Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 26 TN-C Bài 51-100 Ngườigiàu có và anh La-da-rô nghèokhó --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 16, 19-31: "Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: "Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các Thiên Thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: 'Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này'. Abraham nói lại: 'Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được'. Người đó lại nói: 'Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này'. Abraham đáp rằng: 'Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài'. Người đó thưa: 'Không đâu, lạy cha Abraham, nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải'. Nhưng Abraham bảo người ấy: 'Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu'". - Ðó là lời Chúa. -----------------------------
Chúng ta đang đồng hành với Chúa Giêsu và các môn đệ của Người trên đường tiến về Giêrusalem: TN 26-C51
Chúng ta đang đồng hành với Chúa Giêsu và các môn đệ của Người trên đường tiến về Giêrusalem- nơi Người sẽ tự hiến vì nhân loại. Bằng dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó”, Chúa Giêsu không những muốn gửi đến cho nhóm người Pharisêu vốn ham thích tiền bạc, xem tiền của, giàu sang như là dấu hiệu được Giavê chúc phúc, mà còn là lời cảnh tỉnh cho hết những ai luôn coi trọng tiền bạc hơn anh em đồng loại. Dụ ngôn rất riêng của thánh sử Luca không chỉ hay về cốt chuyện, lối hành văn mà còn là một trong những dụ ngôn ngời sáng về đạo lý.
Mở đầu dụ ngôn, chúng ta thấy hai con người với hai hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược xuất hiện. Một bên đại diện cho phú quý giàu sang, ngày ngày yến tiệc đàn ca, còn bên kia là nghèo khổ, bệnh hoạn, dơ dáy bẩn thỉu. Một bên là thế giới của “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình” và một bên là thế giới bệnh hoạn nghèo túng đến thảm thương, thế giới của “mụn nhọt ghẻ lở đầy mình” và là thế giới của những ước ao rất ư bình dị đáng thương “thèm được những thứ trên bàn ăn rơi xuống ăn cho no”. Cả hai thế giới ấy đều được khép lại với cánh cửa là sự chết, nhưng cũng đồng thời mở ra một thế giới mới với hai số phận, hai cảnh đời cũng hoàn toàn trái ngược.
Đàng sau cánh cửa sự chết là gì? Thánh sử Luca phác hoạ cho chúng ta thấy rõ ràng viễn cảnh ấy. Ở bên kia thế giới, ông nhà giàu chịu muôn cực hình, còn anh Ladarô thì vui vẻ hân hoan ngồi trong vòng tay âu yếm của tổ phụ Apraham. Ông nhà giàu một đời sung túc, ăn trên ngồi trước, được kẻ hầu người hạ thì nay lại ao ước được Ladarô thi ân dù chỉ một giọt nước lã để làm mát lòng trong lúc khổ đau. Ladarô - con người của khó nghèo, bệnh hoạn, bị người đời bạc đãi, khinh khi thì nay được hưởng phúc vinh hoa. Điều gì dẫn đến tình cảnh trái ngược này? Suốt trình thuật dụ ngôn, chúng ta không hề thấy anh chàng đáng thương Ladarô là người nhân đức.
Chúng ta chỉ biết con người của anh qua ý nghĩa của tên gọi, Ladarô có nghĩa là Giavê thương cứu giúp. Như thế, xét cho cùng, anh chỉ có thể là một người nghèo, đáng thương hơn là một con người của hiền lành, đạo đức đáng được hưởng phúc nước trời; Cũng không chỗ nào trong dụ ngôn nói đến ông nhà giàu là một tay gian ác, dùng mọi thủ đoạn thu tích của cải cách bất chính hay bóc lột sức lao động, lợi dụng chức quyền, ngược đãi dân đen,… Là người giàu có, hẳn không ai cấm ông trong cách ăn mặc sang trọng hay yến tiệc linh đình. Xét cho cùng, ông chả có tội tình gì ghê gớm để phải chịu hình phạt đoạ đày. Ông hưởng thụ thật đấy nhưng cũng chỉ hưởng thụ từ những của cải do ông làm ra chứ có phải do tham nhũng hối lộ gì đâu.
Vậy thì do đâu? Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy hình ảnh của một kẻ nghèo khổ, bệnh hoạn, dơ dáy bẩn thỉu đang nằm trước cổng nhà phú hộ. Anh không dám mở lời van xin mà chỉ ước ao có được những mảnh vụn bánh từ bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống mà thôi. Cũng từ hình ảnh này, chúng ta mới hiểu rằng tại sao viên phú hộ trong dụ ngôn lại có kết cục bi thương như vậy. Hoá ra, tội của ông không phải do giàu sang, hưởng thụ, ăn mặc sa hoa,… mà chính ở chỗ ông đã không nhìn ra, hay đúng hơn, không để ý đến người đang nằm trước cổng nhà mình. Ông là một con người vị kỷ chứ không vị tha. Chính vì thế, ông đã trở nên một con người quá ư hờ hững để rồi anh chàng tội nghiệp Ladarô đành phải chết trong đói khát bên bàn tiệc quá ư dư thừa của ông. Tội của ông nằm ở chỗ hờ hững, lạnh nhạt với đồng loại và chính điều này đã tố cáo và dẫn ông đến cuộc sống trầm luân, bị đoạ đày khổ sở.
Thế giới hôm nay vẫn còn đó những Ladarô đói nghèo, bệnh hoạn và tật nguyền. Trên các phương tiện truyền thông, chúng ta chứng kiến không ít những hình ảnh đáng thương ấy. Vấn đề ở chỗ chúng ta có nhìn thấy những con người khốn khổ ấy để ra tay cứu giúp hay chúng ta vẫn lạnh nhạt đến hững hờ như nhà phú hộ trong Tin mừng hôm nay. Người quản gia trong Tin mừng được xem là bất lương mà còn biết làm bạn với những Ladarô nghèo khổ để họ đón anh vào nơi ở vĩnh cửu, còn chúng ta thì sao…?
Ong Amốt khiển trách và cảnh cáo nhũng người cầm quyền Ít-ra-en thời bấy giờ chỉ biết hưởng thụ phè: TN 26-C52
Ong Amốt khiển trách và cảnh cáo nhũng người cầm quyền Ít-ra-en thời bấy giờ chỉ biết hưởng thụ phè phỡn mà không biết cảm thông với nỗi khổ của dân chúng. Họ sẽ bị phạt lưu đày để đền tội của họ.
BÀI ĐỌC 2: 1 Tm 6, 11-16
Thánh Phaolô khuyên ông Timôthê hãy tránh xa những cạm bẫy vật chất. Hãy gắng trở nên người công chính, dạo đức, giàu lòng tin, lòng mến, nhẫn nại và hiền hoà để đạt được sự sống đời đời. Thực vậy, cuộc sống mai hậu mới chính là cùng đích của cuộc đời ta. Nói đến đây ta không thể không nhớ lại lời tuyên xưng của Chúa Giêsu trước mặt quan tổng trấn Philatô:" Nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18, 36).
BÀI TIN MỪNG: Lc 16,19-31: Dụ ngôn ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó.
Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham. Ong giàu cũng chết va người ta đem chôn.
Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở tận đàng xa, và thấy ông Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên:" Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !" Ong Apraham đáp:" Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn nhũng bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con cũng đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.
Ông nhà giàu nói:" Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ cũng lại sa vào chốn cực hình này ! Ong Apraham đáp: " Chúng đã có Ong Môsê và các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó". Ong nhà giàu nói:" Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối". Ong Ápraham đáp:" Ong Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu".
NGẪM:
Câu hỏi gợi ý:
1. Lời Chúa, qua ba bài đọc, muốn nhắn nhủ ta điều gì?
2. Quan niệm đúng về kẻ giàu người nghèo ?
3. Sự chia sẻ.
Suy tư gợi ý:
1. Chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa: Hạnh phúc vĩnh cữu.
Qua ba bài đọc, Giáo Hội muốn ta ý thức lại cùng đích tối hậu của đời ta là CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG, là HẠNH PHÚC VIÊN MÃN. Trong bài đọc 1, Ngôn Sứ Amốt đã ghê tỡm những thú vui trần tục. Ong đã cảnh cáo các vua chúa nếu cứ tiếp tục hưởng thụ một lối sống sa đoạ, sẽ có ngày đền tội bằng một cuộc đời lưu đày vất vả. Bài dọc 2, Thánh Phaolô khuyên đồ đệ thân tín của mình hãy can đảm sống công chính cho đến ngày Đức Giêsu quang lâm. Ngày đó, những kẻ tín trung sẽ được chiêm ngắm dung nhan của vị Chúa Tể Càn Khôn, Người đã sai Đức Giêsu, Con Một của Người đến trần gian dể cứu độ chúng sinh. Hạnh phúc được chiêm ngắm Ngài sẽ là viên mãn và vĩnh cữu. Bài đọc 3, sự tương phản giữa hai cuộc sống đưa đến sự tương phản giữa hai hạnh phúc: Hạnh phúc tương đối và hạnh phúc tuyệt đối. Ở cuộc sống chóng qua này, người nhà giàu xem ra rất hạnh phúc, ăn sung mặc sướng. Trong khi đó, Ladarô nghèo đói khổ cực, bệnh tật ghẻ chốc, bị khinh rẻ. Nhưng tất cả đều qua đi nhanh chóng vì ai cũng phải chết. Sau khi chết, cuộc sống vĩnh hằng bắt đầu, hạnh phúc hay đau khổ vĩnh viễn. Ong nhà giàu đã sa vào chốn cực hình. Người nghèo khó đã ung dung hạnh phúc trong lòng Apraham. Như vậy, Lời Chúa khuyên chúng ta hãy can đảm lội ngược dòng đời, hãy từ bỏ những sự phù phiếm thế gian để chiếm lĩnh phần phúc trên trời. Nhưng thế nào là phù phiếm thế gian ? Có phải hễ cứ giàu có thì sở đắc nhiều phù phiếm thế gian chăng?
2. Quan niệm đúng về kẻ giàu người nghèo.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Ta thấy người giàu có đã sa vào âm phủ đời dời kiếp kiếp với những cực hình không thể tả nỗi. Một giọt nước đở khát cũng không được. Rồi ta lại liên hệ đến câu nói của Chúa Giêsu:" Người giàu có vào nước Thiên Đàng còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim". Hoá ra sự giàu có là một trọng tội? Sự nghèo khổ là cơ duyên cho một hạnh phúc vĩnh cữu? Vậy tại sao ai trong chúng ta cũng đều muốn trở nên giàu có? Nếu chúng ta không có quan niệm đúng về kẻ giàu người nghèo, chắc chắn chính chúng ta sẽ tự mâu thuẫu với chúng ta. Chúng ta thường tự hào khi đứng về phía người nghèo để đấu tranh cho họ. Không lẽ chúng ta đấu tranh cho họ để họ nghèo thêm? Mà nếu đấu tranh cho họ khá hơn thì tức là ta đã làm cho họ xấu hơn. Chương trình xoá đói giảm nghèo phỏng có ích gì? Và phải chăng ông Dale Carnegie đã sai lầm khi cho rằng một trong những điều kiện làm ta vui sống chính là ta phải thoát khỏi tình trạng túng quẫn thiếu nợ. Thực ra, nếu trong xã hội có nhiều người giàu thì càng tốt chứ sao. Vì như thế, người nghèo mới hy vọng có nơi để mượn tiền khi túng quẫn. Ai cũng thiếu ăn thì ai có thể giúp ai được.
Như vậy, kẻ giàu, theo Tin Mừng, tức là người xem của cải trần gian này là mục đích tối hậu, nếu không nói sự giàu sang phú quí chính là thần tượng mà họ tôn thờ, là Chúa của lòng họ. Cái phao cuối cùng của họ là vật chất. Họ bám víu vào nó. Họ chiếm hữu nó bằng mọi giá. Hậu quả là họ tự phụ khi họ giàu. Họ mặc cảm khi họ làm ăn thua lỗ. Họ ganh tị khi thấy người khác kinh tế khá hơn mình. Tôi còn nhớ, cách đây không bao lâu, Báo Công an Thành phố HCM có đăng tin. Chỉ vì ganh ghét người bạn đồng nghiệp ngư phủ của mình làm ăn phát đạt mà kẻ sát nhân đã mất hết tính người, trói cả gia đình người bạn quẳng xuống sông, nhận chìm luôn chiếc ghe của họ. Rất tiếc, kẻ sát nhân đó là một người "có đạo".
Còn kẻ nghèo, theo Tin Mừng, là người xem đồng tiền như một đầy tớ hữu dụng, biết dùng nó để mua những giá trị đời đời. Kẻ nghèo không bao giờ coi thường vật chất, cũng không tôn sùng nó như vị chúa tể của lòng mình. Họ biết đặt nó đúng vị trí. Do vậy, trong thực tế, có thể người giàu có trước mặt thế gian lại là người nghèo khó trước mặt Thiên Chúa. Và ngược lại. Đến đây, chúng ta có thể trở về với vấn nạn: Ta phải làm gì để đạt hạnh phúc đời đời?
3. Chia sẻ
Muốn đạt hạnh phúc đời đời ta phải trở nên nghèo khó. Nghĩa là ta không dính bén của cải trần gian này. Ta có lắm của nhiều tiền là một việc tốt. Ta biết dùng nó để tạo cuộc sống ấm no cho bản thân gia đình và xã hội, một điều kiện cần thiết dể thực thi lòng mến Chúa yêu người. Ngoài ra, ta cũng biết chia sẻ với người anh em đang thiếu thốn như là một trách nhiệm phải làm chứ không như là một việc thi ân giáng phúc. Dĩ nhiên sự chia sẻ đó phải phát xuất từ thiện tâm của ta là giúp người anh em tiến gần Chúa hơn (hiểu theo nghĩa rộng là Chân Thiện Mỹ).
NGUYỆN:
Lạy Chúa, là Khôi Bình viên, hơn ai hết con phải biết chia LỜI và sẻ BÁNH cho anh em con. Xin Chúa cho con có đủ quảng đại để biết chia mà không tính toán hơn thiệt. Xin cho con không những chỉ chia những cái dư thừa, nhưng ngay cả cái con đang cần, để con ngày nên giống Chúa Giêsu trần trụi trên thập giá hơn. Amen.
Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xi-on, và sống an nhiên tự tại trên núi Sa-ma-ri, (6) Chúng uống: TN 26-C53
· Am 6,1a. 4-7: (1) Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xi-on, và sống an nhiên tự tại trên núi Sa-ma-ri, (6) Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giu-se sụp đổ ! (7) Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn !
· 1 Tm 6,11-16: (14) Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện.
· TIN MỪNG: Lc 16,19-31
Dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó
[Khi ấy, Đức Giê-su nói với bọn kinh sư dụ ngôn này:] (19) «Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. (20) Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, (21) thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. (22) Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
(23) «Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. (24) Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” (25) Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. (26) Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được”.
(27) «Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, (28) vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” (29) Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. (30) Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”. (31) Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin».
Suy niệm
Câu hỏi gợi ý:
1. Người giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay có phạm một tội ác nào không? Ông phải chịu hình phạt nơi âm phủ vì lý do gì? Đó có phải là một tội không?
2. Làm ngơ hay lãnh đạm trước những đau khổ, cùng quẫn, cảnh áp bức mà người thân mình đang phải gánh chịu một cách bất công mà không ra tay can thiệp khi có thể, có phải là tội lỗi không? Đó có phải là thiếu tình yêu? Và như thế, có thể vào được Nước Trời là nơi chỉ dành cho những người biết yêu thương thật sự không?
Suy tư gợi ý:
1. Chúng ta chỉ là những người quản lý những gì chúng ta có
Tất cả những gì chúng ta đang có trong tay, dù là vật chất hay tinh thần (đức độ, tài năng, chức quyền, địa vị, hay của cải, tiền bạc, v.v…) cũng đều do Thiên Chúa ban. Ngài muốn chúng ta tạm thời quản lý để làm những việc ích lợi cho Thiên Chúa và tha nhân, tức làm lợi cho Nước Trời. Chúng không phải là của ta, vì nếu chúng thật sự là của ta, thì chúng cũng phải theo ta về đời sau. Nhưng trong thực tế, khi lìa cuộc đời, ta phải để lại tất cả cho người khác. Do đó, xét cho cùng, chúng ta chỉ là những người quản lý tạm thời những gì chúng ta đang có, và phải sử dụng chúng theo ý muốn của người chủ đích thực của chúng là Thiên Chúa. Và chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về cách chúng ta quản lý chúng. Người quản lý nào không sử dụng của cải tiền bạc của chủ đúng theo ý chủ, nghĩa là không làm lợi cho chủ mà chỉ làm lợi cho mình, sẽ bị đuổi việc hoặc phải chịu trách nhiệm về cách quản lý sai trái ấy.
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người phú hộ bị hình phạt dưới âm phủ, chịu lửa thiêu đốt và khát cháy cổ, không phải vì phạm một tội ác nào, mà chỉ vì sử dụng của cải Thiên Chúa ban để ích lợi cho một mình mình. Ông ta «mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình», bỏ mặc người nghèo ở ngay trước cổng nhà mình «sống chết mặc bay!», phải chịu «mụn nhọt đầy mình», «mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta», «thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no» mà không hẳn được ai cho. Người phú hộ ấy – cũng như biết bao người giàu có khác – nghĩ rằng những gì mình đang có trong tay là của mình, mình muốn sử dụng hay hưởng thụ thế nào, cho ai hay không cho ai là tùy ý mình. Ông ta nghĩ rằng ông hoàn toàn vô tội khi không làm thiệt hại gì ai. Đối với những người nghèo khổ đến với ông, ông nghĩ ông có quyền không cho, và làm như thế ông không có lỗi gì với họ cả: ông có làm gì khiến họ bị thiệt hại đâu!
Nhưng việc ông phải chịu phạt dưới âm phủ chứng tỏ cách suy nghĩ như thế là hoàn toàn sai lầm. Tuy dù ông không có hành động tích cực hay cụ thể nào gây bất công cho ai, nhưng việc chỉ dùng của cải Thiên Chúa ban để hưởng thụ một mình mình, hay một mình gia đình mình, đồng thời làm ngơ hoặc không đếm xỉa gì đến những đau khổ của những người nghèo túng, bị áp bức chung quanh mình, thì ông đã phạm một tội rất nặng rồi. Vì tiền bạc của cải ông có, thật ra đâu phải là của ông khiến ông có toàn quyền sử dụng theo ý mình. Ông chỉ là người quản lý, và ông phải quản lý làm sao để chứng tỏ ông có tình thương, để làm lợi cho Nước Trời, là thứ xã hội lý tưởng trong đó mọi người luôn yêu thương nhau. Có thế ông mới xứng đáng được hưởng hạnh phúc trong Nước Trời, vốn chỉ dành cho những con người có tình yêu thương thật sự. Theo bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), rất nhiều người chẳng phạm một tội ác nào tích cực, thế mà chẳng thể vào được Nước Trời chỉ vì, như Chúa nói, «xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng» (Mt 25,42-43).
2. Của cải vật chất trên nguyên tắc là để mọi người hưởng dùng
Thiên Chúa tạo dựng nên của cải vật chất trên thế gian là cho tất cả mọi người hưởng dùng. Nhưng vì các cơ chế xã hội còn bất toàn, nên sự phân phối của cải chưa hợp lý, khiến cho xã hội còn nhiều bất công: «kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra». Do đó, để sửa chữa hay giảm bớt bất công trong xã hội, những ai được cơ chế xã hội ưu đãi khiến mình giàu có hơn người, dù là giàu có một cách rất hợp pháp, phải biết chia sẻ cho những người nghèo khổ hơn mình, nhất là những người gặp cảnh cùng quẫn. Đó là nghĩa vụ mà lương tâm tự nhiên của con người đòi hỏi, không cần phải nại đến luân lý Ki-tô giáo. Cổ nhân ta có những câu như «Lá lành đùm lá rách», «Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn», «Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng». Việc xây dựng một xã hội công bằng, trong đó của cải được phân chia hợp lý, hay việc chống bất công, cũng là nghĩa vụ của mọi người, nhất là những người được Thiên Chúa ban cho nhiều khả năng làm việc ấy một cách hữu hiệu (những người có tài năng, chức quyền, có địa vị trong xã hội và Giáo Hội…)
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa công bằng và yêu thương, Ngài đã cho Con Một Ngài xuống thế để loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời và khởi đầu xây dựng nước ấy, trước hết tại trần gian, và sau đó là trên trời. Nước Trời là một xã hội hay Giáo Hội lý tưởng, trong đó mọi người đều đối xử với nhau không chỉ hợp với lẽ công bằng, mà còn phải đầy tình yêu thương nữa. Những người ích kỷ, chỉ biết hạnh phúc một mình, đầy đủ một mình, những người chủ trương ai chết mặc ai, ai khổ mặc ai, không thể là đối tượng của Nước Trời. Vì thế, những người theo Ngài, tức các Ki-tô hữu, có nhiệm vụ tiếp nối công việc của Ngài là làm chứng và xây dựng cho Nước Trời. Làm chứng là chính mình sống đúng tinh thần công bằng và yêu thương của Nước Trời ngay trong chính môi trường mình đang sống. Xây dựng là làm sao để trong môi trường mình sống ngày càng có nhiều người sống tinh thần ấy. Thiết tưởng mọi Ki-tô hữu cần ý thức và quan tâm tới chiều kích xã hội và giáo hội này.
3. Những người giàu có, hạnh phúc, cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ với người nghèo túng, đau khổ
Qua bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Thiên Chúa không chấp nhận cho vào Nước Trời những người sống ích kỷ, không biết yêu thương, những người lãnh đạm hoặc làm ngơ trước những đau khổ, thế cùng quẫn, tình trạng bị áp bức, bóc lột mà những người chung quanh ta đang phải gánh chịu một cách bất công. Vì thế, một cách cụ thể, chúng ta cần biết chia sẻ, giúp đỡ họ, và phải làm một cái gì đó khi có thể. Nếu chúng ta có tình yêu đích thực, tình yêu ấy ắt sẽ khiến chúng ta bức xúc và không thể im lặng hay bất động trước những đau khổ người khác đang phải chịu trước mắt mình. Tình yêu đích thực không cho phép chúng ta hành động như anh nhà giàu trong bài Tin Mừng hôm nay, an tâm «mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình» trong ngôi nhà khang trang đầy tiện nghi, không thèm đếm xỉa đến nỗi cùng quẫn của những «La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, thèm được những thứ trên bàn ăn rớt xuống mà ăn cho no» đang nằm trước cổng nhà mình. Tình yêu đích thực không cho phép chúng ta khoanh tay ngồi nhìn những kẻ ác tự do gây bất công cho những kẻ thế cô, khi mà chúng ta có thể dùng tài năng hay địa vị của chúng ta để can thiệp.
Chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về những gì Thiên Chúa ban mà chúng ta lại không sử dụng để làm lợi cho Ngài và tha nhân. Dụ ngôn về nén bạc cho chúng ta biết điều ấy (xem Mt 25,14-30; Lc 19,12-27): Kẻ nào đem chôn nén bạc Chúa trao, dù chỉ là một nén, mà không sinh lợi ích cho Ngài, thì sẽ Ngài bị kết án: «Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 25,30). Do đó, chúng ta không thể tự hào mình vô tội chỉ vì mình không hề làm điều gì bất công. Coi chừng chúng ta là kẻ tội lỗi đáng kết án chỉ vì đã không làm những gì lương tâm và tình yêu thương đòi buộc phải làm, dù bởi lười biếng hay hèn nhát…
Cầu nguyện
Lạy Cha, con cảm thấy mình chưa đủ tình thương đối với Cha cũng như với đồng loại, vì con chưa dám hy sinh một chút danh tiếng, một chút thì giờ, một chút của cải, hay chấp nhận một chút đau khổ, nhục nhã, khó nhọc để làm cho những người thân đang đau khổ chung quanh con bớt đau khổ. Con vẫn chỉ nghĩ tới sự an toàn và hạnh phúc của riêng con, coi sự an toàn và hạnh phúc của con hơn tất cả. Xin ban cho con có nhiều tình yêu hơn, vì có đủ tình yêu, con sẽ làm được tất cả những gì Chúa muốn, những gì lương tâm và tình yêu đòi buộc. Amen.
Một người vợ trẻ Công Giáo làm việc trong một xưởng máy ở Detroit để phụ thêm mức sinh hoạt: TN 26-C54
Một người vợ trẻ Công Giáo làm việc trong một xưởng máy ở Detroit để phụ thêm mức sinh hoạt gia đình. Cùng làm trong một phân xưởng, một người thanh niên không công giáo thường hỏi nàng nhiều câu hỏi về Giáo Hội. Một sáng chúa nhật, người bạn trẻ của chúng ta dành thời giờ để đưa người thanh niên cùng với cô bạn gái của anh đi dự lễ. Chị cắt nghĩa cho họ những gì chưng dọn trên bàn thờ, những bức tranh trên tường… Hai người bạn rất vui mừng được nếm thử một chút gì thiêng liêng và họ xin học hỏi thêm về đạo.
Bài Tin mừng hôm nay nói về người phú hộ từ chối chia sẻ bữa ăn cho Lazarô nghèo khó! Thừơng chúng ta rút ra bài học này: Những người giầu có phải chia sẻ cho những người túng thiếu. Tôi múôn rút ra bài học: Những người Công Giáo được dồi dào ơn huệ thiêng liêng, phải chia sớt cho hàng triệu người xung quanh chúng ta đang đói khát sự thiêng liêng.
Chúng ta có Bảy bí tích ban ơn Chúa cho chúng ta trong mỗi chặng đường của cuộc sống. Trong khi đó những Giáo Hội khác chỉ giữa lại có bí tích rửa tội và hầu như không bao giờ Rước Mình Thánh Chúa. Còn chúng ta, những người công giáo, chúng ta có thể tới bàn tiệc Thiên Chúa mỗi ngày. Có hàng triệu người đói Chúa. Cái đói đó còn đau đớn hơn là đói cơm, đói bánh.
Chúng ta có lời Chúa là Kinh Thánh, được đọc hàng ngày trong thánh lễ, chúng ta có những bài học lịch sử rút từ sự phong phú của Kinh Thánh qua các chú giải của sách báo Công Giáo, xung quanh chúng ta có những bạn sinh viên, bạn đồng nghiệp, người lối xóm, bạn bè… họ biết ít hoặc không biết gì về những điều Chúa nói với chúng ta trong Kinh Thánh.
Chúng ta có nghi thức phụng tự phong phú: lễ đêm Giáng Sinh vui tưoi. Nghi thức Tuần Thánh cảm động. Lễ cưới trang trọng. Nghi thức an táng đầy an ủi. Tháng ba đầy hân hoan mừng kính thánh Cả Giuse. Tháng Năm và tháng mười êm đềm sùng kính Đức Mẹ. Tháng mười một đầy hy vọng tưởng nhớ đến các đẳng linh hồn. Bầu khi thiêng liêng Thần Thánh buổi các em nhỏ Rước lễ lần đầu..
Trong một năm phụng vụ, chúng ta nhắc nhớ, chúng ta làm sống lại những biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Kitô với những bài đọc kinh thánh thích hợp, lời nguyện tha thiết, những bản thánh ca cảm động, những nghi lễ hấp dẫn, đó là gia sản thiêng liêng – và còn hơn nữa – chúng ta phải chia sẻ cho những người đương đói khát thiêng liêng. Người Lazarô nghèo khó thiêng liêng đang nằm ở cổng nhà chúng ta. Hãy mời họ vô tham dự những hồng ân thiêng liêng với chúng ta. Trong kinh nguyện thánh thể IV, chúng ta cầu xin cùng Thiên Chúa: “Xin Chúa nhớ đến những người dâng lễ, những người hiện diện quanh đây và toàn thể dân Chúa cùng mọi người đang thành tâm tìm Chúa”. Có nhiều người đang tìm Chúa “với lòng chân thành”. Hãy cầu nguyện cho họ. Hãy nói với họ về những phúc lành này. Hãy mời họ chia sẻ với bạn.
Thiên Chúa muốn mọi người chia sẻ sự phong phú của tôn giáo chúng ta. Hãy xin Chúa giúp bạn đem đến cho mọi người những gì Chúa đã ban cho bạn.
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giê-su giới thiệu ngay hai nhân vật đối nghịch nhau rõ nét về tính: TN 26-C55
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giê-su giới thiệu ngay hai nhân vật đối nghịch nhau rõ nét về tính cách qua sinh hoạt thường ngày của họ: Ông nhà giàu mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn người nghèo khổ La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no để độ thân qua ngày, và may mắn được làm bạn với mấy con chó, chúng đến liếm ghẻ chốc cho anh ta.
Ông nhà giàu và La-da-rô nghèo khó ngày ngày vẫn nhìn thấy nhau vì người nghèo nằm ngay trước cổng nhà người giàu. Ở gần bên nhau nhưng họ không quan hệ gì với nhau. Bức tranh về cuộc sống giàu nghèo này nhan nhãn trước mắt chúng ta, nhất là tại những thành phố lớn. Và rồi một ngày nọ, La-da-rô nghèo khó chết trước và ông nhà giàu sau đó cũng chết. Dụ ngôn kể rằng, khi La-da-rô chết, không thấy nói có ai chôn cất, nhưng lại có thiên thần đến đem anh ta vào lòng ông Ap-ra-ham trên thiên đàng. Còn ông nhà giàu chết thì được người ta chôn cất đàng hoàng và dĩ nhiên ông sang thế giới bên kia với hai bàn tay trắng như lúc ông chào đời. Có lẽ ông ta có nhiều thân bằng quyến thuộc giàu sang phú quý tiễn đưa với những nghi thức đình đám, long trọng, nhưng không thấy nói có thiên thần đến đón ông ta. Như vậy, số phận của hai người đã đảo ngược: La-da-rô được hưởng phúc trên thiên đàng. Còn ông nhà giàu bị trầm luân hỏa ngục, bị lửa thiêu đốt, ngay đến xin một giọt nước mát cũng không được.
Dụ ngôn không nói rõ ông nhà giàu phạm tội ác gì nghiêm trọng làm thiệt hại đến tài sản, sinh mạng, danh dự... của người khác, thế mà ông ta đã phải sa hỏa ngục !
Thực sự, giàu sang phú quý tự nó không xấu, cũng không phải là một tội, nếu giàu là xấu là tội, phải chịu đọa đày trong lửa hỏa ngục thì không ai còn dám làm giàu nữa. Nhưng nếu người giàu có coi tiền của là thần hộ mạng, là ông chủ, là cùng đích đời mình để rồi loại hẳn Chúa ra khỏi cuộc đời, loại hẳn anh em đồng loại ra khỏi cõi lòng mình mà chỉ biết ăn chơi sa đọa, trác táng, phung phí tiền của và không một chút xót thương trước người nghèo khổ xung quanh mình thì sự giàu có phú quý chẳng giúp ích gì cho họ ở đời sau.
Ông nhà giàu trong dụ ngôn bị trầm luân hỏa ngục không phải vì ông ta giàu có, biết đâu sự giàu có của ông là chính đáng do mồ hôi công sức ông đổ ra hoặc do cha mẹ của ông để lại, nhưng vì ông ta đã không sử dụng sự giàu có của mình đúng theo ý Chúa: Ông đã kiêu ngạo phô trương sự giàu có của mình qua việc mặc xa hoa lộng lẫy toàn lụa là gấm vóc, và ngày ngày mê ăn, tục uống, dung dưỡng xác thịt qua việc vung phí tiền của vào những yến tiệc linh đình một cách ích kỷ mà không hề biết chia sẻ, thương giúp La-da-rô đói rách, nghèo khổ sờ sờ ở trước cổng nhà ông.
Lạy Chúa Giê-su, xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói: “Đức Chúa là ai vậy ?” hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con. A-men. ( Cn 30, 8 – 9 )
Lạy Chúa Giê-su, con thực sự chưa dám hy sinh một chút danh tiếng, một chút thì giờ, một chút của cải, hay chấp nhận một chút đau khổ, nhục nhã, khó nhọc để làm cho những người đang đau khổ chung quanh con bớt khổ đau. Con vẫn chỉ nghĩ tới sự an toàn và hạnh phúc của riêng mình. Xin cho con biết mở tâm hồn mình ra, biết chạnh lòng xót thương những người nghèo khổ, bất hạnh hơn con.
Lạy Chúa Giê-su, nếu Chúa muốn thanh luyện con bằng sự nghèo khổ, bất hạnh ở đời này, thì xin cho con biết chấp nhận thánh ý Chúa, phó thác tất cả trong tay Chúa như La-da-rô, như ông Gióp. Những than van, trách móc sẽ làm cho con bất xứng với tình thương bao la của Chúa. Lao nhọc, vất vả, nghèo đói, khổ đau hôm nay có là bao, nếu đem đặt bên phần thưởng Chúa ban cho con trên nước thiên đàng ở đời sau.
Gs. PHẠM VĂN LƯỢNG, Nhóm TĐTK
CÂU TRUYỆN: BÀI HỌC VỀ SỰ CHO ĐI
Nassar đang bán những giỏ đựng trái cây. Một người đàn ông vô gia cư bước lại, hỏi cậu tại sao bán chúng. Nassar giải thích rằng cậu đang kiếm tiền để xây dựng một sân chơi cho các trẻ em khuyết tật. Người đàn ông ngỏ ý muốn giúp đỡ. Ông ta không đủ tiền để mua một chiếc giỏ của Nassar, nhưng ông cho hết những gì ông có, một đô la ! Cậu bé không muốn nhận, vì biết rằng người đàn ông ấy sẽ cần nó để mua thức ăn. Nhưng người đàn ông cố nài và nói: “Điều bạn cho đi sẽ trở về với bạn”. Một lúc sau, ngay trong đêm ấy, người đàn ông trở lại và kể với cậu bé rằng một cảnh sát viên vừa mới tặng cho mình một bữa ăn.
Thế giới lại một lần nữa nhắc đến “Nguời Nữ Tu già nua ốm yếu” trong dịp kỷ niệm đệ thất chu: TN 26-C56
Thế giới lại một lần nữa nhắc đến “Nguời Nữ Tu già nua ốm yếu” trong dịp kỷ niệm đệ thất chu niên ngày Vị Nữ tu nầy được Chúa gọi về trời: Chân phước Têrêxa thành Kolkata, (tức Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị Nữ tu đã từng đoạt giải Nobel Hòa Bình). Và người ta cũng không ngờ rằng, tên của của Vị Nữ Tu Công Giáo nghèo nàn, khiêm hạ nầy nầy lại được đặt cho một đại lộ quan trọng nhất của thành phố Calcutta, thành phố của một nước Ấn Độ chỉ có 1,6% dân Công giáo. Đơn giản, chỉ vì Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống hết mình cái “lý của Tin Mừng”, Tin mừng Tám Mối phúc Thật, Tin Mừng đuợc loan báo cho người nghèo khó. Mẹ đã trở thành vĩ đại, đã trở thành đại thánh, chỉ vì Mẹ đã thể hiện đúng mức “cái nghèo” của Phúc Âm, cái nghèo biết đặt mình khiêm hạ trước thiên Chúa để cho đi hết mình, để liên đới với những kẻ cùng khổ, để sống cho và sống với những kẻ mang thân phận khốn khổ bần hàn. Con đường của Mẹ Têrêxa đã đi, lý tưởng mà Mẹ đã chọn lựa, cũng chính là nội dung ý nghĩa của sứ điệp phụng vụ Chúa Nhật 26 Thường Niên được gởi đến cho tất cả chúng ta.
Trước hết, chúng ta thử tóm tắt nội dung cốt yếu của các trích đoạn Lời Chúa được công bố trong thánh lễ hôm nay:
1. Bài đọc 1: Trích sách ngôn sứ Amos: Nối dài sứ điệp tuần trước, Vị Ngôn sứ nầy tiếp tục cảnh giác chúng ta đừng ỷ lại vào sự sung sướng, giàu có đời nầy mà quên đi cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu. Những con người sống ích kỷ, chỉ biết sung sướng hưởng thụ riêng mình, không biết chia sẻ với anh em đồng loại, nhất là không màng tới cuộc đời vĩnh cửu, cuối cùng sẽ lãnh án phạt nặng nề của Thiên Chúa.
2. Thánh vịnh đáp ca: Trích thánh vinh 145: Đây là lời ca tụng đầy tin tưởng mến yêu của những con người nhỏ bé, thấp hèn, những người nghèo khổ bị chà đạp, đàn áp. Thiên Chúa luôn là chỗ dựa cuối cùng, là tiêu đích và là đáp số cho mọi nổi oan khiên họ phải cam chịu trong cuộc đời trần thế.
3. Bài đọc 2: Trích thư thứ 1 gởi Ti-mô-thê của thánh Phao-lô: Thánh Phao-lô khuyên bảo người môn đệ Ti-mô-thê là phải sống trung tín với Thiên Chúa, chính trục và tốt lành với mọi người, và nỗ lực chiến đấu vì đức tin trong khi chờ đợi Chúa trở lại. Những lời nầy thật là những lời khuyên thích hợp cho mỗi người chúng ta hôm nay; bởi vì chúng ta đang sống trong một bối cảnh xã hội mà đời sống vật chất, hưởng thụ, tiền của đang là một nổi ám ảnh triền miên cho mọi gia đình.
4. Bài Tin Mừng: Trích sách Tin mừng Luca: Bằng dụ ngôn “Người nghèo La-za-rô và ông phú hộ”, Chúa Giê-su đã khắc hoạ hai hình tượng người trong xã hội loài người muôn nơi, muôn thuở: Giàu và nghèo, để từ đó hướng tới sứ điệp: Nếu chỉ biết cậy dựa vào sự giàu sang để hưởng thụ một cách ích kỷ, không biết xót thương, liên đới với anh em đồng loại, nhất là với những người nghèo nàn, cơ cực, bất hạnh, thì cánh cửa thiên đàng mai hậu sẽ khép lại, mọi quan hệ với Thiên Chúa sẽ bị cắt đứt. Chính vì thế, Thiên đàng, quê hương vĩnh cửu, hạnh phúc đời đời không phải là một thực tại ảo tưởng, xa vời, nhưng là đang hình thành, triển nỡ ngay từ cuộc sống hôm nay.
Tóm lại, sứ điệp phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta luôn biết tỉnh thức để chiến thắng những cám dỗ của hưởng thụ vật chất và sự giàu có ích kỷ, vô đạo, đóng kín trái tim trước Thượng Đế và anh em đồng loại; và sẵn sàng dấn thân đi con đường hẹp, khó nghèo và yêu thương của Tin Mừng. Con đường đó, lựa chọn đó cũng chính là niềm xác tín, là hy vọng vững bền của chúng ta. Bởi vì, như chúng ta cùng hát lên trong bài đáp ca: Thiên Chúa, Đấng “giữ lòng trung tín mãi muôn đời; xử công minh cho người bị áp bức…Ai công chính được Người yêu chuộng”. Trong tâm tình và ý nghĩa đó, Chúng ta có thể mượn lời cầu nguyện của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta để cầu nguyện cho nhau:
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng cả trong tinh thần,
bằng cách thực thi lời hy vọng nầy:
"Điều các con làm cho người bé mọn nhất trong anh em
là các con làm cho chính Ta"
Trong Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã có dịp suy niệm về nguy cơ của tiền bạc: TN 26-C57
VietCatholic News (23/09/2004 )
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN, C
Kb 1:2-3, 2:2-4; 2Tm 1:6-8, 13-14; Lc 17:5-10
Trong Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, chúng ta đã có dịp suy niệm về nguy cơ của tiền bạc và sự khôn ngoan của “con cái thế gian”. Chúng ta cũng đã nghe lời cảnh cáo của Chúa Giêsu: “ anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lk 16:13). Nghe những lời này, những người Biệt Phái Pharisi đã “cười nhạo Đức Giêsu, vì họ là những người rất ham thích tiền bạc” (cf.Lk 16,14), thích được chào kính nơi công cộng và thích phô trương thành tích “đạo đức giả” của họ, nên thường bị Chúa Giêsu nặng lời phê phán là “quân giả hình”.
Tiếp theo dụ ngôn về “người Quản gia bất trung”, Chương 16 Phúc âm Thánh Luca tuần này còn thuật lại cho chúng ta một dụ ngôn nữa của Chúa Giêsu về “người nhà giầu và anh nghèo khó Lazarô”. Người giầu có, khi còn sống, đã ăn sung mặc sướng, hưởng thụ mọi lạc thú trên đời nhưng không đoái hoài đến anh nghèo khó Lazarô hàng ngày ngồi ăn xin trước của nhà mình..Sau này cả hai đều chết: người nhà giầu bị phạt xuống hỏa ngục, còn anh nghèo lazarô được thưởng lên Thiên Đàng.
Chúng ta suy nghĩ thế nào về dụ ngôn này ?Có phải Chúa lên án những ai giầu có ở đời này không ? Và có phải cứ nghèo đói thì sẽ được sống đời đời trong Nước Thiên Chúa ?
Để trả lời cho những câu hỏi này, trước hết, chúng ta đừng quên sự kiện thực tế quan trọng này là chúng ta đang sống thân phận con người trong trần thế này. Bao lâu còn sống thân phận này thì bấy lâu chúng ta còn cần đến những nhu cầu chính đáng và tối cần thiết như ăn uống, ngủ nghỉ, quần áo, nhà ở, xe cộ… Và để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng này thì chúng ta phải cần đến tiền bạc và phương tiện vật chất. Không ai ngây thơ và “đạo đức phi thực tế” mà nghĩ rằng mình chỉ cần tinh thần, không cần vật chất. Câu nói “có thực mới vực được đạo” đã nói lên tầm mức quan trọng của phương tiện vật chất trong cuộc sống của con người nói chung và trong phạm vi sống Đạo nói riêng.Trong tinh thần ấy, chắc chắn Chúa Giêsu không lên án những người giầu có, và dạy ta phải khinh chê tiền bạc của cải vật chất. Ngược lại, Chúa chỉ muốn chúng ta phải biết dùng tiền bạc và mọi phương tiện vất chất một cách chính đáng, cần thiết cho nhu cầu sống ở đời và nhất là có lợi cho việc mưu tìm hạnh phúc Nước Trời, là hạnh phúc thật mà chính Chúa đã hy sinh mạng sống của mình để mua sắm sẵn cho ta vui hưởng sau này.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “ Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 8:33). Có nghĩa là phải ưu tiên tìm kiếm và tôn thờ một mình Thiên Chúa trên hết mọi sự, trên tiền của, và mọi sự sang giầu trần thế. Chỉ có Chúa là cội nguồn của mọi vinh quang, phú quí và hạnh phúc trọn hảo mà thôi. Tiền bạc, của cải vật chất ở đời này chỉ là phương tiên giúp ta đạt mục đích tối cao đó. Nếu ta đặt tiền bạc và của cải vật chất ngang hàng với Chúa thì ta sẽ không coi Chúa là ưu tiên nữa và sẽ tôn thờ vật chất như tôn thờ Thiên Chúa của lòng mình. Đây mới là nguy cơ phải tránh vì “phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:2) Có tinh thần nghèo khó để dễ nâng tâm hồn lên tới Chúa là cội nguồn của mọi hạnh phúc, sang giầu. Có tinh thần nghèo khó để không làm tôi tiền bạc, tôn thờ vật chất hư hèn, chóng qua. Hơn nữa, có tinh thần nghèo khó, không ham mê, tham lam của cải vật chất để dễ thi hành công bằng và bác ái đối với tha nhân kém may mắn hơn mình. Thực trạng của thế giới ngày nay và đặc biệt của xã hội chúng ta đang sống cho thấy rõ nguy hại của lòng tham mê tiền của, dửng dưng trước sự đau khổ của người khác: chủ nhân của những đại công ty,những tay tài phiệt đang thao túng thị trường chứng khoán, đang khai thác kỹ nghệ dầu hỏa kỹ nghệ nhà thương, sản xuất và bán dược phẩm.. Thử hỏi họ ưu tiên phục vụ cho lợi ích nào ? cho người nghèo khổ không có bảo hiểm sức khỏe, không có tiền mua thực phẩm, nhiên liệu cần thiết hàng ngày hay cho lòng tham của cải vô đáy của họ ?
Không ai bắt họ phải hy sinh tài sản cho người khác, kinh doanh không cần kiếm lời. Nhưng nếu họ có lòng bác ái, biết giới hạn lòng tham để nghỉ đến bao nhiêu người nghèo khó, thì họ đã chẳng tăng giá dầu, tăng giá thuốc và bệnh phí, ảnh hưởng nặng nề đến bao triệu người có lợi tích thấp cần đến các dịch vụ này nhưng lại không có đủ tiền để chi phí. Họ có thể bỏ ra hàng chục triệu đô la để ủng hộ cho những ứng cử viên Tổng thống, nghị sĩ, dân biểu và thống đốc để hy vọng được đền ơn trả nghĩa sau này, nhưng lại dửng dưng trước những người nghèo khó vô gia cư, những bệnh nhân không có tiền đi nhà thương và mua thuốc ngay trên quê hương này,nói chi đến những người đói khổ ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt bên Phi Châu ? Hố ngăn cách giữa người giầu và nghèo ngày một thêm sâu thẵm vì có những người giầu quá tham lam của cải trần thế, chỉ biết vơ vét thực nhiều cho mình, không cần biết đến bao nhiêu người khác, nạn nhân của nghèo đói, kỳ thị và bất công xã hội.
Người giầu trong dụ ngôn Phúc Âm Thánh Luca bị phạt xuống hỏa ngục không phải vì tội giầu có khi còn sống mà bị phạt vì không có lòng bác ái, thương đến người nghèo Lazarô hàng ngày ngồi ăn xin trước của nhà mình..Không có lòng bác ái nghĩa là không biết yêu thương và chia sẻ với người khác những gì mình có dư thừa thì không thể ở trong tình yêu của Thiên Chúa như Thánh Gioan đã dạy: “ Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà chẳng động lòng thương thì làm sao tình yêu của Thiên Chúa ở lại trong người ấy được ? (1 Jn 3:17)
Đây cũng chính là sứ điệp của dụ ngôn “Ngày Phán xét chung” trong Phúc âm Thánh Matthêu qua đó Chúa Giêsu đã nói với những người bên trái rằng “ Quân bị nguyền rủa kia: đi đi cho khất mắt ta.mà vào lửa đòi đời …vì xưa Ta đói,các ngươi đã không cho ăn; Ta khát các ngươi đã không cho uống …”(cf.Mt 25:37) Chúa là tình yêu. Ai không yêu thì không thuộc về Thiên Chúa.Nhưng yêu thì không thể chỉ nói suông bằng lời, qua môi miệng mà phải thể hiện bằng việc làm cụ thể để chứng minh. Như thế, phải chăng tiêu chuẩn để được hưởng hạnh phúc Nước Trời là bác ái, là thương người như thể thương thân ?
Lòng chai dạ đá của con người khi sống chỉ biết ích kỷ lo cho bản thân mình, mặc kệ những: TN 26-C58
Lòng chai dạ đá của con người khi sống chỉ biết ích kỷ lo cho bản thân mình, mặc kệ những thiếu thốn của anh chị em chung quanh, và coi như không có Chúa. Lòng tham lam khiến họ cứ vơ vào thật nhiều chẳng bao giờ cảm thấy đủ! Đến khi chết họ chẳng mang theo gì được để giúp họ ở đời sau. Chính lòng tham không đáy đã cho phép họ thủ đắc quá nhiều của cải hơn nhu cầu của họ, khiến những người chung quanh phải thiếu thốn những nhu cầu cơ bản. Họ đặt tin tưởng hoàn toàn vào của cải tài sản của họ có thể mang lại cho họ hạnh phúc và cuộc sống trường sinh. Một khi họ đã đặt hết niềm tin vào của cải, họ không còn buồn nghĩ tưởng đến ai khác hơn chính bản thân họ. Họ cảm thấy không cần ai, vì họ sợ phải chia sẻ với những người đó! Nhà phú hộ đã không muốn nhìn thấy anh ăn mày La-za-rô ngồi ngay cửa nhà ông hằng ngày.
Ông không buồn bố thí cho anh ta chút xíu của ăn dư thừa từ bàn tiệc đầy cao lương mỹ vị của ông. Ông tuyện nhiên không có một tương quan nào với người ăn mày, xem như người ấy không có trên đời. Ấy thế mà sau khi chết, ông nhìn lên thấy La-za-rô, lại mau mắn nhận là anh và xin được giúp đỡ. Giờ này, của cải vật chất không còn giúp được gì cho ông, nên ông mới cầu cứu với tổ phụ A-bra-ham, chứ lúc còn sống ở trần gian, ông nào có thiết tưởng gì đến tổ phụ A-braham, hoặc các tiên tri! Bằng chứng là ông còn đến năm người anh em nữa cũng đang sống ích kỷ như ông đã từng sống, họ không buồn tin theo lời dạy dỗ của các tổ phụ và các tiên tri! Họ chỉ biết vui chơi, chè chén say sưa tối ngày cho thỏa lòng ham muốn hưởng thụ của họ, chẳng hề nghĩ tưởng gì tới những người kém may mắn ở ngay trước mắt họ.
Đời sống trần gian này ngắn khoảng vài ba năm, hoặc dài được cả trăm năm rồi cũng phải qua đi như giấc chiêm bao! Ngay như thi sĩ Cao Bá Quát, khét tiếng là cao ngạo khi ngẫm về cuộc đời cũng đã thở than: Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười! Tất cả mọi chuyện xảy ra ở đời là những thử thách cần thiết giúp tôi luyện, thanh tẩy tâm hồn con người nên thánh thiện hơn, như Chúa Giêsu đã nêu gương. Và con đường hy sinh quên mình, vác thập giá theo đức Kitô mỗi ngày là việc làm có ý nghĩa nhất trong đời này, để chuẩn bị cho cuộc sống hạnh phúc bất diệt ở đời sau.
Sách tiên tri Amos rất ngắn, chỉ gồm 144 câu, chia ra làm 9 chương. Mỗi chương hơn chục: TN 26-C59
(Lc 16,19-31)
Ý tưởng chung: Cuộc sống đời này không phải là hưởng thụ, nhưng là phục vụ. Người nghèo được Thiên Chúa quan tâm đặc biệt. Vì họ thường bị bóc lột và lãng quên. Thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu hãy biết trông đợi ngày Chúa quang lâm, để số phận mỗi người được phân định rõ ràng. Thưa quí vị,
Sách tiên tri Amos rất ngắn, chỉ gồm 144 câu, chia ra làm 9 chương. Mỗi chương hơn chục câu. Nhưng lại được phụng vụ trích đọc khá dài. Lý do là vì quan điểm của vị tiên tri về của cải vật chất về người nghèo khổ, gần giống với phúc âm Luca. Có thể nói nó bổ túc cho lời rao giảng của Chúa Giêsu. Bài đọc hôm nay ở đoạn 6: “Khốn cho những người sống yên ổn tại Sion và sống an nhiên, tự tại trên núi Samari, nằm dài trên giường ngà, ngả nghiêng trên trường kỷ, ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng, chúng đàn hát nghêu ngao…” Tiên tri mạt sát nếp sống an toàn giả tạo của những kẻ cầm quyền lúc bấy giờ. Họ thu tích giàu sang của cải trái đất mà an hưởng nhung lụa, sung sướng. Đồng thời nghĩ rằng như vậy là được phúc lành của Thiên Chúa, được Ngài ưu ái, che chở. Tuy vị ngôn sứ công nhận vị trí đặc biệt của tuyển dân Israel. Nhưng tiên báo sự sụp đổ ghê gớm của thành thánh Giêrusalem. Bởi vì đã không làm tròn nhiệm vụ của một dân tộc được Thiên Chúa lựa chọn. Đoạn trước đó (5,20) tiên tri đã nói đến “ngày của Chúa” (eschaton). Ngày mà quyền bính đền thờ, những kẻ giàu có, những người sang trọng mong đợi như giây phút tưng bừng, hoan hỷ, khải hoàn chiến thắng của Giavê thì Amos tiên báo là ngày kinh hoàng. Ngày Thiên Chúa phán xét và báo oán, chính vì nếp sống của những kẻ cầm quyền: “Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đầy, dẫn đầu những kẻ bị lưu đầy. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn.”
Nên lưu ý những hình ảnh thi vị ngôn sứ dùng để mô tả tình trạng đối nghịch giữa người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn: Giường ngà đối với ổ rơm, thịt thà đối với bụng đói, đàn hát phè phỡn đối với lao động cực nhọc. Điều mà kẻ quyền thế coi như vững chãi thì vị ngôn sứ nói là khốn nạn trước mắt Đức Chúa Trời. Ông nhấn mạnh từng chữ với giọng điệu kinh tởm. Những con người sa đoạ này là những kẻ đầu tiên đi đày, kéo theo cả dân tộc lâm cảnh lầm than. Phải chăng lời tiên tri của ngôn sứ Amos cũng áp dụng cho nếp sống xa hoa của xã hội đương thời, nhất là cho những vị lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo? Những cuộc truy hoan của họ chẳng kém thời Amos. Cho nên khủng bố, chiến tranh không phải là ngẫu nhiên. Nó là kết quả của áp bức kinh tế, chính trị. Những bóc lột bẩn thỉu và tàn nhẫn, những kế hoạch sai lầm dựa trên chủ thuyết của Satan chứ không phải của Chúa Giêsu! Cứ nhìn vào những quay cuồng vì lợi nhuận to lớn, các mánh khoé kinh tế, tự khắc nhận ra tình trạng sa đoạ của xã hội hôm nay, không khác mấy thời tiên tri Amos, có khi còn vượt xa hơn. Người ta hô hào thăng tiến xã hội, văn hoá, nhưng thực tế là thụt lùi luân lý. Lấy ví dụ xã hội Hoa Kỳ, con số người nghèo hiện thời suýt xoát 50 triệu, tức 1/5 dân số. Tệ nạn xã hội không ngừng gia tăng: Cờ bạc, ma túy, kết hôn cùng giới, li dị, bất mãn, sa đoạ, phóng túng… Thêm vào đó những phương tiện truyền thông hàng ngày cổ võ các hình thức vui chơi quái đản: Bạo lực, dâm ô, ma quái, kinh dị, thù hận, trả đũa dã man. Ngược lại, không có lấy một phương tiện tuyên truyền đạo đức, yêu thương nếu có thì cũng rất yếu ớt trong các tổ chức tôn giáo. Làm sao mà chống lại lực lượng vũ bão của hoả ngục? Cho nên tiên tri Amos có lý khi tuyên sấm chống lại ảo tưởng “chúc lành” của Giavê, trong khi thực tế tai hoạ “khủng khiếp” đang đến gần.
Người giàu trong dụ ngôn hôm nay không có tên và ông cũng chẳng làm gì sai trái. Ông không vi phạm một giới răn nào của Thiên Chúa, tuy hàng ngày nhìn thấy Lazarô nghèo khổ lê la trước cửa. Vậy mà ông lại rơi vào danh sách những người bị Amos nguyền rủa: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn ở Sion. Suốt cuộc đời an hưởng sự giàu có của mình, ăn vận lụa là gấm vóc. Ngày ngày yến tiệc linh đình.” Lazarô đói khát ước ao những vụn bánh rơi tư bàn của nhà phú hộ để ăn cho đỡ đói. Phải chăng thánh Luca muốn ám chỉ đa phần nhân loại? Nên nhớ phúc âm tuần trước Chúa Giêsu tuyên bố chúng ta chẳng thể làm tôi hai chủ: Mammom (thần tài) và Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta phải dứt khoát lựa chọn, không có chuyện lưỡng lự về ưu tiên hoặc bất động trong thái độ. Nếu không sử dụng của cải một cách khôn ngoan theo tinh thần phúc âm, chúng ta sẽ rơi vào lời kết án của Amos. Sau bài Tin mừng tuần trước, phụng vụ bỏ mấy câu (14-18) để tiếp sang phúc âm hôm nay. Câu 14 nói: “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy thì chế nhạo Chúa Giêsu” cho nên Ngài kể dụ ngôn này để trả lời họ. Nó nhấn mạnh hơn đề tài chương 16: Nguy cơ của tiền bạc dưới nhiều hình thức. Thánh Luca xem ra rất triệt để trong cách đối sử với người nghèo khó. Chương 6 thuật lại Chúa chúc phúc cho họ và nguyền rủa những ai giàu có ích kỷ. Khi đọc phúc âm Luca chúng ta nên lưu tâm điểm này. Có lẽ thánh nhân là một thầy thuốc nên hiểu rõ những khốn khổ của người nghèo.
Người nghèo khổ sinh ra, lớn lên và xuống mồ không ai biết đến. Những người đẽo bia mộ thường khắc mấy dòng chữ: “Muôn đời hãy nhớ đến người thân yêu”. Nếu có tiền, quý vị có thể mua một tấm cho thân nhân quá cố. Nhưng với vô số người nghèo khổ thì chẳng có chi để ghi nhớ. Họ chết và bị lãng quên. Tuy nhiên với thánh Luca, ông đã nghĩ ra một cách để nhớ đến họ. Trong văn chương kinh thánh, ông đặt tên cho họ là Lazarô. Tưởng chừng như thánh nhân muốn nói: “Đây nhé, muôn đời người ta sẽ chẳng quên anh Lazarô.” Đồng thời thánh nhân khuyên nhủ chúng ta rằng, tiền của, giàu có, tiếng tăm chẳng qua là sự đời này, rồi sẽ có ngày chấm dứt, không tồn tại vĩnh viễn được đâu. Vậy tại sao thu tích chúng để rồi bị quên lãng đời đời? Chúng ta được mời gọi suy nghĩ kỹ lưỡng hơn về đề tài này, ngõ hầu lựa chọn cho thông minh và xây dựng điều vĩnh cửu. Qua dụ ngôn, một lần nữa Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta Ngài về phe với những người nghèo khổ và dễ bị tổn thương. Chính Ngài đã sinh ra trong một gia đình thấp hèn. Dâng mình trong đền thờ bằng của lễ của người bần cùng. Sống nghèo và chết cay đắng. Những ai theo Ngài lên Giêrusalem đều được dạy dỗ phải canh chừng của cải và nếp sống giàu sang. Của cải tự nó không phải là điều xấu, nhưng lòng tham lam là điều phải tránh. Người phú hộ hôm nay không quan tâm đến nguy hiểm đó. Ông sống tự mãn, chẳng nghĩ đến ai, ngay cả Lazarô trước cửa nhà ông. Chi tiết của dụ ngôn Chúa kể làm chúng ta nhức nhối. Ai có thể không nhớ đến câu chuyện? Những con chó còn đối xử với Lazarô tốt hơn ông chủ nhà. Chúng liếm ghẻ chốc cho Lazarô, làm vơi nhẹ nỗi đau đớn, trong khi đồng loại không đoái hoài đến nhau! Đau xót biết chừng nào! Các thính giả của Chúa Giêsu hẳn lấy làm ngạc nhiên khi họ vẫn có não trạng giàu có là được Chúa thương, và ngược lại, nghèo đói là dấu chỉ bị trừng phạt bởi đời sống tội lỗi. Dụ ngôn hoàn toàn bác bỏ suy luận ấy. Thiên Chúa hằng lưu tâm đến người nghèo khổ, như Đức Mẹ đã nói lên trong kinh Magnificat: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có lại đuổi về tay trắng.” (1,53). Dụ ngôn đúng là truyện mỉa mai: Những người xây lăng dựng mộ cho mình, khi chết lại bị quên lãng. Còn kẻ vô danh tiểu tốt, khi khuất bóng lại được nhớ đến đích danh Lazarô. Họ có một chỗ xứng đáng trong vương quốc Thiên Chúa, nơi lòng ông Abraham.
Sự đần độn của nhà phú hộ còn được tỏ rõ do những yêu cầu của ông ta sau khi chết. Ông ta muốn tổ phụ Abraham sai Lazarô đem đến cho mình vài giọt nước mát. Thế ra Lazarô vẫn là đầy tớ ông ta! Cho nên ông ta lại sai Lazarô về nhà báo tin cho 5 anh em còn sống về tình trạng khốn đốn của mình! Lòng chai đá của ông già mắc dịch thật mãnh liệt, ngay cả trong hoàn cảnh khốn khổ. Ông chẳng thể hiểu được mình và Lazarô. Ông tiếp tục khinh bỉ người nghèo khó, không thèm nói chuyện trực tiếp với họ, vẫn coi họ là tôi tớ chạy việc vặt trong kiếp sống tương lai! Câu chuyện thật là thấm thía. Chưa hết, Chúa Giêsu còn làm cho chúng ta ngỡ ngàng khi chẳng đả động gì đến luân lý: Được thưởng vì đời sống đạo đức và bị phạt về hành vi tội lỗi. Tất cả câu chuyện chỉ là Lazarô nghèo khó và ông phú hộ ích kỷ sống trên nhung lụa, của cải, chẳng lưu tâm đến ai khác. Nhưng cuối cùng Thiên Chúa thấu suốt mọi sự và hoàn lại công bằng cho mỗi cuộc đời. Đây là điểm thần học quan trọng cần suy nghĩ nghiêm chỉnh.
Giống như bài đọc cựu ước, bài Tin mừng rất nhạy cảm về những đau khổ của kẻ nghèo hèn. Cả hai văn bản đều kêu gọi công lý cho những kẻ bị áp bức. Công lý thế nào? Nó được thực hiện ra sao ở đời này? Nếu như người giàu có còn chút quan tâm, thì là ông nhớ đến 5 anh em mình. Ông muốn họ biết được số phận đang chờ đợi họ, nếu cũng sống như ông ta. Abraham bảo ông: “Họ đã được cho biết mọi sự để sống ngay lành, chúng đã có Môsê và các tiên tri thì chúng hãy nghe lời các vị đó”. Nghĩa là lời dạy về thương yêu kẻ khó nghèo không phải là điều mới lạ. Truyền thống tôn giáo Do Thái đã dạy dỗ đầy đủ rồi, khỏi cần thêm thắt điều chi. Ngày nay chúng ta cũng đã được Chúa chỉ bảo những điều phải biết để lựa chọn mục tiêu chính đáng cho cuộc đời, không thể viện cớ ngu dốt để trốn tránh bổn phận. Không ai có thể làm tôi hai chủ, chỉ có thể chọn một, thế gian hoặc Thiên Chúa. Hành động cho thế gian là tìm tiền bạc, của cải. Hành động cho Thiên Chúa là giúp đỡ những người thiếu ăn thiếu mặc. Thánh Luca nhắc lại nhiều lần quan điểm đó và Amos cảnh cáo dân Do thái về lòng tự mãn vì của cải. Chúng ta không thể sống phè phỡn kẻo sẽ gặp cảnh khủng khiếp sau này, như dụ ngôn miêu tả. Chúa Giêsu không lên án giàu có, nhưng là lòng tự mãn không quan tâm đến người khác. Có thể là tuy chúng ta không giàu có, nhưng vẫn còn khả năng vô cảm trước những quằn quại của đồng loại, Chúa không muốn như vậy, nhưng hãy quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của nhau. Lazarô sống ở ngưỡng cửa nhà phú hộ. Ngày nay, qua tivi, radio, internet, cả thế giới ở ngay trước ngõ chúng ta. Tuy không quán xuyến được hết mọi sự, nhưng điều đó không phải là lý do để chúng ta thoái thác sự giúp đỡ kẻ khó nghèo.
Kinh nghiệm cho hay, những người giàu ít có tinh thần liên đới, họ sống ích kỷ, khép kín. Trái lại, các gia đình nghèo khó thường có nhiều tình làng nghĩa xóm hơn. Tôi không có ý vơ đũa cả nắm. Nhưng người Mỹ chúng ta sống cao ngạo hơn người Phi Châu hoặc Á Châu. Họ có tinh thần cộng đồng nhiều hơn, biết chia sẻ của cải, văn hoá với đồng bào mình. Dầu tài sản chẳng có là bao nhưng họ sẵn sàng chăm sóc đến nhu cầu của tha nhân. Người Mỹ, từ tấm bé, đã được dạy cho biết sống cá nhân chủ nghĩa: xây dựng cuộc đời do chính bàn tay lao động của mình. Vì vậy, có câu thành ngữ rằng: “Những gì tôi kiếm được là do hai bàn tay này, hãy để người khác noi gương” (I have earned what I have, let others do the same).
Cho nên phúc âm hôm nay dạy mọi người phải liên đới với nhau sâu xa hơn. Kinh thánh không ngừng nhắc nhở tính cộng đồng nhân loại, dù rằng Thiên Chúa tuyên sấm cho một vài cá nhân, nhưng chính vì lợi ích của cả một dân tộc. Ngài ký kết giao ước không phải với cá nhân mà là với toàn thể tuyển dân Israel. Ông phú hộ và Lazarô là những thành viên của dân tộc đó. Có lẽ người giàu có quên mất chân lý này. Ông đã bẻ gẫy giao ước với Thiên Chúa. Nên ông phải chịu hậu quả đắng cay của việc ông làm. Chính nhà phú hộ, chứ không phải Thiên Chúa, đào hố ngăn cách giữa ông ta và Lazarô. Hố không từ đây sang đấy được. Thật là khủng khiếp. Tóm lại, Thượng đế toàn năng, Đấng ban dụ ngôn hôm nay, ví tựa một hiền mẫu trong gia đình. Bà nói với con cái mình: “Này các con, tại sao những đứa sung túc lại có thể sống nhung lụa, bỏ quên anh chị em mình nghèo đói? Các con không biết rằng mình đều do một mẹ sinh ra? Hết thảy các con đều là ruột thịt của ta? Các con nên nhớ rằng những đứa ích kỷ chỉ sống cho mình trên những đống tiền, đống của chẳng thể tìm thấy hạnh phúc cho đến khi biết san sẻ cho những anh chị em nghèo đói khác. Lúc ấy gia đình không còn chia rẽ, sống hoà hợp thương yêu nhau, không chiến tranh, không thù hận. Các con sẽ là anh chị em với nhau như Ta đã tạo dựng nên các con.” Dụ ngôn thật sự đã mở lòng mở trí cho chúng ta nghe theo lời chân lý hằng sống. Tiếng nói của Bà Mẹ đầy quan tâm cho số phận nhân loại. Vì Bà thông tuệ mọi sự. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta thấy một bức tranh hai bối cảnh: TN 26-C60
CHỦ NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN
Tin mừng: Lc 16, 19-31
Anh chị em thân mến,
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta thấy một bức tranh hai bối cảnh: giàu và nghèo, phúc và hoạ qua dụ ngôn người giàu có và người nghèo Lagiarô; đây cũng là bức tranh của thế giới ngày nay, nơi có nhiều người cơm không có ăn áo không có mặc, đang sống cùng sống với những người giàu có dư thừa tiền bạc phung phí thức ăn và sống xa hoa với những nhu cầu không cần thiết cho cuộc sống.
Giàu
Ông phú hộ giàu có ngày ngày yến tiệc linh đình, xa hoa hưởng thụ và đắm chìm trong những thú vui, ông sáng mắt trước những tờ giấy bạc và những đồng vàng loé mắt, nhưng lại “đui mù” trước cảnh nghèo khó của anh Lagiarô.
Đây là một thảm kịch thường xảy ra trong xã hội hôm nay cũng như xã hội thời Chúa Giêsu, đây cũng là thảm hoạ cho người giàu có vật chất nhưng lại thiếu thốn về tinh thần yêu thương anh em đồng loại, bởi vì Chúa Giêsu qua bài dụ ngôn rất sống động hôm nay đã cảnh cáo chúng ta -những người giàu có- về cách thức sử dụng của cải mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta…
Nghèo
Anh Lagiarô nghèo khổ đói ăn ngồi trước cổng nhà của người phú hộ đang yến tiệc tưng bừng, anh hy vọng nhặt được những miếng bánh vụn từ bàn tiệc của thực khách rơi xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai cho, nghèo như anh thì thật là quá nghèo, và càng buồn tủi hơn nữa khi thân phận của mình còn thua một con chó của người phú hộ kia.
Anh Lagiarô lã hình ảnh thật của những người nghèo hôm nay đang ngồi ăn xin bên lề đường, trước cổng nhà thờ và có khi trước cửa nhà chúng ta mà chúng ta gặp phải, người nghèo ấy là hình ảnh của Chúa Giêsu đang quằn quại đau thương trên thập giá đang chờ sự an ủi giúp đỡ của chúng ta.
Nghèo vật chất còn dễ chịu hơn là nghèo tình thương, bởi vì nghèo vật chất thì người khác có thể giúp đỡ nhưng nghèo tình thương thì chỉ có ân sủng của Thiên Chúa mới làm cho họ được an vui, mà ân sủng của Thiên Chúa làm sao để xuống trong tâm hồn họ được khi mà họ vẫn không mở rộng tâm hồn để đón nhận !
Phúc
Chúa Giêsu đã nói: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 3), nghèo khó là phúc vì đó là lời khẳng định của Chúa Giêsu, nhưng rất ít người coi đó là hạnh phúc của mình nên họ vẫn thấy cuộc sống của mình quá phủ phàng, và oán trách Thiên Chúa là bất công.
Phúc không hệ tại ở vật chất nhưng ở tại tâm hốn có hình ảnh của Thiên Chúa hay không mà thôi, vì một khi trong tâm hồn có Thiên Chúa thì giàu hay nghèo, sung sướng hay khổ cực thì cũng đều là phúc thật.
Anh Lagiarô đã có phúc bởi anh nghèo thì ít nhưng bởi anh vui lòng chấp nhận cảnh nghèo mà không oán trách, không oán trời trách người, cho nên anh đã được thưởng phúc trên thiên đàng.
Hoạ
Người phú hộ giàu có đã gặp hoạ, không phải vì ông giàu mà gặp hoạ nhưng là vì ông ta sống dửng dưng với anh em đồng loại của mình đang nghèo đói ngồi ăn xin trước cửa nhà.
Hoạ ở đời này và hoạ ở đời sau thì khác nhau xa vô cùng, con người ta ai cũng nghĩ đến cái hoạ của mình trong cuộc sống đời này thì sợ hãi, nhưng lại không nghĩ đến cái hoạ đời sau để mà tu thân tích đức, thương người như thể thương thân.
Ở đời này cái hoạ đôi lúc là cái phúc cho người biết nhẫn nhục và chấp nhận nó, nhưng cái hoạ đời sau thì không thể biến thành phúc được, bởi vì cái khoảng cách biến đổi hoạ thành phúc ấy chỉ có ở đời này mà thôi…
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đem tình thương của Ngài trãi rộng khắp trong cuộc sống của mình nơi những anh chị em nghèo khó, bởi vì đó chính là phương thế giải hoạ thành phúc của người Kitô hữu ở đời này.
Giàu chưa phải là hoạ mà nghèo cũng không phải là phúc, nhưng hoạ phúc là do tâm hồn của chúng ta có bóng dáng của Thiên Chúa hay không mà thôi.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 26 thường niên tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan
Phần đầu dụ ngôn người phú hộ xấu trình bày dưới một hình thức bóng bảy lời giảng dạy mà: TN 26-C61
Phần đầu dụ ngôn người phú hộ xấu trình bày dưới một hình thức bóng bảy lời giảng dạy mà các ngôn sứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhờ thế chúng ta biết rõ hình phạt cuối cùng nào chờ đợi những kẻ sống trong sa hoa mà tuyệt nhiên không động lòng bố thí cho kẻ cùng khổ nằm dưới mái hiên nhà mình. Dụ ngôn nhấn thêm vào khía cạnh thảm hại một cuộc sống ích kỷ vật chất, vào sự bất lực không mở rộng được tâm hồn đón nhận đức tin. Đó là phần kết của dụ ngôn. Đức Kitô dạy rằng cuộc sống vĩnh cửu được chuẩn bị ngay từ đời này. Nếu cách sinh hoạt ở thế gian khiến cho tâm hồn khép kín đối với đức tin, thì mai ngày sẽ không thể đón nhận hạnh phúc vĩnh cửu. Vấn đề nghiêm trọng nhất bây giờ là có sẵn sàng đón nhận đức tin hay không –chắc hẳn dụ ngôn muốn chúng ta quan tâm đến việc ấy. Đức tin nảy rễ trong những tâm hồn tự do, khiêm hạ, khao khát yêu thương.
1) Tự do của tâm hồn. Đây là sự tự do quyết định thái độ trước những cơ hội hưởng thụ dễ dàng mà thế gian và tiền bạc hiến cho một số người. Khi tiền bạc từ địa vị kẻ tôi tớ nhảy lên địa vị chủ nhân ông, nó trở nên ám ảnh người ta không lúc nào ngơi. Cái hại căn bản của tiền bạc là nó ngăn chặn chuyển động của tâm hồn đi tìm Nước Thiên Chúa trước hết mọi sự. Tiền bạc là công cụ cho hưởng thụ, uy quyền và chiếm đoạt; tiền bạc làm đồi bại những tâm hồn nào không biết tự vệ, chịu để nó sai khiến. Khi con người buông mình theo sức cuốn hút của tiền bạc, con người đâm ra mù quáng về hai diện. Trước hết, mất ý niệm về Thiên Chúa và không nghe thấy tiếng gọi của đức tin –mất luôn cả ý niệm về chính mình và không nghe thấy những đòi hỏi của đức công bằng. Trong một thế giới đóng kính như thế, nếu có những lúc thấy vắng thiếu Thiên Chúa, thấy anh em đau khổ thì cũng thản nhiên cho là thường, chẳng đáng bận tâm. Sa đọa tới mức ấy chính vì đã mất hết quyền tự do làm một con người thật sự, mất quyền tự do cao quý để có thể chấp nhận đức tin.
2) Tâm hồn khiêm hạ dễ chấp nhận. Sự thể tiến trình mặc khải phải qua những trung gian nhân loại. Một số người xử sự như mấy người Do thái xưa kia đối với Đức Kitô, họ muốn Thiên Chúa tỏ mình ra cho họ trong ánh hào quang chói lòa của một quang cảnh hiển linh không ai chối cãi được. Họ chẳng hiểu gì hết. Trước nhất, chẳng ai thấy được Thiên Chúa mà không chết vì thế. Tiếp đến, nhìn thấy sự thật hiển nhiên, người ta vẫn có thể không tin. Rất nhiều người Do thái chứng kiến Đức Giêsu làm phép lạ cho con bà góa ở Naim và ông Ladarô ở Bêtania sống lại. Vậy mà tất cả đám đông ấy có tin vào Đức Kitô không? Tại sao họ vẫn cứng lòng? Họ không tin vì tâm hồn họ không có đức khiêm hạ, họ không đầu hàng sự thật trước mắt. Tâm hồn khiêm hạ thì chấp nhận những định chế nhân loại (ví dụ Giáo Hội) do Đức Kitô lập ra để truyền thông đức tin.
3) Đức tin sống động thì có tình yêu thương. Luật truyền lớn nhất của Đức Kitô là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu kẻ khác vì Thiên Chúa. Nếu chẳng may tâm hồn sa đọa, trở nên khô cằn, thậm chí khả năng yêu thương bị tê bại, thì làm sao có thể đón nhận một đức tin đồng thời cũng là một tình yêu? Thửa đất cơ bản thiết yếu cho đức tin bám rễ và lớn mạnh chính là môi trường của một tâm hồn trong sạch tươi mát, vì chỉ những tâm hồn như thế mới có khả năng thật sự yêu thương.
"Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
"Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: 'Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát ; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !' Ông Áp-ra-ham đáp: 'Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.'
"Ông nhà giàu nói: 'Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!' Ông Áp-ra-ham đáp: 'Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.' Ông nhà giàu nói: 'Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.' Ông Áp-ra-ham đáp: 'Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."
***
Dụ ngôn về người quản gia bất trung dạy ta cách sử dụng của cải cách hợp lý. Dụ ngôn về: TN 26-C62
Dụ ngôn về người quản gia bất trung dạy ta cách sử dụng của cải cách hợp lý. Dụ ngôn về người phú hộ và La-da-rô nghèo được Chúa dùng để cảnh cáo những người nghe khỏi lạm dụng của cải. Trong câu chuyện này Chúa không dạy rằng làm giàu là tội lỗi hoặc tất cả người nghèo đều được cứu. Ngài muốn nói đến cái hiểm họa nghiêm trọng của việc sử dụng tiền bạc cách ích kỷ. Tội của người phú hộ không phải ở trong cách làm giàu hay trong sự giàu có của ông, cũng chẳng phải trong nếp sống kém đạo đức của ông, mà ở một điều đã được mô tả rõ ràng là trong khi ông ta sống xa xỉ ích kỷ, thì có một người thiếu thốn khổ sở ngay trước nhà ông mà không được ông giúp đỡ.
Chúng ta rút tỉa một số dạy dỗ trong dụ ngôn này.
Trước hết dụ ngôn dạy tất cả mọi người đều phải chết, và chết chưa phải là hết vì vẫn còn một đời sống bên kia cửa tử, và đời sống ấy là hậu quả của đời sống này:
Ngay sau khi chết con người được tòa án Thiên Chúa xét xử về đời sống trên trần thế để đáng lãnh thưởng hay bị chịu phạt.
Trên trần gian, của cải vật chất cũng như các đau khổ, đều là tạm bợ, sẽ mau qua, nó chấm dứt với cái chết, và bởi sự chết cũng chấm dứt thời gian thử thách và khả năng làm lành hay làm ác, rồi bắt đầu từ đó vui lòng thưởng công hay chịu đau khổ hình phạt tùy theo hậu quả của đời sống trên trần.
Theo như giáo lý của Giáo Hội: linh hồn của những người chết trong ơn nghĩa Chúa sẽ được lên thiên đàng ngay hay sau một thời gian thanh luyện nếu cần: "Chúng tôi tin có sự sống đời đời. Chúng tôi tin rằng tất cả những người chết trong ơn nghĩa Chúa Ki-tô, hoặc còn phải thanh luyện trong luyện ngục, hoặc ngay sau khi rời bỏ thân xác, được Chúa Giê-su đem về thiên đàng như người trộm lành, đều là dân Thiên Chúa bên kia cửa tử, tử thần sẽ bị vĩnh viễn chiến bại ngày phục sinh khi các hồn người được kết hợp lại với thể xác." Phao-lô VI, tuyên xưng đức tin Công Giáo).
Tiếp theo là bài học chính yếu của dụ ngôn, dụ ngôn đề cập đến vấn đề sử dụng ích kỷ của cải trần gian.
Chúng ta cần phác họa hai nhân vật trong câu chuyện để thấy được điểm này.
- Trước hết là người giàu. Mỗi câu văn đều làm tăng thêm mức sống sa hoa của ông ta. Ông thường mặc áo tía hồng và áo gai mịn đó là cách nói về hai bộ áo của thầy tế lễ thượng phẩm với giá từ ba mươi đến bốn mươi Anh kim một số tiền khổng lồ, trong khi lương công nhật một người chỉ được bốn xu Anh, ông ta ăn cao lương mỹ vị hàng ngày. Từ ngữ chỉ đồ ăn ở đây dành cho những tay sành điệu, chuộng những món ăn đắt tiền và hiếm có. Ông ta ăn như vậy mỗi ngày, tức là chủ ý phạm điều răn của Chúa. Điều răn Chúa không những cấm làm việc trong ngày sa-bát, mà cũng còn nói "ngươi hãy làm việc trong sáu ngày" (Xh 20,91) trong một xứ mà được ăn thịt mỗi tuần một lần và vẫn phải làm việc suốt sáu ngày trong tuần đã là may mắn rồi, thì người nhà giàu này quả là một tên lười biếng, chỉ ăn chơi. Còn La-da-rô cứ chờ đợi từng mẩu bánh nhỏ rớt xuống từ bàn tiệc của người nhà giàu. Trong thời Chúa Giê-su, khi ăn không dùng dao, nĩa hay khăn, nhưng dùng tay mà ăn, và trong những nhà giàu có, người ta dùng những mẩu bánh mì nhỏ lau tay cho sạch rồi ném bánh đó. La-da-rô chỉ đợi những mẩu bánh này.
- Nhân vật thứ hai là La-da-rô. Lạ thay, La-da-rô là một nhân vật duy nhất trong truyện dụ ngôn được nêu tên riêng. Tên đó có nghĩa là "Chúa là sự giúp đỡ của tôi". Ông là người ăn mày, mình ông đầy ung nhọt. Ông yếu đuối đến nỗi không thể đuổi lũ chó hoang ở đường phố, chúng đem mõm dơ bẩn đến làm khổ ông.
Cảnh tượng thế gian là như vậy, rồi tức khắc biến đổi sang một cảnh khác, khi cả hai bước qua cửa tử, trong đó La-da-rô được vinh hiển, còn tên nhà giàu thì bị gia hình. Tội của người nhà giàu này là tội gì ? Ông ta không tống cổ La-da-rô ra khỏi cổng nhà, đã không phản đối mà vẫn để cho La-da-rô nhận ấy những miếng bánh từ trên bàn của ông ta vất xuống. Ông đã không giơ chân đá La-da-rô mỗi khi đi qua, đã không có lòng độc ác với La-da-rô kia mà ! Tội của ông ta là tội đã không quan tâm đến La-da-rô, là kiểu "cháy nhà hàng xóm bình chân như vại", là chấp nhận La-da-rô như một phần của cảnh đời và chỉ đơn giản nghĩ rằng việc La-da-rô sống trong đau khổ, đói khát, còn ông ta chìm ngập trong xa hoa sung túc, chỉ là việc tự nhiên không thể tránh khỏi được. như có người đã nói "Không phải vì ông ta đã làm những điều quấy mà bị sa địa ngục, nhưng chính vì ông ta không quan tấm đến các điều lành phải làm nên mới xuống đó."
Lấy câu chuyện này làm điểm tựa, Đức Gio-an Phao-lô II đã ban huấn tại sân vận động Yaukee: "Người giàu này bị hình phạt vì ông không quan tâm tới người khác, vì không để ý gì tới La-da-rô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống. Đức Ki-tô không bao giờ lên án việc có tài sản, nhưng Người đưa ra những lời nghiêm khắc chống lại những người sử dụng của cải vật chất cách ích kỷ, không chú ý gì tới người khác …
Chúng ta phải luôn luôn nhớ, dụ ngôn người giàu và nghèo này. Câu chuyện đó phải đào tạo lương tâm chúng ta. Đức Ki-tô đòi buộc ta phải mở rộng lòng với anh chị em sống trong khó nghèo. Với những người giàu, những người khoẻ mạnh, những người có được một bảo đảm kinh tế, Chúa đòi buộc phải rộng lòng đối với người nghèo, những người sống trong các nước chưa phát triển." Nói như thế Đức Thánh Cha cũng chỉ nhắc lại điều mà Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: "Các giáo phụ và các tiến sĩ của Giáo Hội dạy rằng mọi người có bổn phận nâng đỡ người nghèo và không phải chỉ giúp đỡ bằng của cải dư thừa. Trước con số quá lớn những người đói khổ trong thế giới. Thánh Công Đồng tha thiết kêu gọi mọi người "hãy cho kẻ sắp chết đói của ăn, vì nếu không cho họ ăn là giết chết họ." (MV 69).
Về một phương diện khác, dụ ngôn dạy về giá trị cao cả của con người, độc lập hoàn toàn với địa vị xã hội, văn hóa tôn giáo, tình trạng giàu nghèo … Lòng kính trọng nhân phẩm này diễn tả việc ta phải giúp đỡ những ai khi gặp cảnh xấu số về tinh thần cũng như vật chất. "Vậy mỗi người phải coi người đồng loại – không trừ ai như "cái tôi thứ hai", cho nên trước hết phải quan tâm đếh sự sống của họ và quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một đời sống xứng đáng, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đã không săn sóc tới La-da-rô bất hạnh." (MV 27)
Tội của người nhà giàu này là ông ta thấy những đau khổ túng cực của thế giới mà không cảm thấy thương xót, buồn rầu, ông ta đã nhìn thấy một người đói khổ và không làm gì để cứu giúp. Hình phạt cho người này là hình phạt của một người đã không hề chú ý, quan tâm đến kẻ khác. Cần phải nhớ lời cảnh cáo đáng sợ ở đây: tội của người giàu ở đây không phải là ông đã làm gì xấu xa nhưng là đã không làm gì cả trước những đau khổ của kẻ khác.
Một thí dụ khác của việc tôn trọng nhân phẩm là phân phối công bằng tài nguyên thế giới, và những nỗ lực bảo vệ con người, kể cả các thai nhi, như Đức Phao-lô đệ lục đã phát bểu trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 4-10-1965: "Chính trong tổ chức của quý vị, mạng sống con người, ngay cả trong vấn đề sinh sản, phải được đặc biệt tôn trọng và được bảo vệ. Nhiệm vụ của quý vị là làm thế nào để có dồi dào cơm bánh trên bàn ăn nhân loại, chứ không phải là cổ võ kiểm soát sinh sản một cách giả tạo và phi lý, nhằm giảm bớt số người tham dự bữa tiệc đời sống."
Bài học cuối cùng liên quan tới lời yêu cầu của người giàu xin cho anh em ông.
Có thể là vì tình thương mà xin, nhưng cũng rất có thể ngầm bào chữa rằng nếu được soi sáng nhiều hơn, hẳn ông đã không phạm tội đáng buồn như thế.
Có thể có người trong chúng ta cảm thấy khó chịu khi lời ông ta xin cho anh em được cảnh cáo lại bị từ chối. Nhưng sự thật hiển nhiên là nếu người ta đã nắm được chân lý của lời Thiên Chúa, và nếu ở ngay trước mắt họ có kẻ buồn rầu cần an ủi, có kẻ thiếu thốn cần trợ giúp, có kẻ đau khổ cần giúp đỡ, song họ không động lòng và không làm gì hết, thì không còn gì khác để thay đổi lòng họ. Cuộc đối thoại giữa người giàu đau khổ và cụ tổ Áp-ra-ham là nổi bật linh động để ghi sâu vào lòng thính giả giáo huấn Chúa dậy qua dụ ngôn. Hỏa ngục là thế giới của ghen ghét, không có chỗ nào cho cảm thương tha nhân, chỉ có thù ghét ngự trị. Khi Áp-ra-ham nói với người giàu: "giữa chúng tôi đây và các con có cả một vực thẳm lớn." Cụ muốn nói sau khi chết và sống lại thì không còn ăn năn nào nữa. Những kẻ dữ sẽ không ăn năn và đi vào Nước Chúa ; người lành không phạm tội và không sa xuống hỏa ngục được, một vực thẳm lớn không thể vượt qua mà !
Chúng ta sẽ hiểu hơn với lời giải thích của thánh Gio-an Kim Khẩu: "Tôi xin anh em, quỳ xuống chân anh em mà nài xin, anh em hãy ăn năn, hãy sám hối mà trở về với Chúa, hãy sống tốt lành hơn, trong khi chúng ta còn hưởng được quãng thời gian vắn này, để chúng ta không phải than khóc cách vô ích như người giàu kia khi chúng ta chết, và khi mà những tiếng khóc than chẳng đem lại một an ủi nào. Vì ngay cả khi chúng ta có một người cha, người con, một người bạn hay bất cứ một nhân vật nào đi nữa có thế giá bên cạnh Chúa, không ai có thể giải cứu chúng ta khỏi những hành động của chúng ta, chính chúng ta kết án chúng ta."
“Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn khốn khổ”
Chương 16 của Tin Mừng Luca được lồng vào giữa hai dụ ngôn mà mọi người nhất là người: TN 26-C63
Chương 16 của Tin Mừng Luca được lồng vào giữa hai dụ ngôn mà mọi người nhất là người thừa tiền lắm của phải suy niệm nằm lòng. Đó là dụ ngôn người quản lý bất lương (1-13) được đọc Chúa nhật tuần trước, và dụ ngôn về Ladarô và người phú hộ (19-31) của Chúa nhật hôm nay.
Hai dụ ngôn đều qui về một ý tưởng: người giàu có sẽ hư mất, sẽ trầm luân đời đời nếu không biết chia sẻ của cải với những người túng thiếu. Chúa Giêsu đem đối chiếu hai nhân vật thật tương phản: một nhà phú hộ chỉ biết tin cậy vào của cải để hưởng thụ, và một người nghèo khổ chỉ biết trông cậy vào Chúa, Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
Hai người cách xa nhau một trời một vực. Nhà phú hộ, nhà cao cửa rộng, trận vui suốt sáng trận cười suốt đêm. Người hành khất ngồi dưới đất đen. Gần nhau mà xa nhau. Mảnh vụn bánh từ bàn tiệc của nhà phú hộ rơi xuống cũng không đến tay người nghèo. Giữa hai người có một địa ngục, một vực thẳm. Người giàu có thể giơ tay lôi kéo người nghèo lên, nước giàu có thể cứu trợ nước nghèo khỏi phá sản. Có điều, họ có muốn không?
Điều bi đát là nhà phú hộ coi Ladarô như không có. Ông chỉ biết thụ hưởng, sống chết mặc bay.
Nhưng bi đát hơn: một đêm kia sự chết đánh gục cả hai người cùng một lúc. Ladarô được vào dự tiệc trên trời do Abraham chủ lễ, được “ngồi trong lòng”, nghĩa là bên hữu vị tổ phụ (Ga 13,23). Còn nhà phú hộ bị tống xuống biển lửa. Miệng ông khô đét không được một giọt nước để làm dịu cơn khát đang giày vò, như xưa Ladarô không được một vụn bánh rơi rớt để thoa dịu cơn đói hoành hành.
Hoàn cảnh và thời thế đã thay đổi.
Người giàu bị đuổi ra khỏi bàn tiệc, không phải vì ông nhiều của, nhưng vì ông bị của cải đè bẹp trong chiếc hòm quí giá người ta mang đi chôn. Người nghèo cũng chết nhưng được các Thiên Thần “nâng bổng lên nơi lòng Abraham”. Thế giới bên kia đã mở, một thế giới không phải của tiền bạc mà của tình yêu. Ai có tình yêu, yêu Chúa và yêu tha nhân, mới được vào.
Thời gian viên mãn. Công tội được cân nhắc và báo đền.
Abraham nói: “Suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn khốn khổ”. Một tuyên ngôn nặng nề vì là một bản án vô phương giải toả.
Người chết đi, nhưng còn năm anh em ở lại. Họ cũng sống trong nhung lụa, coi người nghèo như không có trên mặt đất.
Có thể trong một ngày tang lễ, họ cũng đã đổ vài giọt nước mắt, nghe vài lời giảng thuyết: “Hỡi người hãy nhớ người là bụi tro, sẽ hoàn về tro bụi” (Stk 3,19). Nhưng rồi đâu lại vào đấy, Người đi đi mãi, kẻ ở vẫn tiếp tục cuộc sống lạc hoan. Phải một phép lạ, một người chết hiện về may ra mới cảnh tỉnh được họ. Nhưng trong thực tế, họ đi “cầu cơ, gọi hồn” vì tò mò, nhưng đời sống vẫn không thay đổi một gang một tấc.
Chỉ có Lời Chúa mới cứu vãn, nếu họ biết lắng tai nghe.
Lạy Chúa, xin cho lòng con đầy ưu ái, đầy tình thương cảm đối với tha nhân.
Lời Chúa hôm nay dễ đưa đến bốn ngộ nhận này, ta cần phải tránh: - Không phải hễ ai giàu: TN 26-C64
Lời Chúa hôm nay dễ đưa đến bốn ngộ nhận này, ta cần phải tránh:
- Không phải hễ ai giàu có là bị kết án.
- Không phải được ăn sung mặc sướng là bị mắc tội.
- Đây cũng không phải là định luật bù trừ: cứ đời này khổ là tất yếu đời sau sướng và ngược lại. Nhưng có khi khổ đời này là dấu đời sau khổ hơn; có khi đời này sung sướng là dấu đời sau hạnh phúc hơn.
- Lời Chúa hôm nay cũng không nhằm kết án kẻ giàu có bởi cách thu vén bất lương. Nhưng Giáo huấn hôm nay nhằm lên án kẻ chỉ lấy hưởng thụ làm lẽ sống, trái lại ai nghèo vì Chúa, lại là người giàu lòng Chúa xót thương !
KHỐN CHO KẺ LẤY HƯỞNG THỤ LÀM LẼ SỐNG
Cụ thể như tên phú hộ sống chỉ biết hưởng thụ, khi chết bị dìm sâu trong hoả ngục còn tìm cách chạy tội mình, Cha Abraham bảo hắn: “Ai sống là phải nghe lời răn dạy của Môsê và các ngôn sứ, không nghe là vô phương chạy tội” (xem Lc 16,27-31). Như Chúa đã dùng miệng Thiên sứ Amos chỉ là kẻ Chăn cừu mà răn đe người giàu chỉ bám lấy trần thế để hưởng thụ: giừơng ngà, trường kỷ, ngớn ngả nằm trên ! Y phục bảnh bao. Dầu thơm nặc mùi ! Yến tiệc cao lương. Rượu bầu hảo hạng, ca hát inh ỏi, suốt ngày suốt đêm. Nhưng chẳng quan tâm đến giống nòi của mình đang gặp khổ đau !(bài đọc I)
Loại phú hộ sống như thế Chúa Giêsu đã vạch tội họ, Luca ghi lại:
1/ Dùng tiền cúa vô ý thức tăng thêm đau khổ cho người nghèo:
Hai hình ảnh đối lập:
a. Người nghèo Lazarô quá khổ vì cảnh tam cùng:
+ Bần cùng:nghèo tình cảm: không ai thương; nghèo vật chất: không viên thuốc uống, không có lấy một mẫu bánh để ăn. Chịu nằm chết khô ở đầu đường xó chợ!
+ Cùng khốn: Hơi tàn sức lặn vì ung nhọn khắp mình, tình trạng như ông gióp !
+ Cùng đinh: Chỉ có một mình không bạn bè, bị đời bỏ rơi nằm đầu ngõ, bạn tâm giao chỉ có vài con chó hoang thỉnh thoảng đến liếm ung nhọt ! Đó là hình ảnh của người nghèo. Nên sắp chết, Tv 21/22, 16-17 nói: “Chốn tử vong Chúa đặt con vào, quanh con bầy chó bao quanh cả rồi !”.
b. Phú hộ quá giàu: ngày ngày ăn mặc gấm tía, yến tiệc linh đình: sang trọng đến nỗi không chùi tay bằng khăn, hay bằng giấy, mà lấy ruột bánh mì làm khăn lau !? Rồi vất xuống đất ! Thật là phí trước mắt Lazarô, bởi vì nó chỉ ước ăn những miếng bánh đó mà cũng không có !
Cách dùng tiền của vô ý thức này quả thật làm cho kẻ nghèo càng thêm xót xa cho thân phận ! Thời đại nào cũng đầy dẫy những người phú hộ như thế. Đan cử:
- Có người đi vào đoàn hội tiệc tùng, vàng bạc Châu báu ngọc vấn đầy cổ, vong đeo tay, lắc vàng xếp hàng nơi cổ tay, y phục bảnh bao, lại có người nghèo cùng đi vào, y phục lem luốc. Người ta chỉ trố mắt nhìn người giàu mà nói: “Xin mời Ngài lên an tọa chỗ danh dự này”, còn ngừơi nghèo người ta chỉ: “Hãy đứng đó, kia” hay “hãy ngồi dưới bệ Chân người ta” (Gac 2,2-4).
Như thế người nghèo làm sao không tăng thêm tủi nhục !?
- Có những người móc bao thuốc đắt tiền hút trước mặt người nghèo làm cả ngày tiền công chỉ bằng một điếu thuốc người ta hút chơi !
- Có những gia đình đi chơi một ngày tiền tốn kém bằng lương trả cho tên đầy tớ mướn giúp việc nhà suốt năm !
Và còn nhiều cảnh sống khá chênh lệnh trong một môi trường;… hoặc tệ hơn nữa, một người nghèo, áo may ráp nối từng mảnh, kiếm ăn bữa đói bữa no; lâm bệnh thì uống thuốc cỏ, nhà ở chui rúc như hang chuột, bên cạnh nhà một trọc phú: của cải để hư thối không dùng hết, xiêm y cất trong két để mối gậm, vàng bạc chôn giấu để ten sét, chính ten sét ấy nó tố tội ngươi (Gac 5.1-3).
Đành rằng về Đức công bằng, có những người gặp dịp may nên giàu có. Nhưng Đức bác ái kkhông cho phép họ dùng của cải cách vô ý thức, tạo nên bức tường ngăn cách giữa người giàu và người nghèo, là họ tự đào hố chôn sống mình! (xem bài đọc I)
Hãy nhớ rằng: của cải vật chất chỉ sinh sự sống đời đời khi nó được dùng trong việc hợp tác với Hội Thánh để làm phát triển Tin Mừng và chia sẻ để biểu lộ Đức ái. Y học đã chứng minh được rằng: người trẻ, khoẻ không phải là người ăn uống nhiều cao lương mỹ vị, mà là người hướng về việc phục vụ hạnh phúc cho người khác, vì: chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân (kinh hoà bình).
Mẹ Têrêsa Calcutta, khi mẹ còn sống, tuy đã cao niên, với vóc dáng gầy yếu, nhưng mẹ rất khoẻ, mẹ lao vào môi trường đầy khó khăn để phục vụ những người cùng khốn
2/ Chỉ biết cái “TÔI”:
Phú hộ chỉ biết sống làm vui thoả cái tôi trong yến tiệc linh đình… Chính vì cái tôi nặng nề ấy, nó đã dìm sâu hắn dưới đáy hoả ngục, trong lò lửa ác nghiệt không thương xót ai ấy vẫn không làm teo cái tôi của hắn mà dường như còn phình to hơn: “Lạy cha Abraham, xin xót thương tôi, và sai Lazarô nhúng đầu ngón tay một chút nước mà thấm dọi luỡi tôi, vì tôi đang quằn quại trong ngọn lủa này” (Lc16,24).
Trong hoả ngục thiếu gì người khốn khó quanh hắn, thế mà hắn chỉ xin một giọt nước nhỏ trúng tọa độ lưỡi hắn mà thôi ! Sao hắn không xin mấy thùng nước tạt xuống khắp hoả ngục, ít là mỗi người ai cũng được một chút !?
Thấy xin không được: “Vì có một vực thẳm đã định sẵn, cắt ngang giữa phú hộ và Lazarô” (LC16,26) vì do cách dùng tiền của mà tên phú hộ đã đào sâu rộng thêm, nên “khiến cho tự bên này có ai muốn cũng không thể qua bên các ngươi, và tự bên ấy, người ta không quá giang được đến với chúng ta” (Lc 16,26b). Nên hắn lại xin sai Lazarô đến “nhà Cha tôi, răn dạy 5 anh em tôi”…(Lc16,27-28).
Sao lúc này hắn không giác ngộ, xin sai Lazarô dạy hết mọi người trên trái đất, mà chỉ biết xin cho gia đình tôi ? Hình như cái tôi nó là bản tính con người, xuất hiện ngay khi chưa ra đời. Ta hãy đọc lại truyện bà Rêbêca (St 25, 19-27), và truyện bà Thamar (xem St 38,27-30), khi các bà mang thai sinh đôi, ngay trong bụng mẹ, hai đứa đã đánh nhau để tranh ai ra trước, vì làm anh được hưởng 2/3 gia tài ! Biết vậy bà mẹ đã dặn cô đỡ: “Cháu nào ra trước xin cô lấy chỉ buộc vào tay Cháu, kẻo hai đứa sinh cùng khuôn khó phân biệt được đứa nào là anh đứa nào là em ! Thế mà một đứa vừa thò tay ra khỏi cửa mình mẹ, đứa kia tức khí đạp 1 phát, vì đau quá, đứa đưa tay ra trước thụt tay vào, chàng kia chạy thọt ra !
Bởi thế mà Thánh vịnh 50,7 than: “Từ trong thai mẫu, tôi đã là kẻ bất chính, ngày mới sinh tôi đã mắc tội rồi !”
Việc tên phú hộ xin người chết hiện về răn dạy năm anh em hắn, không phải vì hắn có lòng thương muốn cứu anh em mình, nhưng đó là mánh lới muốn Chạy tội. Nếu Chúa nhận lời đề nghị này của hắn, chắc chắn hắn có cớ quy tội Chúa:Tôi nay bị khổ dưới hoả ngục là do lỗi của Ngài đã không cho người chết hiện về báo cho tôi, Ngài đã không làm mọi cách để Giáo dục người ta. Tôi chỉ là nạn nhân !! Thực tế thì Chúa đã cho một Lazarô giàu có kinh nghiệm về cách dùng của cải làm đẹp lòng Chúa-được sống lại (xem Ga11). Nhưng người ta lại muốn giết Lazarô để khỏi phải nhìn thấy mặt ông, chứ nào có ai muốn nghe Lazarô nói !(Ga 12,10)
Mặt khác nếu Chúa nhận lời phú hộ cho Lazarô nghèo khó sống lại về răn đời thì làm sao người nghèo có kinh nghiệmvề tiền của dùng sao cho đẹp lòng Chúa để dạy người giàu ? Và không lẽ Chúa tự hạ giá lời các ngôn sứ thấp hơn lời kẻ chết sống lại hay sao ? Do đó chính Ngài đã trả lời cho tên phú hộ: “Chúng ta đã có Môsê và các ngôn sứ, chúng phải nghe các Ngài” (Ga 11,29).
Dựa vào Giáo huấn trên đây, Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Nếu ta cố tình phạm tội, sau khi đã lĩnh lấy tri thức về sự thật, thì không còn lễ tế nào đền tội cho nó nữa, nhưng là viễn tưởng đáng kinh hãi: lửa phán xét và lửa bừng bừng thiêu phường đối địch. Kẻ nào phạm luật Môsê, tất phải chết không được dung thứ, theo chứng của hai hay ba người, thế thì anh em thử nghĩ xem, còn đáng phải chịu một hình phạt dữ dằn hơn gấp mấy, kẻ chà đạp Con Thiên Chúa, đã kể máu giao ứơc đã tác Thánh mình dường như đồ phàm tục, và đã lăng mạ thần khí ân sủng ! (Dt10,26-29).
PHÚC CHO KẺ NGHÈO VÌ CHÚA, HỌ ĐƯỢC GIẦU LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG:
Trong dụ ngôn Chúa không nói gì về công Đức của Lazarô, dầu thế Chúa đặt tên cho người nghèo khổ này là Lazarô chắc chắn Ngài muốn mọi người nhớ đến Lazarô em của hai chị em Matta và Maria đã chết thối 4 ngày mà Chúa cho cậu được sống lại: Người đã chết là kẻ nghèo nhất, có vất đầu ngõ cũng chẳng ai quan tâm, chỉ làm thức ăn cho loài vật: “Hình ảnh Lazarô nằm đầu ngõ nhà phú hộ, chó hoang đến liếm ung nhọt của anh” (Lc 16,20-21).
Như thế tên “Lazarô” nghĩa là “người được Chúa thương xót”, vì:
- Con bà goá Sarepta Chúa cho sống lại, bởi người mẹ nghèo chỉ có một chiếc bánh đưa luôn cho Elya ăn (I V.17.7t)
- Con bà lớn thành Sunem, Chúa cũng cho sống lại, vì bà đã giúp Elysê trú nhà(2 V.4.18-37).
Luca lại cho biết: chính Chúa tự so sánh mình với Elya và Elysê (xem Lc 4,25-27). Nên không lẽ Chúa lại không cho em của Matta và Maria dù đã chết thối cũng được sống lại sao ? Vì chỉ mình ông Giakêu biết chia sẻ, mà Chúa còn tuyên bố: “Cả nhà ông được cứu độ”(Lc 19,9), huống chi cả hai chị em Matta và Maria biết đóng góp với Chúa trong việc rao giảng Tin Mừng (Lc 10, 38-42), mà Chúa không cứu được em họ khỏi chết sao ?
Vì họa - phúc của hai nhân vật đối lập trong Tin Mừng hôm nay, mà Hội Thánh mượn lời Thánh Phaolô gởi cho Giám mục Timôthêu để khuyên cả chúng ta: “Đừng kiêu căng tự phụ, vào trần gian ta chẳng mang gì, thì ta cũng không thể đem gì khi ra, một khi có ăn có mặc ta hãy bằng lòng, còn những kẻ chỉ muốn làm giàu, thì sa vào cám dỗ với cạm bẫy, và lắm đam mê ngông cuồng tai hại, mà trầm luân diệt vong, hư khốn, vì tham tiền là gốc mọi sự dữ. Cẩu thả lòng tham, thì có kẻ lạc xa Đức tin và bị bao nỗi đớn đau xâu xé. Còn ngươi, hỡi người của Thiên Chúa, hãy lánh xa các điều ấy ! Hãy theo đuổi công chính, đạo đức, lòng tin, lòng mến, kiên nhẫn, từ tâm, hãy cố chiếm cho được sự sống đời đời… hãy giữ lệnh truyền sống vô tỳ tích, vô phương trách cứ cho đến thời hiển linh của Chúa chúng ta. Đức Giêsu Kitô, cuộc hiển linh sẽ được tỏ bày chính thời, chính buổi, bởi Đấng phúc lộc và Đấng nhất quyền năng. Vua trên các vua, Chúa trên các Chúa. Đấng độc nhất có sự trường sinh bất tử. Đừng hy vọng vào cái vô thường của phú quý, nhưng là vào Thiên Chúa. Đấng cung cấp mọi sự một cách phong phú cho ta hưởng dùng. Hãy làm ơn làm nghĩa, hãy giàu có việc lành, hào phóng, rộng rãi, thông chia, mà tích trữ cho mình vốn hậu, làm bản cho mai sau, hầu chiếm được sự sống đích thực”.(I Tm.6: Bài II).
Toàn cầu hóa đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh: TN 26-C65 FB
Toàn cầu hóa đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà còn là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc Âm.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi người đều là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều người bất mãn tự hỏi: “Ông nhà giàu đâu có tội gì mà phải xuống hỏa ngục. Ông không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?”.
Vâng, giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích cực của tiền bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.
Nguy cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn. Khi đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã ngăn cản bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường xưa cũ.
Nguy cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá. Người có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có, người giàu sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh. Đó là trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình liên đới.
Nguy cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời. Hạnh phúc trên Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lãnh được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ, không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là người tự chọn con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng của tha nhân, là người tự đào huyệt chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới là người tự trục xuất mình ra khỏi Nước Trời.
Bây giờ thì chúng ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông nhà giàu không có tội gì. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới, thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô. Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông biết mình cần Ladarô cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.
Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt con để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người nghèo khổ không?
2) Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?
3) Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?
Chúa Giêsu kể câu chuyện về một người giàu có đã từ chối chia sẻ cho một gã ăn mày chết đói: TN 26-C66
Chúa Giêsu kể câu chuyện về một người giàu có đã từ chối chia sẻ cho một gã ăn mày chết đói ngồi nơi cổng nhà, dù chỉ là những mẩu bánh vụn từ trên bàn ăn của ông. Sự dữ khủng khiếp nhất đang ngày một lan tràn trong thế giới hôm nay, đó chính là thái độ dửng dưng với những người đang sống bên cạnh chúng ta. Và rồi, tất cả chúng ta đều là những kẻ ăn mày trước mặt Chúa. Chúng ta hãy nài xin sự tha thứ của Chúa, đặc biệt về những lần chúng ta đã không bày tỏ thái độ quan tâm đến những anh chị em kém may mắn hơn đang sống bên cạnh chúng ta.
Tôi thú nhận ...
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: Am 6,1.4-7
Ngôn sứ Amốt lên tiếng chống lại bọn giàu có ở cả Giuđa và Israel. Bài đọc 2 : 1 Tm 6,11-16
Như Đức Kitô Giêsu là Đấng đã luôn trung thành với sứ mạng khi đối diện với kẻ ghét Người, cho dẫu họ sẽ tìm cách giết Người. Người Kitô hữu đối diện với những bách hại cũng phải trung thành với lời mời gọi của Chúa.
Tin Mừng: Lc 16,19-31
Chúng ta nghe câu chuyện về người phú hộ đã phớt lờ trước cảnh ngộ khốn khổ của người ăn mày đang ngồi bên cổng.
SỐNG TRONG NHỮNG THẾ GIỚI ĐỐI LẬP
Vào một ngày trong tháng 7 tại Mỹ, một người đang ngồi nơi bàn giấy trong một căn phòng tiện nghi. Nhiệt độ trong phòng tuyệt vời, ông cảm thấy tràn đầy sinh lực. Từ cửa sổ, ông nhìn thấy bên ngoài, mặt trời dần dần sáng lên, những làn gió nhẹ đong đưa những ngọn cây. Một ngày tuyệt đẹp !
Ông nhìn cậu bé đang làm việc ngoài vườn. Phán đoán từ những động tác hết sức chậm rãi của cậu ta, hẳn người ta sẽ nghĩ rằng nó là tù nhân đang phải lao động cưỡng bức. Cậu ta thường xuyên ngừng lại. Người đàn ông tự hỏi: “Điều gì xảy ra cho cậu bé kia ? Tại sao cậu bé lại quá uể oải như thế ?”
Nhưng ngay hôm sau, người đàn ông phải đi ra ngoài vì một số công việc. Ngay khi bước ra khỏi phòng, một luồng khí nóng thổi vào ông khiến ông phải dừng lại. Nhiệt độ ngoài trời lên tới 58oC. Giờ thì ông biết được điều mà cậu bé đã phải đương đầu. Ông thực sự kinh ngạc khi cậu bé đã không bị ngất đi khi làm việc trong khí hậu như thế.
Mặc dù thế giới của ông ta được ngăn cách với thế giới của cậu bé chỉ bằng bề ngang của một bức tường, nhưng sự khác biệt giữa hai thế giới này quá nhiều và thật khó mà biết. Giả như ông không rời khỏi căn phòng của mình để bước vào thế giới của cậu bé, thì không bao giờ ông biết được sự khác biệt của hai thế giới này.
Chúng ta có thể đang ở ngay trong tầm tay của người nào đó, thế mà lại như sống trong một thế giới khác biệt hoàn toàn với người ấy. Chúng ta sẽ không bao giờ biết được sự khác biệt này nếu như chúng ta không ra khỏi thế giới của mình để bước vào bên trong thế giới của người khác. Chúng ta không bao giờ hiểu được nếu chỉ đứng ở bên ngoài.
Nhà phú hộ và Ladarô sống trong những thế giới khác biệt, nhưng những thế giới này lại ở sát bên nhau. Ấy thế nhà phú hộ không bao giờ bước vào thế giới của người nghèo. Ông ta không giúp đỡ Ladarô với tình người, lại càng không nhận ra Ladarô là người anh em mà ông ta có bổn phận phải chia sẻ. Ông ta dửng dưng trước Ladarô, và dửng dưng là tội ác khủng khiếp nhất.
Điều này diễn ra như thế nào ? Sự giàu có khiến cho con người chỉ bận tâm về chính bản thân mình. Họ khó nhìn thấy những khó khăn nơi người khác và tâm hồn họ bị chai cứng. Đó là một thảm kịch thực tế. Một cá nhân hay một quốc gia đánh mất tâm hồn của chính mình khi chỉ mãi lo tích trữ của cải để giàu có hơn.
Nhà phú hộ đã không làm điều gì sai quấy, ông ta chẳng gây thiệt hại hoặc bóc lột người nghèo khó. Thế nhưng ông đã kết thúc cuộc đời mình trong nơi âm phủ. Ông bị xử phạt, không phải bởi vì ông là một người giàu có, nhưng bởi vì ông đã không bày tỏ lòng thương xót với người nghèo khó. Ông chỉ sống cho chính mình.
Tội không chỉ là làm điều sai trái. Tội còn là vì thiếu sót không làm những điều tốt, tội của sự ù lì, hay chẳng làm điều gì cả, và thậm chí tệ hơn nữa đó là thái độ dửng dưng. Đây là một dụ ngôn gây sửng sốt. Kết thúc câu chuyện không đẹp, ít là đối với nhà phú hộ, nhân vật trung tâm của câu chuyện.
Xin Thiên Chúa, Đấng tạo thành thế giới hoàn hảo, giúp chúng ta bước vào trong thế giới của những con người đau khổ và thiếu thốn. Để rồi từ những kinh nghiệm có được từ cuộc sống này, chúng ta chắc chắn sẽ được biến đổi để biết cách làm những gì có thể giúp đỡ được những anh chị em đó.
Trước mặt Chúa, chúng ta hằng kêu xin Người thương giúp đỡ cho những nhu cầu thiết yếu mỗi ngày của chúng ta. Chúng ta như những người ăn mày trước sự giàu có của Thiên Chúa. Thế thì, chúng ta cũng hãy rộng rãi, tử tế, nhân hậu với anh chị em của chúng ta, bởi vì chúng ta cho đi bao nhiêu thì chúng ta sẽ nhận lại được bấy nhiêu.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Chúng ta hãy cầu xin Chúa thương giúp chúng ta hiểu được sự nghèo khó và sự giàu có đích thực là gì.
Xướng: Cầu nguyện cho các Kitô hữu, để họ đừng dửng dưng trước nhu cầu thiết yếu của anh chị em đang sống bên cạnh.
Xướng: Cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo, để họ luôn nỗ lực trong những cố gắng loại trừ sự nghèo đói.
Xướng: Cầu nguyện cho những người vô gia cư, nghèo đói, ốm đau đang ngồi bên lề của cuộc sống.
Xướng: Xin ân sủng Chúa giúp chúng ta tìm kiếm sự giàu có về lòng thương xót hơn là sự giàu có về của cải trần gian.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa quyền năng và hằng sống, xin đổ tràn tình yêu của Ngài trong tâm hồn chúng con, ban xuống trên chúng con ân sủng để thắng vượt những ích kỷ, giúp chúng con trung thành với Chúa và với mọi người. Chúng con cầu xin...
Câu: “Mạnh Vì Gạo, Bạo Vì Tiền” của người xưa diễn tả sức mạnh của đồng tiền trong đời sống: TN 26-C67
Câu: “Mạnh Vì Gạo, Bạo Vì Tiền” của người xưa diễn tả sức mạnh của đồng tiền trong đời sống con người. Có tiền, ngưòi ta có thể làm được nhiều việc lớn lao, phúc đức, cứu sống nhiều mạng người và thậm chí có được sự sống đời đời nếu biết dùng đồng tiền làm việc bác ái, chia sẻ (đọc Mt 25). Nhưng có tiền mà không biết dùng hoặc tệ hơn nữa là ỷ vào nó mà làm hại người khác, thì người ta sẽ bị trừng phạt như những nhà cầm quyền Ít-ra-en thời ngôn sứ A-mốt hay như ông nhà giầu trong câu truyện dụ ngôn của Phúc âm hôm nay. Vậy chúng ta cần phải xem xét cách chúng ta dùng đồng tiền để tránh sự trừng phạt.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Lời Chúa trong Sách A-mốt (Am 6,1.4-7): 1 Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xi-on, và sống an nhiên tự tại trên núi Sa-ma-ri, họ là những nhà lãnh đạo của dân đứng đầu các dân khiến nhà Ít-ra-en phải đến cầu cạnh. 4 Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. 5 Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. 6 Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giu-se sụp đổ! 7 Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!
(2) Bài đọc 2: Lời Chúa trong thư thứ nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi ông Ti-mô-thê (1 Tm 6,11-16): 11 Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. 12 Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng. 13 Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Ki-tô Giê-su là Đấng đã làm chứng trước toà tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, tôi truyền cho anh: 14 hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện. 15 Đấng sẽ cho Đức Ki-tô tỏ hiện vào đúng thời đúng buổi,
là Chúa Tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các chúa. 16 Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Người danh dự và uy quyền đến muôn đời. A-men.
(3) Bài Tin Mừng: Lời Chúa trong Sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca (Lc 16,19-31 19 "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
23 "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24 Bấy giờ ông ta kêu lên: "Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm! 25 Ông Áp-ra-ham đáp: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.
27 "Ông nhà giàu nói: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này! 29 Ông Áp-ra-ham đáp: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó. 30 Ông nhà giàu nói: "Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. 31 Ông Áp-ra-ham đáp: "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Am 6,1.4-7) là một trích đoạn của Sách Ngôn sứ A-mốt cảnh cáo những người quyền cao chức trọng trong dân Ít-ra-en chỉ biết sống trong cảnh giầu sang nhung lụa mà chẳng quan tâm gì đến tình hình và vận mệnh của dân tộc. Hậu quả là đất nước họ sẽ bị ngoại bang xâm chiếm và bản thân họ sẽ phải bị lưu đầy khốn khổ.
Qua đoạn Sách A-mốt trên (6,1.4-7) chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng rất công minh: những người cầm quyền đã được giao trọng trách cai trị dân, được hưởng những đặc quyền, đặc lợi về vật chất, thì họ phải chăm lo cho dân, cho đất nước. Sống thờ ơ với vận mệnh của dân, chỉ biết hưởng thụ mà không chu toàn trách nhiệm, thì họ đáng bị trừng phạt.
(2) Bài đọc 2 (1 Tm 6,11-16) là những lời khuyên chân tình của Thánh Phao-lô dành cho ông Ti-mô-thê, một cộng sự thân cận của ngài. Lời khuyên có hai khía cạnh tiêu cực và tích cực. Khía cạnh tiêu cực là: “hãy tránh xa những điều đó” (là muốn làm giầu, ham tiền bạc); còn khía cạnh tích cực là: “hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà” Nói cách khác là kiên cường chiến đấu “cho được sự sống đời đời” mà Thiên Chúa chỉ ban cho những ai “giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách qua Chúa Giê-su Ki-tô.”
Trong đoạn thư gửi ông Ti-mô-thê trên (6,11-16) chúng ta được Thánh Phao-lô dậy cho biết: Thiên Chúa là tốt lành thánh thiện và thưởng phạt công minh. Người yêu thương những con người sống đơn sơ, khó nghèo, thanh thoát (đối với địa vị, chức quyền và tiền bạc), giầu lòng tin và lòng mến.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 16,19-31) là câu chuyện dụ ngôn trong Phúc âm Lu-ca nói về hai ‘số phận’ hoàn toàn trái ngược nhau của hai người, cả ở đời này lẫn ở đời sau. Thật vậy, ông nhà giầu (ngày nay đuợc gọi là đại gia) có tiền của, bạc vàng, châu báu dư thừa, nhưng không được Chúa Giê-su cho ông một cái tên. Còn anh chàng “nghèo “rớt mồng tơi” “vô danh tiểu tốt” thì lại có tên đàng hoàng: La-da-rô. Ông đại gia sống trong nhung lụa, tiệc tùng sa hoa, dư thừa và sung sướng ở đời này nhưng lại cô đơn, khốn khổ ở đời sau. Còn anh La-da-rô sau cuộc sống đói khổ, túng thiếu ở đời này, lại tràn trề hạnh phúc ở đời sau. Một hố ngăn cách “không thể san bằng” được dựng nên giữa hai con người, giữa hai thế giới. Nguyên nhân tạo ra hố sâu ngăn cách ấy không hẳn là sự giầu có, nhưng là việc ông nhà giầu kia “không chịu thấy” (tức không quan tâm giúp đỡ) “anh chàng La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no.”
Qua đoạn Phúc âm Lc 16,19-31 này chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng rất công minh chính đại trong đối xử với mọi người: Mọi ân huệ (vật chất, tinh thần) Người ban đều kèm theo một trách nhiệm; và mọi khổ cực hay thiệt thòi đều chỉ là tạm thời, và có thể là yếu tố đem lại hạnh phúc thật. Vì thế không thể chỉ có hưởng thụ mà không có đền đáp, chỉ biết có mình mà không biết đến người chung quanh đang cần được chia sẻ, giúp đỡ. Cũng vì thế, không có khổ cực, thiệt thòi nào mà không được bù đắp, miễn đương sự sống công chính và tin tưởng vào sự công minh của Thiên Chúa.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai khía cạnh, khía cạnh tiêu cực (không nên/ không được) và khía cạnh tích cực (nên/phải):
* Khía cạnh tiêu cực là các Ki-tô hữu không nên/được ham hố chức quyền, địa vị và tiền bạc mà cố gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, nhẫn nại và hiền hòa.
* Khía cạnh tích cực là các Ki-tô hữu phải biết dùng chức quyền, địa vị và của cải mà Thiên Chúa ban cho: để tạo nên phúc và giúp đỡ những người nghèo khó, túng thiếu, bị thiệt thòi, kém may mắn …. sống đầy dẫy trong xã hội.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Suy nghĩ một chút, tôi nghe thấy Lời Chúa mời tôi kiểm điểm về cách sử dụng chức quyền, địa vị và tiền bạc mà Chúa giao cho tôi:
3.1 Khía cạnh tiêu cực: Trước sức quyến rũ của chức quyền, địa vị và đồng tiền, tôi có thái độ nào: ham muốn, chạy theo và quỵ lụy hay cảnh giác, tự chủ và siêu thoát?
3.2 Khía cạnh tích cực: Khi được Chúa giao chức quyền, địa vị và của cải, tôi đã dùng những thứ ấy để tạo nên phúc hay gây nên tội? tôi đã dùng những thứ ấy để giúp đỡ tha nhân, cộng đồng hay chỉ phục vụ bản thân và gia đình mình mà thôi?
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ)
4.1 Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hội Thánh, nhất là cho các vị lãnh đạo là Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI, các Giám Mục, các Linh Mục và Tu Sĩ Nam Nữ được tinh tuyền, siêu thoát trước sức mạnh của đồng tiền, để làm dấu chỉ và chứng nhân cho Nước Trời.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
D.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 Chúng ta hãy cầu nguyện cho các vị lãnh đạo các quốc gia, nhất cho chính quyền (Việt Nam, Hoa Kỳ, Canađa…); Xin Chúa thương phù trợ để họ biết dùng quyền hành và của cải trong tay mà chu toàn trách nhiệm lo cho dân mà Chúa đã giao phó.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
D.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 Chúng ta hãy cầu nguyện cho chính chúng ta là những người phải vất vả làm ăn, để có được điều kiện sinh sống; Xin Chúa thương độ trì, để chúng ta được “hàng ngày dùng đủ” và biết mở lòng, mở tay chia sẻ với những người túng thiếu cần chúng ta giúp đỡ.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. D.- Xin Chúa nhận lời chúng con. 4.4 Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người nghèo, không đủ cơm ăn, áo mặc, không có tiền đi học hay chữa bệnh; Xin Chúa thương an ủi, nâng đỡ để cuộc sống của họ bớt lầm than, cơ cực. X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. D.- Xin Chúa nhận lời chúng con. Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Seattle ngày 16 tháng 9 năm 2007
(Ngày giỗ thứ năm của Đức Hồng Y P.X. Nguyễn Văn Thuận)
“Con đã nhận phần phước của con rồi, còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”.
Bạn thân mến,
Qua câu Lời Chúa này bạn có thấy nghèo là một hạnh phúc không ? Chắc bạn sẽ nói: theo đức tin: TN 26-C68
Qua câu Lời Chúa này bạn có thấy nghèo là một hạnh phúc không ? Chắc bạn sẽ nói: theo đức tin mà nói thì là đúng thật, vì cuối cùng những người bất hạnh nghèo khó cũng được Thiên Chúa an ủi.
Đức tin mà bạn đang có là đức tin bởi Thiên Chúa ban cho nhờ công nghiệp của Chúa Giê-su, chính nhờ đức tin mà bạn cảm thấy vui vẻ sống trong hoàn cảnh hiện tại của bạn, chính nhờ đức tin mà Lời Chúa hôm nay đã soi sáng tâm hồn bạn biết, đâu là sự an ủi đích thực đến từ Thiên Chúa và đâu là an ủi của loài người, và nhờ đức tin mà bạn biết có hạnh phúc viên mãn ở đời sau trên nước thiên đàng.
Chung quanh bạn có rất nhiều La-da-rô, và cũng có lúc nào đó bạn cũng đã trở thành một La-da-rô thiếu thốn khi bạn chìa tay xin người khác một điếu thuốc, hoặc khi bạn đi làm mà quên đem theo tiền để mua vé xe buýt, lúc đó lòng bạn cảm thấy tủi thân như thế nào, thì anh La-da-rô và những người nghèo khó bất hạnh cũng tủi thân như thế khi phải bị người khác khinh bỉ hất hủi.
Bạn thân mến,
Sự giàu có của ông phú hộ không phải là tội, nhưng tội chính là lòng dạ của ông dửng dưng trước những đau khổ của tha nhân; tội chính là ông đã biến mình trở thành người ăn chơi xa hoa trên nổi bất hạnh của người khác; tội chính là ông ta đã phung phí tiền bạc mà Thiên Chúa trao cho ông để ông thay mặt Ngài giúp đỡ người khác...
Ông phú hộ đã được phúc ở đời này mà không dùng nó để hưởng phúc mai sau, anh La-da-rô đã chịu những bất hạnh ở đời này mà không oán trách Thiên Chúa, nên được đón tiếp vào lòng tổ phụ Áp-ra-ham...
Khi suy gẫm hình ảnh ông phú hộ và anh Ladarô nghèo khó trong trang Tin mừng, giờ đây: TN 26-C69
Khi suy gẫm hình ảnh ông phú hộ và anh Ladarô nghèo khó trong trang Tin mừng, giờ đây chúng ta đang bị thôi thúc bởi tiếng Chúa mời gọi phải trở về với giới răn yêu thương, từ đó mọi người hãy tìm cho mình những cách sống phù hợp với giới răn cao quý ấy, nhờ đó mà chúng ta sẽ được cứu độ.
1/ GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG:
Giới răn yêu thương chính là lời trối của Đức Giêsu trước khi Ngài giã từ thế gian về với Chúa Cha: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12)
Khi dạy sống yêu thương thì chính Chúa cũng đã nêu gương trước cho chúng ta về lối sống tuyệt vời này. Vì cả cuộc đời của Chúa Giêsu là cả thời gian Ngài sống để yêu thương mọi người, nhất là người nghèo khó. Vì Chúa đã khẳng định: “ Thần khí Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong Tôi, để Tôi loan báo Tin mừng đến cho kẻ nghèo hèn” ( Lc 4,18)
Chúa Giêsu đến với người nghèo khó bằng cả con tim của Ngài. Con tim chạnh lòng thương với những người què quặt, những người đui mù, những người câm điếc, những người phong cùi, những người bất hạnh, những người bị bỏ rơi, những người tội lỗi, những người đói khát… Những người này luôn là những nỗi thao thức của Đức Giêsu, là những đối tượng để Đức Giêsu đem tình thương đến cho họ bằng những việc làm để cứu chữa và nâng đỡ họ.
Sau này tình yêu của Chúa Giêsu đã thể hiện đến cùng, đã đạt đến đỉnh cao khi Chúa tự hiến mình qua Bí Tính Thánh Thể. Từ giờ phút linh thiêng ấy thì tình yêu của Đức Giêsu đã trở nên trọn vẹn. Từ đây thời gian Chúa phục vụ yêu thương trong quá khứ đã được ứng nghiệm nơi Bí Tích Thánh Thể. Thời gian phục vụ yêu thương của ngày mai và tương lai phải được khơi nguồn và củng cố từ Bí Tích Thánh Thể. Vì Bí Tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu. Gọi là Bí Tích Tình Yêu vì Chúa Giêsu đã lấy chính sự sống của Ngài để chia sẻ, để nâng đỡ, để nuôi dưỡng chúng ta không những trong cuộc sống hiện tại, mà còn hướng đến một cuộc sống tương lai vĩnh cửu như lời Chúa đã nói: “ Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì sẽ được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” ( Ga 6,54).
Khi trở về thời gian mà Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về cách sống giới răn yêu thương. Thì đây cũng là thời điểm mà Chúa gọi chúng ta phải sống giới răn yêu thương như Chúa.
2/ SỐNG GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG:
Sống giới răn yêu thương luôn đòi hỏi chúng ta phải có cách sống quảng đại. Dù chúng ta có tiền rừng bạc bể, nhưng lòng chúng ta không quảng đại thì đó là sự thiệt thòi mất mát rất lớn cho chúng ta.
Hình ảnh ông phú hộ giàu có, mặc toàn lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình. Đó là hình ảnh nói lên một cuộc sống sung túc tại trần gian. Nhưng ông không biết tận dụng những gì ông có để mua cái tốt hơn cho cuộc sống của ông. Cuối cùng thì ông đã mất tất cả. Ông mất tất cả vì ông đã hẹp hòi với sự sống của một con người cũng có nhân phẩm như ông là anh Ladarô nghèo khó. Ông mất tất cả vì ông làm ngơ trước những nhu cầu của một con người giống như ông, là cần có ăn, có uống, để nối dài sự sống như anh Ladarô nghèo khó. Ông mất tất cả vì cuộc sống của ông nói lên hình ảnh của một nếp sống giàu có, nhưng cách sống của ông thì không có quả tim yêu thương, quả tim quảng đại, nên ông phải đành chung số phận với những người không được Chúa chúc phúc, đó là phải chịu cực hình muôn thuở mà Chúa đã phạt cho những kẻ sống ích kỷ, hẹp hòi.
Đến đây chúng ta sẽ hiểu thế nào để được sống hạnh phúc, để được sống trọn lành. Con đường sống trọn lành và hạnh phúc ấy Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta là: “ Hãy đi bán tài sản và đem bố thí cho người nghèo thì chúng ta sẽ được một kho tàng trên trời” (x Mt 14,21)
Về điểm này Chúa muốn dạy chúng ta là phải có tinh thần nghèo khó. Tinh thần nghèo khó ở đây là đòi hỏi chúng ta phải biết yêu mến sự sống con người hơn là tiền của, yêu mến cách sống giới răn yêu thương hơn là vật chất, yêu mến hạnh phúc mai sau hơn là thứ hạnh phúc hiện tại nay còn mai mất tại trần gian.Vì thế Chúa luôn luôn gọi những người nghèo khó là những người có phúc: “ Phúc cho ai có tinh hần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” ( Mt 5,5)
Cũng vậy đến ngày phát xét, mọi người chúng ta bị phán xét khi Chúa dựa trên tiêu chuẩn chúng ta đã sống giới răn yêu thương như thế nào ? Vì thế chúng ta hãy cố gắng sống trọn vẹn giới răn yêu thương của Chúa để sau này chúng ta sẽ vui mừng khi Chúa phán với chúng ta: “ Nào hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng các ngươi đã cho Ta mặc, Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm, Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” ( Mt 25,34-36).
Là kitô hữu, chúng ta rất an tâm vì được giáo dục bởi Lời Chúa và lời dạy của Hội Thánh. Nếu chúng ta can đảm đi theo sự hướng dẫn của Lời Chúa và Hội Thánh, chắc chắn chúng ta sẽ không lạc đường, nhưng sẽ đạt đến con đường sống trong hạnh phúc. Và hôm nay, con đường hạnh phúc mà Chúa chỉ cho chúng ta đi tới, đó là phải sống giới răn của Chúa bằng việc sống bác ái yêu thương.
Để sống bác ái yêu thương cách trọn vẹn, gần đây chúng ta còn được hướng dẫn thêm bởi lời giáo huấn của Đức Thánh Cha Bênêdictô 16, khi Ngài gặp gỡ các tổ chức thiện nguyện, trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Nước Ao từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 9 năm 2007. Đức Thánh Cha đã nói: “Công tác thiện nguyện là thuộc về một nền văn hoá không muốn tính toán… Tất cả đều có một điểm xuất phát chung là sự “ nhưng không, miễn phí”. Chúng ta đã lãnh nhận sự sống một cách nhưng không từ Đấng tạo hoá, được giải thoát nhưng không từ con đường mù quáng của tội lỗi và sự ác, được ban Thánh Linh cách nhưng không với các Hồng Ân đa dạng của Ngài … Chúng ta thông truyền một cách nhưng không những gì chúng ta nhận lãnh, qua sự dấn thân và công tác thiện nguyện của chúng ta.
Từ những cảm nghiệm bởi Lời Chúa hôm nay, cùng với những lời dạy của Đức Thánh Cha Bênêđictô 16, chúng ta xin Mẹ Maria giúp chúng ta có một cách sống quảng đại như Mẹ. Nhờ đó mỗi phút giây hiện tại của cuộc sống là mỗi phút giây chúng ta đem Tin mừng yêu thương phục vụ của Chúa cách nhưng không đến cho những người nghèo khổ bất hạnh. Nhờ vậy mà tình thương đối với tha nhân ngày càng gia tăng trong ta. Và tình thương của Thiên Chúa càng ngày càng dồi dào trong cuộc đời chúng ta hôm nay và mai sau.
Bạn có tin rằng một người giàu nứt thố đổ vách, quanh năm suốt tháng mặc toàn lụa là gấm: TN 26-C70
Bạn có tin rằng một người giàu nứt thố đổ vách, quanh năm suốt tháng mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình, lại có thể nhẫn tâm làm ngơ, dửng dưng … đến độ để cho một người hành khất mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng [nhà mình] … chết vì … thèm được [ăn] những thứ trên bàn ăn của [mình] rớt xuống … không?
Tại sao ông nhà giàu này lại có thể cư xử tệ bạc và dã man với một người đồng loại mà ông biết tên, biết mặt như vậy được cơ chứ? Tôi không tin như vậy! Chắc chắn là có những lý do bí ẩn nào đó khiến cho ông phú hộ này trở thành một người keo kiệt, lãnh cảm và dửng dưng như vậy! Bạn có biết những lý do đó hay không? Tôi và chắc chắn cả bạn nữa, chúng mình không thể nào biết được những lý do bí ẩn ấy. Thế nhưng dựa trên những kinh nghiệm của bản thân và qua những sự kiện đã và đang xảy ra trong xã hội, mà tôi nghe và biết, tôi nghĩ … rất có thể ông phú hộ đã lạnh lùng, khép kín trái tim từ tâm và trở thành kẻ keo kiệt là vì ba lý do này: một là vì SỢ HÃI, hai là vì SO ĐO, TÍNH TOÁN, và ba là vì hay LÝ LUẬN.
• Ông phú hộ có thể đã có những nỗi lo sợ! Sợ lỡ cho anh La-da-rô ăn những thức ăn thừa trên bàn rồi sau đó anh ta bị đau bụng, bị trúng độc rồi … lăn ra đó ăn vạ thì sao? Phải ra tòa và phải bồi thường, mất tiền, mất bạc và bị phá sản như chơi! Chắc ăn không bằng ăn chắc, không cho anh ta ăn uống những thứ thừa thãi là an toàn trên xa lộ Đại Hàn! Khoẻ!
• Ông nhà giàu này cũng có thể đã so đo, tính toán rất ư là chi li và kỹ lưỡng. Đồ ăn thừa thì không cho được, bây giờ chỉ có nước cho ăn đồ ăn còn nóng hổi, còn nguyên si, chưa ai đụng đũa … Nhưng mà, lỡ ăn xong rồi anh ta phải mùi rồi chùi không ra, không chịu đi làm ăn mà cứ ngồi ì ra đó, rồi mình cứ phải tiếp tế hàng ngày suốt đời như vậy mãi sao? Đó là chưa kể bọn ăn mày, đám bạn bè ăn xin của anh ta nghe tin có ăn free liền kéo đến đầy nhà của mình, ăn dầm nằm dề ở đó thì mình sẽ phải xử sự làm sao đây? Thôi thì đành nhắm mắt làm ngơ vậy, tránh được bao nhiêu là những phiền toái có thể xảy ra.
• Ông phú hộ này cũng có thể đã có cái tính hay lý luận. Mình làm ăn, có đóng thuế cho chính quyền đàng hoàng, chuyện dân chúng nghèo đói là chuyện của nhà nước, để cho họ lo, không phải chuyện của mình, lo chi cho mệt xác vậy? Vả lại mình không cho anh ta ăn thì cũng có người khác cho, làm sao anh ta chết được cơ chứ? Anh ta ngồi ở ngoài đó, không được gì cả, rồi mấy con chó cứ đến liếm ghẻ như vậy thì vài bữa nữa nó sẽ chán rồi phải đi chỗ khác chứ sức mấy mà ngồi ở đó hoài như vậy!
Vì sợ hãi, so đo tính toán thiệt hơn, và vì hay lý luận như vậy cho nên hai cánh cửa của trái tim nhân ái của ông đã từ từ khép lại và bị khóa hồi nào ông cũng không hay không biết, chứ bình thường mà nói, ông ta không đến độ cold blood và nhẫn tâm đến độ không ngó ngàng, đếm xỉa và không mảy may nghĩ đến hoàn cảnh của anh hành khất La-da-rô đâu!
Ngày xưa ông phú hộ SỢ HÃI-SO ĐO TÍNH TOÁN và LÝ LUẬN như thế nào thì ngày hôm nay, cũng có rất nhiều người, trong đó có tôi là kẻ đứng đầu danh sách, cũng đang bắt chước ông và hành xử y chang như ông ngày xưa vậy! Tôi hay sợ, hay so đo, và hay lý luận khi làm việc thiện, khi có cơ hội làm việc bác ái lắm! Thật đấy!
• Có một lần, trên một chuyến xe điện ở New York City, một người thanh niên với bộ quần áo dơ dáy, và nặng mùi thuốc lá đến trước mặt, xè tay xin tôi một vài đồng lẻ để ăn mua thức ăn. Trong túi tôi có tiền nhưng tôi suy luận lẹ lắm: “Có chắc là anh ta xin tiền đi mua đồ ăn hay là anh ta đi mua thuốc lá hút? Cho anh ta tiền để anh ta hút hay tệ hơn nữa đi chích choác hay mua bia mua rượu uống say sưa thì cho làm gì? Chỉ tổ làm hại người ta.”
• Một linh mục, cha H. lặn lội từ một miền quê nghèo xa xôi lên tới thành phố Sài Gòn rồi chạy vạy mãi mới qua được tới Hoa Kỳ, đến một giáo xứ X. nọ xin được giúp đỡ tài chánh để về cất một mái nhà thờ để … Chúa khỏi bị ướt mỗi khi mưa. Lễ xong, một thừa tác viên giúp đếm tiền, thấy một phong bì không có tiền nhưng có một tờ giấy viết ngoáy vội vã: “Nếu cha để dành cái số tiền mua vé máy bay từ Việt Nam qua Mỹ, rồi từ tiểu bang này qua tiểu bang nọ, từ thành phố này qua thành phố khác … thì cha dư sức cất một mái nhà thờ, cha khỏi cần phải vất vả,ở nhà chăm sóc con chiên, khỏi mất thời giờ qua Mỹ xin xỏ như vậy!”
• Bà Y. khi nhận được thư của một nhà dòng Mỹ xin bà giúp đỡ tài chánh cho ơn thiên triệu, bà liền nói với chồng: “Mình là người Việt, mình phải giúp cho ơn gọi Việt Nam mới phải, tại sao lại phải giúp cho người Mỹ như vậy chứ?”
• Ông Z. bộc bạch và thanh minh cho việc tại sao ông đã làm ngơ không giúp đỡ cho một chương trình từ thiện: “Ối giời ơi! Cho tiền mấy ổng, chẳng biết có tới tay người nghèo hay về xây cất được cái gì hay không, em sợ là mình lại tiếp tay cho cộng sản thì toi! Em nghe nói là phải chia chác với cộng sản ¼ cho nên chúng nó mới dễ dãi cho các cụ đi Mỹ như cơm bữa, chứ nếu không thì làm sao mà các cụ đi được, bác thấy em nói có lý không?”
… Còn nhiều chuyện tương tự như vậy lắm thưa bạn! Khi có dịp làm việc thiện và những việc bác ái thì tôi, một giáo dân của xứ X., bà Y, ông Z … và có thể có cả bạn trong đó nữa, lại cứ sợ hãi, cứ so đo, tính toán, và cứ lý luận lung tung mới là khổ. Mà khổ một nỗi, hễ càng sợ, càng so đo, càng tính toán thiệt hơn, và càng lý luận nhiều bao nhiêu thì cái hầu bao của chúng mình nó cứ rút chặt lại bấy nhiêu mới chết chứ lại. Chúng mình cứ tính đi tính lại, suy luận tới suy luận lui rồi cuối cùng mình chẳng cho ai xu teng nào cả! Đó mới là nguy hiểm.
Bạn thân mến, nếu trước đây, khi có dịp làm việc thiện, khi có cơ hội làm việc bố thí, khi rộng tay làm phúc … mà bạn đã sợ hãi, so đo tính toán và hay lý luận thì xin bạn hãy suy nghĩ lại đi! Khi làm việc từ thiện và bác ái, chúng mình không mất gì cả đâu, nhưng mà lúc ấy chúng mình đang tích trữ cho chính chúng mình đấy! Bạn không tin thì mở sách Tobia ra mà đọc.
Chính nhờ những công việc bác ái, bố thí và làm phúc của ông Tô-bít mà hai cha con ông và cả cô con dâu đã được tai qua nạn khỏi, được trở nên giàu có và hưởng muôn vàn phúc lộc của Chúa. Chính thiên sứ Ra-pha-en đã nói: “Hãy làm điều lành thì cha con ông sẽ không gặp điều dữ. Cầu nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu” (Tb 12:7-9).
“Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy … mỗi lần các ngươi làm [một việc bác ái] cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta."(Gal 6:7; Mt 25:40).
Gieo hạt giống bác ái và từ thiện thì sẽ gặt hái những hoa trái của bình an và thiện hảo. Lời van xin của ông nhà giàu bị chối từ là bởi vì ông đã từng từ chối La-da-rô. Bạn có muốn bị xử như ông nhà giàu không? Nếu không thì hãy mau mau quan tâm, giúp đỡ tha nhân đi! Thì trong ngày ta gặp hoạn nạn, cùng khốn, tha nhân và chính Chúa sẽ giúp đỡ và phù hộ ta. Bạn tin không? Nếu tin thì bạn đừng có sợ, đừng có so đo tính toán và đừng có lý luận lung tung khi có cơ hội làm việc bố thí và bác ái nữa! Just do it!
Phàm là người, nhất là tín hữu Chúa Kitô, ai cũng có bổn phận quan tâm đến đồng loại, nhất là những: TN 26-C71
Phàm là người, nhất là tín hữu Chúa Kitô, ai cũng có bổn phận quan tâm đến đồng loại, nhất là những kẻ thân cận với mình. Nhưng ông nhà giàu trong dụ ngôn hôm nay hành động ngược lại. Phúc âm kể: “Ong nhà giàu mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình … Còn Lazarô mụt nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no, nhưng chẳng ai cho”. Nghe như Luca mô tả hiện tình của thế giới hôm nay, khoảng cách giàu nghèo, sang hèn xem ra rộng lớn hơn bao giờ hết, kể cả trong tôn giáo, tu viện, tầng lớp xã hội. Đó là lý do chủ thuyết cộng sản một thời đã thành công vượt bậc. Người ta đổ xô đi mua “Tư bản luận” để tìm huớng dẫn cho lý tưỡng đời mình. Chủ thuyết này rất có thể chiếm địa vị độc tôn nếu không có phân hoá ngay trong xã hội cộng sản.
Cho nên gần đây tôi quay sang đọc về phong trào Martin Luther King và tranh đấu cho nhân quyền ngay trong xã hội nước Mỹ vào các năm sáu mươi của thế kỷ trước. Những hình ảnh của thời gian ấy còn in đậm trong trí óc chúng ta và tiếp tục khơi dậy những khao khát đấu tranh cho công lý, hoà bình trên thế giới và trong từng xã hội nhân loại hôm nay. Giai đoạn 1960 quả là quan trọng, cần chúng ta suy nghĩ dưới ánh sáng phúc âm trong dụ ngôn người phú hộ và Lazarô.
Điều làm tôi cảm động là tính chất đời thường trong con người Martin Luther King Jr. Ong sợ hãi bạo lực đang dần vây quanh cá nhân và gia đình ông. Có nhiều lúc ông tính rời bỏ thành phố và thôi đấu tranh. Ong còn sợ bị rơi vào cô đơn, loại trừ, cho nên cố gắng tách mình ra khỏi phong trào. Nhưng dầu vậy ông vẫn sẵn sàng đối mặt với đám đông thù nghịch và cảnh sát. Nhiều lần bị bắt và bị giam tù.
Năm 1963, Martin King tham gia biểu tình ngồi l? ở Birmingham Alabama. Cảnh sát trưởng Bull O’Connon tuyên bố cùng thế giới rằng sẽ đối phó với các kẻ biểu tình bằng chó dữ và vòi rồng, bất chấp đàn bà, con trẻ, thanh niên, cụ già. King bị bắt ngày 12 tháng 4 năm 1963. các đồng chí của ông hiểu rõ cái giá của cô đơn và tù tội, họ đã lén gửi cho ông giấy bút để ông ghi chép giết thời gian. Nhờ vậy chúng ta có tác phẩm “Lá thư từ nhà tù Birmingham”. Ong gởi thơ cho cấp lãnh đạo Kitô và Do Thái giáo mà ông gọi là những kẻ thiện tâm. Những người này nói với ông rằng lúc này không phải là thời điểm biểu tình. Mọi sự đang được cải thiện. Xã hội đang nhiều công bằng, bình đẳng hơn.
Từ nhà tù, ông trả lời: “Tôi viết chẳng nhân danh ai cả cho những kẻ chẳng chịu đau khổ vì cái chi ”. Ông ám chỉ ngôn sứ Amos trong Thánh Kinh: “Chúng rời bỏ làng mạc và bị đưa đi lưu đày, Đức Chúa phán như vậy, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày xa quê hương xứ sở” (Bài đọc 1). King tiếp tục: “Thời giờ không trung lập. Sự việc không tự động trở nên tốt hơn chỉ bằng cách ngồi đợi chờ thay đổi. Thực tế những người chẳng bao giờ phải chịu đựng đau khổ có rất nhiều thời gian kiên nhẫn chở đợi … Trong khi bạn đang chịu các nỗi đau khổ thì không thể làm như thế. Bạn phải dùng thời gian để mà sáng tạo khi bạn còn thời gian. Tôi viết vì những người chẳng có thời gian cho những ai có vô số thời gian để mà chờ đợi”.
Lời văn thật cay đắng nhưng ý tưởng tuyệt vời. Ông cố gắng bắc cầu ngăn cách hố sâu giữa giầu nghèo, sang hèn, được đặc quyền và bị áp bức. Ong đòi hỏi công bằng tự do cho tất cả mọi người. Ông bắc cầu, bởi vì xã hội luôn đào bới những hố sâu. Tôi nghe nói đến chính sách “Một phòng học” trong các nhà trường, khi quỹ giáo dục đang thu hẹp lại. Kết quả của cuộc thử nghiệm là nó đập tan các rào cản giả tạo của tuổi tác tồn tại nhiều năm trong các trường học, lớp học chỉ có một phòng cho trẻ em thuộc nhiều lứa tuổi chơi đùa và giúp đỡ nhau tận tình. Em lớn giúp em bé tập đọc, tập viết, chơi trò chơi chung. Từ những “công trình nghệ thuật” trên bảng đen đến các que đếm, hộp màu, tranh vẽ phức tạp. Em nọ dạy em kia. Vui vẻ và tiến bộ nhanh. Bình thường các độ tuổi sống tách biệt. Nhưng nay các em lớn khởi sự coi sóc các em nhỏ, mặc quần áo, xỏ dép, tháo giầy, mặc sơmi, … Ở nhà các em ích kỷ và quậy phá, đến lớp ngoan ngoãn và hiền hậu hơn. Một giáo viên nhận xét: “Tôi chưa từng thấy gương mẫu liên đới nào đẹp như vậy”. Các hố ngăn cách đã được san bằng.
Liệu người lớn có học được bài học đó? Giáo hội cũng đang cố gắng thực hiện chương trình ấy. Người ta thành lập các giáo xứ ngoại biên thành phố, trong đó giáo dân giúp đỡ lẫn nhau xây nhà thương, trường học, không chỉ bằng tiền dâng cúng, nhưng cả bằng lao động chân tay thực sự. Một phụ nữ tham gia chương trình “vươn tới” đã nhận xét: “tôi từng kết bạn với những người mà trước đây tôi chưa bao giờ gặp trong đời. Và bạn biết sao không? Nó khiến tôi bớt thành kiến về người khác. Tôi trở nên dễ thông cảm khi nghe tin tức về các bạn hữu. Thực tế, tôi nhận được nhiều hơn là cho đi”.
Nếu chúng ta muốn cho con cháu điều tốt nhất, thì không chi bằng dậy dỗ chúng từ thuở ấu thơ. Chúng ta có những chương trình dày đặc quá đến độ chẳng còn thời gian đâu mà chăm sóc chúng. Vì vậy hố ngăn cách tuổi tác trong cuộc sống gia đình chẳng bao giờ được san bằng. Làm thế nào giáo dục chúng? Tốt nhất là về lòng nhân ái, thương cảm. Chúng ta gửi nó vào trường học, nhưng ở nhà trường, thầy cô giáo lại chú trọng đến kiến thức, đỗ đạt, chứ ít khi nói về cách sống đạo đức. Hẳn nào chúng ích kỷ, tàn nhẫn và lẻ loi. Các hố ngăn cách về nhân bản trong xã hội ngày nay càng bị đào sâu. Hơn nữa, dụ ngôn hôm nay cho thấy luôn có hố sâu. Ông phú hộ chết đi và mọi sự đảo ngược nhưng ông không làm chi sai trái, không ăn trôm ăn cắp, không bốc lột, chẳng làm chi bất công, còn tốt hơn chán vạn linh mục, tu sĩ “nhiệt thành”. Một vài người đọc xong dụ ngôn nói: “có lẽ ông đã làm điều xấu, nhưng người ta xóa khỏi Phúc âm”. Đó là nhận xét của não trạng tân thời. Còn hai ngàn năm qua bản văn vẫn vậy. Chẳng có chi bị lược bỏ cả. Đức Giêsu đã kể cho người Pharisêu trên đường lên Giêrusalem và do Thánh Kinh khởi hứng viết ra. Cho nên tôi ngạc nhiên liệu ông phú hộ có phải là người đương thời? Và đám tang của ông ra sao trong các thánh đường lộng lẫy của các giáo xứ? Chắc là hoành tráng lắm vì ông ta có phạm tội ác nào đâu, lại lắm tiền nhiều của, ngày ngày đãi tiệc các Pharisêu linh đình? Đồng tế, bài giảng hùng hồn, cử tọa gật đầu tán thưởng! Người ta sẽ nhớ đến ông mãi mãi. Còn người nghèo khó, mà tên cụ thể là Lazarô, thì chắc việc chôn cất đơn giản lắm, bó chiếu đem vào nghĩa trang công cộng của những kẻ vô gia cư.
Tuy nhiên, điều an ủi là: dụ ngôn không mô tả cuộc sống mai sau, không cho chúng ta biết thiên đàng trang trí ra sao, cờ xí, bàn ghế, tủ lạnh, máy điều hòa, máy sưởi, nhiệt độ… như những căn hộ của kẻ giàu có ở trần gian. Tôi chẳng mường tượng cảnh trớ trêu đó. Chỉ biết rằng các linh hồn ở đó và Thiên Chúa cũng có mặt. Đức Giêsu chỉ mặc khải rằng có thiên đàng và chúng ta sống trên ấy thế nào. Nghĩa là Ngài muốn thức tỉnh lương tâm nhân loại. Những chi chúng ta hành xử hiện tại mang một ý nghĩa và được cân nhắc ở đời sau, không có chi bị bỏ quên cả.
Đối với phú ông thì câu chuyên quá muộn, ông chết trước khi tỉnh ngộ. nhưng tác phẩm “Christmas Carol” (Bài hát Giáng sinh) của Charles Dickens, James Marley từ cõi chết trở về nói cho Ebeneze Scrooge rằng sẽ có ba con ma sẽ thăm hắn. Sau đêm gặp gỡ, Scrooge tỉnh lại và thay đổi nếp sống. Đó là ý nghĩa dụ ngôn hôm nay. Nó là một lời cảnh cáo yêu thương cho những ai ưa thích nhung lụa, tiện nghi, nó kêu gọi tỉnh nghộ, một hồi chuông cảnh báo, khiến chúng ta thức giấc khỏi mộng mị đời này. Tương lai chưa xảy ra và giống như Martin King viết từ nhà tù nhân danh “nobodies” to “somabodies”. Dụ ngôn cố gắng bắc những chiếc cầu thông cảm qua các thung lũng ích kỷ lạnh lùng mà thế giới thường gặp.
Chúng ta được nhắc nhở Thiên Chúa đi bước trước trong việc xây cầu và tiếp tục làm như vậy nơi Bí tích Thánh Thể. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ bẻ gãy mọi rào cản tội lỗi, chia rẽ chúng ta khỏi thiên đàng và nhân loại. Nhưng chúng ta vẫn tiếp tục phạm tội, tiếp tục đào hố ngăn cách. Tuy vậy, trước mặt Đức Chúa, chúng ta chỉ là Lazarô nghèo khó mang tên tuổi ông A anh B chị C bà D ngồi ở ngoài cổng thiên đàng, Đức Chúa xem thấy và tiếp tục xem thấy để trợ giúp chúng ta mỗi khi chúng ta giơ tay xin lương thực. Đúng như vậy, thời giáo hội sơ khai, các văn gia ngoại giáo ngạc nhiện khi thấy tín hữu hội họp để thờ phượng ông Giêsu. Già trẻ, lớn bé, giàu nghèo thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội, ăn uống trên cùng một bàn tiệc, không hề có kỳ thị. Các hố sâu xã hội mà thời đó người ta rất trân trọng đều được san bằng. Cho nên dụ ngôn kêu gọi chúng ta ngày nay biến cải nếp suy nghĩ của mình. Để chẳng còn hận thù, chiến tranh, tiêu diệt lẫn nhau vì tranh giành ảnh hưởng, giàu sang, phú quý và ông phú hộ không còn tồn tại trên thế gian này nữa. Mong lắm thay. Amen.
Bản dịch của Lm Thomas Trần Ngọc Túy, OP Lm Jude Siciliano OP
Los Ricos También Lloran = được dịch ra tiếng Việt là “Người giàu cũng khóc”, đó là tên: TN 26-C72
“Los Ricos También Lloran”, được dịch ra tiếng Việt là “Người giàu cũng khóc”, đó là tên của bộ phim truyền hình dài tập của Mexico sản xuất vào năm 1979, đã được chiếu trên truyền hình Việt Nam vào những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Bộ phim đã làm say mê hàng trăm triệu người xem trên khắp thế giới cũng như ở Việt Nam. Người giàu cũng khóc có nghĩa là việc khóc là bình thường nơi người nghèo, như một câu trong Thánh Vịnh: ”Cơm bánh ngày đêm chỉ là châu lụy”.
Người giàu ở Việt Nam đã khóc chung hai lần và là những lần họ cảm nhận sự giàu sang, lắm bạc tiền, nhà cao cửa rộng chỉ mang tai hoạ, thậm chí nguy hiểm tính mạng. Lần đầu tiên, đó là vào những năm đầu thập niên 50, với phong trào cải cách ruộng đất, các cuộc đấu tố, diệt địa chủ, cường hào ác bá như một cơn sóng thần đẫm máu trên khắp hai miền Bắc Trung. Giàu đất đai của cải đồng nghĩa với tội ác chống lại nhân dân. Cán bộ lãnh đạo cao nhất sau này đã phải khóc và xin lỗi gia đình các nạn nhân, vì các cấp dưới đã thi hành sai chính sách, khi ấy thì cũng đã quá... muộn !
Lần thứ hai, sau 1975, máu không đổ, không còn cảnh đấu tố tra tấn nữa, nhưng thêm một cơn thủy triều quét sạch “tư sản mại bản”, tức là những người được cho là theo chủ nghĩa tư bản, cũng là bóc lột nhân dân. Bao nhiêu nhà cửa, của cải bị tịch biên: người Hoa có thể ra nước ngoài ( Hồng Kông, Đài Loan…); còn người Việt Nam thì được đưa đi kinh tế mới, lao động và xây dựng từ mồ hôi nước mắt, – người giàu cũng khóc – để nếm được cái khổ của người nghèo. Theo quan niệm của nhiều người, đó là... công bằng.
Ngày nay, người giàu cũng khóc như người nghèo, tuy nguyên nhân và tính chất hoàn toàn khác nhau: khi không khóc vì đói khổ, thiếu thốn, thì người giàu lại khóc vì những hậu quả, hệ lụy của đồng tiền. Hãy quan sát mái tóc của những người bước chân vào vũ đài chính trị: mái tóc đen, chải chuốt lúc khởi nghiệp, chẳng mấy chốc đã ngã sang muối tiêu, lúc đầu tiêu nhiều hơn muối, rồi màu muối át màu tiêu và rất mau bạc trắng. Có người cho đó là màu của tình đời, vốn luôn bạc trắng như vôi, mà các vị này nhuốm lấy. Suy nghĩ, lo âu, đề phòng, thủ thế, mất ngủ,…góp phần làm cho bạc tóc và chỉ thiếu đầu hàng áp lực trầm cảm như thủ tướng Abe của Nhật Bản vừa qua.
Sau những tháng ngày nơm nớp lo âu, cuối cùng điều phũ phàng cũng xảy đến với ông chủ câu lạc bộ bóng đá Chelsea: bà vợ làm đơn ly dị và với những bằng chứng trong tay về sự không trung thành của ông, Abramovich đã phải chia cho bà vợ hơn 11 tỷ... đô-la, một nửa trong tài sản kêch xù của ông. Gần như cùng thời gian ấy, phó chủ tịch Hội Đồng Quản Trị FPT Lê Quang Tiến cũng đau khổ chia đôi tài sản cho bà vợ được tòa cho ly dị. Số tài sản bà vợ được nhận là 1.100 tỷ đồng !
Người nghèo không dư nước mắt và thời giờ để khóc vì tình, nhưng biết bao nhiêu lệ rơi trước những tình huống khó khăn, đắng cay và đau đớn người thân phải chịu, mà mình hoàn toàn bất lực vì không có tiền. Họ chỉ còn biết than thân trách phận.
“Kẻ ăn không hết, người lần không ra”, rồi cũng đến ngày phải buông xuôi cả những gì có và không có, y hệt như lúc họ vào đời: trắng tay. Và khi tay đã trắng, nghĩa là hoàn toàn bình đẳng về vật chất, họ đến trình diện trước mặt Chúa và tính toán vốn liếng tinh thần, đạo đức, bác ái và hy sinh. Sự khác biệt vĩnh cửu bắt đầu từ đây. Gieo nhân nào, ắt gặt quả nấy ! Cũng là sự công bằng ! ( x. Lc 16, 25 ).
Điều khác biệt giữa người nghèo và người giàu, đối với Chúa Giê-su, thật rõ ràng, cả khi sống ở trần gian, lẫn cuộc sống đời đời, ấy là: người nghèo luôn có một cái tên, trong khi người giàu không bao giờ có được. El’azar ( mà chúng ta quen dịch là La-da-rô ) có nghĩa là “Thiên Chúa Cứu Giúp”: người nghèo được Thiên Chúa cứu giúp, vì họ nhận thức sự thiếu thốn mọi mặt của mình; trong khi người giàu thấy mình thừa thãi và chẳng cần những trợ giúp nào, trừ phi nó mang đến lợi lộc và giúp làm đầy thêm tiền bạc danh lợi cho họ.
Người nghèo, với tất cả khổ ải gian truân hứng chịu trong cuộc đời, biết rõ thế trần là “nơi bể khổ” ( kinh Phật ), là “thung lũng nước mắt” ( lacrimarum valle – trong kinh Salve Regina – Lạy Nữ Vương ), muốn hay không thì cuộc đời này vẫn như câu thơ của thi sĩ Xuân Diệu: ”Ba phần tư trái đất này là nước mắt”; trong khi người giàu quên hẳn điều đó, có thể do vô tình – nghĩa là bị cuộc sống đầy đủ tiện nghi làm mất ý thức – hoặc cố tình dùng tiền tài, danh vọng không chỉ dư thừa, mà còn xa hoa phung phí để tận hưởng tối đa cuộc đời mà họ biết là ngăn ngủi. Họ quên đi nguồn gốc không sạch sẽ của đồng tiền: đồng tiền bẩn làm sao tạo nên hạnh phúc thật.
Vì thế không lạ gì khi họ “không nhìn thấy người nghèo” ngày ngày ngồi trước cửa nhà họ, trên đường họ qua lại. Một vài dịp buộc phải đóng góp công khai trong những dịp vận động công cộng, thì vừa miễn cưỡng, vừa tính toán lợi ích quảng cáo khi thấy khó bề thoát được.
Lạy Chúa Giê-su, điều con muốn nghĩ tới hôm nay, là việc trong cuộc sống này, con đã và sẽ xếp mình về nhóm nào: anh phú hộ hoặc là La-da-rô ? Hình như con không thuộc nhóm nào cả ! Sống ở đời, con thèm khát tiện nghi, nở mày nở mặt vì những tiếng khen ngợi, không bao giờ thấy hài lòng với tiền tài danh vọng đang có và đủ khiến nhiều người ngưỡng mộ phân bì. Nghĩa là con luôn thấy mình…nghèo!
Con muốn trong cuộc đời dương gian là anh phú hộ, nhưng trước mặt Chúa vẫn được coi như một La-da-rô. Nhưng những gì diễn ra trong dụ ngôn của Chúa, lại khác hoàn toàn: La-da-rô trong cuộc sống dương gian chịu bao khổ ải, đày đọa, khinh khi, thiếu thốn tinh thần và vật chất, vì thế trước mặt Chúa, ngày sau hết, mới trở thành “người phú hộ” trên Nước Trời, trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham.
Nước mắt đời người, chẳng chóng thì chầy, không ai tránh được phải rơi, mỗi người một cách. Người nghèo khóc, Người giàu cũng khóc: khóc những tháng năm ngắn ngủi trên trần gian hoặc khóc muôn đời ngày sau, là ở sự lựa chọn thái độ sống và hành động của mỗi người.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu số 69
Ta vừa thấy một linh hồn mỏng mảnh Níu vai ta đòi trả lại yêu thương Lòng chơ vơ rùng rợn nỗi kinh hoàng Lời cay đắng tưởng vô cùng bất tuyệt ( thơ Vũ Hoàng Chương )
Chơ vơ, rùng rợn, nhà thơ chỉ muốn đòi lại yêu thương. Đòi yêu thương chứ không đòi niềm tin: TN 26-C73
Chơ vơ, rùng rợn, nhà thơ chỉ muốn đòi lại yêu thương. Đòi yêu thương chứ không đòi niềm tin yêu, bất tuyệt. Tin yêu bất tuyệt, cũng là ý nghĩa của lời dụ ngôn hôm nay. Lời kinh mà, với nhiều người, có thể là một nhận định không chuẩn. Nhận định một bên là về nhà phú hộ/doanh gia, thành đạt, còn bên kia là dân đen lao động, rất La-da-rô.
Ở thế giới đời thường, người dân hôm nay không chú trọng nhiều đến vấn nạn “người là ai ?”; mà chỉ hỏi: “người làm gì ?”, “đời sống thế nào ?“,”kiếm khá không ?” Thế giới nhà Đạo, lại không thế. Dân con Đức Chúa lâu nay luôn được dạy bảo: hãy sống tin yêu suốt đời. Dù đôi lúc, có người vẫn còn toan tính nhiều chuyện riêng tư, vị kỷ. Quả thế, điều mà con dân nhà Chúa lâu nay luôn được nhắc, là: cần quan tâm đến niềm vui cứu độ. Trọng tâm của mọi tốt lành, thành đạt.
Tốt lành thành đạt, là cố tránh mọi lầm lỡ. Tránh cuộc sống mang sắc thái bạo hành, bất nhân. Lối sống chỉ chú tâm đến dâm đãng, tị nạnh, và se sua. Lối sống tích tụ những hờn căm, đố kỵ và bon chen ! Chẳng lý gì đến người đồng loại, đang thiếu thốn.
Tốt lành thành đạt nhà Đạo, là lối sống mà trình thuật hôm nay đem đến cho con người một trạng thái biết quyết tâm xa lánh trạng huống cuốn hút vào với lỗi lầm đạo hạnh. Lỗi lầm ẩn nấp nơi lương tâm con người, trần tục.
Tốt lành thành đạt, là: không phải chỉ chú tâm đến thú vui vật chất, xác phàm. Chỉ coi trọng giàu sang, hưởng thụ của lớp người chuyên ăn trên ngồi chốc, bất cần đến luật. Luôn coi thường cả những người đói khổ, tật bệnh.
Tốt lành thành đạt theo nghĩa nhà Đạo, là: chẳng lo toan gì cho riêng mình. Nhưng, biết đoái hoài đến người nghèo hèn, thiếu thốn. Những người như La-da-rô đang chầu chực từng tấm bánh, miếng cơm, rơi rớt từ bàn tiệc của đám thành thị no ăn, phung phí.
Tốt lành thành đạt, chắc chắn không là thái độ của các phú hộ đã xa hoa, thừa mứa; nhưng vẫn tị nạnh khi bất chợt thấy “hành khất buồn” như La-da-rô chẳng lao động đến một ngày, mà vẫn được Áp-ra-ham mở rộng vòng tay đón nhận.
Tốt lành thành đạt hôm nay, còn thấy nơi một ít người đủ ăn đủ mặc, biết lưu tâm giúp đỡ đám cùng đinh đói khát, vẫn chực chờ. Là, biết giùm giúp thương yêu những người có nhu cầu bức thiết, hơn mình. Tốt lành ấy, chính là tinh thần của dụ ngôn/truyện kể về đám doanh gia/phú hộ vẫn thấy ở mọi nơi, mọi thời.
Ở thời đại tiến bộ hôm nay, người người chú trọng quá nhiều đến vật chất. Nơi đó, có những doanh gia/phú hộ vẫn than phiền cật vấn, cả Đức Chúa. Có người, cho rằng: “Tôi đây chẳng thấy Chúa đoái hoài ỏ ê điều gì. Phải chăng, tôi chỉ là giáo dân hạng thứ, bình thường bậc trung; dù rằng tôi vẫn giữ trọn 10 điều răn của Chúa. Vẫn chân chất giữ luật, cả phần Đạo lẫn việc đời. Đâu nào dám sai trái ?”
Thật ra, doanh gia/phú hộ vẫn có thể là người tốt lành thành đạt, đúng ý nghĩa. Giàu sang/lương thiện thời nay, đâu có gì là sai quấy. Nhất thứ, những người này chẳng khai thác bóc lột kẻ nghèo hèn, bao giờ. Nhưng, với tinh thần của dụ ngôn, tốt lành như thế vẫn chưa thành đạt. Vẫn, “níu vai đòi trả lại yêu thương”, tựa như báo cáo ở cấp cao, trong năm qua.
Theo tường trình, hiện có đến 1 tỷ 200 triệu người đang sống còn chỉ bằng đô rưỡi một ngày, hoặc ít hơn. Tính kỹ, có đến 80% số người trên thế giới sống trong cảnh bần hàn thiếu thốn. Thiếu điện, thiếu nước. Thiếu thực phẩm cần thiết hầu đáp ứng nhu cầu căn bản vệ sinh chung. 70% dân số trên thế giới thiếu kiến thức phổ thông để tồn tại; 50% đang sống trong tình trạng suy dinh dưỡng, rất ngặt nghèo.
Điểm chính dụ ngôn hôm nay, Đức Chúa không nhắc ta đang có những người nghèo chực chờ sẵn, nơi hông cửa. Nhưng, dụ ngôn nài ta để tai nghe ngóng và học hỏi. Hiện thời, đang có nhiều dân con nhà Chúa chủ trương duy trì luật Đạo cả về tín lý, lẫn phụng vụ. Nhưng, lại làm ngơ không đếm xỉa gì đến lời dạy của Hội Thánh, rằng: Tình yêu Đức Chúa đâu diễn tả bằng môi miệng hoặc bằng lối sống đạo hình thức, bên ngoài, nhưng bằng động yêu thương người nghèo.
Trình thuật/dụ ngôn hôm nay còn nói đến hình ảnh của “bàn tiệc” ngập đầy những thức ăn. Thức ăn đây phải là biểu tượng của Vương Quốc Nước Trời. Nơi đây, luôn có tiệc lòng Mến, rất thánh. Tiệc agapè dạy ta biết san sẻ tình thương yêu đồng loại, những người đang thiếu cả những nhu cầu căn bản, rất bức thiết.
Ở Tiệc Lòng Mến, không có chuyện phân biệt ai là phú hộ/đại gia, ai là La-da-rô nghèo chầu chực cơm bánh, nơi khung cửa. Người dự Tiệc Nước Trời vẫn chung vui sẻ san đồng đều cùng một thức ăn. Thức ăn Ngài nuôi dưỡng tình thương yêu ngút ngàn, đầy cảm kích. Thức ăn của Vương Quốc Nước Trời san sẻ cho hết mọi người, không phân biệt ai hăng say lao động, giỏi dang, ai lười biếng, ù lỳ. Tất cả cùng lo lắng cho nhau. Tất cả đỡ đần giùm giúp lẫn nhau.
Lạ thay, nơi tiệc Lòng Mến, người túng thiếu nghèo hèn cảm thấy hài lòng hơn kẻ giàu sang. Chẳng thế mà, có người tự hỏi: ở Vương Quốc Nước Trời, ai đích thực là đại gia/phú hộ? Ai giàu sang ? Ai vừa giàu lòng, lại vừa sang ?
Dự tiệc Tình Thương hôm nay, ta nhớ lời cảnh báo của Đức Chúa. Cảnh báo về những lãng quên trước lời kêu gào ới gọi, từ những La-da-rô thời đại đang mong ngóng từng miếng cơm, tấm bánh ở cửa hàng, nơi phố chợ. Cảnh báo, để ta chớ làm ngơ cảnh người đồng loại đang chầu chực, ở đâu đây. Không làm ngơ, nhưng nhất quyết ra tay giúp đỡ. Thêm vào đó, Ngài còn cảnh cáo về cảnh xa hoa của những đại gia/phú hộ, luôn hưởng thụ.
Luôn đề cao cảnh giác mọi mâu thuẫn giàu/nghèo, tích cực/tiêu cực, ta hân hoan giãi bày lòng mến với mọi người, để rồi cùng nhau hát lên lời ca bừng sáng:
“Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi Người thương gia lợi tức Người công nhân ấm no Thoát ly đời gian lao nghèo khó: á a a à, nhắp chén đầy vơi, chúc người người vui á a a à, muôn lòng xao xuyến duyên đời ». ( Phạm Đình Chương – Ly rượu Mừng )
Rượu hân hoan, mừng mọi người. Mừng người nghệ sĩ, đại gia. Cả anh công nhân, lẫn La-da-rô nghèo đang chầu chực, nơi cửa. Những La-da-rô hôm nay, không đòi trả lại yêu thương nữa. Vì có được niềm tin yêu người đồng loại. Tin và yêu rất muôn thưở. Rất “vô cùng bất tuyệt”.
Tại sao ông phú hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục?
Câu trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù sống trên: TN 26-C74
Câu trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù sống trên nhung lụa, ăn sang mặc quý, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp đỡ cho Lagiarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một chút của bố thí dư thừa.
Xem thế, chúng ta thấy: tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban. Chúng ta được phép sử dụng trước hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng đáng với phẩm giá con người, cho chính bản thân, cũng như những người thân yêu. Thế nhưng ngoài mục đích đó ra chúng ta còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đã bảo: Hữu lộc bất khả hưởng tận. Có tiền bạc không nên hưởng một mình. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song vì khi chúng ta thương giúp người khác là chúng ta thương giúp cho chính Chúa. Khi chúng ta làm phúc bố thì là chúng ta hành động một cách khôn ngoan, tạo cho mình một kho tàng ở đời sau.
Để giúp chúng ta hiểu điều đó, tôi xin kể lại một câu chuyện. Ý nghĩa của câu chuyện này, là hãy biết dùng tiền bạc vật chất để tạo cho mình những bè bạn, sẽ bênh vực và giúp đỡ chúng ta bước vào quê trời:
Ông chủ một thửa vườn chôm chôm nọ, sáng hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng, đưa mắt nhìn vào những trái chôm chôm chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người yêu thích trẻ nhỏ, nên cho gọi hai em lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn, nhưng không được đem trái nào đi. Trước khi hai em ấy về, ông đã khám qua các túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm lạ vì thấy hai em cứ đi dọc theo hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm một cái gì đó. Đoán được cái mẹo vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn hỏi. Hai em đành phải thú nhận rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sau đó sẽ lượm và đem về cho em. Ông chủ khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em được mang những quả chôm chôm ấy đi.
Hai em nhỏ là mỗi người chúng ta. Ông chủ là Thiên Chúa. Còn thửa vườn là thế gian, nơi chúng ta đang sống. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được, chẳng hạn như tiền bạc, cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta không thể đem theo khi giã từ cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách hành động, để ném vào đời sau những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hãy biết chia sẻ phần tiền bạc vật chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho những người túng thiếu...
Điều này Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa, bởi vì trong ngày phán xét Chúa sẽ nói với chúng ta: Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; khi Ta khát các ngươi đã cho uống; khi Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; khi ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm… Nếu hành động khôn ngoan như thế, chúng ta sẽ xứng đáng là những người con cái Chúa và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội hậu. Bởi vì giúp đỡ người khác chính là cách thức chúng ta đầu tư cho cuộc sống mai sau.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Trong suốt Thánh Lễ, chúng ta thường nghe Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của những dụ ngôn. Điều: TN 26-C75
Trong suốt Thánh Lễ, chúng ta thường nghe Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của những dụ ngôn. Điều đó có thể đã giúp cho chúng ta tự hỏi: “Tôi là ai trong dụ ngôn đó?”. Chúa Nhật này, Chúa Giêsu nói môt câu chuyện rất mạnh mẽ về người giàu có không hề chú ý đến người ngheo trước cửa nhà mình. Người phú hộ trong câu chuyện không có tên (ông ta có biệt danh là “Dives” từ này trong từ Latinh có nghĩa là giàu có). Có lẽ việc thiếu tên là một dấu hiệu để cho chúng ta suy nghị xem chúng ta là người nào và người đó là người tự mãn, thỏa mãn với những gì mình đang có và vì thế mà ông ta đã không chú ý tới Lazarô nơi cổng nhà mình, ngay khi Lazarô bị ốm rất nặng, mình bao bọc đầy những mụn, rất đói và ông ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh vụn rơi từ bàn người phú hộ xuống đất nhưng không có mà ăn.
Cũng có một cách khác để thấy chúng ta trong dụ ngôn ngày hôm nay. Trước đây chúng ta đồng ý rằng chúng ta được cảnh báo để nhìn thấy và chăm sóc những người có những nhu cầu khẩn thiết, chúng ta có thể làm tốt hơn để nhận biết rằng tất cả chúng ta là Lazarô. Hay chính xác hơn chúng ta có thể là như thế trong phạm trù thiêng liêng chứ không theo một cách thể lý.
Không có sự cứu chuộc bởi Đức Kitô thì chúng ta tồi tàn hơn Lazarô. Chúng ta không có những mụn nhọt bên ngoài nhưng bên trong chúng ta thì đầy tội lỗi. Chúng ta đã thiếu những của ăn không chỉ là những bánh vụn nhưng là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa. Chúng ta ở ngoài cổng của Giáo Hội, nếu không có Đức Kitô chúng ta sẽ không bao giờ bước qua ngưỡng cửa nhà của Người ở trên mặt đất này, để một ngày kia chúng ta bước vào ngôi nhà đời đời ở trên trời.
Thiên Chúa đã thương xót chúng ta. Người đã gửi Con của Người là Thượng Tế tối cao, là Đấng trung gian của chúng ta, Đấng đã băng qua khoảng cách lớn lao của vực thẳm tội lỗi mà Abraham đã nói với người giàu có khi bị tách riêng ra khỏi Thiên đàng. Thiên Chúa đã cho chúng ta đức tin để tin vào quyền năng cứu chuộc của sự chết Đức Kitô, và để âu yếm chân lý về sự Phục Sinh của Ngài và sự Phục Sinh đó là nguồn mạch bảo đảm cho niềm hy vọng vững chắc của chúng ta. Thiên Chúa đã trao cho chúng ta sự khôn ngoan để trân trọng và yêu mến Thánh Thể như là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa đã hiến thân vì chúng ta, Máu quý giá của Ngài đã đổ ra vì chúng ta.
Cách thiêng liêng chúng ta có thể giống như Lazarô trong sự khốn khổ thể lý của ông nhưng chúng ta đã trở thành giống ông khi ông được nâng lên bởi các thiên thần. Chúng ta là những kẻ đã được chúc phúc thật sự vì Chúa Giêsu đã không đối xử với chúng ta như là người phú hộ đối xử với Lazarô. Để thực hành ứng dụng mà Chúa Giêsu đã giới thiệu trong dụ ngôn, hãy để chúng ta tưởng tượng rằng Lazarô trở lại trên mặt đất này. Thế bạn có nghĩ rằng ông ta sẽ chểnh mảng như người phú hộ, người đàn ông giàu có đó không? Thế bạn có nghĩ rằng ông sẽ lờ đi với những người bây giờ có hoàn cảnh khốn khổ như ông ta không? Các bạn có tin rằng Lazarô sẽ làm bất cứ điều gì để thương xót người khác hơn là những kẻ chỉ có thể cho những người ăn xin những miếng bánh vụn từ bàn của ông rơi xuống không?
Nhưng không cần chúng ta tưởng tượng Lazarô đã trở về từ cõi chết. Chúng ta là những Lazarô, tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Tất cả những gì mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta sẽ là sự thúc đẩy cho chúng ta trở nên quảng đại đối với những kẻ có nhu cầu, tử tế với những người không có sự an ủi và yêu thương hướng đến mọi người như Thiên Chúa đã hướng đến chúng ta. Trong kinh tiền tụng của Thánh Lễ, vị linh mục đã tuyên bố nhân danh chúng ta: “Lạy Cha, chúng con xưng tụng Cha ở mọi nơi, dâng lên Cha lời cảm tạ”. Lời kinh phụng vụ tạ ơn của chúng ta sẽ thúc đẩy chúng ta luôn luôn và ở mọi nơi, để cư xử với mọi người bằng tình yêu quảng đại mà Thiên Chúa đã trình bày cho chúng ta trong người Con của Người, vị Tư Tế và là vị Cứu Chuộc chúng ta.
Ông phú hộ và Ladarô sống trong những thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài tía: TN 26-C76
Ông phú hộ và Ladarô sống trong những thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài tía; Ladarô mặc áo quần rách rưới. Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày, Ladarô không có gì để ăn. Ông phú hộ mạnh khỏe, Ladarô mình đầy mụn nhọt. Ông phú hộ sống trong lâu đài, Ladarô sống trước cổng ông nhà giàu.
Thật vậy, nói rằng họ sống trong những thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ. Họ sống trong một thế giới trái ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn; Ladarô sống trong một sa mạc. Ông phú hộ sống trong một thiên đàng trần gian; Ladarô sống trong một địa ngục loài người. Và dù thế giới riêng của họ khác nhau như ngày và đêm, chúng lại ở cạnh nhau.
Ladarô sống ở bên lề thế giới của ông phú hộ. Và vì anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ nên mỗi ngày anh nhìn vào thiên đàng mà anh đã bị trục xuất. Dù anh ao ước được đi vào thế giới của ông, anh cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh sẽ sung sướng biết bao khi được làm đầy bụng bằng những mảnh vụn thức ăn từ bàn của ông phú hộ rơi xuống. Nhưng anh không có được, không phải vì không thể làm được việc đó mà chỉ vì không ai muốn làm việc đó cho anh.
Dĩ nhiên, người ở vị trí tốt nhất để giúp đỡ anh Ladarô là ông phú hộ. Ông có thể dễ dàng bước vào thế giới cô độc và tuyệt vọng của Ladarô để tiếp xúc với anh. Nhưng ông đã không làm. Ông khép kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm hồn ông lại.
Ladarô thuộc vào hạng người nghèo nhất. Thế nhưng trong một ý nghĩa nào đó, ông phú hộ còn nghèo hơn. Thế nghĩa là thế nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta hiểu điều đó.
Một nhà doanh nghiệp đậu chiếc xe đời mới của ông vào lề đường và đi làm một vài công việc. Khi ông trở lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.
- Thưa ông, có phải chiếc xe này của ông? Cậu bé hỏi. - Phải. Ông ta đáp. - Nó đẹp quá. Ông phải trả bao nhiêu tiền để mua nó? - Nói thật với chú bé là tôi không biết. - Ông muốn nói ông mua nó và không thể nhớ đã trả bao nhiêu? - Này chú bé, tôi không nói tôi mua nó. Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi. - Ông muốn nói bạn ông cho ông và ông không mất một xu nào để mua? - Đúng thế! - Tôi ước gì tôi…
Nhà doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp “Tôi ước gì tôi có một người bạn như thế”. Nhưng cậu bé lại nói: “Tôi ước gì tôi có thể là một người bạn như thế”.
Và ông ta kết luận: “Đây là mình trong bộ áo quần lòe loẹt với chùm chìa khóa và một chiếc xe đời mới trong tay. Còn kia là cậu bé áo quần rách rưới. Tuy nhiên tâm hồn cậu có nhiều tình yêu thương hơn mình. Và trong ý nghĩa đó, cậu giàu sang hơn mình… Tôi thật sự xúc động đến nỗi lấy xe chở cậu và người bạn của cậu bị chứng sốt tê liệt lúc còn nhỏ làm chân tay co rút lại, cho cả hai đi một vòng với chiếc xe của tôi. Đó là những giờ hạnh phúc nhất của đời tôi”.
Ông phú hộ phải chịu thứ nghèo nàn tệ hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. Tâm hồn ông ta trống rỗng lòng thương xót và yêu thương.
Ông không muốn cho Ladarô dù là những mảnh vụn thức ăn trên bàn của ông. Cả những con chó hoang ngoài phố còn tử tế với Ladarô hơn ông ta.
Người giàu có bị của cải làm tổn thương cũng như người nghèo bị cái nghèo của họ làm tổn thương. “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến” (Mẹ Têrêxa).
Khoảng cách giữa ông phú hộ và Ladarô đang phát triển thành một vực thẳm khổng lồ. Những đứa trẻ trong thế giới thứ ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một phóng viên hỏi một thiếu niên: “Cháu muốn làm gì với cuộc đời mình?”. “Cháu muốn sống để nhìn thấy tuổi hai mươi”. Câu trả lời là như thế.
Một tối nọ, một người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ, ông: TN 26-C77
Một tối nọ, một người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ, ông thấy một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu cầu ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông quyết định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm đó, không bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp cho người nghèo cái gì.
Vừa mới đi qua cổng chính của tòa nhà thì ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt đất, hai tay đưa ra để cầu xin bố thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy hoàn cảnh khốn khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga chạy tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh của người ăn mày này có khốn khổ đến đâu.
Ông đi dọc ngang khắp thành phố và nhận thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu thì nhiều hơn ông nghĩ. Khi ông quay về nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, lược đồ, dự án. Vấn đề duy nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng ông sẽ bắt đầu với một bệnh viện, một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi nào đó?
Khi về đến cổng tòa nhà, ông nhận thấy người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí lúc ban sáng. “Chỉ cần tưởng tượng con người nghèo khổ này ngồi đây suốt ngày trong cái nắng cháy da!”, ông tự nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động lòng trắc ẩn nhưng một lần nữa, ông lại đi qua không dừng lại.
Tối hôm đó ông có một giấc mơ khác. Ông lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác. Nhưng lần này không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là người ăn mày mà ông đã thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết rõ mình phải bắt đầu ở chỗ nào.
Mẹ Têrêxa nói: “Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng ta. Tôi không đồng ý với cách thức to lớn để thực hiện các công việc – yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không còn những “triệu” người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần gũi”.
Mẹ Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: “Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người ấy chết vì đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia – còn người đàn ông đó thì đã chết.
“Tôi không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân. Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt. Đối với bạn, cũng giống thế. Trong gia đình bạn, cũng giống thế”.
Người giàu có không mong cứu vớt thế giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày trước cổng nhà mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một tu sĩ lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói: “Xin thầy cho con viên ngọc quý”.
- Anh định nói về viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.
- Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giàu có mãi”.
Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra. “Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến”, ông nói và đưa nó cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó”.
Người đàn ông cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói: “Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế”.
Người giàu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.
Trong Tin mừng Thánh Luca, các diễn từ về vấn đề ‘hư mất’ kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn người: TN 26-C78
Trong Tin mừng Thánh Luca, các diễn từ về vấn đề ‘hư mất’ kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn người con hoang đàng. Các diễn từ về của cải trần gian mà kết thúc là dụ ngôn người giàu hưởng thụ và Lagiarô khốn khổ.
Ở đây, trình thuật không có ý nói đến khía cạnh xã hội, dầu sự tương phản giữa người phú hộ và Lagiarô được diễn tả bằng những nét sâu sắc. Dụ ngôn cũng không có ý (dầu người ta giải thích như thế) nói đến sự nhẫn tâm thiếu bác ái. Nếu hiểu theo nghĩa này, người ta ưa thêm thắt những lời không có trong nguyên văn. Khi nói ‘Lagiarô ước được ăn những mụn bánh rớt từ bàn ăn’ cho đỡ đói. Người ta nghĩ nên thêm: ‘Nhưng không ai thèm cho’. Thực tế câu này đã được thêm vào; Hơn nữa diễn từ của Abraham cũng ám chỉ không ít ý tưởng đó.
Dụ ngôn trước hết nhắm ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruồng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người Saducêo, không tin đời sau, hành vi đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công bằng trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Nó đòi hỏi mỗi người cố gắng hành động tốt, tức là giữ giới luật Chúa, lãnh nhận ngay khi còn ở trên dương gian phần thưởng mà họ có thể được.
Người lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đã làm hài lòng Thiên Chúa; bằng không thì vì tội lỗi ngự trị trong lòng họ. Đó là nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa Giêsu vì Ngài đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ, và dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.
Hai nhân vật đối đầu nhau: một người sống trong xa hoa, không thiếu thứ gì và một người nghèo sống trong cảnh khốn khổ cùng cực, kéo lê cuộc sống đáng thương cho đến lúc chết. Trong khoảnh khắc, cảnh huống thay đổi hoàn toàn vì ở thế giới bên kia, sự tương phản đôi bên cũng gay gắt nhưng theo chiều hướng đảo ngược. Người hành khất được hạnh phúc trong lòng Abraham, còn người giàu có phải chịu muôn vàn đau khổ.
Thịnh vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa; cũng như nghèo khó không minh chứng sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruồng bỏ. Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.
Cho nên không thể rút ra những hệ luận thiêng liêng căn cứ vào một vài chi tiết trong bài trần thuật này: chẳng hạn các khổ hình dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiệu những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh, việc an nghỉ trong lòng Abraham cũng thế…
Cũng không thể áp dụng trên khía cạnh luân lý khi nói đến đức bác ái hay sự từ khước ý muốn của Thiên Chúa. Thực sự, dụ ngôn không có ý nói người phú hộ cứng lòng và Lagiarô nhẫn nhục chấp nhận số phận. Chúng ta chỉ nói đến một chủ đích riêng của dụ ngôn: minh chứng rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan tới trạng thái tâm hồn. Đó là điều dụ ngôn muốn nói.
Giải thích này, vào đúng thời của nó, đã đả phá được quan niệm sai lạc của Biệt phái, đòi hỏi họ phải thay đổi toàn bộ cảm nghĩ… Ngày nay tầm quan trọng của nó vẫn còn. Người ta luôn luôn đánh giá cuộc đời của mình cũng như của người khác theo tiêu chuẩn vật sở hữu bề ngoài. Nếu một người có tiền, ăn sung mặc sướng, sẽ được coi là người biết tổ chức tốt đời của mình.
Vở kịch đời sẽ thay đổi hoàn toàn ở màn hai khi bước qua thế giới bên kia. Chúng ta không ngại thán phục người quyền thế, người hùng mạnh, họ đã đạt thành công, ‘đã làm được một cái gì’ và chúng ta thương cảm cho người yếu đuối vì cuộc sống của họ đầy thất bại và không có được may mắn. Ở điểm này, Thiên Chúa cũng không nghĩ như chúng ta. Không nên xét đoán theo quy tắc nền tảng của Kitô giáo.
Tuy nhiên, con người tỏ ra xung khắc với giáo lý đó. Cho nên ở cuối dụ ngôn, Đức Kitô quả quyết họ không muốn nghe Môisen và các tiên tri, và ngay cả một người chết sống lại đến bảo họ rằng họ đang sống không đúng với đường lối của Thiên Chúa, họ không thể thay đổi lập trường. Ở đời sau, người trước sẽ thành sau, sau sẽ thành trước; nghèo sẽ thành giàu và giàu sẽ thành nghèo; hèn kém sẽ thành quyền thế và ngược lại.
‘Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu; kẻ đói khát, Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng’. Đức Kitô đã đến trần gian và Ngài đã nhắc đi nhắc lại điều đó một cách hết sức rõ ràng. Nhưng người ta không tin và cũng không muốn tin Ngài… Sự đời trần gian đối với họ còn hơn của thiêng liêng, đời sống hiện tại hơn đời sau. Họ thích cuộc sống như người phú hộ hơn là số phận của Lagiarô, dù họ có biết trong thế giới bên kia sự thể sẽ hoàn toàn thay đổi.
Thực họ khó xét lại quan điểm và lề lối suy nghĩ của mình.
Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày: TN 26-C79
Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”
Đức Giêsu đã trông thấy điều đó. Bấy giờ đã có những bất bình đẳng... giữa những người quá giàu, và những người quá nghèo.
Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu
Chúng ta nhận thấy rằng ông nhà giàu không có tên: Mỗi người chúng ta chắc hẳn có thể nhận ra mình nơi ông ta. Còn người nghèo có cái tên “Ladarô”. Trước mắt Thiên Chúa, Ladarô là một con người. Và cái tên mà Đức Giêsu cho anh (đây là lần duy nhất mà một nhân vật của dụ ngôn có một cái tên cụ thể) có đầy ý nghĩa: Trong tiếng Do Thái, El'azar có nghĩa là “Thiên Chúa - phù hộ”. Chúng ta đi đoán điều gì nơi ông nhà giàu bị... chê trách. Đó là ông ta đã đặt mọi niềm tin cậy vào sự giàu cồ của ông, vào nhân tính. Trái lại điều Đức Giêsu thán phục nơi người nghèo khó là dù thiếu thốn hết mọi sự của trần gian, anh chỉ trông cậy vào Thiên Chúa sẽ giúp đỡ anh.
Thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta
Chúng ta chớ quên rằng chính Đức Giêsu đã dùng cách mô tả bi thảm này: Bên trong nhà, người ta chè chén trong cảnh xa hoa; bên ngoài, kế bên là cảnh khốn cùng, giữa hai bên là một cái cổng. Cái cổng này ví như một “vực thẳm” phân cách giàu nghèo. Hai vũ trụ song song. Ông nhà giàu sống trong một thế giới khép kín trên chính mình, và không vượt qua cái cửa của ngôi nhà.
Phải sự giàu có, tài sản của chúng ta ngăn không cho chúng ta “thấy được” những người khác. Và người nghèo khó, mình đầy mụn nhọt, nằm bên ngoài trước cổng ông nhà giàu, dường như cũng không tận mắt nhìn thấy ông nhà giàu mà Đức Giêsu đưa lên sân khẩu.
Ngày 3 tháng 7 năm 1980 tại Sao Pau-lô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại một cách tập thể: “Những làn sóng di dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột bất xứng nơi nhiều người mất hết niềm hy vọng và chết trong cảnh bần cùng. Trẻ em, thanh niên, người lớn không tìm thấy không gian sống để phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và tinh thần, đi lang thang trong các đường phố nơi nhung làn sóng, xe cộ chạy tấp nập giữa những tòa nhà bằng bê-tông... Bên cạnh những khu phố ở đó. Người ta sống với mọi tiện nghi hiện đại, tồn tại những khu phố khác thiếu thốn đủ mọi thứ cơ bản nhất... Nhiều khi sự phát triển trở thành một sự thuật lại khổng lồ dụ ngôn ông nhà giàu và Ladarô, sự kề cận của cảnh xa hoa và cảnh khốn cùng càng làm trầm trọng tình cảm ức chế của những người không may mắn”
Đó đúng là điều Đức Giêsu đã nói: Những mô tả ấy có tác động tôi điều gì không?
Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình”
Vậy đây là một sự lật ngược hoàn cảnh tình thế.
Người nghèo đã ở giữa hỏa ngục trên trần gian. Bởi lẽ có những hoàn cảnh khốn cùng là một hỏa ngục thật sự. Giờ đây, ngươi ấy được hạnh phúc. Trong khi ông nhà giàu trước đây không thiếu thứ gì, giờ đây phải khốn khổ. Một trong những điểm đáng lưu ý của hai dụ ngôn, là Chúa không nói rằng người nghèo sống đức hạnh, và ông nhà giàu sống xấu xa. Đơn giản người này thì nghèo, người kia thì giàu, thế thôi. Ông nhà giàu không bị buộc tội đã ăn cắp của Ladarô hoặc đã bóc lột anh bang một nghiệp vụ khéo léo về bất động sản hay thương mại, hoặc không trả lương Ladarô cho công bằng, hoặc đã ngược đãi, bóc lột anh. Chúa cũng không nói rằng ông nhà giàu không bố thí cho Ladarô: Chỉ đơn giản là ông không nhìn thấy anh ta! ông đã để một vực thẳm khủng khiếp giữa ông và người nghèo. Họ xa nhau, người này xa cách người kia.
Ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
Dĩ nhiên không nên tìm kiếm một sự mô tả thế giới bên kia trong những hình ảnh này. Đức Giêsu chỉ sử dụng những sơ đồ của tư tưởng người đồng thời. Người không thể nói cách khác để người ta hiểu Người: Thế giới bên kia được hình dung (!) như một âm phủ bao la (“Shéol”) với những thân thể (!), những cái lưỡi, ngón tay, lửa, nước, ở một nơi mà những kẻ bị kết án nhìn từ xa những người được ưu tuyển cách mình bằng một vực thẳm. Điều rõ ràng bên kia những hình ảnh bình dân làm sự đảo ngược những điều kiện ở trần gian. Giờ đây chính ông nhà giàu cần đến anh nhà nghèo.
Ông Abraham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’
Đức Giêsu một lần nữa tái khẳng định “đặc quyền của những người nghèo” bởi miệng của Abraham. Chúng ta, hãy nhớ lại. Bài Ca Ngợi Khen (Magrificat): “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53). Chúng ta hãy nhớ lại bài diễn từ phác họa chương trình của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét: “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Le 4,18). Chúng ta hãy nhớ lại mối phúc thật và mối họa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó; khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (Lc 6,20-24). Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống lại nguy cơ của những giàu có vật chất (Lc 12,15-21 - 16,9-11).
Đối với Đức Giêsu, sự giàu có bao gồm hai nguy cơ chết người:
1. Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: Người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.
2. Nó khép kín lòng mình với những người khác: Người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay cổng nhà mình.
Chúng ta hãy lưu ý rằng, hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này: Xa cách Thiên Chúa như ở trần gian người ta vẫn thế; xa cách những người khác như ở trần gian Người ta vẫn thế. Một lần nữa, chúng ta ghi nhận rằng chính con người “tự phán xử mình ngay từ trần gian này”.
Hình phạt khủng khiếp ấy đơn giản là khoảng cách mà kẻ giàu có đã đặt ở giữa người ấy và Thiên Chúa, ở giữa người ấy và những người khác. Bởi vì Nước Thiên Chúa là sự hiệp thông của tình yêu. Kẻ giàu có đã tự kết án chính mình: “cái cổng nhà” hắn phân chia hai thế giới đã trở thành “vực thẳm”.
Tôi có tin chắc rằng tôi đang kiến tạo thiên đàng hay hoả ngục của tôi, mỗi lần tôi mở lòng tôi cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, mỗi lần tôi khép kín mình trong chính mình? Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của thiên đàng và hỏa ngục.
Người nào không yêu thương ở trần gian này đã tự loại mình ra khỏi “bữa tiệc của Thiên Chúa” nơi chỉ có những người nghèo được vào, những người này đã “mở lòng mình ra cho những người khác”. Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta thái độ và hữu thể của Thiên Chúa: Người là Tình yêu phổ quát. Một người cha đã giết con bê béo và tổ chức một bữa tiệc linh đình để đón nhận đứa con hoang đàng; Thiên Chúa là thế! Một người giàu có chè chén với bạn bè mình để lợi dụng của cải mình: Khác nhau biết bao!
Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này’
Chi tiết này không thôi, sẽ chứng tỏ khi cần rằng người ta không thể dùng những hình ảnh ấy để mô tả thực tại đời sau: Nếu Thiên Chúa thấy tình cảm tốt lành nhỏ nhất trong một Người, thì đương nhiên nơi này sẽ thôi không còn bị kết án nữa. Tình yêu của Thiên Chúa thì vô tận. Nhưng ở đây, chúng ta có một cảnh dựng để đưa vào câu trả lời sẽ theo sau.
Ông Abraham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.' Ông nhà giàu nói: ‘Thưa tổ phụ Abraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối’
Vậy một lần nữa, chúng ta đứng trước một lời yêu cầu làm những đấu chỉ khác thường. Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để tôi tin? ông hãy xuống khỏi cây thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa! ông hãy gieo mình từ nóc Đền thờ xuống. Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào các phép lạ và những lần hiện ra. Đức Giêsu từ chối các dấu chỉ giật gân (Lc 11, 16-29; Mc 8, 11-12; Mt 2,38; 16,1).
Ông Abraham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’
Thật vậy, sự sống lại của Ladarô, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà còn thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền nhất mà là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Chúa (Môsê và các ngôn sứ)... sự khiêm nhường và chú tâm nhìn thấy các nhu cầu của anh em chúng ta (người anh em đang đau khổ bên cạnh tôi)...
Nhưng Đức Giêsu xem ra đã khẳng định rằng số phận những người giàu đó đã khô cứng một cách bi thảm: Tính ích kỷ sự buông thả thái độ vô tôn giáo, thái độ khép kín lòng họ... sau cùng làm họ “không thể đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa”. Thỉnh thoảng, cái chết theo lẽ tuần hoàn mà đến, nhắc họ rằng sự vô cảm tâm linh là điều bấp bênh, và sự giàu có không bảo vệ họ mãi mãi. Nhưng tất cả đều vô ích: tài sản của họ đã làm họ mù mắt trước những nỗi khốn khổ của người khác và trước sự mỏng dòn của bản thân họ. Họ tự mãn về chính họ... bị giam hãm trong của cải của họ... Thiên Chúa không cưỡng đoạt. Người không thể ép buộc một ai yêu mến.
Để kết luận suy niệm bài Tin Mừng này, chúng ta phải tự hỏi. Ai giàu có? Ai nghèo khó? Thành hay bại rất nghiêm trọng đến nỗi nếu áp dụng câu chuyện này cho những người khác sẽ tai hại như khi nói rằng: “Tôi đâu có phải là ông vua dầu hỏa”.
Hãy nhìn kỹ lòng mình... Nó có mở ra cho Thiên Chúa, cho người khác không?
Trên hành trình tiến về Giêrusalem nơi Người sẽ tự nguyện hiến mạng sống cho anh em đồng: TN 26-C80
Trên hành trình tiến về Giêrusalem nơi Người sẽ tự nguyện hiến mạng sống cho anh em đồng loại - Đức Giêsu bắt đầu bằng việc kể cho các môn đệ dụ ngôn người quản gia bất lương. Trước sự ngỡ ngàng của mọi người, Người kết luận với lời khen tên quản gia ấy và mời gọi “con cái ánh sáng” phải biết hành động “khôn khéo” giống như “con cái đời này”: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em nào nơi ở vĩnh cửu “.
Giờ đây, Người quay sang ngỏ lời với những người Pharisêu, “vốn ham hố tiền bạc” (họ quan niệm giàu có như dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành) và “cười nhạo Đức Giêsu”. Trong lúc dụ ngôn trước dạy cho chúng ta biết cách sử dụng của cải trần gian sao cho đúng, thì dụ ngôn sau trình bày mặt trái, qua câu chuyện về một người đã sử dụng của cải mình. có cách sai lầm. Đây là dụ ngôn của riêng Luca, gồm ba cảnh. Mở màn, hai nhân vật xuất hiện: một giàu, một nghèo.
Người thứ nhất, mặc dù là nhân vật chính, lại không được nêu tên: “một viên phú hộ kia”, thế thôi; nghĩa là mỗi người đều có thể nhận ra chính mình nơi ông. Kẻ thứ hai thì lại có một cái tên gọi - chuyện hy hữu trong tất cả những dụ ngôn của Đức Giêsu - và là một cái tên có nghĩa biểu tượng: “Ladarô”, có gốc từ chữ “Ê-lê-a-da”, nghĩa là “Thiên Chúa phù trợ”.
Không chỗ nào nói Ladarô là một con người nhân đức; anh chỉ được giới thiệu là “một người nghèo”, “người nghèo” nói chung, không ai thấy không ai nghe. Cũng vậy, không một chỗ nào nói rằng viên phú hộ kia là một kẻ “ác ôn”, rằng ông đã vơ vét của cải một cách mờ ám, rằng ông đã chiếm đoạt, đã bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi Ladarô. Dụ ngôn trong Tin Mừng chỉ lưu ý chúng ta ở chỗ ông đã không ngó ngàng gì tới “người nghèo khó nằm trước cổng nhà mình”, thế thôi ở đây chúng ta chứng kiến cảnh trái ngược trớ trêu của hai thế giới sát bên nhau. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với viên phú hộ “mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”. Bên kia là thế giới thiếu thốn đến thảm hại của người nghèo khó, “nằm trước cổng, mụn nhọt đầy mình”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống mà ăn cho no cũng chẳng được”; chỉ có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Giữa hai thế giới đó, chỉ có một “ngưỡng cửa”, một ranh giới, ngày càng được đào sâu một cách vô hình, được nới rộng cho tới một lúc tấm màn của cảnh một được buông xuống với cái chết đồng thời của cả hai nhân vật: “Thế rồi người nghèo nàn chết... ông nhà giàu kia cũng chết”
2. Một vực thẳm không thể vượt qua
Cảnh hai cho thấy cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết thay vì làm cho họ xích gần lại với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Ladarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. Còn viên phú hộ thì trái lại, trước đây hưởng thụ giàu sang, chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình nay phải ở “dưới âm phủ, đang chịu cực hình”. Ông năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô - ông nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn sống trên đời - “nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát”.
Muộn quá rồi. Cuộc chơi đã mãn! Cả Abraham lẫn Ladarô chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Một cách vô thức, ông đã từng bước đào sâu thêm, giữa sự giàu có ích kỷ của mình và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một “vực thẳm” mà rốt cùng cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự “khôn khéo” của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông đã không biết “làm bạn” với Ladarô, để được anh “đón rước vào nơi ở vĩnh cửu”.
Theo nhận định của H. Cousin: “Vực thẳm” chia cách giữa những người đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy
3. Hãy nghe lời Chúa đừng chần chừ nữa.
Câu chuyện lại chợt bừng lên với lời năn nỉ của ông phú hộ xin cho năm người anh em còn sống trên trần.
Họ có thể cũng đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người nghèo đang nằm trước cửa nhà mình. Cả bọn năm người họ cũng đang lơ lửng trước tai hoạ nếu không có ai đó cảnh báo cho biết. “Xin tổ phụ sai anh Ladarô, ông nài xin, đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này”. Bởi nếu có sự can thiệp của ai đó “từ cõi chết” hiện về với họ, “thì họ sẽ ăn năn sám hối”. Ao tưởng thôi - câu trả lời cho ông - nếu nghĩ rằng chỉ cần có ngươi từ cõi chết hiện về là họ sẽ chịu nghe, nếu “Môsê và các Ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe”: Luật Môsê và các Ngôn sứ đã chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư'? Các ngài đã chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo, chia cơm, sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao? Sách Đệ Nhị Luật (15,7-11) truyền dạy: “Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em lòng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ không giúp người anh em: Hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong niềm đất của anh em”. Và cả các Thánh vịnh cũng đã chẳng không ngừng lặp đi lặp lại rằng mọi kẻ nghèo khó, thấp cổ bé miệng, bị áp bức, bị bóc lột, đói khát, đều là những người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa sao? (xem Tv 112 Chúa nhật trước và Tv 145 hôm nay)
Bài học đã quá rõ. Nó được gởi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm cho điếc tai, mù mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động, buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng. Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng. H. Cousin kết luận: “Đại diện cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay viên phú hộ tưởng tượng rằng một phép lạ sẽ làm được cái mà Kinh Thánh làm không được. Lầm to! Một phép lạ, cho dù là phép lạ người chết sống lại, cũng không thể thay lòng đổi dạ được những kẻ cứng lòng không đón nhận sứ điệp của Lề Luật và các Ngôn sứ với lòng tin. Người trong Hội Thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống lại, cũng tồn tại một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng giả như được chứng kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn mình sẽ lo ăn năn sửa đổi đời sống. Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta!. Chỉ khi biết lắng nghe Lời Chúa, con người mới có thể hoán cải. Đó chính là sứ điệp lưu truyền lâu đời có sẵn tại trung tâm Lề Luật là các Ngôn sứ.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Sức mạnh của Tin Mừng.
“Không mệt mỏi, Đức Giêsu nhiều lần dề cập đến sự đảo lộn những giá trị khi Nước Thiên Chúa đến. Trong thực tế, Người đã lừng vấp phải sự cứng lòng của những người Pharisêu, thánh Luca nói, họ vốn “ham hố tiền bạc là... cười nhạo Đức Giêsu”. Họ như một bức tường trơ trơ do cái vẻ công chính bề ngoài dưới mắt thiên hạ. Họ không muốn để mình bị lay động. Đức Giêsu cảnh cáo họ: “Thiên Chúa biết lòng các ông”. Không phải tất cả những gì người đời ái mộ, khâm phục đều thực sự có giá trị. Chỉ có đôi mắt của Thiên Chúa mới thấu suốt được giá trị đích thực của mọi vật. Ngay cả Lề Luật, vững bền như “đất trời” vì là Lề Luật của Thiên Chúa, cũng không thể là cái cớ được đưa ra để khước từ Tin Mừng của Nước Trời: vượt qua cả Lề Luật là sức mạnh của Nước Trời, đòi con người phải đấu tranh với bản thân để phá vỡ cái vỏ bên ngoài giam hãm cái tâm tốt lành trong mỗi người.
Đức Giêsu còn dùng một dụ ngôn nữa để diễn tả sự đáo ngược tình thế mà tin Mừng nước trời đến loan báo: số phận của viên phú hộ và anh Ladarô là một minh hoạ. Viên phú hộ, xưa kia sống xa hoa hưởng thụ, nay bị đày xuống âm phủ. Anh Ladarô, xưa bị quên lãng, khinh thường, nay được đem vào lòng Abraham. Tình thế đà hoàn toàn lật ngược, vô phương kêu trách. Và Đức Giêsu nhấn mạnh: phải lo tỉnh ngộ sớm. Sẽ chẳng có dấu hiệu phi thường nào, chẳng có một ai từ cõi chết hiện về để đánh thức chúng ta khỏi cơn mê. “Chúng ta có Môsê va các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó!”. Chúng ta còn có hơn nữa: Tin Mừng của chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, giống như những người Pharisêu xưa, chúng ta khó tránh được thói nô lệ vẻ bề ngoài, khó lột bỏ được những mặt nạ của mình xuống và biết nhìn mọi hoàn cảnh bằng cái nhìn của Thiên Chúa chúng ta sợ sức mạnh của Tin Mừng. Cầu xin Thiên Chúa, với tất cả lòng kiên trì của Người, ra sức mở mắt cho chúng ta, ban cho chúng ta lòng dũng cảm để dấn thân vào cuộc chiến của Tin Mừng.
2. Trên những nẻo đường của tình liên đới
(G. Bouche, trong “Le ciel sur la terre”, trg 61).
Nỗi khổ đau của thế giới vẫn réo gọi chúng ta qua những hình ảnh trên ti vi, với bao hình hài con người tàn tạ, những bộ mặt thờ thẫn và ánh mắt tuyệt vọng.
Tiếng than đói khổ của nhân loại vẫn hằng ngày vọng đến chúng la qua tiếng kêu gọi không lời đáp ứng của những tổ chức nhân đạo đang xin mọi người rộng tay cứu giúp những con người đang chết lần chết mòn vì thiếu cả những nhu cầu tối thiểu, hiện đang sống không xa noi ở quá đầy đủ tiện nghi của chúng ta.
Chúng ta thường xuyên phải chứng kiến hay nghe nhắc đến cái nghèo ở khắp nơi, xa xôi hay sát bên cửa nhà chúng ta. Chúng ta cảm thấy đau lòng. Chúng ta muốn làm cái gì đó để vơi nhẹ nỗi khổ đau và lầm than. Nhưng biết làm gì đây?
Giúp tiền giúp bạc thì lại ngán nạn thất thoát ăn bớt. Trực tiếp hành động qua trung gian một ai đó chúng ta quen biết và tín nhiệm, thì lại không thấy được những nhu cầu cấp bách nhất, cũng như không giải quyết tận gốc rễ những bất hạnh.
Cống hiến một phần đời mình phục vụ trung các tổ chức liên đới và cứu trợ, mặc dù biết rằng đó chỉ là muối bỏ biển. Bênh vực những phong trào và báo chí đấu tranh cho một thế giới tốt đẹp hon, cũng như đấu tranh cho các dân tộc nghèo được làm chủ vận mạng của mình.
Chúng ta có bổn phận phải can thiệp để ủng hộ những người có uy tín không chịu khoanh tay đứng nhìn cảnh anh em mình đói khổ, bệnh tật, lấy cớ phải tôn trọng quyền lợi, luật pháp, công ước.
Góp tiếng nói với tất cả những ai đang đấu tranh cho một trật tự mới của thế giới, của nền kinh tế và của các quốc gia. Thành tâm cầu nguyện xin Thiên Chúa cho chúng ta biết mở rộng đôi mắt và hướng chúng ta đến một trái đất thực sự là mái ấm cho mỗi người và là nơi Thiên Chúa có thể hiện diện.
Điều nào cũng phải làm, mỗi thứ một chút! Tuỳ ơn Chúa và phương tiện của mỗi người.
Sau hết, chúng ta cần có một quan niệm về hạnh phúc phù hợp với hồng ân mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho muôn loài hơn là việc chiếm hữu cho thật nhiều của cải, chỉ làm cho chúng ta đầy ứ về vật chất nhưng khô kiệt về tâm hồn...
Phải chăng Thiên Chúa mới đúng là “người từ cõi chết” đến kêu gọi chúng ta như thế?
Chúng ta có thể tưởng tượng đang chứng kiến cảnh này. Màn thứ nhất: một người giàu có: TN 26-C81
Chúng ta có thể tưởng tượng đang chứng kiến cảnh này. Màn thứ nhất: một người giàu có sung sướng vui cười và Ladarô nghèo nàn khốn khổ. Màn thứ hai: người giàu có trở nên rất bất hạnh còn người nghèo kia đang ở cùng với các thiên thần. Luca thích loại đảo ngược này, và vì ghét những người giàu, ông đã mài sắc ngòi viết và viết bằng một văn phong xúc tích vô cùng:
“Người nghèo chết và được thiên thần mang vào lòng Abraham. Người giàu cũng chết và người ta chôn ông”.
Chúng ta không dự vào quang cảnh đó, chính chúng ta là những người mà Chúa Giêsu muốn đánh động. Và trước tiên dụ ngôn không nói đến người giàu có “xấu xa”, nhưng đơn giản chỉ là “một người giàu có” và thậm chí sáu người giàu: người giàu quá cố và năm người anh em của ông ta còn sống. Trong khi tỏ cho chúng ta thấy họ mù và điếc đến độ nào, Chúa Giêsu cảnh cáo tất cả chúng ta: “Các ngươi đừng chờ đợi cái chết mở mắt cho mình về sự sống”.
Người giàu có không “thấy” Ladarô. Ông đã không đuổi Ladarô xa ngôi nhà đẹp đẽ của ông, điều đó không làm ông rầy rà: ông không “thấy” gì cả. Thật là một sự mù lòa kinh khủng. Một bà già chết vì bị bỏ mặc, những người láng giềng nói: “Chúng ta đâu có thấy gì!”. Không phải tất cả những người sung sướng, tất cả những người giàu có đều có con tim chai đá, nhưng họ không thấy. Nhiều người tỏ ra có tình huynh đệ nếu họ thấy rõ hơn sự đau khổ chung quanh họ. Người giàu có muốn chia sẻ, họ sẽ được cứu sống.
Đối với người giàu này, quá trễ rồi. Cuối cùng, ông ta “thấy” Ladarô, ông cũng thấy điều phải trả giá đó là giàu tiền của mà nghèo tình thương yêu. Nhưng sự hiểu đời này không còn có thể giúp gì cho ông được nữa cả. Luca mô tả hết sức tỉ mỉ sự vĩnh cửu kinh sợ của kẻ đã từng “hạnh phúc” trước đây: Ông sẽ không bao giờ có thể vượt qua “vực thẳm lớn lao” được.
Vì không hoàn toàn xấu xa và rất gắn bó với gia đình, cho nên ông muốn cảnh báo cho các anh em của ông.
- “Lạy tổ phụ Abraham,… xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!”, ông nói với Abraham như thế.
Abraham nói: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”.
Người giàu có có tính hoài nghi. Ông đã có Lời Chúa, thế mà …. Cần phải khua chiêng gióng trống nhiều hơn nữa để làm cho người ta ăn năn thống hối.
- Không, Abraham nói, để ăn năn thống hối, không có gì mạnh mẽ hơn Lời Chúa.
Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta:
Bài học của các dụ ngôn thường là nằm ở kết cục; nơi mà các nhà chú giải gọi là “mũi nhọn”. Ở đây, chính tầm quan trọng được gán cho Lời Chúa. Chúa Giêsu nói qua Abraham: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ”.
Thậm chí tôi có thể dễ dàng vượt lên trên ích kỷ, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng tôi cũng không thấy những người anh em của tôi và tôi điếc, không nhất quyết đi theo Chúa Giêsu. Đối với tôi dường như nếu có điều gì khác thường làm cho tôi xáo trộn, một sự mặc khải, một cuộc hiện ra chẳng hạn…
- Không, Chúa Giêsu nói, không có gì khác thường hơn là Lời Chúa. Các ngươi đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ.
Tôi phải để cho mình bị thương thật sâu do mũi tên này. Tôi có Kinh Thánh nhưng Kinh Thánh có được lật từng trang, được đọc một cách không mệt mỏi hay chăng? Chúng ta có Lời Chúa tại sao chúng ta còn tìm kiếm điều gì khác nữa?
Đó là một ngày tháng bảy. Một người đàn ông ngồi ở bàn giấy trong một phòng có máy điều: TN 26-C82
Đó là một ngày tháng bảy. Một người đàn ông ngồi ở bàn giấy trong một phòng có máy điều hòa. Nhiệt độ trong phòng ở 23 độ, một nhiệt độ thích hợp. Ông ta cảm thấy đầy nghị lực. Từ cửa sổ ông nhìn thấy mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ ở bên ngoài và thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ lay động các ngọn cây. Đó là một ngày rất đẹp!
Ông ta nhìn một cậu thiếu niên đang làm việc trong sân. Căn cứ vào những động tác chậm chạp của cậu, người ta phải nghĩ rằng cậu là một tù nhân làm việc khổ sai. Cậu nghỉ ngơi thường xuyên. “Cậu ta có vấn đề gì? Làm sao mà một người trẻ tuổi lại lười biếng như thế?”. Người đàn ông tự hỏi.
Nhưng gần đến trưa, người đàn ông đi ra ngoài để làm một vài công việc. Ngay khi ông bước ra khỏi phòng, ông đụng phải hơi nóng như những làn sóng cản đường. Nhiệt độ bên ngoài là 34 độ và độ ẩm của không khí khá cao. Bấy giờ ông mới biết cậu bé đã chống chọi với cái gì. Và trong một ngày oi bức như thế này, ông ngạc nhiên vì cậu bé chưa bị ngất xỉu.
Mặc dù thế giới của ông được ngăn cách với thế giới của cậu bé chỉ bằng bề dày của một bức tường, hai thế giới ấy khác nhau nhiều lắm. Tuy nhiên nếu ông không rời khỏi thế giới của ông để bước vào thế giới của cậu bé, hẳn ông sẽ không bao giờ hiểu được sự khác nhau đó.
Chúng ta có thể cách người khác chỉ một tầm tay, nhưng sống trong một thế giới khác với người ấy. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được sự khác nhau ấy trừ khi chúng ta rời bỏ thế giới của chúng ta và bước vào thế giới của người đó. Chúng ta không bao giờ hiểu được điều đó từ bên ngoài.
Ông nhà giàu (phú hộ) và Ladarô đã sống trong những thế giới trái ngược, dù rằng những thế giới này nằm bên cạnh nhau. Nhưng ông nhà giàu chưa lần nào bước vào thế giới của người nghèo. Ông không nhìn thấy Ladarô như một con người, càng không phải là người anh em mà ông có thể chia sẻ nhân tính chung. Ông lãnh đạm, thờ ơ với Ladarô, và lãnh đạm là một thói xấu lớn.
Làm sao có thể như thế được? Của cải làm cho một người chỉ nghĩ đến mình. Chúng làm cho người ấy mù lòa trước những nhu cầu của những người khác và làm cho tâm hồn người ấy chai cứng. Đó là một bi kịch thật sự. Một cá nhân hoặc một quốc gia đánh mất tâm hồn mình khi cứ mải lo tích lũy những của cải lớn hơn.
Người giàu có không làm điều gì sai. Ông không làm tổn thương hoặc bóc lột người nghèo. Tuy nhiên, sau cùng “ông ta phải chịu cực hình trong âm phủ”. Ông ta bị lên án không phải vì ông ta giàu có mà vì ông không bày tỏ lòng thương xót người nghèo. Ông sống chỉ vì bản thân mình.
Tội lỗi không chỉ vì làm điều sai trái, mà còn là không làm điều tốt –tội không hoạt động, không làm gì và tệ hơn nữa là sự thờ ơ. Đây là một dụ ngôn làm xúc động. Không có cái kết thúc của một câu chuyện thần tiên– ít nhất là đối với ông phú hộ và ông này là nhân vật trung tâm của câu chuyện.
Xin Chúa, Đấng đã bước vào thế giới chúng ta một cách trọn vẹn, giúp chúng ta bước vào thế giới của những người đau khổ và thiếu thốn. Rồi khi đã có kinh nghiệm về đời sống của họ như thế nào, chúng ta chắc chắn sẽ được động viên để làm điều gì chúng ta có thể làm để giúp đỡ họ.
Là những người cần đến lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những người cầu nguyện với đôi bàn tay mở ra như những cái bát của người ăn mày, chúng ta đến lượt mình phải cố gắng sống nhân từ, quảng đại và thương xót những người khác, bởi vì mức độ chúng ta cho sẽ trở thành mức độ mà chúng ta nhận.
Tại sao ông phú hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục? Câu trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy: TN 26-C83
Tại sao ông phú hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục?
Câu trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù sống trên nhung lụa, ăn sang mặc quý, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp đỡ cho Lagiarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một chút của bố thí dư thừa.
Xem thế, chúng ta thấy: tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban. Chúng ta được phép sử dụng trước hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng đáng với phẩm giá con người, cho chính bản thân, cũng như những người thân yêu. Thế nhưng ngoài mục đích đó ra chúng ta còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đã bảo: Hữu lộc bất khả hưởng tận. Có tiền bạc không nên hưởng một mình. Chính những hành động bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song vì khi chúng ta thương giúp người khác là chúng ta thương giúp cho chính Chúa. Khi chúng ta làm phúc bố thì là chúng ta hành động một cách khôn ngoan, tạo cho mình một kho tàng ở đời sau.
Để giúp chúng ta hiểu điều đó, tôi xin kể lại một câu chuyện. Ý nghĩa của câu chuyện này, là hãy biết dùng tiền bạc vật chất để tạo cho mình những bè bạn, sẽ bênh vực và giúp đỡ chúng ta bước vào quê trời:
Ông chủ một thửa vườn chôm chôm nọ, sáng hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng, đưa mắt nhìn vào những trái chôm chôm chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người yêu thích trẻ nhỏ, nên cho gọi hai em lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn, nhưng không được đem trái nào đi. Trước khi hai em ấy về, ông đã khám qua các túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm lạ vì thấy hai em cứ đi dọc theo hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm một cái gì đó. Đoán được cái mẹo vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn hỏi. Hai em đành phải thú nhận rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sau đó sẽ lượm và đem về cho em. Ông chủ khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em được mang những quả chôm chôm ấy đi.
Hai em nhỏ là mỗi người chúng ta. Ông chủ là Thiên Chúa. Còn thửa vườn là thế gian, nơi chúng ta đang sống. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được, chẳng hạn như tiền bạc, cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta không thể đem theo khi giã từ cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách hành động, để ném vào đời sau những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hãy biết chia sẻ phần tiền bạc vật chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho những người túng thiếu...
Điều này Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa, bởi vì trong ngày phán xét Chúa sẽ nói với chúng ta: Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; khi Ta khát các ngươi đã cho uống; khi Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; khi ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm… Nếu hành động khôn ngoan như thế, chúng ta sẽ xứng đáng là những người con cái Chúa và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội hậu. Bởi vì giúp đỡ người khác chính là cách thức chúng ta đầu tư cho cuộc sống mai sau.
Cả thế giới ngày nay đang hốt hoảng lên vì căn bệnh của thời đại, căn bệnh mà hiện nay chưa: TN 26-C84
Cả thế giới ngày nay đang hốt hoảng lên vì căn bệnh của thời đại, căn bệnh mà hiện nay chưa có một phương thuốc nào khống chế được. Đó là căn bệnh AIDS. Mọi người đang cố sức tuyên truyền, thông báo mọi cách phòng bị để tránh căn bệnh hiểm nghèo này.
Nhưng con số nhiễm bệnh ngày mỗi tăng cao hơn. Không phải những người bị nhiễm bệnh là những người không biết gì về căn bệnh. Nhưng, cũng có thể họ là những người được thông tin rất rỏ, họ cũng biết cách làm sao cho đừng nhiễm bệnh, thế mà họ vẫn mang căn bệnh hiểm nghèo của thời đại. Vì họ nghe, biết nhưng họ không giữ được, họ nghe đó, nhưng không bao giờ để ý đến điều mình đã nghe. Có khi họ nghe và biết rõ như thế nhưng vẫn ngoan cố đi vào để mang lấy căn bệnh không thể nào chạy chửa khỏi được.
"Chúng đã có Môisen và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài".
Người phú hộ trong bài phúc âm, đã sa xuống vực sâu của cuộc sống. Ong đã vướn vào một căn bệnh mà giờ đây ông đành bất lực. Ong có van xin khóc lóc kêu la cũng vô ích. Ong còn lo cho những anh em của mình, sợ họ cũng vướn vào như ông. Ong nhờ Lazaro về thông báo, nhưng cũng không được chấp nhận. Mọi thông tin cần thiết đã có đầy đủ, có tránh được hay không là do ý thức của mỗi người. Cũng như ông, Phúc Âm không nói đến những việc làm của ông có gì sai trái, cũng không nói dến ông có làm việc gì bất chính. Chỉ nói đến việc ông lo hưởng thụ cho bản thân mà không nhìn thấy được việc cần phải làm cho người khác. Đó là căn bệnh Ích kỷ, căn bệnh chỉ biết hưởng thụ, căn bệnh không nhìn thấy tha nhân.
Còn người nghèo khổ Lazaro. Không phải vì nghèo mà được chúc phúc, nhưng là thái độ chấp nhận sự nghèo khổ mà không một lời phiền hà trách móc. Cho dù trước mắt anh là cả một sự trái ngược đang diễn ra, cho dù anh đã bị đẫy xuống đến tột cùng, làm bạn với những con chó, anh cũng vui lòng chấp nhận thân phận mình. Chính vì thái độ chấp nhận đó mà anh đã được đền bù xứng đáng, anh thoát khỏi được căn bệnh của thời đại.
"Chúng đã có Môisen và các Tiên Tri, chúng hãy nghe các Ngài".
Phương tiện truyền thông đầy đủ, nhưng con người qua mọi thời đều vướn vào căn bệnh nan y không thể cứu chửa được. Đó là căn bệnh làm ngơ. Con người vẫn ngoan cố lao vào căn bệnh hiểm nghèo mà không chút sợ hãi. Mọi đều biết cách thế để tránh xa cơn bệnh vì đã được dạy bảo, được thông báo, nhưng những gì họ hiểu biết không giúp ích được gì. Căn bệnh vẫn ung dung bước vào từng người một.
Mỗi người trong chúng ta, cũng nghe biết và được chỉ dạy rất nhiều để tránh được căn bệnh của thời đại. Nhưng hiện giờ chúng ta đã bị nhiễm bệnh đến mức nào? Cứ nhìn vào đới sống thực tế, nhìn vào những ngày tháng đã qua, nhìn vào những việc làm hiện tại của mỗi người, chúng ta sẽ thấy mình đang vướn vào căn bệnh hay vẫn còn lành mạnh.
Trước những nỗi thương tâm, những đau khổ của người khác, trước những lời van xin thống thiết. Cũng như chứng kiến những bất hạnh, những đau thương chung quanh, chúng ta vẫn ngồi yên mà tận hưởng những gì là của mình, tận hưởng những gì mình có được, tìm sự thoải mái cho bản thân. Đôi lúc còn tệ hại hơn, thay vì không nhìn thấy những gì chung quanh để giúp đở, mà trái lại, chúng ta còn làm cho hoàn cảnh chung quanh trở nên tệ hại hơn vì lợi ích riêng tư của chính mình.
Nếu như thế thì căn bệnh của chúng ta đã quá nặng, không biết có còn cách nào để chạy chửa được hay không? Còn nếu chúng ta biết giúp đở để làm cho hoàn cảnh chung quanh mình trở nên tốt đẹp hơn, không phải chỉ bằng vật chất đơn sơ, nhưng bằng cả những hành động cụ thể phát xuất từ con tim chân thành, còn có lời nói và cả cái nhìn độ lượng, để làm cho người khác vơi đi chút đau khổ. Nếu được như thế, chúng ta đang là những con người đầy sức sống của Thiên Chúa, chúng ta đang là những con người mạnh mẽ, chúng ta đang nghe theo phương pháp phòng chống căn bệnh hiểm nghèo cách tốt đẹp. Chúng ta cầu xin Chúa mở mắt tâm hồn mỗi người, để thấy được nhu cầu của anh em và sẵn sàng đáp ứng theo Thánh ý Chúa.
Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta vẫn thường nghe người nầy người kia bị tù tội vì trái: TN 26-C85
1. Qua các phương tiện truyền thông, chúng ta vẫn thường nghe người nầy người kia bị tù tội vì trái phép công bằng. Nhưng dường như không nghe ai bị giam giữ vì thiếu bác ái. “Công bằng” và “bác ái” hai cụm từ thường được sử dụng trong cuộc sống. “Công bằng” thì buộc mọi người phải giữ, như phải tôn trọng của cải người khác, không được gian tham… Còn “bác ái” có thực hiện hay không tuỳ vào quan điểm của mỗi người, như giúp đỡ hay từ chối giúp đỡ một người nghèo khổ nào đó, xem ra không ai có quyền trách cứ ta. Thế nhưng, luân lý Kitô giáo dạy chúng ta vừa phải sống công bằng, nhưng đồng thời cũng không thể bỏ qua việc bác ái được. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cho thấy rõ bác ái là việc cần thiết để vào Nước Trời. Ông phú hộ vì không lưu tâm giúp đỡ anh Ladarô nghèo khó, chính thái độ dững dưng, hững hờ này làm cho ông phải xa cách Thiên Chúa ngàn đời.
2. Vì giàu có nên ông phú hộ nầy ăn mặc lụa là, yến tiệc linh đình thì có gì đáng trách đâu? Biết bao người giàu xưa nay vẫn thế mà ! Còn tội không giúp Ladarô chăng ? Đọc kỹ bài Tin Mừng chúng ta chẳng thấy Ladarô mở miệng xin ông một điều gì cả ! Ladarô chỉ ước được ăn những mụn bánh bánh từ bàn ăn rớt xuống cho đỡ đói mà thôi. Ước cách âm thầm mà không nói ra nào ai biết mà giúp đỡ ! Vậy tại sao ông phú hộ nầy bị chê trách ? Thưa, điều đáng trách là ông có cơ hội để giúp đỡ Ladarô, người ăn xin nằm trước cổng nhà ông, mà ông lại không giúp ! Có thể ông hà tiện, có thể ông ích kỷ, có thể ông chỉ biết hưởng thụ, có thể ông không quan tâm đến… Dù lý do gì đi nữa, thì cách chung là ông đã bỏ qua việc phải làm cho Ladarô nghèo khó, mà việc đó ông có thể thực hiện được. Rất có thể vì không được giúp đỡ nên đói quá cho nên anh Ladarô này đã chết ! Ladarô chết vì đói, trong khi ông phú hộ quá dư thừa! Lỗi này thật đáng trách, rất đáng hình phạt hỏa ngục !
3. Như thế Lời Chúa hôm nay, nhắc nhở một điều mà ta hay quên trong cuộc sống, đó là bỏ qua việc phải làm. Hẳn chúng ta còn nhớ giáo lý mà chúng ta đã học, tội có thể đó là lỗi phạm trong tư tưởng, lời nói, việc làm haybỏ việc phải làm. Từ xưa sách Đệ Nhị Luật đã lưu ý điều nầy: “Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em đừng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em” (Đnl 15,7). Thái độ thiếu quan tâm giúp đỡ tha nhân đôi khi gây nên hậu quả nghiêm trọng, có thể trở thành lỗi nặng.
Nhưng không phải vì sợ lỗi mới làm việc bác ái, người Kitô hữu hãy luôn noi gương Thầy Chí Thánh là Đức Giêsu phải biết quan tâm, giúp đỡ nhau. Chúng ta thường thờ ơ trước đau khổ của người khác, hay sống theo chủ nghĩa “MACKENO” (mặc kệ nó). Mặc kệ những ai đau khổ mà ta gặp trên đường đời. Mặc kệ bạn bè, chòm xóm, những người sống cạnh ta hằng ngày mong chờ sự giúp đỡ của ta. Mặc kệ ngay cả những người mà ta phải có trách nhiệm giúp đỡ như cha mẹ già, anh chị em ruột thịt…!
4. Như đã nói, ông phú hộ này bị kết án không phải vì ông giàu, mà do ông không biết giúp đỡ người khác. Giàu có không phải là một tội, bởi tự tiền của không xấu cũng không tốt, điều quan trọng là ta có biết cách làm ra và dùng nó chính đáng không ? Đọc Tin Mừng dễ thấy có rất nhiều người khá giả biết dùng tiền của làm việc nghĩa thật là đáng khen, như: bà Gioanna, bà Susanna, ông Giuse Arimathia... Hạnh các thánh cũng cho thấy nhiều vị là vua chúa, quan quyền nhưng họ vẫn nên thánh, vì biết dùng tiền của để giúp đỡ người nghèo khổ, chẳng hạn như thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Luois, vua nước Pháp…
5. Nếu chúng ta thực sự quan tâm tới người khác, nhất là những người cần đến ta, thì ta vẫn có cơ hội để chia sẻ cho họ. Có thể chúng ta không giàu về của cải, nhưng lại giàu về kiến thức chuyên môn nào đó. Có thể chúng ta không giàu sức khỏe nhưng lại giàu niềm vui, thông cảm. Có thể chúng ta thiếu kinh nghiệm ở đời nhưng Chúa cho đầy lòng mến Chúa… Đó là những thứ mà chúng ta có thể chia sẻ với tha nhân để làm vơi đi những thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần của họ. Điều quan trọng là ta có lưu tâm tới họ và sẵn sàng chia sẻ cho họ không ?
6. Đừng để sau này khi kết thúc cuộc đời trước mặt Chúa, Chúa lại hỏi chúng ta tại sao xưa Ta đói các ngươi không cho ăn, Ta khát các ngươi không cho uống, Ta buồn rầu các người không an ủi (x.Mt 25), thì số phận của chúng ta cũng sẽ không khác gì ông phú hộ trên, đã bỏ qua việc phải làm trong tầm tay của mình. Những ai không rộng lòng đối với tha nhân, thì làm sao họ có thể ở trong tình yêu của Thiên Chúa được:”Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà chẳng động lòng thương thì làm sao tình yêu của Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (1 Ga 3,17).
Một bà nọ, khi chết được đưa tới cửa thiên đàng. Thánh Phêrô, tìm mãi, không thấy bà có công: TN 26-C86
Một bà nọ, khi chết được đưa tới cửa thiên đàng. Thánh Phêrô, tìm mãi, không thấy bà có công trạng gì. Cuối cùng chỉ thấy một việc duy nhất là: ở trần gian, có lần, bà đã cho một người ăn xin một củ cải. Thánh Phêrô không biết làm sao, bèn đưa lại cho Chúa. Chúa nói: “vì bà cũng đã làm được một việc tốt, vậy bà phải nhờ củ cải đó đưa được một số người khác nữa vào thiên đàng, thì bà mới vào được.” Lệnh Chúa đã ra. Người ta thấy người đàn bà tay vịn thành thang để vào thiên đàng, tay kia nắm vào củ cải; dưới củ cải tòn ten mấy người nữa. Người đàn bà lúc đầu vui vì nghĩ sẽ được lên thiên đàng, nhưng bà tự nhủ: củ cải là của mình. Tại sao tôi phải cho người khác nắm vào để được lên thiên đàng. Lòng ích kỷ nổi lên, bà quyết định vào thiên đàng một mình, liền buông củ cải rời xuống. Rốt cuộc, bà cũng không vào thiên đàng được….
a. Bài dụ ngôn chúa nhật hôm nay kể lại câu chuyện: Anh nghèo Lazarô và anh nhà giàu có. Câu chuyện được trình bày thật sống động như một vỡ kịch hai màn tương phản rõ rệt giữa đời này và đời sau. Câu chuyện này là lời cảnh tỉnh, là bài học sâu xa cho những người giàu có nhưng lại hẹp hòi, không nghĩ tới kẻ khác, chỉ nghỉ cho mình mà thôi. Rốt cuộc, khi sang qua thế giới bên kia hiểu ra thì đã muộn rồi….
b. Có một số lý lẻ mà người ta thường dùng, để bênh vực cho người giàu, ích kỷ, không nghỉ tới ai, và cả đôi khi chống lại Chúa nữa…
Có người nói: Người ta bảo tôi là ích kỷ, nhưng ích kỷ là gì? Ích kỷ là yêu chính mình. Trên đời này, có ai không yêu mình đâu? Có ai lại ghét mình bao giờ? Lý lẻ này có đúng không? Thực ra chưa hẳn là đúng, vì không ai ghét mình bao giờ, nhưng nếu chỉ yêu mình mà không không nghỉ tới kẻ khác, đó mới là tội. Anh nhà giàu trong bài Phúc âm hôm nay, sống hết sức đầy đủ, xa hoa. Tội của anh chính là anh không nghỉ tới anh nghèo khó Ladazô, bữa đói bữa no kia kìa…, vì Chúa Giêsu dạy: “hãy yêu người khác như chính mình..” “vì mọi người đều là anh em , là con cái Thiên Chúa..”
Có người biện luận: Chúa Giêsu hay Hội thánh gần như là dị ứng khi nói về người giàu , về của cải trần gian, vì Chúa chỉ chúc phúc cho người nghèo. Chúa còn đả kích người giàu nữa, và hầu như Chúa đứng về phía người nghèo? Đúng không? Câu trả lời là không đúng. Hội thánh Chúa Kitô là của hết mọi người. Trong hàng các thánh, vẫn có nhiều vị thánh giàu có, địa vị cao sang như vua thánh Louis IX nước Pháp, bà hòang hậu Tây Ban nha. Chúa chúc phúc cho người nghèo chính vì tinh thần nghèo khó, không bám vào của cải giàu sang vật chất. Chúa cảnh giác người giàu có, vì họ có nguy cơ khó vào Nước Trời: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa…Chúa dạy ta coi thường của cải vật chất chính là: lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn, thì được ích gì?
Có người biện luận: Tại sao tôi phải lo cho người khác? Của cải tôi làm ra là do mồ hôi nước mắt của tôi, tôi sữ dụng cho tôi là lẻ công bằng. Còn người nghèo, vì họ lười biếng, có khi họ chỉ lo ăn chơi, không lo làm ăn nên đói là phải, đó là lẻ công bằng. Tôi lo cho tôi, cũng là lẻ công bằng. Lý lẻ này đúng không? Thưa không đúng. Trong ngày phán xét Chúa nói: “hãy xéo khỏi mặt Ta, hởi phường bị chúc dữ, vì khi Ta đói, các ngươi không cho ăn, cho mặc …vì bất cứ gì ngươi làm cho một anh em bé mọn nhất của Ta, là làm cho chính Ta…Các thánh thường nói: không ai lên thiên đàng một mình, cũng không xuống hỏa ngục một mình. Người đàn bà ích kỷ trong câu chuyện trên chính là điển hình cho câu nói đó.
c. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa dựng nên con người là con vật xã hội, sống là sống với, nhất là vì còn là anh em, còn là con cái Thiên Chúa nữa; như thế tại sao ta lại không yêu thương nhau, lo lắng cho nhau. Câu chuyện PÂ hôm nay đáng cho ta suy nghỉ không?
Con người sinh ra trên đời, ai cũng muốn có đời sống sung túc, phú quý, giàu sang. Ít có: TN 26-C87
Con người sinh ra trên đời, ai cũng muốn có đời sống sung túc, phú quý, giàu sang. Ít có người muốn chấp nhận đời sống khó nghèo “thiếu trước hụt sau”. Giàu có do bàn tay lao động làm ra, nhưng biết nghĩ tới người nghèo, biết chia sẻ với người cơ bần cùng cực cũng là sự giàu có được Thiên Chúa chúc phúc và khuyến khích. Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay dẫn đưa ta về chủ đề căn bản này: "Hãy sử dụng của cải Chúa trao ban ở đời này để nảy sinh hạnh phúc vĩnh cửu ở đời sau".
***
Bạn thân mến! Dụ ngôn Người Phú hộ và La-da-rô trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay diễn tả một bức tranh tương phản: Hai con người với 2 cuộc sống hoàn toàn khác nhau. Người phú hộ dư ăn dư mặc, La-da-rô nghèo khổ, bệnh tật đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, La-da-rô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, ngày ngày yến tiệc linh đình, La-da-rô mụn nhọt đầy mình, lây lất đói khổ trước cổng nhà Phú hộ, thèm ăn những thứ rớt xuống từ bàn ăn nhưng chẳng có, chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc.
Họ thật gần nhau trong không gian khoảng cách, chỉ cách xa nhau có một cánh cổng vẫn thường khép kín, nhưng lại thật xa nhau trong nhân cách, trong tình người. Người phú hộ giàu có nhưng lại nghèo tình thương, La-da-rô đã nghèo khổ lại không được ai xót thương.
Người phú hộ bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột hay hà hiếp người khác, nhưng vì lòng ông khép kín và ra chai cứng, ông dửng dưng không chạnh lòng thương trước sự lầm than đói khổ của người khác. Ông bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều, nhưng vì ông đã không chia sẻ những gì mình nhận.
Giàu có không phải là tội. Của cải tiền bạc tự nó không xấu. Có biết bao người giàu có nhưng tốt lành như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia. Nhưng giàu sang có thể dẫn đến những cám dỗ nguy hiểm khác, như tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự kiêu tự mãn, hưởng thụ…
Ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu về các mặt khác, như giàu kiến thức chuyên môn, giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui hạnh phúc, và nhất là giàu hồng ơn Thiên Chúa.
Ước gì ta biết tập nhìn xuống để thấy bao người đang chịu cảnh thiếu thốn khổ đau. Biết chia sẻ cho nhau, vì chia sẻ là lấp đầy vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước gì Lời Chúa thay đổi đời ta, để ta nhìn thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô đang nằm nơi cửa nhà, nơi xóm làng khu phố... Chỉ cần bớt chút dư thừa, bớt chút xa xỉ, ta có thể giúp người khác no nê hạnh phúc.
***
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng: Tấm bánh con để dành thuộc về người đói nghèo, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con cất giữ mà chẳng bao giờ cần dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những người nghèo túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, và có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Xin nhắc nhở con về nguồn gốc của sự bất công. Nó chẳng ở đâu xa, nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con. Con có trách nhiệm về cảnh đói nghèo trong xã hội hôm nay. Cha để cho sự chênh lệch và thiếu hụt xảy ra, vì Cha mời gọi con biết chia sẻ cho nhau.
Lạy Cha, xin mở mắt con để con nhìn thấy Cha trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để con biết chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cũng như những thiếu thốn khổ đau của họ. Amen
Tổng hợp từ R. Veritas (BĐ1:Amos 6:1,4-7 – BĐ2: 1Timothy 6:11-16 – PÂ: Lc.16:19-31)
Một trong những điểm con người cảm thấy luôn được an ủi, được nâng đỡ, vỗ về vì Thiên: TN 26-C88
Một trong những điểm con người cảm thấy luôn được an ủi, được nâng đỡ, vỗ về vì Thiên Chúa lúc nào cũng yêu thương con người, cũng muốn qui tụ con người, Ngài chăm sóc mỗi người. Ngài không chỉ nhìn đám đông, nhưng gọi tên từng người. Chủ chiên biết chiên và chiên biết chủ chiên. Ngài đến cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ). Con người là đối tượng duy nhất của Thiên Chúa. Con người là tác phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa. Mỗi con người là một bông hoa tươi xinh tô điểm vườn hoa của Thiên Chúa.
Tin Mừng và các bài đọc Chúa nhật 26 thường niên, năm C sẽ cho chúng ta hiểu thế nào về tình thương của Thiên Chúa và sự khốn khổ, án phạt đời đời người phú hộ phải lãnh nhận khi ông không có tấm lòng của Chúa, khi ông đối xử quá tàn nhẫn đối với Lazarô khó nghèo.
Con người được sinh ra và lớn lên, ai cũng muốn cho mình có một cuộc sống tốt đẹp, có của ăn, của để. Có nhiều người được Chúa ban cho đời sống vật chất sung túc, họ luôn làm ra và còn có của để tích trữ cho tương lai, cho con cái và cho bản thân lúc đau ốm vv…
Có những người càng ngày càng giầu. Họ có của nhưng biết sống, biết dùng của cải Chúa ban theo sự khôn ngoan Chúa hướng dẫn. Họ biết chia sẻ, biết thông cảm với những hoàn cảnh khó nghèo và biết giúp đỡ những người khó nghèo. Đó là những người được Chúa chúc phúc.
Lại có những người như ông phú hộ mà Tin Mừng thánh Luca 16,19-31 đề cập tới. Ông giầu có, ông ăn mặc dư dật nhưng ông không có tấm lòng. Tin Mừng diễn tả thật rõ người nghèo khó Lazarô hằng ngày lê lết bên cổng nhà ông nhưng ông không hề quan tâm, không hề nhìn ngó Lazarô đang khốn khổ vì nghèo túng, không có chút lương thực để sống cho qua ngày, không có đồng tiền để mua thuốc xức cho những vết lở đang lan dần khắp chân tay của Lazarô. Cái tệ hơn nữa là ông phú hộ đã quá bủn xỉn, quá ích kỷ không để rơi bất cứ một vụn bánh nào để Lazarô nghèo khó có thể ăn một chút cho đỡ đói. Cái trớ trêu, cười ra nước mắt là chỉ có con chó đến liếm các vết lở trốc của Lazarô. Thật đau khổ, thật nghiệt ngã cho con người của Lazarô ! Người phú hộ phải trầm luân đời đời vì ông không có lòng nhân từ, không có cái nhìn chạnh thương của Thiên Chúa. Người phú hộ phải chịu nhiều cực hình không phải vì ông làm ra nhiều tiền, lắm của nhưng vì ông không biết san sẻ, cảm thông mà cứ bo bo giữ của. Người phú hộ này chỉ biết nhìn vào của cải, nhìn vào kho lẫm mà quên đi còn biết bao người đau khổ, nghèo khổ đang ở xung quanh. Người phú hộ bị tống xuống hỏa ngục không phải vì ông làm ra niều tiền, nhiều của nhưng ông đã bám lấy tiền của, ham mê tiền của mà quên đi tiền của chỉ là phù vân, nay còn, mai mất trong khi Lazarô luôn cậy trông vào Thiên Chúa.
Chúng ta có thể hiểu được rằng tội của người phú hộ là tội thờ ơ, lãnh đạm, giả điếc làm ngơ, không nghe, không nhìn, không thấy những đau khổ của biết bao người nghèo khó đang van xin ông giúp đỡ. Tội của người phú hộ là đã không làm điều phải làm để giúp đỡ Lazarô nghèo khổ hằng ngày lê lết trước nhà, bên cửa của ông. Chúa muốn chúng ta sống và chia sẻ. Biết bao gương của những nhà từ thiện, những người thiện nguyện đã hy sinh biết bao của cải, sức lực để phục vụ những người nghèo. Một Albert Schneitzer, một Têrêsa Calcutta và biết bao nữ tu, nam tu đã dấn thân cả cuộc đời cho những người nghèo, người tàn tật, người phong cùi vv…
Nước Trời không dành, không mở cửa cho những con người giầu mà keo kiệt, ích kỷ vv…Nước Trời chỉ mở ra cho những ai yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh chị em, đặc biệt những người bơ vơ, tất bạt, những người đau khổ, nghèo nàn, cùng cực.
Người phú hộ rồi cũng ra đi và phải sa vào hỏa ngục vì cái tội cố chấp, hững hờ của mình. Lazarô sẽ không còn phải lê lết, khổ đau, đói lên đói xuống, nhưng Lazarô sẽ được ngồi vào lòng Ápraham vui hưởng hạnh phúc muôn đời.
Chúng ta đừng bao giờ thờ ơ, lãnh đạm với những Lazarô đang chờ chúng ta ngoài cửa. Chúng ta đừng bao giờ làm ngơ, phớt lờ, không nhìn, không nghe, không thấy những Lazarô đang van xin, kêu cứu chúng ta trong cơn túng quẫn, khổ cực.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một trái tim mới, một trái tim biết yêu thương, một trái tim biết chia sẻ, một đôi mắt như Chúa để chúng con biết yêu như Chúa yêu ( Ga 15, 12 ).
Con người hôm nay đang sống trong một thế giới văn minh khoa học kỹ thuật điện toán. Thế: TN 26-C89
Con người hôm nay đang sống trong một thế giới văn minh khoa học kỹ thuật điện toán. Thế giới văn minh bao nhiêu thì khoảng cách chênh lệch giữa kẻ nghèo người giàu càng rộng lớn bấy nhiêu bà hố ngăn cách giữa đôi bên ngày càng sâu thẳm hơn bất nhiêu. Trong bất cứ xã hội nào, xưa cũng như nay đều có kẻ giàu – người nghèo. Thống kê chó biết hiện nay trên thế giới có tới 80% dân số là người nghèo và có khoảng 400 người giàu chiếm đến ¾ số của cải của toàn thể nhân loại. Lời Chúa trong bài dụ ngôn hôm nay cảnh cáo những người giàu nếu họ không biết quan tâm và chia sẻ cho người nghèo đang sống quanh họ thì số phận của họ cũng giống như số phận của người phú hộ trong dụ ngôn “Người phú hộ và ông Lazarô nghèo”.
Câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay đưa ra hai nhân vật được tô vẽ rất là tương phản nhau. Người phú hộ ăn mặc sang trọng toàn gấm vóc lụa là ngày ngày yến tiệc linh đình. Trong khi đó, người nghèo Lazarô mình đầy ghẻ chốc nằm đói meo trước cổng nhà người phú hộ. Thế nhưng ông này chẳng thèm ngó ngàng tới. Có lẽ người nghèo Lazarô nằm trước cổng nhà người phú hộ là để ăn xin kẻ ra người vào nhà ông ta. Ngước mắt nhìn vào bàn tiệc người phú hộ, người nghèo Lazarô ao ước được ăn những mẫu bánh vụn từ bàn tiệc rớt xuống cũng không được. những mẫu bánh vụn ở đây là những mẫu ruột bánh mì khách dự tiệc dùng để chùi tay rồi quăng xuống đất. Vì người Do Thái xưa thường ăn bốc, ngoài ra người nghèo Lazarô còn bị con chó người phú hộ liếm ghẻ chốc làm xoáy thêm những đau đớn vì anh ta không còn đủ sức đuổi chó đi được nữa. Đó là hai cách sống, hai số phận trái ngược nhau một trời một vực. Người phú hộ ở trên, ông Lazarô ở dưới và khoảng cách trên dưới từ bàn tiệc ra đến cổng nhà người phú hộ tuy là ngắn nhưng không bao giờ được vượt qua vì người phú hộ không bao giờ cho người nghèo Lazarô một cái gì cả. Nhưng số phận của hai nhân vật này lại có cùng một giao điểm. Đó là cái chết. Cái chết làm cho con người trắng tay, xoá bỏ mọi địa vị danh vọng chức quyền ... Sau cái chết, số phận của người phú hộ và người nghèo Lazarô lại bị đảo ngược. Người nghèo Lazarô chết trước được các thiên thần đưa vào lòng ông Abraham tức là được đưa vào chỗ danh dự nhất trong bàn tiệc nước trơì. Còn người phú hộ chết sau được người ta đem đi chôn và cái gì đã xảy ra bên kia nấm mồ của người phú hộ.
Từ trong hoả ngục, đang khi chịu các cực hình, ngước mắt lên nhìn thấy tổ phụ Abraham và Lazarô ở trong lòng tổ phụ thì kêu lên: Thưa tổ phụ Abraham, xin sai anh Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước một chút để làm cho lưỡi con bớt bỏng. Vì ở đây con bị hành hạ trong ngọn lửa này. Nhưng Abraham trả lời “Con ơi! Hãy nhớ lại, một đời con đã nhận phần phước của con rồi còn Lazarô một đời chịu những bất hạnh. Bây giờ Lazarô được an ủi nơi đây còn con thì phải chịu khốn khổ và giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn đến nỗi bên này muốn qua bên kia cũng không được và ngược lại. Nếu khoảng cách từ bàn tiệc đến cổng không vượt qua được thì khoảng cách từ thiên đàng xuống hoả ngục cũng không bao giờ vượt qua được. Nghe thế người phú hộ tiếp tục cuộc đối thoại bằng cách xin tổ phụ Abraham sai Lazarô đến nhà cho con vì con còn 5 anh em nữa để ông làm chứng cho họ kẻo họ lại cũng rơi vào chốn cực hình này và tổ phụ Abraham nói: Chúng đã có Môsê và các ngôn sứ chúng hãy nghe lời các vị ấy, nhưng hắn đáp: “Không đâu thưa tổ phụ Abraham nhưng nếu có ai từ cõi chết về gặp chúng thì chúng sẽ sám hối”. Nhưng ông Abraham đáp: “Khi mà chúng không nghe Môsê và các ngôn sứ thì dù có kẻ chết sống lại chúng cũng không tin đâu”.
Khi đưa ra dụ ngôn người phú hộ giàu có và người nghèo Lazarô, Đức Giêsu không chủ trương làm cách mạng để lật đổ giai cấp nhưng Ngài vạch cho người giàu biết cái gì đang chờ đợi họ trước mắt, nếu họ tiếp tục sống ích kỷ, chỉ biết thu vén cho riêng mình, không biết chia sẻ cho những người bất hạnh khác. Thế nhưng thế nào là người giàu, người nghèo theo Tin mừng?
Không phải bất cứ người nghèo nào với tư cách là ho nghèo đều là người có phúc. Người nghèo mà vẫn chất chứa lòng tham và những ý đồ đen tối nhằm hại người nghèo thì người nghèo cũng không phải là người có phúc. Người nghèo Lazarô sở dĩ được ân thưởng là bởi vì anh ta sống xứng đáng kiếp nghèo của mình, chỉ biết cậy dựa vào một mình Thiên Chúa mà thôi.
Không phải bất cứ người giàu nào với tư cách là họ giàu đều bị trầm luân sau khi chết nhưng là người đã biến của Thiên Chúa làm sở hữu riêng của mình và nhắm mắt làm ngơ trước khổ đau bất hạnh của người khác. Mỗi người trong chúng ta đều có trách nhiệm với tha nhân, nhất là những người bất hạnh bị bỏ rơi tại mọi môi trường sống và làm việc của chúng ta.
Vậy của cải tự nó không tốt không xấu. Tốt xấu là tùy cách người ta sử dụng.
Xin Chúa cho chúng ta biết mở rộng tâm hồn và đôi tay dể biết sống liên đới và chia sẻ với những người xung quanh đang cần sự giúp đỡ của chúng ta.
Người ta kể lại rằng Mẹ Têrêsa Calcutta được báo một gia đình bà goá kia đã nhiều ngày nay không có cơm bỏ bụng. Mẹ đem đến cho gia đình một túi gạo. Nhận được túi gạo bà mẹ goá chia phân nửa giúp một gia đình Hồi giáo gần nhà cũng bị đói.
Chúa Nhật hôm nay tiếp nối tư tưởng Chúa Nhật trước, nói đến đời sống xa hoa, sa đọa đưa đến: TN 26-C90
Chúa Nhật hôm nay tiếp nối tư tưởng Chúa Nhật trước, nói đến đời sống xa hoa, sa đọa đưa đến sự chết đời đời và cảnh tỉnh chúng ta hãy xa lánh tội lỗi và lo làm việc lành phúc đức, phục vụ những người nghèo khó, khổ đau chung quanh chúng ta.
Bài Đọc I (Amos 6:1,4-7): qua tiên tri Amos, Thiên Chúa đã chỉ cho Dân Chúa biết: vì họ đã sống quá xa hoa, sa đọa, không lo gì đến người nghèo khó, thiếu đoàn kết, yêu thương, nên bây giờ phải sống trong cảnh lưu đầy khốn khó. Bài đọc II (1 Timôthê 6:11-16): Thánh Phaolô khuyên nhủ Timôthê và mọi người chúng ta hãy “giữ vững các giới răn của Chúa và sống tinh tuyền không gì đáng trách cho đến ngày Chúa đến gọi chúng ta ra khỏi đời này.” Bài Phúc Âm (Luca 16:19-31): Chúa Giêsu kể dụ ngôn ông Lagiarô nghèo khó, bịnh hoạn, khốn khó và người phú hộ giầu sang, sung sướng, ăn chơi, trưng diện mà không biết lo đến người nghèo khổ ngay bên cạnh mình. Khi chết số phận hai người khác hẳn nhau. Chúa Giêsu muốn cảnh tỉnh chúng ta hãy luôn biết sống giản dị, đơn sơ, và biết chia sẻ tiền của cho những người nghèo khó, khổ đau trên thế giới.
Chúng ta thường có tính ích kỷ, chỉ biết lo đến chính mình và gia đình mà không biết để ý đến những người đau khổ chung quanh chúng ta. Nhưng thế giới chúng ta là một gia đình, gia đình nhân loại, và chúng ta đều là anh em với nhau (Tứ Hải Giai Huynh Đệ) mà Chúa là Cha chúng ta. Chúa muốn chúng ta luôn biết chia sẻ tình thương với nhau như anh chị em trong một gia đình, qua việc giúp đỡ những người nghèo khó, bịnh hoạn chung quanh chúng ta, những người cần sự giúp đỡ của chúng ta.
Qua Bài dụ ngôn Chúa Giêsu kể trong Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta nhận ra ngay hai hoàn cảnh sống hoàn toàn trái ngược nhau. Người phú hộ sống trong ngôi nhà khang trang, ngày ngày ăn uống linh đình, ăn mặc xa hoa, sống đời sống quá sung sướng, mà không để ý đến ông Lagiarô nghèo khó, không nhà cửa, phải sống nhờ ở cổng nhà ông phú hộ, bịnh hoạn, đói khát, thèm ăn cả những đồ ăn dư thừa đổ đi của nhà ông phú hộ mà không ai cho. Nhưng rồi ai cũng phải chết, giầu nghèo, sang hèn. Ông Lagiarô cũng chết mà nhà phú hộ giầu có cũng chết. Tuy nhiên sau cái chết, số phận hai người khác hẳn nhau. Ông Lagiarô được hưởng cuộc sống hạnh phúc, còn nhà phú hộ phải sống trong cảnh khốn khó.
Từ thời xa xưa đã có những hoàn cảnh sống quá chênh lệch. Có những người phải sống trong cảnh quá nghèo, không nhà không cửa, không đủ cơm ăn áo mặc; trong khi lại có những người giầu có, sống trong những ngôi nhà sang trọng, mặc đồ xa hoa, ăn uống quá dư thừa đổ đi. Đó thật là một sự bất công xã hội. Vì thế ngay trong Sách Cựu Ước qua các Tiên tri, Thiên Chúa luôn nhắc nhở Dân Chúa phải chú ý giúp đỡ những người nghèo khó, những ngoại kiều, những người không nhà không cửa. Và hôm nay trong Bài Đọc I, Tiên tri Amos đã cảnh tỉnh Dân Chúa về lối sống ích kỷ, hưởng thụ của họ, nên sau cùng đã bị lưu đầy khỏi xứ sở và phải sống trong nô lệ cho ngoại bang.
Ngoài dụ ngôn “Ông Lagiarô,” trong Phúc Âm còn ghi lại nhiều câu chuyện khác để cảnh tỉnh những người giầu có mà không biết giúp đỡ những người nghèo khó (như Luca 12:16-21; 12:33-34;14:12-14; 16:9). Các Thánh Tông Đồ đã ghi nhớ điều đó nên luôn nhắc nhở nhau để lưu ý đến những người nghèo; như bản đúc kết Công Nghị Giêsrusalem có câu “điều quan trọng là cần lưu ý giúp đỡ những người nghèo khó (Galat 2:10). Trong các Thánh Thư, đặc biệt Thư Thánh Giacôbê (2:1-6; 14-16; 4:13-17;5:1-6), đã luôn nhắc nhở các tín hữu phải thực hành đức tin bằng việc sống bác ái giúp đỡ những người thân cận nghèo khó.
Chúng ta hãy cầu nguyện chung cho nhau, xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để chúng ta luôn biết dùng thời giờ, tiền của Chúa ban để thăm viếng, an ủi, giúp đỡ những người nghèo khổ, đói khát, bịnh hoạn như ông Lagiarô ngay chung quanh chúng ta và khắp nơi trên thế giới.
Lc 16:19-31: 19 "Xưa có một người nhà giàu, ăn mặc những gấm tiá, và hàng mịn; ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Laị có người ăn mày, tên là Lazarô, người ta vất bỏ bên cổng nhà ông, mình đầy lở lói, 21 những ao ước có được những miếng thừa liệng dưới bàn ông nhà giàu mà ngốn cho no... Lại còn bầy chó hoang đến liếm các ung nhọt người ấy. 22 Nhưng xảy ra là ngươì ăn mày chết, và được các thiên thần đem lên dự tiệc ngay nơi lòng Abraham. Còn ông nhà giàu cũng chết và được đem tống táng."
23 "Trong âm phủ, giữa những cực hình, người ấy ngẩng mắt lên, thấy đàng xa Abraham cùng Lazarô nơi lòng ông. 24 Người ấy mới kêu lên và nói: "Lạy cha Abraham, xin thương xót tôi, và sai Lazarô nhúng đầu ngón tay một chút nước mà thấm dọi lưỡi tôi, vì tôi quằn quại đây trong ngọn lửa này". 25 Nhưng Abraham nói: "Hỡi con, hãy nhớ lại: suốt đời con đã lĩnh cả sự lành phần con, còn Lazarô cũng lĩnh: nhưng chỉ là tai với họa; còn bây giờ Lazarô được an ủi nơi đây, và con phải quằn quại đau đớn. 26 Vả chăng giữa chúng ta và các ngươi, đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm, khiến cho tự bên này có ai muốn cũng không thể qua bên các ngươi, và tự bên ấy, người ta không quá giang đến được với chúng ta".
27 "Người ấy lại nói: "Vậy thì, thưa Cha, con xin Cha sai Lazarô đến nhà cha con, 28 vì con có năm anh em, ngõ hầu Lazarô làm chứng răn dạy chúng, kẻo chúng cũng phải sa vào chốn cực hình này". 29 Abraham mới nói: "Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài". 30 Người ấy đáp: "Thưa Cha Abraham, không đâu! song nếu có ai từ cõi chết mà về nói với chúng, tất chúng sẽ hối cải". 31 Nhưng (Abraham) bảo người ấy: "Nếu chúng không nghe Môsê và các tiên tri, thì dẫu cho có ai sống lại từ cõi chết, chúng cũng chẳng ngã lẽ đâu!"
Về mạch văn của đoạn nầy, xem bài chú giải Chúa nhật 24 Thường niên C. Đoạn nầy có thể: TN 26-C91
Về mạch văn của đoạn nầy, xem bài chú giải Chúa nhật 24 Thường niên C. Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: - Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian (16:19-21); - Số phận của hai người sau khi chết (16:22-23); - Tình trạng cực hình của người giàu có (16:24-31). Ngoài việc chia sẻ chủ đề chung về việc sử dụng của cải, đoạn nầy bàn thêm về hậu quả của việc sử dụng ấy khi cuộc đời nầy qua đi. Số phận của người giàu có và Lazarô đảo ngược trong cuộc đời bên kia. Luca nhấn mạnh rất nhiều về việc Thiên Chúa đảo ngược số phận giữa người khiêm hạ và người quyền thế (1:46-55), giữa các Phúc Thật và Chúc Dữ (6:20-26), và ở đây giữa người giàu và người nghèo (16:19-31).
Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian (16:19-21)
Trong hai câu dẫn nhập Luca mô tả hai con người với hai cuộc sống hoàn toàn tương phản nhau: một người giàu có (c. 19.21) và Lazarô nghèo khó (c. 20). Sự giàu có của người nầy được mô tả qua cách ăn mặc: áo đỏ tía, porphyra, chỉ dành cho vua (x. Mc 15:17.20; Kh 18:12) và hàng mịn, byssos. Cả hai thứ nầy được kể là những đồ quí giá chung với vàng bạc, đá quý và ngọc ngà (Kh 18:12). Động từ “mang” ở thì quá khứ chưa hoàn thành cho thấy ông thường ngày mang áo quần nầy, chứ không phải chỉ một dịp lễ lạc trọng thể nào đó. Việc ông “làm yến tiệc”, euphrainô, cũng kiên tục, và việc nầy nhắc đến thái độ tự hài lòng của người giàu có trên của cải ông đã kiếm được, ăn uống, hưởng thụ và chỉ dừng lại ở đó (12:19).
Tương phản với người giàu có là người nghèo Lazarô. Khi Luca dùng cách nói “tên là” (1:5.13.26.27.31…), ông muốn ám chỉ đó là người được ưu ái trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, tên “Lazarô” có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Sự nghèo khốn của Lazarô được diễn tả qua tình cảnh bệnh tật của ông: nằm liệt do bệnh, ballô, và nhức nhối (c. 20) do những vết thương lở loét của ông (c. 21). Đến lúc nầy, dụ ngôn không nêu lên một lỗi phạm nào của người giàu có. Chỉ trong câu 21, tình cảnh của Lazarô được mô tả thêm và sai lỗi của người giàu có mới được hình dung ra. Lazarô nằm ở trước cửa nhà người giàu có: đói lả và muốn được ăn no như tình cảnh của người con hoang đàng (15:16). Động từ “ước muốn” nầy ở thể phân từ hiện tại diễn tả tình trạng kéo dài. Như thế, Lazarô ở đó mỗi ngày và chờ đợi những mẩu bánh vụn từ trên bàn rơi xuống. “Cái bàn” gợi lên yến tiệc của người giàu có; qua đó, cho thấy người giàu có không nghĩ gì khác ngoài việc hưởng thụ cuộc sống giàu có của ông. Ông chỉ sống cho mình và không biết đến Lazarô nghèo khó trước cửa nhà ông. Bởi lỗi phạm đó mà ông sẽ chịu hậu quả sau nầy.
Số phận của hai người sau khi chết (16:22-26)
Đoạn nầy và đoạn kế tiếp (16:27-31) được trình bày dưới hình thức đối thoại giữa người giàu có và Abraham. Những gì được nói đến trong hai đoạn nầy không nhằm mô tả cuộc sống sau khi chết, mà sự khác biệt tận căn và sự đảo ngược giữa cuộc sống của người giàu có và Lazarô. Câu 22 là câu chuyển tiếp: người giàu có cũng như người nghèo khó đều chết như nhau (c. 22), nhưng số phận họ lại khác nhau. Lazarô được các thiên thần đem vào lòng Abraham; trong khi người giàu có “được chôn cất”. Abraham, tổ phụ của dân Do thái (1:55.73; 3:8). “Lòng Abraham” là phần trước ngực. Ngồi vào lòng ai có nghĩa là nằm dựa đầu vào ngực người ấy. Đây là vị trí cận kề và thân thiết (x. Gio 1:18; 13:23). Hình ảnh nầy gợi lên bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó có Abraham và tất cả các tổ phụ khác và các tiên tri (13:28). Như thế, Lazarô nghèo khó và thiếu thốn của ăn nuôi sống trên trần gian, nay được thông hiệp với Abraham. Và Thiên Chúa của Abraham là Thiên Chúa của sự sống (20:37-38). Trong khi đó, người giàu có “được chôn cất”, ám chỉ ông nằm giữa những kẻ chết (x. 9:59-60). Điều nầy được xác định rõ hơn trong cách nói “trong âm phủ” (c. 23). Hadçs, hipri là š®°ôl “âm phủ” là giang sơn của người chết và nơi của sự hủy diệt (x. Cv 2:27.31), hình phạt (Kh 20:14). Đối nghịch với “âm phủ” là trời, nơi cư ngụ của Thiên Chúa (x. 10:15).
Tình cảnh khốn khổ của người giàu có (16:24-31)
Nội dung của phân đoạn nầy được trình bày qua hình thức đối thoại với ba lần thỉnh cầu của ông (cc. 24.27-28.30) và ba lần từ chối của Abraham (cc.25-26.29.30). Qua cuộc đối thoại ngắn nầy, tình cảnh khốn khổ của người giàu có được trình bày thêm.
Lời thỉnh cầu thứ nhất (c. 24): “xin thương xót tôi” (c. 24). Lời nầy trong Luca chỉ xuất hiện trong trình thuật người mù thành Giêricô (18:38.39), và mười người phong cùi. Người giàu có đang ở trong tình trạng vô phương cứu chữa như những người nầy. Hai yếu tố khác cho thấy tình cảnh của ông đã bị đảo ngược. Trước đây ông chỉ mặc áo đỏ tía và lụa là, giờ đây ông đang chịu cực hình, odynaomai, giữa lửa cháy bao quanh ông, trong khi Lazarô ở nơi mát mẻ. Trước đây, ông nằm trên giường tiệc, Lazarô bên dưới và chờ mong những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn tiệc của ông. Giờ đây, ông phải nhìn lên mới thấy Lazarô, và nài xin một giọt nước từ ngón tay của Lazarô nhỏ vào liệng lưỡi ông.
Trong câu trả lời của Abraham (cc. 25-26) Luca nhắc lại quá khứ “hãy nhớ lại”. Ông nói đến “điều tốt” và điều xấu”, như là sự tương phản giữa hai người (c. 25). “Điều tốt” ở đây là của cải đời nầy (6:45; 12:18.19). Sau đó, Luca khẳng định điều đang xảy ra, “bây giờ” hai người. Động từ “an ủi” (c. 25) nhắc lại lời “Khốn cho các người giàu có, vì các người đang được an ủi” (6:24). Người giàu có đã được an ủi đời nầy, thì đời sau chịu khốn khổ; trong khi Lazarô được an ủi đời sau. Đây là một trong những cách hành động của Thiên Chúa (1:52). Tiếp theo Abraham nói đến sự phân cách tuyệt đối và khách quan giữa hai người (c. 26). Một “vực thẳm” “được đặt ra” (ở thể thụ động); không thể có hiệp thông giữa hai bên. Không thể qua lại với nhau được. Như thế người giàu có bị loại hẳn khỏi sự hiệp thông với Abraham.
Lời thỉnh cầu thứ hai (cc.27-28.29): trong lời thỉnh cầu nầy, ông không nghĩ đến bản thân nữa, vì ông đã ý thức tình trạng khốn khổ không thể cứu vớt của mình. Bởi đó, ông kêu xin Abraham hãy nghe lời ông xin. Ông nghĩ đến những người anh em của ông đang còn sống trên trần gian, và muốn tránh cho họ khỏi rơi vào nơi khốn khổ như ông. Lời đáp của Abraham là chỉ cho thấy phương thế cứu khỏi nơi ấy, chính là nghe lời Môsê và các ngôn sứ (c. 29; 24:44). Mệnh lệnh “Hãy nghe” phải dẫn đến việc làm theo điều đã nghe. Mệnh lệnh nầy cho thấy cách gián tiếp là người giàu có đã không nghe lời Môsê và các ngôn sứ nên đã không để ý đến những người nghèo (Lv 19:9-10; Đnl 14:29; 15:7-11). Ông đã không quan tâm nghe lời của Thiên Chúa, nên không biết ý muốn của Người. Ông chỉ quan tâm đến sự giàu có và sự thụ hưởng của ông.
Lời thỉnh cầu thứ ba (cc. 30.31): người giàu có cố gắng nài xin thêm một lần nữa cho anh em nhà của ông. Ông nghĩ anh em của ông sẽ “hoán cải” nếu như được người chết hiện ra. Tuy nhiên sự hoán cải không được thực hiện bởi phép lạ, mà bởi lời rao giảng về Chúa Giêsu (x. 11:32; Cv 2:36-38; 3:18-19). Hoán cải là mở lòng đón nhận, tin vào Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống. Do đó, nếu không nghe lời Môsê và các ngôn sứ, không thể hoán cải được. Người chết có hiện ra chỉ vô ích mà thôi.
Luca sẽ không dừng lại ở việc mô tả hậu quả của việc sử dụng của cải không đúng theo ý Thiên Chúa. Ông sẽ nói đến cách hành động tích cực đối với của cải. Đó là phân phát cho người nghèo (4:18; 18:22; 19:8; 21:3). Cuộc sống ở trần gian không là tất cả. Số phận đời sau tùy thuộc cuộc sống hôm nay. Muốn được an ủi đời sau, phải thi hành ý Thiên Chúa hôm nay.
Dụ ngôn ông nhà giàu và La-da-rô đưa chúng ta tới một kết luận: số phận con người khác: TN 26-C92
Dụ ngôn ông nhà giàu và La-da-rô đưa chúng ta tới một kết luận: số phận con người khác nhau sau cái chết. Ông nhà giàu khi còn sống, “suốt đời đã nhận phần phước” là của cải tiền bạc dư thừa thì sau khi chết lại “bị lửa thiêu đốt” chốn cực hình. Còn anh La-da-rô lúc sống đã bị bệnh tật, thèm được ăn những thứ trên bàn ăn của người giàu rớt xuống mà cũng không được, thì sau khi chết lại “được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham”. Sự đảo lộn số phận không phải là bài học dụ ngôn muốn nói đến, nhưng điểm cốt yếu Chúa Giê-su muốn trình bày chính là thái độ nghe và tin, lắng nghe sứ điệp sám hối và tin vào Chúa Giê-su là Đấng cứu độ đã sống lại từ cõi chết. Vậy chúng ta hãy đọc lại đoạn quan trọng nhất của bài Tin Mừng hôm nay, từ câu 27 đến câu 31.
Trong đoạn này, trước hết ông nhà giàu xin tổ phụ Áp-ra-ham sai anh La-da-rô về báo cho năm người anh em của ông hãy sám hối. Tổ phụ bảo ông rằng họ hãy nghe lời ông Mô-sê và các ngôn sứ. Ông nhà giàu thưa là anh em ông không chịu nghe các vị ấy, mà phải có người chết hiện về nói cho họ thì họ mới ăn năn sám hối. Tổ phụ Áp-ra-ham đáp: “Ông Mô-sê và các Ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu”. Cốt lõi của sứ điệp bài Tin Mừng nằm ở câu trả lời này của tổ phụ Áp-ra-ham. “Người chết có sống lại” được nói đến ở đây là anh La-da-rô, nhưng lại ám chỉ chính Chúa Giê-su, Đấng sống lại từ cõi chết. Thực vậy, Chúa Giê-su đã được sai đến với sứ mệnh kêu gọi người ta sám hối và tin vào Tin Mừng. Lề Luật Mô-sê và các Ngôn sứ, tức sách Cựu Ước, là những điều nói về Chúa Giê-su và đã được ứng nghiệm nơi con người và sứ mệnh của Chúa. Cho nên “nghe lời ông Mô-sê và các Ngôn sứ” cũng có nghĩa là nhận biết Chúa Giê-su là Đấng cứu độ và tin vào Người. Nói khác đi, anh em của ông nhà giàu kia ám chỉ về những người Do-thái không tin vào Chúa Giê-su và không đáp lại lời rao giảng kêu gọi hãy sám hối của Người. Số phận của anh em ông nhà giàu sau khi chết mà không sám hối dĩ nhiên cũng đều “sa vào chốn cực hình” mà thôi!
Tin vào Chúa Giê-su và thực hành lời Người kêu gọi hãy sám hối là sứ điệp được lập đi lập lại nhiều lần trong sách Tin Mừng. Đó là tất cả nội dung lời giảng của Chúa khi Người thi hành sứ vụ, kèm theo những phép lạ chứng minh sứ mệnh của Người và biểu lộ tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Ai tin vào lời giảng của Người và sống lời Người thì sẽ được cứu độ. Tin Chúa Ki-tô và sám hối là con đường duy nhất để mọi người sống trên đời này, bất kể là giàu hay nghèo, hạnh phúc hay khốn khổ, đều phải đi thì sau khi chết mới có thể “được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta đọc và suy niệm Kinh Thánh. Cựu Ước giúp chúng ta hiểu về con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su. Đọc và suy niệm thôi chưa đủ, mà còn phải sống lời Chúa, nhất là thực hành những điều Chúa Giê-su dạy chúng ta. Sống lời Chúa bao giờ cũng đòi chúng ta phải thực hành việc sám hối, tức là việc thay đổi não trạng, lối suy nghĩ, nói năng, hành động, sao cho phù hợp với lối sống chính Chúa Giê-su đã sống và đã dạy chúng ta. Làm như thế là chúng ta biểu lộ lòng tin vào Chúa Giê-su, Đấng đã được sai đến để thay mặt Chúa Cha dạy dỗ chúng ta. Hơn thế nữa, Người còn là bạn đồng hành dẫn chúng ta trên đường về nhà Cha. Lúc nào chúng ta cũng hãy để cho lời Chúa Cha vang vọng bên tai: “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy nghe lời Người”.
Ích kỷ là loại bệnh nan y, khó có thể chữa trị được bởi vì: người ích kỷ có bao giờ biết mình: TN 26-C93
Ích kỷ là loại bệnh nan y, khó có thể chữa trị được bởi vì: người ích kỷ có bao giờ biết mình ích kỷ. Cái gì cũng nghĩ về mình, lo cho mình, vơ vào mình, họ không chỉ vơ vật chất, mà còn vơ cả phần chân lý về mình nữa. Thực chất người ích kỷ còn là người "bảo thủ", toan tính thiển cận, thấy cái lợi trước mắt là lao vào như con thiêu thân để giành giật. Ích kỷ còn là nguồn gốc của mọi giống tội khác như: tham lam, kiêu căng, lật lọng, tráo trở, độc đoán, khinh bỉ, coi thường người khác…
Một trong muôn vàn tật xấu của người ích kỷ, là không bao giờ biết quan tâm đến người khác. Dụ ngôn “nhà phú hộ và người hành khất La-da-rô” Chúa Giêsu kể trong Tin Mừng hôm nay, cho ta thấy cảnh đau lòng đó: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” (Lc 16, 19-21). Ở đây, chúng ta thấy có một nghịch cảnh ngay trong cuộc sống trần gian: Ông nhà giàu xử dụng một gia tài kếch xù. Ông ăn mặc sang trọng với gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn La-da-rô nghèo khó thì sống trong tình trạng cùng cực, là một người ăn mày, một tên hành khất kém may mắn. Ladarô chỉ có một ước mơ rất đơn giản là được ăn những gì rơi rớt từ bàn ăn của người giàu kia mà chẳng được. Sức khoẻ của La-da-rô thật là tồi tệ, đời sống thật mong manh, không có gì ăn, nên không đủ sức đề kháng, ung nhọt phát triển, bệnh tật gia tăng.
Tuy nhiên, còn có một điểm chung, đó là cả người giàu và người nghèo đều phải chết. “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22).
Sau đời sống tại thế của kẻ giàu và người nghèo, Tin Mừng nói đến cuộc sống của họ bên kia thế giới. Sau khi từ trần, vẫn là nghịch cảnh, nhưng đảo ngược hoàn toàn. Lần này người giàu ở chỗ tối tăm, đau khổ khốn cùng, thay vì chỗ sang trọng nơi bàn tiệc. Người nghèo ngồi chỗ nhất, được hạnh phúc bên tổ phụ Abraham.
Người giàu ở trần gian, thì ngày ngày yến tiệc linh đình, nay phải xin một giọt nước. Người nghèo thay vì ngồi lê lết trước cửa ông nhà giàu để ăn mày, nay được ngồi nơi mát mẻ, thanh nhàn vui vẻ hạnh phúc.
Tội của người giàu trong Tin mừng không phải vì ông ta đánh đuổi, lăng mạ người nghèo. Ông ta không trộm cắp, không cướp của giết người, không tham ô hối lộ, không bóc lột người nghèo, cũng không buôn gian bán lận… Nhưng là tội ích kỷ chỉ lo cho bản thân, hưởng thụ của cải mình, mà chẳng màng chi đến anh em nghèo đói xung quanh, thờ ơ lãnh đạm trước nỗi khổ của đồng loại. Người giàu tự khép kín trong thế giới của riêng ông để hưởng thụ. Ông đã trở nên mù quáng trước lề luật của Thiên Chúa và trước sự hiện diện của người nghèo khổ. Có lẽ, mấy con chó còn tử tế với La-da-rô hơn ông nhà giàu (x. Lc 16, 21). Vì ích kỷ nên nhà phú hộ đã hoàn toàn xa cách với La-da-rô. Ông tự tạo cho mình một vực thẳm khổng lồ, ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Vực thẳm đó ngăn cách cuộc sống của hai người ngay tại trần gian và kéo dài mãi đến tận thế giới bên kia, như lời tổ Phụ Abraham nói: “Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16, 26).
Thế giới ngày nay cũng không thiếu những La-da-rô nghèo khổ đang lê lết trước cổng nhà ta, chờ được chúng ta bố thí chút cơm thừa canh cặn. Vậy mà nhiều khi chúng ta vẫn giả điếc làm ngơ, vẫn bưng tai bịt mắt, ung dung vui hưởng những của cải mà Chúa đã ban cho ta, không màng chi đến nỗi thống khổ của đồng loại. Phải chăng chúng ta cũng đang tạo cho mình một vực thẳm ngăn cách giữa giàu và nghèo, giữa sang và hèn, giữa nông thôn và thành thị. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ năm 1979, ĐTC Gioan-Phaolô II đã nói: “Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải mà Chúa ban cho chúng ta, nếu bất cứ ở vùng nào đó người hành khất “La-da-rô” của thế kỷ vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ở cửa…. Ông nhà giàu và Ladaro nghèo khổ, cả hai đều là người, đều được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài, đều được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá rất đắt là giá máu quý báu mà Ngài đã đổ ra…. Chúng ta đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc”.
Mẹ Têrêxa thì nói: “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu, sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến”.
Mỗi người trong chúng ta hãy đứng lên ra khỏi bàn tiệc, cởi bỏ những trang phục quá sang trọng, không cần thiết, vì nó làm cho ta xa cách Chúa và xa lạ với những người nghèo. Chúng ta hãy nhìn ra cổng để thấy và đến gần những “La-da-rô” của thời đại, đang ngồi lê trước cổng nhà ta. Chúng ta hãy đưa tay ra chia sẻ, giúp đỡ để xoa dịu nỗi đau của đồng loại, thu nhỏ vực thẳm ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Để chúng ta không phải chịu cực hình trong âm phủ, không phải ngửa tay xin một giọt nước để làm mát. Thiên Chúa rất vui lòng khi thấy con cái của Ngài sống tình liên đới, biết chia sẻ những hồng ân đã lãnh nhận từ nơi Ngài như thế, để Ngài thưởng công cho họ. Vì khi chúng ta chia sẻ cho anh em nghèo khổ, là chúng ta làm cho chính Chúa vậy (x. Mt 25, 40).
Của cải là mối nguy hiểm lớn cho con người ở mọi thời và mọi nơi. Vì của cải là con dao hai lưỡi, nếu biết sử dụng thì của cải là đầy tớ tốt phục vụ cho chính mình cùng đồng loại ở đời này và là phương tiện đưa ta đến cuộc sống vĩnh cửu. Còn không biết sử dụng thì của cải là ông chủ tồi, đời này huỷ hoại cuộc sống ta trong những cuộc chè chén say sưa, ăn chơi vô độ, bán rẻ lương tâm, huỷ hoại nhân cách, xa tránh anh em. Nó còn ngăn cản chúng ta trên đường tiến về Nước Trời để vui hưởng cuộc sống vĩnh cửu với Chúa.
Lạy Chúa, chúng con là những con người ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân, nghĩ về mình, vơ vào mình để hưởng thụ, mà không màng chi đến nỗi thống khổ của anh em con. Chúng con cũng đang tự xây cho mình một vực thẳm khổng lồ, ngăn cách giữa giàu và nghèo. Làm cho chúng con xa cách, không thể đến được với Thiên Chúa và tha nhân. Xin Chúa thương trợ giúp, để chúng con biết lấp đi vực thẳm ngăn cách đó, cho chúng con đến được gần Chúa và gần anh em nghèo khổ. Làm cho cuộc sống mai sau chúng con cũng được vào nơi mát mẻ bên cạnh tổ Phụ Abraham và trước nhan Thiên Chúa.
Chủ nhật tuần trước, Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Anh em hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn: TN 26-C94
Chủ nhật tuần trước, Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Anh em hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn bè, để khi hết tiền bạc, anh em sẽ được họ mời đón vào sự sống đời đời”.
Chủ nhật hôm nay, Chúa kể dụ ngôn về một người phú hộ giàu có không biết sử dụng tiền bạc, để rồi phải chết đời đời trong chốn cực hình.
Ông phú hộ chịu cực hình trong cõi chết đời đời, không phải ông làm giàu bất chính, chuyên vơ vét và bóc lột người khác. Nhưng chỉ vì ông đã thờ ơ lãnh đạm, không nhìn thấy Lazarô nghèo khó cần giúp đỡ đang nằm ngoài cổng nhà ông mà thôi. Vâng, chỉ đơn giản có thế thôi, đã đủ làm cho ông phải chịu cực hình.
Tiền bạc đã làm mờ mắt tâm hồn ông, khiến ông chỉ nhìn thấy mình mà không nhìn thấy Lazarô. Ông giống như một người soi gương, chỉ thấy hình bóng mình trong gương mà không nhìn thấy người khác.
Tiền bạc đã tạo ra một hố ngăn cách giữa ông và người nghèo Lazarô mà cái cổng là một biểu tượng.
Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa vận toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn bên kia là thế giới nghèo khó bần cùng, nằm lay lắt trước cổng nhà giàu muốn được ăn những của dư thừa từ bàn tiệc của nhà giàu rớt xuống mà chẳng ai thèm cho, chỉ có mấy con chó thỉnh thoảng đến liếm ghẻ chốc xoa dịu, an ủi ông thôi!
Sự phân cách chênh lệnh đó, đã được cái chết đón nhận và thể hiện một cách rõ nét. Chỉ có điều là thay ngôi đổi chủ và mang tính cách vĩnh viễn:
Trước kia Lazarô đói nghèo bất hạnh ước một mẩu bánh vụn cũng không được, giờ đây ông no đầy hạnh phúc đời đời nơi lòng tổ phụ Abraham.
Trước kia người phú hộ giàu có dư thừa, giờ đây phải đói khát túng thiếu đời đời nơi hoả ngục, túng thiếu đến nỗi một giọt nước nhỏ làm mát lưỡi cũng chẳng thể có.
Trước kia trên trần gian, ông phú hộ và Lazarô bị ngăn cách bởi một cái cổng, thì giờ đây giữa họ là một vực thẳm lớn, khiến hai bên không thể qua lại giúp đỡ nhau được. Đó là khoảng cách giữa Thiên đàng và Hoả ngục.
Đối với ông phú hộ thì Hoả ngục chỉ kéo dài và tiếp nối cái tình trạng đói khổ mà vô tình ông đã tạo nên cho người nghèo Lazarô trên trần gian. Như thế, Hoả ngục là do ông tự xây cho mình chứ không phải Thiên Chúa.
Tóm lại: Con người tự tạo lập Thiên đàng hay hoả ngục cho mình ngay từ trên trần gian này tuỳ thuộc vào cách thế con người xử dụng tiền bạc.
Ông phú hộ giàu có một cách chính đáng, nhưng vô tâm vô tính, nhắm mắt làm ngơ, không quan tâm giúp đỡ những người chung quanh đã có một kết cục bi thảm như vậy, thì những người làm giàu một cách bất nhân bất chính, làm giàu trên xương máu, mồ hôi và mạng sống của người khác sẽ ra sao ? Chắc chắn sẽ không khá hơn ông phú hộ trong dụ ngôn Tin mừng.
Lạy Chúa, xin giúp con biết dùng của cải và tài năng Chúa ban để mưu cầu hạnh phúc cho mình và cho tha nhân ở đời này và đời sau. Amen
Tin trong nước vừa cho biết: “Trưa 23/9, Đội 5 Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xa: TN 26-C95
Tin trong nước vừa cho biết: “Trưa 23/9, Đội 5 Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an TP HCM (PC14) kết hợp với Công an phường 13 quận Bình Thạnh tiến hành khám xét quán karaoke tiệc cưới Đại Nam tại đường Nơ Trang Long. Trong nhiều phòng karaoke, cơ quan công bắt phát hiện 17 người đàn ông Hàn Quốc đang tuyển chọn 75 cô gái Việt Nam làm vợ.”(1) Đây không phải là trường hợp duy nhất.
Vì sao có tình trạng trên? Nguyên nhân trực tiếp là: “Đường dây này do Huỳnh Văn Bình (46 tuổi, Bình Trị Đông, Bình Tân) làm chủ.”(2) Nhưng nguyên nhân sâu xa và rộng lớn hơn phải nằm trong những cơ chế bất công xã hội. Dụ ngôn hôm nay sẽ vạch trần tất cả nguyên nhân sâu xa gây nên các tệ trạng trong xã hội hôm nay.
TỪ GẦN TỚI XA
Trình thuật Tin Mừng hôm nay về người giàu và người nghèo Ladarô là cao điểm giáo huấn của Chúa Giêsu về nguy cơ của sự giàu có. Tin Mừng phát xuất từ giữa những người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và có địa vị thấp kém, như Đức Maria, các người chăn chiên, bà Anna và ông Simêon. Đó là những người biết mở lòng đón nhận lời Chúa. Tin Mừng Luca thường được gọi là “Tin Mừng cho Người Nghèo.” Thế nhưng, có quá nhiều điều nói về những nguy cơ của những của cải và những cạm bẫy người giàu phải trực diện khi đáp lại tin mừng, nên Tin Mừng Luca cũng được gọi là “Tin Buồn cho Người Giàu.”
Hai hình ảnh đối chọi sắc nét xuất hiện ngay từ đầu dụ ngôn. Của cải làm con người xa lạ và cách biệt nhau (dĩ nhiên!). Một bên lụa là gấm vóc (thời xưa rất mắc). Một bên chỉ có tấm áo da với những ghẻ chốc đầy mình. Một bên yến tiệc linh đình giữa những thực khách sang trọng. Một bên ăn những thứ thối rữa cùng với đồng bạn là những con chó đói. Một bên tên tuổi lừng danh giữa những ông bà tai to mặt lớn. Một bên vô danh tiểu tốt giữa bày chó hoang.
Sống trong cảnh tương khắc giàu nghèo, con người không thể không có những suy nghĩ về số phận trần gian. Của cải là một cạm bẫy đối với người giàu, nhưng là một cám dỗ đối với người nghèo. Cả hai đều có thể mất đức tin vì của cải. Người nghèo hết lòng tin tưởng và tuân giữ mệnh lệnh Chúa truyền, nhưng chỉ gặp toàn bất hạnh. Trong khi đó, những người khinh thường Thiên Chúa lại được hưởng mọi thứ hạnh phúc trên đời và thành công về mọi mặt. Ngày xưa dân Do thái, những người khôn ngoan vẫn tin Thiên Chúa thưởng người công chính và phạt người tội lỗi. Sự khôn ngoan đó đã lâm vào cơn khủng hoảng, ít nhất từ thời Lưu đày. Đời sống cá nhân cũng như cả dân tộc đều đau khổ hơn những người và dân tộc chung quanh.(3)
Nhưng tất cả đều đảo ngược dưới cái nhìn của Đức Giêsu. Dụ ngôn đã không lưu lại hậu thế tên ông phú hộ. Thế là ông trở thành vô danh trước Thiên Chúa và nhân loại đến muôn đời. Còn người nghèo vô danh tiểu tốt lại lưu danh muôn thuở dưới danh xưng Ladarô (nghĩa đen là Thiên Chúa cứu giúp). Dưới cái nhìn của Đức Giêsu, trật tự xã hội đã bị đảo ngược.
Hơn thế, trật tự thiên đàng còn khác xa hơn nữa. Trước kia, trên trần gian, Ladarô sống giữa chó. Chúng chỉ quấn quít bên anh vì những mụn nhọt, chứ không biết gì đến anh. Còn ông phú hộ được mọi người vây quanh và chú ý. Hạnh phúc bao giờ thiếu vắng. Không bao giờ ông biết đến cảnh cô đơn. Bây giờ, cái chết đã đem đến bất ngờ. Tất cả đều đảo ngược. “Khi chết, ông Ladarô đã tìm được những người bạn hữu: các thiên thần, ông Abraham, tổ phụ những người có đức tin. Ngược lại, ông nhà giàu chẳng có bạn bè, chẳng có trạng sư biện hộ cho hoàn cảnh của ông ta: hỏa ngục, chính là nỗi cô đơn.”(4) Nhưng nhất là ông vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa, vì đã sống xa cách anh em. Đây là một cực hình khủng khiếp nhất. Những đau khổ thể xác không thấm thía gì. Ông đã phải học lấy bài học về cuộc đời bằng chính kinh nghiệm mình. Một giá quá mắc!
Khi nhìn lên trời, ông thấy Ladarô đang vui vẻ trong lòng Abraham, ông mới nhìn ra nỗi khốn cùng của mình. Tình cảnh bây giờ thật tội nghiệp. Ông trở thành người nghèo thực sự. Bây giờ ông mới hiểu thế nào là số kiếp ăn mày. Ông van xin Abraham sai Ladarô hiện về cảnh cáo những người anh em đang sống trong xa hoa trên trần gian. Giờ này ông mới biết quan tâm tới số phận của người khác. Tất cả đã muộn đối với ông, nhưng còn kịp đối với họ. Thế giới vẫn sẵn những phương tiện và cơ hội để con người chuẩn bị cho hạnh phúc vĩnh hằng. Phương tiện đó là Lề Luật và lời các ngôn sứ. Ông từng nghe Sách Luật truyền phải quan tâm tới người nghèo khổ và cùng khốn. Các ngôn sứ cũng đưa ra những lời cảnh báo tương tự. Dù thế, người giàu vẫn tin nếu có một người chết như Ladarô hiện về, anh em của ông mới chịu khuất phục. Abraham vẫn không đồng ý và khẳng quyết Lề Luật và các ngôn sứ đã đủ giúp con người trở lại.
Trong khi người giàu không thể thỏa mãn nguyện vọng, thì Kitô hữu đã được nghe tiếng của một người từ cõi chết trỗi dậy. Đó là Đức Giêsu Kitô. Người đã từng nghe tiếng Môsê và các ngôn sứ. Nhưng còn mạnh hơn Môsê và các ngôn sứ, Người đem lại ơn cứu độ cho muôn dân. Người đã yêu thương và chấp nhận những người bị gạt ra ngoài xã hội, trong khi điềm tĩnh cảnh cáo những người kiêu ngạo và giàu có.
Dĩ nhiên, cũng như các ngôn sứ, Chúa Giêsu không lên án những người giàu vì sự giàu có, nhưng vì họ tự mãn trước những gian khổ người khác đang phải gánh chịu. Vậy tại sao người giàu trong dụ ngôn này lại phải chịu một số phận kinh khủng như vậy? Trước hết, vì cả ông và Ladarô đều có liên hệ với Abraham, nên chắc chắn phải là những người chia sẻ cùng một giao ước. Bởi thế, họ có những trách nhiệm do giao ước đặt ra. Đây là chiều kích xã hội của giao ước. Muốn tránh định mệnh khắc nghiệt như ông, các người anh em chỉ cần tuân theo những mệnh lệnh giao ước. Một trong những mệnh lệnh đó là phải chăm sóc đến những người nghèo khổ.
Bổn phận đó phát sinh từ mối liên đới huyết tộc với một vị tổ phụ niềm tin là Abraham. Nhưng ông phú hộ đã quên sót. Ông bị luận phạt nặng nề không phải đã làm điều gì sai quấy. Ông không lấy cắp hay đả thương Ladarô. Tuy nhiên, ông có một trách nhiệm rất lớn đối với Ladarô. Ông đã làm ngơ và không chu toàn bổn phận. Vì thế, ông đã phạm tội quên sót rất lớn. Hình phạt nghiêm trọng cho thấy bổn phận đó nặng nề.
Nếu biết mở tấm lòng đón nhận Ladarô, chắc chắn ông phú hộ đã có thái độ khác. Ông đã quan tâm chú ý tới nhu cầu của tha nhân, chứ không quanh quẩn tìm cách thỏa mãn chính mình. Sự thật đơn giản này chỉ được ông nhận ra khi nằm dưới âm phủ. Khác với ngày còn trên trần gian, dù có muốn, Ladarô cũng không có phương tiện và cơ hội giúp ông ấy nữa. Khoảng cách ngày xưa ông đã không vượt nổi, mặc dù rất ngắn, làm sao bây giờ ông lại có thể đòi Ladarô vượt một khoảng cách dài vô tận?! Không phải vì Ladarô muốn trả thù ông. Nhưng công lý cần phải được thi hành.
Không có bức tranh nào diễn tả và nói lên tất cả sự thật toàn vẹn về công lý như dụ ngôn về ông phú hộ và người nghèo Ladarô hôm nay. Nếu biết trước công lý có một chiều kích lớn lao như thế này, chắc chắn ông phú hộ đã có thái độ và lối sống khác.
CHỌN MỘT THÁI ĐỘ
Tất cả đều tùy thuộc thái độ con người trong cuộc sống trần gian. Chúa Giêsu luôn cố gắng trình bày những thái độ căn bản con người cần phải có khi sinh sống và hoạt động. Nơi nào thấy con người có thái độ bất xứng, Người đòi cá nhân phải thay đổi để con người ngày càng đạt tới mức nhân bản đich thực hơn và phù hợp với thánh ý Chúa hơn. Thái độ căn bản Chúa Giêsu muốn chúng ta có là cởi mở đối với Thiên Chúa và đồng loại. Mọi sự khác sẽ từ đó phát sinh. Thái độ căn bản này là nền tảng xây dựng toàn bộ đời sống đức tin và đạo đức.
Chính vì thiếu thái độ căn bản đó, ông phú hộ đã không vượt nổi một khoảng cách rất ngắn. Người nghèo nằm ngay trước cửa ông phú hộ. Khoảng cách con người tạo ra không ngờ trở thành định mệnh vô cùng bi đát. Khoảng cách đã được nhân lên đến vô cùng cả về thời gian lẫn không gian. Đó là chưa kể đến cuộc sống khác biệt như có và không vậy giữa hai con người. Trong khi Ladarô bơi lội trong đại dương tình yêu Thiên Chúa, thì người giàu thèm khát một giọt nước cũng không được thỏa mãn. Cảnh diễn lại y hệt ngày xưa Ladarô mơ ước có một mụn bánh từ bàn tiệc rớt xuống cũng không ai cho. Công lý đã sáng tỏ!
Ánh sáng công lý chiếu rọi vào cuộc đời. Công bình vượt qua cả việc thuần túy chia sẻ của cải vật chất. Dụ ngôn cho thấy điều đó. Nên nhớ, khi sống Ladarô phải ngồi ngoài cổng. Nhưng khi cả ông phú hộ và Ladarô đều chết, Thiên Chúa đã đem Ladarô vào bên trong.
Người nghèo là những con người. Họ có nhân phẩm và đáng được tôn trọng, vì nhân vị của họ và vì họ cũng được Chúa Kitô cứu độ. Không phải của bố thí, viện trợ, món quà như thực phẩm, quần áo làm thay đổi cuộc sống người nghèo. Nhưng chính thái đô chúng ta đối với họ đem lại cuộc thay đổi. Chính tình người nồng ấm, sự chia sẻ cuộc sống và đức tin đem lại niềm hy vọng.
Chúng ta không thể làm nên cơm cháo gì, nếu không nói chuyện với họ. Vấn đề có vẻ đơn giản. Nhưng thường chỉ khi tiếp chuyện với họ, chúng ta mới bắt đầu coi họ như con người mà thôi. Chỉ khi nói truyện với họ, chúng ta mới bắt đầu bắt một nhịp cầu.
Đức Giêsu đã yêu người nghèo. Bằng thái độ và lời nói, Chúa đã nâng người cùng khổ và đem lại cho họ niềm hy vọng và chữa lành. Không thấy Tin Mừng ghi lại một cơ hội nào Chúa cho người nghèo tiền bạc. Người cho họ những gì Người cho mọi người khác. Người cho họ tình yêu. Sau cùng, Người cho họ chính mạng sống của mình.
Đó chính là bài học Chúa để lại trong Tin Mừng. Chỉ sống cuộc sống như Chúa, có thái độ như Chúa, nói những lời như Chúa, chúng ta mới có thể xây dựng Nước Thiên Chúa trên trần gian và làm cho nhân loại xích lại gần nhau và gần Thiên Chúa hơn.
LADARÔ THỜI ĐẠI
Ladarô thời đại đang tràn ngập khắp phố phường và các vỉa hè. Họ là nạn nhân của những chế độ bất công. Chẳng lẽ phải đợi lên thiên đàng, người nghèo như Ladarô mới được đền bù? Thực ra Chúa muốn dùng dụ ngôn để tỏ bày thái độ cương quyết tuyên chiến với sự bất công. Lời Chúa đã làm cho con người bừng tỉnh trước chân lý cuộc đời. Đức tin đã cho Kitô hữu thấy sự khôn ngoan đích thực không dựa trên của cải vật chất trần gian, nhưng trên Thiên Chúa. Lời Chúa cho thấy rõ ai dại ai khôn.
Theo gương Đức Kitô, Giáo hội cương quyết tranh đấu cho người nghèo. “Sự nghèo đói đặt ra một vấn đề công bình nghiêm trọng. Với nhiều hình thức và hậu quả khác nhau, đặc tính của nghèo đói là sự tăng trưởng bất quân bình. Người ta không chịu nhìn nhận “mọi người đều có quyền bình đẳng ngồi vào bàn tiệc chung. Sự nghèo đói không thể nào làm cho con người hưởng trọn vẹn quyền làm người.”(5) Nghèo đói sinh ra dốt nát. Người ta còn vịn vào đó để chống chế và biện minh cho sự độc tài của giai cấp thống trị. Hệ lụy này kéo theo hệ lụy kia. Chẳng bao giờ hết cảnh người bóc lột người. Điển hình nhất là quốc nạn tham nhũng.
Theo ông Liao Ran, điều phối viên cao cấp của Tổ chức Minh bạch Quốc tế chuyên phụ trách về khu vực Đông Nam Á, “trên bảng xếp hạng về Chỉ số Nhận thức Tham nhũng năm 2007, Việt Nam bị sụt hạng, hiện đứng thứ 123 trên tổng số 180 quốc gia trên thế giới được khảo sát.”(6) Làm sao có thể thoát khỏi quốc nạn nếu vẫn còn chế độ thiếu dân chủ? Quả thế, ông Liao Ran đưa ra nhận định: “Nếu chính phủ Việt Nam thật tâm muốn phòng chống tham nhũng, họ nhất thiết phải thông qua các luật lệ hay quy định cụ thể, tạo điều kiện cho hệ thống pháp luật được độc lập. Ngoài ra, những cơ quan phòng chống tham nhũng và các phương tiện truyền thông, báo chí cũng phải được độc lập, không lệ thuộc nhà nước. Quan trọng hơn, nhà nước cần phải khuyến khích người dân mạnh dạn tố cáo tiêu cực bằng cách ban hành luật lệ rõ ràng bảo vệ người dân khi họ phát giác hay đấu tranh chống tham nhũng.”(7) Nếu hệ thống pháp luật độc lập và báo chí tự do, liệu tham nhũng còn là cơ hội béo bở cho các cán bộ nữa không?
Không ai cầm được nước mắt khi nghe tin: “Khoảng 8 giờ sáng ngày thứ Tư 26-9-2007, cây cầu Cần Thơ đang trong quá trình xây dựng bất ngờ bị sập làm hàng chục người chết và hơn 100 người bị thương.”(8) Nguyên nhân tại đâu? Nếu báo chí không được tự do, bao giờ sự thật mới được phơi bày? Nếu con hạm tham nhũng là những tai to mặt lớn, hệ thống pháp luật và báo chí nào dám đưa ra ánh sáng?
Khó lòng chối cãi vai trò tham nhũng trong thảm kịch cây cầu Cần Thơ. Tham nhũng đúng là quốc nạn! Cây cầu Cần Thơ chưa phải là thảm họa cuối cùng của quốc nạn tham nhũng. Thanh Niên Online mới chỉ dám loan tin: theo “một chuyên gia xây dựng có trách nhiệm từ một cơ quan nhà nước ‘cột chống ở hiện trường không giống với cột chống trong bản vẽ,’ có nghĩa là, nếu chuyên gia này (có tên T.D.) đúng, thì vụ sập cầu Cần Thơ đến tự dàn giáo.”(9) Nguyên nhân trước mắt là dàn giáo. Nguyên nhân sâu xa tại đâu?
Lạy Chúa, xin cho người giàu bớt lòng tham lam. Xin Chúa thu ngắn khoảng cách giàu nghèo, để mọi người ngày càng sống hạnh phúc hơn. Amen. đỗ lực 30.09.2007
----------------------------------- [1] http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-luat/2007/09/3B9FA8B9/ [2] Ibid. [3] x. ĐGH Bênêđictô XVI, Jesus of Nazareth, 2007:212. [4] Lời Chúa Cho Mọi Người, 2005:367. [5] Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội, số 449. [6] www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2007/09/27/Vietnam_Corruption_Perceptions_Index... [7] Ibid. [8] www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2007/09/26/Deadly_bridge_collapse_in_CanTho... [9] www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=66626&z=75.
Một bài dân ca Tây Tạng thật mộc mạc buồn cười nhưng lại rất ý nghĩa: Tôi không thấy người: TN 26-C96
Một bài dân ca Tây Tạng thật mộc mạc buồn cười nhưng lại rất ý nghĩa:
Tôi không thấy người yêu.
Tôi đã tìm khắp nơi. Tôi lên núi tuyết,
tôi xuống lũng sâu. Tôi đi từ Đông qua Tây,
từ Nam lên Bắc. Tôi tìm kiếm và kiếm tìm,
rồi cuối cùng tôi thấy người yêu
đang ở ngay trong xó bếp...
THỜI ĐIỂM ĐIỆU NHẢY KHÁT TÌNH
Thời buổi khát tình này quả thực có quá nhiều bài hát về tình yêu, từ những bài rũ rượi cho đến những thứ tình yêu giật giật theo điệu nhạc mới. Tình yêu là phải thích ca lên ông ổng: "I need you, I need you, I need you": anh khát em, em thèm anh. Chữ cuối cùng phải ngân dài ra cho thảm thương tha thiết kiểu cải lương trước khi ngã xuống sàn giẫy giẫy xùi bọt mép giống như lên cơn xì ke!
Chưa bao giờ trong lịch sử loài người qua các nền văn minh mà tình yêu lại được bào chế giống như một bi thuốc thật "phê" làm cho đã cơn thèm như ngày nay. Người yêu trở thành đối vật để thỏa cơn khát chứ không còn nói tới hy sinh quên mình. Chẳng lạ gì hạnh phúc rụng rơi như sung, văng vãi khắp các văn phòng thầy cãi. Gia đình ung thối, con cái tàn hoang. Thảm trạng gia đình kéo theo thảm trạng xã hội.
DẤU CHỈ ĐẾN HỒI KHỐC LIỆT
Người mình vẫn thường nói: thượng bất chính, hạ tắc loạn. Rối từ trên rối xuống, hỏng từ trong hỏng ra, thì chữa thế nào được?! Ở những xứ "văn minh" người ta lôi cả chuyện tổng thống lạng quạng ra mà làm trò cười, rồi chưa kể hết ông nghị sĩ này vị dân biểu nọ bị phanh phui tình lẻ.
Ở vào một thời điểm con người ngơ ngác trước những chuyện xảy ra mà chẳng hiểu gì cả, hoặc chẳng còn gì để hiểu thì đúng hơn. Cái xe đã rạc thì chữa chỗ này chưa xong lại đã sinh tật chỗ khác. Cơn chấn động về tiền và về tình xảy ra cùng một lúc trên thế giới báo hiệu điềm gì?
Đã đến lúc cần một cuộc bừng tỉnh lớn, thay đổi từ gốc rễ sau những suy thoái và khủng hoảng. Và cuộc góp phần của các tôn giáo vào cuộc phục hưng tinh thần này thật cần thiết. Alan Havey đã là một nhân chứng cho cuộc bừng tỉnh về tâm linh được ghi nhận trong cuốn "Đá Ngọc" (The Mani Stones). Một hôm ông cùng với người bạn là Dennis đi lên Tây Tạng thì tình cờ chứng kiến một cảnh rất lạ thường:
"Chúng tôi đi dọc theo con đường chính duy nhất của thành phố, con đường vắng tanh không một bóng người. Mọi nhà đều đóng cửa im ỉm, thỉnh thoảng chỉ có vài con chó hoang gầy ốm chạy rong. Chúng tôi nhìn thấy một bà lão hành khất, thân hình còm cõi chỉ còn da bọc xương đang lê lết trên vỉa hè. Tôi bèn cúi xuống dúi cho bà ít bạc lẻ nhưng bà vẫn giơ tay ra trước mặt như muốn xin thêm một cái gì. Dennis rút ổ bánh mì trong chiếc túi đeo trên vai đưa ra, bà lão mừng rỡ chụp lấy ăn ngay, thì ra bà lão quá đói. Trong lúc bà đang ăn ngấu nghiến thì một con chó hoang ở đâu chạy tới. Trước cặp mắt kinh ngạc của chúng tôi, bà lão bẻ đôi ổ bánh mì chia cho con chó."
"Cảnh tượng một bà lão không có một thứ gì ngoài bộ quần áo rách tả tơi, đang lả đi vì đói, lại thản nhiên chia sẻ nửa phần ăn của mình cho một con chó hoang đã làm chúng tôi xúc động. Bà lão hành động một cách tự nhiên, không ngại ngùng hay suy nghĩ. Hình như bà lão không hề phân biệt giữa mình với con chó..."
Điều mà bà lão hành động đã thể hiện niềm tin của Đông Phương từ xa xưa: vũ trụ nhất thể. Đây lại là một khám phá mới nhất của khoa học thời nay về vật lý lượng tử (quantum physics): vũ trụ chỉ là một toàn khối, một sức sống duy nhất với những phân tử đang nhảy múa chuyển vần theo hướng.
Người với ta tuy hai mà một
Ta với người tuy một mà hai.
Sức sống của người khác là sức sống của chính mình. Thương người như thể thương thân. Vì người khác không còn là một đối vật ở ngoài mình nữa mà là chính phần thân thể của mình. Như thế mình chỉ hạnh phúc khi làm cho người khác hạnh phúc. Và ngược lại, ích kỷ là tự làm khổ mình, tự tách lìa khỏi dòng sống sung mãn của đất trời, để trở thành cái vũng nước tù ủng thối. Chẳng lạ gì khi con người của nền văn minh này càng lo vơ vét chôm chỉa thì càng làm cho mình nghèo nàn khổ sở thêm ra.
TIN VUI TÌM LẠI CHẤT TÌNH
Bà Betty Eadie, sau khi chết rồi bỗng sống lại, đã cho biết cái bí mật của đời sống trong cuốn "Được Ánh Sáng Ấp Ủ" (Embraced by the Light, Gold Leaf Press, 1992).
Mọi vật đều chung một lực sống nhất thể. Cái lực nối kết và làm sinh động chính là tình thương. Hạnh phúc hay không là do được yêu thương và biết yêu thương, chứ không phải do tiền bạc hay bất cứ hăm hở kiếm tìm mệt nhọc nào của con người hiện tại. Những người đã chết đi thật, đã gặp được cõi sáng và trở lại với một tin vui rất giản đơn trong sáng:
"Tình thương là tất cả. Tình thương phải thống trị. Chúng ta được sinh vào trần gian là để sống tràn trề sung mãn, thấy được niềm vui trong mọi sự và mọi biến cố thành công hay thất bại."
“Tôi thấy tôi là chính những người tôi xúc phạm, và cũng là chính những người tôi giúp đỡ.”
Thương người là thương chính mình, tạo được sinh khí. Ghét người là ghét chính mình, làm mất đi nhiệt lực sống.
Đây cũng là một khám phá mới nhất của nhân loại qua mẹ Mẹ Teresa tại Calcutta với khẩu hiệu ngắn, gọn: "Làm những chuyện nhỏ với tình thương lớn."
Trên mặt đất lúc này có cả trên năm tỷ người, tức là năm tỷ cá nhân biệt lập, với những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Nhưng những người đã chết rồi sống lại đều cho biết rằng: người với ta tuy hai mà một, điều mà Kinh Thánh đã nói rõ: "Anh chị em là thân thể chúa Kitô." (1Cor 12:27):
Câu truyện Tin Vui tuần này Chúa Giêsu kể về một nhà phú hộ sống phè phỡn chả cần đếm xỉa gì tới người hành khất La-gia-rô nghèo khổ đói khát. Tội nhà phú hộ phải sa hỏa ngục không phải vì gian lận bóc lột người khác, mà là tội mù mắt không nhận ra cái đau của người nghèo La-gia-rô là cái đau trong chính thân mình, đã thiếu sót không làm điều đáng lẽ phải làm. Nhà phú hộ đã tự làm tắc mạch thành ao tù tách lìa khỏi dòng lực sống, và như vậy là tự đầy đọa làm khổ mình. Như kiểu hủy hoại môi sinh, làm ô nhiễm nước và không khí, thì hậu quả bây giờ nhiều người đang phải trả trông thấy. Khí hậu những năm gần đây càng ngày càn nóng lên hơn, vì tầng không khí bị mỏng dần do chất ozone từ công nghệ thời mới thải ra.
PHÚT TỊNH TÂM
Tình trạng tê liệt buồn chán của nhiều người thời đại cũng có thể đang diễn ra nơi tôi lúc này. Vì đóng kín, ích kỷ, chỉ biết gom góp cho mình mà chẳng bao giờ thỏa. Đó là giá phải trả. Tôi đang đi tìm tình thương và hạnh phúc nhiều nơi và bằng nhiều cách. Tôi đang mất đi nhiệt lực và sinh khí đời sống, cho đến khi tôi sực nhận ra rằng khi bắt đầu biết cho đi, biết thể hiện tình thương đích thực nơi những người đau khổ nghèo đói, là tôi tìm lại được niềm vui trong đời. Như câu nói đã nghe từ lâu: "Bạn đang buồn chán ư? Hãy đứng dậy, xắn tay áo lên xem quanh bạn có ai cần bạn giúp đỡ không, rồi bạn sẽ thấy vui ngay."
Đúng vậy. Tình yêu hạnh phúc thì thật gần, ngay trong tầm tay, ở xó bếp, nơi người nghèo đói, chứ không phiền phức quá như nhiều người đang thèm khát mò mẫm đầu tắt mặt tối. Bài dân ca Tây Tạng vẫn mãi vang vọng:
Tôi không thấy người yêu.
Tôi đã tìm khắp nơi. Tôi lên núi tuyết,
tôi xuống lũng sâu. Tôi đi từ Đông qua Tây,
từ Nam lên Bắc. Tôi tìm kiếm và kiếm tìm,
rồi cuối cùng tôi thấy người yêu
đang ở ngay trong xó bếp...
Đâu có công bằng thì ở đó không có bác ái”. Đã có một thời tôi đọc và suy ngắm câu này. Vì: TN 26-C97
“Đâu có công bằng thì ở đó không có bác ái”. Đã có một thời tôi đọc và suy ngắm câu này. Vì câu nói ấy đã làm tôi thật sự khó hiểu.
Sống trong một thế giới mà người giầu ức hiếp người nghèo. Kẻ thấp cổ bé miệng bị khinh thường, coi rẻ, một thế giới cá lớn nuốt cá bé, thì giữ được công bằng trong cách sống và cách đối xử với đồng loại đã là khó lắm rồi. Đôi khi tôi nghĩ rằng nếu tôi không dùng quyền hành để chiếm đoạt tài sản của kẻ khác, không dùng sức mạnh để ức chế người này, người khác, và không dùng tiền của để mua chuộc và lợi dụng những kẻ sa cơ, lỡ bước, như vậy là phúc cho người khác lắm rồi. Sống như vậy đã là bác ái đối với đồng loại rồi.
Nhưng không hẳn là thế, qua trích đoạn Tin Mừng của Thánh Luca, một ánh sáng mới đã chiếu soi trong tâm hồn, và tôi nhận ra rằng, công bằng mà thôi vẫn chưa đủ. Tôi còn phải sống và thực hành đức ái với anh chị em của tôi nữa.
Thật vậy, trong câu truyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể giữa người phú hộ giầu có và người hành khất nghèo đói Lazarô, tôi không thấy có gì lỗi công bằng trong đó cả. Người phú hộ đương nhiên có quyền hưởng dùng những gì ông ta có. Ông tiệc tùng, liên hoan là tiền của ông, đâu phải tiền mà ông đã cướp giật của anh nghèo Lazarô đâu. Ông không hề bóc lột, tống tiền, hoặc cưỡng đoạt gì của Lazarô. Hơn thế nữa, không thấy ngưởi hành khất Lazarô lên tiếng xin nhà phú hộ lấy một lời, nhưng chỉ nằm ngoài cổng của nhà phú hộ. Ở một phương diện nào đó, có thể nói là nhà phú hộ đã xử tốt đối với Lazarô, vì nếu không ông có thể sai gia nhân ra đuổi cái anh chàng ăn mày đang nằm ngoài cổng kia với mình đầy ghẻ chốc. Sự ghẻ lở ấy có thể làm cho ông cảm thấy ghê tởm, mà ăn không ngon . Vậy mà để kết luận, Chúa Giêsu lại nghiêm khắc kết án nhà phú hộ. Ông đã phải trầm luân hỏa ngục. Ngược lại, Lazarô được phần thưởng Nước Trời.
Công bằng thôi chưa đủ. Không lấy của người khác. Không tham lam, cướp giật, không trục lợi, không tước đoạt của người này, người khác chưa đủ điểm để vào Thiên Đàng. Đó mới chỉ là “mắt đền mắt, răng thế răng” (Mt 5:38).. Mà vì công bằng như vậy, nên không phải là hành động của bác ái.
Bác ái vượt xa công bằng. Nhà phú hộ giầu sang, tưng bừng yến tiệc, còn Lazarô nghèo nàn, rách nát phải đi ăn mày đó là công bằng. Nhà phú hộ không cho Lazarô, vì Lazarô không lên tiếng xin, đó là công bằng. Nhưng như Chúa Giêsu đã kết luận, cái làm cho Lazarô được thưởng Nước Trời, và cái làm cho nhà phú hộ bị đọa hình hỏa ngục là đức bác ái. Đức bác ái của Lazarô là ở lòng yêu mến Thiên Chúa, chấp nhận thân phận nghèo nàn, ốm đau, và bệnh tật. Không tham lam, ghen tỵ. Ông đã hiểu và nhận được lời chúc phúc: “Phúc cho kẻ có tâm hồn nghèo” (Lc 6:20). Còn đức bác ái của nhà phú hộ là phải vượt qua sự công bằng ngồi chờ kẻ khác van xin, nhưng rộng tay ban phát và bố thí. Trước đó khi nói về dụ ngôn người quản lý bất trung chính Chúa Giêsu cũng đã nói: “Hãy dùng tiền của phi nghĩa mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16:9). Tiền của phi nghĩa là tất cả những gì Thiên Chúa ban cho ta, kể cả sự giầu sang, phú quí. Bạn hữu đây là những nhân đức, những người mà ta giúp đỡ cách này, cách khác.
Đến đây, tôi chợt tự hỏi, vậy còn tôi thì sao? Tôi đã sống công bằng và bác ái như thế nào? Tôi có được như nhà phú hộ kia về khía cạnh công bằng chưa? Tôi có bao giờ mắng nhiếc, xỉ vả và khinh thường những ai nghèo khó, kém cỏi, và sa cơ lỡ vận chưa? Nếu có thì cần phải nhớ lại thái độ của nhà phú hộ mà Chúa Giêsu vừa nhắc đến. Ông ta chưa xua đuổi người nghèo và bệnh tật là Lazarô mà đã phải trầm luân hỏa ngục. Còn nếu có thì sao? Cũng hãy nhớ lại hình ảnh nhà phú hộ trong hỏa ngục.
“Đâu có công bằng, ở đó không có bác ái”. Thật vậy, bác ái là phải cho đi. Mà cho đi là phải chấp nhận thua thiệt. Không có sự công bằng giữa người cho và người nhận. Phải thiệt đi, phải nghèo đi một chút. Cũng không có sự công bằng khi tôi phải thua thiệt và nghèo đi một chút khi giúp đỡ anh chị em mình. Nếu tôi cho ai mà không nghèo đi một chút thì hành động giúp đỡ ấy không lột tả ý nghĩa của bác ái. Vì bác ái là phải thiệt thòi đi một chút. Nếu tôi biếu ai một vật gì, giúp đỡ ai một món tiền nào đó, mà tôi không thấy xót xa, tiếc nuối, thì hành động ấy chưa phải là thua lỗ, chưa phải là thiệt thòi, mất mát đối với chính tôi.
Vậy ai là những Lazarô quanh tôi lúc này? Đó là vợ, chồng, con, cháu, ông bà, anh chị em trong gia đình. Và đó là tất cả những ai mà hằng ngày tôi gặp gỡ, giao tiếp. Nhiều người cần tôi, xin tôi, và cũng có người không cần xin tôi như Lazarô, thì bổn phận tôi là phải khám phá ra, tìm gặp nhu cầu của những người này mà giúp đỡ. Và đây chính là một hành động bác ái.
Người khác xin mà mình cho chưa phải là hành động bác ái, mà là bố thí. Bác ái là thấy người khác cần mà mình tự nguyện đem cho. Cho của dư thừa cũng là một hình thức bố thí, chưa hẳn là bác ái. Bà góa dâng cúng 2 xu vào hòm khấn nhưng nhiều người đã dâng gấp trăm, và việc Chúa Giêsu khen bà góa, là thí dụ điển hình về hành động bác ái của tôi, ngay cả khi tôi đóng góp vào những công tác bác ái, từ thiện. Bác ái là cho cái thuộc phần mình, là chia cơm, sẻ áo. Hành động như thế sẽ nói lên tính chất hy sinh, từ bỏ, và thua thiệt vì yêu mến Thiên Chúa và vì anh chị em.
Câu chuyện Chúa Giêsu vừa kể đã xảy ra cách đây đã hơn 2000 năm; mà sao, mở mắt, vẫn thấy: TN 26-C98
Câu chuyện Chúa Giêsu vừa kể đã xảy ra cách đây đã hơn 2000 năm; mà sao, mở mắt, vẫn thấy như là đang xảy ra ở giữa phố chợ Sài Gòn, Hà Nội gần gũi. Cái cảnh giàu nghèo, sang hèn, vênh vang tủi nhục, đang bày ra khắp nơi, trước những tòa nhà khách sạn, nhà hàng cao cấp. Cạnh những ly cốc thủy tinh, những chai rượu đắt khét, là những món ăn, bằng cả mấy tháng lương của một công nhân áo vải; để rồi cộng lại với đầy món ăn thừa bứa, phí phạm, cả mười mấy triệu đồng cho một bữa ăn, trong khi, ngay đấy, ngay trước cổng, một người đàn bà còm cõi, rách nát, chỉ ước mơ, có một cái bắp nóng vài ngàn mà cũng không sao có nổi. Sao thế? Sao bất công thế? Đời nó vẫn vậy! Chẳng biết đến bao giờ mới có thể xóa hết được cái giai cấp giàu nghèo. Trên thế giới, cái hố xa cách giàu nghèo ngày càng sâu hơn.
Lão phú hộ, ấm êm tự mãn, như con tò vò trong chiếc tổ bao quanh kín kẽ. Với những bức tường bêtông chắc chắn, với vòng quyền lực của những đồng tiền dầy cộm. Lão không còn biết đến ai; chả thèm để ý đến ai nữa. Lão sướng, lão an toàn, lão dư thừa. Lão chỉ biết có vậy. Còn Lazarô kia; hắn là ai? Không thèm quan tâm để ý. Hắn đói, hắn bệnh đâu cần quan tâm. Hắn có là người không? Không cần câu trả lời. Sao đời lại bất công đến thế? Sao hắn lại giàu, còn tôi lại nghèo?
Nhưng rồi cả hai cùng chết. Hóa ra, sướng khổ cũng chỉ có thời gian. Cám ơn cái chết, đã cắt đổ sự bất công cho cuộc đời. Nhưng như thế, cũng chưa lý giải được, sự bất công trong cuộc đời. Thật may: Có Đời Sau, và có phán xét. Cả hai cùng ra tòa, và lần này, thì sao lại đổi ngôi. Lazarô lại được lên thiên đàng sung sướng. Còn lão phú hộ, phải vào chốn khóc lóc, nghiến răng.
Thế nhé: Lazarô. Tuy rơi vào hoàn cảnh nghèo, nhưng vẫn chấp nhận cảnh nghèo. Không nguyền rủa ngày mình sinh ra; không kiêu ngạo, kêu than oán trách Chúa, vẫn giữ được nhân phẩm; yếu quá, không đi làm được, thì đi ăn xin; chứ không ăn vạ cuộc đời, không gian dối, trộm cắp. Cho nên, bây giờ ông được ân thưởng. Còn lão phú hộ: có lẽ lúc đầu, lão cũng hơi ngỡ ngàng về lời tuyên phán: Lão có ác đâu, co làm hại ai đâu, ngay cả với Lazaro, ngồi trước cửa nhà hắn; mà sao bản án dành cho lão nặng thế? Lão chỉ có một tội duy nhất là Tội ích kỷ. Dửng dưng, vô tình với đồng loại của mình. Lão không nhận ra, người khác là Anh Em với lão. Vì thế, lão không có Nhân tính; không có tình người. Ngoài cái tội ích kỷ ấy, lão còn là người cực kỳ nghèo nàn; không hề có một chút công phúc. Thế thì vào thiên đàng thế nào được. Bời thiên đàng là nơi để thưởng công. Lão đâu có công gì; để có thể được ân thưởng. Cái chân lý ấy, bây giờ lão mới khám phá. Lão muốn nhờ Abraham sai người về nói với anh em dòng tộc của lão cho họ hay; kẻo họ cũng mắc sai lầm chết người như lão đã bị. Nhưng Abraham từ chối. Đã có giáo lý của Chúa, sự truyền giảng của Giáo Hội. Người nào cứng đầu, hay che tai bịt mắt, không thèm nghe, thì phải chịu hậu quả cho đời mình. Như lão phú hộ lúc khám phá ra sự thật được, thì đã trễ, quá trễ rồi.
Hỏi:
1- Bạn là người ích kỷ hay biết chia sẻ? 2- Nếu đêm nay bạn chết, bạn sẽ lên thiên đàng hay vào hỏa ngục?
Trong bài dụ ngôn của Chúa Giêsu, “ông nhà giàu” không có tên. Nhân vật đó đại diện cho một giai cấp: TN 26-C99
Trong bài dụ ngôn của Chúa Giêsu, “ông nhà giàu” không có tên. Nhân vật đó đại diện cho một giai cấp trong xã hội. Ông ấy giàu, nhưng ta không biết giàu do đâu. Có thể đó là một người làm ăn lương thiện, thành công nhờ tài trí, nhờ sức lao động. Cũng có thể giàu vì đã khéo léo ăn cắp của công, mạnh tay bóc lột, cướp đất dân oan. Vấn đề Chúa Giêsu muốn chúng ta lưu tâm ở đây không ở chỗ nguồn gốc của tài sản có chính đáng hay không, nhưng là thái độ của người có tài sản. Người giàu bị kết án vì thái độ đối với người nghèo. Tội của ông ta là tội vô cảm.
Chúa Giêsu sẽ lặp lại giáo huấn này cách cặn kẽ hơn khi Ngài đề cập đến cuộc phán xét chung trong Tin Mừng theo Thánh Mátthêu. “Mỗi lần các ngươi không làm cho một trong những người bé nhỏ nhất đây là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” ( Mt 25, 31 – 35 ). Tội bị kết án ở đây vẫn là tội vô cảm trước nỗi đau của đồng loại, đặc biệt những người nghèo.
Đoạn sách ngôn sứ Amốt
Và để làm sáng tỏ giáo huấn của Chúa Giêsu thì Giáo Hội cho ta nghe bài đọc 1 trích trong sách ngôn sứ Amốt, vị ngôn sứ đầu tiên trong sách Kinh Thánh có những lời lẽ mạnh mẽ nhất, hùng hồn nhất về các vấn đề xã hội. Và tội bị vạch trần trong bài đọc 1 hôm nay vẫn là tội vô cảm. Bây giờ từ nội dung Lời Chúa, chúng ta hãy duyệt qua một số vấn đề thời sự.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô với người nghèo
Đối với anh chị em tín hữu Công Giáo chúng ta thì biến cố lớn trong những tháng đầu năm 2013 hẳn là việc Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô từ nhiệm, và tiếp theo sau là việc vị lên thay thế, Đức Giáo Hoàng đương kim, đã chọn danh hiệu Phanxicô, tên của vị Thánh thành Átxidi, thường được gọi là vị thánh nghèo. Và một trong những lời tuyên bố đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Phanxicô là: “Tôi muốn một Giáo Hội nghèo giữa những người nghèo”. Và chuyến du hành đầu tiên của ngài ra khỏi đất Ý là để đến thăm những thuyền nhân tỵ nạn tại đảo Lampedusa.
Đề cập đến chuyến viếng thăm này khi trả lời phỏng vấn trên chuyến bay ngày 29.7.2013 từ Rio de Janeiro về Rôma, ngài nói: “Có một chuyện đau lòng lọt vào tim tôi, đó là chuyến viếng thăm Lampedusa. Nó đã khiến tôi phải khóc, nhưng đã đem lại thiện ích cho tôi. Khi các người tị nạn tới, họ để thuyền xa bờ hàng mấy hải lý trước bãi biển và họ phải tìm cách vào bờ một mình. Điều này khiến cho tôi đau khổ, vì tôi nghĩ họ là các nạn nhân của một hệ thống xã hội kinh tế toàn cầu.”
Lời nói cũng như việc làm của Đức Giáo Hoàng cho thấy ngài không vô cảm trước nỗi đau của người nghèo, trái lại ngài đã quan tâm, gần gũi, chia sớt nỗi đau của những người bị bỏ rơi. Thái độ của Đức Giáo Hoàng hoàn toàn tương phản với thái độ ông nhà giàu đối với anh Ladarô, trong bài dụ ngôn.
Tội bị kết án ở đây là tội vô cảm
Khi cho người nghèo một tên, Ladarô, hẳn Chúa Giêsu muốn chúng ta nghĩ tới những con người cụ thể, bằng xương bằng thịt đang sống cạnh chúng ta, chung quanh chúng ta. Đó là những con người nghèo vật chất như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, và cả những người nghèo tinh thần, thiếu hiểu biết, thiếu tự do, thiếu dân chủ, thiếu công lý. Có những cá nhân nghèo thì đã hiển nhiên, nhưng còn có những tập thể nghèo, chẳng hạn một tầng lớp xã hội như những công nhân bị bóc lột, những nông dân suốt đời dãi nắng dầm mưa mà vẫn thiếu ăn thiếu mặc, những người dân oan bỗng dưng bị tước đoạt ruộng vườn từ bao đời tổ tiên để lại cho con cháu.
Ta còn có thể nói đến cái nghèo của đất nước. 38 năm sau ngày im tiếng súng, bất chấp vẻ bên ngoài hào nhoáng, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Đất đai bị kẻ thù gặm nhắm, hết hải đảo đến cao nguyên. Bao nhiêu cây số vuông rừng phòng hộ, trên danh nghĩa là cho người nước ngoài thuê 50 năm, thực chất là mở toang cửa rước giặc vào nhà. Người dân bị lừa bịp, bị bóc lột, bị đàn áp, không có dân chủ, không có tự do, những quyền thiêng liêng Thượng Đế ban cho con người thì bị tước đoạt. So với cái nghèo vật chất, cái nghèo tinh thần còn khủng khiếp gấp bội.
Lúc nãy trong đoạn sách Ngôn Sứ Amốt cũng như trong bài Tin Mừng, những người giàu có bị trừng phạt phải đi lưu đày hay đẩy xuống địa ngục vì đã dửng dưng, vô cảm trước nỗi đau của người nghèo. Vì vô cảm với người nghèo mà đã bị trừng phạt nặng nề như thế thì phải nói làm sao về những kẻ nhân danh một chủ nghĩa hoang tưởng đã bị lịch sử bỏ vào sọt rác, để đàn áp, bóc lột, tước đoạt cả những quyền thiêng liêng cơ bản nhất của con người ?
Những người đồng cảm và dấn thân
Tuy nhiên, thay vì nói đến những chuyện tiêu cực nói không bao giờ hết, tôi muốn làm nổi bật những khuôn mặt, đề cao những con người hiên ngang, can đảm lội ngược dòng, mạnh mẽ đấu tranh cho quyền con người, cho sự sống còn của dân tộc. Đó là những con người dấn thân, bất chấp mọi nguy hiểm cho bản thân, sẵn sàng trả giá để đấu tranh cho nhân quyền, cho dân chủ tự do, cho vẹn toàn lãnh thổ. Chỉ nói đến quãng thời gian năm bảy năm trở lại đây thôi, trong số những người đã công khai và mạnh mẽ lên tiếng, một số đã bị bắt và cầm tù. Điều đáng ghi nhận là những tiếng nói mạnh mẽ không chỉ xuất phát từ những người đã lớn tuổi như linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sự Cù Huy Hà Vũ, nhà báo Điếu Cày, hay giáo sư Phạm Minh Hoàng, nhưng ngày càng có những người trẻ hơn như Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Tiến Trung, rồi Tạ Phong Tần, Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Hoàng Vy, Trịnh Kim Tiến… Để khỏi quá dài dòng, tôi xin giới hạn chuyện thời sự vào thời gian mấy tuần lễ gần đây thôi. Xin lấy vụ xử Nguyên Kha và Phương Uyên làm mốc.
Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên
Khi bị bắt, Đinh Nguyên Kha mới 25 tuổi, sinh năm 1988 là sinh viên Đại Học Kinh Tế Công Nghiệp tỉnh Long An. Còn Nguyễn Phương Uyên lúc đó chưa tròn 20, sinh năm 1992, là sinh viên năm thứ 3 trường Đại Học Công Nghệ Thực Phẩm Tp. HCM.
Tại sao hai em bị kết án ? Thưa vì đã phổ biến truyền đơn, và đây là một đoạn trích nội dung: “Hỡi đồng bào Việt Nam hãy đứng lên chống lại bạo quyền độc tài Cộng sản Việt Nam... hãy đứng lên vì Tự Do, Nhân Quyền và Chân Lý !... Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi !… Trung Quốc đang từng bước thôn tính nước ta, bọn chúng đang chiếm dần biển đảo của ta... Ðảng Cộng sản Việt Nam dâng hiến Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và hàng ngàn cây số vuông đất biên giới cho Trung Quốc... Tổ quốc đang lâm nguy ! Toàn dân hãy đứng lên cứu nước !”
Trong phiên xử ngày 16.5.2013 tại Long An, Nguyên Kha dõng dạc tuyên bố: “Trước sau tôi vẫn là một nguời yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, mà tôi chỉ chống đảng Cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội.” Còn Phương Uyên thì khẳng định: “Chúng tôi làm để thức tỉnh mọi người trước hiểm họa Trung Quốc xâm lược đất nước và cuối cùng là chúng tôi làm xuất phát từ cái tấm lòng yêu nước nhằm chống cái xấu để cho xã hội ngày càng tốt đẹp tươi sáng hơn.”
Có mặt tai phiên toà phúc thẩm xử Nguyên Kha và Phương Uyên, blogger Hoàng Hưng đã mô tả “cuộc biểu dương khí thế của lương tri, của chính nghĩa, của tình đồng bào, đồng đội, của lòng yêu nước đẹp tuyệt vời” như sau: “Bà mẹ trẻ địu đứa bé một tuổi trước ngực lặn lội cả ngàn cây số vào Long An chia lửa cho hai bà mẹ của Uyên và Kha; …các cụ bảy mươi cùng các cháu gái trai nằm lăn xuống đường chặn bánh xe hung bạo bắt người; …tiếng hát vang ‘Dậy mà đi’ do người cựu tù Côn Đảo tóc bạc phơ khởi giọng, tiếng hô ‘Đả đảo Trung Quốc xâm lược’, ‘Đả đảo bọn tay sai bán nước !’, ‘Uyên – Kha vô tội’… đánh thức cả khu trung tâm thành phố Tân An; …một bà bán quán chạy tới ôm chầm người mẹ có con đang lâm nạn, khiến hàng trăm người đi đường dừng lại lắng nghe. Hãy nhìn cảnh một rừng công an cảnh sát, dân phòng tự vệ… ngây mặt nghe một người đàn bà sang sảng kêu gọi ‘Hãy tìm một lối quay súng trở về với nhân dân’ ! Phiên phúc thẩm Uyên – Kha sẽ đi vào lịch sử…”
( Ảnh chụp cha Nguyễn Ngọc Tỉnh đang hỏi thăm Phương Uyên trong phòng thánh Nhà Thờ DCCT Kỳ Đồng sau Thánh Lễ Hiệp Thông Cầu Nguyện cho Hoà Bình và Công Lý Chúa Nhật 29.9.2013 )
Khi trả lời phóng viên đài VOA, mẹ của Phương Uyên nhắc lại lời Phương Uyên tuyên bố trước toà: “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng đảng cộng sản Việt Nam’, là vì tôi thể hiện lòng yêu nước khi tôi căm phẫn Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam đến tột cùng sự phẫn uất.” Ta cứ tưởng tượng những buổi học chủ thuyết Mác-Lê mà mọi sinh viên đại học buộc phải có mặt, khi người nói nếu đủ thông minh thì cũng không thể tin những gì mình nói, làm sao thuyết phục nổi người nghe ?
Chuyện đó ai cũng biết. Nhưng một trong những mục tiêu và cũng là hậu quả tất yếu của những lớp học này là làm cho thanh niên chán ghét chính trị, coi việc nước không phải việc của mình. Mặc dù cho đến hôm nay, trên mọi văn bản mang tính pháp lý luôn phải có từ “độc lập”, nhưng trong thực tế, về mọi mặt, Việt Nam đã là một tỉnh lẻ của Tàu. Tình cảnh đất nước bi thảm như vậy, nhưng đa số người dân không biết, mà có biết cũng chỉ thở dài vì bất lực. Quả là kỳ diệu khi ta gặp thấy một khí phách, một sự tự tin, một lòng yêu nước nồng nàn như qua mấy câu thơ của cô bé Phương Uyên sau đây:
Ơi đồng bào Việt Quốc Đất nước không chiến tranh Cớ chi đau thắt ruột ! Sự tự hào ngộ nhận Một chế độ bi hài sau chiến tranh. Bọn cường quyền gian manh cơ hội Đào bới bóc lột dân lành Núp dưới bóng cờ máu, bác đảng Âm thầm bán từng mảnh đất quê hương… Ơi thanh niên Việt Quốc ! Chúng ta là ai ? Hãy đứng lên trước vận mệnh tổ quốc Giặc đang tràn tới ngõ…
Đọc những vần thơ này, hay nhìn dáng dấp của cô bé Phương Uyên trước vành móng ngựa, cho dù thân hình mảnh khảnh, mình khoác áo học trò, mặt mày non choẹt, nhưng lời lẽ thì đanh thép, không khoan nhượng, biểu thị một ý chí quật cường, cô bé tuổi 20 này không thua kém gì một Điếu Cày, một Cù Huy Hà Vũ hay một Nguyễn Văn Lý. Và từ đó ta hiểu được tâm tình của người Việt khắp nơi trên thế giới, những ai nặng lòng với dân tộc, với quê hương, khi theo dõi phiên toà xử Phương Uyên qua màn ảnh.
Phương Uyên là một nguồn cảm hứng
Phương Uyên đã làm dấy lên bao niềm vui, niềm tự hào và hy vọng nơi người trẻ cũng như người già, và đã gây cảm hứng cho nhiều người. Những bài viết và bài thơ ca ngợi Phương Uyên thì nhiều lắm, chỉ xin đưa ra một số đoạn trích làm ví dụ.
Trước tiên là bài “Phương Uyên, Thiên thần nhỏ” của Nguyễn Hàm Thuận Bắc, một người lính Trường Sa và cũng là bạn học đồng hương của Phương Uyên:
Phương Uyên thiên thần nhỏ Hiên ngang đứng trước tòa Ngẩng cao đầu tuyên bố Tôi yêu nước thiết tha ! Tôi ghét bầy tham nhũng Làm tay sai giặc Tàu Nếu ai cũng như chúng Việt Nam sẽ về đâu ?...
Và sau đây là nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Ít lâu trước phiên toà sơ thẩm xử Nguyên Kha và Phương Uyên, tác giả đã thở dài ngao ngán khi đặt câu hỏi và cũng là lời than “Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay ?” Nhưng sau phiên toà thì Trần Mạnh Hảo đã sững sờ trước vẻ đẹp không chỉ của khuôn mặt thiên thần, nhưng là của khí phách, của lòng dũng cảm, của lòng yêu nước nơi một bạn trẻ chỉ đáng tuổi con mình:
Nguyễn Phương Uyên đứng trước tòa Em xinh hơn mọi loài hoa trên đời Em không phải đóa mặt trời Mà sao bóng tối rụng rời vây quanh. Trước vành móng ngựa gian manh Phương Uyên chợt mọc lên thành đóa sen Trái tim yêu nước thắp đèn Phương Uyên em giữa bùn đen sáng lòa. Em là nụ, em là hoa Bởi yêu nước phải ra tòa em ơi Đưa tay chúng tính che trời Làm sao che nổi nụ cười trinh nguyên…
Và đây Nguyễn Quốc Chánh. Trước hết qua bài thơ “Quê hương và chủ nghĩa” tác giả nhìn thẳng vào sự thật phũ phàng xót xa của dân tộc, của đất nước:
Bao nhiêu năm, ai nhân danh chủ nghĩa, Tự Do xích xiềng, Dân Chủ dối gian Mác-Lênin, đâu phải người Việt Nam ! Sự thật đó có làm em đau nhói ?...
Rồi Nguyễn Quốc Chánh mời tuổi trẻ Việt Nam hướng nhìn tương lai để nhận ra trách nhiệm của mình đối với lịch sử qua những lời tâm huyết sau đây:
Em thấy đó, trên đường đi không đến, Quê hương đau, chồn cáo vẫn nghênh ngang Những con thú người nhảy múa kiêu căng Ngửa mặt hú một bài ca chủ nghiã. Ngôn ngữ văn nô, đỉnh cao trí tuệ !
Ngoài những tác giả vừa nêu trên đây, ta cần ghi thêm lời nói hay bài viết của một số người khác nữa liên quan đến hai bạn trẻ được tôn vinh như những bậc anh hùng của Việt Nam hôm nay.
Trên mạng “danlambao.vn”, Vũ Đông Hà đã viết: “Bản án dành cho Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha nếu nhìn cho kỹ, suy cho sâu, chính là bản án dành cho chế độ. Nó bày ra hết những ti tiện, nhỏ nhen, yếu hèn, gian ác của chế độ và những con người cộng sản Việt Nam – từ cấp lãnh đạo cho đến những người đang xếp hàng chờ sổ hưu…
Một tiếng nói khác rất có uy tín là giáo sư Tương Lai, một giáo sư ngành xã hội học từng làm cố vấn cho 2 thủ tướng từ 1991 đến 2006. Ông đã có một bài viết đăng trên một nhật báo hàng đầu của Mỹ là tờ “Nựu Ước Thời Báo” ( New York Times ) bản tiếng Việt do chính ông cung cấp cho đài VOA mang tựa đề “Những bàn chân nổi giận”. Xin ghi lại mấy đoạn trích sau đây: “Tháng trước, Tòa Án tỉnh Long An Việt Nam đã kết án nặng nề hai sinh viên yêu nước ở độ tuổi 20. Trong những tội danh bị áp đặt có tội ‘nói xấu Trung Quốc’. Những cáo buộc này đã chạm vào điểm nhạy cảm bậc nhất trong tâm thế người Việt Nam là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Người ta phẫn nộ vì như thế là ai đó đã hợp đồng với Trung Quốc xâm lược để quay lại đàn áp người yêu nước. Đầu tuần này, công an Hà Nội đã đàn áp một cuộc biểu tình chống Trung Quốc và bắt nhiều người, hành hung, đánh đập họ, trong đó có cả phụ nữ.
Vì thế, những ‘bàn chân nổi giận’ đã rầm rập xuống đường biểu tình chông Trung Quốc xâm lược. Cùng với những cuộc biểu tình ấy, những khiếu kiện tập thể của nông dân cũng dồn dập bùng lên. Sự nối kết giữa tầng lớp trí thức với giới trẻ ở đô thị và nông dân – những người bị đẩy vào cuộc sống đói nghèo vì mất đất sản xuất khi người ta nhân danh ‘sở hữu toàn dân’ để tước đoạt quyền sở hữu mảnh đất cha ông họ để lại mà không được đền bù thỏa đáng.”
Và có lẽ hơn lúc nào hết, từ khắp nơi trên thế giới, đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản dù đã an cư lạc nghiệp và một số lớn đã thành đạt từ nhiều năm nay, vẫn hướng về quê mẹ, đau nỗi đau của những người ở trong nước, nhất là từ khi thấy rõ Việt Nam đang trở thành tỉnh lẻ của Tàu. Ta hãy nghe Kiều Tiến Dũng từ Úc Châu: “Lòng người đang sôi sục căm phẫn. Căm phẫn Trung Cộng đã chiếm đoạt từng mảng, cả đất lẫn biển của quê cha đất tổ. Căm phẫn hơn nữa bọn người nắm quân đội trong tay mà lại khiếp nhược, cúi đầu cam tâm quy phục ngoại bang, giữ công an trong tay chỉ để dùng bạo lực đàn áp chính người dân, và tệ hơn, chà đạp tuổi trẻ tương lai của đất nước.”
Và Trần Trung Đạo từ Hoa Kỳ: “Bức tường chuyên chính CSVN đã không sụp đổ vì những cơn bão thời đại Liên Xô, Đông Âu, Bắc Phi xa xôi nhưng chắc chắn sẽ sụp đổ vì những giọt nước kiên nhẫn Việt Nam đang nhỏ xuống từ tuổi trẻ Việt Nam, từ đồng bào Việt Nam trong cũng như ngoài nước… Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em.”
Ví dụ cuối cùng tôi trưng dẫn ở đây rất là độc đáo. Đó là một đoạn trích lá thư ngỏ khá dài đề ngày 16.5.2013 tức là sau phiên toà sơ thẩm xử Nguyên kha và Phương Uyên, kính gửi một người bạn học cùng trường là ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng xin được đi tù thay cho Nguyên Kha và Phương Uyên, tác giả đã 70 tuổi, hiện sống tại Hà Nội, đó là tiến sĩ Đặng Huy Văn: “Ông có biết Phương Uyên và Nguyên Kha là ai không ? Là những thanh niên ưu tú của nhân dân toàn nước Việt. Chủ nghĩa Công sản không rành, nhưng kẻ thù của nhân dân là ai thì biết. Và các cháu đã sẵn sàng dấn thân để cứu dân tộc, non sông.
Chúng ta phải làm thế nào để được họ gọi bằng ông ? Đừng để các cháu khinh rẻ chúng mình là già rồi sinh lú: Hèn với giặc, ác với dân, ghét tự do, yêu độc tài, bài dân chủ, Chỉ vì đồng đôla và địa vị chức quyền mà bán biển đảo, núi sông !
Nhưng hai cháu Uyên, Kha là hiền nhân của Tổ Quốc, Có sức trẻ và chí khí kiên cường có thể cứu được núi sông. Ông hãy lấy quyền làm vua để bắt tôi đi tù thay hai cháu. Tôi 70 đã lẫn rồi, sống làm gì thêm khốn khổ thưa ông !...
Khởi điểm mới chứ không phải điểm dừng
So sánh với thái độ nơm nớp, co rúm vì sợ hãi của người dân suốt mấy chục năm trường thì những gì chúng ta đang chứng kiến hôm nay qua những bài viết, những lời nói, những việc làm của những người đấu tranh cho dân chủ tự do, cho độc lập quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ thật là kỳ diệu. Nhưng nếu chỉ có vậy thì tự do hạnh phúc của tuyệt đại đa số nhân dân không là cái bánh vẽ thì cũng mới chỉ là những mẩu bánh ăn để cầm hơi, trong khi nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc thì hoàn toàn là bánh vẽ. Nhưng hy vọng đã bừng sáng khi không chỉ có một số khuôn mặt đã trở nên quen thuộc, nhưng trong những tháng, những ngày gần đây, cho dù thông tin lề phải hoàn toàn im bặt, nhưng nhờ internet mà ta thấy được khuôn mặt, nghe được tiếng nói của những người ở trong cũng như ngoài nước đang hiên ngang mạnh mẽ tranh đấu cho dân tộc, cho đất nước mình.
Chẳng hạn giữa hai phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm xử Nguyên Kha và Phương Uyên, chính xác là ngày 15 tháng 8, lễ Đức Mẹ Lên Trời, bổn mạng vương cung thánh đường Đức Bà tại Paris, các bạn trẻ Việt Nam đã có sáng kiến tham gia vào cuộc rước truyền thống trước thánh lễ chiều. Trong đoàn rước khổng lồ theo sau kiệu Đức Mẹ, ta thấy một rừng cờ vàng ba sọc đỏ, thấy các bạn trẻ Việt Nam rạng rỡ, tay cầm cờ hay dương biểu ngữ, ngực đeo những tấm hình phóng lớn của Uyên Kha và Phương Uyên hay của các bạn trẻ Việt Nam đang ở tù, giữa tiếng hát trầm buồn “Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam, trời u ám bất công lan tràn…”
Trước đó, ngày 2.8.2013, một nhóm năm thanh niên gồm Phạm Đoan Trang và Nguyễn Lâm Thắng từ Hà Nội, Nguyễn Thảo Chi và Nguyễn Anh Tuấn từ Đà Nẵng, cùng với Nguyễn Nữ Phương Dung từ Sài Gòn đã qua Thái Lan, tới văn phòng Uỷ Ban Luật Gia Quốc Tế tại Bangkok, nộp tuyên bố 258 với nội dung phản đối điều 258 của bộ luật Hình Sự quy định tội danh “lợi dụng các quyền dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước” và yêu cầu bãi bỏ điều luật đối với những ai viết bài chỉ trích nhà nước, vì như thế là vi phạm quyền tự do ngôn luận của công dân. Khi trở về Việt Nam, những người này dù có gặp khó khăn tại phi trường Tân Sơn Nhất, cuối cùng đã được các bạn blogger công khai rước về an toàn.
Đến ngày 7 tháng 8, năm blogger khác lại đến Toà Đại Sứ Thuỵ Điển ở Hà Nội cũng để trao bản Tuyên Bố 258. Bà Phó Đại Sứ đã ra tiếp đón ngay tại cổng.
Chiều ngày 10 tháng 9 đại diện mạng lưới blogger Việt Nam đã trao tuyên bố 258 cho phái đoàn đại diện Liên Hiệp Châu Âu tại Hà Nội. Trước đó họ cũng đã trao tuyên bố này cho đại diện Toà Đại Sứ Úc Đại Lợi.
Kết quả là chỉ 24 giờ sau, cho dù truyền thông nhà nước coi như không có gì xảy ra, khắp nơi trên thế giới đều biết đến bản Tuyên bố này.
Sự kiện Đặng Chí Hùng
Và sự kiện cuối cùng tôi muốn đề cập tới hôm nay là hơn 2 tuần sau ngày nghị định 72 của thủ tướng chính phủ có hiệu lực, nghị định nhằm “quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng”, thì ngày 18.9.2013, trên diễn đàn Danlambao, người ta đọc thấy lá thư tác giả Đặng Chí Hùng “gửi bạn đọc thôn Danlambao”, Đặng Chí Hùng tuyên bố: “Tôi sẽ yêu quê hương bằng cả trái tim của mình và đi đến cùng con đường chân lý đem lại độc lập cho quê hương trước bạo quyền của cộng sản cho đến khi tôi không còn hơi thở nữa thì đành chịu”… “Bản thân tôi chưa bao giờ có liên hệ với Việt Nam Cộng Hoà…”, “Bản thân tôi chưa bao giờ là đảng viên mặc dù tôi đã có thời gian nắm chức vụ khá lớn trong tổ chức đoàn thanh niên cộng sản HCM. Tôi không vào đảng vì tôi đã nhận ra bộ mặt thật của nó từ khá sớm. Tôi đã chấp nhận bỏ lại sau lưng cơ ngơi, tương lai tươi sáng mà bao nhiêu người trẻ ở Việt Nam mong muốn để ẩn mình thực hiện công việc mà tôi cho là cần thiết cho dân tộc.”
Sau khi đã công bố loạt bài viết “Những sự thật không thể chối bỏ” gồm 18 phần liên quan đến nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh, tác giả cho biết đã bỏ ra 5 năm trời ròng rã để nghiên cứu, thu thập tài liệu và thực hiện công trình này. Tác giả còn nói là trong tương lai gần sẽ công bố “Những sự thật cần phải biết” liên quan đến các lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam. Hy vọng công trình của Đặng Chí Hùng sẽ soi sáng cho những ai, đặc biệt các bạn trẻ, muốn tìm hiểu sự thật về những con người có trách nhiệm đối với dân tộc Việt Nam từ 68 năm nay.
Ở tuổi ngoài 50, Đặng Chí Hùng vẫn là một người trẻ. Chỉ vì khát khao đi tìm sự thật, tâm can bị thiêu đốt bởi tình yêu đồng bào, yêu tổ quốc mà dám dấn thân vào một cuộc chiến vô cùng nguy hiểm cho bản thân cũng như gia đình, dám liều cả mạng sống, thì ngọn đuốc phi thường đó, không sức mạnh nào dập tắt được.
Những cánh én báo hiệu mùa xuân ?
Nếu một con én không làm nổi mùa xuân như ai cũng biết, thì điều ta đang chứng kiến là trên đất nước chúng ta, đã thấy xuất hiện nhiều con én, và đàng sau là cả một bầy én đã sẵn sàng vỗ cánh giữa khung trời bát ngát bao la. Điều đặc biệt đáng ghi nhận là sự tích cực tham gia của một số bạn trẻ ngày càng nhiều vào các vấn đề của xã hội, của đất nước. Các bạn không chỉ có sức trẻ, nhưng còn giàu nghị lực, giàu sáng kiến, giàu khả năng linh hoạt, thích nghi, lại dễ dàng sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại. Tôi nói “đặc biệt” vì các bạn đã hấp thụ một nền giáo dục què quặt do chính sách ngu dân và sự tuyên truyền lừa bịp từ khi cắp sách đến trường. Dù vậy, ngay giữa lúc xã hội tan hoang, đất nước như con mồi sắp bị con hổ đói khổng lồ ăn tươi nuốt sống thì ý thức quốc gia và lòng yêu nước bừng tỉnh như do một phép mầu.
Và trong lúc đó thì những bậc cha anh cũng đang thoát ra khỏi sự sợ hãi, và thể hiện quyết tâm của mình bằng nhiều cách khác nhau. Chỉ cần nhìn lại những gì đã xảy ra từ các vụ Toà Khâm Sứ, Thái Hà, Đồng Chiêm, Tam Toà, Cồn Dầu cũng thấy. Rồi trong khi tiếng súng Đoàn Văn Vươn còn âm ỉ thì lại xảy ra vụ Đặng Văn Viết ở Thái Bình, và mới đây nhất là vụ Mỹ Yên. Khi người dân bị đàn áp dã man, bị bóc lột đến tận cùng nên chẳng còn gì để mất, đồng thời ý thức được quyền lợi của mình, cũng như ý thức được sứ mạng đối với xã hội, đối với tổ quốc, và nhờ các phương tiện tân kỳ của công nghệ thông tin mà biết rõ tình hình, nhìn ra sự thật, biết mình không đơn độc, lẻ loi, nên đã thoát ra khỏi vòng sợ hãi, thì mọi vũ khí đều vô hiệu.
Đến đây không thể không nói đến một sự kiện quan trọng xảy ra hơn 3 tuần sau khi nghị định 72 đã nói trên có hiệu lực, và 2 tháng sau bản tuyên bố 258 của các bloggers về tự do ngôn luận ta đã đề cập tới. Đó là ngày 23 tháng 9 vừa qua, thay vì ký thỉnh nguyện thư hay kiến nghị mà bao nhiêu lần kinh nghiệm cho thấy đã bị bỏ vào sọt rác, thì 130 nhân sĩ, trí thức, trong đó có Giám Mục Chủ tịch Uỷ Ban Công Lý và Hoà Bình của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã ra một tuyên bố xuất hiện trên tất cả các trang mạng nổi tiếng và có nhiều người truy cập nhất hiện nay. Đó là tuyên bố quyền thực thi dân sự. Trong bản Tuyên bố này, có đoạn viết: “Chúng tôi yêu cầu nhà cầm quyền tôn trọng quyền bày tỏ quan điểm của công dân, thẳng thắn tranh luận và đối thoại, từ bỏ cách đối xử không công bằng, không minh bạch và không đường hoàng như đã và đang áp dụng đối với những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp và những tiếng nói đòi dân chủ khác với quan điểm của nhà cầm quyền”.
Kết luận
Những ai là tín hữu Chúa Kitô thì qua đoạn Tin Mừng hôm nay đã nghe lời cảnh cáo nặng nề của Chúa về tội vô cảm.
Nhưng hôm nay tôi đã cố gắng đề cao những con người Việt Nam, đặc biệt các bạn trẻ, đã không vô cảm, hơn nữa đã đồng cảm, đã dấn thân vì người nghèo, vì đất nước nghèo, vì dân tộc, vì tổ quốc. Khi nhìn thấy “giặc Tàu tràn lan trên quê hương ta”, Việt Khang đã nghẹn ngào: “Giờ đây, Việt Nam còn hay đã mất ?” Nay ta đã nghe Phương Uyên cũng như các bạn đồng trang lứa, cùng với các bậc cha anh đồng thanh nhiệt tình đáp lại: “Mẹ Việt Nam ơi, chúng con vẫn còn đây !” Liệu chúng ta sẽ đáp lại như thế nào ?
Lm. Pascal NGUYỄN NGỌC TỈNH, OFM.
Chúa Nhật 29.9.2013
Tin Mừng theo Thánh Luca thường được gọi là “Tin Mừng cho Người Nghèo”. Nhưng trong đó: TN 26-C100
Tin Mừng theo Thánh Luca thường được gọi là “Tin Mừng cho Người Nghèo”. Nhưng trong đó, có nhiều giáo huấn về nguy cơ của sự giàu có, về lòng ham mê của cải, về những cạm bẫy người giàu phải trực diện khi đáp lại Tin Mừng, nên Tin Mừng theo Thánh Luca cũng được gọi là “Tin Buồn cho Người Giàu”.
Dụ ngôn người phú hộ và Ladarô mô tả một bức tranh tương phản giàu nghèo.
Sống ở đời này, phú hộ dư ăn dư mặc, Ladarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Ladarô rách nát tả tơi. Phú hộ nhà cao cửa rộng, Ladarô lê lết bên cổng ăn xin. Phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Ladarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Cái chết đến và tất cả đều đảo ngược. Đời sau, Ladarô được đưa lên mây trời, phú hộ bị đày xuống vực thẳm. Ladarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Có một khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Ladarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt”. Khi chết, Ladarô đã tìm được những người bạn hữu: các thiên thần, Abraham tổ phụ những người có Đức Tin. Ngược lại, phú hộ chẳng có bạn bè, chẳng có trạng sư biện hộ cho hoàn cảnh của ông ta: hỏa ngục, chính là nỗi cô đơn. Nhất là ông vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa, vì đã sống xa cách anh em. Ðây là một cực hình khủng khiếp nhất. Những đau khổ thể xác không thấm thía gì. Ông đã phải học lấy bài học về cuộc đời bằng chính kinh nghiệm mình. Một giá quá mắc !
Không có bức tranh nào diễn tả và nói lên tất cả sự thật toàn vẹn về công lý như dụ ngôn về ông phú hộ và người nghèo Ladarô hôm nay. Nếu biết trước công lý có một chiều kích lớn lao như thế này, chắc chắn ông phú hộ đã có thái độ và lối sống khác. Ông đã quan tâm chú ý tới nhu cầu của tha nhân, chứ không quanh quẩn tìm cách thỏa mãn chính mình. Sự thật đơn giản này chỉ được ông nhận ra khi nằm dưới âm phủ. Khác với ngày còn trên trần gian, dù có muốn, Ladarô cũng không có phương tiện và cơ hội giúp ông ấy nữa. Khoảng cách ngày xưa ông đã không vượt nổi, mặc dù rất ngắn, làm sao bây giờ ông lại có thể đòi Ladarô vượt một khoảng cách dài vô tận ?!? Không phải vì Ladarô muốn trả thù ông. Nhưng công lý cần phải được thi hành. ( Lm. Đỗ Văn Lực, O.P ).
Trong khi Ladarô bơi lội trong đại dương tình yêu Thiên Chúa, thì người giàu thèm khát một giọt nước cũng không được thỏa mãn. Cảnh diễn lại y hệt ngày xưa Ladarô mơ ước có một mụn bánh từ bàn tiệc rớt xuống cũng không ai cho. Công lý đã sáng tỏ !
Ánh sáng công lý chiếu rọi vào cuộc đời. Công bình vượt qua cả việc thuần túy chia sẻ của cải vật chất. Dụ ngôn cho thấy điều đó. Nên nhớ, khi sống Ladarô phải ngồi ngoài cổng. Nhưng khi cả ông phú hộ và Ladarô đều chết, Thiên Chúa đã đem Ladarô vào bên trong.
Ladarô thời đại hôm nay là nạn nhân của những chế độ bất công. Chẳng lẽ phải đợi lên thiên đàng, người nghèo như Ladarô mới được đền bù ?
Thực ra, Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn để tỏ bày thái độ cương quyết tuyên chiến với sự bất công. Lời Chúa đã làm cho con người bừng tỉnh trước chân lý cuộc đời. Ðức Tin đã cho Kitô hữu thấy sự khôn ngoan đích thực không dựa trên của cải vật chất trần gian, nhưng cậy dựa vào Thiên Chúa. Lời Chúa cho thấy rõ ai dại ai khôn. Theo gương Ðức Kitô, Giáo Hội cương quyết tranh đấu cho người nghèo chịu bất công.
Những ngày qua, đọc “Tuyên bố của Linh Mục đoàn Giáo Phận Vinh”, những bài viết và các bức thư hiệp thông của các Đức Giám Mục với Giáo Phận Vinh, mọi người thấy rõ ánh sáng công lý đang đẩy lui bóng tối gian dối. Đức Cha Nguyễn Thái Hợp trả lời phỏng vấn của VietCatholic, trong đó có đoạn: “Đã có một thời người ta tôn vinh gian dối và cho đó là một phương pháp tuyên truyền hữu hiệu nhất, vì đinh ninh rằng: Cứ nói dối, cứ nói dối… cuối cùng vẫn còn lại cái gì. Từ Phát-xít Đức cho tới Staline, Mao Trạch Đông, Pol Pot cho đến hiện nay… một số nhà cầm quyền đã sử dụng nó như lợi khí tuyên truyền để đánh lận con đen.
Trong quá khứ, xem ra một số lần họ đã đánh lừa được dư luận hay ít nhất gây hoang mang, sợ hãi và bêu xấu đối phương. Toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật với những công nghệ hiện đại đã giúp nhân loại dễ dàng lột mặt nạ những gian dối và lừa lọc này. Hơn nữa, nhân loại ngày càng đề cao mô hình nhà nước dân chủ, pháp quyền, tôn trọng sự thật, nhân phẩm nhân quyền, sự minh bạch và yêu chuộng công lý – hòa bình. Bạo lực, gian dối, lừa lọc, cả vú lấp miệng em… đang bị đẩy dần vào bóng tối”.
Đọc bài trả lời của Đức Cha Phaolô, ai cũng thấy công lý đã sáng tỏ. Truyền thông một chiều của phía chính quyền chỉ còn là bàn tay giơ lên che ánh sáng mặt trời, truyền thông giả trá bị vạch mặt. Sự giả dối đang ngày càng lan rộng, hiện diện ở tất cả mọi lĩnh vực và phổ biến đến nỗi đã trở quen thuộc, khiến cho người ta có thói quen nghi ngờ mọi giá trị. Điều này tác động đặc biệt tiêu cực đối với thế hệ trẻ. Đó thực sự là một hiểm họa!
Thời gian này, các Giáo Phận, các cộng đồng người Công Giáo trong và ngoài nước đã gửi thư hiệp thông với Giáo Phận Vinh. Giáo Hội Công Giáo là tiếng nói trung thực của công lý. Giáo Hội can đảm dấn thân bênh vực cho sự thật, cho sự sống, cho quyền con người.
Thư hiệp thông của Tổng Giám Mục Hà Nội với Giám Mục Vinh và Giáo Phận Vinh;
Tâm tình hiệp thông với Giáo Phận Vinh của Đức Cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long;
Giáo Phận Kon Tum hiệp thông với Giáo Phận Vinh và Giáo Xứ Mỹ Yên;
Thư hiệp thông của Giáo Phận Thanh Hóa với Giáo Phận Vinh;
Thư hiệp thông và cầu nguyện cho Giáo Phận Vinh của tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam;
Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, Giám Mục Giáo Phận Bắc Ninh, Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã đến thăm Giáo Phận Vinh vào chiều 22.9.2013;
Thư hiệp thông với Giáo Phận Vinh của Liên đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Thư hiệp thông với Giáo Phận Vinh của Liên đoàn Cộng đồng Công Giáo Việt Nam Úc Châu;
Thư hiệp thông của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Anh Quốc hiệp thông với Giáo Phận Vinh;
Thư Đức Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế hiệp thông với Giáo Phận Vinh…
Tất cả đều hiệp thông với Giáo Phận Vinh, đặc biệt với Giáo Xứ Mỹ yên trong lời cầu nguyện và lời kinh Mai Khôi hàng ngày. Đó chính là sức mạnh của công lý và sự thật.
Công Đồng Vatican II khẳng định: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” ( GS, Số 1 ).
Giáo Hội Công Giáo lắng nghe những đòi hỏi của con người, của dân tộc, của xã hội mà mình dấn thân phục vụ. Khi chọn lựa đứng về phía người nghèo khổ, đau khổ, bất hạnh thì mặc nhiên cũng cho họ được quyền đòi hỏi Giáo Hội và các môn đệ Đức Kitô phải bênh vực, phải lên tiếng và phải hướng dẫn họ theo ánh sáng Tin Mừng để đạt được công lý, bác ái và hoà bình ở hiện tại này. Giáo Hội có trách nhiệm phải lên tiếng thay cho họ.
Những người yêu chuộng công lý và hòa bình cũng đã cảm thông chia sẻ với những đau thương của Giáo Phận Vinh bằng những bài viết thể hiện tình hiệp thông sâu sắc, thể hiện khát vọng đấu tranh cho sự thật được sáng tỏ để bình an sớm được lập lại trên Giáo Xứ Mỹ Yên, để nhà cầm quyền không lạm quyền trong cách hành xử với nhân dân nhưng phải biết tôn trọng nhân phẩm, nhân quyền và quyền tự do tôn giáo. Bởi cách quản trị chà đạp trên các quyền căn bản của con người là đầu mối gây ra những rạn nứt và đổ vỡ khối đại đoàn kết trong xã hội.
Hết thảy mọi người, không phân biệt lương dân hay Giáo Dân, đều mong muốn sống trong an bình, đoàn kết và hòa hợp. Một dân tộc bị xung đột và chia rẽ là một dân tộc đang lâm vào khủng hoảng và là mầm mống triệt tiêu sức mạnh. Trong trường kỳ lịch sử và trong hành trình văn hóa của dân tộc Việt đã chứng minh rõ điều đó ( GPVO ). Lịch sử Giáo Hội Công Giáo đã ghi lại, nơi nào máu người công chính đổ ra để minh chứng cho công lý thì nơi ấy sẽ trổ sinh muôn vàn chồi công chính mới.
Hoà bình là kết quả của công lý, là tôn trọng phẩm giá con người. Hoà bình đích thực là kết quả của tình yêu. Bất cứ ai tha thiết với công lý, sự thật và tình thương đều có thể gặp được Thiên Chúa.