những giá trị Tin Mừng không?
Trong hoàn cảnh sống hiện tại của tôi, tôi có thể làm chứng về điều nào một cách hữu hiệu nhất? Tại sao?
Tôi đã làm gì để giữ được vị mặn của muối và sức sáng của ánh sáng trong đời tôi? Tôi đã sống quan hệ với Đấng là “ánh sáng thế gian” như thế nào?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su
tạ ơn Chúa đã cho chúng con
ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
vá ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa
vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối
của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giê-su,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn
trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con
đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 101)
Lm Đaminh Trần Đình Nhi
------------------------------------
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: 1 Cô-rin-tô 2: 1-5
Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa" là một nguyên tắc quan trọng giúp mỗi người chúng ta khiêm: TN 5-A57.
"Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa" là một nguyên tắc quan trọng giúp mỗi người chúng ta khiêm tốn đích thực và đừng để tính kiêu căng trở thành nguyên nhân gây nên chia rẽ hoặc phe phái. Nắm vững nguyên tắc ấy, thánh Phao-lô không ngần ngại chia sẻ với anh chị em tín hữu Cô-rin-tô chính những nhược điểm của ngài. Ngài thành thật cho họ biết về con người thực của mình. Hình ảnh Phao-lô lần đầu tiên khi đặt chân đến Cô-rin-tô chắc chắn vẫn còn in rõ trong đầu óc người dân Cô-rin-tô. Ngài đến từ A-then, Hy-lạp, sau khi thất bại nặng nề trong việc rao giảng Tin Mừng tại đấy. Đọc Công vụ Tông Đồ 17:16-34, chúng ta có lẽ nhận ra cung cách rao giảng của Phao-lô lúc ấy. Ngài muốn trình bày sứ điệp Tin Mừng cho người Hy-lạp theo phương pháp triết lý, văn chương, hùng biện. Nhưng thính giả sau khi nghe ngài, kẻ thì nhạo cười ngài, kẻ thì đuổi khéo "để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói".
Phao-lô đã học được bài học tại A-then. Rao giảng Mầu nhiệm Đức Ki-tô bằng "lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu" tại Hội đồng A-rê-ô-pa-gô chẳng thu hoạch được kết quả gì, ngoại trừ có vài người theo ngài và tin Chúa. Cho nên ở đây, tại Cô-rin-tô, cung cách Phao-lô rao giảng Tin Mừng đã thay đổi. Muốn rao giảng về Đức Ki-tô thì phải "không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô." Nói khác đi, người rao giảng cần phải đặt tất cả nỗ lực, yêu mến, suy tưởng của mình vào Đức Ki-tô và việc rao giảng. Đừng để cho bất cứ gì chi phối mình và sứ vụ của mình. Để xác định rõ ràng thêm nội dung sứ điệp rao giảng, thánh Phao-lô đã viết: "Mà là Đức Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá." Đây chính là hình ảnh tuyệt đỉnh, tinh túy nhất của Mầu nhiệm Ki-tô, vì nó lột tả được cách trung thực và đầy đủ tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Cốt tủy của "nghịch lý thập giá" cần phải được truyền đạt cho người nghe, không phải bằng lời lẽ triết học khôn ngoan của người đời, nhưng là bằng xác tín do Thánh Thần và quyền năng Thiên Chúa ban cho. Tầm quan trọng và cao cả của sứ điệp đòi hỏi nơi người rao giảng một cung cách xứng hợp. Không phải là khoa chân múa tay, cử điệu thuyết phục, từ ngữ chọn lọc có thể chuyên chở được sứ điệp Tin Mừng. Không phải cái mã thông thái, sâu sắc làm cho người ta bị thuyết phục và đến với đức tin. Nhưng là thái độ "tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy", một thái độ tôn kính, tin tưởng và yêu mến đối với sứ điệp là Đức Ki-tô chịu đóng đinh.
Thánh Phao-lô khước từ những lời lẽ khôn khéo tự nó có sức hấp dẫn nhưng chỉ có thể gợi lên một niềm tin tưởng hoàn toàn phàm tục, ở cấp độ tự nhiên. Còn đức tin ở cấp độ siêu nhiên. Do đó, người rao giảng phải tựa vào quyền lực siêu nhiên. Điểm tựa của Phao-lô là Thần khí và quyền năng Thiên Chúa. Chỉ có Thánh Thần và quyền năng Thiên Chúa mới có sức khơi dậy một niềm tin, một lòng gắn bó ở cấp độ siêu nhiên thuộc cõi thần linh. Một người yếu kém, sợ sệt và run rẩy mà lôi cuốn thính giả được như vậy quả là một bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Xem chú thích l), bản dịch của Nhóm Phiên dịch CGKPV.
Đó là kinh nghiệm đức tin cá nhân thánh Phao-lô muốn chia sẻ với giáo đoàn Cô-rin-tô đang trong tình trạng chia rẽ. Qua chia sẻ này, thánh Phao-lô khéo léo nhắc nhở họ về mối nguy hiểm chia rẽ phe phái, và với tư cách một người cha tinh thần, ngài còn thẳng thắn xin tín hữu Cô-rin-tô hãy bắt chước ngài, như ngài bắt chước Đức Ki-tô (x. 4:16). Nếu tự hào vì mình thuộc phe này phe nọ, hoặc vì mình tài giỏi, thì chính những tự hào đó sớm muộn cũng đưa cá nhân và cộng đoàn đến tình trạng chia rẽ. Nhưng nếu ai ai cũng biết khiêm tốn nhận ra chỗ đứng của mình và hoàn toàn tín thác vào quyền năng Thiên Chúa, thì cộng đoàn đức tin sẽ phát triển. Nơi đó, chỉ những phần tử khiêm nhượng đích thực mới có thể nhận ra được sự khôn ngoan đích thực và quyền năng của Thiên Chúa biểu lộ qua mầu nhiệm thập giá Đức Ki-tô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Lãnh nhận một công tác tông đồ trong cộng đoàn, có khi nào tôi vênh vang với những thành công và lên mặt với người khác không? Thử xét lại để thấy đó là làm vinh danh Chúa hay làm vinh danh tôi?
Trong Giáo Hội hôm nay, mối nguy hiểm ít người tông đồ nhận ra được, đó là áp dụng "kỹ thuật" một cách rất tinh vi, cho nên nơi người làm tông đồ thiếu hẳn "hồn" tông đồ. Thay vì cung cách "thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy" thì người ta áp dụng những phương pháp khéo léo và tự tin vào khả năng sử dụng phương pháp nơi mình. Tôi có thấy điều ấy nơi tôi không? Làm sao để có được cái "hồn tông đồ"(âme dapostolat)?
Trên thập giá, Đức Ki-tô tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Giữa gian truân trên đường truyền giáo, thánh Phao-lô bắt chước Chúa Ki-tô, tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thánh Thần và quyền năng Thiên Chúa. Còn tôi, tôi có tin vào sức mạnh của mầu nhiệm thập giá Đức Ki-tô không? Tại sao tôi tin?
Nếu tôi phải thay đổi cung cách làm việc tông đồ hiện thời, tôi phải làm những gì? Sử dụng cách thức nào để thay đổi?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài thích hợp hoặc đọc kinh "xin ơn quảng đại."
Kinh xin ơn quảng đại
Lạy Ngôi Lời vĩnh cửu, là Con Một Thiên Chúa,
Xin Chúa dạy con biết sống quảng đại đích thực,
Xin dạy con biết phụng sự Chúa như Chúa đáng được phụng sự,
Biết cho đi mà không cần tính toán,
Biết chiến đấu mà không sợ bị thương,
Biết vất vả làm việc mà không tìm nghỉ ngơi,
Biết hy sinh bản thân mà không đòi phần thưởng
Miễn là được biết rằng con đang thi hành thánh ý Chúa. A-men.
Thánh I-nhã
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
------------------------------------
Vai trò, trách nhiệm của các môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô là gì? 2. Chúng ta phải sống thế: TN 5-A58
1. Vai trò, trách nhiệm của các môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô là gì?
2. Chúng ta phải sống thế nào để là muối, là ánh sáng giữa lòng xã hội Việt Nam hiện nay?
* Suy tư gợi ý
1. Vai trò, trách nhiệm của các môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô
Để kết thúc buổi Sinh hoạt Ngày Truyền Thống Giáo lý viên Giáo phận Phú Cường tại Nhà Chung Giáo phận sáng 3.2 vừa qua, ban tổ chức đã có một nghi thức hết sức cảm động và ý nghĩa: tay cầm nến cháy, khoảng 300 giáo lý viên xếp hàng tiến từ hội trường tầng trệt lên nhà nguyện ở lầu ba, miệng hát bài "Thắp sáng lên trong con tình yêu Chúa.". Trong nhà nguyện, các giáo lý viên làm thành nhiều vòng tròn, xung quanh cây Nến Phục Sinh đang cháy và tấm bản đồ Giáo phận Phú Cường được vẽ bằng phấn mầu trên nền nhà nguyện. Các đại diện giáo hạt cắm những cây nến lớn vào các hạt của mình rồi tất cả các giáo lý viên cắm những cây nến nhỏ vào một chỗ nào đó trên tấm bản đồ giáo phận. Qua nghi thức trên, các giáo lý viên Phú Cường muốn nhắc nhở mình là ánh sáng của Chúa Ki-tô trong địa bàn giáo phận gồm tỉnh Bình Dương, một phần tỉnh Bình Phước, một phần tỉnh Tây Ninh, một phần tỉnh Đồng Nai, một phần thành phố Hồ Chí Minh.
Dù người giáo dân chúng ta có khiêm tốn hay muốn trốn tránh trách nhiệm hay chưa được chuẩn bị cho vai trò, trách nhiệm của mình thì những lời của Chúa Giê-su vẫn rành rành ra đó, không ai chối cãi và coi thường được:
"Anh em là muối cho đời - Anh em là ánh sáng cho trần gian".
Muối thì phải mặn mới ướp được các thực phẩm. Ánh sáng thì phải nóng, phải sáng mới soi sáng, đốt cháy được các tâm hồn khác. Không mặn thì không còn là muối. Không sáng thì không còn là ánh sáng nữa. Không làm được cho con người và thế giới này trong sạch, tươi đẹp, công bình và yêu thương hơn thì chúng ta chẳng xứng danh là Ki-tô hữu!
2. Chúng ta phải sống như thế nào để là muối, là ánh sáng trong xã hội hiện nay?
1. Nếu dựa vào Lời Chúa trong bài đọc I thì chúng ta phải biết chia cơm sẻ áo với người nghèo, phải giúp đỡ, bênh vực và giải phóng những người bị thiệt thòi, bị áp bức và bị bóc lột trong xã hội. Sống như thế là chúng ta trở thành ánh sáng!
2. Nếu dựa vào Tông huấn Giáo hội tại Á Châu của Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II, thì để làm chứng - tức làm muối men và ánh sáng- người công giáo Á châu phải phục vụ sự thăng tiến con người, bằng những việc làm rất cụ thể như: (1) Phục vụ sự sống (2) Chăm sóc sức khỏe (3) Chăm lo giáo dục và (4) Xây dựng hòa bình (số 35-38).
3. Nếu dựa vào Thư Chung 2001 của Hội đồng Giám mục Việt Nam gởi toàn thể Dân Chúa, thì chúng ta phải cộng tác với mọi người thành tâm thiện chí nhằm phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của xã hội chúng ta hiện nay. Các mặt tích cực và tiêu cực ấy đã được Thư Chung phân tích chính xác và khá đầy đủ:
- "Trước hết là mặt sáng hoặc tích cực: nếu ngày nay người ta chứng kiến một khát vọng và nỗ lực xây dựng đất nước giàu mạnh hơn về phương diện vật chất như công nghiệp hóa, hiện đại hoá ..., về phương diện tinh thần như giữ gìn bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, thì người ta cũng ghi nhận rằng con người ngày nay quan tâm đến các vấn đề gia đình và xã hội như xoá đói giảm nghèo, chăm sóc phụ nữ và trẻ em, phát huy hoạt động xã hội của giới trẻ, đồng thời lưu tâm đến các vấn đề ở quy mô lớn hơn như mở rộng các quan hệ quốc tế và hoà nhập vào cộng đồng nhân loại".
- "Tuy nhiên vẫn còn mặt tối hoặc tiêu cực: đó đây trên bình diện quốc gia, mức sống người dân còn thấp, lao động không đủ sống, thất nghiệp ...; sự sống chưa được tôn trọng và bảo vệ đúng mức, lại thường xuyên bị đe doạ bởi thiên tai và nạn phá huỷ môi trường, bởi tai nạn giao thông và các tệ nạn như nghiện ngập ma tuý, mãi dâm, HIV-AIDS; sự gian dối có chiều hướng tràn lan trong xã hội như hàng giả, bằng giả, hối lộ và tham nhũng. Ngoài ra, sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn ngày càng gia tăng, tạo nên một làn sóng người đổ xô về thành thị. Hơn nữa, sự suy yếu đạo đức trong gia đình ngày càng bôc lộ qua nhiều hiện tượng phổ biến như buôn bán phụ nữ và trẻ em, bạo hành trong gia đình, lạm dụng tình dục trẻ em. Cuối cùng, bối cảnh kinh tế thị trường và cạnh tranh thúc đẩy ngày càng nhiều người chạy theo lợi nhuận bất chấp các giá trị đạo đức khiến nhiều người trẻ bị hụt hẫng khi nhìn về tương lai" (số 7-8).
4. Có một điều cần lưu ý là trong một xã hội hay trong thế giới ngày nay các nỗ lực cá nhân, dù rất đáng trân trọng thì cũng không đủ sức để làm thay đổi hoàn cảnh. Cần phải có sự cộng tác, hợp sức hợp lực của nhiều người, nhiều giới, nhiều cộng đồng, quốc gia. Trong việc làm muối, làm ánh sáng của người Ki-tô hữu cũng thế: phải là cộng đoàn làm chứng, cộng đoàn loan báo Phúc Âm, cộng đoàn phục vụ sự thăng tiến con người, cộng đoàn ủng hộ tích cực và chống tiêu cực!
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho trần gian và cho chúng con, để chúng con và trần gian được cứu độ.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Muối ướp mặn cuộc đời, Chúa đã đến để nhân loại khỏi hư mất: Xin Chúa giữ gìn con khỏi ươn thối và biến chúng con thành muối để ướp những con người, những thực tại mà chúng con tiếp cận hằng ngày!
Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Ánh Sáng trần gian, Chúa đã đến để loài người không phải đi trong tăm tối mà được đi trong ánh sáng: Xin Chúa chiếu sáng và thiêu đốt tâm hồn chúng con để chúng con trở thành ánh sáng cho những người và môi trường chung quanh.
Lạy Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh, là Thần Khí của Thiên Chúa: Xin ban ơn cho chúng con ý thức được vai trò, trách nhiệm của người môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô và giúp chúng con làm tròn vai trò, trách nhiệm ấy trong thời đại hiện nay!
Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội
------------------------------------
Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu có một nhận định thật sinh động: "Niềm tin của Giáo Hội vào: TN 5-A59
Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu có một nhận định thật sinh động: "Niềm tin của Giáo Hội vào Đức Giêsu vừa là một qùa tặng Giáo Hội nhận được, vừa là món qùa để chia sẻ...Xác tín như thế, các nghị phụ lại càng ý thức trách nhiệm bản thân của mình là phải học hỏi, cầu nguyện và gẫm suy để lĩnh hội chân lý vĩnh cửu là Đức Giêsu, hầu có thể đem sức mạnh và sinh lực của chân lý ấy đồi diện với những thách đố đang và sẽ đặt ra cho công cuộc phúc âm hóa tại Á Châu".
Không ai có thể hơn Phaolô về nhận thức giá trị lớn lao của món qùa mình đã nhận lãnh: "Tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em, ngòai Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh". Trong thư gửi tín hữu Galata, thánh Phaolô còn nói mạnh mẽ hơn thế "Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập gía. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi." Và thánh tông đồ có một ước vọng "Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngòai thập giá của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian".
Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh theo Phaolô đó là "bằng chứng của Thiên Chúa...sự giãi bày của thần trí và quyền năng". Lời qủa quyết này mãi mãi còn là một điều khó hiểu và khó chấp nhận. Vào thời của Phaolô, cũng như vào thời đại chúng ta đang sống, con người vẫn không ngừng khát vọng được gỉai thóat khỏi mọi áp bức và bất công. Những ai sống trên đất Mỹ đều đã có thể cảm nghiệm được cái nhu cầu ngàn đời ấy trước những viễn tượng bị khủng bố qua biến cố 11.9 đen tối. Người ta thấy trong mọi nhà thờ, ngay cả chỉ là để lần hạt chung, cũng đã đông kín người! Thế nhưng họ đến đó cũng chỉ là cầu mong cho đời sống được an bình...có thể nói họ đi tìm một lá bùa hộ mệnh! Nhưng Đức Giêsu của thời đại Phaolô, hay của thời đại hôm nay, và mãi mãi, Ngài vẫn chỉ là "Đấng Bị Đóng Đanh". Đã rất nhiều cố gắng tìm hiểu lý do của sự kiện ấy, y như đã có nhiều nỗ lực tìm lý do để kết án Người. Đọan Tin Mừng chúng ta vừa cử hành muốn là lời gỉai đáp.
Thực vậy, đọan Tin Mừng này được thánh Matthêu đặt liền sau "Bài Giảng Trên Núi", đó là "Hiến Chương Nước Trời" như người ta thường nói như thế. Theo đó cuộc sống của chính Đức Kitô và những ai đi theo Ngài, đều có liên hệ mật thiết với những khát vọng cụ thể và thẳm sâu của nhân lọai, một nhân lọai chìm ngập trong nghèo khó, trong bạo lực, trong tang tóc, trong bất công, trong xua đuổi đọa đày, trong đam mê nhục tình...một lối sống mở lối cho con người đi vào một thế giới an bình thịnh vượng và được tôn trọng, một thế giới mà nhân phẩm được nâng lên hàng thần thánh. Chính vì gắn bó cuộc sống mình vì hạnh phúc của đại đa số nhân lọai lầm than cay cực ấy, chính vì đòan lũ đông đảo con người đi theo các Ngài, mà lối sống ấy đụng chạm tới những cơ cấu, những tổ chức, những tập đòan quyền lực. Và bản án phải là điều tất yếu vậy. Lối sống là "muối men", là "ánh sáng" để làm cho những cuộc đời vốn bị chà đạp, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị xiềng xích trở thành cuộc đời là ân huệ, là sung túc và tự do vươn lên khỏi những "đáy thùng" thâm u sự chết.
Từ ngàn năm trước, Isaia đã nói về lối sống như là "Ân Huệ" này bằng những thể hiện rất cụ thể của nó: "Chia bán của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng kinh bỉ xác thịt của ngươi..." "Nếu ngươi lọai bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm dọa,lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách và làm cho những người đau khổ được vui thích..."
Những Lời Kinh Thánh hôm nay chính là nguồn ánh sáng chiếu rọi Niềm Tin qủa đúng là một qùa tặng nhận lãnh được để chia sẻ. Khi một Giáo Hội để cho "những chiếc thùng"vây kín cuộc sống đạo nhân danh muôn vàn quy định và nguyên tắc, Giáo Hội ấy không còn trung thành với Niềm Tin. Tôi muốn suy nghĩ về những hệ thống tổ chức công việc Bác Ái nơi này nơi khác, đã bóp nghẹt sự nhậy cảm trước muôn vàn nhu cầu cấp bách của con người, và đã cướp đi những cơ hội để con tim tiếp cận với những con người nghèo khó. Tôi nghe nói nhiều nhà thờ tại Mỹ hôm nay đã từ chối việc các linh mục đến từ các xứ nghèo xin tiền giúp đỡ của giáo dân , nếu không có sự ưng thuận của Tòa Giám Mục. Lý do là vì đã có nhiều lạm dụng, hay là bị lừa gạt, bị mất mát ...Những lý do thật chính đáng.
Nhưng rõ ràng mầu nhiệm của Đức Kitô, mầu nhiệm "Hiến Chương Nước Trời", "mầu nhiệm Ánh Sáng và Muối Men" là một sự chấp nhận đành mất tất cả để có thể trở nên người bạn chí tình của ngững kẻ bị bỏ rơi, không phân biệt họ là ai. Đức Giêsu đã chết cho Phêrô, nhưng cũng đã chết cho Giuđa, một tên phản bội. Vì thế hậu qủa là, khi con người bị cướp đi cơ hội tiếp cận với người đau khổ, họ cũng đã bị tước đọat cơ hội sống Niềm Tin của mình, và Giáo Hội trở nên già nua chỉ còn biết phung phí sự sống trong những kèn cựa lợi danh. Đó là nguyên nhân của những giai đọan trì trệ và tàn lụi trong lịch sử Giáo Hội. Vào những thời điểm đó, lịch sử chỉ có thể được làm lại nhờ những con người biết rũ bỏ mọi cơ chế để hòa mình và đồng hành với người khổ đau như Phanxicô thành Assisi, như Gioan Bosco ở Turin, như Gioan Vianney ở xứ Ars....
Niềm Tin mãi mãi là "một qùa tặng nhận được, vừa là món qùa để chia sẻ".
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
------------------------------------
Chúa Nhật 5 Thường Niên-năm A
Is 58: 7-10/ 1 Cor 2: 1-5/ Mt 5: 13-16
Sứ vụ Kitô hữu là trở nên muối đất và ánh sáng thế gian. Trong tập sách dễ thương có tựa đề: TN 5-A60
Sứ vụ Kitô hữu là trở nên muối đất và ánh sáng thế gian. Trong tập sách dễ thương có tựa đề "The Pearl in the Oyster - Hạt Ngọc Trong Con Trai," tác giả kể về cách thức một phụ nữ đã dùng để tự nhắc nhở về thực tại này.
Bà tôi có hai chiếc bàn ủi. Một chiếc láng bóng, mới tinh, có sợi dây cuộn lại xinh xắn như đuôi con mèo. Chiếc kia thì chẳng ai động tới, đặt trên kệ cao, bên cạnh quyển Thánh Kinh và một cây phong lữ nở hoa quanh năm. Chiếc bàn ủi cũ kỹ này nhỏ nhắn, hai đầu nhọn và có tay cầm bằng gỗ có thể gỡ ra dễ dàng vì hồi ấy người ta thường đặt bàn ủi trên bếp lò để hơ nóng... Nét rõ nhất của chiếc bàn ủi này là rỉ sét...
Lớp rỉ màu đỏ quạch phủ toàn thể chiếc bàn ủi, hệt như một cái bánh hình chiếc xuồng. Khi tôi chà bớt để nhìn cho rõ thương hiệu của chiếc bàn ủi , những ngón tay của tôi vương đầy rỉ đỏ. Vậy mà bà tôi không chịu vứt đi, cũng chẳng chà lau cho sạch sẽ. Chiếc bàn ủi này được đặt ở chỗ danh dự, nhưng âm thầm rỉ sét... Và rồi tôi lớn khôn, bà tôi đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây. "Trên kệ cao có ba vật." Bà tôi chỉ quyển Thánh Kinh, cây phong lữ, và chiếc bàn ủi rỉ sét. "Mỗi sáng ba vật ấy nhắc nhở chúng ta về cách sống trong ngày." Bà tôi cầm quyển Thánh Kinh xuống, mở Phúc Âm Thánh Matthêu và đọc, "Người ta sống không nguyên bởi bánh," cũng không phải bởi những chiếc áo khoác, những chiếc váy xếp nếp, những sàn nhà láng bóng, những màn cửa phẳng phiu hoặc những cửa sổ bóng loáng. Những thứ ấy tuy đẹp thật, được no cơm ấm áo cũng vậy, nhưng vẫn còn nhiều điều khác nữa." Nói tới đó, bà tôi rướn người cầm cây phong lữ. Những chiếc lá tươi tốt, xanh mởn, hoa nở thật đẹp. Rồi bà nói, "Bà vẫn chăm bón và tưới nước, thế nhưng nó tươi tốt như thế này là nhờ sự quan tâm và những lời ngọt ngào." (Hồi ấy, chưa ai nghĩ đến việc nói chuyện với cây cỏ, thế nhưng bà tôi đã biết). Và cây phong lữ này đã đáp ứng bằng cách trở nên một cây phong lữ đẹp. Mọi sinh vật đều cần những gì êm ái, xinh đẹp và yêu thương." Sau đó, bà tôi nhìn vật cuối cùng đặt trên kệ và nói, "Còn chiếc bàn ủi rỉ sét đặt trên kia là để nhắc nhở chúng ta rằng: Con người bao giờ cũng trọng hơn các vật. Nhiều khi chúng ta lẫn lộn bậc thang giá trị, chúng ta để mình bận bịu đến độ không còn thời giờ ôm hôn một đứa trẻ. Chúng ta để dụng cụ biến thành chủ nhân, đó là lớp rỉ sét tụ sai chỗ." Chiếc bàn ủi có thể rỉ sét, chứ không phải tâm trí con người (Donahue, Marilyn Graham, "The Pearl is in the Oyster," Tyndale House).
"Các con là muối đất." Để có thể thành công trong sứ vụ Kitô hữu, đem lại hương vị cần thiết cho thế giới, chúng ta phải theo sát công thức của Thiên Chúa về cái chúng ta là và điều chúng ta làm. Nước Thiên Chúa đến trong tình yêu, và trong tình yêu, chúng ta khám phá sự kết hợp tuyệt vời giữa cái chúng ta là và điều chúng ta làm. Kitô hữu chúng ta nhận thấy không hề có sự tách biệt giữa cái chúng ta là và điều chúng ta làm, giữa con người của chúng ta và những việc chúng ta làm. Hai yếu tố ấy không thể tách rời. Bởi lẽ con người chúng ta thế nào, chúng ta sẽ sống thế ấy. Chúng ta sống thế nào, thì con người chúng ta thế ấy. Là môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta ướp đượm thế giới bằng hương vị tình yêu; và vì chúng ta ướp đượm thế giới bằng hương vị của tình yêu, nên chúng ta chính là môn đệ của Chúa Giêsu.
"Các con là ánh sáng thế gian." Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta như đã từng phán dạy những môn đệ khi Người rao giảng, "Ánh sáng của các con phải chiếu giãi cho thiên hạ để người ta nhìn thấy các việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời" (Mt 5:16). Giờ đây, chúng ta được ủy thác để đến với những người cô đơn, để chữa lành tình trạng cô quạnh của họ, để làm thấm nhuần cuộc sống họ bằng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta được ủy thác để giờ đây loan báo cho tất cả những người cô đơn Tin Mừng về một Thiên Chúa đầy lòng thương xót đã vì yêu thương mà tạo dựng nên con người. Bằng cả con người lẫn việc làm của mình, chúng ta được ủy thác để giờ đây chiếu soi ánh sáng của chân lý Phúc Âm cho tất cả những người cô đơn: Nếu không có tình yêu thì không có thành tựu nào cả, nếu không có Thiên Chúa, thì không có thành tựu nào hết - bởi lẽ Thiên Chúa là tình yêu.
Người ta kể chuyện một nghệ sĩ vĩ cầm lừng danh đã làm rung động cả khán giả bằng một buổi trình tấu đầy ấn tượng. Sau khi biểu diễn tác phẩm cuối cùng, ông cầm cây vĩ cầm đập mạnh vào một chiếc ghế. Mọi người sững sờ. Nghệ sĩ cười, nói, "Quí vị đừng bỡ ngỡ. Cây vĩ cầm vừa bị đập vỡ tôi đã mua ngoài cửa hiệu đồ cũ, chỉ đáng mấy đô la. Bây giờ, tôi sẽ biểu diễn hầu quí vị với cây vĩ cầm hiệu Stradivarius vô giá của tôi." Sau đó, ông đã biểu diễn tác phẩm cuối cùng của ông một lần nữa mà tất cả chúng tôi, không ai nhận ra được một khác biệt nào cả giữa hai lần trình diễn. Cả hai lần đều tuyệt vời. Và nghệ sĩ ấy nói, "Thưa quí vị, người ta bàn tán nhiều về giá trị cây vĩ cầm hiệu Stradivarius của tôi, nhưng tôi muốn chứng tỏ cho quí vị thấy rằng phẩm chất của bản nhạc không tùy thuộc nhạc cụ cho bằng nhạc công."
Tất cả chúng ta ai cũng có những giới hạn. Tất cả chúng ta ai cũng có những tài năng. Tất cả chúng ta ai cũng thiếu thốn một số năng lực. Không có hai nhân cách nào hoàn toàn giống hệt nhau. Thứ nhạc chúng ta trình diễn trong sứ vụ Kitô hữu không có gì quan trọng. Điều quan trọng chính là tâm hồn của người thực hiện.
Sau biến cố Phục Sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ của Người và phán, "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con" (Ga 20:21). Chúa thở hơi trên các ngài và nói, "Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20:22). Được tràn đầy tình yêu của Thánh Thần Thiên Chúa, các ngài đã dâng hiến đời mình cho sứ vụ Kitô giáo bằng cách đem muối mặn và ánh sáng đến cho thế giới.
Chúng ta muốn chấp nhận tr?n vẹn con người của mình. Chúng ta muốn nhìn thấy và quí trọng vẻ đẹp riêng của từng người. Chúng ta muốn yêu quí tha nhân mà không làm mất cuộc sống của họ. Chúng ta muốn tôn vinh vẻ đẹp và những ân huệ cá biệt của tha nhân mà không cảm thấy bị đe dọa khi họ vươn đến thành công. Chúng ta muốn trở nên những con người như thế. ?ể có thể đạt được một lối sống tuyệt vời như thế, trước hết chúng ta phải để cho Thiên Chúa hằng sống đến với cuộc sống của mình. Chúng ta cần để cho Thiên Chúa hằng sống điều khiển cuộc sống của chúng ta. Chúng ta phải đích thân dấn bước và đưa tha nhân vào đường lối này.
Chúa Giêsu mời gọi, "Hãy theo Ta." Hãy theo Ta; hãy phó mình cho vương quyền và chủ quyền của Chúa Cha, đừng đắn đo. "Các con là muối đất." Chúa Giêsu đã nói với chúng ta như vậy! Hãy chiếu giãi ánh sáng của chúng ta cho tha nhân bằng con người và việc làm của chúng ta. Sứ vụ Kitô giáo trong tay của chúng ta. Thành công hay thất bại tùy thuộc vào việc tâm hồn chúng ta có hay không có tinh thần yêu mến.
------------------------------------
(Mt 5,13-16 – CN V TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc hôm nay nằm trong Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và nói đến sứ mạng của người môn đệ: TN 5-A61
Bản văn đọc hôm nay nằm trong Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và nói đến sứ mạng của người môn đệ “trong thế gian”. Bản văn được trực tiếp kết nối với các “Mối Phúc” (5,3-12). Các câu 11-12 nói về bách hại chỉ là những câu nhắc lại c. 10 và chuyển tiếp. Nhưng cụm từ “phúc thay anh em” cho phép ta móc với từ “anh em” ở c. 13. Những người nhận bản văn này không phải là một hạng tín hữu đặc biệt, nhưng là các môn đệ đã được nói đến ở đầu chương (5,1) và được ngỏ lời trực tiếp ở cc. 11-12. Cộng đoàn Kitô hữu được nhắc nhớ đến bổn phận truyền giáo.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm hai phần:
1) Môn đệ Đức Giêsu là “muối cho đời” (5,13);
2) Môn đệ Đức Giêsu là “ánh sáng cho trần gian” (5,14-16).
3.- Vài điểm chú giải
- anh em là (13): Đức Giêsu nói trực tiếp với các môn đệ Người, để xác định sứ mạng của họ. Đây không phải là một gợi ý về một chiều hướng nên theo, nhưng là một khẳng định về tư cách, ơn gọi. Cũng có thể thấy cụm từ này có liên với Xh 19,6 (“Còn các ngươi, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế cho Ta và một dân tộc thánh”). Như Đức Chúa (Yhwh) đã chọn dân Ngài giữa các dân nước và xác định tư cách của họ, Đức Giêsu cũng đã chọn các môn đệ trong loài người và bây giờ xác định sứ mạng cho họ.
- muối cho đời… ánh sáng cho trần gian (13.14): dịch sát là “muối của đất (gê)” và “ánh sáng của thế gian/ trần gian (kosmos)”. Vì “đất” được dùng song song với “trần gian”, nó không có nghĩa là đất bùn, đất bột, đất thịt, nhưng là “trái đất”, tương tự với “trần gian”, “thế gian”. Cả hai từ “đất” và “trần gian” ở đây đều có nghĩa là “toàn thể nhân loại”, tức có một tầm mức phổ quát.
- để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm (16): Dường như câu này mâu thuẫn với Mt 6,1-18 (nhất là với cc.1-2.5.16)? Thật ra, các bản văn nêu ra hai lý do khác nhau: ở đây lý do là vinh quang của Cha trên trời; trong 6,1-18, lý do là việc chúc tụng ngợi khen cá nhân mà đương sự đi tìm để thỏa mãn tính khoe khoang của mình (x. 6,2-5). Hai bản văn cũng nói đến hai cách thức xử sự khác nhau: ở đây, người môn đệ chỉ đơn giản tỏ mình ra là môn đệ của Đức Kitô, là Kitô hữu; còn ở 6,1-18, Đức Giêsu kết án sự khoe khoang người ta tỏ ra để lôi kéo sự chú ý của người khác.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Mối Phúc cuối cùng liên hệ đến những người bị bách hại vì sống công chính (5,10). Chính Mối Phúc này được Đức Giêsu lấy lại mà ngỏ trực tiếp với các môn đệ, là những người đang ở ngay bên Người, và với đám đông đang nghe Người (5,1): “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,11). Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết ngay từ đầu phản ứng tiêu cực của môi trường, nếu họ sống trung thành với Người, nếu họ tìm sự công chính và quy hướng lối sống của họ theo chương trình của Người. Họ phải trả lời thế nào? Ai cũng coi trọng việc mình được chấp nhận và nhìn nhận. Phải chăng các môn đệ phải thích nghi với môi trường của họ, để được môi trường chấp nhận? Phải chăng họ phải giới hạn quan hệ với một vòng những người có cùng những ý tưởng như nhau, để khỏi gây mâu thuẫn? Cho họ cũng như cho tất cả các Kitô hữu, hôm nay còn đang thường xuyên bị cám dỗ từ chối chân tính của mình và tìm thích nghi, hoặc bị cám dỗ rút lui vào đàng sau cánh cửa, Đức Giêsu giao cho nhiệm vụ làm muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. Nhờ đó, cho dù họ có bị sỉ nhục (5,11), họ vẫn đưa được người ta đến chỗ tôn vinh Chúa Cha trên trời (5,16).
* Môn đệ Đức Giêsu là “muối cho đời” (13)
Khi khẳng định rằng các môn đệ là “muối cho đời”, Đức Giêsu cho hiểu các môn đệ có sứ mạng truyền giáo. Do ơn gọi, họ phải đóng một chức năng đối với những người khác tương tự muối đối với các thức ăn (giữ cho khỏi hư thối, làm cho thêm hương vị). Không có muối, thức ăn bị hư thối; không có người Kitô hữu, xã hội thiếu mất một sức mạnh thiêng liêng và luân lý có khả năng gìn giữ xã hội khỏi những sự dữ đang muốn xâm nhập vào. Do đó, sự hiện diện của người Kitô hữu không phải là không đáng kể hoặc có hay không cũng vậy. Giống như muối, sự hiện diện của Kitô hữu không thể thay thế. Không ai có thể đứng vào vị trí của họ nếu họ bị suy yếu đi. Tác giả lưu ý và răn đe các Kitô hữu coi chừng kẻo mình trở nên nhạt nhẽo đi. Họ cũng sẽ như muối, khi đã nhạt thì chỉ còn đáng loại bỏ (x. 5,22.29).
* Môn đệ Đức Giêsu là “ánh sáng cho trần gian” (14-16)
Hình ảnh ánh sáng (cc. 14-15) là hình ảnh của Kinh Thánh (x. Xh 3,2; Is 60,19; Is 42,6). Tác giả Gioan gán cho Đức Giêsu chức năng mà ở đây Mt gán cho các môn đệ. Bóng tối, đêm tối, trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, là biểu tượng của các thế lực sự ác (x. Mt 8,12; Lc 22,53). Môn đệ Đức Kitô được thông dự vào sự sáng của Thiên Chúa, như Môsê khi xuống núi có mang trên mặt phản ánh vẻ uy hùng của Thiên Chúa (Xh 34,35). Không thể có chuyện Kitô hữu đi qua mà không ai biết; không ai có thể dửng dưng trước ánh huy hoàng thiêng liêng mà Kitô hữu đang tỏa ra. Giống như ánh sáng, Kitô hữu đi vào những nơi sâu thẳm nhất và kín ẩn nhất của trái tim con người và đưa ra ánh sáng những lỗ hổng mà ta gặp trong đó.
Lời khẳng định được minh giải bằng hai hình ảnh (c. 15). “Thành xây trên núi” có thể gợi ý đến Giêrusalem thiên sai, là điểm thu hút tất cả các dân tộc (x. Is 2,2-5; 60,1-2.19-20). Các Kitô hữu tháp vào trong thế gian như một nguồn ánh sáng từ đó mọi người có thể nhận được sự nâng đỡ và định hướng. “Thành xây trên núi” nêu bật tính khả thị (thấy được), điểm quy chiếu là chính tư cách của Họi Thánh Đức Kitô cho tất cả mọi người. Hình ảnh này được nhắc lại bằng hình ảnh cái đèn đặt trên đế. Căn phòng trong đó gia đình và bạn bè quy tụ lại trở nên sinh động nhờ ánh sáng của đèn. Hai hình ảnh này cũng có thể được áp dụng cho từng người môn đệ. Do ơn gọi, người môn đệ phải thông chia ánh sáng cho người khác. Họ không được thiếu ánh sáng, và càng không được thiếu trách nhiệm vì không tạo được một ảnh hưởng tốt nào trong cộng đoàn. Ánh sáng đây không phải là ánh sáng của các lời nói, cũng chẳng phải là ánh sáng của chân lý lý thuyết, nhưng là ánh sáng của “các việc tốt”, như Đức Giêsu đã đề cập đến (4,23-25) và đã làm (5,3-11) và sẽ còn nhắc đến (7,23; 25,31-46) trong các diễn từ của Người.
Khi đó người ta nhận ra rằng những ân huệ người môn đệ đang có phát xuất từ Thiên Chúa; họ sẽ chúc tụng ngợi khen Ngài. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa đòi hỏi con người hành động để tán dương Ngài, khi mà ta thấy là hoạt động cứu độ của Đức Kitô chứng tỏ rằng mọi sự là nhắm mưu ích cho những con cái Thiên Chúa “tuyển chọn” (x. Mt 5,44-48).
+ Kết luận
Từ bản chất của nhiệm vụ được ký thác cho họ, các môn đệ phải là như ánh sáng và muối cho người khác. Bởi vì nhiệm vụ của họ là thúc bách và lôi cuốn, họ phải ở trước mặt người ta, chứ không tránh né. Bởi vì bổn phận của họ là đưa đến một cái hoàn toàn mới, họ phải duy trì chân tính của họ, chứ không được tự đồng hóa với môi trường của họ. Chính các “việc tốt” giúp cho môn đệ sống đúng tư cách muối và ánh sáng.
Đời sống của các môn đệ đi theo các huấn thị của Đức Giêsu được coi như là một nhiệm vụ lớn. Không ai có thể thay thế họ được; họ phải chịu trách nhiệm về sự kiện trần gian nhận được hương vị và trở thành chan hòa ánh sáng. Xuyên qua đời sống họ, họ phải bày tỏ cách thức hiện hữu của Thiên Chúa, họ phải truyền thông niềm vui của các đứa con với Chúa Cha và chinh phục loài người về cho gia đình Ngài.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Muối tăng thêm hương vị; muối thấm vào thực phẩm để giữ cho khỏi hư thối. Muối hòa tan ra, và được phân phối trong tất cả khối lương thực. Muối có mặt khắp nơi trong khối lượng thực, nhưng muối vẫn là muối, thì mới giữ được giá trị và tính hữu hiệu của mình. Giống như muối, các môn đệ Đức Giêsu phải hiện diện trong môi trường và liên kết với môi trường. Nhưng họ phải cứ là muối, phải bảo toàn được cách cách thức sống của Cha họ (5,48). Muối không phải là một viên ngọc, một nén bạc phải được cất giữ hoặc đưa ra mà làm cho sinh lãi, nhưng là một chất gia vị. Nó sinh tác dụng khi nó chấp nhận “tự hủy” đi, hòa tan vào thực phẩm. Kitô hữu là muối cho đời, bởi vì người ấy không được kêu gọi đi vào một cuộc sống tách biệt, xa rời những người khác, nhưng bởi vì người ấy biết tan biến mình đi trong đại gia đình nhân loại để hỗ trợ bất cứ ai cần. Hình ảnh muối chống lại mọi thứ tinh thần phân lập (separatism) kiểu Pharisêu và gợi đến dụ ngôn men vui trong bột (13,23). Kitô hữu không những là người của những người khác, mà còn được gọi sống với những người khác, theo chiều hướng của Đức Kitô (bạn của người tội lỗi và thu thuế: 11,19).
2. Hình ảnh của ánh sáng đi song song với hình ảnh muối, vì ánh sáng cũng ảnh hưởng trên cuộc sống của con người. Không có ánh sáng, thì không thể có sự sống; mọi sự chìm vào trong bóng tối và trở nên hỗn độn (x. St 1,1). Như thế, trách nhiệm của người Kitô hữu là không thể lường được. Nếu sự dữ không lui đi, là vì ánh sáng phải đánh đuổi sự dữ đi lại quá yếu hoặc tệ hại hơn nữa, lại tắt mất rồi!
3. Các môn đệ của Đức Giêsu phải đói khát sự công chính, đói khát lối xử sự công chính (5,6), và đó là mối quan tâm đầu tiên của họ. Cách xử sự này là hình thức căn bản qua đó họ làm chứng về Thiên Chúa Cha. Xuyên qua lối xử sự của họ, các môn đệ phải đưa loài người đến chỗ quan tâm, suy nghĩ và tự hỏi, sao cho cuối cùng loài người cũng hòa với họ trong việc ca ngợi Thiên Chúa. Vậy các môn đệ phải bắt chước cách xử sự của Chúa Cha. Chỉ như thế thì qua lối sống của họ, bản chất của Chúa Cha mới được mạc khải ra và nhận biết. Nhờ những người sống như là con của Ngài, Thiên Chúa muốn được nhìn nhận như là Cha nhân lành và lôi kéo càng ngày càng nhiều người đến với Ngài.
4. Các môn đệ Đức Giêsu phải là một điểm quy chiếu và là ánh sáng, làm cho mỗi sự vật xuất hiện ra trong bộ mặt thật của nó và trong giá trị thật của nó. Do đó, họ phải ở vào một vị trí dễ thấy. Kitô hữu không được quên và càng không được cắt đứt sự thông truyền các ân ban mình đang có cho kẻ khác. Họ không được chạy lung tung để tìm người theo phe mình. Họ cũng không được rút lui vào tình trạng vô danh hoặc náu mình vào trong đám đông. Chỉ khi họ có thể thấy được, chứ không đi trốn hoặc đi ngụy trang, thì nhờ họ, Thiên Chúa mới có thể được nhận biết như là Cha nhân lành. Chỉ có lòng nhân ái, lòng tốt, tình yêu, tinh thần phục vụ mới có thể trở thành ánh sáng cho người khác.
5. Môn đệ Đức Kitô phải là một ngọn đèn đặt trên đế để soi chiếu cho mọi người trong nhà. Ở vào vị trí sao cho người ta thấy được mình thì hoàn toàn khác với việc tìm cách khoe mình (x. 6,1-18) vì những động lực khác. Chúng ta phải cho thấy các việc tốt đã làm không phải để được người ta khen ngợi (6,2), nhưng để cho nhờ ta trung thành sống bản tính con Thiên Chúa trước mắt người khác, Thiên Chúa được khen ngợi (5,16).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
------------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN, năm A
Mt 5, 13-16
Chúa Giêsu sau khi đã giảng về các Mối Phúc như nền tảng của Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu: TN 5-A62
Chúa Giêsu sau khi đã giảng về các Mối Phúc như nền tảng của Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu lại đem ra ba hình ảnh phổ thông ở nước Do Thái lúc đó để mời gọi các môn đệ thực thi và rồi khi đã thực thi những điều Chúa đề nghị, họ sẽ trở nên những chứng nhân loan báo Nước Trời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa kêu mời các môn đệ, những cánh tay nối dài của Chúa trở nên muối và đèn soi. Hình ảnh muối và đèn soi được dùng rất nhiều trong Kinh Thánh.Hai hình ảnh rất phổ thông này, Chúa Giêsu vạch ra một lối sống mà các môn đệ phải tuân thủ khi họ được sai đi truyền giáo. Muối được dùng làm gia vị để ướp măn đặc biệt để ướp cá và để tra canh. Người Do Thái dùng muối để làm phân bón cho vườn cây, cho rau, hoa, quả vv... Trong y học, người ta dùng muối để làm thang thuốc, để bảo vệ sinh tố, để làm cho tiêu hóa dễ dàng và để dẫn thuốc vào thận.Riêng Cựu Ước, muối biểu trưng cho sự trung tín của Thiên Chúa: Sách Dân số có nói Thiên Chúa đã ký kết với dân một khế ước bằng muối. Tân Ước, Chúa Giêsu nói:” Anh em là muối cho đời “. Khi nói như thế, chúng ta hiểu được hai ý nghĩa: thứ nhất, thêm hương vị tức là thêm sức sống ơn thiên Chúa. Thứ hai bảo vệ đồ ăn khỏi hôi thối nghĩa là bảo vệ chân lý hằng sống.
Do đó, người Kitô hữu là người thuộc về Chúa, sống giữa trần gian nhưng không thuộc trần gian. Chúng ta là con cái Chúa nhưng chúng ta vẫn là những người đang sống trong xã hội loài người.Nên, chúng ta cũng có bổn phận đối với Xã hội, Gia đình và Giáo hội.Sống giữa trần gian nhưng không thuộc về thế gian, bởi lẽ chúng ta là những phần tử của Chúa, của Giáo hội, chúng ta có bổn phận xây dựng xã hội sao cho tốt đẹp nhưng đồng thời chúng ta cũng không để cho thế gian, sự dữ, ma quỉ lôi cuốn quên đường về Quê Trời. Chúng ta phải sống làm sao để như lời thánh Phaolô đã viết:” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “. Bổn phận của chúng ta là muối, là ánh sáng,muối ướp cho đời để đời khỏi ươn thối.Chính vì thế, mọi Kitô hữu có bổn phận rao giảng, dạy giáo lý để nhiều người được nhận biết Chúa, tin và đi theo Chúa.Là ánh sáng, chúng ta phải chiếu tỏa đức tin sâu xa của chúng ta cho những người khác để họ cũng có đức tin như chúng ta. Đọc Tin mừng của Chúa Giêsu chúng ta nhận ra rằng môn đệ của Chúa là người làm chứng và loan truyền Giáo lý, rao giảng Tin mừng. Muối phải mặn.Ánh sáng phải sáng tỏ như thành phố được xây trên núi, nghĩa là Nước Trời được công khai xây dựng bằng cả vật chất, bằng cả con người, bằng cách biểu lộ, diễn tả đến nỗi ai nhìn thấy cũng nhận ra Nước Trời.
Chúa Giêsu đã trao sứ mạng đó cho các tông đồ và cho tất cả chúng ta để mọi dân, mọi nước được mặn lại, được soi sáng và Nước Trời được lan tỏa đến mọi nơi.
Lời Chúa trong Chúa nhật V thường niên, nhắc chúng ta kiểm điểm xem chúng ta có có là muối mặn hay muối đã nên lạt? Chúng ta có còn là ánh sáng hay ánh sáng của chúng ta nghĩa là đức tin đã trở nên lu mờ ? Chúng ta có còn là thành xây trên núi để mọi người nhận ra Nước Trời hay không ? Kiểm điểm lại những tiêu chuẩn ấy là kiểm điểm lại chính cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn trở nên muối ướp mặn cho đời, luôn trở nên ánh sáng soi chiếu để nhiều người nhận ra Nước Trời. Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết sống Tám Mối Phúc để Giáo lý chúng con lãnh nhận nơi Chúa, nơi Kinh Thánh luôn được chia sẻ cho nhiều người, để mọi người nhận ra chúng con đích thực là môn đệ của Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Chúa nói:” Anh em là muối, là ánh sáng thế gian “ có nghĩa gì ?
2.Ánh sáng tượng trưng cho gì ?
3.Thành phố xây trên núi có nghĩa gì ?
4.Tại sao thánh Phaolô lại nói:” Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi “.
------------------------------------
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN A
Is 58,7-10; 1 Cr 2,1-5; Mt 5,13-16
I. HỌC LỜI CHÚA:
1. TIN MỪNG: Mt 5,13-16
(13) “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc qưăng ra ngòai cho người ta chà đạp thôi. (14) Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (15) Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. (16) Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.
2. Ý CHÍNH: MUỐI ƯỚP CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIAN
Đây là đoạn Tin Mừng tiếp theo bài giảng về Tám Mối Phúc Thật, nhằm nói lên bản chất và sứ: TN 5-A63.
Đây là đoạn Tin Mừng tiếp theo bài giảng về Tám Mối Phúc Thật, nhằm nói lên bản chất và sứ mệnh của người môn đệ trong xã hội trần thế. Bản chất việc tông đồ của họ là muối mặn ướp cho đời khỏi hư hỏng và là ánh sáng soi đường cho thế gian. Họ có sứ mạng loan truyền Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Để chu toàn được sứ mạng khó khăn này thì người môn đệ của Chúa phải trở thành thứ muối có chất mặn và là cây đèn có khả năng cháy sáng được đặt lên giá đèn cao để soi sáng mọi vật trong nhà giống như một thành phố được xây trên núi không tài nào che giấu được. Nghĩa là trước hết họ phải sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, để nhờ nếp sống tốt lành trổi vượt này, người đời sẽ được cảm hóa và sẵn sàng đón nhận Tin Mừng Nước Trời do họ công bố.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13:
+ Muối cho đời: Muối là một chất phụ gia cần cho sự sống con người. Nó có tác dụng tẩy uế và sát trùng (x. Tl 9,45). Đức Giê-su muốn cho các môn đệ trở thành những người giữ cho xã hội khỏi hư hỏng tội lỗi, cũng giống như muối ướp thịt cá khỏi hư họai. Muối cũng làm cho đồ ăn được thơm ngon, là thứ gia vị tượng trưng cho giao ước được thêm vào các lễ phẩm dâng tiến cho Đức Chúa (x. Lv 2,13). Đức Giê-su muốn các môn đệ của Người phải cải tạo xã hội loài người ngày một tốt đẹp hơn theo Thánh Ý Thiên Chúa, cũng như chất muối làm cho các món ăn thêm đậm đà ngon miệng.
+ Muối mà nhạt đi: Ở đây nói đến thứ muối bị biến chất, không còn vị mặn nữa. Nhưng thực ra muối nào mà chẳng mặn. Khi dùng kiểu nói này, Đức Giê-su muốn dạy rằng: Môn đệ nào không sống đúng vai trò muối mặn, là một môn đệ bị biến chất, không còn là môn đệ thực sự của Người nữa.
+ Nó đã thành vô dụng: Muối mà ra nhạt sẽ chẳng ích lợi gì, không được dùng dù chỉ là làm phân bón. Người môn đệ cũng vậy: một khi không sống theo Tám Mối Phúc Thật, là tự đánh mất sự cao quý của mình, và sẽ trở thành đồ hư vất bỏ đáng bị người đời khinh dể.
+ Chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi: Thời bấy giờ có nhiều người thường hay đổ các đồ phế thải ra ngòai đường cho người ta dẫm đạp. Số phận của người môn đệ biến chất cũng sẽ bị người đời chà đạp khinh khi như thế.
- C 14:
+ Ánh sáng: Có đặc tính chiếu soi, xua đuổi bóng tối và làm cho người ta nhìn thấy đồ vật chung quanh.
+ cho trần gian: Môn đệ là ánh sáng soi cho thế gian, phân biệt với Đức Giê-su chính là nguồn phát ra ánh sáng như lời Người nói: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46), và: “Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,36).
+ Một thành xây trên núi sẽ không tài nào che giấu được: Cũng vậy, ánh sáng có khả năng lôi kéo sự chú ý của người ta giống như thành phố xây trên núi khiến ai cũng dễ dàng nhìn thấy. Đời sống tốt lành của người môn đệ Đức Ki-tô cũng sẽ ảnh hưởng tới người khác. Điều này không trái nghịch với lời cảnh giác các môn đệ phải tránh thói phô trương công đức như các người Pha-ri-sêu giả hình (x. Mt 6,1).
- C 15-16:
+ Cái thùng: là một dụng cụ đo lường đựng được khỏang 9 lít, dưới chân đế có ba hoặc bốn cái chân.
+ “thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng”: cũng giống như câu “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường ? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao ?” (x. Mc 4,21).
+ Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi: Ở đây nhắc đến mục đích và phương cách làm việc tông đồ: Môn đệ sống tốt lành là nhằm cho người ta ngợi khen Chúa Cha trên trời, chứ không tìm tiếng khen nơi người đời. Thánh Ky-sô-lô-gô (Chrysôlôgô) nói: “Nếu người Ki-tô hữu sống xứng danh Ki-tô hữu, thì chắc sẽ không còn người ngoại giáo nữa !”.
4. CÂU HỎI:
1) Muối có đặc tính gì ? Đức Giê-su muốn môn đệ làm gì khi ví các ông với muối mặn ?
2) Muối nhạt đi ám chỉ điều gì nơi các môn đệ ?
3) Số phận của họ sẽ thế nào nếu họ trở thành đồ vô dụng ?
4) Phân biệt giữa ánh sáng của các môn đệ với ánh sáng của Đức Giê-su khác nhau ra sao ?
5) Đời sống của người môn đệ sẽ có tác động thế nào đối với người khác ?
6) Khi dạy môn đệ phải chiếu giãi ánh sáng trước mặt người đời bằng các việc lành, phải chăng Đức Giê-su muốn các ông bắt chước lối sống giả hình như bọn Biệt Phái ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ” (c. 16a).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GƯƠNG SÁNG PHỤC VỤ CỦA MỘT NỮ TU:
Cách đây ít lâu một đoạn phim ngắn được chiếu trên đài truyền hình Pa-ri (Paris) nước Pháp: Đầu tiên người ta nhìn thấy trên màn ảnh nhỏ một đôi bàn tay xinh xắn và nõn nà đang săn sóc một vết thương lở loét trông thật ghê sợ. Tiếp theo là cảnh một nữ tu bác ái đội voan chùm đầu đang phục vụ một người bị bệnh phong. Rồi đến cảnh một khán giả đang ngồi xem truyền hình nói với người bên cạnh: “Có cho tôi một ngàn phờ-răng, tôi cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm ấy !”. Cuối cùng là cảnh phóng viên hỏi chị nữ tu kia: “Xin hỏi chị đã phục vụ các bệnh nhân phong ở đây được bao lâu rồi ?” Nữ tu trả lời: “Thưa được gần 20 năm”. Phóng viên hỏi tiếp: “Thế mỗi tháng chị nhận được thù lao bao nhiêu ?” Nữ tu trả lời: “Thưa không có đồng nào cả !”. Câu hỏi tiếp: “Có người nói: Dù có cho họ một ngàn phờ-răng, họ cũng không bao giờ thèm làm công việc ghê tởm này. Vậy tại sao chị lại sẵn lòng làm việc này không công tới gần hai mươi năm ?” Nữ tu trả lời: Tôi cũng vậy, có cho tôi một triệu phờ-răng tôi cũng không muốn làm việc này. Nhưng chính do lòng yêu mến Chúa Giê-su mà những bệnh nhân này là hiện thân của Người, nên tôi sẵn sàng làm tất cả mà không cần bất cứ thù lao nào hết !”.
2) GƯƠNG TRUNG THÀNH CỦA MỘT CON CHÓ:
Tại một trạm xe điện ngầm bên Nhật Bản, có một bức tượng khá nổi tiếng, không phải tượng của một nhân vật danh tiếng, nhưng là tượng một chú chó. Ai đi qua cũng chăm chú nhìn tượng con vật được tạc trong tư thế nằm ngước mắt nhìn về phía trước như đang đợi ai đó. Bức tượng này là hình ảnh của một chú chó mà câu chuyện về sự trung thành của nó lay động lòng người như sau: Một công nhân Nhật có nuôi được một con chó khôn ngoan và trung thành. Nó luôn đi theo và quấn quít bên ông chủ. Ngày nào nó cũng tiễn đưa ông đi làm tại trạm xe điện ngầm gần nhà. Nó chờ cho chủ lên tàu và tàu đóng cửa lại rồi mới đủng đỉnh ra về. Chiều đến, nó lại xuất hiện đúng giờ xe điện về đến trạm, vẫy đuôi chào đón chủ và sau đó ngoan ngoãn đi theo ông về nhà. Ngày nào cũng vậy, sáng theo chủ đến bến, chiến lại đến bến để đón chủ. Nhưng rồi một buổi chiều kia, người chủ của nó đã không trở về do tai nạn sập hầm và ông bị chết trong đó. Hôm ấy con chó như mọi lần đã đến trạm chờ chủ. Nhưng chờ đến chuyến xe cuối cùng mà không thấy chủ. Nó đành thất thểu ra về khi màn đêm bắt đầu buông xuống. Hôm sau, trời vừa hừng sáng nó đã có mặt tại trạm xe điện và ngồi yên chờ chủ. Nhưng đến tối mịt không thấy ông, nó lại lui thủi trở về. Và ngày nào cũng vậy, con chó luôn có mặt và ra về đúng giờ dù không có ông chủ đi cùng. Chẳng ai thèm quan tâm tới con vật đáng thương ấy, ngoại trừ ông xếp nhà ga và mấy nhân viên phục vụ nhà ga. Người ta thấy càng ngày con chó càng gầy đi. Ai cho đồ ăn, nó cũng chỉ ngửi qua và không ăn. Đôi mắt nó ngày một buồn hơn, và bước đi của nó cũng ngày một loạng choạng chậm chạp hơn. Nó thất vọng vì bị mất ông chủ thật rồi !
Vào một buổi sáng kia, tiết trời giá rét, bên cạnh dòng người mặc áo ấm chen chúc nhau lên tàu, người ta thấy con chó trắng đã nằm chết co quắp bên vệ đường từ bao giờ. Thương hại con vật trung thành, ông xếp và các nhân viên nhà ga xe điện đã chôn cất nó tử tế. Và để tưởng nhớ một con vật trung thành, người ta đã đúc một bức tượng của nó và đặt ngay nơi nó thường nằm mỗi khi đến đưa đón chủ.
3) HAI LỐI ỨNG XỬ MANG LẠI HAI KẾT QUẢ TRÁI NGƯỢC:
Đức cha PHUN-TƠN SIN (Fulton Sheen) đã kể lại hai câu chuyện sau đây:
+ CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT: Tại một nhà thờ bên Nam Tư, một em lễ sinh đang giúp lễ cho cha già, đã vô tình đánh rơi làm bể lọ rượu lễ. Ngay lúc đó, vị linh mục dù đang dâng lễ, đã không kềm nổi sự tức giận, thẳng tay đánh em một bạt tai té giập vào tường. Ông còn thét lên: “Đồ nhãi ranh, làm ăn như vậy hả ? Mau cút ngay đi khuất mắt tao và nhớ đừng bao giờ vác mặt trở lại đây nữa nhé !” Cậu bé giúp lễ bị đánh rất tức giận. Cậu ta liền cởi ngay chiếc áo giúp lễ, rời khỏi nhà thờ và thề quyết sẽ không bao giờ thèm đặt chân vào nhà thờ nữa. Từ ngày đó, cậu ta trở thành kẻ thù của Giáo Hội. Về sau, khi đã trở thành người có quyền hành lớn lao, ông ta luôn gây khó dễ và quyết tâm tiêu diệt Giáo Hội. Kẻ đó không ai khác hơn là thống chế Ti-tô, một thời cai trị đất nước Nam Tư cũ.
+ CÂU CHUYỆN THỨ HAI: Đức cha Phun-tơn tiếp tục kể câu chuyện về mình như sau: “Tôi còn nhớ rõ là hồi còn nhỏ, tôi đã ước muốn được giúp lễ phục vụ bàn thờ khi linh mục cử hành thánh lễ. Năm lên bảy tuổi, mẹ tôi rất có lòng đạo đã dẫn tôi đến gặp đức Tổng giám mục Giáo phận để xin cho tôi được vào ban lễ sinh giúp lễ tại nhà thờ. Một hôm, đến phiên tôi giúp lễ. Vì lần đầu làm công việc này, nên tôi bị lóng ngóng và lỡ tay làm rớt bình đựng rượu xuống nền cung thánh nhà thờ bể tan thành từng mảnh nhỏ. Ngay lúc đó tôi rất xấu hổ và sợ hãi, vì bọn giúp lễ chúng tôi kháo nhau rằng: Đức Tổng giám mục là một người rất nghiêm khắc. Thế nhưng biết tôi làm bể lọ rượu, mà ngài vẫn không mảy may phản ứng và cứ tiếp tục dâng thánh lễ như không có chuyện gì xảy ra cả. Sau khi thánh lễ kết thúc và cởi áo lễ xong, ngài gọi tôi đến gần. Tôi chuẩn bị tinh thần để nghe ngài quở mắng vì tội bất cẩn làm bể lọ rượu của mình. Nhưng sự thể lại diễn ra trái với tưởng tượng của tôi. Đức cha thân mật đặt bàn tay lên vai tôi rồi âu yếm nhìn thẳng vào mặt tôi và hỏi: “Này con, lớn lên con có muốn đi tu và vào đại học không ? Con có bao giờ nghe nói về đại học Lu-vanh (Louvain) chưa ?” Tôi đáp: “Thưa đức cha chưa ạ”. Ngài nói tiếp: “Con hãy về nhà thưa với mẹ con rằng: Đức cha bảo lớn lên con sẽ đi tu và sẽ vào học tại đai học Lu-vanh nhé”. Từ ngày đó, tôi cố gắng chăm chỉ học hành và mỗi năm đều đạt thứ hạng cao. Khi tốt nghiệp bậc trung học phổ thông, được cha mẹ đồng ý, tôi đã tự động đến gặp đức cha để xin ngài cho tôi được dâng mình cho Chúa và được vào chủng viện học làm linh mục. Vì là học sinh xuất sắc, tôi được đức cha cấp học bổng để vào đại học Lu-vanh là đại học rất danh tiếng thời đó. Sau 4 năm, tôi tốt nghiệp đại học với hạng ưu và được thụ phong linh mục, rồi một thời gian sau đó thành giám mục. Nghĩ lại cuộc đời của mình, tôi thấy phải cám ơn Chúa đã thương cho tôi có được cha mẹ thật tuyệt vời, đã yêu thương và nuôi nấng dạy dỗ tôi nên người. Nhưng người tiếp theo tôi phải đặc biệt ghi ơn chính là Đức Tổng giám mục Giáo phận. Ngài là người khoan dung độ lượng: đã không la mắng khi tôi sai lỗi mà thay mặt Chúa để kêu gọi tôi dâng mình cho Chúa ngay khi mới 7 tuổi. Cũng nhờ lòng khoan dung và sự quan tâm ưu ái của ngài, mà tôi mới được như ngày hôm nay.
3. SUY NIỆM:
1) ANH EM LÀ MUỐI ƯỚP THIÊN HẠ VÀ LÀ ÁNH SÁNG CHIẾU SOI CHO ĐỜI:
“Thế nào là một Ki-tô hữu?”. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã trả lời cho vấn nạn ấy qua hai hình ảnh là muối và ánh sáng như sau:
- Muối mặn: Như chất muối mặn thấm vào đồ ăn, để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư hỏng và thêm ngon miệng thì người tín hữu cũng phải sống chan hòa với mọi người chung quanh để cải hóa họ nên tốt hơn. Vị mặn là bản chất của muối. Nếu muối không còn chất mặn thì không còn phải thực sự là muối nữa. Một khi người tín hữu mất đi đức tin, thể hiện qua việc không quan tâm giữ các giới răn và không có tình thương người theo tinh thần của “Tám Mối Phúc”, chứng tỏ chất muối đức tin nơi họ đã biến chất, bấy giờ họ không còn có giá trị nữa và đáng bị khinh khi như muối lạt bị quăng ra đường cho mọi người chà đạp.
- Ánh sáng: Thực ra chỉ mình Đức Giê-su mới là nguồn sáng (x. Ga 8,12). Nhưng Người cũng muốn các tín hữu hôm nay phải giãi ánh sáng chiếu soi cho trần gian. Muốn chiếu giãi ánh sáng của Chúa cho người khác, trước hết chúng ta phải có Chúa là nguồn sáng trong tâm hồn mình. Lòng tin cậy mến Thiên Chúa phải được thẻ hiện qua các việc lành như: chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói, khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật, chăm sóc những người già cô đơn và những trẻ em mới sinh bị bỏ rơi… Nhờ đó lương dân sẽ nhận biết Thiên Chúa là “nguồn ánh sáng và là ơn cứu độ” (Tv 27,1) và tin theo Đức Giê-su qua các tín hữu như Người đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
2) THỰC TRẠNG THẾ GIỚI HÔM NAY:
Nhiều người tín hữu chúng ta thường hay phàn nàn rằng: xã hội hôm nay ngày một suy đồi xuống cấp về nhân bản và tình người. Nhưng ít ai trong chúng ta dám nhận sự xuống cấp đó cũng có phần trách nhiệm của mình. Thực vậy: Xã hội suy đồi có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó cũng có một phần do lỗi của các tín hữu chúng ta: Có thể do muối Tin Mừng nơi chúng ta đã bị biến chất, tình Chúa tình người nơi chúng ta đã ra nhạt… nên chúng ta thường nhắm mắt làm ngơ trước những nhu cầu của tha nhân, chúng ta không đủ nhiệt tình để dấn thân cải thiện môi trường là gia đình, khu xóm, và xã hội nên đoàn kết và giúp nhau sống tốt hơn. Có thể do cây đèn đức tin của chúng ta đã cạn dầu ân sủng và không còn đủ sức chiếu sáng bác ái được nữa, nên xã hội và thế giới chung quanh chúng ta ngày càng trở nên tối tăm và sa đọa tội lỗi hơn.
3) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
Đọc Tin mừng chúng ta nhận ra rằng môn đệ của Chúa chính là người làm chứng và loan báo Tin mừng. Muối nơi chúng ta phải mặn. Ánh sáng trong chúng ta phải sáng tỏ như thành phố được xây trên núi, nghĩa là Nước Trời được công khai xây dựng bằng cả vật chất, bằng cả con người, bằng lời nói, thái độ cử chỉ hành động… để ai nhìn thấy cũng nhận ra Đức Giê-su đang sống và làm việc trong chúng ta. Hôm nay Đức Giê-su đã trao sứ mạng làm chứng về Chúa cho các Tông đồ và cho Hội Thánh để mọi dân nước được mặn lại đức Tin, được ánh sáng Lời Chúa soi chiếu và Nước Trời sẽ có nhiều người gia nhập và ngày một lan tỏa đến khắp cùng bờ cõi trái đất.
Mỗi người tín hữu cần ý thức nguyên nhân của sự xuống cấp xã hội hiện nay là do sự xuống cấp suy đồi của chính chúng ta, để từ đó biết khiêm tốn cầu xin Chúa Giê-su đổ ơn Thánh Thần chỉnh đốn những sai lệch, tăng cường độ mặn Tin Mừng cho chúng ta. Cần xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa tin yêu bằng dầu ân sủng nhờ năng lãnh nhận các phép bí tích, nhất là tham dự các buổi hiệp sông chia sẻ Lời Chúa và cầu nguyện sám hối chung cộng đoàn, năng xưng tội và rước lễ cách sốt sắng để chu toàn sứ mạng.
Hiện nay vẫn có nhiều người tín hữu tuy có khả năng ướp mặn tha nhân, có đủ sức chiếu tỏa ánh sáng tin yêu của Thiên Chúa, nhưng lại không dám dấn thân vì sợ nguy hiểm. Cần có thêm nhiều tín hữu Công giáo trở thành những điểm sáng về các lãnh vực như: ca nhạc, sản xuất kinh tế, những gương điển hình tiên tiến về các công tác bác ái xã hội được tôn vinh trên các phương tiện truyền thông, những mẫu gương hy sinh quên mình được nhiều người biết đến và đề cao trên báo chí, các trang mạng internet và truyền thanh truyền hình... Các tín hữu chúng ta phải tỏa sáng qua những hoạt động tốt đẹp phục vụ người nghèo khó, bị khinh dể và bị bỏ rơi trong các cô nhi viện, nhà nuôi người già, người mù lòa khuyết tật, nhà chăm sóc bệnh cùi hay si-đa… để mọi người được sống chan hòa yêu thương trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em của nhau như sách Khải Huyền đã diễn tả: “Bấy giờ tôi thấy Trời Mới Đất Mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân lang” (Kh 21,1-2).
4. THẢO LUẬN:
1) Trong lịch sử Việt Nam, bạn có biết những nhân vật người Công giáo nào đã để lại những công trình ích quốc lợi dân, làm rạng danh Thiên Chúa trước mặt đồng bào Việt Nam mà đại đa số là lương dân hay không ? Cụ thể: Đức cha A-lếch-xăng đờ Rốt đã để lại công trình nào ? Ông Nguyễn Trường Tộ đã làm gì ? Hàn Mặc Tử đã làm gì ? Pe-trus Ký đã làm gì ?
2) Mỗi người chúng ta có thể làm gì để chiếu soi ánh sáng tình thương của Chúa giúp đồng bào Việt Nam hôm nay nhận biết tin thờ Thiên Chúa ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã ban cho chúng con mặt trời chiếu sáng ban ngày và mặt trăng soi chiếu ban đêm. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã dạy các tín hữu chúng con phải trở thành ánh sáng giữa thế gian, là muối mặn ướp cho tha nhân khỏi bị hư hỏng. Đây là niềm vinh dự nhưng cũng là một trách nhiệm phải chu toàn. Xin cho chúng con luôn có ánh sáng của Chúa trong lòng, để đi đến đâu chúng con cũng đẩy lùi tăm tối tội lỗi, bất công và thù hận đến đó. Xin giúp chúng con luôn giữ gìn ngọn lửa đức ái trong tim, và luôn đi theo con đường mà Chúa đã soi dẫn và đi trước chúng con. Trong thực tế, xin cho chúng con luôn biết quên mình yêu thương phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật, để nên muối ướp cho đời, trở thành ánh sáng chiếu soi cho trần gian. Xin cho các bậc cha mẹ biết nêu gương công chính, hòa thuận, khiêm tốn và đạo đức để giáo dục đức tin cho con cái. Xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui của Chúa khi phục vụ những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi… là hiện thân của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
------------------------------------
TN 5-A64. Các con là muối đất... Các con là sự sáng thế gian
Suy niệm Chúa nhật V thường niên - Năm A
(Mt 5,13 - 16)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Các con là muối đất... Các con là sự sáng thế gian”
Lời mời gọi của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay vang lên thật khẩn thiết, gửi đến trước: TN 5-A64
Lời mời gọi của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay vang lên thật khẩn thiết, gửi đến trước hết là các môn đệ, sau là chúng ta những người tín hữu đang sống ở mọi nơi và mọi thời đại. Sau khi Đức Giêsu công bố Tám Mối Phúc, Ngài phán tiếp những lời hằng sống, mở ra cho chúng ta chân trời hạnh phúc dẫn đến sự sống đời đời. Như thế, cách nào đó, Ngài mời gọi chúng chọn lựa cách sống, nói “vâng” sống theo Ngài.
Quả thật, những lời Chúa Giêsu chứa đựng căn tính kitô giáo của chúng ta: “Các con là muối đất... Các con là sự sáng thế gian”. Điều đáng nói ở đây là Chúa Giêsu không chỉ nói các môn đệ đơn giản là “ muối” và là “ánh sáng” nhưng là “muối” “ đất” và là “sự sáng” “thế gian”.
Tại sao lại là muối đất ?
Muối theo nền văn hóa Trung Đông gợi lên nhiều giá trị như giao ước, tình liên đới, sự sống và sự khôn ngoan. Trong Cựu ước, muối tượng trưng cho sự trung thành của Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa đã ký kết với dân người một khế ước bằng muối: “Ðó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Ðức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18,19). Trong Tân ước, Chúa Giêsu nói: “ Các con là muối đất ” (Mt 5, 13).
Muối là một trong những vị cần thiết nhất cho con người. Muối còn có nhiều công dụng như dùng để tra vào đồ ăn để món ăn thêm hương vị mặn mà, ướp đồ ăn tránh khỏi hư.
Qua các hình ảnh giầu ý nghĩa này, Chúa Giêsu muốn thông truyền cho các môn đệ mình và cả chúng ta ngày hôm nay nữa ý nghĩa sứ mệnh và chứng tá của Tin Mừng. Thêm hương vị, là thêm sức sống ơn thánh. Ướp đồ ăn cho khỏi hư, nghĩa là bảo vệ chân lý hằng sống.
Sao lại là sự sáng thế gian ?
Khi Chúa Giêsu nói: “Các con là sự sáng thế gian”, chúng ta biết rằng ánh sáng là công trình đầu tiên của Thiên Chúa Sáng Tạo và là nguồn mạch sự sống. Chính Lời của Thiên Chúa cũng được so sánh với ánh sáng, như tác giả Thánh Vịnh công bố: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho đi” (Tv 119.105). Cũng trong phụng vụ hôm nay ngôn sứ Isaia nói: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông” (Is 58,10).
Sự khôn ngoan tóm gọn nơi mình các hiệu quả ích lợi của muối và ánh sáng: thật thế, các môn đệ Chúa được mời gọi trao ban hương vị mới cho thế giới và giữ gìn nó khỏi hư thối, với sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏa sáng rạng ngời trên gương mặt Chúa Con, vì “Ngài là ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
Là muối đất và là sự sáng thế gian.
“Các con là sự sáng thế gian”, những lời này chứa đựng sứ mạng được sai đi. Hành động và con người của các kitô hữu liên kết chặt chẽ với nhau, chứng tỏ rằng nhiệm vụ của “muối” và “ánh sáng”cho trần gian là của riêng chúng ta và không ai làm thay chúng ta. Vì thế, chúng ta phải chịu trách nhiệm và những gì chúng ta là Kitô hữu.
Trở lại với hình ảnh của muối. Hỏi rằng, có thức ăn nào của con người mà không có sự hiện diện của Đức Kitô trong các bí tích, Lời của Ngài và hành động yêu thương nhân hậu của Chúa Thánh Thần ? Nên chúng ta phải duy trì nhận thức về sự hiện diện của Chúa Kitô Cứu Thế ở giữa loài người, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể, tưởng niệm cái chết và sự phục sinh vinh quang, loan báo quyền năng cứu độ tiềm ẩn trong Tin Mừng của Ngài. Hiệp nhất với Ngài, các kitô hữu có thể chiếu sáng giữa các bóng tối của sự thờ ơ và ích kỷ ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, sự khôn ngoan thật trao ban ý nghĩa cho cuộc sống và hành động của con người.
Muối là hương vị giữ thức ăn. Người kitô hữu được kêu gọi cải thiện cái “hương vị” lịch sử loài người. Đó là thực hành trong cuộc sống ba nhân đức đối thần đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Điều đến từ Thiên Chúa luôn làm cho con người trở nên người hơn, hơn bao giờ hết là hình ảnh Chúa và giống Thiên Chúa. Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, chúng ta được mời gọi chiếu sáng và thể hiện lòng nhân giữa một thế giới sống trong đêm đen của thử thách, của tuyệt vọng và thờ ơ . Bài đọc I nhắc nhở chúng ta rằng: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.
Do đó mối liên kết giữa “muối” và “ánh sáng” được thể hiện. Lời Đức Kitô gửi đến mỗi chúng ta là hãy tỏa sáng “ánh sáng” trước mặt mọi người, nghĩa là toàn bộ đời sống ta phải phản ánh ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” ( x. 2 Cor 1, 22). Ngọn lửa này tỏa sáng qua việc loan báo Tin Mừng với lòng từ tâm, Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người trong Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại.
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêdictô XVI nhắc lại rằng “Quả thật, lời rao giảng và chứng tá cho Tin Mừng là công việc phục vụ đầu tiên mà những người kitô có thể cống hiến cho mọi người cũng như cho toàn thể nhân loại, xét vì những người kitô là những kẻ được mời gọi thông truyền cho tất cả mọi người tình yêu của Thiên Chúa Cha, được biểu lộ trọn đầy nơi Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Thế Duy Nhất của thế giới”. (Diễn văn tại Ðại Học Truyền Giáo Roma 11/3/ 2006 nhân dịp kỷ niệm bốn mươi của Nghị định “Ad gentes” của Công Đồng Vatican II).
Việc phục vụ loan báo Tin Mừng được thực hiện trong « Đức ái », không dựa vào những lời quyến rũ khôn ngoan của loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và « quyền năng Chúa Thánh Thần » (x. Bài đọc II).
Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con làm thế nào để tuyên xưng đức tin của chúng con, xin biến chúng con trở nên những người của Tám Mối Phúc Thật là muối đất và ánh sáng thế gian.
------------------------------------
(Chúa Nhật V Thường Niên, A)
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Chúa Nhật tuần trước, thánh Mátthêu tường thuật việc Đức Giêsu lên tiếng giảng dạy và mời gọi: TN 5-A65
Chúa Nhật tuần trước, thánh Mátthêu tường thuật việc Đức Giêsu lên tiếng giảng dạy và mời gọi những người đang nghe Ngài đi theo con đường Bát Phúc thì được sống hạnh phúc đời đời. Hôm nay, như một sự tiệm tiến mang tính cấp thiết, Đức Giêsu không ngần ngại khẳng định: “Các con là muối đất” (Mt 5,13). Nhưng“Nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì mà muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc đổ ra ngoài cho thiên hạ chà đạp lên thôi” (Mt 5,13).
Vậy vai trò của muối trong đời sống thường ngày và ý nghĩa mà Đức Giêsu dùng để chỉ về các môn đệ là gì?
Muối trong sinh hoạt đời thường
Khi nói đến muối, chúng ta cũng nhớ ngay đến những cánh đồng muối. Muối được tích tụ từ lượng nước biển, khi nước biển dâng lên, người ta đắp đập, be bờ để giữ nước, rồi chờ cho ánh nắng mặt trời chiếu vào và sau đó, nước biển se lại thành muối. Từ một khối nước khổng lồ, nhưng khi thành muối, ta thấy nó trở thành những hạt li ti. Như vậy, muối là một hạt nhỏ nhoi trong muôn ngàn những loại khổng lồ. Nó nhỏ đến độ nhiều người không cần quan tâm đến nó nữa, chỉ biết được nó nặm mà thôi. Tuy nhiên, để cho mọi người thưởng thức được ngon miệng thì bản chất của nó phải hòa tan ra giữa thức ăn. Nếu không tan ra thì muối chỉ trơ trọi một mình và không phát huy được tác dụng của nó.
Khi nhắc đến muối, người ta cũng nhớ đến màu sắc của nó là màu trắng, gợi lại cho chúng ta màu của sự tinh khiết, trong sạch. Khi nghĩ về muối, người ta cũng cảm nghiệm ngay đến vị mặn của nó.
Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây... không ai nói là tôi không cần đến muối. Vì thế, người ta dùng muối để bảo quản thức ăn khỏi hư thối, tăng hương vị. Chẳng thế mà cha ông ta thường có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”. Muối làm cho thức ăn thêm đậm đà. Muối cũng làm cho vị ngọt đã ngọt lại càng ngọt hơn. Người ta cũng dùng muối để trị bệnh, sát trùng và diệt khuẩn. Muối còn có chức năng giúp tiêu hóa tốt, dung hòa i - ốt trong cơ thể, và ngăn ngừa bệnh tật. Muối là một trong những khoáng chất quan trọng nơi sinh hoạt của con người và súc vật.
Muối trở nên quan trọng và phát huy tác dụng là vì nhờ vào vị mặn của nó. Nếu nó không còn mặn thì chỉ còn nước đổ ra đường cho người ta chà đạp lên mà thôi.
Muối của người môn đệ
Khi ví người môn đệ như là muối ướp, Đức Giêsu muốn nói đến bản chất của người môn đệ là phải mặn. Người môn đệ phải mang trong mình vị mặn của tình yêu, tha thứ, bao dung và liên đới. Nếu không có vị mặn như thế thì không còn đóng giữ vai trò của mình nữa. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: “Các con là muối đất” (Mt 5,13). Nhưng tiếp theo sau đó, Ngài nói ngay: “Nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì mà muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc đổ ra ngoài cho thiên hạ chà đạp lên thôi” (Mt 5,13). Thật vậy, người môn đệ trở nên muối trước tiên là ướp chính mình; sau là ướp cho đời.
Khi nói người môn đệ phải có trách nhiệm ướp đời, Đức Giêsu ngầm muốn nói đến một xã hội đang bị hư hỏng vì sự bê tha, suy đồi và trụy lạc về luân lý... Vì thế, để khỏi hư thối, người môn đệ phải trở nên muối mặn của nhân đức, và phải mang trong mình “vị mặn Giêsu” thì mới mong ướp cho đời được. Có thế, người môn đệ mới hy vọng đem lại cho xã hội một mùi vị thơm ngon... thay cho lạt lẽo, gian dối.
Cũng như những hạt muối được làm từ một khối nước biển tràn vào thế nào, thì người môn đệ cũng phải biết đón nhận nguồn “vị mặn Giêsu”, để rồi trở nên muối và góp phần ướp cho đời như vậy. Nếu hạt muối phải tan chảy ra thấm nhập vào từng thớ thịt, con cá... để tăng hương vị, để khỏi hư thối thế nào, thì người môn đệ cũng phải hòa mình vào trong cuộc sống nhân loại như vậy. Tuy nhiên, chúng ta không thể làm biến chất vì những thói đời hư hỏng, mà vẫn luôn giữ được vị mặn như muối.
Thật vậy, vị mặn của mỗi chúng ta chính là mặn vì yêu mến Chúa, mặn vì yêu thương anh em, mặn vì lòng bao dung và sẵn sàng tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta.
Lạy Chúa, giữa một xã hội vàng thau lẫn lộn, coi thường những giá trị đạo đức, và đang trên đà xuống dốc vì những giá trị tầm thường. Xin Chúa cho chúng con được trở nên muối ướp cho đời để xã hội này ấm hơn nhờ “vị mặn của tình yêu Giêsu”. Amen.
------------------------------------
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mát-thêu 5:13-16)
Thao thức của những người lo lắng cho xã hội thường chú tâm vào tình trạng tồi tệ của đời sống con: TN 5-A66
Thao thức của những người lo lắng cho xã hội thường chú tâm vào tình trạng tồi tệ của đời sống con người và thế giới. “Đời” đã phai nhạt hoặc thối rữa đang cần có muối, và “trần gian” đã càng ngày càng trở nên tăm tối đang cần có ánh sáng. Đứng trước nguy cơ ấy, Chúa Giê-su đã trao cho tất cả các môn đệ Người một sứ mệnh: Chính anh em là muối cho đời; chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Mệnh lệnh ấy không chỉ là lời kêu gọi, nhưng còn đòi hỏi mỗi người chúng ta phải nghiêm túc xét lại bổn phận của chúng ta là muối và ánh sáng nữa.
Muối và ánh sáng là những thứ liên hệ chặt chẽ với sự sống và môi trường sống của chúng ta. Muối cần thiết để giúp thức ăn có hương vị và ánh sáng giúp duy trì vẻ đẹp của thế giới. Ý nghĩa thực dụng của muối và ánh sáng thì bất cứ ai cũng hiểu được, nên Chúa Giê-su đã lấy ngay ý nghĩa ấy để diễn tả sứ mệnh thiêng liêng của chúng ta: Như muối và ánh sáng làm cho đời sống và thế giới nhân loại tồn tại và tươi đẹp thế nào, thì Ki-tô hữu, các môn đệ Chúa, cũng phải là những người “muối đời cho mặn lại” và “soi chiếu cho thiên hạ” như vậy.
Hai hình ảnh thực tế giúp chúng ta suy nghĩ về hiện trạng cuộc đời và thế giới là sự nhạt nhẽo và sự tối tăm. Đúng vậy, ngay trong ta hoặc chung quanh ta luôn có nhạt nhẽo và bóng tối. Cuộc đời nhiều khi mất đi sự mặn mà của tình yêu, cảm thông, tha thứ, giúp đỡ lẫn nhau; thay vào đó là hận thù, cay đắng, ích kỷ, thất vọng. Thế giới chìm trong bóng tối của chiến tranh, tham vọng, đồi trụy luân lý, bất công xã hội, làm giàu trên xương máu người khác, nhân quyền bị chà đạp… Qua bao thế kỷ, Giáo Hội không ngừng lập lại sứ điệp của Chúa Giê-su với những giáo huấn, thông điệp, thành lập các đoàn thể, để đối phó với tình trạng nhạt nhẽo và tối tăm của nhân loại. Tuy nhiên thường chúng ta lại quên rằng Chúa Giê-su trước hết đã trao sứ mệnh cho từng người chúng ta, khi Người dạy: “Chính anh em là…” Giáo Hội chỉ có bổn phận lập lại và nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm là muối men và ánh sáng mà thôi. Để nói lên vai trò quan trọng của chính chúng ta trong sứ mệnh giúp cho đời người thêm ý nghĩa và thế giới được rực rỡ ánh sáng, Chúa Giê-su còn nhấn mạnh đến tính hữu dụng của muối và ánh sáng: thiếu chúng ta (muối và ánh sáng), thì lấy gì “muối đời cho mặn lại” và lấy ai giúp thiên hạ “thấy những công việc tốt đẹp…mà tôn vinh Cha trên trời”? Có lẽ trong Tin Mừng, đây là một trong những lời nói mạnh mẽ nhất của Chúa Giê-su, khiến chúng ta không thể lẩn tránh hoặc chối bỏ sứ mệnh cao cả Người đã trao phó.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hình ảnh thực tế “muối nhạt” và “thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng” là những thách đố của mọi Ki-tô hữu. Trước hết muối nhạt và đèn để dưới cái thùng nhắc chúng ta nhìn lại chính bản thân mình. Có phải đời sống cá nhân chúng ta đang là muối nhạt hoặc bóng tối không? Những gì đang làm cho đời sống chúng ta mất đi hương vị mặn mà và ánh sáng? Có phải tương quan giữa chúng ta với Chúa, với anh chị em đang bị gián đoạn hoặc tổn thương vì thiếu muối và ánh sáng của tình yêu? Nếu đời sống chúng ta như thế, chúng ta phải lấy gì muối nó cho mặn lại? Chúng ta hãy làm cho đời mình mặn lại và bừng sáng lên bằng cách đến với Chúa trong cầu nguyện. Tình yêu của Chúa sẽ khôi phục lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nó cho chúng ta thấy phẩm giá và sự cao quý của chúng ta trước mặt Chúa và anh chị em. Rồi từ đó, chúng ta đem vị mặn và ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa đến với anh chị em qua những quan tâm, giúp đỡ, yêu thương và tha thứ. Thế là chúng ta có thể muối đời chúng ta và đời anh chị em được mặn lại.
Xa rộng hơn nữa là sứ mệnh muối mặn thế giới và chiếu tỏa ánh sáng trước mặt thiên hạ. Thế giới và thiên hạ của chúng ta không hẳn là một không gian rộng lớn, nhưng là “thế giới quanh ta”, là gia đình, cộng đoàn, sở làm và xã hội chúng ta đang sống. Bóng tối phải bị tiêu diệt bắt đầu từ bản thân, rồi gia đình và những không gian của chúng ta trước. Những “công việc tốt đẹp” của chúng ta sẽ là “đèn” để mang ánh sáng Thiên Chúa đến với thế giới và thiên hạ ấy.
Xin Chúa giúp chúng ta chu toàn sứ mệnh cao cả này!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------------
Ngày nay có những người thích sưu tầm. Họ sưu tầm đủ mọi thứ lỉnh kỉnh: nào tem thư, nào nút áo: TN 5-A67
Ngày nay có những người thích sưu tầm. Họ sưu tầm đủ mọi thứ lỉnh kỉnh: nào tem thư, nào nút áo, nào giấy kẹo, nào sách hiếm, nào tiền cũ, nào xe hơi... Trong một cuộc triển lãm họ, người ta trưng bày hàng trăm chiếc bình đựng muối. Một ông khách viếng thăm phòng triển lãm, trên tay cầm một chiếc đùi gà quay, vừa đi vừa ăn. Tới phòng trưng bày những chiếc bình đựng muối, ông bỗng cảm thấy như món gà quay của mình có phần nhạt nhẽo. Ông đã mở nắp những chiếc bình ấy nhưng chẳng chiếc nào có được tí muối. Vì thế ông đành phải quay lại quầy hàng bán đồ ăn để xin chút muối.
Hàng trăm chiếc bình đựng muối mà chẳng có được một hạt muối nào, phải chăng đó là một hình ảnh sống động, tượng trưng cho cuộc đời của nhiều người trong chúng ta. Thực vậy, rất nhiều người được coi là có muối, nhưng sự thực lại chẳng hề có. Sự kiện này giúp cho chúng ta dễ dàng hiểu được điều Chúa Giêsu xác quyết: Các con là muối cho đời.
Trong cuộc sống hàng ngày, muối được dùng vào nhiều việc khác nhau. Chẳng hạn muối được dùng như một thứ phân bón để hạ phèn, muối được dùng để làm giảm cơn đau. Một người có nhiều kinh nghiệm sống trong tù cho tôi hay: Sau khi bị tra tấn dã man, người ta thường dùng muối để chà xát lên vết thương và người bị tra tấn sẽ không còn bị đau đớn nhức nhối nữa. Muối được dùng làm chất khử trùng. Khi trộn muối vào đồ ăn, nó sẽ giữ cho đồ ăn khỏi ươn thối. Và sau cùng muối sẽ làm cho đồ ăn tăng thêm hương vị đậm đà. Vậy đâu là sứ điệp Chúa Giêsu muốn gởi đến chúng ta khi xác quyết: Các con là muối cho đời?
Tôi xin thưa chúng ta trở nên muối bằng một đức tin sống động để làm cho cuộc đời có một ý nghĩa, có một hương vị đậm đà. Thực vậy, trong cuộc sống chúng ta đã gặp biết bao nhiêu người kéo lê đời mình một cách buồn tẻ và vô nghĩa, không mục đích, cũng giống như món gà quay nhạt nhẽo vì thiếu muối. Chính nhờ thứ muối đức tin của chúng ta mà họ tìm thấy được hương vị cuộc đời.
Tiếp đến chúng ta trở nên muối bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Như muối ướp trong đồ ăn và làm cho đồ ăn khỏi hư thối, thì nhờ muối gương sáng của mình, người kitô hữu sẽ giúp cho những kẻ mà họ tiếp xúc thoát khỏi những lầm lạc, những suy đồi, những xuống cấp. Đồng thời nhờ thứ muối của gương sáng này, mà người kitô hữu sẽ dần dần cảm hoá được họ, giúp họ sửa chữa những sai lỗi, những khuyết điểm, cũng như giúp họ tìm thấy nẻo đường trở về cùng Thiên Chúa, bởi vì lời nói thì như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo. Đời sống gương mẫu của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp dẫn những người chung quanh.
Bởi đó, bằng đức tin và bằng gương sáng, chúng ta trở nên muối cho bản thân chúng ta và cho những người chung quanh khỏi bị ươn thối và cuộc đời của chúng ta cũng như của những người chung quanh tìm thấy được hương vị đậm đà.
------------------------------------
(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Người ta kể đoạn kết của bộ phim Tôn Ngộ Không như sau: Vào đêm trước khi thầy trò Tam Tạng: TN 5-A68
Người ta kể đoạn kết của bộ phim Tôn Ngộ Không như sau: Vào đêm trước khi thầy trò Tam Tạng bước vào cửa Phật. Thầy trò ngủ chung với nhau, nhưng lòng bồi hồi xao xuyến không sao ngủ được. Ngộ Không thấy Thầy mình nằm trăn trở hết nghiêng bên này, lại nghiêng bên kia. Bèn quay sang nói với Thầy: "Ngày mai chúng ta vào cõi Phật rồi, sao Thầy không vui?". Thầy Tam Tạng thở dài nói rằng: "Ngộ Không con ơi, con là khỉ, cả đời con theo Thầy chỉ mong thành người. Còn Thầy đã là Người, lại bỏ kiếp người vào cõi Phật. Biết có hay không! Làm người mà chưa giúp gì cho đời, liệu thành Phật, Thầy còn có cơ hội cứu đời cứu người nữa hay không?".
Thực vậy Tôn Ngộ Không, khi theo thầy đi Thỉnh kinh đã mang hoài bão trở thành một con người nhưng Ngộ Không đã không có cơ hội thay đổi bản chất của mình, vì khỉ vẫn là khỉ, cho dù có 72 phép thần thông cũng không thay đổi phận số của mình. Còn chúng ta là người, nhưng sống cho trọn kiếp người, cho xứng với bản chất và phẩm giá làm người đôi khi chúng ta vẫn chưa thực sự nên người. Có một nhà tu đức nói rằng: Bạn muốn là một người kytô hữu tốt trước hết bạn hãy là một con người tốt. Bạn muốn là một vị thánh, thì bạn phải là một người kytô hữu tốt. Dù chúng ta có muốn làm thánh làm phật, dù chúng ta có muốn trở thành những con người siêu phàm làm được nhiều chuyện lớn lao, phi thường nhưng trước hết và trên hết chúng ta phải là một con người hoàn hảo, một con người biết sống đúng bổn phận của mình. "Tu thân tích đức - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ". Một em học sinh muốn trở thành những nhà bác học lừng danh, thì trước hết, tuổi thơ của em phải là những học sinh gương mẫu, em phải biết chu toàn tốt bổn phận học trò của mình mới mong lập được công trạng cho gia đình và xã hội. Hơn nữa, người có tài nhưng không sống đúng bản chất con người là "nhân chi sơ tính bản thiện" thì cũng chỉ là kẻ gieo vãi sự chết chóc nơi nhân thế thay vì dùng tài năng để phục vụ cho đời.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt muối bé nhỏ hay chỉ là một chút ánh sáng lẻ loi. Thật bình thường và cũng thật tầm thường nhưng lại thật hữu ích cho đời sống con người. Không có muối làm sao có những bữa tiệc thơm ngon mặn mà. Không có ánh sáng làm sao con người có thể nhìn ngắm những vẻ đẹp muôn màu của vũ trụ mà Thiên Chúa đã dựng nên.
Các con là muối cho đời - là ánh sáng cho trần gian. Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối làm cho người phụ nữ nội trợ thêm rạng rỡ niềm vui, cho bữa cơm gia đình thơm ngon đậm đà.
- Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, cho con người nhận ra nhau, cho quan hệ giữa người với người thêm trong sáng chân thành. Mọi mối quan hệ còn ở trong bóng tối, thì đó chỉ là những mối quan hệ bất chính và tội lỗi.
Nhưng thân phận cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới thực sự có ích cho đời: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụn xuống. Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa, chỉ nên vất ra đường phố cho người ta chà đạp và khinh bỉ.
Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như hạt muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng phải tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, cho dù phải đương đầu với biết bao sống gió nhưng vẫn phải giữ cho ngọn đèn đó cháy sáng, vì biết đâu xa xa ngoài khơi vẫn còn có ai đó đang cần một chút ánh sáng để định hướng vào bờ.
Ngược dòng lịch sử 600 năm trước Chúa Giáng Sinh, tiên tri Isaia đã dạy chúng ta phương thế để trở thành ánh sáng cho đời:
Về mặt tiêu cực: đừng bao giờ khinh bỉ người khác, phải loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu anh chị em mình; Về mặt tích cực là chia cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau khổ được hạnh phúc...
Và "Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng đông, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày".
Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một căn nhà ngoại ô ở Calcutta. Nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng ra. Mẹ đẩy cửa bước vào, sờ soạng, đi lại giường một cụ già tiều tụy đau yếu, Mẹ hỏi: Nhà cụ không có đèn đóm gì ư?-Có một chiếc đèn còn tốt, nhưng không có dầu. Vả lại có ai đến thăm tôi đâu mà phải đèn với đóm! Mẹ lục lọi tìm ra chiếc đèn, lau chùi, mua dầu cho vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh lên. Ít lâu sau Mẹ nhận được một lá thơ với mấy dòng chữ: "Nụ cười vui tươi của Mẹ, như dầu khích lệ, như đèn đốt sáng đời tôi, mỗi khi chiều về".
Mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi để thắp sáng cuộc đời kẻ khác. Mỗi người đều có một khả năng cá biệt để thắp sáng niềm tin cho anh chị em chúng ta và ướp mặn trần gian bằng tình yêu thương bác ái và cảm thông. Vì:
"Làm thân cây nến vào đời
Càng tiêu hao cháy, càng ngời vinh quang"
Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta lu mờ dần đi và có khi tắt ngấm. Vì thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ nên những ai tiếp xúc với chúng ta đều cảm thấy mặn chát, khô cằn thiếu sức sống vui tươi. Xin Chúa giúp chúng ta dám hy sinh và từ bỏ mình mỗi ngày để trở nên ánh sáng và muối men cho đời. Amen.
------------------------------------
(Tổng hợp từ R.Veritas)
Sau một thời gian dài học hỏi và tu luyện, người học trò mới cất tiếng hỏi thầy mình: - Thưa thầy: TN 5-A69
Sau một thời gian dài học hỏi và tu luyện, người học trò mới cất tiếng hỏi thầy mình:
- Thưa thầy, đâu là sự khác biệt giữa kiến thức và giác ngộ?
Thầy mỉm cười và ôn tồn giải thích:
- Khi có kiến thức, giống như con có “ánh sáng” soi đường con đi. Nhưng khi con giác ngộ, chính con sẽ trở thành “ánh sáng” soi đường cho người khác.
Bạn thân mến!
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng mời gọi ta trở nên “Ánh Sáng và Muối Đất”. Đó cũng là lệnh truyền cấp bách mà Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta hôm nay.
“Chính anh em là muối cho đời”. (Mt. 5,13) Muối là một sản phẩm không thể thiếu trong đời sống con người. Muối vừa làm phân bón cho đất đai màu mỡ; vừa làm gia vị cho các món ăn thêm thơm ngon đậm đà; vừa bảo quản thực phẩm cho khỏi hư thối. Khi muối muốn ướp cho “mặn đời”, muối phải biết chấp nhận hòa tan, phải biết “mất đi” cho chính mình để hoá thân trong chất mặn, để hiến dâng cho đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại, của yêu thương và tha thứ …
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt.5:13). Đây là lời mời gọi tuyệt vời dành cho người Kitô, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga.1:5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga.8:12). Vậy ta muốn trở thành ánh sáng như Đức Giêsu, ta phải ở gần Ngài: gần đèn thì ta được toả sáng.
Ánh sáng không thiên vị một ai, không thích người này và cũng không chê người kia. Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp nơi, chiếu sáng mọi người và mọi nhà. Ánh sáng của người Kitô cũng vậy,“ánh sáng của anh em phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền tài, lạc thú. Không phải để khoe khoang, tự kiêu, nhưng là để tôn vinh Cha, Đấng ngự trên trời” (Mt.5:16).
Ánh sáng của cây nến tuy nhỏ bé nhưng cũng đủ toả sáng cả một căn phòng, làm cho bóng tối phải lùi bước. Một khi ánh sáng của ngọn nến bừng lên, đó cũng là lúc ngọn nến bị đốt cháy, bị tan biến đi. Người Kitô cũng vậy, phải mất đi cho chính mình, phải tan biến đi để “Ánh Sáng Chúa Kitô“ được loan toả khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp mọi tâm hồn.
Khi bị đốt cháy, ngọn nến nhận sức nóng từ ngọn lửa và cho đi ánh sáng. Người Kitô trong thế giới hôm nay cũng phải giống như vậy. Nhưng trong suy tư thinh lặng, tôi tự hỏi lòng mình: “Tôi đang nhận điều gì trong cuộc sống hôm nay? Và tôi sẽ cho đi những gì cho người anh em xung quanh tôi?”
***
Vì tôi là muối nhạt nên thế giới này vô vị.
Vì tôi là đèn hết dầu, nên thế giới còn nhiều bóng tối.
Thế giới này sẽ mang bộ mặt mới nếu tôi thực thi lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: “Anh em là muối cho đời …Anh em là ánh sáng cho trần gian ”.
Lạy Chúa Giêsu!
Xin giúp con lắng nghe tiếng Chúa
và nỗ lực thực thi Lời Ngài trong cuộc sống của con hôm nay. Amen!
------------------------------------
Muối
Muối rất cần để bảo vệ thực phẩm. Và hình ảnh ấy cũng nói đến những con người đóng vai trò: TN 5-A70
Muối rất cần để bảo vệ thực phẩm. Và hình ảnh ấy cũng nói đến những con người đóng vai trò giáo dục, có bổn phận và trách nhiệm “bảo vệ và gìn giữ” những vẻ đẹp cao quý, thiêng liêng, những giá trị đạo đức nhân phẩm để con người sống “nên người”, sống “cho ra người” hơn. Ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”.
Muối là gia vị làm cho thức ăn được ngon miệng, mặn mà. Từ đó nó gợi cho con người hình ảnh tình nghĩa đậm đà mà con người cần phải có để cuộc đời thêm đẹp, thêm ấm áp. Nếu không tình đời sẽ “lạt như nước ốc, bạc nhơ vôi”.
Ánh Sáng
Ánh sáng chiếu soi vạn vật, nhờ ánh sáng con người chiêm ngưỡng được vẻ đẹp cảnh vật quanh ta.
Nhờ ánh sáng, con người định hướng được hướng đi của đời mình. Nhờ ánh sáng con người vượt qua được nguy hiểm, tiếp tục cuộc hành trình an toàn, và đến bến bờ hạnh phúc. Như ánh sáng Hải Đăng cần thiết cho những cuộc hành trình ở Đại Dương bao la.
Ánh sáng thiên nhiên gợi cho ta hiểu ánh sáng tâm hồn. Đôi mắt mùa lòa làm cho con người đau khổ vì sống trong tăm tối, nhưng đôi mắt tâm hồn “mùa lòa” sẽ dẫn con người đến sự sụp đổ hoàn toàn. Mùa Xuân thiên nhiên có thể không đến với những con người mà đôi mắt đã bị cướp đi ánh sáng, nhưng nếu tâm hồn họ đã vươn lên được niềm hạnh phúc cao cả, nếu đôi mắt tâm hồn của họ đã nhìn xuyên thấu những giá trị cao quý của đời người, dù sống trong tăm tối, tâm hồn họ vẫn rực sáng với muôn điều hạnh phúc kỳ diệu sẽ đến trong thế giới nhiệm mầu của riêng họ.
Điểm chung của muối và ánh sáng
Muối và ánh sáng đều đem lại sự an bình. Không hư hao, và tránh những điều xấu có thể đến.
Muối và ánh sáng đem lại cho đời những điều tốt đẹp hơn. Mặn mà và tươi sáng.
Muối và ánh sáng đều chịu hao mòn. Tan biến và dần dần tự hủy đi tạo ra muôn thứ tốt đẹp và hữu ích. Những hạt muối hòa tan và mất đi để có những bữa ăn ngon. Những cây nến hao mòn và mất đi để cho đời ánh sáng. Mặt trời một ngày nào đó cũng tắt khi nguồn năng lượng cạn kiệt.
Muối và ánh sáng đều thầm lặng hy sinh. Khi dùng những món ăn ngon, người ta khen thịt, cá, rau, quả…không ai khen muối. Khi ngắm cảnh đẹp, người ta khen núi, sông, hoa, lá, mây trời… không ai khen ánh sáng.
Vì đời và cho đời
Muối thì phải mặn. Nếu muối mà không mặn thì có còn là muối không?
Ánh sáng thì phải chiếu sáng. Nếu ánh sáng mà không chiếu sáng, thì có còn là ánh sáng không?
Môn đệ thì phải theo gương thầy. Môn đệ mà không giống thầy, thì có còn là môn đệ thầy không?
Chúa Giê-su, Thiên-Chúa-làm-người. Ngài dành cả cuộc đời ở trần thế nầy để “vì đời và cho đời”.
Vì đời và cho đời như “muối và ánh sáng”.
Hãy nhìn vào cuộc đời của Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế, từ Bê-lem đến đỉnh Can-vê! Còn ai “vì đời và cho đời” hơn như thế không?
Nên môn đệ Chúa Giê-su phải là “muối” và “ánh sáng” theo gương của Thầy Chí Thánh của mình là Chúa Giê-su.
Chính anh em là muối cho đời (Mt.5,13).
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (Mt.5,14).
“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”.
Và tất cả múc nguồn từ Chúa Giê-su Ki-tô.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. (Ga.1,14).
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. (Tv 119,105).
“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”, để đời có Niềm Tin, Hy Vọng và Vui Sống. Để đời biết sống đúng ý nghĩa kiếp người và tìm về bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu trong Tình Yêu Thiên Chúa.
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga.14,6).
Lạy Chúa,
Xin dạy cho con,
và soi sáng cho con,
biết suy nghĩ và hành động,
theo thánh ý Chúa. Amen.
------------------------------------
Muối được dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối còn ánh sáng dùng để soi chiếu. Vì thế muối phải TN 5-A71 Luong
Muối được dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối còn ánh sáng dùng để soi chiếu. Vì thế muối phải mặn và ánh sáng thì cần phải sáng, bằng không chúng sẽ mất mục đích của mình và lúc bấy giờ sẽ không còn có một giá trị gì nữa.
Trước hết Tin Mừng và những chân lý đức tin chính là muối và ánh sáng. Chúng không thể trở nên lạt lẽo và đen tối. Tuy nhiên, Tin Mừng và những chân lý đức tin chỉ trở nên khả giác, khi đi vào trí khôn và cõi lòng con người. Do đó, những người mang Tin Mừng và chân lý đức tin tới cho kẻ khác cũng phải là muối và ánh sáng trần gian.
Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay Giáo Hội phải thấm nhập vào các nền văn minh với những giá trị của Tin Mừng, nhờ đó mà làm cho thế gian khỏi tan rã, thoái hoá và ươn thối, với những chủ thuyết như duy vật, duy sắc dục.
Tuy nhiên cũng có những người quảng đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng họ lại không biết bên kia cái cùng đích họ theo đuổi, còn có gì nữa không? Bởi đó, người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá con người hầu góp phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả những lãnh vực như gia đình, xã hội, nghề nghiệp, chính trị, kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như niềm tin vào Đức Kitô soi sáng và thúc đẩy. Nếu không có can đảm sống như thế, thì họ sẽ trở nên lạt lẽo và chẳng còn giá trị gì nữa, hay như lời Phúc Âm đã diễn tả: đó là bị ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân.
Tiếp đến người Kitô hữu phải là ánh sáng soi chiếu cho trần gian. Vấn đề không phải là phô trương mình ra. Cũng như ánh sáng soi chiếu vì nó sáng, thì người Kitô hữu cũng phải tạo ra ánh sáng Tin Mừng bằng cách sống Tin Mừng, bằng cách trở nên Kitô hữu đích thực, bởi vì chúng ta chỉ có thể cho cái mà chúng ta đã có. Chúng ta chỉ có thể chiếu toả, một khi đời sống chúng ta đã là ánh sáng. Chúng ta làm chứng về Đức Kitô không phải bằng cách khua chiêng gióng trống, nhưng âm thầm bằng chính cuộc sống gương mẫu của chúng ta.
Đúng thế, hãy làm cho cuộc đời mình trở nên tốt hơn. Vì cuộc đời tốt chính là một thứ ánh sáng soi chiếu cho người khác nhận biết Đức Kitô, cũng như Tin Mừng cứu độ của Ngài.
------------------------------------
Tin Mừng Chúa Giê-su Kitô theo Thánh Mat-thêu (Mt 5: 13-16)
13 "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.14 "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được.15 Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.16 Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
SUY NIỆM
Qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã dùng hai hình ảnh hết sức gần gũi với TN 5-A72
Qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã dùng hai hình ảnh hết sức gần gũi với đời sống của chúng ta, để dạy chúng ta trở thành một Ki-tô hữu “đích thực” đó là: muối và ánh sáng.
Hai hình ảnh Chúa Giêsu nói đến trong trang Tin Mừng rất thực tế và cần thiết cho đời sống con người.
Trước hết là hình ảnh muối: Chúng ta thử suy nghĩ xem, nếu trong thức ăn thiếu muối thì thức ăn đó như thế nào? Chắc chắn sẽ làm cho thức ăn đó nhạt nhẽo và không hấp dẫn. Nếu cơ thể của chúng ta thiếu chất muối thì con người chúng ta sẽ như thế nào? ….
Hình ảnh thứ hai là ánh sáng: Nếu không có ánh sáng của mặt trời, nhân loại, cỏ cây, muôn thú sẽ sống ra sao? Chắc chắn chúng khó phát triển và tồn tại.
Từ những hình ảnh trên, Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta sống để làm chứng cho Chúa và đem tình yêu của Chúa đến cho những người chưa nhận biết Chúa là Đấng tốt lành và luôn yêu thương nhân loại.
Vậy làm thế nào để mỗi người chúng ta trở thành muối và ánh sáng? Chúng ta hãy thực hành điều Chúa dạy cách cụ thể như lời ngôn sứ Isaia đã nói: “Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?”.
Yêu thương, quan tâm những người thân trong gia đình và những người nghèo khổ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, thì một cách nào đó, chúng ta đã trở thành muối và ánh sáng để lan toả tình yêu của Chúa đến cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con mỗi ngày biết thực thi những lời Chúa dạy. Xin cho chúng con trở nên như muối và ánh sáng bằng một việc làm cụ thể: Biết quan tâm đến những người đau khổ, bệnh tật, nghèo đói nhất là những người thân trong gia đình của chúng con. Amen.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
------------------------------------
Hạt muối Bé nói với hạt muối To: “Em đến chia tay chị, em sắp được hòa trong đại dương”. Muối TN 5-A73
Hạt muối Bé nói với hạt muối To: “Em đến chia tay chị, em sắp được hòa trong đại dương”. Muối To trố mắt: “Em dại quá, sao lại để đánh mất mình như thế. Em muốn thì em cứ làm, chị không điên!“.
Muối To thu mình co quắp lại, nhất định không để biển hòa tan. Muối To lên bờ, sống trong vuông muối. Nó vẫn ngạo nghễ, to cứng và nhìn chúng bạn bé tí ti đầy khinh khỉnh. Thu hoạch, nông dân gạt nó ra ngoài, xếp vào loại phế phẩm, còn những hạt muối tinh trắng kia được đội lên đầu, hay bê bên lưng rồi đóng vào bao sạch đẹp… Lần đầu tiên nó thấy mình bị xúc phạm!
Sau một thời gian lăn lóc hết xó chợ này đến xó chợ khác, cuối cùng người ta cho nó vào nồi cám heo. Phải hóa thân phục vụ cho lũ heo dơ bẩn này ư? Nó tủi nhục ê chề! Lòng kiêu hãnh không cho phép nó “tế thân” cho lũ heo hạ tiện. Nó thu mình co cứng hơn mặc cho nước sôi trăm độ cũng không lấy được, dù là cái vảy da của nó.
Khi rửa máng heo, người ta phát hiện nó, và chẳng cần nghĩ suy, ném nó ra đường lộ. Người người qua lại đạp lên nó!
Hạt muối là để hòa tan. Hạt Muối phải chịu tan biến chính mình mới thể hiện giá trị đích thực của hạt muối. Muối đã lạt và không còn khả năng hòa tan thì cũng bị quên lãng hay vứt bỏ ta đường cho người qua lại dẫm đạp mà thôi!
Con người không được sống cho chính mình. Con người phải biết dấn thân, hòa nhập với xã hội mới thể hiện vai trò giá trị của mình trong cộng đồng. Nhân loại cũng bỏ rơi những con người lười biếng, vô dụng, thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội. Muối đã lạt thì vứt đi. Con người lạt tình người, lạt trách nhiệm sẽ trở nên vô dụng và bị bị lãng quên.
Chúa Giêsu mời gọi người tín hữu phải biết hòa tan trong cuộc đời. Như hạt muối hòa tan trong môi trường để ướp mặn cuộc đời. Như ánh sáng hòa tan trong không gian để xua tan bóng tối. Muối và ánh sáng đều phải chịu tan biến mới sinh ích cho con người. Là người ky-tô hữu cũng phải hòa tan cuộc đời mình trong dòng chảy tình yêu để mang lại sức sống cho con người.
Chính Chúa Giêsu đã chấp nhận hòa tan chính mình trong dòng chảy của cuộc đời. Ngài đã trở nên mọi sự cho mọi người. Ngài đã sống để dâng hiến và phục vụ con người trong yêu thương hết mình như thánh Gioan đã nói: “Ngài đã yêu thì yêu cho đến cùng”. Đỉnh cao của hòa tan là chấp nhận tiêu hao chính mình “như hạt lúa chịu mục nát để sinh nhiều bông trái”.
Năm nay Giáo hội mời gọi chúng ta “Phúc âm hóa” là dịp nhắc lại vai trò của người tín hữu giữa dòng đời. Là người tín hữu phải đem muối Phúc âm thẩm thấu vào trong thế gian. Là người tín hữu phải đem ánh sáng của Phúc âm dẫn dắt con người hôm nay đi trong chân lý. Thế nhưng, ở đâu dó vẫn có những tín hữu thiếu gia vị của tình yêu, thiếu cả gương sáng gây ô uế môi trường và gây gương xấu cho tha nhân. Ở đâu đó vẫn có những nhóm giáo dân thường co cụm chính mình mà ít cởi mở, thân thiện với tha nhân. Đó là lý do mà Giáo hội không thực sự có gía trị trong cộng đồng nhân loại. Làm sao Giáo hội có thể phúc âm hóa môi trường khi mà người tín hữu để muối đã lạt qua cách sống đạo hời hợt, đôi khi còn thiếu gia vị của tình yêu? Làm sao mà Giáo hội có thể Phúc âm hóa khi mà chính người ky-tô hữu vẫn còn làm gương xấu của gian dâm, của cờ bạc, rượu chè . . .
Ước gì đời sống của chúng ta luôn là lời ngợi ca và tôn vinh Chúa. Một đời sống thấm nhuần lời Chúa để đem tin mừng thẩm thấu vào trong thế gian. Một đời sống công bình bác ái như những ngọn đèn hải đăng thắp sáng trong bóng đêm của xã hội đầy bất công và hận thù. Một cuộc sống đi vào lòng nhân thế để phủ đầy ánh sáng của Phúc âm và hơi ấm của Tin mừng.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn hoàn thành đời mình như muối mặn, như ánh sáng hòa tan cho thế gian sức nóng và tràn ngập ánh sáng của Tin mừng. Amen.
------------------------------------
1. Sự giác ngộ
Nghe từ Giác Ngộ xem ra có vẻ nhuốn chút suy tư đạo lý của Phật Giáo. Tôi thích từ Giác Ngộ, đồng TN 5-A74
Nghe từ Giác Ngộ xem ra có vẻ nhuốn chút suy tư đạo lý của Phật Giáo. Tôi thích từ Giác Ngộ, đồng nghĩa với từ Thức Tỉnh (to awake, awaken). Mấy năm trước đây, tôi vẫn thường gặp và thăm hỏi thầy Thích Thiện Chí. Có một lần, thầy tâm sự rằng thầy mới được giác ngộ. Thầy kể rằng một ngày kia khi đang tụng kinh, thầy cảm thấy như có một lóe sáng trong đầu và từ giây phút đó thầy bắt đầu thao thao giảng dạy và chia sẻ những gì mà trước đây thầy không thể làm được. Thầy Thích Thiện Chí rất khiêm nhu và hiền lành. Thời gian trước thầy trụ trì tại Chùa Thập Phương nay đổi sang phục vụ tại Chùa Chiếu Kiến ở vùng Bronx, Nữu Ước.
Giác ngộ chính là được thức tỉnh. Mỗi người đều có những khoảnh khắc tự giác và nhận thức. Trước đó không bao giờ nhận ra dù có kinh qua bao nhiêu ngày sống. Giây phút giác ngộ hay thức tỉnh là một khởi đầu rất qúy báu. Có những vị thánh đã được thức tỉnh qua lời Chúa trong Kinh Thánh như thánh Antôn, Tu Viện Trưởng. Một ngày kia, Antôn ghé vào nhà thờ vừa khi bài Phúc âm đang đọc nói về người giầu có: Đức Giêsu đáp: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."(Mt. 19, 21). Ngay lập tức, Antôn rời nhà thờ và về làng quê bán hết của hồi môn và 200 mẫu đất, rồi đem phân phát cho người nghèo. Lần kế tiếp, ngài vào nhà thờ nghe bài phúc âm khác: Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy (Mt. 6,34). Không do dự, ngài dâng biếu tất cả những của cải còn lại cho người nghèo. Sau đó, Antôn vào ẩn tu và tự tay lao động nuôi thân cùng giúp đỡ người khác. Đây chính là sự giác ngộ thực sự. Giác ngộ và tiếp tục sống ơn soi sáng thúc đẩy để thánh hóa cuộc đời.
2. Sống thức tỉnh
Giây phút ánh sáng chói lòa biến đổi cuộc đời. Saulô đang trên đường đi ruồng bách những tín hữu của Chúa Kitô, đã bị luồng ánh sáng đánh ngã ngựa và làm lòa mắt. Saulô không còn thấy đường đi mà phải nhờ người dẫn dắt. Saulô được chính Chúa Giêsu, nguồn ánh sáng chọn, gọi và cải đổi đời sống. Chúa Kitô đã biến đổi một Saulô đang ruồng rẫy bách hại các Kitô hữu trở thành Phaolô nhiệt thành rao giảng tin mừng Nước Chúa. Phaolô đã trở nên muối, nên men và ánh sáng cho mọi người, nhất là các dân ngoại. Thánh Phaolô đã mang ánh sáng tin mừng của Chúa đi cùng khắp. Ngài đã là chứng nhân đích thực và là đèn sáng để trên giá cao soi cho mọi người ở mọi thời, mọi nơi.
Giác ngộ như Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị trong lễ đăng quang nhận chức vị chủ chăn của Giáo Hội ngày 22 tháng 10 năm 1978. Câu đầu tiên trong bài giảng khai mạc là: Anh chị em đừng sợ. Ngài được linh hứng qua lời Chúa, trong Thánh Kinh đã có trên 100 lần nhắc đến từ "Đừng Sợ". Đừng sợ khi phải đối diện với những nghi nan, khó khăn hay thách thức. Đức Giáo Hoàng đã nỗ lực vượt ra ngoài tiền lệ đã gặp gỡ nhiều người, đi tới nhiều nơi và nhiều nước. Ngài đã hòa giải và xin lỗi toàn nhân loại vì những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ. Ngài chính là muối ướp mặn và là ánh sáng thế gian. Ngài đã đến với giới trẻ để ướp thêm vị mặn cho khỏi bị nhiễm mùi thế tục. Ngài đã sống chứng nhân đích thực của Chúa Kitô cho đến hơi thở cuối cùng.
Thức tỉnh như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Nguyễn văn Thuận trong những ngày lao tù đầy khổ sở tại Vĩnh Phú. Nơi đây đa số tù nhân là những người không thuộc Đạo Công Giáo. Trong lúc cô đơn, buồn chán, thất vọng và nhớ nhung những sinh hoạt của giáo phận. Ngài kiên tâm cầu nguyện và được ơn soi sáng từ đáy tâm hồn mời gọi và đã thức tỉnh ngài là "Hãy chọn Chúa, chứ không phải là công việc của Chúa"(Escoge a Dios y no las obras de Dios). Nhận thức Chọn Chúa, ngài đã mở ra Con Đường Hy Vọng. Đức Cố Hồng Y Phanxicô là đèn sáng soi rọi gian trần. Ánh sáng cuộc sống của ngài đã lan tỏa từ trong ngục tù tối tăm, lạnh vắng đến kinh thành Rôma ánh sáng, trung tâm của Giáo Hội. Đèn vẫn cứ cháy sáng cho dù với chỉ một người lính canh hay cả ngàn ngàn người tụ họp bên ngài. Nơi ngài tỏa sáng niềm tin hy vọng vào Chúa Kitô. Ánh sáng của Chúa Kitô được phản ảnh qua đời sống đạo hạnh của ngài. Ngài là ánh sáng cho trần gian.
3. Nhận thức
Trong cuộc đời, ai trong chúng ta cũng có những giây phút hay khoảnh khắc thức tỉnh, giác ngộ hay lóe sáng tâm linh. Có nhiều khía cạnh và nhiều thể loại thức tỉnh khác nhau tùy theo mức độ nhận thức. Nhận thức từ những vật thể tới cảm xúc và tinh thần. Có những vật quý giá bao năm bị bỏ quên lãng, đột nhiên một ngày chúng ta nhận ra giá trị và sự tuyệt đẹp của nó. Có khi bao năm chúng ta bị nghiện ngập sống trong trụy lạc, bài bạc, rượu chè và khói thuốc, vào một ngày tự nhiên chúng ta phát hiện sự nguy hại và rồi chúng ta dứt bỏ nó. Có khi người bạn hiện diện ngay bên mà không nhận ra, cho đến lúc được thức tỉnh trong tình yêu, người ta gọi là tiếng sét ái tình. Hoặc khi trải qua những tại họa thương đau mất mát, chúng ta mới chợt tỉnh thức tiếc nuối những gì đã qua và bắt đầu lại. Có những thức tỉnh trong tâm hồn nhờ một biến cố, một lời linh ứng, một phát hiện hay một thúc đẩy từ đáy tâm hồn. Sự giác ngộ hay thức tỉnh đây mới chỉ là một khởi đầu trong cảm xúc, chúng ta phải phấn đấu và sống với tia sáng soi dọi đó bằng ý chí và cả cuộc đời. Sự giác ngộ mới có ý nghĩa và mang lại hoa qủa đích thực.
Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt lại từ đầu. Chúng ta biết rằng vạn sự khởi đầu nan. Giây phút khởi đầu bất cứ một việc gì cũng rất quan trọng. Người ta nói: Xảy một li, đi một dặm. Trong kinh nghiệm cuộc sống, chúng ta có nhiều cơ hội may mắn xảy đến trong đời. Nếu ai biết chộp bắt cơ hội, họ có thể làm giầu, thành công và đạt thắng lợi. Về đời sống tinh thần cũng thế, đến một lúc nào đó, chúng ta cảm nhận được sự an vui khi lòng mình ở ra và con tim thắp sáng lên niềm tin yêu hy vọng. Chúng ta hãy kiên tâm học hỏi, tìm hiểu và cầu nguyện, chúng ta sẽ không bị thất vọng. Chúa Giêsu đã hứa: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt. 7,7).
4. Muối và Ánh Sáng
Lời Chúa Giêsu xác tín rằng anh em là muối và là ánh sáng. Muối mặn để ướp đời. Ánh sáng trên giá soi sáng cho mọi người. Mỗi người chúng ta được chịu phép rửa trong Chúa Kitô và được trao nến sáng. Chúng ta đều mang danh là Kitô hữu, có nghĩa là chúng ta thuộc về Chúa Kitô. Thuộc về Chúa Kitô thì đương nhiên chúng ta phải là muối và ánh sáng. Mỗi lời nói, cử chỉ và việc hành xử của chúng ta đều mang danh là Kitô hữu. Mọi việc chúng ta thực hiện tốt hay xấu cũng đều mang danh là người công giáo. Người công giáo phải là muối, là men và là ánh sáng. Muối thì phải có chất mặn. Chất mặn sẽ ướp đời khỏi ôi rữa hay hôi thối. Người Kitô hữu có sứ mệnh nên gương cho mọi người trong môi trường sinh sống của mình. Chúa Giêsu đã phán: "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi (Mt. 5, 13).
Cây tốt thì sẽ sinh trái tốt. Con người tốt sẽ phát huy những việc tốt.Trong thực tế lại không luôn là thế, người tốt vẫn có thể sai lầm, sa ngã và phạm tội. Thánh Phaolô khuyên dạy: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Tm.10,12). Cây cối sinh chồi nẩy lộc và hoa trái theo mùa tự nhiên, nhưng con người có ý chí tự do và chọn lựa cách sống. Sinh hoa trái tốt lành đạo đức là một ân huệ và sự cố gắng. Muốn được giác ngộ trong ơn gọi của mình, chúng ta cần sự kiên nhẫn cầu nguyện và ý thức về việc làm của mình. Chúa Giêsu tin tưởng truyền dạy rằng:"Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được (Mt. 5,14). Chúng ta phải là ánh sáng soi cho mình trước khi dọi sáng cho người khác. Thường thì chúng ta thích soi mói và nghe truyện người, hơn là nhớ truyện mình. Đèn của mình đã tắt mà lại muốn soi lối chỉ đường cho người khác. Mỗi người chúng ta cần tự giác và tỉnh thức luôn, đừng để mình bị rơi vào sự mù lòa trong tăm tối. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu: "Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố? (Lc. 6,39).
5. Nhân chứng
Chúa Kitô chính là nguồn và là ánh sáng đến trong trần gian. Ánh sáng của Chúa được tiếp nối qua đời sống của người tín hữu. Chúng ta không thể chối từ trách nhiệm là đèn sáng soi vào bóng tối. Cuộc sống con người đang dần bị tục hóa qua các trào lưu hưởng thụ và chạy đua với các nhu cầu đòi hỏi. Thế giới đang cần các ngọn hải đăng chiếu sáng. Mỗi Kitô hữu hãy khơi dậy ngọn đèn cháy sáng để đẩy lùi bóng tối. Chúng ta hãy thắp đèn và đặt trên giá để soi cho mọi người chung quanh. Nhân loại đang cần vị mặn của muối để thanh tẩy, cần ngọn lửa để sưởi ấm và cần những gương sáng để soi đường.
Mỗi người đều được mời ra đi làm nhân chứng tùy theo ơn gọi của mình. Có người sống trong bậc gia đình, người sống độc thân và người sống đời dâng hiến trong chức vụ linh mục, tu sĩ ... ai ai cũng có thể trở thành ánh sáng soi lối cho tha nhân. Giáo sư, thầy cô giáo, sinh viên, học sinh hãy nên muối, nên men giữa môi trường lớp học. Các kỹ sư, công nhân, chuyên viên, thợ máy hãy nên ánh sáng tại các công xưởng. Các thương gia, người buôn kẻ bán, các chủ tiệm, người làm công đều được mời gọi nên gương mẫu của sự công bằng và bác ái. Các bác sĩ, y sĩ, y tá, nhân viên nên gương tận tâm phục vụ như đèn sáng nơi nhà thương bệnh xá. Các chính khách, quân nhân, cảnh sát, công chức và các nhân viên phục vụ công quyền phải nên gương sáng trong khi thi hành chức vụ. Các nhà truyền thông, báo chí, văn nhân thi sĩ, kịch sĩ, ca sĩ, nghệ sĩ... cần dùng khả năng chuyên nghiệp của mình truyền rao chân, thiện, mỹ cho cuộc sống. Các tu sĩ, thiện nguyện viên, linh mục, phụ huynh hãy nên muối men phục vụ tại gia đình, cộng đoàn và giáo xứ. Chúng ta đừng dấu đèn sáng sau lưng, đừng bưng bít hoặc tắt đèn để được tự do hòa chung vào những cách sống không xứng danh là Kitô hữu. Là Kitô hữu, đừng sợ, chúng ta hãy tiên phong sống gương mẫu và là chứng nhân cho sự sáng và sự sống giữa dòng đời. Chúa Giêsu đã khuyến khích:"Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em"(Lc. 12,32).
Tóm lại, ước chi ánh sáng của ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội được cháy sáng mãi. Ngọn nến của niềm tin và niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh. Mỗi người tự vấn lương tâm, chúng ta đã góp được gì để xây dựng đời sống của Giáo Hội. Chúng ta đã làm được những lợi ích gì qua những ân huệ, khả năng và thời gian Chúa ban cho chúng ta trong cuộc sống? Chúng ta đừng cất giữ muối và ánh sáng cho riêng mình, hãy để muối ướp mặn đời và ánh sáng dọi chiếu muôn nơi. Xin Chúa là nguồn ánh sáng vĩnh cửu sưởi ấm và đốt lửa mến yêu trong tâm hồn chúng con, để chúng con tiếp tục truyền rao lời chân lý của Chúa.
------------------------------------
Ngày kia trong lớp giáo lý, cô giáo lý viên nói với các em học sinh về đề tài 'Chúa Giêsu'. Hôm nay, cô TN 5-A75
Ngày kia trong lớp giáo lý, cô giáo lý viên nói với các em học sinh về đề tài 'Chúa Giêsu'. Hôm nay, cô muốn nói với các em về một người mà các em sẽ gặp. Người đó yêu thương và chăm sóc các em hơn cả chính gia đình, cha mẹ, anh chị em và bạn bè của các em. Người đó hảo tâm hơn bất cứ người hảo tâm nào mà các em biết. Người đó tha thứ tội lỗi cho các em bất kể các em đã làm sai lỗi, nếu biết sám hối. Cô giáo để ý có một em nhỏ trai rất chú ý lắng nghe khi cô giảng. Đột nhiên, em không thể giữ im lặng được nữa. Em giơ tay phát biểu: Em biết người mà cô đang nói tới. Người đó sống ngay bên góc đường. Kitô hữu là người tỏ bày cho người khác những điều mà Chúa Giêsu yêu thích.
Từ thời rất xa xưa, trong cuộc sống xã hội đã luôn xuất hiện kẻ nghèo, người giầu. Thiên Chúa an bài trao ban cho mỗi cá nhân những khả năng chuyên môn tiềm ẩn và số mệnh riêng. Sự sống là một mầu nhiệm vô biên, mỗi người được chia sẻ một tí chút khả năng. Hiện hữu trên trần gian, không ai giống ai hoàn toàn và cũng không có sự đồng đều giữa mọi người. Có người được sinh ra trong nhung lụa ấm êm, có người vào đời có đủ ăn đủ mặc và có kẻ được sinh ra trong đói nghèo khổ sở. Giầu có hay nghèo đói mời gọi sự hỗ tương chia sẻ để đạt hạnh phúc đời này và đời sau. Người nghèo nương tựa người giầu và người giầu chia sẻ cho người nghèo. Mọi khả năng tiềm ẩn có được đều là món qùa nhưng không của Thượng Đế ban. Chẳng có điều gì chúng ta có, mà không bởi trên ban cho. Chúng ta nhận lãnh nhưng không thì cũng hãy chia sẻ nhưng không. Tiên tri Isaia mời gọi: Hãy chia sẻ của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi (Is 58, 7).
Giống như thời tiên tri Isaia của hơn 2,500 năm trước, thế giới hiện nay cũng thế, có biết bao nhiêu người nghèo, đói ăn và cùng khổ. Xã hội thời nào cũng có người giầu kẻ nghèo. Nghèo không phải là cái tội. Đôi khi họ nghèo tiền bạc, nhưng giầu lòng nhân ái. Chúa đã dựng nên mỗi người một cách đặc biệt không ai giống ai. Chúa dựng nên con người và chúc phúc cho loài người được sinh xôi nẩy nở đầy mặt đất. Con người có gia đình, xã hội và cộng đồng để cùng nâng đỡ chia sẻ với nhau trong tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi người đóng góp chút khả năng đặc biệt để cùng vun đắp và xây dựng một thế giới văn minh và tiến bộ. Hãy ngắm nhìn thế giới đa dạng chung quanh có muôn mầu, muôn sắc tuyệt vời.
Mỗi loài thụ tạo hay mỗi con người đều là một kỳ công của tạo hóa. Tạo hóa đã đặt để trong mỗi sinh vật một sứ mệnh riêng biệt. Các loài thụ tạo liên đới hài hòa để tiếp tục sinh tồn. Con người là thụ tạo cao quý được Thiên Chúa yêu thương ban cho nhiều khả năng. Tuy con người hiện hữu trong trần gian giới hạn, nhưng có ước vọng cao vời và vượt trên các loài. Con người được sinh ra trong thời gian hữu hạn, nhưng lại ngưỡng vọng cuộc sống vĩnh cửu. Bởi thế, loài người có sứ mệnh cao cả là phải luôn học hỏi, nghiên cứu và suy tìm để nhận biết, chúc tụng, cảm tạ và tôn vinh Đấng Tạo Hóa.
Truyện kể: Vào một ngày nọ, khi thầy dòng ẩn tu đang cầu nguyện thì chợt trông thấy một người ăn xin tật nguyền, đó là người mẹ nghèo đang đi xin thức ăn cho con nhỏ bệnh hoạn. Nhìn thấy thế, vị ẩn tu thân thưa với Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa tốt lành, làm sao Chúa lại để sự khổ đau xảy ra mà Chúa không can thiệp chi? Trong tận đáy lòng, vị ẩn sĩ nghe Chúa đáp lời: Ta đã thực hiện một số việc. Ta đã dựng nên con. Chúng ta là tác phẩm tuyệt với của Thiên Chúa. Chúa Giêsu phán: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được (Mt 5, 14). Anh em là ánh sáng soi dọi cho trần gian. Ánh sáng của cuộc sống tỏa chiếu qua nhiều cách thế cả tinh thần lẫn thể chất. Có thể chiếu tỏa qua gương sáng đạo đức, qua lòng bác ái vị tha, qua trái tim từ bi hỉ xả và qua các nhân đức tin, cậy và mến. Ánh sáng có thể diễn tả qua lời nói dịu dàng, cử chỉ thân mật, khuôn mặt tươi vui, hy sinh phục vụ và sự ân cần giúp đỡ.
Chúa Giêsu ước muốn mỗi người chúng ta hãy góp phần làm vinh danh Chúa Cha: Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời (Mt 5, 16). Kitô hữu là muối ướp mặn đời và ánh sáng dọi chiếu muôn nơi để mọi người, mọi nơi được ánh lên vinh quang Thiên Chúa. Thực hành các nhân đức sống động trong môi trường chung quanh bằng việc tốt lành. Gieo nhân tốt thì sẽ phát sinh hoa trái tốt. Một suy nghĩ tốt, một lời nói tốt, một cử chỉ tốt và một hành động tốt sẽ sinh muôn vàn hương hoa tốt lành. Người tốt và việc tốt sẽ chiếu dãi tấm guơng tốt. Hữu xạ tự nhiên hương. Thiên Chúa tạo dựng mong muốn mọi loài chia phần vinh phúc và chiếu tỏa vinh quang Chúa khắp nơi hoàn cầu.
Sau khi trở thành tông đồ của Chúa Kitô, Phaolô đã dành cả cuộc đời còn lại để rao truyền danh thánh Chúa, bất chấp mọi khó khăn cản trở. Phaolô lên tiếng: Phần tôi, khi tôi đến với anh em, tôi không đến với uy thế của tài hùng biện hoặc của sự khôn ngoan, tôi đến công bố bằng chứng của Thiên Chúa (1Cor 2,1). Không dựa vào sự khôn ngoan hiểu biết của thế trần, Phaolô được chính Chúa Giêsu soi sáng thúc đẩy từ nội tâm. Ngài đã cố gắng rao giảng chân lý với lòng nhiệt thành nóng bỏng. Ngài thuyết phục mọi người hãy đặt niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, nguồn ơn cứu độ. Chân lý cứu độ hoàn toàn không do sự nhận biết suy nghĩ khôn ngoan của người phàm mà do chính Chúa Giêsu mạc khải: Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan của người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa (1Cor 2, 5). Chúa Kitô là nguồn sáng thật đã chiếu sáng vào tâm trí chúng ta sự sáng thật. Sự sáng tinh tuyền của ơn cứu độ giải thoát.
Ánh sáng có thể len lỏi vào mọi nơi, mọi chỗ để đẩy lùi bóng đêm. Đêm tối là do thiếu ánh sáng. Khi mặt trời khuất bóng, màn đêm buông xuống. Con người khuất phục bóng đêm bằng các nguồn sáng hạt nhân, điện lực, động cơ và các nhu liệu. Ánh sáng mặt trời giúp mọi loài phát triển không ngừng trong thiên nhiên. Con người đã biết lợi dụng nguồn năng lượng để đưa vào cuộc sống. Ánh sáng văn minh mở rộng biên cương và kéo dài thời khắc làm việc và vui sống. Nhưng xã hội rất cần những ánh sáng thật chiếu dãi vào trong tâm hồn con người. Con người cần sự ấm áp của tình yêu thương, sự cảm thông, lòng thương xót và liên kết tình người. Một trái tim cô đơn có thể được sưởi ấm giữa mùa sương tuyết lạnh. Ánh sáng của những việc từ thiện và quan tâm cần thiết soi dọi vào giữa cuộc sống đầy vô cảm này.
Thánh Phaolô đã tâm sự: Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy (1Cor 2, 3). Biết mình yếu kém vì đã từng đi bách hại các Kitô hữu thuở ban đầu, khi luồng sáng đánh ngã ngựa, Saul bị mù lòa bước đi trong đêm tối của sự sợ hãi cho tới khi nhận được ánh sáng của Chúa Kitô. Phaolô can đảm nói lên sự thật về Chúa Kitô phục sinh. Ông đã bước đi trong sự sáng và chiếu dãi ánh sáng đó cho nhiều người và nhiều cộng đoàn tiên khởi. Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta cũng đón nhận ánh nến đức tin được đốt từ cây Nến Phục Sinh, chúng ta trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Chúng ta hãy sống như con cái sự sáng luôn sẵn sàng đèn nến thắp sáng để ra đón Chúa Kitô.
Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng và là sự sống. Xin ánh sáng của Chúa dẫn dắt chúng con ra khỏi bóng tối của sự dữ và sự dối trá. Xưa Chúa đã đem lửa xuống thế gian và mong cho lửa ấy cháy lên sưởi ấm mọi tâm hồn. Xin cho chúng con biết khơi dậy ngọn lửa yêu mến để nhiệt tâm sống chứng nhân cho tình yêu.
------------------------------------
Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ 5 mùa thường niên theo thánh sử Matthêu gồm hai ý tưởng chính yếu: TN 5-A76
Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ 5 mùa thường niên theo thánh sử Matthêu gồm hai ý tưởng chính yếu: môn đệ Chúa Kitô là "Muối cho đời" và "Ánh sáng cho trần gian". Trong bài suy niệm này, chỉ xin được ngẫm suy về muối.
Ngay từ tấm bé, ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng câu tục ngữ Việt Nam:
"Cá không ăn muối cá ươn.
Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư".
Ông bà tổ tiên mình đã dùng kiểu nói ví von dễ hiểu để dậy con cháu những bài học đạo đức luân lý cụ thể. Qua câu tục ngữ đó, ai trong chúng ta cũng hiểu rằng chất mặn của muối ướp cá cho khỏi ươn khỏi thối. Muối ở đây là lòng kính thảo cha mẹ, biết vâng lời, biết nghe và sống theo những lời dậy bảo của các bậc sinh thành. Những lời dạy bảo của cha của mẹ là khuôn vàng thước ngọc, giúp cho con cái trưởng thành khôn lớn, để trở thành người có ích cho gia đình xã hội mai sau. Đứa con nào bỏ ngoài tai lời cha mẹ khuyên răn, chắc sẽ khó tránh khỏi tính hư tật xấu.
Muối còn là gia vị cần thiết cho sự sống: muối mang lại dinh dưỡng cơ thể và bảo vệ sức khoẻ. Nấu nướng mà không có "mắm muối", đồ ăn sẽ nhạt nhẽo, không mặn mà. Trong đời sống vợ chồng, muối là tượng trưng cho những gì thắm thiết "mặn nồng", nhờ đó đôi vợ chồng gắn bó chung thủy với nhau đến "đầu bạc răng long":
"Tay bưng đĩa muối chấm gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau."
Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh cụ thể của muối để giáo huấn các môn đệ. Đa số các Ông là dân thuyền chài, sinh sống bằng kéo chài thả lưới, trước khi bỏ "mọi sự" mà theo Chúa, để trở thành "những kẻ chài người". Hơn ai hết, các Ông hiểu ngay Chúa Giêsu muốn dậy các ông gì khi Ngài nói: "Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi."
Qua lời của Chúa Giêsu, các môn đệ hiểu rất rõ rằng: họ được mời gọi là "muối" cho đời. Bản chất của muối là mặn. Giá trị của muối cũng là chất mặn. Bên bờ hồ Galilê hay bên hồ Giênêgiarét xưa, đã nhiều lần chính các ông đã dùng muối để ướp cá trên thuyền. Nay giữa cuộc đời bon chen, đầy sa đọa, môn đệ Chúa Giêsu phải là "muối" ướp mặn thế gian, làm cho đời khỏi ươn, khỏi thối. Theo lối giải thích của thánh sử Matthêu, các môn đệ phải là "muối cho đời" (Mt 5:13), nghĩa là phải gìn giữ và làm cho thế gian thêm mặn nồng trong giao ước với Thiên Chúa. Nếu không "nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi" (Lc 14:35).
Bản chất của muối là mặn. Bản chất của người môn đệ Chúa là được Chúa kêu gọi lên thánh, để "thánh hoá" bản thân, gia đình và xã hội. Trong Bí tích Thánh tẩy xưa kia, có nghi thức linh mục cho em bé hoặc người tân tòng nếm chút muối. Vì muối được ghi nhận trong Cựu Ước như "muối giao ước của Thiên Chúa" và Muối có công dụng thanh tẩy, cũng như ngôn sứ Êlisê đã dùng muối để tẩy rửa "nước độc" (2 V 2:19-22), vì thế, xát muối vào trẻ con (Ez 16:4), là dấu chỉ người Kitô hữu được kêu gọi nên thánh, để "thánh hóa" đời.
Trong Tân Ước, muối còn là hình ảnh của sự khôn ngoan và sự tinh ròng về luân lý. Đó là điều Đức Giêsu chờ đợi nơi người môn đệ (c.13). Nếu muốn "muối" đời khỏi ươn khỏi thối, người Kitô hữu phải nhất quyết từ bỏ "tội lỗi", cải chừa tính mê, để mặc lấy sự công chính, tức là mặc lấy chính Chúa Kitô, Đấng là "Đường, Sự Thật và Sự Sống". Làm sao có thể "ướp cho đời khỏi hư thối" khi chính mình không phải là "muối mặn". Cha mẹ làm sao dạy bảo được con cái: "Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư", khi chính đời sống của cha của mẹ chẳng gương mẫu gì! Vợ chồng công giáo mà "chồng ăn chả, vợ ăn nem", tối ngày chỉ lo làm giầu, cãi vã nhau như cơm bữa, thì làm sao ướp cho tình yêu lứa đôi khỏi hư thối. Trong Tin mừng theo thánh sử Marcô (Mc 9:50), Đức Giêsu cũng dạy: "Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hòa thuận với nhau." Ở đây muối chính là những giọt mồ hôi và lao công xây đắp cuộc sống, những hy sinh và từ bỏ mình để duy trì mối hòa thuận thương yêu (x Lc 14:34tt). Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu "lời nói phải đi đôi với việc làm": "Chớ gì ngôn ngữ anh em luôn dịu dàng, ướp đầy muối mặn để biết trả lời hợp với mọi người".
Câu chuyện "Những Lọ Đựng Muối Tiêu" sau đây, trích từ "những câu chuyện tu đức hằng ngày" của chương trình phát thanh Việt ngữ đài Chân lý phải làm mỗi tín hữu Chúa Kitô phải bóp trán suy nghĩ:
Sưu tầm là một giải trí rất phổ thông hiện nay. Người ta sưu tầm tem, nhãn hiệu, lon bia, chai lọ, sách quý... và lâu lâu đem triển lãm.
Tại một nhà thờ nọ tại Chicago bên Hoa Kỳ, trong một cuộc triển lãm các vật sưu tầm, người ta thấy có cả một khu dùng để triển lãm các lọ đựng muối tiêu. Một ông khách nọ vừa bước vào, sau khi mua một cái bánh Hamburger ở của vào, đã vội vã đi một vòng quan sát. Khi tới khu triển lãm các lọ đựng muối tiêu, ông mới sực nhớ ra cái Hamburger của mình nhạt quá. Thế là ông đã cầm lấy một lọ muối và xốc nhiều lần. Nhưng xốc đến lọ thứ mười hai mà ông vẫn chưa thấy muối. Ông đành phải trở lại cửa xin người bán hàng cho ít muối và phàn nàn: "Gần hai trăm cái lọ muối thế kia mà không có lấy một hột muối".
Đó là hình ảnh của cuộc đời Kitô chúng ta. Mang lấy danh hiệu là muối đất, nhưng lắn lúc chúng ta chỉ là những lọ trống không. Muối dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối. Muối dùng để sát trùng, chữa những vết thương. Muối dùng để nêm cho thức ăn được thêm đậm đà...
Trong một xã hội đang thối rữa vì những tệ đoan, người Kitô cần phải là muối để thanh tẩy và đem lại cho cuộc sống thêm đậm đà hương vị. Một lời nói, một hành động của chúng ta, nếu có chút muối của Đức Tin, Đức Ái sẽ mang lại cho những người xung quanh niềm vui và sức sống.
------------------------------------
Khi người ta hỏi ông Gandhi, một người rất nổi tiếng đấu tranh dành độc lập cho dân tộc Ấn-độ, về việc TN 5-A77
Khi người ta hỏi ông Gandhi, một người rất nổi tiếng đấu tranh dành độc lập cho dân tộc Ấn-độ, về việc phải làm thế nào để cho ngày càng có nhiều người biết chấp nhận và tuân giữ giáo lý khôn ngoan của Chúa, ông đã trả lời: “Các bạn hãy nghĩ về bí quyết của những bông hồng. Mọi người đều thích chúng vì ngoài vẻ đẹp và màu sắc sặc sỡ, hoa còn tỏa một mùi thơm kỳ diệu. Vậy, các bạn hãy “tỏa hương thơm”. Không chỉ tỏa hương thơm mà thôi, Lời Chúa hôm nay nhắn nhủ chúng ta hãy là muối đất và ánh sáng cho thế gian.
Là muối đất, vì muối mang lại hương vị cho thức ăn, giữ cho thực phẩm khỏi hư thối hoặc sát trùng chữa lành những gì hư hại… thì cách sống của chúng ta cũng phải có tác dụng tương tự với xã hội, nghĩa là phải nói năng, cư xử, hành động thế nào để cứu chữa thế gian này khỏi những gì xấu xa, khỏi hư thối vì tội lỗi và ngày càng trở nên tốt đẹp hơn.
Là ánh sáng cho đời vì nhiệm vụ của ánh sáng là soi chiếu đêm đen. Cũng giống như Chúa Kitô là Ánh sáng thế gian, chũng ta phải trở nên đèn sáng, những hướng đạo soi đường chỉ lối cho mọi người khỏi tối tăm lầm lạc để biết tìm đến quê trời, tìm đến với Chúa là nguồn sống muôn đời.
Khi dạy chúng ta phải trở nên muối ướp thế gian, Chúa Giêsu đã muốn chỉ vẽ cho chúng ta một thái độ sống cụ thể nhằm áp dụng tinh thần 8 mối phúc thật vào cuộc đời chúng ta. Như vậy, chúng ta có sứ mệnh cứu vớt loài người khỏi cảnh sa đọa tối tăm và có bổn phận luôn là muối mặn và là ánh sáng cho đời.
Nói một cách khác, để giữ mãi vị mặn của muối và ánh sáng của đèn, chúng ta phải từ bỏ những gì là tội lỗi xấu xa và thực hành các nhân đức như thương xót, từ bi, nhân hậu, công bình, quảng đại và bác ái với mọi người như được mô tả trong bài đọc I mà chúng ta vừa nghe.
Khi biết sống đạo giữa đời như thế, chứ không phải chỉ trong 4 bức tường của nhà thờ, chúng ta trở thành muối đất đèn đời và phản ảnh được tấm lòng đầy yêu thương nhân hậu của Chúa chúng ta. Được như thế, sự sáng của chúng ta mới “bừng lên trong bóng tối và tỏ rạng như hừng đông”. Khi nhìn vào những việc lành công bình bác ái chúng ta làm, người khác sẽ có cảm tình với đạo Chúa và sẽ tin thờ Chúa với chúng ta.
Người ta kể rằng thời xưa mỗi lần ra khỏi nhà trong đêm tối, người Nhật thường dùng những chiếc lồng đèn. Có một người mù nhớ đường rất giỏi, anh ta có thể đi trong đêm tối chỉ với cây gậy mà không cần dùng đến đèn. Đêm kia, anh ta đến thăm nhà một người bạn. Khi trở về, thấy anh đi tay không, người bạn mới lấy một chiếc lồng đèn trao cho anh, nhưng người mù từ chối và nói: “Đối với tôi thì cầm chiếc lồng đèn để làm gì vì bóng đêm hay ánh sáng đều như nhau”.
Người bạn trả lời: “Tôi vẫn biết như thế, nhưng nếu anh không cầm đèn trong tay, kẻ khác sẽ không thấy anh và như vậy họ có thể đụng vào anh”.
Nghe thế, người mù đành cầm lấy lồng đèn ra về, nhưng đi được một đoạn đường, bất ngờ anh bị một người khác tông vào. Tức giận quá đỗi, anh quát tháo inh ỏi: “Bộ đui hay sao? Không thấy chiếc đèn tôi đang cầm hay sao?”.
Người kia mới xin lỗi và phân trần: “Ông ơi, đúng là ông đang cầm chiếc lồng đèn, nhưng ngọn nến bên trong đã tắt từ lúc nào rồi!”.
Vì thế, nếu cuộc sống đạo của chúng ta không chiếu sáng bằng một đức tin vững mạnh và bằng những việc lành cụ thể là bác ái yêu thương thì chằng khác nào một ngọn nến đã tắt ngúm trong chiếc lồng đèn và có thể sẽ gặp tai họa. Tai họa cho tha nhân, cho đạo Chúa và còn là tai họa cho chính bản thân chúng ta. Tha nhân mất đi một điểm tựa cho cuộc sống, Giáo hội Chúa mất đi những vẻ đẹp sáng ngời, mà chính chúng ta cũng tự đày đọa mình vào trong bóng tối tội lỗi.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết trờ nên muối đất đèn đời để thiên hạ xem thấy những việc lành chúng con làm mà nhận biết và ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.
------------------------------------
Muối và lửa có bà con, họ hàng thân thiết với nhau từ trong bếp lên đến nhà và có mặt cạnh mâm cơm. TN 5-A78
Muối và lửa có bà con, họ hàng thân thiết với nhau từ trong bếp lên đến nhà và có mặt cạnh mâm cơm. Bữa cơm tối nơi đồng quê thường có ánh đèn dầu dù lu mờ vẫn soi đủ sáng cho bữa ăn thanh đạm. Nơi phố thị đôi khi ánh đèn cầy lấp lánh thay thế ánh đèn điện tạo nên khung cảnh tình tứ, thơ mộng. Muối và lửa ưa sống gần nhau, cả hai cần cho việc bếp núc, hỗ trợ nhau về phương diện thực phẩm. Muối có khả năng cầm giữ cho thực phẩm lâu hư. Lửa cũng có tác dụng không kém.Thực phẩm nấu chín giữ được lâu hơn là để sống. Kết hợp giữa muối và lửa là cách giữ thực phẩm an toàn và lâu nhất. Có loại thực phẩm nấu gần chín trước khi bỏ muối. Lại cũng có loại thực phẩm cần ướp muối cho thấm trước khi nấu. Biết gia giảm hài hoà giữa muối và lửa là tài nghệ riêng của đầu bếp trứ danh. Họ biết khi nào phải bỏ muối, khi nào phải tăng giảm lửa. ‘Cơm sôi bé lửa chẳng khê khắm gì’ là lời khuyên căn bản trong việc bếp núc.
Công dụng của muối
Muối cần thiết cho cơ thể. Thiếu muối cơ thể sinh hoạt bất thường. Quá nhiều muối làm cao máu. Nước biển có muối mặn, vì thế có thể tắm lâu trong nước biển; trong khi tắm lâu trong sông, rạch, hồ, ao, da bị nhăn, gọi là thiu tay chân. Muối và ánh sáng ngoài công dụng cầm giữ thực phẩm lâu hư còn có khả năng khử trùng. Muối làm tăng vị, giúp ăn ngon miệng. Lạt quá mất ngon, mặn quá không thưởng thức được. Ánh sáng cũng tác dụng không kém, nhờ ánh sáng kích thích tâm lí khiến cho tâm hồn thoải mái, khung cảnh hài hoà làm cho thực phẩm thú vị hơn. Xem thế muối lợi về phương diện thể lí; ánh sáng lợi về phương diện tâm lí.
Bản chất của muối là mặn, không mất vị mặn ngay cả khi để trong kho lâu ngày, muối vẫn giữ vị mặn nguyên chất. Cách duy nhất có thể làm nhạt muối khi trộn muối chung với thứ khác như pha trong nước, trong bột hoặc dùng lửa đốt muối cháy thành than. Sức nóng không tiêu huỷ hết chất mặn trong muối mà chỉ làm thay đổi vị mặn của muối. Muối và lửa, tuỳ vào công dụng mà được phân chia thành nhiều loại khác nhau. Phúc âm xác định rõ ràng khi đề cập đến muối và ánh sáng: Chính anh em là muối cho đời…. là ánh sáng cho trần gian.
Muối ướp đời
Đức Kitô nói rõ chính anh em là muối cho đời. Ánh sáng cho trần gian. Ngài không nói là nên như muối hay học từ muối mà nói: chính anh em là muối cho đời. Như thế nhiệm vụ chính của người Kitô hữu là sống mang lại lợi ích cho đời. Cuộc sống chứng nhân cho Chúa giữa trần gian. Sống để làm sáng danh Chúa và mang lại niềm vui, hy vọng cho mình và cho xã hội loài người. Kitô hữu cần mang sức sống an lành vào nơi bất an. Mang tin yêu, hy vọng vào nơi thất vọng. Sống tinh thần Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô. Cho đời lên hương. Nhiệm vụ của Kitô hữu là muối cho mọi người, giúp họ trở thành người tốt bằng cách chính mình sống đời sống tốt, để lời nói, hành động của mình trở thành muối cho đời.
Là ánh sáng chiếu dọi khắp gian trần, không phải chỉ chiếu sáng một vùng trời mà cho cả gian trần. Ý tưởng trên có tham lam quá chăng? Thưa không bởi vì Kitô hữu không làm việc tuỳ hứng, cá nhân, đơn độc nhưng làm việc theo tinh thần chung. Tinh thần Kitô hữu là tinh thần cộng đoàn, tập thể, đại gia đình Chúa. Mọi người là anh chị em, cùng chung một Cha. Tinh thần cùng làm lợi cho nước trời, không phải cho cá nhân mình mà cho Nước Cha trị đến. Cho í Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời theo tinh thần Kinh Lậy Cha.
Phản ứng
Là ánh sáng chiếu soi gian trần, là muối ướp đời nên cuộc sống người Kitô hữu luôn phấn đấu giữa tích cực và tiêu cực. Xã hội đời có phản ứng tích cực bằng cách chấp nhận chào đón, để cho lối sống của người Kitô hữu ảnh hưởng trên xã hội, thay đổi lối sống xã hội. Phản ứng tiêu cực là chống lại, từ chối hay loại trừ những gì trái với bản chất, khuynh hướng xã hội ưa thích. Đời sống Kitô hữu chắc chắn sẽ gặp đối kháng, phê bình, chỉ trích và ngay cả bị bách hại, tù đầy là điều không thể tránh. Ánh sáng và muối Kitô hữu ướp đời không khéo sẽ bị muối đời, bóng tối xã hội bao phủ, tấn công và lui vào thế mất phẩm chất.
Người Kitô hữu tốt không để cho văn hoá hưởng thụ, văn hoá sự chết, văn hoá khoái lạc, pha trộn làm giảm giá trị hay mất phẩm chất muối đời mình. Muối Kitô hữu mất phẩm chất khi nó tự tin vào khả năng riêng của nó, khi thiếu khiêm nhường, khi một mình xông pha vào cuộc sống mà thiếu sự cộng tác thành tâm, với lòng mến của các Kitô hữu khác. Nhất là thiếu niềm tin vào Thiên Chúa. Lúc đó muối người Kitô bị pha trộn quá nhiều loại văn hoá sự chết, sa đoạ. Ánh sáng Phúc âm không toả sáng giúp đời mà trái lại bị bóng tối gian trần bao phủ, làm giảm hiệu năng. Muối bị hoá chất. Muối bị đời thoái hoá không thể ướp được đời. Loại muối khác là giữ kín trong kho, lợi ích của muối bị giam kín trong bao, bị, ích chi cho đời, ngoại trừ chủ nó cất kĩ làm của hồi môn. Loại ánh sáng bị che phủ làm giảm mức sáng. Phúc Âm giải thích loại muối và ánh sáng trên có cũng như không, khác chi vô dụng.
Ánh sáng
Ánh sáng và bóng tối luôn đố kị nhau. Ánh sáng mạnh sẽ phá tan bóng tối. Bóng tối dầy đặc sẽ ngăn cản ánh sáng. Nhờ bước đi trong ánh sáng mà ánh sáng soi đường đi. Đi trong ánh sáng ít bị vấp té. Nếu bóng tối là dấu chỉ của thất vọng, tuyệt vọng thì ánh sáng trái lại là dấu chỉ của hy vọng, dấu chỉ của sự sống. Bởi vì nơi đâu có hy vọng nơi đó có sự sống, có mầm sống mới.
Hãy đặt trọn niềm tin vào ánh sáng Đức Kitô là ánh sáng không bao giờ tàn lụi, không bóng tối nào che khuất được.
------------------------------------
Khi lẩn vào đám đông chúng ta bị mất hút trong đám đông. Càng đông người thì việc nhận diện người TN 5-A79
Khi lẩn vào đám đông chúng ta bị mất hút trong đám đông. Càng đông người thì việc nhận diện người thân quen càng khó, ngoại trừ người đó có đặc điểm. Khó nhận bởi vỉ người giống người. Khó nhận bởi tầm nhìn bị hạn chế. Khó nhìn xa vì vật gần bắt mắt.
Để tránh bị đám đông thu hút Đức Kitô khuyên chúng ta cần phải bảo vệ căn tính. Một khi bị đám đông thu hút căn tính là bị lạc vào rừng người, rừng tư tưởng. Sức quyến rũ của đám đông thường mạnh hơn sức đối kháng cá nhân nên chiều theo số đông là bị cuốn theo chiều gió. Bị đám đông quyến hút căn tính bị lung lay, trật gốc thế là bị đám đông đồng hoá. Đồng hoá trong lòng đám đông và đồng hoá xảy ra trong cõi lòng mình. Bị đám đông đồng hoá cách suy nghĩ, lối sống thì căn tính Kitô hữu bị thay đổi. Đức Kitô dùng hai hình ảnh quen thuộc giúp ta bảo vệ căn tính Kitô hữu. Muối giúp thực phẩm lâu hư nát.
Muối có tác dụng diệt trùng, bảo vệ và thẩm thấu. Đây là những đức tính người Kitô hữu cần có để thanh tẩy và triệt tiêu tư tưởng sai lầm để bảo vệ chính mình và bảo vệ người. Đồng thời giúp tình yêu Chúa thấm nhập vào lòng mình và lòng người. Bởi vì căn tính đó mà tình yêu Kitô hữu đi đến bất cứ đâu cũng luôn gặp hai trường hợp. Sẽ có những người vui mừng hoan hỉ đón nhận tình yêu Đức Kitô; lại cũng có nhóm người chống báng, ra mặt đối nghịch tình yêu Đức Kitô do các sứ giả Tin Mừng mang lại. Họ không chỉ chống lại tình yêu Chúa mà còn chống lại mọi biểu hiệu diễn tả tình yêu Chúa. Vì thế cầm giữ bảo vệ căn tính Kitô hữu và làm cho căn tính đó sống động là điều tối quan trọng trong việc làm nhân chứng Tin Mừng cho muôn dân. Nếu không là chứng nhân đích thực sẽ trở thành chứng nhân giả tạo. Giả tạo bởi vì thay vì là muối ướp đời lại bị muối đời hoà tan mất trong lòng đời. Vì thế chúng ta thấy rất nhiều Kitô hữu có danh mà không có thực chất căn tính, không thể hiện tình yêu Chúa trong cuộc sống, trong cách giao tế hàng ngày. Họ là Kitô hữu biến thể, Kitô hữu lí thuyết còn thực hành tình yêu Chúa thì không, trái lại họ sống theo đường lối trần thế. Nói cách khác chứng nhân bị mất căn tính thì lời chứng thiếu yếu tố tín trung.
Một hình ảnh quen thuộc khác là ánh sáng. Thiếu ánh sáng mắt sẽ bị quáng gà nên chúng ta thường nghe ví ‘nhìn gà hoá quốc’. Thực ra việc chủ trương làm trong bóng tối thường có kết quả xấu. Vì thế tội phạm thường mượn bóng tối để thi hành điều ám muội.
Ánh sáng soi sáng sự vật làm cho sự vật trở nên tốt lành, sáng láng hơn. Nhìn cầu vồng vắt ngang trời ta thấy bầu trời đẹp hơn. Ánh sáng chiếu trên sóng biển óng ánh giúp tâm hồn trải rộng, thảnh thơi, thoải mái. Ánh sáng chiếu trên giọt sương mai làm cho buổi sáng tươi mát, mang hy vọng một ngày vui. Xem thế ánh sáng không phải chỉ chiếu dọi vẻ đẹp bề ngoài mà còn khơi dậy, làm sống lại cái đẹp trong tâm hồn. Thánh vịnh 36,9 diễn tả ánh sáng Chúa dẫn ta nhận ra sự tốt lành của Thiên Chúa và thánh vịnh 119,105 nhắc đến ánh sáng Chúa soi đường cho con bước đi.
Ân sủng Chúa đong đầy lòng ta làm cho tâm hồn vui trong an bình, nội tâm thanh thản và nơi nào có tình yêu Chúa tràn đầy bóng tối sẽ bị đẩy lui, tiêu diệt. Ánh sáng Chúa chiếu dọi tâm hồn các tín hữu và giúp họ cảm nhận tình yêu tuyệt vời trong nước Chúa. Đức Kitô từng tuyên bố không có gì che dấu mãi mà không bị lộ ra ngoài. Chúng ta thường hiểu là điều xấu chúng ta muốn che dấu nhưng không thể dối mình mãi và dối Thiên Chúa. Hơn nữa những điều tốt lành cũng bị che dấu khỏi tầm nhìn của những tâm hồn hững hờ, dửng dưng với tình yêu Chúa. Họ nhìn mà không thấy nhưng tâm hồn công chính, ước ao tìm kiếm sự thật sẽ nhận ra sự tốt lành, trọn hảo của tình yêu Chúa.
Tâm hồn khiêm nhượng vui mừng đón nhận muối và ánh sáng Đức Kitô ban cho sẽ được Ngài ban cho muối công chính ướp đời tươi sáng và ánh sáng Ngài soi đường cho ta bước vì thế sẽ không sợ vấp ngã vì có ánh sáng Chúa soi đường và tình yêu Chúa đồng hành trong cuộc sống. Những tâm hồn đó cầm giữ được căn tính Kitô hữu bởi tình yêu Chúa luôn đồng hành với họ.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Munachi E. Ezeogu, CSSP - Thanh Tuyền OP, chuyển ngữ từ http://www.munachi.com)
Tại đất nước chúng ta, chướng ngại nào là lớn nhất cho Kitô giáo? Đây là câu hỏi mà chắc chắn sẽ có TN 5-A80
Tại đất nước chúng ta, chướng ngại nào là lớn nhất cho Kitô giáo? Đây là câu hỏi mà chắc chắn sẽ có rất nhiều câu trả lời khác nhau, tùy vào đối tượng chúng ta hỏi. Câu trả lời có thể là: truyền thông đại chúng, văn hóa toàn cầu, chủ nghĩa vật chất, chính sách nhà nước tồi bại, những tôn giáo khác... Nhân dịp gặp cố lãnh tụ vĩ đại Mahatma Gandi, một nhà truyền giáo đã đặt câu hỏi: "Chướng ngại lớn nhất cho Kitô giáo tại Ấn Độ là gì vậy, thưa ngài?" Nhanh nhẩu và dứt khoát, vị lãnh tụ đáp: "là những Kitô hữu."
Người ta cho rằng, thế giới ngày hôm nay sẽ là nơi đượm chất Kitô giáo hơn nhiều nếu Kitô giáo không chỉ dành riêng cho các Kitô hữu. Như vậy, tự các Kitô hữu đang tạo nên chướng ngại cho chính tôn giáo mà mình đang theo, vì thế đây là những tín hữu không đúng nghĩa và không biết dấn thân. Dĩ nhiên, họ có mang danh Kitô hữu đó, thế mà qua cung cách nói chuyện hay thái độ hành xử nơi họ, ai ai cũng thấy rõ một điều, rằng họ chẳng có dính dáng gì với con người Đức Kitô cả.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ mình: "Anh em là ánh sáng thế gian" (Mt 5,14). Nhưng ở đoạn khác trong Ga 8,12, Chúa Giêsu lại nói về chính mình, "Thầy là ánh sáng thế gian." Vậy thì, ai là ánh sáng thế gian? Chúa Giêsu hay các môn đệ? Thật là mâu thuẫn! nhưng mâu thuẫn này sẽ được giải đáp trong Ga 9,5, Chúa Giêsu đã tuyên bố nhẹ hơn về chính mình, đó là: " Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian." Câu này cho thấy Chúa Giêsu đang nói về ánh sáng được cụ thể hóa qua thịt và máu Ngài. Bao lâu Ngài còn tồn tại về mặt thể lý trong thế gian, thì bấy lâu Ngài là ánh sáng của thế gian, thế nhưng khi Ngài không hiện hữu về mặt thể lý nữa, thì chính là lúc mà các môn đệ theo Ngài sẽ gánh vác vai trò làm ánh sáng cho thế gian.
Vai trò của Kitô hữu trong thế gian này sẽ được định nghĩa qua hai từ mà Tin Mừng hôm nay đã đề cập: muối và ánh sáng (salt and light). Thế thì ngày hôm nay, hai từ này sẽ mang nghĩa gì? Bạn có biết rằng "đường" (sugar) không bao giờ thấy xuất hiện trong Kinh Thánh không? Vào thời cổ đại, muối chính là gia vị duy nhất quyết định cho thức ăn thêm đậm đà. Không muối, có nghĩa là thức ăn sẽ ra nhạt nhẽo. Chúa Giêsu đã nói muối (hoặc đường nếu bạn muốn) dùng để ướp thức ăn, vì vậy, Kitô hữu cũng phải là tác nhân làm đậm đà thế gian. Kitô hữu hiện diện trong thế gian để làm cho thế gian trở thành chốn thêm dịu ngọt hơn. Vậy thì chúng ta sẽ làm thế nào để cho thế gian này thêm dịu ngọt? Chúng ta sẽ tìm thấy câu giải đáp trong đoạn Tin Mừng tương tự theo Mác-cô: " Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hoà thuận với nhau."
Cũng như muối, chúng ta đều được mời gọi trở thành những môn đệ ngọt ngào, thân thiện và tử tế, sống thuận hòa với mọi người. Cũng như ánh sáng, chúng ta được mời gọi để chỉ đường. Không có ánh sáng, chúng ta sẽ đâm vào nhau và té nhào xuống hố. Nhưng ánh sáng sẽ bảo cho biết: "Con đường đi đây này, hãy đi đi; Còn kia là con đường nguy đấy, hãy tránh ra." Không ánh sáng, không muối, hình dáng thế gian này sẽ rất ghê tởm, nó sẽ trở thành nơi thật nhàm chán và chẳng ai có thể sống được. Thế nhưng, có ánh sáng, có muối, thế gian này sẽ trở thành một nơi an toàn hơn và đẹp hơn. Đây chính là bổn phận của Kitô hữu chúng ta, là làm cho thế giới này trở thành một nơi tốt đẹp hơn.
Nhưng làm bằng cách nào? Cũng như muối và ánh sáng, chúng đã làm bổn phận của mình.
Trước hết, muối phải là chất khác hẳn với thức ăn trước khi nó được mang vào sử dụng. Một khi muối đã mất vị mặn của nó, nó trở nên nhạt, vì thế nó chẳng còn thực hiện sự khác biệt gì nữa. Ánh sáng phải khác biệt với bóng tối thì ánh sáng mới hữu ích. Một đèn pin mà hết pin thì đèn pin ấy cũng là vô ích vì nó chẳng soi gì được cho người đang ở trong bóng tối. Vì thế, trở nên muối và ánh sáng của thế gian nghĩa là phải trở nên khác với thế gian. Một khi người-tin chẳng khác gì với kẻ không-tin, cũng giống như muối đã mất vị mặn nơi chính nó, nên nó cũng chẳng làm nên cái khác biệt nào cả. Vậy, điều để làm chúng ta khác với người không-tin (hay chưa-tin) chẳng phải nơi lời ăn tiếng nói, nơi những huy hiệu, hoặc những đèn pin mà chúng ta đang mang, nhưng chính là cuộc sống mà chúng ta sống. Như Chúa Giêsu nói trong đoạn Ga 13,35, "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau." Lòng yêu thương chính là dấu đặc biệt mà qua đó bạn có thể biết được đâu là Kitô hữu thật và đâu là Kitô hữu giả.
Thứ hai, cả muối và ánh sáng đều hoạt động bằng cách kết hợp vào cái mà chúng muốn thay đổi. Muối chẳng thể nào làm đậm đà thức ăn nếu mà nó không thẩm thấu và làm thay đổi tận bên trong thức ăn. Ánh sáng chẳng thể nào chỉ ra con đường đi nếu ánh sáng ấy không tiếp cận với chính đêm tối. Đôi khi một số Kitô hữu nghĩ rằng, con đường mình đi phải là con đường tránh khỏi mọi dính dáng đến xã hội và văn hóa toàn cầu. Nhưng một khi chúng ta xa lánh mọi thực tại của xã hội và thế gian, có nghĩa là chúng ta đang thực sự lấy hũ đậy lên đèn của mình. Để thực hiện sự khác biệt, chúng ta cần đứng lên và dấn thân vào cuộc đời.
Đoạn Tin Mừng hôm nay làm chúng ta hoảng. Vâng! qua đoạn Tin Mừng, cho biết rằng, nếu trong thế giới ngày nay đang còn quá nhiều đêm tối và đắng cay, đó là do những Kitô hữu chúng ta đã thất bại trong công việc của mình, là không trở nên muối và ánh sáng trong thế gian. Nhưng không sao, từ bây giờ, chúng ta có thể quyết định để thực hiện sự khác biệt. Chúng ta có thể quyết định thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi mà cứ mãi nguyền rủa bóng đêm. Hãy cứ thắp, cho dù với một cây nến nhỏ bé nhất, vẫn là hữu ích, trong một thế giới đang ngập tràn tăm tối.
------------------------------------
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Kính thưa quý OBACE,
Một vấn đề gây đau đầu cho các nhà quản lý ở Việt nam trong lãnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, TN 5-A81
Một vấn đề gây đau đầu cho các nhà quản lý ở Việt nam trong lãnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, đó là thực phẩm ngày hôm nay được tẩm ướp bằng những hóa chất độc hại gây ung thư cho người tiêu dùng. Nhiều loại thực phẩm trong nước được chế biến vô cùng bẩn, mất vệ sinh, nào là dùng hóa chất để biến thịt thối thành đặc sản, thịt rừng tẩm ướp bằng phân ure, gà vịt chim cút chết biến thành bồ câu và chim sẻ quay. Còn trái cây và các thực phẩm nhập từ biên giới về: nho lê cam táo, chân gà, đuôi bò… đều được ngâm tẩm bằng hóa chất bảo quản, tẩy trắng, để vài tháng không hư. Trong khi đó vì nghèo, vì ham của rẻ ngưởi dân vẫn cứ đổ xô để mua, để bán, các quán nhậu thịt tẩm ướp vẫn đông khách, mặc kệ cho sức khỏe của mình. Không lạ gì ngày nay xuất hiện nhiều thứ bệnh lạ và rất nhiều người ung thư.
Trong những Chúa nhật vừa qua, Chúa nói với mỗi chúng ta qua miệng tiên tri Isai: Ta đã đặt người làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của ta đến tân cùng trái đất, hôm nay Chúa lại dùng một hình ảnh khác để mời gọi chúng ta sống và loan báo Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài cho mọi người và dùng đời sống Kitô hữu để làm cho thế giới nên tốt đẹp hơn, đó là hình ảnh muối: Các con là muối cho đời.
Muối là một loại gia vị tự nhiên rất tốt và rất cần cho cuộc sống và có nhiều công dụng trong nhiều lãnh vực. Thiếu muối trong cơ thể, sẽ dẫn đến tình trạng co giật và bị choáng váng, ngất xỉu. Trong y khoa, từ rất lâu và cho đến hôm nay, nước muối vẫn là chất sát trùng và rửa đồ ăn, rửa vết thương. Trong cuộc sống, muối dùng để làm cho bữa ăn thêm đậm đà ngon miệng hơn, dù có phải kiêng ăn mặn, nhưng vẫn không thể thiếu muối trong các đồ ăn, đặc biệt để giữ cho thực phẩm khỏi hư thối, cá thịt để được lâu, người ta phải dùng đến muối.
Với tính đa dụng và cần thiết của muối trong cuộc sống, mà hôm nay Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta: Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà lạt đi thì lấy gì mà ướp cho mặn lại, Nó đã thành vô dụng, chỉ còn quăng ra ngoaì cho người ta chà đạp lên thôi. Như thế Chúa cũng muốn mỗi chúng ta phải có những đặc tính và mang sự hữu dụng của muối đối với thế giới. Là môn đệ của Đức Kitô, trước hết mỗi chúng ta phải để cho vị mặn của Tin Mừng biến chúng ta thành những thứ muối tốt, muối nguyên chất, muối đủ mặn để ướp giữ bản thân mình, không bị biến chất, không bị thoái hóa, và không bị ôi thối giữa trần gian này. Một khi mang trong mình sự mặn mà yêu thương của Tin Mừng, chúng ta sẽ trở thành người gìn giữ và bảo vệ thế giới này khỏi sự tấn công của các thứ vi trùng vi khuẩn nguy hiểm đó là tội lỗi, là sự ích kỷ và chết chóc.
Là muối cho đời, người Kitô hữu được mời gọi làm cho cuộc sống lạt lẽo tại trần gian này thêm đậm đà yêu thương, thêm hương vị cho đời, để mọi người có thể nhờ sự cống hiến của chúng ta, cuộc sống của họ thêm tốt đẹp hơn, nhờ sự phục vụ vô vị lợi của chúng ta, cuộc sống xã hội thêm hạnh phúc hơn, và nhờ đời sống khiêm nhường và bác ái, quảng đại và thứ tha, cuộc sống của các gia đình sẽ gắn bó với nhau hơn. Nhất là thế giới và con người ngày nay đang bị hủy hoại từ trong tâm hồn bời những tư tưởng trào lưu sai lạc, những phim ảnh xấu, đến sự hủy hoại bên ngoài qua những lối sống buông thả, tự do thác loạn, lối sống cạnh tranh ích kỷ, lối sống duy lợi nhuận… nó đang làm cho con người giảm bớt “phần người” và gia tăng “phần con” và quên phẩm giá của mình là con Thiên Chúa, cao quý hơn mọi loài mọi vật. Vì thế người tín hữu sẽ phải là muối, phải đem vị mặn của Tin Mừng để gìn giữ thế giới này khỏi bị sự phân hủy bới những lối sống đó.
Chúng ta sẽ phải sống và làm thế nào để có thể là thứ muối tốt của Tin Mừng? Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm đem vị mặn Kitô cho thế giới và ngài căn dặn chúng ta: Khi tôi đến với anh em, tôi không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo Thiên Chúa…ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết (và không nói điều gì khác) ngoài Đức Giêsu chịu đóng đinh. Như thế trong nhiệm vụ làm muối cho đời, chúng ta cũng không thể cậy dựa vào sự tài khéo của bản thân hay tài hùng biện cá nhân, nhưng phải dựa vào Thánh Thần và quyền năng của Thiên Chúa và để cho quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi những người nghe. Điều đó có nghĩa là chúng ta đem vị mặn là chính Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài để Ngài biến đổi và ướp mặn thế giới, chứ chúng ta không ướp thế giới bằng khả năng hay bằng tài khéo của bản thân mình.
Muối đã ra lạt túc là đánh mất bản chất mặn của mình, thì nó thành vô dụng, cũng vậy, người Kitô hữu mà không còn Chúa Kitô, không có Tin Mừng của Ngài trong cuộc đời thì cũng cũng chỉ là những thứ vô dụng, biến chất, chỉ đáng đổ ra ngoài đường cho người khác chà đạp lên mà thôi. Với lời cảnh báo: muối mà không còn vị mặn nữa thì nó thành vô dụng, là lời nhắc cho chúng ta rà soát và đánh giá lại bản thân mình xem trong cuộc sống là người Kitô hữu, trong mọi lãnh vực của cuộc sống xả hội, độ mặn của Tin Mừng trong chúng ta còn bào nhiêu phần trăm? Chúng ta đang là muối ướp cho đời khỏi hư thối, hay mình đã để cho đời ướp lại chúng ta và làm mất vị mặn Kitô trong chúng ta?
Với vai trò là muối, các Ktô hữu sẽ phải là những người chung tay góp sức làm cho Tin Mừng thấm nhập vào trong xã hội và thế giới, trong mọi lãnh vực của cuộc sống, bất cứ nơi nào người tín hữu hiện diện, nơi đó vị mặn của Tin Mừng phải được lan tỏa. Là muối cho đời, chúng ta sẽ phải là những người không chỉ nhắm tới nước trời mai sau, mà còn phải làm cho Nưới Trời hiện diện và biến đổi thế gian này, làm cho chính Chúa Giêsu Kitô được hiện diện trong xã hội và trong tâm hồn của mọi người. Là Kitô hữu, chúng ta không thể giữ riêng Chúa cho mình, mà chúng ta còn phải cảm thấy bị thôi thúc, và thao thức ướp thế giới này bằng giới răn lề luật của Chúa, bằng Tin Mừng yêu thương của Chúa.
Trong thế giới đã có những người từng mơ “bao phủ thế giới này bằng một màu đỏ” hoặc sẽ “quét cà thế giới này bằng một màu sơn”. Tại sao người Kitô hữu lại không dám mơ và cố gắng bao phủ thế giới này bằng Tin Mừng của Đức Kitô?
Chúng ta không dám mơ bao phủ thế giới bằng Tin Mừng, vì phải chăng chúng ta không còn đủ mặn, không còn Tin Mừng của Đức Kitô trong cuộc sống, chúng ta đang bị biến chất, bị nhạt nhòa, bị “đời hóa”. Mang danh là Kitô hữu nhưng nhiều người lại không biết gì nhiều về Đức Giêsu, không thể nói về Tin Mừng của Ngài cho người khác, và vì thế nhiều Kitô hữu bị xô đây, bị hòa tan trong dòng chảy của xã hội, trong các nhóm, các phòng trào tôn giáo khác. Khi gặp những vấn đề trong cuộc sống hoặc khi đối diện với những lý thuyết và tranh luận của xã hội cũng như của các giáo phái, vì không học Tin Mừng, không biết giáo lý, nhiều người đã không thể nói chuyện được với họ, và đành xuôi tay, chấp nhận theo họ.
Các bậc cha mẹ, và các bạn trẻ hãy dùng tình yêu thương trong sáng và tinh thần phục vụ để ướp cho gia đình, cho cuộc đời mình thêm mặn mà, khỏi hư thối bất hạnh đổ vỡ. Nhất là hãy làm cho gia đình, cho cuộc sống của mình luôn có vị mặn của Tin Mừng, hãy đem Chúa Giêsu vào trong mọi sinh hoạt của gia đình, của bạn bè, từ việc làm ăn sinh sống đến những bữa cơm gia đình, đến giờ kinh sánh tối và kể cả những việc riêng tư của mỗi thành viên, hãy mang Chúa theo cùng. Đừng bao giờ ướp gia đình mình và con cái, bạn bè bằng những thứ hóa chất độc hại, đó là chất lười biếng, chất ích kỷ. Đừng bào giờ mang về cho gia đình mình những thứ nhiễm hóa chất độc hại là sự nóng nảy cãi vã, phim ảnh sách báo xấu, sự thù hằn bạo lực, những của làm ăn gian dối mà có… nó là những hóa chất gây ung thư trong tâm hồn các thành viên gia đình.
Xin Chúa giúp chúng ta biết giữ cho cuộc đời mình luôn có vị mặn bằng gắn bó với Chúa, bằng siêng năng học hỏi giáo lý và Tin Mừng, để chúng ta có thể trờ nên muối tốt cho gia đình, xã hội và thế giới hôm nay. Amen.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Lời Chúa trong Tin Mừng theo thánh Matthêu của Chúa Nhật thứ năm mùa Thường Niên năm A nhắc TN 5-A82
Lời Chúa trong Tin Mừng theo thánh Matthêu của Chúa Nhật thứ năm mùa Thường Niên năm A nhắc đến lời mời gọi của Đức Giêsu. Ngài kêu mời mỗi người trong chúng ta hãy trở nên muối ướp trái đất và ánh sáng chiếu soi trần gian. Đức Giêsu đã dùng hai hình ảnh rất thực tiễn trong cuộc sống, vì muối đem lại vị mặn cho món ăn, và ánh sáng có tác dụng đẩy lui bóng tối. Muối và ánh sáng là những thứ không thể thiếu đối với nhân loại. Vai trò tham gia biến đổi môi trường xung quanh của chúng hết sức tích cực: muối có thể hòa tan vào toàn bộ món ăn để ướp mặn cho món ăn, còn ánh sáng lại có thể chiếu giãi hết mọi ngóc ngách của khoảng không gian xung quanh mình.
Với tư cách là Kitô hữu, chúng ta có thể thực hiện vai trò men muối và ánh sáng mà Đức Giêsu đề cập đến trong Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay như thế nào? Có thể nói Ngài nhấn mạnh ở đây vai trò làm chứng được thể hiện qua việc làm cụ thể của chúng ta. Điều cần thiết là chúng ta giữ được nơi mình nhiệt huyết đối với sứ mạng này giống như bản chất của muối, hay như một chiếc đèn vốn luôn được thắp sáng: “Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.
Quả thật, nguồn ánh sáng đích thực đến từ Thiên Chúa. Ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta tiếp nhận từ nơi Thiên Chúa nguồn ánh sáng giúp soi đường chỉ lối cho chúng ta trong suốt cả cuộc hành trình trần thế. Đến lượt mình, chúng ta cũng được mời gọi phản chiếu lại ánh sáng này cho môi trường sống chung quanh. Theo chiều hướng đó, chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời, là Đấng Toàn Năng ; được mời gọi sống như những người con của ánh sáng ; và làm điều tốt lành như Thiên Chúa nhân từ, vì Người chiếu sáng mặt trời và tuôn đổ mưa móc xuống cho hết thảy mọi người, cho người lành cũng như kẻ dữ.
Những ai làm được như thế cho tha nhân sẽ trở nên ánh sáng cho thế gian giúp người khác có thể nhận biết Thiên Chúa là Đấng tốt lành. Họ sẽ được gọi, theo như lời của Thánh Vịnh đáp ca hôm nay, là những người kính sợ Thiên Chúa, hằng yêu mến thánh ý của Người, là người công chính và biết cảm thương. Họ cũng biết thực thi sát với lời dạy bảo của Thiên Chúa nêu lên trong bài đọc thứ nhất trích sách tiên tri Isaia: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông, […] ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.
Xét cho cùng, khi chúng ta bước đi trong huấn lệnh của Thiên Chúa, thực thi những điều Người chỉ bảo, là chúng ta đã phản chiếu được sự tốt lành của Người cho môi trường sống của mình và đời sống của mình trở nên lời chứng hữu hiệu nhất cho việc loan báo Tin Mừng cứu độ. Cách thức loan báo này, theo kinh nghiệm của thánh Phaolô Tông Đồ trong bài đọc thứ hai, hoàn toàn không dựa vào sức riêng của cá nhân, cũng chẳng “cậy dựa vào những lời quyến rũ của sự khôn ngoan loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và quyền năng của Người”.
Loan báo Tin Mừng là bản chất của Giáo Hội và là sứ mệnh của mỗi Kitô hữu. Ngày nay, Giáo Hội cần nhiều đến những chứng nhân sống Tin Mừng. Các đấng bậc chủ chăn luôn luôn quan tâm đến công cuộc Tân Phúc Âm hóa để đem Tin Mừng thấm nhập vào môi trường thực tiễn của nhân loại. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng và ban sức mạnh để mỗi người biết sống những giá trị đích thực của Tin Mừng. Ở đó vốn đã chứa đựng lời rao giảng sống động nhất. Xin Ngài nung nấu bầu nhiệt huyết của mỗi người để chúng ta luôn luôn ý thức được vai trò làm men muối và ánh sáng cho trần gian mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống trong bài Tin Mừng hôm nay.
------------------------------------
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Thi sĩ Xuân Ly Băng (Đức Ông JB Lê Xuân Hoa) viết bài thơ “Đừng thích làm mặt trời”. Lời thơ thật TN 5-A83
Thi sĩ Xuân Ly Băng (Đức Ông JB Lê Xuân Hoa) viết bài thơ “Đừng thích làm mặt trời”. Lời thơ thật nhẹ nhàng mà sâu lắng. Nhiều hình ảnh so sánh rất gần gũi thân thương của đời thường.
Khoan mộng làm mặt trời.
Đừng mơ làm sao sáng.
Hãy cố gắng con ơi.
Làm những điều nhỏ mọn
Chỉ vì mến Chúa thôi.
Tặng người con không thích
Một nụ cười thế thôi.
Đôi mắt nhìn trìu mến
Để chia sẽ tâm tình
Với một người đau khổ.
Viếng thăm và giúp đỡ
Người bệnh tật già nua.
Đừng ngại nắng ngại mưa.
Thấy Chúa trong người họ
Không mắng la nạt nộ.
Đừng giận dữ một ai.
Chút mật bắt nhiều rồi
Hơn giấm chua từng hũ.
Hiền lành và tha thứ
Biết rộng rãi khoan dưng.
Theo Chúa ở khiêm nhường
Và sẵn sàng phục vụ.
Việc làm tuy bé nhỏ
Giá trị thật vô cùng
Làm mặt trời đừng mong.
Cũng đừng mơ làm sao sáng…
Đọc thơ, tôi liên tưởng đến hình ảnh Muối và Ánh Sáng của Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Khoan mộng làm mặt trời.
Đừng mơ làm sao sáng.
Chỉ mong làm muối đất.
là ánh sáng Chúa thôi.
Hiến chương Nước trời được Chúa Giêsu công bố trong Tin mừng Chúa nhật vừa qua. Tiếp theo bài giảng trên núi, Chúa Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ: “Anh em là muối cho đời... anh em là ánh sáng thế gian”.
1. Anh em là muối cho đời, một định nghĩa tuyệt vời về Kitô hữu.
Sử gia Pliny viết: "Không gì bằng hữu dụng bằng muối và ánh sáng". Không có ánh sáng, cỏ cây sẽ úa tàn. Không có muối, sơn hào hải vị cũng sẽ ra nhạt phèo. Chúa Giêsu ví các môn đệ của Ngài như muối đất và ánh sáng của trần gian. Đây là một vinh dự cho các môn đệ vì họ được mời gọi tham dự vào sứ mệnh làm muối đất, ánh sáng của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu Kitô chính là Ánh Sáng soi chiếu trần gian u mê (Mt 4,16; Pl 2,15; Ep 5,8). Ngài đến để giảng dạy cho thế gian biết đâu là hạnh phúc chân thật: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" (Ga 14,6). Chúa Giêsu đã chữa lành những kẻ bị tật nguyền, xoa dịu những tâm hồn đau khổ. Như muối đất, tình yêu của Ngài được biểu lộ qua những nghĩa cử bác ái và cái chết, đã làm cho trần gian tẻ nhạt và khổ đau thêm mặn mà, ý vị.
"Muối đất". Muối được dùng để khử trùng, gìn giữ thức ăn và để nêm vào các món ăn cho thêm hương vị mặn mà. Nếm một món ăn thiếu muối sẽ thấy nhạt nhẽo. Nhưng chỉ cần thêm vài hạt muối, món ăn trở nên đậm đà và dễ ăn. Người bị bệnh cao huyết áp phải ăn lạt nên thường mất ngon khi ăn. Người Việt thường dùng nước mắm để nêm các món ăn, nhưng vẫn phải thêm muối, món ăn mới hấp dẫn.
Vào thời Chúa Giêsu, muối tượng trưng cho tính hiếu khách. Khách đến nhà thường được tặng bánh mì và muối, biểu hiệu sự tiếp đón nồng hậu.
Ngày xưa, khi chưa khám phá ra phân bón hóa học, người ta dùng muối để làm đất đai thêm phì phiêu. Khi chưa có tủ lạnh, muối còn được dùng để ướp cá, thịt và thức ăn, cất giữ được lâu ngày hơn. Chúa Giêsu sai các môn đệ đến trong thế gian như người ta nêm muối vào thức ăn để thêm hương vị và giữ được lâu. Vị mặn của muối là yếu tố quan trọng. Mặn thuộc về bản chất của muối.Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng. Vị mặn là tình yêu tha nhân mặn mà. Yêu Chúa mặn nồng, yêu tha nhân mặn mà, đời sống Kitô hữu sẽ ướp hương vị tình yêu mặn mòi cho cuộc đời.
2. Anh em là ánh sáng cho trần gian, một định nghĩa quá cao trọng về Kitô hữu.
Chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga1,5), chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga 8,12). “Anh em là ánh sáng” vì anh em gần Thầy “gần đèn thì sáng”.
"Ánh sáng thế gian". Một hình ảnh rất quen thuộc với người Việt đó là đèn dầu. Một căn nhà có đèn sáng báo hiệu đang có người ở, có sự sống. Một người đi lạc trong đêm tối hẳn sẽ rất sung sướng khi thấy có ánh đèn. Ánh đèn đem lại niềm vui và thu hút mọi người.“Các con là ánh sáng thế gian”, đây là lời mời gọi truyền giáo, qua đời sống, qua lời nói và hành động, Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần bước trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.
Chúa Giêsu không nói: các con hãy cố gắng làm muối đất và trở nên ánh sáng cho thế gian nhưng lại nói: “Các con là muối đất và là ánh sáng thế gian”, bởi vì các con là môn đệ của Thầy, vì các con đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.
"Các con là sự sáng thế gian", sự sáng này không phải do chúng ta tạo nên, nhưng phát xuất từ Chúa Kitô: "Ta là sự sáng thế gian" (Ga 8,12). Chúa Giêsu muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài, cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó, ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: "Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
Muối đất, sự sáng thế gian: hai hình ảnh cùng diễn tả một lời mời gọi. Tiên tri Isaia, trong Bài đọc 1 đưa ra những phương cách để giữ muối khỏi "lạt" và ngọn đèn luôn chiếu sáng. Đó là sống bác ái, chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc... Khi ấy, "ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày".
Có lẽ nhiều người sẽ tự nhủ: làm sao mình có khả năng và xứng đáng làm muối đất và sự sáng cho mọi người? Nắm muối gồm những hạt muối nhỏ dồn lại, đèn sáng được nhờ những giọt dầu góp lại. Những hạt muối nhỏ đó, những giọt dầu đó là những việc bé nhỏ mà chúng ta thực hiện trong đời sống hằng ngày: những nụ cười, lời nói lịch thiệp, những cử chỉ bác ái khiêm nhường, thái độ biết lắng nghe, sống tha thứ biết nghĩ đến người khác...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến chứng từ muối đất và ánh sáng trần gian của Kitô hữu. Nếu chúng ta thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương thì chính đời sống, việc làm, việc bác ái sẽ mang lại hương vị cuộc đời, hương thơm cho mọi người, chiếu tỏa ánh sáng giúp nhiều người đến với Chúa là "nguồn ánh sáng và ơn cứu độ" (Tv 2,1). Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để rồi chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là muối thêm hương vị đức ái cho đời, là những ánh sáng đức tin soi đường truyền giáo.
------------------------------------
TN 5-A84: Người Kitô Hữu Là Muối Đất Và Là Sự Sáng Thế Gian
(Mt 5,13 - 16)
Sau khi công bố Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu phán tiếp những lời hằng sống, mở ra cho chúng ta TN 5-A84 Dalat
Sau khi công bố Tám Mối Phúc, Chúa Giêsu phán tiếp những lời hằng sống, mở ra cho chúng ta chân trời hạnh phúc dẫn đến sự sống đời đời. Như thế, cách nào đó, Người mời gọi chúng chọn lựa cách sống, nói “vâng” sống theo Người.
Quả thật, những lời Chúa Giêsu chứa đựng căn tính Kitô giáo của chúng ta: “Các con là muối đất... Các con là sự sáng thế gian” (x. Mt 5, 13-14). Điều đáng nói ở đây là Chúa Giêsu không chỉ nói các môn đệ đơn giản là “ muối” và là “ánh sáng” nhưng là “muối” “ đất” và là “sự sáng” “thế gian”.
Tại sao lại là muối đất ?
Muối theo nền văn hóa Trung Đông gợi lên nhiều giá trị như giao ước, tình liên đới, sự sống và sự khôn ngoan. Trong Cựu ước, muối tượng trưng cho sự trung thành của Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa đã ký kết với dân người một khế ước bằng muối: “Ðó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Ðức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18,19). Trong Tân ước, Chúa Giêsu nói: “ Các con là muối đất ” (Mt 5, 13).
Muối là một trong những vị cần thiết nhất cho con người. Muối còn có nhiều công dụng như dùng để tra vào đồ ăn để món ăn thêm hương vị mặn mà, ướp đồ ăn tránh khỏi hư.
Qua các hình ảnh giầu ý nghĩa này, Chúa Giêsu muốn thông truyền cho các môn đệ mình và cả chúng ta ngày hôm nay nữa ý nghĩa sứ mệnh và chứng tá của Tin Mừng. Thêm hương vị, là thêm sức sống ơn thánh. Ướp đồ ăn cho khỏi hư, nghĩa là bảo vệ chân lý hằng sống.
Sao lại là sự sáng thế gian ?
Khi Chúa Giêsu nói: “Các con là sự sáng thế gian” (Mt 5,14). Chúng ta biết rằng ánh sáng là công trình đầu tiên của Thiên Chúa Sáng Tạo và là nguồn mạch sự sống. Chính Lời của Thiên Chúa cũng được so sánh với ánh sáng, như tác giả Thánh Vịnh công bố: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường cho đi” (Tv 119.105). Cũng trong phụng vụ hôm nay ngôn sứ Isaia nói: “Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi. Như thế, sự sáng của ngươi tỏ rạng như hừng đông” (Is 58,10).
Sự khôn ngoan tóm gọn nơi mình các hiệu quả ích lợi của muối và ánh sáng: thật thế, các môn đệ Chúa được mời gọi trao ban hương vị mới cho thế giới và giữ gìn nó khỏi hư thối, với sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏa sáng rạng ngời trên gương mặt Chúa Con, vì “Ngài là ánh sáng thật chiếu soi mọi người” (Ga 1,9).
Là muối đất và là sự sáng thế gian
“Các con là sự sáng thế gian”, những lời này chứa đựng sứ mạng được sai đi. Hành động và con người của các kitô hữu liên kết chặt chẽ với nhau, chứng tỏ rằng nhiệm vụ của “muối” và “ánh sáng”cho trần gian là của riêng chúng ta và không ai làm thay chúng ta. Vì thế, chúng ta phải chịu trách nhiệm và những gì chúng ta là Kitô hữu.
Trở lại với hình ảnh của muối. Hỏi rằng, có thức ăn nào của con người mà không có sự hiện diện của Chúa Kitô trong các bí tích, Lời Người và hành động yêu thương nhân hậu của Chúa Thánh Thần ? Nên chúng ta phải duy trì nhận thức về sự hiện diện của Chúa Cứu Thế ở giữa loài người, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể, tưởng niệm cái chết và sự phục sinh vinh quang, loan báo quyền năng cứu độ tiềm ẩn trong Tin Mừng của Chúa. Hiệp nhất với Người, các kitô hữu có thể chiếu sáng giữa các bóng tối của sự thờ ơ và ích kỷ ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, sự khôn ngoan thật trao ban ý nghĩa cho cuộc sống và hành động của con người.
Muối là hương vị giữ thức ăn. Người kitô hữu được kêu gọi cải thiện cái “hương vị” lịch sử loài người. Đó là thực hành trong cuộc sống ba nhân đức đối thần đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Điều đến từ Thiên Chúa luôn làm cho con người trở nên người hơn, hơn bao giờ hết là hình ảnh Chúa và giống Thiên Chúa. Nhờ đức tin, đức cậy và đức mến, chúng ta được mời gọi chiếu sáng và thể hiện lòng nhân giữa một thế giới sống trong đêm đen của thử thách, của tuyệt vọng và thờ ơ . Bài đọc I nhắc nhở chúng ta rằng: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích, thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày” (x. Is 58,7-10).
Do đó, mối liên kết giữa “muối” và “ánh sáng” được thể hiện. Lời Chúa Giêsu gửi đến mỗi chúng ta là hãy tỏa sáng “ánh sáng” trước mặt mọi người, nghĩa là toàn bộ đời sống ta phải phản ánh ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” ( x. 2 Cor 1, 22). Ngọn lửa này tỏa sáng qua việc loan báo Tin Mừng với lòng từ tâm, Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người trong Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại.
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêdictô XVI nhắc lại rằng “Quả thật, lời rao giảng và chứng tá cho Tin Mừng là công việc phục vụ đầu tiên mà những người kitô có thể cống hiến cho mọi người cũng như cho toàn thể nhân loại, xét vì những người kitô là những kẻ được mời gọi thông truyền cho tất cả mọi người tình yêu của Thiên Chúa Cha, được biểu lộ trọn đầy nơi Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Thế Duy Nhất của thế giới”. (Diễn văn tại Ðại Học Truyền Giáo Roma 11/3/ 2006 nhân dịp kỷ niệm bốn mươi của Nghị định “Ad gentes” của Công Đồng Vatican II).
Việc phục vụ loan báo Tin Mừng được thực hiện trong “Đức ái”, không dựa vào những lời quyến rũ khôn ngoan của loài người, nhưng dựa vào sự giãi bày của thần trí và “quyền năng Chúa Thánh Thần” (x. Bài đọc II).
Lạy Chúa Thánh Thần, xin dạy chúng con làm thế nào để tuyên xưng đức tin của chúng con, xin biến chúng con trở nên những người của Tám Mối Phúc Thật là muối đất và ánh sáng thế gian.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
------------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN, năm A
Is 58, 7-10 1Co 2, 1-5 Mt 5, 13-16
Trong những năm đi rao giảng Chúa Giêsu luôn dùng dụ ngôn, ví dụ, những chuyện xẩy ra xung quanh TN 5-A85
Trong những năm đi rao giảng Chúa Giêsu luôn dùng dụ ngôn, ví dụ, những chuyện xẩy ra xung quanh Ngài, trong xã hội Do Thái lúc đó để dạy dỗ dân chúng, nói lên một đạo lý cao sâu, một ý nghĩa nào đó của cuộc sống, của con người. Hôm nay, Chúa dùng muối và ánh sáng để nói về sứ mệnh của Giáo Hội và của mỗi người nơi trần gian…
Giáo Hội ngay từ khi Chúa Giêsu thiết lập đã ý thức về sứ mạng của mình bởi vì Giáo Hội là muối, là ánh sáng cho trần gian, Giáo Hội là Thân Thể của Đấng là Đường, là Sự thật, là Sự sống. Nên, Giáo Hội có sứ mạng loan báo cho mọi người biết họ từ đâu đến và rồi họ sẽ đi về đâu ! Giáo Hội cho con người biết nguồn cội của mình là Thiên Chúa và sau này họ sẽ trở về với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói:” Anh em là muối cho đời.Anh em là ánh sáng cho trần gian “ ( Mt 5, 13-14 ). Tin Mừng nói lên sứ mạng cao cả của Giáo Hội, của mỗi người là truyền giáo, là giới thiệu Đức Kitô cho người khác. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Muối nhạt không phải là muối. Ánh sáng phai nhòa, lu mờ không phải là ánh sáng chiếu soi. Do đó,Giáo Hội không truyền giáo là Giáo Hội chết. Người Kitô, người môn đệ của Chúa đã biết lắng nghe lời Chúa, thực thi lời Chúa thì không thể nào mà không có ảnh hưởng trên người khác. Người có đời sống tốt, có tấm lòng bác ái vị tha sẽ là gương mẫu của đời sống rao giảng.
Ví Giáo Hội là muối, ví con người là muối, Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội, đã trao cho mỗi Kitô hữu một sứ mạng cao cả, một trọng trách quý giá. Muối là đồ gia vị không thể thiếu được trong các món ăn. Muối làm cho cá không hư, không thối. Muối dùng trong phân bón và là đồ gia vị không thể thiếu trong các món canh vv…Người Kitô hữu không thể làm ngơ, không thể sống khơi khơi mà quên đi sứ mệnh cao cả của mình là làm gương cho người khác qua đời sống yêu thương, bác ái của mình. Người môn đệ Chúa phải làm cho nhiều người biết Chúa, yêu mến Chúa và dấn thân, làm chứng cho Chúa.
Vì Giáo Hội là ánh sáng, con người là ánh sáng. Chúa Giêsu khẳng định mình là ánh sáng:” Tôi là ánh sáng thế gian “ ( Ga 8, 12 ).Chúa Giêsu là ánh sáng, là mặt trời soi chiếu thế gian. Nhân loại, vũ trụ, thế giới nếu không có ánh sáng sẽ không thể nào tồn tại được. Bởi vì, chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là hình ảnh phản chiếu, họa lại hình ảnh của Đức Kitô.Thánh Phaolô viết: “ Thiên Chúa đã phán ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm ! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bầy cho thiên hạ biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên khuôn mặt Đức Kitô “ ( 2 Co 4, 6 ).
Muối và ánh sáng luôn cần thiết cho con người, cho thế giới. Muối ướp mặn cho đời. Ánh sáng chiếu soi và làm cho có sự sống.
Các bài đọc, đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô mời gọi các môn đệ trở nên muối, ánh sáng cho đời, cho thế gian. Chúa Giêsu muốn Giáo Hội và mọi Kitô hữu phải làm cho đời tỏa sáng chân lý và mặn nồng tình yêu. Thế giới muôn thời, đặc biệt thế hôm nay chúng ta đang chứng kiến nhiều cảnh bạo lực, chiến tranh, chém giết, trả thù, và nhiều cảnh lạnh lùng, vô cảm của những con người vô tâm trước cảnh đau khổ, nghèo đói, bị đàn áp của con người. Trước những trạng huống của cuộc đời, của nhiều cảnh đau thương, chia ly, tang tóc, người Kitô hữu phải tỏa hương thơm, phải trở nên muối ướp mặn đời bằng tình yêu thương bác ái, hy sinh cứu giúp những người đau thương, nghèo khổ vv…Được ví là ánh sáng, trách nhiệm, bổn phận của Giáo Hội, của mỗi Kitô hữu là đem Thiên Chúa đến cho mọi người, đem Thiên Chúa đến cho thế giới. Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài mới cho con người nhận ra chính mình, nhận ra thế giới, nhận ra chân lý và sự thật. Và chỉ có Thiên Chúa mới giúp con người đẩy xa những u ám, tối tăm của tội lỗi, của sự dữ và những sai trái, bất công vv…
Thánh Phanxicô khó khăn đã thốt lên: “ Lạy Chúa, xin dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng, để con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu.Amen “.
GƠI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao Chúa Giêsu lại ví người Kitô hữu là muối, là ánh sáng ?
2.Chúa Giêsu mặc khải mình là ai ?
3.Sứ mạng của Giáo Hội là gì ?
4.Muối và ánh sáng có cần cho thế giới, cho con người không ?
5.Bản chất của Giáo Hội là gì ?
------------------------------------
Chúng ta là muối và ánh sáng cho đời
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Is 58:7-10; 1 Cr 2:1-5; Mt 5:13-16)
Đào tạo là giúp cho một người mỗi ngày nhìn thấy rõ hơn con người và sứ mệnh tương lai của mình. TN 5-A86
Đào tạo là giúp cho một người mỗi ngày nhìn thấy rõ hơn con người và sứ mệnh tương lai của mình. Qua lăng kính Tám Mối Phúc, Chúa Giê-su đã giúp chúng ta nhận ra mình sẽ làm môn đệ Chúa nổi bật hơn về phương diện nào. Tuy nhiên làm môn đệ Chúa là mang một sứ mệnh thích hợp với tài năng của mình, để cùng với Chúa Giê-su giúp cho nhân loại và thế giới này được luôn thay đổi tốt đẹp hơn. Một trong những mục tiêu của sứ mệnh người môn đệ Chúa là làm muối cho đời và làm ánh sáng cho trần gian. Đấng đã phán "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8:12) hôm nay Người mời gọi chúng ta suy nghĩ về vai trò làm ánh sáng thế gian của chúng ta ngay tại môi trường chúng ta đang sống.
Trước hết chúng ta hãy chiêm ngưỡng Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian. Ánh sáng thế gian Chúa Giê-su nói ở đây không phải thứ ánh sáng được đo lường bằng bao nhiêu ngọn nến (lumen), mà bằng những việc làm chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói (bài đọc 1). Ngôn sứ I-sai-a đã nhắc nhở dân ít-ra-en phải trở nên thứ ánh sáng này, để không những ánh sáng ấy phá tan đi những u tối của chính họ, mà còn giúp các dân tộc chung quanh nhờ đó nhận biết Thiên Chúa. Khi cho thấy hình ảnh “Ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông… Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi”, ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian. Đúng vậy, lời giảng và việc làm của Chúa Giê-su quả là ánh sáng xuất hiện làm tan biến đi những u tối của nhân loại là bệnh tật khổ đau, bóng đêm của tội lỗi và sự chết. Lối sống của Chúa Giê-su và lời Người là ánh sáng soi đường chúng ta (Tv 119:105), giúp chúng ta sống đích thực là con cái Thiên Chúa.
Thực thi vai trò làm ánh sáng thế gian, Chúa Giê-su còn muốn ánh sáng Người chiếu tỏa qua các môn đệ. Người không chỉ sai họ đi để đem ánh sáng cho người khác, nhưng để là ánh sáng cho trần gian. Nếu chỉ là công việc đem ánh sáng đến cho người khác, thì có thể chúng ta vẫn còn là một bóng tối không cần được thay đổi. Nhưng nếu chúng ta là ánh sáng, thì điều này đỏi chúng ta phải rũ bỏ mọi bóng tối để đón nhận ánh sáng. Lối sống của bóng đêm tội lỗi phải được thay thế bằng lối sống theo Thần Khí của Chúa Ki-tô. Cách ứng xử tàn ác của thế gian phải được thay thế bằng cách sống lòng Chúa thương xót. Khi ấy, “những công việc tốt đẹp” chúng ta làm sẽ giúp người khác nhận biết Thiên Chúa là Cha tốt lành, là Đấng giàu lòng thương xót. Thêm vào sứ mệnh làm ánh sáng cho thế gian để họ tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta còn có sứ mệnh làm muối cho đời. Ánh sáng giúp cho người ta nhận biết Thiên Chúa, còn muối lại có sứ mệnh đặc biệt khác, đó là muối cho đời mặn lại.
Muối có hiệu năng làm thay đổi, biến món ăn nhạt nhẽo thành mặn mà, giữ thức ăn khỏi bị thối rữa. Thế giới và nhân loại này đang đứng trước hiểm họa nhạt nhẽo tình người và thối rữa luân thường đạo lý. Chúng ta hãy lập lại những lời của Chúa Giê-su để thấy rõ Người cần đến bàn tay cộng tác của chúng ta. “Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian…” Nói như thế, Chúa tin tưởng và trao cho chúng ta một trách nhiệm lớn lao: là gìn giữ những gì là tốt đẹp và đạo đức thánh thiện của đời sống chúng ta và anh chị em; và giúp cho người khác nhận biết Thiên Chúa để họ tôn vinh Người. Chúa nhìn thẳng vào mỗi người chúng ta và mời gọi: Chính con, hỡi môn đệ yêu dấu của Thầy, con hãy là muối và ánh sáng ngay trong gia đình con, trong trường học của con và trong sở làm của con. Thầy tin tưởng nơi con”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Trong tiến trình làm môn đệ Chúa, chúng ta được biến đổi dần dần thành muối và ánh sáng. Để được như vậy, chúng ta hãy theo gương thánh Phao-lô, là “không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô”. Biết Chúa Giê-su nghĩa là được chia sẻ ánh sáng nếu chúng ta ở trong Chúa Ki-tô là nguồn Ánh Sáng. Biết Chjúa Giê-su là được sức mạnh biến đổi nếu ta lãnh nhận độ mặn của Muối là Chúa Ki-tô. Tóm lại, chỉ có sự hiện diện và tình yêu của Chúa Ki-tô mới làm cho ta thành ánh sáng và muối cho trần gian!
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
------------------------------------
Trong Tin Mừng Mátthêu, tiếp liền bài giảng về “Tám Mối Phúc Thật”, Đức Giêsu đưa ra hai TN 5-A87
Trong Tin Mừng Mátthêu, tiếp liền bài giảng về “Tám Mối Phúc Thật”, Đức Giêsu đưa ra hai so sánh rất ấn tượng về sứ vụ của người môn đệ Ngài: Muối và Ánh Sáng cho đời:
“Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13-14).
Lấy muối và ánh sáng để nói về sứ mạng cũng như phẩm chất của người tín hữu, Đức Giêsu đã tỏ ra rất gần gũi với sinh hoạt đời thường:
Ngài biết muối cần thiết cho lương thực, và lương thưc cần cho con người để sống, nhưng lương thực như thịt, cá mà ươn xình, lạt lẽo, vì thiếu mắm muối thì chẳng ai muốn ăn ; tôm kho, mực xào, canh cải mà quên nêm muối, thì chẳng ai nuốt vào vì vô vị, trừ số ít người bệnh bất đắc dĩ phải ăn, vì thuộc diện kiêng cữ đồ mặn.
Muối trở thành chất không thể thiếu làm cá tôm không ươn, làm thức ăn mặn mà, làm cho bữa ăn ngon, làm vui thú khẩu vị thực khách. Nhờ muối mà đồ ăn ngon, nhờ muối mà người ăn ngon, nhờ muối mà bàn ăn vui cười, rộn rã.
Dùng muối là hình ảnh của người môn đệ, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh tính cách kín đáo, âm thầm, nhỏ bé, nhưng quan trọng trong vai trò “hé lộ” sự hiện diện của Thiên Chúa trong công trình của Ngài cho mọi người, và tế nhị trình bày cho người khác kỳ công của Ngài qua những gì bé nhỏ nơi mình: nhỏ như muối, bé như muối.
Một nụ cười khả ái, thân thiện, một ánh mắt trìu mến, một nắm tay yêu thương, như những hạt muối mặn sẽ làm cho cuộc đời của người đang chán đời, không muốn sống đổi sang mầu hồng hạnh phúc, và mầu xanh hy vọng, thay cho mầu đen chết chóc, tuyệt vọng trước đó ; một chia sẻ ngắn gọn, nhưng chất chứa lòng tôn trọng, cảm thông, như hạt muối nhỏ đủ làm mặn nồng tình yêu đã từ lâu lạnh lùng, băng giá ; chỉ một cử chỉ ân cần phục vụ như hạt muối nhỏ cũng đủ làm thay đổi cái nhìn về cuộc sống, và hồi sinh đời sống tưởng đã héo úa, tàn tạ.
Cứ quan sát các bà mẹ trong bếp khi chuẩn bị bữa ăn cho gia đình: bà đã mua thịt, cá, rau củ đầy đủ, nhưng không bao giờ trong bếp nhà bà thiếu muối, vì bà biết tuy không ai nhắc đến muối khi mâm cơm ngon được dọn lên, không ai biết đến hạt muối tròn, méo thế nào, cũng chẳng ai quan tâm phẩm chất và tầm quan trọng của muối, và tất nhiên chẳng có người nào bận tâm khen muối ngon, muối thơm, muối đẹp như khen thịt mềm, cá ngọt, rau tươi khi ăn, nhưng riêng bà mẹ nấu ăn thì kín đáo trân trọng hũ muối luôn phải đầy, vì bà biết: thiếu muối , bà không thể nấu được bữa cơm ngon cho cả nhà.
Cũng như bà mẹ biết muối cần thiết, Thiên Chúa biết sứ mệnh làm thi vị cuộc sống của người môn đệ, khi người môn đệ bằng thái độ bé nhỏ và cung cách tế nhị, dễ thương cho mọi người nhận ra công trình tốt đẹp của Thiên Chúa đã được thực hiện vì hạnh phúc của họ.
Thực vậy, là muối, người môn đệ biết mình không làm nên công trình, nhưng có sứ mạng nói cho mọi người biết có công trình, và công trình ấy là do Thiên Chúa thực hiện vì yêu thương con người, cũng như muối không là thịt, cá, rau củ, nhưng đem lại vị ngon cho lương thực, đem lại thi vị là vinh quang cho công trình của Thiên Chúa giữa nhân loại.
Cũng vậy, ánh sáng mà Đức Giêsu muốn người tín hữu phải trở nên chính là ánh sáng của “đèn được đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà” (Mt 5,15). Thiên Chúa muốn ánh sáng chúng ta là cũng phải là ánh sáng của khiêm tốn, bé nhỏ như ánh sáng của cây diêm tìm hướng đi trong rừng khuya để thoát hiểm, ánh sáng của ngọn nến khi bị cúp điện, để không ai trong nhà bị vấp té, ánh sáng của chiếc đèn dầu trên bờ đê, để không lỡ chân lạc bước giữa ruộng đồng khuya khoắt.
Ánh sáng ấy là từng ngày của cuộc sống làm chứng Thiên Chúa yêu thương mọi người ; là từng đóng góp xây dựng Nhiệm Thể Đức Kitô là Hội Thánh ; là từng giọt mồ hôi trên hành trình đến với những người anh em nghèo khó và hết lòng yêu thương, phục vụ họ ; là tinh thần quên mình vì tha nhân và dấn thân mưu tìm hạnh phúc cho mọi người ; là thái độ hiền lành, chịu đựng khi bị hiểu lầm, oan uổng, xỉ nhục, chụp mũ, lên án bất công.
Nhờ ý thức mình chỉ là ánh sáng của đèn, mà chúng ta không ảo tưởng và kiêu căng nghĩ mình là “Ánh sáng muôn dân”, “Ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1,3), không lầm tường mình ngang hàng với Ngôi Lời “là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9) ; nhờ biết đời mình còn là những mảng tối cần được Thiên Chúa là Ánh sáng lấy đi, mà chúng ta không hoang tưởng cho mình có thể thay Thiên Chúa làm ánh sáng xua đuổi bóng tối. Trái lại, chúng ta phải trở nên như Gioan Tẩy Giả đã được Gioan Tông Đồ mô tả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1,6-8).
Bởi khi làm chứng về ánh sáng, chính ánh sáng sẽ chiếu soi ; khi làm chứng về ánh sáng, chính ánh sáng sẽ xua đuổi bóng tối. Cũng như khi rao giảng Tin Mừng, thì chính Tin Mừng sẽ hoán cải lòng người, chứ không phải chúng ta hoán cải ; khi loan báo Lời Chúa, thì chính Lời Chúa sẽ đổi mới tâm hồn người lắng nghe, chứ chúng ta không đổi mới được họ ; khi thi hành tác vụ ban ơn thánh hoá, thì chính Thiên Chúa thánh hoá người tin ở Ngài, chứ chúng ta không thánh hoá được ai, vì chúng ta cũng là người tội lỗi, bất xứng, và chỉ là khí cụ của Thiên Chúa, chứng nhân của Ngài, “đầy tớ vô dụng phải làm việc của ông chủ trao phó”.
Chẳng thế mà thánh Phaolô đã thú nhận: “Khi đế với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa” (1 Cr 2,3-4). Nói cách khác, khi loan báo Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, thánh tông đồ dân ngoại đã chỉ làm chứng, và dựa hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa, chứ không dựa vào “lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu” (1 Cr 2,1), bởi thánh tông đồ ý thức rõ rệt: “Kẻ trồng, hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1 Cr 3,7).
Vâng, ánh sáng mà Thiên Chúa muốn chúng ta là, sẽ không là ánh sáng làm chói mắt của kiêu căng, ánh sáng thiêu đốt của lửa bạo lực, ánh sáng làm nhức đầu của tước vị, danh dự cá nhân, và ảnh hưởng, quyền lợi phe nhóm, hay ánh sáng làm kinh hãi, khiếp sợ những người nghèo hèn, bé nhỏ, không tiếng nói, nhưng là ánh sáng “sẽ bừng lên như rạng đông” khi ta “chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ ; thấy mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58,7-8), như ngôn sứ Isaia đã công bố trong bài đọc thứ nhất.
Xin cho chúng con khiêm tốn khi biết mình phải trở nên Muối và Đèn Sáng: muối làm cho lương thực mặn mà, ngon lành, nhưng không thay thế lương thực khi chấp nhận được quên đi, và nhận phần đóng góp rất bé nhỏ của mình cho bữa ăn, bởi khi đòi phải đạt số lượng lớn, muối sẽ làm cháy cổ mọi người, vì đồ ăn sẽ mặn chát. Cũng vậy, đèn sáng làm cho mọi người nhìn thấy nhau, và chiêm ngưỡng công trình tuyệt vời của Thiên Chúa, để nhận ra Thiên Chúa, nhưng đèn sáng không làm chói mắt, hoa mắt, mù loà mắt ai, khi ngạo mạn muốn chiếm chỗ của “Ánh Sáng thật, Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” là Chúa, nhưng như người đầy tớ vô dụng, chúng con vâng lời và tận tụy làm những gì Chúa muốn trong thân phận bé nhỏ, yếu đuối của mình, và dù thiếu kinh nghiệm, hậu đậu, vụng về, chúng con vẫn tin: chính trong những thiếu sót, bất toàn, mà Chúa được vinh danh ; chính khi chúng con nhỏ đi như hạt muối, Chúa được lớn lên hiển trị.
Sau hết càng bé nhỏ, bất xứng như hạt muối bé, như ánh đèn nhỏ, chúng con và mọi người càng nhận ra “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn, và lòng thương xót Chúa, từ đời nọ đến đời kia hằng bao bọc những ai kính sợ Người” (Lc 1,49-50).
Jorathe Nắng Tím
------------------------------------
Chủ đề suy niệm từ Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về những thực thể rất đỗi bình thường trong TN 5-A88
Chủ đề suy niệm từ Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về những thực thể rất đỗi bình thường trong cuộc sống, đó là Muối và Ánh Sáng. Tự bản chất, muối mặn để ướp thức ăn, và ánh sáng để chiếu sáng. Nhưng Chúa Giêsu lại muốn dùng để mời gọi mỗi chúng ta sống trách nhiệm của người Kitô hữu là "Muối cho đời" và là "Ánh sáng cho trần gian." Lời của Chúa hẳn đã và đang là lời thôi thúc từng người chúng ta sống, thể hiện tinh thần truyền giáo trong mọi nơi, mọi thời và mọi hoàn cảnh cuộc sống. Giữa một xã hội mà người ta chỉ muốn nổi danh về vật chất, sống ích kỷ và sống chủ nghĩa cá nhân, liệu lời gọi mời của Chúa có là điều khó thực hiện và lỗi thời chăng?
"Chính anh em là muối cho đời." Muối là vật dụng tốt. Không có muối, thức ăn sẽ nhạt nhẽo, không vị ngon. Nhưng với cuộc đời, Chúa muốn chúng ta là muối ngon ướp cho con người đang nhạt niềm tin vào Thiên Chúa. Chính cuộc sống chúng ta hướng trọn về Chúa sẽ như muối tăng thêm hương vị Thiên Chúa vào trung tâm cuộc đời tầm thường này. Muối tình yêu của Chúa đã cho đời vị mặn mà của lòng xót thương. Còn mỗi Kitô hữu, xung quanh chúng ta có được phát triển hơn về lòng nhân hậu, tình yêu, lòng tha thứ...là những vị mặn của Chúa? hay là ta lại trở nên vị đắng đót, tầm thường, nhỏ mọn chẳng mang ích lợi gì cho đời?
Vị mặn là bản chất của muối, thế nên nhạc sĩ Lê Đức Hùng đã tự hỏi: "Muối nếu không mặn nữa, có còn là muối nữa không?" Vậy xin muối mãi là muối mặn nồng nhé! Đời người Kitô hữu cũng vậy, nếu không còn chất mặn của Đức Tin, khi chẳng còn vị nồng của Lòng Mến, hay thiếu vắng thực hành giới răn và các mối phúc, ta sẽ không thể sống chan hòa với anh chị em, ướp mặn cho đời, mang lại niềm vui và thẩm thấu hình ảnh của Thiên Chúa Tình yêu vào cuộc đời của biết bao anh chị em chưa biết Chúa. Vậy, chúng ta cùng cầu xin Thánh Thần Chúa thánh hóa và biến đổi ta nên muối mặn nồng, sống có trách nhiệm như những môn đệ trung tín, đem lại vị mặn tin yêu cho đời, chứ đừng để ta thành vô dụng và bị chà đạp.
"Chính anh em là ánh sáng cho trần gian." Ánh sáng quan trọng và cần thiết cho cuộc sống. Không ánh sáng, không có vẻ đẹp, chẳng có màu sắc và cũng không thể hoạt động. Chúa Giêsu đã thấy sự lớn lao của ánh sáng và Chúa muốn những ai theo Chúa phải là ánh sáng cho trần gian, có quan điểm rộng lớn và cái nhìn mở rộng. Mỗi chúng ta có được ánh sáng, trở nên ánh sáng và tỏa lan ánh sáng là nhờ chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố "Tôi là ánh sáng thế gian." Ánh sáng của chúng ta phải phát xuất từ Chúa, đó là nguồn ánh sáng tình yêu, để rồi chúng ta tỏa sáng, thể hiện bằng việc yêu thương tha nhân, chia sẻ tình yêu và cơm áo với anh chị em nghèo đói, khiêm tốn chăm sóc phục vụ và đỡ nâng những ai đau bệnh hay bị bỏ rơi... Vì Chúa mong "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em."
Trần gian ta sống còn đó biết bao tăm tối của lòng ghen tương thù oán, của ích kỷ; sự mù mịt của con người thiếu lương tâm, suy đồi nhân cách và lọc lừa chiếm đoạt...! Vậy người Kitô hữu được Chúa mời gọi hãy là ánh sáng tình yêu, ánh ánh của lòng thánh thiện đạo đức, ánh sáng của sự thật, lòng hy sinh để len lỏi vào mọi ngóc ngách của trần gian, để chiếu giãi vào mọi tâm hồn và cuộc sống, để đẩy lui, xua tan và diệt trừ mọi bóng tối.
Chúa không chỉ mời gọi nhưng Người trao cho chúng ta trọng trách là Muối và Ánh Sáng. Vì nếu ta không còn chất mặn đức tin và sáng lên tình yêu, ta không còn phải là Kitô hữu nữa. Vậy mỗi chúng ta cần ý thức để thực sự trở nên muối mang lại ích lợi cho đời, biết hy sinh, bỏ mình, hòa tan để ướp mặn đời bằng niềm tin trung kiên sắt son vào Chúa; và biết chiếu giãi ánh sáng Tin Mừng, ánh sáng tình yêu Chúa và tình yêu tha nhân trước mặt thiên hạ, để danh Chúa được rạng sáng.
Những gì thế giới chờ đợi chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, những Kitô hữu có Chúa và thuộc về Chúa, đó là những hành động chứa đầy sự sống, niềm tin và tình yêu "Những công việc tốt đẹp anh em làm." Và tất cả những gì ta làm như là thói quen thường ngày trong cuộc sống, ta làm vì Thiên Chúa và Vinh Quang của Ngài. Với từng bậc sống Linh mục,tu sĩ, giáo dân...; từng hoàn cảnh giàu nghèo...; theo từng nghề nghiệp bác sĩ, công nhân, nông dân, tiểu thương... và môi trường sống trong gia đình, nơi công sở hay phố chợ... Uớc mong sao chúng ta hãy biết dấn thân trở nên chứng nhân của Chúa, dẫu cho ta chỉ là hạt muối nhỏ hay ngọn đèn lẻ loi, nhưng hãy giữ chất mặn bền mãi và không bao giờ lịm tắt ánh sáng, để tất cả những ai sống quanh ta đều được sưởi ấm, yêu thương và mặn nồng hương vị Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con Thánh Thần Tình Yêu, để Người biến đổi chúng con thực sự trở nên Muối và Ánh Sáng. Nguyện xin Chúa đồng hành và nâng đỡ chúng con qua từng suy nghĩ, lời nói, việc làm trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
------------------------------------
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
“Chính anh em là muối cho đời”
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.
Chúa Giêsu đề cập đến muối và ánh sáng ngay sau Hiến chương Tám Mối Phúc. Phải chăng Người TN 5-A89
Chúa Giêsu đề cập đến muối và ánh sáng ngay sau Hiến chương Tám Mối Phúc. Phải chăng Người muốn giải thích tám phúc qua hai hình ảnh cụ thể: Muối và ánh sáng.
Ý nghĩa muối và ánh sáng có vẻ tương phản như kiểu nói: nghèo khổ, sầu đau, bị bách hại lại được phúc. Thực ra, kiểu nói đó không có gì là mâu thuẫn nhưng hoàn toàn ăn khớp với nhau, có sức làm nổi cộm những ý nghĩa sâu sắc như những hình ảnh nổi trên màn ảnh không gian ba chiều, muối như nền không gian ba chiều cho những ánh sáng nổi lên rõ nét.
Chắc chắn Chúa Giêsu không muốn nói đến cấu trúc khoa học của muối và ánh sáng, mà chỉ nêu ra những công dụng rất hữu ích và cần thiết của chúng.
1/ Ai cũng biết công dụng của muối là ướp đồ ăn khỏi hư thối, thêm hương vị đậm đà và dễ tiêu hóa, muối còn được dùng trong nhiều ngành công nghệ để làm chất thanh tẩy trong bột giặt, cho thủy tinh trong suốt, tơ sợi bền dai. Muối rất hữu ích, nhưng tự nó hòa tan dễ dàng. Hòa tan mà vẫn không biến chất: “Hòa nhi bất đồng”. Hòa tan bỏ mình đi để muối có sức thấu nhập tận cốt tủy của đồ ăn, của chất liệu cần dùng nó. Nhờ đó muối bảo tồn, gìn giữ vật khỏi hư thối, nguyên liệu được thanh tẩy, hương vị được thơm ngon đậm đà.
Phải chăng đây là ý nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hơn cả, nơi chính mình Người và cho môn đệ Người. Chính Ngài là Thiên Chúa đã từ bỏ địa vị Thiên Chúa vinh quang, hủy mình đi (Semetipsum exinanivit ... Phil. 2, 7). Hòa tan vào thân phận nô lệ phàm nhân để thanh tẩy mọi ô uế của phàm nhân, làm cho phàm nhân nên tươi tốt, đậm đà thơm ngát trong tình yêu Thiên Chúa, làm cho phàm nhân nên trong suốt phản chiếu ánh sáng chí thánh của Ngài để tỏa sáng vinh quang Ngài khắp nơi.
Ai tin theo Chúa Kitô cũng phải bỏ mình đi để hòa tan như Thánh Phaolô: “Tôi sống không còn phải là tôi sống, nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Tại sao phải hủy mình đi? Bài đọc II cho thấy rõ lý do: “Khi tôi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt, run rẩy... nhưng tôi chỉ dựa vào Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào Thập giá... chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh thần và quyền năng Thiên Chúa”.
Đức Kitô là muối, Phaolô cũng phải là muối để hòa tan biến đi, từ bỏ mình đi, hạ mình xuống làm nền như tảng đá để xây lên những thành phố cao, để làm chân đế của những ngọn đèn sáng chiếu soi cho mọi người trong nhà và trong khắp thế gian.
2/ “Anh em là ánh sáng cho trần gian”
Ánh sáng soi cho ta thấy mọi vật muôn sắc ngàn màu tươi đẹp. Ánh sáng kích thích cây cối hoa màu sống phát triển mạnh mẽ. Thiếu ánh sáng chúng bị úa, bị chết yểu. Thế kỷ thứ XX mệnh danh là thế kỷ ánh sáng. Biết bao nhiêu phát minh tân kỳ từ đèn điện, bếp điện đến những phát thanh truyền hình, rađa, quang tuyến, siêu âm, vi tính, cáp quang.
Từ những công dụng kỳ diệu của ánh sáng tự nhiên, Chúa Giêsu cho ta thấy một thứ ánh sáng siêu nhiên vô cùng lạ lùng.
Ánh sáng siêu nhiên vô cùng đó phát ra từ chính Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là nguồn sáng” (Tv. 1,1), là Đấng tạo thành ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú (St. 1,16; Tv. 135, 7-9; Ga. 1,17). Cho nên uy linh Ngài như cẩm bào ánh sáng. Ngài hiện xuống núi, đến với dân trong ánh lửa (Xh. 19,12). Làm cho dung nhan Môsê tỏ ánh hào quang (Xh. 34,29). Lời Ngài như tia sấm sét (Xh. 20,18), nhưng thật êm dịu như ánh trăng thanh và dịu ngọt dường bao, hơn mật ong ngậm trong miệng (Tv. 118, 103-105).
Huyền diệu thay! Êm ái ngọt ngào thay! Ánh sáng chính là Ngôi Lời: “Ngôi Lời là Thiên Chúa... là ánh sáng thật đã đến trong thế gian, chiếu soi vào bóng tối cho mọi người... Ngôi Lời đã trở thành người phàm và ở trong chúng ta” (Ga. 1, 1-9).
Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta như Người đã xác nhận: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không mất đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga. 8, 12) và ban cho chúng ta ánh sáng, Người nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.
Người đã đến chiếu soi vào bóng tối cho mọi người thế nào?
Thưa Người “loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố ân xá cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được sáng, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”, “Tất cả những ai đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn đều được Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ lành, quỷ cũng xuất khỏi nhiều người” (Lc. 4, 18-19... 40-41). Người làm nhiều hơn thế: cho kẻ chết sống lại, chính Người đã chịu chết trên Thập giá để soi cho mọi người thấy ánh sáng dẫn tới nguồn sống.
Tất cả những ai đi theo ánh sáng đều phải là ánh sáng chiếu vào bóng tối soi cho mọi người như vậy: “Gần đèn thì rạng” “Hữu xạ tự nhiên hương”. Bài đọc I đã đề ra một số việc cụ thể của con cái ánh sáng phải thi hành là cứu người đói nghèo, đau khổ, bệnh tật, biết chia cơm xẻ áo, tiếp giúp kẻ bơ vơ không nhà, đẩy lùi áp bức, gông cùm.
Có ra sức chiếu sáng như thế mới được Người cho quyền trở nên con cái Thiên Chúa và được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác từ nguồn sung mãn của Người (Ga. 1, 12... 16).
“Hãy cảm tạ Chúa, vì Người nhân từ:
Cho Thái Dương soi sáng ban ngày,
đặt trăng sao hướng dẫn ban đêm” (Tv. 135, 7-9).
“Cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta. Soi sáng cho những ai ngồi trong tăm tối và bóng tử thần; dẫn ta bước vào nguồn sáng bình an” (Lc. 1, 78-79).
Vậy chúng ta hãy:
“Chúc tụng Chúa đi, các Thiên sứ của Người; muôn ngàn đời hãy chúc tụng suy tôn.
Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng.
Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú muôn ngàn.
Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây.
Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài muông thú.
Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ phục vụ Người.
Nào chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Muôn ngàn đời cùng ca tụng suy tôn”
------------------------------------
Trang Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô hữu không phải là những TN 5-A90
Trang Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt muối bé nhỏ hay chỉ là một chút ánh sáng lẻ loi. Thật bình thường và cũng thật tầm thường nhưng lại thật hữu ích cho đời sống con người. Không có muối làm sao có những bữa tiệc thơm ngon mặn mà. Không có ánh sáng làm sao con người có thể nhìn ngắm những vẻ đẹp muôn màu của vũ trụ mà Thiên Chúa đã dựng nên.
Muối là một sản phẩm không thể thiếu trong đời sống con người. Muối vừa làm phân bón cho đất đai màu mỡ; vừa làm gia vị cho các món ăn thêm thơm ngon đậm đà; vừa bảo quản thực phẩm cho khỏi hư thối. Khi muối muốn ướp cho “mặn đời”, muối phải biết chấp nhận hòa tan, phải biết “mất đi” cho chính mình để hoá thân trong chất mặn, để hiến dâng cho đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại, của yêu thương và tha thứ …
Muối là vật dụng thường thức dùng trong việc nấu nướng. Không có muối, đồ ăn thiếu hương vị và lạt lẽo. Nhưng người Do Thái còn dùng muối làm phân bón. Vì vậy mà Ngài bảo: Các con là muối đất. Trong Kinh Thánh, muối là hình ảnh được nhắc lại nhiều lần. Từ vụ vợ ông Lót nhìn lại đàng sau mà biến thành tượng muối, đến chút muối mà thánh Phaolô căn dặn nên đặt vào trong lời ăn tiếng nói cho có hương vị khi giao tiếp với anh em.
Muối có đó nhưng không ai thấy muối. Không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường mà vì muối phải tan biến đi. Phải tan biến đi muối mới có tác dụng. Muối ướp vào thịt cá mà không tan đi thì không thấm được vào thớ thịt, thớ cá, không giữ cho thịt tươi cá tốt được. Muối gia giảm vào cá kho, thịt rim, nước canh mà không tan đi thì khi ăn phải, người ta sẽ nhăn mặt bỏ đi. Chỉ khi tan biến đi, hoà tan vào thịt, cá, rau cỏ, muối mới có ích lợi. Muối phải hiện diện nhưng lại phải tiêu huỷ đi thì mới có ích.
Ngày nay hơn bao giờ Giáo Hội phải thâm nhập vào nền văn minh với những giá trị của đức tin, hầu cho thế gian khỏi tan rã và thoái hoá trong bạo lực. Người ta nói nhiều đến thuyết duy vật, thuyết duy sắc dục… Lắm người quảng đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng không biết bên kia cái cùng đích họ theo đuổi còn có gì… Nếu bị bỏ mặc cho mình, thì thế giới sẽ nên hủ bại. Người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá, và số mệnh con người, để góp phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả đời sống xã hội, gia đình, nghề nghiệp, chính trị kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như lòng tin nơi Đức Giêsu Kitô soi sáng thúc đẩy họ. Nếu không có can đảm làm như thế, nếu trở nên lạt lẽo, thì nó sẽ không chu toàn sứ mệnh và thế gian có thể lôi kéo họ vào sự ghê tởm. Bị ném ra ngoài cho người ta dày đạp dưới chân. Phúc Âm nói thế.
Các con là muối, nghĩa là chúng ta hãy sống đạo dức, thực thi những điều Ngài dạy, để thánh hoá bản thân, nêu gương sáng cho người khác, hâm nóng những cõi lòng đã nguội lạnh. Nếu chúng ta không sống Lời Chúa trọn vẹn, thì chúng ta như muối đã nhạt, không ích lợi gì, chỉ đáng đem đổ ra ngoài đường cho người ta dày đạp. Người Do Thái ngày xưa đổ rác cả ra đường phố cho khách qua lại dẫm lên.
Có lần Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong đêm tối, nhưng sẽ có ánh sáng đời đời. Và hôm nay Chúa dạy các môn đệ hãy bắt chước Ngài để trở nên ánh sáng thế gian: Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn hầu soi sáng cho mọi người trong nhà.
Chúng ta phải là đèn soi cho kẻ khác bằng lời nói, bằng việc làm và bằng gương sáng. Nếu Phúc Âm không được rao giảng người ta sẽ quên nó. Trái lại, nếu mỗi người chúng ta thắp lên cây đèn nhỏ của mình, thì không những nhà riêng của chúng ta mà cả thế giới sẽ được soi sáng. Sự sáng của các con sẽ chiếu soi trước mặt thiên hạ và mọi người sẽ ngợi khen Thiên Chúa
Chúng ta chỉ là ánh sáng thế gian trong mức độ khi chúng ta để Chúa Kitô biến đổi cuộc sống mình, để cho ánh sáng của Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành cuộc đời của Chúa. Lời Chúa phán: “Chúng con là ánh sáng”, không là một lời khoe khoang để chúng ta hãnh diện, tự kiêu, nhưng là một mệnh lệnh, một đòi hỏi, mỗi người phải là một Chúa Kitô khác, hãy sống sự sống của Chúa, hành động như Chúa để trở thành một Chúa Kitô khác.
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”(Mt.5:13). Đây là lời mời gọi tuyệt vời dành cho người Kitô, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga.1:5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga.8:12). Vậy ta muốn trở thành ánh sáng như Đức Giêsu, ta phải ở gần Ngài: gần đèn thì ta được toả sáng.
Ánh sáng không thiên vị một ai, không thích người này và cũng không chê người kia. Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp nơi, chiếu sáng mọi người và mọi nhà. Ánh sáng của người Kitô cũng vậy,“ánh sáng của anh em phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền tài, lạc thú. Không phải để khoe khoang, tự kiêu, nhưng là để tôn vinh Cha, Đấng ngự trên trời” (Mt.5:16).
Ánh sáng của cây nến tuy nhỏ bé nhưng cũng đủ toả sáng cả một căn phòng, làm cho bóng tối phải lùi bước. Một khi ánh sáng của ngọn nến bừng lên, đó cũng là lúc ngọn nến bị đốt cháy, bị tan biến đi. Người Kitô cũng vậy, phải mất đi cho chính mình, phải tan biến đi để “Ánh Sáng Chúa Kitô“ được loan toả khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp mọi tâm hồn.
Thánh Phaolô đã để cho ánh sáng của Chúa được hiện diện trong cuộc đời của ngài, biến cuộc đời của ngài trở thành ánh sáng cho muôn dân. Chúng ta cần sống trọn vẹn Tin Mừng của Chúa, sống như Chúa đã sống, sống sức sống của Chúa, lãnh nhận ánh sáng của Chúa. Để làm tốt cho đời, chúng ta cần lấy Đạo Chúa mà chúng ta có để làm cho đời được tươi đẹp, như thế tốt đời mới đẹp đạo của Người, đó là đối với chúng ta phải tốt đạo để đẹp đời, chúng ta phải sống trọn vẹn đức tin của mình, phải thực hiện đức bác ái của mình cách hoàn hảo.
Vấn đề không phải là phô trương mình ra. Những cũng là ánh sáng soi chiêu vì nó là nó, thì người Kitô hữu cũng phải toả ánh sáng Tin Mừng bằng cách là người Kitô hữu đích thực, thế thôi. Một điểm đáng cho ta lưu ý. Khi hoạt động với tư cách Kitô hữu, có nên che dấu “sự quy chiếu” của mình về Chúa Kitô và đặc nó dưới thùng hay không? Nói cách khác, ánh sáng mà người tin Chúa mang trong mình không phải loan báo Đức Giêsu Kitô hay sao? Trả lời thực tế cho câu hỏi này không đơn giản đâu. Dù sao, theo Phúc Âm dạy thì hành động được thực hiện trong ánh sáng, phải dẫn đưa con người tới chỗ ngợi khen Cha trên trời.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, cho dù phải đương đầu với biết bao sống gió nhưng vẫn phải giữ cho ngọn đèn đó cháy sáng, vì biết đâu xa xa ngoài khơi vẫn còn có ai đó đang cần một chút ánh sáng để định hướng vào bờ.
Công đồng Vatican II khuyên như sau: “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”.
Ước gì trong cuộc đời Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa “thắp sáng lên trong con tình yêu của Chúa”. Nếu không có tình yêu và ân sủng của Chúa, chúng ta chẳng là gì cả.
------------------------------------
Vào ban tối, cứ mỗi lần bị cúp điện, chúng ta tìm mọi cách để cho có ánh sáng: bấm đèn pin, thắp TN 5-A91
Vào ban tối, cứ mỗi lần bị cúp điện, chúng ta tìm mọi cách để cho có ánh sáng: bấm đèn pin, thắp lên một ngọn nến, thắp lên một ngọn đèn dầu… Những lúc như thế, chúng ta mới thấy sự cần thiết của ánh sáng đối với đời sống con người như thế nào. Đức Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc của đời thường này để cho chúng ta biết Ngài chính là ánh sáng và mỗi người chúng ta được mời gọi phản chiếu ánh sáng của Ngài.
1. Đức Giêsu là Ánh Sáng cho thế gian
Thật vậy, Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Chính Ngài đã khẳng định: “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Đức Giêsu chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, để dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa. Khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, Tin mừng đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4,16).
Ánh sáng đó chính là con người của Ngài: Đó là ánh sáng bao phủ các mục đồng khi sứ thần loan báo tin vui; đó là ánh sáng của ngôi sao lạ chỉ đường cho các nhà đạo sĩ đến gặp Hài Nhi Giêsu; đó là ánh sáng chói lòa bao phủ lấy Ngài trong biến cố biến hình trên núi Taborê; đó là ánh sáng đã quật ngã Phaolô trên đường Đamát, khiến Phaolô từ một người bắt bớ các Kitô hữu đã trở thành người loan báo Tin Mừng.
Ánh sáng đó chính là Lời của Ngài: Lời của Ngài được ghi chép lại trong các sách Tin mừng. Lời đó cũng chính là giáo huấn của Ngài. Thật vậy, Lời của Ngài đã xua trừ ma quỷ. Lời của Ngài đã chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Lời của Ngài đã cho kẻ chết sống lại. Lời của Ngài đã biến đổi biết bao tâm hồn từ trong tối tăm của sự chết đến ánh sáng huy hoàng. Lời của Ngài là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi (x. Tv 119,105). Giải thích Lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường (x. Tv 119,130).
Ánh sáng đó chính là hiệu quả các Bí tích mà Ngài đã thiết lập: Bí tích Rửa tội xóa tan tội Nguyên tổ và các tội riêng, giúp con người trở nên con Thiên Chúa; Bí tích Giao hòa, trả lại cho con người tội lỗi trở lại tình trạng nguyên thủy ban đầu; Bí tích Thánh Thể, gia tăng ơn thánh hóa và giúp cho người Kitô hữu đón nhận chính Đức Giêsu…Như vậy, các Bí tích nhằm mục đích giúp con người lãnh nhận thêm ánh sáng của Đức Giêsu.
2. Các con là ánh sáng thế gian
Chúng ta được đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Ngọn nến được trao cho chúng ta trong ngày hồng phúc đó chính là hình ảnh Đức Giêsu Kitô. Từ đó, chúng ta tiếp tục đón nhận ánh sáng của Đức Giêsu qua việc lãnh nhận các Bí tích, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa…Đặc biệt, chúng ta lãnh nhận ánh sáng Chúa Kitô qua đời sống cầu nguyện. Khi cầu nguyện là chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa. Nhờ cầu nguyện chúng ta được thêm sức mạnh, nạp thêm năng lượng thiêng liêng từ Thiên Chúa. Chính Mẹ Têrêxa Calculta đã nói: “Cầu nguyện là công việc nạp bình, còn hoạt động là công việc tỏa sáng.”
Khi đã đón nhận ánh sáng từ Chúa, chúng ta có nhiệm vụ chiếu tỏa ánh sáng đó cho những người chung quanh. Đức Giêsu đã nói “Chính anh em là ánh sáng thế gian.” (Mt 5,14); “Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.” (Mt 5,15-16).
Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng của đời sống nội tâm. Khi chúng ta biết sống gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, qua việc lãnh nhận các Bí tích…thì sự thánh thiện sẽ được lan tỏa ra nơi chúng ta để cho người ta thấy, cả những khi chúng ta không nói gì. Ngày kia, thánh Phanxicô Assidi nói với một thầy dòng: "Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo." Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: "Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!" Thánh Phanxicô đáp: "Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?" Câu trả lời của thánh Phanxicô Assidi thật là chí lý. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân.”
Người kitô hữu cần tỏa ánh sáng bác ái yêu thương. Bài đọc I, tiên tri Isaia mời gọi chúng ta: "Hãy chia bánh của ngươi cho kẻ đói, hãy tiếp nhận vào nhà ngươi những kẻ bất hạnh không nhà ở; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ mặc đồ vào, và đừng khinh bỉ xác thịt của ngươi.” (Is 58,7). Chính Đức Giêsu cũng đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau.”(Ga 13,35).
Ngoài ra, người kitô hữu cần chiếu tỏa nhiều loại ánh sáng khác nhau để hầu có thể xua tan bóng tối. Bởi vì, chúng ta đang sống trong một xã hội mà bóng tối tội lỗi lan tràn. Chúng ta không thể ngồi đó mà than thân trách phận, nhưng hãy chiếu tỏa ánh sáng, dù là một tia sáng nhỏ bé, như ai đó đã nói: “Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.” Nếu mỗi người chúng ta cố gắng thắp lên một ngọn nến của tình thương và lòng tốt, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng được bóng tối, sự dữ, oán thù. Ánh sáng sẽ bừng lên. Tiên tri Isaia đã khẳng định: “Nếu ngươi loại bỏ khỏi ngươi xiềng xích, cử chỉ hăm dọa, lời nói xấu xa, khi ngươi hy sinh cho người đói rách, và làm cho những người đau khổ được vui thích thì ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày.”(Is 58, 9-10).
Một buổi tối nọ, ông John Keller, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng một trăm ngàn người tại sân vận động trường Los Angeles. Đang diễn thuyết, bỗng ông dừng lại và nói: "Xin các bạn đừng sợ. Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này."
Đèn tắt, sân vận động chìm sâu trong bóng tối dày đặc. Ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: "Đã thấy!" Một que diêm được bật lên, cả vận động trường vang lên: "Đã thấy!"
Sau khi đèn được bật sáng, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy."
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai có mang theo hộp quẹt, xin hãy đốt cháy lên!" Bỗng chốc, cả sân vận động trường rực sáng.
Ông John Kener kết luận: "Tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau, có thể chiến thắng bóng tối, sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta."
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con luôn trở nên ánh sáng soi chiếu cho những người xung quanh, để qua đó họ nhận biết Chúa là ánh sáng thật, là ánh sáng dẫn đến nguồn ơn cứu độ. Amen.
------------------------------------
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Thường Niên năm A nhấn mạnh sức mạnh của lời chứng: sức TN 5-A92
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Thường Niên năm A nhấn mạnh sức mạnh của lời chứng: sức mạnh này làm cho người tín hữu trở thành con người của ánh sáng (Bài Đọc I và Tin Mừng) và qua sự yếu đuối của phàm nhân, chứng thực quyền năng Thiên Chúa (Bài Đọc II).
Is 58: 7-10
Bài Đọc I được trích từ phần thứ ba của sách I-sai-a, phần này được biên soạn vào thời hậu lưu đày (sau năm 538 trước Công Nguyên). Vị ngôn sứ khuyên bảo hãy thực thi đức ái huynh đệ, quan tâm đến những người không nơi nương tựa, những người túng thiếu, đó là điều kiện để trở thành một con người chiếu giải ánh sáng Thiên Chúa.
1Cr 2: 1-5
Thánh Phao-lô nhắc cho các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy yếu đuối và sợ hãi (thánh nhân vừa mới chịu thất bại ở A-thê-na, ở đó sự khôn ngoan của Tin Mừng đã đụng chạm đến sự khôn ngoan phàm nhân). Nhưng sự yếu đuối này bày tỏ sức mạnh của Thần Khí trong sứ mạng gian khó của ngài là làm chứng cho Đức Ki-tô chịu đóng đinh.
Mt 5: 13-16
Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su khuyên các môn đệ Ngài hãy làm chứng niềm tin của họ: như vậy, họ sẽ đem đến một vị mặn thần linh cho những sự vật trần thế và sẽ trở nên ánh sáng cho thiên hạ.
BÀI ĐỌC I (Is 58: 7-10)
Bản văn tuyệt đẹp này xem ra thuộc vào thời kỳ những người lưu đày ở Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem (cuộc hồi hương khoảng năm 538 trước Công Nguyên). Tác giả của nó chắc chắn là một môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, ông được gọi dưới biệt danh là ngôn sứ I-sai-a đệ tam.
*1.Cách ăn chay mà Chúa ưa thích là thực hành đức ái:
Giáo Hội có chủ ý mời gọi chúng ta suy niệm bản văn này để chuẩn bị bước vào Mùa Chay. Quả thật, lời khuyên bảo được gởi đến những tín hữu thực hành chay tịnh và sám hối trong niềm mong chờ Thiên Chúa thi ân giáng phúc.
Vị ngôn sứ vạch cho thấy những khổ chế này chỉ là công việc đạo đức vô giá trị nếu không đi kèm theo việc thực hành đức ái. Cách ăn chay mà Thiên Chúa ưa thích:
“Chẳng phải là chia cơm cho người đói,
rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân,
không ngoảnh mặt làm ngơ trước những anh em cốt nhục?” (Is 58: 7)
*2. “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông”:
Vị ngôn sứ sánh ví những thành quả của đức ái với ánh mặt trời vào lúc rạng đông. Trong những xứ sở Cận Đông ánh bình minh là một yếu tố thiết yếu của cuộc sống thường ngày. Ánh bình minh đồng nghĩa với hạnh phúc, niềm vui, thịnh vượng.
“Bấy giờ, ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông,
vết thương ngươi sẽ mau lành” (58: 8a)
Đây sẽ là một ngày mới, một cuộc tái sinh thực sự không chỉ về phương diện luân lý nhưng còn cả về thể xác nữa vì sức lực sẽ được phục hồi mau chóng.
*3. “Đức Công chính ngươi sẽ mở đường phía trước”:
“Đức công chính sẽ mở đường phía trước,
vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi” (58: 8b)
Trong vế thứ nhất của câu này, từ Híp-ri được dịch “đức công chính”, theo văn mạch cũng có nghĩa “chiến thắng”. Chắc chắn sắc thái ngữ nghĩa này phải được hiểu ở đây. Đức công chính mà người tín hữu thực hành được sánh ví với những chiến lợi phẩm sẽ mở đường phía trước người chiến thắng.
Vế thứ hai được dịch sát chữ: “Vinh Quang Thiên Chúa sẽ là hậu quân của ngươi”. Đây là hình ảnh của đám rước khải hoàn.
*4. Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả:
Nhịp tăng dần của nhà thơ còn đi xa hơn khi tác giả khẳng định rằng Thiên Chúa lắng nghe và đáp trả người thực hành đức ái. Đây là cách thức diễn tả cuộc đối thoại thường hằng giữa Thiên Chúa và người công chính.
“Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!” (58: 9)
Vị ngôn sứ một lần nữa liệt kê những cử chỉ bác ái và một lần nữa sánh ví thành quả của chúng với thành quả của ánh sáng, nhưng lần này với ánh sáng nội tâm. Sự rực sáng của thiện nhân chẳng khác nào sự chiếu sáng vinh quang của Thiên Chúa:
“Nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,
làm thỏa lòng người bị hạ nhục,
thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối,
và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (58: 10).
BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 1-5)
Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô này, thánh Phao-lô tiếp tục biện luận về sự khôn ngoan Thiên Chúa và sự khôn ngoan phàm nhân. Thánh nhân giải thích cho các tín hữu Cô-rin-tô hiểu rằng sự khôn ngoan Thiên Chúa được bày tỏ qua những người khiêm hạ, điều này được kiểm chứng bởi muôn ân sủng mà họ nhận được.
*1.Quyền năng Thiên Chúa được bày tỏ ở nơi sự yếu đuối:
Bản thân thánh nhân là một trong những ví dụ đó. Khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy, và chẳng có lời lẽ hùng biện. Chẳng phải sự hùng biện phải câm nín khi loan báo một Đức Ki-tô chịu đóng đinh sao? Thánh Phao-lô thích nhấn mạnh sự tương phản giữa sự yếu đuối của ngài, sự bé nhỏ của những phương tiện ngài sử dụng và ảnh hưởng của lời ngài rao giảng. Thánh nhân muốn công bố rằng “quyền năng Thiên Chúa được thực hiện ở nơi sự yếu đuối” (2Cr 12).
Đừng hiểu “sợ sệt và run rẩy” theo nghĩa đen, đây là một thành ngữ. Chúng ta gặp lại thành ngữ này trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô khi thánh nhân gợi lên việc các tín hữu này đã đón tiếp nồng hậu người cộng tác viên của ngài là ông Ti-tô: “Lòng anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính sợ và run rẩy đón tiếp anh” (2Cr 7: 15). Đây là cách diễn tả thái độ khiêm tốn và kính trọng, dẫu rằng vào lúc đó thánh nhân có nhiều lý do để lo lắng: những vết thương do việc đánh đòn mà thánh nhân đã chịu ở Phi-líp-phê chưa lành hẳn; những quấy nhiễu của người Do thái ở Thê-xa-lô-ni-ca đã buộc thánh nhân phải trốn chạy; mới đây, cách tiếp đón lạnh nhạt của dân thành A-thê-na.
*2.Hậu cảnh: cuộc thất bại ở A-thê-na:
Thánh Phao-lô đã đến Cô-rin-tô vào năm 50 từ A-thê-na ở đó thánh nhân đã nếm mùi thất bại. Ở nơi đỉnh cao của sự khôn ngoan và triết học, thánh nhân đã không được hiểu. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã không dễ dàng hòa nhập vào giữa những suy luận ngoại giáo, thậm chí bởi những lời lẽ hùng biện. Vì thế, ở Cô-rin-tô, thánh nhân sử dụng một phương pháp khác. Thánh nhân không dùng “lời lẽ khôn ngoan để thuyết phục”, nhưng để cho Thần Khí hoạt động qua những lời đơn sơ giản dị của mình và cách hành xử khiêm hạ của mình.
Đừng nghĩ rằng thánh nhân kết án sự hùng biện, vì lẽ thánh nhân mượn ở nơi nghệ thuật này biết bao điều tốt đẹp, cũng không sự khôn ngoan phàm nhân, vì lẽ thánh nhân ca ngợi đức điều độ của người Hy-lạp. Nhưng thánh nhân kết án sự khôn ngoan khi mà nó tự phụ áp dụng những tiêu chuẩn của mình vào một sứ điệp vượt quá nó. Đây là điều mà những người Hy lạp này với tinh thần tinh tế xem ra cư xử Tin Mừng như một sự chọn lựa khôn ngoan hay lời dạy của nhà hùng biện.
TIN MỪNG (Mt 5: 13-16)
Bản văn này được trích từ Bài Giảng Trên Núi của thánh Mát-thêu và trực tiếp kết nối với các “Mối Phúc” (5: 3-12) qua trung gian của các câu 11-12 với cách xưng hô ở ngôi thứ hai số nhiều: “Anh em”. Bản văn này được gởi đến không phải cho những người môn đệ đặc biệt, nhưng cho tất cả những ai tự nhận mình là môn đệ của Chúa Giê-su. Qua bản văn này, cộng đoàn Ki-tô hữu được nhắc nhớ đến bổn phận truyền giáo. Khi đề cập đến sứ mạng của người môn đệ “trong thế gian”, Đức Giê-su khuyên các môn đệ Ngài hãy làm chứng niềm tin của họ, như vậy họ sẽ đem đến một bản sắc mặn mà thần linh cho những sự vật trần thế và sẽ trở nên ánh sáng chiếu soi thiên hạ.
*1.Muối cho đời (5: 13).
Đây không là một gợi ý hay một lời đề nghị về một lý tưởng nên theo, nhưng là một lời khẳng định về cách sống, một ơn gọi: “Chính anh em là muối cho đời”. Kiểu nói này có mối liên hệ với Xh 19: 6: “Còn các ngươi, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế cho Ta và một dân thánh”. Như Đức Chúa đã chọn dân Ngài giữa chư dân và xác định cách sống của họ, Đức Giê-su cũng chọn các môn đệ giữa loài người và giờ đây xác định sứ mạng của họ phải là “muối cho đời”. Với hình ảnh này, Đức Giê-su muốn nói lên điều gì?
Trước hết, muối là một thứ gia vị đem lại vị mặn mà cho thức ăn, muốn được như thế, muối phải hòa tan vào thức ăn. Như muối chấp nhận hòa tan vào thức ăn để đem lại vị mặn mà cho thức ăn như thế nào, thì người Ki-tô hữu là “muối cho đời” cũng phải chấp nhận hòa tan vào trần gian để đem lại vị mặn nồng cho những người chung quanh như vậy.
Thứ nữa, muối còn có công dụng là bảo tồn thức ăn cho khỏi hư, như ca dao Việt Nam đã nói: “Cá không ăn muối, cá ươn”. Từ đó, muối ám chỉ đặc tính “lâu bền” của một khế ước như Thánh Kinh nói: “giao ước muối”, nghĩa là một Giao Ước bền vững (Ds 18: 19; Lv 2: 13; 2Sb 13: 5). Thánh Mác-cô gợi lên biểu tượng này của muối: “Anh em hãy giữ muối trong lòng mình, và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9: 50). Dâng hiến “bánh và muối”, chính là đề nghị tình bạn, ký kết một giao ước. Vì thế, với tư cách là “muối cho đời” người Ki-tô hữu có sứ mạng bảo tồn cho trần gian khỏi hư hỏng.
Ngoài ra, diễn ngữ: “muối cho đời” được dịch sát từ: “muối của đất”, để nói lên công dụng khác nữa của muối là làm phân bón cho đất thêm tốt. Ngày xưa, tại Ai-cập và tại Pa-lét-tin, nhà nông cho muối vào phân để phân tốt, nhờ đó đất sẽ phì nhiêu hơn, như thánh Lu-ca gợi lên công dụng này của muối: muối mà nhạt đi thì “dùng nó để bón ruộng hay trộn phân đều không thích hợp” (Lc 14: 34-35). Vậy khi Đức Giê-su nói: “Anh em là muối của đất”, Ngài muốn nói rằng người Ki-tô hữu phải làm sao cho thiên hạ được tốt, tốt mãi, tốt hơn.
Điều cốt yếu chính là muối vẫn là muối, thì mới giữ được giá trị và tính hữu hiệu của mình. Nếu muối mất đi vị mặn của mình thì trở nên vô ích, cũng vậy nếu cuộc đời của người Ki-tô hữu bị biến chất, mất đi tinh thần Bát Phúc thì chẳng còn có giá trị gì: “Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?”.
Nói cho cùng, khi khẳng định các môn đệ là “muối cho đời”, Đức Giê-su cho hiểu rằng mỗi người Ki-tô hữu không chỉ nổ lực thánh hóa bản thân, nhưng cũng phải thánh hóa tha nhân. Khi khẳng định sứ mạng của người Ki-tô hữu là “muối cho đời”, Đức Giê-su nghĩ đến khía cạnh tiểu số của những người Ki-tô hữu. Trong đống bột nhân loại bao la, những Ki-tô hữu phải là một nhúm muối đem lại vị mặn mà của Thiên Chúa. Họ là những sứ giả của Tin Mừng, Tin Mừng không xuất phát từ thế giới này.
*2.Ánh Sáng cho trần gian (5: 14-16)
Kiểu sánh ví người môn đệ với ánh sáng là kiểu nói quen thuộc của Kinh Thánh: xưa kia, vua Đa-vít là ánh sáng cho dân Ít-ra-en (2Sm 21: 17), người Tôi Trung của Đức Chúa là ánh sáng cho chư dân (Is 42: 6; 49: 6) và dân Ít-ra-en là ánh sáng cho muôn dân nước để họ biết đường về cùng Thiên Chúa chân thật (Is 60). Kiểu nói này được dịch sát từ: “Ánh sáng của trần gian”, có nghĩa người môn đệ Chúa Ki-tô phải chấp nhận dấn thân vào trần gian như một công dân của trần thế để từ đó mới có thể làm cho thế gian rực sáng các mối Phúc. Khi nói: “Một thành xây trên núi”, Chúa Giê-su chắc chắn ám chỉ thành Giê-ru-sa-lem vào ngày Đấng Cứu Độ đến, như lời loan báo của I-sai-a (Is 2: 2-4). Thế thì, ngày cánh chung, Giê-ru-sa-lem, tức là Giáo Hội, sẽ chiếu tỏa xuống chư dân, vì chính tại Giê-ru-sa-lem, chư dân học biết Luật Chúa (Is 2: 3).
Chúa Giê-su dùng một hình ảnh rất thân quen: “Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại đặt dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế”. Trong mỗi căn nhà của người Do thái, người ta thường gặp thấy một cái đấu có dung tích khoảng mười hai lít ngũ cốc. Nhiều người nghèo dùng cái đấu này làm đế đèn. Công dụng của “đèn thắp sáng” là chiếu sáng cho mọi người trong nhà: “Đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà”. Cũng vậy, do ơn gọi, người Ki-tô hữu phải thông chia ánh sáng cho người khác. Chính họ không được để mình thiếu ánh sáng và không được thiếu trách nhiệm vì không tạo được ảnh hưởng cho môi trường sống chung quanh.
Đây không phải là sự phô trương mà Chúa Giê-su đòi hỏi ở nơi các môn đệ Ngài; nhưng họ phải chiếu giải ánh sáng của Thiên Chúa bằng những công việc tốt đẹp họ làm: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ”. Lúc đó, những ai nhìn thấy ánh sáng “sẽ tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Những lời này loan báo kinh Lạy Cha, chẳng bao lâu sẽ được Ngài dạy cho các môn đệ Ngài. Bản chất của ánh sáng chính là “những công việc tốt đẹp anh em làm”, hay chính xác hơn, “những việc thiện”. Những việc thiện là hoa trái của đức ái, đó là yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương chúng ta (x. Ga 15: 12).
Công Đồng Vatican II nhấn mạnh bổn phận của người Ki-tô hữu là làm tông đồ: “Giáo dân làm tông đồ là thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ của Giáo Hội: để lãnh nhận Phép Rửa và Thêm sức, mỗi tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ: đàng khác các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, thông phần và nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với loài người, nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ, thì Giáo Hội sẽ không là muối của thế gian. Như thế, vì những ân huệ đã lãnh nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động cho chính sứ mệnh Giáo Hội, ‘tùy theo độ lượng ân sủng Chúa Ki-tô ban cho’ (Ep 4: 7)… Bởi vậy, nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại” (Hiến Chế Giáo Hội, 33).
------------------------------------
- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúa nhựt vừa qua, Lời Chúa cho chúng ta biết chúng ta rất hạnh phúc vì được làm công dân Nước Trời. TN 5-A93
Chúa nhựt vừa qua, Lời Chúa cho chúng ta biết chúng ta rất hạnh phúc vì được làm công dân Nước Trời. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta biết sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời.
Chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa để hiểu sứ mạng ấy là gì, và chúng ta hãy sốt sắng xin Chúa giúp chúng ta thi hành sứ mạng cao cả ấy.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta chưa hãnh diện vì được làm công dân Nước Trời. Ngược lại có khi còn che dấu hoặc xấu hổ vì điều ấy.
– Sống với những người chưa biết Chúa, chúng ta chẳng những không mang lại điều gì tốt cho họ, trái lại còn lây nhiễm những thói xấu của họ.
– Sống giữa những người khác, chúng ta không nêu gương sáng, ngược lại có khi còn làm gương mù gương xấu.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (Is 58,7-10):
Trong thời gian dân do thái bị lưu đày bên Babylon, không còn Đền thờ, không còn các lễ nghi, các tư tế và luật sĩ sợ đức tin của dân bị phai lạt nên đã nhấn mạnh rất nhiều vào những hình thức đạo đức như ăn chay, cầu nguyện, bố thí. Đáng tiếc là vì quá nhấn mạnh đến hình thức, họ sao nhãng phương diện tinh thần. Khi dân do thái từ chốn lưu đày trở về, cách sống đạo của họ cũng nặng phần hình thức.
Đoạn này thuộc về phần III của sách Isaia (các chương 56-66, được gọi là Đệ Tam Isaia), được viết khi dân do thái từ chốn lưu đày đã được trở về quê hương. Tác giả nhắc nhở người ta phải sống đạo có chất lượng, để làm sao cho cuộc sống mình như một ngọn đèn tỏa sáng trước mặt mọi người.
Cách sống như một ngọn đèn tỏa sáng là:
– Lấy của cải mình giúp cho người nghèo đói.
– Đón vào nhà mình những kẻ tứ cố vô thân
– Đem áo cho kẻ trần truồng
– Không khinh bỉ người đồng loại
– Loại khỏi lòng mình những xiềng xích, hăm dọa, nói xấu v.v.
Được như thế thì “Sự sáng của ngươi tỏa rạng như hừng đông”
*2. Đáp ca (Tv 111):
Tv 111 mô tả cách sống của người công chính: một mặt đầy lòng kính mến Chúa, mặt khác hết lòng yêu thương tha nhân. Người công chính được so sánh với ánh sáng xuất hiện trong đêm tối: “Trong u tối, người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay.”
*3. Tin Mừng (Mt 5,13-16): Các con là sự sáng thế gian
Sau khi công bố Tám mối phúc thật (Tin Mừng Chúa nhựt IV vừa qua), Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Ngài ra thi hành. Làm được như thế, họ sẽ trở thành muối ướp mặn cho đời và ánh sáng chiếu soi cho trần gian.
*4. Bài đọc II (1 Cr 2,1-5):
Văn mạch: Tín hữu Côrintô chia rẽ nhau (đoạn được trích đọc Chúa nhựt III), lý do là họ tự cho mình là khôn ngoan hơn người khác. Phaolô bảo rằng cái mà thế gian cho là khôn ngoan thì thực ra chỉ là điên dại trước mặt Chúa, còn cái mà thế gian cho là điên dại lại thì sự khôn ngoan (Chúa nhựt IV)
Trong đoạn được trích đọc hôm nay, Phaolô đưa bản thân mình ra làm gương:
– Về nội dung rao giảng: không giảng về sự khôn ngoan của loài người, mà về sự điên rồ của Thập giá.
– Về cách thức: không dựa vào uy thế của tài hùng biện, không dùng những lời quyến rủ của thế gian, nhưng chân thành đến với tín hữu “trong sự yếu hèn, run rảy và sợ hãi”.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
*1. Hướng chiếu của ánh sáng
Ánh sáng chiếu ra ngoài nó hay chiếu vào trong nó ?
Đương nhiên là chiếu ra. Cây đèn có sức chiếu sáng, nhưng không phải chiếu cho nó mà cho chung quanh nó. Chính Đức Giêsu đã nói: “Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của chúng con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.
Hình ảnh cây đèn rất đơn sơ, nhưng lý giải được rất sâu sắc những bế tắc của đức tin nơi nhiều người môn đệ Chúa: Tại sao đức tin của họ không lớn mạnh lên mà còn nhỏ yếu đi ? Tại sao đức tin ấy như không đủ sức nâng đỡ cuộc sống của họ trong những lúc gian nan, chứ đừng nói chi đến nâng đỡ người khác ? Câu trả lời của cây đèn rất đơn giản mà rõ ràng: tại vì họ là đèn, thế mà chỉ biết quanh quẩn lo chiếu vào trong mình chứ không chiếu ra ngoài.
Nhiều người môn đệ Chúa cứ mãi lo tuân giữ luật Chúa, mãi lo tham dự đầy đủ các ngày lễ, mãi lo những sinh hoạt nội bộ của Giáo Hội… Họ tưởng mình như thế là sống đức tin rồi đấy. Nhưng họ cứ băn khoăn: Tại sao Giáo Hội không phát triển ? Tại sao nội bộ Giáo Hội cứ lục đục hoài ?
Khi so sánh đức tin của người môn đệ với cây đèn và hạt muối, Đức Giêsu đã đưa ra một định hướng rất rõ: đức tin là để tỏa ra, đức tin là phải hướng đến người khác. Nếu không tỏa ra, đức tin sẽ là hạt muối lạt, cây đèn sẽ tắt… Chỉ còn ném bỏ.
Như thế, cách nuôi lớn đức tin là tập quên mình để sống cho người khác, sống vì người khác. Khi các tín hữu, nghĩa là người có đức tin, biết hướng đến người khác thì Giáo Hội sẽ phát triển, những khó khăn nội bộ của Giáo Hội cũng dần dần biến tan.
*2. Sức sáng của tình thương
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy làm ngọn đèn chiếu sáng trước mặt thiên hạ. Còn trong bài đọc I, ngôn sứ Isaia dạy chúng ta cách nào để cho đời mình thành đèn chiếu sáng: cách tiêu cực là không khinh bỉ người khác, loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu… ; cách tích cực là chia cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau khổ được hạnh phúc… Và Isaia bảo đảm: “Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng đông, các vết thương của ngươi sẽ lành mạnh nhanh chóng… ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối, và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.
Chúng ta đã biết mình có bổn phận làm gương sáng. Isaia dạy cho chúng ta biết thêm: không gương sáng nào sáng bằng tình thương ; không việc làm nào chiếu sáng bằng việc yêu thương.
*3. Sứ mạng ướp mặn cuộc đời
Thời nay, những sứ điệp nói có một tầm quan trọng rất lớn (Radio, Tivi, sách báo v.v.) Trong Thánh Lễ, bài giảng rất quan trọng. Những nhà thờ có Cha giảng chán thì giáo dân thưa thớt, ngủ gục, lo ra… Những nhà thờ có Cha giảng hùng hồn, mạch lạc, truyền cảm thì giáo dân đông đúc, sinh động…
Tuy nhiên phẩm chất của lời nói và của người nói càng quan trọng hơn. Đó là kinh nghiệm tâm đắc của Phaolô, vị tông đồ thành công nhất của Giáo Hội: “Lời tôi nói và việc tôi rao giảng không dựa vào những lời quyến rủ của sự khôn ngoan loài người”, “Tôi không cho là tôi biết điều gì khác giữa anh em ngoài Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh”, “Tôi đến với anh em trong sự yếu hèn, sợ hãi và run rẩy”… Xem thế, Thánh Phaolô thành công không phải vì ngài nói hay, mà vì tư cách, phẩm chất và cả con người của Ngài thấm mặn Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh, đến nỗi Ngài có thể nói “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Nhờ đó, khi Ngài đi đến đâu, tiếp xúc với ai thì chất mặn của muối Tin Mừng từ trong Ngài tỏa ra và thấm vào mọi người chung quanh.
*4. “Chúng con là ánh sáng thế gian“
Nên để ý một chút đến văn phạm của câu nói này: Đức Giêsu không khuyến khích “Chúng con hãy là ánh sáng”, mà Ngài khẳng định “Chúng con là ánh sáng”.
Quả thực, chúng ta là ánh sáng, bởi vì khi tạo dựng chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khả năng làm những việc thiện giúp cho người khác:
– Chúng ta có đôi mắt để thấy
– Chúng ta có đôi tai để nghe
– Chúng ta có đôi tay để chăm sóc
– Chúng ta có đôi chân để bước tới
– Chúng ta có lưỡi để nói
– Chúng ta có quả tim để yêu thương
Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta dần lu mờ đi và có khi tắt ngấm.
Xin Chúa giúp chúng ta dám tin vào ánh sáng của mình và vào khả năng làm điều thiện của mình.
*5. Chuyện minh họa
Ngày xưa có một nhà nghiên cứu Thánh Kinh suốt ngày ở trong phòng để tìm hiểu Lời Chúa và cầu nguyện, suy gẫm. Một hôm hay tin có một vị thánh nhân đến thành phố mình, nhà nghiên cứu này hăng hái đi tìm.
Ông tìm ở các nhà thờ lớn mà không gặp. Ông tìm ở các nhà nguyện nhỏ cũng không gặp. Tìm đến các dòng tu cũng không gặp. Cuối cùng đang khi đi ngang chợ thì ông gặp được vị thánh ấy. Ông liền trình bày thao thức của mình, cũng là lý do chính khiến ông muốn gặp vị thánh:
– Xin Ngài chỉ cho con biết làm thế nào để nên thánh.
Vị thánh hỏi lâu nay nhà nghiên cứu đã làm gì. Nhà nghiên cứu cũng thành thật kể rõ mọi việc. Cuối cùng vị thánh đưa ra lời khuyên:
– Làm thánh trong phòng thì dễ thôi. Hãy ra chợ và cố gắng làm thánh ở đó.
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Đức Giêsu đã nói: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Với quyết tâm làm cho Danh Chúa được vinh quang rạng rỡ hơn, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Chúa Giêsu đã để trái tim bị đâm thủng khiến máu cùng nước chảy ra / hầu khơi nguồn bí tích dưỡng nuôi Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh không ngừng được sống nhờ Chúa đã chết và sống lại.
2- Ngày nay / một số sách báo nhảm nhí / không ít những hình băng đồi truỵ / cổ võ bạo lực / khuyến khích những chuyện không tốt / đã làm hư hỏng một số người trẻ / và rất nhiều lần đã dẫn đến phạm pháp nghiêm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bạn trẻ / biết khôn ngoan xa lánh những thứ độc dược giết người ấy / và nỗ lực sống lành mạnh bằng việc đọc những sách báo tốt / cũng như chỉ xem những băng hình bổ ích / và tích cực tham gia vào công tác xã hội.
3- Chúa Giêsu nói / “Anh em là muối cho đời / là ánh sáng cho trần gian” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người kitô hữu biết luôn cố gắng sống theo tinh thần Tám mối phúc thật / để nhờ đó mà trở nên những chứng nhân hữu hiệu của Chúa / trong xã hội họ sang sống.
4- Trách nhiệm của người Kitô hữu là giúp xã hội luôn thăng tiến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dùng khả năng Chúa ban / cũng như đời sống thấm nhuần tình bác ái yêu thương / mà giúp mọi người sống xứng với phẩm giá con người.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thương chọn chúng con giữa muôn người và ban cho được phép làm con Chúa. Xin ban ơn giúp sức để chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
------------------------------------
- CN 5 TN AIn trang nàyLượt xem: 508
Thiếu nhi chúng con yêu quí của cha.
Chúng con vừa nghe lại bài Tin Mừng rất quen thuộc. Ai cho cha biết hôm nay Chúa nói với TN 5-A94
Chúng con vừa nghe lại bài Tin Mừng rất quen thuộc.
Ai cho cha biết hôm nay Chúa nói với chúng ta về vấn đề gì nào ?
- Chúa bảo chúng con là muối cho đời là ánh sáng cho thế gian.
- Rất đúng! Chúng con giỏi, cha khen chúng con.
1. Trước hết chúng ta nói với nhau về muối.
- Chúng con có biết muối để làm gì không ?
- Muối để ướp mặn, để giữ thức ăn khỏi ươn thối, không có muối đồ ăn sẽ mau hư và nhiều khi trở thành thối không còn dừng được nữa. Ngoài ra muối còn để ướp đồ ăn làm cho thức ăn trở thành có hương vị. Chúng con có thấy mấy người bệnh bác sĩ cấm ăn mặn bao giờ chưa ? Họ đã khó chịu như thế nào khi phải ăn lạt. Bản thân chúng con cũng vậy, khi phải ăn những món ăn thiếu đậm đà vì không có muối chúng con có thấy ngon không ?
Đó chúng con thấy muối có vai trò như thế. Bởi vậy khi Chúa “phong cho” chúng ta là muối, Chúa muốn chúng con phải làm gì ?
Là muối thì phải giữ cho thế gian này không bị hư đi, phải làm cho cuộc sống chúng ta đang sống có hương vị đậm đà hơn.
Khi dùng muối làm hình ảnh minh hoạ, chắc chắn Chúa cũng muốn cho chúng ta, các môn đệ của Chúa có những đặc tính của muối. Thử hỏi là Chúa muốn gì ? Thưa,
Chúa muốn chúng ta, các môn đệ của Người hiện diện thật khiêm nhường như những hạt muối bé nhỏ.
Người muốn chúng ta các môn đệ của Người hiến thân mình cho nhân loại như những hạt muối hoà tan trong thực phẩm.
Nhưng để sự hiện diện bé nhỏ khiêm nhường mang yếu tố tích cực, các môn đệ phải giữ được vị mặn của muối. Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng, là tình yêu tha nhân mặn mà, là sống tinh thần Tám Mối Phúc như Chúa đã dạy.
Một hôm Thánh Phanxicô Assisi gọi một tu sĩ trẻ đến và bảo:
- Này, ta đi giảng đạo nhé !
Hai cha con ra đi, sau khi rảo chân khắp phố, thánh nhân bảo thầy kia:
- Nào, ta trở về.
Thầy kia ngạc nhiên hỏi:
- Thưa cha, thế bao giờ cha mới đi giảng ?
- Giảng rồi thầy ạ!
- Lạ, chúng ta đã giảng chi đâu ?
- Này, chúng ta đã giảng bằng sự nghiêm trang tề chỉnh của chúng ta đó.
Người tu cần có tư cách. Cử chỉ, thái độ, cách ăn mặc, đi đứng, nói năng… tự nhiên nhìn vào người ta biết liền. Đạo chính là đời sống gương mẫu của mình, đâu cần phải tuyên truyền, quảng cáo. Nói hay nói khéo. Nói hay nói khéo mà lời nói không đi đôi với việc làm cũng vô ích.
2. Bây giờ cha nói về ánh sáng.
Chúng con có thấy ánh sáng không nào ?
- Có cha ?
- Vậy ánh sáng để làm gì nào ?
Ở một góc thế giới có một gã bóng tối cô đơn, lạnh lẽo ảm đạm, buồn bã. Chợt cũng nơi đó xuất hiện một tia sáng nhỏ còn sót lại. Tuy bé bỏng, nhưng nó là ánh sáng. Có ai đó đã để nó ở đó. Nó chỉ đứng đó và phát sáng.
Bóng tối hỏi tia sáng:
- Ngươi không nghĩ là ngươi sẽ có ích hơn nếu ngươi đứng ở nơi khác chứ không phải ở cái xó xỉnh bị Thiên Chúa bỏ rơi này sao ?
- Tại sao vậy ? Tôi chiếu sáng vì tôi là ánh sáng.
Và vì tôi chiếu sáng, nên tôi là ánh sáng. Tôi không chiếu sáng để người ta thấy tôi. Không. Tôi chiếu sáng bởi vì việc chiếu sáng và ánh sáng đem đến cho tôi niềm vui.
Khỉ bóng tối nghe điều này, nó nghiến răng ken két và đầy khí nộ muốn lùa ánh sáng đi nơi khác. Nhưng gã bóng tối khổng lồ không đủ sức chống lại tia sáng nhỏ bé này.(Willi Hoffsuemmer)
Lần kia, Solovies, một nhà triết học người Nga đến thăm một tu viện, và sau buổi kinh tối, ông đã say sưa đàm đạo với một tu sĩ kéo dài mãi tới đêm khuya. Khi hai người đã mệt mỏi, Solovies mới từ giã vị tu sĩ để đi về phòng mình, nhưng đi được mươi bước Solovies mới chợt tỉnh thấy mình đã đứng giữa hành lang với những cửa dày đóng kín, cửa phòng nào cũng y như nhau. Trong bóng tối dày đặc, triết gia không còn biết làm sao để về phòng mình nữa. Quay chân trở lại ông cũng không còn nhớ chắc phòng vị tu sĩ mình vừa đàm đạo ở đâu.
Đang tiến thoái lưỡng nan, Solovies chợt nhớ lại luật giữ thinh lặng một cách tuyệt đối trong đêm khuya. Vì thế ông không dám gõ cửa bất cứ phòng nào để nhờ một tu sĩ dẫn về phòng mình. Không còn sự chọn lựa nào khác hơn và với ý nghĩ: dầu sao cũng còn vài giờ nữa là trời sẽ sáng. Ông quyết định sẽ nghỉ lại ở hành lang, để giết thời gian, ông đi đi lại lại để suy nghĩ về những tư tưởng ông vừa mới trao đổi với vị tu sĩ. Thật, thức khuya mới biết đêm dài, nhưng cuối cùng vài giờ còn lại của đêm cũng chậm chạp qua đi. Nhờ ánh sáng yếu ớt của hừng đông triết gia nhận ra cửa phòng mình mà trong bóng tối của đêm khuya ông đã đi qua lại bao nhiêu lần không nhận ra. Nhưng rõ ràng hơn, nhờ những tia nắng yếu ớt giúp ông tìm lại phòng mình. Một tư tưởng vừa lóe ra trong trí óc của ông: “Đối với những người đi tìm chân lý cũng thế, suốt cuộc đời họ đi ngang qua nhiều lần cánh cửa của sự thật nhưng mắt họ như bị màn đêm che kín nên họ không nhận ra cho đến khi một tia nắng yếu ớt của mặt trời giúp họ nhận ra”.
Người Mẹ là ngọn lửa, con cái là ánh sáng. Nhìn sức sáng của ánh sáng, biết được sức mạnh của ngọn lửa. (Đ.Hồng Y.Mindszenty)
Ngày nọ, một người Tin Lành vào thăm nhà thương Hôtel Dieu ở Paris. Thời đó, người ta còn giao cho các nữ tu dòng Vinh Sơn chăm sóc các bệnh nhân. Giữa hàng ngàn bệnh nhân được chăm sóc trong nhà thương này, có một người tàn tật cực kỳ. Hầu như bị cuồng trí và cùng cực ngay từ nhỏ, anh nằm co rút như là một con sâu hơn là một con người. Anh nằm bất động, không tay không chân và mỗi khi có ai đến là anh ta la hét dễ sợ. Sự khổ đau và các cơn điên loạn đã làm anh dễ giận dữ. Hình dạng của anh làm người khách Tin Lành kinh sợ. Tuy nhiên, sự ngạc nhiên của ông trở thành sự thán phục khi thấy một nữ tu dòng Vinh Sơn quỳ cạnh “cục bột” này và săn sóc kẻ bất hạnh với tất cả tấm lòng ân cần của một người mẹ.
- Thưa Soeur, người khách Tin Lành này hỏi, làm sao Soeur có thể sống gần người tàn tật đáng ghê tởm này với sự thanh thoát như thế ?
- Đây là đứa con được nuông chiều nhất của nhà này, thưa ông -Bà Soeur trả lời- Chính vì tình trạng đáng thương của anh mà chúng tôi thương anh hơn các bệnh nhân khác. Chúng tôi làm dịu cơn phẫn nộ của anh bằng cách cầu nguyện và ca hát. Chúng tôi còn dạy cho anh ta cả việc cầu nguyện và cả ngày lẫn đêm không để cho anh làm việc một mình.
Không bao lâu sau đó, người Tin Lành này theo đạo Công Giáo.
Ánh sáng đã có tác dụng rồi đó chúng con.
Chúng con nghe tiếp một câu chuyện nhỏ nữa nhé:
Cách đây không lâu một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều dèm pha, đay nghiến từ người chồng do việc bà trở lại đạo. Có lần Cha xứ hỏi bà:
- Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì ?
Bà đáp:
- Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn. Khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn. Khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng chứng tỏ cho ông thấy khi con trở lại đạo, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn.
Một thời gian sau, ông xin trở lại đạo công giáo, không phải vì lời giảng của Cha xứ, nhưng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.
Cha chúc chúng con trở thành ánh sáng cho mọi người.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
------------------------------------
- Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Mt 5,13-16
Đức Giêsu nói những lời trong bài Tin Mừng này cho ai? Ngài so sánh các môn đệ với những điều TN 5-A95
Đức Giêsu nói những lời trong bài Tin Mừng này cho ai? Ngài so sánh các môn đệ với những điều gì? Những điều này có gì giống nhau?
Theo bạn, đâu là những công dụng quan trọng của muối?
Đọc Mt 5,13. Tại sao muối nhạt lại bị quăng đi?
Trong Kinh Thánh, ai thường được coi là ánh sáng? Đọc Tv 18,12; 1 Gioan 1,5; Ga 1,9; 8,12; 9,5; 12,46; Isaia 42,6; Mt 5,14; Phi-líp-phê 2,15. Nhờ đâu mà người môn đệ được coi là ánh sáng?
Đức Giêsu đã “định nghĩa” kitô hữu là “muối của trái đất” và là “ánh sáng cho thế giới”. Hai định nghĩa trên có gì đặc biệt?
Đọc Mt 5,14. “Một thành phố xây trên núi không tài nào che dấu được.” Theo bạn, thành phố này tượng trưng cho ai?
Đọc Mt 5,15. Bạn nghĩ có ai giấu đèn sáng dưới cái thùng không? Bởi đâu có người Kitô hữu giấu đèn sáng dưới cái thùng?
Đọc Mt 5,16. Để cho ánh sáng nơi mình bừng tỏa có phải là kiêu ngạo không? Tại sao? So sánh với Mt 6,1.
CÂU HỎI SUY NIỆM:
Thế gian có thể làm người môn đệ của Chúa Giêsu nên “nhạt” không? Một người bị “nhạt” có thể “mặn”lại được không? Bằng cách nào để “mặn” lại được?
PHẦN TRẢ LỜI
Bài Tin Mừng này nằm ngay sau Tám Mối Phúc (Mt 5,1-12). Đức Giêsu nói những lời này chủ yếu với các môn đệ của Ngài, nhưng có thể Ngài cũng muốn nói với cả đám đông tin vào Ngài nữa (Mt 5,1-2). Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu dùng nhiều hình ảnh để diễn tả khuôn mặt của người môn đệ: muối, ánh sáng, một thành phố, một ngọn đèn. Khi coi các môn đệ như “muối của trái đất” và “ánh sáng của thế gian”, Đức Giêsu cho thấy ảnh hưởng của họ phải lan tỏa không những trong phạm vi nước Ítraen, mà còn trên toàn thế giới (Mt 28,19).
Sách Huấn ca đã coi muối là một trong những điều “cần thiết cho cuộc sống con người” (Hc 39,26). Muối có nhiều chức năng: bảo quản thức ăn (Tôbia 6,6), dùng làm gia vị, hay tẩy sạch (2 Vua 2,19-22). Ngoài ra muối còn được dùng để “bỏ vào mọi lễ phẩm dâng tiến” (Lêvi 2,13).
Khi nói các môn đệ là muối, Đức Giêsu đã dùng một ẩn dụ (metaphor). Ngài muốn các môn đệ có những phẩm chất tốt của muối: “Muối là cái gì tốt…Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em, và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9,50). Thánh Phaolô cũng khuyên lời nói của người tín hữu nên dễ thương và “được nêm bằng muối” (Côlôsê 4,6) cho mặn mà.
Theo Đức Giêsu, vì một lý do nào đó, muối không còn vị mặn nữa, thì chỉ nên “quăng nó ra ngoài cho người ta chà đạp” (Mt 5,13). Thật ra không nên gọi muối nhạt là muối, vì nó đã đánh mất chính bản chất của mình, đó là vị mặn. Nó chỉ là muối khi còn giữ được vị mặn. Chẳng ai đi mua muối tốt để ướp muối nhạt bao giờ. Muối nhạt hoàn toàn vô dụng, chỉ nên quăng đi.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa được coi là ánh sáng (Tv 18,12; 1 Gioan 1,5). Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu Kitô được coi là ánh sáng soi thế gian (Ga 1,9; 8,12; 9,5; 12,46). Và cả người tín hữu cũng được coi là ánh sáng (Isaia 42,6; Mt 5,14; Philípphê 2,15). Thật ra, người tín hữu không phải là nguồn sáng tự phát. Họ là ánh sáng vì họ được hưởng ánh sáng của Chúa và nhờ đó tỏa sáng cho cả trần gian, cho thế giới loài người.
Khi định nghĩa kitô hữu bằng hai hình ảnh “muối cho trái đất” và “ánh sáng cho thế giới”, Đức Giêsu cho thấy người kitô hữu không hề tách biệt khỏi trái đất này và thế giới này. Họ được sai đến đó để sống và để phục vụ cho trái đất, cho thế giới. Thế giới “nhạt và tối” này vẫn cần đến người môn đệ Chúa Kitô. Họ là người cho nó vị mặn mà, bảo quản nó khỏi hư hỏng và soi sáng nó trong bóng đêm. Đó là sứ mạng của họ. Để chu toàn sứ mạng được giao, họ không được phép để cho thế gian làm mình thành muối nhạt, để cho đèn tắt ngúm vì hết dầu, hay che giấu căn tính kitô hữu của mình.
Đức Giêsu lại dùng một hình ảnh khác để diễn tả ơn gọi của người môn đệ. Đó là hình ảnh một thành phố được xây trên một ngọn núi (Mt 5,14b). Vì núi cao, nên ai cũng thấy thành phố này, nhất là vào ban đêm khi đèn được thắp lên. Không thể nào che giấu một thành phố như thế được. Tương tự như thế, các kitô hữu cũng không thể nào che giấu cuộc sống của họ. Họ được mời gọi để chiếu sáng như một thành phố trên núi, nếu không, họ sẽ đánh mất chính bản chất của họ như muối trở nên nhạt.
Đức Giêsu còn ví người môn đệ với ngọn đèn dầu được người ta thắp sáng (Mt 5,15). Không ai đặt ngọn đèn sáng dưới cái đấu để đong (dung tích khoảng 9 lít), nhưng đặt trên đế cao để soi sáng mọi người trong nhà. Qua câu này, Đức Giêsu vừa cho thấy các môn đệ là ánh sáng, vừa đòi hỏi họ không được che giấu ánh sáng như đã nói ở câu Mt 5,14-15b. Vẫn có những tín hữu che giấu ánh sáng của mình vì hiểu sai đức khiêm tốn hay vì sợ gặp rắc rối khi dấn thân. Đọc Mt 25,14-30.
Đức Giêsu đòi các môn đệ phải để cho ánh sáng của họ chiếu tỏa trước mặt thiên hạ (Mt 5,16). Câu này có vẻ trái ngược với một câu khác của Đức Giêsu: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy” (Mt 6,1). Thật ra, không có sự mâu thuẫn giữa hai câu nói của Đức Giêsu. Một đằng là làm điều tốt với chủ đích là phô trương cho người ta thấy, để tìm kiếm tiếng khen cho mình nơi người đời. Một đằng là không che giấu“những công việc tốt đẹp” mình làm, để cho người ta thấy mà “tôn vinh Cha trên trời”. Hữu xạ tự nhiên hương, cuộc sống của người kitô hữu không cần màu mè giả tạo, nhưng lôi cuốn bằng chính sự mặn mà của mình, bằng chính sự tỏa sáng của cuộc sống tốt lành. Đó là cuộc sống không tìm mình, không quy về mình, nhưng quy về vinh quang Thiên Chúa.
------------------------------------
Trầm Thiên Thu
Ca dao Việt Nam ví von: “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Một TN 5-A96
Ca dao Việt Nam ví von: “Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Một cách so sánh giản dị nhưng thú vị và thâm thúy, cho thấy muối rất cần thiết cho con người.
Thật vậy, muối là loại khoáng chất bình thường nhưng thực ra muối lại đa dụng, có vị trí quan trọng trong đời sống, vì hằng ngày chúng ta sử dụng muối không chỉ để chế biến đồ ăn mà còn làm nhiều việc khác. Màu sắc của muối cũng rất đặc biệt: Trắng. Màu trắng nhắc nhở về sự trong sạch, trong trắng, tinh tuyền.
Muối không chỉ được dùng để bảo quản thực phẩm còn có khả năng diệt khuẩn, làm sạch vết thương, tẩy sạch vết bẩn, trị bệnh,… Khi người ta khóc, chất muối trong nước mắt giúp làm sáng mắt. Muối rất tốt, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Cuộc đời chúng ta không thể sống thiếu muối. Những người nghèo không có cao lương mỹ vị, chỉ cần chút muối cũng có thể giúp dễ nuốt miếng cơm. Ngày xưa, người nghèo phải đi xin nước muối cà để về ăn cơm, nghĩa là chỉ cần chút chất mặn để ráng nuốt miếng cơm để giữ sự sống. Thật bất ngờ khi Viện Nghiên Cứu Muối (Salt Institute) cho biết có khoảng 14.000 cách sử dụng muối.
Chất mặn của đời thường thực sự cần thiết lắm, chất mặn của đời sống tinh thần càng cần hơn nhiều. Ngôn sứ Isaia đặt vấn đề: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?” (Is 58:6-7). Đó là “chất mặn” của Công Lý và Chân Lý. Không có loại “chất mặn” này thì xã hội sẽ đảo lộn, rối tung.
Khi có “chất măn” đó thì “ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành, đức công chính sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau” (Is 58:8). Thật là kỳ diệu quá! Và ngôn sứ Isaia cho biết: “Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!’. Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ” (Is 58:9-10).
Cũng theo chiều hướng đó, tác giả Thánh Vịnh nói: “Giữa tối tăm bừng lên một ánh sáng chiếu rọi kẻ ngay lành: đó là người từ bi nhân hậu và công chính. Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn, biết theo lẽ phải mà thu xếp công việc mình” (Tv 112:4-5). Và rồi hệ lụy hiển nhiên sẽ xảy ra: “Họ sẽ không bao giờ lay chuyển, thiên hạ muôn đời còn tưởng nhớ chính nhân. Họ không lo phải nghe tin dữ, hằng an tâm và tin cậy Chúa, luôn vững lòng không sợ hãi chi và rốt cuộc coi khinh lũ địch thù. Kẻ túng nghèo, họ rộng tay làm phúc, đức công chính của họ tồn tại muôn đời, uy thế họ vươn cao rực rỡ” (Tv 112:6-9).
Người Việt cũng có cách nói tương tự: “Ở hiền gặp lành”. Cái “sự lành” ở đây mang ý nghĩa tâm linh hoặc tinh thần nhiều hơn ý nghĩa đời thường, vì có những người hiền lành, đạo đức, nhưng vẫn gặp nghịch cảnh – điển hình là Thánh Gióp.
Thánh Phaolô nói thật lòng thế này: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa” (1 Cr 2:1). Chắc chắn không gì có thể hơn sự thật, chính Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Sự thật sẽ giải phóng quý vị (Ga 8:32). Vì thế, chúng ta sẽ hóa thành ma quỷ nếu chúng ta không đứng về phía sự thật (x. Ga 8:44).
Thánh Phaolô giải thích: “Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy” (1 Cr 2:2-3). Có lẽ ai cũng vậy, có những lúc chúng ta cảm thấy ngại nói về Chúa vì sợ người ta nói mình “thế này, thế nọ” mà… bày đặt. Nỗi sợ có lúc tốt, có lúc không tốt. Hãy cứ thật thà và thẳng thắn như Thánh Phaolô: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa” (1 Cr 2:4-5). Rất rõ ràng, chính xác và chí lý! Chắc hẳn Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối và nhát đảm nên Ngài đã nhiều lần động viên chúng ta: “ĐỪNG SỢ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20).
Sau khi đọc bản Đệ Nhất Tuyên Ngôn (Bát Phúc, Tám Mối Phúc, Hiến Chương Nước Trời, Bài Giảng Trên Núi), Chúa Giêsu nói thêm: “Chính anh em là MUỐI cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5:13). Vâng, Ngài luôn rất thẳng thắn, bởi vì Ngài chính là Sự Thật (Ga 14:6), và Ngài đến thế gian để làm chứng cho Sự Thật (Ga 18:37).
Sự thật liên quan sự sáng. Chúa Giêsu là Sự Sáng của nhân loại (Ga 1:4), là Ánh Sáng thật (Ga 1:9; Ga 8:12; Ga 9:5; Ga 12:46), thế nên Ngài cũng muốn chúng ta phải trở nên ánh sáng. Ngài so sánh rất thực tế và dễ hiểu: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:14-16).
Một lần khác, Chúa Giêsu cũng nhắc tới muối, Ngài đã phân tích và căn dặn: “Ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối. Muối là cái gì tốt. Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em, và sống hoà thuận với nhau” (Mc 9:49-50).
Muối rất tốt, đa dụng, cần thiết. Nhưng muối đó phải có độ mặn thì mới đúng là muối và khả dĩ hữu dụng.
Lạy Thiên Chúa, xin biến đổi chúng con thành Muối Mặn và Ánh Sáng theo đúng Tôn Ý Ngài. Xin gìn giữ chúng con duy trì được “độ mặn” cần thiết để sinh ích lợi cho tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
------------------------------------
Tin mừng Mt 5: 13 – 16
Lobsang Rampa là một thiền sư Tây Tạng nổi tiếng trên thế giới với tác phẩm “con mắt thứ ba TN 5-A97
Lobsang Rampa là một thiền sư Tây Tạng nổi tiếng trên thế giới với tác phẩm “con mắt thứ ba” (Le troisème oeil). Viện văn hóa nghệ thuật Việt Nam đã dịch nó thành “Các Lạt Ma hóa thân”. Ở trang 11-12 (Bản Việt ngữ) viết rằng:
“Theo khoa học huyền môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, một áo khoác bên ngoài của một linh hồn hay “Chân Ngã”… quanh con người có một vầng hào quang thô thiển phản ánh nguồn sinh lực bên trong.
Một người thánh thiện hay khỏe mạnh thì hào quang sáng rõ, vươn ra cách thể xác vài phân. Một người tội lỗi hay yếu đuối thì hào quang mờ tối, thu sát vào thân xác.
Khai mở Thần nhãn để quan sát vầng hào quang này, ta có thể biết được chân tướng mọi người mọi vật hay tình trạng sức khỏe của một người để chữa bệnh.
Lobsang Rampa kể tiếp: đúng thời kỳ sinh nhật thứ 9 của ông, ông được đưa vào một căn phòng đặc biệt. Bốn vị Lạt Ma Trưởng Lão trong đó có sư phụ ông cũng đến đó truyền dạy cho ông những phép bí truyền để khai mở Thần Nhãn…
Sau 9 tháng công phu luyện tập, ông đã thành công…lần đầu tiên ông mở mắt ra quan sát chung quanh, một kinh nghiệm lạ lùng xẩy ra khiến ông xúc động. Ông thấy có bốn vị Lạt Ma Trưởng Lão đều được bao phủ quanh mình bởi một hào quang chói lọi như ánh lửa. Về sau ông hiểu rằng các vị Trưởng Lão có một đời sống rất tinh khiết mới có được hào quang như vậy.
Khi ông khai mở Thần Nhãn, ông phát hiện những rung động khác nữa, xuất phát từ cái trung tâm hào quang đó. Nhờ đó ông có thể đoán biết tình trạng sức khỏe của một người ra sao. Cũng như thế, bằng cách xem sự thay đổi mầu sắc của hào quang, ông có thể đoán biết kẻ đó nói dối hay nói thật.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: các con là ánh sáng trần gian…sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
Các con là ánh sáng trần gian. “Theo khoa học huyền môn, thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, một áo khoác bên ngoài của một linh hồn. Quanh con người có một vầng hào quang phản ánh nguồn sinh lực bên trong.
Một người thánh thiện thì hào quang sáng rõ, vươn ra cách thể xác vài phân.
Sau 9 tháng luyện tập, Lobsang Rampa thấy có bốn vị Lạt Ma Trưởng Lão đều được bao phủ quanh mình bởi một hào quang chói lọi như ánh lửa. Và ông nói rằng các vị Trưởng Lão có một đời sống rất tinh khiết nên mới có được hào quang tỏa sáng như vậy. Điều này cho thấy, nếu chúng ta sống thánh thiện, thì chính con người chúng ta sẽ tỏa sáng. Có lẽ chính vì thế mà chúng ta thấy trong hình các thánh nhân thường có hào quang tỏa sáng trên đầu. Tuy nhiên, nếu chúng ta chưa tu luyện được như các thiền sư hay các thánh, thì chúng ta có thể tỏa sáng bằng chính những công việc tốt lành của chúng ta.
Một hôm thánh Phanxicô Assisi gọi một thầy dòng lên dặn:
- Con lo sửa soạn chiều nay chúng ta phải đi giảng.
Đến giờ phải đi, hai cha con ra khỏi nhà đi một vòng quanh thành phố rồi trở về nhà. Thầy dòng lấy làm lạ hỏi:
- Cha bảo cha đi giảng, sao chưa giảng mà cha đã về ?
Thánh Phanxicô nghiêm trang đáp:
- Như vậy đã là giảng rồi đó.
Thánh Phanxicô có ý nói: đi một vòng nghiêm trang nết na cho người ta thấy,
đó cũng là một bài giảng, bài giảng bằng gương sáng.
Gương sáng là một cách thuyết phục và thánh hóa người khác mau lẹ nhất .
Chính vì vậy Chúa bảo chúng ta: các con là ánh sáng trần gian. Các con hãy là chứng nhân của Thầy.
Là ánh sáng tức là làm chứng nhân của Chúa. Làm chứng bằng chính cuộc sống của mình, nhưng nhiều khi chúng ta vô tình hay hữu ý đã trở thành phản chứng, làm méo mó khuôn mặt của Đức Kitô, khiến người ta không nhận ra Chúa, khiến người ta không muốn theo Chúa.
Ta hãy nghe Mahatma Gandhi – được Ấn Độ xem như là một vị thánh trong Ấn Độ giáo – nói về cách sống đạo của những Kitô hữu trong xã hội của ông. Ông đã lên tiếng, có vẻ như thách thức người Kitô hữu: nếu những người Kitô hữu ở Ấn Độ thật sự sống đúng tinh thần của Đức Kitô, thì họ chẳng cần mất công rao giảng, toàn Ấn Độ sẽ trở thành Kitô hữu hết.
Lạy Chúa xin cho chúng con suy gẫm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay: các con là ánh sáng trần gian…sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời. Amen
Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
------------------------------------
Hiến chương Nước Trời được Chúa Giêsu công bố trong Tin mừng Chúa nhật vừa qua. Tiếp theo TN 5-A98
Hiến chương Nước Trời được Chúa Giêsu công bố trong Tin mừng Chúa nhật vừa qua. Tiếp theo bài giảng trên núi, Chúa Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ: “Anh em là muối cho đời… anh em là ánh sáng thế gian”.
Hiến chương Nước Trời được Chúa Giêsu công bố trong Tin mừng Chúa nhật vừa qua. Tiếp theo bài giảng trên núi, Chúa Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ:
“Anh em là muối cho đời… anh em là ánh sáng thế gian”.
“Anh em là muối cho đời”, một định nghĩa tuyệt vời về Kitô hữu.
“Anh em là ánh sáng cho trần gian”, một định nghĩa quá cao trọng về Kitô hữu.
Muối
Một chàng trai trẻ đến xin học một ông giáo già. Anh ta lúc nào cũng bi quan và phàn nàn về mọi khó khăn. Đối với anh, cuộc sống chỉ có những nỗi buồn, vì thế học tập cũng chẳng hứng thú gì hơn.
Một lần khi chàng trai than phiền về việc mình học mãi mà không tiến bộ, người thầy im lặng lắng nghe rồi đưa cho anh một thìa muối thật đầy và một cốc nước nhỏ.
– Con cho thìa muối này vào cốc nước và uống thử đi.
Lập tức chàng trai làm theo rồi uống thử.
– Cốc nước mặn chát. Chàng trai trả lời.
Người thầy lại dẫn anh ra một hồ nước gần đó và đổ một thìa muối đầy xuống nước. Bây giờ con hãy nếm thử nước trong hồ đi.
– Nước trong hồ vẫn vậy thôi, thưa thầy. Nó chẳng hề mặn lên chút nào. Chàng trai nói khi múc một ít nước dưới hồ và nếm thử.
Người thầy chậm rãi nói: “Con của ta, ai cũng có lúc gặp khó khăn trong cuộc sống. Và những khó khăn đó giống như thìa muối này đi. Mỗi người sẽ hoà tan nó theo một cách khác nhau. Những người có tâm hồn rộng mở giống như một hồ nước thì nỗi buồn không làm họ mất đi niềm vui và sự yêu đời. Nhưng với những người tâm hồn chỉ nhỏ như một cốc nước họ sẽ tự biến cuộc sống của mình trở thành đắng chát và chẳng bao giờ học được điều gì có ích”.
Ánh Sáng
Sau một thời gian dài học hỏi và tu luyện, người học trò mới cất tiếng hỏi thầy mình:
– Thưa thầy, đâu là sự khác biệt giữa kiến thức và giác ngộ?
Thầy mỉm cười và ôn tồn giải thích:
– Khi có kiến thức, giống như con có “ánh sáng” soi đường con đi. Nhưng khi con giác ngộ, chính con sẽ trở thành “ánh sáng” soi đường cho người khác.
Muối và Ánh Sáng
“Chính anh em là muối cho đời”.
Muối là một sản phẩm không thể thiếu trong đời sống con người. Muối vừa làm phân bón cho đất đai màu mỡ; vừa làm gia vị cho các món ăn thêm thơm ngon đậm đà; vừa bảo quản thực phẩm cho khỏi hư thối. Khi muối muốn ướp cho “mặn đời”, muối phải biết chấp nhận hòa tan để hiến dâng cho đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại, của yêu thương và tha thứ. Mọi tín hữu đều có sứ vụ nên như muối ướp mặn vùng dân cư chung quanh.Nếu muối là chất gia tăng hương vị cho thực phẩm hằng ngày, thì mọi tín hữu bằng gương sáng tin cậy mến cũng phải làm gia tăng phẩm chất đời sống xã hội qua tình bác ái yêu thương, mối quan tâm giúp đỡ những người lân cận. Nhất cận lân nhì cận thân.
Vào thời Chúa Giêsu, muối tượng trưng cho tính hiếu khách. Khách đến nhà thường được tặng bánh mì và muối, biểu hiệu sự tiếp đón nồng hậu.
Ngày xưa, khi chưa khám phá ra phân bón hóa học, người ta dùng muối để làm đất đai thêm phì phiêu. Khi chưa có tủ lạnh, muối còn được dùng để ướp cá, thịt và thức ăn, cất giữ được lâu ngày hơn. Chúa Giêsu sai các môn đệ đến trong thế gian như người ta nêm muối vào thức ăn để thêm hương vị và giữ được lâu. Vị mặn của muối là yếu tố quan trọng. Mặn thuộc về bản chất của muối.Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng. Vị mặn là tình yêu tha nhân mặn mà. Yêu Chúa mặn nồng, yêu tha nhân mặn mà, đời sống Kitô hữu sẽ ướp hương vị tình yêu mặn mòi cho cuộc đời.
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.
Đây là một định nghĩa quá cao trọng về Kitô hữu, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga1,5). Chỉ Ðức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga 8,12). Muốn trở thành ánh sáng như Đức Giêsu, chúng ta phải ở gần Ngài: gần đèn thì sáng.
“Anh em là ánh sáng thế gian”, đây còn là lời mời gọi truyền giáo, qua đời sống, qua lời nói và hành động, Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần bước trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.
“Anh em là sự sáng thế gian”, sự sáng này không phải do chúng ta tạo nên, nhưng phát xuất từ Chúa Kitô: “Ta là sự sáng thế gian” (Ga 8,12). Chúa Giêsu muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài, cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó, ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: “Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.
Muối đất, sự sáng thế gian: hai hình ảnh cùng diễn tả một lời mời gọi. Tiên tri Isaia, trong Bài đọc 1 đưa ra những phương cách để giữ muối khỏi “lạt” và ngọn đèn luôn chiếu sáng. Đó là sống bác ái, chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc… Khi ấy, “ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.
Có lẽ nhiều người sẽ tự nhủ: làm sao mình có khả năng và xứng đáng làm muối đất và sự sáng cho mọi người? Nắm muối gồm những hạt muối nhỏ dồn lại, đèn sáng được nhờ những giọt dầu góp lại. Những hạt muối nhỏ đó, những giọt dầu đó là những việc bé nhỏ mà chúng ta thực hiện trong đời sống hằng ngày: những nụ cười, lời nói lịch thiệp, những cử chỉ bác ái khiêm nhường, thái độ biết lắng nghe, sống tha thứ biết nghĩ đến người khác…
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến chứng từ muối đất và ánh sáng trần gian của Kitô hữu. Nếu chúng ta thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương thì chính đời sống, việc làm, việc bác ái sẽ mang lại hương vị cuộc đời, hương thơm cho mọi người, chiếu tỏa ánh sáng giúp nhiều người đến với Chúa là “nguồn ánh sáng và ơn cứu độ” (Tv 2,1). Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để rồi chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là muối thêm hương vị đức ái cho đời, là những ánh sáng đức tin soi đường truyền giáo.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
------------------------------------
Lời Chúa: Mt 5, 13-16
Tung hô Tin Mừng: Ga 8, 12
Haleluia. Haleluia. Chúa nói: Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống. Haleluia.
PHÚC ÂM: Mt 5, 13-16
"Chính anh em là ánh sáng cho trần gian."
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
13 Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.”
14 “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15__Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. 16 Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”
Đó là lời Chúa.
NHỮNG CÂU HỎI GIÚP MỌI NGƯỜI DỄ HIỂU BÀI TIN MỪNG
Luật sống mà Chúa Giêsu muốn các Môn Đệ tuân theo là gì ? 2. Công dụng của muối để làm TN 5-A99
1. Luật sống mà Chúa Giêsu muốn các Môn Đệ tuân theo là gì ?
2. Công dụng của muối để làm gì ?
3. Muối theo nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nói đó là gì ?
4. Tạo sao muối vô tác dụng ?
5. Ông Gandhi đã nói gì ?
6. Chúa Giêsu ví mình là thứ gì ?
7. Mỗi Ki-tô hữu là một cây đèn dùng làm gì ?
8. Chúa Giêsu đã bảo gì ?
9. Tại sao anh em là ánh sáng ?
10. Thế giới hôm nay đang sáng loại đèn nào ?
11. Vì tôi là muối nhạt lại trở nên vô vị ?
12. Một Ki-tô hữu rụt rè là gì ?
13. Mỗi người chúng ta phải là gì ?
14. Bóng tối thế gian là gì ?
15. Mỗi người chúng ta cần làm gì ?
16. Thế gian nhận định thế nào ?
17. Hạt muối thì như thế nào ?
18. Công dụng của muối là gì ?
19. Nơi nào cần muối ?
20. Chúa muốn dạy các môn đệ điều gì ?
21. muối được sánh ví với thứ gì
22. Làm sao thấy được đức tin ?
23. Cái đèn cần để ở nơi nào ?
24. Ki-tô hữu như thứ gì ?
25. Bổn phận của người Ki-tô hữu là gì ?
26. Báo chí đã hỏi điều gì ?
27. Tiên tri Isaia đã nói thế nào ?
28.Người công giáo đang sống thế nào ?
29. Hôm nay người nghèo đang nghĩ gì ?
30. Chúng ta cần hành xử thế nào ?
31. Chúng ta nên hành động như thế nào ?
32. Có cách nào xua tan bóng tối ?
33. Mỗi người cần làm gì ?
=> Hãy tìm câu trả lời từ bài “Tóm ý”.
Bài 1: CÔNG DỤNG CỦA MUỐI VÀ ĐÈN
1/Luật sống mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ tuân theo là gì? Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ phải trở nên muối ướp và đèn soi / Đây là hai hình ảnh cụ thể mà Chúa muốn phát họa một luật sống ,đòi các môn đệ phải tuân theo, khi Chúa muốn gởi họ đi vào đời.
2/Công dụng của muối đối với người Do Thái: Muối là một thứ gia vị thường dùng trong việc nấu nướng / Người Do Thái còn dùng muối để làm phân bón / vì thế cho nên Chúa Giêsu nói: “Các con là muối đất” / Kinh Thánh có nhắc nhiều lần đến muối, từ chuyện vợ ông Lót biến thành tượng muối / đến chút muối mà Thánh Phaolô căn dặn nên đặt vào lời ăn tiếng nói sao cho có hương vị khi phải giao tiếp với anh em!
3/Muối theo nghĩa Chúa Giêsu muốn nói là gì? “Các con là muối”, có nghĩa là các con hãy sống đạo đức, thực thi những điều Chúa dạy để thánh hóa bản thân / nêu gương sáng cho người khác, hâm nóng những cõi lòng đã nguội lạnh / Nếu chúng ta không sống Lời Chúa cho trọn vẹn, thì chúng ta chẳng khác nào muối đã bị nhạt, không còn lợi ích gì, chỉ đáng đem đổ ra đường cho kẻ khác chà đạp / Ngày xưa người Do Thái đổ cả rác ra đường cho người khác qua lại dẫm lên.
4/Ông Gandhi đã nói gì khiến chúng ta phải suy nghĩ? Người ta hỏi nhà ái quốc của Ấn Độ: trước thảm họa nguyên tử, ông sẽ làm gì? – Tôi sẽ cầu nguyện / - Thế sao ông không theo đạo Công giáo? – Phúc Âm của Chúa thì rất đúng và rất tốt lành / nhưng người Công giáo không sống Phúc Âm, nên họ chẳng có gì hơn chúng tôi! Câu trả lời này khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều!
5/Chúa Giêsu ví mình là thứ gì? Nhiều lần Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không đi trong đêm tối, nhưng sẽ có ánh sáng đời đời / Hôm nay Chúa dạy các môn đệ phải bắt chước Ngài để trở nên ánh sáng thế gian / Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng sẽ đặt nó trên giá, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà.
6/Mỗi người Kitô hữu chúng ta là gì? Chúng ta phải là đèn soi cho kẻ khác bằng lời nói, bằng việc làm và bằng gương sáng / Nếu Phúc Âm không được rao giảng thì người ta sẽ quên nó.
7/Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên thứ gì? Mỗi người chúng ta phải là cây đèn, chúng ta phải thắp lên cây đèn nhỏ của mình thì không những nhà riêng của chúng ta, mà cả thế giới sẽ được soi sáng / Sự sáng của các con sẽ chiếu soi trước mặt thiên hạ và mọi người sẽ nhìn đó mà ngợi khen Thiên Chúa.
8/Công dụng của muối: Anh em là muối cho đời / Đây là một định nghĩa tuyệt vời về người Kitô hữu / Kitô hữu gắn liền cuộc đời mình với mọi người, như muối thấm vào thức ăn, giữ cho thức ăn khỏi hư và mùi vị thêm đậm đà / Vị mặn của muối là yếu tố rất quan trọng / bản chất của muối là mặn / muối ra nhạt thì không thể gọi là muối vì chẳng còn ướp được gì nữa / Khi muối đã đánh mất bản chất của mình / nó sẽ trở nên hoàn toàn vô dụng.
9/Gần đèn thì sáng nghĩa là gì? Anh em là ánh sáng cho trần gian / nghe định nghĩa này thì quá kinh khủng, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới là ánh sáng (1 Yn 1, 5) / Cũng chỉ có Chúa Giêsu mới dám nhận mình là ánh sáng (Yn 8, 12) / Anh em là ánh sáng vì anh em gần Thầy => gần đèn thì sáng/ chúng ta phản chiếu ánh sáng của Chúa .
10/Hãy đánh giá về thế giới hôm nay: Thế giới hôm nay quá tiến bộ về khoa học kỹ thuật / nhưng lại là một thế giới nhạt nhẽo, mất hết ý nghĩa / một thế giới tối tăm, vẩn đục / Chúng ta hay phàn nàn về sự xuống cấp, sự suy đồi của xã hội / nhưng người Kitô hữu lại không chịu nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước thực trạng đó.
11/Muối và đèn có ý nghĩa gì với thế giới hôm nay? Vì tôi là muối nhạt nên thế giới này mới vô vị / Vì tôi là đèn hết dầu nên thế giới mới có nhiều bóng tối / Thế giới sẽ mang bộ mặt mới nếu tôi sống đúng lời chỉ dạy của Đức Giêsu / Khi hòa mình với đời, đừng trở thành thứ muối nhạt / đừng trở thành ngọn đèn hết dầu / Chúng ta cần ướp lại vị mặn của Chúa Giêsu / ngọn đèn cần được rót đầy thứ dầu của Ngài.
12/Một Kitô hữu rụt rè là gì? Chúng ta phải trở lại sống với Đức Kitô, đừng đánh mất bản chất Kitô hữu của mình / Chúa bảo: anh em ở trong thế gian nhưng lại không thuộc về thế gian này / Vẫn còn có quá nhiều Kitô hữu dư khả năng nhưng lại quá rụt rè / chỉ dám đặt đèn của mình dưới đáy thùng / Họ không dám dấn thân vào đời vì sợ gặp nguy hiểm, sợ tốn kém, vì thiếu tự tin do không có bản lãnh / Họ đã hiểu sai chữ khiêm tốn và chữ rụt rè.
13/Tại sao người Kitô hữu phải tỏa sáng? Cần có nhiều người Kitô hữu là văn nghệ sĩ, làm nhà nghiên cứu, viết kịch, quay phim, làm băng video / Cuộc sống chúng ta phải tỏa sáng, phải làm bao điều tốt đẹp / để mọi người nhận ra Thiên Chúa là nguồn chân lý, là ánh sáng và luôn miệng cất tiếng ngợi ca, tôn vinh.
14/Một lời tạ ơn: Tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng từ nhiều nguồn năng lượng trên trái đất / Xin cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng / Xin cho chúng con giữ được lửa Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những ơn soi sáng của Chúa qua từng giây phút của đời sống.
15/Một lời cầu xin: Lạy Chúa, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con / Xin cho chúng con đừng chỉ chuyên lo nguyền rủa bóng tối / nhưng hãy can đảm thắp lên ngọn lửa đốt cháy lòng mình, để cả trái đất sẽ ngập tràn ánh sáng của Chúa.
Bài 2: NGƯỜI KITÔ HỮU SO VỚI MUỐI VÀ ÁNH SÁNG
16/Thế giới đang nhận định thế nào về người công giáo? Vào những dịp cuối năm, các bản tổng kết tình hình thường đánh giá cao những đóng góp của Giáo Hội, đặt biệt trong lãnh vực giữ gìn đạo đức xã hội / Nơi nào có đông đồng bào Công giáo sinh sống, thì tệ nạn xã hội không có hoặc có rất ít / Nghe tin này ai cũng vui vì thấy các Kitô hữu sống đúng tinh thần trở thành muối cho đời / như lời Chúa dạy qua bài Tin Mừng hôm nay.
17/Muối đóng vai trò nào trong cuộc sống? Hạt muối thật bé nhỏ, ít có ai chú ý tới sự hiện diện của nó / Bên cạnh các thứ thịt, cá, rau củ quả, muối chỉ đóng vai trò phụ / Người ta chỉ trưng bày những món ăn ngon, đắt tiền, người ta chỉ giới thiệu những món ăn cầu kỳ / chẳng ai thèm trưng bày muối / chẳng có ai giới thiệu muối làm gì / Xét về giá trị, muối chẳng đáng giá bao nhiêu / muối biểu hiện cho sự bé nhỏ, khiêm tốn, quên mình.
18/Công dụng của muối: Muối luôn có đó, nhưng ít ai thấy muối / không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường, mà vì muối phải tan biến đi / muối phải tan thì muối mới có tác dụng / Muối ướp vào thực phẩm mà không chịu tan biến đi thì không thể thấm vào thịt cá được, cũng không thể giữ cho thịt cá luôn tươi tốt được / Muối khi nêm nếm gia giảm vào thịt cá mà không chịu tan đi thì khi ai ăn phải, họ sẽ nhăn mặt bỏ đi / Muối phải hiện diện, sau đó phải tiêu hủy, phải thấm vào thì nó mới phát huy tác dụng có ích / Một mình muối mặn thì rất khó chịu / cũng như nước mắm khi ăn thì ngon nhưng dính một chút vào áo thì kinh khủng vô cùng.
19/Lợi ích từ sự hiện diện của muối: Muối tuy bé nhỏ khiêm nhường, và ẩn mặt, nhưng sự hiện diện của muối là sự hiện diện tích cực / Nó tích cực vì góp phần làm cho thực phẩm khỏi hôi thối và nâng phẩm chất món ăn / tích cực vì nó không thể thiếu ở bất cứ món ăn nào / Tuy không thấy và không ai nói ra nhưng ai cũng ngầm hiểu là món ăn nào cũng cần có muối.
20/Bài học từ muối dành cho các môn đệ: Chúa muốn dạy các môn đệ của Người phải sống giữa nhân loại như muối trong thức ăn / Người muốn các môn đệ phải hiện diện thật khiêm nhường, thật bé nhỏ / nhưng lợi ích phải thật lớn lao, quan trọng /như các môn đệ hiến thân cho nhân loại cũng giống như muối hòa tan trong thực phẩm.
21/Lợi ích từ vị mặn của muối: Nếu muốn sự hiện diện của muối mang nhiều lợi ích, thì phải giữ được vị mặn của muối / Vị mặn đó là tình yêu mến Chúa mặn nồng, tình yêu tha nhân mặn mà => đó là sống tinh thần 8 Mối Phúc của Phúc Âm / Hiện diện âm thầm là phục vụ quên mình / Người môn đệ góp phần vào việc bảo vệ nền đạo đức xã hội, trở thành ánh sáng soi trần gian.
22/Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã tin tưởng con , biến con thành muối cho thế gian / Xin cho lòng chúng con luôn yêu mến Chúa tha thiết, để chúng con đem hương vị tình yêu cho thế gian.
23/Chân lý trong đức tin là gì? Chân lý do đức tin mang tới / chân lý chính là muối và ánh sáng / Chân lý tự nó không thể nhạt nhẽo hay tối mờ / chân lý là vô hình, nhưng khi đi vào trí khôn con người thì chân lý trở nên khả giác, có thể nhìn thấy được / Chính con người đã mang chân lý và đức tin / đó chính là ánh sáng trần gian / Bởi vì nhà ở của chân lý là con người với tất cả sự phức tạp của nó, vì con người có bản năng, sở thích / cho nên sự bóp nghẹt, sự biến chất, sự nhạt nhẽo chính là mối nguy cơ đe dọa thường xuyên / Nên Chúa dặn các môn đệ: đừng để muối bị nhạt, đừng để chân lý bị che mờ.
24/Ý nghĩa của muối trong Cựu Ước: Muối được dùng nhiều trong các nghi thức tôn giáo / Hẵn vì nó là thuốc chữa lành / làm cho thực phẩm không hư và đậm đà hương vị (Lv_2,_13) / Muối của Giao Ước để nói lên rằng: Giao Ước phải bền vững, không thể hư hỏng / Tiên tri Êlisê tẩy sạch dòng suối bằng cách bỏ ít muối vào (2 V 2, 21).
25/Cái đèn và cái thùng: Ánh sáng là để soi chiếu, ánh sáng thì phải sáng / Bài Phúc Âm nói đến cái thùng / Đây là tục lệ của các gia đình nghèo thường đặt đèn trên một cái thúng lật ngược / nếu lấy cái thùng chụp đèn lại, người ta sẽ giam hãm ánh sáng khiến nó phải tắt.
26/Người Kitô hữu như muối trong thế gian: Ngày nay Giáo Hội đang thâm nhập vào nền văn minh và mang theo các giá trị về đức tin / Thế gian sẽ nhờ đó mà khỏi tan rã, thoái hóa / Người ta quảng bá nhiều đến thuyết duy vật, duy sắc dục,… / Lắm người hò hét chiến đấu để cho thế giới được công bình hơn / nhưng không biết thực sự mục đích của họ đang theo đuổi thứ gì? Bởi vì nếu thế giới bị bỏ mặc, nó sẽ trở nên hủ bại.
27/Bổn phận của người Kitô hữu phải làm gì? Người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá, về số mệnh của con người / để góp phần cứu vớt thế gian / nếu con người không làm theo như lòng tin nơi Đức Kitô thúc đẩy họ / nếu không can đảm làm như thế, thì đời sống của họ sẽ trở nên nhạt nhẽo và khó lòng chu toàn sứ mệnh, và thế gian dễ dàng lôi kéo họ vào sự ghê tởm, cũng giống như muối đã hết mặn, chỉ còn cách ném ra ngoài cho thiên hạ chà đạp.
Bài 3: ÁNH SÁNG ĐẨY LUI BÓNG TỐI
28/Câu trả lời của Đức Yoan Phaolô II với giới báo chí => họ hỏi: Đức Thánh Cha cầu nguyện cho ai và cho điều gì? Ngài đã trích dẫn đoạn văn mở đầu của “Hiến Chế về Giáo Hội” thay cho câu trả lời / Đại ý câu trả lời như thế này: sự vui mừng, hy vọng, đau buồn và lo âu của con người thời đại hôm nay, đặc biệt là những người nghèo, người bị bách hại / thì cách nào đó cũng là niềm vui, hy vọng, đau buồn và lo âu của những ai bước theo Chúa Kitô / Cầu nguyện cũng là mối tương quan như hành động!
29/Giáo huấn của Tiên tri Isaia nói gì? Biến lời cầu nguyện thành hành động cũng là giáo huấn của Tiên tri Isaia trong Thánh Lễ hôm nay => hãy chia bánh cho người đói, cung cấp chỗ cư trú cho kẻ bị áp bức, không nhà / mặc quần áo cho kẻ mình trần khi ta thấy họ / đừng quay lưng lại với những sự khốn khổ đang xảy ra.
30/Tâm tình của người Do Thái sau cuộc lưu đày Babylon: Những lời cảm động trên đây như để dành nói với những kẻ bị lưu đày ở Babylon vừa trở về / Họ nhìn thấy quê hương mình bị dân tộc khác xâm chiếm / một dân tộc không có cùng tôn giáo, cũng chẳng cùng nền luân lý với họ / Họ cảm thấy mình như là một dân tộc thiểu số trên chính quê hương của mình, họ đang ở giữa một khu vực thù địch.
31/Tâm tình của người Công giáo trước nhu cầu của xã hội: Chúng ta không giống họ nơi xã hội của chúng ta / người Công giáo không phải là một dân tộc thiểu số / nhưng có một số lớn trong anh em chúng ta, có vẻ như trái tim của họ đã bị xơ cứng trước nhu cầu của những người khác, ví dụ như người đói khát, dân nhập cư, những kẻ không nhà / những người nhận trợ cấp xã hội.
32/Góc tối của cuộc sống: Xã hội ngày nay, có một số người nghèo chỉ muốn cuộn mình nơi góc tối, họ không muốn bị nhìn thấy / nhưng Chúa Giêsu dạy chúng ta phải chiếu sáng sự tốt lành của chúng ta trên những con người đó, để họ cảm thấy không bị quên lãng / Tiên tri Isaia giúp chúng ta hiểu rằng: nếu chúng ta cho những kẻ đói ăn, yên ủi kẻ ưu phiền thì ánh sáng sẽ bùng lên nơi những góc tối đó.
33/Chúng ta phải hành động theo kiểu nào? Chúng ta phải trở lại với lối suy nghĩ của người Công giáo và phải hành động theo Đức Kitô / Chúng ta phải biết rằng những nhu cầu của những người nghèo khó, khổ đau, luôn có liên quan đến cách hành xử của chúng ta / là những người đang bước đi theo Chúa.
34/Chúa muốn chúng ta phải sống tốt như thế nào? Thật ra, tất cả chúng ta đều có thể nhìn thấy những nhu cầu rất lớn lao, mà không có một mức độ tài chính nào có thể đáp ứng cho đủ cả / Chúng ta cần Thiên Chúa giúp đỡ bằng ân sủng của Ngài / Thiên Chúa không hề ngoảnh mặt làm ngơ / Người hằng nhìn xem chúng ta làm việc và luôn đáp trả lời cầu xin của chúng ta cách hết sức quảng đại / Đặc biệt là các lời cầu xin trong Thánh Lễ.
35/Có cách nào xua đổi bóng tối? Ngày kia, các môn đệ của thầy Haxiđích bên Ấn Độ, than phiền với thầy mình về ảnh hưởng xấu của ma quỷ trên thế gian / họ xin thầy mình chỉ cho cách xua đuổi ma quỷ / Thầy Haxiđích đề nghị trước hết hãy lấy chổi bắt đầu quét bóng tối ra khỏi căn phòng / các môn đệ sinh ra ngạc nhiên trước lời dạy bảo đó, nhưng họ cũng đành hành động theo / Sau nhiều giờ mệt nhoài, mồ hôi nhễ nhại, họ cũng không đuổi được bóng tối ra khỏi căn phòng / Thầy Haxiđích lại bảo họ lấy gậy đập bóng tối để xua đuổi ma quỷ ra khỏi phòng / nhưng vẫn uổng công vô ích / Lần thứ ba, thầy bảo các môn sinh hãy xuống hầm gào thét, nguyền rủa bóng tối, họ khan cổ, tắt tiếng mà chẳng làm được gì / Căn phòng cũng chẳng sáng thêm chút nào! Sau cùng thầy bảo các môn sinh: Hỡi các con, mỗi người trong các con hãy đương đầu với thách đố của bóng tối bằng cách đốt lên một cây nến! Họ thi hành theo lời thầy, và kìa, lập tức bóng tối đã bị đuổi đi / căn hầm đang tối tăm, bỗng trở nên sáng rực và ấm cúng!
36/Văn sĩ Locke người Anh đã nói gì? “-Thà bật lên một que diêm còn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối” / Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu cũng quả quyết: chính anh em hãy là muối cho đời, là ánh sáng cho người.
37/Những thứ gì tượng trưng cho bóng tối tà thần? Đó là gian dối, hận thù, chiến tranh, bất công, bóc lột, tệ nạn xã hội, sách báo, tranh ảnh đồi trụy / Người ta đã tốn biết bao công sức, bao mồ hôi, đã quá mệt mỏi / vì tất cả hầu như chẳng làm được gì / bóng tối vẫn vây phủ con người / Bởi vì ngoài ánh sáng ra, chẳng có gì có thể xua đuổi được bóng tối / Nổ lực trong bóng tối thì bóng tối vẫn cứ tối mãi!!
38/Chúng ta cần phải làm gì? Cần phải khơi dậy nguồn sáng, mỗi người phải là một cây đèn, đèn cần phải được thắp sáng lên / Mỗi người phải tự thắp sáng cây đèn của mình / Một cây đèn cháy, rồi hai, ba, hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn cây đèn cháy sáng, thế giới này sẽ bớt tối tăm, cuộc đời sẽ sáng rực lên / đời sống nhân loại sẽ vui tươi, ấm cúng, và hạnh phúc biết chừng nào.
TÓM Ý
1. Luật sống mà Chúa Giêsu muốn các Môn Đệ tuân theo là gì ? Đó là: Chúa muốn các Môn Đệ phải trở nên muối ướp và đèn soi trước khi Chúa gửi họ đi vào đời.
2. Công dụng của muối để làm gì ? Muối là một loại gia vị rẻ tiền, dùng để ướp thức ăn và nấu nướng, người Do thái còn dùng để làm phân bón. Kinh thánh có nhắc đến muối trong trường hợp vợ ông Lót, Thánh Phao-lô cũng căn dặn nên đặt chút muối vào trong lời ăn tiếng nói sao cho hợp khẩu vị khi giao tiếp với anh em.
3. Muối theo nghĩa mà Chúa Giêsu muốn nói đó là gì ? Hãy sống đạo đức, hãy thực thi điều Chúa dạy, hãy dùng lời Chúa để thánh hóa bản thân/ Hãy nêu gương sáng cho kẻ khác. Nếu chúng ta không sống Lời Chúa cho đúng thì chẳng khác gì muối đã bị nhạt, chỉ phải đổ đi ! (hâm nóng những tâm hồn nguội lạnh)
4. Tạo sao muối vô tác dụng ? Muối ra nhạt thì vô ích thôi.
5. Ông Gandhi đã nói gì ? một câu ông nói khiến chúng ta phải suy nghĩ lại: Đức Ki-tô rất là tuyệt vời, giáo lý của Ngài thì chính xác/ nhưng người Ki-tô hữu không sống lời Chúa nên họ đâu có gì hơn chúng tôi, mà chúng tôi phải theo đạo của họ !
6. Chúa Giêsu ví mình là thứ gì ? Ta là ánh sáng thế gian, ai theo tôi sẽ không đi trong tăm tối. Chúa bảo các môn đệ đứng thắp đèn rồi để dưới đáy thùng.
7. Mỗi Ki-tô hữu là một cây đèn dùng làm gì ? Đèn cần phải thắp sáng lên, có như thế thì thế gian sẽ sáng lên, nhờ đó mọi người sẽ nhận ra và ngợi khen Thiên Chúa.
8. Chúa Giêsu đã bảo gì ? Anh em là muối cho đời, muối thì thấm vào thức ăn, giữ cho thức ăn khỏi hư thối, và nêm nếm cho thức ăn có mùi vị đậm đà. Muối mà mất vị mặn thì chẳng còn sử dụng vào việc gì nữa.
9. Tại sao anh em là ánh sáng ? Định nghĩa này nghe hơi quá lố, bởi vì Chúa Giêsu mới là ánh sáng, chúng ta chỉ là vật phản chiếu/ chúng ta chỉ là gần đèn thì sáng mà thôi.
10. Thế giới hôm nay đang sáng loại đèn nào ? Bởi vì nó quá tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhưng là một thế giới thiếu muối nên nhạt nhẽo, một thế giới tối tăm vẫn đục nên ánh sáng của Chúa không thể chiếu vào. Xã hội đang xuống cấp trầm trọng, nhưng không ai trong chúng ta chịu lãnh trách nhiệm phần mình. Thế giới hôm nay rất sáng, nhưng chân lý thì lại quá mù tối. Nơi nào, thành phố nào văn minh nhất, nhiều ánh sáng nhất, thì nơi đó lại tội lỗi nhiều.
11. Vì tôi là muối nhạt lại trở nên vô vị ? Vì đèn tôi hết dầu, nên thế giới này mới tối tăm/ thế giới sẽ sáng, nếu tôi sống đúng lời Chúa Giêsu chỉ dạy/ chúng ta cần ướp lại vị mặn của Chúa/ chúng ta cần được rót đầy thứ dầu hy sinh, bác ái của Chúa Giêsu.
12. Một Ki-tô hữu rụt rè là gì ? Họ không dám tỏa sáng như đèn đốt lên nhưng lại để ở đáy thùng/ còn có quá nhiều Ki-tô hữu dư khả năng nhưng lại quá rụt rè/ không dám dấn thân, sợ gặp nguy hiểm, sợ tốn kém vì thiếu tự tin, không có bản lĩnh/ họ hiểu chữ khiêm tốn thành chữ rụt rè.
13. Mỗi người chúng ta phải là gì ? Là muối ướp, là đèn tỏa sáng, để mọi người nhìn thấy và nhận ra chân lý của Thiên Chúa/ để ai cũng mở miệng tôn vinh.
14. Bóng tối thế gian là gì ? Là chính là sự hận thù/ bất công, dâm ô, ích kỷ, độc ác. Chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta có khả năng đẩy lùi bóng tối.
15. Mỗi người chúng ta cần làm gì ? Đừng nguyền rủa bóng tối, đừng than phiền vì xã hội bất công, nhưng hãy cố gắng thắp sáng đèn mình lên.
16. Thế gian nhận định thế nào ? Nơi nào có đông Công giáo, nơi đó có ít tệ nạn. Có phải thế không?
17. Hạt muối thì như thế nào ? Hạt muối thì nhỏ bé, rẽ tiền, khiêm tốn và ít được ai biết đến/ người ta chỉ trưng bày hững thứ có giá trị, nhưng chả ai thèm để ý đến muối trong trong các món ăn.
18. Công dụng của muối là gì ? Muối luôn hiện diện nhưng chẳng ai thấy muối/ muối luôn đóng góp tích cực, vì muối phải tan biến đi mới có thể thấm vào thực phẩm, nếu muối không tan đi, không thấm vào thức ăn thì khó có ai chấp nhận được/ một mình muối thì rất khó chịu/ cũng như nước mắm thì ăn ngon, nhưng dính vào áo thì khủng khiếp lắm !
19. Nơi nào cần muối ? Muối hiện diện ở mọi món ăn, tuy không ai nói ra nhưng món nào cũng có muối vì nó làm cho thực phẩm không hư và nâng hương vị của món ăn.
20. Chúa muốn dạy các môn đệ điều gì ? Chúa muốn các ông phải sống giữa thế gian như muối trong thực phẩm, tuy nhỏ bé, khiêm tốn nhưng lợi ích lại thật lớn lao/ với điều kiện muối phải chịu hòa tan để thẩm thấu.
21. muối được sánh ví với thứ gì ?Vị mặn của muối cũng như tình yêu của chúng ta với tha nhân/ đó là người ki-tô hữu sống 8 mối phúc thật / hiện diện âm thầm là phục vụ quên mình/ người môn đệ phải góp phần vào việc bảo vệ nền đạo đức xã hội khỏi hư thối/ nên người môn đệ Chúa trở thành ánh đèn soi sáng cho trần gian/
22. Làm sao thấy được đức tin ? Trong Đức tin có chân lý => Chân lý vô hình nhưng khi đi vào cuộc sống của con người thì nó trở nên khả giác, hữu hình/ nhờ chân lý được thể hiện qua hành động/ nhưng tâm tư con người cũng như một căn nhà chứa đầy những phức tạp, vì thế chân lý có nguy cơ bị bóp nghẹt, bị biến chất, bị nhạt nhẽo/ đó là những nguy cơ đe dọa thường xuyên/ nên Chúa Giêsu căn dặn => đừng để muối bị nhạt. đừng để chân lý bị che mờ.
23. Cái đèn cần để ở nơi nào ? Cái đèn được thắp sáng nhưng không nên đặt ở đáy thùng/ đốt cây đèn rồi lấy cái thùng úp lại thì ánh sáng sẽ bị giam hãm và chẳng bao lâu sau thì đèn sẽ tắt.
24. Ki-tô hữu như thứ gì ? Ki-tô hữu như muối bỏ vào thế gian / giáo hội thâm nhập vào thế gian mang theo đức tin/ nhờ đó thế gian khỏi thoái hóa, tan rã / thế giới đang quảng bá cho tiền tài, sắc dục, vật chất / người ta đang hò hét chiến đấu để cho thế giới được công bình hơn, nhưng ai hiểu được mục đích của họ là gì ? Nếu bị bỏ mặc, thế giới sẽ bị hủ bại và tan rã.
25. Bổn phận của người Ki-tô hữu là gì ? Bổn phận của người Ki-tô hữu là phải góp phần cứu vớt thế gian / chúng ta phải can đảm làm theo lời dạy của Đức Ki-tô, nếu không thì đời sống của chúng ta sẽ trở nên nhạt nhẽo và do đó khó có thể chu toàn sứ mạng / dể dàng bị thế gian và ma quỷ lôi kéo vào sự tội lỗi, ghê tởm, cũng giống như muối đã hết mặn vậy.
26. Báo chí đã hỏi điều gì ? Báo chí đã hỏi Đức Gioan Paul 2: Ngài cầu nguyện cho ai và cho điều gì? Ngài trả lời bằng cách trích dẫn đoạn văn mở đầu của hiến chế về giáo hội: Ngài cho rằng, lời cầu nguyện luôn có mối tương quan với hành động/ cho nên những ai muốn bước theo Đức Ki-tô, nếu đã biết cầu nguyện thì phải biết hành động.
27. Tiên tri Isaia đã nói thế nào ? Tiên tri Isaia đã dạy trong bài I: phải biết biến lời cầu nguyện ra hành động đó là: chia sẻ cơm bánh cho người đói, cung cấp chỗ cư trú cho kẻ không nhà, mặc áo cho kẻ mình trần / đừng quay lưng với những khốn khó của thế giới.
28.Người công giáo đang sống thế nào ? Người công giáo đang là một thiểu số giữa một thế giới ích kỷ, tội lỗi / nhưng có một thành phần trong anh em chúng ta đang có một trái tim xơ cứng trước nhu cầu của người khác => là những kẻ đói khát, dân nhập cư, kẻ không nhà / những người nhận trợ cấp xã hội, ăn mày, ăn xin.
29. Hôm nay người nghèo đang nghĩ gì ? Xã hội ngày nay có quá nhiều người nghèo muốn cuộn mình trong góc tối giữa một xã hội khép kín, hầu như họ không muốn bị nhìn thấy vì họ chẳng có chút hy vọng nào/ nhưng Chúa Giêsu dạy chúng ta phải chiếu sáng vào những góc tối đang bị lãng quên đó/ nếu chúng ta làm được điều tốt lành, thì như đã chiếu ánh sáng của Chúa vào nơi tối tăm đó.
30. Chúng ta cần hành xử thế nào ? Chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ, cách sống/ chúng ta phải hành động theo Đức Ki-tô/ chúng ta là những người đang bước theo Chúa, cho nên cách hành xử của chúng ta có liên quan đến những người nghèo khó, khổ đau.
31. Chúng ta nên hành động như thế nào ?Chúng ta có thể nhìn thấy nhu cầu rất lớn lao, nếu muốn giúp đỡ những người nghèo khổ, do đó mức độ tốn kém tài chính khó có thể nào đáp ứng được/ do đó chúng ta phải chung tay góp sức, rồi phải hợp ý cầu xin ơn trợ giúp/ Thiên Chúa sẽ không thể nào ngoảnh mặt làm ngơ/ Chúa sẽ ban cho chúng ta một cách hết sức quảng đại/ nhất là qua lời cầu xin trong các Thánh Lễ.
32. Có cách nào xua tan bóng tối ? Cách xua đuổi bóng tối cách hữu hiệu nhất là hãy thắp lên những ngọn đèn/ thà bật lên một que diêm còn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.
33. Mỗi người cần làm gì ? Mỗi người là một cây đèn/ mỗi người phải tự thắp cây đèn của mình/ hàng triệu cây đèn cùng thắp lên thì thế giới sẽ sáng rực lên/ lúc đó nhân loại sẽ vui tươi, ấm cúng, hạnh phúc. **R
Giuse Luca / Kinh Thánh Emmaus
------------------------------------
Anh chị em thân mến!
Sứ điệp chính của Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay là Muối và Ánh sáng. Chúa Giêsu nói: “Anh TN 5-A100
Sứ điệp chính của Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay là Muối và Ánh sáng. Chúa Giêsu nói: “Anh em là muối cho trần gian”. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận ra rằng; thỉnh thoảng có thể chúng ta đánh mất tác dụng của muối trong chính bản thân mình. Chúng ta có thể mất lòng nhiệt thành theo Chúa Kitô, mất liên đới với những người chung quanh trong cuộc sống hàng ngày. Cũng vậy, chúng ta là ánh sáng, có nhiệm vụ soi chiếu cho thế gian và chúng ta có thể mất khả năng tỏa sáng và vì thế, chúng ta dễ trở thành bóng tối, trở nên vật cản làm cho những anh chị em xung quanh vất ngã vì sự tối tăm của mình.
Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu không đến để làm chúng ta sờn lòng, nản chí, nhưng Ngài đến để khuyến khích, nâng đỡ chúng ta vững bước. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy những khó khăn, thử thách và mời chúng ta học cách trở thành muối và ánh sáng cho những người khác, những anh chị em đang tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống trong họ. Thực hành cuộc sống chan chứa tình yêu đối với những người chung quanh, là chúng ta đang bước theo nẻo chính, đường ngay của Chúa, như là nhân chứng tình yêu vì chúng ta đã gặp được Chúa trong cuộc đời.
Bài đọc một hôm nay, trích trong Sách Tiên tri Isaia, cũng chỉ cho chúng ta con đường trở thành muối và ánh sáng: bằng cách phục vụ những người anh chị em nghèo khổ. Nếu chúng ta yêu thương phục vụ anh chị em túng thiếu, thì ánh sáng của chúng ta sẽ tỏa ra như bình minh, và các vết thương lòng của chúng ta sẽ nhanh chóng được chữa lành. Thường tình chúng ta luôn chú trọng vào bản thân mình hơn là yêu thương, giúp đỡ người khác. Một khi chúng ta chỉ biết quan tâm đến những nỗi đau và vết thương của chính mình và quên rằng phục vụ người khác là sự chữa lành tốt nhất trong tất cả những gì khiến chúng ta cảm thấy khó chịu. Phục vụ người khác là như ướp muối nồng lại càng thêm nồng yêu thương và ánh sáng lại càng thêm tỏa rạng trong cuộc sống của chúng ta. “Cho thì có phúc hơn nhận”, Lời Chúa đã chứng minh cho chúng ta điều đó, khi chúng ta thực thi Giáo huấn yêu thương và chia sẻ.
Thánh Phao lô nói với chúng ta trong Thư thứ nhất gửi cho Cô-rinh-tô rằng; chính Ngài đã không muốn quan tâm bất cứ điều gì, ngoài một mình Đức Ki tô, Đấng chịu đóng đinh. Đây là một minh chứng rõ ràng rằng Thánh Phao-lô tình nguyện vác lấy thập tự giá là những đau khổ cho anh chị em xung quanh. Đó là cách chúng ta nhận biết Chúa Giêsu – Đấng chịu đóng đinh. Chúng ta được mời gọi phải tự vác thập giá mình và đi theo Ngài. Nếu chúng ta có thể làm điều này, thì đức tin của chúng ta sẽ không phải cậy dựa vào sự khôn ngoan của con người mà là nhờ vào quyền năng của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, cuộc sống của chúng ta chỉ có một. Chúa đã tạo dựng nên chúng ta và Ngài mời gọi chúng ta đến với Ngài. Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài là Chúa Giêsu để chỉ cho chúng ta con đường về với Chúa Cha. Chúng ta không nên để cho mình phải sợ hãi với những lần gặp khó khó khăn, gian khổ trên đường theo Chúa, nhưng chúng ta cần có những hy sinh để tôi luyện. Chúng ta ao ước có một cuộc sống trọn vẹn trong Chúa. Vì vậy, chúng ta hãy yêu thương phục vụ những anh chị em nghèo khó, quan tâm đến những người cần sự giúp đỡ của chúng ta, và nhờ thế chúng ta đang bước đi với Chúa Giêsu trên đường đến với Cha.
Chúng ta muốn trở thành muối ướp đời như Chúa Kitô. Chúng ta muốn trở thành ánh sáng của Chúa Kitô. Chúng ta muốn lôi kéo người khác đến với Chúa Kitô để họ có thể nhận biết tình yêu và ơn cứu độ của Ngài. Nếu chúng ta đang trên con đường với Chúa Giêsu Kitô, thì chúng ta biết chính Ngài và có thể vui thích trong tình yêu của Ngài. Bởi vì chúng ta đã nhận ra tình yêu của Ngài, chúng ta có thể chia sẻ nó với những người chung quanh.
Hãy ca tụng Chúa bây giờ và mãi mãi. Amen.
Lm Giuse Trần Ngọc Tân,sss
St Vincent Liem, Flemington, Aus
--------------------------------------------------------------------------