Phúc Âm: Mc 9, 29-36: “Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người. Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: “Dọc đàng các con tranh luận gì thế?” Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy”. - Ðó là lời Chúa. ------------------------------------------
Ở Mc 9,31, chúng ta có một bản văn lặp lại lời loan báo Thương Khó ở 8,31. Tác giả cũng nhắc: TN 25-B51
Ở Mc 9,31, chúng ta có một bản văn lặp lại lời loan báo Thương Khó ở 8,31. Tác giả cũng nhắc lại tình trạng không hiểu biết của các môn đệ, mà ta đã thấy được tỏ lộ nơi phản ứng của Phêrô trên núi (9,5; x. 10,32). Ghi chú về địa lý của chuyến băng ngang miền Galilê nhằm nhắc nhớ rằng kể từ 8,27, Đức Giêsu không quay trở lại miền này nữa; Người đang trên đường đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu không muốn bị níu kéo vô ích trong cuộc hành trình này. Quả đúng là theo 9,33, Người lại có mặt ở Caphácnaum, nhưng ta không thể nói về một hoạt động mới ở Galilê nữa. Những gì xảy ra ở Caphácnaum chỉ liên hệ đến các môn đệ mà thôi.
II. BỐ cỤc
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Loan báo Thương Khó lần thứ hai (9,30-32); 2) Giáo huấn về đời môn đệ (9,33-37).
Phần hai là khởi đầu của một bài diễn từ đa tạp kéo dài tới c. 50. Khối này, dường như có trước TM Mc được đặt trong Diễn từ về Đời sống cộng đoàn trong TM Mt (ch. 18). Mc tìm cách tạo sự thống nhất cho đoạn này bằng cách ghép vào một vài ghi chú tiêu biểu của ngài (c. 30: bí mật; c. 31: dạy; c. 32: các môn đệ không hiểu và sợ; c. 35: “nhà” đối lại với “đường”; c. 34: cãi nhau).
III. Vài điỂm chú giẢi
- băng qua (30): Động từ paraporeuomai là một từ được tác giả ưa chuộng, bởi vì động từ này được dùng 5 lần trong Tân Ước, thì 4 lần ở trong TM II.
- Bị nộp (31): Ta có thể nghĩ đến ngôn sứ Giêrêmia (Gr 26,24), đến những Thánh vịnh về người trung hiếu đau khổ (Tv 70/71,4; 139/140,5) và đến “các thánh của Đấng Tối Cao bị nộp” vào tay vua Antiôkhô Êpiphanê (Đn 7,22-25). Vậy cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ cô đọng và thể hiện trọn vẹn sự đau khổ của những người công chính, thân phận bị bách hại của các ngôn sứ, cái chết của các vị tử đạo.
Động từ nộp (paradidômi) là động từ chuyên môn để nói về sự phản bội (Giuđa “nộp” Đức Giêsu cho các thượng tế: 14,10; các vị này “nộp” Người cho Philatô: 15,1.10; ông này lại “nộp” Người cho lính: 15,15). Đức Giêsu liên tiếp bị chuyển cho quyền hành của mọi lực lượng gian ác: “bàn tay” là biểu tượng của quyền hành, quyền lực, (x. 9,13 nói về Êlia-Gioan Tẩy Giả, nhưng cũng là báo trước số phận của chính Người). Lời loan báo thứ ba sẽ nói chi tiết; và đây là một chướng kỳ quá lớn: một người Do-thái bị những người Do-thái nộp cho Dân ngoại, một sứ giả của Thiên Chúa bị nộp cho người ngoại giáo!
Cho đến lúc này, người ta vẫn có thể hiểu lời loan báo này liên hệ đến những sáng kiến và những trách nhiệm của loài người (Mc 14,21; x. Ga 19,11). Thế nhưng lời nói ở thái bị động (paradidotai, “sẽ bị nộp”) còn là một kiểu nói quanh để chỉ hành động của Thiên Chúa. Nếu vậy: “Thiên Chúa sẽ nộp Con Người vào tay loài người”, không phải là sự gian ác đang hoành hành và thắng thế, nhưng là chính chương trình của Thiên Chúa đang được thực thi xuyên qua sự ngang trái (x. Ga 3,16; Rm 8,32)! Đức Giêsu ý thức Người đang đi vào cuộc Thương Khó như biến cố trung tâm của chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
- Khi về tới nhà (33): Để các ông có thể trở thành môn đệ thực sự, cần phải có một sự dẫn nhập. Chủ đề “ngôi nhà” có mục tiêu ấy. Thường thường, Mc không xác định ngôi nhà ở đâu, nhưng xác định chức năng của ngôi nhà: nơi Đức Giêsu qui tụ môn đệ (3,20.31-35), những cuộc trò chuyện riêng tư và những giải thích dành riêng (7,17; 9,28; 10,10; x. 4,10.34), xa cách đám đông và các đối thủ. Thế nhưng lần này tác giả xác định ngôi nhà ở Caphácnaum: phải chăng là nhà Simôn (1,21-29; 2,1), là biểu tượng của cộng đoàn Giáo Hội?
- Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại (35): “Ngồi” là tư thế của vị thầy khi giảng dạy (x. c. 35; 4,1; Mt 5,1; Lc 4,20; 5,3;...); Người sẽ chỉ trỗi dậy khi xong câu truyện (10,1: anastas). Chi tiết “gọi Nhóm Mười Hai lại” không hợp lý, khi mà Đức Giêsu đã đang ở trong nhà với các ông. Nhưng cử chỉ ra lệnh này rất có thể nhằm nêu bật tầm quan trọng của lời giáo huấn.
- Ai muốn làm người đứng đầu … làm người phục vụ (diakonos) mọi người: Xem 10,43-44. Đức Giêsu không loại bỏ ý muốn là người đứng đầu, nhưng Người chỉ cho thấy con đường đúng đắn đưa tới đó. Lý tưởng về lãnh đạo như là phục vụ sẽ được Đức Giêsu nêu gương trong phần Tin Mừng còn lại. Khi nói đến “diakonos”, Người xác định kiểu phục vụ. Người không nhắm đến việc phục vụ cưỡng chế của người nô lệ (doulos) mà là việc phục vụ tự do của người tôi tớ, do chính người này muốn và thích; công việc này đòi hỏi sự chú tâm trọn vẹn và tất cả các khả năng của người ấy để mưu ích cho người khác. - một em nhỏ (36): Em nhỏ ở đây không phải là biểu tượng của sự vô tội hoặc khiêm nhường, nhưng là biểu tượng của một người không có quy chế pháp lý nên không được trợ giúp (yếu thế). Đứa bé không thể làm gì cho người môn đệ. Đón tiếp một em nhỏ là làm một việc tốt cho một con người không đáng kể, mà không mong được đền đáp. Đây không phải là cho một món bố thí rồi bảo họ đi, nhưng là săn sóc và chịu trách nhiệm về họ.
IV.- Ý nghĩa cỦa bẢn văn
* Loan báo Thương Khó lần thứ hai (30-32)
So sánh với 8,31 và 10,32-34, ta thấy Lời loan báo thứ hai này ít chính xác hơn cả, lại ngắn hơn, nên rất có thể là lời ở tại gốc. Hơn nữa, câu này còn có kiểu chơi chữ “Con Người/người” và kiểu nói quanh theo thái bị động để diễn tả hành động của Thiên Chúa (“bị nộp”). Tất cả những chi tiết đó chứng tỏ câu này có một nguồn gốc A-ram.
Với lời tiên báo thứ hai này về Thương Khó, tác giả Mc có thể quy hướng hoạt động của Đức Giêsu về Giêrusalem cách dứt khoát hơn. Galilê không còn có thể cầm giữ Đức Giêsu nữa. Các môn đệ đi theo Thầy trên đường Người đi. Ai bịt tai lại thì sẽ không nắm bắt được các đòi hỏi tương lai.
* Giáo huấn về đời môn đệ (33-37)
Phân đoạn này bắt đầu với một xác định chính xác về địa điểm: Caphácnaum. Tuy nhiên, những gì tiếp đó không được liên kết với nơi ấy, mà có thể được nói ở bất cứ nơi đâu. Chi tiết địa lý này nhằm tạo cơ hội cho Đức Giêsu ban cho các môn đệ một bài học tại địa điểm quen thuộc nhất của miền Galilê.
Đức Giêsu đã chọn ví dụ về phục vụ này vì vào thời của Người các trẻ em bị coi như là những kẻ thấp bé nhất và bị khinh thường; với ví dụ về em bé, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ thấy rằng các ông phải phục vụ cả những người thấp bé cùng rốt nhất. Người đã thiết lập một tiêu chuẩn tổng quát để phân biệt điều thất sự quan trọng và đúng đắn trong đời sống và trong lối cử xử của con người.
Các môn đệ phải tiếp đón Nước Thiên Chúa như các trẻ em, có nghĩa là các ông không thể đi vào đó bằng sức lực riêng. Cũng như các em bé, các ông phải cảm thấy mình được tình yêu của Thiên Chúa che chở, bảo vệ, và phải để cho mình được Thiên Chúa lấp đầy bằng những ân huệ. Chính Đức Giêsu vẫn quay về với Thiên Chúa như về với Người Cha đầy tình yêu thương (Abba) (14,36) và biết rằng Người được Cha che chở bằng tình yêu của Cha.
+ Kết luận
Chỉ có tác giả Mc mới đặt ba lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh “trên đường”, trong khung cảnh một cuộc hành trình đưa Đức Giêsu cùng với các môn đệ khởi hành từ Xêdarê Philípphê đến tận vùng cực bắc, xuyên qua miền Galilê, đến tận Giêrusalem qua nẻo Giêrikhô. Rõ ràng ngài muốn dạy chúng ta rằng kể từ lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu chính thức đi vào bước thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và mạc khải dứt khoát về bản thân Người cũng như công việc của Người, bằng cách dấn vào một nẻo đường mới sẽ đưa Người đến cái chết, Nẻo đường của Con Người, nẻo đường Khổ Nạn, là một nghịch lý huyền bí chỉ được vén mở trong sự kín đáo.
V. GỢi ý suy niỆm
1. Đức Giêsu muốân lôi kéo tất cả những bạn đường của Người đi trên con đường này. Đến lời Loan báo thứ ba, ta thấy Người đi đầu, một mình, còn các môn đệ đi theo sau, kinh hoàng. Chính Người hỏi đầu tiên, nhưng họ thì im lặng. Rõ ràng họ thật vất vả khi phải theo Người trên nẻo đường này. Con đường là khung cảnh giúp hiểu sự cương quyết của Đức Giêsu đi thi hành thánh ý Chúa Cha, cho thấy sự cách biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ cũng như tâm trạng thực của các ông.
2. Người môn đệ được khai tâm để có phong cách người tôi tớ trong và do cộng đoàn: tại đó, người ấy sẽ học thay thế mối bận tâm về chỗ nhất gây chia rẽ và đối lập, bằng nỗ lực tìm kiếm chỗ chót, như phương thế duy nhất để kiến tạo được sự hoà thuận khắp nơi (x. 9,50). Như thế, người ấy sẽ có thể thực sự bước theo Đức Giêsu trên nẻo đường tiến về Giêrusalem.
3. Sự cao cả được đo lường không phải bằng thành công và danh tiếng, nhưng bằng giá trị của công việc phục vụ ta cống hiến.
4. Các trẻ em có thể được coi như một địa chấn đồ (sismographes) của xã hội loài người. Nếu các em phát triển bình thường, điều đó chứng tỏ tương quan giữa những người lớn đang lành mạnh; nếu các em trở nên bất bình thường, điều đó cho thấy lối sống của người lớn có gì sai trái, méo mó. Thật ra, tất cả những gì gây tổn hại cho các trẻ em thì cũng chẳng xây dựng gì cho người lớn.
5. Đi vào Nước Thiên Chúa luôn luôn là một ân huệ; chúng ta không bao giờ đáng được, nhưng chỉ có thể chuẩn bị cho mình sẵn sàng đón nhận mà thôi.
Một thầy giáo ra bài làm ở nhà cho các học sinh: "Hãy viết lại quãng thời gian trong cuộc đời: TN 25-B52
Một thầy giáo ra bài làm ở nhà cho các học sinh: "Hãy viết lại quãng thời gian trong cuộc đời mà em là 'một người Samari tốt lành' đối với ai đó." Một trong các học sinh đã viết bài ấy như sau:
"Vào mùa hè trước khi tôi lên trung học, giáo xứ chúng tôi tổ chức một ngày đi thăm người già và người tàn tật ở một bệnh viện gần đó. Cả một dẫy xe lăn và bệnh nhân làm tôi choáng váng. Lúc đầu tôi chỉ nhìn thấy xe lăn.
"Sau đó tôi nhận thấy có người ngồi xe lăn nhìn chăm chăm vào đôi chân của tôi.
"Chỉ có thế. Bấy giờ tôi không chỉ nhìn đến xe lăn và tôi bắt đầu nhìn thấy người ngồi trong đó. Tôi thấy các bà tàn tật, những cựu chiến binh bị tê liệt, những ông già không ai chăm sóc, các em nhỏ thật mảnh khảnh. Tất cả đang chờ đợi xem có ai đó để ý đến họ. Tôi ngột ngạt; vội vàng bước đi.
"Tôi rảo bước quanh bệnh viện có đến một giờ đồng hồ. Tôi cảm thấy tức giận Thiên Chúa và hoàn toàn hoang mang khi thấy quá nhiều sự đau khổ trong một nơi chốn. Tôi cảm thấy cô đơn hơn bất cứ bệnh nhân nào. Tôi là người cần sự giúp đỡ, chứ không phải họ.
"Nhưng một lúc sau, vị Thiên Chúa mà tôi trút sự giận dữ lên Người bỗng dưng trở nên thực tế hơn bao giờ hết trong cuộc đời. Tôi cảm thấy Thiên Chúa đã yêu thương những người này một cách đặc biệt.
"Đó là một cảm nghiệm kỳ lạ; bỗng dưng đức tin sút giảm và bỗng dưng đức tin gia tăng--tất cả xảy ra trong khoảng khắc.
"Tôi trở lại nơi có những người già và tàn tật. Và tôi bắt đầu làm bất cứ gì có thể để làm họ vui: lấy cho họ ly nước ngọt và chỉ nói chuyện với họ. Tôi làm cho gương mặt họ sáng lên vào buổi chiều hôm ấy.
"Nhưng trong tất cả các khuôn mặt rạng rỡ hôm ấy, một khuôn mặt nổi bật hơn tất cả. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt ấy. Đó là khuôn mặt của chính tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình tốt lành đến thế; chưa bao giờ tôi cảm thấy vui như vậy."
Câu chuyện này thích hợp với bài đọc ngày hôm nay. Đặc biệt, nó thích hợp với điều mà Chúa Giêsu nói với các môn đệ sau khi họ cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chúa Giêsu nói, "Ai muốn là người đầu thì phải tự đặt mình chót hết và trở thành người phục vụ tất cả" (Mc 9:35). Và vì vậy Chúa Giêsu đã dùng cơ hội này để nhấn mạnh đến một chủ đề nổi bật trong phúc âm: giúp đỡ người khác, nhất là người có nhu cầu. Chúng ta hãy xem xét chủ đề này kỹ hơn.
Hãy nhìn đến chủ đề từ hai quan điểm. Trước hết, hãy nhìn nó dưới quan điểm của người có nhu cầu. Thứ hai, hãy nhìn nó dưới quan điểm của những người giúp đỡ.
Trong cuốn sách Majority of One, tác giả Sydney Harris đã diễn tả quãng thời gian ông bị gẫy xương ở bàn chân, khiến ông phải chống gậy đi khập khiễng trong vài ngày. Về cảm nghiệm này, ông viết:
"Điều khoan khoái về cảm nghiệm này mà nếu không có nó sẽ thật đau lòng là phương cách người ta đối xử với tôi. Họ mở cửa cho tôi, giúp tôi bước lên xe taxi, nhường chỗ cho tôi trong thang máy. Tinh thần tôi phấn khởi khi được đối xử như vậy."
Nhận xét của ông Harris cho thấy sự phục vụ đã làm gì theo quan điểm của người có nhu cầu. Nó đã làm cho khuôn mặt họ rạng rỡ. Nó làm họ cảm thấy có người lo lắng đến họ. Nó làm họ cảm thấy có người thương mến họ.
Điều này đưa chúng ta đến quan điểm thứ hai: sự phục vụ làm gì cho những người giúp đỡ. Không có gì tốt hơn để minh họa bằng nhận xét của em học sinh trên, khi em nói: "Tôi làm cho gương mặt họ sáng lên vào buổi chiều hôm ấy. Nhưng trong tất cả các khuôn mặt rạng rỡ hôm ấy, một khuôn mặt nổi bật hơn tất cả. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt ấy. Đó là khuôn mặt của chính tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình tốt lành đến thế; chưa bao giờ tôi cảm thấy vui như vậy."
Sự nhận xét của em minh họa điều mà sự phục vụ đã làm cho những người giúp đỡ. Nó làm cho gương mặt họ rạng rỡ hơn cả khuôn mặt của những người được sự giúp đỡ. Và tôi nghĩ lý do của điều này thật đơn giản. Nó phát xuất từ điều mà chúng ta quên. Nó xuất phát từ điều mà chúng ta không thấy. Nó phát xuất từ điều mà chúng ta cần được nhắc nhở luôn luôn. Để tôi minh hoạ bằng một câu chuyện.
Có một bức tranh thời thế kỷ 19 vẽ một hàng dài những người nghèo trong một khu tồi tàn của thành phố, họ đang đứng đợi trước một nhà phát chẩn. Đó là một bức tranh đáng chú ý. Nhưng điều đáng chú ý nhất trong bức tranh là một trong những người nghèo đứng xếp hàng. Ông ta có vòng hào quang trên đầu. Nhìn kỹ lại thì đó là Chúa Giêsu. Và điều này cho chúng ta thấy lý do mà khuôn mặt những người giúp đỡ lại rực rỡ hơn những người được giúp đỡ. Chính vì khi giúp đỡ người nghèo, họ khám phá ra Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay. Người ở ngay trong những người có nhu cầu.
Đây là điều chúng ta quên. Đây là điều chúng ta không thấy. Đây là điều chúng ta cần được nhắc đi nhắc lại. Vì không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu đã nói: "Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han… mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy!" (Mt 25:35-36, 40).
Chúng ta hãy chấm dứt bằng sự thành khẩn lắng nghe lời mạnh mẽ của Albert Schweitzer, một trong những Kitô Hữu vĩ đại trong thế kỷ của chúng ta. Vào lúc 30 tuổi, ông hy sinh sự nghiệp của một nghệ sĩ trình tấu cho những người nhà giầu ở Âu Châu và trở nên một bác sĩ đi truyền giáo và chăm sóc người nghèo ở Phi Châu. Khi về già, ông nói: "Tôi không biết định mệnh của bạn ra sao, nhưng tôi biết chắc một điều: chỉ có người thực sự hạnh phúc là người tìm cách phục vụ người khác."
Chúng ta hãy lập lại những lời này một lần nữa vì chúng thật quan trọng. "Tôi không biết định mệnh của bạn ra sao, nhưng tôi biết chắc một điều: chỉ có người thực sự hạnh phúc là người tìm cách phục vụ người khác."
Khi Cẩm Lê (Colette Neal) cô gái tuổi đôi mươi và Đặng thế Vinh (David), chàng trai hơn nàng: TN 25-B53
Khi Cẩm Lê (Colette Neal) cô gái tuổi đôi mươi và Ðặng thế Vinh (David), chàng trai hơn nàng một tuổi, gặp gỡ nhau, yêu nhau và lấy nhau làm vợ chồng, hai người được cuốn hút vào một sức mạnh lớn hơn cả hai cộng lại.
Dĩ nhiên cặp vợ chồng trẻ này yêu nhau bằng một tình yêu không biên giới, hướng tới một gia đình đầm ấm, với con cái xum vầy.
Cẩm Lê cảm thấy như đã vượt ra khỏi giới hạn của cái tôi nhỏ bé thời xưa. Khi ấy Cẩm Lê là một bé gái nhút nhát và nhạy cảm trong một gia đình có tất cả năm anh chị em mà Cẩm Lê là út. Khi Cẩm Lê lên bảy thì được chị đưa đến một trung tâm thiếu nhi rồi để Cẩm Lê lại một mình trong một căn phòng có đông các trẻ em khác. Cẩm Lê cảm thấy lo lắng không biết cậy dựa vào ai. Khi ấy có một bé gái bằng tuổi với Cẩm Lê chạy lại hỏi xem Cẩm Lê có muốn cùng chơi với chúng bạn đang chơi không. Suốt ngày hôm đó Cẩm Lê được hội nhập với chúng bạn nên cảm thấy rất là hạnh phúc.
Tối hôm đó về nhà, Cẩm Lê tò mò hỏi chị mình xem lý do tại sao mình được tiếp đón trong bầu khí hoà đồng như vậy. Thế là Cẩm Lê được nghe chuyện mạo hiểm của Chi Lan (Chiara Lưu Bích) và các bạn hướng tới một thế giới hiệp nhất là thế giới trong đó ai nấy đều yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau và ai nấy đều được hiệp nhất.
Với lòng quảng đại và nhiệt thành của tuổi thơ, Cẩm Lê đã hết yêu mình. Cẩm Lê thi đua với chị mình để yêu má, yêu anh, yêu chị. Khung trời của tuổi thơ như bừng sáng lên do mặt trời của tình yêu. Cẩm Lê khám phá ra mình được hạnh phúc và an toàn nhờ yêu thương. Cứ như vậy suốt 13 năm Cẩm Lê hăng say cùng các bạn trẻ xây dựng một thế giới hiệp nhất là thế giới cuốn hút tất cả trí tưởng tượng của Cẩm Lê.
Thế rồi Cẩm Lê gặp Ðặng thế Vinh. Lần đầu tiên nàng thoáng thấy có sự cạnh tranh giữa tình Chúa và tình người. Dĩ nhiên cả hai cô cậu đều cảm thấy hạnh phúc. Cả hai đều nhằm ý hướng tốt là trở nên người vợ và người chồng lý tưởng trong một gia đình đầm ấm với các con cái sum vầy. Một cách vô ý thức, tình yêu mà Cẩm Lê dành cho chồng và sau này cho con cái, trở nên cụ thể và nặng ký hơn là một tình yêu được dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Cẩm Lê còn bị cám dỗ để nghi ngờ tất cả những điều vốn được kể như cơ sở cho đời sống của mình. Thế rồi nàng từ từ cảm thấy rất rõ một sự trống rỗng nơi cốt lõi của hữu thể. Chính nàng đã van xin Chúa lấp đầy lỗ hổng đó.
Quả thật, những tháng kế tiếp trở thành đường thánh giá cho Cẩm Lê. Chồng Cẩm Lê gặp khủng hoảng không những về đức tin nhưng cả về tình yêu. Chàng không rõ mình còn tin vào Chúa nữa không. Ðến cả với vợ, chàng cũng nghi ngờ về mối tình chàng vẫn dành cho nàng. Khi ấy Cẩm Lê còn gặp rắc rối tại trường mẫu giáo nơi đứa con gái của Cẩm Lê đang học và chính Cẩm Lê lại là hiệu trưởng. Một vụ cãi nhau ở đó khiến Cẩm Lê mất đi một số bạn cũ. Tất cả đều như góp phần làm cho Cẩm Lê đau tím ruột gan khi một bạn gái trên đường đi nhà thờ về bỗng dưng kể ra một loạt những điều Cẩm Lê làm khiến người ấy phật lòng. Ðúng là một cú "sốc" mà người bạn ấy giáng trên Cẩm Lê khiến nàng như bị tan rã, không còn có thể chỗi dậy.
Ðó là lúc một người bạn của Phong Trào Hiệp Nhất Thế Giới đến gặp gỡ Cẩm Lê, giúp nàng chọn yêu thương hay để cho mình bị tan rã.
Cẩm Lê một mình đứng trước mặt Chúa. Mặc cho Ðặng Thế Vinh, chồng nàng còn tin vào Chúa hay không, và mặc cho chàng còn yêu nàng nữa hay không, nàng vẫn phải đứng vững trước mặt Chúa để thưa xin vâng với Người. Cẩm Lê đã nói lên điều đó trước mặt Chúa.
Thế rồi, Cẩm Lê nhìn quanh nàng để thấy rằng chính nàng phải đi bước trước hầu có thể yêu thương người bên cạnh mà gần nhất là chồng nàng. Nếu chồng nàng cần khoảng cách để khẳng định về mình, nàng sẽ sẵn sàng để cho chồng nàng có khoảng cách đó. Nếu chàng cảm thấy chưa muốn nói chuyện trở lại với nàng, nàng sẽ tôn trọng tự do đó của chàng. Ðiều quan trọng là chàng phải cảm thấy chàng được quí mến và được chính Thiên Chúa yêu thương. Nhờ được mấy bạn tri kỷ nâng đỡ, Cẩm Lê duy trì được ơn bình an và để cho Ðặng Thế Vinh, chồng nàng được hoàn toàn tự do chọn lựa như ý chàng muốn.
Chúa đã tỏ ra rất quảng đại với những tâm hồn quảng đại. Ngài đã cho Ðặng Thế Vinh vượt qua cơn khủng hoảng để nhận ra Ngài là trung tâm của đời mình. Cẩm Lê và Ðặng Thế Vinh giờ đây trở lại với đức tin và tình yêu một cách mới mẻ, mỗi người vững vàng cậy dựa vào Chúa để có thể yêu thương nhau cách quảng đại và vô điều kiện, nhờ sức mạnh tình yêu của chính Thiên Chúa.
Cũng sức mạnh ấy khiến các tông đồ đang tan rã được qui tụ lại để xây dựng Giáo Hội
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại lần loan báo thứ hai về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ðức Giêsu. Cùng với lần loan báo thứ nhất (Mc 8,31-33) và thứ ba (10,32-34), Tin Mừng thánh Máccô hé mở cho thấy sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Ðó chính là sức mạnh giữ cho loài người khỏi tan rã, khởi đi từ hoàn cảnh chia rẽ của các môn đệ.
Ngay từ câu đầu tiên, Tin Mừng Máccô đã cho thấy Ðức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa (1,1) và người đầu tiên nhìn nhận "Quả thật người này là Con Thiên Chúa" (15,39) là một sĩ quan ngoại đạo khi đối diện với Ðức Giêsu và quan sát cách Người tắt thở trên thập giá. Ðó là lúc các môn đệ mà Ðức Giêsu đã gọi và chọn để họ ở lại với Người (3,14) thì lại tan rã mỗi người một ngả. Ðiều đó cho thấy việc nhìn nhận Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa là do sức mạnh từ trên ban xuống, không do ý chí của loài người mà có được. Nếu Ðức Giêsu phục sinh không kiên vững trong tình yêu đối với những kẻ Người đã chọn và đã dày công huấn luyện, thì Nhóm Mười Hai đã chẳng bao giờ được phục hồi làm nên Giáo Hội để hằng ngày tưởng niệm tình yêu của Ðấng hy sinh mạng sống mình vì những kẻ Người yêu: "Ðây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy" (Lc 22,19). Hãy coi tình trạng của Nhóm Mười Hai qua ba đợt loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh củA Ðức Giêsu.
+ Ðợt 1 diễn ra sau khi Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai để tuyên xưng "Thầy là Ðấng Kitô" (Mc 8,29). Ðức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người. Tại sao cấm? Lý do được thấy rõ khi Ðức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần thứ nhất với lời tuyên bố "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cũng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại (8,31), Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người đến nỗi Ðức Giêsu nặng lời quở trách Phêrô: "Satan! Lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người (c.33). Té ra, khi tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, tư tưởng của Phêrô và của Nhóm Mười Hai hướng tới một nhân vật nổi nang nào đó trong xã hội, chẳng hạn một chính trị gia có khả năng giải phóng dân tộc khỏi bị lệ thuộc vào đế quốc Rôma. Do đó huấn dụ của Ðức Giêsu liền sau đó là "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo." (c.34).
+ Ðợt 2 của lời loan báo về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ðức Giêsu, còn gặp một thất vọng lớn hơn nữa. Ðức Giêsu nói với các môn đệ "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và Người sẽ bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại" (Mc 9,31). Nhưng các ông không hiểu lời đó và còn sợ không dám hỏi Người. Tại sao lời loan báo không lọt được vào tai các môn đệ? Ðiều xảy ra liền sau đó giúp cắt nghĩa sự kiện. Máccô cho ta thấy các môn đệ bận tâm về điều ngược hẳn lại với cuộc Thương Khó của Thầy các ông. Trên đường đi Caphácnaum, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả (c.34).
+ Ðợt 3 của lời loan báo về Thương Khó và Phục Sinh của Ðức Giêsu, quả thật, đã là một thất bại hoàn toàn. Các môn đệ bỏ ngoài tai lời Thầy nói: "Này chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư: Họ sẽ lên án tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người. Họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại." Lần này các ông không chỉ cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Trong thực tế hai người trong Nhóm là Giacôbê và Gioan đã vận động để chiếm chỗ cao nhất khi họ nói với Ðức Giêsu: "Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang" (c.37). Kết quả là mười người còn lại trong Nhóm đâm ra tức tối với hai anh em kia. Thế là Nhóm Mười Hai đã bị tan rã do ham hố địa vị. Chỉ khi nào các ông hiểu được Cuộc Thương Khó Ðức Giêsu như dấu chỉ Tình Yêu Thiên Chúa dành cho loài người, khi ấy các ông mới được vững vàng trong Chúa và được hiệp nhất với nhau hầu góp phần xây dựng Giáo Hội của Ðức Giêsu.
Quả thật lời Chúa Giêsu dậy là "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mc 8,34), lời đó luôn có giá trị, không những áp dụng cho Nhóm Mười Hai, nhưng cho mọi Kitô hữu nói chung, như trường hợp Cẩm Lê và Ðặng Thế Vinh trong câu chuyện gợi ý ở trên.
Một số câu hỏi gợi ý
Trong câu chuyện gợi ý bạn nghĩ khi nào Cẩm Lê bày tỏ tình yêu đích thực đối với chồng? Bạn nghĩ tình yêu Thiên Chúa có liên quan gì tới việc đó?
Phản ứng của Nhóm Mười Hai lần lượt xảy ra như thế nào đối với ba lần loan báo về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ðức Giêsu? Sức mạnh nào khiến các ông đang tan rã được qui tụ lại hầu góp phần xây dựng Giáo Hội của Chúa?
Như Chúa Nhật trước, chủ đề nổi bật của Chúa Nhật nầy vẫn là viễn cảnh Tử Nạn của Đức: TN 25-B54
Như Chúa Nhật trước, chủ đề nổi bật của Chúa Nhật nầy vẫn là viễn cảnh Tử Nạn của Đức Giê-su được gợi lên lần thứ hai trong Tin Mừng. Ở nơi chủ đề nầy, ngầm chứa những tranh cãi phàm nhân có thể dẫn đến ghen tuông và thù hằn, thậm chí đến việc sát hại đối thủ của mình. Người Công Chính (bài đọc I và Tin Mừng) là nạn nhân tiêu biểu cho sự ghen tuông và thù hận nầy.
Kn 2: 12, 17-20
Bài đọc I được trích dẫn từ sách Khôn Ngoan. Chính vì cuộc đời đạo hạnh và trung tín của mình mà Người Công Chính bị những người vô đạo lại bách hại cho đến chết.
Gc 3: 16-4: 3
Thư của thánh Gia-cô-bê là cuộc bút chiến lên án những ghen tuông tranh chấp, hậu quả của những đam mê và những khuynh hướng xấu trong khi Đức khôn ngoan của Thiên Chúa là lòng yêu thương anh em mình, quên mình, niềm nở đón tiếp anh em mình, mưu tìm sự hòa đồng.
Mc 9: 29-36
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cho các môn đệ của Ngài cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài, nhưng các ông chưa hiểu và tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong họ. Chúa Giê-su muốn khai lòng mở trí cho họ hiểu rằng trong Giáo Hội của Ngài người lớn nhất là người hầu hạ mọi người. Đó là hình ảnh thân thương của một gia đình: cha mẹ là người lớn nhất trong gia đình lại trở thành con sen đứa ở phục vụ con cái của mình.
BÀI ĐỌC I (Kn 2: 12, 17-20)
1. Bối cảnh:
Tác giả sách Khôn Ngoan là một người Do thái sinh quán ở thành A-lê-xan-ri-a, ông đã viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Thành A-lê-xan-ri-a lúc đó là một trong những trung tâm rực rỡ nhất của văn hóa Hy lạp và đồng thời một trong những thành phố quan trọng nhất của những người Do thái Hải Ngoại.
Quả thật, cộng đồng Do thái ở đây gìn giữ nét đặc thù của mình; tuy nhiên sức cám dỗ của ngoại giáo chung quanh là một thực tại hằng ngày: tính đa dạng của những lý luận triết học, sự phát triển của các bộ môn, tôn giáo tổng hợp, sức hấp dẫn của những tôn giáo mầu nhiệm, vân vân. Ở đây cũng có những người bội giáo càng lúc càng đông. Tác giả viết để phòng ngừa những sa ngã mới cho những đồng đạo của ông. Với sự sáng suốt của một hiền nhân, ông làm chưng hửng tiến trình ghen ghét được phát triển ở giữa họ, từ ước muốn dập tắt những lời quở trách gây phiền hà họ, cho đến ước muốn làm khổ, đoạn làm hại người công chính lòng dạ sắc son.
2. Lập luận cực đoan của quân vô đạo:
Đoạn văn của sách Khôn Ngoan nầy không trực tiếp là một sấm ngôn liên quan đến cuộc Tử Nạn của Đức Ki tô; đây là một phân tích tâm lý mô tả tình trạng tinh thần của những người Do thái bội giáo trước cuộc sống đạo hạnh của người công chính. Tấm lòng trung tín của người công chính đối với họ là một lời trách cứ thường hằng. Sự phẩn nộ của họ đã đẩy họ đến lập luận quá khích, dẫn họ đến làm khổ và sát hại người công chính: “Ta hãy gài bẩy hại người công chính, vì nó làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm luật Chúa và hạch ta không giữ lễ giáo. Ta hãy xem những lời nó nói có thật không và nghiệm xem cuối cùng nó sẽ ra sao”. Tiến trình thù ghét nầy một ngày kia được áp dụng chống lại Người Công Chính tuyệt hảo. Vì thế, sứ điệp nầy mặc lấy một khía cạnh ngôn sứ.
3. Người công chính chịu đau khổ:
“Nếu người công chính là con Thiên Chúa, thì Người sẽ phù hộ nó”.
Tước hiệu “con Thiên Chúa” là tước hiệu dân Chúa chọn, họ tự kiêu, hãnh diện vì Thiên Chúa đã công bố họ là con cái của Ngài; nhưng trong trường hợp nầy tước hiệu nầy mặc lấy một cung giọng ngôn sứ, vì đây sẽ là lý do mà Thượng Hội Đồng Do thái sẽ nại đến để kết án tử Đức Giê-su: “Người nầy tự xưng mình là Con Thiên Chúa”. “Ta hãy lên án cho nó phải chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm”.
Những lời nầy nhắc nhớ Tv 22, mô tả người công chính bị bách hại kêu gào nỗi khốn khổ của mình nhưng cũng niềm cậy trông của mình vào Đức Chúa. Chính Thánh vịnh này mà trên Thập Giá Đức Giê-su trích dẫn: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”.
Những kẻ thù của Đức Giê-su sẽ trích cũng câu nầy đối mặt với nạn nhân của họ đang hấp hối trên thập giá: “Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 43). Tác giả sách Khôn Ngoan áp dụng những lời nầy vào dung mạo của Người Công Chính lý tưởng gần một trăm năm trước đó.
BÀI ĐỌC II (Gc 3: 16-4: 3)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Những lời khuyên nhũ theo hình thức của những châm ngôn nhắc nhớ cách thức của các sách minh triết Cựu Ước, nhưng mang hơi thở Tin Mừng.
Thánh Gia-cô-bê đã nhiều lần khai triển mối phúc: “Phúc thay những người nghèo khổ!”. Đoạn văn nầy minh họa một mối phúc khác, “Phúc thay ai xây dựng hòa bình!”.
Đoạn văn nầy có hai phần:
1. Phần thứ nhất (3: 16-18)
Trong phần thứ nhất, tác giả đối lập những tranh chấp gây gỗ của con người với đức khôn ngoan của Thiên Chúa, Đức khôn ngoan “làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mền dẻo, mến chuộng điều lành, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình”. Việc liệt kê dài những phẩm chất của đức khôn ngoan nhắc nhớ bài ca đức mến trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Ccô-rin-tô: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tuông, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13: 4-7). Nhưng thánh Gia-cô-bê đặt dấu nhấn chủ yếu trên sự hòa bình, hòa bình dập tắt những tranh chấp cải cọ vì “người xây dựng hòa bình là người gieo giống trong hòa bình; và hoa trái họ thu hoạch được là cuộc đời công chính”.
2. Phần thứ hai (4: 1-3)
Trái ngược với đức khôn ngoan của Thiên Chúa là những xung đột ở bên trong con người, ở đó những ham muốn là nguyên do sâu xa nhất của “những hành động hung ác”. Cung giọng của tác giả trở nên khẩn thiết, văn phong được đẩy cao đến mức ngoa dụ: “Anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột nhau, gây chiến với nhau”.
Cách diễn tả dữ dội nầy, chúng ta cũng gặp thấy thánh Gioan sử dụng trong thư thứ nhất của thánh nhân: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân” (1Ga 3: 15). Những từ ngữ và hình ảnh ở đây thuộc thể loại bút chiến.
Là Giám mục Giê-ru-sa-lem, thủ lãnh Giáo Hội Mẹ, thánh Gia-cô-bê cảm thấy mình chịu trách nhiệm về những tín hữu xa xôi của mình; thánh nhân đặt tất cả hồn tông đồ của mình trong những lời kêu gọi sống cuộc sống Ki tô hữu chân chính.
TIN MỪNG Mc 9: 30-37
Trong đoạn trích Tin Mừng này, ý tình đan quyện vào nhau, tâm tư tình cảm dạt dào đầy cảm xúc.
Đức Giê-su thực hiện giai đoạn sau cùng của sứ vụ Ga-li-lê của Ngài; Ngài trở lại lần cuối cùng thành Ca-phác-na-um được xem là bản doanh sứ vụ của Ngài. Từ đó, Ngài sẽ lên Giê-ru-sa-lem để bước vào con đường Tử Nạn của Ngài. Chúng ta biết rằng tại các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Chúa Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần, trong khi Tin Mừng Gioan tường thuật Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem nhiều lần vào dịp các ngày đại lễ.
1. Loan báo lần thứ hai cuộc Tử Nạn và Phục Sinh.
Khi đi ngang qua miền Ga-li-lê, Đức Giê-su tránh đám đông; Ngài giới hạn giáo huấn của Ngài chỉ vào các môn đệ của Ngài. Khi Thầy trò đang đi trên đường, Ngài gợi lên lần thứ hai viễn cảnh cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài; Ngài lấy lại các từ ngữ hầu như y hệt lời loan báo thứ nhất: “Con Người sẽ bị nốp vào tay người đời”.
Động từ “nộp” ở đây có nghĩa rất mạnh, nhưng được dùng ở thể thụ động “bị nộp” muốn nói lên điều gì? Sau nầy, thánh Mác-cô sẽ vạch mặt chỉ tên những kẻ nộp Đức Giê-su để đưa Ngài đến cái chết: đó là ông Giu-đa (14: 10), các thượng tế (15: 1) và quan tổng trấn Phi-la-tô (15: 15). Tuy nhiên, đây cũng là hình thức thông dụng mà người Do thái thường dùng để chỉ Thiên Chúa là tác nhân mà tránh nêu danh Người ra vì lòng tôn kính. Vì thế, cái chết của Đức Giê-su có thể quy trách cho những kẻ tội lỗi gây ra, nhưng đó không là một sự cố đơn giản xảy ra trong lịch sử. Các Ki tô hữu sẽ cắt nghĩa “điều kỳ chướng” nầy bằng cách cho thấy nó nằm trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà lời loan báo đầu tiên diễn tả: “Con người phải chịu nhiều đau khổ”.
“Vào tay người đời”, đây là diễn ngữ kinh thánh để chỉ những kẻ thù không có lòng xót thương; ở đây, diễn ngữ nầy hình thành nên một sự đối chiếu thống thiết với danh xưng “Con Người”. Với danh xưng “Con Người” nầy, Đức Giê-su nhấn mạnh nhân tính của Ngài. Như bao nhiêu con người khác, Ngài cũng biết đau khổ và sự chết đang chờ đợi Ngài, nhưng vận mệnh của Ngài được hoàn tất theo thị kiến của Đa-ni-en trong vinh quang. Vì thế, như sau lần loan báo đầu tiên về cuộc Tử Nạn của mình, Đức Giê-su lại nói thêm lời hứa về cuộc Phục Sinh của Ngài.
2. Sự cô đơn của Đức Giê-su:
Mỗi lần Chúa Giê-su loan báo rõ ràng cuộc Tử Nạn của Ngài, thánh Mác-cô đều nhấn mạnh đến “sự ngu muội” chậm hiểu của các môn đệ (8: 32; 9: 32). Các ông không hiểu, nhưng không dám hỏi Ngài; thay vì đó, các ông lại nghĩ đến việc khác. Các ông đinh ninh rằng việc đi lên Giê-ru-sa-lem lần nầy chắc hẳn Thầy mình sẽ thực hiện sứ mạng của Đấng Mê-si-a, Ngài sẽ thiết lập vương quốc của Ngài; vì thế, các ông bắt đầu tranh luận về những đặc quyền đặc lợi của họ giữa nhóm, xem ai là người lớn hơn cả.
Đức Giê-su không dự phần vào cuộc tranh luận của họ; chắc chắn Ngài đi riêng một mình: thánh Mác-cô ghi nhận rằng vào lúc loan báo lần thứ ba cuộc Tử Nạn của Ngài, “Ngài dẫn đầu các ông” (10: 32). Không ai trong nhóm Mười Hai, những người mà Ngài đã gắn bó suốt ba năm nay, hỏi Ngài về vận mệnh đau thương mà Ngài mời gọi họ dự phần vào. Nói cho cùng, ở nơi họ Ngài không gặp thấy sự đồng hội đồng thuyền với Ngài. Đây là khúc dạo đầu cho việc bỏ rơi hoàn toàn mà Ngài sẽ nhận biết vào lúc Ngài bị bắt. Chúng ta cảm thấy nỗi đau đớn của Ngài qua cách trình bày giản dị của đoạn Tin Mừng nầy.
3. Bài học về sự phục vụ:
Khi đến thành Ca-phác-na-um, vào trong nhà, Đức Giê-su hỏi các môn đệ: “Dọc đường, anh em tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?” Các ông làm thinh, không ai dám thú nhận đề tài làm họ bận lòng. Nhưng Đức Giê-su không cần ai nói với Ngài. Vả lại, bài học mà Ngài sắp cho họ có thể giúp cho họ hiểu một cách gián tiếp những lời của Ngài mà vào giây phút nầy, họ đã không thể hiểu được: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
Với giáo huấn về sự phục vụ nầy, Đức Giê-su đả đảo ngược trật tự thông thường của phẩm trật nhân loại: ăn trên ngồi trước, hưởng những đặc quyền đặc lợi, mà Ngài đã rất dị ứng ở nơi cách sống của những người Biệt Phái. Có lần Ngài đã nói lên ý nghĩa của sứ mạng của Ngài: “Con Người đến không để được phục vụ nhưng để phục vụ”.
Đức Giê-su sẽ đưa ra một mẫu gương rõ ràng hơn nữa vào bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ, Ngài rời chỗ ngồi danh dự của Ngài, mặc bộ đồng phục kẻ hầu người hạ và cúi xuống mà rửa chân cho các môn đệ của Ngài (Ga 13: 4-16) với lời dạy rõ ràng: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13: 13-15).
Nhưng ngay từ bây giờ, Ngài ban cho họ một bài học đặc biệt, soi sáng mặc khải trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, con đường tiến về cuộc Khổ Nạn của Ngài, ở đó Ngài đích thân minh họa sứ điệp của Ngài: Ngài sẽ bị đối xử như người rốt hết và sẽ chịu khổ hình của những kẻ nô lệ. Sau điều đó, Ngài sẽ là người đầu hết, trưởng tử của một nhân loại mới. Ngài ngầm hướng tư tưởng của các môn đệ Ngài về sấm ngôn Người Tôi Trung của I-sai-a.
4. Bài học về đức khiêm hạ:
Để có thể nhổ tận gốc rể tính tự cao tự đại và tự mãn của các môn đệ Ngài, Đức Giê-su cho một ví dụ khác. Ngài đem một em nhỏ đặt giữa các ông và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em nầy vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Chúa Giê-su đối lập thế giới người lớn tự phụ và tham vọng với thế giới trẻ thơ. Trẻ thơ có nhiều đức tính mà người môn đệ của Ngài phải học: chúng biết rõ thân phận yếu đuối nhỏ bé của mình, vì thế, chúng không phô trương sự khôn ngoan và quyền hành của mình, nhưng bày tỏ một niềm tin tưởng đơn sơ và chân thành. Hơn thế nữa, trong Tin Mừng, những kẻ yếu đuối nhỏ bé lại là đàn chiên của Ngài mà Ngài tận tình chăm sóc và hy sinh mạng sống mình cho chúng (Ga 10: 11-15), đó cũng là những “chiên con” mà Ngài sẽ trao gởi cho thánh Phê-rô chăm sóc với lời căn dặn đến ba lần phải yêu mến Ngài hơn bất cứ ai (Ga 21: 15-16).
Trang Tin Mừng nầy là một trong những trang làm chứng về sự chân thật của các sách Tin Mừng. Các Tông Đồ đã không có lý lẽ để tự phụ về mình ở nơi tình tiết nầy; tuy nhiên họ đã để lại tình tiết nầy cho những thế hệ sau nầy, vì nhận ra một cách khiêm tốn tâm trí chậm hiểu và thiếu độ nhạy bén của mình.
Sức hấp dẫn và lôi cuốn của Giáo Hội Đức Ki tô không phải ở nơi việc phô trương những quyền cao chức trọng, nhưng là ở nơi thái độ khiêm tốn hạ mình xuống mà phục vụ những người anh em bé nhỏ đơn sơ chân thành. Nói cho cùng, đây là tâm tình của một gia đình, ở đó cha mẹ là người lớn nhất nhưng đã biến mình thành con sen, đứa ở để phục vụ con cái của mình.
Muốn làm lớn, muốn tỏ ra mình là người có giá trị, hay nói khác đi, muốn tự khẳng định mình là TN 25-B55
Muốn làm lớn, muốn tỏ ra mình là người có giá trị, hay nói khác đi, muốn tự khẳng định mình là một nhu cầu hết sức quan trọng và được biểu hiện bằng nhiều hình thức trong cuộc sống.
Thời Chúa Giê-su, các vị kinh sư và các người biệt phái tự khẳng định mình bằng cách "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi". (Mt 23, 5-7)
Ngay cả các môn đệ Chúa Giê-su cũng hay tranh luận với nhau giữa họ ai là người lớn nhất. Điều nầy đã được ghi lại nhiều lần trong Tin Mừng (Mc 9, 33-34; Lc 9, 46; Mt 18,1; Lc 22, 24).
Có lần, hai môn đệ Gioan và Giacôbê cùng với mẹ mình đến xin Chúa Giê-su cho ngồi bên tả bên hữu Chúa khi đến thời Người được hiển vinh. Bấy giờ, mười môn đệ kia tỏ ra bất bình với Gioan và Giacôbê vì anh em nhà nầy muốn giành trước hai chiếc ghế mà họ đang ngấp nghé. (Mt 20, 20-24; Mc 10, 35-37)
Đó là khát vọng chung của con người. Ai cũng muốn nổi bật, ai cũng muốn vươn cao; không ai muốn bị lu mờ. Nói chung, ai cũng muốn làm gia tăng giá trị của mình.
Đây là một khao khát rất tự nhiên. Chính Thiên Chúa đã đặt vào tâm hồn con người khát vọng đó để thúc đẩy họ vươn lên thành những người cao cả. Chúa Giê-su cũng kêu gọi các môn đệ vươn tới đỉnh trọn lành: "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48)
Làm thế nào để trở thành người cao cả thật sự
Có người cố làm tăng giá trị của mình bằng cách trang điểm thân xác. Tuy nhiên, người ta không thật sự trở nên cao cả nhờ nhan sắc, vì "tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người".
Có người tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng của cải vàng bạc, nhưng thực ra, "giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu".
Có người trau dồi và phát huy tài năng cho người ta nể phục, hoặc cố giành những địa vị cao trong xã hội để nâng giá trị mình lên.
Còn Chúa Giê-su, nhân cơ hội các môn đệ tranh cãi sôi nổi ai là người lớn nhất, Người chỉ cho họ một cách để thực sự trở thành cao cả: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" (Mc 9,35)
Lời dạy của Chúa Giê-su xem ra trái nghịch với suy nghĩ của người đời. Thông thường, muốn làm lớn thì phải tôn mình lên để thống trị người khác; đằng nầy Chúa Giê-su dạy phải hạ mình xuống làm tôi tớ hầu hạ mọi người. Thật thế sao?
Ngày 5 tháng 9 năm 1997, cả thế giới xúc động, thương tiếc và bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa khi hay tin một nữ tu già nua, thấp bé mang danh Tê-rê-xa qua đời tại Calcutta, Ấn-độ ở tuổi 87. Nhà Nước Ấn-độ, một quốc gia phần đông theo Ấn-giáo, đã long trọng tổ chức quốc táng cho Mẹ Tê-rê-xa, một nữ tu khiêm tốn bình dị công giáo, người gốc An-ba-ni! Thật là điều không tưởng tượng nổi.
Tại sao Mẹ Tê-rê-xa lại được vinh dự lớn lao như thế?
Vì Mẹ đã thực hành đến mức hoàn hảo điều mà Chúa Giê-su truyền dạy cho các môn đệ Người trong Tin Mừng hôm nay. Đó là hạ mình làm tôi tớ hầu hạ phục dịch những con người nghèo thiếu và khốn khổ nhất thế gian với lòng yêu thương vô hạn.
Cuộc đời của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta là một bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng giáo huấn của Chúa Giê-su là xác đáng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" (Mc 9,35)
Như thế, phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ chính là con đường đưa tới vinh quang.
Vấn đề làm lớn, làm bé vẫn là vấn đề muôn thuở của con người. Thường ở đời, con người vẫn: TN 25-B56
Vấn đề làm lớn, làm bé vẫn là vấn đề muôn thuở của con người. Thường ở đời, con người vẫn có kuynh hướng thích làm lớn, thích ăn trên ngồi trước chứ chẳng ít có người muốn làm bé và thích ngồi ở dưới. Chúa Giêsu lại dạy người ta khác: “ trong Nước Thiên Chúa, người chót hết và phục vụ mọi người sẽ là người lớn nhất. Lời dạy của Chúa Giêsu và với suy nghĩ của Ngài làm cho các tông đồ lúc bấy giờ không mấy phấn khởi. Do đó, Chúa đã giới thiệu với các ông một em bé và mời gọi Giáo Hội tiên khởi hãy ân cần, nhiệt tâm đón tiếp những người cha gửi đến, xuất hiện trong khiêm tốn và nghèo hèn.
Đức Giêsu loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó và sống lại của Ngài. Thế nhưng Tin Mừng của thánh Máccô hôm nay cho biết, các môn đệ không hiểu, nên lấy làm lơ là, khó chịu, tệ hơn họ còn tranh luận dọc đường với nhau về việc ai sẽ làm lớn trong nước Thiên Chúa. Đây là một nét chẳng vẻ vang gì của các môn đệ, những người thân tín của Chúa, những người được Chúa tin tưởng, nhưng lại còn u tối về sứ mạng của Chúa. Ở đây, các thánh sử viết Tin Mừng ghi lại nét này để nhắc nhở nhân loại, nhắn nhủ con người rằng con người sẽ triền miên gặp khó khăn trong đời sống hoàn thiện, đời sống đạo, đời sống tâm linh bởi vì con người sẵn sàng cho đi nhưng luôn luôn muốn lấy lại chính mình. Bài đọc I của sách Khôn Ngoan gợi lên những thách thức của kẻ gian ác đối với người công chính.Mặc dù, gặp trăm ngàn thử thách, đắng cay, chống đối, phỉ báng nhưng Thiên Chúa vẫn nâng đỡ, che chở, hộ phù, an ủi người công chính. Thực tế, người công chính ám chỉ dân Israen và tiên báo về Đức Giêsu, người Con Một duy nhất và là người con chí ái yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Nên, ai muốn theo Chúa:” phải vác thập giá mà theo Chúa, nghĩa là phải tiếp nối con đường Chúa đã đi “. Ai tranh đấu cho công bằng, lẽ phải cũng như các ngôn sứ xưa sẽ gặp phải nhiều chống đối, phỉ bang, vu khống và bị bách hại.
Nước Thiên Chúa luôn khác với nước đời. Cơ cấu, tổ chức của nước Thiên Chúa cũng hoàn toàn khác với thế gian. Chính vì thế, trong nước trời, Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Thầy, còn mọi người đều bằng nhau, đều là anh em của nhau,đều phục vụ, yêu thương, cảm thông, quảng đại với nhau. Chúa dạy trong nước của Ngài, mọi người đều là tôi tớ của nhau, nghĩa là trung thành hầu hạ nhau cách nhưng không, vô điều kiện, không vì chức vị, danh vọng, ham hố lợi lộc tiền của nhưng tất cả đều phục vụ lẫn nhau vì có chung một Thiên Chúa là Cha. Theo Chúa trong cơ cấu của nước trời, phục vụ hoàn toàn khác với tổ chức trần gian:” Chúa đến không phải để được hầu hạ mà để hầu hạ mọi người “.
Trong nước Thiên Chúa, người lớn nhất là người phục vụ nhiều nhất, hăng say, không cân đo, không tính toán. “ Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người “ ( Mc 9, 35 ). Đây quả thực là một cuộc cách mạng lớn của Đức Giêsu Kitô. Cuộc cách mạng này làm đảo lộn mọi suy nghĩ về làm lớn làm bé của các tông đồ. Người làm lớn theo quan điểm của Chúa Giêsu là người dùng đôi tay để phục vụ chứ không dùng quyền hành để cai trị.Người lớn nhất theo Đức Kitô là người dùng con tim để yêu thương chứ không dùng sức mạnh, dùng quyền bính để lãnh đạo, để thống trị. Thánh Giacôbê đã viết:” những đức tính mà những người đi phục vụ phải tập và phải có là ôn hòa, bao dung, không xét nét, không thiên vị, ba hoa, khoác lác, nhưng xây dựng sự an bình”.
Thời nào cũng vậy có những người ham hố danh vọng, thích ăn trên ngồi trước nhưng lại có rất nhiều người luôn họa theo mẫu của Đức Giêsu Kitô:” yêu thương như Ngài và phục vụ như Ngài “. Họ luôn coi nước trời là đích đến, lấy tình thương làm thước đo và đặt sự trung tín nơi Chúa làm mục tiêu tiến bước. Những con người này coi thường cả mạng sống, hy sinh tất cả để tiếp tục tuyên tín như thánh Phêrô:” Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.” Bỏ Thầy con biết theo ai vì Thầy mới có những Lời ban sự sống “. Hoặc:” Thầy biết con yêu mến Thầy “.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn biết sống khiêm tốn phục vụ trong yêu thương hiệp nhất. Amen.
Trên quãng đường từ Galilê về Caphácnaum, trong khi Chúa Giêsu muốn âm thầm đồng hành TN 25-B57
Trên quãng đường từ Galilê về Caphácnaum, trong khi Chúa Giêsu muốn âm thầm đồng hành cùng các môn đệ để dành thời gian hé lộ thêm cho các ông về việc “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại”, thì các môn đệ tuy không hiểu và cũng không dám hỏi về vấn đề “nhậy cảm” ấy, thay vào đó, các ông xem ra có vẻ hứng thú với những chuyện “nhỏ to” về việc xem ông nào là lớn nhất, là oai nhất trong nước Trời. Chúng ta hãy xem giáo huấn của Chúa Giêsu về vấn đề này như thế nào.
Chúng ta thấy trong khi Chúa Giêsu đang tiến gần đến ngày phải đương đầu với cuộc Khổ nạn, với cái chết thì các môn đệ của Người vẫn cứ “vô tư” tranh cãi với nhau về mỗi chuyện “rất trẻ con”, xem ai là người lớn nhất, oai nhất trong vương quốc của Thầy mình. Cho đến bây giờ, các ông vẫn xem việc theo Chúa Giêsu để được hưởng vinh hoa, phú quý và quyền lực mà bỏ ngoài tai những lời loan báo về đường khổ nạn của Chúa. Nước trời đối với các ông là nơi mà ở đó, các ông đóng vai của những quan lớn oai phong lẫm liệt, là nơi để các ông vinh thân phì da. Hoá ra, theo Thầy bấy lâu nay, các ông vẫn chưa giác ngộ một điều, rằng việc bước theo Thầy là bước theo đường phục vụ hy sinh, là bước theo đường khổ giá để mưu ích cho đồng loại.
Chúa Giêsu đã kịp thời “uốn lại” những ngộ nhận, những mơ tưởng tư lợi nhỏ nhen, hướng các ông đến với giáo huấn về ơn gọi Phục vụ dấn thân. Chúng ta biết trong xã hội Dothái xưa, trẻ em được xem là đối tượng không đáng để tôn trọng. Lý do có lẽ là vì chúng không có khả năng tự vệ, hoàn toàn sống sống lệ thuộc vào người khác. Và vì thế, chúng là đối tượng dễ dàng bị người ta khinh thường, xem chẳng có giá trị gì. Chúa Giêsu đã lấy chính đối tượng “hạng bét” này trong xã hội để dạy cho các môn đệ về bài học phục vụ.
Trong giáo huấn này, Chúa Giêsu đã đảo lộn trật tự mà từ xưa đến nay, theo lẽ tự nhiên, con người cũng như loài vật vẫn áp dụng: Kẻ mạnh thống trị người yếu hơn mình. Giáo huấn của Chúa ở đây là “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Xa hơn nữa đó là việc Chúa Giêsu xem việc tiếp rước những em nhỏ- đối tượng nghèo hèn đúng nghĩa nhất- là tiếp rước chính Chúa và cũng là tiếp rước chính Chúa Cha. Như thế, từ nay, một trật tự mới được thiết lập, nó phá vỡ những trật tự cố hữu từ bao đời nay. Từ nay, chính giao huấn mới mẽ này sẽ là khuôn vàng thước ngọc, là kim chỉ nam cho hết những ai bước theo Chúa Giêsu trên con đường dấn thân phục vụ.
Chúng ta thấy giáo huấn của Chúa Giêsu mang tính cách cách mạng, đảo ngược khuynh hướng thống trị tự nhiên của con người: “ông chủ trở nên người phục vụ, trở thành đầy tớ cho mọi người”. Đây là một bài học lớn về thái độ khiêm tốn và tâm hồn nghèo khó, một sự từ bỏ quyền thống trị trên người khác của những ai muốn làm môn đệ Chúa. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã đi bước trước trên con đường này, để nêu gương cho chúng ta. Là Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã không màng đến địa vị cao quý, xuống trần gian, mặc lấy thân xác phàm hèn của con người để yêu thương, chung sống và phục vụ con người. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố cách rõ ràng “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người ” (Mt 20, 28).
Người Kytô chúng ta dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn được kêu mời dấn thân phục vụ. Tinh thần phục vụ Kytô giáo mang sắc thái rất khác so với tinh thần phục vụ theo kiểu hiện sinh. Khác, bởi vì người Kytô chúng ta được mời gọi dấn thân phục vụ cách vô vị lợi; Khác, bởi vì khi dấn thân phục vụ anh em đồng loại, chúng ta không tìm vinh quang cho cá nhân mình mà làm cho Danh Chúa được tôn vinh; Khác, bởi vì chúng ta nhìn ra đối tượng phục vụ không ai khác chính là hình ảnh của Chúa Giêsu - Đấng vẫn đang ẩn hiện trong những người khốn khổ nghèo hèn. Do đó, phục vụ họ cũng chính là phục vụ Chúa Giêsu, làm cho họ được an vui hạnh phúc cũng chính là làm cho Chúa Giêsu được hân hoan. Thế nên, tinh thần dấn thân phục vụ tha nhân của Kytô giáo mãi luôn là tinh hoa không chỉ cho người Kytô mà còn cho toàn thể nhân loại.
Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI trong thông điệp “Thiên Chúa là Tình yêu” có nhắc đến cảm nghiệm thiêng liêng của người về tinh thần dấn thân phục vụ. Người viết: “Chỉ có việc phục vụ tha nhân mở mắt cho tôi thấy điều Thiên Chúa làm cho tôi và Ngài đã yêu thương tôi như thế nào” (Thông điệp “Thiên Chúa là Tình yêu” số 18). Xin cho Lời Chúa hôm nay thêm sức mạnh cho chúng ta trên đường phục vụ Chúa và tha nhân. Câu hát “phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình…” như một lời mời gọi và thúc giục chúng ta…
Có người dí dỏm rằng mô-đen ( mode ) là sự tái hiện cái đã bị lịch sử đào thải. Hết kiểu tóc dài: TN 25-B58
Có người dí dỏm rằng mô-đen ( mode ) là sự tái hiện cái đã bị lịch sử đào thải. Hết kiểu tóc dài rồi lại tóc ngắn. Tóc ngắn một thời rồi người ta lại để tóc dài, và sau đó trở về tóc đầu đinh, kiểu húi cua hay láng bóng như chưa mọc tóc. Các kiểu mô-đen y phục cũng tương tự. Các kiểu dáng rộng hẹp, dài ngắn cứ luân phiên thay đổi nhau. Hình như ít có sự gì mới ở dưới trần gian này, nhất là những vấn nạn liên quan đến ý nghĩa cuộc đời con người. Một trong những vấn nạn ấy là nguồn gốc của các hiện hữu, cách riêng của loài người.
Những chuyện xem ra lạ đời như chuyện đồng tính luyến ái đang nở rộ đó đây, đặc biệt tại các nước ở phương trời Âu, Mỷ, thì vốn đã xuất hiện từ xa xưa mà câu chuyện hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh chứng. Bàng bạc trong thuyết bất khả tri hay trong chủ nghĩa hoài nghi và rồi cách minh nhiên trong chủ thuyết vô thần, người ta chủ trương rằng các hiện hữu đời này là do bởi tự nhiên hay ngẫu nhiên. Tác giả sách Khôn ngoan xưa đã từng ghi lại nghĩ suy của “quân vô đạo” như sau: “Đời ta thật buồn sầu vắn vỏi: không thuốc nào chữa cho khỏi chết, chẳng ai biết có kẻ nào thoát được cõi âm ty. Bởi ngẫu nhiên ta đã ra đời, rồi lại như chưa hề có mặt…”(Kn 2,1-2 ). Với cái nhìn về cuộc đời như trên, người ta sẵn sàng hô hào: “ Nào đến đây, hưởng lấy của đời này, tuổi còn trẻ, ta cố mà tận dụng hết những chi đang có sẵn trên trần…Ta hãy bức hiếp tên công chính nghèo hèn, kẻ góa bụa, ta đừng buông tha, bọn tóc bạc già nua, cũng chẳng nể. Sức mạnh ta phải là quy luật của công lý, vì yếu đuối chẳng làm nên chuyện gì…Nào ta kết án cho tên công chính chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.” ( Kn 2,6-20 ).
Thời Chúa Giêsu, nhóm Xađốc vốn thân chính quyền. Họ được hưởng nhiều lợi lộc mà dĩ nhiên trong đó, ít nhiều cũng có những lợi lộc bất chính, bất minh. Họ là những người đã chủ trương rằng không có đời sau. Trái lại nhóm Biệt phái thì tin có đời sau. Vấn đề đặt ra đó là vì người ta đã theo một vũ trụ quan hay nhân sinh quan nào đó và rồi cách sống của họ chỉ là hệ quả kéo theo hay là người ta dùng, đúng hơn là lợi dụng một cái nhìn, một quan điểm về thế giới, về con người để biện minh cho thái độ sống của mình ? Chúng ta không thể tiên thiên khẳng định điều này hay điều kia đúng. Tuy nhiên với trường hợp của “quân vô đạo” mà sách Khôn ngoan đề cập thì có thể nói là đại đa số trong họ dùng lý lẽ này nọ để biện minh cho lối sống hưởng thụ, bất công, gian ác của mình.
Vậy thử hỏi rằng những người dùng những quan điểm nọ kia để biện minh cho lối sống thiếu lành mạnh, thiếu ngay thẳng của mình, họ có cảm thấy áy náy hay ngượng ngùng khi tuyên bố mọi sự hiện hữu là do ngẫu nhiên chăng ? Theo thiển ý, chắc hẳn ít nhiều ngay từ đầu cũng vẫn có. Tuy nhiên với thời gian, khi thực tiển lại dường như ứng hợp với luận lý của họ một cách nào đó đã khiến họ vững tin vào cái nhìn của mình cũng như an tâm về lối sống của mình. Nếu chuyện ác giả-ác báo lại xảy ra cách nhãn tiền ở đời này, ngay trong quảng đời họ sống, thì chắc chắn những lý lẽ biện minh cho lối sống ích kỷ, hưởng thụ, bất công…sẽ chẳng có thể tồn tại.
Dưới chân thập giá cũng đã có người thách thức, chế giễu chúa Giêsu: “hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn ! Vì hắn đã nói: “ Ta là Con Thiên Chúa !”( Mt 27,43 ). Người công chính duy nhất đáng gọi là công chính để nhờ người mà ơn thứ tha được trao ban cho nhân trần cũng đã thốt lên trong cơn hấp hối: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?” ( Mc 15,34 ).
Ngoài một số lý do về niềm tin độc thần, về thái độ thượng tôn lề luật…các Thượng Tế, luật sĩ, biệt phái khi kết án Chúa Giêsu, họ không thể chối cãi lý do chính yếu ở đằng sau mà ngay cả Philatô cũng thừa biết, đó là: “chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người” ( Mt 27,18 ). Việc họ tìm nhân chứng gian để tố cáo Chúa Giêsu hay tìm cách xách động dân chúng để làm áp lực với Philatô và cắt cử quân linh canh mồ càng nói lên sự bất an của họ về việc họ đã làm ( x.Mt 26,60; 28,62-66; Mc 15,11 ). Thế nhưng sự bất an của “quân vô đạo” dần dà qua đi khi những lời kêu van của người công chính trong Thánh Vịnh: “ Lạy Thiên Chúa, xin đánh chúng bể miệng, gãy răng…”( Tv 58,7 ) chưa thấy được nhậm lời, và chuyện “người công chính sẽ thấy Chúa trả oán, họ sẽ rửa chân trong máu ác nhân” ( Tv 58,11 ) là chuyện như của tương lai xa vời vợi hay là chuyện một đôi khi hiếm họa do sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Đã và đang có nhiều người sống trong lầm lạc vì Chúa đã không nhổ cỏ lùng ra khỏi lúa tốt ( x. Mt 13,24-30 ). Phút giây hấp hối trên thập giá, Chúa Giêsu đã cất lời cầu xin: “ Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” ( Lc 23,34 ). Phải chăng lòng từ nhân của Thiên Chúa vô tình đã trở thành cớ cho người ta lầm lạc ? Chắc chắn không thể quy kết một cách mạo phạm, bất kính như thế. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Chúa Giêsu không chỉ xin Chúa Cha tha cho những kẻ lầm lạc mà còn mở rộng Trái Tim cực thánh để tuôn ban Thánh Thần để mở mắt, mở lòng họ, giúp họ nhận biết sự thật ( Ga 19,34 ). Viên sĩ quan bách quản hôm ấy đã đón nhận ánh sáng chân lý và tuyên xưng: “Quả thật, ông này là người công chính” ( Lc 23,47 ).
Trước sự mê lầm của những người được xem như là “quân vô đạo” của mọi thời, mọi hoàn cảnh, là Kitô hữu, chúng ta nhiều khi còn phân vân tìm cách hành xử. Có người chủ trương là chấp nhân sự bất công và dâng lời cầu nguyện cho họ. Có người lại đề cao việc vạch trần, tố cáo sự giả dối, gian ác, bất công, để sự bất công, gian dối không còn đất sống. Theo thiển ý, chúng ta cần thực thi cả hai cách thế bằng một trái tim biết mở ra như Trái Tim cực thánh Đấng cứu độ, nghĩa là với một tình yêu đích thực muốn cho người cô thế, bị áp bức bất công được giải phóng và muốn cho cả “quân vô đạo” được giác ngộ, nghĩa là biết nhận ra chân lý, trở về với nẽo ngay mà được cứu độ.
Trên đường đến Capharnaum, Chúa Giêsu đã công khai loan báo cuộc thương khó và phục sinh của: TN 25-B59
Trên đường đến Capharnaum, Chúa Giêsu đã công khai loan báo cuộc thương khó và phục sinh của Người lần thứ 2. Lần này Ngài đi thẳng vào vấn đề chứ không rào đón như lần trước. Thế nhưng trước những lời loan báo ấy, thái độ của các mộ đệ thế nào ? Xem ra cả hai lần loan báo của Chúa Giêsu không có tác dụng gì đối với tâm thức của các ông cả, chẳng khác nào nước đổ đầu vịt. Theo những gì Tin mừng thuật lại, ta thấy dường như các ông không hiểu gì hết. Không hiểu một phần vì các ông không muốn hiểu. Không hiểu một phần vì các ông vẫn còn bám vào quan niệm về một Đấng Kitô theo kiểu trần thế.
Mặc dù không hiểu, nhưng các ông lại không dám hỏi. Sống với Thầy gần 3 năm rồi, tự dưng hôm nay thấy Thầy “khó gần” quá đỗi. Thế mới hay! Đây cũng là một nghịch lý “khó ưa” nơi các môn đệ. Thật ra là vì các ông sợ. Sợ điều gì ? Sợ hiểu rõ điều các ông không muốn hiểu. Sợ biết rõ sự thật các ông không muốn biết. Và nhất là sợ bị Chúa Giêsu cho “ăn đòn” như Phêrô hôm trước.
Hậu quả là khi khư khư giữ lấy quan niệm về một Đấng Cứu Thế mang tính chính trị, ô-tô-ma-tíc các ông đã sa vào cơn cám dỗ kinh điển của con người: tranh giành địa vị, quyền lực. Trong thâm tâm các ông vẫn luôn nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ làm một cuộc cách mạng lật đổ ách thống trị của Đế Quốc La Mã và tái lập một vương quốc Israel hùng mạnh. Lúc bấy giờ, chắc chắn các ông, chứ không ai khác, sẽ được tân vương Giêsu bổ nhiệm vào 12 chức vụ quan trọng trong điều đình. Vì mang não trạng như thế, nên không lạ gì dọc đường các ông đã “giành ghế” với nhau. Ai sẽ là tể tướng ? Ai sẽ là Quân sư ? Ai sẽ là Phò mã ? v.v... Quả đúng, quyền lực luôn là vấn đề muôn thuở của con người, ngay cả những người đi theo Chúa. Chiến tranh, chia rẽ, xung đột, đau khổ… cũng từ đó mà ra.
Thế thì Chúa Giêsu đã sửa sai quan niệm và thái độ của các ông ra sao ?
Chúa Giêsu đã nêu cao tinh thần phục vụ cho các môn đệ theo mẫu gương của Ngài. Ngài đã, đang và sẽ phục vụ với tư cách là người rốt hết và là người tôi tớ của mọi người: “Ai muốn làm người đứng đầu thì thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35); “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Thái độ mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải có đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ chứ không phải là thống trị, và phục vụ đến độ sẵn sàng hi sinh cả mạng sống mình: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hy sinh mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mc 10,45). Ngài còn đồng hoá mình với các trẻ nhỏ, đồng hoá mình với những người bé mọn: “Ai đón tiếp trẻ nhỏ này vì danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy” (Mc 9,37).
Rõ ràng ơn gọi của người môn đệ Chúa Kitô là phục vụ, phục vụ theo gương mẫu của Chúa Kitô. Khi ta chỉ lo tìm kiếm địa vị danh vọng và tranh giành quyền lực hơn thua là ta đang sống theo tinh thần thế tục. Ngược lại, khi ta sống tinh thần khiêm nhường phục vụ là ta đang sống ơn gọi làm người môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Phẩm giá của người môn đệ Chúa Kitô được đo bằng chính phẩm chất của việc phục vụ anh chị em đồng loại.
Vậy ta đã sống tinh thần phục vụ thế nào ? Thường thì ta vẫn thích sai khiến, thích thống trị kẻ khác hơn là phục tùng và phục vụ, và nếu có phục vụ đi nữa, ta chỉ thích phục vụ những kẻ giàu sang quyền thế, hay những kẻ trên mình. Ít khi ta tự nguyện hạ mình phục vụ những kẻ nghèo khó thấp hèn. Trong khi đó Chúa lại dạy rằng khi ta phục vụ những kẻ bé mọn là ta đang phục vụ chính Chúa. Mà được phục vụ chính Chúa thì còn vinh phúc nào bằng ! Vậy thử hỏi bao nhiêu lần ta đã đánh mất cái phúc vinh lớn lao này vì đã từ chối phục vụ Chúa trong những người anh em bé mọn ?
Lạy Chúa, chắc là nhiều nhiều lắm, con đếm không nổi rồi Chúa ơi !!!
Phục vụ ! Từ ngữ này nói lên tính cách khiêm nhường, lệ thuộc và hy sinh của người đầy tớ. Bình: TN 25-B60
Phục vụ ! Từ ngữ này nói lên tính cách khiêm nhường, lệ thuộc và hy sinh của người đầy tớ. Bình thường, không ai muốn làm đầy tớ mà chỉ muốn làm ông chủ để được hầu hạ. Ai cũng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị thiên hạ. Nhưng Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng đổi ngược thứ tự này trong xã hội. Ngài tuy là Thiên Chúa mà đã trút bỏ mọi vinh quang của một vị Thiên Chúa, xuống trần làm một người đầy tớ rốt hết để phục vụ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài là “ông chủ” đã tự nguyện biến thành “đầy tớ” khiêm hạ để phục vụ hạnh phúc cho muôn người.
Đã có lần tông đồ Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô”, nhưng theo sự hiểu biết của ông, đây là “Đấng Kitô vinh hiển”, Đấng đến giải thoát dân tộc Do thái khỏi ách đô hộ của người Rôma và làm cho nước Do thái được hùng cường, bá chủ hoàn cầu. Nhưng thực sự, Đức Giêsu lại là “Đấng Kitô đau khổ” “bị loại bỏ, bị giết đi và sau ba ngày sẽ sống lại”. Chính vì không hiểu rõ con người của Ngài, không hiểu được Lời của Ngài, nên các ông chỉ nghĩ đến địa vị thấp cao trong nước Ngài sắp thành lập và đã tranh cãi với nhau xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước đó.
Đức Giêsu muốn sửa đổi quan niệm sai lạc của các ông và vạch ra cho các ông một hướng đi mới khi Ngài nói: ”Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”(Mc 9,36). Sau này, các ông mới hiểu được Lời Chúa và đã đi rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa và đã hiến dâng mạng sống mình cho phần rỗi các linh hồn.
I. LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN
Phát xuất từ vùng miền Bắc đi về Cêsarê Philipphê, Đức Giêsu tiền gần về Giêrusalem. Ngài băng qua xứ Galilê mà ở đó cách đây vài tháng Ngài đã rất thành công, nhưng một sự thành công không rõ rệt. Lần này Ngài không tìm dịp nói chuyện trước công chúng, Ngài chỉ nói với các m6n đệ là mầm mống Kitô hữu tương lai. Và những gì Ngài sắp nói với họ, là chính những luật lệ giúp họ sống trong cộng đoàn Giáo hội. Ngài đã nói với các ông rằng: ”Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”.
Trước lời loan báo này, xem ra Đức Giêsu đã bị thất bại vì họ chưa hiểu được con người thật của Ngài. Trước đây, tuy ông Phêrô đã tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô” nhưng vẫn còn cái nhìn lệch lạc về Ngài. Đây là bằng chứng: khi Đức Giêsu loan báo lần nhất cuộc Thương khó và Phục sinh: ”Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại”(Mc 8,31), Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người đến nỗi Đức Giêsu nặng lời quở trách ông: ”Satan, lui lại đàng sau Thầy ! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”(Mc 8,33).
Té ra, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, tư tưởng của Phêrô và của Nhóm Mười Hai hướng tới một nhân vật nổi nang nào đó trong xã hội. Chẳng hạn một chính trị gia có khả năng giải phóng dân tộc khỏi bị lệ thuộc vào đế quốc Rôma. Do đó, huấn dụ của Đức Giêsu liền sau đó là “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”(Mc 8,34) làm cho các ông bỡ ngỡ và khó hiểu.
Lần thứ hai loan báo về cuộc Thương khó và Phục sinh, Đức Giêsu còn gặp một thất bại lớn hơn nữa. Ngài nói với các môn đệ: ”Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại”(Mc 9,31). Nhưng các ông không hiểu lời đó và còn sợ không dám hỏi Người. Tại sao lời loan báo không lọt vào tai môn đệ ? Điều xẩy ra liền sau đó giúp cắt nghĩa sự kiện. Marcô cho ta thấy các môn đệ bận tâm về điều ngược hẳn lại với cuộc Thương khó của Thầy các ông. Vì thế, trên đường đi Capharnaum, các ông đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả trong Nước mà Đức Giêsu sắp thành lập (Mc 8,34).
II. BÀI HỌC ĐỨC GIÊSU MUỐN DẠY
Marcô kể tiếp: ”Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: ”Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy ? Các ông làm thinh vì khi đi dọc đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”(Mc 9,33-34)
Thật là hoàn toàn bất đồng ý kiến với Thầy của các ông ! Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, còn các ông thì chỉ nghĩ đến “địa vị cao”. Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Messia. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Messia, một vương quốc trần gian mà các ông đã tranh luận xem ai là người đứng đầu khi Chúa và các ông thắng thế.
Bị Chúa hỏi bất ngờ, các ông hổ thẹn không dám nói sự thật, các ông ngậm miệng làm thinh. Sau đó Người ngồi xuống với tư cách là một vị tôn sư, Người ôn tồn dạy bảo: ”Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”(Mc 9,35)
Trong xã hội và tập thể con người (và cũng là luật tự nhiên trong thế giới động vật), người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ tự này: người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chu” trở nên “đầy tớ”. Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.
Nhưng một lần nữa, đó không phải là làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chủ” mà thôi ! Ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người, để “thống trị”, để đoạt giầu sang, quyền thế, bằng cách đè bẹp người khác.
J. Hervieux giải thích thêm: ”Chúa lấy người rốt hết để đối chọi với người đứng đầu, lấy người đầy tớ mọi người đối chọi với người cai quản. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người.
1. Theo khuynh hướng tự nhiên
Trong xã hội ai cũng muốn cho thân mình được đề cao, được khen ngợi, được kính trọng. Ai lại không muốn ăn trên ngồi trước, không muốn cai trị người khác, không muốn được người ta hầu hạ ? Nói chung, ai cũng muốn tranh dành quyền bính trong tay để bắt mọi người phục vụ mình.
Các màn kịch tranh giành quyền bính đã diễn ra từ xưa. Lúc mới dựng nên loài thiên thần, Luxiphe đã tranh ngôi bá chủ với Thiên Chúa. Thiên Chúa buộc lòng phải tống cổ hắn xuống làm bá chủ hoả ngục. Adong Evà cũng đòi đồng hàng với Thiên Chúa và cũng bị tống cổ ra khỏi vườn địa đàng, đến làm vua trái đất khô cằn và chết chóc.
Đến đây chúng ta phải giải đáp một thắc mắc: Người ta có được phép có CAO VỌNG không?Cao vọng là tốt hay xấu?
a) Cao vọng tự nhiên của con người
Thực ra cao vọng không là gì sai trái cả. Người Anh có một câu tục ngữ: ”My place is at the top”: chỗ của tôi phải ở trên cao. Đấy là câu tâm niệm giúp kích thích mọi người phải biết sống vươn lên, không được sống tà tà trên ngọc cỏ, đáng cho các triết gia hiện sinh gán cho cái danh hiệu là “cuộc đời đáng nôn mửa”.
Thực vậy, sống là phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên, cao vọng có thể vượt qua tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình mong ước.
Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh đời sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chỉ cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì ?
Truyện: Tôn Ngộ Không
Trong phim truyện Tây Du Ký, vai trò nổi bật nhất là Ngộ Không. Ngộ Không bá chủ loài khỉ, chưa đủ, anh còn học 78 phép biến hoá, rồi đi thống trị các lân bang. Vẫn chưa hài lòng, Ngộ còn đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh: Tề Thiên là bằng Trời. Đại Thánh là cao sang vĩ đại nhất. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết Ngộ ngạo mạn quá trớn phong cho Ngộ làm mã quan. Ngộ hý hửng tưởng bở, nhưng khi bị sai đi chăn ngựa, Ngộ mới hiểu mã quan là quan coi ngựa. Ngộ bực tức vì ngu mà bị mắc bẫy. Ngộ giận dữ phá phách, bị đại tướng nhà trời đánh đuổi rơi xuống đất bị đè bẹp dưới tảng đá lớn suốt 500 năm để thấy mình bất lực mà ăn năn cải thiện.
Khi đã cải thiện, Ngộ được cứu thoát và gia nhập phục vụ đoàn đi tìm chân lý. Khi Ngộ Không bất mãn, bất phục lệnh, Ngộ lại bị cái vòng kim cô xiết vào đầu làm Ngộ Không nhức óc kêu la thảm thiết. Khi biết tuân lệnh quay về đường phục vụ, thì Ngộ được lành mạnh, tài giỏi. Nhờ biết đi vào con đường phục vụ như tôi tớ, Ngộ Không đã tìm được chân lý và hạnh phúc, và giúp cho cả đoàn tới được chân lý.
Phim truyện có hai màn đối nghịch nhau. Màn đầu: diễn tả cảnh tranh bá đồ vương khủng khiếp của Ngộ Không. Màn sau: diễn tả những việc phục vụ rất đắc lực của Ngộ Không.
(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đ1, năm B, tr 182)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Đức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiều gì về sứ mạng Đức Giêsu. Bởi đó, Đức Giêsu gọi các ông lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.
Đức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vị cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.
b) Cao vọng của các vĩ nhân
Những con người danh tiếng được gọi là vĩ nhân đều có một lý tưởng là phục vụ nhân quần xã hội. Đây không phải là một quan điểm lý tưởng không thể thực hiện, nhưng là quan điểm hết sức phù hợp với lương tri nhân loại. Những nhân vật thực sự vĩ đại, những con người luôn luôn được người đời nhớ ơn vì đã thực sự đóng góp cho đời, không phải là những người đã tự nhủ thầm “Ta có thể lợi dụng đất nước này, xã hội này để gây thêm uy tín cho riêng ta, thực hiện những tham vọng của riêng ta như thế nào đây”, nhưng tự hỏi “Ta phải dùng tài năng mình để phục vụ quốc gia dân tộc mình như thế nào” ? Sự vĩ đại của một người không phải là việc người ấy leo được đến tột đỉnh các nấc thang của quốc gia, xã hội, nhưng ở trong sự kiện người ấy sẵn sàng phục vụ quốc gia dân tộc, xã hội, đồng bào mình bất cứ lúc nào và ở đâu.
Truyện: Nghị viên Paedateros.
Người Hy lạp có một câu truyện về một người ơ thành Spartes tên gọi Paedateros là một ứng củ viên. Người ta chọn và bầu ra ba trăm người để cai trị thành Spartes. Paedateros là một ứng cử viên. Khi danh sách những người trúng cử được công bố, không có tên ông. Một bạn thân của ông ta nói:
Tiếc thật, người ta không bầu cho anh, thiên hạ không biết nếu bầu cho anh, anh sẽ là một chính khách lỗi lạc đến thế nào” ?
Nhưng Paedateros thản nhiên đáp:
Trái lại, tôi rất vui vì trong xứ Spartes này còn có ba trăm người có tài, có đức hơn tôi.
Đây là một người đã đi vào truyền thuyết vì sẵn sàng nhường cho kẻ khác ngôi vị hàng đầu mà không hề tỏ ra cay đắng.
Nhà văn hào R. Tagore cũng có một lý tưởng cao đẹp như thế khi ông nói: ”Khi tôi ngủ, tôi mơ rằng cuộc đời là niềm vui. Lúc thức dậy, tôi thấy rằng cuộc đời là phục vụ. Khi phục vụ, tôi thấy rằng phục vụ là niềm vui”.
2. Theo tinh thần Kitô giáo
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã làm một bài thánh ca để ca tụng tinh thần phục của Đức Giêsu:
Đức Giêsu Kitô Vốn dĩ là Thiên Chúa Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì Địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, Mặc lấy thân nô lệ, Trở nên giống phàm nhân, Sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, Chết trên cây thập tự…. (Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã có một tinh thần khác hẳn với tinh thần thấp kém của loài người. Bởi vì con người tự nhiên thích ngồi chỗ cao, thích được khen ngợi, thích làm lớn và ưa địa vị quan trọng. Đó là cái tật cố hữu của loài người từ ngày tạo thiên lập địa, chứ không phải chỉ là tật xấu của các môn đệ Đức Giêsu. Tật xấu này trái ngược với tinh thần Tin Mừng, Chúa bảo chúng ta phải loại bỏ, vì Tin Mừng chủ trương sống khiêm nhường, quên mình, quảng đại, coi mình không là gì hết, bởi vì hễ ai trở nên bé nhỏ trước mặt loài người, kẻ ấy sẽ được đề cao trước Thiên Chúa. Lòng khiêm nhượng ở đời này là điều kiện và là mức đo sự cao trọng trong Nước Trời.
Truyện: chân phước Charles de Foucauld
Cha Charles de Foucauld,, biệt danh là người hùng sa mạc Sahara, trước đây là một viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld tưởng như vậy là thành công và oai hùng. Nhưng nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời, Foucauld vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời ! Để cho đời mình có ý nghĩa tròn đầy, ông rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong một tu viện ở làng Nazareth. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu bệnh tật. Rồi Chúa lại dẫn lối cho Foucauld đi tĩnh huấn trong sa mạc để đem Tin Mừng cho người Phi châu. Trong đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai, nhưng trong đời tu sĩ, ông đã đem nhiều linh hồn vê với Chúa.
3. Thực hành trong cuộc sống
Chúng ta sống sau những biến cố đau thương của Đức Giêsu, chúng ta suy niệm, học hỏi những biến cố đó. Thế nhưng sau đó chúng ta vẫn còn tranh giành địa vị lớn nhỏ: những chuyện tranh giành ngôi thứ trong các giáo xứ, tức là các môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy nhiều nơi còn phản ảnh tâm trạng của các môn đệ xưa kia. Chung qui cũng tại bản năng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị người khác mà thời đại nào cũng thế.
Đức Giêsu đã dạy chúng ta: ”Hãy làm tôi tớ cho mọi ngườ”(Mc 9,35). Đã là tôi tớ thì phải hầu hạ, phục vụ, giúp đỡ. Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ chính mình. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Đức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”(Cv 20,35). Bởi vì, cho tức là trao tặng cho chính mình.
Người Anh có một câu ngạn ngữ tương tự:
Điều tôi tiêu đi thì tôi có Điều tôi giữ lại thì tôi mất Điều tôi cho đi thì tôi được.
Đó là lý luận của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương con người mới thực sự triển nở và gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới tìm được hạnh phúc đích thật và một sự bình an trong cuộc sống:
Thành quả của sự thinh lặng là cầu nguyện, Thành quả của sự cầu nguyện là yêu thương, Thành quả của yêu thương là phục vụ, Thành quả của phục vụ là bình an. (Mẹ Têrêsa Calcutta)
Truyện: bác sĩ Mike
Bác sĩ Mike trong phim “Vận mệnh” thấy đời mình thất bại nhiều, chồng chết… có ý định tự tử. Tình cờ đỡ đẻ cứu sống được cả mẹ con, lúc ấy Miki bừng tỉnh và thấy đời mình còn có ích cho người khác. Miki quyết định đến một hòn đảo xa phục vụ đồng bào với số ngày còn lại. Và Miki đã thực sự thấy mình được hạnh phúc trong phục vụ.
Để kết thúc, chúng ta hãy lắng nghe trong tinh thần cầu nguyện những lời của bác sĩ Albert Schweitzer, một Kitô hữu vĩ đại thời nay, người đã từ giã những phòng hoà nhạc Au châu để trở thành một bác sĩ thừa sai phục vụ cho người nghèo khổ ở Phi châu:
“Tôi không biết số phận bạn ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: ”Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc”
Tại thế vận hội đặc biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có chín vận động viên đều bị: TN 25-B61
Tại thế vận hội đặc biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có chín vận động viên đều bị tổn thương về thể chất và tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc đua 100m.
Khi súng hiệu nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục trên đường đua. Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và quay lại nhìn. Rồi họ quay trở lại. Tất cả không trừ một ai! Một cô bé bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé:
- Như thế này em sẽ thấy tốt hơn.
Cô nói xong, cả chín người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch đích.
Khán giả trong sân vận động đồng loạt đứng dậy, những người chứng kiến vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện cảm động này.
Cuộc đua nào cũng cần chiến thắng. Nhưng chiến thắng không phải là tất cả, mà ý nghĩa thật sự của cuộc sống là ở chỗ ta giúp đỡ người khác cùng vươn lên, dù ta phải chậm một bước. Bởi lẽ đó, nền văn minh thực sự chỉ có khi con người cùng dìu nhau tiến bước. Không để ai ở lại phía sau. Không đạp đổ ai ngã quỵ. Nhưng cùng nhau vun trồng cây tình thương giữa nền văn minh hôm nay. Cuộc đời sẽ không còn khoảng cách quá xa giữa người giầu và người nghèo, và phẩm giá con người được tôn trọng khi nhân loại biết xiết chặt vòng tay và dìu nhau tiến bước.
Nhưng đáng tiếc cho nhân loại chúng ta, có quá nhiều người tham quyền cố vị. Họ cần địa vị, cần có chức, có quyền để “ăn trên ngồi trốc” thiên hạ. Họ đua nhau leo lên đài cao danh vọng để hưởng những đặc quyền, đặc lợi mà chức tước sẽ mang lai cho họ. Vì quyền, vì lợi mà biết bao người đã chẳng ngại lừa thầy, phản bạn, sống vô ơn, phản phúc. Vì bổng lộc mà biết bao người đã chẳng sợ đánh mất nhân phẩm của mình để chà đạp người dưới và tâng bốc, luồn cúi cấp trên. Có mấy ai sống vị tha, sống quên mình vì lợi ích đồng loại?
Năm xưa, Chúa Giêsu đã rất đau buồn khi nghe các môn đệ thân tín của mình đang kèn cựa nhau địa vị và bổng lộc. Nỗi lòng của Thầy, các môn sinh đâu muốn chia sẻ. Chúa Giêsu thật cô đơn. Cô đơn vì chẳng ai hiểu mình. Cô đơn vì các môn sinh vẫn còn đó bản tính vụ lợi. Chẳng ai nên giống Thầy Chí Thánh. Thầy quên mình vì lợi ích nhân sinh. Trò lại lo vinh thân phì gia. Thầy đang đi dần đến đỉnh cao của hiến tế để cứu độ nhân loại, các môn sinh lại tìm kiếm vinh hoa phú qúy trần gian.
Chúa Giêsu đã không ngần ngại đặt thẳng vấn đề với các môn sinh: “Dọc đường anh em bàn tán điều gì vậy?”. Các ông im lặng làm thinh. Im lặng vì có mấy ai trong lòng không chứa đầy những toan tính vụ lợi. Có mấy ai thanh sạch lòng ngay trước danh vọng mà các ông tưởng chừng như sắp đến tay mình? Im lặng để lắng nghe. Lắng nghe lòng mình để thấy rằng tính tham sân si vẫn còn đó sau bao ngày tháng theo Thầy tầm đạo. Lắng nghe lời Thầy giáo huấn để sửa đổi và bước đi theo gương Thầy chí thánh đã đi.
Chúa buồn nhưng không trách mắng. Chúa kêu gọi các ông thay đổi cách suy nghĩ chứ không ra lệnh. Chúa mời gọi các ông: “ai làm lớn hãy hết mình phục vụ”. Phục vụ với thái độ như một người đầy tớ. Phục vụ không phân biệt sang hèn. Đỉnh cao của phục vụ là không toan tính theo kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Chúa Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ để tượng trưng cho những con người tay trắng, yếu đuối và chắc chắn không có gì để đền ơn đáp nghĩa. Họ mới cần chúng ta giúp đỡ. Họ mới thực sự có nhu cầu để van xin lòng tốt của chúng ta. Họ mới thực sự là đối tượng mà Chúa cần chúng ta rộng tay giúp đỡ. Chúa còn đồng hoá họ trở nên chính Chúa. Thế nên, ai tiếp đón họ là tiếp đón chính Chúa. Và ngược lại, ai từ chối họ là từ chối chính Chúa.
Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu hằng ao ứơc các môn sinh của mình phải suy đi nghĩ lại trong cuộc đời và đem ra thực hành với trọn lòng mến yêu. Đó chính là nét đẹp của người kytô hữu sống đạo theo gương Thầy chí thánh Giêsu. Chính Chúa đã từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa để mặc lấy thân phận con người như chúng ta, và qua đó thánh hoá chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Chính Chúa đã cúi xuống rửa chân cho các môn sinh để từ nay “kẻ làm lớn phải trở thành kẻ phục vụ như một đầy tớ” theo gương Thầy đã để lại.
Có lẽ cuộc đời sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết từ bỏ tham sân si, để sống bác ái vị tha. Cuộc đời sẽ hết khổ đau bởi ganh ghét, tị hiềm và nhân loại sẽ cùng đan tay nhau xây dựng một thế giới đầy yêu thương. Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dùng khả năng, địa vị Chúa ban để phục vụ lẫn nhau trong yêu thương chân thành.
Nguyện xin Chúa là Đường dẫn đến sự thật và sự sống dẫn dắt chúng ta bước đi trên con người mà Chúa đã đi để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn.
Tin mừng theo thánh Máccô hôm nay, Ðức Giêsu loan báo trước về cuộc khổ nạn của Người. "Con Người: TN 25-B62
Tin mừng theo thánh Máccô hôm nay, Ðức Giêsu loan báo trước về cuộc khổ nạn của Người. "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta", đồng thời Người cũng kêu gọi chúng ta sống là người môn đệ đích thực trong phục vụ tha nhân.
Lời loan báo lần này của Ðức Giêsu về cuộc khổ nạn: "bị nộp vào tay người ta", không giống như lời loan báo lần trước: "Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, bị loại trừ, phải chết bởi tay những người lãnh đạo tôn giáo". Ðiều này có nghĩa là: từ khi Ðức Giêsu nhập thể, Người đã "bị nộp" vào tay "người đời chúng ta". Khi loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa, Ðức Giêsu đã bị chống đối, vì người ta không tin Người. Khi lê gót trên các nẻo đường để đến với người nghèo, người bị loại ra khỏi xã hội, Ðức Giêsu đã bị người đời khước từ. Từ ngày nhập thể đến khi tử nạn rồi phục sinh, Ðức Giêsu đã "bị nộp" vào tay con người. Như thế, có thể nói, mỗi lần con người - kể cả chúng ta - không bước theo Ðức Giêsu, không làm theo ý Người trong đời sống mình, tức là chúng ta đã "nộp" Người như những người thời Ðức Giêsu.
"Ai là người lớn nhất ?" - Ðó là người nhỏ nhất. Như thế người môn đệ thực sự của Ðức Giêsu phải trở nên nhỏ và phải tiếp đón người nhỏ (trẻ nhỏ). Tiêu chuẩn của Ðức Giêsu không như của chúng ta. Trở nên nhỏ tức là có khả năng đón nhận, phó thác và tin tưởng. Trở nên nhỏ, tức là ở hàng sau cùng, "tôi tớ" của mọi người. Trở nên nhỏ là mở lòng ra trước mọi kỳ công của Thiên Chúa. Ðức Giêsu đã không chọn những người mà Người muốn phục vụ, vì Người không loại trừ ai. Người đón nhận tất cả. Ðức Giêsu cũng không chọn áp đặt cách thế phục vụ, vì Người không áp đặt ý riêng mình trên người khác. Người khơi dậy tự do, trách nhiệm và tư cách làm con. Ðể trở nên môn đệ thực sự của Ðức Giêsu, chúng ta cũng phải hành động như Người.
Nói tóm lại, Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta xem xét lại những gì có thể "nộp Ðức Giêsu" tức là những gì đi ngược lại đường lối và ý định của Thiên Chúa, đồng thời cũng xem xét tư cách người môn đệ thực sự, tức là phục vụ người khác với tinh thần của người nhỏ nhất: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết".
Lạy Chúa Giêsu, Mỗi ngày Chúa đang hấp hối trên thập giá, khi chúng con không thực thi thánh ý Chúa Cha, khi chúng con "nộp" anh em mình bằng cách không đón nhận họ, không yêu thương đủ. Xin cho chúng con trở thành những môn đệ thực sự của Chúa bằng phục vụ và yêu thương.
Ngày 17 tháng 9 năm 2006 vừa qua, Nữ tu Leonella Sgorbati đã bị ám sát khi đang phục vụ tại: TN 25-B63
Ngày 17 tháng 9 năm 2006 vừa qua, Nữ tu Leonella Sgorbati đã bị ám sát khi đang phục vụ tại Somalia. Toàn thân chị bị bắn bảy phát súng. Chị đã trút hơi thở cuối cùng tại chính bệnh viện chị đang phục vụ. Mặc dù được khuyên rời Somalia nhiều lần, chị vẫn cương quyết ở lại Làng SOS cùng với bốn chị Dòng Thừa Sai An Ủi để phục vụ người nghèo trong Bệnh viện SOS. Giây phút cuối cùng, dù rất đau đớn, chị vẫn thốt lên: “Tôi tha thứ, tôi tha thứ.”[1] Ðó là tiếng vọng từ cây Thánh Giá cho nhân loại hôm nay.
Thật là một gương sáng tuyệt vời cho những ai đang phục vụ Ðức Kitô trong mọi người. Từ nay, phục vụ trở thành tiêu chuẩn đánh giá và xác định vị trí của người lãnh đạo.[2] Ngay từ đầu, Giáo hội đã bước theo Thày Chí Thánh. Ðiển hình là các phụ nữ đã theo giúp Chúa. Các bà không màng địa vị, nhưng “đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Chúa và các môn đệ.”[3] Họ đã để lại một gương hy sinh lớn lao, không phải chỉ cho nữ giới, nhưng cho toàn thể Giáo hội.
Trong khi đó, mặc dù bao năm tháng theo sát gót Ðức Giêsu, các môn đệ vẫn không thấu triệt đường lối Người. Bằng chứng ngay khi Thày đang nói sự thật về thân phận đau khổ, các môn đệ vẫn “nhởn nhơ” và vô tư bàn chuyện chia chác miếng đỉnh chung. Họ không hiểu mình đang theo ai và đang hướng về đâu. Quyền trừ quỷ, chữa bệnh và rao giảng Nước Thiên Chúa cũng không thể xác định chỗ đứng của họ trong cộng đoàn. Chỉ khiêm tốn mới tối cần cho người lãnh đạo Dân Chúa. Ðịa vị càng cao, con người càng cần phải xả thân phục vụ.[4] Nhưng làm sao phục vụ, nếu không khiêm tốn ?
Theo thánh nữ Têrêsa Avila, khiêm tốn chỉ là “bước đi trong sự thật,” sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người. Ðúng như thánh Âutinh nói: “Lạy Chúa, có biết chính mình, con mới biết được Chúa.” Chỉ khi nào biết tin buồn của mình, con mới sẵn sàng, vui mừng và thoải mái đón nhận Tin Mừng của Chúa.[5] Càng biết rõ mình, càng khám phá thấy rõ bộ mặt kẻ thù chống lại Tin Mừng là cái tôi. Càng kiêu ngạo, càng chống báng và xa rời Thiên Chúa.
Sống tự đắc như thế, con người sẽ chẳng cần ai, kể cả Thiên Chúa. Bởi vậy, thánh Phêrô mới khuyên: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường.”[6] Một khi đã bị Thiên Chúa chống đối, con người còn làm được gì ? Bởi vậy, chỉ có người khiêm tốn mới có thể đón nhận được những ơn cần thiết để phục vụ mọi người, nhất là những người đau khổ và nghèo đói. Nhìn vào chính mình, tôi thấy thực tế chưa phục vụ được những người nghèo khổ, chỉ vì chưa đủ khiêm tốn. Khiêm nhường là một ơn trọng đại nhất và cũng là bài học lớn nhất tôi phải cầu xin suốt đời mới thấu hiểu được. Thực vậy, không hăng say cầu nguyện và học biết Chúa Kitô, tôi không thể sống khiêm nhường. Của cải, tài năng, địa vị dễ khiến tôi kiêu ngạo. Có khi tôi tư phụ về cả những điều mình không có. Thật là lố bịch !
Cần phải ý thức sâu xa về những giới hạn, thiếu thốn và tội lỗi của mình trước một Thiên Chúa toàn hảo và chí thánh, tôi mới biết mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa và do đó mới nhiệt tình thi hành ý Chúa trong mọi sự.[7] Có khiêm tốn mới nhận ra mọi giá trị đều phát xuất từ Thiên Chúa. Từ nhận định thực tế và sâu thẳm đó, tôi mới có thể dễ dàng quên mình mà phục vụ tha nhân.[8]
Có khiêm tốn mới có thể thấy được giá trị linh thiêng của cuộc sống con người và phẩm vị tha nhân. Từ đó, mới có thể xây dựng một nền tảng luân lý cho xã hội. Chính vì không đủ khiêm tốn, tôi không thể nhìn thấy giá trị đích thực của con người, và chỉ còn đòi hỏi những quyền lợi bất chính. Tôi sẵn sàng hy sinh nhân mạng và nhân phẩm tha nhân cho những quyền lợi của mình. Từ đó phát sinh những phong trào phá thai nhân danh nữ quyền. Giá trị sự sống con người đang bị đe dọa vì những nhóm nhân bản, nghiên cứu tế bào gốc, đồng tính, án tử hình v.v.
Nếu biết rõ về con người, tôi phải khiêm tốn nhìn nhận quyền Thiên Chúa trên cuộc sống. Mỗi người là một giá trị cần được bảo vệ và phát triển. Từ chỗ khiêm tốn đó, tôi sẽ liên đới và đoàn kết với tha nhân để hoạt động ngăn ngừa xung đột, tránh chiến tranh và giải quyết mọi tranh chấp bằng những phương tiện hòa bình.
Rất nhiều vấn đề mới đang cần nhiều người tài năng giải quyết. Tài năng thật sự không thiếu. Nhưng vượt trên tài năng, cần có những con người khiêm tốn để nhìn thấy trách nhiệm liên đới với người khác trong công cuộc bảo vệ nhân phẩm và tạo lập một cộng đoàn lành mạnh. Mỗi người đều có quyền sống, quyền làm việc, quyền được hưởng đồng lương xứng đáng và công bình, quyền tự do tư tưởng, báo chí, hội họp v.v.
Trong phạm vi xã hội rất cần đến sự hợp tác và liên đới trách nhiệm. Trong thế giới nhỏ bé hôm nay, yêu tha nhân mang chiều kích toàn cầu. Tôi trở thành người gìn giữ anh chị em mình. Nhưng làm sao có thể có cái nhìn và hành động cao đẹp đó, nếu ngay từ trong gia đình, tôi không đủ điều kiện giáo dục để trưởng thành về nhân cách. Cuộc khủng hoảng hôn nhân và gia đình hôm nay cho thấy con người không khiêm tốn đủ để nhìn nhận thấy giá trị và vai trò của nhau. Nhưng đồng thời, cũng tố cáo xã hội ít hỗ trợ và nâng đỡ gia đình. Trong khi đó, nhiều phong trào đang hoạt động mãnh liệt để hạ giá hôn nhân và gia đình.
Nếu sống khiêm tốn, tất nhiên không thể không nhìn thấy địa vị và hoàn cảnh những người kém may mắn hơn mình. Nhiều người ngày nay không còn biết đến công ích và phúc lợi của mọi người, nhất là những người nghèo khổ.[9] Con người ngày càng ích kỷ và hưởng thụ nhiều hơn. Vấn đề ngày càng lớn và rất khó giải quyết. Phục vụ đang mất dần ý nghĩa.
Lạy Chúa, xin cho con biết rõ con là ai. Nhờ đó con sẽ sống khiêm tốn hơn và chân thành hợp tác với mọi người. Amen.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
[1] Zenit 18.09.2006 [2] x. Mc 9:35. [3] Lc 8:1-3. [4] x. Mc 9:35. [5] x. Giáo Lý Công Giáo, số 2540. [6] 1 Pr 5:5. [7] x. The New Dictionary of Catholic Spirituality, ed. Michael Downey, Humility, William Shannon, Minnesota: The Liturgical Press, 1993. [8] Encyclopedia of Catholic Doctrine, ed. Russell Shaw, Humility, Our Sunday Visitor Publishing Division, Indiana, 1997. [9] x. Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội, Hội Ðồng Giáo Hoàng Công Lý và Hòa Bình, Libreria Editrice Vaticana, 2005.
Ðức Giê-su đang trên đường. Con Người đang tiến đến cuộc Thương Khó và lần thứ hai, Người: TN 25-B64
Ðức Giê-su đang trên đường. Con Người đang tiến đến cuộc Thương Khó và lần thứ hai, Người báo trước cho các môn đệ về biến cố này, cũng như về cuộc Phục Sinh.
Trong lần loan báo trước, các môn đệ không hiểu điều Ðức Giê-su muốn nói, các ông - qua đại diện là Phê-rô - đã ngăn cản Người. Nhưng Người vẫn đưa các ông đi theo và dần dần giáo huấn các ông về vai trò của một Ðấng Mê-si-a chịu đau khổ. Lần đó, Ðức Giê-su đã nói đến sự cần thiết phải mang lấy thập giá của mình mà đi theo Người.
Trong lần loan báo này, các môn đệ cũng không hiểu điều Ðức Giê-su muốn nói, nhưng các ông không dám hỏi. Các ông chẳng hiểu gì về cuộc sống ở phía bên kia và vẫn cảm thấy khó chấp nhận quan niệm về một Ðấng Mê-si-a là Tôi Tớ. Chính vì vậy, trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Ðức Giê-su nhận thấy phải giải thoát các ông khỏi tình trạng u tối.
Về tới nhà, Ðức Giê-su hỏi các môn đệ: "Dọc đường anh em đã bàn tán điều gì vậy ?" Ðức Giê-su muốn kiểm nghiệm lại tình trạng u tối của các ông. Các môn đệ không dám trình bày lại, vì các ông đã tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong vương quốc trần thế mà các ông đang trông đợi. Ða số các môn đệ xuất thân là những người hèn kém trong xã hội, nên các ông ước mơ trở thành những người có uy tín, có chức quyền, và được nắm quyền chỉ huy.
Khi loan báo cuộc Thương Khó, Ðức Giê-su cũng báo trước cuộc Phục Sinh, nhưng các môn đệ không hiểu. Thật ra, người ta có thể nghĩ đến cái chết của ai đó, nhưng hầu như chẳng có ai muốn nghĩ nhiều đến cuộc sống sau đó, như là chuyện không thể. Còn nếu nói đến cuộc sống của một người đã chết rồi sống lại, quả thật, điều này ngoài tầm hiểu biết của con người.
Ðứng trước tương lai không thể hiểu nỗi này, các môn đệ đứng yên tại chỗ, lấy hiện tại làm vĩnh cửu. Các ông lo tổ chức xã hội nhỏ bé của mình và tranh luận xem ai là người lớn nhất.
Ðức Giê-su đã trả lời cho các môn đệ: Ai muốn làm người đứng đầu, phải làm người rốt hết. Ai muốn làm người lớn, phải nên như trẻ nhỏ. Ai muốn làm thầy, phải là người phục vụ. Câu trả lời của Ðức Giê-su quả là một nghịch lý. Tuy vậy, đây không phải là những nhận định lý thuyết, nhưng là những mẫu gương cụ thể mà Người Tôi Tớ đau khỗ không ngừng đưa ra.
Cuộc đời và cái chết của Ðức Giê-su là một bằng chứng sống động về điều này: Ðể trở thành người lớn nhất, phải trở nên người bé nhất, trở thành người phục vụ. Phục vụ tất cả mọi người, kể cả một đứa trẻ.
Trong thế giới mới do Ðức Giê-su thiết lập, người ta trở thành người lớn khi người ta là tôi tớ, thay vì có tôi tớ. Trong thế giới này, đứa trẻ chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Quả là một điều lạ thường !
Trẻ nhỏ là tương lai
Ðón nhận Ðấng Phục Sinh, đó là đón nhận cuộc sống mới do Người đem lại. Sự sống ấy không chỉ là sự yếu ớt của đứa trẻ mà người ta cần bảo vệ, nhưng là một tương lai mà Ðức Ki-tô đòi người ta phải chấp nhận, phấn dấn mình vào.
Quả thế, đứa trẻ đáng được yêu thương vì sự ngây thơ và giản dị, nhưng hơn thế, vì nó là dấu chỉ về một cuộc sống mở ra và luôn mới mẻ. Ðứa trẻ là một nhân tố đem lại một hy vọng đặc biệt, là một cuộc sống luôn hướng về phía trước, đón nhận thêm những điều mới. Ðức Giê-su đồng hoá đứa trẻ với con người được phục sinh, bởi vì phục sinh là khởi đầu cho sự sống mới này và cuộc sống này được trao tặng cho từng người. Như thế, cần phải đón nhận cuộc sống bên kia như đón nhận một đứa trẻ.
Tuy vậy, Ðức Giê-su nhìn những đứa trẻ như thế nào khi Người ôm chúng vào lòng và chúc lành cho chúng ?
Ngoài những đặc tính mà ai ai cũng thấy, chắc chắn đứa trẻ cũng có những khuyết điểm, những thiếu sót. Ðức Giê-su không phải là người cuối cùng biết rằng trẻ nhỏ cũng có những hình thức mặc cảm, cũng có những thái độ ghen tương, ma mãnh và dối trá.
Nói như thế không có nghĩa là kết tội trẻ nhỏ, nhưng để nêu lên một vấn đề khác: giáo dục. Thông thường, trẻ em có khuynh hướng quy tất cả về mình. Ðây là một sự kiện về tâm lý chứ không phải về luân lý. Do đó, nhiệm vụ của những người có trách nhiệm giáo dục không phải là dùng Tin Mừng để đưa ra những lời khuyên đạo đức, nhưng là thổi vào cuộc sống của đứa trẻ luồng gió Tin Mừng để nó dần dần tự khám phá điều này: phải yêu thương người khác như chính mình.
Cũng do tính ích kỷ này, trẻ em thường có thái độ vô ơn: nó không hiểu được những hy sinh nhọc nhằn cha mẹ phải chịu. Trong khi đó, nên tảng của lòng tin Ki-tô giáo là tạ ơn. Nhà giáo dục sẽ phải hướng dẫn đứa trẻ từ đời sống tự nhiên đến đời sống siêu nhiên.
Như vậy, để hiểu rõ thái độ của Ðức Giê-su với các trẻ em, cần phải vượt qua những đặc tính mà theo thói quen, người ta thường gán cho chúng, đồng thời phải hiểu điều được tượng trưng nơi đứa trẻ theo quan điểm đức tin: đứa trẻ luôn ở trong tình trạng tiếp nhận. Chính trong tình trạng này, đứa trẻ đi vào đời sống Ki-tô giáo.
Phải chăng đó không phải là tình trạng của người lãnh bí tích thánh tẩy: sống tuỳ thuộc vào tình yêu đối với Thiên Chúa của mình ?
Như thế, chẳng có gì là lạ lùng khi mà Nước Trời thuộc về các trẻ nhỏ và những ai giống như chúng ! Có gì là lạ lùng khi tiếp đón đứa trẻ trong tinh thần này, bởi vì đó là đón tiếp Thần Khí của Thiên Chúa.
Nên bé nhỏ để giống Ðức Giê-su
Phần chúng ta, chúng ta tranh luận gì trên những nẻo đường đời ? Có lẽ chúng ta cũng bối rối khi Ðức Giê-su đặt vấn đề này với chúng ta ! Khi nói lên điều người ta vẫn ấp ủ trong lòng, mỗi người bày tỏ điều sâu kín nhất của chính mình.
Phải chăng chúng ta cũng mơ ước được nắm quyền chỉ huy ? Hãy nghe lời Ðức Giê-su nói với các môn đệ mà tìm cách để phục vụ người khác cách tốt nhất và giúp đỡ những ai đang cần. Mỗi người hãy quan tâm biến đổi đời mình nên giống Ðức Giê-su qua việc đón tiếp những người yếu đuối, những người bé mọn, coi họ như những sứ giả của Thiên Chúa. Ðó là con đường tốt nhất để mỗi người gặp được Ðức Giê-su và trở nên giống Người.
Ngoài ra, khi mời gọi chúng ta sống khiêm tốn, trở nên bé nhỏ, Ðức Giê-su không có ý bảo chúng ta phải từ khước những hồng ân đã lãnh nhận, hay tránh né các trách nhiệm được giao phó, nhưng là thẳng thắn chấp nhận tình trạng của mình với những giới hạn, những yếu đuối, nhất là ý thức được tình trạng lệ thuộc của chúng ta vào Thiên Chúa, Ðấng ban cho ta mọi sự. Khi mơ ước chỗ nhất, chúng ta cắt đứt sự tuỳ thuộc này. Khi tìm chỗ cuối hết, dù công khai hay âm thầm, chúng ta để cho Thiên Chúa xếp đặt như ý Người muốn. Chỉ có chỗ này mới chắc chắn.
"Trẻ em mãi mãi là hình ảnh rõ nét nhất, đúng Tin Mừng nhất của Chúa. Trẻ em đón nhận Ðức Ki-tô chứ không tranh cãi. Chúng để cho Người lôi cuốn chứ không tìm cách độc quyền chiếm hữu Người. Trẻ em chính là hiện thân của thái độ tự do phó thác và yêu thương ...
Chỉ có một cách không bị vấp ngã vì cớ Ðức Ki-tô, ấy là hoá nên trẻ nhỏ, đơn sơ, nghèo nàn. Chỉ có một hạng người Ðức Ki-tô không bao giờ là cớ vấp ngã cho họ là các trẻ nhỏ ... (Juan Arias Thiên Chúa mà tôi không tin, bản dịch của Lưu Tấn trang 6,4. )
"Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết".
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.
Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất. Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".
Suy NiỆm:
Nếu Chúa nhật trước là Chúa nhật Người Tôi Tớ, thì Chúa nhật hôm nay có thể gọi là Chúa nhật: TN 25-B65
Nếu Chúa nhật trước là Chúa nhật Người Tôi Tớ, thì Chúa nhật hôm nay có thể gọi là Chúa nhật Người khiêm nhượng. Và nội dung của hai ngày cũng gần giống nhau. Vì Người Tôi Tớ thì phải khiêm nhường và Người khiêm nhường thì phải trở nên như Tôi Tớ. Hai quan niệm tôi tớ và khiêm nhường đều chói tai người thời đại ta, nhưng là những thái độ căn bản của Kitô giáo. Chính Ðức Kitô đã hạ mình xuống cho đến chết và chết trên thập giá để thực hiện mọi lời tiên tri về Người Tôi Tớ. Và Người dạy ai muốn theo Người cũng phải vác lấy thập giá của mình mà bước theo... Thế nên, chúng ta cũng phải đi vào con đường khiêm cung như những người tôi tớ.
Nhưng khiêm tốn, hoặc khiêm nhường và khiêm cung theo giáo huấn của Chúa là gì? Ba bài Kinh Thánh hôm nay không có ý trả lời đầy đủ nhưng vạch ra những phương hướng chính yếu để giúp chúng ta suy niệm.
1. Người Khiêm Nhường Không Tranh Làm Lớn
Phần sau của bài Tin Mừng hôm nay như muốn đặt điều kiện tiên quyết cho những ai muốn đi vào con đường khiêm tốn, cũng là chính con đường mà Ðức Kitô đã đi ở trần gian này... Thánh Marcô kể: hôm ấy Ðức Giêsu đang đi với các môn đệ. Người tránh, không muốn cho ai biết Người. Người sợ người ta nô nức đi theo Người như chạy theo một "người lớn". Hơn nữa, đang khi đi đường Người còn nói rõ cho môn đệ biết: Người sẽ bị nộp, bị giết. Người thì như vậy và tâm hồn Người thì như thế. Nhưng các môn đệ và đầu óc họ thì lại khác hẳn. Họ không tìm hiểu lời Người nói về thái độ và đời sống khiêm nhường, nhưng lại tranh biện với nhau xem ai là "người lớn nhất".
Mặc cho họ nói, Người lặng thinh cho đến khi về tới nhà. Nếu được nghĩ theo biểu tượng thì chúng ta có thể nói rằng: đang khi còn hành trình ở trần gian, Ðức Giêsu chỉ có thể sống khiêm cung và hạ mình xuống cho đến chết và chết trên thập giá; nhưng khi Người chưa thể dạy môn đệ hiểu được bài học khiêm nhường. Phải đợi khi đã về tới nhà tức là đạt tới mầu nhiệm Phục sinh đưa Người về với Chúa Cha và được đặt lên làm Chúa và làm Thầy, bấy giờ Ðức Giêsu mới có thể "ngồi" và gọi môn đệ lại để dạy cho họ biết ai muốn làm lớn thì phải trở nên rốt bét và trở thành tôi tớ cho mọi người.
Chúng ta có thể hiểu đoạn Tin Mừng hôm nay như vậy, vì trong Phúc Âm Gioan cũng có một đoạn tương tự mà ý tưởng rõ rệt hơn. Hôm ấy Ðức Giêsu đang chủ tọa bàn tiệc ly, Người được công nhận là Thầy, là Chúa; thế mà Người lại đứng lên cởi áo khoác ra, thắt lưng lại như Người Tôi Tớ và cầm chậu nước đi rửa chân cho môn đệ. Họ kinh ngạc trố mắt ra, chẳng hiểu gì. Người an ủi sau này họ sẽ hiểu. Tức là phải đợi đến khi Người đã hạ mình xuống trong mầu nhiệm thập giá, họ mới hiểu hành vi Người làm hôm nay... Người muốn trở thành tôi tớ rửa chân cho họ để họ sẽ bắt chước thành tôi tớ rửa chân cho nhau. Người muốn đi vào đường lối khiêm cung để họ cũng trở nên những người khiêm nhường.
Hôm nay Người chưa thi hành việc rửa chân. Nhưng Người cũng làm một cử chỉ lạ thường. Người kêu một em bé lại, đặt em đứng giữa môn đệ, rồi ôm lấy em Người nói với họ: ai tiếp đón một em bé như thế này nhân danh Ta là tiếp đón Ta; và ai tiếp đón Ta, thì không phải tiếp đón chính Ta nhưng là tiếp đón Ðấng sai Ta.
Chúng ta hãy để ý: Người không hề ám chỉ đến sự đơn sơ, vô tội của em bé. Tư cách duy nhất Người muốn nêu lên là sự bé nhỏ, là thân phận chưa phải là người lớn nhưng còn sống lệ thuộc vào cha mẹ. Người đồng hóa với em bé để nói lên quan điểm của Người không muốn làm lớn mà chỉ muốn khiêm cung. Và người ta phải đón nhận Người trong tư thế khiêm tốn đó; khiến người ta cũng phải khiêm cung.
Ðừng bảo đấy là con đường không lớn. Ngược lại, đó mới là đường lối lớn thật, vì nó dẫn người ta lên tới Chúa Cha là Ðấng lớn hơn hết, khiến người ta cũng được lên cao hơn cả... Dĩ nhiên lý luận này là lý luận của mầu nhiệm thập giá. Người ta chỉ có thể hiểu nếu tin ở mầu nhiệm tử nạn phục sinh, là mầu nhiệm thực hiện mọi lời tiên tri về Người Tôi Tớ. Chính câu kết của bài Tin Mừng hôm nay cũng y hệt câu kết của bài tường thuật việc rửa chân trong Gioan 13,20 khiến chúng ta càng thâm tín phải đọc đoạn Tin Mừng Marcô hôm nay trong viễn tượng của mầu nhiệm thập giá.
Ðức Giêsu đã dứt khoát đi vào con đường tự hạ để trở thành người tôi tớ. Và Người dạy chúng ta phải đi vào đường lối ấy. Nó khác với quan niệm làm lớn của các môn đệ khi chưa thấy mầu nhiệm thập giá. Nhưng khi thấy rồi, họ mới tuyên xưng đó mới là đường lối làm lớn thật sự vì nó dẫn người ta lên tới Thiên Chúa. Ðang khi óc làm lớn theo nghĩa xác thịt chỉ dẫn đến bất hòa và mất tin tưởng. Bài Tin Mừng hôm nay cũng gợi lên điểm này, nhưng chưa rõ rệt bằng bài thư Giacôbê mà chúng ta muốn nói đến bây giờ.
2. Người Tranh Làm Lớn Không Công Chính
Ðể tránh những sự hiểu lầm thiết tưởng cần lưu ý ngay rằng: Ở đây thánh Giacôbê cũng như thánh Marcô đang nói với các tín hữu. Các ngài công kích những người trong bọn họ muốn tranh những chỗ nhất ở giữa cộng đồng dân Chúa. Ít ra, trước đây họ chỉ là những thành phần "không-không" ở giữa thế gian nhưng đã được ơn Chúa kêu gọi để làm giàu cho bằng bao ơn thiêng. Bây giờ họ lẫn lộn bình diện Nước Trời và bình diện thế gian. Họ tưởng các ơn thiêng cũng giống như phương tiện vật chất. Họ nghĩ mình đã được ơn Chúa tuyển chọn thì cũng phải được địa vị và danh dự trước mặt người đời. Thế nên họ đặt vấn đề ai là người lớn hơn trong bọn họ. Họ quên Chúa đã cứu họ trong mầu nhiệm thập giá... Người tự đồng hóa với người môn đệ bé nhỏ, tức là khiêm nhu. Người yêu những môn đệ như thế và những người này chiếm chỗ nhất trong trái tim và ở trước mặt Người.
Nhưng nhiều kẻ không tin như vậy. Họ lại trở về quan điểm của thế gian. Họ muốn khôn ngoan theo kiểu loài người. Thành ra "cái dục tình lại làm giặc nơi chi thể của họ". Họ ao ước mà không có được; họ ghen tương mà không đạt nổi; họ có cầu xin cũng không được chấp nhận vì Thiên Chúa không thể thỏa mãn lòng dục của họ. Sống với cảm nghĩ ghen tương tranh chấp như thế, họ không còn được bình an nữa và đâm ra làm đủ thứ tệ đoan.
Thánh Giacôbê muốn phân tách để họ thấy căn nguyên của những nếp sống như vậy là sự mất niềm tin và đã trở về sự khôn ngoan thế tục. Muốn có những hoa quả công chính, tức là đời sống tốt lành, người ta phải có sự khôn ngoan bởi trời là tinh tuyền, bao dung, nhún nhượng, đầy tình thương. Suy nghĩ kỹ những lời này, chúng ta sẽ nhận ra thánh Giacôbê không muốn gợi lên gì hơn là đường lối của Ðức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã giáng trần và đã muốn sống một cuộc đời khiêm cung.
Ði theo đường lối của Ðức Giêsu, là điều mà thánh Giacôbê và thánh Marcô, cũng như mọi sứ ngôn của Thiên Chúa, đều muốn tha thiết khuyên bảo người ta. Chỉ có đường lối này mới làm cho người ta nên công chính và thánh thiện... Ðó là đường lối hạ mình của mầu nhiệm thập giá. Nó không làm suy yếu các khả năng tốt đẹp nơi con người. Ngược lại, chủ yếu của con đường thập giá là tiêu diệt tội lỗi, dục vọng và những sự xấu, để các nhân tố vươn lên trong sức mạnh phục sinh.
Thế nên thật là sai lầm khi tưởng rằng đức khiêm nhường của Kitô giáo không biết phát huy các tài năng tốt đẹp mà Thiên Chúa đã phú bẩm cho con người. Trái lại chính sự khiêm nhường đã tạo được điều kiện thuận lợi cho nhân đức của những người công chính trổ sinh hoa quả tốt lành. Nắm vững chân lý đức tin như vậy, có lẽ người ta sẽ dễ hiểu hơn một hiện tượng đã làm đau đầu những ai suy nghĩ từ ngàn xưa mà các sách Cựu Ước luôn luôn làm vọng lại. Ðó là hiện tượng:
3. Người Công Chính Thường "Bị Bắt Bớ"!
Bài sách Khôn ngoan hôm nay cho chúng ta nghe giọng của phường vô lại. Chúng hùa nhau tiêu diệt người công chính. Không những đời sống của thánh nhân là bản án hạch sách tâm tư của chúng, khiến chúng cảm thấy nặng nề khi giáp mặt thánh nhân; mà sâu xa hơn nữa, thánh nhân dường như có Thượng đế luôn luôn về phe với mình và chỉ trích chúng. Thế nên chúng khó chịu với người công chính thì ít, mà không chịu được sự hiện diện của Thiên Chúa ở nơi họ thì nhiều. Chúng muốn phá tan sự hiện diện ấy hay không? Thế nên chúng muốn hùa nhau đưa người công chính vào bẫy, thử xem nhân đức người này có chắc chắn hay không và nếu quả thực chắc chắn thì chúng sẽ thử làm thêm lên án cho người công chính chết nhục nhã để xem Thiên Chúa có bênh vực cứu chữa người không?
Tác giả sách Khôn ngoan quả thực đã thấu suốt tâm can phường vô lại. Và nếu đọc tiếp các lời ông viết sau đoạn văn ngắn ngủi trích đọc hôm nay, chúng ta sẽ thấy ông làm chứng phường vô lại kia đã nghĩ lầm như thế nào. Nhưng phụng vụ không muốn điều đó. Phụng vụ dừng lại ở đây vì đã đủ để dẫn vào bài Tin Mừng nói đến việc Ðức Giêsu sẽ bị loài người âm mưu hãm hại. Người mới thật là Ðấng Công Chính. Sự hiện diện của Người mới thật là bản án hạch sách tâm tư, không phải chỉ của phường vô lại mà thôi nhưng của mọi người, vì mọi người ở trước mặt Người đều là tội nhân. Tiên tri Simêon đã thấy rõ điều này. Ngày gặp Hài nhi Giêsu trong Ðền thờ, ông đã tiên báo: Người có mệnh làm cho ý nghĩ của nhiều tâm hồn phải bày ra (Lc 2,35). Và sở dĩ như vậy, tựu trung chỉ vì Người có mệnh phải đi qua nơi gian khổ để vào nơi vinh quang, đi qua sự tự hạ để được tôn vinh, đi vào đường lối khiêm nhường để mưu cầu ơn công chính hóa cho mọi người đã hư đi vì tội bất vâng phục... Con đường thập giá ấy, cả người Do-Thái lẫn Hylạp, cả người xưa lẫn nay, phần nhiều chỉ coi là điền rồ. Riêng với những kẻ được tiền định thì đó là mầu nhiệm cứu độ và ân sủng.
Giờ đây, khi đọc Kinh Tin Kính chúng ta sẽ tuyên xưng vào niềm tin vào đường lối cứu độ đó. Hơn nữa chúng ta sẽ cử hành mầu nhiệm Thánh Thể là lễ Vượt qua của Chúa chúng ta trong cuộc tử nạn phục sinh. Chúng ta chỉ tin đường lối của thánh giá tại nhà thờ, hay thâm tín rằng đó là con đường chúng ta phải đi vào trong đời sống để bước theo Chúa? Nếu thế thì nếp sống khiêm nhường của Người Tôi Tớ mà Lời Chúa hôm nay dạy bảo chúng ta phải được đem thi hành, để quả thật chúng ta đã đóng đinh xác thịt và dục vọng vào thánh giá Chúa Kitô. Cuộc đời của chúng ta sẽ sinh hoa quả tốt lành. Dần dần chúng ta sẽ trở nên công chính. Tất cả sẽ chỉ có thể xảy ra nếu chúng ta biết rước lấy Chúa trong giờ thánh lễ này, để sự sống và sự công chính của Người dần dần làm chủ trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta sẽ là những môn đệ nhỏ bé của Người, và đời sống khiêm tốn của chúng ta sẽ phản ánh nhiều vẻ cao cả thần linh.
Một lần Đức Hồng Y Roncalli vừa từ trên xe bước xuống, phái đoàn tòa Giám mục ra đón. Mọi: TN 25-B66
Một lần Đức Hồng Y Roncalli vừa từ trên xe bước xuống, phái đoàn tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên thấy trên vai áo Hồng Y có vương mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xòa vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Đức Hồng Y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vùng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng Y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.
Những cọng rơm trên vai áo Hồng Y đối với Ngài chỉ cười xòa cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng Y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.
Sau này lên ngôi Giáo Hoàng, Đức Gioan 23 vẫn tiếp tục nếp sống bình dị phục vụ.
Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động: “Đức Giáo Hoàng mất tích”. Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang trò chuyện thân mật với các tù nhân trong khám đường Rôma.
***
“Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,45).
Đó là Hiến Chương Nước Trời, là Hiến Pháp Đức Kitô đã tuyên bố cho Giáo Hội. Từ đây, mỗi tín hữu Kitô phải là đầy tớ của mọi người.
Người lãnh đạo trong Giáo hội chính là “Đầy tớ của các đầy tớ” (Servus Servorum). Chữ La tinh “Minister” có nghĩa là đầy tớ. Vì thế, trong Giáo hội chỉ có kẻ thừa sai, người thừa tác, nữ tỳ, tôi tá, hay mục tử chăm lo cho đoàn chiên.
Mẹ của Giacôbê và Gioan xin Đức Giêsu cho hai con bà được làm tể tướng trong nước của Người. Nhưng họ đã không hiểu rằng Đức Giêsu không bước lên ngai vàng để thống trị, mà Người chỉ leo lên thập giá để hiến dâng mạng sống, để yêu thương và “yêu cho đến cùng” (Ga 13,1).
Hôm nay, Chúa cũng mời gọi các tín hữu Kitô hãy noi gương Người: phục vụ và hiến dâng mạng sống cho tha nhân. Trước nhất là yêu thương phục vụ những người trong gia đình: “Charity begin at home” (Bác ái bắt đầu từ gia đình), sau đó mới lan tỏa sang những người chung quanh, nhất là những người nghèo hèn, yếu đuối.
Nếu chúng ta chưa giống được như Cha Maximilien Kolbe xin chết thay cho bạn tù, như thánh Martino Porres bán mình làm nô lệ, hoặc như Cha Damien tông đồ người hủi, thì ít là mỗi ngày chúng ta hãy âm thầm phục vụ hết mình những người thân yêu, những người Chúa giao phó trong gia đình mình, trong cộng đoàn mình.
Báo chí Pháp đăng hình của cha Damien sau mấy chục năm phục vụ trong trại cùi, ghép cạnh hình cha hồi còn trẻ đẹp. Tấm hình gây xúc động cho biết bao con người. Khi nhìn vào tấm hình, mẹ ngài không thể tin được con mình đã thay hình đổi dạng đến thế. Chính thái độ tận tụy phục vụ đã tiêu hao sức lực và tàn phá hình hài con người. Vì thế, chúng ta không thể phục vụ nếu không có sẵn một tấm lòng dấn thân quảng đại.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Albert Schweitzer đã nói: “Người hạnh phúc thật là người biết tìm cách sống thiện ích cho người khác”. Martin Luter King nói: “Chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em”. Ở giây phút định mệnh của mỗi con người chỉ có cường độ của tình yêu và tinh thần phục vụ là có giá trị.
***
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có một chút ham mê địa vị, chức quyền. Nếu Chúa xếp đặt cho chúng con một chức vụ nào đó, xin cũng ban cho chúng con một ơn này, là chức vụ càng cao, chúng con càng biết khiêm tốn phục vụ anh em nhiều hơn. Amen!
Có lần trong một cuộc hội thảo với Hội Các Bà Mẹ Công Giáo về vấn đề giáo dục con cái tại: TN 25-B67
Có lần trong một cuộc hội thảo với Hội Các Bà Mẹ Công Giáo về vấn đề giáo dục con cái tại Hoa Kỳ, nhiều bà đã tỏ ra lo lắng vì trong xã hội hiện nay, trẻ em thích sống tự lập, thích thoát khỏi sự che chở và giáo dục của cha mẹ; em nào cũng chỉ mong mau đến ngày sinh nhật thứ 18 (18 tuổi), trở thành người lớn để được sống tự do, thoải mái, ngoài sự kiểm soát của cha mẹ!
Thật ra, tâm trạng chung là chúng ta ai cũng muốn làm ‘Người Lớn’, ai cũng muốn là người quan trọng đáng được chú ý hơn người khác. Bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 9: 30-37) cho chúng ta thấy đó cũng là tâm trạng của nhóm 12 Tông đồ của Chúa, nên ngay khi Chúa Giêsu báo trước về cuộc khổ nạn của Ngài, thì mấy ông lại tranh luận với nhau về ai là người ‘lớn nhất’ trong nhóm các ông. Nhưng Chúa Giêsu đã để một em nhỏ đứng giữa các ông, chúc lành cho em, rồi dạy các ông bài học phục vụ trong khiêm tốn: “Ai muốn làm ‘người lớn nhất’, thì hãy hạ mình làm ‘người nhỏ nhất’ và phục vụ mọi người!” Theo Phúc Âm của Thánh Matthêu, Chúa Giêsu còn nhấn mạnh: “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, anh em không thể vào được Nước Trời…” (Matthêu 18: 1-4).
Chính vì “ai cũng muốn làm lớn hơn người khác, mà sinh ra đủ thứ tranh chấp, hỗn độn và đủ thứ tệ đoan…” như Thánh Giacôbê đã nói trong Bài Đọc II hôm nay (Giacôbê 3:16-4:3). Từ đó nảy sinh ra gièm pha, thù hận, làm hại lẫn nhau.
Những tranh chấp này đưa đến chiến tranh, loạn lạc khắp nơi trên thế giới. Trong phạm vi gia đình, cũng vì những ham muốn ‘làm lớn’, mà gây ra những tranh chấp giữa vợ chồng, rồi đưa đến những đổ vỡ rất đáng tiếc trong một số gia đình hiện nay.
Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài đã không sinh xuống trong cảnh vương giả, giầu sang, nhưng đã chọn nơi hèn mọn, khó nghèo là hang bò lừa để sinh ra và Ngài đã lớn lên trong gia đình Nagiaret bần hàn. Hơn nữa, dù là Thiên Chúa thật, Ngài có thể làm cho người chết sống lại, người mù được thấy…, nhưng Ngài đã không dùng quyền lực Thiên Chúa để giải thoát con người, mà là chọn con đường khổ giá (Philiphê 2:6-8). Chính tên trộm bị treo trên thập tự giá cũng đã mỉa mai Ngài: “Nếu ông là con Thiên Chúa, sao không tự mình xuống khỏi thập giá để cứu mình và cứu chúng tôi với!” (Luca 23: 39). Đó là những lời lộng ngôn của những kẻ cao ngạo như đoạn Sách Khôn Ngoan (2: 12, 17-20) trong Bài Đọc I hôm nay ghi lại: “Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã. Nếu nó thật là Con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó… Nhưng những kẻ cao ngạo đó đã trở nên mù quáng, không nhận ra thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa!”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết suy gẫm cuộc đời của Chúa từ lúc giáng sinh trong hang đá bò lừa, lớn lên trong gia đình khó nghèo Nagiaret, sống cuộc đời nghèo khổ (“Con cáo có hang, con chim có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu”). Cả cuộc đời chỉ lo rao giảng Phúc Âm tình thương, phục vụ mọi người, và sau cùng là chấp nhận vác Thánh giá và chết khổ nhục trên Thánh giá để chuộc tội nhân loại (Matthêu 20:28)
Khi cuộc đời của Chúa có ảnh hưởng mạnh trong tâm hồn chúng ta, chúng ta sẽ dễ dàng sống khiêm tốn và hòa hợp yêu thương (Matthêu 11: 28-29). Chúng ta sẽ chung tay xây dựng được những gia đình đầm ấm, tránh được những đổ vỡ đáng tiếc. Xây dựng được những ‘gia đình hòa bình’ là chúng ta đã đã góp được phần vào việc xây dựng hòa bình thế giới. Vì “sự khôn ngoan từ trời xuống thì trước tiên là trong sạch, ôn hòa, bao dung, mềm dẻo, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo rắc trong bình an cho những ai xây đắp hòa bình.” (Giacôbê 3: 17-18).
Xin Mẹ Maria và các Thánh đã sống cuộc đời đau khổ trần gian, nhưng luôn biết yêu thương và phục vụ, nay đã được hưởng phúc trường sinh trên Nước Hằng Sống, nâng đỡ chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Xin cho chúng ta luôn biết sống khiêm tốn, tôn trọng mọi người, để xây dựng sự an vui, hòa hợp trong gia đình, nơi sở làm và trong mọi môi trường sống hàng ngày của chúng ta. Trong “Năm Linh Mục” này, chúng cũng hãy tiếp tục cầu nguyện cho các Chủ Chăn, các Linh Mục, như những sứ giả tình thương của Chúa, luôn biết noi gương Chúa Giêsu, yêu thương, khiêm tốn và vui vẻ phục vụ mọi người.
Tại sao Chúa hỏi các tông đồ về việc các ông tranh luận đang lúc đi đường: "Dọc đường các: TN 25-B68
Tại sao Chúa hỏi các tông đồ về việc các ông tranh luận đang lúc đi đường: "Dọc đường các con tranh luận gì thế?" (Mc 9:33). Dĩ nhiên là Chúa phải biết, vì trong cuộc hành trình hôm đó Chúa cũng cùng đi với các ông. Nhưng rồi Chúa vẫn gạn hỏi: "Dọc đường các con tranh luận gì thế?"
Khi nêu lên câu hỏi, Chúa chỉ muốn cho các ông nhận thức được điều các ông đang mong mỏi và suy nghĩ trong lòng. Các ông tìm chỗ đứng của danh vọng, của quyền bính. Phần Chúa, ngài muốn tìm kiếm những địa vị cao hơn trên nước trời cho các ông. Và có lẽ đây là cái mà Chúa không mấy quan tâm, và cũng không muốn làm các ông phải khó chịu trong lúc đi đường. Ngài muốn để chính các ông ý thức được điều các ông đang tìm kiếm.
Thật vậy, trong khi Chúa không muốn cho ai biết ngài đang đi ngang qua Galilêa. Không muốn ai phiền hà và chi phối điều mà ngài chỉ muốn nói riêng với các ông. Ngược lại, các ông lại không quan tâm mà chỉ tìm cách tranh luận, tìm kiếm những chỗ đứng cho riêng mình. Vậy Chúa đã nói với các ông điều chi, và phản ứng các ông như thế nào? Ngài đã nói với các ông: "Con người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, người sẽ sống lại" (Mc 9:31). Thánh ký còn ghi tiếp: "Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi lại" (Mc 9:32). Lý do đã khiến các ông không hiểu và sợ không muốn hỏi lại, chính là: "Vì trên đường, các ông tranh luận với nhau xem ai là người quan trọng nhất" (Mc 9:34).
Thế mới biết, cho đến lúc đó mà các Tông Đồ vẫn chưa hiểu Chúa Giêsu, chưa biết về ngài. Việc các ông theo ngài, ngoài cảm tình và sự quí mến, còn có một chủ đích là tìm ngôi thứ. Điều này đã được nhắc đến qua việc bà mẹ của anh em Giacôbê và Gioan đã tư túi gặp gỡ Chúa Giêsu và gửi gấm hai anh em ông: "Xin cho hai con tôi đây, một đứa ngồi bên phải và một đứa ngồi bên trái thầy trong nước của thầy" (Mt 20:21). Bà sợ rằng Chúa Giêsu sẽ dành những chỗ đặc biệt ấy cho những người khác.
Tuy không hứa riêng với Giacôbê, Gioan hay bất cứ tông đồ nào, nhưng ngài cũng đã nói chung về địa vị của các ông: "Các ngươi là những kẻ theo ta, thì đến giờ tái sanh, khi con người ngự trên ngai vinh hiển ngài, cả các ngươi nữa cũng sẽ ngồi trên mười hai ngai, mà xét xử mười hai chi tộc Israel" (Mt 19:28). Có lẽ nhớ lại những lời hứa trang trọng ấy nên nhân dịp ngài đề cập đến cái chết và sự phục sinh của ngài, có lẽ các ông nghĩ là đã đến lúc nước Thiên Chúa đến, và như vậy cần phải đặt lại vai vế của mình. Do đó, khi ngài hỏi các ông, các ông đã làm thinh.
Chúa hỏi thì các ông làm thinh. Còn các ông nói thì Chúa lại không nghe. Như vậy rõ ràng là giữa ngài và các tông đồ mỗi bên đang mang trong đầu mình những tư tưởng và ý nghĩ riêng tư không hòa hợp nên đã không tìm được điểm tương đồng trong đối thoại. Nhưng nếu các ông không có câu trả lời trong trường này, kể cả Phêrô là người thường hay xuất hiện trong những trường hợp bí tắc để đại diện cho anh em trả lời Chúa, thì ngài đã có câu trả lời của riêng ngài cho các ông. Thánh ký ghi lại, ngài đặt một trẻ em giữa các ông. Và câu trả lời là: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ này vì danh thầy, tức là đón tiếp chính mình thầy. Và ai đón tiếp thầy, thực ra không phải đón tiếp thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai thầy". (Mc 9:37).
Nghĩa là làm sao? Tại sao chỉ trước đó ít phút trên đường đi ngài đã dậy các ông về cuộc khổ nạn, về sự sống lại của mình; phần các ông thì lại nói về chuyện địa vị, ngôi thứ mà bỗng chốc ngài lại đổi đề tài bằng cách đem một trẻ nhỏ đặt giữa các ông. Các tông đồ hẳn là đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Từ thắc mắc này đến thắc mắc khác. Từ khó hiểu này đến khó hiểu khác.
Thật vậy, trước mắt Đức Kitô thì những lợi danh, những vinh quang, và những địa vị trần thế không có nghĩa lý gì. Ngài đã nói: "Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì? Lấy gì mà đổi được linh hồn" (Mt 16:26). Chính vì thế, ngài muốn cho các ông chú ý đến những giá trị đời đời. Lãnh nhận được ơn cứu độ và được phần thưởng đời đời mới là điều quan trọng. Đó mới là phúc lộc dư thừa. Tóm lại, chiếm hữu được nước trời, có được một chỗ đứng trên nước trời mới là điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ ngài, và cả chúng ta nữa phải lưu tâm. Nhưng rồi cũng như Thánh Ký đã ghi nhận, Chúa nói thế mà "các ông chả hiểu gì". Bởi vì lòng còn lưu luyến và tìm cầu những lợi lộc trần gian, muốn làm to, làm lớn.
Nhưng để vào được nước trời, để chiếm hữu được nước trời, và nhất là để làm to trên nước trời, Kitô hữu chúng ta phải biết, phải đón tiếp, và phải được Chúa ở cùng. Và làm sao đón nhận ngài đây? Làm sao hiểu và dành chỗ đứng cho ngài trong cuộc đời mỗi người? Ngài dậy ta phải đón nhận ngài bằng một tâm hồn, và một nếp sống khiêm tốn, thanh sạch, và đơn sơ như một trẻ nhỏ.
Ngoài ra, ngài sánh ví ngài như một trẻ nhỏ: "Ai tiếp đón một con trẻ như em nhỏ đây nhân danh thầy, là tiếp rước thầy". Đi xa hơn nữa, ngài còn nói: "Và ai tiếp rước thầy, không phải là tiếp rước thầy, mà là tiếp rước Đấng đã sai thầy" (Mc 9:37). Điều này cho thấy là không một ai có thể nại cớ này, cớ khác mà xa tránh hoặc không tiếp đón Thiên Chúa. Bởi vì có gì khó khăn và cầu kỳ khi đón tiếp một em nhỏ đâu. Người ta có thể cho là khó khăn, vất vả, và tốn kém khi đón tiếp một thủ tướng, bộ trưởng, tổng thống, giáo hoàng, nhưng một em nhỏ thì không cần gì mà phải tốn kém, miễn là có lòng thương mến, và quí trọng là đủ.
Lòng thương mến, quí trọng hay còn gọi là đức tin và lòng mến chính là tinh thần và cách thức mà chúng ta đón tiếp Chúa. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta luôn cần phải có những tư tưởng và lối sống như thế. Đơn sơ, bình dân, khiêm tốn để chúng ta hòa nhập, và nhìn ra Chúa trong cuộc sống mình, trong những biến cố quanh mình. Như vậy là chúng ta đón nhận Chúa. Và khi có Chúa ở trong cuộc đời mình thì chúng ta sẽ nhìn ra giá trị của ơn cứu chuộc, giá trị của đời đời trong mọi nơi, mọi lúc cũng như mọi biến cố to nhỏ, quan trọng hay tầm thường xẩy đến cho mình để cảm tạ, yêu mến ngài. Rồi khi không còn bận tâm về những cái thuộc về thế gian, những cái làm chúng ta không hiểu được lời Chúa muốn nói với mình; lúc đó, Chúa muốn hỏi gì chúng ta cũng có thể trả lời ngài được hết. Hệt như một trẻ thơ khi bố mẹ em hỏi em cái gì thì em đơn sơ và thành thật nói ngay.
Có một nhóm thiếu nhi vào rừng thám hiểm, bị lạc không biết đường về. Dưới ánh nắng như: TN 25-B69
Có một nhóm thiếu nhi vào rừng thám hiểm, bị lạc không biết đường về. Dưới ánh nắng như thiêu như đốt của mùa hè miền nam Texas, thức ăn, nước uống đã cạn. Một em trong bọn kiệt sức, hấp hối vì khát nước. May thay, có mấy người leo núi đi ngang qua, họ gọi trực thăng đến đưa em đến bệnh viện gần nhất để cấp cứu. Một em trong bọn tình nguyện đi theo giúp bạn mình. Số còn lại được đưa về nhà. Tại nhà thương, sau khi giúp bạn nhập viện, một mình ngồi nơi phòng đợi, em mới biết rằng mình không còn một đồng xu dính túi. Ăn ở đâu, ngủ ở đâu bây giờ? Nhân viên bệnh viện đề nghị em đến nghỉ tạm với những người vô gia cư (homeless). Em rùng mìmh, từ chối. Mượn điện thoại gọi về nhà, cha em liên lạc với khách sạn và dùng thẻ tín dụng để thanh toán mọi chi phí cho em.
Giúp bạn trong cơn họan nạn là một cử chỉ đẹp, em sẵn sàng làm, nhưng ở chung với những người cùng khổ, cho dù chỉ có một đêm thôi, em không thể chấp nhận được.
Ai tiếp đón một em bé là tiếp đón Thầy. Rõ ràng là Đức Giêsu đã đồng hoá mình với một em bé. Em bé đây, là các tầng lớp thấp hèn nhất trong xã hội. Không quyền thế, không địa vị, bị lạm dụng, bị bỏ rơi, vô gia cư, nghèo đói, bệnh tật, già nua, goá bụa, tội lỗi, bị xã hội gạt ra một bên lề.
Đức Giêsu đã sinh ra trong hoàn cảnh thiếu thốn như một người vô gia cư, sống cuộc đời nghèo khó, bạn với những người nghèo, giao du, ăn uống với những người tội lỗi và chết trong cảnh nghèo hèn và tủi nhục. Trái với não trạng con người ở mọi thời đại, ai cũng thích làm lớn, ai cũng thích làm việc vĩ đại. Ngạn ngữ có câu: "Thà làm đầu con chuột còn hơn làm cái đít con voi". Cứ xem các cuộc bầu bán địa phương, trong năm bầu cử này thì rõ. Cũng tại vì cái não trạng muốn làm lớn ấy mà sinh ra ghen tương, tranh chấp, xáo trộn và đủ mọi thứ xấu xa (xem Gc 3:16).
Các tông đồ cũng không thoát khỏi cái não trạng ấy. Đức Giêsu đã ba lần nói trước về sự chết và sự sống lại sắp xảy đến cho mình, nhưng ba lần các môn đệ đều có phản ứng tiêu cực. Lần thứ nhất Phêrô ngăn cản, đã bị Chúa khiển trách nặng lời. Lần này các ông nghe, nhưng không hỏi lại, giả điếc, phớt lờ cho qua rồi tiếp tục bàn cãi việc làm lớn. Lần thứ ba trắng trợn hơn nữa, Gioan và Giacôbê dám xin cho mình hai chỗ nhất, khiến cho mười ông kia bất bình. Tư tưởng làm lớn còn đeo đuổi các ông mãi cho đến ngày Chúa sống lại, trước khi ngự về trời, các ông hỏi: Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục lại vương quốc Israel không? (Cv 1:6) (Để chúng con được làm lớn).
Tiếp đón em bé là sứ vụ mà Chúa Cha trao cho Chúa Con: Con Người đến để phục vụ chứ không để được phục vụ. (Mc 10: 45). Sứ vụ nầy xưa kia Người đã nghiêm chỉnh dạy các môn đệ và hôm nay Người trao lại cho mỗi người chúng ta.
Trong gia đình, ai là người lớn nhất? Cha mẹ, con cái hay người giúp việc? Cha mẹ là người lớn nhất khi ngồi chỉ tay năm ngón, la rầy, đánh đập con cái rồi rượu chè be bét, hay là khi cha mẹ làm lụng vất vả nuôi con, dạy con, hy sinh cho con và yêu thương con mình?
Trong trường học, ai là người lớn nhất? Hiệu trưởng, thầy cô giáo, học trò hay người gác gian? Ai phục vụ ai?
Trong Giáo hội, ai là người lớn nhất? Đức Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục hay giáo dân? Theo truyền thống, Đức Giáo hoàng tự xưng mình là: Tôi tớ của các tôi tớ Chúa.
Chân phước Damien de Veuster làm thợ mộc trước khi làm Linh mục. Cha được Đúc Giám mục Hawaii sai đến đảo Molakai làm một cái nhà thờ bằng ván tàu vỡ, tạm thời làm nơi thờ phượng cho những người cùi trên đảo. Cha được lệnh phải rời đảo ngay sau khi công việc hoàn tất, khi có tàu ghé lại và cấm không được tiếp cận với người cùi. Nhưng cha đã ở lại phục vụ họ và trở thành một người như họ. Cha đã không nỡ bỏ Chúa!
Mẹ Têrêxa Calcutta đã đi vào những khu ổ chuột, tìm những người hấp hối đem về chôn cất. Có người hỏi mẹ tại sao làm như vậy vì họ đâu có phải là người có đạo? Mẹ trả lời: Tôi săn sóc cho chính Chúa Giêsu trong mỗi người của họ.
Ai tiếp đón một em bé vì danh Thầy là tiếp đón Thầy.
Nấc thang giá trị trên nước trời không hệ ở địa vị cao thấp nhưng căn cứ vào việc phục vụ người khác.
Sống trong thế trần, người ta ai cũng ham danh vọng, của cải, chức quyền,...nó chi phối mạnh mẽ: TN 25-B70
Sống trong thế trần, người ta ai cũng ham danh vọng, của cải, chức quyền,...nó chi phối mạnh mẽ con người. Vì thế, theo cái nhìn thông thường trong xã hội, người lớn nhất là người có địa vị cao, có nhiều danh vọng và tiền bạc. Hơn nữa, là người lớn thì được kính nể, tôn trọng, được nhiều quyền lợi và có thể sai khiến nhiều người phục dịch cho mình. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã làm đảo lộn trật tự đó, Ngài mạc khải một trật tự mới, trật tự của tình yêu, trật tự đó là giá trị lớn nhất trong Nước Thiên Chúa. Đó là người trước hết phải trở nên sau hết, người sau hết phải trở nên trước hết và phải phải phục vụ mọi người, càng làm lớn thì cảng phải phục vụ và làm đầy tớ mọi người.
Như thế, điều quan trọng đối với Chúa Giêsu không phải là giữ chức vụ gì, ở cấp bậc nào nhưng là làm với tinh thần nào vì mục đích gì. Sự đảo lộn nguyên tắc này cũng làm đảo lộn nguyên tắc cư xử với tha nhân. Đối với Chúa Giêsu, người lớn nhất là người khiêm tốn nhất, sẵn sàng phục vụ mọi người, chấp nhận thiệt thòi, giàu lòng vị tha. Tinh thần phục vụ là thước đo trong Nước Trời:"Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" (Mc 9, 35). Chúa Giêsu đã dạy bài học lý tưởng đó và chính Ngài đã nêu gương cho mọi người: "con người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người". Chính Ngài đã hiến thân và chết trên thập giá để làm dấu chỉ của sự phục vụ tột đỉnh và cao độ nhất, Ngài đã phục vụ Thiên Chúa và con người.
Như thế, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy nền văn minh mới. Trong nền văn minh này, người ta không còn nhìn nhau như đối thủ phải loại trừ hay phải cạnh tranh. Người ta nhìn nhau như người anh em phải yêu thương. Sẽ không còn tranh giành, không còn xâu xé, chà đạp nhau. Chỉ có yêu thương, quan tâm giúp đỡ. Người mạnh thì quan tâm giúp đỡ người yếu. Người lớn sẽ cúi xuống bồng bế người nhỏ. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn đưa ra một hình ảnh cụ thể để dạy cho mọi người: "ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy." (Mc 9, 37). Nhiều lần Ngài đồng hóa với những con người bé nhỏ, nghèo túng, hèn yếu nhất. Ở đây, Ngài đồng hoá với một em bé, một thành phần không có chỗ đứng trong xã hội Do Thái. Để từ nay, ai đón tiếp một người bé nhỏ nhất là đón tiếp chính Người. Ai giúp một người yếu hèn nhất là giúp chính Người. Ai yêu mến một người nghèo túng nhất là yêu mến chính Người. Với sự hạ mình của Người, số phận con người bé nhỏ trở thành đối tượng được quan tâm phục vụ. Người yếu đuối được chăm sóc. Người nghèo hèn được kính trọng yêu thương. Từ nay, nhân loại đi vào một nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương. Nhân loại không còn tranh chấp nhau, nhưng trở nên anh em đoàn kết thương yêu nhau. Sức khỏe, của cải, chức quyền là phương tiện để phục vụ mà thôi.
Lời Chúa dạy hôm nay mời gọi ta trở lại con đường của Chúa. Sống tự hạ, trở nên người bé nhỏ, khiêm tốn và phục vụ mọi người. Chúng ta hãy góp phần xây dựng nền văn minh mới, nền văn minh tình thương và trong đó mọi người quan tâm phục vụ lẫn nhau để làm sáng danh Chúa. Trong đó, người ta không còn tranh giành và kiếm tìm những gì chóng qua, những của cải vật chất nay còn mai mất, nhưng tiên vàn tìm kiếm những giá trị vững bền mãi mãi nơi Thiên Chúa đầy tình thương, nơi thể hiện lòng thực thi bác ái trong tương quan với tha nhân. Khi con người thực thi theo lời Chúa mời gọi như thế là con người đi trong quỹ đạo yêu thương, đi trong lòng mến và chắc chắn đó là con đường hạnh phúc đích thực, hạnh phúc vững bền, con đường mà hiện tại, con người sẽ tìm được sự bình an ngay bây giờ, sự bình an đích thực từ trong tâm hồn mình. Đó là điều Chúa muốn mỗi người chúng ta nhận được.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống Chúa. Xin biến đổi lòng chúng con nên giống trái tim Chúa, biết can đảm thực thi Lời Chúa dạy, yêu thương và phục vụ mọi người như Chúa mời gọi. Amen.
"Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người" (Mc 30, 35cc)
Tôi có nuôi một con chó, nó rất dễ thương, đến lúc nó đẻ, nó cho ra bốn chú cún thì có hai chú: TN 25-B71
Tôi có nuôi một con chó, nó rất dễ thương, đến lúc nó đẻ, nó cho ra bốn chú cún thì có hai chú giống hệt như mẹ nó. Tôi bèn để lại nuôi. thế nhưng sau hơn ba tháng thì những chú chó con này bị ghẻ lở rồi lần lượt chết đi. Lần nữa, nó lại đẻ và cũng như lần trước, tôi để lại hai chú để nuôi và kết quả cũng giống hệt. Nhưng qua đó tôi thấy được một việc rất cảm động:
Hai lần tôi để các chú chó con để lại tôi đều chọn một con vàng và một con đen. Chó mẹ rất thương các chú chó con, nó luôn nhường cho các con của nó ăn mà không hề giành giật.
Trong hai con, chó mẹ thương con đen hơn con vàng, nó thường âu yếm, chơi đùa với con đen hơn. Tôi không thể hiểu được lý do, nhưng có một sự thật luôn xãy đến với những chú chó đen là thời gian sau đó chúng bị ghẻ lở đầy mình không thể trị được và chết trước con vàng. Khi nó bị ghẻ lở, chó mẹ luôn đi theo để liếm vết lở cho chó con cách tận tình cho đến lúc con nó chết.
Thật lạ lùng ! Nơi con vật mà Chúa cũng dạy cho chúng biết cách làm lớn đúng nghĩa của nó, nếu đem con người ra so sánh thì thật đáng xấu hổ!
Ngày nay người lớn lại giành phần lợi về phần mình, chỉ nghĩ cho bản thân mình mà không nghĩ cho kẻ thấp bé hơn. Người lớn, kẻ mạnh lại lợi dụng thế lực mình có để ăn giành, ở giật, thậm chí còn hùa nhau đàn áp, giết chết những kẻ chưa được thấy ánh mặt trời. Chúng ta nghĩ gì về điều đó ?
" Ai tiếp đón một trẻ nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy"
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết sống xứng bậc của mình.
Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ nhất, phản ứng của các môn đệ là không đón nhận: TN 25-B72
Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn lần thứ nhất, phản ứng của các môn đệ là không đón nhận và ngăn chặn chương trình của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học muốn theo Chúa phải từ bỏ mình và vác thập giá mình. Lần thứ thứ hai Chúa Giêsu loan báo cuộc khổ nạn phản ứng của các môn đệ là im lặng vì sợ sai lầm như lần trước. Nhưng trong thâm tâm lại suy nghĩ, bàn tán với nhau ai là người lớn nhất trong nhóm và bây giờ Chúa Giêsu dạy bài học về phục vụ. Qua đó cho thấy dù con người suy nghĩ như thế nào hay làm gì, chương trình cứu độ của Thiên Chúa vẫn phải thực hiện và Ngài muốn hướng dẫn con người đi theo và sống tinh thần của Chúa.
Chúa Giêsu loan báo điều quan trọng và quyết định nhất trong công trình cứu độ con người. Ngài phải chịu đau khổ, chết và sống lại nhưng các môn đệ không hề để ý điều đó mà quan tâm đến một chuyện không ăn thua gì và trái nghịch với lời loan báo của thầy mình: ai là người lớn nhất. Chúa Giêsu hiểu ước muốn và suy nghĩ tầm thường của họ, Ngài dịu dàng và chân tình dạy dỗ các môn đệ, phục vụ là cách làm tốt nhất của người muốn làm lớn. Chúa Giêsu cho thấy một khuôn mặt khác của Thiên Chúa, một Thiên Chúa phục vụ vì phần rỗi và hạnh phúc của con người. Ngài phục vụ con người bằng tình yêu, sự hiền hoà, bằng thân phận và chính mạng sống của mình. Từ một Đấng đầy quyền năng nhưng Ngài không ngại thân phận con người mà yêu thương, sống và chết cho con người. Vì vậy, mỗi người dù sống trong bậc sống nào phục vụ cụ thể và sống tinh thần phục vụ đều cần phải có trong đời sống hằng ngày của mình. Phục vụ với tinh thần khiêm tốn, hiền hoà, vô vị lợi cũng là đón tiếp chính Chúa. Đón tiếp Chúa, có Chúa ở trong tâm hồn không phải là niềm vui và hạnh phúc nhất của đời sống mỗi người kitô hữu hay sao?
Nhưng con người vẫn luôn có những toan tính riêng tư cho bản thân mình, ngại khó, ngại khổ nhưng thích làm lớn. Yù Chúa nhiều khi rất rõ ràng nhưng con người không nhận ra hay cố tình không nhận ra, đó là cái khốn khổ của con người.
Lạy Chúa xin cho con biết khiêm tốn phục vụ Chúa và mọi người như Chúa đã dạy con.
Chúa Nhựt tuần trước, Hội Thánh cho chúng ta nghe lời Chúa Giêsu dạy: ai muốn theo Chúa: TN 25-B73
Chúa Nhựt tuần trước, Hội Thánh cho chúng ta nghe lời Chúa Giêsu dạy: ai muốn theo Chúa phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Chúa. Hôm nay, Chúa tiếp tục dạy cho các môn đệ là những người muốn theo Chúa: ai muốn theo Ta, muốn có vỊ trí trong Nước Chúa thì ngay ở đời này phải biết phục vụ mọi người.
Thực ra, theo bản tính tự nhiên chưa luyện lọc thì ai mà không thích làm lớn, địa vị cao để được nhiều người phục dịch cho mình. Thế nhưng Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ tìm cái ngược lại: Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người , hãy biết đón tiếp những kẻ bé mọn với lòng yêu mến. Nói đến đây, tôi nhớ đến mẹ Têrêsa Calcuta. Mẹ qua đời vào năm 1997. Toàn thể nhân loại nhứt là những người cùng khổ đều thương tiếc mẹ. Tại sao cả thế giới chú ý đến mẹ Têrêsa nhiều như vậy? Vì mẹ đã trọn đời hy sinh phục vụ người nghèo khổ, bệnh tật.
Năm 1937, nữ tu têrêsa được cử làm giám đốc một trường trung học dành riêng cho học sinh giàu tại Calcuta. Tuy nhiên, nhìn thấy cảnh đói khổ của dân chúng, trước cảnh đau xót của các bệnh nhân, những người phong cùi và nhất là các trẻ em, những người già yếu lê lết ngoài đường phố, mẹ không cầm lòng được. Năm 1946, nữ tu Têrêsa đang ngồi trên chiếc xe lửa chật chội bên những người cùng khổ, thì nghe như có tiếng thì thầm trong lòng: con hãy phục vụ người nghèo bằng cách đến sống với họ và như họ. Nhiều lần cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa, chị xác tín đây là tiếng Chúa gọi và trình lên bề trên. Một năm sau, chị được Bề trên và Đức Giám Mục địa phương cho phép ra khỏi dòng để đến sống với những người nghèo khổ. Từ đó, chị khoác vào người chiếc áo Sari cổ truyền Ấn độ, giống như người nghèo, phục vụ người nghèo, chia sẻ cuộc sống của người nghèo, nhứt là chị nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người nghèo. Năm 1974, Mẹ trả lời cho một cuộc phỏng vấn: Tôi thấy Chúa trong mỗi người. Khi tôi rửa các vết thương cho người cùi, tôi nghe như tôi rửa cho chính Chúa Giêsu.
Mẹ quả là tấm gương thi hành lời Chúa dạy hôm nay: biết quên mình phục vụ tha nhân, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Mẹ là mẫu gương quãng đại, xả kỷ, vị tha theo gương Chúa giêsu.
Mỗi người chúng ta đều đang được Chúa mời gọi phục vụ theo gương mẹ têrêsa: phục vụ hết mình theo đấng bậc và hoàn cảnh hiện tại. Nếu chúng ta phục vụ cho người giàu sang để được trả lại sòng phẳng thì còn công cán gì, nếu chúng ta tôn trọng những người tôn trọng mình thì có gì lạ đâu, nếu chúng ta quan tâm đến người giúp đỡ mình cũng là chuyện thường tình. Thế nhưng, môn đệ Chúa Giêsu phải vượt trên mức tự nhiên để trở nên giống Chúa là Đấng đã, đang và tiếp tục làm ơn cho những kẻ làm khổ ngài, phạm tội làm mất lòng ngài, không biết đón nhận tình thương của ngài, hoặc chống lại ngài dưới nhiều hình thức: những cuộc chiến phi nghĩa, hại sự sống của các thai nhi và người già lão, cuộc sống nô lệ vật chất tiền tài... tất cả những điều đó làm Chúa Giêsu trên thánh giá phải oằn oại, không chỉ vì đau đớn, tủi hổ mà còn vì sự vong ân, thất đức, đui mù của nhiều người, nhiều kẻ để mình bị dục vọng tội lỗi giam hãm mà không biết tìm đến Ngài để được ơn giải thoát. Thật khốn khổ cho họ!
Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta hãy khiêm tốn giúp đỡ mọi người, nhất là những người cô thân cô thế, biết quên mình phụng sự chúa và phục vụ tha nhân để nêu gương sống của người kitô hữu: yêu thương phục vụ như Chúa Giêsu.
Trong những ngày này, người dân sống trên lưu vực sông Mêkông đang rơi vào tình trạng khổ sở: TN 25-B74
Trong những ngày này, người dân sống trên lưu vực sông Mêkông đang rơi vào tình trạng khổ sở. Những gì của dòng sông trước kia cho họ nguồn lợi, giờ đây lại tàn phá tất cả, lại còn đe dọa cả mạng sống của họ. Người Việc Nam sống trên đồng bàng sông Cửu Long, hạ nguồn của sông Mêkông cũng không tránh khỏi tình trạng bi thương đó.
Chúng ta thử tưởng tượng về những suy tư của những người đang trong cơn lũ lụt. Người thì lo cho hiện tại, không biết có qua được cảnh thiên tai này không. Người thì lo cho tương lai, không biết phải sống như thế nào. Nhưng rồi, một số trẻ em, chúng nó không cùng đồng cảm như thế.
Có được bao nhiêu người tỏ chút lòng thương tâm đối với những người hoạn nạn. Tất cả cùng đóng góp để giúp đở, nhưng mỗi người theo đuổi một mục đích khác nhau. Mặc dù họ cũng động lòng trắc ẩn, cũng giúp đở, nhưng không ở trong hoàn cảnh của người, nên sau đó!!! mọi việc rồi cũng đi vào quên lãng. Đường ai nấy đi, việc ai người đó làm.
Các môn đệ sống kề cận bên Thầy mình, đi theo Thầy, nghe những lời Thầy giảng dạy. Nhưng họ mãi theo đuổi mục đích riêng của mình. Thầy vừa loan báo Thập Giá, các ông lại tranh giành quyền lợi cá nhân. Thầy bảo khiêm nhường phục vụ, các ông tranh giành quyền lực và tìm cách núp bóng Thầy để tìm những lợi ích cho riêng mình. Khi trở về nhà trong yên tĩnh vắng lặng, ngồi đối diện với Thầy, các ông đã được Thầy cho nhìn thấy con người thật của mỗi người.
Ai muốn làm lớn, hãy làm người nhỏ nhất để phục vụ.
Bài học thật quý giá, các ông đã cảm nhận được và đã thực hiện trong suốt quảng đời còn lại của mình. Các ông đã nhìn thấy những sai phạm, nên các ông đã thay đỗi. Thực sự giờ đây, các ông đã trở thành những người lớn nhất theo như Lời Thầy đã dạy.
Lời dạy năm xưa không phải chỉ còn phản phất lại dư âm, nhưng trái lại, Lời đó còn vang mạnh bên tai mỗi người qua mọi thời đại. Suốt những năm tháng dài, có biết bao người đã thay đỗi đời sống, để có được sự đồng cảm với Vị Thầy Chí Thánh . Những con người đó đã học được cách làm lớn của Thầy, cách phục vụ xứng đáng.
Ngày hôm nay, lời dạy bảo vẫn còn thống thiết bên tai mỗi người chúng ta. Nhưng những con người của thời đại mới này có còn biết lặng thinh theo Thầy vào nhà, chỉ có Thầy với mình, để lắng nghe, để nhìn lại chính mình và có một thay đỗi xứng đáng với cuộc sống. Cũng có những người không thể yên lặng bước theo Thầy. Họ tìm cách trốn tránh, để không ngồi đối diện với Thầy, họ không muốn lắng nghe những Lời Thầy dạy bảo, vì họ sợ nhìn thấy chính mình, sợ phải thay đỗi. Điều quan trọng hơn là họ sợ phải đồng cảm với Thầy thì họ sẽ mất đi những gì mình đang có trong hiện tại.
Nhìn lại đời sống của chính mình. Mỗi người đã lãnh bí tích rửa tội, là môn đệ của Chúa Kitô. Nhưng trong đời sống hằng ngày, trong cuộc sống đời người, biết bao lần chúng ta tranh luận để tìm vị thế. Chúng ta vẫn biết rỏ những gì phải làm, những gì không nên làm. Nhưng nhiều khi đời sống chúng ta giống như những người đang sống trong sự yên tĩnh, tìm cách giúp đở chút ít cho những người không may. Như thế chúng ta tự hào rằng mình đã sống đạo. Còn những ngày kế tiếp chúng ta mặc tình sống theo ý muốn riêng tư, tìm lợi lộc bản thân, bất chấp những điều công bằng, yêu thương mà chúng ta đã biết. Đó là những lúc chúng ta đang tranh tụng trên đường cùng nội dung như các Tông Đồ khi xưa. Chúa Giêsu cũng đem chúng ta vào yên lặng với Ngài, để cho chúng ta bài học: Ai muốn làm lớn, hãy tự làm người nhỏ nhất và phục vụ. Nếu chúng ta biết lắng nghe, biết thay đỗi cuộc sống của mình, thì chúng ta thật sự là một môn đệ tốt trong thời đại mới. Đó là chúng ta đã đồng cảm với Ngài khi nghe thông báo Thập Giá của cuộc đòi mà không trốn chạy. Còn nếu chúng ta không có được sự đồng cảm đích thực với Ngài bằng những hành động thiết thực trong cuộc sống, thì chúng ta đã chọn cho mình một hướng đi, một con đường không phải là con đường mà Chúa Kitô đã đi.
Xin Chúa cho con biết lắng nghe Tiếng Chúa, biết dấn thân phục vụ, để con được đồng cảm với Chúa và trở nên môn đệ trung thành của Chúa.
Có người đã nhận định như sau: "Tin mừng là quyển sách kẻ tội các tông đồ". Quả thật, đọc: TN 25-B75
Có người đã nhận định như sau: "Tin mừng là quyển sách kẻ tội các tông đồ". Quả thật, đọc kỷ các bản văn Tin mừng, chúng ta sẽ dễ dàng thấy được là hầu không có chỗ nào nói về những cái tốt của các tông đồ cả. Và hầu như Chúa Giêsu cũng chẳng có lần nào khen tặng các tông đồ ngoài một lần Ngài đặt câu hỏi: "người ta bào Con Người là ai? Thì Phêrô đại diện các anh em mình trả lời rằng: "Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống". Nhưng Chúa Giêsu cũng nói thêm, sở dĩ Phêrô trả lời được như thế thù cũng do Thiên Chúa soi sáng cho nói chứ không phải tự ông có khả năng nói lên chuyện hệ trọng ấy. Trái lại, chúng ta chỉ thấy các bản văn Tin mừng kể về các tật xấu và những sai lỗi của các tông đồ như: thiếu lòng tin, chậm tin, chậm hiểu, nóng nảy, hèn nhát, ghen tỵ, thiếu ăn chay và cầu nguyện, phản bội . . . Và trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta vừa nghe kể về một chuyện xem ra chẳng tốt đẹp gì nơi các tông đồ, đó là cái thói thích làm lớn!
Thật ra thích làm lớn cũng chưa có gì để gọi là tật xấu, là tội cả. Nếu làm lớn mà biết quan tâm đến người khác, nâng đỡ và yêu thương người khác thì tốt quá đi chứ! Nhưng theo thói thường, khi con người ta làm lớn thì thích dùng quyền cuả mình để hành hạ người khác; bắt người ta phục vụ mình và sai khiến người khác như đầy tớ của mình. Tình trạng này đã và đang xảy ra đầy dẫy trước mắt chúng ta. Ơ ngoài xã hội thì thôi khỏi nói, mà trong gia đình cũng có và thậm chí trong các tôn giáo cũng có. Đạo chúng ta cũng có tình trạng ấy nữa. Có thể nói đó cũng là tội tổ tông truyền!
Các tông đồ ngày xưa theo Chúa Giêsu, có thể nói, động lực ban đầu chưa đúng đắn, chưa trong sáng gì bao nhiêu. Trong suy nghĩ và tính toán của mình, các tông đồ theo Chúa vì muốn tìm cho mình một chỗ đứng, một địa vị cao sang nào đó khi Chúa Giêsu khôi phục nước Israel và lên làm vua. Quả thật, Chúa Giêsu là Vua, một vị Vua trên hết các vua trần gian, nhưng Nước của Ngài không thuộc thế gian này. Ngài đến trần gian là để giới thiệu cho con người biết về Nước trời. Ngài kêu gọi tham dự vào Nước trời và không ngừng mở rộng Vương quốc ấy. Nhưng con đường để vào Vương quốc vĩnh cửu ấy đòi hỏi con người phải có nhiều hy sinh và cố gắng lắm. Vì "anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được". Con đường ấy ngày xưa làm cho các tông đồ khó chấp nhận vì không hiểu và cũng không muốn hiểu nữa. Chúng ta thấy thật là trớ trêu. Ba lần Chúa Giêsu tiên báo về con đường mà Ngài sẽ phải đi qua để mở đường về Thiên quốc cho con người thì 3 lần các tông đồ không muốn nghe, rồi nghe mà không hiểu nên bàn tính với nhau những chuyện hoàn toàn đi ngược lại với con đường mà Chúa Giêsu kêu gọi họ bước đi.
Trong lần thứ 1 Chúa Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn, thì Phêrô đại diện cho anh em của mình ngăn cản và bắt đầu trách Ngài.
Trong lần Chúa Giêsu tiên báo cuộc thương khó lần thứ 2, thì phúc âm ghi lại là các tông đồ không hiểu, mà cũng không dám hỏi lại, nhưng bắt đầu tranh luận xem ai là người làm lớn hơn cả.
Và trong lần Chúa Giêsu báo trước về cuộc thương khó lần thứ 3 thì các ông run sợ. Rồi sau đó, Giacôbê và em nình là Gioan đến gần Chúa Giêsu nói nhỏ với Ngài để xin cho 2 anh em một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Chúa trong Nước của Chúa. Các tông đồ tiếp tục nuôi dưỡng ước mộng làm lớn.
Trước những người môn đệ với những động lực còn mang tính phàm tục như thế, Chúa Giêsu không chê bỏ họ, nhưng từng bước sửa dạy họ, uốn nắn họ và huấn luyện họ để họ từng bước được thanh tẩy tâm hồn, giúp họ hiểu biết ơn huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã dành cho họ. Chúa Giêsu đã "gạn đục khơi trong" trong tâm hồn các tông đồ để giúp họ từng bước nên thánh, nên người môn đệ đích thực của Thiên Chúa. Điều đáng quý nơi các tông đồ là họ biết chấp nhận những lời sửa dạy của Chúa Giêsu, không tự ái, không tự cao tự đại. Nhờ đó mà họ được Thiên Chúa đoái thương; nhờ đó mà họ không ngừng tiến triển trên con đường nên thánh, nhất là họ biết nâng đỡ nhau, nương tựa vào nhau, biết yêu thương nhau và giúp nhau chu toàn sứ mạng của mình.
Chúng ta ngày nay hãy nhìn vào các tông đồ để hiểu biết mình hơn. Chắc chắn, chúng ta không hơn các tông đồ đâu. Chắc chắn, chúng ta cũng còn nhiều những khuyết điểm: nóng nảy, tham lam, ghe tỵ, ghen tương, thích được phục vụ, thích hưởng thụ, thích làm lớn để dùng quyền bính của mình cho hả dạ . . . Chúng ta chắc cũng còn muốn theo Chúa để được cái này, cái nọ ngay ở tràn gian này. Không thiếu những người giữ đạo vì thấy mình được ban ơn, được Giáo hội quan tâm hay muốn tìm một uy tín nào đó nhờ mang danh là Kitô hữu. Chúng ta rất cần thanh lọc động lực theo Chúa và giữ đạo của chúng ta. Chúng ta cần khiêm tốn đón nhận những lời dạy bảo của Chúa trong Tin mừng hay qua những thừa tác viên của Giáo hội.
"Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta có thêm ngày nữa để yêu thương!" (Thi hào Tagor, Ấn Độ)
Đối diện trước cái chết, con người có nhiều thái độ khác nhau. Có kẻ bình thản chờ điều phải: TN 25-B76
Đối diện trước cái chết, con người có nhiều thái độ khác nhau. Có kẻ bình thản chờ điều phải đến, có kẻ đau đớn tuyệt vọng, kẻ khác thì sợ hãi lẩn trốn... Nhưng tất cả, tất cả, từ những vị thánh sống đến những con thú đội lốt người, đều không thể tránh khỏi cái chết.
Một điều sẽ xảy ra với ta, với cha ta, mẹ ta, với mọi người thân hay kẻ thù của ta có vẻ như không hy vọng gì để thoát khỏi cái chết.
Đức Giêsu, nhìn từ nhãn quan y học, Người đã chết thật, máu người đã đổ ra là máu thật, đau đớn Người phải chịu là đau đớn xác thịt thật như chúng ta. Thế nhưng, trước cái chết, Người không tránh né, không dùng quyền năng để chống lại. Người vui lòng đón nhận, và còn dùng ý thức về cái chết để huấn luyện các tông đồ. Thế nhưng các ông lại sợ điều khủng khiếp ấy xảy ra cho Thầy mến yêu, sợ mà không dám hỏi thăm. "Các Ngài kỳ quá!"
Nhưng tệ hơn, mặc dù đang mơ hồ đối diện cuộc tử nạn của Thầy, các ông vẫn rục rịch cãi nhau xem ai lớn nhất!
Chúng ta thì sao? Nếu có lần nào ta lỡ ngồi trên xe của một ông tài xế say rượu, và ta chỉ biết nhắm mắt đọc kinh, mong cho mau tới chỗ an toàn, ta mới có thể hình dung tình huống đối diện với cái chết là thế nào!
Lúc đó, hẳn ai cũng sẵn lòng đổi tất cả phù hoa thế gian để được xuống đất bình an!
Thế mà, ta không nghĩ đến việc một ngày kia Chúa vẫn gọi ta, ta không nghĩ đến hạnh phúc thiên đàng mới quan trọng hơn hết thảy. Để ngày hôm nay ta sống chan hoà yêu thương hơn với mọi người!
Không muộn đâu! Ngay bây giờ, ta hãy nghĩ đến những người nguội lạnh mà cầu nguyện cho họ, nghĩ đến một người đau khổ mà trăn trở cùng người đó; sáng mai, ta hãy tìm một hoàn cảnh túng quẫn mà nâng đỡ, dọc đường thấy ai vác nặng thì chia sớt giúp người...
Thế rồi, ta sẽ hiểu rằng, vinh quang tuyệt diệu không phải là ngồi ghế nhất, không phải là được mọi người cúi đầu, càng không phải là được làm thánh sống!
Mà, vinh quang lớn nhất của ta là sống yêu thương như Chúa Giêsu, chết hạnh phúc như Chúa Giêsu!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con mỗi sáng và mỗi ngày con biết tìm đến với Chúa qua anh chị em của con là những con người đang bị bất hạnh. Để con biết sống yêu thương như Chúa, và đưa anh chj em của con đến đỉnh vinh quan với Chúa.
Tuần trước khi Chúa Giêsu loan báo người sẽ chịu khổ nạn, Pet. Đã can trách Chúa Giêsu và bị: TN 25-B77
Tuần trước khi Chúa Giêsu loan báo người sẽ chịu khổ nạn, Pet. Đã can trách Chúa Giêsu và bị Chúa Giêsu trách là Satan. Lần này, khi Chúa Giêsu loan báo như các ông như lần trước, không ai trong các ông, kể cả Pet., một người bạo mồm bạo gan dám nói gì, vì sợ. Các tông đồ sợ gì ?
Sợ bị rầy như lần trước ? Không, môn đệ theo thầy để học, chuyện sửa dạy là chuyện đương nhiên có gì phải sợ ? Vậy họ sợ gì mà không dám hỏi ?
Họ sợ phải chấp nhận một sự thật phủ phàng làm tan biến giấc mơ được làm lớn của họ.
Khi khám phá ra Đức Giêsu là "Đấng Kitô của Thiên Chúa" hẳn các ông đã hí hửng! Rồi đây tương lai của mình sẽ rộng mở, khi triều đại của Đấng Messia được thiết lập. Thế nhưng liền sau đó, Đức Giêsu lại làm họ thất vọng, thất vọng hoàn toàn khi Ngài tuyên bố rằng: Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, bị giết chết.
Bị bắt rồi còn làm được việc gì ? bị giết rồi thì còn gì nữa để hy vọng? Phò một minh chủ với mộng thành vương, thành tướng, thế mà chưa khởi nghiệp, minh chủ đã tuyên bố thất bại. Có đáng để theo không ? Đó chắc chắn chính là nỗi lo của họ.
Đang khi nỗi lo còn đang canh cánh, chưa vơi thì một lần nữa, Chúa Giêsu lập lại điệp khúc cũ: Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời.... giờ đây nỗi lo trở thành nỗi sợ. Đó là chuyện đương nhiên !
Nhưng Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy nỗi lo sợ của các tông đồ là do "xớn xác". Đức Giêsu đâu cẩm họ làm lớn, nhưng là phải làm lớn như thế nào mới là làm lớn thật.
Để có thể làm lớn thật, không thể dùng quyền uy, thế lưc mà có được, nhưng phải đổi lấy bằng sự phục vụ, phục vụ mọi người từ lớn chí bé, không trừ một ai. Như vậy một cách gián tiếp, Ngài chỉ cho ta thấy nền tảng của địa vị con người không phải là cái ghế mà người ta ngồi vào, nhưng nó được đặt ngay trong lòng của những người ái mộ. Đó chính là chân lý.
Ở đời, nhiều người để trở thành nguyên thủ của một quốc gia, họ phải đi vận động, hứa hẹn đủ điều với dân chúng để được sự ủng hộ của cử tri, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn xấu xa để mua chuộc, để lường gạt hòng chiếm được địa vị đó. Thế nhưng có nhiều kẻ, sau khi đã toại nguyện, đã ngồi được vào chiếc ghế nguyên thủ, với lương cao bổng đầy, với quyền quy tối thượng, họ tìm cách trục lợi cho bản thân và gia đình mà không lo sao cho ích nước lợi dân, kết quả, họ bị rút mất địa vị mà họ từng có được. Cụ thể như cựu tổng thống Đài Loan, Trần Thụy Điển, từmg là tổng thống, đáng lẽ sau đó sẽ tiếp tục được người dân kính trọng,kính nể, thế nhưng giờ đây ông đã bị tống vào tù với mức án chung thân vì tội tham ô nhận hối lộ. Một nhân vật từng ở chiếc ghế cao nhất, giờ đây lại bị đặt vào chổ rốt hết và phải mang ô danh suốt mọi thời.
Chúa Giêsu, ngược lại, Người đã tự hạ mình xuống để đón lấy thân phận của một kẻ tử tội, lãnh mức án nặng nhất để chịu khổ nhục, chết thay cho những kẻ thấp hèn nhất của nhân loại nhưng lại được tôn vinh trên toàn thế giới, qua mọi thời.
Cái gì cũng có cái giá của nó. những gì chúng ta kiên trì, khó nhọc vất vã có được mới xứng với vinh quang và hạnh phúc, nó mới bền vững. những gì chúng ta có được cách dễ dàng và gian trá, thì nó cũng tan biến cách mau chóng và sẽ không có giá trị như một thứ đồ giả, không đáng để người ta quan tâm. Như vậy chúng ta đừng sợ không thể làm lớn được, nhưng hãi sợ là chúng ta không thể củng cố được nó.
Để kính nể một con người, thông thường người ta dựa vào quyền cao chức trọng hay vào tiền bạc: TN 25-B78
Để kính nể một con người, thông thường người ta dựa vào quyền cao chức trọng hay vào tiền bạc, của cải của người ấy. Bởi lẽ, người có quyền cao chức trọng và giàu có sẽ được nhiều người cung phụng.
Với quan niệm ấy các Tông đồ là những người thân tín của Chúa Giêsu cũng đã bị nhiễm. Mặc dù, Chúa Giêsu vừa tuyên bố Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và cuối cùng sẽ bị đóng đinh nhưng các ông vẫn chưa hiểu được Người. Trong tâm tưởng các ông vẫn còn mong Chúa Giêsu là một Đấng Cứu Thế đầy quyền lực, để rồi các ông sẽ được thơm lây. Khi đó sẽ có người lớn kẻ nhỏ. Cho nên, các ông đã tranh luận xem ai sẽ là người lớn hơn cả.
Biết được điều đó, Chúa Giêsu đã huấn giáo cho các ông: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" (Mc 8, 35).
Như vậy, đối với Chúa Giêsu một con người đáng kính nể là một con người biết phục vụ và làm đầy tớ người khác. Chính Chúa Giêsu là Đấng Kitô tôi tớ. Người đến trần gian này để phục vụ và hầu hạ con người.
Một trong ba bổn phận của người Kitô hữu là sống sứ mạng vương đế. Làm vua theo kiểu của Vua Giêsu là hầu hạ và hiến mạng sống cho người khác. Cũng vậy, tự bản chất con người là sống cho và sống vì người khác. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy trở thành những con người biết phục vụ theo gương của Người. Chúng ta phục vụ nhau trong gia đình. Chúng ta phục vụ nhau trong cộng đoàn họ đạo.
Để trở thành một con người phục vụ chúng ta cần biết tập sống mở ra cho người khác.
Để trở thành một con người phục vụ chúng ta cần biết tập sống quan tâm đến những nhu cầu của người khác.
Khi đó, chúng ta sẽ tránh được tánh hay ghen ghét và tranh chấp mà Thánh Giacôbê nhắc nhở trong bài đọc 2. Đồng thời, chúng ta cũng tránh được tánh hay tự ái. Trong bất cứ cộng đoàn lớn nhỏ nào mà có người hay ghen ghét hoặc hay tự ái thì cộng đoàn ấy khó được tồn tại.
Hãy xin Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta mỗi ngày trở thành những con người biết phục vụ đúng nghĩa theo gương của Người.
VÌ SAO AI CŨNG THÍCH LÀM LỚN? Câu hỏi đặt ra có vẻ dư thừa, ai cũng hiểu và dường: TN 25-B79
VÌ SAO AI CŨNG THÍCH LÀM LỚN? Câu hỏi đặt ra có vẻ dư thừa, ai cũng hiểu và dường như không cần vất vả đi tìm câu trả lời vì làm lớn ai mà chẳng thích. Ai cũng hiểu làm lớn sẽ có quyền uy, được người dời tôn trọng, được phúc lộc tiền tài, được điều mình mong ước cách dễ dàng mà không cần tốn công phí sức. Với những lý do đó cũng đủ để con người phấn đấu để được làm lớn.
Làm lớn cũng là kết quả đánh dấu sự thành công của một cá nhân. Đó cũng là dấu chỉ của sự phấn đấu liên lĩ trong học tập, trong công việc, trong tương quan. Vì thế, làm lớn là điều con người cần phấn đấu vì nó là phương thế để con người phát triển, là cơ hội để đời sống được văn minh.
Trong cuộc tranh luận ai là người đứng đầu trong các anh em, Chúa Giêsu không bác bỏ việc ai làm lớn giữa các ông nhưng Người định hướng cho các ông làm lớn để làm gì cho thích hợp. Quan niệm về người đứng đầu của Chúa Giêsu có vẻ khác thường, nhưng đó là một cách sống phi thường mà mỗi người cần vươn tới.
Người đứng đầu là người rốt hết
Chúa Giêsu nói có vẻ nghịch lý nhưng Ngài nói với một hậu ý rất rõ ràng. Người làm lớn đầy quyền uy, dễ có thái độ trịch thượng, kiệu ngạo. Ngài muốn người môn đệ có một thái độ khiêm nhường nơi tận cõi lòng: ý hướng khiêm nhường, nói năng khiêm nhường, hành xử khiêm nhường. Người quyền thế trong tự kiêu sẽ thống trị người khác hơn là nâng đỡ, cách xa hơn là thân tình. Người ý thức mình rốt hết sẽ dễ dàng gần gũi và dám sống hết mình với anh chị em.
Người đứng đầu mà ý thức mình rốt hết sẽ mang lại nhiều lợi ích: dễ nhận ra yếu hèn của mình, nhẫn nại với yếu đuối của kẻ khác; không chăm lo cho mình nhưng chú ý đến người khác. Thánh Phaolô đã khuyên: "Đừng làm chi ganh tỵ hay vì hư danh, hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, những hãy tìm lợi ích cho người khác" (Pl 2,3-4). Quả thật, chỉ khi mình trở nên nhỏ bé ta mới thấy được bao điều mới mẻ. Khiêm nhường không phải là nghĩ ít về mình, tự cho mình kém cõi nhưng khiêm nhường là ít nghĩ về mình, mà nghĩ đến người khác nhiều hơn.
Người đứng đầu là người tiếp nhận kẻ bé mọn
Người làm lớn thì quen biết lớn, có kế hoạch lớn, có tài sản lớn. Với những cái "lớn" đó vô tình đưa người đứng đầu sống tách biệt với người, sống cô lập giữa đời. Chúa Giêsu đến trần gian Ngài muốn gần gũi với hết mọi người. Người đã tháo gỡ mọi rào cản để tất cả sống trong tình yêu mến. Ngài quy tụ tất cả trong quỹ đạo tình yêu của Ngài.
Ngài thực hiện kế hoạch lớn của Chúa Cha bằng những hành động nhỏ: sinh ra trong cảnh nghèo, sống trong đơn sơ, chết trong cô độc. Ngài đã sống tận cùng của thân phận con người để Ngài nâng con người lên tới cùng tận.
Tiếp nhận kẻ nhỏ đó là một lối sống vô vị lợi. Kẻ bé mọn chẳng có gì cho, chẳng có gì đáp đền. Tiếp nhận kẻ bé mọn chẳng khác nào chuốt hoạ vào thân. Nhưng điều mà con người cho là "hoạ" lại là cái "phúc" trước mặt Thiên Chúa. Thế nên, ta cần đón nhận nhiều cái "hoạ" nơi con người để ta lãnh lấy nhiều cái "phúc" tự Thiên Chúa.
Chúa Giêsu hôm nay đã đưa ra một cuộc cách mạng về quan niệm sống. Người đứng đầu thì không dùng quyền chỉ huy từ trên cao nhưng là người đứng sau để chỉ biết khiêm nhường phục vụ. Người đứng đầu cũng không chú ý tiếp đón hạng cao sang nhưng tiếp đón kẻ thấp hèn.
Quan niệm sống của Chúa Giêsu thật cần thiết hơn bao giờ hết cho thế hệ hôm nay. Trong khi mọi người đang chạy tốc độ cao để tìm những cái nhất: ai đẹp nhất, ai giàu nhất, ai giỏi nhất, quyển sách bán chạy nhất. Ai cũng cố chen chân để nằm ở top-ten trong mọi lĩnh vực thì Chúa Giêsu kêu mời hãy sống khiêm nhường mà phục vụ nhau. Khi mọi người ráo riết tìm cách sống cho mình thì Chúa Giêsu bảo hãy tập sống cho người. Khi mọi người chạy tìm những cái nhất thì Chúa Giêsu hướng mọi người những cái nhất khác: khiêm nhường nhất, yêu thương nhất, phục vụ nhất, tiếp đón những kẻ bé mọn nhất...
Ngày nay, lời kêu mời sống khiêm nhường phục vụ chắc chắn sẽ được con người đáp lời bằng sự thinh lặng như các môn đệ xưa kia. Chúng ta yên lặng vì lòng mỗi người còn sống kiêu căng, vì mình còn thích trổi vượt, vì lòng còn quá nặng quyền uy.
Đã đến lúc mỗi người cần mạnh dạn lên tiếng thân thưa với Chúa: Lạy Chúa con muốn phụng sự Chúa, muốn phục vụ mọi người, muốn giúp ích mọi người trong tình yêu mến Chúa Kitô.
Lầm lẫn giữa việc chính, việc phụ xảy ra cho mọi lứa tuổi, tầng lớp. Việc quan trọng đáng xếp vào: TN 25-B80
Lầm lẫn giữa việc chính, việc phụ xảy ra cho mọi lứa tuổi, tầng lớp. Việc quan trọng đáng xếp vào công việc chính, cần chú tâm thì bị liệt vào việc phụ. Trái lại việc phụ lại đặt trọng tâm, cho là quan trọng. Lầm lẫn chính phụ gây thiệt hại cho cá nhân, xã hội và tổn thương đời sống tâm linh. Đức Kitô sửa sai về vấn đề này.
Lần đầu tiên Chúa tâm sự với các tông đồ cái chết của Ngài. Phúc âm thuật lại 'các ông không hiểu lời đó, và sợ không dám hỏi lại Người' Mk 9, 32. Nguyên nhân đưa đến lẫn lộn chính phụ vì:
a/ Thiếu hiểu biết về đức tin và tinh thần hiếu học. Dùng ý kiến cá nhân phán đoán sự việc.Không hiểu nhưng không tìm hiểu.
b/ Thiếu khiêm nhường. Tông đồ quan tâm nhiều đến lợi lộc, danh vọng cá nhân nên dọc đường các ông 'cãi nhau xem ai là người làm lớn hơn cả (c.34). Chúa dậy cho các ông bài học khiêm nhường. Kêu ngạo là rào cản ngăn trở cho việc học hỏi Lời Chúa. Ngăn cản đức tin bám rễ sâu trong tâm hồn. Để tâm vào việc riêng, lợi lộc, danh vọng nhiều; để tâm vào Chúa giảm.
c/ Chúa nhắc các ông tinh thần phục vụ: Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người' (c.35).
Thánh Giacôbê giải thích tinh thần phục vụ như sau: Đức tin không việc làm là đức tin chết.
Ta có thể yêu người nhưng không mến Chúa; nhưng không thể mến Chúa mà thiếu yêu người. Sống đạo hời hợt, hình thức bề ngoài, thiên lí thuyết dễ bị các luồng sóng xã hội làm chao đảo. Giữ đạo hình thức dẫn đến việc yêu Chúa, yêu người hình thức, bề ngoài. Thiếu chiều sâu.
Nhầm lẫn trong cách thờ phượng
Chúa Yêsu cảnh tỉnh tâm tình tôn thờ hời hợt, môi miệng như sau:
Dân này thờ Ta bằng môi bằng miệng còn lòng chúng thì xa Ta Mat 15,8. Chúa muốn tấm lòng chân thành, thực sự yêu mến mà không màng đến sáo ngữ ví von nghe vui tai. Khi tình yêu nội tâm dâng trào khơi dậy lòng mến Chúa yêu Người thiết tha. Tình thương đó thúc đẩy ta dang tay đón người cùng khổ, nâng đỡ kẻ khốn cùng, cho kẻ đói ăn no, tưới mát lòng khô héo, bắt tay người đau yếu và coi sóc vũ trụ. Chúa mời chúng ta sống cho tha nhân. Tránh lối sống đưa đẩy. Không phải bất cứ ai thưa:
Lậy Chúa, Lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy' Mat 7,21. Ai nghe Lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá..... Còn ai nghe những Lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát' (câu 24-27).
Lầm lẫn về truyền thống tiền nhân
Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa? Người trả lời: Còn các ông, sao các ông đựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa' Mat 15,1-7.
Tránh truyền thống tạo chia rẽ, gây hận thù coi thường mạng sống, khinh người, chê điều răn Chúa. Một trong những lí do đưa đến việc cấm đạo trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam là để bảo vệ truyền thống tổ tiên. Người ta chọn giữ truyền thống bỏ đức tin. Trong Tân Ước người ta cũng nại đến truyền thống bài bác Chúa.
Lầm lẫn về vấn đề gia đình
Môse truyền cấp giấy li dị 'vì các ông lòng chai, dạ đá, nên Môse cho phép các ông rẫy vợ, chứ từ thuở ban đầu, không có thế đâu'. Mat 19,8.
Đừng viện dẫn truyền thống giải thích mưu đồ.
Lầm lẫn về những điều cầu xin
Bà Zêbêđê xin cho hai con, một bên tả, một bên hữu trong Nước Chúa. Ngài đáp: Các ngươi không biết các ngươi xin gì Mat 20,22.
Thánh Giacôbê 4,1 xác quyết xung đột, bất hòa xảy ra giữa anh em vì chính những khoái lạc anh em đang gây chiến trong con người anh em. Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chem. giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau. Anh em không có vì anh em không xin; anh em xin mà không được vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.
Khi vui, lúc buồn chúng ta dễ nhầm lẫn chính phụ. Lời hứa lúc vui thường thiếu cân nhắc hậu quả. Hêrôđê chặt đầu Gioan bỏ dĩa vì ông hứa lúc hoan lạc. Mẹ Herođia muốn đầu Gioan để thỏa cơn thù. Lời cầu lúc buồn khó trong sáng. Bình thường gặp hòan cảnh khó khăn, bối rối chúng ta xin Chúa thay đổi hòan cảnh đang gặp. Mấy ai xin Chúa giúp thay đổi ta cho hợp với hòan cảnh mới. Hoặc xin hiểu điều Chúa nói qua hòan cảnh. Phêrô khuyên Chúa ông đâu biết tư tưởng tốt đẹp đó chỉ là trá hình của viên thuốc đắng bọc đường.
Lầm lẫn về ý tưởng đạo đức
Khi nói với các tông đồ Chúa sẽ chịu chết ba ngày sau sẽ sống lại. Phêrô kéo Ngài ra xa khuyên can: Xin Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy. Chúa đáp: Anh cản lối thầy vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người. Mat 16,21.
Lầm lẫn trong thực phẩm
Không phải cái vào miệng làm cho người ta ra ô uế, nhưng cái từ trong miệg xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế Mat 15,10.
Lầm lẫn khi nhận diện
Biết Chúa con bác thợ mộc Giuse và bà Maria, anh chị em ông ở với chúng ta. Phúc âm kết: Chúa không làm phép lạ tại đó vì họ cứng lòng tin.
Lầm lẫn về quyền hành, chức tước
Philatô nói với Chúa ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao? Đức Yêsu đáp: Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Gioan 19,11.
Thiết tưởng những trường hợp điển hình trên đủ cho thấy bước vào vấn đề chính phụ quả là phức tạp. Giáo Hội không làm gì khác hơn là học từ Đức Kitô đóng vai trò hường dẫn, chỉ đạo, đặc biệt là vấn đề liên quan đến tín lí và đức tin, giúp chúng ta chọn lựa, tránh những lầm lẫn có hại cho đức tin và cách hành đạo. Nếu cứ ý riêng, điều gì xác tín điều chọn là đúng? Lắng nghe, vâng phục Giáo Hội được xác tín nhiều hơn. Chính cá nhân chọn, nhưng không chọn đi một mình mà chọn cùng đồng hành với Giáo Hội.
"Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ người khác" (Mc 9,36)
1. Lý tưởng phục vụ
Có thể nói đây là một trong những câu nói đẹp nhất của Tin Mừng. Từ khi mới đi tu, tôi khôn: TN 25-B81
Có thể nói đây là một trong những câu nói đẹp nhất của Tin Mừng. Từ khi mới đi tu, tôi không hiểu hết ý nghĩa của nó, bởi vì cái nhìn của Chúa hoàn toàn khác với cái nhìn của con người. Vì thông thường ai cũng muốn làm đầu. Ai cũng thích chỗ cao trọng. Ai cũng muốn được người khác phục vụ. Ngay cả các tông đồ cũng thế, theo Chúa rồi mà vẫn còn mang não trạng tranh giành nhau và tìm chổ lớn chỗ nhỏ.
Nhưng dần dần tôi mới hiểu được ý nghĩa của câu nói này. Tôi nhận thấy rằng:
Trong một quốc gia, nếu những người lãnh đạo là những người phục vụ người dân thì đất nước đó sẽ phát triễn và sẽ tiến nhanh tiến mạnh.
Trong một xã hội, nếu mọi người biết phục vụ nhau, thì xã hội đó sẽ bình an và thịnh vượng.
Một giáo xứ mà trong đó ai cũng mặc lấy tinh thần phục vụ lẫn nhau, thì giáo xứ đó rất sống động và đầy niềm vui.
Cũng thế trong một gia đình vợ chồng, con cái biết phục vụ lẫn nhau, thì gia đình đó sẽ có sự cảm thông, yêu thương và hạnh phúc dư tràn.
Phục vụ là lý tưởng mời gọi tất cả mọi người sống và thực hành để làm cho cuộc sống này được đẹp hơn, nhân bản hơn và yêu thương hơn.
Giáo hội cũng chọn phục vụ làm con đường phải đi như Chúa đã dạy. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quả quyết rằng: "Con người là con đường của Giáo Hội". Nghĩa là Giáo Hội được thiết lập là để phục vụ con người. Con người là trung tâm điểm của sứ mạng Giáo Hội. Trong Giáo Hội có chức vụ, có địa vị nhưng không phải là để thống trị người khác, nhưng là phương tiện để phục vụ lợi ích các linh hồn và xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô.
Giáo hội được mời gọi bước theo mẫu gương phục vụ của Chúa Kitô. Người là Đấng giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó. Người là Đấng cao trọng nhưng đã trở nên rốt hết. Người là Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Người là Chúa nhưng đã hiến mạng sống mình vì ơn cứu độ của chúng ta. Đúng như Lời Người: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45).
2. Ơn gọi linh mục là ơn gọi phục vụ
Trong Năm Linh Mục, tôi muốn chia sẽ về ơn gọi của tôi. Chúa gọi tôi đi tu vào năm 19 tuổi, lúc đó tôi mang trong mình nhiều ước mơ. Khi chọn lựa đi tu, tôi cũng phải vật lộn với chính mình và cứ tự hỏi phải đi con đường nào. Những buổi tối về mấy người bạn cùng làng đồng lứa quây quần bên nhau dưới ánh đèn dầu, chúng rĩ vào tai tôi: "Cậu đừng có đi tu, thời nay ít người đi tu rồi, đời độc thân cực lắm". Nghe những lời đó làm tôi cũng lung lạc muốn bỏ ý định đi tu. Nhưng tôi vẫn nghe trong lòng một tiếng mời gọi ra đi. Sau khi suy nghĩ và cầu nguyện, cuối cùng tôi nói với Mẹ, "con sẽ đi tu mẹ ạ". Nghe điều đó, tôi thấy mắt mẹ tôi rưng rưng nước mắt và tôi hiểu được tâm trạng của mẹ tôi lúc đó: có thể đó là những dòng nước mắt của niềm vui vì có một người con sẽ dâng mình cho Chúa. Nhưng có thể đó là những dòng nước mắt của hy sinh vì "mất một người con trai trưởng" là chổ dựa của gia đình tôi.
Tôi đã bước đi theo tiếng gọi làm linh mục của Chúa. Sau hơn sáu năm huấn luyện ở Đại Chủng Viện Vinh Thanh, mùa Đông năm 2001 tôi được truyền chức linh mục bởi Đức Cha Phaolô Cao Đình Thuyên. Nay tôi đã làm linh mục được tám năm. Càng ngày tôi càng xác tín rằng: Chức linh mục không phải là một cái nghề, cũng không phải là một địa vị trong lòng Giáo Hội để tìm kiếm. Nhưng chức linh mục là một hồng ân, hay đúng hơn, nói theo Thánh Phaolô là một đặc sủng (charisma) của Chúa Thánh Thần. Đặc sủng này được ban cho tôi là vì lợi ích chung, là để phục vụ lợi ích cộng đoàn. Hiểu như thế, tôi càng được thôi thúc hơn và mời gọi hơn đi vào con đường của Chúa, đó là con đường yêu thương và phục vụ người khác. Lý tưởng đó thúc đẩy tôi lên đường và "ra khơi" mỗi ngày. Khi phục vụ trong sứ mạng linh mục tôi thấy những chân trời mới ló dạng, chân trời của yêu thương và hy vọng, chân trời của niềm vui và truyền giáo. Tôi rất thích câu thơ của đại thi hào Ân Độ, Tagor, vì rất đúng với đời linh mục:
" Khi tôi ngủ, tôi mơ thấy niềm vui
Khi tôi thức, tôi thấy đời phục vụ
Khi tôi phục vụ, tôi gặp được niềm vui".
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết đi vào con đường của Chú, đó là con đường yêu thương và phục vụ. Vì chỉ con đường đó dẫn chúng con tới niềm vui, bình an và hoan lạc trong tâm hồn. Amen!
Mở lại những trang đầu của Thánh Kinh, ta thấy hình như cái máu ghen tuông nó bắt đầu manh: TN 25-B82.
Mở lại những trang đầu của Thánh Kinh, ta thấy hình như cái máu ghen tuông nó bắt đầu manh mún nơi ông bà nguyên tổ thì phải. Vì không đón nhận những gì mình có, vì muốn bằng Thiên Chúa, ghen tuông với Thiên Chúa nên hai ông bà hái trái cấm để cho được hơn Thiên Chúa. Thế nhưng, sau khi hái trái cấm thì mọi sự đã được sáng tỏ. Con người mãi mãi là thụ tạo trong lòng bàn tay của Thiên Chúa.
Máu ghen tuông của ông bà nguyên tổ đã truyền sang cho con cái của hai ông bà là Cain. Cain đã đành tâm giết em của mình vì em của mình được lòng Thiên Chúa. Không chỉ dừng ở đó, suốt hành trình lịch sử cứu độ, sự ghen tuông vẫn còn và vẫn còn mãi. Sự ghen tuông ấy đã gây ra không biết bao nhiêu hậu quả cho con người.
Trang sách khôn ngoan mà chúng ta vừa nghe nói lên lòng thâm độc, nham hiểm của kẻ ghen tuông:
"Ta hãy gài bẫy hại tên công chính,
vì nó chỉ làm vướng chân ta,
nó chống lại các việc ta làm,
trách ta vi phạm lề luật,
và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo.
Ta hãy coi những lời nó nói có thật không,
và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào.
Nếu tên công chính là con Thiên Chúa,
hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù.
Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó,
để biết nó hiền hoà làm sao,
và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào.
Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã,
vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm." (Kn 2, 12.17-20)
Không chỉ rắp tâm hại mà còn thách thức Thiên Chúa nữa.
Và, hôm nay, trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta về thái độ ghen tuông, thái độ hơn thua của các môn đệ.
Trang Tin mừng theo Thánh Máccô mà chúng ta vừa nghe, xét về phương diện biên soạn, nếu so sánh trình thuật này với bản văn của Matthêu và Luca, chúng ta nhận thấy rằng: lời giáo huấn của Chúa Giêsu dạy các môn đệ "ở cuối hết mọi người và làm tôi tớ mọi người", được các thánh ký trình bày theo các bối cảnh khác nhau:
Matthêu 18, 3-4 viết: "Quả thật Ta bảo các ngươi nếu các ngươi không hoán cải mà nên như trẻ nhỏ, các ngươi sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai kể mình hèn hạ như trẻ nhỏ này, thì người ấy là kẻ lớn hơn trong Nước Trời". Bối cảnh ở đây liên hệ tới Nước Trời.
Luca đặt cuộc tranh luận vào khung cảnh bữa tiệc ly: "Người lên giường tiệc làm một với các tông đồ... giữa họ đã xảy ra một cuộc tranh chấp ai phải được kể là lớn nhất trong nhóm. Nhưng Người bảo họ:. ..ai lớn hơn cả nơi các ngươi thì hãy nên như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, thì ở như người hầu hạ... Còn Ta, Ta ở giữa các ngươi như kẻ hầu bàn" (Lc 24, 14,23-27). Thánh ký Luca nhấn mạnh đến sự ưu tiên của việc phục vụ tha nhân.
Nơi Tin Mừng Maccô, thánh ký trình bày một cách rõ nét sự phản đề căn gốc giữa địa vị làm đầu và địa vị cuối hết (câu 35).
Cách miêu tả phản đề đó của thánh ký Maccô phô diễn ý muốn của Giêsu nhằm đến sự đảo lộn các bậc thang giá trị theo như các môn đệ đánh giá. Họ phải thay đổi cái nhìn về các bậc thang giá trị trong cuộc sống làm môn đệ của Người. Vì chưng, trong vương quốc tình yêu của Thiên Chúa, quyền hành được ban cho để làm tôi tớ mọi người, nhất là những ai thấp hèn hơn, bị khinh chê hơn, như hình ảnh của đứa bé là biểu tượng.
Họ đến Caphácnaum. Vào nhà, Người hỏi họ: dọc đường các ngươi tranh luận gì với nhau? Họ làm thinh vì dọc đường họ đã tranh luận với nhau: ai lớn hơn (Câu 33-34):
Như chúng ta đã ghi nhận, trong hành trình tiến dần về cuộc khổ nạn ở Giêrusalem, Chúa Giêsu băng qua Galilêa, và giờ đây, người và các môn đệ đã đến Caphácnaum; Thực ra, địa dư này cũng nằm trong ý nhắm thần học của Maccô Caphácnaum là thành phố ở đó Chúa Giêsu thường ở tại nhà (x. Mc 21,1) tức là nhà của Simon và Anrê (x. Mc 1,29). Trong nhãn quan thần học Maccô, cách miêu tả vào nhà cùng với bối cảnh Carphanaum gợi nhắc tới một lời giáo huấn quan hệ và quí báu mà Chúa Giêsu muốn ngỏ cho các môn đệ.
Đang khi tâm trí của Chúa Giêsu hướng đến viễn ảnh khổ nạn trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, thì các môn đệ của Người lại tranh luận với nhau thử xem ai lớn. Đó là sự trái ngược phản tương cũng đã từng xảy ra nơi cuộc loan báo thương khó lần thứ nhất giữa Người và các môn đệ mà Phêrô là đại diện tiêu biểu (Mc 8,31t).
Và như vậy cuộc tranh luận về địa vị lớn nhỏ bộc lộ cho thấy các môn đệ khó vượt thoát các tâm tư trần tục trên con đường theo Chúa.
Ngồi xuống, Người gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói với họ: Ai muốn làm đầu, thì hãy ở cuối hết mọi người và làm tôi tớ mọi người (Câu 35)
Ngồi: Nói lên tư thế của vị Thầy ngồi giáo huấn các môn đệ (Mc 4,1; 13,3). Ngồi xuống, Người gọi Nhóm Mười Hai lại để ngỏ lời nhắn nhủ quan hệ cho họ, trong tư thế họ là những đại diện của gia đình mới (Mc 3,13; 6,7)
Trong nhãn quan thần học Maccô Nhóm Mười Hai còn nói lên hình ảnh của nhóm môn đệ đồng hành với Chúa Giêsu trên con đường khổ nạn, (x. Mc 10,32; 11,11; 14,17): Người muốn đưa dẫn họ và qua họ, đưa dẫn toàn thể những ai tin theo Người đi trên con đường mà Người bước tới, và chính trong bối cảnh đó mà Người ngỏ lời cho họ: Ai muốn làm đầu thì ở cuối hết mọi người, làm tôi tớ mọi người.
Chúa Giêsu đòi hỏi kẻ muốn tìm kiếm địa vị hàng đầu phải là kẻ cuối hết và làm tôi tớ cho mọi người. Trong nhãn quan thần học Maccô gắn liền với Giáo hội sơ khai, yêu sách đó của Chúa Giêsu mang một tầm vóc quan hệ đặc biệt.
Vì chưng, đối với người môn đệ của Chúa Giêsu làm đầu tức là làm cuối hết mọi người và làm tôi tớ mọi người. Người đời thường vẫn cảm thấy nhu cầu muốn đánh giá mình, muốn được kẻ khác nhìn nhận và muốn hành xử một thứ quyền hành nào đó trên kẻ khác. Môn đệ của Chúa Giêsu phải có cái nhìn đảo ngược lại. Thầy của họ đã đến giữa trần gian này "như kẻ hầu bàn" (Lc 24,27), những ai chọn theo Nguời phải cảm nhận sâu sắc rằng quyền đuợc ban cho là để phục vụ mọi người. Họ phải vén mở cho thế giới chung quanh thấy chiều kích cánh chung nơi cuộc sống họ, ngang qua sự phục vụ làm tôi tớ mọi người, qua sự tự hiến cho tha nhân.
Đó là cung cách phải có của những người môn đệ Chúa Giêsu trong tương quan với mọi người. Sống giữa thế giới bị ám ảnh bởi quyền lực thống trị, Giáo hội có nguy cơ lượng giá rập theo khuôn mẫu người đời cũng như sử dụng quyền được ban cho không phải để phục vụ song để tạo ưu quyền. Lời giáo huấn của Chúa nói lên sự cảnh giác đối với cuộc sống về người môn đệ của Người phải chọn theo: "Đừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương tri, mà biến hình đổi dạng... Đừng có tự cao quá điều lượng được về mình, mà là tự lượng lấy mình sao cho khiêm tốn, mỗi người tùy theo lường đức tin Thiên Chúa đã phân phối cho. Vì cũng như nơi thân mình ta, tuy nó là một, thế mà ta lại có nhiều chi thể và các chi thể hết thảy lại không đồng một việc. Cũng vậy, chúng ta tuy là nhiều người, ta chỉ là một thân mình trong Đức Kitô, còn thì ai tùy phận nấy, mà làm chi thể lẫn cho nhau...
Trong tình huynh đệ, hãy mến nhau tha thiết; bởi kính trọng nhau, hãy coi kẻ khác hơn mình. Nhiệt thành không bê trễ, tâm thần đầy sốt sắng mà làm tôi Chúa... Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc. Cùng nhau tâm đồng ý hợp, đừng quá cao vọng về mình; trái lại hãy biết bỏ mình, chuộng phần hèn kém (x. Rm 12,2-16).
Hôm nay, không những chúng ta được nghe Chúa Giêsu nói về thái độ hơn thua, ghen tuông và nhắc nhở chúng ta về thái độ ấy nhưng còn có cả người trong cuộc nữa. Thánh Giacôbê tông đồ vừa nói với chúng ta qua thư của Ngài. Chắc có lẽ cái kinh nghiệm xương máu về chuyện hơn thua có trong Ngài nên Ngài vừa khuyên chúng ta: "vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc".
Trái lại với cái chuyện hơn thua ấy, thánh Giacôbê mời gọi chúng ta hãy biết sống sao cho khôn ngoan vì: "Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính".
Thật ra, ai cũng biết mình phải sống thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. .. nhưng rồi cái xấu nhiều khi nó lấn át con người của ta, nó làm cho cái tốt trong ta bị đè bẹp. Chúng ta vẫn biết rằng xây dựng hoà bình thì thu hoạch được hoà bình nhưng chúng ta thường làm ngược lại.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Chúa, là Vua của sự khiêm hạ đến và ở lại trong ta để trong mọi hoàn cảnh sống, trong mọi môi trường sống chúng ta luôn luôn khiêm hạ và nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa và tha nhân để chúng ta bớt đi sự ghen tuôn, sự hơn thua với anh chị em đồng loại.
Ai đã một lần phải lội suối vượt đèo chúng ta sẽ có cái trải nghiệm trong lần đi đó. Nếu như: TN 25-B83
Ai đã một lần phải lội suối vượt đèo chúng ta sẽ có cái trải nghiệm trong lần đi đó. Nếu như chúng ta mang trong mình quá nhiều vật dụng không cần thiết thì những vật dụng ấy sẽ làm cản trở con đường ta đi biết dường nào. Khi vượt đèo lội suối như thế, nếu ta thong dong với con người đơn giản thì ta đến đích sẽ nhanh chóng và nhẹ nhàng.
Cũng như con chim muốn bay vút tận cao xanh thì hai cánh của nó phải được tự do, nghĩa là nó không còn vướng bận gì ở đôi cánh của nó nữa. Và nếu như có những sợi chỉ cột nó thì không thể nào nó có thể bay xa được.
Trong Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta vẫn thường nghe nói đến những cuộc "thần hiện", những lần gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, cách riêng là những người Thiên Chúa chọn thay mặt dân, đại diện dân gặp Chúa. Những lần gặp gỡ ấy ở trên núi và người ta cũng thường ví nơi gặp ấy chính là núi Thánh:
Ai được lên núi Chúa ? Đó là những kẻ có lòng ngay, không mê theo ngẫu tượng, không hề thề dối thề gian !
Thế đấy ! Lòng phải ngay, tay phải sạch mới được gặp Chúa trên núi Thánh của Người. Môsê ngày xưa cũng thế ! Môsê cũng phải có một tâm hồn trong sạch và nhẹ nhõm từ vật chất cũng như tinh thần thì mới lên núi để gặp Chúa và đàm đạo với Chúa được.
Với ý tưởng đó, với tâm tình đó, trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Máccô thuật lại. Chúa Giêsu hôm nay sai các tông đồ đi rao giảng Tin mừng của Ngài.
Một điều rất dễ nhận thấy trong trang Tin mừng này là sắc thái Palestina được phác họa ở đây. Những hình ảnh như: đi từng hai người một, gậy, tiền đồng lận ở thắt lưng, rủ đất bụi dưới chân v.v... thuộc về một bối cảnh văn hóa đậm nét Palestina.
So sánh với trình thuật của Luca và Mathêu, thánh Máccô có một kết cấu văn chương không hoàn toàn tương hợp. Nơi Luca và Mathêu; lược đồ như sau:
Chọn nhóm 12 (Lc 6,12-16; Mt 10,1-4)
Sai đi (Lc 9,1t; Mt 10,1-4)
Huấn dụ của Chúa Giêsu cho các môn đồ (Lc 9,3-5; Mt 10,5-42)
Thánh Máccô trình bày việc lựa chọn nhóm 12 trong một trình thuật ở trước (Mc 3,13-19) và ở bản văn này chỉ đề cập tới việc sai đi và những lời căn dặn. Tuy nhiên, thánh Máccô trình bày các chủ đề rất vắn gọn.
Sự khác biệt đó trong lối biên soạn gợi lại cho chúng ta nhớ ý hướng thần học của Máccô.
Thánh Máccô luôn nhấn mạnh: sứ mệnh của các môn đệ là sự tiếp nối sứ mệnh của Chúa Giêsu Đấng Thiên sai cứu độ. Thế nên, người môn đệ của Chúa Giêsu trước hết là kẻ thâm tín rằng: họ chọn đi theo con đường cũng như sứ mệnh của Thầy họ.
Từ đó, trong nhãn quan thần học Máccô, sứ mệnh của nhóm 12 mang một tầm vóc rộng rãi hơn các thánh ký kia. Nghĩa là sứ mệnh này cũng là sứ mệnh của tất cả các môn đệ, áp dụng cho mọi Kitô hữu của mọi thời. Nói cách khác, sứ mệnh này của nhóm 12 dự phóng lên sứ mệnh của Giáo Hội toàn thể, nó bao hàm một quyết định nền tảng cho mọi người. Sứ mệnh này cống hiến ơn cứu rỗi của Thiên Chúa; song, nó trở nên sự xét xử cho những ai cứng lòng chai đá. Việc sai phái nhóm 12 do Chúa Giêsu đềà xướng, trở thành một lời khuyên nhủ cũng như một sự kiểm điểm lương tâm nơi những ai được ủy thác tránh vụ này. Vì chưng những huấn dụ của Chúa Giêsu ngỏ cho các môn đệ luôn giữ giá trị hiện sinh cho mọi sứ giả Tin Mừng.
Người... sai họ đi từng hai người, cho họ quyền năng trên các thần ô uế. Người truyền cho họ không được đem gì đi đàng, trừ cái gậy, không bánh, không bị, không tiền đồng vận ở thắt lưng, được đi dép nhưng đừng mặc hai áo... Đã vào nhà nào thì lưu lại đó cho đến lúc đi khỏi (c. 7-10)
Đây là thói lệ của người Do Thái, dù trong trường hợp sai các sứ giả chính thức hay tư riêng. Vì chưng theo quan niệm của họ, kẻ loan báo sứ điệp cần có một người làm chứng bên cạnh để xác minh lời truyền đạt. Như vậy, các môn đệ còn là những chứng nhân của sứ điệp Thiên Chúa.
Nơi Máccô, Chúa Giêsu cho phép các môn đệ mang gậy và dép: gậy đi đường và dép là thứ phương tiện cần thiết cho khách lữ hành trên các nẻo đường sỏi đá xứ Palestina. Luca, vì không biết rõ sinh hoạt Palestina, đã miêu tả là cũng không được mang các thứ phương tiện đó (Lc 9,3; 10,4; x. Mt 10,9-11). Thực ra, dù các chi tiết khác nhau, các Tin Mừng cũng chỉ nhằm phác họa sự siêu thoát nội tâm của người sứ giả Tin Mừng. Quả vậy, trong nhãn quan thần học Máccô, những lời huấn dụ của Chúa Giêsu muốn khơi dậy nơi người môn đệ tinh thần thanh thoát biết vượt qua tất cả để có thể rao giảng Tin Mừng.
Những nhu cầu vật chất như tiền bạc, bao bị, áo quần đều là phụ thuộc nơi người môn đệ Chúa. Thời đó, những người Do Thái giàu sang dư giả thường mặc 2 áo nhưng người môn đệ của Chúa không mặc hai áo (c. 9), vì sự giàu sang dư giả cũng không phải là mục đích của cuộc đời. Sự thao thức chủ yếu của họ là loan báo Tin Mừng, là mời gọi sự hoán cải và Đức tin.
Vấn đề đã rõ, tại sao Chúa Giêsu lại huấn dụ rõ ràng cho các môn đệ về sự thanh thoát về của cải, vật chất.
Hơn một lần, chúng ta nghe Chúa Giêsu nói: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ". Không phải Chúa Giêsu phải bắt môn đệ của mình phải sống nghèo, sống đói, sống khổ nhưng sống trong cái tâm tình của sự tin tưởng, phó thác vào quyền năng của Thiên Chúa.
Là môn đệ đích thực, ắt hẳn phải thực thi triệt để huấn dụ, lời mời gọi này của Thiên Chúa. Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, là kitô hữu, là môn đệ của Chúa ấy nhưng lòng của chúng ta có thanh thản với vật chất, với danh vọng, với những gì làm cản bước tiến của ta trên con đường gặp Chúa và gặp anh chị em đồng loại hay không ?
Nếu đứng vào địa vị Đức Giêsu, chúng ta sẽ phản ứng thế nào trước thái độ của các môn: TN 25-B84
Nếu đứng vào địa vị Đức Giêsu, chúng ta sẽ phản ứng thế nào trước thái độ của các môn đệ của Người ? Người đã sống với họ suốt ba năm trời liền, đã ra công dạy họ cần phải sống và cư xử với nhau như thế nào, cần phải thương yêu và phục nhau một cách vô vị lợi như thế nào rồi, v.v... Thế mà nay, tất cả họ đang cùng Người trên đường đi lên Giê-ru-sa-lem, trên con đường sẽ dẫn Người tới cái chết đau thương trên thập giá, vì muốn tự nguyện hiến thân cho toàn thể nhân loại, thì các môn đệ lại cãi cọ tranh dành gay gắt với nhau, ai trong họ sẽ là người lớn nhất, là người quan trọng nhất ! Ai trong họ sẽ là thủ lãnh của cộng đoàn, nếu một mai Sư Phụ không còn sống nữa ! Qua đó, các môn đệ đã cho thấy quan niệm của họ còn xa vời với tinh thần của Sư Phụ họ như thế nào ! Phải chăng đây chính là dịp thuận tiện để chúng ta suy tư và ít là có thể cảm nghiệm được phần nào điều đó ?
Tuy nhiên, Đức Giêsu không thất vọng. Người vẫn bình tĩnh, bởi vì Người rất hiểu các môn đệ của Người, bởi vì người rất hiểu tất cả chúng ta ! Người đã thực hành trước và đã làm gương cho chúng ta trước về điều Người dạy dỗ chúng ta: « Ai muốn mình là người làm đầu thì hãy làm người sau hết và làm đầy tớ cho mọi người ».
Đúng vậy, Đức Giêsu là người làm đầu lại muốn trở nên người sau cùng và làm đầy tớ cho tất cả mọi người, bởi vì Người muốn cứu vớt và thương yêu tất cả mọi người. Vì thế, Người đã hiến thân mình cho chúng ta. Vì thế, Người đã ban Mình và Máu Người cho chúng ta ! Cuộc sống và cái chết của Người được gói ghém trong câu: « Vì các con và vì tất cả mọi người ». Vâng, tất cả được gói ghém trong lời kinh Tin Kính mà chúng ta từng tuyên đọc: «Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, người đã từ trời xuống thế ! »
Nhưng đáng tiếc là các môn đệ đầu tiên của Người đã không muốn hiểu như thế và rồi chúng ta cũng không muốn hiểu như thế. Vâng, chúng ta cũng chỉ muốn gạn hỏi nhau, ai trong chúng ta sẽ là người lớn nhất, sẽ làm đầu, sẽ là thủ lãnh của chúng ta. Bởi lẽ, ít nhiều mỗi người chúng ta đều mang trong mình sự ham muốn danh lợi. Nhưng dĩ nhiên chúng ta không được hiểu sai ý Chúa, để không tự cản trở bước đường tiến lên của mình.
Bởi vì ở đây, câu nói « ai muốn làm đầu thì hãy làm người sau hết và làm đầy tớ mọi người » không có ý nói rằng tất cả chúng ta phải cố gắng cách gượng gạo để suốt đời chỉ là một người tập sự, một người thợ quèn và một kẻ luôn phụ thuộc người khác. Tinh thần khiêm tốn Kitô giáo không chống lại sự thăng tiến trong nghề nghiệp, không chống lại việc giữ những địa vị cao trong xã hội; không đòi hỏi bất cứ ai, vì Phúc Âm mà phải mang thân đi làm nô lệ kẻ khác; cũng không chống lại việc theo đuổi những nghề nghiệp cao trọng. Thật là cả một sai lầm nguy hiểm, nếu chúng ta là những Kitô hữu chỉ vì muốn có tinh thần khiêm tốn mà luôn tìm cách trốn tránh các chức vị cao trong xã hội và qua đó trốn tránh các trách nhiệm quan trọng đối với đồng loại.
Lời Phúc Âm « ai muốn làm dầu thì hãy làm người cuối hết và làm đầy tớ mọi người » chỉ muốn nói là: Không phải người có địa vị cao trong xã hội đương nhiên là người quan trọng nhất trước mặt Thiên Chúa, nhưng là người biết mình được Thiên Chúa kêu mời, đem hết các khả năng và điều kiện mình có để phục vụ nhân loại. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa không phải là giai cấp cao thấp trong xã hội, nhưng là tinh thần sống hay cách thức thực thi các giai cấp đó. Nói cách khác, mỗi người trong đấng bậc và địa vị của mình không phải để thống trị nhưng là để phục vụ kẻ khác. Thí dụ: Một ông bộ trưởng không được cho mình là người có quyền thế, là người quan trọng, bởi vì ông là một bộ trưởng. Ông sẽ là người có chức quyền và là người quan trọng thực sự, nếu ông biết thi hành chức vụ với ý thức đầy đủ về bổn phận của mình là phải phục vụ đồng bào dân tộc một cách vô vị lợi.
Trước mặt Thiên Chúa, điều quan trọng không phải địa vị và ngôi thứ trong xã hội, dù dưới bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng là thái độ và sự dấn thân phục vụ người khác, chứ không tìm tư lợi riêng của mình.
Vậy, chúng ta có quyền vươn tới những chức vụ cao trong xã hội, trong nghề nghiệp ! Nhưng trước hết, không vì thế mà chúng ta được phép bon chen với bất cứ giá nào, kể cả việc gây thiệt hại cho đồng loại. Tiếp đến, không đảm nhiệm những chức vụ cao cốt để có uy thế hơn và có được những tước hiệu sang trọng hơn, nhưng trước hết là để có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, hầu có thể tổ chức và mở rộng các ảnh hưởng của chúng ta một cách công bằng hơn, nhân bản hơn và khoan dung hơn !
Phúc Âm không bao giờ muốn con người phải trở thành « những kẻ vô tích sự », những kẻ khi ở bất cứ nơi đâu hay làm bất cứ điều gì cũng chỉ biết tự ti mặc cảm và đấm ngực chịu tội về mình. Không ! Trái lại, Phúc Âm muốn con người, dù đàn ông hay đàn bà và dù họ ở trong bất cứ hoàn cảnh hay địa vị nào đi nữa, cũng biết mình được kêu mời đem hết khả năng sức lực ra để kiến tạo một thế giới tươi sáng hơn, trong đó mỗi người đều có thể thở và sống được, bởi vì mỗi người biết mình được Thiên Chúa chấp nhận và mọi người đều bình đẳng trước mặt Người.
Nói tóm lại, sống tinh thần Kitô giáo không có nghĩa là phải hạ thấp mình xuống hay vì muốn khiêm tốn nên chỉ tìm cách sống cảnh luồn cúi và chấp nhận thân phận hẩm hiu thiệt thòi. Sống tinh thần Kitô giáo có nghĩa là trong mọi giây phút luôn ý thức được rằng chúng ta được phép trở nên quan trọng trước mặt Thiên Chúa, nếu chúng ta cũng nên giống như Đức Giêsu là luôn biết khiêm tốn tự hạ trước mặt Thiên Chúa và đồng loại. Nhưng khiêm tốn có nghĩa là can đảm phục vụ. Ai biết can đảm phục vụ, như Đức Giêsu đã phục vụ chúng ta, người đó sẽ trở nên quan trọng trước mặt Thiên Chúa. Đó là sự quan trọng mà tất cả chúng ta với tư cách là môn đệ của Đức Giêsu luôn nỗ lực vươn tới !
Tuy nhiên, người công chính theo đánh giá của Thiên Chúa thì luôn tỏ ra trông cậy Chúa và kêu: TN 25-B85
Tuy nhiên, người công chính theo đánh giá của Thiên Chúa thì luôn tỏ ra trông cậy Chúa và kêu xin Người giúp đỡ mình (Tv. 53). Đức Giêsu, người công chính của Giavê cũng không thoát khỏi thói đời. Người bị những người Biệt Phái, Luật Sĩ, những người đương thời ghét bỏ và tìm cách tiêu diệt, vì cách sống của Người tố cáo cách sống xấu xa của họ, chính vì thế mà Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết tình trạng khổ nạn của Người sắp đến (Mc 9, 29 - 36). Thánh Giacôbê tông đồ cũng xác quyết: Người công chính bị bách hại chỉ vì ganh tị của những kẻ ham muốn bất chính, từ đó mà sinh ra những xáo trộn, chiến tranh ... (Gc 3, 16 - 4, 3).
Đức Kitô, người công chính, suốt đời bị kẻ thù săn đuổi bởi cách sống thánh thiện của Người vạch trần sự gian ác của họ. Thế nhưng không vì sự gian ác ấy mà Chúa Giêsu phải chịu thua, trái lại, Người đã chiến thắng bằng chính cái chết, đồng thời Người vạch ra cho các môn đệ thấy được thân phận của người công chính, nhưng các ông đã không hiểu được điều Người muốn nói, mà lại tưởng rằng đây là thời gian Chúa Giêsu sắp chiến thắng và đi vào vinh quang, thống trị đế quốc, nên mới xảy ra sự tranh giành quyền bính. Có lẽ Chúa Giêsu buồn khi thấy môn đệ không hiểu gì về sứ mạng của mình, nên Người phải nói trắng ra để đả kích tư tưởng mà các ông đang toan tính trong lòng "ai là người lớn nhất ?" bằng một bài học thật bất ngờ "ai muốn làm lớn thì phải phục vụ mọi người". Thay vì muốn ngừơi khác hầu mình, thì Chúa Giêsu dạy phải biết hầu hạ người khác, bài học bất ngờ vì nó không giống quan niệm của người đời từ xưa tới nay.
Như thế giá trị của một con người không tuỳ thuộc vào địa vị của người đó mà do mức độ phục vụ của họ. Mà phục vụ người khác là phục vụ Chúa, và như thế mới xứng đáng là môn đệ Chúa. Với tinh thần phục vụ vô vị lợi, chúng ta sẽ thực sự lớn lên trước mặt Thiên Chúa và loài người, vì người lớn nhất ở đây không dùng quyền để lãnh đạo mà dùng đôi tay để phục vụ, không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương. Quả Chúa Giêsu đã đưa ra một cuộc cách mạng về quan điểm mà thế giới hôm nay đang cần những ngừơi lãnh đạo theo kiểu Đức Giêsu, nghĩa là phục vụ trong khiêm tốn.
Lạy Chúa, thế giới ngày nay xẩy ra bao tai hoạ khủng khiếp chỉ vì con người muốn tranh giành ảnh hưởng quyền bính của cải. Xin Chúa thức tỉnh lương tâm mọi người để tất cả biết tôn trọng quyền lợi của người khác, lo mưu cầu hạnh phúc chung để gia đình nhân loại được vui hưởng một nền hoà bình đích thực, và cho chúng con biết thực hiện đời sống từ bỏ, khiêm nhu và bác ái sẵn sàng chấp nhận những gian khổ để xứng đáng là môn đệ Chúa, ngừơi công chính của Giavê.
Chúa Giêsu loan báo với các môn đệ, những người thân tín nhất của Ngài về cái chết của Ngài: TN 25-B86
Chúa Giêsu loan báo với các môn đệ, những người thân tín nhất của Ngài về cái chết của Ngài sắp phải trải qua. Chúa chết như một người công chính và bởi chính tay những người gian ác. Người ta cứ tưởng lầm rằng Chúa Giêsu sẽ chết như một người gian ác vì Ngài bị xử án và bị chết như một tên tử tù, nhưng bài đọc trích sách khôn ngoan cho ta thấy rõ cái chết của Chúa. Chúa chết theo ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa Cha. Chúa chết một cách hết sức tự nguyện và hoàn toàn theo sự chọn lựa của Ngài. Chúa chọn cái chết như một con đường, một sứ mạng, con đường và sứ mạng Ngài đã biết từ trước sẽ dẫn Ngài đến cái chết. Nhưng cái chết ấy sẽ đem lại vinh quang cho Ngài và sẽ làm cho Ngài sống mãi cùng với những người tin vào sự sống của Ngài.
Cái trớ trêu trong đời sống của các môn đệ là mặc dù được sống thân tình với Chúa, được Chúa uốn nắn, hun đúc, rèn luyện và dậy dỗ, bảo ban, các môn đệ vẫn chưa có cảm nghiệm về đường đi của Chúa. Do đó, giữa lúc Chúa đang nghĩ tới việc xả thân, hy sinh mạng sống để cứu nhân độ thế, để cứu vớt tội lỗi cho con người, cho loài người:" Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu"( Ga 15, 13 ), các môn đệ của Ngài lại tranh nhau ngôi thứ, tranh nhau địa vị. Thực tế, đây là nét mỉa mai, chua xót của đoạn Tin Mừng này.Chính lúc, Chúa muốn hủy mình ra không, thì các môn đệ lại muốn vươn cao làm lớn. Chúa đã từng dẫn các môn đệ đi vào sứ mạng cứu thế của Ngài, nhưng nào đâu các môn đệ có hiểu nổi con đường cứu chuộc của Chúa ? Nào đâu các môn đệ có hiểu được thánh ý của Chúa và của Thiên Chúa Cha. Các Ngài cứ tưởng theo Chúa, Chúa sẽ dành lại vương quốc Israen và Chúa sẽ lên trị vì dân nước theo đúng nghĩa là vua trần thế, lúc đó, các môn đệ tha hồ chia nhau làm lớn trong nội các của Chúa Giêsu. Hiểu như thế, đã hai lần các môn đệ làm thinh trước lời loan báo về cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô 9, 30-37, cho thấy cả hai lần Chúa Giêsu gợi ý về hai vấn đề: " loan báo cuộc thống khổ của Ngài và rồi dọc đường các ông tranh cãi ". Cả hai lần ấy các ông đều làm thinh. Lần thứ nhất các ông làm thinh vì sợ Chúa biết được sự u mê, chậm hiểu của các ông, nên dù không hiểu gì, các ông vẫn không dám hỏi lại Chúa Giêsu. Lần thứ hai các ông tranh cãi, Chúa hỏi các ông lặng thinh vì sợ Chúa biết lòng dạ ham tư lợi, sự thật của các ông, nên các ông xấu hổ không dám trả lời lại Chúa. Thánh Giacôbê trong bài đọc hai có lẽ đã nhớ lại câu chuyện lúc xưa mà hôm nay đoạn Tin Mừng nhắc tới, nên Ngài đã viết:" Đâu có ghen tương và tranh chấp, đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa "" Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em ?...Chính những khoái cảm của anh em đang gây chiến trong con người anh em...". Rõ ràng giấc mộng công hầu khanh tướng, làm lớn làm bé trong vương quốc của Chúa Giêsu vẫn đang ám ảnh các môn đệ một cách mãnh liệt.
Chúa luôn yêu thương các môn đệ, cho dầu các ông có tranh dành nhau làm lớn, làm bé, cho dầu các ông có không hiểu đường đi của Chúa. Chúa vẫn yêu các ông, Ngài không bỏ mặc các môn đệ của Ngài với những ước vọng làm lớn của họ. Chúa không muốn để các môn đệ hư đi, Ngài muốn đưa các ông vào con đường Ngài đang đi...Ngài cho họ hiểu rằng con đường của Ngài là con đường ngược với sự suy tính hơn thiệt của họ. Con đường của Ngài là con đường tận hiến, hy sinh, thí mạng sống vì người khác. Đối với Chúa Giêsu, vương quốc của Ngài không thuộc thế giới này mà thuộc Nước Trời. Trong Nước Trời:" người làm lớn là người phải phục vụ "." Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ ". Người làm lớn trong Nước Trời không phải là người ăn trên ngồi trốc mà là người đứng vào hàng rốt hết. Cuối cùng, các môn đệ hoặc chúng ta có muốn hầu hạ ai là vì chúng ta muốn hầu hạ Chúa trong họ, và các môn đệ hoặc chúng ta có được ai hầu hạ là vì họ muốn hầu hạ Chúa nơi chúng ta. Đây là bài học thực khó hiểu. Nhưng điều quan trọng không phải là làm lớn hay làm nhỏ trong Nước Trời, chỉ có mình Thiên Chúa là nhân vật quan trọng trong Nước Trời, và làm lớn hay làm nhỏ, tất cả đều phục vụ Thiên Chúa mà thôi.
Bài học mà bài Tin Mừng hôm nay gợi ý vẫn có giá trị mãi mãi bao lâu xã hội trần gian còn tồn tại, bởi vì cám dỗ về quyền lực và lạm dụng quyền hành đã ăn sâu vào con người, nhưng để bài học của Tin Mừng tác động mạnh mẽ nơi con người, nơi mỗi người, chúng ta phải nghĩ tới hình ảnh của Chúa, Đấng lãnh đạo dân Chúa, nhưng đã thành tôi tớ cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng tin để chúng con luôn nghĩ tới Chúa, Đấng đến để hầu hạ, chứ không phải để được hầu hạ . Amen.
Aylan Kurdi, em bé trai 3 tuổi bị chết đuối dạt vào bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ và đã được chôn ở Kobane, Syria, ngày thứ năm 4.9.2015. Mẹ và anh trai của em cũng được chôn cùng ngày. Đức Giám Mục de Dinechin viết: “Các hình ảnh của em bé đã gợi lên nỗi thương cảm sâu đậm. Anh trai 5 tuổi, mẹ của hai em và 11 người khác đã bị chết trong vụ đắm thuyền này”. Ngài cũng nhắc lại: “Nỗi xúc động này cũng là nỗi xúc động khi nghe tin hàng ngàn người chết trên đường đi tìm một thế giới tốt hơn.” Đức Cha nhấn mạnh: “Tháng 7, 2013 khi nghe tin thảm kịch đắm tàu ở Lampedusa bên Ý, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đến đây “để thức tỉnh lương tâm chúng ta, để những việc tương tự như thế sẽ không xảy ra nữa. Nhưng ngày hôm nay sự việc này lại xảy ra…”,
Đức Cha nói tiếp: “Chúng ta biết việc này rất phức tạp vì các quốc gia có quyền và có bổn phận điều hợp làn sóng di dân ở xứ họ. Tuy nhiên trong lần đọc diễn văn trước Nghị Viện Âu Châu tháng 11 năm 2014, Đức Phanxicô nhắc Hội Đồng Âu Châu phải “giúp đỡ và đón nhận” người di dân chui tràn đến biên giới họ. Phải có thêm phương tiện, phải có những hành động mới để vượt lên tính ích kỷ và nỗi sợ đang trải rộng ra trên bình diện Âu Châu.” Vì thế Hội đồng Giám Mục Pháp có nhiệm vụ nhắc “tất cả các người Công Giáo có thiện tâm phải giúp đỡ và mở lòng ra với người anh em để con đường đi đến một nơi có đời sống tốt hơn không dẫn họ đến cõi chết.”
Theo Đức Giám Mục de Dinechin, “hình ảnh của em Aylan làm cho chúng ta có ý thức hơn về thảm kịch mà người di dân đang sống” và “Chúa nói với chúng ta qua các biến cố này để thức tỉnh lương tâm chúng ta. Trong lời cầu nguyện, chúng ta phải tìm ra ý nghĩa này.” Ngài cũng cho biết vào Chúa Nhật 6 tháng 9, nhiều Nhà Thờ Công Giáo sẽ cầu nguyện. Biến cố buồn thảm này cho thấy “tính ích kỷ, mong manh và hỗn loạn của xã hội chúng ta”, ngài hy vọng đây là biến cố sẽ làm cho tâm thức cá nhân cũng như tập thể sẽ giật mình. “Chính việc tiếp đón người yếu đuối nhất, những người di dân, những người nghèo nhất sẽ cứu xã hội chúng ta”.
Đức Giám Mục Jean-Michel Di Falco, Địa Phận Gap đã công bố một bản tin nói mình đã cảm thấy “nhục” khi nhìn bức hình của em bé Aylan nằm chết trên bãi biển và khi thấy phản ứng của “báo chí Pháp, ngược với báo chí Âu Châu, đã phớt lờ tấm hình này.” Đức Giám Mục Di Falco phẫn nộ, ngài nói mình cảm thấy nhục khi phải “hét lên tiếng kêu này, để không đồng lõa với sự im lặng nặng nề này” và “thế hệ này đã từ chối không thừa nhận rằng, châu lục chúng ta hôm nay đang gặt những gì mình đã gieo hôm qua !” ( Các Giám Mục Pháp hy vọng cái chết của em Aylan sẽ thức tỉnh lương tâm chúng ta, la-croix.com, Jos. Nguyễn Tùng Lâm dịch )
Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu phán dạy: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy." Nhưng ngày nay, thiên hạ đang mãi nhẫn tâm quay lưng với Thiên Chúa, với tha nhân, với những người di dân khốn khó, mới xảy ra những cái chết thảm thương, như cậu bé Aylan Kurdi chết đuối nằm trên bờ biển Bordun, Thổ Nhĩ Kỳ. Nhờ bùng nổ hình ảnh xót xa của bé Aylan trên truyền thông, một dấu chỉ thời đại, lương tâm người dân Âu Châu mới được thêm dịp thức tỉnh.
Ngoài việc yêu thương, quan tâm, giúp đỡ trẻ thơ, đón nhận, cưu mang người khốn khổ, di dân, hôm nay Đức Giêsu còn giảng dạy về nhân cách người Kitô hữu trước địa vị, chức tước, phẩm trật.
Khiêm hạ
"Dọc đàng các con tranh luận gì thế ?" Trên đường đi, các môn đệ chí chóe cãi nhau, kịch liệt tranh ngôi giành chức, sỗ sàng ngay sau lưng Đức Giêsu. Người lẳng lặng, lắng nghe, biết hết, nhưng làm bộ tảng lờ như chẳng biết gì cả, mới điềm tĩnh hỏi lại các ông, một khi đã vào nhà trọ ở Capharnaum. Các ông mắc cỡ, “làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất.”
Bất cứ ai cũng có một chỗ đứng trong đời. Là con cháu, cha mẹ, ông bà, lính tráng, công chức, nhân viên, quản đốc, giám đốc, quan chức, lãnh đạo,… tất cả đều có địa vị, đều đáng chấp nhận và tôn trọng. Nhưng thiên hạ thường tự tôn, tự cao, tự đại muốn thống trị người khác. Đức Giêsu không đả kích, tẩy chay, phế bỏ chức vị, Người kêu gọi canh tân ý thức bổn phận, trách nhiệm liên đới.
Trong gia đình và xã hội, đều có những địa vị cụ thể do Thiên Chúa an bài, sắp đặt. Ngài đã chuyển giao cho mỗi người một hay nhiều địa vị tùy nơi, tùy lúc và tùy hoàn cảnh. Khi bà vợ ông Giêbêđê, thân mẫu hai ông Giacôbê và Gioan đến cầu cạnh cho hai con mình, được đứng bên tả và đứng bên hữu, Đức Giêsu thẳng tay lắc đầu từ chối, vì đó là quyền năng Thiên Chúa ấn định, ban cho mỗi người" ( Mt 20, 20-23 ). Nếu cứ làm tròn bổn phận và trách nhiệm, thì địa vị nào cũng đều xứng đáng, quý hóa và trân trọng.
Chu toàn bổn phận, chính là sống theo Thánh Ý Chúa trong phút giây hiện tại. ( Đường Hy Vọng, số 17 ). Bởi vì địa vị do chính Thiên Chúa trao ban, nên chấp nhận và chu đáo bổn phận, cũng chính là phục tùng, làm theo ý muốn của Ngài. “Chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào ( Nước Trời ) mà thôi” ( Mt 7, 21 ).
Như thế, đối với Thiên Chúa, chẳng có địa vị nào cao hay thấp, sang hèn, mà chỉ có bổn phận chu đáo hay bất toàn mà thôi. Chỉ có hai thái độ hoàn toàn đối nghịch, một là khả ái “Xin Vâng” như Mẹ Maria, hai là bất hiếu, kiêu ngạo theo Satan. Người có địa vị cao mà ngạo nghễ thì sẽ bị Chúa hạ xuống. Người có địa vị thấp mà chấp nhận, khiêm hạ thì lại được nâng lên. “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, đập tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” ( Magnificat ).
Yêu thương
Trên đỉnh cao quyền lực, những nhà lãnh đạo độc tài luôn bị ám ảnh bởi sự truất phế, hạ bệ, ám sát, trả thù. Ngày đêm khối óc, tâm hồn luôn căng thẳng, nhìn đâu cũng lo lắng, sợ hãi cạm bẫy, nhìn ai cũng nghi ngờ ngấm ngầm phản bội, nên sẵn sàng thẳng tay đàn áp dã man bất kỳ ai có ý đồ chống đối, tỏ vẻ thiếu tôn trọng. Quyền lực và tham vọng đã cầm tù, trói chặt vị hôn quân trong tháp ngà vinh quang, chịu bế tắc không thể nào thoát ra.
Nay Đức Giêsu đến giải thoát cho những ai toan tính làm thủ lãnh, mà không muốn bị cầm tù bới chính mình: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết.” Vậy muốn được thong dong, an nhiên tự tại, người cầm đầu cần ẩn mình đi, tự nguyện đứng sau mọi người, bỏ đi tánh kiêu ngạo, không coi mình tài giỏi như thần thánh, cũng chẳng miệt thị thiên hạ hèn kém như rác rưởi.
Nếu gột bỏ được thái độ vị kỷ, kiêu căng, tự cao, tự mãn, ngạo mạn, vênh váo, hỗn hào, láo xược, thì con người mới có khả năng nhận biết được cuộc đời còn nhiều éo le, mới biết rung động con tim, cảm thông tình người, nhân hậu, khi nhìn đến tha nhân, không còn kỳ thị, không phân biệt địa vị cao thấp, kẻ sang hèn, giầu nghèo, no đói, khỏe mạnh hay bệnh hoạn, thảy mọi người đều được niềm nở tiếp đón, an ủi, chia sẻ và giúp đỡ. Nhân ái, nhân hòa chính là biểu tượng của tình yêu. Thánh Augustin khuyên nhủ: “Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm" ( ama et fac quod vis ). Tình yêu chính là thần dược chữa lành và hóa giải giai cấp bất đồng, bất bình đẳng. Đến với nhau bằng tình yêu mới có thể thật sự hòa hợp và hiệp nhất.
Chẳng còn xa cách trên dưới, chẳng còn khinh khi, ghét bỏ, mà chỉ còn đồng cảm, chan hòa tình bằng hữu, chỉ còn duy nhất nợ nhau tình yêu, mà yêu thương là đã chu toàn Lề Luật, theo như Thánh Phaolô dạy: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân, tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” ( Rm 13, 8-10 ).
Phục vụ
Để minh họa cụ thể sự khiêm hạ, yêu thương và phục vụ của người lãnh đạo, Đức Giêsu ôm một cháu bé vào lòng, triển khai giáo huấn kỹ hơn, sâu sắc hơn nữa: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy."
Trẻ thơ thuở ấy ở Israel bị coi là tầm thường nhất, khinh rẻ nhất, thế mà Đức Giêsu lại đề cao như chính Người. Vì Người muốn mọi người ở bất kể địa vị nào, cũng đều cần quan tâm, bao bọc lấy những thân phận bé nhỏ, yếu đuối, không có khả năng đáp nghĩa, đền ơn. Đón tiếp và phục vụ vô tư, vô vị lợi những người nhỏ mọn đó chính là tiếp đón Thiên Chúa.
Bởi trẻ em chẳng có gì đáp lại ngoài tình yêu trong sáng, hồn nhiên, nhân chi sơ tánh bổn thiện, nên người lớn, người quyền cao chức trọng chẳng lợi dụng được gì ngoài tánh bổn thiện đó. Tuy vậy, muốn đón nhận được trẻ thơ, thì đòi hỏi người ta phải tự cải hóa, tái sinh, trẻ hóa, trở nên trong trắng, ôn hòa, bao dung, nhu mì, nhân ái như trẻ thơ. Chính là điều mà Đức Giêsu từng luôn mời gọi con người cải biến: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” ( Mt 18, 3 ).
Điều quan trọng cuối cùng dành cho ai muốn lãnh đạo, đó là phục vụ."Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người." Khiêm nhường, trở nên trẻ thơ và yêu người mà thôi thì chưa đủ, mà còn phải thành người đầy tớ phục vụ tất cả những ai bần cùng, đau khổ, côi cút, đau yếu, cô đơn… Biến tình yêu thành hành động cụ thể. Nếu không chỉ là môi mép, giả mạo và lừa đảo mà thôi. Chính Đức Giêsu đã làm tấm gương phục vụ sáng chói. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người" ( Mt 20, 28 ).
Đức Giêsu yêu thương con người bằng cách vâng theo Thánh Ý Đức Chúa Cha, xuống thế làm người, phục vụ rao giảng, chịu nạn, chịu chết và sống lại, để giải thoát con người khỏi vong thân, được tự do khỏi nô lệ xác thịt, thế gian, khỏi xiềng xích cám dỗ; nhất là giải phóng khỏi cái chết muôn đời. Vậy người lãnh đạo càng cần theo gương Đức Giêsu, tích cực yêu thương và phục vụ tha nhân, để làm chứng nhân, làm gương sáng cho mọi người: “Thưa anh em, anh em được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” ( Gl 13, 13 ).
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tri ân, cảm tạ và ngợi khen Chúa, đã ban cho chúng con mỗi người một địa vị, dù cao hay thấp trong đời. Hết thảy đều rất tốt đẹp, giá trị, đạo đức và hữu ích với tha nhân, khi được Chúa thương xót giải thoát chúng con, cất đi những tham vọng vị kỷ, cao vọng bất nhân, ảo vọng tự đắc, tự mãn, ngay trong tâm tư, hành động và lời nói của chúng con.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con ở bất cứ địa vị, chức tước nào, cũng đều cố gắng noi gương Mẹ, sống khiêm nhường, nhân từ, chân tình yêu thương và dấn thân phục vụ mọi lúc, mọi nơi những người bé nhỏ, tầm thường, đau khổ và khốn khó. Amen.
Có những điều trong cuộc đời chúng ta không thể công khai kể cho những người đang xum họp: TN 25-B88
Có những điều trong cuộc đời chúng ta không thể công khai kể cho những người đang xum họp quanh bữa Tiệc Tạ Ơn hay các buổi tiệc ngoài trời cùng với gia đình và bạn bè. Có những chuyện đặc biệt mà chúng ta chỉ có thể chia sẻ với một vài người thật thân thiết. Đôi lúc những câu chuyện này liên quan đến đau khổ hay cái chết. Một kết quả chụp CT cho thấy khối u nghiêm trọng, có thể nguy hiểm đến tính mạng. Nên, trước hết, ta nói với vợ hoặc chồng, cha mẹ hay vài người bạn thân. Trong những giây phút chân thành đó, chúng ta nói, la hét, và thậm chí cười ha hả.
Nếu bệnh án nghiêm trọng, có một số người không chấp nhận sự thật của những gì mình nghe và cố gắng nói những lời lạc quan. Dù chúng ta lúc nào cũng có niềm hy vọng, nhưng chúng ta cũng không nhắm mắt trước những thực tế mà ta đang đối diện. Người ta thường xin ơn khỏi bệnh và những gì tốt đẹp nhất. Nhưng những lời cầu xin thường được đáp lại bằng một cách khác, với biểu lộ của sự hiện diện và tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa qua những người ta yêu thương, qua đội ngũ chăm sóc y tế, và thậm chí từ những người hoàn toàn xa lạ, khiến chúng ta ngạc nhiên sửng sốt với lời nói hay cử chỉ làm chúng ta yên lòng- chắc chắn tất cả mọi lời cầu xin chân thành đều được đáp lại.
Bài Tin mừng hôm nay mở ra một không gian riêng tư, hay có thể nói, là một sự thân mật. Đức Giêsu và các môn đệ của Người rút khỏi đám đông và, trên đường đi, Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ. Đó là những chỉ dẫn không thể công bố cho dân chúng, hay chưa công bố. Sau này, việc công bố đó chính là của các môn đệ. Còn nay, Đức Giêsu nói với họ về tương lai của Người và trách nhiệm môn đệ của họ.
Đức Giêsu quy tụ và dạy dỗ các môn đệ như một cuộc trò chuyện thân mật khi có một tin xấu cần được chia sẻ. Điểm khác biệt chính yếu là nỗi đau và cái chết mà Đức Giêsu sẽ trải qua lại do chính Người chọn, có thể chấp nhận hay từ chối. Quả là thất vọng biết bao khi Đức Giêsu chia sẻ với các môn đệ về cuộc thương khó và cái chết của mình cho những kẻ thân tín nhất, nhưng họ lại không hiểu! Thực ra, câu chuyện sau đó cho thấy mong ước của họ là được chiến thắng cùng với Đức Giêsu, họ không tập trung chú ý hay đã hoàn toàn từ chối.
Hãy thử tưởng tượng xem sẽ ra sao nếu chúng ta chia sẻ một tin đau buồn, không phải với người xa lạ, mà cho những người thân thiết nhất của ta nhưng họ lại thay lảng qua đề tài khác. Khi Đức Giêsu nhận ra dự án của mình sắp sụp đổ, với việc bị bắt, tra tấn và chết thảm, nỗi cô đơn và kinh hãi của Người còn tăng lên gấp bội khi các môn đệ hoàn toàn không thấu hiểu và lưu tâm.
Những người có người thân chết thảm, hay phải đối diện với căn bệnh hiểm nghèo, luôn nói rằng họ không thể nào vượt qua được việc này nếu không có sự trợ giúp của những lời cầu nguyện và những người yêu thương. Phần sau trong Tin mừng này, đêm trước ngày Đức Giêsu chịu chết, Đức Giêsu vào vườn Giệtsimani với các môn đệ và nói với họ: "Anh em ngồi lại đây trong khi Thầy cầu nguyện" (14,32). Người dẫn theo ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, những kẻ mà Người đã từng dẫn lên Núi Biến Hình, đi với Người ra một nơi để cầu nguyện.
Thánh Máccô không nói rằng ba ông cùng cầu nguyện với Người. Đức Giêsu bảo họ, "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức". Rồi Đức Giêsu ra xa một chút, xấp mình xuống đất mà "cầu xin cho Người được qua khỏi giờ ấy, nếu có thể được. Người nói: 'Abba, Cha ơi! Cha làm được mọi sự. Xin cất chén này xa con". (14,32tt)
Chúng ta có thể cảm thấy được nỗi thống khổ và sợ hãi này của Người khi Người nhìn thấy kết cục đang đến với những giáo huấn và việc lành Người làm - và với chính cuộc đời của Người. Thật rõ ràng trong Tin mừng rằng, khi giờ sau hết đến gần, Đức Giêsu thậm chí không có được, ít là một đội ngũ môn đệ mạnh mẽ quả quyết và trung thành đứng sau để tiếp tục công trình của Người.
Ai là người nghĩa thiết với Người? Máccô cho thấy rõ rằng các ông hoàn toàn không hiểu điều Đức Giêsu nói, và những gì Người muốn nơi các ông. (Tôi không thể nào nói "Lạy Chúa cả con nữa - Chúng con cũng chẳng hiểu gì. Xin giúp chúng con!) Máccô cho thấy một khoảng cách giữa Đức Giêsu và các môn đệ vào giây phút thiết yếu nhất của Tin mừng, bằng cách nói cho ta biết rằng sau khi cầu nguyện thống thiết và đau buồn, Đức Giêsu trở lại và thấy các môn đệ đang ngủ. Không phải một lần, nhưng đến hai lần.
Khi nào Trình Thuật Thương Khó bắt đầu? Khi nào Đức Giêsu bắt đầu chịu đau khổ? Trong bài Tin mừng hôm nay, hay bài tuần trước (Mc 8,27-35), và thực ra, trong suốt Tin mừng Máccô, Đức Giêsu trải qua những thất vọng khi dân chúng không hiểu sứ điệp của Người - giới lãnh đạo tôn giáo hoàn toàn chối bỏ, và thậm chí các môn đệ của Người, họ chỉ biết chăm chú vào những việc của riêng mình. Điều mà các môn đệ hoàn toàn bỏ lỡ sứ điệp mà Đức Giêsu nói với họ rằng, sau khi Người trải qua đau khổ và cái chết, "Con Người sẽ trỗi dậy". Cuối cùng sẽ là Phục sinh!
Chúng ta mang theo niềm hy vọng và lời hứa phục sinh vào trong bất cứ cuộc nói chuyện thân tình nào và vào trong tất cả những hung tin hai ai tín mà chúng ta nghe được. Khi nỗi buồn quá đỗi, chúng ta nghe lại và nắm chắc điều Đức Giêsu hôm nay nói với các môn đệ: "Sau khi chết, Con Người sẽ sống lại" Và chúng ta cũng vậy. Câu cuối, chúng ta tin, đó là "Tin mừng'.
Các môn đệ đang nói về vương quốc trần gian, với Đức Giêsu là thủ lãnh bà các ông là những cận thần chia sẻ quyền lực với Người. Khi Đức Giêsu hỏi về cuộc trò chuyện giữa họ, thì các ông bối rối và yên lặng. Nên Người ngồi xuống mà nói với họ - thực ra Người khuyến cáo các ông về việc các ông sẽ lãnh đạo ra sao.
Phải chăng những người lãnh đạo trong cộng đoàn của thánh Máccô đang có vấn đề? Phải chăng họ đang dành đặc quyền hay vinh dự nào đó: ngồi ghế trên, muốn được trọng vọng? Những tranh chấp này luôn xảy ra trong các thể chế của loài người và ở tất cả mọi cấp độ của giáo hội chúng ta: từ Vatican, đến các giáo phận và thậm chí trong các cộng đoàn giáo xứ nhỏ nhất. Minh họa mà Đức Giêsu đưa ra trước họ quả là tuyệt hảo. (Người giảng hay phải biết chọn những minh họa cụ thể cho mình). Người đặt một em bé trước những người đang bàn cãi về vị trí cao nhất. "Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người".
Vâng, điều đó chẳng phải rất có ý nghĩa trong xã hội chúng ta đó sao? Trong trường học chẳng thấy ai cố chen xuống cuối bảng, và ở siêu thị chẳng thấy ai chen xuống cuối hàng khi chờ tính tiền. Có ai không muốn "ngồi bàn nhất" trong các bữa tiệc đặc biệt hay trong đám cưới không? Hay nói cách khác, có ai muốn từ bỏ quyền lực, sự ảnh hưởng và quyền ưu tiên hay không?
Có Thiên Chúa và Người đã làm như thế. Thiên Chúa chọn các bày tỏ chính mình cho chúng ta, không phải bằng cảnh tượng uy hùng với sấm chớp, nhưng trong hình hài khiêm tốn của một con người. Đức Giêsu không chọn lựa cách thiết lập quân đội nhưng Người loan báo về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta và lời mời gọi sống như Người đã sống. Người kiên trì rao giảng sứ điệp của mình dầu cho lời của Người có bị khước từ và Người có phải lãnh án tử vì những lời đó.
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn quyền lực bằng một cách khác. Chúng ta bị thách đố đón nhận "quyền" phục vụ và đến với những ai không thể báo đáp cho ta, hay có thể đảm bảo cho ta được được nhận biết trong chức vị cao. Ở đâu và ai quanh ta là những người giống như trẻ nhỏ? Làm thế nào chúng ta có thể đáp lại sự đơn sơ và thiếu thốn của họ? Làm sao chúng ta có thể trao cho họ sức mạnh của địa vị, học vấn và lời nói để phục vụ họ? Tại sao ta phải làm thế? Vì Thiên Chúa đã thấy sự thiếu thốn và bất lực của ta, trong Đức Giêsu, Người đến và đứng chung với chúng ta, chết cho chúng ta và ban cho chúng ta sự sống phục sinh của Người, để nay chúng ta được trở nên thành viên trong Vương Quốc của Thiên Chúa.
Việc đồn thổi thay người lãnh đạo thường xảy ra ở những quốc gia thực sự có tự do, dân chủ: TN 25-B89
Việc đồn thổi thay người lãnh đạo thường xảy ra ở những quốc gia thực sự có tự do, dân chủ. Người dân cầm lá phiếu trong tay và họ sẵn sàng cho người lãnh đạo biết í kiến họ nghĩ gì về người cầm cân, nảy mực, đại diện tiếng nói của họ. Việc đồn thổi thay thế người lãnh đạo có nhiều lí do khác nhau. Nó xảy ra khi số người đặt tin tưởng vào tài lãnh đạo bị giảm sút, khi đại chúng không tán thành cách hành xử, hay một tư tưởng nào đó không hợp với đại chúng. Chính vì thế mà có nhiều chính trị gia mị dân, chiều theo ý đại chúng mong nhận được lá phiếu ủng hộ của họ trong nhiệm kì tới. Bởi vì mị dân nên có những luật lệ dựa thế đại đa số để lí luận chấp thuận thông qua mà ít quan tâm đến đạo lí, truyền thống tốt đẹp.
Môn đệ Đức Kitô trên đường đi cũng bàn thảo về việc thay thế người lãnh đạo. Vấn đề không phải là uy tín lãnh đạo của Thầy bị giảm sút, hay không được dân chúng đón nhận. Không phải thế. Các ông thừa biết Thầy được dân chúng coi trọng, đám đông hết lòng kính mến. Nhiều lần họ định tôn vinh Thầy làm vua, lãnh đạo dân chúng. Mỗi lần như thế Thầy thường tìm cách trốn đi vùng yên tĩnh cầu nguyện. Như thế nguyên nhân nào dẫn đến việc các ông bàn thảo về việc thay thế người lãnh đạo. Thưa nguyên nhân không phải vì Thầy mất ảnh hưởng, ủng hộ nơi quần chúng mà chính là:
Hai ngày liên tục, chỉ trong vòng hai ngày mà hai lần Thầy tiên bố là:
Thầy sẽ bị bắt, bị nộp cho quan quyền và người ta sẽ bắt giam, với án tử hình và sau ba ngày Thầy sẽ sống lại.
Điều Thầy nói nghiêm trọng hết sức. Nghiêm trọng đến độ các ông cảm thấy có một luồng sức mạnh lạnh lẽo tràn đầy tâm trí các ông. Nó ảnh hưởng đến sự an toàn, an nguy của cả nhóm. Nó thúc đẩy các ông phải làm điều gì đó cho nhóm và các ông đã bàn thảo điều đó.
Chính nguồn tin giật gân này làm các ông choáng váng mặt mày. Các ông không biết phải làm sao. Phêrô đại diện anh em nhóm can ngăn. Thầy cho đó là í tưởng của ma quỷ. Không ai dám hỏi Thầy lấy một câu chỉ còn cách duy nhất là bàn tán với nhau xem, khi không có mặt Thầy ai sẽ là người lãnh đạo nhóm. Các ông lo lắng đến độ không thể đợi đi hết đoạn đường nhưng ngay trên đường đi các ông bàn bạc vấn đề nóng bỏng ấy.
Các ông nghe biếtThầy chết đi ba ngày sau sẽ sống lại. Vấn đề nếu chỉ có ba ngày thì các ông sẵn sàng chờ, ở ẩn, trốn sâu để chờ. Vấn đề ở đây rất khác. Thứ nhất từ trước tới nay chưa từng có ai trở về từ cõi chết. Có lẽ các ông tin tưởng Thầy là đấng đầu tiên trở về từ cõi chết. Điều này có thể là một thực thể mới bởi vì Thầy có thể làm cho người mù xem được, điếc nghe được, người chết sống lại nên Thầy cũng có thể cho mình sống lại.
Vấn đề thứ hai cũng khúc mắc không kém đó là vấn đề thời gian. Thời gian Thầy hiểu và thời gian các ông hiểu quá khác biệt. Nhiều lần các ông nghe Thầy nói về vấn đề giờ của Thầy. Giờ của Thầy được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Lần nào Thầy cũng nói là giờ đó đang đến mà các ông mong mỏi chờ chực không phải hàng tuần mà hàng tháng. Nếu giờ của Thầy kéo dài hàng tháng thì 'ba ngày' kia sẽ kéo dài bao nhiêu năm. Chính vì thế mà trong 'ba ngày' Thầy vắng mặt các ông cần người lãnh đạo. Tạm thay thế khi Thầy vắng mặt.
Điều ngạc nhiên cho các ông là khi các ông bàn bạc tìm người thay thế Thầy khi Thầy vắng mặt. Thầy lặng im, lắng nghe mà không hề phản đối hay buồn lòng. Khi đã đến nơi định đến Thầy mới lên tiếng cho các ông biết về tư cách và phẩm chất của người lãnh đạo. Về tư cách và phẩm chất cần phải là người có lối sống tuyệt đối khiêm nhường, luôn yêu mến người khác và sẵn sàng phục vụ người khác vô vị lợi. Phẩm chất nữa phải là người có đời sống đơn giản như trẻ thơ, chân thành, thật thà và có lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính những điều đó tạo nên người lãnh đạo Thầy mong muốn nơi các ông.
Sự thường sống ở trần gian này, người nào cũng muốn có một địa vị, một chỗ đứng sao cho phù: TN 25-B90
Sự thường sống ở trần gian này, người nào cũng muốn có một địa vị, một chỗ đứng sao cho phù hợp. Do đó, người ta cố gắng học hành, trau dồi tri thức để có thể đạt được mục tiêu họ nhắm tới. Nhiều khi có những cảnh tranh giành chỗ đứng, chỗ hơn, chỗ kém trong tập thể, trong xã hội vv...Thời Chúa Giêsu cũng vậy, ngay trong Nhóm Mười Hai, những người được Chúa ưu tuyển, nhưng vẫn xẩy ra tình trạng tìm kiếm danh vọng, tìm kiếm địa vị. Nên, họ mới tranh luận dọc đường với nhau xem ai làm lớn, làm bé, xem ai có chỗ cao, chỗ thấp. Đoạn Tin Mừng của Thánh Máccô hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Sống với Chúa, được Ngài giáo huấn, dạy dỗ, uốn nắn nhưng các môn đệ vẫn chưa ra khỏi não trạng đời thường. Đây thực tế là một cái gì xem ra rất buồn cười nếu không nói được là mỉa mai. Bởi vì Chúa Giêsu luôn dạy các môn đệ phải đơn sơ, khiêm nhượng, hiền lành. Và ai muốn vào nước trời phải trở nên trẻ nhỏ. Ai muốn làm lớn, phải làm bé trước đã. Ai muốn lãnh đạo người khác phải hầu hạ người ta. Con đường của Chúa Giêsu vạch ra là con đường khổ giá, con đường hẹp. Phêrô vừa tuyên Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Liền sau đó, Chúa loan báo cuộc khổ nạn của Người. Con đường của Người là con đường đau khổ: " bị người ta vu oan, giáng họa, bị bắt, bị kết án bất công và rồi Người bị đánh đập tàn nhẫn, dã man, bị đóng đinh và bị treo trên thập giá, nhưng ngày thứ ba Người sống lại ". Phêrô cản đường Chúa vì Phêrô không hiểu ! Tuyên xưng vào Chúa rồi lại cản trở công trình cứu độ của Chúa. Phêrô và các môn đệ quả thực còn quá tối tăm. Các môn đệ vẫn còn hiểu Đức Kitô sẽ làm Vua theo kiểu trần gian và một khi Chúa lên ngai vàng, các môn đệ sẽ được chia chác chức tước trong triều đình của Chúa Giêsu. Các môn đệ chỉ hiểu được tới đó vì Chúa Thánh Thần chưa được ban xuống cho các Ông, Chúa Thánh Thần chưa soi lòng mở trí cho các Ông. Nên, các môn đệ vẫn giữ não trạng đời thường và tranh cãi trước xem khi Chúa được làm Vua Israen thì các Ông sẽ được Vua Giêsu chia chác chức vị ra làm sao ! Kiểu tranh cãi này thường được các môn đệ dùng suốt những năm tháng các Ông theo chân Chúa Giêsu cho tới khi Chúa Giêsu chịu chết, sống lại và ban Thánh Thần cho các Ông.
Chúa Giêsu vẫn dạy các môn đệ bài học khiêm nhường bởi vì Ngài đã làm gương cho các Ông như có lúc Ngài nói: " Con người đến để phục vụ chứ không phải đến để được người ta hầu hạ ". Chúa cũng đã từng nói với các môn đệ: " Phải trở nên trẻ nhỏ". " Nước trời thuộc về trẻ nhỏ ". Hôm nay, Chúa lại dạy các môn đệ " Ai muốn làm lớn phải tự làm bé trước đã ". Trong bữa tiệc ly, Chúa làm gương cho các môn đệ về việc phục vụ, hầu hạ: " Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ ". Rõ ràng con đường, Chúa muốn dạy các môn đệ là con đường khiêm nhu. Chúa đưa ra môt quan niệm thật mới mẻ để các môn đệ hiểu Vương Quốc của Chúa Giêsu không thuộc trần gian này. Theo quan niệm của Chúa, người làm lớn phải là người phục vụ anh em. Ở đời người ta không chỉ đánh giá nhau bằng địa vị, chức tước, ăn trên ngồi trốc, nhưng người môn đệ của Chúa là người phục vụ, hy sinh, xả kỷ, bác ái, giúp con người và tha nhân sống hạnh phúc, sống tốt lành và biết chia sẻ với những người nghèo. Con đường của Chúa đã đi và làm gương cho nhân loại là con đường phục vụ, con đường hẹp, đường thập giá, hy sinh, quảng đại cho hạnh phúc con người. Chúa Giêsu đã khước từ làm Vua theo ý thế gian khi dân chúng được Chúa nuôi dưỡng bằng bánh, và cá, khi Chúa nổi danh vì làm các phép lạ chữa lành bệnh hoạn tật nguyền. Chúa khước từ danh vọng thế gian vì nước của Ngài không thuộc thế giới con người mà là nước thiêng liêng, nước trời. Đường Giêsu là con đường yêu thương. Chỉ có con đường này mới dẫn con người tới chỗ vinh quang.
Khi Chúa chết và sống lại, Thánh Thần đã được ban xuống, nên các môn đệ nhất nhất mới hiểu con đường Giêsu là thế nào và Chúa Giêsu là ai ? Họ nhất nhất can đảm, hy sinh, quảng đại và phục vụ, làm chứng cho Chúa dẫu tất cả các Ngài đều phải đổ máu để minh chứng cho Đức Kitô chết và sống lại.
Lạy Chúa Giêsu,
Con đường thập giá, con đường hẹp thật ít người muốn đi.
Chức vị cao, làm lớn trong xã hội, ai chẳng ham muốn,
Ngay các môn đệ sống với Chúa, nhưng các Ông vẫn tranh giành chỗ nhất, chỗ cao.
Con người chúng con thật mỏng dòn yếu đuối,
Những cám dỗ, thử thách về bản thân, địa vị luôn là cái bả đánh lừa chúng con.
Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng không sống não trạng vụ lợi nhưng luôn biết phục vụ trong yêu thương để chia sẻ hạnh phúc cho người khác.
Xin ban Thánh Thần để chúng con luôn luôn có cái nhìn mới, não trạng mới hầu chúng con biết nhìn nhận sự trổi trang của người khác và bằng lòng với những gì Chúa đang tặng ban cho chúng con. Amen.
Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai: TN 25-B91
“Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết, vì Người đang dạy các môn đệ rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người” ( cc. 30 – 32 ).
“Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Capharnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: "Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?" ( c. 33 ). Khi còn đi trên đường, mặc dù không hiểu những gì Đức Giêsu nói về cái chết và sự phục sinh của Người, nhưng các môn đệ đã không dám hỏi người. Bây giờ, khi đã vào nhà, chính Đức Giêsu chủ động đặt câu hỏi đối với các ông về chuyện các ông nói với nhau khi đi đường.
Vừa về đến nhà, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi ngay. Điều này chứng tỏ tính cấp bách và tầm quan trọng của vấn đề. Các môn đệ đã không hề bày tỏ bất cứ phản ứng nào, cũng đã chẳng hề bình luận gì về những nội dung Đức Giêsu dạy dỗ họ khi Thầy trò đi băng qua miền Galilê. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ không nói gì. Thực chất, họ trao đổi và tranh luận với nhau nhiều, nhưng không cho Đức Giêsu tham gia vào những cuộc trao đổi và tranh luận đó. Về phần mình, chắc chắn Đức Giêsu biết rõ cái ý tưởng nào đang thống trị tâm trí họ, nên hẳn là Người không lạ gì những nội dung mà họ đã tranh luận với nhau dọc đường. Điều Người cần là thái độ chân thành của họ.
“Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” ( c. 34 ). Câu hỏi của Đức Giêsu đã đẩy các môn đệ đến một tình cảnh rất khó xử. Họ làm thinh, tương tự như những người Pharisêu lòng dạ chai đá trong hội đường vào dịp Đức Giêsu chữa lành một người bị bại tay ( 3, 4 ). Lý do sâu xa, như vậy, cũng là do lòng dạ họ vẫn còn chai đá, chưa thể thấm nhuần sứ điệp Tin Mừng của Đức Giêsu, và vì thế, khi đi đường, họ đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả!
Sở dĩ các môn đệ làm thinh, là vì họ biết rất rõ rằng Đức Giêsu sẽ không thể chuẩn nhận mối bận tâm của các ông, vì họ sợ phản ứng sẽ có thể là rất mạnh mẽ của Người, và vì họ chưa thực sự hoàn toàn gắn bó với Người.
Tác giả Máccô có vẻ muốn nhấn mạnh yếu tố “dọc đường”, “khi đi đường”. Con đường được nói đến ở đây là đường lên Giêrusalem. Như lời Đức Giêsu đang cố gắng nói với các môn đệ, cuối con đường này sẽ là một số phận bi đát và là cái chết đau thương đang chờ đợi Người và sau đó, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại ( 8, 31; 9, 30 ). Ngược với những gì Đức Giêsu đang dạy, các môn đệ lại nhìn về Giêrusalem như là điểm đến mà ở đó Đức Giêsu sẽ thâu tóm quyền lực chính trị và thực hiện những chương trình đem lại tương lai vinh quang đắc thắng cho những kẻ theo Người. Rõ ràng Đức Giêsu và các môn đệ đang bước đi trên cùng một con đường, nhưng lại hoàn toàn đối ngược nhau trong điểm nhắm đến của cuộc hành trình.
Giữa các môn đệ với nhau cũng có một sự bất đồng và nguy cơ chia rẽ. Đáng chú ý cách dùng từ của tác giả Máccô. Trong câu hỏi của Đức Giêsu là động từ “bàn tán”, còn khi kể về những gì xảy ra trên đường, tác giả Mc dùng động từ “cãi nhau”, cho thấy một sự tranh chấp, cãi vã và bất đồng. Ngay khi Đức Giêsu đang nói đến sự hiến mình, thì các môn đệ lại cãi nhau về sự thống trị, về cấp bậc, về chức vụ, về vị trí ăn trên ngồi trốc! Các ông đều đầy tham vọng và tranh nhau chức tước. Các ông không tin vào sự bình đẳng và tình huynh đệ. Các ông chưa thoát khỏi sức kềm tỏa của lề thói thế gian và lý tưởng Do Thái. Các ông hình dung sai lạc về sứ vụ Mêsia của Đức Giêsu và tranh nhau vị trí cao nhất trong cái chế độ cai trị mà các ông tưởng là Đức Giêsu sắp thiết lập.
Tham vọng của các môn đệ rõ ràng đối nghịch hoàn toàn với điều kiện mà Đức Giêsu mới nêu ra cho những ai đi theo Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” ( 8, 34 ).
Không chờ được trả lời, cũng không có vẻ bực bội hay ngỡ ngàng vị sự làm thinh của các môn đệ trước câu hỏi rõ ràng của mình, “Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người thứ nhất, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" ( c. 35 ). Có thể ghi nhận: thay vào chỗ các môn đệ, bây giờ, là Nhóm Mười Hai.
Tuy ở trong cùng một ngôi nhà, và là vừa mới về đến nhà thôi, nhưng Đức Giêsu phải gọi Nhóm Mười Hai lại. Chi tiết này cho thấy các ông đang ở xa Người. Tất nhiên đây không thể là sự ở xa về phương diện không gian địa lý, mà là một hình ảnh tượng trưng có ý cho thấy thái độ của Nhóm Mười Hai không thuận thảo trong việc chấp nhận số phận của Con Người mà Đức Giêsu đang nói với họ. Khi thiết lập Nhóm Mười Hai ( 3, 14 ), một trong hai mục tiêu mà Đức Giêsu nhắm đến là để họ ở với Người. Thế mà bây giờ Người phải gọi họ đến, tức là họ đang không ở với Người. Lời gọi của Người, vì thế, đồng thời cũng là lời đề nghị họ thay đổi thái độ và cách hành xử cho phù hợp.
Tác giả Tin Mừng không nói cho chúng ta biết Nhóm Mười Hai đã đáp lại lời gọi này như thế nào, rằng họ có đến bên Người như Người vừa đề nghị hay không.
Khi giữ thái độ làm thinh trước câu hỏi của Đức Giêsu, các môn đệ đã tỏ vẻ từ chối đối thoại với Người. Nhưng Đức Giêsu đã không phản ứng gay gắt hay cứng cỏi trước thái độ đó. Người cũng chẳng trách móc hay khước từ họ. Ngược lại, Người vẫn ân cần cung cấp cho họ một cơ hội để thực hiện một chọn lựa tự do, khi nói với họ: “Ai muốn...” Người luôn bày tỏ một tình yêu đầy tôn trọng đối với các môn đệ.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Người dễ dãi. Thực tế, Người đòi hỏi Nhóm Mười Hai phải từ bỏ mọi tham vọng thống trị của họ, từ bỏ mọi tham vọng tìm chỗ cao nhất trong hệ thống, từ bỏ mọi toan tính phân chia cấp bậc và quyền lợi trong cộng đoàn đồ đệ: “Ai muốn làm người thứ nhất, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Khi người thứ nhất là người rốt hết và là người phục vụ mọi người, thì “thứ nhất” ở đây không phải là ở trên những người khác, quan trọng hơn những người khác, càng chẳng phải là có một trách nhiệm đặc biệt hơn những người khác trong cộng đoàn. Người thứ nhất, theo cách trình bày của Đức Giêsu ở đây, chính là người ở gần Đức Giêsu hơn cả trong việc đồng hóa mình với Đức Giêsu bị nộp vào tay người đời và hiến mình vì ơn cứu độ nhân loại.
“Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy" ( cc. 36 – 37 ). Hạn từ “paidion” thực ra có thể dùng để chỉ một em nhỏ, nhưng cũng có thể chỉ một người đầy tớ, người phục vụ. Ngữ cảnh có vẻ ưu tiên cách hiểu thứ hai hơn, nhưng vẫn không loại trừ cách hiểu thứ nhất.
Đức Giêsu vẫn đang ngồi trong nhà. Nhưng Người không cần phải cất tiếng gọi em nhỏ như Người vừa phải gọi Nhóm Mười Hai. Người cũng không phải rời chỗ để đi tìm và đưa em vào. Chi tiết này chứng tỏ em nhỏ đang ở ngay bên cạnh Đức Giêsu, tức là đang ở với Người. Nếu khoảng cách giữa Nhóm Mười Hai với Đức Giêsu ở bài Tin Mừng này phải được hiểu theo nghĩa bóng, thì cũng thế, sự gần cận này của em nhỏ đối với Đức Giêsu cũng cần được hiểu theo nghĩa bóng, chỉ về sự gần cận tâm linh, tinh thần, lập trường, thái độ và cách hành xử. Nhất là khi chúng ta hiểu hạn từ paidion theo nghĩa “người phục vụ”. Hình ảnh em nhỏ / người phục vụ này rất tương ứng với điều vừa được Đức Giêsu đề cập ở c. 35. Trong tư thế em nhỏ, nhân vật này là người rốt hết, không đáng kể, không quan trọng; trong tư thế người phục vụ, nhân vật này đáp ứng đòi hỏi làm người phục vụ mọi người.
Đức Giêsu đặt em nhỏ này vào vị trí trung tâm, như thể một điểm quy chiếu cho cả nhóm: “Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông”. Nhân vật “làm người phục vụ mọi người” được đặt làm mẫu cho Nhóm Mười Hai vừa cãi nhau nảy lửa về chuyện ai là người lớn nhất trong nhóm!
Rồi Đức Giêsu ôm lấy em nhỏ, trong một hành động thân thương và có giá trị diễn tả sự gắn bó mật thiết. Đức Giêsu như muốn nên một với kẻ rốt hết và làm người phục vụ mọi người. Hành động này như muốn diễn tả nội dung mà đã có lần Người nói thành lời: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” ( 3, 35 ).
Đi thêm một bước nữa, Đức Giêsu đồng hóa bản thân mình với những con người bé nhỏ ấy: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”. Rồi Người khẳng định rằng đó cũng là sự đồng hóa với Đấng đã sai Người: “Và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Đức Giêsu xuất hiện như trung tâm, ở đó xảy đến mầu nhiệm hợp nhất Thiên Chúa với nhân loại.
Gợi ý suy niệm
1. “Khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” ( c. 34 ). Ngay khi Đức Giêsu đang nói đến sự hiến mình, thì các môn đệ lại cãi nhau về sự thống trị, về cấp bậc, về chức vụ, về vị trí ăn trên ngồi trốc ! Các ông đều đầy tham vọng và tranh nhau chức tước. Các ông không tin vào sự bình đẳng và tình huynh đệ. Có lẽ đó không chỉ là chuyện xưa!
2. "Ai muốn làm người thứ nhất, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" ( c. 35 ).
3. Thái độ của Đức Giêsu diễn tả thái độ của chính Thiên Chúa, vì như lời Người nói, “ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Một lần nữa, chúng ta lại gặp một mạc khải về chính Thiên Chúa: Ngài không phải là vị Thiên Chúa thống trị con người, mà là vị Thiên Chúa phục vụ mọi người. Những ai tìm cách đặt mình trên người khác sẽ không thể đón tiếp Thiên Chúa và Đức Giêsu vào cuộc đời mình.
Người hỏi các ông: “Dọc đàng các con tranh luận gì thế ?” Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất ( Mc 9, 32 – 33 ).
Không có gì khó hiểu về cách “làm thinh” của các môn đệ khi nghe Chúa Giêsu hỏi về đề: TN 25-B92
Không có gì khó hiểu về cách “làm thinh” của các môn đệ khi nghe Chúa Giêsu hỏi về đề tài tranh luận của các ông. Chính các ông đã tự nhận tính chất “vớ vẩn” của kiểu tranh luận đó. Tranh luận – tự bản chất là một điều cần thiết để làm rõ chân lý. Chính Chúa Giêsu đã từng thắng các luật sĩ và biệt phái trong nhiều cuộc tranh luận mang tính chất gài bẫy Người. Nhưng thành tố thiết yếu trong một cuộc tranh luận là phải dựa trên một căn tính chung, đồng nhất. Kiểu như muốn cộng, trừ phân số phải dựa trên mẫu số chung vậy. Còn việc tranh luận “lớn – nhỏ” thì chắc chắn không thể có… mẫu số chung được rồi. Ai cũng lấy cái “tôi” của mình ra để làm “ni”:
Tôi thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc. Tôi thuộc hàng tinh thông kim cổ. Tôi là bậc thâm niên trong “nghề”. Tôi có quan hệ rộng với các ngành các giới. Tôi lão luyện trong cách ứng xử. Tôi nhạy cảm trong mọi vấn đề.
Vì thế, các cuộc tranh luận kiểu này tự thân nó đã bất hợp lý nên thường đi vào… ngõ cụt. Chả trách các môn đệ đã… làm thinh ! May thay, Chúa Giêsu đã đưa ra một định nghĩa chung: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Người không chỉ đích danh ai “lớn”, ai “nhỏ”. Mọi người khi sinh ra đều bình đẳng và để trở nên “lớn” hay “nhỏ” tùy thuộc vào cái sự “muốn” của từng người. “Ai muốn làm lớn phải tự làm rốt hết”. Nghe qua như một nghịch lý ! Thế mà, lắm nhà lãnh đạo đã khôn khéo lợi dụng nghịch lý này để thu hút, mê hoặc người dân. Kết cục là hiện nay ta vẫn thấy nhan nhản:
Những “đầy tớ” không thèm tiếp “ông chủ” mặc dù đã qua 5 – 7 cửa ải.
Những “đầy tớ” đánh bạc cả triệu đô trong khi “ông chủ” rau cháo cầm hơi.
Những “đầy tớ” xây cung điện lộng lẫy với trang trí nội thất bằng… cổ vật quốc gia trong khi “ông chủ” còn ngủ dưới gầm cầu.
Những “đầy tớ” sẵn sàng giật luôn cả mảnh đất canh tác nhỏ nhoi trong tay “ông chủ” để thỏa mãn dự án resort đầy hấp dẫn về mặt lợi nhuận.
Những “đầy tớ” sẵn sàng đạp vào mặt “ông chủ” chỉ vì… không cùng quan điểm !
Nghe ra lại càng ngược đời hơn cái mà ta gọi là nghịch lý ở trên. Tại sao ? Bởi vì những đầy tớ ở đây không hề muốn làm đầy tớ mà chỉ muốn mang danh “đầy tớ” để được làm lớn, để được hưởng lợi… Chả trách mà số “đầy tớ” ở nhiều nơi tăng đến mức… chóng mặt ! Chỉ riêng ở một xã thuộc tỉnh Thanh Hóa, số “đầy tớ” cấp xã đã lên đến 500. “Ông chủ” mà không sạt nghiệp vì phải è cổ trả lương cho “đầy tớ” mới lạ !
Tôi không có cái may mắn được làm “đầy tớ nhân dân” nhưng có khi tôi cũng đã là “đầy tớ giáo dân” trong Họ Đạo nhỏ bé của mình. Tôi cũng có một danh xưng như một thứ nhãn hiệu “cầu chứng tại tòa”. Tôi cũng ra sức bảo vệ nhãn hiệu ấy bằng lắm thứ tranh luận khoác lớp sơn “phục vụ” mỏng tanh. Tôi tự khoác lên vai mình những sứ mạng vĩ đại kiểu “thế thiên hành đạo” hay “cứu nhân độ thế”… Nhưng lắm lúc tôi cũng phải đau đầu vì chung quanh tôi vẫn còn những kẻ thiển cận, cố chấp, lười nhác, báng bổ… và cả những tên “đầy tớ”… giống tôi !
Lời Chúa hôm nay lại gợi cho tôi một cách làm đầy tớ đơn giản mà hữu hiệu hơn nhiều: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” Thì ra bấy lâu nay tôi chỉ mải mê lo “hành sự” mà không hề “đón nhận”. Trong nhiều cuộc tranh luận tôi cũng nhắm đến mục đích “loại trừ” hơn là “đón nhận”.
Và trong khi mải mê loại trừ anh em, vô hình chung tôi đã thỏa hiệp với những kẻ gian ác mà sách Khôn Ngoan hôm nay đề cập đến: “Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm… Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không” ( x. Kn 2, 12 – 19 ).
Trong khi mải mê tranh luận, tôi quên mất lời cảnh báo của thánh Giacôbê tông đồ trong bài đọc II: “Bởi đâu anh em cạnh tranh và cãi cọ nhau ? Nào không phải tại điều này: tức tại các đam mê đang giao chiến trong chi thể anh em đó sao ? Anh em ham muốn mà không được hưởng, nên anh em giết nhau. Anh em ganh tị mà không được mãn nguyện, nên anh em cạnh tranh và cãi cọ” ( Gc 4, 1 – 2 ).
Tôi cũng từng tự hào mình lợi khẩu, giỏi biện chứng nhưng hôm nay đối diện với câu hỏi của Chúa Giêsu, tôi đành phải… làm thinh !
Và cũng may là tôi còn biết “làm thinh” để nghe Lời Chúa vang vọng trong tôi, hướng dẫn tôi, dìu dắt tôi, nâng đỡ tôi… Chúa không cần những công trình kỳ vĩ nơi tôi bởi vì Chúa toàn năng có thể làm được tất cả mọi sự mà không cần có tôi. Chúa chỉ cần tôi biết mở rộng tâm hồn đón nhận và phục vụ Chúa qua hình ảnh những người anh em bé nhỏ chung quanh tôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhận ra Chúa nơi những người anh em bé nhỏ nhất chung quanh chúng con, ngay cả những kẻ thiển cận, cố chấp, lười nhác, báng bổ… Nhờ đó, chúng con biết thực thi đúng đắn trách vụ đầy tớ mà Chúa muốn nơi chúng con bằng phục vụ và yêu thương. Amen.
Trong xã hội loài người, ít ai chọn cái cực khổ, bần hàn, thấp kém. Người ta lo tranh giành: TN 25-B93
Trong xã hội loài người, ít ai chọn cái cực khổ, bần hàn, thấp kém. Người ta lo tranh giành cái sung sướng, lợi lộc, vinh hoa. Ai lại thèm khát chức quyền là vì mưu cầu lợi ích quốc gia ? Ai lại ra công tìm cho mình một chiếc ghế ông lớn vì mong muốn làm cho đất nước giàu mạnh ? Ai lại dùng đủ mọi xảo thuật gian tà tranh giành một địa vị quan trọng vì nghĩ đến chuyện ấm no hạnh phúc của toàn dân ?
Con số những người lãnh đạo đất nước giữ được lòng công chính may ra đếm được trên đầu ngón tay. Bởi vì, quyền lực và tài sản công của đất nước luôn cám dỗ Đức Công Chính của người lãnh đạo. Điều đó càng hiển nhiên hơn trong những xã hội không muốn biết đến Thiên Chúa và Đức Công Chính của Người. Đức Công Chính của Thiên Chúa vẫn còn réo gọi trong lương tâm họ, nhưng họ không muốn nghe theo, vì nghe theo Đức Công Chính thì đành bỏ mất cơ hội kiếm chác – bất hợp pháp cách nào cũng làm cho thành hợp pháp !
Chuyện này không phải mới hôm nay, mà đã từ ngàn xa xưa trước, không chỉ ở đất nước này, mà là khắp nơi. Bất kỳ ai làm người cũng đều bị Satan cám dỗ thèm khát quyền lực, thèm khát bả vinh hoa phú quí. Nếu không chiến thắng nổi cơn cám dỗ ấy, có nghĩa là phải quy phục Satan, biến thành kẻ gian ác và làm theo lệnh của nó: chống lại, bức bách, hãm hại người công chính. Bởi vậy, sách Khôn Ngoan viết rằng: “Những kẻ gian ác nói: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật” ( Kn 2, 12 ).
Từ xưa đến nay, chuyện thanh trừng nhau giành chỗ ông lớn ngay trong một đảng phái chính trị không phải là hiếm hoi, nhưng lại là chuyện thường ngày như chuyện xử nhau của bọn giang hồ, dao búa, hoặc của những kẻ vô học, hoặc của những tên có chữ mà không có nghĩa ! Chuyện hãm hại nhau trên thương trường cũng nhan nhản đến mức giết người không gớm tay. Tất cả đều bắt nguồn từ tham vọng bảo vệ và phát triển cái vốn liếng bất lương mà ma quỷ đã ban cho. Chuyện thanh trừng nhau bỗng rộ lên từ bí mật đến công khai vào những lúc tranh sáng tranh tối, lúc một mất một còn của một chính thể. Thật đáng quí, đáng kính nể những người có lương tâm ngay thẳng, có tiếng nói thật thà, có ước nguyện đả phá cái bất công và xây dựng sự công chính ngay trong những guồng máy gian tà. Họ bị trù dập, cách chức hoặc bi hãm hại, bị ám sát vì lẽ công chính. Họ là người công chính, chung số phận với Chúa Giêsu như sách Khôn Ngoan đã nói: “Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó” ( Kn 2, 19 – 20 ).
Từ chuyện làm lớn trong xã hội, đến chuyện làm lớn trong làng xóm, trong gia đình cũng không khác là bao. Ai làm ông thôn, ông xóm, ai có tiền hơn, giàu có hơn, là có quyền thế hơn, “miệng có gang có thép” hơn, được nể nả hơn và có thể xem người khác chẳng ra gì. Vợ chồng tranh nhau quyền làm chủ gia đình. Ai làm ra kinh tế thì mặc nhiên có quyền bính hơn, coi thường lấn lướt người kia. Cả con cái, đến lúc ổn định cuộc sống rồi, khấm khá rồi, nên ông kia, nên bà nọ rồi, nhìn cha mẹ già như một gánh nặng, một món nợ đời. Ai phục vụ ai ?
Có vẻ như người ta đang đánh mất dần ý nghĩa “Phục Vụ” nhau, mất dần “Đức Công Chính” trong cuộc sống hôm nay, từ trong gia đình đến xã hội, thậm chí cả trong các sinh hoạt của Giáo Hội ! Chúa Giêsu đến trong xã hội loài người để tái lập một nền Công Chính của Nước Thiên Chúa bằng việc Thiên Chúa nêu gương phục vụ cho con người, để con người biết phục vụ nhau cách trân trọng nhất.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, các môn đệ, những người gần gũi nhất với Chúa Giêsu cũng không hiểu ý định yêu thương, khiêm tốn phục vụ, sống vì hạnh phúc tha nhân của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Những tưởng, theo ông Giêsu tài phép này chắc chắn cũng sẽ tìm được một chỗ đứng, một vị trí trên hàng chóp đỉnh quyền lực và danh vọng của đất nước Do Thái. Bởi vậy mới có chuyện họ tranh luận với nhau xem ai cao trọng hơn ai, ai làm lớn hơn ai, ai sẽ vào bộ chính trị, ai giữ bộ tài chính, ai nắm ngoại thương... Nhưng không ngờ Chúa Giêsu cảnh tỉnh họ hãy bỏ ngay cái ý tưởng ám muội của loài người ấy đi, vì đối với Thiên Chúa thì: "Ai muốn làm lớn nhất, hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” ( Mc 9, 35 ).
Chúa Giêsu đã dạy như thế và đã sống trọn cuộc đời như thế. Người đời, dùng chân lý này làm chiêu bài lừa bịp với khẩu hiệu rằng: “Lãnh đạo là đầy tớ nhân dân”, “Cán bộ là đầy tớ nhân dân”. Nói như thế, nhưng chẳng bao giờ làm như thế. Ai đầy tớ ai ? Ai phục vụ ai ?
Còn chúng ta thì sao ?
“Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” hẳn phải là kim chỉ nam cho tất cả mọi tín hữu trong đời sống Đức Tin và đời sống Giáo Hội, là kim chỉ nam cho mọi thành phần trong Giáo Hội. Trong chuyến viếng thăm Liban ngày 16.9.2012 vừa qua, Đức Thánh Cha Bênêdictô 16 nói: “Một đòi hỏi khẩn thiết đối với Giáo Hội là phục vụ và, đối với các tín hữu Kitô, là phải trở thành những người phục vụ đích thực theo hình ảnh Chúa Giêsu. Phục vụ là một yếu tố nền tảng trong căn tính các môn đệ của Chúa Kitô” ( Xc. Ga 13, 15 – 17 ).
Những con người bị cho là cùng đinh, thấp bé nhất dưới cái nhìn xã hội không thể cũng bị xem là cùng đinh thấp bé nhất dưới cái nhìn của Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa Kitô nhìn loài người, nhìn vạn vật với con mắt Chúa Kitô. Bao lâu trong Giáo Hội chúng ta, kẻ bề trên bề dưới, nhìn nhau với con mắt xác thịt loài người, con mắt cao, con mắt thấp, thì bấy lâu, chưa thực sự là Giáo Hội Chúa Kitô. Tiếng nói của Dân Chúa chưa hẳn là tiếng nói của những người đại diện Dân Chúa, nếu những người đại diện ấy chưa muốn lắng nghe, chưa ghi nhận tiếng nói của những kẻ cùng đinh, thấp bé nhất, ít học nhất trong Giáo Hội để quan tâm đáp ứng.
Là Tín Hữu Chúa Giêsu, là môn đệ Chúa Giêsu hẳn phải là người chung số phận với Chúa Giêsu: số phận của người công chính, số phận của những đầy tớ phục vụ anh em, số phận những người nhẫn nai chịu nhục mạ, chịu kết án, chịu đóng đinh và chịu chết vì sự Công Chính của Nước Thiên Chúa. Như vậy, số phận của Kitô hữu đã đành rành: được sinh ra, sống yêu thương phục vụ mọi người, làm chứng cho Đức Công Chính của Thiên Chúa, cùng chết với Đức Kitô, cùng sống lại với Người.
Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần gìn giữ chúng ta đừng bị vướng vào bẫy của Satan, để rồi tranh nhau cao thấp mà quên việc chính của chúng ta ở đời là phục vụ cách trân trọng nhất. Đừng vì muốn làm ông lớn mà “ganh tị và cãi vã, sinh ra hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”, nhưng hãy làm người phục vụ như Chúa Giêsu đã yêu thương khiêm tốn phục vụ. Thánh Giacôbê nói, đó là “sự khôn ngoan từ Trời xuống, trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình” ( Gc 3, 16 – 4, 3 ).
Lạy Chúa, xin cho Lời Ngài thức tỉnh những ai đang tranh giành quyền lực biết theo gương Ngài mà phục vụ nhân loại các chân thành. Xin cho mọi người trong Giáo Hội biết phục vụ nhau cách trân trọng nhất, nhất là đối với những người thấp bé cùng đinh. Amen.
Ngày 12 tháng 3, năm 1930, Mahatma Gandhi cùng 78 thành viên với y phục trắng cổ truyền bắt: TN 25-B94
Ngày 12 tháng 3, năm 1930, Mahatma Gandhi cùng 78 thành viên với y phục trắng cổ truyền bắt đầu đi bộ, phản đối đạo luật “Thuế Muối” của đế quốc Anh, cấm người Ấn Độ sản xuất và buôn bán muối, dành độc quyền cho chính phủ Anh bóc lột.
Đi tới đâu, ông đều diễn thuyết chỉ trích và lên án đạo luật phi nhân này. Dân chúng nồng nhiệt ủng hộ và tiếp tế rau quả, cùng gia nhập theo “hành trình muối” dài 386 cây số. Cả thế giới truyền thông đều hướng về "người đàn ông gầy gò nhỏ bé” đang được một đoàn người dài 3 cây số nhập dòng, từ mỗi làng xã và mỗi ngày một tăng. Tay không, chân đất, họ tiến về bờ biển Ấn Độ Dương.
Sau 23 ngày, đoàn người lên đến trên 50.000 người, đã đến bãi biển làng Dandi. Hôm sau, Gandhi bốc một nắm muối và công khai phản đối cùng với người dân Ấn, thể hiện hành động bất tuân đạo luật muối. Từ đó, Gandhi là ngọn cờ đầu, phục vụ cho công cuộc giành lại độc lập với chiến thuật bất bạo động và bất hợp tác.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay có chủ để về phục vụ. Trước tiên Chúa Giêsu nói về sứ mạng của Người, cũng như phương cách phục vụ cho Ơn Cứu Độ. Nhưng thấy thái độ của các Tông Đồ khá tiêu cực, Chúa bèn giảng dạy về ý nghĩa hai chữ Phục Vụ.
Phục Vụ Bản Thân
Khuynh hướng con người luôn muốn vinh thân phì gia, quyền cao chức trọng. Các Tông Đồ khi ấy cũng chưa thoát khỏi cái bả vinh hoa phù phiếm. Chỉ muốn lo cho thân phận, phục vụ bản thân, mới tranh giành nhau cái ghế lãnh đạo. “Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?” Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. ( Mc 9, 33 – 34 )
Phục Vụ Tha Nhân
Chính vì xấu hổ, các Tông Đồ mới đành phải lặng thinh, không dám tường trình lại cuộc bàn cãi sôi nổi tranh chấp ngôi thứ. Chúa Giêsu đã nghe và biết rõ, chẳng la mắng chi, mà chỉ ôn tồn dạy bảo: “Ai muốn đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” ( Mc 9, 35 ).
Mahatma Gandhi đã đích thân đi bộ 386 cây số, khởi xướng cuộc “hành trình muối”. Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt đã đích thân lội nước, đến thăm dân chúng bị lũ lụt tại Hà Nội. Đức Giám Mục Micae Hoàng Đức Oanh đã lặng lẽ nhặt rác, ngay sau Thánh Lễ tại linh địa Đức Mẹ Măng Đen, Kon Tum. Đó là những tấm gương của người lãnh đạo biết khiêm tốn phục vụ mọi người.
Phục Vụ Vô Tư
Không chỉ dạy bảo những nhà lãnh đạo tương lai, phục vụ như thế nào, Chúa Giêsu còn dạy cho mọi người về thái độ phục vụ một cách vô tư. “Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó mà nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” ( Mc 9, 37 ).
Khi tiếp đón em bé thì đâu có được trả ơn nghĩa gì, như người lớn. Đó chính là điều Chúa Giêsu muốn mọi người đón nhận nhau, hoàn toàn trong sáng vì danh Chúa. Vô điều kiện, vô vị lợi, vô tư, không mong đền ơn đáp nghĩa, hay nhằm mục đích nào khác, mà chỉ vì họ là hình bóng Thiên Chúa, vì yêu mến và vinh danh Thiên Chúa.
Phục Vụ Ơn Cứu Độ
Phục Vụ cao quý nhất là quy hướng vào Ơn Cứu Độ, Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các Tông Đồ, chuần bị tinh thần hiệp thông vào sứ vụ cao cả. “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại” ( Mc 9, 31 ).
Tuy nhiên, các Tông Đồ chưa sẵn sàng để chia sẻ, hơn nữa còn tỏ vẻ sợ hãi tránh né: “Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ, không dám hỏi lại Người” (Mc 9, 32 ).
Lạy Chúa, xin dạy con biết cư xử tốt lành vô tư với mọi người vì danh Ngài, để có thể xứng đáng làm môn đệ Ngài.
Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ con luôn khiêm hạ, tận tụy giúp đỡ, chia sẻ với tha nhân vì lòng kính mến Chúa, để luôn được Mẹ che chở, chúc lành. Amen.
Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Chúa Giêsu rời vùng: TN 25-B95
Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Chúa Giêsu rời vùng đất phía Bắc tiến về Giêrusalem, nơi đó thập giá đang đợi chờ Người.
Trên hành trình đó đã ba lần Chúa mạc khải cho các môn đệ biết: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại” ( x. Mc 8, 31 – 10, 34 ). “Các môn đệ không hiểu và cũng không dám hỏi lại” ( Mc 9, 32 ). Họ đang sôi nổi tranh luận về vương quốc mà Thầy sẽ thiết lập. Ai là thượng thư, ai là bộ trưởng trong vương quốc ấy ! Thầy đang hướng về thập giá, khổ nạn. Các môn đệ lại tranh cải xem ai được quyền cao chức trọng hơn cả ( x. Lc 22, 24 – 27; Mc 10, 35 – 40 ). Chúa đã phải đau lòng biết bao !
Vì thế, để sửa dạy uốn nắn lối suy nghĩ các môn đệ, Chúa hỏi: “Dọc đường anh em bàn tán điều gì vậy ?” Chúa hỏi là ‘bàn tán’ cho nó nhẹ nhàng thôi, chứ thực ra Chúa biết các môn đệ vừa cãi nhau nảy lửa. Các ông im lặng vì xấu hổ về những gì đang tranh luận. Rồi Chúa dạy cho các môn đệ bài học, người lớn nhất là người khiêm tốn phục vụ anh em.
Nền văn minh mới
Chúa Giêsu “ngồi xuống và gọi các môn đệ tới”. Một Rabbi dạy bảo học trò, hay tuyên bố một điều gì quan trọng thì luôn luôn ở tư thế ngồi để giảng dạy. Chúa ngồi xuống thư thái và dạy rằng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”. Bằng hình ảnh cụ thể, Chúa đem một em bé đặt giữa các học trò, ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Lời dạy của Chúa Giêsu thật dễ hiểu mà thật khó thực hành. “Yêu thương phục vụ” là môn học khó nhất nhưng lại là môn học phổ thông nhất. Môn học này người môn đệ phải học cả đời mà không có ngày ra trường, học tới chết mà vẫn chưa xong.
Người lớn nhất, người đứng đầu là người phục vụ hết mình. Chức tước, chức vụ, chức vị, chức quyền chỉ là phương tiện để phục vụ. Ai sống tinh thần phục vụ đó là người lớn nhất. Ai không biết phục vụ thì là người nhỏ nhất. Giá trị của một con người không do địa vị chức tước mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó. Chúa Giêsu mở ra một nền văn minh mới. Người lớn nhất không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng khả năng để phục vụ. Người lớn nhất không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng trái tim để yêu thương.
Lãnh đạo là người có uy tín
Người lãnh đạo phải là người có uy. Đó là uy tín và uy quyền. Thông thường, người lãnh đạo tự khẳng định được uy tín thì tự nhiên có uy quyền một cách thực thụ nhờ niềm tin của lòng dân. Khi lãnh đạo phải dùng uy quyền thay cho uy tín thì họ tự tạo ra nguyên cớ của sự xung đột.
Dân chúng nể trọng uy tín của người lãnh đạo nhưng họ lại sợ uy quyền. Uy quyền, cường quyền càng dấn lên tới mức cao thì sinh ra thói độc đoán chuyên quyền dẫn đến độc tài. Khi người lãnh đạo đã mất hết uy tín, lẽ ra nên tự biết mà từ chức thì còn vớt vát được chút danh dự. Nhưng khi đã không còn uy tín mà lại gia tăng uy quyền thì chỉ có hại cho xã hội, căng thẳng cho cộng đồng, họ trở thành lố bịch và làm trò cười cho thiên hạ.
Không ai có thể tự vỗ ngực là “ta uy tín nhất”, bởi vì uy tín của cá nhân nằm trong lòng người khác, tùy thuộc sự ghi nhận và đánh giá của cộng đồng xã hội một cách khách quan. Uy tín phải được minh chứng qua quan điểm, tư tưởng, động cơ làm việc, đạo đức, lối sống và chất lượng thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Có những người có chức cao quyền trọng nhưng khi làm việc cụ thể và trong cuộc sống chẳng có uy tín gì, chỉ để lại sự trách cứ, chê cười, đàm tiếu. Có uy tín, tự khắc có uy quyền, một uy quyền tự thân, không phải thứ uy quyền lên gân. Không có uy tín, nhưng vì muốn thể hiện uy quyền nên thường gây hậu họa, làm hỏng cho công việc chung và tác hại khôn lường đối với xã hội và đất nước khi người này thuộc tầng lớp lãnh đạo ở tầm vĩ mô. Trên thực tế không ít người, khi có quyền thì đụng chút việc là dùng quyền uy, hống hách, quan liêu, mệnh lệnh.
Người thích uy quyền thường dùng quyền hành và quyền lực, kể cả quyền lực của đồng tiền. Họ sẽ đưa ra những khả năng đe dọa, mua chuộc như thăng giáng chức tước, lên lương, bố trí, sắp xếp chỗ này, vị trí kia, vừa câu móc, vừa hăm dọa hay cô lập đối tượng khi không "tranh thủ" được. Nếu ai đó làm phật lòng trái ý, hoặc có nguy cơ làm ảnh hưởng uy quyền thì sẽ bị trù úm, bày kế, lập mưu kỷ luật hay ép đương sự xin chuyển đổi công tác hay về "hưu non".
Người dùng uy lực đồng tiền thường đi kèm lòng tham, tính toán cá nhân vị kỷ, vơ vét và thu vén. Cho nên, những kẻ bất tài, vô dụng, thất đức có đủ thứ thủ đoạn, mánh khóe để khi đã nắm được quyền thì dùng uy quyền trấn áp thiên hạ, “cả vú lấp miệng em”, kéo bè, kết vây cánh... hình thành nhóm lợi ích. Từ tuyển dụng, bổ nhiệm, giao chức cũng chọn trong những người thân trong gia đình, dòng tộc, huyết thống, cùng mục đích, cùng động cơ, cùng mặt bằng “quan trí”, cốt sao thế lực của mình ngày càng được cũng cố và khuynh loát. Sự cố tình tâng bốc nhau, bao che, tung hứng cho nhau, hùa nhau lập mưu kế phạm pháp, tìm mọi mánh khóe, thủ đoạn đục khoét của công, thu lợi bất chính cũng từ đó mà ra.
Khi đã không đủ uy tín mà phải dùng uy quyền đến mức độc đoán, chuyên quyền, người ta sẵn sàng trừ khử, sát phạt, làm hại người khác có đối trọng ( kể cả đồng chí, bạn hữu, người thân ), mua bán chức quyền, dùng đủ mánh lới tinh vi để giữ ghế, tiến thân, che lấp khuyết điểm, tích lũy của cải bất minh, vùi dập chân lý, phủ nhận lẽ phải một cách khôn lanh và rất ma mãnh !
Thế nhưng, như người đời đã đúc kết: “Uy tín trường tồn, uy quyền đoản vị” – người có uy tín sẽ để lại tiếng thơm lâu dài, người không uy tín mà thích dùng uy quyền thay cho uy tín chỉ được nhất thời, gây thù chuốc oán, tự làm mất hậu phúc, có chăng chỉ được một vài việc trước mắt, không thể có sức bền. Cho nên, làm lãnh đạo cần nâng cao uy tín, phải thu phục được nhân tâm, không nên lộng hành, lạm dụng uy quyền để tự đề cao cá nhân, quên cả lợi ích quốc gia, dân tộc, quên nhân dân, chỉ biết vun xén cho cá nhân, gia đình và nhóm lợi ích gây hậu quả khôn lường cho đất nước và nhân dân ( x. buivanbong.blogspot.com ).
Lãnh đạo là người phục vụ
Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ con đường trở nên lớn lao thật sự. Đó là con đường phục vụ. Con đường phục vụ thay thế cho tham vọng thống trị. Giúp đỡ tha nhân thay cho tham vọng bắt người khác phục vụ chính mình. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể.
Để làm gương cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã tự hạ mình, “không phải để được phục vụ mà đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc nhiều người” (Mt 20, 25 – 28 ). Là Thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là lãnh đạo nhưng Người sẵn sàng hiến mạng sống “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10 ). Tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu được thể hiện rõ nét nhất trong cử chỉ rửa chân “Nếu Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em phải rửa chân cho nhau”. ( Ga 13, 14 – 15 ). "Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22, 27 ). Phục vụ lên đến tuyệt đỉnh trong hành vi tự hiến “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” ( Ga 15, 13).
Quyền bính và phục vụ gắn liền với nhau làm nên bản chất người môn đệ Chúa Giêsu. Người lãnh đạo theo gương Chúa Giêsu là người có tâm, có tầm, có đức và có tài để phục vụ tha nhân theo tinh thần đức ái mục tử. Mục tử rao giảng chân lý và dám sống chân lý ấy cho dù phải hy sinh tính mạng.
Thánh Phêrô đã thấm nhuần lời dạy của Thầy Chí Thánh nên sau này ngài viết những lời tâm huyết cho các mục tử: “Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi ích thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt tình tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” ( 1 Pr 5, 1 – 4 ).
Thánh Phêrô cũng khuyên các tín hữu: “Ơn riêng của Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban” ( 1Pr 4, 8 – 11 ).
Quyền bính đòi chiếm hữu và kiểm soát. Nhưng trong Giáo hội, quyền bính được xây trên nền tảng tình yêu Chúa. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới cần Phêrô xác quyết tới ba lần: “Thầy biết con yêu mến Thầy.” ( Ga 21,15 – 17 ). Quyền bính được xây dựng trên tình yêu nên người mục tử luôn khiêm tốn phục vụ tha nhân.
Lời dạy của Chúa Giêsu đưa nhân loại đi vào nền văn minh của tình thương. Và kể từ đó, hàng triệu vị Thánh được tôn vinh như là những chứng từ sống động cho hình ảnh “Người lớn nhất” trong nền văn minh mới của Tin Mừng. Mẹ Têrêxa Calcutta trở thành vĩ nhân của thời đại bằng con đường yêu thương và phục vụ người nghèo. Phục vụ luôn gắn liền với yêu thương. Thánh Augustinô nhận định: Trong đời sống người kitô hữu, có một cuộc chiến đấu giữa hai thứ tình yêu: yêu Thiên Chúa cho đến từ bỏ bản thân mình và yêu bản thân cho đến nỗi chối bỏ Thiên Chúa.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Một vĩ nhân không hệ tại ở địa vị xã hội của người ấy mà là sự cống hiến cuộc đời cho sự phát triển của nhân loại. Giáo hội tuyên phong một người lên bậc Hiển Thánh chung quy cũng là tuyên dương tinh thần phục vụ của người ấy vì Nước Chúa. Phục vụ để trở nên phong phú, có giá trị, nên hoàn thiện và trở nên gần Chúa Giêsu hơn.
“Nghệ thuật làm lớn” của Chúa Giêsu chính là khiêm tốn phục vụ. Người thật sự cao cả là người dâng đời mình cho lợi ích của cộng đoàn. Thiên Chúa đã tự liên đới với người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất. Phục vụ một người không đáng kể nhất cũng là phục vụ chính Thiên Chúa. Con đường tự hạ, làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất trước mặt Chúa.
“Nguồn thơ ứa mãi hai hàng lệ, Tờ giấy hoa tiên cũng ướt mèm”
( dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử )
Thơ ứa lệ, tờ giấy cũng ướt mèm. Giấy hoa tiên, nhạc láng ứa nguồn thơ, ở trình thuật. Trình: TN 25-B96
Thơ ứa lệ, tờ giấy cũng ướt mèm. Giấy hoa tiên, nhạc láng ứa nguồn thơ, ở trình thuật. Trình thuật theo Thánh Máccô hôm nay ghi, là ghi về nguồn thơ trổi điệu thướt tha có Lời Chúa nhắn nhủ đàn con bé bỏng tin vào Chúa vẫn lưu lạc chốn gian trần, nay còn nhớ. Nhớ bài đọc rút từ sách Dân Số nói về vị Ngôn Sứ không thuộc đám dân con được chọn nhưng lời lẽ của vị ấy lại được Chúa chấp nhận.
Tin Mừng theo Thánh Máccô cũng nói đến lời lẽ tông đồ chiến đấu chống thần dữ xấu xa, đạt kết quả. Nhưng trên đường đến Caphanaum các ngài cứ tranh luận xem ai lớn ai nhỏ ở Nước Trời. Thời Chúa sống, cụm từ “bé nhỏ” là để chỉ kẻ nghèo hèn, túng bấn rất khó khăn. Ở đây nữa, Thánh Máccô vẫn mong đợi người đọc trở nên nhỏ bé khó nghèo. Với thánh nhân, trừ phi con người nên nhỏ bé khó nghèo, bằng không cũng chẳng được Chúa cứu độ. Nói như thế, Máccô không chỉ khuyên người đọc cứ ra tay bố thí kẻ nghèo đói thôi, nhưng còn khuyên răn mọi người hãy nguyện cầu nhiều cho họ.
Điều Máccô nhấn mạnh, chỉ là: mọi người hãy sống khiêm nhu, nghèo túng nhưng nghèo cách thanh tao, sảng khoái. Thánh nhân thừa biết rằng, trên thực tế, mọi người khó có thể sống thực điều đó nếu không sẵn sàng cho đi. Cho cả vào khi đã khó nghèo đến độ không còn gì để cho nữa. Tuy nhiên, trên thực tế, người đời thường chỉ muốn có và có thêm thôi. Ở đây nữa, Máccô tập trung nhấn mạnh vào nét đẹp của trẻ bé nhỏ dù bé em tuy đã nghèo và cũng hèn nhưng vẫn cho. Cho tất cả những gì mình có để người khác sống vui.
Điều này xem ra khá nghịch thường. Bởi một khi đã nghèo hèn tùng kém, ta không còn muốn cho đi, mà chỉ có thể gia nhập nhóm người nghèo yếu ấy mà thôi. Và khi đã nghèo rồi, ta không còn sở hữu thứ gì để cho đi hết. Lúc đó, cũng chẳng còn sợ một ai hay điều gì sẽ sở hữu chính mình. Khi đó, cũng chẳng còn lo sợ sẽ trở thành vật sở hữu hoặc khí cụ của một ai. Chẳng còn lo ngại người nào toan tính bóc lột mình thêm nữa. Điều này nghe chói tai, nhưng rất thật.
Nghèo là cảnh tình của người chẳng còn gì để cho những thứ mà người giàu chỉ muốn rút rỉa hoặc chiếm hữu. Thế nên người người gọi họ là trẻ bé, khó nghèo, rất túng bấn. Tệ hơn nữa, trẻ bé rất nghèo là người bị bỏ bê ở xó xỉnh, cô đơn, vò võ chẳng ai ỏ ê. Chẳng ai muốn quan hệ với, nếu có cũng lạnh nhạt. Tự thân người nghèo chẳng muốn quan hệ với người giàu sang phú quý nên vẫn nghèo. Càng nghèo hơn khi mọi người biết rõ cảnh tình của họ có khác nên làm ngơ. Đây là sự thể bất tương xứng giữa người giàu và kẻ nghèo hèn bé nhỏ.
Và đó còn là điều cho thấy trẻ bé/khó nghèo vẫn cống hiến/sẻ san với người bị coi là khùng điên luôn tìm cách tham gia giới nghèo để trở thành một trong những người như họ. Và đó là sự tồi tệ mà chẳng ai muốn kiếm tìm do hãi sợ. Sợ rơi vào tình cảnh chẳng ai ưa. Sợ vì chẳng ai muốn đến gần.
Tin Mừng hôm nay kể về Đấng Thánh Hiền vượt trội nỗi hãi sợ tương tự. Và Ngài dám tham gia giới trẻ bé cùng khổ từng bị người khác bỏ rơi, chê bai. Ngài là Đấng Thánh, con người bằng xương bằng thịt, dám thực hiện cuộc sống khó nghèo như trẻ bé vẫn chui rúc ở hang cùng ngõ hẻm ở đâu đó, chẳng ai đoái hoài, ỏ ê.
Trình thuật theo Thánh Máccô tô đậm sắc màu và ảnh hình về “trẻ bé” nhằm diễn tả ý tưởng về cảnh tình nghèo hèn, túng thiếu rất truân chuyên. Thánh nhân tả sự kiện Chúa chịu trở thành kẻ thấp hèn như thế là vì con người. Ngài dám choàng tay ôm kẻ bé bỏng nghèo hèn để nói cho người lớn biết họ phải trở thành người như thế mới có thể gia nhập Nước Trời. Trở nên bé nhỏ là biến đổi thành kẻ đói nghèo và bất xứng cả trong cung cách ăn nói, lẫn lề lối đối sự. Cái nghèo của “trẻ bé” tuy rất nghèo nhưng vẫn sáng như ban ngày, sáng lộ ra bên ngoài, nhưng nào ai biết đến.
Tin Mừng theo Thánh Máccô, chỉ cho xuất hiện duy nhất một nhân vật nhỏ bé vào hôm ấy. Bé nhỏ thế, mà chẳng có được người đi kèm để ngó ngàng hộ giúp hết mọi sự. Với Máccô, trẻ bé đây là kẻ vẫn khóc than kêu gào một tương tác cho đúng mức mà đời thường ít thấy xảy đến. Thường ở đời không dễ gì xảy ra tình huống rất như thế.
Lẽ thường ở đời, người người đều tỏ cho thấy mình phải tự cáng đáng đời mình. Tự lo cho mình mà chẳng cần đấng bậc ở trên cao ngó ngàng hộ giúp. Mọi người cứ phải tái tạo thế giới mới để sống chung. Bởi bên trong mỗi con người vẫn có lực đẩy xuất tự bên trong cho biết tất cả đều xứng hợp. Ở đời thường, người người phải dùng kính hiển vi mới thấy được thế giới mình sống sẽ là trường đời nhiễu nhương nhưng vẫn làm được điều mình muốn làm. Nếu làm chưa xong, chưa được lại sẽ làm mãi suốt cuộc đời. Luôn khởi động để có thể cải tân việc mình muốn ngõ hầu tạo tương lai tươi sáng ngay khi đó. Trở nên trẻ bé sẽ không thế, không như sự thể vốn là tình thế của cuộc đời.
Thời ấu thơ của trẻ bé, nghèo hèn tuy tương tác không xứng hợp với đời thường nhưng vẫn lệ thuộc vào nhau để giúp lẫn nhau, đó mới lạ. Trẻ bé, khó nghèo không tương tác với người ngoài nhóm, nhưng vẫn xả thân với người dám sống như mình. Trẻ bé, khó nghèo mọi mặt, là người biết rõ tên gọi của trò chơi ở đời. Tuy bé, nghèo, họ vẫn giúp người khác tiến tới. Vẫn phát triển kỹ năng san sẻ để trao cho nhau kinh nghiệm tạo tự do cần có, tự do thuộc về nhau, tự do sẻ san, giúp đỡ rất rõ.
Có một sẻ san, tương tác khác mà đám trẻ bé, khó nghèo vẫn biết đến là Chúa gần gũi họ. Ở giữa họ. Ngài là câu đáp trả xứng hợp với lời nguyện cầu của họ ở bất cứ đâu. Ngài ở với họ vì Ngài đã chọn cho Ngài lối sống tự do rất sẻ san. Ngài quyết như thế, là để ai không biết nguyện cầu vẫn có thể sống cuộc sống liên lỉ nguyện cầu. Cầu bằng cuộc sống bé bỏng, hèn kém của mình. Nguyện bằng sự hiệp thông với Đức Chúa cũng khó nghèo như mình. Ngài tỏ hiện nơi trẻ bé, khó nghèo qua động tác giúp đỡ nhau sống như Chúa dạy, cũng luôn nghèo.
Người đời nhìn sự việc, có thể vẫn chưa tin vào lối suy tư Thần Học, được như thế. Bởi Thần Học khó lòng giúp con người tin tưởng chỉ phân nửa việc Chúa dạy mình sống. Thế nên, mới có chuyện Chúa nhập thể làm người để trở nên nghèo kém, sống rất nghèo. Thế nên, mỗi khi người người quan tâm đến kẻ bé/nghèo, sẽ chẳng cần đến Thần Học nào khác ngoài việc quan tâm sờ chạm chính Chúa. Xem như thế, Chúa có nhập thể cũng chỉ để sống giữa họ và với họ. Ngài luôn yêu cầu đồ đệ sống như thế, mới xứng đáng làm dân con của Ngài.
Nhiều vị từng sống giống như thế. Và nhờ đó tất cả chúng ta mới được tặng ban chứng cứ hiển nhiên rằng: Thiên Chúa vẫn hiện diện nơi Đức Giêsu, Ngài chưa từng xa rời đường lối cũ Ngài chủ trương. Bởi Ngài vẫn sống giống trẻ bé, khó nghèo. Ngài là kẻ nghèo bằng xương bằng thịt mà người đời không biết đến. Dù người đời có gọi trẻ bé, khó nghèo, là kẻ sống lề đường xó chợ, nhưng thật sự họ là người tốt lành hơn ai hết dám nói lên điều Chúa muốn nói, muốn trở nên trẻ bé, khó nghèo, hãy nhìn vào cung cách Con Thiên Chúa đã sống và vẫn sống như lời Ngài khuyên dạy.
Về lại câu hỏi vẫn đặt ra, là: “Ta phải làm gì để có được cuộc sống đích thực, ở đây bây giờ ?” Có lẽ câu trả lời hay nhất, là: hãy quên đi chủ từ “tôi” hoặc “ta đây”. Bởi còn xưng hô như thế là còn giàu sang nên mới đặt câu hỏi tương tự. Thật sự thì câu hỏi đúng ra phải thế này: “Là trẻ bé, khó nghèo và bất tương xứng, làm sao ở với nhau cho phải phép hầu chung bước. Để rồi từ đó khám phá ra tương quan cần thiết để cho đi chính con người mình. Cho tương quan mật thiết giữa Cha và Con ở mọi thời ?
Đó là lời dẫn và đại ý của nền Thần Học Giáo Lý tóm gọn ở trình thuật theo Thánh Máccô, hôm nay.
Trong tâm tình cảm nghiệm điều này, ta cũng nên về với thi ca ở đời từng ngâm vang câu hát:
“Chiều xưa khúc nhạc nóng ran lên, Không có ai đi để lỗi thuyền. Nguồn thơ ứa mãi hai hàng lệ,” Tờ giấy hoa tiên cũng ướt mèm.” ( Hàn Mặc Tử – Buồn Ở Đây )
Nhạc buồn, nguồn thơ úa giấy hoa tiên, vần còn đó ghi nhớ Lời Chúa nói. Chúa vẫn nói và vẫn gọi mọi người hãy trở nên trẻ bé, rất khó nghèo. Bé, nghèo, theo nghĩa “ướt mèm hai hàng lệ” để tham gia nhóm người chung sống, ở đây, bây giờ.
(30) Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su không muốn có ai biết, (31) vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại”.(32) Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. (33) Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giê-su hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?” (34) Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. (35) Rồi Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. (36) Kế đó, Người đem một em nhỏ, đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: (37) “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay tóm trong 3 điểm chính như sau: Một là Đức Giê-su tiên báo lần thứ hai: TN 25-B97
Tin Mừng hôm nay tóm trong 3 điểm chính như sau: Một là Đức Giê-su tiên báo lần thứ hai về cuộc khổ nạn và phục sinh mà Người sắp trải qua, nhưng các môn đệ do sợ bị quở trách hay vì sợ đối diện sự thật không như ý, nên đã không dám hỏi Người. Hai là các ông tưởng Thầy sắp lên làm vua, nên tranh luận nhau xem ai sẽ nắm giữ chức vụ cao trọng hơn. Đức Giê-su đã dạy các ông bài học về sự khiêm nhường phục vụ của người môn đệ. Ba là Người đòi các ông phải quan tâm đến những người nghèo khổ bé nhỏ, tượng trưng bằng một đứa trẻ được Người đặt giữa các ông. Người còn tự đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ này.
3. CHÚ THÍCH:
- C 30-32:
+ Con Người: Nhấn mạnh về nhân tính của Đức Giê-su. Như người Tôi Trung của Đức Chúa, Đức Giê-su sẵn sàng chịu đau khổ để đền tội thay cho dân hầu làm cho các tội nhân được nên công chính (x. Is 53,2-12).
+Sẽ bị nộp vào tay người đời: “Rơi vào tay người đời” là một số phận hẩm hiu, trái ngược với “Rơi vào tay Đức Chúa” (2 Sm 24,14). Thánh Phao-lô viết: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32).
+Bị giết chết và sẽ sống lạ i: Người sẽ bị giết do tay người đời nhưng sẽ sống lại nhờ quyền năng Thiên Chúa (x. Cv 13,27-30).
+Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người: Vì chưa có ý niệm gì về mầu nhiệm thập giá nên các môn đệ cảm thấy rất buồn khi nghe Thầy loan báo điều này (x. Mt 17,23). Họ không dám hỏi lại có lẽ vì sợ bị quở trách như ông Phê-rô trước đó (x. Mc 8,33), mà cũng vì sợ phải đối diện với sự thật không như ý mình muốn !
- C 33-34:
+ “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy ?”: Đặt câu hỏi này với các môn đệ, Đức Giê-su cho thấy Người luôn quan sát từng lời nói và cử chỉ hành động của các ông để giáo huấn.
+ Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả: Qua thái độ làm thinh, các môn đệ đã nhận ra khuyết điểm của các ông là ham muốn địa vị quyền hành, trái với tinh thần khiêm nhượng phục vụ mà Đức Giê-su luôn nêu gương và chỉ dạy.
- C 35-37:
+ Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: Trong tư thế ngồi của một ông thầy (ráp-bi), Đức Giê-su gọi Nhóm Mười Hai môn đệ lại gần mà giáo huấn.
+ “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”: Đức Giê-su nhấn mạnh đến tinh thần khiêm tốn phục vụ mà môn đệ của Người phải có là tự hạ, trở thành người tôi tớ hầu hạ mọi người. Ở đây có sự đối nghịch giữa “người đứng đầu” với “người rốt hết”. Đối với Đức Giê-su, giá trị của người lãnh đạo phải dựa trên nền sự khiêm hạ, sẵn sàng phục vụ tha nhân vô điều kiện.
+ “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”: Em nhỏ trong câu này không tượng trưng cho sự ngây thơ vô tội, nhưng là biểu tượng cho người nghèo khó tầm thường, những kẻ vô danh tiểu tốt, tàn tật, yếu đuối và bị bỏ rơi...
+ “Là tiếp đón chính Thầy... tiếp đón Đấng đã sai Thầy”: Đức Giê-su đề cao sự khiêm nhường phục vụ những người nghèo, có giá trị thiêng liêng cao quý như hành động phục vụ Người và phục vụ chính Chúa Cha Đấng đã sai Người (x. Mt 10,40).
4. CÂU HỎI:
1) Khi tự xưng là Con Người, Đức Giê-su muốn nhấn mạnh điều gì ?
2) Đức Giê-su đã loan báo về sứ mệnh Thiên Sai như thế nào ?
3) Tại sao các môn đệ dù chưa hiểu rõ lại không dám hỏi Thầy về điều các ông vừa nghe ?
4) Dọc đường, các môn đệ tranh luận với nhau điều gì ? Tại sao các ông làm thinh không trả lời câu Thầy hỏi ?
5) Đức Giê-su đòi các mục tử trong Nước Trời phải có cách ăn ở thế nào ?
6) Khi đưa một em nhỏ đặt giữa các ông, Đức Giê-su muốn dạy bài học gì ?
7) Người dạy các ông phải khiêm nhường phục vụ những ai ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Rồi Đức Giê-su ngồi xuống gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35).
2. CÂU CHUYỆN: VỊ BÁC SĨ GIÁM ĐỐC BỆNH VIỆN ĐÁNH GIÀY
Cùng với cha và người em, bác sĩ SA-RI MÊ-Ô (Charies Mayo) đã xây dựng bệnh viện Mê-ô nổi tiếng tại thành phố Rô-sét-tơ (Rochester) Hoa kỳ.
Lần kia, một phái đoàn y khoa được cử đến thăm bệnh viện. Theo truyền thống của bệnh viện, quí khách sẽ để giày trước cửa phòng riêng của mình, và bệnh viện sẽ bố trí nhân viên đến đánh bóng các đôi giày ấy. Tối hôm đó, bác sĩ May-ô làm việc trễ và là người về phòng sau cùng. Ông thấy các đôi giày ở trước các phòng của khách vẫn chưa được nhân viên phụ trách đánh bóng ! Có thể họ đã quên là#m việc này chăng ? Ông liền đi kiếm xi và bản chải, rồi lần lượt đến trước mỗi phòng đánh bóng các đôi giày của khách. Khi nhân viên phụ trách đánh giày hôm đó làm nhiệm vụ lúc nửa đêm, anh rất ngạc nhiên khi thấy vị bác sĩ giám đốc bệnh viện vẫn đang loay hoay đánh những chiếc giày cuối cùng cho các khách quí.
Câu chuyện bác sĩ giám đốc đánh giày này đã trở thành huyền thoại ! Bác sĩ May-ô được ca tụng không những vì có tài chữa bệnh, vì những công trình y khoa to lớn đem lại nhiều lợi ích, mà còn vì đời sống khiêm nhường bình dị của ông. Ông không nề hà làm bất cứ việc gì phục vụ tha nhân, dù việc ấy không xứng với địa vị của ông.
3. SUY NIỆM:
1) Lãnh đạo là khiêm nhường phục vụ: Đức Giê-su đề cao nhân đức khiêm nhường của các nhà lãnh đạo Hội Thánh mà Người sắp thiết lập. Do các môn đệ tưởng Thầy sắp lên làm vua nên dọc đường đã tranh cãi nhau xem ai giữ chức vụ lớn hơn ! Đức Giê-su hiểu rõ tâm trạng của các ông, nên khi Thầy trò về đến nhà trọ tại thành Ca-phác-na-um, Người đã dạy các ông bài học về sự khiêm nhường phục vụ mà các ông phải thực hiện.
2) Thế nào là khiêm nhường thực sự ?: Dĩ nhiên, trong bất cứ tổ chức nào cũng cần có người lãnh đạo. Tuy nhiên trong xã hội đời thường, người lãnh đạo thường quan liêu, muốn được “ăn trên ngồi trước”. Còn lãnh đạo trong Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập thì không được như vậy. Họ phải trở nên mục tử tốt lành chăm sóc đòan chiên, phục vụ con chiên theo gương mẫu và lời dạy của Mục Tử tối cao là Đức Giê-su: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Trong Giáo Hội cũng như trong bất cứ một tập thể nào, lòng kiêu ngạo muốn làm đầu người khác, và lòng ganh tị không muốn thấy ai giỏi hơn hoặc thành công hơn mình… là những thói xấu cản trở cho việc nên thánh cần được loại bỏ.
3) Noi gương Đức Giê-su: Muốn lọai bỏ lòng kiêu ngạo và ganh tị, chúng ta cần học nơi Đức Giê-su đức khiêm nhường và phục vụ tha nhân (x Mt 11,29), “đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ” (Mc 10,45). Ai làm lớn thì càng phải khiêm tốn phục vụ người dưới. Thánh Phao-lô dạy phải noi gương khiêm nhường của Đức Giê-su: "Vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,5b-8). Tin mừng Gioan cũng cho thấy Đức Giê-su đã nêu gương rửa chân cho các môn đệ trước khi dạy các ông bài học khiêm nhường phục vụ anh em (Ga 13,12-15).
4) Ích lợi của đức khiêm nhường: Khiêm nhường giúp chúng ta luôn cố gắng học tập để ngày một thăng tiến. Cần khiêm tốn học tập bất kỳ ai, ở bất cứ nơi nào, vào bất cứ lúc nào. Chính đức khiêm nhường sẽ mang lại sức mạnh và tâm hồn được nghỉ ngơi bồi dưỡng (x Mt 11,29).
5) Cần phục vụ theo tinh thần Tin Mừng: Phục vụ theo lời Chúa dạy không phải chỉ đòi người dưới phục vụ người trên, nhưng đòi người lãnh đạo, đặc biệt là các mục tử phải chăm sóc phục vụ đòan chiên Hội Thánh (x Lc 22,26) như lời Chúa dạy: Ai làm đầu phải hầu thiên hạ và trở thành tôi tớ phục vụ mọi người (x Mc 10,44).
6) "Hãy đi và làm như vậy" (Lc 10,37): Để có đức khiêm nhường, chúng ta cần phải làm những việc như sau:
- Cần xin ơn Chúa giúp: Hãy năng dâng lời nguyện tắt xin Đức Giê-su đổ ơn Thánh Thần giúp ta khiêm hạ và chân thành phục vụ anh em, nhất là những người tàn tật bất hạnh và bị bỏ rơi.
- Cần xét mình mỗi ngày: Để thực tập khiêm nhường phục vụ, mỗi người chúng ta cần tập thành thói quen xét mình mỗi buổi tối trước khi nghỉ đêm: Hôm nay tôi có phục vụ cho ai kèm theo lời nguyện tắt hay không ? Tôi làm các việc tốt để làm cho Chúa vui hay làm vì tiếng khen nơi người đời (x Mt 6,1). Tôi có sẵn lòng làm những việc nhỏ bé và ít người muốn làm hay không (x Mt 6,2) ? Có sẵn sàng làm những việc phục vụ trong âm thầm không ai hay biết không (x Mt 6,3-4) ?
- Cần phục vụ với tình yêu thương: Những ai đứng đầu một cộng đòan không nên nại vào lý do mình phục vụ cho tập thể nên cũng muốn người khác phải biết ơn và phục vụ lại cho mình. Cần phải tránh thái độ quan liêu, độc đòan và vô trách nhiệm, nói chung là thiếu đức bác ái mục tử như những kẻ chăn thuê đã bị Đức Giê-su quở trách (x Ga 10,11-13)..
4. THẢO LUẬN:
1) Bạn sẽ phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khó bệnh tật cách nào để nên môn đệ đích thực của Đức Giê-su (x Ga 13,35)?
2) Là người đứng đầu một tập thể nhỏ là gia đình, đội nhóm, lớp học… và có chút quyền hành, chúng ta sẽ làm gì để noi gương Mục Tử Giê-su chăm sóc phục vụ đòan chiên, “đến cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA Giê-su. Xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa nơi những người đau khổ do đói cơm bánh vật chất cũng như thiếu bánh ăn tinh thần là Lời Chúa. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang bị bỏ rơi trong những người đau khổ, Xin cho chúng con biết mở rộng lòng để đón nhận tha nhân, mở rộng trái tim để cảm thông, mở rộng đôi tay để hết lòng phục vụ như phục vụ chính Chúa. Ước gì con luôn kết hiệp với Chúa phục vụ trong âm thầm nhỏ bé, để xứng đáng được Chúa ban ơn tha tội và hạnh phúc Nước Trời đời đời cho chúng con sau này.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 9:30-37)
Việc theo Chúa khởi đi từ cá nhân mình để đến với Chúa: phải từ bỏ chính con người mình để: TN 25-B98
Việc theo Chúa khởi đi từ cá nhân mình để đến với Chúa: phải từ bỏ chính con người mình để hoàn toàn được biến đổi theo mẫu gương của Chúa. Tuy nhiên theo Chúa không chỉ dừng lại ở mối tương quan riêng tư giữa chúng ta với Chúa, hơn thế nữa, người còn đòi hỏi chúng ta phải đến với người khác, tiếp nhận họ và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay trình bày giáo huấn được khai triển của Chúa Giê-su về một điều kiện khác chúng ta phải có nếu muốn theo Chúa, đó là bắt chước Chúa phục vụ mọi người.
Đây là lần thứ hai Chúa tiên báo cuộc Thương khó của Người, nhưng các môn đệ “đáp lại” bằng cuộc tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn cả trong nhóm họ! Thật là thất vọng, nhưng Chúa Giê-su vẫn kiên nhẫn dạy họ thêm một bài học nữa, bài học phục vụ. Chúa không dạy lý thuyết suông, nhưng bằng một hình ảnh đơn sơ và thật ý nghĩa. Người đặt một em nhỏ ở giữa các ông để bắt đầu bài học. Còn hơn cả phương pháp thính thị nữa chứ! Vậy em nhỏ biểu tượng cho điều gì? Nó chẳng là gì cả trước mặt loài người. Văn chương Hy-lạp xếp trẻ em vào trung tính, giống như một vật thôi. Kinh Thánh Cựu Ước cũng coi trẻ em như một cái gì tùy thuộc, có thể bị bán đi như bán nô lệ. Ý nghĩa và giá trị tầm thường của trẻ em là như thế, vậy mà Chúa Giê-su lại đặt trẻ em làm đối tượng cho việc tiếp đón, hơn thế nữa làm đối tượng để những người muốn theo Chúa phải phục vụ các em. Thực vậy, bình thường chúng ta chỉ phục vụ người trên mình, chứ ai lại phục vụ người dưới mình! Nhưng Chúa dạy môn đệ Người phải lấy việc phục vụ những kẻ hèn kém làm ưu tiên. Bằng chứng là chính Người đã cởi áo ngoài, bưng nước đi rửa chân cho các môn đệ trong Bữa Tiệc ly.
Chúa Giê-su đã dành cho việc phục vụ một giá trị rất cao siêu, bằng cách lấy chính bản thân Người và cả Chúa Cha nữa để bảo đảm rằng công việc phục vụ chúng ta làm vượt trên cả mức độ nhân bản để tiến tới mức độ thần linh. Vậy làm sao việc phục vụ của chúng ta có được giá trị thần linh? Đó là khi chúng ta làm công việc phục vụ “vì danh Thầy”. Đúng thế, khi chúng ta làm điều gì vì danh Chúa thì khi ấy không còn phải là chúng ta làm, nhưng là Chúa làm trong chúng ta. Hay nói theo cách của thánh Phao-lô, tôi sống/làm, nhưng không phải là tôi sống/làm, mà là Chúa Ki-tô sống/làm trong tôi! Cho nên bất cứ việc gì do chính Chúa làm qua chúng ta cũng mang một giá trị của Thiên Chúa, chứ không phải giá trị thuần túy loài người.
Chúa mời gọi chúng ta đi theo Người. Nhưng quan trọng hơn nữa là theo Người để làm gì? Dĩ nhiên theo Chúa không phải để được làm người lớn hơn hết như các môn đệ đã tranh cãi, nhưng là để phục vụ như Chúa đã phục vụ. Chúa cũng không đòi hỏi chúng ta phải làm những việc lớn lao mới gọi là phục vụ, trái lại chỉ là những công việc nhỏ nhặt, thí dụ như tiếp đón một em nhỏ. Hiệu quả của việc phục vụ không phải do công việc vĩ đại hay nhỏ mọn, nhưng là do “nhân danh Chúa” nhiều hay ít. Vì thế chúng ta hãy cố gắng tập nhận ra hình ảnh và sự hiện diện của Chúa trong anh chị em. Điều này giúp chúng ta dễ dàng phục vụ người khác. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta được coi là mẫu gương phục vụ khi mẹ nhìn thấy hình ảnh Chúa rất rõ nơi những người bệnh tật và nghèo đói.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Không biết tự bao giờ tước hiệu “Tôi tớ của những người tôi tớ” của Đức Giáo Hoàng đã xuất hiện trong lịch sử Giáo Hội. Nhưng quả thật đó là một tước hiệu ý nghĩa, nói lên lòng khiêm nhượng và tinh thần phục vụ của vị chủ chăn toàn Giáo Hội. Nhưng chắc chắn tước hiệu ấy phải nảy sinh từ nguyên tắc phục vụ mà Chúa Giê-su đã nói lên ngày hôm nay: Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải phục vụ mọi người. Lời này đòi chúng chúng ta phải xét lại lối sống của mình. Chúng ta vào Hội đồng mục vụ giáo xứ để mong làm chủ tịch hay để phục vụ? Tôi có sống kiểu chồng chúa vợ tôi trong gia đình không? Tôi có là một cha xứ hách dịch không? Tôi có tiếp đón và giúp đỡ người nghèo đói hay là khinh miệt họ? Tôi có tập ý thức sự hiện diện của Chúa trong người khác không?
Mc 9,30-37: 30 Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết, 31 vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.” 32 Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người. 33 Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Caphácnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” 34 Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả.35 Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” 36 Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói:37 “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.”
Từ Kaisarêa Philipphê (8:27), Chúa Giêsu từ miền bắc đi ngang qua Galilêa (9:30) để xuống: TN 25-B99.
Từ Kaisarêa Philipphê (8:27), Chúa Giêsu từ miền bắc đi ngang qua Galilêa (9:30) để xuống Capharnaum (9:33); rồi từ đó Người tiếp tục hành trình xuống miền nam vùng Giuđêa (10:1). Nằm trong văn mạch của phần 9:30-10:31 nói đến những điều Chúa Giêsu giáo huấn các môn đệ của Người, đoạn 9:30-37 bàn cách riêng về chuyện ai là người đứng đầu. Đoạn nầy có thể phân chia như sau: 1- Lời tiên báo lần thứ hai về định mệnh của Chúa Giêsu (9:30-32); 2 – Việc làm người đứng đầu: a/ Đề tài các môn đệ bàn cãi: Ai là người lớn nhất (9:33-34); b/ Phục vụ là con đường của người đứng đầu (9:35); c/ Mẫu gương phục vụ và ý nghĩa của nó (9:36-37).
So sánh với hai lời tiên báo kia về cuộc khổ nạn, lời tiên báo nầy có những điểm tương đồng: khung cảnh của nó là “trên đường” (8:27; x. 9:30.33; 10:32), như một giáo huấn Chúa Giêsu chỉ ngỏ điều nầy với các môn đệ (8:31; 9:31; 10:32) và sau lời nầy là phản ứng của các môn đệ: Phêrô phản đối tức thì (8:29; 9:32), các môn đệ tỏ ra không hiểu nhưng không ai dám hỏi Người (9:32), Giacôbê và Gioan xin một chỗ trong Nước sắp đến của Người (10:35-40). Điểm khác biệt là trong lời tiên báo lần thứ hai nầy cụm từ
“bị giao nộp vào bàn tay con người (số nhiều)” (9:31) như một yếu tố mới được đưa vào, được đặt cách tương ứng với “Người Con của Nhân Loại (số ít)” để nhấn mạnh trách nhiệm và tính bạo hành của hành động đó; trong khi lời tiên báo lần thứ nhất trình bày cách khách quan định mệnh mà Người sẽ phải hoàn thành và những tác nhân chính làm nên cuộc thương khó của Người (8:31); còn lời tiên báo cuối cùng thì nhấn mạnh cách riêng những người giữ vai trò chính và những hành động của họ trực tiếp trên Người (10:33-34).
Thành ngữ “Người Con của Nhân Loại bị giao nộp vào tay con người” được Chúa Giêsu lập lại ngay trước khi Người bị bắt; và bấy giờ, được thay thế bằng “vào tay những người tội lỗi” (14:41). Họ là những người chịu trách nhiệm trực tiếp việc giao nộp Người: Giuđa, một người trong nhóm Mười Hai (3:19; 14:10.11; x. 14:18.21.44), các thượng tế, luật sĩ, kỳ lão và cả Hội đồng Công nghị (10:33; 15:1). Lời chúc dữ dành cho họ là thà họ đừng sinh ra thì hơn (x. 14:21). Tiếp đến, động từ “bị giao nộp” được áp dụng cách riêng cho Chúa Giêsu, đồng thời cũng cho Gioan Tẩy Giả (1:14), và các môn đệ của Người (13:9.11.12) để nói lên một điều là thầy và môn đệ cùng chịu chung một số phận.
Trong phần thứ hai, các môn đệ bàn đến chuyện ai là người đứng đầu (9:34). Chúa Giêsu đưa ra quy luật: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (9:35). Điều nầy Người còn lập lại khi Giacôbê và Gioan muốn tìm những chỗ nhất trong vương quốc sắp đến của Người (10:43). Trong cả hai lần Người đều giải thích rõ phương cách sống quy luật ấy là phải làm “người phục vụ mọi người”. Từ “người phục vụ” (diakonos) trong Marcô chỉ người phục vụ bàn ăn (x. Mc 1:31; Lc 22:27); khác với người “đầy tớ” (doulos), thuộc hạng thấp nhất trong xã hội ngày xưa, thậm chí là nô lệ không có tự do và được xem như là tài sản của người khác. Họ làm đủ mọi chuyện. Người phục vụ bàn ăn thì không ăn chung với những người khác, nhưng chăm sóc đầy đủ cho thực khách; nghĩa là lo điều tốt nhất cho người khác.
Hành vi tiếp theo của Chúa Giêsu là đặt giữa nhóm Mười Hai một em nhỏ như là một dẫn chứng cụ thể về sự phục vụ, đang khi trong đầu họ chỉ nghĩ về chuyện làm lớn giữa nhau (9:36-37): “Ai tiếp đón nhận một trong những em nhỏ vì danh Thầy là tiếp nhận Thầy” (9:37). Bất cứ khi nào nói đến các em nhỏ (5:39-41; 7:30; 9:24; 10:13-15), Marcô đều cho thấy chúng cần đến vô số chăm sóc, lo lắng và phục vụ. Trước tình cảnh của các em, cha mẹ của chúng không thể nghĩ đến chuyện “làm lớn” của họ, mà trái lại sự sống còn của chúng; do đó, cần đến những phục vụ không biết mệt mỏi. “Tiếp đón” là mở cửa và mời người ta vào nhà mình, là cho người khác sự hiệp thông sự sống. Vậy, tiếp đón một trẻ nhỏ nghĩa là mở lòng đón nhận tất cả những ai cần đến sự giúp đỡ và hết tâm phục vụ người ấy, chỉ vì lo lắng cho sự tốt lành của họ. Hơn nữa, việc phục vụ nầy, chẳng hạn của cha mẹ lo cho em nhỏ, tự bản chất đã là tốt. Nhưng nếu làm nhân danh Chúa Giêsu, việc ấy sẽ nên hoàn hảo hơn trong cách làm và hiệu quả: phục vụ dành cho một người trong lúc cần thiết sẽ trở nên một việc làm cho chính Chúa Giêsu, và cũng cho chính Chúa Cha; bởi vì chính Ngưòi đã tự đồng hóa trong người khác (x. Mt 25:40).
Phục vụ là con đường tiến đến sự cao trọng. Muốn làm lớn đồng nghĩa với muốn phục vụ. Chúa Giêsu đã đi qua con đường nầy và cách phục vụ trọn hảo nhất của Người là chết đi để cứu sống nhiều người (10:45). Phục vụ chỉ có thể bắt đầu bằng sự khiêm tốn, vì phải khởi công từ vị trí rốt cùng.
Đề tài tin vào Chúa Ki-tô tiếp tục qua những bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Tại: TN 25-B100
Đề tài tin vào Chúa Ki-tô tiếp tục qua những bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Tại Xê-da-rê Phi-líp-phê, Chúa Giê-su đã cấm các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, vì các công chưa hoàn toàn hiểu rõ chân tính của Người. Tiếp tục lên đường đi Giê-ru-sa-lem, Chúa có cơ hội dạy cho các ông biết rõ về sứ mệnh của Người. Không những Người tỏ cho các ông biết về Người, mà còn chỉ cho các ông một lối sống phù hợp với sứ mệnh ấy để các ông áp dụng vào đời sống của chính mình. Những lời khuyên của thánh Gia-cô-bê Tông đồ sẽ là bài học thực hành nếu Ki-tô hữu muốn thực thi những điều Chúa Ki-tô dạy.
1. Sách Khôn ngoan mô tả người công chính, hình ảnh Chúa Ki-tô (bài đọc Cựu Ước – Khôn ngoan 2:12.17-20)
Đoạn sách Khôn ngoan nói về một người công chính sống giữa phường vô đạo luôn tìm mọi cách bách hại ông. Vậy chúng đã làm gì và người công chính chống đỡ ra sao?
Đối với phường vô đạo, người công chính trở thành chướng ngại vật cho chúng. Trước hết ông làm chúng vướng chân, những đôi chân chỉ quen đi theo nẻo đường của tội lỗi thế gian. Ông còn thẳng thắn “chống lại” những việc chúng làm, không ngại vạch ra những sai trái chúng đã thực hiện theo tư lợi chứ không phải để phục vụ tha nhân. Về đời sống luân lý và đức tin của chúng, ông can đảm tố cáo những vi phạm lề luật và những thực hành thờ phượng không đúng với tinh thần thờ phượng Thiên Chúa.
Ngược lại với cách hành động đầy thiện chí và xây dựng của người công chính, bọn vô đạo quyết tâm loại trừ ông bằng mọi giá. Chúng “gài bẫy” để làm tổn thương thanh danh của ông, tìm đủ cách bắt bẻ lời nói cũng như việc làm của ông và hằng mong mỏi đời ông sẽ kết thúc một cách bi thảm. Chúng còn thách thức Thiên Chúa bằng cách đối đầu với sự phù trợ Thiên Chúa dành cho người công chính. Kế hoạch của chúng là làm cho người công chính phải trăm điều nhục nhã trước khi giết chết ông. Chúng không tin rằng ông sẽ đủ nhẫn nhục và hiền hòa khi phải gặp khốn khó, rồi ông cũng rủa sả những kẻ hại ông và sẽ trách cả Thiên Chúa nữa. Nói tóm lại, chúng không muốn nhìn nhận ông là người công chính theo quan niệm của chúng.
Tất cả những điều sách Khôn ngoan nói về người công chính đều ứng nghiệm vào Chúa Ki-tô từng nét. Cuộc đời Chúa Giê-su từ lúc sinh ra cho đến khi tắt thở trên thập giá đầy tràn những bách hại. Dù còn là trẻ sơ sinh, Người đã phải trốn chạy cùng gia đình sang cư ngụ bên Ai-cập. Sau những năm sống ẩn dật tại Na-da-rét và khi lên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Người luôn phải đối phó với nhóm Pha-ri-sêu, thượng tế và kinh sư. Họ bắt bẻ lời Người giảng, rình mò soi xét việc Người làm, thậm chí việc chữa lành bệnh nhân ngày sa-bát cũng bị họ dò xét và họ tố cáo Người phạm luật. Những nhục nhã Người phải chịu trong cuộc Thương khó đúng y như sách Khôn ngoan đã tiên báo. Tuy nhiên, khác hẳn với những gì kẻ thù mong đợi, Chúa Giê-su vẫn hiền hòa giữ thái độ của con chiên bị đem đi sát tế mà không kêu la. Người vẫn một lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, mặc cho kẻ thù thách thức: “Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn!” (Mt 27:43). Cuối cùng, sau cái chết nhục nhã thập hình, Thiên Chúa “không bỏ rơi Người trong cõi chết”, nhưng đã “viếng thăm” và cho Người sống lại từ kẻ chết.
2. Chúa Giê-su tiên báo cuộc Thương khó của Con Người (bài Tin Mừng – Mác-cô 9:30-37)
Ngoài những tiên báo của ngôn sứ I-sai-a và một số sách Cựu Ước, Chúa Giê-su đích thân báo trước cho các môn đệ về cuộc Thương khó Người sẽ phải chịu ở Giê-ru-sa-lem. Theo cùng một khuôn mẫu, thánh sử Mác-cô kể lại ba lần Chúa Giê-su tiên báo cuộc Thương khó: trước hết là lời tiên báo, rồi đến phản ứng của môn đệ và cuối cùng là bài học Chúa Giê-su dạy các ông. Vậy trong lần thứ hai này, sau khi Chúa loan báo cuộc Thương khó, các môn đệ “trên đường đi đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9:34). Trước cảnh tranh giành ấy, Chúa dạy các ông bài học khiêm nhượng: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35).
Là người công chính như sách Khôn ngoan đã mô tả, điểm đặc biệt của Chúa Giê-su là lòng khiêm nhượng và tín thác nơi Thiên Chúa. Những đức tính này đã nổi bật trong cuộc Thương khó. Bị dẫn ra trước mặt những nhà lãnh đạo tôn giáo và chính quyền, lúc nào Chúa Giê-su cũng ôn tồn hòa nhã. Nếu cần bênh vực quyền lợi khi bị tên đầy tớ thượng tế đánh, Người cũng chỉ bình tĩnh nhắc nhở hắn không có quyền đánh người. Còn khi bị vu cáo, Chúa giữ thái độ im lặng, một sự im lặng đầy ý nghĩa và mời gọi những người vô đạo đức hãy xét lại công việc mình làm. Đặc biệt nhất là những lúc bị đánh đập, phỉ nhổ, làm trò cười và bị đóng đinh thập giá, ta không hề nghe Chúa Giê-su than trách một câu. Động lực nào đã giúp Người giữ được thái độ khiêm nhượng và vâng phục thi hành kế hoạch của Chúa Cha nếu không phải là tình yêu sẵn sàng thí mạng sống cho người mình yêu?
Tuy nhiên, trong câu truyện Tin Mừng hôm nay, có một chi tiết bắt ta phải suy nghĩ về sự nhẫn nhục và hiền hòa của Chúa Giê-su. Đó là khi về đến nhà, Chúa mới hỏi các môn đệ đã bàn tán gì dọc đường và Người mới dạy dỗ các ông. Vì tế nhị, vị Thầy yêu thương môn đệ đã đợi cho đến khi về nhà mới dạy dỗ môn đệ. Người không muốn làm mất mặt các ông ở ngoài đường. Hơn nữa bầu khí ấm cúng của mái nhà vẫn thuận lợi hơn cho việc cha mẹ dạy dỗ con cái. Rồi Người chậm rãi “ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói”. Từng cử chỉ, từng lời nói, tất cả đều biểu lộ một trái tim nhân hậu. Người dạy các ông bài học khiêm tốn phục vụ. Điều làm ta ngạc nhiên hơn nữa, đó là Người luôn lấy Chúa Cha làm trung tâm và cùng đích. “Ai tiếp đón một em nhỏ… là tiếp đón chính Thầy. Ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Người nhìn nhận chỗ đứng của Người, là “con đường” đưa người ta đến với Thiên Chúa Cha.
Chắc chắn câu truyện Tin Mừng này phải làm cho ta suy nghĩ, nhất là những người có trách nhiệm dạy bảo người khác, như giám mục, linh mục, các bậc cha mẹ… Họ hãy xét lại cách hành xử đối với giáo dân, đối với con cái, để thấy rằng có lẽ khư khư bảo vệ quyền bính đã khiến họ mất đi đức tính hiền hậu. “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Nguyên tắc giáo dục của Chúa Giê-su nằm trong khẳng định này.
3. Đức khôn ngoan Chúa ban dạy ta phải làm người như thế nào? (bài đọc Tân Ước – Gia-cô-bê 3:16-4:3)
Sách Khôn ngoan cho ta thấy cách hành xử của người công chính. Bài Tin Mừng nói về cách hành xử ấy thể hiện trọn vẹn nơi Chúa Giê-su. Còn thánh Gia-cô-bê dạy ta muốn sống theo đức khôn ngoan của Thiên Chúa thì ta phải trở nên mẫu người như thế nào. Ngài nêu lên một số đặc tính: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trước là trở nên thanh khiết, sau là hiếu hòa, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (Gc 3:17). Những đặc tính được kể ra đều là những đường nét khác nhau của dung mạo con người khiêm nhượng và hiền hậu. Mọi điểm liên kết với nhau, đã có đức tính này thì sẽ có đức tính kia, nhưng đều thuộc về một cách hành xử của người có lòng khiêm nhường hiền hậu. Nhìn vào cuộc sống của Chúa Ki-tô, thánh Gia-cô-bê đã nhận ra Chúa Ki-tô chính là “Đức Khôn ngoan Thiên Chúa ban cho ta” để làm cho ta được biến đổi, Chúa Ki-tô chính là “Người đã sống cuộc đời công chính để xây dựng hòa bình, hòa bình giữa nhân loại với Thiên Chúa và giữa con người với nhau”.
Thánh Gia-cô-bê giúp ta thoáng nhìn những hậu quả khủng khiếp khi ta không sống theo mẫu gương xây dựng hòa bình của Chúa Ki-tô. Đó là cảnh xung đột, gây chiến, chém giết, tất cả đều vì ích kỷ và lấy cái tôi làm tiêu chuẩn đo lường mọi sự. Tình huống đáng sợ này vẫn tiếp tục xảy ra ngay trong gia đình, cộng đoàn hoặc xã hội ta đang sống. Xung đột trong gia đình và cộng đoàn là điều quá quen thuộc. Nhưng có lẽ ít khi ta nhìn lên mẫu gương sống hiền hậu của Chúa Ki-tô để xét lại lối sống của ta. “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em?” Thánh Tông đồ hỏi thẳng từng Ki-tô hữu và mong đợi câu trả lời thành thực. Trả lời cho câu hỏi “bởi đâu”, ta cần phải bắt đầu từ chính mình trước. Ngài gợi ý giúp ta trả lời: Bởi chính những khoái lạc của ta? Bởi ham muốn mà không có? Bởi ganh ghét? Bởi tà ý khi cầu xin? Bởi lãng phí để hưởng lạc? Những câu hỏi này nằm sâu trong lòng ta và đòi ta phải can đảm đào bới chúng lên, phơi chúng ra trước ánh sáng chân lý Chúa Ki-tô, với lòng khiêm nhượng đích thực muốn nhìn nhận lỗi lầm và quyết sống theo Đức Khôn ngoan của Thiên Chúa.
4. Sống Lời Chúa
Các bài đọc hôm nay đề cao Chúa Giê-su như Đức Khôn ngoan Thiên Chúa ban cho ta để giúp ta sống sao cho xứng danh “con Thiên Chúa” và người công chính. Đức Khôn ngoan ấy không phải là mớ lý thuyết suông, nhưng là Đức Khôn ngoan nhập thể làm người sống giữa nhân loại để làm gương mẫu sống động. Những lời dạy và lối sống của Chúa Giê-su chắc chắn có quyền lực thay đổi ta, nếu ta thực sự khiêm nhượng để cho Người nắn đúc tâm hồn ta. Đáp lại lời mời gọi “Anh em hãy họ cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”, ta cố gắng trở nên người xây dựng hòa bình trong gia đình và bất cứ nơi nào ta sống, làm việc và phục vụ.
Suy nghĩ: Tôi sẽ trả lời thế nào theo những gợi ý mà thánh Gia-cô-bê đã nêu lên, để bắt đầu kiến tạo hòa bình và yêu thương nơi tôi đang sống?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã thu gọn toàn thể lề luật thánh vào giới răn độc nhất là mến Chúa yêu người; xin giúp chúng con hằng vâng giữ điều Chúa truyền dạy, để sau này đạt phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 25 mùa Thường niên).