Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 25 TN-C Bài 101-150 Người Quản Lý bất lương --------------------------------------- Phúc Âm: Lc 16, 10-13 {hoặc 1-13}: "Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: {"Một người phú hộ kia có một người quản lý, và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: 'Tôi nghe nói anh sao đó? Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa'. Người quản lý nghĩ thầm rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào, để khi mất chức quản lý, thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ'. "Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại: năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'. Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng. "Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.} "Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con? "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". - Ðó là lời Chúa. ----------------------------
Có lẽ mọi người đều đồng ý với quan niệm sống, và cái nhìn luân lý và đạo đức của Chúa Giêsu. Và ai cũng phải công nhận chân lý này đúng và hết sức cần thiết trong cuộc sống; nhất là cho phần rỗi đời đời của mỗi người. Nhưng, trong thực tế cũng có thể nói rằng ít người đã sống và đã giữ những điều này. Tại sao? “Vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn ngoan hơn con cái sự sáng” (Lc 16:7).
Như vậy có nghĩa là con cái nước trời không khôn ngoan bằng con cái thế gian? Hoặc ngược lại, con cái thế gian không khôn ngoan hơn con cái sự sáng? Có thể nói như thế, vì cũng con cái loài người đã nói và dậy dỗ nhau: “Khôn ngoan chẳng lọ thật thà. Lường cân tráo đấu chẳng qua đong đầy”. Và Chúa Giêsu thì nói rằng: “Sự thật sẽ giải thoát chúng con” (Jn 8:32).
Tôi có một kinh nghiệm về sự trung tín, và tôi nghĩ rằng để trung tín là một điều khó; đôi khi rất khó. Tôi đã hứa mỗi ngày ngoài những việc đạo đức khác, tôi đọc 3 Kinh Kính Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria mỗi tối trước khi đi ngủ. Tôi không biết những người khác thì sao, riêng tôi, lời hứa này nhiều hôm tôi phải chiến đấu đến đổ mồ hôi mới trung thành nổi.
Thật vậy, đây chỉ là một lời hứa hết sức nhỏ mọn, và xem như dễ dàng thực hiện. Nhưng cái khó của nó không phải là ở chỗ đọc 3 Kinh Kính Mừng, mà là đọc 3 kinh này mỗi tối, và đọc suốt đời. Chính vì thế lời hứa này nhiều hôm tưởng như đã bị bỏ lỡ, hoặc sao nhãnng với rất nhiều lý do. Thí dụ, hôm nay tôi nhức đầu quá. Hôm nay tôi đau lưng quá. Hôm nay tôi vừa tham dự tuần đại phúc về. Hôm nay tôi đã tham dự 2 lễ rồi. Hôm nay tôi vừa có giờ đền tạ và chầu Thánh Thể rồi. Về tâm lý thì, hôâm nay tôi có chuyện buồn không tập trung tâm trí được. Hôm tôi bị người thân hiểu lầm khiến tôi mất bình tĩnh và căng thẳng quá. Và đó là những cái lý do khiến tôi nhiều lần đã bỏ không đọc 3 Kinh Kính Mừng, hoặc đọc một cách qua loa, chiếu lệ.
Một người bạn lâu năm của tôi, một hôm đã nói với tôi cho anh mượn đỡ một số tiền vì anh đang cần để lo một công việc, và hứa sẽ trả lại sau đó 3 tháng. Nhưng đến hôm nay đã gần 3 năm mà chưa thấy anh ấy nói gì về số nợ và lời hứa của anh, mặc dù tôi đã nhắc anh ít nhất 2 lần về vấn đề này. Tôi không nghĩ rằng anh có ý định quịt tôi, hoặc bất tín với tôi, nhưng có lẽ là có những lý do nào đó, thí dụ, khó khăn về tài chính mà anh phải thất hứa.
“Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn” (Lc 16:10). Tôi không dám nghĩ rằng mình sẽ trung tín được những việc lớn, nhưng bằng với kinh nghiệm của riêng mình, tôi nhận ra điều này, nguyên việc trung tín được với mình, trung tín được với người, và nhất là trung tín được với Chúa đã là một điều hết sức lớn lao rồi. Việc làm này nếu không có Chúa giúp và không do nỗ lực của chính mình sẽ không đạt được kết quả.
Làm sao mà tôi có thể trung tín được với mình. Đây là một việc làm xem như tự nhiên, nhưng lại rất khó thực hiện. Đa số những điều làm cho tôi cảm thấy mất hạnh phúc, chán nản, và khó chịu chẳng đến từ việc tôi bất tín với chính mình là gì? Cờ bạc, rượu chè, tình cảm lăng nhăng, nóng nẩy cộc cằn, tham lam đố kỵ. Có biết bao nhiêu điều mà tôi đã hứa với chính mình để chừa, để sửa đổi, hoặc để thăng tiến nhưng tôi lại bỏ dở, hoặc chỉ hứa mà không giữ lời.
Làm sao tôi có thể trung tín được với người, khi tự tôi đã hứa trả lại số nợ sau 3 tháng, để rồi kéo dài đến gần 3 năm. Dù cắt nghĩa dưới hình thức nào đi chăng nữa, thì việc làm này cũng được coi như một sự thất hứa. Một hành động bất tín. Và còn những lời hứa khác nữa thì sao? Thí dụ, ngày nào tôi vừa long trọng trước mặt Thiên Chúa, trước mặt đại diện Hội Thánh, trước mặt họ hàng hai bên và bạn hữu thề hứa yêu thương và kính trọng nhau suốt đời khi vui cũng như khi buồn, khi mạnh khỏe cũng như lúc ốm đau, khi giầu sang cũng như lúc nghèo túng, thế mà chỉ vì một vài trái ý, tự ái nhỏ mọn tôi đã đùng đùng nổi giận và lôi nhau ra tòa đòi ly dị. Con số hơn 50% những vụ ly dị hiện nay là một chứng minh cho thấy sự bất tín, thất trung của con người thời nay, chỉ riêng trong lãnh vực hôn nhân gia đình mà thôi.
Làm sao tôi có thể trung tín được với Chúa khi vừa mới hôm qua, tôi thề hứa mỗi ngày đọc 3 Kinh Kính Mừng. Hoặc hứa với Chúa sẽ bỏ đi thói cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, mối tình bất chính, không tham gia vào những vụ làm ăn bất chính, tham ô, và biển thủ công quỹ, nhưng rồi tôi vẫn lần lữa, tôi vẫn thờ ơ và không bao giờ thực hiện những lời mình đã khấn hứa. Có thể nói, Chúa là người bị lường gạt nhiều nhất. Bị thất hứa nhiều nhất. Bi thua lỗ nhiều nhất. Bởi vì Chúa chẳng bao giờ hiện ra để đòi nợ, và cũng chẳng bao giờ làm khó dễ ai, dù người đó đã thất hứa với mình.
Có lẽ vì trung tín là một hành động khó và đòi hỏi nhiều cố gắng, nên Chúa mới đưa ra mức độ so sánh từ nhỏ đến lớn. Thế nhưng, tâm lý chung con người ai cũng muốn cho mình nổi nang, và chứng tỏ mình là người có thể làm được mọi chuyện cách tốt lành và trung thành, bền bỉ. Tôi nhớ lại, trong một buổi tham dự khóa tĩnh tâm Cursillo, trong cơn sốt sắng, ngoài những tiếng khóc nức nở, những tiếng thở dài đầy hối hận về quá khứ của mình, còn có nhiều điều thề hứa mà theo tôi, đó là những lời hứa rất khó để thực hiện một cách trọn vẹn và bền bỉ. Thí dụ, mỗi ngày con sẽ quỳ trước Thánh Thể Chúa đủ 1 giờ. Mỗi ngày con sẽ giang tay lần hạt 150 Kinh Mân Côi. Mỗi ngày con sẽ đến thánh đường tham dự thánh lễ bất kỳ mưa, bão, hay tuyết rơi
Nhưng trung tín nước trời, trung tín để chiếm hữu được nước trời không lệ thuộc ở lòng đạo đức nhất thời. Càng không lệ thuộc vào những con số những lời hứa, và những hành động có vẻ bên ngoài của lời hứa. Chúa muốn con người chỉ dùng sự khôn ngoan của mình như người quản lý bất trung, hoặc như những việc làm nho nhỏ mọi ngày của mình để chứng tỏ lòng mình trung thành với ơn Chúa. Nhất là sự trung tín trong quyết định có tính cách đời đời là yêu mến Chúa. Chọn Chúa thay cho sự quyến luyến vật chất, của cải đời này, và để mình làm tôi những thứ ấy. Chúa phán: “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này mà khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16:13). Đấy chính là điều mà Chúa Giêsu đã nói đến khi đề cập đến sự trung thành cần thiết phải có để chiếm hữu được nước trời.
Nắm mọi của cải trong tay, mà không là chủ. Đó là người quản lý. Người quản lý sử dụng những của cải ấy, không phải theo ý muốn của mình, mà theo ý muốn hoặc mục đích mà ông chủ đã đề ra. Quản lý những của cải ấy, là bảo trì, và làm cho nó phát triển thêm ra; đó là bổn phận của người quản lý. Người quản lý sử dụng những của cải trong tay, để làm sinh lợi ra nhưng cái khó là cái sinh lợi ra ấy, không được bỏ vào túi mình, mà phải bỏ chung vào gia tài cho ông chủ.
Có người quản lý của một nhà phú hộ kia, mà Tin Mừng hôm nay kể lại, đã vi phạm vào sự thật nguy hiểm này. Là quản lý, nhưng nhiều lúc quên đi, anh ta lại tưởng mình là ông chủ; cho nên, anh ta đã phung phí, đã tự tung tự tác; say sưa trong tự mãn. Anh ta tưởng ông chủ không biết gì? Nhưng rồi đùng một cái: Có tiếng ông chủ gọi anh ta lên: Anh ta bị cách chức. Tay anh ta trắng trơn. Phải tính lại sổ đời. Bất ngờ quá! Hoảng loạn quá! Chỉ trong vài phút giây, từ có trở thành không! Người quản lý ngồi lại, trầm tư suy nghĩ. Phải nghĩ về Tương lai. Từ trước đến nay, anh ta đã quên không nghĩ đến điều này. Cứ ngỡ tưởng đời mình lúc nào cũng vinh quang thế, cũng vững vàng thế. Đấy là sai lầm lớn nhất trong đời của anh. Chỉ còn một thời gian ít ỏi trong tay, anh phải nhanh chóng lợi dụng. Lấy gì chuẩn bị cho tương lai?
Đời quản lý, chỉ là tạm thời. Sức khỏe tàn dần, sinh lực cạn dần, trí óc cùn dần; mắt mờ dần đi; xương cốt chùn lại. Buông tay, chán ngán! Điều quan trọng là đằng sau Đời Quản lý ấy: Có gì trong gia tài? Thế là, anh ta vội vã: Bảo người nợ dầu ngồi xuống viết đi: một nửa thôi nhé. Bảo người nợ lúa, bớt đi 50. Anh ta đã bắt đầu có được chút của. Anh ta đã cho vay TÌNH NGHĨA. Đã biết cách đổi những thứ vật chất ở đời, trở thành Tình nghĩa, là thứ sử dụng ở nửa đời về sau. Anh ta là một người ma giáo; lấy của ông chủ để mua tình nghĩa cho mình. Cách làm của anh ta dù không chính đáng; nhưng dẫu sao anh ta cũng được Chúa khen: Đó là đã biết cái gì là Quí nhất. Và bền vững nhất trong cuộc đời này: Chính là Cái Tình. Một chân lý khác, cũng quan trọng không kém, mà anh đã khám phá ra: Cái mình CHO ĐI, là cái tồn tại; và nó lại trở thành gia tài của mình sau này. Thực ra, câu chuyện của anh quản lý kia, chính là câu chuyện của mỗi người chúng ta thế thôi: Tất cả chúng ta, dù ở cuộc sống nào, cũng chỉ là người quản lý mà thôi. Trăm năm là cùng chứ gì? Hãy nghĩ tới tương lai xa hơn, mà lo chuẩn bị, gom góp; để khi nghe tiếng gõ cửa, không hốt hoảng; thanh thản trao sổ rồi ra đi.
Hỏi:
1- Cái sai lầm lớn nhất của người quản lý là gì? 2- Theo bạn, bao giờ bạn mất chức quản lý?
Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm
------------------------------------
TN 25-C103. KHÔN KHÉO TRONG VIỆC SỬ DỤNG CỦA CẢI VẬT CHẤT
Có hai người kia rất thân với nhau từ nhỏ. Ngày kia cả hai vào rừng bỗng nhặt được một túi trong: đó đựng đầy vàng bạc và châu báu. Cả hai rất mừng nghĩ rằng ông trời đã thương cho thân phận nghèo khó của mình. Vì đi cả ngày nên đói bụng nên một trong hai đi ra chợ kiếm gì cho đỡ đói trước khi phân chia tài sản vừa có được. Anh còn lại ngồi giữ túi kho báu ấy.
Ðang lúc ngồi giữ thì lòng tham trong mình đã nổi lên anh muốn chiếm túi châu báu này cho riêng mình nên suy nghĩ cách để anh kia về thì giết chết anh. Bày mưu tính kế xong thì người kia trở về hớn hở trong phần lương thực vừa mua được. Anh này vừa bước vào thì một cái bụp lên cổ làm cho anh trở tay không kịp. Anh ta lăn đùn ra chết.
Lúc này anh giữ túi châu báu khoái chí vì giờ đây tất cả thuộc về mình. Nhưng cái bụng đói cũng không làm cho anh ta an tâm. Anh ta bèn lấy tất cả phần lương thực mà anh kia mua được ra và ngồi thưởng thức ngon lành. Nhưng anh ta đâu ngờ rằng trong phần lương thực ấy đã có chất độc. Ăn chưa hết phần lương thực thì anh cũng lăn ra mà chết cách tức tưởi.
Nếu không vì lòng tham thì cả hai đâu phải chết một cách thê thảm như vậy. Và nếu như cả hai biết khôn khéo chút thì cả hai đều được sống, đều được hưởng phần tài sản đó. Và quan trọng là cả hai đều giữ được tình thân với nhau.
Ðoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đề cao sự khôn khéo của anh quản lý bất lương làm bài mẫu gương cho tất cả chúng ta. Anh quản lý này đã không làm tốt bổn phận của mình nên đã bị chủ cất chức. Trước khi rời khỏi chức anh đã biết khôn khéo tính toán và làm sao để vẫn còn phần lợi cho mình trong tương lai. Anh đã kêu những con nợ của ông chủ lại để giảm bớt đi phần anh đáng được hưởng. Ðể rồi những người đó sẽ nhớ ơn anh. Mặc dù bất lương nhưng anh vẫn còn biết khôn khéo hy sinh phần tài sản đáng được hưởng mà đổi lấy tình nghĩa anh em.
Ai trong chúng ta cũng đều có quyền tư hữu. Ðây là quyền bất khả xâm phạm của mỗi con người. Chính quyền cũng như Giáo quyền có bổn phận bảo vệ quyền này của con người. Mỗi người có quyền tìm kiếm của cải vật chất cho riêng mình. Của cải vật chất ấy sẽ giúp bảo đảm cho sự sống của chúng ta ở trần gian này.
Hôm nay Chúa Giêsu muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy biết khôn khéo trong việc tìm kiếm và sử dụng của cải vật chất. Là người môn đệ của Chúa Giêsu chúng ta không nên quá dính bén với của cải vật chất. Hãy dùng của cải vật chất để gìn giữ tình nghĩa anh em, tình nghĩa bạn bè. Trên hết là hãy biết dùng nó để mua lấy Nước Trời.
Khôn ngoan là gì? Người đời cho rằng: người khôn là người biết mưu mẹo, đường lối, biết làm thế nào để vượt thắng người khác, biết sống cho mình, biết hưởng thụ, đó là khôn. Đối với trần gian khi nói đến khôn ngoan người ta nói đến các học giả, những người có bằng cấp, những người có tỉ lệ thông minh gọi tắt là IQ cao. Nhưng đó không phải là khôn theo tiêu chuẩn hay đường lối của Thiên Chúa. Khôn ngoan thật sự là biết cư xử ở đời, là biết chọn điều tốt, làm điều tốt. Đức khôn ngoan mà Thiên Chúa dạy cho con người là thanh sạch, hòa thuận, tiết độ, chân thành, đầy lòng thương xót và kết quả công việc là tốt lành, hữu ích.
Nhiều người thế gian coi tiền bạc, chức vị là quan trọng nhất. Thật ra, tiền của, chức vụ, thú vui không phải luôn luôn xấu, vì nó cũng là nhu cầu bình thường của con người. Nó chỉ xấu khi chúng ta coi trọng nó quá mức và khi bất chấp lẽ phải, dùng những phương tiện bất chánh để đạt được điều đó. Đa số mọi người công nhận, ai chọn lối sống tham sân si, chọn vật chất của cải trên hết mọi sự là thiếu khôn ngoan. Vì của cải vật chất đời này chóng qua, không bảo đảm cho hạnh phúc đời đời, chết rồi mang theo được gì?
Nếu chúng ta chọn giàu sang, chức vị mà quên chuẩn bị cho đời sau thì có phải là khôn ngoan thật không?
Rõ ràng, sự khôn ngoan Chúa dạy chúng ta không phải là tìm của cải vật chất, sự khôn ngoan của chúng ta khác với khôn ngoan thế gian. Chúng ta không đặt của cải lên trên nhưng đặt Thiên Chúa là chủ cuộc đời mình, tiền bạc tuy cần nhưng chỉ là phương tiện giúp mình tiến bộ, giúp mình phục vụ anh em dễ dàng và có hiệu quả hơn.
Sự khôn ngoan của người quản lý trong bài PÂ là sự khôn khéo của con cái thế gian. Anh đã biết chuẩn bị cho quãng đời còn lại của mình được sung túc. Ít là sau khi chấm dứt quãng đời làm quản lý anh không đến nỗi đói. Cái đáng khen của người quản lý này là biết lo xa, biết chuẩn bị. Trong thời gian làm quản lý, anh có toàn quyền giảm nợ cho các con nợ, nhất là số lời. Anh đã biết dùng mọi phương tiện sẵn có trong tay tạo nhiều bạn hữu để khi mất chức rồi thì được họ đón về, giúp đỡ. Chính ông chủ cũng phải khen cách hành xử của anh. Đó cũng là điều CG nhắc chúng ta: hãy biết lợi dụng những cái mình có đời này để làm giàu cho cuộc sống mai ngày.
Chúng ta biết có đời sau, biết cuộc sống này có hạn, chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc sống đời sau hay chưa? Chúng ta có biết tạo mối liên hệ bạn hữu thân tình bằng việc giúp đỡ người nghèo, sống tốt ..., hoà thuận thương yêu nhau, chúng ta có biết dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu để mai sau được Chúa đền bù và ban thưởng nước trời hay chưa? Nếu ai còn coi tiền bạc trọng hơn Chúa thì làm sao xứng đáng với nước Thiên Chúa? "Không ai có thể làm tôi 2 chủ". Chúng ta biết Chúa là Đấng tốt lành, quyền năng vô song rất yêu thương chúng ta thì lẽ nào chúng ta lại bỏ Ngài mà chọn tiền bạc là cái tương đối tạm bợ, có đó rồi mất đó, không bảo đảm chi hết. Tiền bạc chưa chắc đã bảo đảm hạnh phúc đời này huống chi là đời sau!
Xin Chúa ban cho chúng con tràn đầy ơn khôn ngoan của Chúa thánh Thần để chúng con biết tìm đến Chúa, vì Chúa là nguồn hạnh phúc thật cho mọi người.
Bên Hoa Kỳ có một bà lão ăn mày tên Mary quanh năm vất vả rảo quanh các lối ngõ để ăn xin, không kể chi đến tiết lạnh mùa đông, hay nắng cháy mùa hè, bà chỉ mặc duy nhất một chiếc áo rách, khâu trên vá dưới. Tối đến trở về sống trong chiếc lều gỗ và chỉ ăn những chiếc bánh thừa người ta bố thí cho, đau ốm không dám bỏ tiền mua thuốc. Vì quá kham khổ bà ngã bệnh mà chết trong chiếc lều gỗ tồi tàn ấy.
Nhà chức trách được tin đến nơi, họ chui vào căn lều, thấy bà đã cứng đờ nhưng tay vẫn chỉ vào góc nhà. Họ đào bới lên và tìm thấy một cái hộp dựng 127.000 dollars.
Qua câu chuyện trên ta thấy số phận bà lão kết thúc thật bi thương, cả một đời lo thu vén, tích cóp cuối cùng thì chết chỉ mang theo được hai bàn tay trắng. Ngược lại người quản lý bất lương trong bài dụ ngôn lại kết thúc rất có hậu. Ở đây chúng ta không nhìn hành động, lương lẹo của người quản lý, mà chúng ta nhìn ở sự chuẩn bị, hay nói đúng hơn là biết lo xa, biết thức tỉnh, biết lựa chọn và có một quyết tâm cao độ.
1. Thức tỉnh
Trong xứ Palestin, luật Do Thái có liên quan đến vai trò của người quản lý, thì người quản lý không phải là một nhân viên được trả công, nhưng toàn quyền thay mặc cho chủ và chủ phải tôn trọng những dịch vụ buôn bán của người quản lý, nếu viên quản lý bất trung phung phí của chủ, thì luật cũng không buộc ông phải hoàn lại. Còn trong bài dụ ngôn người quản lý biết chắc mình sẽ bị sa thải, nên ông ta đã thức tỉnh về thân phận của mình. "tôi phải làm thế nào?"... và từ đó thúc đẩy ông phải lo xa cho số phận tương lai của mình sau khi bị sa thải "tôi biết liệu thế nào sau khi mất chức quản lý". Mỗi người chúng ta cũng đang là quản lý cho Chúa. Ngài đã giao cho ta sức khỏe, tài năng, thời gian, để cho chúng ta sử dụng, nhưng ta vẫn còn đang u mê, phung phí mà quên rằng ông chủ đang sắp tính sổ, để mà tỉnh thức lo chuẩn bị cho gia sản mai sau. Thật sự không phải ai cũng biết thức tỉnh, cũng biết tích trữ cho cuộc sống mai sau, còn rất nhiều người thờ ơ cho rằng cuộc sống mình còn dài, cứ chơi mãi, cứ nhởn nhơ, nhưng họ đâu ngờ mình đang là kẻ ngu dại mà Chúa đã nói "hỡi kẻ ngu dai, đêm nay người ta đòi linh hồn ngươi, thế thì của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai" (Lc 12,20). Vậy ngay giờ phút này, mỗi người chúng ta hãy biết thức tỉnh để khi kết thúc cuộc sống chúng ta cũng có một cái kết có hậu.
2. Lựa chọn
Lựa chọn luôn là một điều khó khăn, lắm lúc làm cho người ta đau khổ, đôi khi còn phải hy sinh cả mạng sống. Vậy trước khi lựa chọn thì mỗi người chúng ta hãy đặt lên bàn cân giá trị, một bên là tiền bạc, còn một bên là Thiên Chúa, chúng ta lựa chọn thế nào? Đức Giêsu đã cho chúng ta một lời chỉ dẫn "Không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền tài được". Ở đây Đức Giêsu nói như một lời gợi ý chứ Ngài không ép buộc, lúc nào Ngài cũng để cho chúng ta có một sự tự do hoàn toàn có thể lựa chọn chỉ một trong hai. Đặc biệt qua câu nói Đức Giêsu ngầm nhân cách hóa tiền của vật chất, vì nó có sức mạnh lôi cuốn người ta như một ngẫu thần. Do đó, kiểu nói "đầy tớ" ở đây có nghĩa tế tự và vì thế đối nghịch với Thiên Chúa, tiền bạc là một ngẫu tượng và đối với người đời thì tiền bạc trở thành thần tượng. Với ý nghĩa như vậy nên Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải dứt khoát trong lựa chọn giữa Chúa và tiền bạc. Tự bản chất tiền của là không xấu, nó chỉ xấu khi chúng ta xem nó như một ông chủ, mà vô tình mình trở thành đầy tớ, nó chỉ xấu khi chúng ta tôn thờ nó, như là lẽ sống mà quên mất tha nhân, quên những người đang khốn khổ xung quanh ... đó chính là hình ảnh Thiên Chúa đang ở bên ta mà ta lại dửng dưng chỉ quan tâm đến tiền bạc.
3. Quyết tâm
Người quản lý bất lương sau khi toan tính hơn thiệt đã quyết tâm hành động ngay, và chủ khen người quản lý bất lương đã hành động khôn khéo. Thường mỗi khi nói đến của cải thì con người hay bị lưỡng lự không dám lựa chọn dứt khoát, vì họ còn xem trọng kho tàng hay hư nát hơn nước trời vĩnh cữu. Họ xem trọng vì quá tin vào cái hào nhoáng trần thế mà quên đi gia nghiệp vững bền. Tất cả mọi nguyên do là thiếu tin mà chúng ta chưa dám quả quyết trong lựa chọn. Trong thực tế, chúng ta lại quá đề cao những công việc của trần thế như chọn đi làm mà lại bỏ lễ ngày Chúa Nhật, chúng ta sợ mất việc hơn là mất Chúa. Trong khi tất cả mọi thứ từ thời gian đến vật chất, sức khỏe, tài năng là của Chúa, chúng ta chỉ là người quản lý, thay vì làm chủ nó thì chúng ta lại tôn thờ. Chính vì tôn thờ mà ta không có sự quyết đoán trong lựa chọn.
Dẫu rằng muốn tạo được một gia tài biết bao khó nhọc, vất vả, suy tính, nhưng thử hỏi có mấy tỉ phú hay triệu phú đã sống hạnh. Hơn nữa, khi chết đi thì họ đem theo được gì vào thế giới bên kia. Cuối cùng tiền bạc không phải là xấu, nhưng chúng ta phải biết sử dụng nó đúng chỗ, nó sẽ là một trợ lực tốt. Đặc biệt là biết dùng nó để sinh ích cho linh hồn.
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng của cải như một phương tiện không chỉ cho bản thân mà con biết lo cho tha nhân, nhất là biết tích trữ cho kho tàng mai sau. Amen
Tôi nghe nói anh sao đó. Hãy tính sổ vì từ nay anh không còn làm quản lý nữa.
Chúng ta nghĩ mình là chủ và muốn làm chủ nhưng là "chủ không" vì chúng ta không có gì. Đây chính là điểm chết của con ngưòi. Nếu biết nhìn nhận mình là quản lý thì không dám phung phí vì phải tính sổ. Trung tín thì dể tính sổ. "Làm sao đó" thì làm sao tính sổ đựoc. Chỉ còn cách là tính gian, tính dối như ngưòi quản lý nầy. Quen thói ăn cắp nên bây giờ tiếp tục ăn cắp. Cuốc đất không nổi, ăn mày hổ ngưoi, ăn cắp khoẻ nhất. Thế gian gọi là "khôn khéo". Ông chủ khen ngưòi nầy khôn khéo nhưng là con cái thế gian. Mỉa may! Nước Trời không chấp nhận kiểu khôn khéo nầy.
Trước hết phải nhìn nhận mọi cái chúng ta có đều là do Chúa ban cho. Chúa ban cho thì là của Chúa. Ta là quản lý. Quản lý thì phải làm theo ý chủ . Phải trung tín với chủ. Nhiều ngưòi không nhìn nhận mới khốn. Khi khốn tới thì khổ.
Thứ đến là sinh lợi chứ không dám phung phí.
Thứ nữa là đừng quên là có thể bị đuổi việc vì chủ có quyền. Còn phải tính sổ.
Câu chuyện là chuyện thế gian. Nước Trời thì sao? Không tính "khôn" như ngưòi quản lý nầy đựoc đâu. Tính sổ là phán xét đó. Mỗi ngưòi sẽ ra trước Chúa mang theo trên chính bản thân mình tất cả mọi việc lành dữ đã làm suốt đời. Việc gì mình làm thì làm thành chính hiện sinh của mình, làm thành như là da thịt của mình, không bỏ đi đâu được.Chúa thấy và mình cũng thấy tỏ tưòng như chính mình là. Là sao thì là vậy. Mình không thể khác hơn là mình là. Biết và nhìn nhận sự thật nầy là có phúc.
Làm sao? Đức Giêsu dạy rõ đây mà: hãy dùng tiền "bạc" mà mua bạn hữu để họ rước mình vào "cõi đời đời". Làm việc lành: tích luỹ kho tàng ở trên trời. Cụ thể hơn, rõ ràng hơn là cho Chúa ăn, cho Chúa uống, cho Chúa mặc, cho Chúa nhà ở, cho Chúa thuốc uống....nơi những ngưòi nghèo. Mẹ Têrêxa và tu hội Thừa sai Bác ái đang làm. Mỗi ngưòi chúng ta đều có cơ hội để làm. Ngưòi nghèo khó lúc nào cũng có gần chúng ta. Nhớ lời Đức Giêsu: Khi các con làm cho một trong những kẻ bé nhỏ là làm cho chính ta.
Chúa phán xét: Ai trung tín trong việc nhỏ, ai trung tín trong việc tiền của bất chính, ai trung tín trong tiền của kẻ khác....thì sẽ trao cho việc lớn, sẽ trao cho của chân thật, sẽ trao cho của chính mình.
Tại sao chúng ta không có nhiều? Tại sao có ngưòi có nhiều? Không nói những kẻ không tin vì họ khôn khéo theo thế gian chừng tính sổ "phán xét" mới rõ. Hãy nhìn cách giữ đạo thì biết tại sao có nhiều có ít. Một ngưòi về ở quận 12 mưòi hai năm trở về thăm. Nói việc giữ đạo nghe ngon lắm. Chúa cho con có nhà cửa tử tế. Trên đó họ giàu lắm Cha. Nó cũng giàu cho cha 5 triệu. Một ngùơì đi hành hưong Đức Mẹ La Mã về ghé thăm. Thấy mấy nhà trước nhà thờ còn lụp xụp về gởi cho năm nhà mỗi nhà 15 triệu. Họ có nhiều tiền và xài tiền như vậy đó. Và như vậy mà họ có nhiều. Họ không thờ tiền bạc. Họ làm tôi Thiên Chúa.
Không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền bạc. Tiền thì "bạc". Không lâu dài. Hãy tích luỹ những kho tàng ở trên trời nơi không trộm cắp, mối mọt. Cho thì được cho lại. Càng cho thì càng có nhiều.
Mạnh Thường Quân là quan Tể Tướng nước Tề. Ông có tài ứng xử, lịch duyệt hơn người, lại rất đức độ và nhân nghĩa. Trong nhà ông lúc nào cũng nhộn nhịp người vào ra - đó là những hiền nhân dũng sĩ, nhưng cũng có những người không có gì nỗi bật nhưng biết điều hay lẽ phải, mến mộ tài đức của Mạnh Thường Quân nên đến ở để học hỏi hoặc tình nguyện theo phò tá ông. Ông không nề hà bảo bộc tất cả. Vì vậy bổng lộc triều đình đôi khi không đủ chi phí cho việc ăn ở của. Để giải quyết vấn đề tài chính, ông đem tiền cho dân chúng vai mượn làm ăn kẻ ít người nhiều tới kỳ hạn đóng tiền lãi đều giao nộp đầy đủ. Nhiều năm trôi qua dân đất Tiết còn thiếu một món nợ lớn đã lâu không nộp nên Mạnh Thường Quân cho Phùng Nguyên đi đòi nợ. Khi đến đất Tiết Phùng Nguyên thu được hơn chục vạn từ những người làm ăn phát đạt. Nhưng ông lại đem số tiền ấy phân phát cho những ai gặp rủi ro, bất trắc, những cụ già neo đơn, cô nhi, quả phụ. Còn những ai không có khả năng trả nợ ông huỷ luôn giấy nợ. Người dân đất Tiết hết lời ca ngợi công đức của Mạnh Thường Quân. Thời gian sau, do âm mưu ly gián của nước Tần nên Mạnh Thường Quân bị vua nước Tề bãi chức phải lui về sống nhờ đất Tiết. Ngày trở về đất mẹ tuy không áo mũ cân đay, ngựa xe võng lộng nhưng Mạnh thường Quân vẫn được dân chúng nồng nhiệt đón tiếp vì cái nghĩa mà Phùng Nguyên đã "mua" cho ông ngày xưa.
Trong chúa nhật hôm nay, chúng ta nghe Đức Giêsu kể một câu chuyện gần giống như thế. Tuy nhiên, cách tính của người quản lý trong dụ ngôn của Đức Giêsu bị Ngài kết án là bất lương. Bởi hắn đã thu vén tiền bạc của chủ để làm lợi cho bản thân mình. Hắn tính toán để mai sau hắn có chỗ dung thân khi đã mất chức quản lý, khi quyền hành và cả tiền bạc không còn trong tay. Khi mang của bố làm phúc cho người dân đất Tiết, Phùng Nguyên không mong muốn chủ ông xa cơ lỡ vận để trở về đây mà hưởng nhờ. Ông làm vì lòng nhân nghĩa, vì đức thương người mà thôi. "Chúa khen người quản lý bất lương vì biết xử trí khôn khéo". Chúa ở đây có thể hiểu là ông chủ, và đúng hơn là phải hiểu về Đức Giêsu. Ngài khen không phải việc gian lận, nhưng rút bài học trong lúc bĩ. Đó là thái độ của người ta phải có khi đứng trước biến cố cứu rỗi là lời rao giảng của Chúa.
Trở lại dụ ngôn người quản lý bất lương. Tên này tham lam, gian dối. Từ chỗ làm việc bất chính, sử dụng tài sản bất công, hắn đã ra người bất nghĩa và bất tín. Người chủ giao nhiệm vụ quản lý cho hắn. Hắn lạm quyền, bớt xén để hưởng lợi tài sản không phải của mình. Dù rằng Đức Giêsu không nói rõ nhưng không ai dám chắc hắn đã không lấy trộm tiền của hay bắt chẹt con nợ để có thêm lợi tức cho mình. Hắn đã dám dạy người con nợ viết giấy nợ giảm xuống thì hắn cũng dám bắt họ viết giấy nợ tăng lên. Hắn đã phụ lòng tin tưởng của ông chủ. Ông chủ hoàn toàn không hay biết việc làm bất chính của hắn cho đến khi có ai đó dám tố giác hắn. Như thế cho thấy ông chủ tin tưởng mà không kiểm tra hắn. Chuyện bại lộ, hắn biết ngày tàn của mình đã đến. Hắn hoàn toàn không có sự thống hối, xin chủ khoan nhân và cố gắng sửa đổi bằng cách làm việc ngay chính hơn cũng như đền bù phần nào thiệt hại mà hắn đã làm cho người khác. Không. Hắn quyết đánh một mẻ cuối cùng đậm hơn để sau này hắn được vinh thân phì da nhờ vào những đồng tiền bất nhân đó. Như thế, người ta còn dám tin tưởng hắn nữa không? "Khi chút ít mà bất lương thì nhiều cũng bất lương".
Thiên Chúa cũng cho chúng ta quản lý kho tàng ân sủng của Người và Người cũng cho ta được tự do trong quyết định. Ngài không kiểm tra cũng không đứng sau lưng để canh coi thúc ép. Tuy vậy, dù thế nào thì cũng đến ngày chúng ta phải ra trước ngai toà của Ngài để trả lời cho công chuyện quản lý của mình. Ta chờ đợi gì ở ngày đó? Cuối cùng thì cũng chỉ có hai kết quả thôi. Khốn cho đầy tớ bất trung và gian trá hãy vào chốn khóc lóc đã dành sẵn cho các ngươi hay là phúc cho đầy tớ tín trung hãy vào hưởng sự vui vẻ với chủ ngươi. Điều đó phù thuộc vào những điều ta làm ngày hôm nay.Vậy ta phải làm gì? "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu hầu khi túng ngặc, họ sẽ đón ngươi vào nhà tạm muôn đời". Hãy dùng sự khôn khéo và tiền của mà Chúa đã ban để tích trữ công đức, để cố mà "mua" lấy một "miếng đất" trên thiên đàng ngay từ hôm nay. Cái khôn khéo của con cái sự sáng là tìm về sự sáng. Bôn ba, khôn lanh, cố gắng đạt cho được mọi điều nơi trần gian này mà thiệt mất linh hồn thì có ít gì?
Một người kia suốt đời chỉ biết thu gom tiền bạc chứ không chịu chi ra, nên ông ta ngày một giàu thêm. Rồi một hôm ông ta bị đau nặng sắp chết. Trước khi nhắm mắt, ông cho gọi vợ con lại bên giường và trăn trối như sau: "Khi tôi chết, bà nó hãy đem tất cả số vàng tôi đã dành dụm bấy lâu bỏ vào trong quan tài cho tôi, vì tôi sẽ cần dùng tới nó trong thế giới bên kia". Sau khi ông ta chết, vợ ông đã làm y như lời trăn trối của ông. Trên đường về thế giới bên kia phải đi ngang qua một cái chợ, ông nhà giàu ghé vào xem và thấy người ta mua bán nhiều thứ rất ngon, giống như các chợ dưới trần gian. Ông ta chỉ vào một ký thịt bò tươi và hỏi cô bán hàng giá bao nhiêu. Cô ta trả lời: "Giá một đồng". Ông nghĩ bụng: "Rẻ thật !". Ông lại quay sang hỏi nhiều món hàng khác đang bày bán chung quanh, và vật gì giá cũng chỉ một đồng. Ông nhẩm tính với số tiền mang theo khi chết ông sẽ có thể sống sung sướng trong cả ngàn năm nữa. Nhưng đến khi trả tiền để lấy hàng, ông nhà giàu bỡ ngỡ khi người bán không chịu nhận đồng tiền của ông. Cô ta nói với ông rằng: "Ở đây chỉ xài loại "tiền cho đi" mà thôi ! Còn tiền của ông là loại "tiền thu vào", không có giá trị thanh toán !" Bấy giờ ông nhà giàu rất buồn rầu và thất vọng, vì tiền của bấy lâu nay ky cóp giờ chẳng còn chút giá trị nào cả ! Qua câu chuyện trên, chúng ta rút ra bài học này: Chỉ những "đồng tiền cho đi" mới là "đồng tiền để dành" có giá trị thanh toán ở đời sau và mới thực sự đem lại hạnh phúc đời đời cho ta.
2) ÔNG ĐẠO SĨ THAM TIỀN:
Có một nhà giàu kia đã mời mấy vị đạo sĩ tới nhà lập đàn để giải trừ tai nạn. Trong số đó có một đạo sĩ tính tình tham lam, muốn một mình được hưởng trọn số tiền công của chủ nhà, nên đã nhận đứng ra bao thầu trọn gói việc lập đàn cúng bái. Sau đó ông ta một mình làm việc ngày đêm không hề ngơi nghỉ. Cứ như thế đến ngày thứ ba thì bị kiệt sức, ông ta tự nhiên bất tỉnh ngã vật ra đất. Chủ nhà sợ ông đạo sĩ chết ở nhà mình thì mang hoạ, liền thuê mấy người lao công đến khiêng ông về miếu. Đạo sĩ nghe chủ nhà trao đổi như vậy, dù đang kiệt sức nhưng ông ta vẫn cố ngước đầu lên thì thào như sau: "Ông chủ đừng mất công thuê người khiêng cáng cho tôi làm chi. Cứ đưa tiền thuê ấy cho tôi. Tôi sẽ tự bò về miếu cũng được mà !"
3. SUY NIỆM:
Nhìn vào thế giới ngày nay, chúng ta cũng thấy đầy dẫy những bất công. Có những người giầu có lối sống hưởng thụ hoang phí trong khi nhiều người nghèo ăn không đủ no, mặc không đủ ấm và thiếu các nhu cầu tối thiểu. Sở dĩ có sự giàu nghèo bất công như vậy một phần là do hoàn cảnh xã hội tạo ra, nhưng chủ yếu là do lòng tham của con người, khi người giàu chỉ biết ích kỷ lo cho bản thân mà không biết nghĩ đến những người nghèo đói bên cạnh. Qua dụ ngôn về người quản gia bất lương trong Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su muốn các môn đệ và các tín hữu chúng ta cũng phải có thái độ khôn ngoan biết nhìn xa và có những hành động phù hợp có lợi cho tương lai sau này của mình.
1)"Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ?: Người quản gia trong dụ ngôn hôm nay có nhiệm vụ điều hành mọi việc nhà của chủ và cũng có quyền đại diện chủ trong các công việc giao dịch làm ăn buôn bán. Anh ta đã lợi dụng sự tìn nhiệm của chủ để thay vì làm lợi cho chủ lại cắt xén nhiều khoản tiền của chủ để làm của riêng cho mình. Cuối cùng việc làm bất chính của người quản gia đã bị chủ phát hiện và anh ta đã bị chủ sa thải. Chủ cho gọi anh ta đến mà bảo: "Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ? Anh hãy phúc trình về công việc quản lý của anh. Vì từ nay anh không được làm quản gia nữa" (Lc 16,2).
Hằng ngày qua các phương tiện truyền thông nghe nhìn, chúng ta thấy nhiều người đã phải vào tù vì tội tham lam ăn cắp tài sản của người khác hay thâm lạm của công. Những người này không phải là người đói nghèo, trái lại là những kẻ giàu có dư ăn dư mặc. Căn bệnh của họ là lòng tham lam tiền bạc của cải bất chính.
2) "Mình sẽ làm gì đây ?": Trong hoàn cảnh sắp bị sa thải, anh quản gia đã suy tính: "Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !" (Lc 16, 3-4). "Cái khó ló cái khôn", cũng may trong thời gian tại chức vắn vỏi này, anh vẫn còn có tư cách đại diện cho ông chủ. Anh đã quyết định giảm nợ cho các con nợ của chủ: Từ Một trăm thùng dầu ô-liu, anh cho giảm nợ xuống còn năm chục; Từ một ngàn giạ lúa anh hạ xuống còn nợ tám trăm thôi (Lc 16, 5-7). Qua lối hành xử khôn khéo này, anh đã làm ơn cho các con nợ của chủ vời hy vọng họ sẽ đền ơn lại cho anh sau khi anh bị mất việc. Đức Giê-su đã khen anh ta hành động khôn khéo vì đã biết dùng tiền bạc của chủ để làm lợi cho tương lai của mình.
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè: Đức Giê-su không khen hành động gian dối ích kỷ hại nhân của người quản gia bất lương, nhưng khen thái độ khôn ngoan tiên liệu của anh ta khi biết dùng tiền của bất chính để tạo thêm bạn hữu cho mình như lời Người kết luận: "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu" (Lc 16,9); mặt khác, Ngài cũng dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền của ở đời này, hãy biến đồng tiền trở thành đày tớ, chứ đừng để nó trở thành ông chủ của chúng ta, vì: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được" (Lc 16,13). Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu.
4) Học sống Lời Chúa hôm nay:
- Lửa thử vàng: Điều Đức Giê-su muốn dạy các tín hữu chúng ta hôm nay là phải có lối hành xử công chính về tiền bạc. Người ta thường nói: «Lấy lửa thử vàng; lấy vàng thử đàn bà; và lấy đàn bà thử đàn ông». Một người không trung thực về tiền bạc không thể là một người ngay thẳng và đáng tín nhiệm. Một người được người khác nhờ cậy đi giao tiền cho người thứ ba, lại giữ số tiền ấy lại làm của riêng mình, thì không thể là một người có lòng đạo đức thực sự. Hiện nay, có nhiều người giữ địa vị cao, nhưng lại không trung thực trong việc quản lý tiền bạc của tập thể. Đức Giêsu đã đưa ra tiêu chuẩn: "Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ?". Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta rằng: Công bình là nền tảng của bác ái, và bác ái là nền tảng của một lòng đạo đức thực sự.
- Hành động khôn khéo: Nếu "con cái đời này" biết cách làm lợi cho tương lai, thì tại sao "con cái sự sáng" lại không biết sử dụng của cải Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi đời đời của mình sau này ? Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu cho mình, thì tại sao người tín hữu chúng ta lại không biết chia sẻ của cải chong qua đời này cho người nghèo khổ để mua lấy bạn hữu, để sau này chính họ sẽ đón rước chúng ta vào Nước Trời đời sau ?
- Đồng tiền cho đi: Nên nhớ rằng: Chúng ta sẽ không trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa với những đồng tiền nhận lãnh, nhưng là với những đồng tiền cho đi. Chỉ khi biết quảng đại ban phát của cải cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những người quản gia trung tín và khôn ngoan biết làm theo ý chủ. Chỉ khi biết coi tiền của là phương tiện phục vụ tha nhân, chúng ta mới chứng tỏ mình chỉ làm tôi một mình Thiên Chúa.
- Làm chủ hay đầy tớ ?: Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình: Tôi hiện làm chủ hay đang làm tôi cho đồng tiền ? Tôi làm chủ đồng tiền nếu tôi dám chia sẻ số tiền đang có cho người khác, dám cho vay mượn, dám trả lại ngay khi phát hiện ra đồng tiền không phải của mình. Nhất là khi bị mất cắp, tôi sẽ không quá đau khổ như một kẻ mất hồn, chẳng còn thiết tha làm bất cứ việc gì nữa ! Tôi đang làm đầy tớ cho đồng tiền nếu luôn nghĩ đến nó, thích mang ra nhìn ngắm và đếm đi đếm lại nhiều lần, năng đề cập đến nó trong câu chuyện và đề cao sức mạnh vạn năng của nó, tỏ ra tôn trọng nó hơn mọi điều khác, sẵn sàng làm bất cứ việc gì dù bất công miễn sao sở hữu được nó thật nhiều.
4. THẢO LUẬN:
1) Bạn có đồng ý với lời nhận định: "Đồng tiền là một người đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu" không ? 2) Hiện giờ bạn đang làm chủ hay đang làm tôi cho đồng tiền ? 3) Bạn cần làm gì để tiền bạc trở thành đầy tớ phục vụ cách đắc lực cho các nhu cầu chính đáng của bạn và của tha nhân ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay Chúa đã lưu ý chúng con về việc sử dụng tiền bạc của cải. Trước tiên Chúa dạy chúng con phải phụng thờ một mình Thiên Chúa. Chúa cấm chúng con gian lận, nhưng dạy chúng con phải khôn khéo xử dụng đồng tiền trần gian để biến thành của cải thiêng liêng có giá trị ở đời sau.
Ta thử đặt mình vào địa vị tên quản gia bất lương kia để xem mình nên làm gì hầu «sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ». Nếu không lo liệu trước, thì coi chừng chết đói, vì ngoài chức quản gia ra, anh ta chẳng biết làm gì khác để sinh sống, «cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi». Tốt nhất là nên lợi dụng ngay quyền hạn của chức quản gia mà mình còn giữ được trong thời gian ngắn ngủi một tuần hay một tháng này để lo liệu chuyện đó. Bây giờ cần phải đầu tư tình cảm nơi mọi người. Cách tốt nhất và hữu hiệu nhất để gây tình cảm là lợi dụng chức quản gia để làm ơn cho họ. Anh ta nghĩ: ông chủ có rất nhiều con nợ, mình giảm nợ cho họ tất nhiên họ phải mang ơn mình, có tình cảm với mình, nhờ đó, khi mình thất nghiệp, họ sẽ tôn trọng và giúp đỡ mình. Thế là «anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: "Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?" (6) Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu ô-liu". Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi". (7) Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?" Người ấy đáp: "Một ngàn giạ lúa". Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi"».
Như thế, anh ta đã dùng những tiền của không phải của mình để làm lợi cho mình: dùng tiền của của người khác do mình tạm thời quản lý để mua lấy tương lai cho mình về sau. Nhân câu chuyện này, Đức Giê-su khuyên chúng ta: «Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu». Điều ấy có ý nghĩa gì? Cần phải hiểu câu nói của Đức Giê-su thế nào?
2. Áp dụng sự khôn ngoan ấy vào việc lo hạnh phúc vĩnh cửu
Chúng ta ai nấy đều có một thời gian rất ngắn ngủi ở trần gian này trước khi bước vào đời sống vĩnh cửu đời sau. So với đời sống mai hậu, đời sống này rất là ngắn ngủi trong đó mọi sự đều chóng qua, giả tạm, không bền. Thật vậy, tất cả mọi sự ta đang có trong tay - trí tuệ, khôn ngoan, sức khỏe, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn, của cải, v.v... - có thể mất đi bất cứ lúc nào. Chỉ một cơn bệnh nặng hay một tai nạn ở đầu có thể làm ta mất hết trí tuệ, sức khỏe, làm ta điên loạn, không còn biết gì. Một cuộc đổi đời có thể làm ta mất hết địa vị, quyền lực và tiền bạc. Như thế tất cả những gì ta đang có trong tay, dù là tinh thần hay vật chất, đều không phải là của ta, mà chỉ để ta quản lý một thời gian thôi. Ta chỉ quản lý nó nhiều lắm là 100 năm ở đời này. 100 năm đó so với sự hiện hữu vĩnh cửu của ta thì cũng tương tự như một phút so với cả cuộc đời trần thế của ta. Tới khi chết, tất cả những của cải ta đang quản lý, dù nhiều tới đâu, cũng đều phải để lại cho người khác quản lý, và ra đi với hai bàn tay trắng. Chỉ những gì ta có được ở đời sau, mới là của ta đích thật, nó sẽ ở với ta mãi mãi.
Tuy nhiên, một điều rất lạ lùng và hết sức đáng mừng là ta có thể dùng những thứ giả tạm chóng qua mà ta đang quản lý ở đời này để tạo nên của cải đích thực và vĩnh cửu cho ta ở đời sau. Vì thế, xét về mặt này, hoàn cảnh của ta giống y hệt hoàn cảnh của viên quản lý trong dụ ngôn của Đức Giê-su. Vậy thì dại gì ta cứ giữ khư khư lấy những của giả tạm đó cho mình, mà không lợi dụng thời gian quản lý quí báu những của cải ấy để mua sắm lấy Nước Trời, tức hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của mình. Vì thế, những kẻ chỉ lo làm giàu ở đời này mà không màng đến việc lo liệu cho hạnh phúc đời sau, thì đúng là bỏ mất những cơ hội hết sức quí báu để «đổi giấy lấy tiền». Cơ hội này mất đi sẽ không bao giờ trở lại.
Người quản lý trong dụ ngôn đã dùng tiền mà mình đang quản lý để làm ơn làm phúc cho người này người nọ, nhờ đó khi không còn quản lý nữa, ông vẫn được người khác quí trọng, tiếp đón, hậu đãi. Đức Giê-su khuyên chúng ta cũng nên «dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu». Nghĩa là hãy dùng những của cải tạm bợ - tinh thần cũng như vật chất - mà Chúa trao cho ta quản lý, để sắm lấy những của cải vĩnh viễn trên trời. Bằng cách nào? bằng cách sử dụng những của cải ấy để thực hiện những hành động yêu thương: gây hạnh phúc hay làm lợi cho tha nhân, làng xóm, xứ đạo, quê hương đất nước, xã hội, Giáo Hội... Ta có thể dùng tiền của, tài năng, trí tuệ của mình - vốn giả tạm, chóng qua, nay còn mai mất - để đầu tư cho sự hạnh phúc của tha nhân, sự phát triển của xã hội, sự thánh thiện của Giáo Hội, v.v... Nhờ vậy, tự nhiên ta có một kho tàng vĩnh cửu không thể hư mất ở trên trời. Như thế chẳng phải là ta đã «đổi giấy lấy tiền», «đổi đồ giả lấy đồ thật» sao? Vậy dại gì mà không đổi?
3. Hãy trung tín trong mọi việc hằng ngày
Đã là người, ai cũng muốn mình trở thành người có giá trị, được mọi người tín nhiệm. Sự tín nhiệm và giá trị của ta một phần nào được đo bằng việc người khác có dám giao cho ta đảm trách những việc lớn lao hay không. Nhưng làm sao người khác có thể dám giao cho ta việc lớn, khi họ thấy ngay cả việc nhỏ ta cũng không chu toàn được? Đức Giê-su đã đưa ra một nguyên tắc: «Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn». Sự khôn ngoan đòi buộc người ta, khi giao việc cho ai mà muốn thành công, thì phải thử xem người ấy có đủ khả năng và đức độ để chu toàn việc ấy không. Đức độ và khả năng là hai yếu tố quan trọng để căn cứ vào đó mà tín nhiệm một người. Nói về việc thử người, trong dân gian có câu: «Lấy lửa thử vàng, lấy vàng thử đàn bà, và lấy đàn bà thử đàn ông». Tôi nghĩ câu ấy cũng rất chí lý.
Riêng tôi, theo kinh nghiệm cá nhân rất hạn hẹp của tôi thì chỉ nên tín nhiệm những ai tỏ ra trung tín trong việc sử dụng tiền bạc hoặc của cải của người khác. Và đó cũng là điều Đức Giê-su nói trong bài Tin Mừng hôm nay: «Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?» Kinh nghiệm hạn hẹp của tôi cho thấy người nào không trung tín trong chuyện tiền bạc, của cải vật chất, thì cũng thường - tôi chỉ dám nói «thường» mặc dù tôi chưa thấy có luật trừ - không trung tín hay không đáng tín nhiệm trong những chuyện khác. Còn ai trung tín trong chuyện tiền bạc, của cải vật chất, thì cũng thường trung tín hay đáng tín nhiệm trong những việc khác. Theo quan niệm của tôi, một người không giữ được sự công bằng - dù về tinh thần hay vật chất - thì cũng khó có thể là một người bác ái đích thật hay một người thánh thiện được.
Vậy, ta không nên sợ rằng mình không được tín nhiệm, mà hãy sợ rằng ta chưa có thái độ đúng đắn trong những việc nhỏ, trong sự công bằng, trong cách sử dụng tiền bạc hay của cải không phải là của mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng mọi sự con có trong tay, dù là tinh thần hay vật chất, không phải là của con mà là của Cha. Cha giao cho con quản lý chứ không phải làm chủ. Con phải sử dụng chúng theo ý Cha chứ không phải theo ý con. Xin cho con biết sử dụng những thứ Cha giao cho con quản lý để tạo nên kho tàng vĩnh viễn cho con ở trên trời. Xin cho con biết trung tín trong mọi việc nhỏ nhặt của đời sống thường ngày, để con đáng được Cha và mọi người tín nhiệm trong những việc lớn lao hơn.
Ngày 19.9.2007 trong giờ giải lao tại phiên họp của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội, báo chí có phỏng vấn bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng Bộ Thương binh Xã hội về Đề án 112. Trước đây, khi còn là Thứ trưởng Bộ Tài chính, bà đã từng là Ủy viên Ban Điều hành của Đề án 112. Vậy mà khi được phỏng vấn, bà đã trả lời một cách rất "vô tư" rằng: "Thú thật là chỉ trước khi báo chí đăng, tôi mới nhớ ra mình từng làm ở Ban Điều hành". Rồi sau đó, bà còn nói tiếp "Tôi chẳng biết gì về 112" (Mạnh Quân ghi, Chính trị - Xã hội, Thanh niên online, ngày 20.9.2007).
Dự án 112 là một dự án rất lớn. Mục tiêu của dự án này là "Tin học hóa quản lý hành chánh Nhà nước". Theo báo cáo của Ủy ban Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Quốc hội thì từ chỉ từ năm 2000 đến 9.2003, dự án này đã tiêu tốn hết 3.730 tỉ đồng của ngân sách Nhà nước, hay đúng hơn là những đồng tiền thuế của nhân dân. Và bây giờ khi dự án thất bại, cơ quan công an đang điều tra để làm rõ sai phạm, thì một người từng giữ chức Ủy viên Ban Điều hành lại nói là: "Tôi chẳng biết gì". Nghe những lời này của bà, không biết mọi người nghĩ thế nào. Còn riêng tôi, tôi cảm thấy ở đây có một sự "tắc trách", "lạnh lùng, vô cảm" đến ghê sợ. Giả sử như dự án trên thành công vang dội, không biết bà Bộ trưởng này sẽ nói thế nào, khi nhắc đến dự án này.
Người làm công tác quản lý mà không biết việc mình đảm nhận, không chu toàn bổn phận của mình, thì dù muốn hay không, cũng là một thiếu sót. Và công việc càng lớn, thì thiếu sót đó càng trở nên trầm trọng hơn. Họ sẽ bị đình chỉ công tác. Thậm chí còn bị khởi tố trước pháp luật. Tương tự như vậy, người quản lý trong bài Tin mừng hôm nay, bị chủ cho nghỉ việc cũng chỉ vì anh ta đã không làm đúng chức năng quản lý mà chủ đã giao cho anh.
Chính vì thế, trong giờ này tôi muốn được chia sẻ cùng quý OBACE một vài suy nghĩ về những bổn phận của người quản lý, bởi lẽ, xét cho cùng mỗi người chúng ta đều là một người quản lý trước mặt Thiên Chúa.
1. MỖI NGƯỜI LÀ MỘT QUẢN LÝ:
Khi nói đến hai chữ "quản lý", có thể nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng: nó chẳng liên quan gì đến mình. Hiện tại, tôi đang làm chủ. Tôi đâu có làm công cho ai, hay lệ thuộc ai đâu. Tuy nhiên, nếu nghĩ kỹ, chúng ta sẽ thấy cho dù hiện giờ hoàn cảnh sống của mỗi người đều khác nhau. Có người giàu, người nghèo. Thế nhưng, nhớ lại lúc mới chào đời, mỗi người trong chúng ta đều giống nhau. Cho dù là con vua, cháu chúa, hay là con nhà thường dân, mỗi người chúng ta đều vào đời với hai bàn tay trắng. Chúng ta chẳng đem bất cứ thứ gì vào đời. Nếu có chăng, thì đó chỉ là những tiếng khóc chào đời.
Mọi sự chúng ta có đều do nhận lãnh. Trước hết, chúng ta nhận lãnh từ nơi vòng tay yêu thương của cha mẹ một tấm khăn để bao bọc tấm thân. Rồi theo dòng thời gian, chúng ta còn tiếp tục nhận lãnh từ nơi cha mẹ công lao dưỡng dục mỗi ngày "chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm". Lớn lên, chúng ta lại tiếp tục nhận được từ nơi nhà trường và xã hội một vốn tri thức của nhân loại đã được tích góp từ hàng ngàn năm qua bao thế hệ. Và cùng với vốn tri thức nhân loại, chúng ta còn nhận được một gia sản đức tin từ bao thế hệ cha anh trong Giáo Hội để lại cho chúng ta.
Tất cả những điều đó, cho thấy tất cả những gì chúng ta có đều do người khác trao ban. Và ước mơ của những người này không gì khác hơn là chúng ta lại tiếp tục trao ban những điều đó cho những thế hệ kế tiếp. Như thế, nếu mọi sự chúng ta đều do nhận lãnh được, thì thực sự chúng ta chỉ là người quản lý, mọi sự được giao cho chúng ta không phải để chúng ta sỡ hữu một mình, nhưng là để chúng ta chia sẻ lại cho người khác.
2. LỜI MỜI GỌI CHIA SẺ:
Người quản lý tốt là người thay mặt chủ để trông coi mọi tài sản của chủ, và sử dụng chúng theo ý chủ, chứ không phải theo ý của anh ta. Đặc biệt những người quản lý khôn ngoan theo ý của Thiên Chúa là những người biết "phân phát phần thực phẩm (cho anh em) cho phải thời" (Lc 12, 42).
Do đó, trong tư cách là người quản lý, chúng ta có nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng ta là chia sẻ cho anh chị em những gì mình đã nhận lãnh. Chính vì thế, khi thấy những người đồng thời với mình sống bất công, bóc lột của người khác để làm giàu cho chính mình. Ngôn sứ Amos đã mạnh mẽ lên tiếng tố cáo: "Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp kẻ nghèo khó và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong cả nước". Và vị ngôn sứ đã chỉ rõ cách sống bất công của hạng người này: "Các ngươi bảo: "Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát". Đối với những người này, đồng tiền là trên hết. Họ giữ ngày Sabbat vì sợ phạm luật chứ không phải vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Bên ngoài họ giữ ngày Sabat, nhưng bên trong lại không muốn có ngày Sabat, vì theo luật, ngày Sabat họ không được phép buôn bán, và dĩ nhiên họ cũng không thu được lợi nhuận. Nghe những lời này, có lẽ nhiều người trong chúng ta có suy nghĩ, đúng là đồ đạo đức giả "miệng Nam mô", mà bụng thì "một bồ dao găm". Họ tìm mọi cách để tích góp cho mình, như thể họ là những người chủ, mà quên mất rằng: họ chỉ là người quản lý, chứ không phải là những ông chủ.
Thế nhưng "trông người lại nghĩ đến mình". Nhiều người trong chúng ta bình thường vẫn đi lễ ngày Chúa Nhật, nhưng chỉ cần một cơn mưa, một lời rủ rê của bạn bè, một bữa nhậu, hay có một vụ làm ăn nào đó... là chúng ta cũng dễ dàng bỏ ngay việc dâng lễ ngày Chúa Nhật. Nếu như vậy, thì chúng ta cũng đâu có gì khá hơn những người Do Thái thời ngôn sứ Amos đâu.
Trong cuộc sống đời thường, có lẽ ai trong chúng ta cũng tính toán thật kỹ lưỡng, nên làm gì, và làm như thế nào để có lợi nhiều nhất. Hơn nữa để có thể thu được lợi nhuận nhiều nhất, chúng ta có thể thức khuya, dậy sớm, làm việc vất vả không quản ngày đêm, sẵn sàng bỏ cả quê cha đất tổ để đi "tha phương cầu thực" nơi đất khách quê người.
Đành rằng, "có thực mới vực được đạo", trong thân phận của một con người mỗi người chúng ta cần phải làm việc để nuôi sống thân xác mình cùng với những người mình chịu trách nhiệm, nhưng chúng ta cũng cần ý thức rằng: sự sống thân xác không phải là tất cả. Chúng ta không thực sự làm chủ bất cứ điều gì, vì ngay cả sự sống thân xác là cột trụ cuối cùng của mình, chúng ta cũng không làm chủ được.
Do đó, để khỏi rơi vào tình trạng của người quản lý trong bài Tin mừng hôm nay, bị chủ gọi đến cho thôi việc, mỗi người chúng ta hãy chu toàn bổn phận quản lý của mình. Chúng ta hãy sử dụng thời giờ, cơ hội, phương tiện và tài năng của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Chúng ta hãy sẵn sàng chia sẻ với anh chị em những gì mà chúng ta đã được nhận lãnh từ nơi Thiên Chúa "để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch". Nhờ đó, vào ngày sau hết, chúng ta sẽ được họ "đón tiếp vào chốn an nghỉ đời đời". Amen.
Vì sao Thiên Chúa lấy danh mình mà thề những lời đanh thép như thế? Vị ngôn sứ đã cho chúng ta biết cái lý do. Đó là vì sự gian ác bất công của một số người giàu có trong xã hội nước Israel thời bấy giờ. Tính chất gian ác của sự bất công mà họ gây ra thật đáng lên án vì nạn nhân chính là những người nghèo khổ, cô thân, kém phận. Số phận của các nạn nhân này được ví không hơn gì đôi dép. "Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy đứa cùng khổ"(Am 8,6).
Đọc Thánh Kinh, đặc biệt những lời từ miệng của Con Thiên Chúa làm người, chúng ta nhận ra chân lý này: hình như Thiên Chúa dễ khoan dung về những lầm lỗi mà con người xúc phạm đến Người, nhưng Người có vẻ rất bất bình trước những điều gian ác mà con người gây ra cho nhau, nhất là cho những người nghèo hèn, thấp cổ bé phận. Nhân chuyện ông Phêrô hỏi rằng khi có người anh em xúc pham đến mình thì phải tha thứ cho họ mấy lần thì Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về "một người mắc nợ mà không có lòng thương xót (x.Mt 18,23-35).
Anh "không có lòng thương xót này" mắc nợ đức vua những mười ngàn yến vàng thế mà chỉ với hành vi sấp mình bái lạy và xin khất nợ một kỳ hạn thì đã được đức vua tha bỗng tất cả số nợ khổng lồ. Mức nặng nhẹ của một lỗi hay tội có thể tăng hay giảm tùy vào đối tượng mà hành vi lỗi tội ấy xúc phạm. Theo góc nhìn này thì quả thật mọi hành vi lỗi tội của con người xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng là Chúa Tể càn khôn, thì đều "to lớn và nặng nề" khó bề đền trả được như món nợ "mười ngàn yến vàng" minh họa. Thế mà ông vua trong câu chuyện dụ ngôn xem ra hào phóng cách khác thường. Tuy nhiên khi nghe biết chuyện cái anh "trúng số" này lại thiếu lòng thương xót với người bạn vốn mắc nợ anh ta vỏn vẹn chỉ trăm đồng, thì đức vua đã đổi ngược thái độ cách dứt khoát với anh ta và sai gia nhân bắt tống giam anh này vào ngục cho đến khi trả hết món nợ kếch xù kia.
Tình yêu thật có nhiều điều như nghịch lý. Nhiều đấng bậc mẹ cha dễ dàng bỏ qua nhưng lầm lỗi mà con cái xúc phạm đến bản thân mình nhưng dường như không thể chịu nỗi cái cảnh chúng hành khổ, đày đọa những đứa anh em, chị em kém may mắn. Sau khi xác định giới luật tình yêu là mến Chúa hết lòng hết sức hết linh hồn và yêu thương tha nhân như chính mình, thì Chúa Giêsu đã không lấy việc cầu nguyện hay dâng lễ vật vào Đền Thờ để minh họa, nhưng đã đưa ra hình ảnh người Samaritanô nhân hậu, người đã có lòng thương xót một nạn nhân đi từ Giêrusalem về Giêricô bị bọn cướp trấn lột và đánh nguy kịch, bằng cách chăm sóc giúp đỡ nạn nhân cách tận tình mà không chút tính toán thiệt hơn (x.Lc 10,25-37).
Khi nghe câu chuyện dụ ngôn về người quản gia bất lương, chắc chắn ít ai ngây thơ đến độ nghĩ rằng Chúa Giêsu dạy chúng ta bắt chước sự ranh ma của anh quản gia ăn gian tiền bạc của ông chủ. Chắc chắn sau khi biết được kế ma mãnh của anh này thì dù có chép miệng khen, nhưng rồi thế nào ông chủ cũng sẽ trừng trị anh ta đích đáng. Nội dung chính của câu chuyện dụ ngôn nằm ở câu kết luận: "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu"(Lc 16,9).
Chúng ta cần phải xác định rõ hạn từ "Tiền Của bất chính". Chắc chắn Chúa Giêsu không bao giờ dạy chúng ta sử dụng những thứ tiền của kiếm được cách bất chính, bất lương hay phi pháp. Thế thì phải hiểu như thế nào đây. Không ngại ngần để khẳng định rằng "tiền của bất chính" ở đây phải được hiểu là của cải trần gian. Hầu hết các bản dịch Kinh Thánh đều ghi là "the Mammon of unrighteousness" hay nghĩa tương đương. Nhưng cũng có một vài bản dịch dùng hạn từ "Worldly Wealth" hay "Base Wealth". Hạn từ "Mammon" nhắc nhớ chúng ta sự thật này: Khi của tiền được tôn phong lên hàng thần thánh thì chắc chắn trở thành bất chính. Chúa Kitô đã cảnh báo: "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được"(Lc 16,13). "Vai mang bị bạc kè kè, nói quấy nói quá chúng nghe rầm rầm". Khi đã đặt niềm tin vào sức mạnh của tiền bạc thì người ta dễ bị cám dỗ không chỉ lao mình vào những hành vi bất nhân thất đức mà còn bị cám dỗ tự phong thần phong thánh cho bản thân mình.
Thánh Phaolô khẳng định rằng mọi sự thuộc về chúng ta. Chúng ta thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa. Không gì hơn là hãy trả của cải vật chất về đúng vị trí của nó. Nó là của cải chứ không phải là thần tài. Biết dùng của cải, tiền bạc để làm phát triển tình tương thân tương ái là một trong những phương thế sử dụng của tiền cách hữu ích cho hạnh phúc của chúng ta hôm nay và ngày sau. Nhiều tín hữu phân trần với các vị mục tử rằng: Với chúng con, vấn đề không phải là ở chỗ sử dụng mà là ở khâu tìm kiếm tiền bạc. Đây là một vấn nạn mang tính hiện sinh. Khi của tiền đi vào bằng con đường bất chính thì sự thường nó sẽ đi ra bằng con đường bất nghĩa, bất lương. Chính vì thế sẽ không thừa nếu chúng ta tự đặt câu hỏi: Tôi tìm kiếm của tiền vì mục đích gì? (để làm gì?) và tôi đang kiếm tìm của tiền theo cách thế nào? có chính đáng, hợp pháp, công minh không? Cũng xin đừng quên xem xét cách thế sử dụng tiền bạc của chúng ta. Dù thuộc quyền sở hữu của mình nhưng nếu chúng ta sử dụng của cải cách hoang phí thì cũng lỗi đức công bình và dĩ nhiên đáng bị kết án cách nghiêm minh.
Không biết đã từ thuở nào người ta đã coi "đồng tiền là Tiên là Phật". Đồng tiền có thể thay đổi vận mạng của một đời người. Từ hèn ra sang. Từ lính quèn lên quan lớn. Đồng tiền còn có sức mạnh cải tử hoàn sinh. Từ bản án tử hình có thể trắng án vô tội. Đồng tiền còn làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham. Từ con người nết na thuỳ mỵ, trở thành kẻ sa đoạ, trụy lạc. Xem ra đồng tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem ra đồng tiền đã làm "hư bột, hư hồ". Xem ra không thể gọi đồng tiền là tiên là phật được, mà phải gọi là ma, là qủy. Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở lành. Tiên Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn giữ, bảo vệ những nét đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên Phật đâu đang tâm gây nên những xáo trộn cho nhân thế. Tiên Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có ma qủy mới làm biến chất con người. Chỉ có ma qủy mới làm cho con người tha hoá đạo đức. Chỉ có ma qủy mới làm băng hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp cao qúy của biết bao nền văn hoá nơi các dân tộc.
Thực vậy, đồng tiền luôn có một ma lực hấp dẫn con người. Nó làm cho con người "hoa mắt vì tiền". Nó mê hoặc lòng người đến mất cả tính người, và trở thành tay sai cho ma qủy gieo vãi khổ đau cho nhân thế. Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đầy đoạ lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi. Có quá nhiều kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun quén cho đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng: "Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: 'Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu...' Và Chúa đã thề rằng: 'Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng". (Am 8:4-7).
Vâng, Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực. Chính Ngài sẽ đòi lại công bằng cho những kẻ bị bóc lột và ức hiếp. Từng hành vi của kẻ gian ác đều phải trả lẽ công bằng trước toà án Tối Cao. Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt lệ cho người cùng khốn. Và chính Ngài sẽ trừng phạt những kẻ gian tham vào nơi tối tăm, ở đó chỉ còn tiếng khóc lóc và nghiến răng.
Lời nguyền dành cho kẻ gian ác được đọc lên từ thời rất xa xưa, nhưng nó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay. Bởi vì vẫn còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, để cho vay nặng lãi và làm giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm tôi cho ma qủy, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua. Vẫn còn đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Và vẫn còn đó những kẻ sợ có thêm một miệng ăn, một gánh nặng cho vợ chồng nên quyết định phá thai, giết người. Vẫn còn đó những kẻ dùng tiền để biến người khác thành hàng hoá, đồ vật để trao đổi và thoả mãn lạc thú. Đồng tiền đã và đang làm cho xã hội điêu đứng, cho tình con người trở thành thứ yếu vì "tiền là trên hết".
Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thuơng và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản của Ngài. Ngài trao cho chúng ta quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh lời cho Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa. Là người quản lý, không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới muôn nơi. Như vậy, người quản lý phải tuyệt đối trung thành với Chúa. Người quản lý không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi ma qủy. Làm tôi Thiên Chúa thì không thể để cho ma qủy dẫn dắt vào đường gian dối, tham lam và ich kỷ hưởng thụ. Cho dù có được những bổng lộc trần gian nhưng mất linh hồn thì được ích gì.
Ngày xưa, Alexandre Đại đế, một ông vua đầy uy quyền, đã truyền phải treo ở ngoài quan tài một bàn tay khô và trống trơn của ông, để nhắc nhở cho mọi người biết rằng: dù là Đại đế uy quyền, thì cũng chỉ ra đi với hai bàn tay trắng và không thể đem theo bất cứ sự gì. Đó là sự thật. Bên cạnh đó, sự sống con người không dừng lại ở cái chết. Sự sống vẫn tiếp diễn. Có khác chăng là con người không còn làm kẻ quản lý gia sản của Thiên Chúa. Con người chỉ ở một trong hai tình trạng: hưởng hạnh phúc đời đời vì một đời làm quản lý trung tín hay bị đau khổ muôn đời vì những bất trung trong đời sống dương gian. Đau khổ hay hạnh phúc đời đời tuỳ thuộc vào cuộc sống hôm nay. Thế nên, Chúa bảo chúng ta hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu Nước Trời. Hãy can đảm vượt thắng những cám dỗ của tiền tài và lạc thú. Hãy sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để gieo rắc tình yêu và hạnh phúc cho nhân thế ngõ hầu, mai sau, chính họ, những con người đã được chúng ta trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Giống như Mạnh Thường Quân năm xưa, khi ông còn tại chức, ông đã dùng quyền của mình để xoá nợ cho người nghèo, để giúp đỡ kẻ thấp hèn, đến khi ông thôi chức quan, và trở về quê hương, ông đã trở về giữa muôn tiếng reo hò của vạn dân mà ông đã từng giúp đỡ. Phải chăng đó cũng là cách hay nhất để chúng ta có được một ngày trở về nhà Cha giữa muôn tiếng reo hò của bạn hữu Nước trời? Amen
Truyện kể: Ngày xưa có tên lái buôn gian xảo dùng mạt cưa pha vào cám đem bán. Nhưng có tên bán mướp, còn gian hơn. Hắn lấy mướp đắng, giả làm dưa leo bán giá đắt hơn. Ngày kia, hai gã gặp nhau. Cả hai người tưởng hàng của nhau là thật, liền thỏa thuận đổi cám lấy dưa về dùng. Cả hai người đều hí hửng. Nhưng tới lúc xài mới hay là của giả, rõ ràng gian lại gặp tham
Sự gian manh đã len lỏi đi vào lòng người từ rất xa xưa. Với lòng gian xảo, nhiều người tham lam đã dùng đủ mọi cách để làm lợi cho mình, bất chấp sự thiệt hại của tha nhân. Tiên tri Amos đã nêu ra những thói đời xấu xa: Các ngươi bảo: "Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả (Am 8, 5). Xưa cũng như nay, xã hội nào cũng có những người xấu chuyên môn lường gạt, gian dối, lừa lọc, xảo trá và dùng nhiều thủ đoạn để vun đắp phần lợi về mình. Họ dùng những đồ giả, đồ nhái hay đồ giả mạo che mắt người khác để bán kiếm lợi lộc cách bất công. Làm ít mà muốn hưởng nhiều, của giả mà đòi bán giá thiệt.
Mỗi thời đại đều có những tệ nạn xã hội khác nhau. Nơi đâu cũng có kẻ tốt và người xấu xuất hiện. Người tiểu tâm lại khéo nói và dễ gây cảm tình. Họ dùng rất nhiều mánh khóe để tìm lợi ích cho cuộc sống riêng tư. Họ khéo xử dụng miệng lưỡi để mua chuộc nhân tâm. Amos tố cáo âm mưu của họ. Họ nói: Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát" (Am 8, 6). Đối với họ, đồng tiền là trên hết. Họ có thể dùng tiền bạc đổi chác những gì mà họ ưa thích. Của cải không còn là phương tiện, mà trở thành chủ nhân và cùng đích cuộc đời. Cũng thế, khi say mê của cải phù vân ở đời, chúng ta dễ bị lệ thuộc và làm nô lệ cho của cải. Vì sự tham lam như chiếc túi không đáy. Đã có, lại muốn có thêm. Chúng ta chẳng khi nào cảm thấy đầy đủ.
Qua bài dụ ngôn Người Quản Lý, Chúa Giêsu vạch rõ cách cư xử khôn khéo của người đời. Tin rằng đời sống sẽ không bao giờ bị bế tắc, vì không ra được cửa này và sẽ luồn qua cửa kia. Người quản lý gian tham và bất tín đã tìm ra cách gian dối để cứu vãn đời mình. Đặt lợi ích đời sống của mình trước và bất chấp sự thiệt hại cho người chủ. Anh quản lý đã sửa đổi văn tự, giảm bớt giấy nợ và lấy của chủ cho đi để gây phúc cho mình. Phải nói rằng anh quản lý đã tính toán rất khôn ranh. Lương tâm của anh trở nên chai lì không còn nhậy bén về sự công bằng và ngay thật. Khi học biết sự việc đã xảy ra, ông chủ cũng thầm cảm phục sự khéo tính toán của anh ta: Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng (Lc 16, 8).
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để dạy chúng ta bài học về sự trung tín và ngay thẳng. Dù việc tư hay công, một hành động gian dối nhỏ, cũng sẽ làm thiệt hại lòng tin tưởng. Chúa nói: Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn (Lc 16, 10). Đúng là một sự bất tín, vạn sự chẳng tin. Hình như sự gian dối cứ luẩn quẩn quanh cuộc sống của mỗi người chúng ta. Ở đời có mấy ai thoát khỏi sự dối trá, gian lận to hoặc nhỏ. Nói dối hoặc nói lối cách này hay cách khác để tránh nói sự thật. Có khi nói dối để tránh sự tò mò, vô thưởng vô phạt, không hại mình hay hại người. Người ta thường nói: Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Trẻ em thành thật hơn. Chúng ta ghi nhớ Giới răn Chúa dạy: Thứ Tám là chớ làm chứng dối.
Qua câu truyện trong dụ ngôn, Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta dùng tiền bạc cách khôn ngoan: Phần Thầy, Thầy bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời (Lc 16, 9). Tiền bạc gian dối là của cải trần đời. Tiền được lưu truyền qua tay người này tới người khác. Đồng tiền lang thang khắp chốn. Chúng ta chẳng biết tiền sạch hay dơ. Nhờ tín dụng, của cải tiền bạc có giá trị trao đổi. Tờ giấy đồng tiền có giá trị khi chúng ta biết sử dụng đúng nơi đúng chỗ. Chúng ta có thể dùng tiền bạc đời này để sắm sửa gia tài đời sau. Với ý thức, tình yêu và lòng muốn, con người giúp hoán chuyển những giá trị của cải tạm thời hư không trở thành những món qùa vô giá. Những của cải mà chúng ta dâng cúng làm phúc, làm việc bác ái và giúp đỡ kẻ khó nghèo đã trở thành gia sản quí báu ở Nước Trời.
Truyện kể: Ngày kia, một cô hội viên từ thiện chuẩn bị gõ cửa để vào quyền tiền, thì nghe bà chủ nhà cằn nhằn cô tớ gái: Chị lại đốt phí một que diêm rồi đấy. Cô hội viên thầm nghĩ có lẽ mình sẽ quyên được rất ít. Tuy vậy, cô gõ cửa và cánh cửa mở ra. Bà chủ nhà tươi cười nói: Thưa cô, chắc cô vừa nghe tôi cằn nhằn, nhưng nếu tôi không tiết kiệm từng que diêm, thì ngày nay đâu có 500 quan tiền để giúp Hội Từ Thiện.
Tiền bạc của cải gắn liền với chúng ta suốt quãng đời trần thế. Của cải chỉ buông tha khi chúng ta nhắm mắt lìa đời. Biết rằng, cho dù chúng ta có gắng công làm giầu, gom góp và tích trữ của cải thật nhiều nhưng khi ra đi, chỉ có hai bàn tay trắng chẳng mang theo được gì. Khi đó của cải của chúng ta sẽ để lại cho người khác hưởng dùng. Nên biết cuộc đời của con người là một hành trình đi về cùng đích. Khởi đi từ trần thế và lữ hành về cõi sau. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm thời đang hướng về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không thể dừng lại bám víu vào của cải phù hoa thế trần. Chúng ta cần dứt khoát chọn lựa thái độ sống để hưởng hạnh phúc. Chúa Giêsu nhắc nhở: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được" (Lc 16, 13). Dĩ nhiên, chúng ta chọn làm tôi Thiên Chúa. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, rồi mọi sự Ngài sẽ ban cho. Có Chúa, chúng ta sẽ có tất cả.
Thiên Chúa quan phòng yêu thương mọi loài thụ tạo. Kìa xem hoa qủa đồng nội, Thiên Chúa luôn chăm sóc thiên nhiên cho mưa thuận gió hòa tưới gội. Muông thú nơi rừng xanh và chim trời cá biển chẳng cần phải gieo vãi thu hoặch, Thiên Chúa vẫn nuôi chúng hằng ngày. Sự sống của con người đáng giá hơn chim sẻ bội phần. Chúng ta cần nhận biết sứ mệnh làm người rất là cao cả. Thiên Chúa an bài cho con người cuộc sống an vui đời này và hạnh phúc đời sau. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêo viết: Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý (1Tm 2, 3-4). Cùng đích của cuộc đời là lãnh nhân ơn cứu rỗi và chung hưởng hạnh phúc quê trời. Chính Chúa Giêsu đã mở lối dẫn đường. Chúng ta không thể chọn lựa con đường nào khác. Một con đường duy nhất là chọn Thiên Chúa làm chủ và làm gia nghiệp đời chúng ta. Vì chỉ có một Thiên Chúa và một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Đức Giêsu Kitô, cũng là con người (1Tm 2, 5).
Lạy Chúa, rất nhiều khi chúng con đã xả thân tìm kiếm những của cải phù vân. Chúng con bán lương tâm để gom góp những của nợ hay hư nát của trần đời. Xin cho chúng con biết tỉnh ngộ, biết buông bỏ và nhận biết chân lý. Xin Chúa dủ thương dẫn dắt chúng con đến cùng Chúa và chọn Chúa làm gia nghiệp.
Người ta dựa vào ánh sáng mặt trời để phân biệt ngày và đêm. Mây mù giầy đặc giăng kín bầu trời làm cho cảnh vật ra mờ ảo, mù mờ, cũng vẫn là ngày. Ánh trăng hoặc ánh đèn soi, sáng tỏ như ban ngày cũng vẫn là đêm, không thể là ngày. Sự phân biệt này chính xác, rõ ràng.
Con cái thế gian
Đời sống tâm linh cũng phân biệt sáng tối, phải trái, đúng sai, thiện ác. Cần phân biệt nghĩa câu con cái sự sáng, sự tối hay thế gian. Trên thực tế mọi người đều là con cái sự sáng. Thiên Chúa tạo dựng con người. Một mình Ngài có quyền ban sự sống. Sự dữ, thế gian và bóng tối không có khả năng tạo dựng vì thế chúng không có con.
Khi nói về con cái sự tối, hay con cái thế gian phải hiểu là nói về cách hành xử, tư cách, lối sống, của một người mà không nói về nguồn gốc tạo dựng của họ. Tất cả mọi người đều do Chúa dựng nên. Thế gian, sự dữ có chăng là gây ảnh hưởng xấu đến cách sống, lối suy nghĩ của họ. Họ trở nên con cái sự dữ, tối tăm, trở thành con nuôi của thế gian khi họ đối xử tệ với anh em theo phong cách phàm tục thế gian. Khi chính họ cổ võ, hỗ trợ hoặc ngầm ra lệnh cho người khác gây đau khổ, tang thương, chết chóc cho đồng loại. Làm thế họ trở thành con cái sự dữ, nô lệ cho thế gian, phục vụ sự dữ. Họ xa lìa Thiên Chúa, Đấng dựng nên họ, để bám víu, nương nhờ sức mạnh thế gian tìm nguồn vui, hạnh phúc tạm trên đời. Mọi người đó có nguồn gốc từ sự sáng, đều do Chúa dựng nên, nhưng chọn sống gian tà, lừa đảo, quỉ quyệt.
Kinh nghiệm bản thân
Ma quỉ lợi dụng con người, xúi bẩy con cái sự sáng, sống, hành xử theo lối sống của chúng. Thiên Chúa không cho phép ma quỉ tác oai, tác quái trên con cái sự sáng. Vì không thể tự làm điều muốn làm nên ma quỉ lợi dụng con cái sự sáng, dụ dỗ người nhẹ dạ, dễ tin, sống chiều theo xác thịt, tự do riêng, hành xử bất công, ngạo ngược để thực hiện quỉ kế. Ma quỉ có kinh nghiệm bản thân, chúng chiều theo tự do cá nhân phản loạn, chống lại Chúa. Chúng cám dỗ con người làm làm loạn chống lại Thiên Chúa như chúng đã làm.
Ma quỉ là kẻ cắp ngược ngạo, giỏi nguỵ biện và chuyên hứa hão huyền. Ma quỉ không làm chủ vũ trụ. Thiên Chúa làm chủ vũ trụ. Trái đất và vật chất do Chúa tạo dựng thế nhưng ma quỉ dùng của cải trần thế ban thưởng, phủ dụ con người theo chúng. Thiên Chúa để cho ma quỉ dùng của cải trần thế ban thưởng cho những ai tin, nghe chúng. Ngày nào đó Thiên Chúa lấy lại chủ quyền ma quỉ sẽ không còn gì làm quà thưởng cho kẻ tin theo chúng. Cám dỗ trở thành lời hứa suông vì không có gì để ban thưởng. Cho phép ma quỉ dùng của cải, vật chất ban thưởng để chúng thấy con cái sự sáng yêu mến Chúa hơn của cải. Có người trở mặt làm tôi vật chất, tiền của, danh vọng. Trái lại, thời nào cũng nhiều người một lòng, một dạ hết mực yêu Chúa, thương mến anh em, trung tín trong việc thờ phượng làm tôi Đấng tạo dựng nên họ đó là Thiên Chúa đất trời.
Bỏ Chúa nhận khổ đau
Chối bỏ Thiên Chúa là hành động làm phản. Kẻ làm phản yêu nhau có điều kiện kèm theo. Vì thiếu tình yêu chân chính hướng dẫn nên lời nói, việc làm của họ gieo khổ đau, tang thương cho nhân loại. Ma quỉ đứng sau giật giây, con nuôi của chúng ra tay hành động. Ma quỉ, thần dữ làm nhiệm vụ kêu gọi, dụ ngọt con cái sự sáng từ bỏ sự sáng, đường lối công chính của Chúa để chấp nhận lối sống bất nhân, bất chính, đường tà, trở nên con cái sự tối, con nuôi thế gian.
Ngụy tạo
Nhân viên làm việc trong toà nhà khổng lồ, có máy điều hoà không khí, điện đèn sáng trưng đến độ không biết nắng, mưa, bão bụi đang xảy ra bên ngoài. Thiếu nhận thức thực trạng thiên nhiên gây nên bởi điều kiện sống và làm việc. Tương tự như thế, thiếu chiều sâu đức tin, tinh thần đạo dễ lung lay do ảnh hưởng xấu, xu hướng chính trị, cộng thêm cám dỗ. Không vững về đạo lí sẽ khó phán đoán khi gặp hoàn cảnh mù mờ, đúng sai, tốt xấu, dường như trộn lẫn vàng thau. Lúc này là lúc ma quỉ gợi lòng tham, tính hiếu kì và ngay cả tự ái để con người lăn xả vào cám dỗ chúng tạo nên. Trở thành con cái thế gian, trở thành nô lệ cho dục vọng, làm tôi cho quyền lực. Giầu có về vật chất, quyền thế nhưng thâm tâm nghèo tình người, tình thương và lòng mến.
Bước đi trong ánh sáng
Để trở thành con cái sự sáng cần phải bước đi trong ánh sáng. Ánh sáng mặt trời giúp ta phân biệt ngày và đêm, giúp cơ thể khỏi vấp té. Ánh sáng này không thể chiếu soi con mắt tâm linh. Mắt tâm linh cần ánh sáng tâm linh. Ánh sáng tâm linh giúp tránh vấp té tinh thần, giúp nhận biết trắng đen, đúng sai, phải trái, điều nên làm, việc nên tránh.
Ánh sáng tâm linh chính là ơn khôn ngoan Chúa ban. Khôn ngoan nước trời khác khôn ngoan trần thế. Khôn ngoan nước trời giúp tích trữ của cải trên trời. Nơi mối mọt không hề đục khoét, của cải không hề mất. Khôn ngoan trần thế tích trữ của cải trần thế. Của cải, chức tước trần thế đến thì khó, đi lại dễ. Biết điều đó nên người làm chủ nó luôn sống trong lo âu sợ sệt. Lo âu, sợ sệt nấp bóng thúc dục hưởng thụ đi khi còn có thể; mất rồi có ước ao cũng không được. Giầu có, quyền thế ưa ăn chơi, hưởng lạc là thế.
Con cái sự sáng có thể nghèo, ít tiền, sống thanh bần nhưng lại giầu trong Chúa vì có Chúa làm gia nghiệp đời đời. Con cái sự sáng nghèo trước mắt thế gian nhưng giầu tình thương, lòng nhân ái và giầu ơn Chúa vì Ngài là nguồn mạch mọi phúc lộc, ân sủng. Giầu trong con mắt Chúa chính là giầu sự khôn ngoan nước trời, giầu bác ái, tình thương, lòng mến.
Thánh Luca thường hay dùng câu chuyện để dẫn vào một bài học. Câu chuyện là tuỳ, bài học là chính. Ở đây câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một tên quản lý bất lương. Vì là điều tuỳ, nên thánh Luca đã không quan tâm đến những chi tiết, chúng ta chỉ biết anh ta bị mang tiếng là đã phung phá sản nghiệp của chủ và bị cho nghỉ việc.
Trước cái tin bất ngờ như sét đánh này, anh đã tính toán, giảm bớt số nợ của những người đã vay mượn ông chủ, biến họ trở thành người bạn, những kẻ đồng loã, sau này sẽ giúp đỡ anh. Cư xử như vậy là bát lương đối với chủ, nhưng đó lại là sự khôn ngoan của thế gian. Chúa Giêsu khen ngợi sự khôn ngoan đó vì Ngài thấy con cái thế gian đã khôn khéo hơn con cái sự sáng. Ngài không khen ngợi việc làm của hắn, vì hắn là kẻ bất lương, nhưng Ngài phải nhận rằng hắn là một kẻ khôn khéo và mau lẹ. Ngài đau lòng khi nghĩ tới bình diện Nước Trời, người ta đã không mau lẹ và khôn khéo như vậy. Ngài đã đem ơn cứu độ đến trong lời giảng và gương sáng của Ngài, nhưng sao người ta lại hững hờ và chậm chạp quá vậy. Đó là điều đau lòng và đáng trách. Nhưng nếu muốn mau lẹ và khôn khéo đối với Nước Trời, thì chúng ta phải làm gì?
Và đây là bài học, là phần chủ yếu Chúa muốn gởi đến cho chúng ta. Thánh Luca đã không đưa ra một câu trả lời đầy đủ, vì các công việc phải làm để đón nhận Nước Trời thì nhiều và mỗi lần giảng, Chúa Giêsu lại nêu lên một góc cạnh nào đó. Điều Chúa muốn giáo huấn chúng ta hôm nay đó là vấn đề tiền bạc.
Trước hết Ngài muốn khuyên chúng ta hãy bắt chước óc sáng tạo và sự tích cực của tên quản lý mà lo lắng đến việc Nước Trời. Đồng thời cũng hãy bắt chước hắn trong việc tìm cách bảo đảm cho tương lai của mình. Hắn đã tìm cách bảo đảm tương lai đời này thì chúng ta là con cái sự sáng, cũng phải tìm cách bảo đảm tương lai ở đời sau. Vậy phải làm gì và tiền của đời này có giúp ích được gì chăng?
Dĩ nhiên là có. Hãy dùng nó mà tậu của cho mình một kho tàng ở trên trời, nơi đó không có mối mọt và trộm cướp. Ngược lại nếu chỉ dùng tiền bạc mà làm ăn ở đời này thì khốn cho kẻ ngu ngốc vì khi chết liệu có mang theo được hay không? Nhưng thế nào là dùng tiền bạc để tậu cho mình một kho tàng ở trên trời?
Của cải vật chất được ký thác cho chúng ta không phải để chúng ta giữ làm của riêng và coi đó như thần thượng để tôn thờ, nhưng để chúng ta chia sẻ với anh em, làm cho không ai còn thiếu thốn. Vậy chúng ta phải chọn lựa: Hoặc coi tiền bạc là đối tượng mình phải tìm kiếm chất chứa cho thật nhiều, hoặc coi nó như của ký thác để giúp đỡ lẫn nhau. Quan điểm trên xem tiền bạc thành thần tượng. Còn quan điểm dưới, coi nó chỉ là phương tiện xây dựng hạnh phúc chung cho mọi người.
Như thế qua dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đi từ bình diện trần gian sang bình diện Nước Trời. Ngài nói đến sự khôn khéo của con cái thế gian mà thúc giục con cái sự sáng hãy lanh lẹ hơn đối với công việc thiêng liêng. Chúa không chấp nhận thái độ tham lam tiền bạc, biến tiền bạc nên thần tượng, ngược lại Ngài muốn chúng ta dùng tiền bạc để chia sẻ và giúp đỡ kẻ khác. Thái độ trước coi tiền bạc là một thứ tôn giáo, quan điểm sau nhờ tôn giáo mà chúng ta thấy cần phải chia sẻ mọi sự với mọi người.
Tin mừng Chúa Nhật 25 Thường Niên C là dụ ngôn về người quản lý bất lương, bị ông chủ đòi tính sổ và không còn được làm quản lý nữa. Nhưng người quản lý này đã khôn ngoan và táo bạo để toan tính cho tương lai sắp tới của mình: gọi các con nợ đến và giảm nợ. Ông chủ đã khen ngợi hành vi đó. Tiếp đến, Đức Giêsu đưa ra những lời khuyên thực tế về việc sử dụng tiền bạc thế nào cho đúng: để mưu cầu hạnh phúc đời đời.
Đức Giêsu luôn gây những điều bất ngờ và nghịch lý. Những dụ ngôn "nghịch lý" như: Vị quan tòa bất chính (Lc 18,1-8), Người phú hộ ngốc nghếch (Lc 12,16-21), Người tá điền sát nhân (Mt 21,33-43)... đã minh chứng điều này. Dường như Đức Giêsu nhận ra những yếu đuối, thiếu sót và cả những "hào nhoáng" trong những nhân vật được xem là đáng kính trọng? Dường như có một chút hài hước và cay đắng đối với những người được xem là "đạo đức"? Điều này xem ra làm cho những người nghe Người bị sửng sốt. Thực vậy, khi đến trần gian, Đức Giêsu thường "bầu bạn" với những người tội lỗi. Người đến để cứu vớt những người tội lỗi. Như Thiên Chúa đã sáng tạo con người bằng bụi đất, và khi làm như thế Người chẳng sợ "dơ tay", thì Đức Giêsu sẽ tái tạo nên một nhân loại sáng ngời, mới mẻ từ giữa những người tội lỗi. Điều này thể hiện lòng nhân từ của vị Thiên Chúa đến với con người.
Nhưng nhất là trong hoàn cảnh quyết liệt và bi đát, lòng nhân từ này vẫn rộng mở và gây nhiều ngạc nhiên. Dụ ngôn người quản lý bất lương là một tiêu biểu.
Người quản lý trong dụ ngôn này gây ngạc nhiên cho chúng ta, bởi lẽ anh ta bất lương, không trung thực trong việc quản lý của mình. Anh ta đã phải nhận lấy thảm họa cho chính mình. Anh đã biết sử dụng những "mánh khóe" và những quyết định tức thời để toan tính cho tương lai của mình trong một hoàn cảnh bi đát như thế. Điều ngạc nhiên hơn nữa là ông chủ đã khen ngợi cách hành xử của người quản lý này. Ông chủ đã thể hiện lòng nhân từ vượt quá lẽ thường tình. Theo lẽ thường, ông chủ sẽ tức giận, và không đồng ý lối giải quyết của người quản lý bất lương như trong câu chuyện.
Như thế, khi chúng ta phải đương đầu với những hoàn cảnh bi đát, bị loại trừ, chúng ta hãy dám hành xử một cách "táo bạo" và "sáng suốt" để mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu cho mình, như người quản lý đã làm.
Lối hành xử táo bạo và sáng suốt này nghĩa là sao? Là dám tin tưởng vào lòng nhân từ vượt quá lẽ bình thường của Thiên Chúa. Là nghĩ đến tương lai và mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chính mình. Là luôn hy vọng và cậy trông dù trong hoàn cảnh bi đát nhất.
Những lời giáo huấn của Đức Giêsu về cách sử dụng tiền bạc: "Tiền bạc là một ông chủ xấu, nhưng lại là một đày tớ tốt". Tiền bạc được nói ở đây được xem như là đại diện những thực tại trần thế vốn chẳng tốt cũng như chẳng xấu; nó tốt hay xấu là tùy người sử dụng.
Người kitô hữu không "từ chối" tiền bạc nhưng biết cách "từ chối" phục vụ chúng, coi chúng như là một ông chủ. Chỉ có một đời sống nhưng với hai phương diện khác nhau: một là trong tương quan với Thiên Chúa hoặc đời sống tâm linh (cầu nguyện cá nhân, tham dự thánh lễ...), và một là trong tương quan với đời sống thường ngày (công ăn việc làm, nghỉ ngơi, giải trí...). Nhưng hai đời sống này (tâm linh và thường ngày) chỉ là một, chúng tác động lẫn nhau. Điều quan trọng là cách thế hành xử đặt Thiên Chúa lên trên hết, là định đúng bậc thang giá trị của mọi thực tại trần thế.
Như thế người kitô hữu tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng thời cũng "táo bạo" và "sáng suốt" để đạt cho được hạnh phúc vĩnh cửu. Hơn nữa, tìm kiếm Nước Thiên Chúa nhưng không xao lãng việc xây dựng xã hội trần thế.
Lạy Chúa Giêsu, Người là Đấng Cứu thế khoan dung và nhân từ. Là ánh sáng chiếu vào đêm tối chúng con. Là bạn của con người. Chúa không chê ghét một ai. Trái tim Người không khép kín trước những toan tính ích kỷ của con người. Xin cho chúng con tình yêu, lòng thương xót và dịu hiền của Chúa.
Tại Trung Hoa vào thời chiến quốc có ông Phùng Huyên giúp việc cho ông Mạnh Thường Quân là tướng của nước Tề.
Một hôm, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên qua đất Tiết để thu các món nợ. Trước khi Phùng Huyên ra đi, Mạnh Thường Quân dặn: “Xem trong nhà còn thiếu gì thì cứ mua về”.
Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất cả những con nợ của chủ đến và tuyên bố: “Mạnh Thường Quân ra lệnh xoá bỏ tất cả sổ nợ!”. Sau đó, ông ta đốt hết giấy nợ. Những người thiếu nợ và toàn dân đất Tiết vui mừng tung hô vạn tuế Mạnh Thường Quân.
Khi về nhà, Phùng Huyên tường trình công việc với Mạnh Thường Quân: “Khi đi, tướng quân bảo tôi mua những gì trong nhà còn thiếu. Tôi nghĩ trong nhà tướng quân dư thừa của cải, không thiếu vật gì cả, chỉ thiếu “điều nghĩa”, nên tôi trộm lệnh mua điều nghĩa đem về. Mạnh Thường Quân ngạc nhiên hỏi: “Mua điều nghĩa là thế nào?”. Họ Phùng đáp: “Tôi tha cho tất cả các con nợ, đốt các văn khế, dân chúng vui mừng tung hô tướng quân, đó là tôi mua điều nghĩa cho tướng quân vậy”.
Năm sau, vua Tề không dùng Mạnh Thường Quân nữa, ông lui về đất Tiết ở. Toàn dân nghe tin, liền ra đón rước và hoan hô ông nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh Thường Quân quay sang Phùng Huyên nói: “Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, ngày nay tôi mới trông thấy”.
Câu chuyện ông Mạnh Thường Quân mua “điều nghĩa” làm nổi bật lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.
Chúa kể dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” để giải thích lời dạy đó của Ngài.
Vì thâm lạm tài sản của chủ nên người quản lý đã bị ông chủ cho nghỉ việc. Anh ta đã nghĩ ra cách để có một cuộc sống an nhàn sung sướng sau khi mất việc: anh ta đã lén chủ giảm số nợ của những người mắc nợ để dùng tiền bạc của chủ mà mua lấy ân nghĩa và bạn bè.
Chúa Giêsu khen ngợi người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo. Thật ra, qua dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” Chúa Giêsu có ý dạy hai điều:
a) Hãy dùng tiền bạc trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu.
Trong thời buổi “kinh tế thị trường” hôm nay, người ta rất chú trọng đến việc “đầu tư” nghĩa là bỏ vốn để sinh lời. Đồng tiền được “xoay vòng” là đồng tiền sinh lợi nhuận. Đó là định luật của kinh tế. Vì thế, nếu biết tính toán khôn ngoan thì nhờ vốn liếng bỏ ra, người ta có thể trở nên giàu có. Cũng vậy, với “định luật Nước Trời”, người ta có thể dùng của cải trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Nghĩa là, người ta có thể dùng tiền bạc phi nghĩa ở đời này để mua lấy kho tàng hạnh phúc Nước Trời. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể mua được hạnh phúc Nước Trời bằng những “đồng bạc biết cho đi”. Chúa ban cho chúng ta của cải đời này dùng làm phương tiện giúp ta nên thánh và chia sẻ cho tha nhân. Hơn nữa, tiền bạc của cải không phải là cứu cách cuộc đời chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là gia nghiệp mà chúng ta hướng tới như cùng đích cuộc đời mình, như lời Chúa dạy: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”.
b) Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn.
Người quản lý trong dụ ngôn hôm nay tỏ ra là người khôn ngoan. Anh ta đã ranh mãnh trong việc dùng tiền bạc của chủ để mua lấy một tương lai an nhàn sung sướng. Thật ra, anh ta “khôn” nhưng không “ngoan”, vì anh ta đã làm một việc gian dối để thu lợi một cách bất chính cho mình. Có lẽ vì anh ta đã “không trung tín trong việc nhỏ nên cũng không trung tín trong việc lớn”, vì vậy anh ta đã bị chủ đuổi việc. Sau này, nếu anh ta cứ sống trong sự gian dối và bất trung, anh ta cũng không thể tìm được hạnh phúc chân thật.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để trở thành người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Chúa đã trao cho chúng ta biết bao ân huệ để chúng ta biết sinh lợi cho phần rỗi đời mình, cũng như làm lợi cho anh em. Nếu chúng ta biết quản lý cuộc đời mình một cách trung thành và xứng đáng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trao cho kho tàng hạnh phúc vĩnh cửu. Nếu chúng ta trở thành một người quản lý bất trung, chúng ta sẽ đánh mất chính mình và anh em. Nhưng “cái mất” lớn nhất là “đánh mất Thiên Chúa” là cội nguồn của niềm hạnh phúc mà ta hằng khát khao.
Trong bài đọc I, tiên tri Amos đã mạnh mẽ lên án tội lỗi của những người giàu: vì mải mê kiếm tiền nên họ bỏ bê những bổn phận đạo đức, gian lận “giảm đấu đong, tăng giá và làm cân giả”, thậm chí bóc lột cả người nghèo.
Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay chúng ta biết đồng cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ và tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn và tranh chấp, nhưng biết xây dựng hòa bình (bài đọc II, trích thư gửi Timôthêô).
Vào một đêm giông bão, có hai vợ chồng đã lớn tuổi đến một khách sạn ở vùng Philadelphia, nước Mỹ để thuê phòng trọ qua đêm. Nhưng đáng tiếc, khách sạn hết phòng. Cảm thương hai vợ chồng không có chỗ nghỉ đêm trong một đêm mưa gió như thế, người quản lý khách sạn nói:
- Tôi sẽ nhường phòng của tôi cho ông bà. - Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu? - Đừng lo cho tôi, tôi có thể kiếm được chỗ.
Sáng hôm sau lúc trả tiền phòng, người chồng nói với viên quản lý:
- Quả thật, anh xứng đáng làm chủ một khách sạn lớn nhất nước Mỹ! Hai năm sau, người quản lý nhận được một bức thư kèm theo một vé máy bay đi New York và một tấm danh thiếp của ông khách trọ hai năm trước.
Đến New York, người quản lý được ông khách trọ dẫn đến đại lộ số 5, đường 34, chỉ một tòa nhà cao tầng nguy nga đồ sộ mới xây và nói:
- Đây là khách sạn tôi tặng cho anh.
Ông khách trọ đó chính là tỷ phú William Wadorf Astoria. Ông đã thực hiện lời đã hứa trước đó 2 năm.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa đặt làm quản lý trong cuộc sống. Nếu chúng ta trung tín gìn giữ cuộc đời mình trong ơn thánh Chúa và biết chia sẻ những ân huệ Chúa ban cho tha nhân, chúng ta sẽ làm giàu cho chính mình trong cuộc sống mai sau.
Người quản lý trong Tin Mừng hôm nay, khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, nên anh nghĩ ra một diệu kế: Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị đuổi việc, những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.
Hành động khôn khéo nầy cũng đã được một người khác thực hiện và đã được ghi lại trong sách xưa như sau:
Thời Chiến Quốc, tại Nước Tề có một vị tướng quốc tài hoa lỗi lạc là Mạnh Thường Quân. Ông là người giàu có, lại có lòng nghĩa hiệp, hào phóng với hết mọi người. Trong nhà lúc nào cũng tấp nập khách thập phương thăm viếng, chuyện trò, ăn uống. Danh tiếng Mạnh Thường Quân vang khắp các lân bang thời ấy.
Một hôm, Mạnh Thường Quân sai một người bạn tên là Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi lên đường, Phùng Nguyên hỏi Mạnh Thường Quân rằng: "Ngài có muốn tôi mua thứ gì bên đó về cho ngài không?" Mạnh Thường Quân trả lời: "Ngươi xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua." Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên triệu tập các con nợ của Mạnh Thường Quân lại và yêu cầu họ xuất trình giấy nợ. Sau khi nắm được số liệu giấy tờ, thay vì đòi họ thanh toán hết tiền gốc tiền lãi, Phùng Nguyên nhân danh Mạnh Thường Quân tuyên bố tha hết nợ cho dân và truyền cho các đầy tớ đem tất cả giấy nợ ra đốt sạch.
Thế là trong phút chốc, bao nhiêu nợ nần xưa nay biến tan theo làn khói; tất cả các con nợ thở phào nhẹ nhõm và ghi tâm khắc cốt ân đức của Mạnh Thường Quân.
Mấy hôm sau, thấy Phùng Nguyên trở về tay không, Mạnh Thường Quân hỏi: “Nhà ngươi đã thu được bao nhiêu tiền nợ? Đã mua được thứ gì?” Phùng Nguyên trả lời: "Theo thiển ý của tôi thì trong nhà của ngài chẳng thiếu gì cả, có chăng là thiếu ơn nghĩa dành cho người túng cực mà thôi. Chính vì thế, tôi đã trộm phép ngài để mua ơn nghĩa cho ngài. Tôi hy vọng là ngài sẽ rất hài lòng".
Về sau, Mạnh Thường Quân bị hàm oan và bị bãi quan, phải về nương náu tại đất Tiết. Dân chúng nơi đây nhớ ơn vị đại ân nhân đã tha nợ cho họ năm xưa, rủ nhau ra đón rước thật tưng bừng và thân mật. Mạnh Thường Quân vui sướng quay lại nói với Phùng Nguyên: "Nhà ngươi xem, chắc hẳn đây là cái ơn nghĩa mà trước đây nhà ngươi đã mua giùm cho ta!"
Dù hôm nay tôi cố hết sức bám trụ vào mặt đất nầy bằng cách củng cố thật vững địa vị của tôi, nắm ghì thật chặt chiếc ghế của tôi, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn… thì mai đây, tôi cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ…
Tất cả những gì tôi mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì tôi đang sở hữu sẽ thuộc về người khác… Còn lại gì cho tôi?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy phải lấy của cải phù du để đổi lấy tài sản muôn đời và biết tận dụng những gì hiện có để mua sắm cho mình một nơi cư ngụ vĩnh cửu trên thiên quốc. Cụ thể là hãy dùng những ân huệ Chúa ban như sức khoẻ, thời giờ, tài năng, trí tuệ, tiền bạc… để mua nghĩa, mua bè bạn, mua lấy một chỗ ở trong Nước Trời.
Người tôi tớ bất lương trong Tin Mừng hôm nay quả là rất khôn ngoan khi biết lợi dụng tài sản mà anh được người chủ trao cho quản lý tạm thời để mua lấy bạn hữu và mua lấy nơi ăn chốn ở cho mình trong những ngày khốn đốn.
Phùng Nguyên cũng đã rất khôn khéo khi dùng tiền bạc của Mạnh Thường Quân để mua ơn, mua nghĩa cho bạn của mình, nhờ đó mà sau nầy ông cùng Mạnh Thường Quân được hưởng phúc trong lúc sa cơ.
Phúc thay cho những người có tầm nhìn xa. Họ như thuyền trưởng phát hiện được tảng băng từ xa, nên có đủ thời giờ quay mũi tàu thoát hiểm. Họ như người săn tìm ngọc quý, bán đi những gì tầm thường mình có để mua cho bằng được một viên ngọc tuyệt vời.
Lạy Chúa, xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức chúng con khỏi mê đắm những thứ phù phiếm đời nầy và biết khôn ngoan đánh đổi những thứ phù du để thu về những điều vĩnh cửu.
Tháng 10 năm 1990, ông Nhêbôisa Bôtrêvích, nhà tiên tri nổi tiếng gốc Nam Tư, người đã tiên báo bức tường Bá Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất, trong cuộc gặp mặt tại nhà văn hóa Liên Xô, đã buồn rầu thông báo: chẳng bao lâu nữa, trên thế giới sẽ xuất hiện một căn bệnh nguy hiểm được truyền qua những tờ giấy bạc (x. Sáng Tạo số 44, tháng 10 năm 1990).
Nghe lời thông báo ấy, thú thật ban đầu tôi không tin. Ba láp! Nhưng khi tổng hợp những sự kiện nước ngoài: Tỷ phú Max Well chết đột ngột trên du thuyền để lại món nợ bất minh hàng triệu đô la; hàng loạt chính khách Nhật Bản rớt đài vì dính líu làm ăn với những công ty đa quốc gia; quan tòa Ý Falcon bị sát hại, tôi nghĩ có thể có một căn bệnh nguy hiểm truyền qua tiền bạc. Rồi nối kết với một vài sự kiện gần đây trong nước: đường giây sextour Bambi bị đem ra ánh sáng và băng cướp “quý tử” bị hầu tòa, tôi nghiệm ra ra thật có một căn bệnh như thế. Để rồi hôm nay tiếp cận với Phúc Âm, khi Thiên Chúa không chấp nhận cho kẻ tin đặt Ngài đứng chung liên danh với tiền bạc, xin được chia sẻ về dấu vết của căn bệnh ấy. Phần gọi tên xin nhường cho cộng đoàn. Chỉ biết rằng một khi mắc phải căn bệnh ấy người ta khinh thường tất cả: phá đổ đạo đức, khai trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và đó là căn bệnh nguy hiểm cho lòng tin tín hữu. Có ba dấu vết:
1. Dấu vết thứ nhất được nhận ra trong thái độ cần tiền.
Tiền bạc vốn lạnh lùng. “lạnh như tiền”. Tiền chẳng quen ai, nhưng ai cũng quen tiền: trẻ khóc đòi dòng sữa mẹ, nhưng được người lớn dỗ dành dúi vào tay một tờ giấy bạc, lâu ngày thành quen, để sau này mỗi lần khóc lại thích nhận lấy tờ giấy bạc thay cho nỗi sầu nhớ mẹ. Một người nhà quê chẳng biết chữ nhưng trong sinh hoạt hằng ngày đố ai thấy bác tính toán sai một đồng.
Tiền chẳng có tình cảm, nhưng không thiếu những tình cảm với tiền: được tiền thì vui cười hỉ hả, mất tiền thì rầu rĩ xót xa. Ngày tết lì xì tiền thay cho phước thọ và ngày cưới, mừng tiền thế cho tình thân. Dù Tết hay Cưới, người ta đều chúc: “Tiền vô như nước sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin”.
Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền: chưa sinh ra đã cần tiền để mẹ tròn con vuông và chết rồi vẫn cần tiền để ma chay tốt đời đẹp đạo. Trẻ cần tiền ăn học, lớn cần tiền để gầy dựng sự nghiệp và già cần tiền để dưỡng thân. Đời cần tiền để phát triển nhưng đạo cũng cần tiền để xây dựng mở mang.
Tiền cần nên tiền quý. Người làm ra tiền là người giỏi, nghề hái ra tiền là nghề trọng, người có nhiều tiền được nể vì. Cứ như thế đồng tiền ung dung đi vào tư tưởng lời nói và việc làm của con người. Tình trạng cần tiền lâu ngày ủ mầm có thể dẫn đến nguy cơ lệch lạc trong cách nhìn con người và sự việc, nhất là lẫn lộn giữa sở hữu và hiện hữu, giữa tài sản và con người. Người ta tay không có thể bình đẳng, nhưng đồng tiền đặt lên ai thì cán cân nghiêng về người ấy. Đáng giá trị rốt cuộc là đấu giá cả. Và nguy hiểm là ở chỗ đó.
Sáng nay quan sát thiếu nhi sinh hoạt, thấy có một đội không chơi, hỏi ra mới biết đội đó không chơi chỉ vì thiếu vắng một em đóng tiền nhiều nhất.
2. Dấu vết thứ hai được nhận ra trong thái độ kiếm tiền.
Đối với nhiều người, kiếm tiền là một trách nhiệm thuộc bậc sống, bởi lẽ có tiền mới trang trải được những nhu cầu cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng vấn đề không phải là kiếm tiền mà là cách kiếm tiền.
Kiếm tiền bằng lao động chân tay trí óc, đó là điều chính đáng, nhưng quá lo lắng đến kiếm tiền để rồi quên đi những trách vụ khác trong đạo làm người và làm con Chúa thì ở đó căn bệnh đã xuất hiện ở dạng cấp tính có nguy cơ gây thiệt hại cho chính bản thân và cho những người lân cận.
Kiếm tiền bằng thù lao phù hợp với công sức bỏ ra thì đó là lương thiện. Nhưng kiếm tiền bằng cách chỉ đuổi theo tiền mà không biết đến giá trị đạo đức nào khác, hoặc tự động chấp nhận “thủ tục đầu tiên”, hay “quà biếu trên mức tình cảm” của một thứ lương đồng nghĩa với sự đút lót hoặc chủ động vi phạm lẽ công bình như làm hàng giả thuốc giả “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi” của một thứ kinh tế mánh mung, thì ở đó căn bệnh đã phát triển ở dạng mãn tính chẳng những gây thiệt hại mà còn chà đạp lên tiếng nói lương tâm khi ăn trên mồ hôi nước mắt kẻ khác. Lúc đó lương tâm nhẹ hơn lương lậu, lương thiện nhỏ hơn lương tiền và lương tri phải nhường cho lương bổng lên ngôi. Thiên Chúa ư? Ngài đi chỗ khác chơi, để yên cho tôi làm giàu!
Kiếm tiền để sống là đẹp, nhưng thật thảm hại khi sống chỉ để kiếm tiền. Đồng tiền ở đấy đã xuất hiện là một căn bệnh nguy hiểm. Thảo nào người ta vẫn bảo “tiền bạc” là đồng tiền đi liền với bạc bẽo.
Ở đây xin nhường lời cho cụ ông trước kia giàu nứt đố đổ vách, giờ gặp cảnh khố rách áo ôm quyền chia sẻ kinh nghiệm: “Khi còn trẻ người ta sẵn sàng phí sức khỏe để kiếm tiền, nhưng khi về già người ta lại sẵn sàng phí tiền để tìm lại sức khỏe”. Mà nào có được đâu! Mời suy nghĩ.
3. Dấu vết thứ ba được nhận ra trong thái độ xài tiền.
Cần tiền – kiếm tiền – xài tiền. Không có gì đáng nói nếu chỉ có thế. Nhưng một khi xem tiền như một phương tiện vạn năng “có tiền mua tiên cũng được” lâu ngày sẽ trở thành di căn. Hoặc trong lối sống ghẻ lạnh với những giá trị đạo đức để rồi hóa giá tất cả: phẩm giá, lẽ phải, tình thương, nhân tính… Lối sống ấy chỉ có câu hỏi “bao nhiêu?”. Ngoài ra chấm hết. Không lạ gì đồng tiền gây nên tệ hại theo kiểu nói “tiền tệ”. Hoặc trong niềm tin dẫn tới hậu quả xem thường đạo giáo buôn thần bán thánh và hạ bệ Thiên Chúa, để tôn sùng tiền bạc làm thượng đế của mình như một câu vè truyền miệng đó đây: “Tiền là tiên là Phật, tiền là sức bật con người, tiền là nụ cười tuổi trẻ, tiền là sức khỏe người già, tiền là cái đà danh vọng, tiền là chiếc lọng che thân, tiền là cán công công lý. Hết ý!”
Vẫn biết “đồng tiền đi liền khúc ruột” theo kinh nghiệm của các bậc tiền bối là một lời dạy khôn ngoan rất gần với sự tiết kiệm vốn phải có cho mọi kẻ giữ tiền. Nhưng khi cẩn trọng quá hóa keo kiệt trong những tiêu pha, đến nỗi không dám bỏ ra một đồng cho nhu cầu vật chất hay tinh thần thì xem ra đồng tiền lúc ấy đã “làm phiền” khúc ruột không ít. Hoặc khi cẩn trọng quá hóa bịn rịn trong thái độ đối với tiền như “ra đường chắt bóp tiêu pha, về nhà ngây ngất lăn ra đếm tiền” thì chừng như đã để đồng tiền “xích xiềng” khúc ruột mà không ai biết.
Ngược với thái độ cẩn trọng là một sự hoang phí tiêu xài vung vít. Khi vung vít nhẹ là khi “vung tay quá trán” con nhà lính tính nhà quan làm một xài hai. Khi vung vít nặng là khi “vung tiền qua cửa sổ” dấu hiệu của sự vô độ tiêu xài. Rồi khi để cho đồng tiền len lỏi vào trong tính toán hằng ngày và giấc ngủ hằng đêm theo kiểu lên sàn thị trường chứng khoán ngợp choáng thời giờ thì lúc ấy khúc ruột đã nuốt trửng đồng tiền và hậu quả duy nhất chính là đồng tiền “xay nghiền” khúc ruột.
Làm sao tín hữu có thể dung hòa lòng tin với những sinh hoạt vốn liên hệ đến tiền? Thưa dựa trên Phúc Âm chỉ cần một chữ Tín. Nếu giàu, hãy tín trung với Thiên Chúa để biết xài tiền phù hợp với bác ái, vì tiền là một đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu. Nếu nghèo, hãy tín thác nơi Thiên Chúa để từng ngày kiếm tiền mà không vi phạm công bình, vì chỉ để một đồng xu trên mắt thôi cũng đủ bị che chắn hết tầm nhìn hướng thượng. Và dẫu giàu hoặc nghèo, hãy tín nghĩa để gần tiền mà chẳng hôi hám mùi tiền. Tiền bạc như dòng nước, nếu không cẩn thận người ta có thể bị cuốn trôi . Chữ TÍN ấy là thuốc chủng ngừa căn bệnh nguy hiểm mà Bôtrêvích đã tiên báo.
Đề tài về “tiền của” là đề tài dễ “bàn luận” nhất, vì đó là thứ gần gũi nhất đối với con người. Người ta gọi những người thân yêu là “bà con ruột thịt”, đồng thời người ta cũng thường nói “đồng tiền đi liền khúc ruột”, xem thế, ta thấy đồng tiền có quan hệ “máu mủ” với con người đến mức nào!
Cái gì người ta càng cần đến, thì cái đó càng quan trọng. Cái gì càng quan trọng thì cái đó càng được nhiều người muốn sở hữu. Cái gì càng có nhiều người muốn sở hữu thì cái đó càng quý. Người nào sở hữu nhiều thứ đồ quý , thì đó là dấu hiệu người đó giàu có. Người đó có sức mạnh. “Miệng người sang có gang có thép”.
Tiền là rất cần. Giới trẻ có những câu định nghĩa “tóm gọn sức mạnh đồng tiền” nghe vui vui, tỉ như: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật lò xo, là thước đo lòng người, là nụ cười tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý, tiền là… hết ý !”.
Tiền là rất cần, nên người ta phải tìm cách có tiền. Không có cách làm ra tiền, thì làm ra tiền bằng mọi cách!
Vấn đề là chính là ở chỗ này! – Làm ra đồng tiền bằng mọi cách, không trừ những cách bất chính!- “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’” (Lc.16,1-2).
Biết bao người đã vấp ngã vì đồng tiền. Để có được đồng tiền, nhiều người đã đánh đổi cả danh dự, nhân phẩm, và cả niềm tin thiêng liêng nữa.
Họ trở thành nô lệ của Đồng Tiền! Hơn thế nữa, họ thờ Tiền! Họ bị Đồng Tiền trói buộc!
Những cách làm ra tiền bất chính thì rất đa dạng, muôn thứ. Có cái sờ sờ ra trước mắt, như ăn trộm, ăn cướp, mua gian bán lận… nhưng có thứ tinh vi, khó mà biết - nhưng muốn biết cũng không khó - nhiều khi vì lý do này, lý do kia, người ta không muốn biết, hay chưa nên biết, như: tham nhũng, lương lẹo, móc ngoặc, cắt xén công quỹ…
Trong Cổ Học Tinh Hoa có kể câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được”. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắn:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
ĐỒNG TIỀN ĐI
Tích trữ nhiều tiền của thì phải có mục đích. Mục đích phổ thông nhất là “hưởng thụ”. Trong Tin Mừng, chúng ta gặp rất nhiều ông Phú hộ sống kiểu “hồn ta hỡi … vui chơi cho đã”. (Lc.12,16-21; 16,19-31).
Trong đời thường, chúng ta càng thấy rõ hơn nữa. Những nơi giàu có, mức độ hưởng thụ “ăn chơi” càng “cao cấp”, càng “sang trọng”, và thú vui chơi thể hiện thiên hình vạn trạng và cực kỳ tốn kém.
Sự hưởng thụ nếu không có ánh sáng Tin Mừng soi dẫn, sẽ đi dần đến mức sa đọa, khi mục đích của nó là thỏa mãn những niềm vui nhất thời và vật chất. Hạnh phúc lúc bấy giờ chỉ giới hạn trong những thứ vui chơi thỏa mãn khuynh hướng tầm thường, và chỉ còn là niềm vui của riêng mình. Sự ích kỷ sẽ đưa con người đến vô trách nhiệm với tha nhân và trở nên độc ác.
Thường tình người ta vẫn nghĩ cuộc sống cần phải vươn lên, và vì thế, người ta có quyền hưởng thụ ở mức độ cao nhất như có thể, miễn là người ta làm ăn chính đáng, không hãm hại ai, không làm thiệt hại ai, không đá động tới ai.
Nhưng chúng ta vẫn nghe trong lòng một cái gì đó rất xót xa, khi có những người mua những chiếc du thuyền, những chiếc xe con, những phương tiện giải trí hàng tỷ đồng, và bên cạnh đó, biết bao người đói ăn, đói học, đói những mái nhà đơn sơ đủ để che mưa che nắng qua ngày! Có người thở dài: biết làm sao, bàn tay có năm ngón ngắn dài khác nhau là vậy! Chuyện ấy thời nào cũng có! Chẳng có ranh giới nào để định mức đâu là trách nhiệm đối với xã hội. Chỉ có tiếng gọi của Tình Thương. Trong Phúc Âm, câu chuyện ông Phú hộ và La-gia-rô là một thí dụ. (Lc.16,19-31).
Có những người tung tiền ra để mưu cầu danh vọng. Có những người tung tiền ra để mua quan bán chức. Có một câu chuyện khoa học giả tưởng về một thành phố của ngàn năm về sau, lúc đó, con người đã chế tạo ra những “người máy” tinh xảo. Đi giữa lòng thành phố, người ta không thể phân biệt được ai là “người máy” ai là người thật! Hay nói một cách khác, ai là người “giả”, ai là người “thật”! Ngày nay, nhiều khi cũng khó biết ai là “nhân tài” thật, ai là “nhân tài” giả. Có nơi, người ta rao bán “bằng cấp” trên Internet giống như người ta rao bán chè ở vĩa hè!
Đi xa hơn nữa, sự giàu có dễ quyến rũ người ta say mê thế lực. Cá nhân rồi đến tập thể, Đất Nước. Những Nước giàu có thì chế tạo và mua nhiều vũ khí. Những nước lớn và giàu có bao giờ cũng nói chuyện bằng sức mạnh và quyền lợi của họ trước tiên. “Tiền đẻ ra Tiền”. Làm ăn với tư thế “kẻ mạnh” thì bao giờ cũng có lợi, thậm chí còn bóp chết cả địch thủ cạnh tranh, cho dù là cạnh tranh lành mạnh. Vì rằng “thương trường cũng như chiến trường”, có “chết” và có “sống”. Không có quy luật đạo đức nào cụ thể được áp dụng ở đây. “Mạnh được yếu thua”. “Cá lớn nuốt cá bé”. Ngôn ngữ ngoại giao thì rất đẹp, mà trên thực tế nằm mơ cũng không thấy!
Cứ nơi nào có nhiều mỏ dầu, nhiều tài nguyên thiên nhiên, thì nơi đó có nhiều tranh chấp. Nơi nào có tranh chấp, thì nơi đó thường có những cuộc “tập trận”, phô trương vũ khí, sức mạnh quân sự của những bên liên hệ.
ĐỒNG TIỀN ĐEM LẠI
Đồng tiền giúp chúng ta thể hiện tình thương đối với đồng loại.
“Tiền của là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu”. Nếu con người nô lệ vào tiền của, thì rõ ràng, con người gặp phải nhiều hậu quả thật tồi tệ cho cá nhân và cộng đồng nhân loại. Nếu con người làm chủ đồng tiền, thì con người sẽ cải thiện thế giới và con người sẽ hạnh phúc hơn.
Con người chỉ có một chủ là Thiên Chúa, và Thiên Chúa dạy con người biết làm chủ Tiền Của bằng Giới Luật Yêu Thương. "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc.16,13).
Mẹ Têrêsa khi nhận giải Nobel, mẹ nghĩ ngay đến xử dụng đồng tiền để giúp đỡ những người bất hạnh. Thánh Phanxicô Assisi đã bỏ cuộc đời giàu có để dành trọn cuộc đời mình lên tiếng nói bênh vực và nâng đỡ người nghèo…
Thật may mắn, trong đời thường vẫn còn đó những trái tim biết chia sẻ một cách chân thành.
Chia sẻ chân thành là chia sẻ những gì mình có. Không phải cách “lương lẹo” của tên quản lý bất lương. Anh ta tỏ ra “nhân từ” bằng đồng tiền của chủ mình với ý đồ được có nơi nương tựa và tìm cơ hội cho tương lai. Thương người kiểu đó là một cách ăn trộm mà vẫn được người ta thấy mình đạo đức. Nó cũng giống như những người cho vay ăn lời cắt cổ thiên hạ, thỉnh thoảng vào ngày rằm, mua năm mười giạ gạo bố thí cho một số người nghèo; hay mấy công ty bốc lột sức lao động công nhân bằng đồng lương chết đói, thỉnh thoảng tặng tiền cho những chương trình thuộc dạng “vòng tay nhân ái” để được vinh danh và quảng cáo thương hiệu của mình trên TV !
Trong Giới Luật Yêu Thương, Chúa Giêsu không hề bảo con người phải sống nghèo nàn, lạc hậu, nhưng là dạy con người biết cách“cho đi”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46).
Vì “không ai cho cái mình không có”. Nên trước tiên ta phải có mới cho được. Do đó, làm việc không chỉ là trách nhiệm đối với xã hội, mà hơn thế nữa, còn là bổn phận đối với Thiên Chúa. (Ông giao cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén… Mt. 25,14-29).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện thế này:
Khổng Tử nói rằng: Cho mình là hạng phú quí mà biết hạ mình với người với mọi người, thì người nào mà không tôn trọng mình?
Cho mình là hạng phú quý mà biết yêu người, thì người nào mà không thân với mình?
Nói ra mà không ai trái lại, thì có thể cho là hạng người biết nói vậy.
Nói ra mà mọi người đều hướng theo cả, thì có thể cho là hạng người biết thời vậy.
- Cho nên kẻ giàu có, mà lại biết làm cho người giàu có, thì dẫu có muốn nghèo, cũng không thể nào nghèo được.
- Kẻ sang trọng mà biết làm cho người sang trọng, thì dẫu muốn hèn hạ, cũng không thể hèn hạ được.
- Kẻ phát đạt, mà biết làm cho người phát đạt, thì dẫu có muốn khốn cùng, cũng không thể khốn cùng được.
Đồng tiền giúp chúng ta về đến Nước Trời.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có một quyển sách được nhiều người yêu thích mang tên “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”.
Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy dùng tiền để mua những gì “không hư nát”. Hãy biết dùng tiền để tìm về chốn vĩnh cửu, nơi hạnh phúc vĩnh hằng. "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. (Lc.16,9).
Nếu cuối cùng, ta nằm xuống. Tất cả những gì hưởng thụ qua đi. Tất cả những gì gom góp cũng bỏ lại. Ta nghe văng vẳng bên tai lời chúa từng giảng dạy: “Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?” (Lc.12, 20), ta chới với và tiếc rẻ làm sao! Bằng đó những thành đạt cuộc đời không đổi lấy được gì ư?
Có một kim chỉ nam để chúng ta định hướng đời mình. Để suy nghĩ và hành động. Đề gạn lọc và chọn lựa. Để làm phong phú đời mình. Để nuôi sống đời mình. Để đời mình không phải chỉ là một giấc mơ chóng qua và vô nghĩa. Đó là Lời Chúa. Lời Hằng Sống. Lời dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời.
“Cho tôi xin một vé đi Thiên Quốc”.
Để khi tôi nhắm mắt, là bước vào một cuộc hành trình mới. Tuyệt vời và hạnh phúc!
Lạy Chúa, xin cho con biết tận dụng tất cả những gì con có, để sinh lợi và làm giàu cho Chúa, chứ không phải cho riêng con. Vì tất cả là của Chúa. Amen.
Với chương 16, Tin Mừng Luca thêm vào những dụ ngôn và những lời nói khác của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong khi đề tài của ch. 15 là niềm vui vì tìm lại được những gì đã mất, trong ch. 16 này, đề tài là thái độ đối với của cải và cách sử dụng chúng. Dù thế, vẫn có thể cho rằng đề tài mới này đã được báo trước ở ch. 15 bằng truyện đứa con thứ phung phí của cải. Bây giờ, chúng ta có hai dụ ngôn, Người quản lý bất lương (cc. 1-8a) và Ông nhà giàu với Ladarô (cc. 19-31), triển khai rõ ràng đề tài mới này. Ta cũng thấy có những lời Đức Giêsu được gắn vào dụ ngôn thứ nhất (cc. 8b-13) và những lời khiển trách người Pharisêu ham tiền (cc. 14-15). Chỉ có hai lời không liên hệ đến đề tài, đó là lời nói về Lề Luật (cc. 16-17) và lời nói về ly dị (c. 18).
Về bài dụ ngôn Người quản lý bất lương, cho đến nay bài này vẫn là một crux interpretum (“thập giá của các nhà chú giải”). Để hiểu dụ ngôn và các áp dụng, điều chủ yếu phải làm sáng tỏ là bản chất luân lý của hành động của người quản lý liên hệ đến các biên nhận của các con nợ của ông chủ. Ý kiến vẫn được đa số chấp nhận là người quản lý, đã bất lương trong quá khứ, khi làm thất thoát tài sản của chủ, nay làm thêm một hành vi bất lương nữa khi sửa lại các biên nhận, khiến tài sản của chủ càng hao hụt thêm. Nhưng nếu đây là ý nghĩa của bản văn, ta khó mà hiểu được là vì sao ông chủ có thể khen ngợi người quản lý là khôn khéo, và vì sao Đức Giêsu có thể rút từ cách hành động này một kết luận chấp nhận được. Dĩ nhiên, về phương diện luận lý, ta có thể tách sự tiên liệu và khôn khéo ra khỏi những phương diện khác của hành động của người quản lý. Nhưng những phân biệt như thế thì không dễ nắm bắt đối với những tâm trí không quen kiểu làm việc này, còn đám đông Kitô hữu thì hẳn là vẫn cảm thấy lúng túng khi đọc thấy sự song đối Đức Giêsu thiết lập giữa người quản lý và các môn đệ Người. Không lẽ Đức Giêsu, là người vẫn quen ngỏ lời với các con tim, lại thật sự đề ra một dụ ngôn hàm hồ như thế trong một vấn đề đụng chạm đến sự vô luân, bị mọi người phản đối?
Ngoài ra, cứ cho đi là người quản lý đã giả mạo các biên nhận nợ, thì anh ta chỉ càng làm cho hoàn cảnh của mình thêm trầm trọng, mà cũng chẳng giữ được kín, vì anh sắp phải báo cáo sổ sách, với lại bản văn cho thấy là ông chủ biết rất nhanh chuyện vừa xảy ra. Và cũng khó mà hiểu vì sao anh lại được khen là khôn khéo. Nếu thế, dụ ngôn này nói về một hành động khó có thật.
Chúng ta đừng quên rằng Đức Giêsu không hề đánh giá hành vi của người quản lý về mặt luân lý, mà chỉ nói là anh khôn khéo thôi. Chính câu 8 gọi anh là “bất lương”, nhưng đó là trong quá khứ, trước khi anh ta làm hành động được bài dụ ngôn kể ra, còn hành động này không nhất thiết là bất lương (x. Dụ ngôn ông quan tòa bất chính đã xử công bình cho bà góa: Lc 18,2-8). Xin coi trong phần chú giải.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dụ ngôn Người quản lý bất lương (16,1-8a); 2) Ba áp dụng của Dụ ngôn (16,8b-13):
a) Áp dụng 1 (cc. 8b-9), b) Áp dụng 2 (cc. 10-12), c) Áp dụng 3 (c. 13).
3.- Vài điểm chú giải
- một người quản lý (1): Danh từ Hy Lạp oikonomos thường là một người nô lệ sinh ra tại nhà chủ (x. St 15,3: ben bayit, “một người con của nhà”; St 14,14: yelid bayit, “người sinh ra của nhà”), nhưng không nhất thiết là như thế. Tại Paléttina, người quản lý không được trả lương; anh toàn quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn. Nếu anh ta biển thủ, thì không có một hành vi pháp lý nào có thể giúp chủ thu hồi của cải cả; ông chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng, tiết lộ hành vi bất lương của anh ta để làm anh mất tiếng tốt, rồi thải hồi anh thôi. Sau khi đã biết quyết định của chủ, người quản lý phải tính sổ, nhưng vẫn đại diện của chủ. Vì không có lương, người quản lý có thể cho vay lấy lãi. Thật ra Luật Môsê cấm cho vay lấy lãi (x. Xh 22,25; Lc 25,36; Đnl 23,20-21), nhưng người Do Thái có cách xoay sở: người ta bảo là Luật nhắm che chở những người túng cực khỏi bị bóc lột. Do đó, nếu chứng minh được là người vay mượn đã có một phần của cải anh muốn mượn, và như vậy phần vay mượn không là cấp bách, thì có thể lấy lãi. Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý do khiến hai thứ này được đưa ra làm ví dụ ở đây): ai mà chẳng có đủ dầu để đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ lúa để làm một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh quản lý tha phần lãi (quá đáng) để trả lại nguyên vốn cho chủ[1].
- tố cáo (1): Động từ Hy Lạp diaballein thường có sắc thái vu khống.
- phung phí của cải (1): Động từ Hy Lạp diaskorpizein cũng được dùng trong dụ ngôn Người con phung phá (15,13) để mô tả một cách sử dụng hoang phí các của cải. Bản văn không nói rõ anh “phung phí của cải” trong những chuyện gì.
- Một trăm thùng dầu ô-liu (6): Danh từ Hy Lạp batos phiên âm từ tiếng Híp-ri bat, “thùng” tương đương với khoảng 45 lít (theo sử gia Gioxép, một batos = 72 xestai Hy Lạp hoặc 72 sextarii Rô-ma).
- viết năm chục (6): Câu này không có nghĩa là anh ta giả mạo số nợ người ta mắc với ông chủ của anh. Điều này có nghĩa là con nợ hiện mắc nợ ông chủ chỉ năm mươi thùng dầu, còn năm mươi thùng kia là hoa hồng của người quản lý. Như thế số lãi là 50%. Bên Cận Đông những món nợ về lương thực thường có lãi cao như thế thật.
- Một trăm bồ lúa (NTT- 7; “Một ngàn giạ lúa”: CGKPV): tức là một trăm kor lúa. Từ Hy Lạp koros phiên âm từ từ ngữ Híp-ri kor, tương đương với 10 bats, hoặc 450 lít (bên Hy Lạp có đơn vị đo lường medimnos = 1,5 kor).
- viết tám trăm (7): Trong trường hợp này, hoa hồng là 25% (trên tám mươi bồ/giạ lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện bình thường.
- Và ông chủ khen (8): Ho kyrios có thể hiểu là “Chúa (Đức Giêsu )” hay “ông chủ”. Ở đây, ta hiểu là “nhà phú hộ kia” (c. 1) hay “ông chủ” (cc. 3.5). Vì các lý do: (1) “Nhà phú hộ” rất có thể là một chủ đất thường xuyên đi vắng, nên đã giao việc quản lý công việc làm ăn cho một người quản lý (oikonomos). Anh này không phải chỉ là một người tôi tớ được đặt đứng đầu những tôi tớ khác (như ở 12,42), mà là một nhân viên của ông chủ, được huấn luyện, được tin tưởng và được giao quyền thay chủ. Anh này có thể hành động nhân danh chủ trong những giao dịch: theo cách thông thường, anh này cho những người khác mượn của cải của ông chủ với một phần hoa hồng hoặc lãi được cộng thêm vào biên nhận; trong biên nhận này thường chỉ ghi số nợ, nghĩa là phần vốn cộng với phần lãi. Đây là tập tục rất thông dụng bên vùng đông Địa Trung Hải, Ai-cập dưới thời Hy Lạp và Rô-ma, Paléttina, Xyri, Átxyri, và Babylon.
Vậy tại sao ông chủ lại khen người quản lý? Tuy không biết số hoa hồng người quản lý có được, chắc chắn ông chủ biết là anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu người quản lý cố tình giả mạo biên nhận, hẳn là khó mà cho rằng ông chủ lại khen anh. Ở đây, ông chủ khen người quản lý là vì thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận loại bỏ phần hoa hồng khỏi những biên nhận trước đây, trong đó có phần cho vay nặng lãi. Như thế, anh đã biến những con nợ của chủ thành người chiu ơn anh, mà không làm thiệt hại gì đến chủ.
- con cái ánh sáng (8): Đây là một cách gọi các môn đệ Kitô hữu (x. 1 Tx 5,5; Ep 5,8; Ga 12,36).
- nơi ở vĩnh cửu (9): dịch sát là “các lều vĩnh cửu”. Có lẽ hình ảnh này lấy từ lễ Lều, vì lễ này được coi như một tiền ảnh của thời đại cứu độ (Dcr 14,16-21).
- Tiền của bất chính (9): Danh từ mamonas là dạng hy-hóa của danh từ Híp-ri mamôn hoặc danh từ A-ram mamôna’. Cách giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ này là một dạng của ngữ căn ’mn, và có nghĩa là “điều mà người ta đặt tin tưởng vào”, từ đó chuyển sang nghĩa là “tiền bạc, của cải”. Đây là tiền của thủ đắc hợp pháp, tức theo luật lệ của loài người, nhưng hư hỏng dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Người quản lý bất lương (1-8a)
Bản văn dường như mô tả một sự cố đã thật sự xảy ra. Người quản lý bị tố cáo là bất lương, nhưng chúng ta không được biết đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ biết là bây giờ, khi thấy hoàn cảnh của anh đã thành bấp bênh, vì ông chủ đã quyết định sa thải anh, anh biết phản ứng nhanh và dứt khoát.
Người quản lý biết rằng có nhiều người đang nợ chủ anh những món nợ kếch sù. Anh gọi các con nợ đến, rồi hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?” Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”. Người quản lý bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. Món nợ đã được giảm từ 4.500 lít dầu ô-liu xuống còn 2.250 lít, tương đương với tiền công nhật một năm.
Anh ta gọi người thứ hai đang mắc nợ một trăm bồ lúa, tức là khoảng 35 tấn (kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu ruộng tốt). Nay món nợ của ông giảm xuống còn 80 bồ thôi, tức là bớt đi khoảng 7 tấn!
“Ông chủ” (c. 8), dù là Đức Giêsu hay là ông phú hộ, đã khen ngợi sự khôn khéo và sáng suốt của anh. Người ta vẫn giải thích hành vi anh ta hướng dẫn những người làm biên nhận là một hành vi bất lương: thay vì bảo các con nợ viết đủ số nợ thì lại bảo họ viết bớt đi. Có một cách giải thích khách hợp lý hơn: Vào thời Đức Giêsu, các quản lý không có lương, nên họ được phép lấy hoa hồng từ món nợ (25-50%). Như thế, ở đây, người quản lý không làm thiệt hại cho chủ, nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ ra anh được hưởng. Anh hy sinh một món lợi nhuận ngắn hạn như thế để mong được người ta tiếp đón lâu dài. Vì thế, anh ta mới được khen là sáng suốt và biết khôn ngoan tiên liệu.
Cho dù chọn cách giải thích nào, các độc giả vẫn phải nhớ điểm nhắm của dụ ngôn là: sự thông minh của một người khi nhìn đến tương lai của mình, hoặc nói bằng ngôn ngữ tôn giáo hơn, các chọn lựa thận trọng khi nhìn đến việc cứu độ bản thân. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải hành động với một sự minh mẫn và khôn ngoan như thế. Đức Giêsu bảo họ rằng họ có thể học được nhiều nơi các con cái thế gian trong việc phân tích kỹ lưỡng hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn và có một cách ứng xử thích hợp.
* Ba áp dụng của Dụ ngôn (8b-13)
Thế rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ kinh tế của dụ ngôn sang ngôn ngữ phù hợp với Do Thái giáo Ba áp dụng chứng tỏ cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc cho dụ ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba thuộc về những ngữ cảnh khác nhau
Áp dụng thứ nhất (cc. 8b-9) mang màu sắc Sê-mít rõ ràng, có lẽ có một bối cảnh Paléttina, với những thuật ngữ “con cái thế gian” , “con cái ánh sáng”, “Tiền Của bất chính”, “nơi ở vĩnh cửu”. Áp dụng này đặt con cái thế gian ngang hàng với người quản lý (c. 8a). Do sự “khôn khéo” của họ, họ hơn các “con cái ánh sáng”, tức các môn đệ của Đức Giêsu, trong cách dàn xếp với thế hệ này. Như thế, các Kitô hữu có thể học được điều gì đó từ sự khôn khéo của họ. Câu 8b là một lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài dụ ngôn, nhấn mạnh trên sự khôn khéo trong đời sống Kitô hữu. Câu 9 nêu ra khía cạnh cánh chung của lời khuyên. Các Kitô hữu phải khôn khéo trong cách sử dụng của cải vật chất, bây giờ được gọi là “tiền của bất chính”, để tạo lấy những bạn bè sẽ đón họ vào nơi cư ngụ vĩnh cửu. Như vậy, quyết định khôn khéo của người quản lý (c. 4) được ẩn-dụ-hóa để trở thành một khuyến khích sử dụng khôn khéo của cải vật chất.
Áp dụng thứ hai (cc. 10-12) rút một bài học từ bài dụ ngôn như là một toàn thể và hệ quả về cách quản lý có trách nhiệm. Khía cạnh cánh chung của c. 9 biến mất, để nhường chỗ cho ý tưởng về trách nhiệm và sự trung tín ngày qua ngày. Áp dụng gồm ba câu ở thể song đối đối nghĩa: câu 1 là câu tuyên bố (tương phản giữa trung tín trong việc rất nhỏ và trung tín trong việc lớn) ; câu 2 và 3 ngắn hơn, là câu hỏi (tương phản giữa trung tín trong việc sử dụng những của cải thông thường và những của cải chân thật; tương phản giữa việc sử dụng của cải của người khác và của cải của chính mình). Như thế, cả ba tương phản tóm tắt vai trò của sự trung tín trong đời sống Kitô hữu.
Áp dụng thứ ba (c. 13) được đặt ở đây do từ móc “tiền của” ở cc. 9,11 và 13d. Áp dụng này không liên hệ với bài dụ ngôn, nhưng tóm một thái độ tổng quát đối với của cải. Có thể nói áp dụng này bình luận cc. 10-12 dể đưa ra câu hỏi cho Kitô hữu: Anh em muốn phục vụ ai?
+ Kết luận
Bài dụ ngôn không lưu ý về bản tính độc hại của của cải, cũng không chuẩn nhận cho sự bất lương của người quản lý (cc. 1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả mạo các biên nhận khiến gây thiệt hại cho chủ. Câu chuyện nhắm đến sự khôn khéo của ngưởi quản lý biết cách sử dụng phần của cải thuộc về mình để lo cho tương lai. Như thế, “người quản lý bất lương” trở thành điển hình cho các Kitô hữu về sự sáng suốt, khôn khéo. Đứng trước một tình trạng khủng hoảng do sự bất cẩn và những lầm lạc trong phán đoán thuộc quá khứ, anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và xoay sở hợp lý. Các Kitô hữu cũng đang phải đối diện với đòi hỏi của Nước Trời đang đến, nên cũng cần biết sử dụng của cải để có thể ứng phó với hoàn cảnh này.
Với ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn đưa tới chỗ khuyến cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng của cải với tinh thần trách nhiệm và sử dụng để phục vụ hạnh phúc của người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế gian. Ai theo Người, thì có ánh sáng, với điều kiện phải để cho ánh sáng hướng dẫn. Muốn sống như là “con cái ánh sáng”, các môn đệ Đức Giêsu phải để cho Người hướng dẫn. Các môn đệ Đức Giêsu thỉnh thoảng phải nghĩ đến tương lai của họ, để không bị bắt chợt mà trắng tay. Họ phải quan tâm không những đến tương lai gần, mà cả tương lai ở bên kia cái chết. Đó là nhắm đạt được những “cái lều vĩnh cửu”, túc sống hiệp thông bền vững với Thiên Chúa. Tương lai ấy, người ta đạt được hay bị mất, là do cách hành động trong hiện tại. Tương lai này, Đức Giêsu giúp các con cái ánh sáng đạt được, nhưng họ phải chuẩn bị bản thân bằng một cách sống biết tiên liệu. Chính họ cũng phải biết sử dụng của cải vật chất cách khéo léo và sao cho có thể đảm bảo tương lai, nhờ biết tạo cho mình những bạn hữu. Họ phải chứng tỏ họ là những người quản lý được tin cậy và trung tín trong những điều nhỏ nhất. Họ chỉ đạt được như thế nếu họ phục vụ Thiên Chúa chứ không phải tiền của.
2. Các Kitô hữu sống như “con cái ánh sáng” là có trái tim thuộc về Thiên Chúa. Người phải là Đức Chúa mà họ yêu mến và họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi từ một quan hệ như thế với Người, họ mới có thể có một tương quan đúng đắn với của cải trần thế và là tương quan bảo đảm tương lai cho họ. Ai nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa tể thì cũng nhìn nhận Người là Chúa tất cả của cải vạt chất và biết rằng bản thân mình không phải là chủ tuyệt đối các của cải đó, nhưng chỉ là người quản lý.
3. Một người quản lý lệ thuộc chủ mình và chịu trách nhiệm trước mặt chủ. Anh không điều hành một của cải của riêng anh, nhưng một của cải của người khác, của cải được Thiên Chúa ký thác. Anh là người trung tín và đáng tin nếu anh biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không cư xử theo tính ngẫu hứng. Tất cả các ý tưởng của anh phải nhắm đảm bảo sao cho chủ không bị thiệt hại gì cả, không có gì xảy ra ngược ý muốn của chủ. Qua tương quan với các của cải của chủ, người quản lý chứng tỏ giá trị của tương quan của mình với chủ. Như thế, các của cải trần thế đã được ký thác cho chúng ta là để thử lòng chúng ta. Như những người quản lý, qua các của cải ấy, chúng ta phải chứng tỏ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng tỏ lòng trung thành và khả tín của mình.
4. Chúng ta chứng tỏ mình biết sử dụng đúng dắn các của cải khi biết dùng của cải mà tạo cho mình những bạn hữu, do dùng của cải mà phục vụ người thân cận. Các của cải không được ban cho chúng ta để chúng ta hưởng thụ cách ích kỷ, nhưng là để chúng ta dùng trong chiều hướng nhắm đến tương lai, thể theo ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến của cải vật chất, nhưng điều Ngài nói cũng có giá trị cho mọi thứ của cải trần thế khác, như các khả năng tinh thần, các tài năng, kiến thức, học vấn…
5. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và biết tiên liệu. Như thế, không thể phung phí của cải trần thế vào việc hưởng thụ trong hiện tại. Đàng khác, ai cho rằng mình có quyền bố trí các của cải theo ý mình, là sai lầm. Chúng ta được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng ta không phải là chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là những quản lý các của cải của chúng ta. Và của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em. Chỉ khi đó, chúng ta mới đảm bảo được tương lai của mình. ----------------------------------------------- [1] Xem J.D.M. Derrett, Law in the New Testament (London 1970) 48-77; « “Take Thay Bond … and Write Fifty” (Luke xvi,6): The Nature of the Bond » (JTS 23 [1972]) 438-440; P.W. Pestman, “Loans Bearing No Interest”, Journal of Juristic Papyrology, 16-17 (1971) 7-29.
Hai giờ chiều ngày 11.9.2013, anh Viết vào tòa nhà Ủy Ban Nhân Dân thành phố Thái Bình, gởi xe rồi đi tìm Văn phòng của “Trung Tâm Phát Triển Quỹ Đất”, lấy ra khẩu súng bắn thẳng vào 5 cán bộ. Sau đó, anh trở ra lấy xe và đi mất, để lại đằng sau một hiện trường tang tóc.
Buổi chiều cùng ngày, anh Viết về quê nhà ở xã Trà Giang, huyện Kế Xương, tỉnh Thái Bình. Anh đi bộ ra chùa Đông Sơn và đến hơn 6 giờ, anh tự kết liễu đời mình bằng hai phát súng tự bắn vào ngực mình. Bảy phát súng nổ, tuy diễn ra ngắn ngủi nhưng có vọng âm xa, sâu lắng, làm cho lương tâm con người trở nên ray rứt. Ranh giới rất là mong manh giữa trái và phải, giữa lương thiện và bất lương, gây nên những cảm xúc nhiều chiều, trái ngược.
Nhà báo Minh Diện đã điểm lại sự kiện và phân tích nguyên nhân của vụ án đau thương này ( x. Ai cho tôi lương thiện, http://bolapquechoa.blogspot.com ).
Ngôn sứ Hôsê nhận định về tình trạng xã hội của Israel vào thế kỷ 8 trước Công Nguyên: "Israel vốn là một cây nho sum sê, trái trăng thật dồi dào phong phú; nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng; đất nước càng giàu sang, chúng càng dựng thêm những cột thần lộng lẫy" ( Hs 10, 1 ). Đất càng phì nhiêu, tượng thần càng nhiều, nhận định này của vị Ngôn sứ cách chúng ta bây giờ hơn 2.800 năm vẫn đúng cho con người mọi nơi mọi thời, đặc biệt là chính sách đất đai hiện nay ở Việt Nam đã tạo quá nhiều thuận lợi cho tham nhũng trục lợi và bất công tràn lan.
Các Ngôn Sứ thời Cựu Ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh dễ kẻ nghèo, những người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi lộc.
Vào thế kỷ 8 trước Công Nguyên, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều vua Giêrôbôam II. Do sự phồn thịnh ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm mua địa vị chức tước; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực...
Trong bài đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Amos đã nghiêm khắc cảnh cáo họ: Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn hủy diệt hết những người bần cùng trong cả nước. Các ngươi giảm đấu đong, tăng giá bán và làm nên những chiếc cân non. Các ngươi lấy tiền mua người nghèo khó, lấy đôi dép mà đổi lấy người túng thiếu. Các ngươi bán lúa mục nát. Thế nhưng, Thiên Chúa sẽ không quên lãng và những hình phạt khủng khiếp sẽ được giáng xuống trên các ngươi.
Trong Cựu Ước, giàu có thịnh vượng thường được xem như một sự chúc lành của Thiên Chúa. Nhưng dân Israel lại suy nghĩ theo cách của các dân ngoại chung quanh, họ coi sự thịnh vượng của mình là ơn lành của các sức mạnh thiên nhiên mà dân ngoại tôn thờ như những thần linh, thần mưa, thần gió, thần đất. Cho nên vật chất càng phát triển họ càng sùng bái ngẫu tượng nhiều hơn. Đó là một sự phản bội không thể tha thứ: "Chúng là thứ người lòng một dạ hai, rồi đây chúng sẽ phải đền tội" ( Hs 10, 2 ).
Thiên Chúa đã kết ước với họ nhưng họ đã thất trung bội tín, lòng họ đã bị chia sẻ. Thay vì tôn thờ một mình Thiên Chúa, nghe theo lời Người dạy bảo và trông cậy vào một mình Người, họ lại chạy theo những thần linh giả dối. Con tim họ đã bị chia sẻ. Ngôn sứ Hôsê mạnh mẽ cảnh cáo Israel: "Rồi đây chúng sẽ phải đền tội; bàn thờ của chúng, Đức Chúa sẽ đập tan, cột thờ của chúng, Người cũng sẽ phá đổ" ( Hs 10, 2 ). Cái gì giả trá thì vẫn là giả trá. Đặt tin tưởng vào nó, tất chẳng thể bền. Rồi đây Ítraen sẽ thấy các thần tượng mình sụp đổ, "bấy giờ họ sẽ nói với núi đồi: 'Phủ lấp chúng tôi đi!' và với gò nổng: 'Hãy đổ xuống trên chúng tôi !'" ( Hs 10, 8 ).
Chính kinh nghiệm cho thấy rằng của cải giàu sang thường đưa người ta đi xa Chúa. Sự sung túc mang tới cho người ta nhiều thứ có khả năng cạnh tranh với Thiên Chúa, và thậm chí thay thế Thiên Chúa, ví dụ như địa vị, quyền thế, danh vọng, tình yêu, tiện nghi, lạc thú. Tục ngữ ta đã chẳng nói "có tiền mua tiên cũng được" hay "đồng bạc đâm toạc tờ giấy" đó sao ? Của cải làm cho người chiếm hữu nó có cảm thức mãnh liệt rằng mình "toàn năng", muốn gì cũng được ! ( Lm. Nguyễn Hồng Giáo ).
Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay sẽ thấy, người ta thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng của họ và khi đó làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái miễn là càng ngày họ càng giàu có càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.
Cùng một tiếng chuông cảnh tỉnh của các Ngôn Sứ, Chúa Giêsu đã dạy: Các con không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được.
Chúa Giêsu không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo, phê phán những người giàu trong việc sử dụng tiền của.
Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và nhân phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.
Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.
Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” ( Lc 6, 20; Mt 5, 3 ). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu có đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực ( x. Lc 16, 19 – 31 ), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ khác.
Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống.
Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo: “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” ( 1Tm 6, 10 ). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.
Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ… Giá trị của tiền tài hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.
Tiền của là phương tiện để chia sẻ với tha nhân, Thánh Phaolô viết cho anh Timôthêô: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” ( 1Tm 6, 17 – 18 ).
Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên Trời.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.
Mạnh Thường Quân nuôi hơn 3.000 thực khách nên chi phí rất nhiều, bổng lộc không đủ chi dụng, phải dựa vào tiền thuê đất đai ở Bích Thành do vua phong, nhưng có một năm không thu được tiền về, mới cử Phùng Hoan đi đòi. Trước khi đi Phùng Hoan hỏi rằng: "Khi tôi trở về, ông có muốn tôi đem quà gì về không ?" Mạnh Thường Quân ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: "Thì ông cứ xem ở đây thiếu thứ gì thì đem về, "Phùng Hoan đến Bích Thành mới biết năm đó bị thiên tai mất mùa, nông dân thiếu lương ăn khổ cực hết chỗ nói. Phùng Hoan bèn tập họp họ lại, rồi đốt hết mọi giấy tờ vay nợ, khiến mọi người vô cùng cảm động. Phùng Hoan trở về nói lại đúng sự thực. Mạnh Thường Quân nổi giận: "Trước khi đi ông nói sẽ đem quà về, nay ở đâu ?" Phùng Hoan đáp: "Ông đã nói ở đây thiếu gì thì mua về, nhưng tôi thấy ở đây chẳng thiếu gì cả, chỉ thiếu có tình nghĩa mà thôi, nay tôi đã đem tình nghĩa về đây". Mạnh Thường Quân nghe vậy khóc cười không được, liền phất tay áo đi ra.
Hai năm sau, Tề Dẫn Vương tin nghe lời bịa đặt của hai nước Tần, Sở, rất lo lắng Mạnh Thường Quân công cao lấn chúa, gây uy hiếp tới vương vị của mình, bèn thu ấn tể tướng của Mạnh Thường Quân. Các môn khách thấy vậy, đều theo nhau bỏ đi, duy chỉ có Phùng Hoan là còn ở lại. Mạnh Thường Quân đành trở về cố cư ở Bích Thành. Dân trong thành nghe tin ông trở về, liền dắt già cõng trẻ ra ngoài 100 dặm để đón. Mạnh Thường Quân nhìn thấy cảnh tượng này, rơm rớm nước mắt nói với Phùng Hoan: "Tình nghĩa mà ông đã đem cho tôi, nay tôi đã thực sự cảm nhận được rồi".
Trong Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, Đức Giêsu kể dụ ngôn người quản gia bất lương khôn khéo, biết dùng tiền của gian lận để mưu cầu chốn nương thân. Sau cùng Người cảnh báo, không ai có thể làm tôi hai chủ được, vừa làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của.
Làm tôi cho bản ngã
Trong cuộc mưu sinh, nhiều khi tiền của bỗng dưng trở thành ông chủ cai quản cuộc đời. Cho nên thi sĩ Horace từ xa xưa đã cảnh báo không thừa: “Tiền bạc là đầy tớ tốt và là ông chủ xấu.” Nếu lệ thuộc vào nó, coi nó là ông chủ, là cứu cánh cuộc đời, kể như đánh mất nhân tính tốt lành, mà trở nên biển lận và tham lam.
Tuy nhiên, xã hội bao đời vẫn không hề phủ nhận sức mạnh, lẫn tầm ảnh hưởng vô song của nó. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền.” Hay là”Nén bạc đâm toạc tờ giấy.” Nếu không có sẵn quyền cao chức trọng, mà lắm tiền nhiều của, thì người ta cũng vẫn được nể nang, trọng vọng, cũng có thể ngoi dần lên vị thế cao, lên hàng khanh tướng. “Có tiền mua tiên cũng được” kia mà !
Thực ra, người ta mê tiền bạc, vì nó không chỉ giúp nuôi sống bản thân và gia đình, mà còn có thể củng cố, biến đổi cơ cực, gian lao, vất vả, thành nhàn hạ, sung túc, biến đổi thân phận tầm thường thành người danh giá, biến sự rủi ro, yếu đuối thành may mắn và quyền lực.
Chung quy, người ta làm nô lệ cho tiền của, vật chất, vì chúng phục vụ lại cho chính bản thân. Có nghĩa là con người làm tôi mọi cho chính bản ngã, cho ngay chính mình. Con người tự tôn thờ mình, chứ chẳng cần đoái hoài, tôn thờ thần thánh nào khác.
Vì thế, Đức Giêsu muốn giải thoát con người khỏi ách nô lệ tiền của, thoát ra khỏi cái tôi vị kỷ, khi khuyên nhủ đem nó phục vụ tha nhân: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí” ( Lc 12, 33 ). Chính là của để dành cho đời sau.
Làm tôi cho Chúa
Người quản lý bất lương khôn khéo dùng tiền của bất chính mua cho mình sự bảo hiểm an cư sau này. Còn Phùng Hoan đổi tiền bạc, của cải lấy tình nghĩa cho Mạnh Thường Quân. Cả hai người đều có thể giúp cho người Kitô hữu, cảnh tỉnh và nhận thức hơn về sự chọn lựa giữa cái bấp bênh, hư nát với cái ổn định, bền bỉ, giữa phù vân và vững chãi, giữa nhất thời và vĩnh cửu.
Thông thường, ai cũng đều mong muốn, ưa chuộng tự do, đều muốn tự mình quyết định mọi việc, mọi tình huống, mọi nơi, mọi lúc. Nhưng lại cũng rất dễ mù quáng trở nên nô lệ vào vật chất, thói quen, đam mê, nô lệ vào tiện nghi, nô lệ vào quan niệm và dư luận xã hội, nô lệ vào khuynh hướng hưởng lạc, duy vật, hay rõ ràng là nô lệ vào nền văn minh sự chết.
Thoát ra khỏi vòng kiểm tỏa, nô lệ tiền tài, của cải vật chất, cũng là thoát ra khỏi cái vỏ ốc ích kỷ, vô cảm, bất khoan nhượng, bất nhân, bất nghĩa, để có thể yêu thương, tha thứ và phục vụ tha nhân, thì mới có thể làm tôi cho Chúa, theo Chúa và thờ phượng Ngài.
Do vậy, điều kiện tiên quyết theo Chúa, chọn Chúa làm sản nghiệp, là phải từ bỏ mọi sự, vật chất danh lợi, thậm chí bỏ cả chính mình, chấp nhận đau thương, khổ ải, vác thập giá bổn phận, trách nhiệm, lý tưởng để theo Đức Giêsu.
Làm tôi cho Chúa có nghĩa thoát khỏi xiềng xích nô lệ vật chất, thế gian, từ bỏ con đường bằng phẳng, dễ dãi, trơn tru, từ bỏ những gì thân xác ham muốn, thích thú, hay thỏa mãn, mà đi theo con đường chông gai, thử thách, nhọc nhằn, đau đớn, bầm dập, tả tơi cả thân xác lẫn tinh thần.
Làm tôi cho Chúa cũng còn có nghĩa xả kỷ vị tha, quên mình giúp người, sống cho người, sống vì người, tìm thấy Chúa hiện diện trong người khốn cùng, nghèo nàn, bênh hoạn, bơ vơ bị bỏ rơi.
Làm tôi cho Chúa nhất thiết cần trở nên chứng nhân đích thực của Đức Giêsu Chịu Đóng Đinh, trở nên đồng dạng, đồng hình và cùng đồng hành với Người trong sứ vụ Đi Gieo Tin Mừng.
“Con đừng lấy làm lạ, lúc theo Chúa, con nghe tiếng gọi của khoái lạc, của danh vọng, của cả bản thân, cha mẹ, quyến rũ con bỏ đường theo Chúa. Cứ tiến lên, Chúa đã nói trước: “Ai cầm cầy còn ngoảnh mặt lui, không đáng làm môn đệ Ta !” ( Đường Hy Vọng, số 71 )
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thoát khỏi xiềng xích của cải, tiền bạc, danh lợi, chức quyền, từ bỏ tất cả để theo Chúa. Xin giải thoát khỏi những đòi hỏi, cám dỗ, đam mê của thân xác, khỏi những quan niệm, thành kiến thế gian. Xin giải phóng con khỏi cái tôi ích kỷ, vị kỷ, để con biết nhìn đến tha nhân, yêu thương và phục vụ những nhu cầu cấp bách của anh chị em.
Lạy Mẹ Maria, xin cải hóa tâm hồn chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa chước cám dỗ, khỏi say mê những thứ phù phiếm, giúp chúng con biết khước từ tất cả những chướng ngại vật, để có thể hiến dâng theo Chúa. Xin cho chúng con được hiệp thông cùng Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ, hầu xứng đáng làm tôi tớ Chúa luôn mãi. Amen.
Dự lễ Cung Hiến Thánh Đường tại một Tân Giáo Xứ thuộc vùng núi xa xôi, tình cờ tôi gặp được một đôi vợ chồng trẻ, dáng vẻ gầy còm khắc khổ nhưng nụ cười rất hồn nhiên và phấn khởi. Tôi bắt đầu gợi chuyện:
– Anh ở Giáo Xứ này chứ ? – Dạ, em ở đây từ nhỏ đến giờ. – Ở đây anh làm nghề gì để sống ? – Dạ, em làm thợ hồ nuôi một vợ ba con. – Hôm nay, Giáo Xứ mình có Nhà Thờ mới vui quá nhỉ ? – Dạ, vui lắm chứ anh. Ước ao bao năm rồi. – Thời gian xây Nhà Thờ có lâu không vậy anh ? – Dạ hơn một năm đó anh à ! – Bà con mình có đóng góp công, của nhiều không ? – Dạ chút chút thôi anh, bởi ai cũng nghèo khổ quá ! – Thế hả ?Anh làm thợ hồ thì chắc góp công thợ hồ chứ gì ? – Thưa không. Em cũng muốn góp công, nhưng êkíp thợ là của nhà thầu, đã đủ. Bà con Giáo Dân chỉ phụ việc thôi. Bởi vậy em đành phải đóng góp cách khác... – Cách khác là thế nào ? – Vợ chồng em quyết định trích một phần tư ngày công, và đóng từng ngày cho Giáo Xứ. Làm vậy, là vì em không thể có đồng tiền lớn và đóng một lúc. Mà không đóng từng ngày thì sợ mình tiêu hết, nhà có lắm chuyện phải tiêu. Chúng em đã cố gắng đóng trọn một năm. – Ồ, thế thì có thiệt thòi cho kinh tế gia đình anh lắm không ? – Dạ cũng có, nhưng không sao. Em tin là em sẽ được lại gấp trăm, và nhất là vì em sợ Chúa... cắt viện trợ lắm anh à !
Tôi thật bất ngờ trước một niềm tin và trước một nghĩa cử bởi niềm tin. Nếu tôi không lầm, thì công thợ hồ ở đây vào khoảng 160.000 đồng một ngày. Một tuần có khả năng được năm ngày công và một tháng hai mươi ngày công. Nhẩm tính, khoảng hơn 9 triệu là số tiền anh chị hy sinh đóng góp cho công trình Nhà Thờ, mà đóng từng ngày như đóng hụi ! Khoản tiền ấy có thể là rất nhỏ đối với một số người, nhưng thiết tưởng, lại là rất lớn đối với gia đình anh. Không chỉ lớn về số tiền, mà còn lớn về cách đóng góp: hy sinh từng ngày.
Khó kiếm được một tâm hồn quảng đại với Chúa như vậy. Quảng đại vì tin Chúa rất công minh sẽ đền bù gấp trăm, hay quảng đại vì cảm nghiệm được tất cả những gì mình có đều là do bởi ơn Chúa, thì suy tư ấy vẫn chứng tỏ là suy tư chính đáng và thánh thiện của một tín hữu hồn nhiên, thánh thiện, đơn sơ, phó thác.
Cách nào đó, có thể hiểu rằng người tín hữu ấy đã vượt lên trên sự ràng buộc của đồng tiền như người ta vẫn nói “đồng tiền nối liền khúc ruột”, vượt lên trên sự bất nhất có thể giữa vợ chồng con cái, vượt lên trên sự khoe khoang tự phụ thường có của người giàu hơn khi đóng góp. Tôi không dám phủ nhận sự đóng góp quý giá của những nhà hảo tâm, của những đại gia, của những người giàu có ở khắp mọi nơi cho công trình Nhà Chúa, nhưng câu chuyện trên đây cũng đáng để cho đời một ý nghĩa khá là thú vị, một bài học đáng nhớ: người quản lý trung tín của Thiên Chúa, biết sử dụng đồng tiền của Thiên Chúa ban cho để làm vinh danh Chúa. Câu nói của anh ấy: “Em sợ Chúa... cắt viện trợ lắm” như một bài học Giáo Lý về “Ơn Chúa” được giải thích cách khôi hài, nhưng dễ hiểu và đầy niềm tin.
Người sử dụng ơn Chúa ban như trí hiểu, lý tưởng, tài năng, sức lực, vật lực và cả thời gian, tiền bạc là để sẻ chia cho cuộc đời, để làm lợi cho Thiên Chúa. Người ấy mới là người quản lý trung tín. Hơn nữa Đức Tin cho phép chúng ta hiểu rằng khi đã cho đi, làm cho cạn đi, cho vơi đi thì mới có lý do để được Thiên Chúa rót lại cho đầy. Giả sử, người ấy không có Đức Tin và cũng không làm cho vơi đi những gì mình có, cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội, thì nỗi lo sợ “Chúa cắt viện trợ” quả thật là có thể xảy ra
Lời Chúa hôm nay trong trang Tin Mừng minh chứng rõ điều đó trong trường hợp của người quản lý bất trung. Ông phung phí của cải, tài sản của Thiên Chúa đã giao cho ông quản lý. Phung phí vì ông tưởng của cải ấy, tài sản ấy là của ông. Phung phí là không biết quản lý, sử dụng không đúng mục đích tốt cho Chúa cho đời, lại sử dụng vào việc xấu xa tội lỗi. Ông không làm lợi gì cho Thiên Chúa và cho cả chính ông. Vì thế, quyết định cuối cùng của Thiên Chúa là cách chức, là cắt "viện trợ". Ông sẽ chỉ còn tay trắng mà ra đi. Chúa cắt "viện trợ" ! Mất ơn Chúa !
Thiết tưởng, anh chị thợ hồ kia có thể là ít học chuyện đời, chuyện đạo, lại ở một Giáo Xứ nhà quê xa xôi, nhưng anh chị đã sống xứng đáng là “người quản lý trung tín của Thiên Chúa”. Anh tin tưởng vào ông chủ sẽ tiếp tục "viện trợ" cho anh, ban phát cho anh khi anh sử dụng chính sức lực, chính đồng tiền mồ hôi nước mắt của anh mà mua lấy niềm vui bình an, mua lấy hạnh phúc gia đình.
Hiểu rất đơn sơ, nôm na rằng “sợ Chúa cắt viện trợ” có thể còn mang tính tiêu cực, nhưng thực chất, việc làm của anh và cả chị nữa đã là rất tích cực với chức vụ quản lý của anh, chị.
Qua câu chuyện anh chị thợ hồ và dưới ánh sáng Lời Chúa hôm nay, hy vọng chúng ta có cơ hội để suy tư về cách sử dụng những gì Chúa ban cho chúng ta: sự sống, tự do, thời gian, sức khỏe, nhà cửa, tiền bạc… có sinh lợi gì cho Thiên Chúa, cho sự sống đời sau của chúng ta không.
Chúng ta đã phung phí sức khỏe vào những chuyện vô bổ: rượu chè, hút chích, ăn uống, chơi bời quá độ, tự đày đọa bằng những nỗi buồn chán, thất vọng… mà Chúa vẫn chưa cắt viện trợ.
Chúng ta đã lạm dụng tự do để dùng tài năng, sức khỏe, sắc đẹp, khôn ngoan, tiền bạc, phương tiện… để sử dụng vào những việc lỗi lề luật yêu thương của Chúa.
……….
Chúng ta là những quản lý bất trung !
Lạy Chúa, xin cho chúng con quản lý chân chính những gì Chúa trao ban cho, để sinh ích lợi cho phần rỗi của chúng con và mọi người. Amen.
Ngày nay, chúng ta nhận thấy rất nhiều người dùng tiền để mua chuộc, để thăng quan tiến chức; hay có những người giàu vì làm ăn bất chính, nên họ thường rửa tiền để tránh sự dòm ngó của người khác. Những người như thế thường bị xã hội lên án vì hành động bất nhân của họ. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn “Người quản gia bất trung” đã làm thiệt hại cho ông chủ, nên đã bị ông chủ thải hồi.
Nhưng mặt khác, Chúa Giêsu lại khuyên họ hãy học theo gương người quản gia, vì ông ta đã biết dùng tiền của bất chính để mua chuộc bạn hữu, đã biết lo cho tương lai vận mệnh của mình. Phải chăng Chúa khen và cổ súy cho hành vi sai trái này của người quản gia ? Vậy nếu điều đó là tốt thì tốt ở chỗ nào ? Và nếu sai thì sai ở đâu ? Chúng ta cùng nhau suy niệm.
Người quản gia bất trung là ai ?
Thoạt đầu, mới nghe dụ ngôn này, chúng ta rất dễ bị hiểu lầm. Tuy nhiên, chúng ta cần phải đặt mối tương quan của chúng ta vào toàn bộ tổng thể bản văn, cũng như văn hóa của người Do Thái thời bấy giờ, thì mới hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta điều gì !
Với người Do Thái thời bấy giờ, có nhiều người giàu có, họ thường lắm đồn điền ở nhiều nơi. Ông chủ không thể hiện diện cùng lúc tại nhiều chỗ được, vì thế, họ thường đặt những quản gia để trông nom kho lẫm và thay mặt mình để quản lý, điều hành mọi công việc.
Như vậy, người quản gia có một thế giá rất đặc biệt trong êkíp lãnh đạo. Ông chỉ đứng đằng sau chủ của ông; và có quyền thay mặt cũng như đại diện ông chủ khi ông vắng nhà; đồng thời có toàn quyền sắp xếp công việc cho những người làm công. Tuy nhiên, ông ta không có lương như những người làm công bình thường, ông ta chỉ có quyền thu xếp công việc và tìm cách làm lợi cho ông chủ. Khi không có lương như vậy, ông ta tìm cách cắt xén và ghi tăng thêm số lượng để lấy những nguồn lợi bất chính đó về cho mình.
Quả thật, người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay đã tận dụng cơ hội để làm ăn bất chính, hầu thu tích của cải cho mình. Nhưng thật không may, ông ta đã bị chủ phát hiện và quyết định đuổi việc: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó ? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa !” ( Lc 16, 2 ).
Trong hoàn cảnh này, ông ta suy tính: “Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !” ( Lc 16, 3 – 4 ). Quả thật, không lẽ từ một người quản gia mà nay lại đi cuốc đất, hay đi ăn mày ? Ông ta không thể làm được những chuyện đó vì những mâu thuẫn với con người và vai trò của ông ! Trước khi bị đuổi chính thức, ông vẫn còn đủ tư cách là đại diện cho ông chủ, và trong thời gian chờ đợi để bàn giao sổ sách, giấy tờ, ông ta tìm cách lấy lòng và tạo bạn hữu bằng việc giảm nợ cho cho những con nợ:
“…Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ? Người ấy đáp: Một trăm thùng dầu ôliu. Anh ta bảo: Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy ? Người ấy đáp: Một ngàn giạ lúa. Anh ta bảo: Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi'” ( Lc 16, 5 – 7 ).
Một cách giải quyết hết sức khôn khéo. Ông vừa được tiếng là tốt bụng, lại còn thêm được rất nhiều bạn bè, hòng khi bị đuổi việc, ông được người ta đón rước mình như một vị đại ân nhân của họ. Và cuối cùng, ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó hành động thật khôn ngoan.
Như vậy, Chúa Giêsu có phải khen người quản gia bất lương vì sự bất lương của hắn ta không ? Thưa không ! Ngài khen là khen cái tài khôn khéo, biết tính trước cho tương lai vận mệnh của mình, và biết dùng tiền của bất chính để tạo nên bạn hữu. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy biết lo cho tương lai của mình, bởi vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Cuộc sống là một cái gì mong manh, ta có thể ra đi bất cứ lúc nào, nên: “không biết lo xa, ắt phải rầu gần”.
Phần cuối của dụ ngôn, như một mệnh lệnh, Chúa Giêsu nói: "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” ( Lc 16, 9 ); mặt khác, Ngài cũng dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền của ở đời này, làm sao tiền của trở thành nô lệ, đày tớ cho chúng ta, chứ đừng biến nó thành ông chủ của mình: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” ( Lc 16, 13 ).
Sứ Điệp Lời Chúa
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta biết rằng: mọi sự đều là của Chúa, và chúng ta chỉ là người quản lý mà thôi. Mà nếu chỉ là quản lý, thì phải biết giới hạn, phải biết được vai trò của mình đến đâu và phải lo chu toàn trách vụ mà ông chủ trao cho, vì thế, ta phải trung thành và giữ chữ tín trong khi làm việc: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” ( Lc 16, 16 ).
Cần tránh những hình thức lạm quyền và sa đà vào tình trạng tội lỗi. Hãy biết chia sẻ cho người khác để làm giàu trước mặt Thiên Chúa và có lợi cho phần hồn của mình. Chia sẻ bác ái được ví như một sự cầu lần, nay người, mai ta: “Người giàu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng người nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Thật thế, “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm” ( Cn 19, 17 ).
Cuối cùng, ta phải biết lo cho tương lai của chính mình như người quản gia trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” ( Lc 16, 9 ).
Hãy mua lấy Nước Trời và làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trách nhiệm hàng đầu của chúng ta. Thật vậy, tiền của vật chất rồi sẽ qua đi, nhưng chỉ có Chúa là tồn tại, vì thế hãy tìm mọi cách mà xây dựng, mua lấy Nước Trời cho cuộc sống mai hậu. Hãy biết lo cho tương lai của mình cách cẩn trọng.
Sống Lời Chúa Hôm Nay
Thế nhưng, trong xã hội hôm nay, nhiều người có những tư tưởng tự cao và cho rằng: ta có được như vậy là nhờ công khó của chính chúng ta, mà họ quên mất một điều căn bản rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” ( Tv 127, 1 ). Vì vậy, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa khi ta còn có thể tìm được. Hãy nhạy bén và biết hành xử khôn khéo như người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay.
Câu cảm thán của Chúa Giêsu hôm nay đáng làm cho chúng ta suy nghĩ: “…Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” ( Lc 16, 8 ). Đây là câu nói mang tính khiển trách của Chúa Giêsu về thái độ nhạy bén với những giá trị Nước Trời của mỗi chúng ta. Quả thật, nhiều khi chúng ta gặp phải những cám dỗ, thay vì tìm mọi cách để vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi, thì ta lại như “thiêu thân”, cứ muốn lao mình vào. Biết là những tội đó nguy hại cho phần rỗi của mình, nhưng vẫn cứ ung dung tiến đến và muốn ở lại luôn trong đó, bởi vì nơi đó là vũng lầy, nhưng lại là “vũng lầy êm ái”.
Lý do: vì chúng ta không tha thiết gì đến cuộc sống mai hậu, thậm chí lại còn tìm mọi cách để thoát ra khỏi sự sống thần linh và thay vào đó là một sự sống thể lý thuần túy. Nhưng dù muốn dù không, chúng ta đều phải chân nhận với nhau rằng: cuộc sống trên trần gian này là cuộc sống tạm bợ, hữu hạn. Cuộc sống mai sau mới là cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, ngay lúc này, hãy biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái; đồng thời biết sử dụng tiền của là những vật hư nát để mua lấy Nước Trời, và, ”Trong mọi sự phải nhắm chắc cái cùng đích” hầu chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp.
Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra sự yếu hèn của mình, hầu thoát ra khỏi những sự chóng qua ở đời này mà biết lo tìm phần rỗi cho mình trong cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con biết chọn Chúa và những giá trị tốt trong cuộc đời. Amen.
“Khôn chết, dại cũng chết, biết thì sống”, có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên vô tình mà ông cha ta có được những câu châm ngôn để đời như vậy. Quả thật, để mà tồn tại được trên cõi đời này, khôn quá cũng chết, dại quá cũng chẳng xong, biết người, biết ta, hiểu đời, hiểu người thì sống. Thế nhưng, thế nào là “biết” đây ? Cái “biết” theo nghĩa trần gian chính là sự khôn khéo, nhạy bén, biết lựa thời, lựa thế mới hòng thành công.
Tuy nhiên, giữa thời buổi nhiễu nhương sự sáng bóng tối này, thế nào mới là khôn, thế nào là dại ? Vì chưng, cán cân của công lý, của sự thật đã bị tiền bạc, quyền lực và địa vị bóp méo. Khi mà mọi trật tự trong xã hội đã bị đảo lộn, đồng tiền đã hóa thân vào đời sống của con người, thì cái khôn vẫn là đồng tiền đi trước !
Dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hai ví dụ điển hình về sự khôn ngoan về tiền bạc. Câu chuyện nói về ông quản gia bất lương toan tính về tương lai: “Mình sẽ làm gì đây ? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gian, sẽ có người đón rước mình về nhà họ.” ( Lc 16, 3 – 4 )
Nghĩ sao làm vậy, ông vội vàng gọi các con nợ đến cho họ viết lại giấy nợ theo số tiền đã được giảm bớt hầu lấy lòng, mua chuộc con nợ. Hành động khôn ranh của ông, cũng chính là sự thật của mặt trái xã hội ngày nay. Nếu cứ sống công minh chính trực theo đạo lý luân thường, hà tất sẽ chịu thiệt thòi mất mát mà thôi. Đức Giêsu đã khẳng định một cách minh xác, cho dù thế nào đi nữa, thì "con cái đời này vẫn khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với đồng loại" ( Lc 16, 8 ).
Con cái sự sáng không thể hành động như thế vì đã có Lời Chúa là ánh sáng chiếu soi họ. Giới răn, lề luật của Chúa không cho phép người tín hữu gian dối tiền của người khác. Người ngoài tôn giáo, lương tâm chân chính cũng không cho phép họ hành động gian tham. Vấn đề ở đây chính là sự buông thả lý trí, nuông chiều đam mê, dục vọng để rồi không còn nghe tiếng lương tâm mách bảo, không còn nghe giáo huấn của Hội Thánh… Người trong hay ngoài tôn giáo nếu cứ mặc sức sống tự do hưởng thụ, đặt nhu cầu lợi ích cá nhân lên vị trí ưu việt, Thiên Chúa và tha nhân, đạo lý và tình người… tất cả đều trở thành thứ yếu, vô giá trị thì không còn gì bất hạnh bằng.
Đụng đến tiền bạc, tức là đụng đến cứu cánh ưu việt của nhân loại. Thế giới ngày nay là thế giới của đồng tiền. Đồng tiền đang bá chủ hoàn vũ. Đồng tiền đã hóa thân, chui vào mọi ngóc ngách của đời sống con người. Không loại trừ bất kể tổ chức nào, nơi đó có lòng tham và ích kỉ, thì đồng tiền hiện hữu và làm chủ. Hơn bao giờ hết, nhân loại hôm nay là nạn nhân đáng thương nhất của đồng tiền, những kẻ nô lệ tội lỗi !
Nếu bạn thuộc về Đức Kytô, tức là thuộc về ánh sáng, tất nhiên bạn không thể suy nghĩ, tính toán hay hành động như kẻ nô lệ của đồng tiền, cái gọi là sự khôn ngoan của bóng tối. Nói như vậy cũng đồng nghĩa với việc phải chịu thiệt thòi, mất mát, thua thiệt ở đời này. Thế nhưng, Đức Giêsu đã khẳng định: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” ( Lc 16, 9 ).
Ngài đã đưa ra cho chúng ta chìa khóa về việc sử dụng tiền bạc sao cho không trở thành kẻ nô lệ nó. Chính là sự bác ái, sẻ chia chứ không phải là sự mua chuộc, đút lót, tham nhũng… Chính những hành động san sẻ yêu thương ấy, là những chỗ dựa vững chắc để bạn có được vị trí ưu việt trên thiên quốc. Bằng không, những chỗ đứng, những chiếc ghế địa vị, chức tước mà nhân loại đang dùng bạc tiền mua chuộc trên thế gian này sẽ nay còn mai mất trong tích tắc, cuộc đời thay trắng đổi đen khôn lường, rồi sự mưu mẹo, xảo trá của thế gian sẽ lấy cắp của bạn bất cứ khi nào.
Đức tính cao quý nhất của con người trong mọi thời đại chính là sự trung tín. Trung tín không chỉ trong việc lớn nhưng trung tín từ những việc nhỏ nhặt, bé mọn, tầm thường trong cuộc sống thường nhật. Trung tín thi hành lề luật Chúa, trung tín trong cách sống, cư xử với tha nhân, không để cho tham vọng, cho đồng tiền làm chủ, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta của cải chân thật không bao giờ hư nát: “Anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ?” ( Lc 16, 11 ).
Lạy Chúa, ai có thể sống nếu không có tiền bạc ? Kẻ nào cho rằng mình không cần tiền thực ra chỉ là kẻ nói dối. Con người cần tiền để sống. Đồng tiền rất quan trọng nhưng không phải là tất cả. Trên tiền còn có Thiên Chúa, còn có tình yêu và công lý. Làm người, con không thể sống nếu như không có tiền. Cho nên hằng ngày con phải tất tả ngược xuôi bôn ba kiếm tiền để bảo tồn cuộc sống. Đó cũng chính là vinh quang của lao động khi con tham dự vào công cuộc sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa.
Thế nhưng, cái thế giới mà Ngài đặt con đến đã không phải là thế giới của ánh sáng, của sự thiện, khi đồng tiền mỗi ngày càng lấn sâu vào mọi ngóc ngách đời sống. Nếu không thuộc về nó, con lại càng bị đẩy lùi, bị hủy diệt.
Xin giúp con, luôn ý thức mạnh mẽ rằng, cho dẫu đồng tiền thực sự quan trọng và cần thiết nhưng vẫn không thể đánh đổi với Thiên Chúa, tình yêu và sự sống vĩnh cửu của Ngài.
Xin giúp con đừng vì đồng tiền mà thiệt hại đến tha nhân, đừng vì đồng tiền mà đánh mất trái tim trung tín. Cho dù có phải làm kẻ nghèo, cho dù có mất đi tất cả, con cũng không thể vì tiền mà đánh mất Thiên Chúa.
Xin giúp con biết sống không phải vì của cải bất chính hay hư nát mà chính là vì của cải chân thật Thiên Chúa sẽ ban tặng mai hậu trên thiên quốc.
Chủ đề của phần phụng vụ hôm nay là việc sử dụng tiền của hay nói đúng hơn đó là vấn đề tiền của trong mối liên hệ giữa người với người.
Thực vậy, qua bài đọc I, tiên tri Amốt loan báo những hình phạt Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên dân Do Thái, bởi vì họ đã đàn áp những kẻ nghèo khổ bần cùng, nghĩa là họ đã coi trọng tiền của hơn con người. Đặc biệt bài đọc thứ III với câu chuyện về người quản lý bất lương đã biết dùng đồng tiền để mua chuộc nhân nghĩa và qua đó, Chúa Giêsu đã nói về việc sử dụng tiền của.
Tại Galilêa, các chủ đồn điền thường không sống nơi trang trại của mình, trái lại họ trao phó công việc khai thác cho một người quản lý và các tá điền. Người quản lý sẽ hành động theo ý mình nhưng thỉnh thoảng phải tính sổ với chủ. Câu chuyện đã trình bày một trường hợp kém may mắn, đó là ông chủ đã gặp phải một tên quản lý bất lương. Hắn ta lợi dùng cơ hội để biển thủ tiền bạc và hoa lợi của chủ, đến độ người ngoài cũng hay biết và tố cáo với chủ. Ông chủ cho đòi người quản lý đến tính sổ và sau đó sẽ bắt phải nghỉ việc. Người quản lý thấy mình bị đặt trước một tương lai đen tối và để đối phó với tình thế, cũng như để bảo đảm cho tương lai, hắn đã lợi dụng những ngày còn lại để sửa đổi văn tự của các con nợ. Những con nợ này có thể là các tá điền, nhưng cũng có thể là các người mua bán nông sản. Số nợ này tính ra không phải là nhỏ. Một trăm thùng dầu, vị chi khoảng 4.500 lít. Rồi lại 1000 giạ lúa nữa. Đồng thời phần được bớt đi cũng rất lớn, người thì 50% kẻ thì 20% nghĩa là số nợ được bớt đi đủ lớn để con nợ phải mang ơn tên quản lý và rồi sẽ phải trả ơn bằng cách rước hắn ta về nhà một khi hắn ta bị thôi việc.
Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại khen tên quản lý gian dối và bất lương ấy? Thiết tưởng để trả lời câu hỏi này chúng ta cần phải hiểu cho đúng ý tưởng của Chúa. Dĩ nhiên ở đây Chúa không khen ngợi sự bất lương, sự gian giảo của hắn, nhưng điều Người muốn chúng ta bắt chước đó là phải có thái độ tỉnh táo, khôn ngoan và nhanh nhẹn, nhận ra tính cách cấp bách của thời thế, để rồi có được những hành động thích hợp theo đúng những đòi hỏi của Chúa, chứ không phải là chạy theo những toan tính của người đời. Một lần nữa, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một sự chọn lựa. Thời buổi đã đến và chúng ta phải dứt khoát chọn lựa giữa việc làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền của. Vậy chúng ta đã thực sự chọn lựa hay chưa?
Dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, tiền của có sức làm cho con người trở thành nô lệ, nó là như một thứ thần tượng của con người, hay như chúng ta thường bảo: tiền của là một tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, bởi vì nó sẽ bóp nghẹt những tình cảm tốt đẹp của chúng ta đối với Chúa cũng như đối với anh em. Bao lâu tiền của chỉ là phương tiện thì nó còn đem lại lợi ích cho chúng ta. Thế nhưng, một khi nó đã trở thành mục đích của đời sống, nó sẽ khiến chúng ta quên lãng Thiên Chúa và sẵn sàng bóc lột và làm cho người khác phải khổ đau và túng thiếu.
Warren Buffett từng nói: “Tôi chỉ ngồi trong văn phòng và đọc suốt ngày.” Ông ước tính đã dành khoảng 80% một ngày làm việc để đọc và suy nghĩ. Khi được hỏi làm thế nào để khôn ngoan hơn, Buffett từng đưa ra một chồng giấy và nói: “Hãy đọc 500 trang như thế này mỗi ngày. Đó là cách mà kiến thức hình thành, giống như lãi kép.”
Tờ The Omaha World-Herald viết: “Khi bắt đầu công việc đầu tư, ông ấy thậm chí còn đọc tới 600, 750 trang, thậm chí là 1.000 trang mỗi ngày.” Nhưng cách bạn đọc cũng là một vấn đề. Bạn luôn phải phản biện và động não. Bạn cần phải có chính kiến. Buffett từng nói rằng công việc của ông là thu lượm thông tin, đôi khi xem xét xem liệu thông tin đó có dẫn tới hành động nào không.
Lấy đâu ra thời gian để đọc ? Đó là trích ra khoảng 1 giờ trong thời gian biểu để dành riêng cho bản thân. Trong một bài phỏng vấn cho tờ The Snowball, Buffett đã kể một câu chuyện: Charlie, một luật sư còn rất trẻ, có thể kiếm được 20 USD/ giờ. Và ạnh đã tự hỏi rằng: “Ai sẽ là khách hàng đáng giá nhất của mình ?” Rồi anh quyết định người đó chính là bản thân. Vì thế, anh đã bán cho chính mình một giờ mỗi ngày. Cứ mỗi sáng sớm, anh lại dành một giờ đó để nghiên cứu các dự án xây dựng và các thương vụ bất động sản. Ai cũng nên là khách hàng của chính mình, bán cho bản thân một giờ mỗi ngày, rồi sau đó làm việc cho người khác.”
Tuy nhiên, đọc thôi chưa đủ. Chẳng có ai không đọc nhiều mà lại khôn ngoan cả. Bạn phải có tinh thần tiếp thu các ý tưởng và xét đoán. Một cách khác để khôn ngoan hơn ngoài việc đọc sách, là hãy giao lưu với những người không ngại phản biện lại ý tưởng của bạn. ( Nguyễn Thảo, Warren Buffett làm gì để khôn ngoan hơn mỗi ngày ? Business Insider ).
Sự khôn ngoan của tỷ phú Warren Buffett làm giàu đời này, có thể nêu gương sáng cho tín hữu Kitô học cách làm giàu đời sau. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy trở nên người quản lý trung tín và khôn ngoan.
Lectio Divina
Thay vì chúi mũi theo dõi, nghiên cứu, các chỉ số chứng khoán Dow Jones, Nasdaq, Nikkei, Eur… nhấp nháy, trồi sụt trên Phố Walls, thì người Kitô hữu "cảo thơm lần giở trước đèn", tìm đọc Lời vàng ý ngọc cao quý, luôn cập nhật. “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” ( Lc 4, 22 ).
Hiện nay, Giáo Hội đang tích cực cổ suý tất cả thành phần Dân Chúa thực hiện Lectio Divina. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II giải thích cặn kẽ: “Cách đặc biệt, việc lắng nghe Lời Chúa cần phải trở nên một cuộc gặp gỡ đầy sức sống, theo truyền thống xa xưa, những vẫn còn hiện đại của Lectio Divina, cho ta rút ra từ bản văn Kinh Thánh, một lời sống động chất vấn, hướng dẫn và đào luyện cuộc sống.” ( Tông thư Bước Vào Thiên Niên Kỷ mới, 2001 ).
Lectio Divina bắt đầu bằng việc ĐỌC ( lectio ) đoạn Kinh Thánh, gợi lên một câu hỏi, nhằm hiểu biết chính xác nội dung đích thực của đoạn văn, tự nói lên điều gì ?
Sau đó là SUY GẪM ( meditatio ) đặt câu hỏi: Đoạn Kinh Thánh nói gì với chúng ta ?
Tiếp đến là CẦU NGUYỆN ( oratio ) đưa ra một câu hỏi khác: Đáp lại Lời Chúa, chúng ta nói gì với Chúa ?
Sau cùng là CHIÊM NIỆM ( comtemplatio ) để phán đoán về thực tại, chúng ta nhìn bằng chính cái nhìn của Thiên Chúa, như một hồng ân Chúa ban. Chúng ta tự hỏi: Chúa yêu cầu chúng ta hoán cải trí, lòng và cuộc sống thế nào ? ( Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục khoá XII, Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội ).
Lời Chúa luôn mãi hữu ích, sáng giá, cập nhật, viên mãn, bất biến và vĩnh cửu, không bao giờ xa xưa, cũ kỹ, lạc hậu: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” ( Lc 21, 33 ).
Tóm lại, Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi ( Tv 119, 105 ). Ai nghe và đem thực hành Lời Chúa là đầu tư khôn ngoan, dẫu thế gian mãi chê bai, là dại khờ. “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe Lời Tôi và tin vào Ðấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống" ( Ga 5, 24 ).
Hãm mình
Warren Buffett ước tính đã dành khoảng 80% một ngày làm việc để đọc và suy nghĩ. Không buông mình hưởng thụ lạc thú do tiền tài đem lại, luôn giam mình trong văn phòng, vắt kiệt sức lực, khả năng, luôn hăng say tìm kiếm, tái đầu tư vào những lãnh vực tiềm năng. Tài sản Warren Buffet không ngừng tăng từng ngày.
“Thời cùng tận của vạn vật gần đến rồi. Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được” ( 1Pr 4, 7 ). Vậy, người Kitô hữu cũng khôn ngoan noi theo gương chiến đấu bản thân, chẳng dại dột, xung phong làm nô lệ cho bản năng, xác thịt, tiền tài, cám dỗ vị kỷ, ảo ảnh phù phiếm. Chỉ có thể trục xuất ma thiêng quỷ dữ ra khỏi tâm khảm bằng vũ khí cực kỳ tiến bộ, lợi hại. Đó chính là bom tấn ăn chay, cầu nguyện, khấn xin Chúa Thánh Thần không ngừng trang bị, trợ lực chiến đấu. “Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” ( Mt 17, 21 ).
Cho đi
Năm 2015, Warren Buffett đã tặng khoảng 2,84 triệu USD cổ phiếu của Berkshire Hathaway cho Qũy Bill and Melinda Gates Foundation, một quỹ từ thiện tập trung vào cải thiện vấn đề chăm sóc sức khỏe, giáo dục và xóa đói giảm nghèo. Tuy con số đóng góp vào từ thiện khá ấn tượng, nhưng đó chỉ là số lẻ nhỏ nhoi, so với thu nhập cả năm của tỷ phú Buffet. Người theo Đức Kitô không chỉ đóng góp của thặng dư, mà còn cần cho đi hơn nữa, như chia sẻ cả miếng bánh hàng ngày của mình với tha nhân. Thay vì tích luỹ tài sản, nô lệ cho lòng tham vô độ, thì chia sẻ, biếu, tặng, cho đi của cải, để tích luỹ tài khoản ở Ngân Hàng Thiên Quốc, luôn hoạt động 24/7,“nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.” ( Mt 6, 20 ).
“Quả vậy, trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người” ( 1Cr 1, 5 ). Một khi đã thấm đậm Tin Mừng, cùng đem thực hành, người Kitô hữu chẳng còn nghèo nàn tình thương, không còn vô cảm với tha nhân cùng cực, đau khổ, không còn vị kỷ, cũng chẳng còn chịu giam hãm trong bản thân hẹp hòi, đố kỵ, ganh ghét, gian dối, mà sẵn sàng cho đi tất cả, đến cả mạng sống.
Do vậy, cho đi, khoan dung, tha thứ, yêu thương còn là một mối quan trọng trong Bát Phúc: “Phúc cho những người biết xót thương, vì họ sẽ được thương xót” ( Mt 5, 7 ). Thánh Phaolô đã tâm sự với các kỳ mục tại Hội Thánh Êphêsô về vấn đề yêu thương cho đi: “Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ Lời Chúa Giêsu đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận” ( Cv 20, 35 ).
“Con đừng hoài nghi lúc thấy đường hy vọng vắng bóng những người mà thế gian cho là khôn ngoan. Chúa Giêsu đã báo trước: "Lạy Cha, con đội ơn Cha vì Cha đã ẩn dấu những điều này cho những người thông minh, khôn ngoan và Cha đã bày tỏ cho kẻ thấp hèn." Con chỉ cảm tạ Chúa, vì đã ban cho con biết sự khôn ngoan thật.” ( Đường Hy Vọng, số 551 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con tránh say mê tích luỹ tài sản trần thế, mà luôn tích cực quan tâm tích luỹ tài sản trên trời, qua sự chỉ bảo của Tin Mừng.
Khấn xin Mẹ cầu bầu, nâng đỡ, giúp sức chúng con trở nên người quản lý trung tín và khôn ngoan. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con siêng năng cầu nguyện, cũng như biết hãm mình, yêu thương tha nhân, cùng sẵn sàng cho đi mọi sự. Amen.
Có một em bé hỏi cha rằng: cha ơi, có phải “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” hay “gieo gió gặp bão” là quy luật của cuộc đời phải không cha?
Người cha trả lời: Đúng đó con, quy luật cuộc đời là thế! Hễ “gieo gì thì gặt nấy”. Trồng cây cam thì sẽ ra trái cam. Trồng cây quýt thì ra trái quýt. Quy luật là nhất định, không thay đổi. Chúng ta đều biết những điều như: không học bài thì không thi đậu, không biết giữ sức khỏe thì sẽ sinh bệnh, biết siêng năng làm việc thì sẽ thành công trong sự nghiệp, làm việc tốt thì có nhiều bạn bè trợ giúp khi hoạn nạn v.v ...
Vâng, ai cũng muốn nhận những cái hay cái tốt về mình. Ai cũng muốn gặt hái thành công. Nhưng những điều ấy không bao giờ tự dưng có mà là kết quả của những nỗ lực, gắng sức vun trồng. Ai cũng muốn được cuộc đời đãi ngộ vinh quang hạnh phúc, nhưng muốn được nó phải trải qua hy sinh đau khổ mới đạt được vinh quang. Ai cũng muốn được người khác quý mến, nhưng có mấy ai dám chịu thiệt thòi để trồng cây phúc để đời về sau?
Chuyện xưa kề rằng: Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi:
- Ngài có định mua gì về không? - Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà Ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý Ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
“Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước?”
Mạnh Thường Quân đã biết mua cây phúc khi ông xóa nợ cho dân. Ông biết thân phận của mình “quan nhất thời dân vạn đại” nên đã biết mua cây phúc để phòng khi “sa cơ thất thế”. Có thể nói ông là một quản gia khôn ngoan, biết dùng của cải để mua lấy bạn bè, để lấy phúc cho mình về sau. Và ông đã có một kết cục tốt đẹp khi ông bỏ quan trở về thường dân lại được nhiều người thương mến đón rước. Đó là quy luật cuộc đời. Có gieo có gặt. Cuộc đời con người muốn có bạn bè giúp đỡ, chia sẻ khi hoạn nạn thì cũng phải quảng đại dấn thân cho anh em trong hoàn cảnh và khả năng của mình. Có như vậy chúng ta mới có bạn bè trong lúc nguy nan.
Là người ky-tô hữu chúng ta còn tin có thưởng phạt đời sau. Công hay tội tùy thuộc vào cách sống của chúng ta hôm nay. Thiên Chúa yêu thương nên ban cho chúng ta trông coi gia sản của Người. Ngài muốn chúng ta biết sử dụng gia sản cách khôn ngoan chính là làm phúc cho kẻ khác. Chúa không cho chúng ta chức vụ để “ăn trên ngồi trốc” thiên hạ. Chúa không cho chúng ta tài năng để vun quén cho bản thân. Chúa cũng không cho chúng ta sự giầu có để tích lũy cho riêng mình. Chúa trao cho chúng ta chức vụ, tài năng, sự giầu có để ta hành động cho Thiên Chúa. Điều mà Chúa muốn nơi chúng ta là làm giầu có trước mặt Chúa bằng công đức của mình. Chúa cho mỗi người một công việc tùy theo khả năng của chúng ta, và Ngài mong muốn chúng ta biết chu toàn một cách chu đáo. Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta là những quản gia của Thiên Chúa. Hãy biết sống trung tín trong bổn phận của mình. Đừng biếng nhác. Đừng mê ngủ trong tội lỗi đam mê. Hãy siêng năng làm việc để sinh lợi những nén bạc Chúa trao. Mỗi người chúng ta đều phải trả lẽ trước mặt Chúa về những việc chúng ta làm và những việc đáng lý phải làm mà chúng ta đã từ chối bỏ qua. Xin Chúa cho chúng ta luôn là những quản lý trung tin trong bổn phận của mình và hoàn thành tốt trách nhiệm đời mình theo như thánh ý Thiên Chúa. Amen.
Chúa đã thề rằng: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng”. Có gì khiến Chúa phẫn nộ đây! Mấy người buôn bán chỉ tìm lợi nhuận để làm giầu, đến nỗi ngày sabbát trở nên một rào cản đối với công việc kinh doanh của họ trên lưng những người nghèo. Tuy nhiên, họ không thể viện dẫn khủng hoảng để bảo đảm cho công việc của mình. Vào thời bình an, kinh tế thịnh vượng; người ta tin vào những người tín hữu sống gương mẫu để diệt trừ tận gốc việc tôn thờ ngẫu tượng trong đất nước, chấm dứt sự tôn thờ các thần Baal.
Nguồn gốc của tội lỗi thể hiện trong tương quan giữa con người với ngày của Chúa, ngày sabbát. Ai không biết ngày sabbát là người không biết, không tin vào Thiên Chúa, người đó phục vụ một ông chủ khác là: Tiền bạc. Sự bất chính làm cho cán cân công lý bị sai lệch để sống ngày sabbát.
“Ta sẽ không bao giờ lãng quên”, Thiên Chúa tuyên bố một cách trang trọng như thế. Con người có thể làm quen với sự bất chính và biện minh cho tội lỗi của mình, nhưng thực ra lại chộp lấy một ngày khác. Một xã hội được xây dựng trên sự bất công là xúc phạm tới Thiên Chúa. Vì sự tôn thờ ngẫu tượng còn nguy hại hơn tôn thờ thần Baal: Tiền bạc làm cho lòng người tham lam vô độ và biến tha nhân thành nô lệ;
Vũ khí đầu tiên để chống lại sự tha hóa này là cầu nguyện. Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Trước tiên, cha khuyên hãy cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn cho mọi người: cho vua chúa, và tất cả những bậc vị vọng, để chúng ta được sống bằng yên vô sự, trong tinh thần đạo đức và thanh sạch”. Ngài giải thích: “Đó là điều tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa.” Ý Chúa “muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý”, có nghĩa là, để ra khỏi chốn tù đầy bất công, con người cần phải biết đến Thiên Chúa tình yêu, Ngài đã yêu thương họ và sống cho tình yêu ấy. Chính vì vậy, mỗi Thánh lễ, lời cầu nguyện của chúng ta là phổ quát. Khi xin Thiên Chúa cho chúng ta ơn nhận biết tình yêu của Ngài
đối với nhân loại, chúng ta xin Ngài chỉ cho chúng ta biết hành động thế nào để xây dựng một thế giới công bằng và văn minh hơn.
Trong một thế giới như thế, tương quan hỗ tương là cần thiết: người ta sẽ gọi nhau là anh em. Để minh họa, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn. Khung cảnh diễn ra nơi nhà người giầu, có một viên quản lý, khi thấy anh ta lừa đảo, dối trá. Chủ liền cách chức và bắt tính sổ, không ai hay biết việc anh quản lý nghĩ gì. Chỉ thấy anh giảm nợ cho các con nợ của ông chủ. Anh ta dễ dàng hào hiệp với sự giầu có của người khác! Thật là lạ, ông chủ khen anh...không phải vì anh lương thiện, cho bằng anh đã khôn khéo trong cách đối xử với đồng loại. Đây là điểm sáng cho tất cả người kitô hữu chúng ta. Đức Giêsu cũng bảo chúng ta: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.” Thật vậy, toàn bộ đời sống ta hướng về Chúa, và chúng ta được mời gọi nhìn mọi sự trên thế gian này như là phương tiện để lắm bắt lấy. Tiền bạc là một phương tiện, người quản lý gian dối đã dùng. Chúng ta sử dụng tiền bạc với tinh thần siêu nhiên như Thiên Chúa mời gọi. Vậy, hãy làm phúc hoặc ký gửi sinh lời để giúp đỡ, hoặc tha nợ cho những người nghèo mà, chính họ mai sau sẽ đón tiếp chúng ta vào nhà của họ, ngày mà thần chết sẽ đến để chia rẽ chúng ta với của cải tiền bạc. Nhà của người nghèo như Đức Giêsu dạy chúng ta, chính là Nước Thiên Chúa! Vậy hôm nay, hãy cho đi để mai sau được nhận lãnh nơi nhà Cha trên trời.
Tất cả chúng ta, những người đã chịu phép Rửa tôi, đều được đặt làm người quản lý các ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại ích kỷ, khép kín lòng mình trước sự độ lượng của Chúa Thánh Thần? Tại sao ta lại dập tắt lòng trắc ẩn của Chúa Thánh Thần, và mua anh với sự nghèo hèn của họ? Hãy sẻ chia, hãy phân phát tất cả những gì chúng ta đã nhận lãnh, như người quản lý khôn khéo. Đây là thái độ làm hài lòng ông chủ và bảo đảm cho chúng ta có một chỗ trong nhà Cha trên Trời.
Đây là sứ điệp trung tâm của đoạn Tin Mừng: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được”. Chúng ta quyết định ung dung “làm tôi Tiền của”, trong khi chúng ta là con cái Thiên Chúa và hạnh phúc vì làm con; tại sao lại tôn thờ thần tượng tiền của, cùng với thế gian này sẽ qua đi và cửa Nước Trời sẽ đóng lại? “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ.” Chỉ có một chủ chứ không có hai chủ. Ai làm đầy tớ cho tiền bạc, người ấy đương nhiên không có quyền làm ông chủ; chính họ mang trên mình cái ách nô lệ này. Sự giầu có không sinh ra với chúng ta, không theo chúng ta đến cùng đích của cuộc đời. Trái lại, Đức Kitô, ở với chúng ta vì Ngài là sự sống... Đừng là những tên nô lệ. Quả thật, đồng tiền đúng ra
không có quyền, nó là tên nô lệ bất chính (gian dối).
Đức Giêsu cảnh cáo chúng ta, tiền của còn đáng sợ hơn khi nó làm cho chúng ta tin vào sức mạnh của chính mình, tự cho mình là hoàn hảo. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy làm phúc và cho đi. Nếu người nghèo cần đến người giầu, thì người giầu cũng cần đến người nghèo, vì sự chia sẻ là nền tảng của đời sống huynh đệ và hạnh phúc. Người này học người kia sự đón nhận người khác là rất cần thiết cuộc sống, ai cho đi kẻ ấy phải là người khiêm nhường nhất.
Tiền của nguy hại cho tình bằng hữu, nó cũng nguy hiểm cho tương quan của chúng ta với Chúa. Đức nguyên Giáo hoàn Bênêđictô XVI nói: “Tiền bạc cho phép chúng ta hạnh phúc và làm ra của cải trên thế giới, nhưng tiền của mà thôi không đủ mang đến hạnh phúc cho chúng ta. (...) hạnh phúc là một cái gì đó mà tất cả chúng ta đều mong muốn, nhưng một trong những thảm kịch của thế gian này là con người không bao giờ tìm thấy, vì nó không ở chỗ con người tìm kiếm. Chìa khóa hạnh phúc rất đơn giản: hạnh phúc thật chỉ thấy ở nơi Thiên Chúa. Chúng ta phải can đảm đặt hy vọng tuyệt đối ở nơi Thiên Chúa, không phải nơi tiền của, nơi sự thành công thế gian, hay nơi người đời, nhưng là ở nơi Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy những khát vọng sâu xa nhất của lòng người” (Thư gửi các bạn trẻ trường công giáo Twickenham).
Bây giờ chúng ta tự hỏi: chúng ta đặt hy vọng vào ai? Chúng đã chọn hạnh phúc nào: hư không qua đi với thế gian này hay sự khiêm nhường thật để đến cùng Thiên Chúa?
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con cách sử dụng tiền bạc và của cải ở thế gian này cách tốt nhất để chuẩn bị cho đời sống mai sau. Xin gìn giữ chúng con trong Chúa Thánh Thần, giúp chúng con tôn trọng phẩm giá anh em. Như thế, chúng con sẽ làm vui thỏa lòng Cha trên Trời và góp phần cho triều đại Nước Chúa ở đây và ngay bây giờ. Amen.
Dụ ngôn được thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay thường gây nhiều vấp phạm khi trình bày thái độ của người quản gia tinh khôn như là được phép. Tuy vậy, cần phải đặt dụ ngôn vào toàn thể văn mạch của Tin Mừng và trong toàn bộ của phần phụng vụ Lời Chúa.
Tin Mừng không cho biết người quản gia bất lương ở chỗ nào, chỉ biết rằng anh ta phung phí tài sản của chủ. Anh bị gọi đến và nhận được thông báo phải nghỉ việc. Trước tương lai đen tối, anh ta phải tính toán. Không thể nào ngổi yên mà chịu chết đói. Nhưng làm gì bây giờ? Không có sức để làm nghề nông, còn đi ăn xin thì xấu hỗ. Và anh đã tìm được một kế: lừa bịp ông chủ và gây thiện cảm với các con nợ của chủ. Những người này phải giúp lại anh ta, ít là tạm thời, cho đến khi anh ta kiếm được địa vị tương tự. Sự khéo léo tính toán này có tính cách quan trọng.
Như vậy, khởi đầu người quản gia đã tạo cho mình một thế giới nhỏ hẹp, và anh ta nghĩ rằng tương lai mình được bảo đảm. Chỗ cậy dựa của anh ta, đó là tiền bạc anh đã đánh cắp của ông chủ. Nhưng mảnh đất nhỏ hẹp, nơi anh đang thu mình, lại nỗ tung, và anh lại phải đối diện với những nguy cơ của cuộc sống, phải đỗ mổ hôi để kiếm miếng ăn.
Bấy giờ anh ta lại phải tìm cách lập lại vòng an toàn cho mình. Cái vòng này cũng vẫn dựa trên tiền bạc. Nhưng phải có sự trợ giúp của người khác, cần có sự đỗi chác: tôi trừ số nợ anh mắc với chủ, và ngày mai, anh nhớ đón tiếp tôi.
Thật là khôn khéo. Chính Đức Giêsu đã ghi nhận ở cuối dụ ngôn. Khi con người muốn tìm sự an toàn cho mình, họ đem hết mọi nỗ lực, mọi khả năng để làm điều đó.
Thế là mối tương quan giữa người quản gia và ông chủ, lẽ ra phải dựa trên sự tin tưởng, công bằng và tự do, lại được đặt trên sự hư hoại, trên mưu mẹo. Tất cả mọi phía đều bị hạ thấp.
Thực vậy, sự an toàn đó chỉ có tính cách giả tạo, tạm bợ, vì nó dựa trên sự đỗi chác, trên sự ngờ vực.
Mặc dù khen ngợi sự khôn khéo của người quản gia, nhưng Đức Giêsu không hề có ý khuyên các môn đệ phải noi theo gương người quản gia. Có chăng, ở đây, Đức Giêsu chỉ muốn đề cập đến thái độ khôn ngoan và mau lẹ trước mầu nhiệm Nước Trời. Trước những vấn đề của trần gian, trước sự an toàn giả tạo, tạm bợ, người ta khôn khéo và mau lẹ, còn trước mầu nhiệm Nước Trời, trước vận mệnh vĩnh cửu của mình, người ta lại hững hờ và chậm chạp. Hẳn là Đức Giêsu cảm thấy đau lòng vì lời giảng dạy của Người, các phép lạ Người làm không giúp các môn đệ ý thức hơn, nhanh nhẹn và nhiệt thành hơn trong việc đi theo Người. Dụ ngôn được kể ra như để cho thấy nét đặc trưng trong sứ điệp của Đức Giêsu. Đọc dụ ngôn nay, người ta liên tưởng đến dụ ngôn cây vả (Lc 16,3-9), và dụ ngôn hai người kiện cáo nhau (12,58-59).
Như vậy, trước đám thính giả hay tò mò, nhưng lại chẳng quyết định gì cả, Đức Giêsu tìm cách cho họ ý thức được tầm quan trọng của tình trạng: họ phải mau mắn lựa chọn khi nghe sứ điệp của Đức Giêsu. Phải quyết định ngay, không thể chần chờ, vì đã quá trễ; hạnh phúc tương lai tuỳ thuộc vào đấy.
Cung cách quản lý mới
Từ đó, Đức Giêsu mời gọi thay đỗi cung cách quản lý. Tiền bạc vẫn cần phải có, nhưng phải khéo léo sử dụng: tiền bạc được sử dụng dựa trên tình bạn, trên sự tin tưởng, sự chân thật.
Theo quan niệm Tin Mừng, tiền bạc có thể là một nguy cơ lớn lao cho con người. "Hạnh phúc thay ai có tâm hổn nghèo khó." Tuy vậy, tiền bạc bị khinh chê không phải vì tiền bạc, nhưng là vì cách sử dụng. Khi người ta lo giữ cho mình, tiền bạc trở thành tai hoạ, còn khi đem bố thí cho người nghèo, tiền bạc trở thành một bảo đảm cho hạnh phúc vĩnh cửu. Chính cách quản lý như thế này cũng chứng tỏ lòng trung tín của một người được giao nhiệm vụ trông coi tài sản của chủ. Có nhiều cách để quản lý tài sản, ở đây là phân phát cho người nghèo, không được coi những của cải mình đang nắm giữ là của riêng mình, để rổi chỉ lo cho những nhu cầu của mình, trái lại, phải luôn nhớ rằng, Thiên Chúa đã trao những của cải đó để mưu ích cho người nghèo. Như vậy, sau khi kêu gọi người tín hữu phải biết khôn khéo, Tin Mừng mời gọi họ hãy sống xứng đáng với lòng tin tưởng Thiên Chúa dành cho họ qua việc trao cho họ sử dụng những của cải trần gian.
Cuối cùng, người ta sẽ phải lựa chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc. Phụng thờ Thiên Chúa có nghĩa là dấn thân cách trọn vẹn, quyết liệt, không hề nghĩ tưởng đến một điều gì khác. Còn khi coi tiền bạc là tất cả, người ta sẽ biến nó thành một vị thần, và phục lạy nó.
Tới đây, người ta nhận thấy rõ giáo huấn về cách sử dụng tiền bạc. Người tín hữu hiểu rằng mình đón nhận của cải là để chia sẻ với người khác đang phải túng thiếu. Nếu họ mải mê với nó, và xử sự như là mình có quyền tuyệt đối, họ đã biến nó thành ngẫu tượng, và như vậy là đụng chạm đến quyền tối thượng của Thiên Chúa. Kẻ thù nguy hiểm nhất của tự do con người là tiền bạc; nó muốn lôi chúng ta ra khỏi Thiên Chúa để đi theo nó.
Như thế, có hai thế giới: một thế giới của tiền bạc, của sự an toàn giả tạo, của sự tính toán hơn thiệt; một thế giới của sự tin tưởng, của tình bạn, của sự ban tặng. Giữa hai thế giới, không thể có sự thoả hiệp. Giữa Thiên Chúa và tiền bạc: người ta phải chọn lựa một trong hai, và khi đã chọn lựa, phải sống theo chọn lựa ấy.
*****
Câu chuyện về người quản gia bất lương nhắc nhở hai giáo huấn: mỗi người phải ý thức về những đòi hỏi của giai đoạn hiện tại, và phải đáp trả ngay tức khắc và không thoái lui trước lời mời gọi của ân sủng. Nếu để lui lại thì sẽ chậm trễ.
Vậy, mỗi chúng ta phải biết sử dụng tiền của: thái độ của người Ki-tô hữu phải thật dứt khoát, không chút lập lờ, đó là sử dụng tiền của cho những ai đang cần đến. Nếu lo tích trữ cho mình, chúng ta sẽ trở thành người sùng bái ngẫu tượng.
Thực là một điều khó khăn, tiền bạc vẫn cần, vẫn phải có, nhưng lại phải vượt qua, phải khước từ như là không có, không phải của mình.
****
Bạn có nhiều của cải? Rất tốt! Cha bạn có tài sản lớn lao và bạn được thừa kế: rất hợp pháp! Nhà bạn đầy những thành quả do công lao vất vả của bạn: chẳng có gì đáng chê trách! Nhưng này bạn, đó không phải là giàu có, vì nó không làm cho bạn được bình an. Nếu bạn yêu quý những của cải ấy, bạn sẽ bị tiêu diệt cùng với nó. Hãy đem tiêu dùng, và bạn sẽ không bị diệt vong. Hãy đem cho, và bạn sẽ nêu giàu có; hãy đem gieo, và bạn sẽ gặt lại được. ... phỏng theo thánh Âu-tinh
Những ngày qua, trên mạng viết rất nhiều bài về Anh Đặng Ngọc Viết.
Hai giờ chiều ngày 11-9, Anh Viết vào tòa nhà Ủy ban Nhân dân thành phố Thái Bình, gởi xe rồi đi tìm Văn phòng của "Trung tâm Phát triển Quỹ đất", lấy ra khẩu súng Anh bắn thẳng vào 5 cán bộ. Sau đó, Anh trở ra lấy xe và đi mất, để lại đằng sau một hiện trường tang tóc.
Buổi chiều cùng ngày, Anh Viết về quê nhà ở xã Trà Giang, huyện Kế Xương, tỉnh Thái Bình. Anh đi bộ ra chùa Đông Sơn và đến hơn 6 giờ, Anh tự kết liễu đời mình bằng hai phát súng tự bắn vào ngực mình. Bảy phát súng nổ, tuy diễn ra ngắn ngủi nhưng có vọng âm xa, sâu lắng, làm cho lương tâm con người trở nên ray rứt. Ranh giới rất là mong manh giữa trái và phải, giữa lương thiện và bất lương, gây nên những cảm xúc nhiều chiều, trái ngược.
Nhà báo Minh Diện đã điểm lại sự kiện và phân tích nguyên nhân của vụ án đau thương này. (x. Ai cho tôi lương thiện, http://bolapquechoa.blogspot.com).
Ngôn sứ Hôsê nhận định về tình trạng xã hội của Israel vào thế kỷ VIII tcn: "Israel vốn là một cây nho sum sê, trái trăng thật dồi dào phong phú; nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng; đất nước càng giàu sang, chúng càng dựng thêm những cột thần lộng lẫy" (Hs 10, 1). Đất càng phì nhiêu, tượng thần càng nhiều, nhận định này của vị Ngôn sứ thế kỷ thứ VIII tcn vẫn đúng cho con người mọi nơi mọi thời, đặc biệt là chính sách đất đai hiện nay ở Việt Nam đã tạo quá nhiều thuận lợi cho tham nhũng trục lợi và bất công tràn lan.
Các Ngôn sứ thời Cựu ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh dễ kẻ nghèo, những người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi lộc.
Vào thế kỷ VIII tcn, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều Giêrôbôam II. Do sự phồn thịnh ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm mua địa vị chức tước; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực... Trong bài đọc 1 hôm nay, Ngôn sứ Amos đã nghiêm khắc cảnh cáo họ: Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn hủy diệt hết những người bần cùng trong cả nước. Các ngươi giảm đấu đong, tăng giá bán và làm nên những chiếc cân non. Các ngươi lấy tiền mua người nghèo khó, lấy đôi dép mà đổi lấy người túng thiếu. Các ngươi bán lúa mục nát. Thế nhưng, Thiên Chúa sẽ không quên lãng và những hình phạt khủng khiếp sẽ được giáng xuống trên các ngươi.
Trong Cựu Ước, giàu có thịnh vượng thường được xem như một sự chúc lành của Thiên Chúa. Nhưng dân Ítraen lại suy nghĩ theo cách của các dân ngoại chung quanh, họ coi sự thịnh vượng của mình là ơn lành của các sức mạnh thiên nhiên mà dân ngoại tôn thờ như những thần linh, thần mưa, thần gió, thần đất. Cho nên vật chất càng phát triển họ càng sùng bái ngẫu tượng nhiều hơn. Đó là một sự phản bội không thể tha thứ: "Chúng là thứ người lòng một dạ hai, rồi đây chúng sẽ phải đền tội" (Hs 10, 2). Thiên Chúa đã kết ước với họ nhưng họ đã thất trung bội tín, lòng họ đã bị chia sẻ. Thay vì tôn thờ một mình Thiên Chúa, nghe theo lời Người dạy bảo và trông cậy vào một mình Người, họ lại chạy theo những thần linh giả dối. Con tim họ đã bị chia sẻ. Ngôn sứ Hô sê mạnh mẽ cảnh cáo Ítraen: "Rồi đây chúng sẽ phải đền tội; bàn thờ của chúng, Đức Chúa sẽ đập tan, cột thờ của chúng, Người cũng sẽ phá đổ" (Hs 10, 2). Cái gì giả trá thì vẫn là giả trá. Đặt tin tưởng vào nó, tất chẳng thể bền. Rồi đây Ítraen sẽ thấy các thần tượng mình sụp đổ, "bấy giờ họ sẽ nói với núi đồi: 'Phủ lấp chúng tôi đi!' và với gò nổng: 'Hãy đổ xuống trên chúng tôi!'" (Hs 10, 8).
Chính kinh nghiệm cho thấy rằng của cải giàu sang thường đưa người ta đi xa Chúa. Sự sung túc mang tới cho người ta nhiều thứ có khả năng cạnh tranh với Thiên Chúa, và thậm chí thay thế Thiên Chúa, ví dụ như địa vị, quyền thế, danh vọng, tình yêu, tiện nghi, lạc thú. Tục ngữ ta đã chẳng nói "có tiền mua tiên cũng được" hay "đồng bạc đâm toạc tờ giấy" đó sao? Của cải làm cho người chiếm hữu nó có cảm thức mãnh liệt rằng mình "toàn năng", muốn gì cũng được! (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay sẽ thấy, người ta thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng của họ và khi đó làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái miễn là càng ngày họ càng giàu có càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.
Cùng một tiếng chuông cảnh tỉnh của các Ngôn sứ, Chúa Giêsu đã dạy: Các con không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được.
Chúa Giêsu không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo, phê phán những người giàu trong việc sử dụng tiền của.
Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và nhân phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.
Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.
Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: "Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ" (Lc 6,20; Mt 5,3). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu có đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x. Lc 16,19-31), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ khác.
Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo "Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác" (1Tm 6,10). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.
Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ...Giá trị của tiền tài hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.
Tiền của là phương tiện để chia sẻ với tha nhân, thánh Phaolô viết cho Timôthêô: "Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ" (1Tm 6,17-18).
Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.
Chúng ta vừa kỷ niệm tròn 15 năm, chủ nghĩa khủng bố tấn công nước Mỹ, giết chết gần 3.000 người cùng lúc (11.9.2001 – 11.9.2016). Kể từ đó đến nay, khủng bố như bóng ma kinh hoàng ám ảnh nhân loại.
Mạng lưới khủng bố ngày càng mạnh, càng lan rộng nhiều vùng, nhiều quốc gia và càng tấn công nhiều nơi trên thế giới hơn. Hành động của chúng táo tợn hơn, tàn bạo hơn. Chúng điên cuồng và hăng máu hơn. Chúng tấn công bất kể người đó là ai, cho dù trẻ con hay phụ nữ. Đối với chúng, càng sát hại được nhiều, càng gây tiếng vang lớn, càng làm cho mọi người hoang mang, càng thành công.
Những kẻ ấy là ai? Đó là những kẻ rất khôn ngoan, biết suy nghĩ, khả năng tính toán rất cao. Vì thế họ biết cách chọn lựa những phương án hành động tội ác, nhưng kín đáo, không ai có thể phát hiện. Rất tiếc sự khôn ngoan ấy đã bị lạm dụng, đã đặt sai chỗ, vì thế trở nên quá nguy hiểm cho nền hòa bình của thế giới, nguy hiểm cho sự sống của con người.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta vẫn nghe nhiều đến sự khôn ngoan. Một người ăn nên làm ra, người ta bảo anh ta khôn ngoan. Ai đó ăn nói lợi khẩu, nói những lời duyên dáng, khoan thai, nói những lời hay, ý đẹp không làm phật ý người nghe, họ được gọi là khôn ngoan.
Hay ai đó có thể đoán biết ý đồ xấu của người khác, và tránh né được sự hãm hại dành cho mình, cũng là người khôn ngoan. Một em học sinh khôn ngoan biết chăm lo cho việc học tập của mình, học ngày một tiến tới. Ngay cả một người giỏi mánh khóe, xu nịnh, làm giàu bằng móc ngoặc, ăn cắp của công, hối lộ, tham nhũng… cũng được gọi là khôn ngoan.
Cũng vậy, hôm nay trong dụ ngôn Người quản lý, một bên Chúa Giêsu gọi anh ta là bất lương, bên kia Chúa cũng dùng một kiểu nói mà thói thường người đời vẫn nói: Đó là gọi người quản lý bất lương kia đã hành động khôn khéo. Vì anh ta đã sử dụng trí thông minh, sự gian dối, xảo quyệt của mình để hưởng lợi, để thỏa mãn những tính toán vụ lợi cho riêng mình.
Ở đây có một vấn đề được đặt ra là: Vậy Chúa khen ngợi người quản lý bị coi là bất lương ấy? Bởi đó cũng sẽ là bài học cho chúng ta? Chắc không ai ngây thơ đến nổi nghĩ như thế. Vì ngay sau đó, Chúa Giêsu đã phân biệt rạch ròi: “con cái thế gian” và “con cái sự sáng”.
Đã gọi là con cái thế gian, nó chẳng bao giờ thuộc về thế giới của con cái sự sáng, nhưng nó chỉ thuộc về cuộc đời này, đi xa hơn, nó tắm mình và chìm đắm trong cuộc đời này. Vì thuộc về thế gian, con cái thế gian sẽ giỏi mọi ngóc ngách, mọi luồn lách để có thể có được càng nhiều, càng tốt những bảo đảm cho bản thân khi sống trong cuộc đời này.
Bởi vậy, nếu chỉ nhìn về phía thế gian với một tâm hồn chỉ toàn chiếm hữu, vụ lợi, ích kỷ…, thì đúng là “con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng”.
Phân biệt rạch ròi giữa “sự sáng” và “thế gian” cho thấy sự tối tăm của thế gian là đêm tối giăng mắc đầy hiểm nguy. Làm sao bóng tối ấy lại có thể là bài học cho chúng ta!
Chúa Giêsu cũng không khen ngợi việc làm bất lương của người quản lý. Đúng hơn, Chúa chỉ nhắm đến việc sử dụng trí thông minh, sự khôn ngoan sao cho phù hợp, đúng nơi, đúng lúc, nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất cho đời sống của mình.
Trên hết, ta phải hiểu đây là một so sánh, Chúa đưa ra để giúp ta chọn lựa thái độ sống theo đòi hỏi của đức tin. Vì nếu con cái thế gian dùng sự khôn ngoan của nó để sống, thì con cái của ánh sáng hãy dùng sự khôn ngoan trong đức tin để đạt đến sự sống đời đời.
Vậy, qua câu chuyện người quản lý bất lương, Chúa kêu mời chúng ta rút ra từ đó những ý nghĩa, những bài học cần thiết cho đời sống đức tin của mình. Vì có khi đổ vỡ của người khác, ngay cả tội lỗi của chính mình hay của ai đó, cũng có thể là bài học kinh nghiệm cần thiết cho chúng ta sống tốt hơn, đến gần Chúa hơn, biết xa tránh mọi dịp tội hơn. Vì nếu chiếc xe trước đã đổ trên lối mòn, thì xe sau phải tìm lối khác mà đi cách đường hoàng hơn, an toàn hơn.
Đó là sự khôn ngoan. Đó cũng chính là “con cái của sự sáng”. Vì sự khôn ngoan của con cái sự sáng là luôn biết nhận ra chính mình, để không bao giờ tự biến mình thành mối nguy cho mình hay cho anh chị em.
Còn hơn thế, sự khôn ngoan của con cái sự sáng sẽ dẫn họ đi trên con đường có tên Giêsu để mỗi ngày tự hoàn bị mình nhờ chính mẫu gương sống của Chúa Giêsu và Lời Người dẫn lối. Tắt một lời, sự khôn ngoan của người tín hữu Kitô là đi trên Chính Lộ mà chính Chúa Giêsu đã vạch ra.
Chính Lộ ấy, sự khôn ngoan ấy là một lối sống được tóm gọn trong Tám mối Phúc thật như sống nghèo khó, hiền lành, chấp nhận Thánh giá, khao khát sự công chính, thương yêu anh chị em, giữ tâm hồn thanh sạch để sống thánh thiện, biết gây bầu khí hòa bình, chấp nhận mọi thử thách vì lòng yêu mến Chúa. Đi trên chính lộ do chính Chúa Giêsu khai mở, ta sẽ chẳng bao giờ phải lo lạc lối.
Bạn thân mến, là Kitô hữu, bạn và tôi có chính đời sống của Chúa Kitô làm mẫu mực và có chính Lời của Người làm chuẩn mực cho mọi suy nghĩ, hành vi, lối sống của mình. Bởi vậy, vì là Kitô hữu, sự khôn ngoan của bạn và tôi, không phải là sự không ngoan mà ta vẫn nghe thấy trong đời thường quanh mình, càng không thể chấp nhận thái độ chỉ chọn lựa sống khôn ngoan theo thói đời mà làm cho đời sống đức tin trở thành tăm tối.
Sự khôn ngoan của Kitô hữu chỉ có một con đường, đó là ướm mình theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô và sống theo Lời Người dạy mà tám mối phúc thật là bảng tóm gọn của những lời dạy ấy.
Từ những hình ảnh cụ thể của tội ác khủng bố, đến hình ảnh của một người khéo vun quén cho đời sống trần gian của mình mà Chúa Giêsu cho thấy trong vụ ngôn Người quản lý bất lương, chúng ta rút ra bài học đáng giá cho mình: sự khôn ngoan của người tín hữu là trở nên giống Chúa Kitô để được Thiên Chúa yêu thương, đón nhận.
Bạn ạ, đời sống Kitô hữu có một nỗi giằng co lớn lắm. Đó là vì ta cũng giống như anh chị em mình: rất say mê cuộc đời, say mê không thua bất kỳ ai. Nhưng ta cũng lại rất say mê vĩnh cửu, say mê đến tận cùng.
Bởi vậy chúng ta hãy làm sao để có thể gặp cái vĩnh cửu trong cái mau qua; vui chơi như mọi người nhưng vẫn tìm niềm vui thiên quốc; làm việc và sống trong cuộc đời, nhưng cũng thăng tiến Nước Trời trong chính cuộc đời ấy.
Sự khôn ngoan của chúng ta, những người Kitô hữu đó là sự khôn ngoan biết để Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời mình.
Bài đọc 1 tuần trước kể chuyện dân Do Thái đúc con bê vàng rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: hỡi Israel, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập ( x. Xh 32, 1-35 ). Họ tôn thờ ngẫu tượng. Họ đã vô ơn và phản bội.Thiên Chúa đã bừng bừng nổi giận. Ông Môsê nại đến tình thân giữa Thiên Chúa và Apraham, Isaac và Giacóp để van xin Người nguôi cơn thịnh nộ. Môsê nhắc lại tình thương, lời hứa và quyền năng của Thiên Chúa đã làm cho tổ tiên họ để xin thương tha phạt cho đám dân ngỗ nghịch này: Dân mà Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai Cập. Với lời van xin ấy, Thiên Chúa đã nguôi cơn thịnh nộ, đã thương không giáng phạt dân chúng.
Con bê vàng hay tiền bạc của cải vật chất là sức mạnh cuốn hút con người, chi phối nhiều lãnh vực trên thế gian này.
Bài đọc 1 tuần này trích sách Ngôn Sứ Amos, nêu ra những thói đời xấu xa, những bất công giả trá và mạnh mẽ lên án tội lỗi của những người giàu: vì mải mê kiếm tiền nên họ bỏ bê những bổn phận đạo đức, gian lận “giảm đấu đong, tăng giá và làm cân giả”, thậm chí bóc lột cả người nghèo.
Thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên, vương quốc phía Bắc của Israel có nền kinh tế thịnh vượng. Những người giàu có sang trọng sống sa hoa bên trên những người nghèo khổ. Nhiều nghi lễ lộng lẫy ở đền thờ nhưng không có tâm tình tôn giáo chân thực. Thiên Chúa đã sai Ngôn Sứ Amos đến cảnh tỉnh cũng như lên án những bất công xã hội, những an toàn giả tạo mà người ta cậy dựa. Một loạt tố cáo những bất công trong buôn bán như tăng giá bán, làm cân giả… lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu. Một xã hội có những người xấu chuyên môn lường gạt, gian dối, lừa lọc, xảo trá và dùng nhiều thủ đoạn để vơ vét phần lợi về mình.
Ngôn Sứ Hôsê cùng thời với Amos đã nhận định về tình trạng xã hội thời ấy: "Israel vốn là một cây nho sum sê, trái trăng thật dồi dào phong phú; nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng; đất nước càng giàu sang, chúng càng dựng thêm những cột thần lộng lẫy" ( Hs 10, 1 ).
“Đất càng phì nhiêu, tượng thần càng nhiều”, nhận định này của vị Ngôn Sứ thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên vẫn đúng cho con người mọi nơi mọi thời, đặc biệt là chính sách đất đai hiện nay ở Việt Nam đã tạo quá nhiều thuận lợi cho cường quyền tham nhũng trục lợi và bất công tràn lan.
Các Ngôn Sứ thời Cựu Ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh rẻ kẻ nghèo, những người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi lộc.
Vào thế kỷ 8 trước Công Nguyên, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều Giêrôbôam 2. Do sự giàu có ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm, mua địa vị chức tước; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực... Ngôn Sứ Amos đã nghiêm khắc cảnh cáo họ: "Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn hủy diệt hết những người bần cùng trong cả nước. Các ngươi giảm đấu đong, tăng giá bán và làm nên những chiếc cân non. Các ngươi lấy tiền mua người nghèo khó, lấy đôi dép mà đổi lấy người túng thiếu. Các ngươi bán lúa mục nát. Thế nhưng, Thiên Chúa sẽ không quên lãng và những hình phạt khủng khiếp sẽ được giáng xuống trên các ngươi."
Trong Cựu Ước, giàu có thịnh vượng thường được xem như một sự chúc lành của Thiên Chúa. Nhưng dân Israel lại suy nghĩ theo cách của các dân ngoại chung quanh, họ coi sự thịnh vượng của mình là ơn lành từ các sức mạnh thiên nhiên mà dân ngoại tôn thờ như các thần linh, thần mưa, thần gió, thần đất. Cho nên vật chất càng phát triển họ càng sùng bái ngẫu tượng nhiều hơn.
Đó là một sự phản bội không thể tha thứ: "Chúng là thứ người lòng một dạ hai, rồi đây chúng sẽ phải đền tội" ( Hs 10, 2 ). Thiên Chúa đã kết ước với họ nhưng họ đã thất trung bội tín, lòng họ đã bị phân rẽ. Thay vì tôn thờ một mình Thiên Chúa, nghe theo lời Người dạy bảo và trông cậy vào một mình Người, họ lại chạy theo những thần linh giả dối.
Ngôn sứ Hôsê mạnh mẽ cảnh cáo Israel: "Rồi đây chúng sẽ phải đền tội; bàn thờ của chúng, Đức Chúa sẽ đập tan, cột thờ của chúng, Người cũng sẽ phá đổ" ( Hs 10, 2 ). Cái gì giả trá thì vẫn là giả trá. Đặt tin tưởng vào nó, tất chẳng thể bền. Rồi đây Israel sẽ thấy các thần tượng mình sụp đổ, "bấy giờ họ sẽ nói với núi đồi: 'Phủ lấp chúng tôi đi !' và với gò nổng: 'Hãy đổ xuống trên chúng tôi !'" ( Hs 10, 8 ).
Kinh nghiệm cho thấy: của cải giàu sang thường đưa người ta đi xa Chúa. Sự sung túc mang tới cho người ta nhiều thứ có khả năng cạnh tranh với Thiên Chúa, và thậm chí thay thế Thiên Chúa, ví dụ như địa vị, quyền thế, danh vọng, tình yêu, tiện nghi, lạc thú. Tục ngữ ta đã chẳng nói "có tiền mua tiên cũng được" hay "đồng bạc đâm toạc tờ giấy" đó sao ? Của cải làm cho người chiếm hữu nó có cảm thức mãnh liệt rằng mình "toàn năng", muốn gì cũng được ! ( Cố Lm. Nguyễn Hồng Giáo, OFM. ).
Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay sẽ thấy, người ta thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng của họ và khi đó làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái miễn là càng ngày họ càng giàu có, càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.
Cùng một tiếng chuông cảnh tỉnh của các Ngôn Sứ, Chúa Giêsu đã dạy: "Các con không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được."
Chúa Giêsu không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không lên án người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo phê phán người giàu có trong việc xử dụng tiền của.
Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách xử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri và phẩm giá con người. Tiền của trở nên thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và nhân phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.
Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa con người xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa, nhưng anh ta buồn rầu bỏ đi vì có nhiều của cải. Chúa Giêsu cảnh tỉnh: "Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim". Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: "Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của."
Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế cô thân. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” ( Lc 6, 20; Mt 5, 3 ). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu có đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực ( x. Lc 16,19-31 ), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh rẻ kẻ khác.
Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái của Chúa sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết xử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại.
Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” ( 1Tm 6, 10 ). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.
Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ… Giá trị của tiền tài hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.
Tiền của là phương tiện để chia sẻ với tha nhân, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô viết cho Timôthêô: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” ( 1Tm 6, 17-18 ). Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay chúng ta biết đồng cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ và tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn tranh chấp, nhưng biết xây dựng hòa bình.
Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.
Tin Mừng hôm nay ghi lại dụ ngôn nhà phú hộ và người quản gia bất lương. Nhà phú hộ cắt chức quản lý của người quản gia vì anh này đã phung phí tài sản, của cải của nhà ông. Trước khi cách chức, ông đòi anh này phải thanh toán sổ sách. Người quản gia này thật khéo, đã gọi các con nợ đến và yêu cầu họ ghi lại sổ nợ ít hơn số nợ thực tế mà họ phải trả cho nhà phú hộ “người nợ một trăm thùng dầu thì ghi lại năm mươi, người nợ ngàn dạ lúa thì ghi lại tám trăm” với hy vọng sau khi mất chức quản lý, anh sẽ được người ta tiếp đón.
Từ dụ ngôn trên, Đức Giêsu đã đưa ra những kết luận làm chỉ dẫn sống và hành động cho các môn đệ “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, hãy trung tín trong việc nhỏ để trung tín trong việc lớn, hãy trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính để được Chúa tín nhiệm trao phó cho của cải chân thật, hãy trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác để được trao phó của cải dành riêng cho mình, và hãy làm tôi Thiên Chúa chứ không thể làm tôi tiền bạc.” Dựa trên kết luận của Đức Giêsu, chúng ta hiểu ra rằng tất cả chúng ta đều là những người quản lý các tài sản của Thiên Chúa. Tài sản ấy có thể là của cải vật chất, của cải tinh thần và thậm chí là của cải đưcs tin. Chúng ta phải trung tín quản lý và sử dụng các tài sản ấy cách đúng đắn để chúng sinh lời theo thánh ý Thiên Chúa không chỉ cho mình mà còn cho tha nhân nữa.
Làm thế nào để có thể trung tín với những của cải Chúa trao phó? Trước hết, bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ Amos cho ta hiểu rằng muốn trung tín chúng ta không được đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn xung quanh mình, không được lợi dụng danh nghĩa và quyền hạn của mình để trục lợi như “thầm nghĩ là bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát để ta bày thóc ra”, không được buôn gian bán lận “làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân thêm nặng, làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ”, không được coi thường nhân phẩm hay áp bức người “lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, lấy đôi dép đổi lấy tên cùng khổ, cả lúa nát gạo mục cũng đem ra bán.” Những kẻ sống bất tín, chẳng quan tâm đến thân phận nghèo khổ của người khác, sẽ bị Thiên Chúa xét xử cách nghiêm khắc và công minh “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng.” Nói một cách tổng quảt là các tín hữu phải có tấm lòng bái ái chân thật với tha nhân, nhất là những người nghèo khó khổ đau.
Thánh Phaolo cũng cho chúng ta những chỉ dẫn rất tuyệt vời để trở nên người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Đó là nhận biết chân lý để đạt tới ơn cứu độ. Chân lý ấy là chính Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, Đấng đã tự hiến mình làm giá chuộc mọi người. Muốn hiểu biết, đón nhận chân lý để được cứu độ, các tín hữu phải cố gắng học hỏi và sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa. Cách sống đẹp lòng Thiên Chúa nhất là sống đạo đức và nghiêm chỉnh. Muốn được thế, chúng ta phải không ngừng dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, van nài, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và mọi người cầm quyền, cho cả những kẻ không quen biết, không thân thích và thậm chí là kẻ thù, kẻ chống đối chúng ta. Người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi đâu, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc. Chính nhờ cầu nguyện mà tâm hồn người tín hữu được Chúa biến đổi nên tốt hơn mỗi ngày.
Một câu hỏi được đặt ra là người quản lý sẽ gặt hái được gì nếu anh thi hành các bổn phận của mình một cách trung tín? Thưa, một cách chắc chắn anh sẽ không bị chủ cách chức, cho thôi việc. Hơn thế nữa, anh sẽ được chung chia niềm vui và hạnh phúc của chủ. Điều này chúng ta đọc thấy từ dụ ngôn những nén bạc. Ông chủ đã ân cần nói với những tôi tớ trung tín rằng “Hỡi người đầy tớ tốt lành và trung tín, anh đã trung tín trong việc nhỏ, tôi sẽ đặt anh làm việc lớn. Anh hãy vào hưởng hoan lạc với chủ của anh”. Nếu chúng ta trung tín với Thiên Chúa thì chắc chắn niềm vui, bình an và hạnh phúc của Thiên Chúa cũng sẽ là niềm vui và hạnh phúc của chúng ta. Nói như thánh Phaolo, người nào trung tín với các bổn phận của mình sẽ đẹp lòng Thiên Chúa và ai đẹp lòng Thiên Chúa thì xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Như thế, mỗi chúng ta đều được Chúa trao phó cho một tài sản nào đó để quản lý. Tài sản ấy là tiền bạc, của cải vật chất, khả năng trí tuệ, các giá trị tâm linh, kho tàng ân sủng… Thử hỏi chúng ta đã nắm giữ các tài sản ấy trong tư cách của người quản lý trung tín hay một kẻ bất lương sử dụng và định đoạt theo ý riêng của chúng ta? Đức Giêsu bảo chúng ta hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, hãy trung tín trong việc nhỏ để trung tín trong việc lớn, hãy trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính để được Chúa tín nhiệm trao phó cho của cải chân thật, hãy trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác để được trao phó của cải dành riêng cho mình, và hãy làm tôi Thiên Chúa chứ không thể làm tôi tiền bạc, chúng ta có làm như vậy không? Nguyện xin Chúa ban ơn nâng đỡ để chúng ta sống xứng đáng là người quản gia trung tín của Chúa. Amen.
“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16,13).
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1
Được mệnh danh là ngôn sứ can đảm đối diện với những bất công xã hội, Amốt nghiêm khắc lên án những kẻ áp bức những người nghèo khổ và yếu thế trong xã hội. Trong nhãn quan của ngôn sứ, những kẻ chỉ lo toan tính lợi lộc cho mình bất chấp những bất công và gian dối, thì sẽ bị Thiên Chúa kết án.
Trước hết, ngôn sứ Amốt xác tín rằng Thiên Chúa thấu hiểu lòng dạ của những kẻ xấu xa, dù họ chỉ “thầm nghĩ” (8,5a) trong lòng về những toan tính bất công và gian dối của họ. Ngài biết họ chỉ là những kẻ tôn thờ Thiên Chúa và giữ ngày sabát cách hình thức và mong cho nó sớm qua đi để kiếm lợi (8,5b). Ngài nhìn thấy những trò lọc lừa, gian dối của họ nhằm trục lợi về cho mình (8,5c). Ngài thấu tỏ lòng tham vô độ của họ đến nỗi sẵn sàng làm giàu bất chấp phẩm giá của những người nghèo hèn, thống khổ trong xã hội (8,6).
Sau nữa, đoạn sách ngôn sứ Amốt cho thấy việc Thiên Chúa trực tiếp ngỏ lời cảnh báo những kẻ “đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ” (8,4). Vì biết rõ lòng dạ tham lam, gian dối và bất nhân của họ, Thiên Chúa đã “thề” rằng: “sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (8,7). Một khi Thiên Chúa đã “thề” thì Ngài sẽ chẳng “rút lời” (Tv 110,4), nghĩa là “lời thề” của Thiên Chúa là bảo đảm chắc chắn rằng Ngài sẽ thực hiện điều Ngài đã “thề”. Ở đây, “lời thề” bảo đảm rằng Thiên Chúa sẽ luôn nhớ các hành vi xấu xa của những kẻ tham lam, gian dối và bất nhân; và Ngài sẽ trừng phạt họ xứng với việc họ làm (x. 8,9-10).
Như vậy, để chống lại những bất công trong xã hội, ngôn sứ Amốt vừa xác quyết rằng Thiên Chúa thấu hiểu lòng dạ những kẻ làm những việc gian dối, bất công, bất nhân, vừa cảnh báo rằng Ngài sẽ trừng phạt họ thích đáng.
2. Bài đọc 2:
Tác giả thư thứ nhất Timôthê đưa ra những tiêu chuẩn của một lời cầu nguyện chuẩn mực: lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là lời cầu nguyện cho tất cả mọi người, không phân biệt bất kỳ ai, vì đó là điều đẹp ý Thiên Chúa, Đấng muốn cứu độ tất cả mọi người và đã trao cho các Tông Đồ sứ mạng loan báo về đức tin và chân lý đó.
Trước hết, lời cầu nguyện Kitô giáo phải mang tính cách cộng đồng, nghĩa là cho tất cả mọi người, không loại trừ ai, ngay cả các bậc vua chúa, và những người cầm quyền (2,1-2). Tác giả thư thứ nhất Timôthê cho thấy tấm lòng rộng lượng của ngài khi mời gọi cầu nguyện cho cả vị vua đang trị vì lúc bấy giờ là Nêrô, một người có nhiều ác cảm và thậm chí thù nghịch với các Kitô hữu thời đó. Thật ra, đây không phải là thông điệp gì mới mẻ, vì chính Chúa Giêsu đã từng dạy các môn đệ như thế (x. Mt 5,44). Đặt trong bối cảnh có những sự xung khắc giữa các Kitô hữu với Dân ngoại, lời kêu gọi cầu nguyện cho tất cả mọi người càng có ý nghĩa hơn.
Sau nữa, cầu nguyện cho mọi người là điều đẹp lòng Thiên Chúa là Đấng cứu độ nhờ trung gian cứu độ duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Đấng hiến thân mình để làm giá chuộc mọi người, hầu tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý (2,3-6). Thiên Chúa muốn đón nhận tất cả mọi người, nên lời cầu nguyện cho mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ là điều phù hợp với ý định cứu độ của Thiên Chúa. Tác giả thư thứ nhất Timôthê chứng thực điều này qua sứ mạng tông đồ của ngài: là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý. Ngài được gởi đến với tất cả những ai chưa tin nhận Đức Kitô để họ cũng tin và nhận biết chân lý để được cứu độ (2,7). Như thế, mọi sự thù nghịch, giận hờn hay xung khắc không thể là lời cầu nguyện của các Kitô hữu thánh thiện (2,8).
Tóm lại, mẫu mực của lời cầu nguyện Kitô giáo phải là lời cầu nguyện cho tất cả mọi người, để mọi người đều tin nhận Đức Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất, Đấng đã hiến thân chịu chết, và nhờ tin vào Người mà được cứu độ.
3. Bài Tin Mừng
Bài Tin mừng đặt ra cho người ta những tình huống phải chọn lựa: chọn cách khôn khéo theo kiểu “con cái thế gian” hay theo kiểu “con cái ánh sáng”; chọn làm tôi Thiên Chúa hay làm tôi Tiền Của.
Trước hết là câu chuyện về người quản gia bất lương. Người quản gia bị xem là “bất lương” vì anh “đã phung phí của cải” của ông chủ. Tội của anh quản gia bất lương này thì đã rõ, không gì có thể biện minh được. Tuy nhiên, anh ta vẫn được ông chủ “khen” là “khôn khéo”. Việc anh này được ông chủ “khen” là “khôn khéo” không có nghĩa là ông chủ đồng tình với cách sống bất lương của anh. Sự khôn khéo của anh, xét cho cùng, vẫn chỉ là sự lươn lẹo, ranh ma theo kiểu “con cái đời này” mà thôi.
Sau nữa, bài Tin Mừng cho thấy giá trị của sự trung tín trong việc sử dụng của cải. Theo đó, người trung tín trong việc nhỏ là một sự bảo đảm rằng người đó có nhiều khả năng sẽ trung tín trong việc lớn. Người biết quý trọng và đáng tin trong việc quản lý của cải người khác, thì sẽ biết quý trọng và trung tín trong việc quản lý của cải bản thân. Tuy nhiên, nếu hiểu trung tín theo cách này thì đó vẫn chỉ là những kiểu khôn khéo theo kiểu “con cái thế gian”: cố gắng làm tốt việc nhỏ để được tin tưởng mà giao việc lớn.
Tuy nhiên, điều mà Chúa Giêsu nhắm đến không phải là sự khôn khéo theo kiểu “con cái thế gian” mà là sự khôn khéo của “con cái sự sáng”. Theo đó, Chúa Giêsu đề cao sự trung tín của những quản gia coi Thiên Chúa là “Chủ” của đời mình, những người chỉ chọn làm tôi Thiên Chúa mà thôi. Tất cả những gì họ làm đều thể hiện sự trung tín với “Chủ” chứ không phải trung tín với “Của Cải” của “Chủ”, vì người ta “không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (16,13). Sự khôn khéo đích thật của người quản gia nằm ở chỗ anh ta biết chọn Thiên Chúa là “Chủ” của đời mình, nghĩa là chọn “làm tôi” Thiên Chúa vậy.
Dù được ông chủ khen là “khôn khéo”, người quản gia “bất lương” vẫn chỉ là kẻ bất lương vì chỉ biết khôn khéo theo kiểu “con cái thế gian”. Chúa Giêsu mời gọi chọn một cách khôn khéo khác: chọn Thiên Chúa là “Chủ” của đời mình, chọn “làm tôi” Thiên Chúa.
1/ Ngôn sứ Amốt can đảm lên án những kẻ chỉ lo toan tính lợi lộc cho mình bất chấp những bất công, gian dối và bất nhân đối với những người nghèo hèn. Thiên Chúa, Đấng thấu tỏ lòng dạ xấu xa của họ, sẽ trừng phạt họ cách công minh. Tôi có đang vì lợi ích riêng của mình mà coi nhẹ phẩm giá người khác? Tôi có đang tìm kiếm lợi lộc bất chấp những gian dối? Đứng trước những bất công trong xã hội, tôi có can đảm góp thêm tiếng nói bênh đỡ những kẻ yếu thế?
2/ Đối với tác giả thư thứ nhất Timôthê, một lời cầu nguyện chuẩn mực của mọi Kitô hữu phải là lời cầu nguyện cho tất cả mọi người, không phân biệt ai, để họ được nhận biết và tin nhận Đức Giêsu, Đấng đã chết để mang ơn cứu độ cho nhân loại, và để những ai tin vào Người thì cũng được ơn cứu độ. Lời cầu nguyện của tôi có mang tính đại đồng? Tôi có cầu nguyện cho những người chưa tin vào Chúa Giêsu, để họ cũng tin nhận Người là chân lý cứu độ?
3/ Dù được ông chủ khen là “khôn khéo”, người quản gia “bất lương” vẫn chỉ là kẻ bất lương vì chỉ biết khôn khéo theo kiểu “con cái thế gian”. Chúa Giêsu mời gọi chọn một cách khôn khéo khác: chọn Thiên Chúa là “Chủ” của đời mình, nghĩa là chỉ chọn “làm tôi” một mình Thiên Chúa mà thôi. Đó mới là sự khôn khéo đích thực theo tinh thần Tin Mừng. Tôi đang sống khôn khéo theo kiểu “con cái thế gian” hay kiểu “con cái ánh sáng”? Tôi có dứt khoát chọn Chúa là Chủ của cuộc đời tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa ban cho con người của cải và tài năng như phương tiện để đạt tới Nước Trời. Chúng ta hãy đồng thanh cảm tạ Chúa và cầu xin ơn biết quản lý và sử dụng ân huệ Chúa ban cho xứng đáng.
1. “Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn.” Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn trung tín và nhiệt thành với sứ vụ thông truyền đức tin và ban phát các bí tích hầu dẫn đưa nhiều người đến với nguồn mạch ơn cứu độ.
2. Sự chênh lệch giàu nghèo ở nhiều nơi trên thế giới vẫn không ngừng gia tăng. Chúng ta cùng cầu xin cho các nhà cầm quyền trên thế giới luôn biết quan tâm đến các thành phần nghèo khổ thiếu thốn trong xã hội bằng những chính sách phù hợp và công bằng.
3. “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi Kitô hữu luôn trung thành tôn thờ một Thiên Chúa thánh thiện và duy nhất; đồng thời, biết sử dụng của cải vật chất cách khôn ngoan hợp với đức ái Kitô giáo.
4. “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn hữu.” Chúng ta cùng cầu xin cho từng người trong cộng đoàn chúng ta luôn nhạy bén trước mọi nhu cầu của người chung quanh, và sẵn sàng chia sẻ giúp đỡ cả tinh thần lẫn vật chất để họ được sống dồi dào và ý nghĩa.
Chủ tế: Lạy Chúa là nguồn sống và hạnh phúc cho con người, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban ơn Thánh Thần, giúp chúng con biết sống xứng đáng ở đời này hầu đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu ở đời sau. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Nhiều người cho rằng với đồng tiền thì làm gì cũng được, muốn gì cũng có vì đồng tiền là vạn năng ! Nhưng có những cái mà với đồng tiền người ta không thể sắm được, ví dụ Nước Trời, phần rỗi linh hồn. Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn “Người quản gia bất lương” để khuyến khích chúng ta phải biết cách dùng của cải, nhất là phải khôn ngoan trong việc lo cho tương lai của mình, tức là phần rỗi đời đời của mình trên Nước Trời.
Dụ ngôn hôm nay có thể gây hiểu lầm cho nhiều người. Mới đọc qua, ta thấy Đức Giêsu như khen nguời quản lý bất lương đã khôn khéo dùng mánh lới để kiếm được bạn hữu sau khi bị ông chủ thải hồi. Xem ra Đức Giêsu cho phép chúng ta theo gương người quản gia này để dùng mọi mánh lới khôn khéo mà tìm lợi cho mình. Nhưng đọc kỹ, ta thấy Đức Giêsu không khen việc làm bất lương của anh ta, mà chỉ khen cái khôn khéo của anh ta trong việc biết lo cho tương lai của mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu khuyến khích chúng ta phải biết lo cho cho phần rỗi của mình giống như người quản gia bất lương biết lo cho tương lai vật chất của anh ta.
Tất cả chúng ta đều là quản gia của Chúa vì tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban, như thánh Phaolô nói: “Có gì mà bạn đã không nhận nơi Chúa”. Với tư cách quản gia, chúng ta phải trung thành quản lý tài sản mà Chúa đã trao phó, phải biết làm lợi ra, phải biết chia sẻ và biết dùng tài sản này mà mua được phần rỗi của mình trên Nước Trời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Am 8,4-7.
Tiếng kêu của tiên tri Amos cách Đức Giêsu 800 năm mà hôm nay vẫn còn hợp thời. Ông được đời sau đánh giá là lương tâm của thời đại ông, một thời đại đầy dẫy bất công xã hội và người nghèo bị bóc lột đến tận xương tủy. Ông lên án những tội của người giầu: - Ngay những ngày lễ cũng bị sử dụng cho việc buôn bán để kiếm lời.
- Họ gian lận bằng cách thu hẹp đấu lại và làm nặng thêm quả cân. - Khai thác và bóc lột những người nghèo khó.
Nhà tiên tri đã cảnh cáo: “Chẳng bao giờ Ta sẽ quên một hành vi nào của chúng”(Am 8.7).
+ Bài đọc 2: 1Tm 2,1-8.
Thánh Phaolô chỉ dẫn cho Timôthêô tổ chức lời kinh cho mọi người trong cộng đoàn phụng vụ. Phải có tinh thần liên đới trong khi cầu nguyện, nghĩa là Kitô hữu đại diện cho nhân lọai, liên kết với nhân lọai trước mặt Thiên Chúa.
Khi cầu nguyện, người Kitô hữu mở rộng lòng ra ôm lấy thế giới để tạ ơn, để cầu xin với mọi người và cho mọi người. Tại sao lại có nhiệm vụ ấy ? Bởi vì Thiên Chúa của người Kitô hữu là Thiên Chúa của tất cả mọi người và Ngài muốn tất cả được ơn cứu rỗi. Riêng vị sứ giả Tin mừng càng phải làm chứng về điều này cách hăng say hơn.
+ Bài Tin mừng: Lc 16,1-13.
Truyện người quản gia bất trung ta gặp thấy hằng ngày trong cuộc sống. Đối với dân Do thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý, miễn sao có lợi cho chủ thôi. Quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
Đức Giêsu không khen cái hành vi bất chính của anh ta, nhưng khen cái sự khôn khéo biết lo cho tương lai. Bài học rút ra cho người Kitô hữu là khi phải lo phần rỗi linh hồn thì phải làm mọi chuyện để được cứu rỗi. Bằng cách nào ? Bằng cách chia sẻ với người nghèo. Không có cách nào giữ của chắc chắn hơn.
Trong khi sử dụng tiền của phải rất khôn ngoan, phải biến nó thành tôi tớ trung thành, đừng để nó trở thành ông chủ khắc nghiệt vì “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,13).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA: Cách dùng tiền của đời này.
I. DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN GIA BẤT LƯƠNG.
Để dạy ta phải biết lo xa cho đời sống tương lai của linh hồn mình, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn nói về một người quản gia biết lo xa cho đời sống vật chất của mình.
1. Người quản gia ở Palestine
Tại Palestine có nhiều địa chủ vắng mặt ở lãnh địa của mình nên tất cả công việc của ông được trao vào tay người quản gia của ông. Theo luật Do thái, người quản gia không phải là một nhân viên được trả công, nhưng toàn quyền thay mặt chủ và chủ phải tôn trọng những dịch vụ buôn bán của người quản gia.
Trong trường hợp người quản gia bất trung phung phí của chủ, luật pháp cũng không có biện pháp nào bắt buộc ông phải hoàn lại của đã mất, chỉ có cách là sa thải. Sau khi nhận được giấy sa thải, người quản gia phải tính sổ liệt kê tài sản, việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện của chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ. Ở đây, người quản gia bị ông chủ là nhà phú hộ khiển trách, vì đã phung phí của chủ và đó là hành vi bất lương và gian dối của người quản gia, khiến ông chủ sa thải.
2. Kế hoạch của người quản gia
Ở trong tình tình trạng này, người quản gia phải suy nghĩ về số phận tương lai của mình sau khi bị sa thải. Làm việc bằng chân tay thì không quen vì xưa nay chuyên ăn trên ngồi trốc rồi. Phải liệu cách nào để sau khi mất chức quản gia, thì sẽ có người đón tiếp mình về nhà họ.
Thế là không chút chần chừ, ông cho gọi “từng con nợ” của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may hiếm có, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 thùng dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khoảng 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoảng 6000 ký).
Từ nay mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật: đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng một vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”.
Dụ ngôn người quản gia bất lương là một trong những đoạn Tin mừng từng bị hiểu sai nhiều nhất: bao nhiêu người đã xem đây như bằng chứng Đức Giêsu cho phép làm điều bất lương. Thọat nghe ta lấy làm vấp phạm khi Đức Giêsu lên tiếng khen người quản lý bất lương đã hành động cách tinh quái. Lẽ ra thì Ngài phải kết án việc làm gian lận của người quản lý hay ít ra cũng chỉ trích cái hành động cướp gạt của anh ta như tiên tri Amos đã tố cáo những tệ đoan xã hội thời bấy giờ. Amos mô tả việc người giầu có nóng lòng chờ đợi cho qua ngày lễ nghỉ để họ có thể lường gạt và bóc lột người nghèo (Am 8,5-6).
Tuy nhiên, đi sâu vào vấn đề ta thấy Đức Giêsu không khích lệ việc người quản gia phung phí tài sản của chủ. Thực ra, Ngài chỉ khen cái mánh lới của anh ta mà thôi. Ngài khen người quản gia có khả năng hành động kịp thời và quyết liệt khi bị dồn vào thế chân tường. Rồi từ đó Ngài kết luận: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng” (Lc 16,8).
Và rồi Đức Giêsu thách thức ta: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước các con vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9). Nghĩa là con cái ánh sáng cần phải xử sự cách khôn khéo để làm sao tiền bạc không trở nên một thế lực thống trị và biến chúng ta thành nô lệ; trái lại, cần phải biến nó thành phương tiện phục vụ con người thông qua làm phúc bố thí chứ không phải bo bo giữ cho riêng mình. Người Kitô hữu nhớ rằng, tiền bạc không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện. Chúng ta xử sự thế nào để tiền của không cản trở bước đường đi đến đời sống vĩnh cửu khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay.
II. NÓI VỀ TIỀN CỦA
1. Tiền của là những gì ?
Tiền của đây nói chung là gia tài hay tài sản, là tất cả những gì mình có. Gia tài vật chất là của cải, là thân xác, là địa lợi chung quanh. Gia tài tinh thần là tài năng, tâm trí, đức hạnh, linh hồn. Gia tài vô cùng quí giá là nguồn sống vô biên tuôn trào từ các bí tích, từ lời hằng sống, từ trái tim và thần khí của Đức Giêsu… Tất cả những cái đó ta phải “quản lý”.
Chúa sẽ yêu cầu chúng ta phải phúc trình về chúng. Ta không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta. Ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan thì biết khôn khéo dùng những gia tài ấy để kinh doanh, phát triển, đầu tư vào những công trình chân chính mà mua lấy bạn bè, sắm lấy những kho tàng, sắm lấy những viên ngọc quí trong Nước Thiên Chúa. Đó là cách xử sự khôn khéo của con cái sự sáng.
2. Sức mạnh của tiền bạc
Người đời thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược không xong” (Tục ngữ).Tiên là bà tiên, cô tiên, một hạng người đẹp cả người lẫn nết, không bao giờ chết, lúc biến lúc hiện do trí tượng tượng người ta hình dung ra. Tiên là một hạng người không có thực, vậy có tiền cũng không có thể mua.
Câu này cực tả cái giá trị của đồng tiền, đại ý nói rằng có tiền thì việc khó đến đâu, cũng làm được, của hiếm đến đâu cũng mua được. Không tiền thì cái tầm thường nhất cũng không mua được. Có câu tục ngữ tiếp theo câu trên: “Không tiền mua lược không xong”.
Người có tiền thì có thế, được nhiều người kiêng nể, có thể sai khiến được nhiều người, khiến họ phải hầu hạ, đưa rước và tạo thêm được nhiều kẻ nịnh hót:
Có tiền chán vạn người hầu, Có bấc có dầu chán vạn người khêu. (Ca dao)
Đồng tiền cũng có sức mạnh phi thường, nó có thể đổi trắng thay đen lòng người, nó có thể biến những con người lương thiện thành con người bất lương, mà nhiều người không thể cưỡng lại được:
Đồng tiền không phấn không hồ, Đồng tiền khéo điểm, khéo tô lòng người. (Ca dao)
Cổ nhân cũng đã có kinh nghiệm nên đã từng nói: “Hoàng kim hắc thế tâm nhân”: tiền của làm hoen ố lòng người.
Hành động của Giuđa đã nói lên kinh nghiệm đó. Giuđa là một trong 12 tông đồ thân tín của Đức Giêsu, được Ngài yêu thương tận tình, nhưng vì tham tiền, anh ta đã bán rẻ lương tâm, không còn nghĩ gì đến tình nghĩa thầy trò, sẵn sàng bán Ngài cho người Do thái với giá 30 đồng bạc. Quá rẻ ! Anh ta đã bị đồng tiền chi phối, không thể chống lại được.
3. Nguy hiểm của tiền bạc.
Có phải “Tiền là Tiên là Phật, là sức bật của lò xo, là thước đo lòng người “ chăng ?
Qua tin tức báo chí và kinh nghiệm thực tế, có lẽ ta phải nhìn nhận sức mạnh của tiền tài quả là đáng sợ. Nó có thể làm mờ lương tri, biến chất lòng người, sụp đổ ý chí, lụi bại thanh danh, tiêu tan trách nhiệm… Thế nên có tiền tài và sử dụng làm sao cho tốt đẹp không phải là chuyện dễ.
Biết bao câu tục ngữ: “Tiền bạc là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu”. Tiền tài vừa nguy hiểm vừa đáng sợ mà ai cũng thích có nhiều, chỉ vì cái sức mạnh của nó, như câu tục ngữ của nước Nga: “Với một túi tiền treo nơi cổ, không ai có thể bị chết treo”. Nhà thơ Tú Xương còn mỉa mai:
Ví thử trong tay tiền bạc có, Nói dối như cuội chán người nghe.
Có thể nói tiền bạc là con dao hai lưỡi. Theo đó, càng nhiều tiền thì con dao hai lưỡi càng khó sử dụng.
Truyện: Lời khuyên của vị giáo trưởng.
Một lần kia, có một người giầu có nhưng keo kiệt đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giầu một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói:
- Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy cái gì” ?
Ông nhà giầu đáp:
- Tôi thấy người ta đi qua, đi lại.
Rồi giáo trưởng đưa ông ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói:
- Ông hãy nhìn vào tấm gương này và nói ông thấy gì”.
Ông nhà giầu đáp ; - Tôi thấy chính tôi”.
- Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có trát lên một lớp bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông” (McCarthy).
4. Tiền của và hạnh phúc.
Tiền của là phương tiện chứ không phải là mục đích, nhưng có nhiều người coi đó là mục đích, là chúa tể. Càng có nhiều tiền của càng muốn có nhiều hơn. Họ theo đạo thờ thần Mammon. Tiếng Mammon chỉ chung những gì nghịch với Thiên Chúa, mà tiền của đứng hàng đầu.
Nhiều tiền bạc chưa chắc đã sung sướng, chưa chắc đã hạnh phúc. Có những trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dư thừa tiền bạc, phủ phê vật chất thì sao ? Hoặc những gia đình giầu có nhưng sống ngột ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta giải thích thế nào ? Bởi vì tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng.
Thi sĩ Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận:
Trong tay đã có đồng tiền Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.
Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng:
Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử, Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.
Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và ý nghĩa cuộc sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ người khác, điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình sống mãi.
Henrik Ibsen nói: “Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài của sự vật nhưng không thể mua cái lõi của chúng. Nó đem đến cho bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng, thuốc men nhưng không phải sức khỏe, sự quen biết nhưng không phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín, những ngày đầy lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh phúc”. Đúng là:
Ăn cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy, Ăn cơm với cáy thì ngáy o o.
III. NGƯỜI QUẢN GIA TRUNG TÍN
1. Người giầu có là quản gia của Thiên Chúa
Có lẽ một phần do ảnh hưởng của cuộc sống khó khăn, phần khác do quá tham lam mù quáng mà chúng ta đã có một suy nghĩ lệch lạc về của cải, đó là chúng ta cứ tưởng mình luôn làm chủ của cải. Nhưng nếu biết suy xét cẩn thận, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra của cải vật chất mà chúng ta đang có đều thuộc về Thiên Chúa, vì chính Ngài mới là Chủ vật chất và Đấng sở hữu đích thực; còn chúng ta, nói một cách trung thực, chỉ là những người quản lý, coi sóc tạm thời. Cho nên, nếu chúng ta cứ tưởng lầm mình là chủ, tất nhiên chúng ta sẽ không tránh khỏi sự lạm dụng quyền hành hoặc bo bo giữ lấy của cải như lẽ sống đời mình để rồi dùng nó theo ý ngông cuồng của mình, sẽ dẫn tới sai trái.
Và một ngộ nhận nữa là chúng ta cứ nghĩ của cải mãi mãi thuộc về mình. Đây là một ngộ nhận tai hại vì không những chúng ta giả điếc làm ngơ trước bao cảnh tay trắng hoàn tay trắng xẩy ra hằng ngày do nhiều nguyên nhân như cháy nhà, bị trộm cướp, bị tai họa, bị tù tội, nhất là bị chết, mà còn cố tình đâm đầu vào làm giầu, tham lam vơ vét của cải như là cùng đích của đời mình. Do đó, kẻ khôn ngoan không phải là kẻ giữ của mà là kẻ biết dùng của cho thật hữu ích vì chúng ta chỉ được phép giữ và sử dụng của cải trong thời hạn nào đó mà thôi.
2. Người quản gia biết chia sẻ
Nếu người giầu có là quản gia của Thiên Chúa thì không có quyền giữ bo bo cho mình hoặc sử dụng một cách hoang phí. Họ phải biết chia sẻ nữa.
Theo ông Robert Karris: “Tiền bạc (mammon) đều thuộc về thế hệ xấu xa này. Môn đệ phải chuyển mammon thành kho tàng trên trời bằng cách chia sẻ của cải với những người khác, đặc biệt những người túng thiếu. Như thế, tiền của có thể mở lối vào Nước Trời, và lúc ấy tiền của là tên đầy tớ tốt cho ta. Phải biết trung tín khi dùng của cải đời này để có thể được trao phó của đời sau, nghĩa là biết sử dụng của cải như phương tiện chứ không phải như mục đích và sử dụng theo ý Chúa”.
Các rabbi Do thái có câu: “Kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Khi chú giải truyện người giầu ngu dại xây kho vựa lớn hơn để tích trữ của cải, thánh Ambrôsiô có nói: “Bụng của người nghèo, nhà của bà góa, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”.
Người Do thái tin rằng của bố thí cho kẻ nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật của con người không tùy những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi. “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).
Truyện: Mạnh Thường Quân.
Mạnh Thường Quân nhà giầu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Hoan sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Hoan hỏi:
- Ngài có định mua gì về không? - Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Hoan cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Hoan nói với Mạnh Thường Quân rằng:
- Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Hoan:
- Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước.
3. Người quản gia phải trung tín
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã khẳng định: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,16).
Ngày xưa, chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì đầy tớ hay lao công có thể làm công việc cách dễ dàng và có thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỷ như có người làm thơ ký ban ngày và làm nhạc sĩ ban đêm. Nhiều người làm thêm để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một nô lệ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thời giờ riêng nào.
Cũng vậy, phục vụ Thiên Chúa không thể nào là một công việc làm bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn sự phục vụ Chúa thì tất cả thời giờ, sức lực của người ấy đều thuộc về Chúa trọn vẹn. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc thuộc trọn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.
Sách có chữ rằng: “Trung thần bất sự nhị quân”: tôi trung không thể làm tôi hai chúa. Đức Giêsu cũng đồng ý như vậy khi đem ra dụ ngôn người quản gia bất lương và kết luận: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”.
Người ta thường nói: “Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là ông chủ rất xấu”, nghĩa là khi chúng ta dùng tiền của như một phương tiện mưu sống, thì lúc ấy tiền bạc rất tốt cho chúng ta. Trái lại, khi chúng ta tôn thờ tiền bạc như một ông chúa, thì lúc ấy tiền bạc là một điều tai hại; do đó, chúng ta phải dùng tiền bạc như một tên đầy tớ, còn việc tôn thờ thì chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi.
4. Người quản gia phải biết dừng lại
Thái độ của người quản gia khôn ngoan là phải biết dừng lại và bằng lòng với những cái mình đang có và cố gắng làm cho tốt hơn, nếu không thì lòng tham vô đáy sẽ đòi hỏi mãi, có thể làm cho chúng ta trở nên mù quáng mà trở thành một quản gia bất lương. Nhà hiền triết Seneca ngày xưa nói rất đúng: “Nếu bạn không coi những gì bạn đang có thì dù bạn có cả thế giới bạn vẫn cảm thấy thiếu”.
Tư tưởng này đông tây gặp nhau:
Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc, Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ? Biết đủ ấy là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ, Biết nhàn ấy là nhàn, đợi nhàn bao giờ mới nhàn. (Nguyễn Công Trứ)
5. Người quản gia biết lo cho tương lai
Đức Giêsu so sánh: “Con cái đời này đối xử với đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng” (Lc 16,8). Rồi từ đó Ngài kết luận: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”(Lc 16,9).
Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang xây dựng Nước Chúa. Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang, xây dựng Nước Chúa.
Bài học Chúa muốn dạy ta hôm nay là phải khôn khéo và mạo hiểm, phải dùng óc sáng kiến và tài sáng nghiệp để tạo cho ta một tương lai trong Nước Chúa, như người quản gia bất lương sửa sọan cho tương lai của mình trong nước trần gian.
Tại sao ta sẵn sàng mạo hiểm trong những lãnh vực khác của cuộc sống và cảm phục người khác làm như vậy ? Nhưng còn việc liên hệ với Chúa ta lại thường đắn đo và dè dặt. Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn so sánh cái cách thế người ta dùng trong những trường hợp có liên can đến những sự vật trần thế với những cách thế mà người ta dùng để đương đầu với những sự vật thiêng liêng.
Truyện: Đồng tiền trên trời.
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giầu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán: - Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu ? - Chỉ một đồng thôi. - Còn tô lớn kia ? - Cũng chỉ một đồng thôi. Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:
- Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không ?
Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói:
- Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được. - Thế tiền-cho-đi là tiền gì ? - Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.
Ông nhà giầu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiều đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
Lm Giuse Đinh Lập Liễm, Giáo xứ Kim Phát, Giáo phận Đà Lạt
Cuộc sống trên trần gian là một hành trình đầy vất vả. Có người thì sung sướng nhẹ nhàng hơn trong công việc làm ăn, có người gian nan khó nhọc lao động, và mọi người gần như cả cuộc đời lao mình vào kiếm tiền để lo cho nhu cầu cuộc sống của mình và gia đình. Đó là sự thật của đời người và là con đường chung của phận người. Thế nên, mỗi người sẽ là quản gia quản lý cuộc đời mình, của cải mình làm ra, cũng như chính sức khỏe, tài trí và những ơn phúc thiêng liêng Chúa ban. Vậy, làm thế nào người Kitô hữu có thể là một quản gia khôn ngoan và trung tín với của cải vật chất và tinh thần để biết lo cho cuộc sống hiện tại và nhất là lo tìm kiếm Nước Trời? Chúng ta hãy lắng nghe những gì Chúa nói với ta qua Tin Mừng hôm nay.
Trước Thiên Chúa, mỗi người chúng ta chỉ là một "Quản lý" chứ không phải ông chủ. Thiên Chúa nhân lành đã ban tràn muôn ân huệ cho chúng ta. Tất cả những gì chúng ta có như: sự sống, tài năng, trí tuệ, sức khỏe, của cải... Chúa đã tin tưởng trao phó cho chúng ta quản lý, nên ta không có quyền phung phí những ân huệ Chúa ban. Vậy ta có thể tiếp tục quản lý hay không là do chính chúng ta. Ta sẽ phải đến trước mặt Người và trả lời về tất cả những của cải vật chất và tinh thần mà ta đã, hay không làm phát triển và sinh lợi khi Người hỏi "Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy phúc trình về công việc quản lý của anh."Vì thế, Chúa muốn chúng ta hãy là một người quản lý tốt lành và trung tín về tất cả những ân phúc ta đã lãnh nhận.
Người quản lý bất lương trong Tin Mừng đã lo lắng về việc bảo đảm cho tương lai, nên anh ta tranh thủ thời gian còn là quản gia để chuẩn bị "Mình sẽ phải làm gì đây...để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!" Nhưng anh ta chỉ khôn khéo tính toán và lo cho cuộc sống nơi cõi trần tạm bợ! Đối với người Kitô hữu, chúng ta có biết lo cho đời sống tương lai sau cuộc đời nơi trần thế như vậy không? Cuộc sống của chúng ta nơi trần gian, những hành động, lối sống của chúng ta sẽ quyết định tương lai vĩnh cửu của ta. Chúa Giêsu đã không ngừng nhắc nhở chúng ta "Hãy bán tất cả của cải mình mà bố thí. Hãy sắm những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời."( Lc 12,33)
Chúng ta thấy nhận xét của ông chủ thật hài hước "Ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo!" Lời khen ngợi này chắc hẳn không thật và không là của một ông chủ bình thường trong cuộc sống. Chắc chắn Chúa Giêsu không cổ vũ cho hành động bất lương của anh quản gia này. Nhất là hành động gian lận của cải của người khác. Chính vì thế, Chúa đau lòng nhận thấy "Con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng khi xử sự với người đồng loại!" Chúa cũng không lên án vấn đề làm kinh tế hay quản lý tài sản bởi vì trong lãnh vực này, đòi người quản lý khôn khéo và thông minh để làm sao cho sinh lợi, nhất là trong thời đại hôm nay. Tuy nhiên, Chúa căn dặn chúng ta, những Kitô hữu đừng có cùng sự khôn lanh và tài trí như người quản gia này đối với những "Công việc tinh thần". Vì chúng ta không thể đạt được gia tài Nước Trời bằng sự khôn khéo thế gian.
Chúng ta có đặt tất cả những tài năng, trí khôn để phục vụ Nước Trời không? Đây là điều Chúa muốn chúng ta, những Kitô hữu "Con cái ánh sáng", con của Cha chúng ta là Thiên Chúa Tình Yêu và Sự Sáng. Chúa mong chúng ta hãy chiếu tỏa ánh sáng chân thật, công bằng, tình yêu, bác ái...để đẩy lui và xóa tan đi bóng tối trong cuộc sống. Đừng chỉ giữ điều tốt lành, đức hạnh cho riêng mình. Hãy bận tâm và khôn khéo để sinh lợi, để loan báo Tin Mừng và làm cho Nước Chúa hiển hiện. Bởi vì "Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn." Đối với Chúa, việc lớn đó là "Sự sống vĩnh cửu", là của cải thiêng liêng, là kho tàng trong Nước Trời. Trái lại, tiền bạc chỉ là việc nhỏ.Vì thế, hãy nhớ "Việc nhỏ thì ít quan trọng", đó chỉ là cái tạm bợ, chóng qua, nhưng gia tài thiêng liêng mới là điều quan trọng hơn, để rồi ta xứng đáng là một quản lý trung tín và khôn ngoan.
Tiền bạc cũng không phải là của chân thật đối với con người. Sự giàu có không chắc làm cho chúng ta trở thành người tốt, cũng chẳng làm cho ta thông minh, hạnh phúc hay đạo đức hơn. Giá trị chân thật không ở nơi tiền bạc. Vì thế, với Chúa, tiền bạc là một vật bên ngoài. Đó là cái chúng ta "Có" chứ không phải "Là". Chúng ta có thể có rất nhiều mà vẫn là một người cùng cực, khổ tâm, bất hạnh...Chúa không đưa ra lời kết án về tiền bạc, nhưng trái lại, Người nói với chúng ta "Hãy dùng tiền của bất chính", hãy học để có thể trở thành một quản lý tốt biết "quản lý của cải chân thật" của chúng ta.
Ở một phương diện nào đó, bản chất tiền bạc thường được coi là gian dối, vì nó đối nghịch với Thiên Chúa. Với Chúa Giêsu, tiền bạc thường "Bất chính", là "mammon độc ác", nên Người đã căn dặn "Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?" Chúa biết ý nghĩa thông thường của tiền bạc: rất khó kiếm được và rất ích lợi, nó là hoa trái của lao động. Nhưng nếu tiền bạc có được từ sự ức hiếp, gian lận hay tham ô, hà tiện...thì đó là bất chính vì là tước đoạt của những người khác. Và khi ấy người ta đã làm tôi tiền bạc và coi nó là mục đích tối hậu. Trái với anh quản lý bất lương gian lận của cải của chủ để mong những con nợ đón tiếp anh ta sống qua ngày sau khi mất việc, Chúa muốn chúng ta khôn khéo trong việc sử dụng tiền của do chính bàn tay lao động của chúng ta để đạt được gia tài Nước Trời.
Thế nên, Chúa chỉ cho môn đệ "Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè", vì tiền của có thể phục vụ chúng ta và trở thành phương tiện chuyển tải tình yêu, đó là ý nghĩa sâu xa của dụ ngôn này. Mỗi người chúng ta cũng là những quản lý gia sản của mình, Chúa mong ta biết dùng để tìm kiếm Nước Trời bằng hành động bác ái chia sẻ như lời thánh Phaolô khuyên "Hãy chịu khó dùng đôi tay của mình mà làm ăn lương thiện để có gì chia sẻ với người túng thiếu."( Ep 4,28b) Đây là điều phúc cho chúng ta, có thể dùng tiền của để đạt được Nước Trời qua việc giúp đỡ anh em nghèo khó "Tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu." Vì chỉ khi biết yêu thương chia sẻ với anh em ngay nơi trần thế này, ta mới xứng đáng hưởng tình yêu xum họp với họ trong Nước Trời.
Của cải và tiền bạc chính nó không phải là xấu. Nó chỉ là phương tiện, được sử dụng để phục vụ con người. Chúa muốn chúng ta hãy biết quản lý nó cách khôn ngoan và trung tín. Không để tiền bạc điều khiển ta hay làm chủ ta, bởi vì Kitô hữu "Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được." Xin Chúa Thánh Thần luôn soi sáng và hướng dẫn để chúng ta biết tỉnh thức, khôn ngoan mà sử dụng của cải đời này để đạt được hạnh phúc và vinh quang trên Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan theo Tin Mừng, để chúng con biết tích lũy cho mình kho tàng trong Nước Trời bằng đời sống bác ái, cho đi cách quảng đại và biết sử dụng tất cả những ân huệ Chúa ban cách trung tín. Amen.
Người ta vẫn thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được” hoặc “Miệng người sang có gang có thép!” Đồng tiền trở thành chiếc chìa khóa vạn năng, có thể mở ra mọi cánh cửa. Người ta dùng tiền để mua bằng cấp, để chạy chọt tìm những vị thế cao trong xã hội, để tậu nhà cao cửa rộng và ngay cả để có được vợ đẹp con khôn. Điều này chúng ta thấy rất rõ trong cuộc sống hiện tại. Nhưng, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mạnh mẽ khẳng quyết: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của được”. Có vẻ như Chúa Giêsumuốn mạnh mẽ tuyên chiến với tiền bạc, như một đối thủ không đội trời chung. Cả ba bài đọc hôm nay gợi lên một thách đố xem chúng ta chọn cái gì, tiền bạc hay nước trời?
Sự khôn ngoan của Nước Trời
Để minh họa cho giáo huấn trên, Chúa kể dụ ngôn về người quản lý bất lương. Tay quản lý này rất khôn khéo, toan tính để thu lợi cho mình. Có thể nói, anh ta rất quỷ quyệt và gian manh, khi nghĩ về hậu vận tương lai, ‘cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi’. Ông chủ trong câu chuyện khen tên quản gia đó là một người khôn khéo (c.8). Nhưng đó chỉ là khôn ngoan theo kiểu thế gian. Chúa kết luận với nhận định: “Quả thật, con cái đời này khôn hơn con cái sự sáng”. Như vậy, Chúa Giêsu muốn đưa dẫn chúng ta đến sự khôn ngoan đích thực, không theo kiểu thế gian nhưng theo hướng đích của Tin mừng.
Không phải Chúa khen ngợi sự quỷ quyệt ma mãnh của người quản lý bất lương kia, nhưng từ câu chuyện, Ngài mời gọi các môn sinh hãy biết ‘dùng tiền bạc bất chính mà tạo lấy bạn bè’, tức là phải biết sử dụng của cải đời này theo tiêu chuẩn khôn ngoan Ngài vạch dẫn.
Ông Jean Paul Satre, một triết gia hiện sinh vô thần đã viết tác phẩm khá nổi tiếng tựa đề ‘La nausée’. Ông chủ trương một lối sống hiện sinh, lấy tiền bạc làm chuẩn mực và làm thước đo mọi giá trị để kiến tạo hạnh phúc. Nhưng cuối cùng, tiền bạc cũng không thể làm ông thỏa mãn những khao khát. Ông chỉ thấy cuộc sống mình hoàn toàn vô nghĩa khiến ông muốn nôn mửa ra. ‘La nausée’ có nghĩa là ‘Cơn buồn nôn’. Chắc chắn mỗi người chúng ta đều đã kinh qua những kinh nghiệm thương đau và phũ phàng về tiền bạc. Điều quan trọng là chúng ta phải hành xử khôn ngoan theo hướng của Tin Mừng. Đây là sự khôn ngoan được Chúa nhấn mạnh qua dụ ngôn hôm nay.
Cũng tương tự trong bài đọc 1, tiên tri Amos nặng nề cảnh cáo những kẻ dùng tiền bạc để mua người cơ hàn, đổi lấy phẩm giá của những người cùng khổ. Ngạn ngữ phương Tây có viết: “Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu”, hoặc như câu nói của một triết gia người Pháp: “Tiền là phương tiện của kẻ khôn ngoan nhưng lại là mục đích của kẻ ngu xuẩn”. Cách sử dụng tiền bạc cho đúng mục đích, là điều Chúa muốn nói tới hôm nay.
Có một truyền thuyết kể lại một phong tục kỳ lạ tại một vương quốc kia. Trong vương quốc nhỏ bé ấy, ai cũng có thể làm vua, nhưng chỉ được trị vì trong một năm, sau đó sẽ bị đày ra một hòn đảo xa xôi và sống ở đó cho đến chết. Một ông vua nọ đã rất khôn khéo. Trong một năm cai trị vương quốc, ông đã thu tích rất nhiều của cải để chuyển ra hòn đảo mà sau này ông ta sẽ đến ở. Truyền thuyết này cũng phần nào tương hợp với dụ ngôn về người quản lý bất lương mà bài Tin Mừng hôm nay nói đến.
Không ai có thể làm tôi hai chủ
Tiền bạc hay nước trời, chúng ta chọn cái gì? Đây là câu kết luận mà Chúa muốn nhắm đến. Chúa không dạy chúng ta phải ghê tởm và xa tránh tiền bạc, nhưng biết sử dụng nó để mua lấy nước trời. Trong ba năm rao giảng, chính Chúa Giêsu cũng đã dùng đến tiền bạc. Ngài đã cắt đặt Giuđa làm người quản lý. Ngài cũng nhận sự trợ giúp vật chất từ những phụ nữ giàu có. Chúa cũng mượn ngôi nhà của một người giàu để ăn bữa vượt qua với các môn đệ trước khi lên đường thụ nạn. Điều Chúa Giêsu muốn nói là chúng ta đừng trở nên nô lệ cho tiền bạc. ‘Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được’.
Trong sinh hoạt của Giáo hội, Giáo hội cần những nguồn tài chính để xây dựng những nơi thờ phượng hay để tổ chức những hoạt động tông đồ, nhưng cũng dễ xảy ra lạm dụng. Anh em Tin lành, đặc biệt ông tổ Lutherô và Calvinô rất dị ứng với việc dùng tiềnđể xin lễ. Giáo luật vẫn cho phép các linh mục nhận và hưởng bổng lễ, nhưng phải tuân thủ kỷ luật cách nghiêm túc. Bổng lễ được nhận với hai mục đích, một mặt giúp nuôi sống các tư tế và mặt khác, cũng để đóng góp vào những thiện ích chung của Giáo hội. ‘Simonia’ (buôn thần bán thánh) là một thứ tội mà Giáo hội kiên quyết loại trừ.
Tiền bạc vẫn luôn là vấn đề muôn thuở, là tên cám dỗ khủng khiếp nhất tấn công tất cả mọi người. Lời cảnh báo của Chúa Giêsu hôm nay ‘Không ai có thể làm tôi hai chủ’ vẫn luôn mang tính thời sự, chạm đến ‘vùng cấm’ tế nhị nhất của mọi Kitô hữu, nhất là của các anh em linh mục.
Kết luận
Thánh Augustinô đã viết trong bộ sách Tự thuật của Ngài: “Cuộc đời của chúng ta là một cuộc tìm kiếm không ngừng”. Cái chúng ta đang kiếm tìm là gì? Tiền bạc hay nước trời? Ngài đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, linh hồn con khao khát Chúa cho đến khi được yên nghỉ trong Ngài”. Còn chúng ta, chúng ta đã cầu nguyện với Chúa ra sao? Chúng ta khát khao Thiên Chúa hay tiền bạc?
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến một thứ rất quen thuộc và được sử dụng hàng ngày trong cuộc sống đó là “tiền”. Chẳng ai muốn nói tới tiền, vì đó là một chủ đề cấm kỵ. Tiền vừa là thứ được yêu thích, và cũng là thứ gây mặc cảm.
Lời khuyên của Chúa Giêsu: “ … các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16, 9), và câu kết đoạn Tin Mừng: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16,13) khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Tiền chỉ là một mảnh giấy, một vật làm bằng kim loại vô tri vô giác, nhưng nó đã đuợc chọn làm tương giao đổi chác, chi phối chúng tq quá nhiều. Tiền giữ một vị trí quan trọng, khiến nhiều bậc thang có giá trị bị đảo lộn, nhiều người có cùng quan điểm “có tiền là có tất cả”.
Đúng là có nhiều điều quan trọng ta không thực hiện được chỉ vì không có tiền, nhưng không thể nói rằng có tiền là có thể mua đuợc mọi thứ trên đời. Tiền chỉ là một công cụ để chúng ta trao đổi, tự bản chất tiền không nói lên một giá trị gì cả. Như thế, tiền không thể bảo đảm sự sung túc. Ví dụ: Trên con thuyền giữa đại dương, khi người ta không còn gì để ăn, thì một túi ngân phiếu cũng không giúp ích được gì. Tiền không thể thay thế được bất cứ nhu cầu nào. Người ta không thể sống bằng những con số tiền ở ngân hàng, nhưng bằng bánh và Lời Chúa. Tiền không thể làm cho lúa lớn lên được, nó chỉ làm tăng thêm hiệu quả của công sức con người trong tương quan với thiên nhiên.
Cuốn sách mang tựa đề “Happy Money: The Science of Smarter Spending”, (tạm dịch: Tiền hạnh phúc: Khoa học chi tiêu thông minh). Tác giả của cuốn sách này là hai nhà khoa học nghiên cứu hành vi nổi tiếng: Tiến sĩ Elizabeth Dunn và Tiến sĩ Michael Norton viết rằng: Tất cả chúng ta đều mắc một sai lầm về tiền khi cho rằng kiếm được càng nhiều tiền thì chúng ta càng cảm thấy hạnh phúc. Nếu muốn mua cho mình một cuộc sống trọn vẹn, vấn đề không nằm ở chỗ kiếm được bao nhiêu tiền, mà nằm ở cách bạn tiêu tiền.
Khi nói đến sức mạnh và giá trị của đồng tiền, có nhiều ý kiến trái chiều, chúng ta từng nghe một số nhận định sau:
Tiền có thể mua một ngôi nhà, nhưng không thể mua một mái ấm gia đình. Tiền có thể mua chiếc giường đẹp, nhưng không thể mua giấc mộng vàng. Tiền có thể mua chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian. Tiền có thể mua quyển sách, nhưng không mua được kiến thức. Tiền có thể mua chức vụ, nhưng không mua được sự kính trọng. Tiền có thể trả cho bác sĩ, nhưng không thể mua được sức khoẻ. Tiền có thể mua máu đào, nhưng không thể mua được mạng sống. Tiền có thể mua xác thịt, nhưng không mua được tình yêu.
Có người hỏi: tiền có mua được hạnh phúc không?
Số đông quả quyết rằng “không”. Có người cho rằng, tiền không mua được hạnh phúc nhưng nó có thể là công cụ mang lại hạnh phúc.
Tại sao tiền bạc có thể mua đuợc rất nhiều thứ ngoại trừ hạnh phúc?
Tiền thì không thể mua đuợc hạnh phúc vì hạnh phúc của con người không thể đo bằng thước, và càng lại không thể dùng giá trị của đồng tiền để mua hạnh phúc. Tiền là một thứ tiêu biểu cho giá trị vật chất, nên chỉ có thể mua những gì thuộc về vật chất. Còn hạnh phúc là một loại tiêu biểu cho giá trị tinh thần. Chẳng thế, Dunn và Norton cho rằng, làm cho người khác hạnh phúc trước và chắc chắn bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sau. Đây là một điều hiển nhiên, nhưng thật ngạc nhiên, quá nhiều người quên rằng, đây là điều phù hợp với tinh thần Kitô.
Một câu hỏi lớn được đặt ra cho chúng ta: Tiền có thể cứu độ được con người không?
Giảng trong thánh lễ sáng thứ Sáu 20 tháng 9 năm 2013, Đức Phanxicô nhắc lại rằng: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” bởi vì “một khi người ta dành tình yêu cho tiền và hướng về, thì tiền lôi kéo người ta xa rời Thiên Chúa”. Ngài kết luận: “Không ai có thể được cứu độ bằng tiền”. Vì vậy, chúng ta phải chọn lựa, chúng ta không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền của được. Chúng ta không thể. Hoặc là Thiên Chúa hoặc là tiền của.
Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra tội lỗi, nhưng thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham thích tiền bạc” (1Tm 6,10). Vì ham thích tiền mà một số người từ bỏ đức tin và gây nhiều đau khổ”. Thật vậy, sức mạnh của đồng tiền làm cho người tín hữu xa rời đức tin và thậm chí, tiền làm cho đức tin yếu dần và đưa người ta đến chỗ mất đức tin. Tiền là chỗ dựa không vững chắc, là thước đo lường sai và với sự hấp dẫn của nó, con người có nguy cơ bị tiền chế ngự. Thần Tiền tạo ra ảo giác rằng khi có tiền, tôi có thể có được mọi thứ, mọi ước muốn sẽ được thoả mãn, và qua đó, tiền làm cho chúng ta thành nô lệ.
Thiên Chúa muốn gì nơi chúng ta?
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phục thực sự. Ngài muốn chúng ta đi vào Giao Ước, chứ không phải là Bò vàng, Mammon, một giá trị biểu trưng sự an toàn tuyệt đối. Nếu không muốn trở thành nô lệ, cách thức duy nhất là chọn làm tôi Chúa và phục vụ Ngài. Chỉ có Thiên Chúa mới giải thoát được chúng ta.
Trong Mười Điều Răn, không có điều răn nào nói về tiền bạc. Tuy nhiên, chúng ta có thể lỗi phạm điều thứ nhất, nếu chúng ta hành động vì tiền. Đó là tội thờ ngẫu tượng. Vì tiền trở nên thần tượng để chúng ta tôn thờ. Ma quỷ luôn cám dỗ người ta về: sự giàu có, thỏa mãn; tự phụ, cảm thấy mình quan trọng; và kiêu ngạo. Và cuối cùng, tiền tạo ra sự tôn thờ ngẫu tượng.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con khỏi rơi vào cái bẫy của thần tượng bạc tiền và chọn Chúa, vì chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ chúng con. Amen.
Tiền bạc dẫn đưa con người đến hạnh phúc, nhưng là hạnh phúc giả tạo.
Thật vậy, nếu nói rằng tiền bạc không cần thiết là điều không đúng. Xét cho cùng tiền bạc chính là một sự chứng nhận để lưu hành bởi một tờ giấy có ghi số và chữ. Nhưng muốn có tiền, người ta phải ra sức làm việc để kiếm tiền. Nên chi, việc sử dụng đồng tiền do công sức mình kiếm được là một điều chính đáng. Nhưng tiền bạc không phải là sự tận cùng, trên tiền bạc, đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Vì nếu tiền bạc thật sự là hạnh phúc vĩnh cửu, thì không còn là tiền bạc nữa, không còn là hạnh phúc nữa, mà là sự chết, sự trầm luân muôn đời. Vì lúc đó con người sẽ sát phạt nhau để giành lấy tiền bạc, và bất phân thắng bại, con người sẽ không có sự sống, mà là sự chết, sự diệt vong con người. Như vậy, là sự đối nghịch với sự sống, là đối nghịch với Thiên Chúa. Với ý nghĩa đó, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn “Người quản gia bất trung” để rao giàng Tin Mừng Nước Trời.
Từ dụ ngôn “Người quản gia bất trung”, (Lc 16,1-8), Chúa Giêsu cho chúng ta một nhận thức tỉnh táo về Nước Trời. Nước Trời là một trạng thái siêu nhiên, nhưng vĩnh cửu mà không ai đạt tới được. Nước Trời quan trọng và rất đỗi thiết thực, đến độ cuộc sống hiện tại không thể không nhắm tới. “Người quản gia bất trung” còn biết dùng sự bất lương của mình mà mua lấy một cuộc sống sau khi về hưu, bị đuổi việc, huống chi là người tín hữu không biết lợi dụng thời cơ ở đời nầy mà mua lấy Nước Trời. Nghĩa đen là dùng đồng tiền, nhưng nghĩa bóng đó là, biết dùng công sức và thời gian để xây dựng Nước Trời.
Nếu hiểu theo nghĩa đen, chắc chắn nhiều người làm việc Tông đồ không phải vì Tông đồ mà là vì tiền bạc. Ví dụ, một linh mục khi còn làm việc được thì lo thâu tóm “chút ít” để khi về già, hưu rồi có cái để chi dùng. Nếu hiểu như vậy, thì không đúng. Nhưng chúng ta biết dùng của cải cho đúng cách với mục đích vì Nước Trời thì chúng ta thật diễm phúc, vì chúng ta biết sử dụng cái chóng qua để mua lấy sự vĩnh cửu. Qua dụ ngôn: Người quản gia bất trung, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã đề cao tinh thần Nước Trời nơi công việc trần thế. Điều đó có nghĩa là khi chúng ta sống nơi thân xác hữu hình, chúng ta cũng phải biết dùng thời gian thuận tiện để làm lợi cho đời sống tâm linh của chúng ta. Khi chúng ta được “gọi về”, chúng ta hãnh diện mang theo hành lý là Tin Mừng Nước Trời.
Chúa không đề cao sự bất trung của trần gian, nhưng qua cách khôn khéo của trần gian, Chúa Giêsu dạy chúng ta một thực tại Nước Trời. Nước Trời là điều không phải dễ hiểu, nên chi, từ dẫn chứng tự nhiên, Chúa Giêsu đã dẫn đưa con người đến sự siêu nhiên Nước Trời.
Để hiểu rõ hơn nội dung Đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhớ lại câu tục ngữ như sau: “Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của”.
Phần II của đoạn Tin Mừng hôm nay: Trung tín trong việc sử dụng tiền của.
Dụ ngôn trên cho thấy, sự bất lương của người quản gia, nhưng là bài học để mua lấy Nước Trời. Chuyển tiếp qua phần II là sự trung tín trong việc sử dụng tiền của. Tiền của trần gian cho dù là gì đi nữa cũng được gọi là “bất chính”, bởi vì, nếu công chính thì không bao giờ có dư tiền của, tiền của “bất chính” ở đây không phải là trộm cướp, nhưng không phải là chính đáng. Ví dụ: Hưởng thừa kế, trúng mánh, cho vay, thắng bạc, kinh doanh có lời lớn, mua một bán mười, v.v... Đó là những tiền của bất chính, tiền của bất chính là cuộc sống tạm bợ nơi thân xác, nhưng con người biết trung tín sử dụng thì nó trở nên tốt. Người ta nói: Tiền bạc là đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu. Ông chủ xấu, khi chúng ta tôn thờ đồng tiền, đồng tiền là hữu vật tự nhiên, chứ không phải thiên nhiên. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta dùng đồng tiền trần gian để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Cuộc sống tốt đẹp là biết đến nhu cầu cảu tha nhân. Rõ ràng, người cho vay và sống bởi tiền cho vay là sống bởi đồng tiền bất chính, vì sống trên nhu cầu khó khăn của người khác .Tiền của là phương tiện, chứ không phải là mục đích. Nên Chi, nếu chúng ta không trung tín trong việc sử dụng tiền của trần thế, thì chúng ta cũng không thể được giao công việc Nước Trời. Chúng ta chính là trong vai “ người đầy tớ bất trung” trên, vì Thiên Chúa ban cho chúng ta những của cải để chúng ta sinh ích lợi cho tha nhân, chứ không phải chỉ cho chúng ta mà thôi. Chúng ta được phép làm chủ của cải, chứ không được phép tôn thờ của cải. Đó là điều cần thiết, vì nếu chúng ta tôn thờ của cải, thì chúng ta sẽ không tôn thờ Thiên Chúa. Mặc nhiên, Chúa Giêsu đưa ra một sự chọn lựa dứt khoát là:Thiên Chúa và tiền của. Thiên Chúa và tiền của là hai vấn đề luôn đối lập và hiển nhiên không đồng hành song song. Đây là điều thách thức và cũng là đòi hỏi của Tin Mừng Nước Trời. Đây chính là cửa hẹp của người công giáo.
Chúa Giêsu không định kiến với người giàu về của cải, nhưng người có của cải thì khó có Thiên Chúa, vì Thiên Chúa không đứng dưới của cải, mà là Thiên Chúa đứng trên của cải. Của cải là thứ không mang được vào Thiên Quốc, vì của cải là phương tiện cho thân xác. Nhưng nếu con người biết sử dụng phương tiện của thân xác để mưu ích cho linh hồn,thì đó là điều khôn ngoan.
Vì vậy, Chúa Giêsu đã nói: “Kẻ giàu có khó vào Nước Trời biết bao!” “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Thiên Quốc” (Mt 19, 23-24).
Ước gì Lời Chúa hôm nay, sẽ thức tỉnh phàm nhân để họ nhận ra ánh sáng của Tin Mừng trong mọi biến cố cuộc đời, hầu soi sáng cho họ nhận ra chân lý của Lời Chúa. Amen.
Chúa Giêsu thường đề cập đến việc sử dụng của cải trần gian. Ngài luôn cho chúng ta thấy, tiền của chỉ là phương tiện chứ không là mục đích của cuộc sống.
Hôm nay Giáo Hội mời chúng ta suy nghĩ về một trong những dụ ngôn liên can đến vấn đề nầy, là phải sử dụng của cải một cách khôn ngoan.
Dụ ngôn người quản lý gian lận nầy không thể hiểu theo từng chi tiết mà chỉ rút ra những bài học chứa đựng trong đó mà thôi.
Ông chủ trong dụ ngôn làm sao biết thủ đoạn của người quản gia. Nếu biết thì ông đã không khen tên quản gia đó đâu.Ở đây chỉ chú trọng đến ý nghĩa tượng trưng thôi. Chúa muốn cảnh báo chúng ta là hãy khôn khéo sử dụng của cải đời nầy để tạo hạnh phúc mai sau.
Của cải trần gian nay còn mai mất. Ai sử dụng khôn ngoan sẽ gặt hái kết quả tốt đẹp, không biết sử dụng sẽ mang họa cho chính mình.
Bài học thứ hai là phải biết lợi dụng thời cơ thuận tiện đang có để bảo đảm cho tương lai.Chúng ta đang sống. Đây là thời gian Chúa ban để chuẩn bị cho một tương lai huy hoàng, đầy hứa hẹn.Cuộc sống hôm nay không kéo dài mãi được. Điều nầy ai cũng biết, nhưng tương lai vẫn là một ẩn số. Sau cuộc đời nầy sẽ có gì? Còn gì nữa không? Đức tin dạy chúng ta biết rằng, chúng ta còn một cuộc sống, một hạnh phúc bất diệt là sống trong tình yêu Chúa.Nhưng rất nhiều người không biết. Họ cảm thấy chơi vơi. Họ cũng cảm thấy rằng nếu chết là hết thì cuộc sống nầy thật vô lý. Bao nhiêu cố gắng trong bao nhiêu năm tan ra mấy khói tro bụi, và nếu có để lại được cái gì thì chỉ còn là dấu tích, những kỷ niệm mà thời gian sẽ xóa mờ.
Những triết gia vô thần đã cho rằng cuộc sống hôm nay là thừa thãi, sự có mặt của con người trên trần gian là vô lý, cuộc đời chỉ mang lại buồn nôn. Vì thế, cứ vui chơi, không cần lo ngày mai. Sống như đốt tàn một điếu thuốc.
Người công giáo chúng ta, ngược lại, xem cuộc sống là một hồng ân và nó sẽ kết thúc trong huy hoàng, dù hôm nay có bi đát thế nào. Vì thế, chúng ta không buồn nản, không tuyệt vọng bao giờ. Chúng ta có một niềm hy vọng không bao giờ tàn phai. Chúng ta luôn hát lên bài ca cảm tạ, vì Chúa là hạnh phúc của chúng ta hôm nay và mãi mãi. Vì chúng ta được yêu thương và chúng ta biết điều đó. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Không ai có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được” và “Ngài đã yêu tôi và đã chết cho tôi”.
Niềm hy vọng đó, tình yêu đó là ánh sáng trong cuộc đời đầy cam go của chúng ta. Chúng ta không né tránh những cam go đau khổ, chúng ta bền tâm tin cậy.
Cuộc sống nầy là thời cơ thuận tiện để đạt đến hạnh phúc. Chúa nói: “Con cái đời nầy khôn ngoan hơn con cái ánh sáng trong cách giao tiếp với đồng loại”. Câu nầy xem ra nghịch lý nhưng không sai. Chúng ta không thể khôn khéo hơn con cái thế gian vì chúng ta không thể dùng những phương tiện họ dùng, chúng ta không thể tráo trở lật lộng, lừa dối vì chúng ta là con cái ánh sáng. Chúa bảo chúng ta khôn ngoan như con rắn , nhưng ngây thơ như chim câu”.chúng ta không thể gian dối, điều chúng ta không thể làm.
Chúa cũng muốn dạy rằng, trên phương diện đạo đức chúng ta phải dùng tất cả khả năng, sự khôn khéo của chúng ta để rèn luyện nhơn đức và sống thánh thiện. Trong việc làm ăn, chúng ta tỏ ra rất khôn ngoan cần mẫn,tính tước tính sau, tại sao trên phương diện đạo đức, chúng ta không nỗ lực như thế? Không suy tính cẩn thận, xem như một việc không cần thiết. Trong việc làm ăn,nhiều người thức khuya dậy sớm, siêng năng, đem hết tâm lực để làm đang lúc đó việc thờ phượng thì chểnh mãn, do dự, không nhiệt thành? Đây chính là bài học Chúa muốn dạy cho chúng ta. Chúng ta phải sử dụng mọi khả năng Chúa ban để đạt được Nước Trời, nếu cần phải thức khuya dậy sớm, chúng ta cũng sẵn sàng.Chúng ta thường xem lợi lộc trần gian hơn Chúa.
Chúng ta là những người quản lý của Chúa. Chúa trao trong tay chúng ta tất cả tài sản của Ngài, cho chúng ta mỗi người những kho tàng hồng ân vừa vật chất vừa tinh thần để xây dựng Nước Trời. Chúng ta đã quản lý như thế nào?
Nhìn vào cuộc sống của mỗi người để biết chúng ta quản lý tài sản được giao như thế nào.Nhiều người phung phí một cách vô trách niệm, và sử dụng tài sản ơn lành của Chúa để phạm tội. Và hậu quả là mọi sự đã trở nên khốn nạn. Thay vì xây dựng một thế giới thân hữu yêu thương, con người đã biến thành một chiến trường. Thay vì “tạo một nền văn minh của sự sống” họ đã tạo nên “một nền văn minh của sự chết”.
Con người đã trở nên một người quản lý gian ác. Phá đổ chứ không xây dựng. Lạm dụng mà không biết gìn giữ.
Chúng ta không thể làm người quản lý gian ác được.Người quản lý tốt là người trung tín. Đó là điều kiện cần thiết để quản lý kho tàng tình yêu của Thiên Chúa. “Trung tín trong việc nhỏ để có thể trung tín trong việc quan trọng”. Người quản lý tốt cũng là con người có tinh thần trách nhiệm, biết gìn giữ và sử dụng khôn ngoan tài sản của chủ.
Chúa trao trong tay chúng ta kho tàng ơn thánh của Ngài, chúng ta có sử dụng như Chúa muốn không hay chúng ta phung phí như bao nhiêu người khác, vô trách nhiệm? Tất cả là hồng ân: thời giờ, của cải, sự sống, thân xác, khả năng… một kho tàng khổng lồ đang nằm trong tay chúng ta.Hãy sử dụng cho Chúa và cho anh em. Đừng lấy thân xác làm tôi mọi cho tội lỗi như thánh Phaolô đã dạy. “Hãy tôn vinh Thiên Chúa trong thân xác anh em”, “Hãy dùng của cải gian ác để tạo lấy bạn bè… họ sẽ đón anh em vào nơi ở vĩnh cửu”.
Chúng ta có quyền sử dụng tất cả,nhưng hãy sử dụng cho sáng danh Chúa. Đó là hướng đi đúng đắn của kitô hữu: “Dù ăn, dù ngủ dù làm, anh em hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa”.
Và trên hết mọi sự, chúng ta hãy sử dụng mọi sự để yêu mến Chúa thôi. Và tình yêu chỉ có một, không thể yêu hai người một lúc. “Chúng ta không thể yêu Chúa và yêu tiền của được”. Chúa mới là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. Kho tàng của chúng ta là Giêsu chứ không là của cải trần gian nầy.
Hãy nhìn Chúa Giêsu. Ngài đã sống kiếp người của chúng ta, như chúng ta, Ngài đã sử dụng những gì trần gian đã cung cấp cho Ngài.Ngài đã sống nghèo ở Nadaret, làm thợ mộc, nhọc nhằn để kiếm cơm như chúng ta. Ngài hoàn toàn chỉ sống cho Cha Ngài. Khi bước ra rao giảng Tin Mừng, Ngài làm những dấu lạ khiến mọi người thán phục, nhưng Ngài không bám vào danh tiếng, Ngài đi ngang qua cuộc đời như một lữ khách, không bám vào một cái gì, chỉ lo một điều: vâng theo ý Cha.Và cuối cùng, cho không tất cả. Nhờ đó Ngài tạo ra cho chúng ta một gia sản khổng lồ, với bàn tay trắng, với cái chết yêu thương tràn đầy. Đó là mẫu gương ngàn đời cho mỗi người chúng ta. Sống giữa trần gian, hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi một điều gì. Tất cả chỉ là phương tiện để cứu trần gian.Tất cả trần gian là khí cụ của tình yêu.
Chúa vẫn yêu thương chúng ta, vẫn đến với chúng ta hằng ngày trong Bí Tích Tình Yêu. Ngài là kho tàng duy nhất của chúng ta, là của ăn có thể mang cho chúng ta sự sống đời đời. Ăn lấy Ngài, chúng ta mới biết Chúa ngọt ngào như thế nào.
"Trung thần bất sự nhị quân" (Người tôi trung không thờ hai vua). Đó là câu người Việt Nam chúng ta thường nói. Trong bài Phúc Âm hôn nay Chúa dạy: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được" (Lc 16:12-13).
Đó là nguyên tắc phải noi theo triệt để. Nguyên tắc này lại rất khó thực hiện cách hoàn toàn và nhiều khi, nếu không hiểu đúng, còn làm chúng ta hoang mang trong đời sống vật chất phức tạp này. Vì, một đàng Chúa truyền chúng ta phải chu toàn nghĩa vụ lo lắng cho gia đình được ấm no (Giới răn 4), phải lo làm việc không được lười biếng như thánh Phaolô nói: "Ai không làm việc thì đừng có ăn" (2 Thes 3:10) và thực tế "có thực mới vực được Đạo". Nhưng đàng khác Chúa cũng dạy: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên dàng" (Mt 19:24). Nước Trời chỉ dành cho những ai có tinh thần nghèo khó: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước Trời là của họ" (Mt 5:3). Và rõ ràng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay: "Không ai có thể làm tôi hai chủ... các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Lc 16:13).
Vậy phải làm sao đây? Phải khôn ngoan như viên quản lý trong bài Phúc Âm. Chúa không khen việc gian lận của anh ta, nhưng ngài khen việc anh ta biết khôn ngoan khéo léo quyết định trong lúc "bí". Đó cũng là thái độ của chúng ta phải có khi đứng trước biến cố cứu rỗi, đứng trước sự "dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu để được tiếp đón vào chốn an nghỉ đời đời" (c. 9).
Tiền của là con dao hai lưỡi, biết dùng thì tốt không biết dùng thì sinh hoạ. Tiền của là tên đầy tứ tốt nhưng là ông chủ rất xấu. Vậy cái nguy hiểm không phải là tiền của. Tiền của Chúa dựng nên tự nó không xấu. Cái nguy hiểm, cái xấu là nơi lòng dạ chúng ta, người xử dụng nó. Chúng ta có quyền và phải dùng tiền của mà sinh sống mà mua sắm nước thiên đàng bằng việc bác ái xã hội. Tiền của phải là phương tiện, là tên đầy tớ để chúng ta sai khiến và làm việc theo ý ta, không được để tiền của trở thành cùng đích, thành ông chủ sai khiến ta, bắt ta làm nô lệ nó. Chúa dạy "không được làm tôi tiền của" chứ không dạy "không được có tiền của". Chúa dạy hãy bắt chước viên quản lý nọ biết dùng tiền của mà vào thiên đàng: hãy chú ý tới tinh thần và cách thức dùng tiền của.
Lạy Chúa, tuần này con quyết thực tập bài học Chúa dạy: dùng tiền của để vào thiên đàng bằng việc bác ái công đức xã hội.
Câu chuyện mà Đức Giêsu kể trong Tin Mừng Thánh Luca không chỉ là chuyện của hơn 2000 năm trước. Hôm nay, những sự kiện tương tự như thế vẫn diễn ra. Mới đây, khi điều tra về nợ xấu của các ngân hàng, người ta phát giác ra những cán bộ được phân công định giá tài sản của những người vay ngân hàng. Những người này đã kê khống giá trị tài sản thế chấp để người đi vay được vay tiền nhiều, rồi chia lại cho người định giá. Ví dụ miếng đất thế chấp trị giá 500 triệu đồng thì người định giá kê thành 3 tỷ đồng để số tiền vay được duyệt là 1,8 tỷ. Người cho vay và cán bộ định giá chia nhau số tiền vay được. Khi đổ bể, người vay không có đủ tiền trả, ngân hàng thu nợ bằng tài sản thế chấp thì mới biết giá trị không đáng là bao so với số tiền đã cho vay, dẫn đến nợ xấu là vậy. Người quản lý trong Tin mừng kể, xem ra còn lương thiện một chút khi ông ta chỉ chịu phần thiệt của mình lần này, mà người chủ không bị thiệt( giảm cho người đi vay số tiền ông ta đã kê lên thêm ), và người làm công tác định giá hôm nay cùng một thói khôn khéo: thiếu trung thực để hưởng lợi. Đức Kitô không khuyên ta làm điều gian dối, lấy tiền bạc mà mua nước trời như có người nghĩ theo nghĩa đen: Cứ làm ăn gian dối, lừa lọc, rồi lấy số nào đó trong số tiền bất chính thu được làm từ thiện, bác ái, chắc Chúa sẽ ban ơn thêm cho?.
Chuyện vui nhà đạo hôm nay còn kể: Một cặp vợ chồng kia sống không lương thiện, chỉ ham kiếm tiền bằng mọi cách có thể. Một hôm người chồng nghe kể về việc có người được ơn nhờ đi khấn đền Thánh Giuse. Anh ta cũng nghe đồn Ông Thánh Giuse rất thiêng, xin gì được nấy. Nhân ngày thứ tư đầu tháng, anh ta nói vợ mua chục bông huệ, cả hai áo quần tề chỉnh lên xin khấn. Đặt bó huệ trước chân tượng đài Thánh Cả, người chồng lớn tiếng kêu cầu:” xin Ông Thánh Giuse thương giúp cho con trúng số chiều nay, con có mua một cặp 5 tấm, nếu con trúng độc đắc, con xin dâng vào đền Thánh 3 tấm”. Bà vợ nghe thấy vậy bèn bấu tay chồng nói nhỏ:-“ Sao mà nhiều thế, ông Thánh chỉ cần 2 tấm là Ngài vui rồi “, Chồng nạt lại:” Bà biết cái gì, tôi đã hứa dâng là dâng cho đúng, đừng có mà bủn xỉn, Thánh không nhận lời đâu?” Về đến nhà, thấy vợ không vui, hắn tiết lộ:” Tôi nói là nói vậy với ông Thánh thôi. đây nè! trong bóp tôi còn cặp này 10 tấm lận. Chiều nay tha hồ mà hốt...”
Con người dễ dàng chóa mắt trước tiền của, lừa nhau và lừa cả Thánh, cả Chúa. Tiền bạc có thể mua chuộc con người với nhau, nhưng không thể mua chuộc nước trời. Chúa khen tài của người quản lý khôn khéo biết mua chuộc tình cảm con người. Nhưng Ngài không đề cao cách sống không trung thực của ông ta, mà mong muốn con cũng biết khôn ngoan, dùng mọi khả năng Chúa ban, kể cả tiền bạc chân chính có được để biết lo cho vun đắp kho tàng trên trời. Khôn ngoan là biết dọn chỗ cho mình tại nơi vĩnh phúc bằng những việc làm bác ái chân thật, yêu thương, chia sẻ với đồng lọai những gì mình có. Dám hy sinh phần có cho anh em, không phải là thứ dư thừa, bỏ đi, không dùng đến, mà bằng lòng yêu mến Chúa, vì nhận ra có Chúa trong những người anh em con.
Lạy Chúa,
“Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”, xin cho con biết trung tín trong việc sử dụng tiền bạc, của cải Chúa trao ban, khả năng, sức lực Chúa cho để phụng sự Chúa và giúp ích mọi người. Chớ gì con trở nên người trung thành với người chủ duy nhất là chính Chúa, cứu Chúa của con. Con tin chắc chắn Chúa sẽ cho con được hưởng niềm hạnh phúc với Chúa trên nước trời. Amen.
Người quản lý là người thừa lệnh của ông chủ, để lo các công việc khi ông chủ vắng nhà. Họ được chủ thương yêu, tín nhiệm và giao phó mọi công việc. Từ những công to, chuyện nhỏ, quản lý có thể xử lý và lên kế hoạch thay cho ông chủ. Cũng có thể vì thế mà chúng ta dễ dàng tìm thấy, trong cuộc sống hằng ngày, những quản lý bất lương.
Thật vậy, ông chủ biết người quản lý của mình đã thất trung, nên có ý định sa thải anh ta. Quyết định này sẽ bất lợi cho người quản lý, vì anh sẽ trắng tay, sẽ phải vất vả mà lợi nhuận chẳng là bao. Đứng trước một tình cảnh hết sức khó khăn này, người quản lý đã sáng suốt chọn một giải pháp khôn khéo và không kém phần tinh ranh. Kêu các con nợ của chủ và giảm số nợ cho họ. Và để chắc chắn hơn, viên quản lý đã cho viết bằng văn tự giấy tờ, vì: “ bút sa gà chết”. Lập tức hành động của anh đã lôi kéo thêm nhiều đồng minh với mình, và cũng sẽ có nhiều người mang ơn viên quản lý này. Bỗng chốc, trong một nước cờ bí, anh ta đã tự giải thoát mình bằng một việc làm khá mạo hiểm. Những người thụ ơn rồi đây, họ sẽ trả ơn. Và đúng như vậy, viên quản lý sau khi bị sa thải sẽ trở thành ân nhân của những con nợ của chủ.
Chúa Giê-su kể dụ ngôn và Ngài gọi với cái tên: Người quản lý bất lương. Bất lương vì lẻ ra, trong cương vị của mình, và với sự tin tưởng của chủ, anh phải hết mực phục vụ ông chủ để khỏi phụ lòng anh. Thế nhưng điều hoàn toàn xảy ra và ngược lại: anh đã phản bội lại chủ của mình. Bởi thế người chủ không còn tín nhiệm anh nữa. Anh phải tự mình xoay sở và với bản chất có phần tinh khôn, anh đã có kế hoạch khi tìm cách làm ơn cho những người mắc nợ chủ, được bớt đi phần nào gánh nặng, và như thế họ là những người hậu thuẫn cho anh, sau khi anh không còn làm quản lý nữa.
Việc làm của anh quản lý không mấy tốt đẹp. Thế nhưng, cách thức anh chọn lại là một giải pháp sáng suốt, và chính điều này đã cứu anh lúc sa cơ lỡ vận. Chúa Giê-su muốn khẳng định cho mỗi người thấy, trong thế gian này, con người luôn tìm nhiều cách để trục lợi, kể cả những con đường sai trái. Và một điều được đặt ra: con cái thế gian này, khôn ngoan hơn con cái sự sáng, hãy dùng tiền của mà mua nước thiên đàng.
Lạy Chúa Giê-su, chúng con là những người quản gia của Chúa. Chúa vì yêu thương, tin tưởng mà Ngài đặt để chúng con làm chủ vũ trụ, vạn vật và cuộc đời. Xin cho chúng con biết tìm mọi cách thế thích hợp, để làm thật tốt công việc mà Chúa giao. Đừng để chúng con biến thành những ông chủ: kiêu căng, ích kỷ. Thay vì làm sáng Danh Chúa, chúng con lại đi tìm kiếm vinh quang cho chính mình. Đừng để chúng con trở nên những quản lý bất lương trong vườn nho của Ngài. Amen.
Trong các diễn từ tiếp theo, Chúa Giêsu nói đến việc sở hữu của cải. 1. Người quản lý tinh khôn
Dụ ngôn này thường gây nhiều vấp phạm và người ta đang cố đề phòng gương mù trong khi lại trình bày thái độ của người quản lý tinh khôn như là được phép. Theo luật lệ thời đó, một chủ trại có thể làm gì tuỳ ý. Con cái sự sáng, trong vấn đề này, phải xử sự khéo léo như con cái trần gian: đây là điểm chính đích thực của dụ ngôn.
Người quản lý không làm theo ý của chủ hay phục vụ quyền lợi của chủ, mà làm hại cho chủ. Xét về ích kỷ, thì đường lối người quản lý thật là tinh khôn. Y xử sự một cách quỷ quyệt, dầu hết sức giận dữ vì bị thiệt, người chủ vẫn phải khen hắn.
Người quản lý sắp mất chức, không muốn làm việc tay chân vất vả, cũng không muốn đi hành khất. Cho nên y đành phải dùng mưu: lừa bịp ông chủ và gây thiện cảm với các con nợ. Những người này phải giúp lại hắn, ít là tạm thời, cho đến khi hắn kiếm được một địa vị tương tự. Sự khéo léo có tính toán đó có tính cách quan trọng.
Con người được Thiên Chúa trao của cải vật chất để quản lý chúng. Họ phải sử dụng làm sao để khi gặp khó khăn, sa sút, sẽ có bạn bè trợ giúp. Hoàn cảnh đó chính là lúc chết. Khi đó, con người phải bỏ lại tất cả những gì lúc đó là sống còn đối với họ. Họ sẽ có những bạn hữu, nếu trước đó họ đã dùng của cải vật chất để giúp đỡ, biện hộ cho họ trước mặt Thiên Chúa, để họ được ‘đón tiếp vào chốn an nghỉ đời đời’.
Đường lối sử dụng của cải khéo léo (dám nói được là xảo quyệt) không phải ở chỗ tăng thêm của cải bất cứ cách nào, hay ham lợi lộc, nhưng là thích cho đi hơn là nhận vào, giúp đỡ hơn là cậy nhờ người khác giúp đỡ. Càng sử dụng tốt của cải, người ta càng dùng nó để mưu cầu đời sau.
‘Bố thí’, một từ ngữ mà ngày nay chúng ta không thích và một cách nào đó lại diễn tả đúng sự kiện. Người thợ đòi hỏi công bằng chứ không xin bác ái. Tâm thức xã hội bừng tỉnh thì ý thức xã hội càng tinh tế… Người ta đòi phải có thù lao tương xứng với công việc chứ không xin bố thí với mục đích trợ giúp hay do lòng thương xót.
Tuy nhiên, người sở hữu phải dùng của cải để làm việc thiện ngay cả khi họ không bị bắt buộc làm và chẳng mang lại lợi ích cho mình. Theo nghĩa này, thì bố thí cũng có giá trị của nó.
Đức Kitô còn đưa ra một áp dụng khác. Ngài cho biết ai từng trung tín trong việc nhỏ, cũng sẽ trung tín trong việc lớn.
2. Quản lý thanh liêm.
Người ta có thể sai lầm khi kết luận con người có quyền quản lý tài sản không theo ý chủ muốn. Một cách rõ ràng, Đức Kitô khẳng định ngược lại. Sự gì đã nhận lãnh từ nơi Thiên Chúa thì phải sử dụng theo ý Chúa. Cả trong trường hợp nhận ít, lòng tín trung của chúng ta cũng được tưởng thưởng và Ngài sẽ ban thêm cho ta.
Tài sản nhỏ nhoi dành cho con người quản lý là những sự vật ngoại tại và phàm trần: phương tiện sử dụng, sức mạnh thân thể và sức khoẻ, năng lực trí tuệ và các ơn thiêng liêng. Không nên đặt vấn đề: cái gì tôi ưa thích? Ước vọng của tôi thế nào? Tính khí và sở thích sẽ lôi cuốn tôi về đâu? Thiên hạ mong muốn gì, họ làm gì? Mối quan tâm duy nhất của tôi là: ‘điều nào hợp vơí ý Chúa, Đấng đã ban cho tôi những ơn đó để quản lý?’
Nếu biết hành động như vậy, người ta sẽ nhận được những điều cao trọng, siêu nhiên, đạo đức, những kho tàng ân sủng và ơn huệ Thánh Thần.
Tuy nhiên, có ít người biết hướng đời sống và dùng các ơn siêu nhiên cũng như các năng lực để tìm Thánh ý Thiên Chúa! Rất ít người ý thức mình là người quản lý. Họ tưởng mình là chủ nhân, cho nên xử sự theo ý mình. Họ làm theo sở thích. Hành động của họ độc đoán.
Trái lại, thái độ đạo đức phải có là lời chúng ta vốn cầu xin trong kinh Lậy Cha: ‘Ý Cha thể hiện’, đó là quy tắc xử thế của con người. Chỉ có như vậy, cuộc sống mới đổi thay được để nhằm mục tiêu phục vụ Thiên Chúa.
Tiền bạc là một trong những cám dỗ lớn lao đối với con người, nó càng nguy hiểm hơn khi có sự trợ lực của ý muốn tự quyền và tình dục. Đó là lý do Đức Giêsu đòi hỏi một yêu sách bất khả nhượng và không thể châm chước.
Đây là một dụ ngôn rất khó cắt nghĩa. Câu chuyện bao gồm những tên lưu manh mà người ta có thể gặp ở bất cứ nơi đâu. Tên quản gia này là một tên lưu manh. Hắn vốn là một nô lệ, tuy vậy hắn được giao trách nhiệm điều hành gia sản của chủ. Tại Palestine có nhiều địa chủ hay đi vắng, nên tất cả công việc của ông ta được trao trong tay người quản gia của ông. Tên quản gia trong câu chuyện này đã ăn cắp khéo léo. Các con nợ cũng là những tên lưu manh. Chắc chắn món nợ của họ là tiền thuế đất. Thuế đất ở Palestine thường được trả cho chủ đất không bằng tiền mà là hiện vật, thường là một phần hoa lợi của đám đất cho thuê. Quản gia này biết rằng hắn sẽ mất chức quản gia, vì thế nảy ra một sáng kiến. Hắn ghi sổ một cách gian lận để các con nợ được trả ít hơn cho chủ. Điều này có hai công hiệu. Thứ nhất, các con nợ sẽ phải mang ơn hắn. Thứ hai, còn có hiệu lực hơn, là hắn làm cho con nợ cũng liên luỵ về hành động gian dối của hắn, và nếu lâm vào tình trạng bế tắc thì hắn ở vào một thế mạnh để thực hiện những vụ tống tiền. Chính chủ hắn cũng là một thứ lưu manh nữa, bởi vì, thay vì khó chịu về hành động này, ông ta lại khen nó thông minh. Điều khó giải thích dụ ngôn này là bởi Luca đã gồm vào đó bốn bài học khác nhau.
1. Câu 8 là bài học con cái ở đời này tỏ ra khôn khéo với đời hơn con cái sự sáng. Điều đó có nghĩa là nếu các Kitô hữu cũng hăng hái khéo léo trên đường hành đạo như người đời khéo tìm của cải tiền bạc thì tốt biết bao. Nếu người ta chú tâm đến linh hồn cũng như việc buôn bán làm ăn thì họ đã tốt hơn nhiều. Nhưng thực ra người ta luôn luôn đổ nhiều thì giờ, tiền bạc, công sức vào những lạc thú, vui chơi đời này gấp 20 lần hơn vào các công việc Hội Thánh của mình. Đạo của chúng ta chỉ trở thành thực tại và hữu hiệu khi nào chúng ta đầu tư vào đó nhiều thì giờ, sức lực như vào các việc thế tục.
2. Câu 9 là bài học của cải vật chất nên dùng để giữ tình bạn. Điều này có thể làm trong hai cách:
a. Làm việc đó cho đời sau. Các rapbi Do Thái có câu “kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Khi chú giải chuyện người giầu ngu dại xây kho lẫm lớn hơn để tích của. Ambrose có nói: “Lòng của người nghèo, nhà của bà goá, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”. Người Do Thái tin rằng của bố thì cho người nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật của con người không tuỳ những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi.
b. Làm việc đó cho đời này. Người ta có thể dùng của cải một cách ích kỷ, hoặc có thể dùng để giúp cho đời sống dễ chịu hơn, không những cho chính mình, mà còn cho bạn bè và những người chung quanh mình nữa. Biết bao nhà học giả đời đời mang ơn một người nào đó đã dùng tiền bạc mình để giúp học bổng cho mình theo đuổi việc học. Biết bao người đã mang ơn một người bạn giàu có đã tài trợ cho họ trong cơn túng cực một cách thực tế. Tự bản chất, của cải không phải là tội lỗi nhưng đòi trách nhiệm thực hiện chức năng của nó và người nào dùng của cải để giúp đỡ tha nhân túng cực, kẻ ấy đã làm trong trách nhiệm của mình.
3. Câu 10,11 là bài học về cách thi hành việc nhỏ, qua đó, sẽ chứng tỏ người đó có xứng đáng hay không xứng đáng để trao phó những việc lớn. Điều này đúng trong các việc đời này, không ai được cất nhắc lên vị trí cao hơn nếu lúc ở địa vị thấp, người đó đã không chứng tỏ được khả năng và lòng ngay thẳng. Nhưng Chúa Giêsu đã áp dụng nguyên tắc đó vào đời sau. Ngài phán “ở thế gian các ngươi chịu trách nhiệm về những của cải không thực sự thuộc về mình. Các ngươi không thể mang theho mình những của cải đó khi chết. Những của cải đó chỉ cho các ngươi vay mượn. Các ngươi là người quản lý của đó, vì theo bản chất, những của đó không là của các ngươi vĩnh viễn. Nhưng trái lại, ở trên trời, các ngươi sẽ được những của cải thuộc về các ngươi một cách thiết thực, vĩnh viễn và bất di dịch. Những của mà các ngươi sẽ được trên trời lại tuỳ theo cách các ngươi dùng của cải dưới đất. Của cải mà các ngươi sẽ được làm tài sản riêng tuỳ ở cách các ngươi sử dụng những của cải mà các ngươi chỉ làm quản lý”.
4. Câu 13 đặt ra luật: không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ. Chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì đầy tớ hay công nhân có thể làm hai công việc một cách dễ dàng, và có thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỉ dụ có người làm thư ký ban ngày và làm ca sĩ vào ban tối. Nhiều người làm thêm để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một nô lệ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thì giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Chúa không thể nào là một công việc bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn phục vụ Chúa thì tất cả thì giờ, tất cả sức lực của người ấy đều thuộc về Chúa trọn vẹn. Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc thuộc trọn vẹn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.
Người ta kể rằng: thời Chiến quốc, Phùng Huyên phục vụ cho Mạnh Thường Quân, là tướng quân của nước Tề. Một lần kia, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên đi sang đất Tiết để thu các món nợ. Trước khi ra đi, Phùng Huyên hỏi: “Thu xong nợ rồi có cần mua vật gì không?”. Mạnh Thường Quân bảo: “Xem trong nhà còn thiếu vật gì thì cứ mua về”. Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất cả những con nợ của chủ đến và nói: “Mạnh Thường Quân ra lệnh xóa bỏ tất cả các món nợ”, và để cho mọi người tin lời ông nói, Phùng Huyên đem đốt hết giấy nợ. Toàn dân đất Tiết rất vui mừng, tung hô vạn tuế.
Khi Phùng Huyên trở về, Mạnh Thường Quân ngạc nhiên thắc mắc: sao Phùng Huyên đi đòi nợ mà mau chóng thế, nên hỏi thu nợ xong chưa? Phùng Huyên trả lời: “Thu xong cả rồi”. Mạnh Thường Quân hỏi: “Còn vật mua về đâu?”. Phùng Huyên nói: “Trước khi đi, tướng quân bảo tôi mua vật gì trong nhà còn thiếu, tôi trộm nghĩ trong nhà tướng quân chất chứa đầy những đồ quý giá, ngoài chuồng nuôi đầy bò ngựa, vậy vật tướng quân còn thiếu là điều nghĩa, nên tôi mua điều nghĩa đem về”. Mạnh Thường Quân hỏi: “Mua điều nghĩa là thế nào?”. Phùng Huyên đáp: “Tôi tha cho tất cả các con nợ và nhân đó thiêu hủy các giấy nợ, và được dân chúng vui mừng tung hô vạn tuế, tôi vì tướng quân nên mua được điều nghĩa về”. Một năm sau, vua nước Tề không dùng Mạnh Thường Quân làm tướng quân nữa, nên ông phải thu về đất Tiết ở. Bấy giờ rất đông người già trẻ lớn bé ra đường đón chào, hoan nghênh nhiệt liệt. Khi ấy Mạnh Thường Quân nói với Phùng Huyên: “Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, bây giờ tôi mới trông thấy”.
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng dạy: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu”. Trước khi dạy điều trên, chúng ta thấy Chúa kể một dụ ngôn, qua dụ ngôn này Chúa dạy chúng ta hãy biết cách dùng tiền của để mua lấy điều nghĩa. Dụ ngôn được gọi là dụ ngôn người quản gia bất lương.
Anh được ông chủ tín nhiệm trao cho nhiệm vụ quản lý công việc kinh doanh làm ăn và trông coi tài sản của ông. Nhưng anh đã quản lý tồi tệ, làm ăn lem nhem, nên bị ông chủ đuổi, cho nghỉ việc luôn. Từ lúc được tin ông chủ thải hồi, anh đã khôn khéo tính toán cho tương lai đời mình, anh tìm cách qua mặt ông chủ một lần nữa và bịt mắt mọi người, kể cả các con nợ.
Anh cho gọi các con nợ của chủ đến mà trước đây chính anh đã thay mặt chủ cho họ vay mượn, người nào anh cũng giảm số nợ cho họ: Một con nợ về dầu ô-liu, anh giảm cho 50%, một người nợ lúa mì, anh giảm cho 20%... Từ con nợ của ông chủ, anh làm cho họ thành con nợ của anh, bằng cách giảm đi như thế. Đó là cách mua chuộc bạn bè, mua chuộc tình cảm bằng sự gian dối, đó là cách làm ơn cho người để sau này họ sẽ giúp đỡ anh, anh biến họ nên những kẻ đồng lõa, và thấy lợi trước mắt, họ đã làm theo anh. Cư xử như vậy, đối với chủ là bất lương và Chúa khen viên quản gia bất lương ấy, đã biết xử trí mưu lược lo xa cho mình để khi mất việc sẽ có người thương giúp mình.
Tại sao Chúa Giêsu lại khen cách làm bất lương của anh ta? Như thế có phải là Chúa đề cao sự xấu, là sự bất lương của viên quản gia không? Thưa, không bao giờ, Chúa không khen việc làm của người quản gia kia, vì việc làm của anh là bất lương, nhưng Ngài nhìn nhận rằng anh khôn khéo, tháo vát, mau lẹ xoay trở, Chúa bảo đó là sự khôn khéo theo kiểu thế gian. Nói cách khác, Chúa không dạy: hãy học thói gian tham biển lận của anh ta, Chúa cũng không dạy “mục đích biện minh cho phương tiện”, nghĩa là mục đích tốt thì phải có phương tiện tốt, và phương tiện tốt sẽ đạt mục đích tốt, chứ mục đích tốt không biện minh cho phương tiện xấu được. Thí dụ: không thể ăn cắp để làm bác ái, không thể gian tham để làm việc từ thiện. Cho nên, không thể dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt được: cây xấu sinh quả xấu, chứ cây xấu không thể sinh trái tốt được. Người quản gia đã dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt cho tương lai đời mình.
Từ việc làm và cách xử trí của người quản gia này Chúa Giêsu liên tưởng đến phương diện nước trời, và Ngài tỏ ra đau lòng khi thấy người ta không mau lẹ và khôn khéo như vậy, Chúa đem ơn cứu độ đến qua lời giảng dạy và gương sáng của Ngài, nhưng sao người ta hững hờ và chậm chạp đến như thế. Người ta không lanh lẹ mau trí xoay trở đối với nước trời như người quản gia bất lương kia lanh lẹ mau trí xoay trở đối với việc ở đời này, bởi vì con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng.
Tóm lại, chủ đích của Chúa Giêsu khi nói dụ ngôn này là Ngài muốn dạy: phải biết khôn khéo, phải biết cố gắng, phải biết lo xa như người quản gia ấy, nhưng không bao giờ được bắt chước cách làm gian tham, biển lận và bất lương của anh ta. Xin Chúa cho chúng ta một nghị lực và can đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng tiền, đừng bao giờ vì tiền bạc mà bôi đen lòng mình: “Hoàng kim hắc thế tâm”. Và xin Chúa cho chúng ta biết sử dụng tiền bạc của cải trần gian cho hợp tình hợp lý, nhất là cho tình yêu thương, bác ái, chia sẻ. Đó là một cách đầu tư cho cuộc sống mai sau, đó là một cách cư xử khôn khéo để có nhiều bạn hữu chân thành đón rước chúng ta vào hạnh phúc nước trời.
Trong cuộc sống hiện tại nếu chúng ta coi trọng đồng tiền thì nó sẽ dễ dàng trở nên thần thánh của chúng ta. Chúng ta có thể đặt đồng tiền trước cả tính lương thiện, sự công bằng, thậm chí cả đời sống gia đình. Bầu khí xã hội tiêu thụ khiến người ta tin rằng càng sở hữu nhiều càng tốt. Con người bình thường bị sương mù che phủ đến độ không còn nhận ra đâu là tầm quan trọng nhất trong cuộc sống.
Ngôn sứ Amốt lên án những kẻ thờ lạy, ca ngợi Thiên Chúa trong ngày hưu lễ, nhưng lại bóc lột kẻ nghèo khó trong những ngày còn lại. Chúa Giêsu nói: “Các con không thể vừa phục vụ Thiên Chúa lại vừa phục vụ tiền của được”. Cũng thế, chúng ta không thể vừa phục vụ người anh chị em chúng ta lại vừa phục vụ tiền bạc.
Một ngày nọ, có một người đàn ông giàu có nhưng keo kiệt đi đến vị thầy Rabbi của ông để xin được chúc lành. Thầy Rabbi chào hỏi ông ta một cách thân thiện và mời ông ta vào phòng. Sau đó đưa ông ta tiến đến khung kính cửa sổ, nhìn ra đường và nói: “Nhìn xem và nói cho tôi biết anh thấy gì?”
Người đàn ông giàu có trả lời: “Con nhìn thấy một người đang đi bộ.”
Sau đó, thầy Rabbi dẫn anh đến chỗ đặt một tấm gương lớn, và hỏi: “Nhìn vào tấm gương và nói cho tôi biết anh thấy gì?”
Người đàn ông trả lời: “Con thấy chính con”.
“Này anh bạn thân mến, tôi sẽ giải thích điều này cho anh bạn hiểu. Cửa sổ được làm bằng kính, và tấm gương soi cũng thế. Tuy nhiên, lớp kính của tấm gương soi đã được tráng thêm một lớp bạc. Khi bạn nhìn xuyên qua tấm kính trong suốt, bạn sẽ thấy người ta; còn khi bạn phủ lên nó một lớp bạc thì bạn sẽ không còn thấy người khác nữa, lúc ấy bạn chỉ thấy có chính mình. Cũng thế, khi bạn chỉ quan tâm đến tiền, bạn sẽ chẳng còn thấy ai nữa và bạn chỉ thấy có chính mình.”
Chúng ta không thể có được sự mãn nguyện hoặc tìm được ý nghĩa nơi vật chất. Nhưng khi chúng ta hiến dâng chính mình để phục vụ người khác, điều đó sẽ đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa trong cuộc sống. Trao ban cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình được hiện hữu.
Henrik Ibsen nói: “Tiền có thể mua được cái vỏ bọc của mọi thứ nhưng không thể mua được cái cốt yếu bên trong. Nó có thể đem lại cho bạn thực phẩm nhưng không đem lại sự ngon miệng, đem lại cho bạn dược phẩm nhưng không đem lại sức khoẻ, đem lại sự quen biết nhưng không đem lại bạn hữu, đem lại sự phục vụ mà không đem lại trung thành, đem lại những ngày vui thích nhưng không đem lại bình an và hạnh phúc”
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Qua bài Tin Mừng chúng con nhìn thấy rõ tinh thần Kitô giáo không thể đi đôi với lòng tham tiền hám của. Xin cho chúng con luôn ý thức được rằng sự giàu có như là một ơn lành của Thiên Chúa. Vì đó là phần thưởng Thiên Chúa ban cho những ai biết dùng của cải làm đẹp lòng Chúa và biết đối nhân xử thế trên đời. Thế nhưng, với thời gian chúng con đã hiểu được rằng tiền bạc có phần nguy hiểm và nhiều khi đó là đặc quyền đặc lợi của những ai xa rời Thiên Chúa.
Đôi khi chỉ cần có một địa vị đáng nể trọng là người ta tự cho mình có lý: vì thế người Pha-ri-siêu cảm thấy họ có quyền xét đoán và định đoạt những việc thuộc về Thiên Chúa. Theo gót họ, nhiều lúc chúng con cũng đã từng có ý đem tiền tài và quyền chức phục vụ Nước Thiên Chúa, rồi chẳng mấy chốc chúng con tự phong cho mình làm người quản lý Nước Thiên Chúa. Nhưng đến phiên tiền bạc lại làm chủ các sở hữu chủ của nó. Chúng con mau chóng tán thành một trật tự pháp lý trong đó các đặc quyền của mình được hợp thức hoá, mà quên đi những giá trị của Tin Mừng là công bằng, khiêm tốn và thanh bần.
Xã hội hôm nay đang thấm nhiễm đầy tính hưởng thụ của cải vật chất, nhiều người bị cám dỗ sống chỉ nghĩ đến nhà cửa, quần áo, ăn uống, tiền bạc và được hưởng dùng càng nhiều phương tiện càng tốt. Xin cho chúng con luôn thức tỉnh trước những cám dỗ đó. Vì tất cả sự giàu sang ở đời này chỉ là hư vô. Và những gì chúng con đang có chúng con cũng không thể mang theo vào cuộc sống vĩnh cửu. Hơn nữa, chúng con biết rằng của cải vật chất, lúa gạo, quần áo, nhà lầu, xe hơi, vàng bạc là phương tiện cần thiết để sống, nhưng không phải là cùng đích và không bao giờ là tất cả. Không thể vì chúng mà chúng ta tự cho phép mình làm tất cả mọi cách, kể cả buôn gian bán lận, xâm phạm mạng sống cũng như tiết hạnh của người khác, tham ô, tham nhũng, khai thác “con người” và “thiên nhiên” một cách bất chính được.
Tiền bạc, của cải vật chất tự nó không phải là xấu. Tiền bạc là một người đầy tớ tốt. Ai cũng cần có tiền bạc, của cái vật chất để sống xứng đáng với nhân phẩm của mình. Bên cạnh đó, tiền bạc, của cải vật chất luôn luôn là con dao hai lưỡi, là một ông chủ xấu. Xin cho chúng con biết luôn thức tỉnh trong việc sử dụng tiền bạc, của cải vật chất. Vì khi sử dụng tiền bạc như một phương tiện thì nó sẽ giúp chúng ta sống tốt đẹp, hạnh phúc. Nhưng trong khi bôn ba vất vả kiếm sống hằng ngày, chúng ta phải tìm kiếm Nước Thiên Chúa và những giá trị của Nước Thiên Chúa trước tiên.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chính Chúa mời gọi chúng con tự vấn lương tâm về thái độ của chúng con đối với của cải trần thế. Thiên Chúa tạo dựng và ban phát của cải trần thế để chúng con hưởng dùng và phụng sự Chúa một cách tốt đẹp. Bao lâu của cải trần thế là phương tiện giúp con người đạt tới cùng đích, thì bấy lâu chúng con còn là người quản lý trung tín của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, qua bài Tin Mừng Chúa đã nhắc nhở chúng con về sự thống nhất trong đời sống đức tin. Chính trong cuộc sống mỗi ngày, chúng con thể hiện và sống niềm tin. Chính trong những cái bé mọn, nhỏ nhặt thường ngày chúng con tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước Trời. Chính trong những quan hệ và gặp gỡ mỗi ngày, chúng con đã gặp được chính Chúa. Chính trong những tha nhân, nhất là những người nghèo khổ mà chúng con yêu mến Chúa một cách thiết thực hơn.
Nguyện xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban muôn ơn lành và cho chúng con được sống sung túc từng giây phút hiện tại. Xin cho chúng con thể hiện và xây dựng tình người, tình liên đới qua những quan hệ gần gũi nhất là gia đình và môi trường sống hằng ngày. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể chúc lành và thánh hoá chúng con mỗi ngày. Amen.
Khôn ngoan là điều rất cần thiết trong cuộc sống – cả đời thường và tâm linh. Robert A. Heinlein (1907-1988, văn sĩ về khoa học viễn tưởng, người Mỹ) nói: “Lòng tốt thiếu đi sự khôn khéo luôn luôn chẳng khác gì cái ác”. Còn Menander (324-291 trước công nguyên, người Hy-lạp, tác giả nhiều hài kịch) nhận xét: “Tóc bạc không sinh ra khôn ngoan”. Thường thì tuổi già thì khôn ngoan, nhưng đó chưa chắc là mẫu số chung, tuy nhiên có điều chắc chắn: Càng nhiều tuổi càng nhiều tội.
Khôn ngoan cũng có năm bảy đường. Khéo léo hay tinh quái? Lạnh lẹ hay ranh mãnh? Linh động hay mánh khóe? Tiếng Việt “độc đáo” lắm: Chữ KHÔN rất gần chữ KHÔNG, cả cách viết và cách phát âm – chỉ khác nhau mẫu tự G. Đúng là “sai một ly đi một dặm”, vì KHÔN ngoan cũng dễ biến thành KHÔNG ngoan. Sách Khôn Ngoan nói rõ: “Những lý luận quanh co khiến con người lìa xa Thiên Chúa” (Kn 1:3).
Ngôn sứ A-mốt kêu gọi: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ: ‘Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra?’. Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ” (Am 8:4-5). Người ta thường nói: “Vải thưa che mắt thánh”, hoặc: “Chiếc kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Với người đời còn chưa lừa được thì nói chi đối phó với Thiên Chúa!
Tác giả Thánh Vịnh nói: “Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thiên Chúa như vậy thì chúng ta còn có thể dùng mánh khóe nào mà trốn thoát Ngài chứ?
Ở đời, người ta thường tìm đủ cách cách để “đè bẹp” người dưới quyền hoặc “chà đạp” người yếu thế hơn mình. Còn hơn thế nữa, người ta còn tìm mọi thủ đoạn để lừa đảo người khác, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cuộc sống hằng ngày vẫn xảy ra những chuyện như thế ở khắp nơi, thậm chí ngay trong gia đình. Người nghèo còn bị người ta đàn áp và bóc lột đến cả chiếc áo rách họ đang mặc thế mà người ta vẫn ra vẻ nhân đạo mà “ngọt ngào” nói đến nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền! Đó là “lấy vải thưa che mắt thánh” mà thôi. Tức nước vỡ bờ là điều tất yếu. Con chó ở góc cùng thì nó cũng phải cắn lại!
Đúng như tác giả Thánh Vịnh xác định: “Ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh; lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm” (Tv 55:21-22).
Hãy nhớ kỹ – và nên thuộc lòng – rằng Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề lời này: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (Am 8:6-7). Chúa đã thề hứa thì không chút mảy may nào sai đâu đấy! Ngài giàu lòng thương xót, rất sẵn sàng tha thứ, nhưng cũng rất công minh và chính trực, nếu không thì người nghèo và người thấp cổ bé miệng không thể ngóc đầu lên được.
Thiên Chúa đặc biệt quan tâm những người nghèo khổ, cô thân, góa bụa, tù đày, tội nhân,... Ngài sẵn sàng bỏ tất cả mọi thứ để đi tìm cho bằng được những con chiên lạc. Bằng chứng là Chúa Giêsu đã nhập thể và nhập thế, sinh nghèo, sống nghèo, và chết nghèo. Ngài làm thật chứ không nói suông. Còn chúng ta có được chút nào không, hay chỉ dạy người khác làm, còn mình thì “ngồi mát ăn bát vàng”? Chẳng oan uổng gì đâu!!!
Thật tuyệt vời khi biết tin: Thượng tuần tháng 9-2013, ĐGH Phanxicô đã tự lái chiếc xe hơi cũ (đời 1984) để đi thăm mục vụ trong nội thành Vatican. Ngài tự làm mọi thứ, rất quan tâm người nghèo, không muốn ai đề cao mình,... Đó mới là hiện thân của Đức Kitô. Thế mới xứng đáng được người ta gọi là Cha chứ!
Chúa biết hết. Chẳng ai có thể giấu giếm hoặc tự biện hộ được gì đâu! Vì Thiên Chúa quyền phép vô song, bất kỳ thần linh nào khác cũng chỉ là “tép riu” mà thôi: “Trước thánh nhan Chúa, hỡi địa cầu, hãy rung chuyển, trước thánh nhan Chúa Trời nhà Gia-cóp, Người biến đá tảng thành hồ ao, và sỏi đá nên mạch nước dồi dào” (Tv 113:7-8).
Thánh Phaolô chân thành nói: “Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2:1-4). Rất mạch lạc, yêu thương và hiệp thông.
Thánh nhân nói thêm: “Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý. Vậy tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (1 Tm 2:5-8). Cũng rất rạch ròi, không hề có gì “bóng gió”, thế nên bất cứ tầng lớp nào cũng có thể hiểu.
Một hôm, Đại sư Giêsu nói với các đệ tử về chuyện người quản gia bất lương. Người ta tố cáo với ông chủ về anh quản gia đã phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến và quyết định sa thải. Người quản gia liền tìm mánh khóe cho cuộc sống tương lai. Bụng bảo dạ: “Ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16:3-4). Thế rồi anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, người nợ 100 thùng dầu ô-liu thì được anh giảm còn 50 thùng; người nợ một ngàn giạ lúa thì được anh giảm còn 80 giạ. Khôn khéo quá! Âu cũng chỉ vì kế sinh nhai, vì miếng ăn.
Sự sống liên quan miếng ăn. Ăn cũng là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của nhân phàm. Miếng ăn có thể rất lớn và rất quý, nhất là khi đói. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Bản năng sinh tồn rất mạnh. Bờm không cần bất kỳ thứ gì khác, dù những thứ rất mắc tiền và rất giá trị, Bờm chỉ cần “nắm xôi” mà thôi!
Nhưng Ca dao Việt Nam lại có câu: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu”. Cũng chỉ vì miếng ăn mà người ta có thể dùng mọi thủ đoạn thâm độc, có khi giết chết một người chỉ vì một số tiền nhỏ. Thật khủng khiếp!
Chúa Giêsu so sánh và xác định: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16:8). Tiền chỉ là tờ giấy với những con số được người ta quy ước khác nhau, thế nhưng nó có mãnh lực kỳ lạ, hầu như là ma lực. Người ta dễ sa đọa vì tiền trong chốc lát mà không biết. Tiền không xấu, mà xấu vì người dùng tiền. Chúa Giêsu dạy chúng ta bài học quan trọng về tiền bạc qua lời Ngài căn dặn: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em? (Lc 16:9-12).
Tiếng Việt dùng từ ngữ “tiền bạ” hoặc “tiền tệ” thật hay. Nói vui thì thế này: TIỀN thì luôn BẠC (bẽo) và TỆ (hại) lắm! Nói khôi hài thế mà thật là thâm thúy lắm. Và Chúa Giêsu cảnh báo: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16:13).
Ai cũng phải chọn một trong hai. Chúng ta được Chúa cho phép hoàn toàn tự do. Vì thế, hãy cẩn trọng kẻo hối hận không kịp, và đừng theo kiểu “thần khẩu hại xác phàm” (nói bậy hại thân). Chúa Giêsu đã dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Cách dịch ngày xưa cũng có cái hay: “Xin Cha cho chúng con rày hằng ngày dùng đủ”. Giàu quá hay nghèo quá cũng có thể xa Chúa, chỉ cần ĐỦ là được. Đạo trung dung khó thật!
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết khôn ngoan mà chọn Chúa chứ không mê vật chất. Xin Chúa thương xót những người thiếu thốn trong cuộc sống đời thường và tâm linh, xin giúp họ chân nhận chỉ một mình Ngài là cùng đích và cứu cánh mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.