Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-C Bài 151-200 Người Cha nhân hậu ------------------------------- Phúc Âm: Lc 15, 1-10 {hoặc 1-32}: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy, Tôi bảo các ông: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải. "Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải". {Người lại phán rằng: "Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: 'Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha'. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình. "Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: 'Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ'. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: 'Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó'. "Nhưng người cha bảo: 'Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'".} - Ðó là lời Chúa. -----------------------------------------
Tình yêu của con người (tình mẫu tữ, tình phụ tử, tình phu thê, tình bạn, tình láng giềng,…) chỉ là tình yêu phàm tục, thế mà chúng ta còn khó lý giải xác đáng, huống chi là tình yêu của Thiên Chúa, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
“Tình yêu thương con người là tài sản quý giá nhất” (tục ngữ Ả Rập). Tình yêu chân chính không xói mòn theo thời gian và cũng chẳng biến đổi theo hoàn cảnh. Tình yêu luôn huyền diệu, tính túy và thuần khiết, không biến động theo ý muốn của chúng ta. Có thể ví tình yêu như chiếc đồng hồ cát có hai ngăn, ngăn lý trí và ngăn trái tim, ngăn này đầy thì ngăn kia trống.
Mẹ Thánh Teresa Calcutta (1910-1997) nói về tình yêu với những lời giản dị mà sâu sắc: “Bạn có thể làm gì để xây dựng hòa bình thế giới? Hãy về nhà và yêu thương gia đình của mình. Chúng ta hãy luôn gặp nhau với nụ cười, bởi nụ cười là điểm bắt đầu của yêu thương. Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa. Những lời tử tế có thể ngắn và dễ nói, nhưng tiếng vọng của chúng thực sự vĩnh cửu. Điều chúng ta cần là yêu mà không mệt mỏi. Việc tốt là những mắt xích tạo nên sợi xích tình yêu”.
Giáo hội Công giáo đã long trọng tuyên thánh cho Mẹ Teresa ngày 4-9-2016. Mẹ là một phụ nữ có vóc dáng nhỏ nhắn nhưng lại có trái tim vĩ đại khả dĩ chứa đựng cả thế giới. Ngay khi còn sinh thời, Mẹ đã nổi tiếng khắp thế giới về lòng nhân hậu, đến nỗi Australia tỏ lòng kính phục Mẹ nên đã làm tem in hình Mẹ Teresa, sản xuất tháng 10-2015, ghi nhớ dịp Mẹ được chính phủ tặng Huân Chương năm 1982. Mẹ Teresa đã đến Australia 12 lần, Việt Nam cũng được diễm phúc đón Mẹ 3 lần (tháng 9/1991, tháng 11/1993, tháng 4/1994). Mẹ đã đến nhà thờ Thanh Đa – TGP Saigon, nhà thờ Thái Hà – Bắc Việt, và một số nơi khác).
Tình yêu thương là một huyền nhiệm – huyền bí và mầu nhiệm, nghĩa là chúng ta không tài nào hiểu thấu với trí tuệ phàm nhân. Tuy không hiểu thấu và không thể có một định nghĩa trọn vẹn, nhưng ai cũng khả dĩ thể hiện và cảm nhận. Thật là kỳ diệu biết bao!
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã chứng tỏ Lòng Thương Xót với dân Ít-ra-en, nhưng họ luôn cứng đầu cứng cổ. Thiên Chúa phải nói thẳng với ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai Cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: ‘Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập’. Đức Chúa lại phán với ông Môsê: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn” (Xh 32:7-11).
Thương mới cho roi vọt, thương mới sửa trị, thương mới nói tới, nhưng người ta thường cảm thấy khó chịu. Đó là cứu vớt, đó là thương xót. Ngược lại, không thương thì mặc kệ, không cần quan tâm, muốn ra sao thì sao, nhưng người ta không biết rằng như vậy mới đáng sợ. Đó là lòng thương xót bị làm ngơ, không được đáp lại.
Tuy nhiên, ông Môsê thân thưa: “Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (Xh 32:13). Quả thật, “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe” (Xh 32:14). Điều này chứng tỏ rằng lời cầu nguyện của người khác là điều cần thiết đối với chúng ta, và việc cầu nguyện cho người khác rất hiệu quả.
Trước khi được Trời cứu thì phải tự cứu mình, trước khi được người khác cầu thay nguyện giúp thì phải biết chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).
Ai cũng là tội nhân, không ai là người công chính trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, cầu nguyện liên lỉ, sám hối không ngừng, ăn năn không ngớt luôn là điều cấp bách và cần phải kiên trì: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài” (Tv 51:12-13).
Cầu nguyện liên lỉ là cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc, ngay khi mở mắt thức dậy và khi nhắm mắt nghỉ ngơi: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17). Có nhiều cách ca tụng Thiên Chúa, không nhất thiết phải nói ra bằng lời. Càng tội lỗi càng phải tín thác vào Thiên Chúa, vì tội nhân là “đối tượng” số một của Lòng Chúa Thương Xót. Vả lại, “ở đâu tội lỗi đã tràn lan thì ở đó ân sủng càng chan chứa gấp bội” (Rm 5:20). Vấn đề quan trọng là ĐỪNG NẢN CHÍ hoặc TUYỆT VỌNG. Hãy tin tưởng vào sự thật minh nhiên này: “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 51:19).
Mỗi người có một ơn gọi riêng, tất cả là để vinh danh Thiên Chúa mà thôi. Trong thư gởi cho ông Timôthê (1 Tm 1:12-17), ông Phaolô cho biết cách suy nghĩ của ông về ơn gọi của mình, đồng thời cũng là lời tự thú của ông:
“Tôi tạ ơn Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người để được sống muôn đời”.
Rất chân thành, và cũng rất can đảm. Chúng ta cũng phải can đảm thú nhận, đừng tránh né, đừng bao che, đừng giấu giếm, đừng biện hộ. Càng chân thành thì càng được giải án tuyên công. Đó là huyền nhiệm của tình yêu thương, là huyền nhiệm của Lòng Chúa Thương Xót, hãy giữ vững niềm tín thác vào Thiên Chúa! Tại sao? Bởi vì Ngài tuyệt đối từ bi và nhân hậu: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” (Mt 12:20). Kinh Thánh cho thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vô cùng huyền nhiệm!
Trình thuật Lc 15:1-32 trình bày ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa: “Con Chiên Bị Mất” (tương đương Mt 18:12-14), “Đồng Bạc Bị Đánh Mất” và “Người Cha Nhân Hậu”.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đúng là lắm chuyện!
Đức Giêsu đặt vấn đề với họ: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”. Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai, về nhà rồi mời thân hữu đến chung vui vì ông đã tìm được con chiên thất lạc. Ngài nói với họ: “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Ngài nói với họ dụ ngôn khác về một phụ nữ có mười đồng quan và đánh mất một đồng. Bà thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được. Tìm được rồi, bà mời thân hữu cùng chia vui vì bà tìm được đồng quan đã mất. Rồi Ngài xác định rằng, giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.
Hai con số đối lập: một đối với chín hoặc chín mươi chín – nhỏ và lớn, ít và nhiều. Tuy nhiên, số ít lại quan trọng hơn số nhiều. Cuối cùng là dụ ngôn đặc biệt: Người Cha Nhân Hậu và Đứa Con Hoang Đàng (Lc 15:11-32), một dụ ngôn thâm thúy và rất quen thuộc. Đứa con hoang đàng là ai? Chắc chắn không ai xa lạ, đó là chính mỗi chúng ta.
Chính Con Thiên Chúa đã chuộc chúng ta về bằng giá máu của Ngài (x. Kh 5:9).
Chúng ta vừa là đứa con thứ, vừa là đứa con trưởng. Là đứa con thứ thì dễ hiểu, vì ai trong chúng ta cũng là tội nhân, là kẻ hoang đàng. Nhưng có lẽ chúng ta ít thấy mình là đứa con trưởng. Thật ra đứa con trưởng cũng chẳng tốt lành gì: so đo với người cha, ghen tỵ với đứa em, và kiêu căng – tự nhận mình là đứa con ngoan. Một lúc phạm cả ba tội, thế mà vẫn mạo nhận là công chính. Quá ảo tưởng!
Mẹ Thánh Teresa (1910-1997) đặt vấn đề về cách yêu thương hiệu quả: “Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa”. Người con trưởng đã phán xét người khác nên khó thể hiện lòng yêu thương với chính đứa em ruột của mình, thậm chí kể cả với người cha.
Yêu thương người yêu thương mình, hợp ý mình, cùng phe với mình thì quá dễ dàng, nhưng yêu thương người đối lập với mình thì thật khó biết bao! Nhưng phải yêu thương tới mức đó mới đúng là Kitô hữu. Người cha nhân hậu giải thích với người con trưởng: “Chúng ta PHẢI ăn mừng, PHẢI vui vẻ, vì em con đây đã CHẾT mà nay lại SỐNG, đã MẤT mà nay lại TÌM THẤY”. Ước mong mỗi chúng ta có thể “sáng mắt” khi được giải thích như vậy.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết yêu thương vô điều kiện, không mệt mỏi. Xin giúp con gặp được Ngài khi con giao tiếp với tha nhân, và xin cho mọi người cũng gặp được Ngài khi họ giao tiếp với con, mọi nơi và mọi lúc. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Chương 15 của Phúc âm thánh Luca mà chúng ta đọc trong ngày Chúa Nhật hôm nay, gồm 3 dụ ngôn, được coi như tuyệt phẩm của Tình yêu: dụ ngôn bầy chiên với 100 con: lỡ mất một con; ông chủ sẵn lòng để 100 con lại đó, đi tìm cho được con mất, vác trên vai đem về - dụ ngôn 2: người đàn bà lỡ mất một đồng bạc, liền thắp đèn, quét nhà tìm cho đến khi thấy được đồng bạc đó - nhất là dụ ngôn cuối cùng: người con hoang đàng và người cha nhân hậu với lời kết luận từ miệng người cha: "chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy..." Cả ba dụ ngôn diễn tả thật đậm nét tình yêu thương vô bờ Thiên Chúa đối với tội nhân hối cải. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Nguyên do ba bài dụ ngôn: số là các người thu thuế và người tội lỗi thường đến bên Chúa Giêsu để nghe Chúa giảng dạy; thấy vậy, mấy người biệt phái, kinh sư xầm xì chê trách Chúa Giêsu: ông này hay niềm nở đón tiếp kẻ tội lỗi, ăn uống với chúng nữa. Những người Do thái làm nghề thu thuế cho người La mã bị xếp ngang hàng với người tội lỗi, bị khinh miệt và bị loại trừ khỏi phụng vụ đền thờ nữa. Chính họ không tự nhận mình tốt lành; trong khi nhóm biệt phái, kinh sư là nhóm người có địa vị cao trong đạo do thái. Họ nhiệt thành quá với Lề Luật, đến độ thiếu lòng bác ái, thích sống giả hình, hay coi khinh kẻ khác. Chính Chúa Giêsu nhiều lần đả kích họ. Cũng chính mấy bài dụ ngôn sau đây muốn nói lên điều đó...
b. Hình ảnh người chủ chăn có 100 con chiên - hình ảnh người cha nhân hậu: chính là hình ảnh Thiên Chúa Tình yêu, luôn chủ động đi tìm con chiên lạc, cho đến nổi có thể bỏ lơ 99 con chiên tốt lành, chỉ để đi tìm con chiên bị lạc; vì " trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần ăn năn.." Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Hai Con Thiên Chúa, đã chấp nhận sinh vào trần gian...đã lặn lội đi rao giảng Nước Trời cho mọi người.... băng bó chữa lành cho kẻ đau yếu... và đã chết đau thương vì nhân loại chúng ta. Như vậy, chính Thiên Chúa là người đi bước trước trong Tình Yêu, người chủ động kêu mời nhân loại sống trong Tình Yêu, nhất là kêu gọi trở về trong Tình Yêu khi đã bị mất. Dụ ngôn Người Cha nhân hậu, cho chúng ta thấy mối bận tâm duy nhất của ông chính là: làm sao cho đứa con lỡ đi hoàng đàng: đi tìm - vui mừng khi tìm được - khi con trở về, ôm cổ hôn lấy hôn để, sai gia nhân làm tiệc...Chính câu trả lời của ông cho người con cả, đã nói hết tấm lòng của Ông: "này con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.."
c. Thái độ của hai người con: Người con thứ: tính tình nông cạn, ảo tưởng, đam mê, tội lỗi, xúc phạm đến tha nhân và Thiên Chúa: đó chính là hình ảnh của cả nhân loại chúng ta. Tuy nhiên, sau khi ăn năn, thái độ của anh ta thật đáng khen, vì biết mạnh dạng, dứt khoát, không chần chừ. Đó chính là gương thật lòng ăn năn sám hối.... Người con cả: bên ngoài xem ra là mẫu mực, không có điều gì chê trách, nhưng trước tấm lòng bao dung của cha, người con cả tỏ ra tự phụ, khinh khi em mình trước mặt cha. Thật là thái độ đáng tiếc...Chính thái độ này cũng là thái độ của các kinh sư, biệt phái, tự cho là mình chân chính, là con cháu tốt lành của Abraham, để từ đó coi khinh kẻ khác
d. Gợi ý sống và chia sẻ: Là người kitô hữu ngày hôm nay, đọc qua gương của hai người trong bài Tin Mừng hôm nay, đã cho ta bài học nào? Khi nhìn lại, ta thấy mình là hạng người con nào trong hai người con của Người Cha nhân hậu?
Bài Tin Mừng dài hôm nay kể luôn 3 dụ ngôn “mất và tìm lại được” độc quyền của Luca. Chỉ xét về con số mà thôi, thì 3 dụ ngôn: chiên lạc, đồng tiền, người con hoang, có một bước lùi dần dần về sở hữu: có 100 mất 1; có 10 mất 1; và có 2 mất 1…, nhưng cái tỉ lệ mất nhân lên: 1%, 10% và 50%… Nếu mất 1%, 10% tìm lại được thì mừng rỡ, thì dụ ngôn người con hoang đàng, có hai mất một, tức mất 50% khi tìm lại được, niềm vui phải lớn biết bao, nếu như không có bóng dáng người con cả.
Đã nhiều lần chúng ta nghe về người con hoang đàng, về người cha nhân từ. Hôm nay chúng ta để mắt tới người con cả trong dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu mà chỉ mình thánh Luca ghi lại, với hai câu hỏi: (1) Tại sao ta lại để mắt tới người con cả ; và (2) Làm sao để ta thoát khỏi thái độ như người con cả.
1. Tại sao lại để mắt tới người con cả?
Vì mỗi người chúng ta có dáng dấp giống anh ta. Anh ta đi làm về, nghe trong nhà đàn ca múa hát. Anh khoát tay dò hỏi một đứa ở, nó cho biết cha của anh đang bày tiệc mừng đứa con đi hoang mới về. Anh nổi giận, không thèm vào nhà. Người cha phải ra tận nơi để dỗ dành anh ta. Anh phân phô hơn thiệt –rất có lý khiến người cha đứng nghe từ đầu đến cuối (khác người con thứ không cho nó nói hết câu)-: “Đã bao năm, con ở với cha, chẳng trái lệnh cha điều nào. Thế mà có bao giờ cha thí cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn đâu? Vậy mà khi cái thằng con của cha kia đã ngốn hết gia tài của cha cùng với gái làng chơi, thì nay trở về cha lại làm thịt bò tơ béo tốt để ăn mừng nó!”
Lập luận lý lẽ của người con cả này không xa lạ gì với chúng ta lắm đâu –nếu một ngày nào chúng ta nhận ra rằng Chúa cũng cứu, cũng cho vào thiên quốc những người chưa theo đạo, hoặc những người theo đạo mà chẳng lễ lạy gì, hay tệ hơn nữa, như lời Chúa nói: “Tôi nói thật cho các ông: những người thu thuế tội lỗi đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông”.
Chúng ta, những người đạo gốc, đi lễ hàng ngày, hoặc ít ra cũng giữ lễ Chúa Nhật, giữ trọn 10 điều luật của Chúa, chịu thương chịu khó dậy sớm đến nhà thờ, tối thì đọc kinh, theo Chúa trọn đạo, vậy mà Chúa thình thoảng cũng cư xử dửng dưng, thử thách này nọ ; còn một số kẻ khác ăn no ngủ kỹ, hoặc 10 điều răn thì lỗi cả chục, tự do phóng túng…, ấy vậy mà cuối cùng Chúa lại cư xử với họ thật nồng hậu. Cái ấm ức làm sao không có được. (Ở đây ta không nói họ phải có điều kiện như thế nào thì Chúa mới đoái thương, nhưng mình nghĩ cho dù họ hội đủ điều kiện, thì cùng lắm tha thứ, cho qua là xong, chứ đây lại là tiếp đãi linh đình ra như thể khuyến khích đi hoang!)
Hoạ sĩ thiên tài Rembrandt đã hiểu thật hay ý hướng sâu sắc của bài dụ ngôn này, nên vẽ bức tranh như sau: Người con thứ ở trong bóng tối, đang quì, quay lưng với khán giả, khuôn mặt vùi giấu trong lòng người cha. Còn người cha là một cụ già đáng kính và toả sáng tuy cặp mắt đã loà vì khóc nhiều. Hai bàn tay run rẩy vẫn đặt tì trên vai chàng trai như để giữ anh ta lại. Một nhân vật khác –con cả– đứng đó, nhìn nghiêng một bên, hay nhắm một mắt –tất cả thái độ của anh ta toát ra sự khinh bỉ, và hai bàn tay co quắp như diễn tả sự nhờm tởm của toàn thân trước cảnh cha già bạc nhược! Còn từ trong bóng tối, Rembrandt vẽ hai người đầy tớ, những nhân vật phụ nhưng dáng vẻ láu cá như đang cố rình xem chuyện gì sẽ xảy ra giữa cha con nhà họ. Đó, thái độ của chúng ta, không phải tất cả, nhưng hầu như phần đông, trong đó có tôi, đều dễ có thái độ như người con cả: khó chịu, tức tối khi Chúa đối xử nhân từ với những người xem ra tội lỗi.
2. Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ và thái độ như người con cả này?
Ngoài câu trả lời căn bản là đừng ganh tị với lòng nhân lành của Chúa, -như câu ông chủ trả lời trong dụ ngôn những người thợ làm vườn nho, sau một ngày công, ai nấy đều được một đồng, khiến người làm từ sáng sớm ghen tức với kẻ chỉ làm được mỗi một giờ! Người chủ nói: hay là anh ghen tị với tôi vì tôi xử nhân từ với họ- Ngoài lời khuyên đừng ghen tị, ta có thể nương theo mẩu thoại của hai cha con trong dụ ngôn này: người con cả nói: “Thằng con của cha” (ra điều như chẳng liên hệ gì đến mình). Đáp lại, người cha nói: “Đứa em của con” (ừ, thì dẫu sao nó cũng là em của con) khác với chỉ là “đứa con của cha.”
Làm anh (làm chị) thì phải quảng đại. Có đại ca, đại huynh nào mà không rộng lượng với đàn em không? Vậy thì trong mức độ nào đó, chúng ta, những người đạo gốc là đàn anh trong đức tin đối với người khác. Hoặc nếu cùng một đức tin, thì ta cũng là đàn anh trong sự trung tín vì ta không đi hoang, ở nhà với cha. Hãy coi họ như là em (đứa em của con) để dễ có quảng đại mừng vui vì đàn em trở về.
Truyện 1001 đêm của Ba Tư có kể lại câu chuyện này: Có hai anh em nhà kia bắt trói được thủ phạm giết chết người cha của mình. Ra toà, thủ phạm thú nhận tội lỗi, nên luật mắt đền mắt, mạng đền mạng được áp dụng. Nhưng trước khi xử, hắn ta xin ân huệ cuối cùng là được trở về nhà trong 3 ngày để giải quyết một vấn đề liên hệ tới người cháu đã được giao phó cho hắn chăm sóc từ nhỏ. Hắn hứa sau 3 ngày sẽ trở lại để chịu tử hình. Quan toà và dân xem chừng không tin… thì giữa đám đông có một bàn tay giơ lên: Tôi xin bảo đảm lời cam kết của tử tội, nếu 3 ngày sau hắn không trở lại thì cứ xử tử tôi thay hắn! Tên tử tội được tự do 3 ngày để giải quyết việc gia đình. Hết hạn 3 ngày, y… trở lại để chịu tử hình. Trước khi bị hành quyết, y nói lớn: “Tôi đã giải quyết xong việc riêng, giờ đây tôi trở lại chịu tội, tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta không nói được rằng chữ trung tín không còn trên mặt đất này nữa. Sau lời phát biểu của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cũng đứng ra tuyên bố: Tôi đứng ra bảo lãnh vì tôi không muốn người ta nói rằng lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa. Nghe hai lời tuyên bố trên, cả đám đông thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi thể hiện những gì là cao quí trong lòng người. Bỗng từ giữa đám đông, hai người con trai của người cha đã bị giết tiến ra thưa với quan toà: Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không còn nói được rằng: lòng khoan dung tha thứ không còn có trên mặt đất này nữa.
Toàn câu chuyện không liên hệ gì lắm tới bài Tin Mừng, nhưng 3 lời tuyên bố của 3 người trong câu chuyện lại gắn chặt với điều chúng ta rút ra từ Tin Mừng. Người con cả (là chúng ta đây) đã có ít ra được chữ tín (vì ở mãi với cha) nay nếu thêm lòng quảng đại nữa, thì sẽ dễ dàng vui mừng đón nhận sự khoan dung tha thứ của Người Cha đối với đứa em.
Xin Chúa giúp chúng ta giàu lòng quảng đại để vững tin vào một Thiên Chúa không những toàn năng, mà là nhân từ nữa mà kinh Tin Kính chúng ta sắp tuyên xưng: một Thiên Chúa là CHA toàn năng, tuy không nói “nhân từ,” nhưng chữ CHA đã bao gồm lòng nhân từ đó, mà suốt cả chiều dài kinh Tin Kính chúng ta tiếp tục tuyên xưng lòng trung tín, sự quảng đại, lòng nhân từ của Người Cha đó.
Chúa nhật hôm nay chúng ta đọc các dụ ngôn của thánh sử Luca về lòng thương xót, cùng chung với 3 bài đọc Kinh thánh của phụng vụ Lời Chúa, cho phép chúng ta đặc biệt áp dụng giáo huấn này đối với hình ảnh và sứ vụ của linh mục.
Trước hết, trang Tin mừng giới thiệu hình ảnh của người mục tử, người đi tìm kiếm chiên lạc trong sa mạc, mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha trong Đức Kitô, cũng như ám chỉ rõ ràng về thái độ của mỗi linh mục, được mời gọi tìm kiếm những người đang quay lưng lại với đoàn chiên của ơn cứu độ. Dụ ngôn tiếp theo sau cũng chung một bài học như vậy.
Trong phần thứ hai của Tin mừng, Chúa Giêsu kể về dụ ngôn người cha giàu lòng thương xót và đứa con hoang đàng. Qua dụ ngôn này chúng ta lưu ý chỉ một điều: đứa con hoang đàng đang ở trong nhà cha mình, anh không muốn sống như một người con, anh muốn tự thay thế cha mình: vì thế anh đòi quyền quản lý phần tài sản của mình, để có được nó, để có thể sống như ông chủ của những thứ đó và của những người ông gặp gỡ, qua đó anh sẽ dùng ảnh hưởng của mình bằng cách sử dụng của cải đã nhận được. Tuy nhiên, trong khi anh ở trong nhà, dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của cha mình, anh đã có thể tận hưởng được tất cả những mối lợi của vị thế làm con của mình; nhưng trái lại, giờ đây anh đã tiêu hoang tất cả, kết thúc trong sự khốn khổ, bị bạn bè thân thích bỏ rơi, bởi vì họ đã kết giao với anh chỉ vì lợi ích của họ, và có thể lấy hết tất cả những gì người con hoang đàng có trong tay.
Đây cũng là vấn đề cay đắng của mỗi linh mục trong nhà Chúa, là Giáo hội. Vị linh mục muốn hành động không như người con, mà như một ông chủ. Người con hoang đàng là hình ảnh rõ ràng của những người tội lỗi, và cũng bao gồm hình ảnh của linh mục, người không biết tự kiềm chế và không cư xử như thừa tác viên của Thiên Chúa (Minister, tiếng la tinh có nghĩa là tôi tớ). Và như vậy, linh mục muốn nắm giữ quyền bính trong tay mình: ngài quyết định! Và cũng có thể, linh mục làm cho một số người bị ràng buộc với ngài, vì một số lý do, ngoại trừ một điều: cùng đồng hành với nhau hướng về Thiên Chúa. Nhưng cuối cùng, điều gì còn lại trong đôi tay của vị linh mục, người đã đặt cuộc sống mình theo cách này? Sự nghèo nàn của cuộc sống và của một thừa tác viên bị thất bại. Cho nên, linh mục phải khôn ngoan và trở về với Cha, để sống như là người con và tôi tớ của cha. Phải ở lại trong nhà, vâng phục Thiên Chúa, và chỉ như vậy linh mục mới có thể làm trổ sinh hoa trái tốt đẹp.
Trong bài đọc I, bài học này đã được tiên báo. Dân tộc tội lỗi và Thiên Chúa, có lẽ để thử thách Môsê, Người nói với ông: “Dân của ngươi, dân mà ngươi đưa ra khỏi đất Ai-cập, đã bị hư hỏng”. Đứng trước hoàn cảnh này, Môsê có thể quyết định để giải quyết vấn đề một mình, bằng nổ lực và bằng những quyết định độc lập của mình: “Tôi đã đưa dân tộc này ra khỏi Ai-cập, giờ đây họ không còn lắng nghe những chỉ dẫn của tôi, tôi sẽ giải quyết vấn đề theo cách này….”
Nhưng Môsê là người của Chúa và là tôi tớ của Thiên Chúa: ông biết rằng dân này không phải của ông; ông biết rằng ông là người trung gian giữa Thiên Chúa với dân, một thừa tác viên của Thiên Chúa bên cạnh dân, là những người còn sót lại của Chúa chứ không phải của ông. Cho nên ông trả lời: “Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập?. Môsê trả lời rất hay: Dân tộc này đã được Thiên Chúa giải thoát chứ không phải ông. Sau câu trả lời đầy khôn ngoan, Thiên Chúa đã ra tay can thiệp. Như là dân của Người, Người sẽ sửa dạy những lỗi lầm, tha thứ tội lỗi và sẽ chỉ ra lối đi để đi lại hành trình tiến về đất hứa.
Linh mục không phải là ông chủ, nhưng là tôi tớ của đoàn chiên. Những con chiên là của Thiên Chúa, chúng thuộc về Người và Người sẽ hướng dẫn chúng. Cho dù có muốn thực hiện nó bằng cách thừa nhận quyền bính thực sự cho các thừa tác viên của mình trên thế gian, với lý do này họ xứng đáng được lắng nghe, vâng phục và cả được tôn kính. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là họ có thể nâng mình lên trên bệ lý tưởng một cách kiêu ngạo và cho mình sở hữu những chìa khóa của sự hiểu biết, bằng cách đó họ đã không vào, mà những kẻ muốn vào, cũng không được vào (x. Lc 11,52).
Điều thực sự giúp các linh mục vẫn khiêm nhường và nhận ra sự lớn lao của ơn sủng đã lãnh nhận mà không cần chạy theo thói kiêu căng, tự mãn, là kiên trì suy niệm về chính sự bé nhỏ của con người, giải quyết nó, cố gắng phân tích lương tâm mình và thực hành bí tích hòa giải thường xuyên, ngay cả trong trường hợp không có tội trọng, được xem như là thuốc giải hữu hiệu cho sự nông cạn và kiêu căng. Trong bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô đã thừa nhận mình như là tội nhân, chính trong giây phút mà ngài nhận ra sự lớn lao của đặc sủng tông đồ đã lãnh nhận từ Đức Kitô, ngài nói: “Cha cảm tạ Đấng đã ban sức mạnh cho cha là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì Người đã kể cha là người trung tín, khi đặt cha thi hành chức vụ: dù trước kia cha là kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng [...] Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất”. Điều quan trọng căn bản là linh mục thường xuyên lặp lại những điều này hoặc bằng những lời đơn giản: “Chúa Kitô đã sai tôi tìm những con chiên lạc, để cứu độ những người tội lỗi, nhưng trong số đó tôi là người thứ nhất! Ngay sau khi tôi đã nhận được lòng thương xót, tôi cũng sẽ đi gặp gỡ anh em bằng cách mang theo tôi lòng thương xót của Thiên Chúa”.
Trong ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta nổ lực cầu nguyện liên lỉ và tiếp tục như vậy, để các linh mục ý thức được sự nhỏ bé của con người là món quà đặc biệt của ân sủng đã nhận được, luôn biết tìm kiếm với lòng nhiệt thành để quyến rũ những con chiên trong đàn chiên của Đức Kitô, đưa chúng đến đồng cỏ xanh rì của cuộc sống bất tử.
Có bao giờ bạn bị lạc mất một món đồ mà phải vất vả đi tìm không? Lúc chưa kiếm được thì tâm trạng bạn ra sao? Có bồn chồn nóng nảy, bực mình cay cú không? Còn khi tìm được rồi thì bạn cảm thấy thế nào nhỉ? Có thấy vui và nhẹ nhõm không?
Tuần trước tôi để cái thẻ nhớ của máy chụp hình trong chiếc áo khoác ngoài mà quên bẵng đi. Rồi cứ loay hoay cả buổi đi tìm. Moi móc từng góc cạnh của căn phòng nhỏ để tìm cho bằng được. Tìm mãi không ra, cứ ngỡ rằng đã mất, mãi cho đến khi tình cờ đem quần áo đi giặt, lục túi áo mới bắt gặp nó. Tôi thở phào nhẹ nhõm!
Mất cái thẻ nhớ của máy hình thì tôi có thể mua mấy cái khác thay thế. Nhưng tôi quyết tâm kiếm cho được vì trong đó có chứa một vài tấm hình phong cảnh tôi chụp ở VN. Những tấm hình đó có đầy ở trên internet, có khi còn đẹp hơn là hình tôi chụp nữa. Nhưng đây là những tấm hình quan trọng, có giá trị với tôi nên tôi đã vất vả đi tìm.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói lên một tâm tình tương tự như thế. Ba dụ ngôn của Tin Mừng Luca chương 15 nói về con chiên lạc, đồng bạc bị mất, và người con đi hoang. Cả ba dụ ngôn đều nói lên trọn vẹn tâm tình của một Thiên Chúa yêu thương và nhẫn nại. Cả ba đều diễn tả niềm vui khi tìm được cái đã mất. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh vào hai cụm từ được lập đi lập lại: “mất” (Hy lạp: apollymi) và “tìm đuợc” (heuriskô) và sự vui mừng khi tìm thấy điều đã thất lạc.
Này nhé, trong dụ ngôn con chiên lạc, ta nghe thấy: "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó!’”
Cũng tương tự như thế trong dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, ta lại nghe: "Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất."
Và trong dụ ngôn người cha và hai đứa con, ta cũng nghe: "Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng... Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
Trong phụng vụ Lời Chúa hôm nay, điểm nhấn là hai dụ ngôn đầu chứ không phải là dụ ngôn thứ ba vốn đã được đọc trong Chúa nhật thứ IV Mùa Chay năm nay. Ở đây nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa cho từng cá nhân. Lòng khoan dung của Thiên Chúa, chứ không phải thái độ ăn năn thống hối của tội nhân, là đề tài Hội Thánh mời chúng ta cùng suy tư.
Con chiên, đồng bạc và người con thứ bị thất lạc trong những hoàn cảnh khác nhau. Con chiên đi lạc vì nó không định hướng được với đàn. Có thể vì nó u mê đi lạc, có thể vì nó ham ăn quên cả đường về, hay có thể vì nó vấp ngã đâu đó, bị cả đàn bỏ lại đằng sau. Còn đồng bạc không tự mình đi, nhưng có thể nó bị mất vì rơi rớt đâu đó. Có khi nó bị lẫn lộn trong hàng trăm thứ vật dụng cỏn con. Nhưng đồng bạc lại không thể kêu lên như con chiên để người chủ đi kiếm. Nó phải an phận trong bóng tối cho đến khi ai đó tìm thấy được. Còn người con thứ thì có đủ tự do chọn lựa, nhưng anh ta đã chọn lầm và đã phải trả một giá đắt cho sự sai lầm của mình. Thông thường chúng ta nghĩ rằng anh ta ra đi vì ham chơi đua đòi, muốn độc lập, hoặc bất mãn với cha mình. Nhưng biết đâu đó là vì hoàn cảnh mà anh ta phải ra đi. Có thể vì cuộc sống ở gia đình quá ngột ngạt buồn tẻ, có khi vì người anh ganh tị chèn ép. Dù sao anh ta cũng đã bỏ nhà ra đi, và đối với gia đình làng xóm, anh ta đã thất lạc.
Dù đến từ nguyên nhân nào, sự thất lạc cũng đều gây cho người bị mất mát một nỗi xót xa nuối tiếc. Một con chiên, có thể là một con chiên nhỏ trong đàn, có đáng giá là bao mà người chăn phải vất vả đi tìm cho kỳ được? Một đồng bạc, chỉ là một đồng trong chuỗi tiền dùng làm đồ trang sức, có giá trị thế nào để người đàn bà phải đốt đèn quét nhà tìm cho kỳ được? Phải chăng hai dụ ngôn này cho thấy hình ảnh của mỗi người chúng ta trong ánh mắt yêu thương của Thiên Chúa?
Từ cấp số 100 đến cấp số 10, Thiên Chúa luôn quan tâm đến từng cá nhân và quý trọng từng người một, như họ là những người duy nhất. Không phải bởi vì 99 con chiên không lạc mà Ngài bỏ qua một con nhỏ nhoi. Không phải vì 9 đồng bạc còn đó mà Ngài bỏ mặc một đồng bị rơi vào xó xỉnh nào đó. Càng tha thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu, thì càng thôi thúc kiếm tìm bấy nhiêu. Càng quý trọng vật bị mất bao nhiêu, thì càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất khi tìm gặp lại bấy nhiêu.
Đó cũng là tâm tình của người cha. Ông vui mừng khôn tả khi thấy bóng con thất thểu từ đằng xa. Ông quên hết những ưu phiền sầu muộn, những sỉ nhục dằn vặt mà đứa con thứ đã để lại cho ông khi nó đòi chia của rồi ra đi. Ông quên hết tất cả. Ông tha thứ tất cả. Bây giờ chỉ còn lại trong ông là nỗi vui mừng hoan hỉ vì “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Niềm hân hoan sung sướng là tiếng cười dòn dã, là lời khoe báo tin vui cho mọi người.
Thiên Chúa của chúng ta là thế đó. Như lời thánh vịnh mô tả “Ngài chậm giận và chan chứa tình thương. Ngài không xử với ta như ta đáng tội. Và không trả cho ta theo giá của ta” (TV 103).
Như người chăn chiên tìm lại được con chiên bị lạc, như người phụ nữ kiếm được đồng bạc bị mất, như người cha mở tiệc, giết bê béo ăn mừng, Thiên Chúa hân hoan vui mừng khi một người con của Ngài ăn năn trở về hơn là bao người lành thánh. Và Ngài mong ước chúng ta chia sẻ niềm vui này với nhau. Trong dụ ngôn thứ ba người cha kiên nhẫn mời người anh cả bước vào bàn tiệc để cùng chung vui với cha, với em.
Ba dụ ngôn của Tin Mừng Luca chương 15 là câu trả lời của Đức Yêsu cho những lời phàn nàn và ganh tị của người Biệt Phái. Nhưng đó cũng là những lời cảnh tỉnh cho chúng ta hôm nay. Thông thường mỗi khi phạm tội, chúng ta có khuynh hướng khoan hồng nhân nhượng với chính mình, nhưng lại ít khoan dung với kẻ khác. Qua ba dụ ngôn này Đức Yêsu nhắc nhở chúng ta về lòng thương xót vô lượng của Thiên Chúa, cho chúng ta và ngay cả cho những người chúng ta không chấp nhận trong cuộc sống của mình - những người mà chúng ta coi là con chiên lạc hay người con hoang đàng.
Trong cuộc sống chúng ta hôm nay có biết bao người sa đọa, lầm đường lạc lối. Như người con thứ, họ cũng đã phải trả một giá khá đắt cho những sai lầm của họ. Nhưng liệu chúng ta có sẵn sàng đón nhận họ trở về? Liệu chúng ta có là những chướng ngại vật ngăn cản họ đến với Chúa Cha? Liệu thái độ xét đoán và óc phê bình của chúng ta có làm họ chùn bước để trở về với Thiên Chúa qua Hội Thánh? Liệu chúng ta có tập mở rộng lòng thương xót, đồng cảm để đón nhận họ như người anh chị em cùng một Cha trên trời?
Lòng quảng đại và khoan dung của chúng ta là thước đo mối tương giao mật thiết với Thiên Chúa. Chúng ta cần tập lòng khoan dung để có thể đón nhận người anh chị em lầm đường lạc lối với lòng thương xót, như lòng từ bi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Và như thế, chúng ta tiếp tay với Thiên Chúa để chia sẻ sự tha thứ và hoà giải trong thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở lòng khoan dung với anh em con như Chúa đã khoan dung nhân hậu với con.
Thiên Chúa dựng nên con người có hồn có xác. Ngài còn ban cho họ lý trí và tự do để sống theo thánh ý Ngài. Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa đã tặng ban cho con người để họ tự do trung thành với Chúa hay phản bội Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Vì thế, tự do là con dao hai lưỡi, nếu biết dùng nó cho đúng thì sống, mà dùng sai thì chết.
Chính vì con người có quyền tự do nên họ đã phạm tội chống lại Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài vẫn yêu thương con người khi họ còn ở trong vòng tội lỗi, Ngài kiên nhẫn chờ đợi, kêu mời và tạo mọi điều kiện để họ trở về sống trong ân tình của Ngài. Dụ ngôn đứa con hoang đàng hôm nay nói lên chân lý đó.
Thánh Luca đặc biệt nói về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa qua ba dụ ngôn, mà dụ ngôn người con hoang đàng là sâu sắc hơn cả. Con người yếu đuối và hay sa ngã.. Nguyên tổ Adong Evà đã sử dụng sai tự do của mình, đã sa ngã, nhưng Chúa vẫn thứ tha. Rồi đến lượt con cháu ông bà cũng đi vào vết xe cũ đó, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi, kêu gọi họ trở về để được ơn tha thứ. Đavít, Madalena, Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld… đã đi vào con đường tăm tối và đã được giải thoát sang vùng ánh sáng tự do.
Có lẽ mỗi người đều sẽ phải nếm nỗi chua xót vì đã sử dụng tự do sai trái! Tất cả đã đúc thành cái giá cắt cổ mà Con Thiên Chúa phải trả thay bằng chính mạng sống mình. Bài học sâu sắc của đứa con hoang đàng đã trở thành tiêu biểu cho những người dám chân thành và cam đảm làm cuộc trở về với Người Cha Nhân Hậu.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gs 5,9-12.
Trong 40 năm trên đường về Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dưỡng dân Do thái bằng manna, ai muốn ăn bao nhiêu thì ăn, không bị hạn chế, nhưng khi đã đặt chân lên Đất Hứa rồi, mannna thôi rơi, và dân bắt đầu ăn thổ sản trong xứ.
Cuộc xuất hành về Đất Hứa đã kết thúc, họ mừng lễ Vượt Qua đầu tiên để tạ ơn Chúa đã thực thi lời hứa trong giai đoạn quyết định vừa qua. Từ nay, lễ Vượt qua được ấn định vào ngày 14 tháng Nisan hàng năm giúp dân Do thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
Trong cuộc hành trình về quê trời, Mình Thánh Chúa là manna được Thiên Chúa ban cho loài người, một thứ thần lương nhiệm mầu nuôi sống linh hồn chúng ta và đem chúng ta đến sự sống đời đời.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5, 17-21.
Thiên Chúa là Đấng trung thành và thương xót, đã dùng Đức Kitô mà giao hòa chúng ta với Người, đã gánh tội của chúng ta và làm cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho chúng ta được tái sinh nhờ Bí tích rửa tội để sống một đời sống mới.
Nhưng điều đã được thực hiện dứt khoát một lần trong Đức Kitô còn phải được thực hiện nơi từng người: đó là tầm quan trọng của sứ mạng hòa giải được giao phó cho các vị Tông đồ. Do đó, Giáo hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
+ Bài Tin mừng: Lc 15,1-3.11-32.
Thiên Chúa luôn giầu lòng thương xót và tha thứ đối với tất cả mọi người. Thánh Luca đã diễn tả lòng thương xót đó qua 3 dụ ngôn:
- Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,4-7). - Dụ ngôn đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10). - Dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15,1-3.11-33).
Trong dụ ngôn người con hoang đàng này, ta thấy người cha có hai đặc điểm: tôn trọng tự do của con, sẵn sàng chia gia tài cho con, và nhất là sẵn sàng tha thứ, luôn mong đợi con trở về ngay khi nó chưa hối lỗi. Người con thứ không phải là mẫu mực một kẻ tội lỗi hồi tâm: anh ta không có vẻ ăn năn thống hối thực sự, anh ta chỉ đi theo hướng có lợi, nghĩa là trở về cho khỏi bị chết đói.
Tuy thế, Thiên Chúa là người Cha tốt lành và nhẫn nại, Ngài tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngài đợi chờ chúng ta qua nhiều năm tháng dài. Ngài vui sướng đón nhận chúng ta vào cánh tay Ngài vì chúng ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình thương dạt dào, đó là lời mời gọi của Cha trên trời dành cho hết mọi người con của Ngài, dù họ biết bao lỗi lầm, dù họ chưa sẵn sàng trở về với Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Trở về với Cha nhân hậu
I. BA MÀN CỦA MỘT VỞ KỊCH.
Theo giáo thuyết của các giáo sĩ Do thái thì những người thu thuế và tội lỗi bị tách ra khỏi cộng đồng tôn giáo và xã hội Do thái. Nhưng ở đây những người này lại đến gần Đức Giêsu để nghe Ngài giảng và họ còn mời Ngài đến dùng bữa tại nhà mình.
Thấy thái độ Đức Giêsu đón tiếp những người thu thuế và tội lỗi trái với giáo thuyết của Do thái, nên biệt phái và luật sĩ là những người chủ trương giữ luật rất khắt khe đã kêu trách Đức Giêsu. Họ kêu trách Ngài về hai điểm:
a) “Ông này đón tiếp những người tội lỗi”: Người Do thái hành động theo châm ngôn sau: Thiên Chúa yêu thương những người công chính và gớm ghét những người tội lỗi. Bởi vì Thiên Chúa gớm ghét người tội lỗi nên người Do thái cũng phải làm như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu làm ngược lại: Ngài đón tiếp các tội nhân.
b) “Và cùng ăn với chúng”: Không những tiếp đón những người tội lỗi mà Đức Giêsu còn đi xa hơn: là cùng ăn với họ. Thông thường bữa ăn diễn tả thân hữu liên đới giữa con người với nhau. Vì thế, ở đây với hai thái độ “Cùng ăn với họ” Đức Giêsu cho thấy Ngài muốn hiệp thông với chính những người tội lỗi. Ngài muốn cứu giúp những người tội lỗi và chính Ngài là nơi nương tựa cho những kẻ bị bỏ rơi.
Trong chương 15, ta thấy Đức Giêsu đã kể ra 3 dụ ngôn có ý nhằm vào luật sĩ và biệt phái vì họ tự cho mình là công chính mà khinh khi những người tội lỗi và những người bị loại trừ.. Ba dụ ngôn ấy là:
- Con chiên lạc (Lc 15,4-7). - Đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10). - Đứa con hoang đàng (Lc 15,11-32).
Ba dụ ngôn này được ngắt nhịp bằng một điệp khúc ca tụng tình thương Thiên Chúa được bầy tỏ nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được yêu thương và không đáng yêu, những người một cách gián tiếp lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà những kẻ tự phụ là công chính dành cho họ. Phụng vụ hôm nay không ghi lại hai dụ ngôn trên mà chỉ ghi lại dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn đứa con hoang đàng, tức là dụ ngôn về tình phụ tử. Dụ ngôn này thật quí báu, do được một mình Luca kể lại, vì nó đặc biệt phù hợp với tinh thần của sách Tin mừng này.
Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, những nhân vật được nêu ra ở đây có tính cách ám chỉ:
- Người kia tức là người cha: ám chỉ Thiên Chúa. - Người con cả: ám chỉ dân Do thái, cách riêng các luật sĩ và biệt phái. - Người con thứ: ám chỉ người có tội.
1. Màn thứ nhất: Người cha chia gia tài.
Theo luật của người Do thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tùy ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Theo phong tục của nhiều dân tộc, người con chỉ được phép chia gia tài khi người cha đã chết. Cha còn sống mà đòi chia gia tài, chẳng khác nào muốn nguyền rủa cho cha chết sớm! Nhưng đứa con thứ bất hiếu trong dụ ngôn này đã đòi cha chia gia tài sớm. Nó làm thế như có ý nói: “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi đi ra khỏi nhà này”.
Người cha không tranh luận gì, ông muốn tôn trọng sự tự do của nó. Ôâng cũng hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
2. Màn thứ hai: Đứa con thứ ra đi và trở về.
Nhận được phần gia tài rồi, hắn lên đường đi đến một phương xa, chơi bời trác táng, giao du với những quân du côn, với những cô gái đĩ điếm. Tiêu xài như thế thì đến núi cũng phải lở. Chẳng bao lâu hắn đã tiêu xài hết tiền của, đồng thời nạn đói cũng xẩy ra tại miền ấy. Hắn phải đi kiếm việc làm cho qua ngày, nhưng tìm được việc làm đâu có dễ, hắn chỉ xin được chăn heo, mà đối với người Do thái chăn heo là một điều xấu hổ, mất phẩm giá, vì heo là một con vật ô uế (Đnl 14,8).
Sống trong cảnh nhục nhã# và túng thiếu đến cùng cực, hắn mới hồi tâm lại: ở nhà cha tôi thiếu gì của ăn, đến đứa đầy tớ cũng còn thừa cơm bánh, còn tôi ở đây thì phải cùng cực, muốn ăn cám heo người ta cũng không cho ăn. Ở trong hoàn cảnh này thì vô phương giải quyết, chỉ còn cách trở về kiếm miếng cơm cho khỏi chết. Hắn nghĩ thế này: tôi sẽ trở về xin lỗi cha và chỉ dám xin cho ở nhà cha với phận mọn là đứa tôi tớ thôi, đâu dám nghĩ đến chuyện được nhận lại làm con. Nhưng làm một tên nô lệ mạt trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha, theo một nghĩa, thì nô lệ là một phần tử trong gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào.
Sau khi đã suy nghĩ rất hung, hắn lên đường trở về, và mọi điều dự đoán của hắn đều sai hết. Thánh Luca đã mô tả:”Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ôâng chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói:”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa…” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng:”Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con tay đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng.
3. Màn thứ ba: Người anh cả giận dữ.
Đáng buồn thay, khi về đến nhà thấy người ta đang liên hoan ăn mừng người con thứ đã trở về, người anh cả giận điên lên không chịu vào nhà. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào nhà vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể hiểu được tấm lòng nhân hậu của người cha.
Hóa ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: anh không trái lệnh cha chỉ để làm tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “thằng con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con. Anh ta là người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
II. BA MÀN KỊCH ĐỐI VỚI CHÚNG TA.
1. Thiên Chúa giầu lòng thương xót.
Thiên Chúa là người cha giầu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ, và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chằm, hôn nó một hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, vì nó trở về chỉ vì thống khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, thoát khổ, thoát chết.
Thái độ của người cha thật tuyệt vời, ông không để cho nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ôâng đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như ủy quyền cho người đó thay thế mình. Đôi giầy là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giầy, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bầy ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang nay đã trở về nhà cha.
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn “đứa con hoang đàng”, nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội người ấy vẫn còn giữ đó.Hôm nay đứa con đi hoang biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó, nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln.
Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa kỳ? Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời:”Tôi sẽ đối xử với họ dường như chưa bao giờ họ ly khai với chúng tôi”.
Đây là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban cho con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời gọi họ khám phá ra tình huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao tặng cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài? Ngài là người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình ảnh của người anh (Fiches dominicales).
Truyện: Đứa con hoang đàng của Phật giáo.
Trong giáo lý nhà Phật cũng có câu chuyện gọi là “Dụ ngôn người con hoang đàng”. Câu chuyện kể về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà của mình đi, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
(Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 128)
Câu chuyện này không khác gì lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước Trời (Ga 3,16-17).
2. Người con đi hoang đã mất nay lại tìm thấy.
Người con thứ được xác định là một tay ăn chơi trác táng… Nhưng khi đã hết nhẵn tiền thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một quyết định can đảm vì đã thất bại và còn vác mặt về mà xin lỗi thì thật là xấu hổ.
Đúng thế, thậât dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một người anh hùng, với chiến công và vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không có một chiến công nào để đem về cho anh, anh không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà, lòng nặng trĩu xấu hổ và nhục nhã.
Nhưng thật ngạc nhiên, khi người cha nhìn thấy anh trở về đang tiến lại với ông, ông liền chạnh lòng thương, và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.
Phát hiện vĩ đại nhất mà người con hoang đàng đã nhận ra đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn đuợc yêu thương, đó không những là một điều tốt, nhưng khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng tội lỗi, thì quả là một cảm nghiệm tuyệt vời.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta, mà Ngài còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu thương đó (McCarthy).
“Giây phút người con hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi dám nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy, thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng giá”(Oscar Wilde).
Truyện: Chúa quên hết tội rồi.
Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất? sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con. - Thế bà có hỏi Ngài không? - Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào? - Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất”?
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không? - Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao? - Chúa nói:”Ta đã quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
(Kể theo ĐHY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận)
3. Người anh cả bất hợp tác.
Người anh cả trở về nhà và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các giáo sĩ Do thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Anh ta trách em về những lầm lạc của nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hòa với cha và với em mình, thì bàn tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ảnh lại thái độ của người biệt phái đối với tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người biệt phái đó đang ở trong chúng ta. Người anh cả này ghen tức chỉ muốn ông bố giết quách đứa em đi cho bõ ghét, không thể tha thứ được.
Truyện: Người cha giết con.
Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể: một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai. Người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách xóm làng. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà qui chính thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong đĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra tòa vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con.
Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin mừng theo thánh Luca mà chúng ta đọc hôm nay.
Suy nghĩ về dụ ngôn này, chúng ta dễ cảm thông với người con hoang đàng và dễ lên án thái độ cố chấp của người anh cả. Nhưng rồi sự suy nghĩ ấy lại đưa chúng ta đến một suy nghĩ khác:
Nói người phải nghĩ đến ta Suy đi nghĩ lại hóa ra chính mình.
Người cha có hai người con: người con đây là ai? Và đứa con hoang đàng chỉ ai? Các nhà chú giải không đồng ý kiến.
Các nhà chú giải thời xưa cho rằng: người con cả chỉ người Do thái, con hoang đàng chỉ dân ngoại.
Ngày nay quan niệm đó hầu như bị bỏ, mà còn hai ý kiến sau đây:
- Một ý kiến cho rằng: con cả chỉ người biệt phái, con hoang đàng chỉ tội nhân. Người biệt phái lẩm bẩm kêu trách Chúa vì thái độ đối với tội nhân.
- Ý kiến thứ hai cho rằng: con cả chỉ người lành, con hoang đàng chỉ tội nhân. Kẻ lành không hiểu được thái độ Chúa đối với tội nhân trở lại.
Xem chừng người ta nghiêng về ý kiến thứ nhất.
Chúng ta là hạng người nào? Dầu là anh cả, dầu là đứa con hoang đàng, tất cả đều phải sám hối, đều phải trở về, đừng cứng lòng trước ơn Chúa. Trong cuốn Au Gré de Sa Grâce, linh mục André Louf có đề cập đến không những kẻ tội lỗi cứng lòng (pécheurs endurcis) mà còn những người ngay chính (justes endurcis) cũng cứng lòng nữa. Người con hoang đàng là hình ảnh của những người tội lỗi, còn người anh cả có thể là hình ảnh của những người ngay chính cứng lòng. Người tự coi mình công chính, đạo đức mà cứng lòng và tự mãn thì thật khó mà sám hối, trở về.
Có lẽ thái độ của người anh tự coi mình công chính và ganh tị là hình ảnh gợi cho tất cả chúng ta, những người cảm thấy mình làm mọi sự đều đúng, đều tốt đẹp và đạo đức. Chúng ta biết mình là người tốt nên dễ dàng phê phán những người khác. Chúng ta đã mang trong mình tự mãn vì nghĩ rằng Thiên Chúa đang ngự trị trong đời sống của mình.
Chúng ta hãy can đảm nhận khuyết điểm, sai phạm của mình, để mạnh dạn trở về cùng Chúa, cùng Giáo hội của Ngài. Thiên Chúa nhân từ trong vai người cha nhân hậu và yêu thương hôm nay, bảo đảm cho sự lầm lỗi của con người yếu đuối, sẽ được tha thứ. Ngài là Cha của tất cả mọi người, Ngài đang chờ đợi từng người một trở về. Đừng nghĩ rằng tội lỗi mình quá nặng, nên không thể giao hòa với Chúa. Cũng đừng cho rằng ân sủng của Chúa không đủ để phục hồi tội lỗi của mình. Hãy thống hối, hãy trở về, sẽ được thứ tha hết mọi lỗi lầm lớn nhỏ. Hãy tạ ơn Chúa, vì tạ ơn là có khả năng ý thức mình là kẻ có tội, và từ đó tập chú vào lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
Trong dòng chảy sự sống, bao người nối tiếp nhau làm nên lịch sử nhân loại. Trong dòng lịch sử ấy, mỗi người viết lên trang sử riêng đời mình. Có một dòng sử bao trùm tất cả, dòng sử cứu độ. Con người cảm thấy lịch sử đời mình qua dòng sử cứu độ này, và một thực tại được tỏ bày: con người được Thiên Chúa yêu thương. Dung mạo một Thiên Chúa yêu thương đưọc tiệm tiến mặc khải cho con người. Trong mỗi khúc quanh của lịch sử, Thiên Chúa lại tỏ bày rõ nét hơn dung mạo yêu thương và kế hoạch cứu độ của Người. Kế hoạch này được thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Con Chí Ái của Chúa Cha. Đức Giêsu đã đến cắm lều ở trần gian để trở nên bạn nghĩa thiết của con người, yêu thương và cứu chuộc họ, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa Cha được mặc khải một cách trọn vẹn là Đấng giàu lòng thương xót và rất mực thứ tha. Qua những bước thăng trầm, đặc biệt những lúc lịch sử con người trở nên đen tối nhất, Thiên Chúa lại được tỏ lộ như Vị cứu tinh, là niềm hy vọng, là ánh sáng dẫn lối con người tiến bước. Khi con người chìm ngập trong tội lỗi, Thiên Chúa được tỏ bày là Đấng Thánh Thiện muôn trùng, thương xót vô cùng và thứ tha tất cả.
Qua lịch sử cứu độ, chúng ta có thể thấy được nhiệm cục tình thương Thiên Chúa thể hiện nơi con người. Khởi đầu là con người được tạo dựng và yêu thương, và rồi con người với những bước chân lầm lỡ đã thất trung và phản bội. Trong đau khổ con người đã hồi tâm sám hối, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương qua việc thứ tha. Và chóp đỉnh của tình thương ấy là Thiên Chúa đã ban chính Con Một của mình để giao hòa nhân loại với Người và ban cho nhân loại ơn cứu độ. Chúng ta khởi đi từ nhịp sống đầu tiên của con người, để dần dần làm sáng lên hình ảnh của Đức Giêsu, và đối với bản thân, đây cũng là một nỗ lực để trả lời câu hỏi: “Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?” qua Đức Giêsu chúng ta biết rõ được rằng: Con người được Thiên Chúa yêu thương.
Như đứa con là kết qủa của tình yêu cha mẹ, mỗi chúng ta và cả nhân loại này cũng thế, là kết qủa tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu thương Thiên Chúa đã sáng tạo con người, để cho con người được thông chia chính sự sống của Người (St 2, 7), mang hình ảnh sống động của Người (St 1, 26-27). Con người được tham dự vào quyền sáng tạo của Thiên Chúa, và ngày càng lan tràn trên mặt đất. Thiên Chúa không yêu thương con người một cách chung chung, đại khái, nhưng đó là một tình yêu cụ thể, cá vị; khởi đầu bằng việc Người chọn Israel làm dân riêng của mình (Đnl 7, 6-9,11), chăm sóc và bảo vệ dân, dẫn dân đến vùng đất sự sống.
Dân Thiên Chúa được ví như người tình của Giavê, Đức Chúa tỏ tình với dân như người yêu sắp cưới (Dc 4, 12-16). Cô gái Israel quá được yêu thương nhưng lại vong thân, thất nghĩa, ngoại tình, phản bội Đức Chúa là Đấng lang quân. Nhưng cho dù dân có bất trung, Người vẫn trung tín và yêu thương đến cùng. Đức Chúa lại tiếp tục tái lập hôn ước với người vợ bất trung ấy (Hs 2, 16-25).
Thiên Chúa yêu thương cũng được tỏ bày như người mẹ, người mẹ hiền ấp ủ con thơ (Is 49, 13-16). Người mẹ trao ban sự sống cho con mình thế nào, thì Thiên Chúa cũng là sức sống cho dân Người như vậy (Gr 31, 1-9). Con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, sự hiện hữu của mình. Không chỉ con người mà toàn thể vũ trụ này, toàn thể muôn loài thọ sinh đều mắc nợ Thiên Chúa, bởi vì “Tình thương Người chan hòa mặt đất” (Tv 32). Cả thế giới là một bài ca tán dương tình yêu của Người. Đặc biệt tình yêu đó tỏ lộ qua lòng xót thương. Lòng xót thương này cùng một trật cho thấy con người mỏng dòn, yếu đuối, tội lụy và cần đến Chúa biết bao.
Con người phản phản bội, Thiên Chúa xót thương
Đây là một khúc quanh lớn trong lịch sử của con người. Bao phen con người đã nói “không” với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn nói “có”, một tiếng “có” tràn đầy mãnh lực yêu thương. Chúng ta thấy điều này lan tỏa trong trong Kinh thánh, đặc biệt trong Tin mừng. Xin lấy ba dụ ngôn tiêu biểu theo Tin mừng Thánh Luca, để thấy dung mạo Thiên Chúa xót thương được Đức Giêsu diễn tả như thế nào:
Dụ ngôn “con chiên lạc” (Lc 15, 4-7): Thiên Chúa luôn là một Mục tử nhân lành thí mạng sống mình vì đoàn chiên (Ga 10, 11). Người không muốn để một ai hư mất. “Những người Cha ban cho con, con không để hư mất người nào” (Ga 17, 12). Mỗi con người đều có một vị trí, một giá trị tuyệt đối trong trái tim nhân hậu của Thiên Chúa. Vì thế, “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là chín mươi chín người công chính không cần hối cải” (Lc 15, 7). Thiên Chúa luôn yêu thương khao khát con người đáp trả tình yêu của Người, quay về với Người, nơi đó có sự sống hạnh phúc đích thực.
Tương tự dụ ngôn trên là dụ ngôn “đồng bạc bị mất” (La 15, 8-10): Cái lôgic của Thiên Chúa là cái nghịch lý theo kiểu con người, chỉ một đồng bạc mất, khi đã tim được thì mời hàng xóm láng giềng, bà con bạn hữu đến ăn mừng. Nếu không đặt vào trong mối tương quan tình yêu, lòng thương xót, thì không thể nào chúng ta cảm được niềm vui tột cùng của người phụ nữ tìm thấy đồng bạc. Bà là hình ảnh của một Thiên Chúa đang kiếm tìm và gặp được lời đáp xin vâng của con người.
Đỉnh cao của ba dụ ngôn về lòng thương xót phải kể đến dụ ngôn “người cha nhân hậu” (Lc 15, 14-31). Qua dụ ngôn này, dung mạo của một Thiên Chúa yêu thương tỏ hiện rõ rệt, mặc khải ra Người là Cha, một người Cha rất mực khoan nhân, yêu thương đến tận cùng và luôn tha thứ. Chúng ta bắt gặp được nơi đây niềm an ủi lớn lao mỗi khi thấy mình xa rời Thiên Chúa và hồi tâm trở về. Nơi đó vẫn một vòng tay giang rộng, một trái tim thổn thức đợi chờ, chỉ một việc phải làm là người con lăn vào vòng tay Cha, để thấy mình được yêu thương mà thôi. Mọi tội lỗi, mọi bất trung giờ đây đứng trước một tình yêu quá lớn tất cả chẳng con là gì, tất cả nhường chỗ cho hạnh phúc tràn về. Thiên Chúa của chúng ta là như vậy.
Rải rác đây đó, ta vẫn bắt gặp hình ảnh Thiên Chúa gần gũi với con người, đi bên đời họ, chữa lành những đau khổ thể xác và tâm hồn. Trên đường đi Giêrusalem, Đức Giêsu đã chữa mười người phong cùi và cho họ được sạch (Lc 17, 11-19). Đi đến đâu, Người thi ân giáng phúc đến đó, dẫu cho con người khước từ hay vong ơn.
Con người được tha thứ
“Phúc thay kẻ được lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung” (Tv 31)
Ơn thứ tha đã được Cựu ước khắc họa đậm nét. Đavít phạm tội được Chúa thứ tha (2 Sm 12, 1-17), ơn thứ tha này cũng được ban cho cho dân Israel khi dân sám hối trở về. Thời Tân ước ơn tha thứ càng được tỏ bày hơn nữa, những người tội lỗi đến với Đức Giêsu đều được thứ tha, những bệnh nhân đều được chữa lành và đón nhận được ơn tha thứ. Người phụ nữ ngoại tình, Phêrô chối Chúa, Tôma chậm tin, Phaolô ngã ngựa… và rồi cuối cùng, họ cũng nhận ta một điều là Thiên Chúa sẵn lòng thứ tha.
Trên bước đường lữ thứ trần gian hôm nay, hơn một lần chúng ta gục ngã vì tội lụy, có bao giờ quay về với Chúa mà không được thứ tha! Đó phải là một niềm xác tín, một lời mời gọi chúng ta vươn lên mãi, tin tưởng vào tình yêu và không bao giờ nản lòng và thất vọng. Thiên Chúa vẫn làm những việc diệu kỳ trên những yếu đuối của con người, có những thứ tội trở nên “tội hồng phúc”, vì qua đó, Thiên Chúa lại càng gần gũi, liên lụy với con người hơn. Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn đọc, Giáo hội dạy rằng: “Vì loài người chúng ta và để cưú rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Thiên Chúa đã đi vào cuộc đời, cùng chung số kiếp với con người, để cảm thông thứ tha và cứu độ. Đỉnh cao của cuộc nhập thể là hy tế thập giá, nơi đó, một con người Giêsu trần trụi đẽ trở thành lễ vật hiến tế Chúa Cha, để bộc lộ lời thứ tha cuối cùng và mãi mãi. Bên thập giá, tên trộm lành đã trở thành kẻ ăn trộm được cả Nước Trời.
Nếu trong Cựu ước Thiên Chúa còn mang dáng dấp một quan tòa ngay thẳng, phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội cha ông của chúng, một Thiên Chúa còn thiên vị, ghen tương, yêu người này và ghét kẻ nọ (yêu Aben và ghét Cain), thì trong thời Tân ước, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa được tỏ bày trong dung mạo người cha nhân từ, một người cha mang trái tim người mẹ. Trong trái tim Đức Giêsu, nước mắt và nụ cười, khổ đau và hạnh phúc của con người đều được Người ôm ấp tất cả. Có một Giêsu đã vào cuộc đời và yêu thương con người đến thế. Nhưng,
Đối với tôi, Đức Giêsu là ai?
Những câu trả lời mang tính tín điều, giáo lý đã dạy, tôi thuộc lòng từ bé. Tôi không muốn trả lời một cách bài bản, vì như thế, tôi có thể nói như con vẹt mà không cảm nhận được gì. Để trả lời chính xác cho câu hỏi này, có lẽ tôi chỉ nói được: Người là Đấng tôi đang tìm kiếm. Có lúc tôi thấy Người thật gần, có lúc thấy Người xa xăm diệu vợi, có lúc Người ân cần với tôi qúa, có lúc Người chỉ đến với tôi bằng sự im lặng tràn đầy.
Khi trải qua đêm tối cô đơn khắc khoải, tôi thấy Người là Đấng lấp đầy những khát vọng của tôi. Có nhiều lúc tôi đi tìm những thứ khác (không phải là Người), để lấp đầy khoảng trống, nhưng khốn thay, tâm hồn tôi lại bị khoét sâu và bị vỡ vụn hơn nữa. Tôi cảm nghiệm được rằng, trong mọi khó khăn người ta có thể phấn đấu và vượt thắng, nhưng trong sự cô đơn sâu thẳm, con người có thể ngã quỵ. Trong khoảng lặng của sự cô đơn đó, tôi nhận ra Đức Giêsu là bạn của mình, một người bạn đúng nghĩa. Người hiện diện ở đó, không khuyên lơn, không trách móc, không lên lớp dạy luân lý cho tôi, không tìm cách kéo tôi ra khỏi sự cô đơn, nhưng Người cùng lặng lẽ cảm thông và chia sẻ. Chính lúc cô đơn tuyệt vọng nhất, đêm tối dày đặc nhất, thì tôi lại thấy vỡ òa một ánh sáng linh diệu xuyên thấu tâm hồn mình. Và tôi thấy Đức Giêsu cũng là một con người cô đơn như thế, có ai cô đơn hơn Người nữa không “Lạy Cha, Cha bỏ con sao?” (Mc 15, 34). Trong vườn cây Dầu, Người đã phải thốt lên “Tâm hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được” (Mc 14, 34). Người cô đơn đấy, nhưng không bi lụy, không ngã gục, mà vẫn đi đến trọn hành trình vâng phục: “Xin vâng ý Cha, đừng theo ý con” (Mc 14, 36). Tôi vẫn thích chiêm ngưỡng Đức Giêsu trong lúc tất tưởi này; thấy Người gần gũi, đồng hội đồng thuyền với tôi. Đức Giêsu người qúa, nhưng cũng linh thánh quá! Con đường Người đi, không phải là con đường hoa thơm cỏ lạ, nhưng là lối mòn đầy sỏi đá. Người sống giữa cuộc đời nhưng vẫn bát ngát thanh tao.
Kết luận
Tôi muốn dùng bức tranh của họa sĩ Rembrandt thế kỷ XVII, vẽ chân dung “người cha nhân hậu”, để làm hình ảnh gợi ý kết thúc những dòng suy tư này. Trong bức tranh của tác giả, người ta thấy người cha già mắt như đã mù lòa, hai tay ôm lấy bờ vai người con đang quỳgục đầu vào ngực mình. Tác giả khắc họa người con trong tấm thân khắc khổ, tấm áo lót ngả mầu cáu bẩn, đôi xăng đan mòn vẹt, chiếc mất chiếc còn, một cái đầu trọc lóc như một tên tử tội. Thực là cảm động, sau những ngày lưu lạc, chỉ lúc này đây người con mới tìm lại được chính mình, chỉ nơi trái tim cha, người con mới thấy tim mình rộn lên nhịp sống. Đôi tay cha đã đón nhận con, và cái đầu trọc lóc của con một lần nữa như được làm trẻ thơ trở về cung lòng mẹ, đó cũng là nơi con ra đi, và là nơi hôm nay con lại trở về.
Đức Giêsu là hình ảnh người cha đó. Người là hiện thân của Chúa Cha, Đấng giàu lòng xót thương, Người là người bạn đang lặng lẽ bên tôi. Cuối cùng Người là Đấng cứu độ tôi, ban cho tôi sức sống mới, phục hồi phẩm giá cho tôi và đưa tôi vào dự tiệc mừng. Một Giêsu như thế vẫn hiện diện trong cuộc đời và dõi theo bước tôi từng giây từng phút.
Chúa Giêsu thường quan tâm chăm sóc gần gũi những người tội lỗi, nhóm Pharisêu và Kinh sư trách móc, xầm xì, phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Chúa đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc mất, người con hoang đàng trình bày đề tài: Thiên Chúa tình yêu và Ngài luôn tìm kiếm người tội lỗi. Một con chiên quý giá vô ngần đối với mục tử. Một đồng xu rất quý giá đối với người đàn bà nghèo khổ. Một người con quá quý giá đối với tấm lòng người cha. Cũng vậy, một người tội lỗi cũng đáng giá như thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Hôm nay chúng ta cùng suy niệm về dụ ngôn thứ ba. “Dụ ngôn đứa con hoang đàng” được gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của câu chuyện chính là người cha.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
Người con thứ.
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà. Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là ”đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về? Thánh Lu-ca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi. Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc. Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Giuđa đã phản bội Chúa, Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giu-đa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn. Còn Phêrô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống. Đọc câu chuyện, thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ n vhiều người như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
Người con cả.
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tụ mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “ không như thằng con của cha” Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không đựơc cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẽ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức. Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và sự sống.
Người cha
Khi chia gia tài cho con lòng cha đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái, người ta mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
Trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, người thu thuế bị xếp vào hạng tội lỗi, là những người thường bị lên án. Người thu thuế đuợc coi là những người làm ăn sinh sống bằng nghề khá mập mờ. Họ không quan tâm đến luật lệ của Thiên Chúa; Họ chẳng biết giá trị của tinh thần. Còn người tội lỗi, họ lãng quên Thiên Chúa, tránh né để khỏi phải bận tâm, gò bó.
Trái lại người biệt phái, kinh sư là những nhà chuyên môn, thông thạo lề luật, nói những lời đáng tin về Thiên Chúa. Nhưng họ lại chẳng theo Chúa, không đến để nghe Chúa giảng mà còn xầm xì nhỏ to: “Ông này đón tiếp những người tội lỗi và ăn uống với chúng…”. Và họ còn tìm cách hãm hại Chúa và làm cho Chúa mất tín nhiệm.
Thế nhưng qua bài Tin Mừng thánh Lu-ca tường thuật lại những người thu thuế và người tội lỗi lại theo Chúa thật đông, họ vây quanh Chúa để nghe Chúa Giảng. Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giê-su bỏ công đến với những người thu thuế và tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích, nên họ phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giê-su là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi, không đáng quan tâm. Nhưng đối với Chúa những người tội lỗi lại rất quan trọng. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Chúa.
Chúng ta ai mà lại không vui khi cái gì đã mất được tìm thấy, còn gì hạnh phúc và vui sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất". Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Chúa. Trong bài Tin Mừng cả ba du ngôn đều xoay quanh chủ đề “đã mất”, con chiên bị mất, đồng tiền bị mất, đứa con bị mất. Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc. Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, thắp đèn, quét nhà, moi móc kiếm cho kỳ được đồng bạc đánh rơi. Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ mong chờ con trở về.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng con, dù chúng con là những người tội lỗi, bất xứng nhưng Chúa mong chúng con thật lòng sám hối quay trở về. Chúa vui mừng khi người tội lỗi quay trở về như trong ba dụ ngôn Chúa đã kể lại: người mục tử tìm được chiên thì không hề phàn nàn, không hình phạt mà lại vác chiên lên vai và mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; còn người đàn bà tìm thấy đồng bạc đã mất cũng đã mời hàng xóm đến đề cùng chia vui với bà; rồi đến người cha có đứa con đi hoang trở về thì mở tiệc lớn ăn mừng. Và niềm vui lơn hơn nữa là “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Chúa mong chờ chúng con về để sống trong tình yêu thương của Chúa, niềm vui đó chính là khi được mọi người sống thân mật với Chúa. Cho dù con người có lầm lỡ thế nào, Người vẫn chờ đợi họ, vẫn mở rộng vòng tay đón tiếp.
Chúa yêu thương con người đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ: tha thứ tất cả, đón nhận tất cả, đề chứng minh cho tình yêu ấy Ngài đã chết trên cây Thập Giá, ngay trong lúc hấp hối Người vẫn cầu xin tha thiết cùng Chúa Cha “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm ”(Lc 23,34).
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể,
Xin cho chúng vững tin vào lòng yêu thương vô cùng nhân hậu của Chúa, và đừng bao giờ hồ nghi tình yêu thương Chúa dành cho chúng con, đề rồi chúng con được ẫm trong vòng tay yêu thương của Chúa bởi xưa Chúa đã nói với các tông đồ trong Bữa Tiệc Li: “Lòng các con đừng bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin tưởng nơi Thầy. Trong nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở ”(Ga 14, 1-2).
Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi, nhóm Pharisêu và Kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 ( 1/10 ( ½ ). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, 1 đồng bạc và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng: "trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối". Và Ngài mời gọi chúng ta trở thành xứ giả của lòng Chúa xót thương.
Cả ba dụ ngôn đều xoay quanh một chủ đề: đã mất mà lại tìm thấy. Thiên Chúa mất loài người, loài người đã bị mất tức là đã đi khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa, và đó là cái mất lớn lao nhất. Thiên Chúa không mất gì đáng tiếc hơn mất loài người. Dụ ngôn nêu lên ba khía cạnh để giải thích giá trị của loài người: con chiên bị mất, đồng tiền bị mất, đứa con bị mất.
Ở đời có ba điều quý: Tài sản, tiền bạc và con cái. Cả ba đều mất, và sự mất mát nào cũng đáng tiếc. Chúa không mất súc vật, tiền bạc, nhưng mất loài người, là mất cái quý báu nhất, không gì sánh bằng. Và Ngài tiếc như ta tiếc của cải, tiền bạc, và con cái vậy.
Khi mất một phần trăm đã tiếc, mất mười phần trăm tiếc hơn, mất năm mươi phần trăm tiếc hơn nữa. Nhưng Thiên Chúa mất hết, mất từ thời A-đam, nên Chúa lập cách cứu loài người: "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất."
Cách Chúa cứu loài người là lập ra các Giao ước. Mà Giao ước mới của Chúa Kitô là Giao ước quyết định. Giao ước này không chỉ dựa trên luật mà chính yếu dựa trên tình thương. Thực vậy, người Cha trong Tin Mừng đã không xử với các con theo luật mà Cha đã làm xong: con thứ được 1/3 gia tài của Cha và con cả được 2/3 phần còn lại (xem Dnl.21,17); nhưng Cha đã xử với con theo tình thương: lấy nhẫn trao cho con là trao cho con quyền hành như Cha (xem St 41,42), lại cũng chính Cha nói với con cả: "Mọi sự của Cha đều là của con" (Lc 15,31), chứ Cha đâu chỉ cho con 2/3 gia tài.
Như thế cốt lõi của giao ước là tình thương, là sự sống, chứ không phải là luật, để ai phạm luật là xử án ! Chính vì vậy mà trong thời Môsê, khi dân Do Thái phạm luật bỏ Chúa thờ bò vàng, cứ theo luật thì dân phải bị xử tử, nhưng Môsê đã nại vào sự sống Chúa đã giao ước với các tổ phụ: "Xin Chúa hãy nhớ Abraham, Isaac và Giacóp, với họ Chúa đã lấy chính mình mà thề và đã phán: Ta sẽ cho dòng giống các ngươi nên đông như sao trên trời - thế là Chúa đã hối lại không phạt dân, lại cho dân sống chiếm hữu được đất Chảy sữa và mật" (bài đọc I).
Chính cái cốt lõi của giao ước là tình thương này đã giúp người con thứ khi phải làm thuê Chăn heo-làm tôi ma quỷ-mà không ai thương xót bằng con heo, đến nỗi cám heo ăn còn dư hắn muốn ăn cho đỡ đói mà cũng không ai cho ! Dĩ nhiên sự đau khổ này đã là cái đòn bẩy như chiếc roi đặt trên mông anh, để anh thức tỉnh. Nhưng chính hình ảnh yêu thương của Cha anh đối với những kẻ làm công, những kẻ nô lệ cũng còn có dư bánh ăn (Lc 15,17) mới chính là động lực thôi thúc anh quyết tâm trở về cùng Cha, chứ nếu anh nhớ lại cảnh sống gia đình như một địa ngục, Chắc chắn không khi nào anh muốn trở về, cho dù có đói khát ở vệ đường !
Và trong bài đọc II, Phaolô còn đóng vai trò diễn tả người con thứ trở về, cũng là hình ảnh muôn dân tin nhập vào Hội Thánh:
- Người con thứ nhờ hấp lực tình thương của Cha, thôi thúc nó trở về, thì Phaolô nói: "Đội ơn Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (I Tm. 1,12a).
- Cuộc trở về của con thứ chỉ có Giá trị hệ tại ở chỗ: xin vào làm công cho nhà Cha (Lc 15,19). Nếu nó trở về đòi hỏi yêu sách này nọ với Cha nó, thì việc trở về có Giá trị gì ? Do đó Thánh Phaolô ý thức việc Chúa gọi ông vào Hội Thánh: "Vì Ngài xét tôi tín cẩn mà cho tôi xung vào công việc phục vụ" (I Tm. 1, 12b).
Như vậy, trở về với Hội Thánh là sống yêu thương, phục vụ như người tôi tớ. Đây cũng là hình ảnh giản dị và sâu sắc mà Đức Phan-xi-cô diễn tả khuân mặt của Giáo hội- "một Giáo hội không khiển trách con người vì tính dễ vỡ và vì thương tích của họ, nhưng chăm sóc họ với liệu thuốc của lòng thương xót" (x. Bài giảng Chúa nhật 17/3/2013).
Mỗi ngày và đặc biệt ngày Chúa Nhật, Hội Thánh như người Cha mong chờ con cái mình vào dự tiệc Thánh Thể đã dọn sẵn. Để nơi bàn tiệc này, mọi tội nhân như người con hoang được giao hòa lại với Thiên Chúa và Hội Thánh, để được tái lập giao ước mới, giao ước sự sống, được Hội Thánh công bố qua các Bài đọc và bài giảng của Linh mục. Sau đó được mời ăn tiệc Thánh Thể và chính Chúa Phục Sinh. Thay thế con tim chai đá của chúng ta bằng con tim biết yêu thương của Chúa.
Nhờ lời ban sự sống và nhờ tình thương của Chúa rót vào tim ta, ta lại được Chúa sai đi để quy tụ những con chiên lạc về một đàn là Hội Thánh, ăn một đồng cỏ là Thánh Lễ. Mỗi tín hữu phải làm việc này để trở thành người thứ hai được Chúa thương xót theo mẫu người thứ nhất mà Phaolô đã làm gương .
Thánh Gioan định nghĩa: "Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4, 8.16). Tình yêu của Thiên Chúa mang đặc tính nhưng không, trọn vẹn và đến cùng: tất cả chỉ vì con người và cho con người. Tình yêu ấy được cụ thể hóa qua việc Ngài bao dung, kiên nhẫn, tìm kiếm và quảng đại tha thứ đối với mọi tội lỗi của con người. Tác giả Thánh vịnh đã hơn một lần quả quyết: “Ngài (Thiên Chúa) chậm giận và chan chứa tình thương. Ngài không xử với ta như ta đáng tội. Và không trả cho ta theo giá của ta” (Tv 103, 8-10).
Thiên Chúa của chúng ta là thế đó. Điều Ngài quan tâm không phải chính Ngài nhưng là sự sống, ơn cứu độ, hạnh phúc nước trời của chúng ta. Một Thiên Chúa luôn tha thứ và kiên nhẫn trong tha thứ để sửa dạy những kẻ hư hỏng tội lỗi. Một Thiên Chúa rong ruổi tìm kiếm kẻ sai đường lạc lối để qui tụ, lo lắng và chăm sóc. Đây cũng là những chủ điểm chúng ta lần lượt suy niệm ngang qua các bài đọc lời Thiên Chúa sửa dạy kẻ hư hỏng.
Đọc trong Kinh Thánh chúng ta thấy rất nhiều lần Thiên Chúa nặng lời quở trách, răn đe, sửa phạt dân Israel. Mục đích của sự sửa phạt sở dĩ nếu có chỉ vì tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con cái mình. Giống như cách hành xử của cha mẹ có trách nhiệm được Kinh Thánh ca ngợi:
"Kẻ ghét con mới không dùng roi vọt, người thương con sẽ lo sửa phạt con" (Cn 13, 24).
Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta hơn tình thương của cha mẹ dành cho con cái. Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa không mặc kệ họ lạm dụng tự do để hư đi nhưng Ngài có kế hoạch cho họ. Trong bài đọc I (Xh 32, 7-11. 13-14) vì thấy dân tuyển chọn của Ngài đang trên đà hư mất vì bỏ Thiên Chúa để chạy theo các vị thần khác, cụ thể là tự nắn ra vị thần bò vàng để tôn thờ, nên Thiên Chúa tỏ bày ý định trừng phạt họ: "Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng" (Xh 32, 10).
Thiên Chúa là Thiên Chúa hay ghen; vì vậy sự bất trung của dân Israel khiến Chúa phải lên tiếng sửa dạy, răn đe, ra hình phạt... Chúng ta cũng chẳng khác đám dân cứng cổ Israel xưa: Thiên Chúa vẫn đang dùng nhiều cách thế khác nhau để sửa dạy chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta tìm hiểu ý muốn của Ngài qua hoàn cảnh hiện tại, nhờ đó tỏ lòng thống hối ăn năn, chịu khó rèn luyện để sửa đổi đời sống.... Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra hay không và có mau mắn thay đổi cách ăn nết ở hay không.
Thiên Chúa đã nhiều lần và bằng nhiều cách sửa phạt chúng ta. Sở dĩ Ngài làm thế vì thương yêu con cái của mình: "Phần Ta, mọi kẻ Ta yêu mến, thì Ta răn bảo dạy dỗ. Vậy hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn!" (Kh 3, 19). Mục đích việc sửa phạt chúng ta nhằm giúp chúng ta ăn năn tội lỗi của mình.
Thiên Chúa tìm kiếm kẻ sai đường lạc lối.
Thiên Chúa đích thân tìm kiếm những kẻ sai đường lạc lối. Ba dụ ngôn trong bài Tin mừng (Lc 15, 1-32) diễn tả đầy đủ điều đó. Như mục tử nhân lành và có trách nhiệm với hết mọi con chiên, không chỉ những con chiên ngoan hiền nhưng ngay cả những con chiên đi lạc, những con chiên đau yếu... thì đích thân Thiên Chúa đi tìm kiếm. Như mục tử yêu quí con chiên lạc tới mức dám để lại 99 con trên đồng hoang để đi tìm cho được con chiên lạc,..... Như người phụ nữ coi số tiền bị mất là cả gia tài của mình nên lục lọi tìm kiếm. Như cha già chẳng tiếc tài sản mà con thứ phung phá hay không nhớ đến tội lỗi tày đình của đứa con hư hỏng để ngày đêm trông ngóng tha thứ cho nó... Thiên Chúa cũng làm như vậy và còn hơn thế nữa.
Sự tính toán của Thiên Chúa khác với chúng ta. Chúng ta luôn để ý tới số lượng, còn Thiên Chúa tính "một" bằng "chín mươi chín". Mỗi người được Thiên Chúa yêu thương, quan tâm, săn sóc đầy đủ cho nên nếu có đi lạc bầy thì Thiên Chúa lo lắng đi tìm cho bằng được. Cũng vậy, một con người sa ngã là cả một "gia tài" đối với Thiên Chúa, nên Thiên Chúa tìm mọi cách kiếm cho bằng được. Còn đứa con nào đang bỏ nhà đi hoang thì ngày ngày Thiên Chúa trông ngóng nó trở về. Thiên Chúa luôn chờ đợi, lên đường tìm kiếm những gì đã mất: sự hư hỏng của con người là sự mất mát của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa không ở yên chờ đợi nhưng lên đường tìm kiếm. Làm sao có thể hình dung một Thiên Chúa yêu thương con người chúng ta đến như vậy?
Thiên Chúa tha thứ cho tội nhân biết hối cải ăn năn.
Chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Người mang lấy tội lỗi thế nhân và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống. Đây là nội dung bài đọc II (1Tm 1, 12-17), trong đó thánh Phaolô nói lên xác tín đối với ơn cứu độ Chúa Giêsu ban cho mình cũng như mọi người.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho tội nhân miễn là họ tỏ lòng thống hối ăn năn. Quả vậy, nếu đọc trình thuật diễn tiến "phiên tòa" do thẩm phán Giêsu xử người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (Ga 8, 2-11), chúng ta sẽ vô cùng ngạc nhiên. Đang khi người thiếu phụ sợ hãi, tủi nhục, chờ án bị ném đá thì Chúa Giêsu nhìn chị và nói: “Ta không kết tội con”. Thật là một lời đầy an ủi. Chúa Giêsu không kết án tội của chị, Người tha thứ và nâng đỡ người sa ngã bằng một câu đầy nhân hậu: “Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Chúa Giêsu tỏ bày gương mặt của Chúa Cha, Đấng có lòng thương xót, cảm thương nỗi đau của chúng ta, với tội lỗi, tính xấu và sự khốn cùng của chúng ta (x. 1Tm 1, 15). Tội của người con thứ, tội của chúng ta, tội của cả nhân loại cũng sẽ được Thiên Chúa tha thứ hết. Thiên Chúa tha thứ không biết mệt mỏi. Quyền năng của Thiên Chúa thể hiện rõ nhất khi Ngài không chấp nhất tội lỗi chúng ta. Thật lạ lùng và vô cùng quí giá cho tất cả mọi tội nhân chúng ta. Thái độ cũng như cách hành xử của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la như đại dương. Ngài vẫn đối xử tốt với chúng ta cho dù chúng ta có như thế nào: không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.
Tóm lại, tội lỗi của chúng ta nhiều vô kể nhưng sánh sao với tình thương và ơn cứu độ Thiên Chúa dành cho ta. Thiên Chúa không quan tâm đến tội lỗi, không quan tâm đến hình phạt cân xứng thế nào nhưng Ngài quan tâm là thái độ thay đổi và quyết tâm sống của chúng ta. Đối với chúng ta, Chúa muốn chúng ta hãy quên quá khứ để hướng về tương lai với niềm hy vọng. Nếu Thiên Chúa không nhớ quá khứ con người cho dù đã xúc phạm tới Chúa nặng nề tới đâu thì Ngài cũng muốn con người quên đi quá khứ tội lỗi để sống giây phút hiện tại và nhìn về tương lai với quyết tâm mới. Một Thiên Chúa vẫn luôn có mặt, chờ đợi, tìm kiếm để nói lời tha thứ cho mọi yếu hèn tội lỗi của chúng ta. Về phía chúng ta có đủ đức tin để trao phó cuộc đời của chúng ta cho Thiên Chúa hay không mà thôi. Mai Thi
TMĐP- Lòng Thương Xót của Thiên Chúa chính là đường đưa chúng ta, những tội nhân đáng thương trở về.
Tin Mừng các chúa nhật vừa qua cho chúng ta cảm giác sợ sệt với chút nao núng trước những đòi hỏi rất gay gắt và đường về Nước Trời là con đường chông gai, khó khăn, vất vả với cửa rất hẹp, khó vào.
Thực vậy, để trở thành môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải từ bỏ rất nhiều, và hầu như phải cắt đứt tất cả, từ liên hệ huyết thống đến của cải vật chất, kho tàng tinh thần; và để vào được Nước Trời, hành trang phải gọn nhẹ, không cồng kềnh Danh Lợi Thú, không lỉnh kỉnh những ích kỷ, tham vọng, thủ đọan, mưu đồ
Nhưng nếu khó như thế, thì ai sẽ được cứu độ? Nhiêu khê như vậy, hỏi mấy người sẽ được nhận vào Nước Trời?
Tin Mừng chúa nhật hôm nay cho chúng ta câu trả lời của chính Đức Giêsu qua ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (x. Lc 15,4-32).
Cả ba dụ ngôn đều vẽ lên dung mạo của một “Thiên Chúa giàu lòng thương xót, chậm bất bình và rất đỗi khoan dung” (Xh 34,6), một Thiên Chúa yêu thương từng con người, và bằng mọi gía không để con người ấy bị mất đi, như người chăn chiên kia có một trăm con chiên mà bị mất một con đã “để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất” (Lc 15, 4-5) ; hoặc như người phụ nữ kia “có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng” đã “thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được” (Lc 15, 8-9); và như người cha có đứa con thứ, sau khi đòi cha chia gia tài, đã bỏ nhà đi hoang, ăn chơi, phung phí hết tài sản của mình đến nỗi lâm vào cảnh thiếu thốn cùng cực, thân tàn ma dại ở phương xa. Nhưng khi trở về, người cha nhân hậu vẫn hết lòng yêu thương, và rộng lượng tha thứ tất cả lỗi lầm, mà không để con kịp thốt lên lời xin lỗi, thú tội, vì yêu con vô cùng và đến cùng. Ôm chầm lấy con mà hôn lấy hôn để ngay đầu ngõ, nơi ông đứng ngóng bóng con từ nhiều năm qua, ai cũng thấy giòng lệ vui mừng chảy dài trên khóe mắt, và giọng run run xúc động: Hãy đến chung vui với tôi, “vì con tôi đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15, 24).
Không chỉ chân dung của Thiên Chúa vô cùng nhân hậu, bao dung nơi Đức Giêsu được vẽ lên, mà cả thân phận tội nhân được thương xót là chúng ta cũng được Tin Mừng cực tả: là con chiên đi lạc được mục tử hớt hải, lặn lội đi tìm cho kỳ được, và khi tìm thấy, “người ấy mừng rỡ vác lên vai” (Lc 15,5); là đồng quan bị mất và được tìm thấy trong niềm vui khôn tả của người phụ nữ, vì « khi tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” (Lc 15, 9); là người con hoang đàng trở về khi không còn gì và cách nào để sống sót, người cha nhân hậu đã không một lời trách móc, nhưng “chạnh lòng thương”, âu yếm “ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”, đồng thời trả lại cho anh mọi quyền của con cái trong nhà và mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 20-24).
Tóm lại, chúng ta được sinh ra để được Thiên Chúa yêu thương, cứu độ, vì Đức Giêsu, dung mạo đích thực của Thiên Chúa giầu lòng thương xót đến trong thế gian “không phải để luận phạt thế gian nhưng để cứu sống thế gian” (Ga 12,47), như chính Ngài đã trả lời những người Pharisêu: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9, 13) khi họ mắng vốn các môn đệ của Ngài: “Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” (Mt 9, 11).
Thực vậy dòng dã lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn tỏ lòng thương xót trên dân Ngài, như Môsê đã nài xin Chúa tha thứ cho dân khi dân “đúc một con bê, rồi sụp xuống lậy nó, tế nó và nói: “Hỡi Ítraen, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập” và “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe” (Xh 32,8.14), và mãi mãi “từ đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50) như Đức Maria đã cất lời tán tụng.
Vâng, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa chính là đường đưa chúng ta, những tội nhân đáng thương trở về. Với Đức Giêsu, chúng ta tìm được Đường Về nhà Cha trên trời, ở đó toàn thể triều thần thiên quốc sẽ hân hoan vui mừng, vì người tội lỗi là chúng ta ăn năn sám hối và được cứu sống.
Cùng với thánh Phaolô, chúng ta vui mừng tạ ơn Chúa và đồng thanh tuyên xưng: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bầy tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi… ” (1Tm 15.16).
Chúa Nhật XXIV Thường Niên Năm C mời gọi suy niệm về tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Người sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối:
“Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130: 3-4).
Xh 32: 7-11, 13-14:
Nhờ lời chuyển cầu tha thiết của ông Mô-sê, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha thứ tội lỗi của dân.
1Tm 1: 12-17:
Thánh Phao-lô viện dẫn cuộc hoán cải của chính mình để làm chứng “tất cả lòng đại lượng” của Đức Ki-tô, Đấng “đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8: 34).
Lc 15: 1-10:
Chúa Giêsu trả lời cho lời phàn nàn của người Biệt Phái tại sao Ngài giao du với những người tội lỗi qua hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” và “Đồng bạc bị đánh mất”. Qua hai dụ ngôn này, Đức Giêsu hiện thân tấm lòng đầy xót thương của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Xh 32: 7-11, 13-14)
Trong khi ông Mô-sê còn lưu lại trên núi, dân chúng bắt ép ông A-ha-ron đúc cho họ một vị thần linh mà họ có thể thấy và chạm được - loại thần linh mà các dân tộc chung quanh đang phụng thờ. Bản văn nhấn mạnh sự kiện con bê được đúc bằng bạc vàng do bàn tay con người, chỉ là một sản phẩm của các nghệ nhân, có tai mà không nghe, có miệng mà không nói, có mắt mà không thấy (x. Tv 105: 19-20; 115: 5tt). Bản văn cũng nói đến “lễ hội” (32: 5) có thể hàm ý đến những nghi lễ cúng tế thần linh bắt chước những gì dân Do thái thấy ở nơi các dân tộc chung quanh.
1. Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (32: 7-10)
Thiên Chúa báo tin dữ cho ông Mô-sê và ngỏ ý muốn tiêu diệt dân phản nghịch, dân mà Ngài không còn gọi là “dân Ta” một cách thân tình nữa, nhưng là “dân ngươi” (32: 7) một cách xa lạ. Tội này quá nghiêm trọng, đáng bị trừng phạt bằng họa diệt vong. Nhưng vì công lao khổ nhọc của ông Mô-sê, Thiên Chúa hứa với ông Ngài sẽ làm nên một dân tộc khác, lớn hơn dân Do thái, xuất từ ông để dân ấy thừa hưởng lời hứa (32: 10).
2. Lời chuyển cầu của ông Mô-sê (32: 13-14):
Ông Mô-sê tuy rất buồn giận dân, nhưng lòng thương của ông dành cho dân khiến ông không muốn dân bị hủy diệt. Ông chuyển cầu cho dân. Ông gợi lên hai lý do để xin Chúa tha thứ. Lý do thứ nhất, tiêu diệt dân có thể khiến cho người ta hiểu lầm lòng tốt của Thiên Chúa: người Ai-cập có thể lấy cớ đó mà rêu rao rằng “chính vì ác tâm mà Thiên Chúa đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất” (32: 12). Lý do thứ hai, tiêu diệt dân thì đi ngược lại với những lời Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ: “Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa, chúng sẽ thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (32: 33; x. St 22: 16-18).
Có lẽ hai lý do này không đủ làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cho bằng chính hành vi chuyển cầu của ông cho dân. Ông là một phàm nhân mà còn không muốn dân phải chết dù tội của dân đáng phải chịu như thế, Thiên Chúa lại không mở rộng lòng mà tha thứ cho dân sao? Vai trò chuyển cầu của ông Mô-sê cho toàn dân được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bộ Ngũ Thư: tại Ai-cập (Xh 5: 22-23; 8: 4; 9: 28; 10: 17), nhất là nơi hoang địa (Xh 32: 11-14, 30-32; Ds 11: 2; 14: 13-19; 16: 22; 21: 7; Đnl 9: 25-29), còn được nhắc lại ở Gr 15: 1; Tv 99: 6; 106: 23; Hc 45: 3, và báo trước vai trò chuyển cầu của Đức Giêsu sau này.
BÀI ĐỌC II (1Tm 1: 12-17)
Lời phát biểu chủ chốt trong đoạn trích này là “Đức Ki-tô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi” (1: 15). Trong tâm tình tri ân, thánh Phao-lô nhắc lại cho ông Ti-mô-thê, người môn đệ thân tín của mình, cuộc hoán cải của thánh nhân (x. Gl 1: 13-16; 1Cr 15:9; Ep 3: 8) và trình bày nó như mẫu gương cho những người khác. Nếu Thiên Chúa đã ban cho thánh nhân tràn đầy ân sủng, Thiên Chúa cũng ban tràn đầy ân sủng cho bất kỳ ai. Không ai tự coi mình là không thể sống sự sống của Đức Ki-tô.
Chúng ta không thể kỳ vọng lòng thương xót của Thiên Chúa tác động trong chúng ta, nếu chúng ta vẫn cứ cố chấp trong tội khi mà chúng ta biết đó là tội (x. Rm 2: 4). Thánh Phao-lô “đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin” (1: 13). Chúng ta nhớ lại lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23: 34). Nhưng ngay cả khi không biết việc mình làm, thánh Phao-lô cũng ý thức rằng: “Đức Ki-tô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1: 14). Chính đó là đức tin và đức mến mà hiện nay Đức Ki-tô đổ tràn đầy trên thánh nhân (x. Gl 2: 16; Rm 5: 15-20), vì “tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2: 20).
Ân sủng Thiên Chúa ban đã là mẫu gương khuyến khích mọi người, và hiện nay chính là sứ vụ của thánh Phao-lô (1: 12; x. 2Cr 3: 5-6; 4: 1; 5: 18; 6: 3; Rm 11: 13; Cl 1: 7, 23), quyền năng của sứ vụ đến từ Thiên Chúa chứ không từ thánh Phao-lô (1: 12; x. 2Cr 12: 9; Pl 4: 13), đó là kể cho mọi người biết điều này, ngỏ hầu họ cũng trải nghiệm cùng ân sủng tràn đầy như vậy.
Cuộc hoán cải của thánh Phao-lô làm chứng cho “tất cả lòng đại lượng” của Đức Ki-tô, Ngài sẽ không bao giờ ngừng theo đuổi chúng ta. Đấng yêu thương chúng ta là Đấng “đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8: 34). Thánh Phao-lô hy vọng rằng thánh nhân sẽ là mẫu gương để không ai còn phải thất vọng. Chúng ta không thể giả vờ như thử không nhận ra tội lỗi tác hại như thế nào, để rồi vẫn cứ ở lỳ trong tội. Nhưng dù chúng ta đã làm bất kỳ điều gì, quá khứ của chúng ta đã như thế nào, Ngài vẫn một mực yêu thương chúng ta. Ngài đã hiến thân mình cho chúng ta và sẽ không bao giờ ngừng kêu mời chúng ta sám hối và tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài (1: 16; x. Rm 9: 33; 10: 11), nhờ đó chúng ta được vui hưởng cuộc sống đời đời với Ngài. Tư tưởng này khiến thánh Phao-lô cất lên lời ca ngợi Thiên Chúa bất diệt (Rm 1: 23), vô hình (Cl 1: 15) và duy nhất (Ep 4: 6).
Trong cuộc sống của mình, thánh Phao-lô luôn bày tỏ tình yêu kỳ diệu của Đức Ki-tô (1: 16), được lập đi lập lại như một điệp khúc trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô: “ngợi khen vinh quang của Người” (Ep 1: 6, 12, 14). Đó là kế hoạch của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại (Ep 1: 3-14). Đó là sứ điệp trọng tâm mà thánh Phao-lô muốn ông Ti-mô-thê bảo đảm thường hằng giảng dạy cho các cộng đoàn Ki-tô hữu khắp miền Ê-phê-xô.
TIN MỪNG (Lc 15: 1-10)
Trong chương 15 này, thánh Lu-ca kể lại ba trong số những dụ ngôn trong đó Chúa Giêsu mô tả niềm vui của Thiên Chúa khi thấy những người tội lỗi hối cải. Tin Mừng dạy rằng không ai bị loại ra ngoài ơn tha thứ của Thiên Chúa, vì thế những tội nhân có thể trở thành những người con yêu dấu của Thiên Chúa nếu họ ăn năn hối cải. Thiên Chúa ước mong những tội nhân hối cải đến mức mỗi một dụ ngôn này đều kết thúc với một điệp khúc kể về niềm vui lớn lao trên trời khi thấy một tội nhân hối hận ăn năn.
1. Những phàn nàn của người Biệt Phái (15: 1-3):
Đây không là lần đầu tiên những người thu thuế và những người tội lỗi năng lui tới với Đức Giêsu (15: 1; x. Mt 9: 10). Họ bị hấp dẫn bởi chính lời rao giảng của Đức Giêsu và tấm lòng rộng mở của Người đối với họ. Trái lại, những người Biệt Phái và các kinh sư vấp phạm vì thấy Chúa Giêsu giao du và bầu bạn với những người tội lỗi, những người mà chẳng những họ không chỉ khinh bĩ mà còn cấm không được giao thiệp để khỏi bị ô uế.
2. Câu trả lời của Đức Giêsu (15: 4-10):
Trước đây, Đức Giêsu đã gặp phải phản ứng bất bình như thế và đã trả lời ngắn gọn và đanh thép: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5: 31-32). Ở đây, Đức Giêsu phát biểu ý kiến của mình theo cách khác, gợi hình và cụ thể, qua ba dụ ngôn, hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” (15: 4-7), “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10) và một dụ ngôn dài: “Người Cha nhân hậu” (15: 11-32). Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay chỉ trích dẫn hai dụ ngôn ngắn: “Con chiên bị lạc đàn” (15: 4-7) và “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10).
Hai dụ ngôn ngắn này được gọi là “cặp dụ ngôn sinh đôi” vì có cùng một cấu trúc song song với nhau. Cả hai dụ ngôn đều bắt đầu với một câu hỏi giả thiết, một lời đáp trả khẳng định. Một cái gì đó “bị mất” (lập lại đến năm lần) mà người ta “đã tìm lại được” (sáu lần). Sau khi đã tìm lại được, người ta chia sẻ niềm vui với người chung quanh. Như vậy, cặp dụ ngôn sinh đôi này không quan tâm đến tới cách thức đã xảy ra sự mất mát; ngay cả việc tìm thấy cái đã mất cũng thuộc về quá khứ. Việc tìm kiếm ít được nhấn mạnh hơn là lời mời gọi cùng chia sẽ niềm vui cả ở dưới thế lẫn ở trên trời. Như thế, việc Chúa Giêsu thường giao du với các kẻ bị loại trừ được biện minh bởi hành động của Thiên Chúa. Và hai dụ ngôn này như muốn nêu lên cho các người Biệt Phái, các kinh sư và cả độc giả một câu hỏi: Các bạn có thể chung vui với Đức Giêsu khi thấy “những người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Ngài giảng” không?
3. Dụ ngôn: “Con chiên lạc bị lạc đàn” (15: 4-7)
Công việc của người chăn chiên tại xứ Pa-lét-tin là một công việc khó nhọc và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn địa thế phần nhiều là những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu, chiên dể đi lạc. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hằng dặm qua núi đồi.
Tác giả của sách suy niệm “Hosanna” đã quảng diễn niềm vui của người chăn chiên khi gặp được con chiên bị lạc như sau: “Vui với tôi bạn nhé, tôi lại tìm thấy được tình yêu. Đôi mắt tôi không còn nhìn anh em với những thành kiến hẹp hòi. Lời nói tôi thôi làm bạn đau đớn. Tai tôi biết lắng nghe bạn trân trọng, cảm thông. Bàn tay tôi trong tay bạn, ấm nóng yêu thương nhiệt thành. Và tôi đến với bạn với cả tấm lòng của kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương. Người đặt tình yêu của mình trong hình ảnh bạn và trong đôi mắt tôi. Tạ ơn Chúa đã cho con hạnh phúc của người tìm lại được tình yêu bị lãng quên. Xin Cha cho con luôn biết gìn giữ, trân trọng tình yêu của Người”.
Phải chăng lời phát biểu của Đức Giêsu: “Hơn là chính mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” là một lời mỉa mai nhằm ngụ ý nhắn gởi đến các người Pha-ri-sêu và kinh sư, vì họ phải biết rằng không ai tự cho mình là công chính trước mặt Thiên Chúa mà tẩy chay và kết án người khác (x. Rm 3: 10tt), vì thế chính họ cũng cần hoán cải? Hay phải chăng đây là một cách nhấn mạnh tận mức, như trong chính dụ ngôn ở câu 4, giá trị khôn sánh của từng cá nhân đối với Thiên Chúa khi họ quay về với Ngài? Điều này không có nghĩa rằng Chúa Giêsu không đánh giá cao sự kiên trung bền vững của những người công chính. Người đơn giản nhấn mạnh niềm vui của Thiên Chúa và các thánh về sự hoán cải của người tội lỗi. Đây rõ ràng là lời kêu gọi ăn năn sám hối, đừng bao giờ nghi ngờ Thiên Chúa sẵn lòng tha thứ.
Công Đồng Vatican II áp dụng dụ ngôn này vào phương cách các linh mục tiến hành công việc mục vụ của mình: “Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ cho các tín hữu và lương dân, cho người công giáo và ngoài công giáo thấy gương mặt tử tế và mục vụ của một thừa tác viên thật sự, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống. Như mục tử tốt lành, linh mục còn phải đi tìm (x. Lc 15: 4-7) những người đã lãnh nhận phép rửa trong Giáo Hội Công Giáo nhưng đã xao lãng không lãnh nhận các bí tích hay nhất là đã mất đức tin” (Vatican II, Lumen gentium, 28). Tuy nhiên, mỗi một tín hữu cũng phải có chung một mối bận lòng này – được diễn tả một cách huynh đệ - đối với anh chị em của mình, đối với mọi người trên con đường tiến bước đến sự thánh thiện và ơn cứu độ.
4. Dụ ngôn: “Đồng bạc bị đánh mất” (15: 8-10)
Một người đàn bà chong đèn quét nhà moi móc tìm cho bằng được một đồng bị đánh mất rõ ràng là hình ảnh của một bà mẹ quê tần tảo chắt chiu từng đồng xu mà chúng ta thường gặp thấy ở bất kỳ đất nước nào. W. Baclay cung cấp cho chúng ta một lý do khác, một khía cạnh văn hóa thi vị như sau. Tại Pa-lét-tin, dấu hiệu của một người phụ nữ có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó, bởi vì xâu chuỗi tiền trên đầu của nàng cũng đánh giá ngang bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó, thì nó là của riêng nàng, đặc biệt đến nổi người khác không thể đoạt được của nàng, và nếu có đánh mất một đồng tiền nhỏ thì phải tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất chiếc nhẫn cưới (Trích từ “Tin Mừng theo Thánh Lu-ca”, 191).
Tác giả “Hạt Giống Nẩy Mầm” đã suy niệm hai dụ ngôn ngắn này cách sâu xa như sau: “Thật cảm động thái độ ân cần của người chăn chiên đối với con chiên bị lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy một trăm con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó trên vai, mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỷ lưỡng: thắp đèn quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh trên thiên đàng: ‘Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối’. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân”.
Richard Pidell có viết một câu chuyện ngắn nhan đề: "Đứa con trai của một ai đó" (Somebody's son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khổ quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau: "Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta". Vài ngày sau, David lên tàu hỏa đi về. Trong lúc tàu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong trí cậu ta: khi thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng cột một miếng vải trắng nào. Tàu hỏa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra ở khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói: "Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây táo đó có cột một miếng vải trắng không nhé".
Khi tàu hỏa rầm rập lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng, cậu hỏi người đàn ông: "Thưa ông, có một miếng vải trắng nào treo ở cành cây táo đó không?" Ông ta sửng sốt trả lời: "Ồ, nầy cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có một miếng vải trắng cả!"
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Đối với Chúa, mỗi người chúng ta đều đáng kể, không thể có gì khác thay thế được . Mỗi con người là như một con chiên trong đàn, phải được chăm sóc như nhau, không được để thất lạc. Chín mươi chín con chiên yên lành không làm nguôi được lòng thương đối với một con chiên lạc. Thiên Chúa cũng cuống quít như một bà già nghèo đánh mất một đồng bạc quý. Phải hì hục moi móc mọi ngóc ngách trong nhà để tìm cho bằng được. Như người cha già, con mình đã hư quá thể mà trong lòng vẫn lo lắng không nguôi, vẫn không thôi chờ đợi đến mõi mòn, cho đến lúc ôm lại đứa con vào lòng và rạo rực vui sướng không gì kìm hãm được và cả Thiên đàng cũng vui lây, vui sướng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn cả vui sướng vì 99 người lành thánh không cần sám hối ăn năn.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lạc đường, Ngài tạo mọi điều kiện để ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi là tin vào tình thương tha thứ của Cha để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho người mục tử nhiều hơn niềm vui có 99 con ở lại trong đàn.
Thưa anh chị em,
Đến đây, đáng lẽ dụ ngôn về người cha nhân hậu đã có thể kết thúc rất đẹp với nỗi vui mừng của người cha. Nhưng Chúa Giêsu lại nối thêm cái đoạn cuối về người con cả. Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người con cả để hiểu hết ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn nầy.
Người con cả là một người con chí thú làm ăn ở nhà với cha, nhưng xem ra quan hệ với cha không được thân mật, thẳng thắn. Tuy ở nhà với cha nhưng lòng vẫn xa cách. Và kết quả là người con cả đã không hiểu và không chấp nhận nổi cách xử sự của cha đối với đứa em của anh vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với cha và với em, người con cả đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở thế tách biệt với gia đình sum họp.
Người con cả ở đây tiêu biểu cho nhóm người Biệt phái Pharisêu trong dân Do Thái. Họ tưởng rằng họ trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, rồi khinh bỉ các dân ngoại và những hạng người mà họ cho là tội lỗi. Thì ra, Tin Mừng hôm nay là một Tin Mừng đối với người tội lỗi sám hối trở về, nhưng đồng thời lại cũng là một lời cảnh cáo đối với những người "ở trong nhà", những người tưởng mình đạo đức, tốt lành. Người con cả, bao nhiêu năm ai cũng tưởng là ngoan ngoãn tốt lành lắm. Đến ngày em của anh hồi sinh và trước niềm vui vô bờ của người cha, anh đâm ra hậm hực, bực tức… thì ra bề ngoài anh ngoan, nhưng nội tâm của anh thì cay nghiệt, tù túng, đầy những ghen tị, sát phạt. Cả anh nữa, anh cũng chẳng hiểu thế nào là lòng thương xót. Cuối cùng anh không muốn bước vào lòng thương xót đó. Anh chưa gặp được Thiên Chúa. Anh vẫn ở ngoài ơn cứu độ.
Dụ ngôn cho thấy, người cần trở lại hơn hết lại chính là người con cả, người con vẫn ở nhà với cha nhưng lòng thì không ở cùng với cha. Anh chị em thân mến,
Hãy tin vào tình thương yêu vô bờ bến của Thiên Chúa mà trở về với Ngài, nếu chúng ta lỡ lạc đàng, sa ngã. Và hãy khoan dung tha thứ cho những người anh em, nếu chẳng may có ai trượt chân vấp ngã. Phải tìm đến với người anh em đó để giúp họ trở lại với Chúa là Cha yêu thương. Đừng có thái độ lên án, loại trừ như thái độ của người con cả trong dụ ngôn. Trái lại, hãy vui mừng vì đã giúp được một người anh em gặp lại niềm vui cứu độ. Hãy coi thái độ khoan dung, quảng đại yêu thương tha thứ của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh của lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, để chúng ta biết đối xử với những người anh em như Chúa đã đối xử với chính chúng ta.
"Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót con, và lấp đầy trái tim con tình yêu tha thứ của Chúa.
Con là đứa con thư đã bỏ nhà ra đi rồi lại trở về. Con cảm ơn Chúa đã đón nhận lại con.
Và con cũng là người con cả đã từng khư khư không chịu tha thứ cho anh chị em con như Ngài đã tha thứ cho con. Vậy xin Chúa hãy chạm vào trái tim con với tình yêu tha thứ của Ngài.
Để rồi sau khi an nghỉ trong cõi chết, con sẽ thức dậy trước thánh nhan Ngài mãi mãi cùng với anh chị em từng được con tha thứ lỗi lầm". Amen.
Trước mắt người đời thì những người tội lỗi là thành phần xấu trong xã hội nên thường bị chê bài, khinh bỉ và xa lánh.
Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa thì bất cứ người nào, dù nhỏ bé, hèn hạ và tội lỗi đến đâu đi nữa cũng được nhìn nhận là những người con đáng yêu, đáng quý của Ngài.
Hai dụ ngôn Tin mừng hôm nay chứng tỏ điều đó.
Qua dụ ngôn chiên lạc, Chúa Giêsu ví người tội lỗi như con chiên lạc mà người chăn chiên trân trọng và quý mến. Thế nên anh sẵn sàng rời xa 99 con chiên trong đàn để đi tìm cho được con chiên lạc đó. Và một khi đã tìm được rồi, anh không quật cho nó một trận cho hả giận vì nó đã gây ra bao điều cực nhọc cho mình, trái lại, anh vui mừng ôm lấy nó, vác nó lên vai, hăm hở trở về, mời bà con làng xóm đến chia vui.
Qua dụ ngôn tiếp theo, người tội lỗi được ví như một đồng quan bị đánh mất, khiến người phụ nữ mất tiền cảm thấy tiếc nuối, nên dù trong đêm tối, bà cũng vội thắp đèn lên, quét nhà cho kỹ, moi móc mọi ngóc ngách, cố tìm cho bằng được đồng tiền bị mất ngay tức khắc, không đợi đến ngày mai. Và khi đã tìm thấy, bà reo lên vui sướng và chia sẻ niềm hoan lạc này với bạn bè lối xóm.
Từ hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu kết luận: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Qua hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu tỏ cho biết ngay cả người tội lỗi lầm lạc cũng là những người con đáng trân trọng và quý mến đối với Thiên Chúa.
Thiên Chúa trân trọng và quý mến con người nên Chúa Cha đã sai chính Con Một mình từ trời xuống thế để cứu độ loài người.
Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi vừa gặp Gia-kêu, một nhân viên thu thuế cho đế quốc Rô-ma bị người Do-thái kỳ thị, Chúa Giêsu thân mật đón chào và đề nghị ở lại nhà ông: “Gia-kêu, xuống mau đi! Vì hôm nay tôi sẽ lưu lại nhà ông.”
Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên Chúa Giêsu không ngần ngại chọn Lê-vi, một người thu thuế bị liệt vào hạng tội lỗi, làm tông đồ của Ngài và làm tác giả sách Tin mừng thứ nhất.
Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi những người biệt phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giêsu, thì Ngài cũng không lên án hay luận tội người này. Trái lại, Ngài dùng lời hay lẽ phải giải tán đám đông đang hung hăng với nhiều ác ý, rồi nhẹ nhàng khuyên lơn người phụ nữ: “Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 2-11).
Vì yêu quý và trân trọng người tội lỗi nên khi vừa nghe tên tử tội cùng bị treo lên thập tự giá với Chúa Giêsu van xin Ngài: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”, thì Chúa Giêsu liền hứa ban thiên đàng cho anh ta: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng” (Lc 23,42).
Lòng quý mến và trân trọng của Thiên Chúa đối với người tội lỗi lên đến cao điểm khi Chúa Giêsu hiến thân chịu khổ hình. Ngài chịu đòn vọt và đau khổ thay cho muôn người tội lỗi; Ngài chịu chết thay cho muôn người để họ được sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là Chúa tể trời đất, còn chúng con chỉ như những hạt bụi li ti trong vũ trụ, chẳng đáng là gì, thế mà Chúa lại trân quý từng người trong chúng con, ngay cả những người tội lỗi hư hèn nhất. Vậy thì chúng con là ai mà dám coi thường, khinh dể anh chị em chung quanh mình.
Xin cho chúng con biết học với Chúa để đem lòng yêu quý và trân trọng mọi người như Chúa đã nêu gương.
Tin Mừng Lc 15: 1-32 Thiên Chúa là tình yêu, Ngài là Thiên Chúa của lòng tha thứ. Tha thứ đến độ vui mừng mở tiệc để đón người tội lỗi ăn năn trở về. Thiên Chúa thương xót và mời gọi chúng ta cùng yêu thương tha thứ cho nhau như ngài.
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và luôn tha thứ. Chính vì thế, mà Con Một của Ngài đã đến và ở giữa nhân loại. Người đến để công bố và thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa Cha dành cho nhân loại, chính vì thế, những lời rao giảng của Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng.
Thiên Chúa là tình yêu, Ngài là Thiên Chúa của lòng tha thứ. Tha thứ đến độ vui mừng mở tiệc để đón người tội lỗi ăn năn trở về. Thiên Chúa thương xót và mời gọi chúng ta cùng yêu thương tha thứ cho nhau như ngài. Tin Mừng hôm nay minh chứng điều đó.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa: Tin Mừng: Lc 15, 1-32
Thiên Chúa vui mừng khi người tội lỗi quay trở về
Để làm nổi bật niềm vui mừng lớn lao của Thiên Chúa khi tha thứ và khi người tội lỗi quay trở về, Thánh sử Luca đã liên kết ba dụ ngôn nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân: Dụ ngôn con chiên lạc, đồng bạc bị mất và người con hoang đàng.
Để trả lời cho những người luật sĩ và biệt phái đến chất vấn mình vì sao lại ngồi chung, đồng hành với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã dùng các dụ ngôn này.
Tất cả ba dụ ngôn đều được đánh dấu bằng một điệp khúc: 'tìm thấy được cái gì đã mất'. Nhằm nêu lên sáng kiến đi bước trước tìm kiếm người tội lỗi và mời gọi họ quay trở về của Thiên Chúa. Khi họ trở về thì Thiên Chúa vui mừng. Sự hiện diện của Chúa Giêsu bên những người tội lỗi nói lên tất cả sự thật ấy. Sự thật về lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta không chỉ được mời gọi quay trở về với Thiên Chúa vì chúng ta đang là những tội nhân, chúng ta còn đựơc mời gọi thể hiện lòng thương xót của Chúa qua việc đến kêu gọi những anh chị em tội lỗi, lầm lạc quay ttrở về với Chúa. Đồng thời, biết chia sẽ niềm vui với Chúa khi những anh chị em ấy quay trở về.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Thiên Chúa giàu lòng thương xót luôn quảng đại tha thứ: Thiên Chúa yêu thương muốn cứu độ tất cả mọi người. Chúa Giêsu qua các dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay đã nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa, thể hiện cách cụ thể tình yêu cứu độ của Chúa. Ngài yêu thương cứu độ từng người; Ngài chủ động tìm kiếm và vui mừng khi một người tội lỗi quay trở về. Các dụ ngôn đều nhấn mạnh đến lòng quảng đại của Thiên Chúa: nguời mục tử đi tìm con chiên lạc; người đàn bà tìm kiếm đồng tiền bị mất và người cha nhân lành chờ đón và vui mừng tha thứ cho người con hoang đàng quay trở về. Thiên Chúa là người cha nhân hậu, là người mục tử nhân lành luôn yêu thương chăm sóc cho từng con người, mỗi người trước mặt Chúa cho dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn luôn được hưởng trọn tình yêu của Ngài. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha đã sai Chúa Con đến tìm kiếm và cứu vớt tất cả nhân loại tội lỗi. Lòng thương xót được thể hiện khi không trách phạt mà lại yêu thương cứu độ con người tội lỗi luôn quay lưng phản bội Ngài.
Mỗi Kitô hữu ngày nay, công tâm nhìn lại mình thì sẽ luôn nhân thấy rõ mỗi người đều là tội nhân cả. Tuy nhiên, đừng bi quan thất vọng chán nản, tình yêu Thiên Chúa luôn dư đủ để khoả lấp tội lỗi của mình. Tình yêu của Chúa luôn theo đuổi, chờ đợi và tha thư cho chúng ta. Hãy mạnh dạn sám hối, quay về với Chúa. Sự quay về không bao giờ là trễ cả; hãy tin tưởng vào lòng quang đại xót thương của Thiên Chúa.
2. Người tội lỗi quay trở về, niềm vui của Thiên Chúa: kết thúc của các dụ ngôn là kết thúc vui mừng. Người mục tử vui vể vác con chiên lạc trên vai khi tìm thấy; người đàn bà vui mừng khi tìm được đồng bạc bị mất và người cha nhân hậu tràn đầy sung sướng khi người con hoang đàng trở về. Thiên Chúa vui mừng khi người tội lỗi an năn trở lại. Điều thật khó tưởng tượng trong thực tế của con người đầy ích kỷ và lòng hận thù. Người ta có thể tha thứ, nhưng lại khó quên đi tội lỗi của người khác. Người ta khó mà vui vẻ với nhau một khi đã rạn nứt tình cảm cho dù có thể bỏ qua lỗi lầm của nhau. Thế mà, Thiên Chúa lại hoàn toàn khác, Người tha thứ, quên hết quá khứ lỗi lầm của tội nhân và thực sự vui mừng khi tội nhân biết quay đầu trở về. Đây chính là đỉnh cao của một tình yêu quảng đại thực sự. Một tình yêu gột rửa tất cả mọi uế nhơ của tội lỗi nơi con người; làm trắng tinh một tâm hồn đã đen đúa vì tội lỗi; đã biến đổi tận căn một tội nhân thành thánh nhân.
Thiên Chúa vui mừng vì người tội lỗi quay trở về. Chúng ta hãy vững tin cho mình và cho người khác. Thân phận khốn nạn của kiếp tội nhân không làm suy giảm tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, không làm cho Thiên Chúa ghét bỏ mình. Tin tưởng quay về không chỉ mình vui mừng vì được ơn tha thứ mà điều đó còn làm cho Thiên Chúa vui mừng. Vậy thì, quay về làm cho Thiên Chúa vui mừng cũng chính là cách thức chúng ta biểu lộ tình yêu thương của chúng ta dành cho Ngài. Yêu ai thì biết làm cho người vui mừng và hạnh phúc.
3. Chia sẻ niềm vui tha thứ với Thiên Chúa: Hai dụ ngôn đâu kết thúc cách vui vẻ, còn dụ ngôn thứ ba, dụ ngôn người cha nhân hậu thì xem ra niềm vui chưa trọn vẹn. Chưa trọn vẹn vì thái độ của người anh cả chưa thực sự biết đón nhận người em quay trở về, chưa biết chia sẽ niền vui với người cha. Người mục tử và người đàn bà khi tìm được của bị mất đã vui mừng và mời gọi bạn hữu chia sẽ niềm vui với mình, người cha cũng mời người con cả chia vui khi người em trở về, tất cả nói lên thông điệp của Thiên Chúa. Ngài vui mừng khi người tội lỗi ăn năn hối cải và mời gọi mỗi người cùng chia sẻ niềm vui với Ngài. Ở đây đặt ra vấn đề liên hệ đến mối tương quan giữa con người với nhau: chúng ta có thực lòng chung vui với Thiên Chúa không khi thấy người anh em quay trở về? Tình yêu Thiên Chúa kêu gọi chúng ta yêu mến nhau. Tình yêu Thiên Chúa kêu mời chúng ta chung vui với Ngài. Tình yêu Thiên Chúa mời gọi chúng ta lên đường tìm kiếm kêu gọi những anh chị em lầm lạc quay trở về.
Tin Mừng hôm nay mời gọi Kitô hữu nhìn lại thái độ của mình khi đối xử với những người tội lỗi, những người xúc phạm đến mình. Không chỉ tha thứ mà còn phải chủ động tha thứ và vui mừng thực sự khi người anh em trở về.
III. Lời Cầu Chung
* Lời mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa vui mừng thực sự khi người tội lỗi biết ăn năn trở về. Trong tâm tình vui mừng và hy vọng vào lòng thương xót của Chúa chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1) Hội Thánh được Chúa thiết lập để cống bố và trao ban lòng thương xót của Người cho nhân loại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn có một tấm lòng nhân hậu thể hiện trung thực hình ảnh Thiên Chúa là người Cha giàu lòng xót thương.
2) Ngày nay biết bao anh chị em, thanh niên nam nữ đã và đang đi vào con đường lầm lạc của tệ nạn xã hội gây nên biết bao thảm trạng khổ đau cho gia đình cũng như xã hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong xã hội, những tổ chức thiện nguyện, các nhà lãnh đạo quốc gia luôn biết nỗ lực cùng cộng tác loại trừ tệ nạn xã hội và thực lòng yêu thương đón nhận người lầm lạc hoàn lương trở về.
3) Thiên Chúa yêu thương mời gọi con người cùng với Ngài yêu thương và tha thứ cho nhau. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong chúng ta luôn biết yêu thương quảng đại và tha thứ cho nhau, kiến tạo nên niềm vui và hiệp nhất trong cộng đoàn, trong gia đình.
* kết nguyện: Lạy Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng con luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết yêu thương và quảng đại tha thư cho nhau như Chúa đã luôn yêu thương và tha thứ cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay làm nổi bật hình ảnh ba chiều về Một Thiên Chúa giầu lòng ái tuất.
Dụ ngôn: "Con chiên lạc" (x. Lc 15, 4-7); "Đồng bạc bị đánh mất" (x. Lc 15, 8-10); cụ thể hơn cả là dụ ngôn "Tình phụ tử" (x. Lc 15, 11-32) thể hiện niềm vui viên mãn tràn đầy. Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Vì đồng bạc vô tình bị đánh mất, con chiên lạc có thể cố gắng tìm thấy đàn của mình, và người mất chiên cũng có thể tìm lại được chiên, nhưng không một trường hợp nào hồi tâm trở về với chính mình. Nên người tội lỗi trở về, Chúa Cha khao tiệc ăn mừng. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng đầy lòng trắc ẩn và rất mực yêu thương chúng ta.
"Từ bỏ cha tôi là người hết mực thương tôi, tôi thật đã làm điều sai trái; tôi đã phung phí hết tiền của vào cuộc đời trác táng, thân tôi tan nát và dơ bẩn, làm thế nào cha tôi có thể nhận ra tôi là con trai mình? Tôi sẽ sấp mình xuống dưới chân cha tôi, lấy nước mắt lau chân cha tôi và khẩn xin cha tôi coi tôi như người làm công của cha"... Người cha, từ ngày con bỏ nhà ra đi, ông thương con, ngày ngày ra ngóng con trở về, nên khi ông thấy nó từ đàng xa, ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai ông, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Thằng con trai ông hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó, nó kêu lên…: "Con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha coi con như người làm công của cha" (Lc 15, ). Không, không, con trai của cha, người cha nó kêu lên…, tiếng kêu xóa sạch lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: "phải ăn tiệc và vui mừng "(Lc 15, 32). "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy" (Lc 15, 22-24).
Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con khiến chúng ta liên tưởng tới Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế. Thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!... Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước. Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Người trước các tội nhân, Người ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời… Ôi khoảnh khắc tuyệt với! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất…Chao ôi, đâu là điều mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn, đó là một con người biết đọc lại các biến cố đời mình, hiểu được những gì đã xảy đến với mình để sửa chữa, tái lập trật tự trong đời sống và quyết tâm: "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi" (Lc 15,18), nhưng thực tế, ai trỗi dậy và ai trở về với cha mình. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, đơn giản không chỉ là ơn tha tội nhưng không do Thiên Chúa ban. Đây là cuộc gặp gỡ của niềm tin mà người con tội lỗi đã đặt để vào lòng thương xót của người cha, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và con tìm thấy được tình yêu trìu mến.
Chúa Giêsu đồng bàn với quân tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tội tề hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.
Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh. Đúng như thế, tội nhân được tha thứ là con người của niềm vui và tác động của ân sủng.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
Có một nhà thần học nhận xét: giả sử một ngày nào đó người ta đánh mất toàn bộ cuốn sách Phúc âm nhưng chỉ còn 3 dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay: một trăm con chiên lạc mất một con, mười đồng đánh mất một đồng và hai đứa con trai, người ta vẫn tìm thấy cái cốt lõi của Tin mừng. Tại sao? Vì nó diễn tả trọng tâm của sứ điệp Tin mừng mà Chúa Giêsu loan báo. Đó là tình yêu thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa vượt lên trên mọi gian nan khốn khổ và mọi tính toán của con người.
Dụ ngôn thứ nhất: ông chủ bỏ chín mươi chín con đi tìm một con. Nghe qua ta nói ngay ông chủ này điên rồi vì nếu bỏ 99 con đi tìm một con lạc, khi tìm được con lạc được về thì chắc chắn 99 con kia đi lạc hay bị thú dữ ăn thịt. Ông không điên đâu! Vì theo tục lệ người Do thái, dân du mục, khi đi chăn là chăn theo bày đàn nên nhiều chủ. Cho nên, ông chủ kia đi tìm thì gửi 99 kia cho chủ khác coi dùm. Nhưng, Chúa dùng dụ ngôn này nói đến tình yêu thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta đến nỗi dám hy sinh gian khổ, liều mạng để tìm cho được con chiên lạc, con chiên hư hỏng về đàn chiên. Tình yêu thương xót vượt trên gian nan khốn khổ. Cho nên, bài đọc 1, sách Xuất Hành kể dân Ít-ra-en được Chúa thương cứu mạng sống, đáng lý ra phải vâng nghe theo Chúa dạy, đàng này phản bội, nỗi loạn, phạm tội thờ bò vàng thay vì thờ Chúa. Nhưng, qua Môsê, Chúa không những thương không giáng phạt mà còn ban cho con đàng cháu đống và đất như lời Chúa hứa.
Dụ ngôn thứ hai, các bạn thân mến,
Ai đời, bà kia mất một đồng nhưng tìm được rồi phải “rửa”, mở tiệc mừng tốn hết mười đồng. Chúa nói mừng vì tìm được, tốn mấy cũng chẳng sao miễn sao tìm được? Tình yêu thương xót vượt trên mọi tính toán! Cho nên, trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói rằng Chúa Kitô đã đến thế gian đi tìm những kể tội lỗi, tìm mãi tìm đến nỗi phải chết và sống lại tìm cứu lấy những kẻ tội lỗi trong đó có Phaolô trở về đường ngay nẻo chính. Nên Thánh Phaolô xác tín rằng Chúa đã đặt tôi làm gương, nên ai tin vào Chúa Kitô thì được cứu, được sống muôn đời.
Tình yêu thương xót Chúa dành cho chúng ta là thế. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám tin và sống cho tình yêu thương xót ấy không? Chắc chắn chúng ta sẽ trả lời không ngay! Vì chúng ta là con người chứ đâu phải thánh đâu mà yêu người vô vị lợi như thế. Nhưng, nói đi thì phải nói lại rằng các Thánh cũng là con người nhưng biết sám hối trở về, phó thác đời mình cho Chúa, sống theo Lời Chúa. Cụ thể, thánh Phêrô, Thánh Phaolô. Cho nên, nếu chúng ta không dám tin và trao phó cuộc đời mình cho tình yêu thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa, chúng ta sẽ rơi vào một trong hai trạng thái của hai người con trong dụ ngôn thứ ba.
+ Hoặc như người con út.
Người con út cảm thấy Thiên Chúa như bức tường cản trở, bó buộc tự do của mình và vì thế mình tìm mọi cách để dành lại quyền tự do để sống cuộc đời theo sở thích của mình cho nó đả. Cho nên, hắn nói xin cha chia gia tài khi cha còn sống đồng nghĩa rằng xin cha chết quách đi cho rồi, để con tự do bay nhảy, bao lâu còn ở với cha thì bị gò bó, mất tự do. Thật sự, trong cuộc sống hằng ngày có những lúc chúng ta suy nghĩ, hành động như thế? Chẳng hạn, bây giờ thời đại văn minh rồi thứ bảy, Chúa Nhật đi nhậu, giải trí, thể thao hay đi bắt “Pokemon Go” cho đả, chứ tội gì mà phải đi lễ Chúa nhật khổ quá, mất giờ... Hoặc chuyện gian dối trong làm ăn, buôn bán, học hành là chuyện thường tình, ai ai cũng làm được mà tại sao Chúa cấm tôi, mất tự do quá! Xin Chúa thông cảm nhé, đợi kiếp sau con theo Chúa, nghe Lời và sống Lời Chúa vậy. Cho nên, không lạ gì, việc giữ và sống Đạo của các bạn trẻ ngày nay rất hời hợt, tẻ nhạt và khô khan. Cụ thể, trong một báo cáo mới đây, tiến sĩ Mark Gray, một chuyên viên nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu ứng dụng về Tông đồ (viết tắt CARA) tại đại học Georgetown cho biết rằng các tín hữu Công giáo trẻ cũng cho thấy độ tuổi đặc trưng quyết định rời bỏ đức tin là vào khoảng 13 tuổi. 63% những người được hỏi nói rằng họ đã bỏ Công giáo vào khoảng từ 10-17 tuổi, và 23 % rời bỏ trước khi lên 10. Ông cho biết lý do các bạn trẻ rời bỏ đức tin Công giáo vì thánh lễ nhàm chán, ngoài xã hội có nhiều thú vui hơn.
Các bạn thân mến, đó là thằng em út, còn anh cả thì sao?
Anh không đủ can đảm để đòi quyền tự do bỏ nhà ra đi vì sợ chết sợ đói, cho nên đành ở nhà cha nhưng không sống như người con mà như một tên nô lệ vì anh ta nghĩ mình phải lo mọi việc tỷ mỉ bởi ông cha lúc nào cũng rình mò, ông thấy được thì tống xuống hoả ngục thì khốn khổ thay. Nếu chúng ta sống đạo một cách sợ hãi, không có niềm vui, không có lòng mến, như thế chẳng khác nào thờ Chúa vì bất đắc dĩ, cực chẳng đả.
Các bạn thân mến,
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa. Qủa thật, lòng thương xót Chúa lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giàu lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ, không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.
Ước gì qua lời Chúa hôm nay, xin Chúa giúp chúng con thờ phượng Chúa và thi hành Lời Chúa hết mình không tính toán, so đo hay vụ lợi chỉ vì Chúa đã thương con như vậy. Nhất là biết tín thác vào lòng Chúa xót thương dù cuộc đời có ban chìm bảy nổi chín lênh đênh, biết ăn năn sám hối, năng chịu các Bí Tích để mọi chúng ta được mọi ơn lành của Chúa. Đặc biệt biết thương xót mọi người xung quanh ta bằng một tình yêu thương xót vô điều kiện, không tính toán như Đức Giêsu, Chúa chúng ta như thế chúng ta mới thật sự là môn đệ của Chúa giàu lòng xót thương. Amen.
Báo VnExpress có bài viết: “Người cha 15 lần xuất cảnh để tìm con nơi 'động quỷ' kể rằng ông Thắng đã bỏ ra hơn 400 ngày, đi dọc 30.000km đường bộ ở Trung Quốc mới tìm thấy con gái mình. Vì sao con ông sang tới đó? Ông nói: “Năm 2007, như nhiều đứa trẻ mới lớn, Lương - cô con gái thứ ba của ông Thắng đòi bố mua cho chiếc điện thoại di động để tiện cho việc học. Từ những tin nhắn vu vơ của người lạ, cô bé 16 tuổi bị một kẻ lừa đảo rủ đi chơi rồi chuốc thuốc mê bán sang Quảng Tây (Trung Quốc). Con gái mất tích, cả nhà bấn loạn. Họ lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm của 11 tỉnh thành miền Bắc nhưng không tìm thấy con. Ông cũng báo công an nhưng sau nhiều ngày vẫn bặt vô âm tín. Ông vẫn kiên trì đi tìm, cứ đi tìm rồi lại quay về. Năm 2008, thình lình cô bé mất tích bật tin ngắn gọn rằng cô bé đang ở Sùng Tả, Quảng Tây, Trung Quốc. Ông sang Trung Quốc, trong vai khách làng chơi, hai người cùng vào hỏi bà chủ "Có gái Việt Nam không?". Sau cái gật đầu, một cô gái trẻ tiến ra. "Ối con!", ông Thắng kêu lên một tiếng rồi cắn chặt miệng ngăn dòng nước mắt chảy ra. Cô con gái cũng nấc nghẹn nhưng rồi câm bặt. "Nếu lúc đó 2 cha con mà không nén cảm xúc thì có khi tôi cũng đã bỏ mạng bên đó". Tim đập thình thịch, tay chân run lẩy bẩy, ông kịp trấn tĩnh lại, lấy lý do chê cô gái xấu rồi bỏ đi. Ra ngoài, ông nhanh chóng gọi điện cho cơ quan chức năng Trung Quốc, bồn chồn chờ đợi, chỉ sợ chủ chứa phát hiện rồi đưa cô bé đi xa. Một lúc sau công an tới, triệt phá địa điểm mại dâm này. Bố con ông Thắng cùng 10 cô gái Việt khác được đưa về nhà ở Việt Nam.
Nhà vật lý học Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ của con tim”. Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, tính toán hơn thua, thiệt hại mà hành động của con tim chỉ bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán, không sợ thiệt thân, không mệt mõi tìm kiếm hạnh phúc cho ngưới mạnh yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi, không sờn lòng nãn chí, không sợ mệt mõi tìm kiếm cho ra và cứu đuọc người mình yêu. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng ngàn đồng để chiêu đãi mọi người bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất như bà kia. Vâng, Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn, không mệt mõi tìm kiếm hạnh phúc cho mọi người. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay, không ngại hy sinh gian khổ, liều mạng để tìm cho được con chiên lạc, con chiên hư hỏng về đàn chiên duy nhất. Chính trong sự nhẫn nại, kiên trì, không tính toán của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được được con chiên lạc. Cho nên, bài đọc 1, sách Xuất Hành kể dân Ít-ra-en được Chúa thương cứu mạng sống, đáng lý ra phải vâng nghe theo Chúa dạy, đàng này phản bội, nỗi loạn, phạm tội thờ bò vàng thay vì thờ Chúa. Nhưng, qua Môsê, Chúa không những thương không giáng phạt mà còn ban cho con đàng cháu đống và đất tràn trề sữa và mật ong như lời Chúa hứa. Còn trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói rằng Chúa Kitô đã đến thế gian đi tìm những kể tội lỗi, tìm mãi tìm đến nỗi phải chết và sống lại để cứu lấy những kẻ tội lỗi trong đó có Phaolô. Nên Thánh Phaolô xác tín rằng Chúa đã đặt tôi làm gương, nên ai tin vào Chúa Kitô thì được cứu và được sống muôn đời.
Tình yêu Chúa dành cho chúng ta là thế. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có dám tin và sống cho tình yêu ấy không? Chắc chắn chúng ta sẽ trả lời không! Vì chúng ta là con người chứ đâu phải thánh đâu mà yêu người vô vị lợi, khiên nhẫn tìm kiếm hạnh phúc cho người mình yêu như Chúa được. Nhưng, nói đi thì phải nói lại rằng các Thánh cũng là con người nhưng biết sám hối trở về, phó thác đời mình cho Chúa, sống theo Lời Chúa: Đức Mẹ, Thánh Giuse, thánh Phêrô, Thánh Phaolô hay Thánh Nữ Têrêxa Calcutta… Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh lợi thú, chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa, vì sợ mọi thứ mà chúng ta không hy sinh đi tìm kiếm hạnh phúc cho người lầm được lạc lối. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại mọi người. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề còn Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương cả ngàn đời.
Tình yêu Thiên Chúa hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Thiên Chúa không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn và trở nên vị vua thánh vĩ đại.
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nỗi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì Thiên Chúa đã phán: “Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”. Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày như Lời Chúa nói: “Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy” ,
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cũng nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh chị em xung quanh chúng ta. Amen.
Tin Mừng Lc 15: 1-32 Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới ba dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng bỏ đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Quả thật trong dụ ngôn “con chiên đi lạc”, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào.
Và trong dụ ngôn “đồng tiền bị mất”, Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do Thái thường tối tăm, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác.
Rồi trong dụ ngôn “người con hoang đàng”, Chúa Giêsu cho chúng ta tình yêu cao vời của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta có tự do, Ngài cũng muốn đối xử với chúng ta như một con người có tự do. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua hình ảnh một người cha không muốn cứ khư khư giữ lấy đứa con, trái lại, ông đã chia gia tài cho nó, để nó được tự do xử dụng tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng cho dẫu người con có lên đường ra đi tạo lập một cuộc sống riêng thì người cha vẫn không ngừng theo dõi, chờ đợi đứa con.
Quả thế, đường về của người con chính là hành trình người cha đi tìm. Nếu người cha đã không mở đường cho con về, thì ngày về của người con sẽ chẳng bao giờ có. Nếu người cha không trông ngóng đợi chờ, thì bao giờ con mới hồi tâm, đứng dậy, lên đường. Đừng nghĩ người con đã tự mình về nhà, không đâu! vì thiếu tình cha, người con sẽ không nhận ra phương hướng của đường về.
- Không có “đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ” của người cha, người con sẽ không thấy rõ đường về.
- Không có vòng tay ấm áp của người cha, người con sẽ không dám trở về, vì nghi ngờ, sợ hãi.
- Không có sự quảng đại của trái tim người cha, người con sẽ đứng mãi ở đầu ngõ, không dám bước vào nhà, vì mặc cảm bất xứng.
- Không có sự tha thứ của người cha thì đời con vẫn mãi là đời giang hồ, phiêu bạt.
- Không có sự hy vọng của người cha, người con sẽ mãi mãi sống trong tuyệt vọng.
- Và không có tình cha yêu thương, bao phủ, người con sẽ đời đời bất hạnh.
Như vậy cả ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay đều muốn nói lên một điều quan trọng: chính Thiên Chúa luôn yêu thương chủ động đi tìm kiếm con người
Có câu chuyện về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết, người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
Quả thế, chính Thiên Chúa đi tìm kiếm con người.
Câu chuyện kể rằng, có một người đạo đức nọ, khao khát tìm gặp Thiên Chúa, ông đi khắp nơi để thụ giáo với những bậc thánh hiền, ông vùi đầu vào những pho sách dầy cộm, nhưng vẫn không gặp được Chúa.
Một ngày nọ, ông đến một dòng sông, ngồi thơ thẩn nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông bỗng thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch cứ muốn rời xa mẹ. Còn vịt mẹ thì lúc nào cũng phải canh chừng hết con này đến con khác. Phải vất vả như vậy nhưng vịt mẹ không hề tỏ vẻ giận giữ hay gắt gỏng.
Nhìn hình ảnh đó, người đạo đức mỉm cười mãn nguyện. Ông chợt khám phá ra một sự thật “bấy lâu nay tôi đã đi tìm Thiên Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Thiên Chúa lại đang đi tìm tôi”. Con vịt mẹ không ngừng đi tìm kiếm con mình, Thiên Chúa cũng không ngừng đi tìm kiếm con người như vậy. Amen.
Chúa Giêsu làm thân với những người thu thuế và tội lỗi làm ngứa mắt mấy ông Pharisêu và kinh sư. Các ông xầm xì phản đối. Họ xem những người tội lỗi là những thành phần xấu phải xa lánh, loại trừ, vì Thiên Chúa không thể chấp nhận họ.
Các ông Pharisêu là những người rất thiện chí, giữ luật Chúa rất nghiêm chỉnh và đòi buộc người khác phải như họ. Một số người trong họ kiêu căng và hãnh diện, vì họ giữ đúng luật và khinh khi những người tội lỗi.
Chúa Giêsu thì trái lại, Người thấu hiểu sự yếu đuối của con người và tìm hết cách để giúp họ hoán cải. Con tim của Chúa Giêsu tràn đầy tình thương và tế nhị. Ngài là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài yêu thương mọi người, Ngài hiểu và cảm thông với mọi người, nhất là với người tội lỗi, vì “Ngài biết tất cả những gì nơi con người”.
Ngài muốn cho các ông Pharisêu “công chính” kia biết tại sao Ngài làm như thế, Ngài cho họ một vài dụ ngôn.
Ba dụ ngôn mà Giáo hội muốn cho chúng ta suy gẫm hôm nay được gọi là dụ ngôn của lòng thương xót.
Dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền bị mất nói về những đồ vật. Con chiên là một tài sản. Người chăn chiên tiếc con chiên bị lạc mất và cố công tìm nó. Đó chỉ là một vật có một giá trị tương đối nhỏ, nhưng người ta không dễ bỏ qua. Phải tìm cho bằng được.
Đồng tiền bị mất cũng thế. Đồ vật mà còn quý như thế, thì con người càng quí hơn biết bao!
Dụ ngôn thứ ba về người con hoang đàng diễn tả rõ nét hơn thái độ của Chúa Giêsu đối với người tội lỗi. Chúa là Tình Yêu tuyệt đối, Ngài không thể không yêu, dù chúng ta có chối từ cự tuyệt, Ngài vẫn yêu. Đó là điều mà chúng ta không thể hiểu vì chúng ta chưa biết yêu hay chưa yêu thực sự.
Chúng ta ngạc nhiên tại sao người cha có thể thương con đến như thế, vì chúng ta thường hạn chế tình yêu, đặt điều kiện cho tình yêu. Thiên Chúa yêu vô điều kiện và nếu có thì chỉ một điều kiện duy nhất là trở về.
Đứa con út trong gia đình được yêu thương tràn đầy, đã tự ý xin phần gia tài để sống theo ý mình. Theo luật Môsê, khi trưởng thành con cái có quyền xin phần gia tài và cha mẹ không có quyền từ chối.
Trong dụ ngôn, gia đình chỉ có ba cha con, vì thế, đứa con út luôn được yêu thương hơn. Chắc chắn người cha, khi nghe đứa con út của mình xin phần gia tài để đi phương xa, thì không vui chút nào, đã cản ngăn con, cho nó biết những hiểm nguy có thể xảy đến cho nó khi rời bỏ gia đình, sống một mình khi còn quá trẻ, ham vui. Nhưng chàng thanh niên vẫn quyết định rời bỏ gia đình để sống tự do hơn. Như thế chứng tỏ chàng không nghĩ gì đến tình thương của cha mà chỉ muốn theo ý mình.
Cậu út ra đi với một mớ tài sản khá dồi dào. Tất nhiên, tuổi trẻ ham vui, đâu cần nghĩ đến ngày mai. Mặc sức ăn chơi phung phí. Chẳng mấy chốc, tất cả gia tài tan ra mây khói. Lúc này cậu mới biết cuộc sống không chỉ là vui chơi. Vùng cậu ở mùa màng thất thu, dân chúng đói kém, vật giá tăng vọt. Lấy gì mà ăn? Cậu phải đi chăn heo cho một người dân địa phương, không phải là Do Thái.
Đây là một sỉ nhục cho một người Do Thái, vì luật Môsê không cho phép giao du với người ngoại và nếu cần làm mướn thì chỉ làm cho người Do Thái mà thôi. Làm tôi mọi cho một người ngoại là một sỉ nhục. Hơn nữa, đối với người Do Thái, con heo là một con thú ô uế nhất trong các con vật. Chăn heo là mắc uế. Cậu đành phải chăn heo. Trong thời đói kém, chủ nhà cho cậu ăn không đủ no, cậu phải thèm thuồng muốn lấy đồ ăn của heo để ăn cho đỡ đói. Nhục nhã biết bao!
Không còn gì là sĩ diện. Từ đứa con nhà giàu, cậu trở thành một tên nô lệ bần cùng, hèn mạt. Trong vực sâu sa đọa, cậu nhìn lại bản thân. Cậu quyết tâm trở về với cha cậu.
Cuộc trở về này chỉ là một cuộc trở về có tính cách lợi dụng, vì đói chứ không vì tình yêu, chỉ vì đói chứ không vì nhìn thấy mình lỗi phạm với cha. Nhưng khi gặp lại cha, thấy thái độ của cha, cậu mới thấy xót xa và xấu hổ.
Người cha, ngày đêm nhớ đến đứa con bạc tình, trông chờ con trở về. Có lẽ ông cũng có trực giác là nó sẽ vỡ mộng và trở về.
Khi thấy con trở về, ông đã chạy đến ôm chầm lấy con, vui mừng khôn tả vì đã tìm được con. Không một lời trách móc, ông đã trả lại cho con những gì con đã đánh mất: “Mau đem nhẫn mới cho con ta, giày mới, áo mới cho con ta”.
Nhẫn mới vì nó đã biến mất rồi. Mất chiếc nhẫn là mất quyền làm con, không được bước chân vô nhà. Vì thế mà cậu đã nói: “Con không xứng đáng làm con cha nữa”.
Cậu không ngờ được phục hồi dễ dàng như thế. Lúc ấy cậu mới đo được tình thương của cha. Và cuối cùng là tiệc mừng. Người cha bảo: “Phải ăn mừng.”
Niềm vui của người cha vì đã tìm được đứa con yêu và niềm vui đó đã trở thành hạnh phúc cho đứa con hư hỏng. Tình thương đã xóa bỏ tất cả mọi chướng ngại, mọi mặc cảm.
Bữa tiệc đang tưng bừng với đàn ca thịt rượu. Người anh cả trở về, thấy cảnh nhà tưng bừng nhộn nhịp. Ngạc nhiên, cậu gọi một đầy tớ và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Tên đầy tớ hóm hỉnh cho cậu hay: “Cậu út đã về. Cậu ơi, nếu cậu thấy cậu út cậu sẽ hỡi ôi thôi: te tua!”
Thấy cậu cả trở về, người cha đoán chắc sẽ có chuyện, chạy ra đón con. Nhưng cậu cả cự tuyệt không chịu vào nhà. Cậu cho rằng cha đã bất công đối với cậu và cưng “thằng con khốn nạn của cha”. Cậu tính toán: “con đã phục vụ cha bao năm, cha không cho con một con bê nhỏ để chơi với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, cha lại tiếp đón nó tưng bừng như vậy”.
Cậu tỏ ra bất bao dung. Trước mặt cậu, thằng em kia là một con người khốn nạn, tội lỗi, không đáng tha thứ. Đó là thái độ Pharisêu, loại trừ và cố chấp, thái độ mà Chúa Giêsu đã từng lên án. Cậu cả không sống trong tình yêu, làm sao cậu có thể hiểu được tâm hồn của cha cậu? Làm sao hiểu được niềm vui của tha thứ?
Có lẽ trong chúng ta có nhiều người mang tâm trạng của người anh cả, vì thế trong các cộng đồng giáo xứ thường xảy ra những tranh chấp, ganh tị, làm cho bầu không khí giáo xứ bị nhiễm độc và mất vui.
Ai tha thứ sẽ được thứ tha. Hằng ngày chúng ta vẫn cầu xin: “Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha…”
Sống trong tình yêu, chúng ta mới cảm nghiệm được niềm vui trong sáng và êm đềm. Hãy như Cha trên trời, Ngài luôn tha thứ và yêu thương.
Trên thập giá, trong giây phút đau đớn tột cùng, Chúa Giêsu vẫn nói lời tha thứ: “Xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Vui cho Chúa biết bao khi thấy một người tội lỗi trở về! Chúng ta hãy làm trọn niềm vui của Chúa khi chính chúng ta trở về, lột bỏ tất cả những tính toán nhỏ nhen, những cố chấp và kiêu căng hẹp hòi để biết yêu thương thực sự.
Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học yêu thương bằng lời dạy thiết thực, Ngài con cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Ngài nơi Bí tích Thánh Thể mà chúng ta chia sẻ mỗi ngày. Ăn lấy Tấm Bánh Tình Yêu, chúng ta dám yêu thương thực sự, dám “tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả” để tạo nên một làn sóng yêu thương quanh ta, để tình yêu của Chúa Giêsu càng lan rộng trong cuộc sống hôm nay, trong xã hội đầy phản trắc chúng ta đang sống.
Chủ đề của ba bài đọc hôm nay là Thiên Chúa thương xót những người tội lỗi. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ngay sau khi dân Do thái ký Giao ước với Thiên Chúa đã quay ra phản bội, họ đã bỏ Chúa mà đi tìm một thần tượng khác làm hộ mạng, tức là thờ lạy con bê vàng. Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ định tiêu diệt dân này để lậïp một dân lớn hơn, trung thành hơn, nhưng nhờ lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha tội cho dân. Thực ra, sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi đến cho chúng ta qua bài đọc 1 này là Thiên Chúa rộng lòng thương xót sẵn lòng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể trong Đức Giêsu Kitô. Sự kiện Đức Giêsu đã đón tiếp và cùng ăn với những người tội lỗi làm cho những người biệt phái phẫn nộ. Họ là những người “biệt phái” tránh né mọi tiếp xúc với những người tội lỗi. Họ cho rằng những kẻ tội lỗi là những đồ bỏ đi. Phản ứng lại những lời chỉ trích của nhóm họ, Đức Giêsu đã chỉ ra cho họ một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung, Ngài sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của con người, bằng cách đưa ra ba dụ ngôn: con chiên đi lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa quan tâm đến một người hư mất và niềm vui của Ngài khi tìm lại được một người hư mất.
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với người tội lỗi. Họ không phải là những hạng người bỏ đi như người biệt phái vẫn nghĩ thế; trái lại, họ là một con người, một con người cao qúi trước mặt Chúa không thể để hư mất. Nếu họ hư đi thì phải nỗ lực đi tìm kiếm như người chăn chiên bỏ 99 con mà đi tìm con chiên lạc, đem về cùng chung vui vì một người tội lỗi đã trở lại.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 32,7-11.13-14.
Ngay sau khi Thiên Chúa ký Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước. Vì ông Maisen ở lâu trên núi, nên dân đâm ra sợ hãi và tự tạo cho mình một thần tượng để hộ mạng. Đó là dân đã đúc con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Sự bất tín này làm Thiên Chúa nổi giận và muốn tiêu diệt dân, đồng thời Ngài lại hứa với Maisen như xưa đã hứa với Abraham là sẽ làm cho ông nên tổ phụ của một dân tộc lớn. Nhưng ông Maisen đã khẩn khoản xin Chúa tha tội cho dân, và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt Israel nữa.
Mặc dầu Thiên Chúa hứa tạo cho ông một dân tộc mới, ông đã không lìa bỏ dân tộc mình, vẫn liên đới gắn bó với dân như trước. Chính ông van xin Thiên Chúa tha thứ và được Ngài nhận lời vì Thiên Chúa kiên nhẫn và trung tín.
+ Bài đọc 2: 1Tm 1,12-17.
Trước khi nói cùng ông Timôthê yêu dấu, thánh Phaolô muốn nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với loài người. Nếu không có điều ấy, ơn gọi của chính ngài khó mà giải thích được: Thiên Chúa tha thứ. Ngài tạ ơn Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Chúa.
Trước kia, ngài là người bắt đạo và ngạo ngược nhưng đã được Chúa xót thương. Sự trở lại của ngài là một thí dụ điển hình về ơn tha thứ Thiên Chúa dành cho mọi người.
+ Bài Tin mừng: Lc 15,1-32.
Thấy Đức Giêsu hay gần gũi với những người tội lỗi, nhóm biệt phái và luật sĩ tỏ ra rất khó chịu, lẩm bẩm với Ngài. Nhân dịp này Đức Giêsu đưa ra ba dụ ngôn nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân: con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Tất cả đều nói lên Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Để ý nhận xét, đồng tiền là một vật nhỏ nhất mà cũng mất công tìm tòi kỹ lưỡng, điều này nói lên sự quan tâm rất mực của Thiên Chúa đối với tội nhân. Dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về càng làm nổi bật lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa, Ngài là người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái bạc bẽo. Chi tiết này càng làm cho người tội lỗi vững tâm trở về cùng Chúa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tấm lòng nhân hậu của người Cha.
I. THIÊN CHÚA KÊU GỌI NGƯỜI TỘI LỖI
1. Hoàn cảnh đưa đến dụ ngôn.
Đối với Đức Giêsu, người ta có hai thái độ trái ngược nhau: đối với những người biệt phái và luật sĩ, họ cho mình là người công chính nên khinh thường và tẩy chay Ngài. Còn những người tội lỗi thì lại đến gần Ngài, nghe Ngài giảng và sửa đổi con người của mình. Người Do thái rất khó chịu khi thấy Đức Giêsu giao du với những người tội lỗi và lại còn đồng bàn với họ nữa. Người ta khó chịu với Đức Giêsu vì họ thấy Ngài cư xử ngược với quan niệm của họ.
Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ lưật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “Dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người “Dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái dạy rằng: Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặït nó coi kẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”.
Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp.
Trước thái độ kỳ thị ra mặt của các đạo sĩ Do thái đối với người bị coi là tội lỗi, Đức Giêsu mới kể cho họ ba dụ ngôn để nói về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, Ngài muốn tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất.
2. Ba dụ ngôn của Đức Giêsu.
a) Dụ ngôn con chiên đi lạc.
Trước tiên ta cần lưu ý là hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên là chủ đề cổ điển trong Cựu ước nói lên tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài (St 48,15: Lc 12.32). Dụ ngôn này cũng có trong Tin mừng Matthêu, nhưng trong lúc Matthêu áp dụng vào trách nhiệm những vị lãnh đạo Giáo hội, còn Luca nói lên việc Thiên Chúa tìm kiếm người tội lỗi.
Trong dụ ngôn này, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào. Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng: bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con đây cho giá trị như 99 con. Ý nghĩa này nói lên tầm mức quan trọng và tự do sự trở về của tội nhân: Quan trọng đến nỗi bất cứù giá nào, người tội lỗi đó cũng phải được trở về, điều đó chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Còn một chi tiết làm cho chúng ta cảm động: ”vác con chiên trên đôi vai”, vì khi con chiên đi lang thang nhiều giờ hay nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó lên thôi. Và một con chiên nặng đấy! Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi đầy sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc! Nhưng, Đức Giêsu nói hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa giới thiệu với chúng ta như thế! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Thánh Kinh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “người chăn chiên” (Is 40,11-49, 10 …(Quesson).
b) Dụ ngôn đồng tiền bị mất.
Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được.
Một đồng bạc ở đây có giá trị tương đương với một ngày làm công (Mt 20,2). Ở đây muốn nói lên sự mất mát dù chỉ có một đồng cũng là điều quan trọng khiến cho chủ cũng phải tốn công tìm kiếm. Điều này cũng muốn ám chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa không muốn để ai bị hư đi, nhưng muốn cứu vớt mọi người.
Ngoài lý do vì nhu cầu cần tìm đồng tiền bị mất, lại còn có một lý do khác thơ mộng hơn. Tại Palestina, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng 10 đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợ dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ 10 đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm như thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.
Vì thế, chúng ta dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc bị mất. Đức Giêsu cho biết: cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ vui mừng khi một người ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay cái đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi lại tìm lại được.
c) Dụ ngôn đứa con hoang đàng.
Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn trong dụ ngôân đứa con hoang đàng. Ông chủ chỉ có hai người con trai, tưởng rằng được sống bình yên trong tuổi già với hai con. Nhưng người con thứ tính phóng khoáng, thích tụ tập, muốn xin cha chia gia tài cho anh.
Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hưởng 2/3, đứa con thứ được 1/3 gia tài (x. Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói với cha nó: ”Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng lãnh được sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nhà này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi.
Tuy nhiên, việc xin chia gia tài này có hợp lý không, thì không rõ, chỉ biết rằng sau này chính người con thứ đã hối hận vì hành động trên.
Đi xa nhà một thời gian, nó đã nhanh chóng xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa của người Do thái… Trong cảnh khốn cùng, nó hồi tâm suy nghĩ lại và quyết định ra đi về với cha nó mà chỉ xin được coi như kột đứa đầy tớ thôi, chứ không dám nhận là con nữa. Nó trở về, cha nó chạy ra ôm chằm lấy mà hôn. Cha nó không để nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước. Ông đã phục hồi địa vị làm con cho nó bằng những cử chỉ đầy ý nghĩa:
. Xỏ giầy vào chân cậu: . Xỏ giầy vào chân chứng tỏ ông đã tha thứ hoàn toàn cho cậu. Vào thời Kinh Thánh thuở xưa, mang giầy là dấu chỉ của một người tự do, còn đám nô lệ thì đi chân trần. Xỏ giầy vào đôi chân trần của cậu con tức là xóa đi dấu hiệu thằng con ấy từng là nô lệ của một người nào đó, và đồng thời trả lại cho cậu ta dấu chỉ cậu là đứa con trai trong gia đình.
. Trao nhẫn cho cậu. Gắn nhẫn vào ngón tay cậu chứng tỏ ông bố phục hồi trọn vẹn cho cậu tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi. Đeo nó vào đồng nghĩa với được quyền hành xử như một thành viên trong gia đình.
Và như thế, khi choàng tay ôm, xỏ giầy, đeo nhẫn cho đứa con trai, người bố đã cho thấy ông hoàn toàn nồng nhiệt tiếp đón cậu ta, tha thứ hoàn toàn và phục hồi cho cậu ta trọn vẹn tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi.
Truyện: Vải trắng trên cây táo.
Richard Pindell có viết một chuyện ngắn nhan đề “Đứa con trai của một người nào đó” (somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khó quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau: ”Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta.
Vài ngày sau, David lên xe lửa đi về. Trong lúc tầu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ chớp lòe liên tục hiện ra trong trí cậu ta. Khi thì trên cây có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng có một miếng vải trắng nào. Xe lửa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra nơi khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói: ”Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cây. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng không nhé”.
Khi chiếc xe lửa rầm rầm lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng cậu hỏi người đàn ông: ”Thưa ông, có một miếng vải trắng treo ở một cây nào đó không”? Ông ta sửng sốt trả lời: ”Ồ, này cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có cột một miếng vải trắng cả” (Mark Link).
II. THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ.
1. Tấm lòng của người Cha.
Người cha trong dụ ngôn phải là một ông chủ giầu sang, đầy quyền lực và oai nghi đúng với đặc điểm của một phú ông miền Đông phương. Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Có thể nói chính ông đã phá tan dáng vẻ oai nghi đường bệ của một phú ông Đông phương để hồ hởi chạy ra với người con tựa như trẻ thơ mong mẹ về.
Nỗi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được.
Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó. Chúng ta biết rằng đối với người Do thái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểàu trưng của tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác nhập mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác nhập quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó – điều mà người con thứ không bao giờ nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao?
Truyện: Thiền sư Sengai.
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh: ”Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻ bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
2. Tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha. Cha nào mà chẳng thương yêu con bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc chúng đối xử với mình tệ bạc đến đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ bằng hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là sự tha thứ vô điều kiện và sẵn sàng chấp nhận sự đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua hai cách ấy nơi con người Đức Kitô: ”Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”.
Trở lại dụ ngôn đứa con hoang đàng, ta hỏi động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với “thân tàn ma dại”, cha nó biết nó về với động lực gì. Nhưng đối với ông, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó. Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Chúa trong sự hối hậân về đời sống quá khứ của mình.
Truyện: Tình mẹ tha thứ.
Ở Batna, có một gia đình nằm vào địa điểm hẻo lánh, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xiềng xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vách tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ.
Trên ba năm trời tồi túng, nóng nực, lạnh lẽo. Không mền, không chiếu, bữa đói bữa no, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi.
Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều vỗ tay ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp.
Ôi, tình mẹ bao la!
3. Có sự nghịch lý trong ba dụ ngôn chăng?
Bài Tin mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có tính thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở nên hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa? Những người biệt phái và luật sĩ thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu qúi giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được săn sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên mà chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Đức Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ đợi kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người biệt phái và luật sĩ, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cái đối xứ này đã hoán cải được một người biệt phái nổi tiếng là thánh Phaolô (Trích Carôlô, Sợi chỉ đỏ A, tr 710-711).
III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI CƯ XỬ NHƯ VẬY.
1. Phải thay đổi cách cư xử.
Giáo hội là Mẹ của chúng ta đã từng có cách cư xử như Đức Giêsu, tạo điều kiện để lôi kéo những con chiên lạc đàn trở về với Chúa. Chẳng hạn , Augustinô, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin mừng. Thế mà khi trở về với Giáo hội, Giáo hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức Giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảnng đại ấy của Giáo hội, Augustinô đã trở nên một vị thánh.
Chúng ta cũng phải bắt chước Giáo hội mà phải thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, biết cầu nguyện cho anh em.
2. Ý thức mình cũng là tội nhân được tha thứ.
Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con bê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng họ chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tiếng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu tít đầy lôi cuốn của xác thịt.
Vậy chúng ta có phải là con chiên đích thực không hay chỉ là hữu danh vô thực? Chắc chắên không ai trong chúng ta dám xưng mình là người công chính như luật sĩ và biệt phái, chúng ta vẫn xưng mình là kẻ có tội, và nếu đã biết mình có tội thì phải có lối cư xử với người khác bằng tình thương yêu.
Nếu Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lỗi lầm.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ. Đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: ”Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người trở nên mù lòa”.
Trang Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì "Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ".
Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày: "Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy"
Thật thế. đây là hình ảnh của một tình yêu không biên giới và vô điều kiện của Thiên Chúa. Ngài là Cha và chúng ta là con. Làm con thì có quyền hưởng gia tài của cha. Thiên Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta nhưng đồng thời mỗi người chúng ta lại phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trước mặt Ngài. Vì tôn trọng quyền tự do của con, người cha đã chia gia tài cho cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của người cha luôn đi theo cậu không ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ngày ngày ông những nóng cùng trông. Cho tới một ngày kia, ông nhìn thấy bóng dáng cậu từ xa thất thểu lê lết từng bước chân. Thế là ông vội chạy về phía cậu, quên đi tuổi già sức yếu của mình, ông lại gạt bỏ khỏi lòng mình mọi đau buồn về lầm lỗi thất hiếu của cậu. Ông ráng chạy, chạy thật nhanh mà ôm lấy người con yêu dấu, đã chết mà nay lại sống. Rồi ông mở tiệc linh đình để ăn mừng.
Thiên Chúa luôn trông chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Chỉ cần chúng ta biết nhớ lại tình thương vô bờ bến của Cha, nhận ra sự dại dột của mình mà ăn năn sám hối. Chúa luôn tha thứ và muốn chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, như một trong những ơn cao đẹp nhất của tình yêu Ngài ban cho con người.
Trở lại với câu chuyện trong vườn địa đàng, ta thấy Thiên Chúa đã đích thân đi tìm con người lẩn trốn và Ngài đã lên tiếng kêu gọi: "Ngươi ở đâu?". Đây là tiếng gọi đầu tiên trong muôn vàn tiếng gọi. Về sau Thiên Chúa thôi thúc con người, kêu gọi trong oán trách như một người tình bị phụ bạc, kêu gọi trong đau buồn như người mẹ xót thương con. Những lời kêu gọi đó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần qua miệng các ngôn sứ.
Và qua ví dụ rõ ràng, nơi ngôn Ô-zê Chúa phán như sau: "Khi Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương chúng, và từ nước Ai-cập Ta đã gọi con Ta về. Nhưng khi kẻ khác gọi chúng, chúng liền bỏ Ta. Chúng đã đốt lễ vật dâng kính các thần tượng. Dù thế, chính Ta đã tập cho chúng bước đi, Ta đã bồng bế chúng trên cánh tay Ta, nhưng chúng nào biết rằng mình được chăm sóc. Chúng đã từ chối không trở lại cùng Ta. Vì thế, lưỡi gươm sẽ vung lên trong thành của chúng và tiêu diệt đồn luỹ của chúng".
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất". Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa mướn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Đối với Chúa, mỗi người chúng ta đều đáng kể, không thể có gì khác thay thế được. Mỗi con người là như một con chiên trong đàn, phải được chăm sóc như nhau, không được để thất lạc. Chín mươi chín con chiên yên lành không làm nguôi lòng thương đối với một con chiên lạc. Thiên Chúa cũng cuống quýt như một bà già nghèo đánh mất một đồng bạc quý phải hì hục moi móc mọi ngóc ngách trong nhà để tìm cho bằng được. Như người cha già, con mình đã hư quá thể mà trong lòng vẫn lo lắng không nguôi, vẫn không thôi chờ đợi đến mỏi mòn, cho đến lúc ôm lại đứa con vào lòng và rạo rực vui sướng không gì kìm hãm được và cả Thiên đàng cũng vui lây, vui sướng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn cả vui sướng vì chính mươi chín người lành thánh không cần sám hối ăn năn.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lạc, đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Lời Thiên Chúa kêu gọi con người tội lỗi ăn năn trở về, lời kêu gọi đó luôn được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước và đã tiếp tục vang lên một cách mạnh mẽ trong Tân ước qua những lời giảng dạy, qua cuộc đời của Đức Giêsu nhất là qua cái chết của Người trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên Chúa nhân hậu và hay thương xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không đánh dập tắt tim đèn còn khói. Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những người con yếu đuối, tội lỗi ăn năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử nhân lành như thế đó; Thiên Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta như thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi nó hối cải, hơn nữa Ngài còn vui mừng đón nhận nó khi trở về. Dụ ngôn người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc và ông bố gia đình đón nhận người con phung phá trở về, cả ba dụ ngôn đó chứng minh như vậy.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: "Nếu cứ áp dụng luật "mắt đền mắt" thì mọi người đều trở nên mù loà".
Đề tài lòng thương xót của Thiên Chúa rất phong phú, dễ đánh động con tim và tâm tình đạo đức của người tín hữu. Vì thế mà từ khi Thánh Gioan Phaolô II khởi xướng và cổ võ hình thức cầu nguyện kính Lòng Chúa thương xót, trong Giáo Hội đã có biết bao người tham gia cầu nguyện và thực tế họ đã nhận được rất nhiều ơn lành.
Tuy vậy, trong quan niệm của nhiều người, cầu nguyện tôn vinh lòng lòng thương xót Chúa đi liền với xin ơn chữa lành, cho nên người ta đến cầu nguyện chỉ với mục đích được chữa khỏi bệnh tật, nhất là những bệnh nan y. Có người đã mất đức tin và bỏ cầu nguyện vì họ xin ơn chữa lành mà không được nhận lời. Thực ra, việc tôn kính lòng thương xót của Thiên Chúa không dùng lại ở những lời kinh, mà phải giúp cho con người thương xót tha nhân, tức là thực thi lòng thương xót trong cuộc sống hằng ngày. Nhận ra lòng thương xót của Chúa, mỗi chúng ta cũng phải có trái tim nhân hậu đối với đồng loại, để lòng thương xót như một dòng chảy yêu thương, đem an vui cho mọi người.
Thánh Luca đã tổng hợp ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa ở chương 15. Mỗi dụ ngôn mang một sắc thái khác nhau, nhưng cả ba đều mang nội dung nói về tình thương bao la của Chúa. Trong ba dụ ngôn này, dưới ngòi bút của tác giả, Thiên Chúa rộng rãi bao dung đến mức “phung phí” lòng thương xót. Quả vậy, một con chiên lạc so với 99 con còn lại, một đồng bạc bị mất so với 9 đồng bạc vẫn còn thật chẳng đáng là bao, nhưng Chúa vẫn để ý tới và tìm cho bằng được. Khác với lối suy nghĩ của chúng ta. Nhiều khi chúng ta sẵn sàng bỏ đi những điều nhỏ mọn, nhưng Chúa lại quan tâm đến từng chi tiết.
Việc tìm thấy một con chiên hoặc một đồng bạc, xem ra đơn giản, mà lại là niềm vui lớn lao của người sở hữu chúng. Đó không chỉ là niềm vui của cá nhân, nhưng là niềm vui của cả một tập thể. Đó không chỉ là niềm vui dưới đất, nhưng là niềm vui trên trời. Chúa Giêsu đã nói rõ, một người trở về không chỉ là niềm vui của con người, nhưng là niềm vui của Thiên Chúa và triều thần thánh trên trời. Niềm vui ấy thật lớn lao, làm cho người mục tử quên hết mọi mệt nhọc trong việc tìm kiếm. Cả ba trường hợp, người mục tử, người phụ nữ và người cha, đều mời hàng xóm láng giềng đến để chia vui. Người cha trong dụ ngôn còn thết đãi cả làng với thịt con bê mà ông đã chăm sóc vỗ béo. Ông tin chắc có ngày cậu con trai hoang đàng sẽ trở về. Vì vậy, ông chuẩn bị sẵn nhẫn, giày, quần áo và những gì cần thiết cho một bữa tiệc. Những đồ trang sức này thường được dùng cho một tiệc cưới. Ngày cậu con trai trở về, cũng là một tiệc cưới, là niềm vui không chỉ cho người cha mà cho cả xóm làng. Niềm vui được nhân lên khi được chia sẻ với người khác.
Tuy vậy, niềm vui ấy xem ra không được trọn vẹn, vì theo thói đời, vẫn luôn có những ghen tỵ thù ghét. Đó là tâm trạng của người anh cả. Anh nổi giận vì sự trở về của người em. Có thể anh sợ người em sẽ chiếm gia tài. Lòng thù hận và tư lợi ngăn cản không cho người khác phục thiện. Con đường trở về, vừa phải gạt bỏ những mặc cảm thành kiến, vừa phải đối diện với những thù hận của chính những người thân. Lộ trình phục thiện xem ra đơn giản mà cũng lắm gian truân. Có những người vì lỡ lầm mà sa vào cảnh tù tội, sau khi mãn hạn tù, trở về quê hương muốn sống như một người bình thường cũng không được yên, vì con mắt dò xét và thành kiến của những người xung quanh. Những ngôn từ của người anh cả trong Tin Mừng cho thấy anh đã nung nấu mối hận thù. Anh không còn coi em mình là huyết nhục, mà như người dưng, thậm chí như kẻ thù. Vì thế, việc người em trở về làm cho anh thấy khó chịu.
Thiên Chúa là Cha của người tốt cũng như của người xấu. Ngài xót thương và không giáng phạt dân Do Thái phản nghịch (Bài đọc I). Vòng tay của Ngài vừa giang rộng đón người con thứ, vừa choàng lên vai của người con cả để anh cảm nhận được lòng xót thương. Ngài không muốn loại trừ ai, bất kể người đó như thế nào. Nước mắt của người cha nhỏ xuống khi người con thứ ra đi. Dòng lệ ấy cũng tuôn chảy khi người con cả bất bao dung với em mình. Trước khi trở lại, Phaolô là người hăng say tìm giết các Kitô hữu. Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu trên đường đi Damas đã biến đổi cuộc đời của ông Phaolô là chứng nhân của lòng Chúa thương xót (Bài đọc II). Ước chi mỗi chúng ta cũng hãy trở nên chứng nhân của lòng Chúa thương xót, để rồi, “nơi đâu có cộng đoàn tín hữu, là ở nơi đó có thành trì của lòng xót thương” (Đức Thánh Cha Phanxicô).
Tình yêu đẹp và nóng bỏng, mọi người đều cho rằng đó là cặp đôi: trai tài gái sắc, đại loại như, Sơn Tinh lấy được Mỵ Nương, Mỵ Châu lấy được Trọng Thuỷ. Tính bền vững và hạnh phúc không phai mờ trong tình yêu, nhiều người vẫn quan niệm là tuỳ vào sự thuỷ chung giữa đôi bên. Tình yêu đẹp và giá trị là tình yêu chân thật, là tình yêu không tính toán hơn thiệt, mà chỉ muốn tốt cho người mình yêu, đặc tính cao đẹp ấy, người ngoài cuộc lại cho rằng đó là sự mù quáng của tình yêu. Tiền nhân của chúng ta thật dồi dào kinh nghiệm khi nói về tình yêu: trăng khuyết rồi trăng lại tròn ; đá có mòn, nhưng tình không mòn đâu. Dù tình đôi lứa, hay tình máu mủ ruột thịt, đều để lại một cảm xúc thiêng liêng vô cùng to lớn, sống động trong tâm tư mỗi người.
Thời nào cũng thế, lời dễ nghe nhất bao giờ cũng là những lời ngọt ngào yêu thương, nghĩa cử đánh động lòng người hơn cả vẫn là những việc làm âm thầm, không phô trương. Năm xưa, có đủ mọi thành phần: người tốt lành, kẻ tội lỗi, cùng các luật sĩ, biệt phái, họ tìm gặp Đức Giêsu để được nghe, được xem tận mắt, bậc hiền tài mà thiên hạ gọi là Ngôn sứ, là Con Thiên Chúa. Rất có thể người nghèo đi tìm của ăn, người bệnh tìm thầy thuốc, kẻ thất nghiệp lang thang kiếm việc làm, và chắc chắn người giầu, người đạo đức, đi tìm bình an, tìm tình yêu. Suy nghĩ đơn giản nhất về đám đông hôm đó, không biết có phải do “thiếu tình”, chưa đủ hạnh phúc, hoặc vì tài đức của Thầy Giêsu quả là song toàn trước mọi đối tượng lúc bấy giờ ?
Nếu như ở ngoài xã hội người ta nói tình chỉ đẹp khi còn dang dở, nghe hơi “uỷ mị”, và có nguy cơ nhầm lẫn không còn biết thế nào là tình chuẩn mực ! Trong khi Đức Giêsu lại khẳng định với toàn thể nhân loại: tình đẹp là tình đơn sơ chân thành đến mức dại khờ, không phải vì không biết tính toán, nhưng vì yêu, người mục tử dám bỏ 99 con chiên trên núi đi tìm con chiên lạc. Cũng không phải bà già “lẩm cẩm” hay nhàn dỗi quá, đến độ hao tốn nhiều công sức tìm kiếm cho đến khi thấy được đồng bạc bị mất, khi mà Đức Giêsu muốn diễn tả tính thuỷ chung giữa vạn vật mà Thiên Chúa tạo thành. Tiếp đến, Đức Giêsu dẫn mọi người đi sâu vào gia đình nhân loại, đưa mọi phần tử xã hội xích lại gần hơn với “tình cha” yêu thương con trưởng, con thứ, dù chúng bất xứng hư hỏng.
Tình đẹp nhất nơi người mục tử tìm chiên lạc, là gặp được chiên, thuyết phục được chiên bướng bỉnh, và đưa chúng về đoàn tụ trong đồng cỏ Nước trời. Tình đẹp nhất nơi người phụ nữ tìm đồng bạc bị rơi rớt, là sự cao quý mà bà ta hiểu tiền nhỏ hay tiền to vẫn là tiền, đừng nghĩ đến giá trị lớn bé. Tình đẹp nhất, đáng ghi tâm nhất, đó là người cha già đã thức tỉnh được hai đứa con, và hạnh phúc đến độ: “hãy vui mừng vì con ta đây đã mất nay tìm thấy, đã chết nay sống lại”. Tình đẹp nhất nơi hai bạn trẻ đang yêu, không gì khác hơn là mơ ước được ở bên nhau, giữ mãi được mùi hương yêu thương. Tình đẹp nhất mà Đức Giêsu muốn nói với: người thu thuế, các luật sĩ, biệt phái, và đám đông chúng ta, chính là mau mau nhận biết Thiên Chúa giầu lòng thương xót, qua đó hãy sám hối tội lỗi bất xứng của mình để được thứ tha, yêu thương.
Truyện kể rằng: có một vị thí chủ tìm gặp lão Phật gia, ông hỏi: thưa lão Phật gia trước khi đắc đạo ngài làm gì ? Oh, bần đạo đốn củi, gánh nước, nấu cơm. Vậy sau khi đắc đạo, ngài làm gì ? Cũng đốn củi, gánh nước, nấu cơm. Vậy có gì khác nhau đâu ? Có khác đó thưa thí chủ: lúc trước đốn củi, bần đạo lo nghĩ tới việc gánh nước, rồi lúc gánh nước lại mải mê nghĩ tới việc nấu cơm ; còn bây giờ đốn củi cứ đốn củi, gánh nước thì cứ gánh nước, và nấu cơm cứ lo nấu cơm. Chính tình yêu biến đổi tâm tính của bần đạo đó. Tình yêu của con người từ xa xưa tới nay vẫn là tình yêu có chủ đích: muốn được, muốn nhiều hơn, muốn thụ hưởng một mình, cũng do sự giới hạn, mà con cái quên cả thân phụ mẫu, nét đẹp phu thê bị tàn phài. Trong khi tình yêu của Thiên Chúa là muốn cho đi, muốn ban phát rộng rãi, không phân biệt, không kỳ thị…, con người lại thiếu nhạy bén, dửng dưng, bất cần !
Tình yêu đẹp nhất là gì ? Có phải là muốn gì được đó không ? Hay là khi ta được sức khoẻ vô biên, tài trí sung mãn ? Câu trả lời cũng gần giống như khi ta muốn quên đi một mối tình giả dối, thì lý tưởng nhất phải là thời gian và người mới. Có thời gian, ta sẽ thấm nhuần, sẽ hiểu tại sao tình yêu lại cao đẹp và trân trọng hơn cả vàng bạc châu báu ? Con người có mới thật, tâm tính ổn định thật, ta sẽ đủ cảm nhận con người phát xuất từ cội nguồn yêu thương. Nếu thời gian và người mới vẫn chưa làm ta quên đi được tình cũ, con người cũ, thì phải xét lại, chắc chắn là thời gian chưa đủ dài và người mới của ta chưa thật là mới, là tốt. Tình đẹp nhất và linh thiêng nhất, chính là lúc mọi người biết sám hối ăn năn, hầu nhận ra Thiên Chúa là Cha quyền năng và đầy tràn yêu thương. Amen.
Chị Thảo, người đang nổi như cồn trên mạng xã hội khi khoe trên facebook mỗi năm chị đốt hết 20 tỉ của Bố, tức ông Nguyễn Mạnh Thắng – Bí thư Đảng ủy, chủ tịch HĐQT Sông Đà 7, đã 5 lần chị báo bố làm gỏi nhẹ nhàng 100 tỉ, ngọt như mía đường.
Tuy nhiên, ông Thắng không hề trách mắng mà chỉ nói: “Của con cả thôi. Lấy bao nhiêu thì lấy. Mở gì thì mở”. Cũng trên trang cá nhân, Thảo thường xuyên khoe cuộc sống xa hoa, tiêu tiền như nước, mới đây nhất còn sắm sửa xe Lexus đắt tiền. Mặc dù rất thích kinh doanh nhưng đa số Thảo đều thất bại. Dẫy vậy, ông Thắng vẫn không tiếc tiền đầu tư cho con chỉ vì “mong con gái trưởng thành hơn”.
Đúng đây là người con hoang. Nó chỉ biết xài và phung phí của cha nó. Nó biết cha nó thương nên càng tiêu xài phung phí. Nó cũng biết đây là đồng tiền tham nhũng rồi cũng “của thiên trả địa”, nên tha hồ hoang phí. Điều đáng buồn là người cha đã tham ô lại còn nuông chiều làm con hư. Nó đi lạc đường mà không dắt nó quay về. Đây là người mù dẫn mù thì cả hai sẽ có ngày xuống hố.
Lời Chúa hôm nay với ví dụ con chiên và đồng tiền đánh mất cũngtựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại con người chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài của lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương ngàn đời.
Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị vật chất. Ngài không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: “Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được”. Chúa đã không chấp tội Đavít mà “lòng nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời”.
Tiếc thay, loài người lại cứ lợi dụng lòng thương xót Chúa để bỏ ngoài tai lời giáo huấn của Chúa. Họ biết Chúa nhân từ nên vẫn nhân danh Chúa để tìm tư lợi cho bản thân. Họ coi Chúa như ngân hàng để bòn rút ân lộc của Chúa. Có lẽ Chúa cũng buồn vì thế gian luôn có các tiên tri của Chúa nhắc nhở họ sám hối, thế nhưng, đồng tiền làm họ lu mờ lý trí để rồi vẫn cố tình đi sai đường lối Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra lòng Chúa xót thương để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh em.Xin đừng u mê bỏ ngoài tai lời giáo huấn của Hội Thánh là những sứ giả đích thực Chúa gởi đến dậy dỗ chúng ta.Amen
Không phải con người đã đi tìm kiếm Thiên Chúa trước mà chính Thiên Chúa đã cất bước đầu tiên tìm kiếm con người. Thi sĩ Khalil Gibran viết: “Khi yêu, bạn đừng nói Thiên Chúa ở trong trái tim tôi, nhưng đúng hơn phải nói: Tôi ở trong trái tim Thiên Chúa”. Điều này diễn tả đúng câu trả lời tại sao Chúa lại đi tìm con chiên lạc.
Con người đi hoang.
Có thể đi ngược lại câu truyên ban đầu trong sách Sáng Thế khi Thiên Chúa tạo dựng nên con người. Tuy con người được tạo dựng trong mọi điều đều tốt đẹp, nhưng Thiên Chúa vẫn để cho có một tự do chọn lựa, hoặc vâng theo hoặc bất tuân phục. Tự do như thế vừa là một giới hạn, vừa đặt ra một ước mơ vô hạn. Con người muốn mở rộng ra vô biên, nhưng lại thiếu thốn thẳm sâu trong cõi lòng, dễ bị ma quỷ đánh lừa và dụ dỗ vào bất tuân Thiên Chúa.
Con người đi hoang bắt đầu từ chỗ đi tìm chính mình là ai đó ở giữa thế giới này. Câu hỏi về ý nghĩa luôn khoét sâu vào từng ngày sống. Một câu rất xưa trong Phạn ngữ đã từ tâm con người thốt ra: “Hỡi Người tự biểu lộ chính Mình. Xin Người hãy biểu lộ trong con” (Thực nghiệm tâm linh, R. Tagore). Như xưa Môi sê được tuyển chọn để dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập, điều Môi sê xin cho được biết Danh Người là ai? (Xem Xh 3, 13 – 14). Khát khao tìm vế chân lý và những bước chân đi thường lạc lối.
Giữa chân lý và sai lầm, giữa ánh sáng và bóng tối. Ở lại như 99 con chiên hay như một con chiên đi lạc, con chiên nào quan trọng hơn? Đối với Chúa, con chiên lạc quan trong hơn vì: “Con Người đến để đi tìm những gì hư mất” (Lc 19, 10). Sự kiện con chiên lạc, là con chiên đau khổ, khắc khoải, tìm những gì vượt xa hơn mình, hoặc vì những dục vọng đen tối làm lạc lối hơn cả, cho đến khi nhận ra mình như người con quá hoang đàng. Người con trong dụ ngôn “người cha nhân hậu”, từ sâu thẳm kêu lên: “Cha hỡi, trong lạc lối, tội lỗi, con đã xúc phạm đến cha!, con đã đứng về phe hữu hạn chống lại cha là Đấng vô hạn!”. Gục ngã trong sâu thẳm của tâm hồn của một con người cần được cứu vớt.
Nỗi nhọc nhằn của tình yêu cũng là niềm vui.
Tình yêu là khỏi chính mình để đi tìm người mình yêu. Như Gabriel Marcel viết: “yêu ai là muốn người ấy sống luôn mãi”. Thánh Gioan định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16). Thiên Chúa chấp nhận đau khổ và mầu nhiệm đau khổ của Người là biểu lộ tình yêu vô hạn. Thiên Chúa đi tìm kiếm bởi vì người con đã mất, đi gặp gỡ vì người con lẩn trốn, chết thay vì người con đã chết.
Tìm kiếm con người để Thiên Chúa nói chuyện tâm tình như Hô sê diễn tả: “Này Ta sẽ quyến rũ dân Ta, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình. Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân” (Hs 2, 16 – 17b). Đối thoại trong tình yêu để thổ lộ tâm tư, Thiên Chúa mở lòng mình ra trước để con người gặp gỡ lòng khoan dung, gặp gỡ trong lời sám hối muộn màng: “Cha ơi, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha!” (Lc 15, 21)
Niềm vui của tình yêu khi vác chiên trở về như là ngày đón người mình yêu thương bệnh nặng trở về từ cõi chết, mạnh khoẻ. Niềm vui của người con trở về để thưa với cha: Xin cha hãy quét sạch trong con những mê lầm, lạc lối. Xin hãy cho con tràn đầy sự thiện, như là mặc áo mới cho con, như là thết đãi con bằng bữa tiệc lành thánh của cha.
Niềm vui chính là tình yêu, gặp gỡ được tình yêu như thể: “Hồn tôi hân hoan vui sướng hát khen Danh Ngài” (Magnificat). Đó là ngày trở về để sống lại ân tình của người con.
Tin Mừng hôm nay kể về một dụ ngôn mang tên: “Người Cha nhân hậu”. Câu chuyện kết thúc bằng lời khẳng định pha lẫn tiếng reo vui của người cha: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15, 32). Người cha có lý do để vui mừng bởi vì ông đã được thỏa lòng khi gặp lại đứa con mà mình hết lòng thương yêu. Người con có thể từng lìa bỏ cha, từ chối quyền làm con của mình nhưng người cha không bao giờ từ chối quyền làm cha, từ chối yêu thương con. Từ ngày đứa con rời đi, cũng từ ngày đó trái tim ông thổn thức và luôn hướng về con. Đó là hình ảnh thật đẹp để diễn tả lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa dành cho con người.
Khi thấy Thầy Giêsu ăn uống với người thu thuế và người tội lỗi, những người Pharisêu lấy làm chướng mắt và không thể hiểu được. Thầy Giêsu đã kể cho họ nghe về ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng tiền bị mất và dụ ngôn người cha nhân hậu. Người mục tử sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Vì đối với ông, mỗi một con chiên đều có một vị trí rất đặc biệt, đều được ông yêu quý. Người đàn bà kia có mười đồng bạc nhưng lại đánh mất một đồng. Bà cất công tìm cho kỳ được đồng bạc ấy. Một con chiên so với chín mươi chín con thì chẳng là bao, hay một đồng bạc so với chín đồng còn lại thì nó chỉ là một phần mười, nhưng giá trị của cái rất nhỏ ấy lại không thể thay thế. Cũng thế, trong một gia đình, người ta không thể bỏ quên bất cứ một thành viên nào nhưng phải dành sự quan tâm và yêu thương cho từng người. Học cách quan tâm người khác sẽ bắt đầu bằng việc ta nâng niu, trân quý những hành động nhỏ bé mà ta làm cho người khác trong từng ngày. Nên thánh là khi ta có một trái tim biết yêu thương như Chúa vậy.
Ta không cần phải làm một việc thật phi thường thì mới có thể nên thánh, nhưng ta có thể làm từng việc nhỏ bé hằng ngày cho người khác bằng tình yêu chân thành. Việc nhỏ thường dễ làm nhưng cũng cần có một ý chí mạnh mẽ để kiên trì thực hiện. Có lúc vì thực hiện những việc nho nhỏ ấy mà ta phải để lại “chín mươi chín con chiên” khác ngoài đồng, phải vượt qua bao gian khó để thực hiện. Khi tìm một đồng bị mất thì cũng phải rất vất vả và mất thời gian. Khi ta làm một việc bác ái nho nhỏ nào đấy, ta cũng sẽ dễ cảm thấy mất thời gian quá. Thế nhưng, điều quan trọng là ta phải biết mình làm tất cả những việc nhỏ bé ấy vì điều gì. Nếu để diễn tả lòng yêu mến Chúa thì những việc nhỏ bé ấy khi đem cộng lại sẽ không nhỏ đâu. Khi trái tim hoàn toàn hướng về Chúa, ta sẽ có đủ sức mạnh để thực hiện từng hành động nhỏ.
Bức tranh thứ ba toát lên một vẻ đẹp tuyệt vời được phác họa bằng những gam màu sáng tối. Đó là ánh sáng từ hình ảnh người cha dang rộng đôi tay ôm lấy người con, đặt lên trán nó nụ hôn tha thứ; đối lập với ánh sáng ấy, ở nơi góc tối, người con cả đang giận dữ. Hãy nhìn xem bóng dáng cha hiền đang thấp thỏm lo âu. Ông thường ra ngõ ngóng con, người con đã bỏ ông mà đi, đã mang tất cả của cải, tình thương và nỗi nhớ mong của người cha về một miền đất lạ. Ở đó, anh đã phung phí tài sản của mình. Ở đó, anh mới nhận ra cha hết mực yêu thương anh. Anh đã trở về khi chỉ còn hai bàn tay trắng, anh trở về khi cuộc đời đã kéo anh rời xa vòng tay của cha để đẩy anh xuống cạnh cái máng heo. Bên máng heo, cơn đói cồn cào khiến anh nhớ đến gia đình. Kỷ niệm về cha cho anh thêm hy vọng. Anh nhận ra cha chính là niềm hy vọng cuối cùng có thể cưu mang anh như một người làm công. Nhưng vượt lên trên tất cả những gì anh mong đợi, những gì anh có thể mơ ước hay nghĩ tới, anh được cha ông trọn trong vòng tay yêu thương. Trước khi anh thấy bóng cha thì cha đã thấy anh. Trước khi anh chạy đến bên cha thì trái tim cha đã chạnh lòng, đôi chân cha đã chạy những bước khập khiễng để đến bên anh. Chắc hẳn, sau bao nhớ nhung mỏi mòn, thân xác cha cũng yếu hơn vì mất ăn mất ngủ. Lòng người cha hiểu rằng ở một phương trời nào đó, đứa con của mình đang đau khổ.
Cha đã tìm lại được đứa con của mình nhưng có một nỗi buồn khác làm cho ông phải khổ tâm: người con cả không chịu vào nhà vì ông đã mở tiệc đón mừng một đứa chẳng ra gì Anh cảm thấy bất công khi cha anh lại dành cho người em tất cả những gì là tốt đẹp. Anh không thấy vui mừng khi em trở về, càng không vui khi cha mở tiệc đón em. Người cha đã ra năn nỉ anh, mời gọi anh chia sẻ niềm vui hiện tại, mời gọi anh mở lòng đón nhận người em “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Lạy Chúa! Chúa mời gọi con hãy mở rộng trái tim để yêu thương như Chúa đã yêu. Tình yêu đòi hỏi con phải dám chết đi cho chính mình, hy sinh thực hiện những việc bác ái dù nhỏ mọn vì lòng yêu mến Chúa. Chúa vẫn mời gọi con nhận ra niềm vui của Chúa khi một người trở lại, đón nhận niềm vui ấy như của chính mình – niềm vui mà chính Chúa đang muốn chia sẻ với con. Amen.
Những người Pharisêu và các kinh sư xầm xì với nhau về việc Chúa Giêsu đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Đối với những người Pharisêu và các kinh sư, những người thu thuế và người tội lỗi là tầng lớp bị xa lánh, khinh chê và bỏ đi. Thế nhưng, Chúa Giêsu -một người được dân chúng tôn trọng- lại đón tiếp những người như vậy. Trước thái độ của họ, Chúa Giêsu đã kể cho họ hai dụ ngôn nói về người chủ đi tìm cái đã mất và một dụ ngôn nói về niềm vui của người cha khi người con trở về. Sau khi đã tìm thấy, người chủ và người cha hết sức vui mừng mời bạn bè hàng xóm lại cùng chung vui (x. Lc15,1-32). Phần chúng ta, chúng ta có hân hoan mời gọi mọi người đến chung vui khi tìm thấy những gì đã mất không? Khi thấy người anh em lầm lạc trở về, chúng ta có vui mừng chào đón hay chúng ta mang tâm trạng của người con cả là tức giận, trách móc với cha cùng khinh chê người em mình?
Thật sự, chúng ta khó đón nhận một người tội lỗi trở về. Chúng ta dễ có sự phân biệt hay kỳ thị về họ qua cách nhìn, lời nói hay hành động. Từ những thái độ ấy, tạo cho họ cảm giác bị xa lánh, và bị bỏ rơi, không được đón nhận. Họ dễ trở lại con đường lẫm lỡ mà họ biết hậu quả là thế nào. Còn trên trời, các triều thần Thiên Chúa, ai nấy vui mừng khi một người tội lỗi ăn năn sám hối và được tha, cùng mở tiệc ăn mừng và khôi phục lại địa vị làm con (x.Lc 15, 7.10). Đó là tình thương tuyệt vời và lạ lùng của Thiên Chúa. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy vui mừng vì người anh em được tha, được trở về. Vì tất cả mọi người là con Thiên Chúa là anh em của nhau trong gia đình đức tin. Mỗi người chúng ta điều có lỗi lầm, không ai hoàn hảo. Chúng ta được hoàn hảo khi hiệp nhất yêu thương và đón nhận nhau trong tình yêu của Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu là tình yêu (x. 1Ga 4,16).
Hỡi tội nhân! Đừng vì ánh mắt hay một lời nói, cử chỉ của người khác mà nản lòng, nhưng hãy vượt lên chính mình và tin tưởng vào Đấng mà mình đã tin. Vì Ngài vẫn, đã và đang khôi phục vị trí là con Thiên Chúa cho ai trở về như người cha trong dụ ngôn. Đừng ngần ngại và chần chừ nữa, chúng ta hãy đón nhận nhau để giúp nhau sống hạnh phúc, hạnh phúc trên Nước Trời. Vì tất cả lề luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5,14). Amen.
Cùng ngồi ăn uống đồng bàn, Với người tội lỗi, dối gian ở đời. Nhóm người biệt phái được mời, Muộn phiền lẩm bẩm, đôi lời trách than. Dụ ngôn Chúa dậy đừng van, Một con chiên lạc, miên man trong rừng. Chủ chiên tìm được vui mừng, Trên vai vác nó, tưng bừng hát ca. Quét nhà tìm bạc văng ra, Tới khi tìm thấy, cả nhà chung vui. Một người tội lỗi chôn vùi, Tìm đường hối cải, ngậm ngùi ăn năn. Thứ tha xóa hết tội căn, Thiên thần đón tiếp, ghi danh Nước Trời. Đứa con phung phá một thời, Ăn chơi xa xỉ, một đời bê tha. Cô đơn đói khát nhớ nhà, Trở về sám hối, thứ tha tội đời. Cha già rộng lượng cao vời, Yêu thương con cái, rạng ngời tình cha.
Sự hối cải trở về luôn là mẫu gương đẹp. Trở về mang niềm vui đến cho nhiều người. Trở lại là dứt bỏ con đường cũ và bỏ lại sau lưng quá khứ lỗi lầm. Câu truyện người con phung phá trở về là câu truyện rất dễ thương. Hình ảnh người cha nhân hiền chạy ra ôm con làm ai cũng cảm động. Cha sẵn sàng tha thứ lỗi lầm, không phải bảy lần mà tha tất cả. Lời lẽ sám hối của người con: Lạy cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa. Như thế là đủ, con không cần nói thêm, cha đã hiểu và đã thứ tha cho con.
Người cha đối xử cách rất nhân từ và yêu thương đối với người em trở về. Trong khi người anh lớn lại hơi khó chịu vì sự so sánh và ghen tương. Anh cả ở nhà chu toàn bổn phận và không hề trái lệnh cha. Anh giống như những người Biệt phái giữ trọn lề luật, nhưng thiếu sự yêu thương tha thứ. Lề luật và bổn phận làm anh ra khô cằn, tính toán, rồi sinh ra khó chịu và ghen tức với em mình.
Mỗi người chúng ta chia xẻ tâm sự với người anh cả. Chúng ta vẫn tự hào, chúng ta chu toàn mọi bổn phận người con Chúa như thường tham dự thánh lễ Chúa Nhật, lãnh nhận các Bí tích hằng năm, giữ các giới răn và giữ đạo cả đời. Chúng ta đã thực hành tất cả các giới luật, nhưng lại thiếu đi cốt cõi là sự yêu thương tha thứ. Đôi khi chúng ta so đo và ghen tị với những ân huệ của người khác. Người cha yêu thương cả hai anh em, mặc dầu thái độ không đẹp của con cả. Người cha đã ra năn nỉ người con cả và xin anh vào nhà. Cha sợ con bị mất lòng.
Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi, chứ không phải người công chính. Chúng ta là những người tội lỗi. Chúng ta cần trở về với tình yêu của Chúa. Truyện kể: Một bà mẹ có đứa con trai đi theo bạn bè xấu và bỏ bê việc thờ lễ. Bà mẹ lo lắng nhiều cho con. Bà tìm mọi cách để cảm hóa cậu nhưng vô hiệu. Vào một Chúa Nhật, thay vì dục con đi lễ, bà nhờ con chuyển gói quà cho một gia đình ở phố bên cạnh. Bà hứa sẽ không rầy rà con nữa. Để khỏi phải nghe mẹ giảng dạy, cậu nhận lời mẹ. Cậu đến nhà theo địa chỉ và bước vào nhà, cậu bỡ ngỡ nhìn một bà già đau ốm còn da bọc xương, cùng với ba cháu nhỏ rách rưới đang khóc lóc vì đói. Cậu vội đưa quà và bước ra. Bà cụ thều thào nói: Cậu ơi, cậu chưa thể đi ngay được. Cậu là ơn Chúa quan phòng và là tình thương của Chúa gởi đến gia đình tôi. Xin Chúa trả ơn cho cậu. Người thanh niên bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, không ai nhắc, cậu đã trở lại với gói quà giúp đỡ do chính tiền của mình. Sau đó, anh đã thay đổi cuộc đời. Lòng nhân hậu của hai bà mẹ đã cảm hóa anh.
Lạy Chúa, Chúa luôn giang rộng cánh tay đón chờ chúng con trở về. Về với lòng nhân hậu của Chúa, chúng con sẽ tìm thấy nguồn an vui đích thực.
Ðọc bài Tin Mừng hôm nay, tôi thấy man mác một màu tím buồn với người con thứ.
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi nó sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên. Trong phong tục dân Do thái thì gia tài chỉ được chia sau khi cha chết; vì thế mới có chuyện một người đến xin Chúa Giêsu bảo người anh chia phần gia tài (x. Lc 12,13). Đòi lấy phần gia tài lúc cha còn sống tức là anh ta coi như cha đã chết. Thật buồn cho đứa con ngỗ nghịch! Trẩy đi miền xa, người thanh niên có một nỗi khát khao là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là ở quê nhà.
Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc, không phải để làm ăn xây dựng tương lai, nhưng để “sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Khi trở về nó chẳng còn gì cả: tiền bạc, sức khoẻ, phẩm giá, lòng tự trọng, sự hối hận! mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí. Nó đã mất hết, may mà còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Ở đời, người ta thường vinh quy bái tổ khi công thành danh toại, còn người con thứ khi trở về thì thân tàn ma dại, hai bàn tay trắng.
Ðộng lực nào đã khiến nó trở về ? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy, tôi sẽ về cùng Cha tôi“. Như vậy động lực nó trở về là đói, cái đói cào cấu trong dạ dày làm cho nó hồi tâm. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn.Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công. Ðó là một cuộc trở về trọn vẹn hay sao? Ðó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót mà thôi.
Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin,không đủ liều mạng để đi trộm cướp, không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, dù sao cũng sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa“.
Giuđa đã phản bội Chúa Giêsu. Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con thảo. Giuđa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn.Còn Phêrô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống.
Ðọc câu chuyện, tôi thấy động lực của sự trở về nơi người con thứ là cái đói hành hạ. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu chân thành. Những khi ngồi Toà Giải Tội, tôi gặp những hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ những hối nhận đó tôi càng thấm thía hơn dụ ngôn “Ðứa Con Hoang Ðàng”.
Chúa Giêsu Ðã Trở Nên “Người Con Hoang Ðàng” Vì Chúng Ta
Anh Piere Marie người sáng lập Huynh Ðoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về Chúa Giêsu như người con hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị. Xin trích dẫn tác phẩm “Người Cha Nhân Hậu” của Henri J. M. Nouwen, trong đó có một đoạn anh Pierre Marie đã viết:
“Ðức Giêsu được sinh ra không bởi dòng dõi, ước muốn hay ý chí của con người, nhưng bởi chính Thiên Chúa. Một ngày kia, Ngài đã để mọi sự dưới chân Người và ra đi với gia sản của Ngài, là tước hiệu làm Con Thiên Chúa của Ngài?
Với giá chuộc tất cả, Ngài đã ra đi tới miền xa… miền đất rất xa… nơi mà Ngài đã trở thành như con người và đã làm trống rỗng chính mình. Chính dân của Ngài cũng không nhận biết Ngài và cái giường đầu tiên của Ngài là một nệm rơm. Giống như một cây đâm rễ nơi đất khô cằn, Ngài trưởng thành trước chúng ta, đã bị khinh bỉ là hạng thấp nhất trong con người. Chẳng bao lâu Ngài đã nếm sự lưu đày, sự chống đối, sự cô độc… sau khi đã cho đi mọi thứ trong đời sống cách rộng rãi, của cải, bình an, ánh sáng, sự thật, chính đời sống của Ngài… mọi kho tàng hiểu biết, khôn ngoan và mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn đời.
Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Ítraen, Ngài đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi, ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài; sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Samaria, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài bị đóng đinh: “Ta khát”. Ngài đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, chỗi dậy từ chiều sâu ngục tối nơi Ngài đã xuống, Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng ta. Ðứng thẳng, Ngài kêu lên: “Phải, Ta lên Trời với Cha Ta cũng là Cha của con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con”. Và Ngài đã trở lại Thiên Ðàng…
Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả con cái trong Người Con từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người Cha nói với các tôi tớ: “Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy… Người Con Hoang Ðàng của Ta đã mang tất cả mọi ngươì trở về…”
Và tất cả bọn họ bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên…”.
Hình ảnh người Cha nhân hậu là khuôn mặt của một Thiên Chúa, khiêm nhường, yêu thương, giầu lòng thương xót. Đọc Tin mừng của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra gương mặt của một Thiên Chúa nhân từ, khiêm tốn, một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối nhưng lại luôn tôn trọng sự tự do của con người.
Nếu suy nghĩ về khía cạnh nhân loại, chúng ta không thể nào hiểu thấu : “ Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại tỏ lòng nhân từ và tôn trọng tự do tuyệt đối của con người ?”. Người Do Thái xưa cứ tưởng rằng mình là dân được tuyển chọn, ơn cứu độ Thiên Chúa chỉ dành riêng cho họ…Họ đã lầm lớn, họ là dân được chọn nhưng họ lại từ chối ơn Chúa ban.Do đó, ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho mọi người miễn là con người biết mở rộng lòng để đón nhận ơn cứu độ Chúa tặng ban. Thiên Chúa quyền năng vô cùng lớn lao vì Người là Thiên Chúa, nhưng Người vẫn chờ đợi mỗi người tự do đáp trả lại lời mời gọi đón nhận hay không đón nhận ơn cứu độ Chúa ban.
Hình ảnh của người Cha trong Tin Mừng đã chấp nhận chia gia tài cho người con thứ, mặc dầu người Cha biết rằng đứa con thứ sẽ phung phí và đi vào chỗ trụy lạc. Tuy nhiên lòng thương của người Cha dạt dào bao la rộng lớn đã làm cho người con hoang đàng nhận ra tình thương và sự tha thứ của người Cha.
Hình ảnh của người Cha trong đoạn Tin Mừng hôm nay là gương mặt yêu thương nhân từ, giầu lòng thương xót của Thiên Chúa khiêm tốn, nhân hậu. Loài người, con người chúng ta dù có tội lỗi yếu hèn, dù có phản nghịch, vô ơn bội nghĩa, Thiên Chúa vẫn chờ đợi.Thiên Chúa yêu thương hết lòng, yêu thương tha thiết, nên Ngài sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho con người…Tình yêu của Ngài là tình yêu cứu độ. Sự tha thứ của Người trở nên dẫn chúng ta đến tình yêu dâng hiến trọn vẹn.
Thiên Chúa yêu thương tha thứ là Thiên Chúa đi ra để đón đứa con thứ trở về.Thiên Chúa cứu độ là Thiên Chúa đi ra để năn nỉ người con cả đi vô nhà để vui mừng với đứa em đi hoang trở về và nhân từ nói với người anh cả :” Tất cả những gì của Cha là của Con “. Thiên Chúa cứu độ, giầu lòng thương xót là một Thiên Chúa không sợ mất đi sự oai phong, lẫm liệt của một Thiên Chúa uy quyền để ra đón nhận người con đi hoang và người con cả đang ích kỷ, xeo nại vì người Cha đã quá yêu thương, nuông chiều người con.
Vâng, là Kitô hữu, chúng ta thuộc về Chúa. Chúng ta đừng sợ quay trở lại với Chúa mỗi khi chúng ta xa Chúa, mỗi khi chúng ta phản nghịch bội phản, vô ơn với Chúa. Bởi vì Thiên Chúa giầu lòng tha thứ, hết mực khoan nhân chờ đợi con người quay trở về với Ngài…Chúng ta hãy tuyệt đối tin tưởng vào Lòng Nhân Từ Thương Xót của Ngài.
Dụ ngôn hôm nay là hình ảnh sống động, một bức tranh tuyệt đẹp mà Thiên Chúa để lại cho con người. Hình ảnh này là hình ảnh của Một Thiên Chúa khiêm nhượng, nhân từ, luôn yêu thương thứ tha cho con người, đặc biệt cho các tội nhân biết ăn năn sám hối, quay trở về với Thiên Chúa.
Cho nên, là môn đệ của Chúa, chúng ta phải noi gương bắt chước lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Chúng ta cũng không được phép thất vọng về sự yếu hèn của ta và của những người chung quanh mà luôn tin tưởng vào lòng nhân từ yêu thương tha thứ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết hoán cải để tin vào Chúa nhân từ và sửa đổi để nên giống Thiên Chúa nhân từ. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Hình ảnh người Cha nhân từ trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 15,1-32 là hình ảnh của ai ? 2.Người con thứ thế nào ? 3.Người con cả thế nào ? 4.Thái độ của chúng ta phải ra sao trước Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa ?
Tin mừng hôm nay là một trong những trang Tin mừng đẹp nhất. Đẹp vì tác giả Tin mừng trình bày cho chúng ta thấy được tấm lòng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Đẹp vì ba dụ ngôn nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa đi tìm con người, để tha thứ và chữa lành.
Đức Giêsu là hiện thân khuôn mặt vô hình của Thiên Chúa Cha Đấng giàu lòng thương xót, Ngài chủ động đến trần gian để đi tìm con người như lời Ngài nói: “Ta đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10).
Ngài đi tìm một Giakêu thấp bé, để hoán cải ông và gia đình ông được ơn cứu độ.
Ngài đi tìm một Lêvi đang khi ông ngồi nơi bàn thu thuế, để đưa ông trở về viết sách Tin mừng.
Ngài đi tìm một Mađalêna tội lỗi, để rồi biến đổi bà sau này trở thành chứng nhân Tin mừng phục sinh.
Ngài đi tìm một Phaolô trên đường lầm lạc bắt đạo, biến đổi ông trở thành tông đồ dân ngoại.
Chúa là người mục tử nhân lành đi tìm con chiên lạc.
Là người phụ nữ quét nhà tìm đồng bạc đánh rơi.
Là người cha nhân hậu ngày ngày ra đầu ngõ trông tìm đứa con hư hỏng trở về. Và cuộc đi tìm không mấy dễ dàng.
Để đi tìm con chiên lạc, người chăn chiên phải vượt núi băng rừng, bất kể ngày đêm, thời tiết nắng mưa, bất chấp nguy hiểm tìm cho bằng được.
Để tìm lại đồng bạc bị mất, người phụ nữ phải thắp đèn soi mọi ngỏ ngách trong nhà tìm cho bằng được.
Để mong người con hoang đàng trở về, người cha nhân hậu phải vượt lễ giáo gia phong, chấp nhận tính ghen bì của người con cả.
Cũng vậy, để đi tìm con người, Đức Giêsu phải từ bỏ trời cao đi xuống đất thấp; phải từ bỏ địa vị Thiên Chúa để đến với con người. Phải từ bỏ mạng sống để cho con người được sống.
Quả thật, Thiên Chúa không ngồi chờ chúng ta trở về để rồi mới tha thứ, nhưng Ngài tha thứ trước khi chúng ta xin lỗi Ngài. Ngài đi tìm trước khi chúng ta trở về với Ngài.
Mỗi người chúng ta cho dù bé nhỏ tầm thường đến đâu đi nữa, đều là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta là hình ảnh của Chúa; là giá máu cứu chuộc của Chúa; là chi thể của Chúa và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Một con chiên lạc có đáng gì đâu so với 99 con chiên còn lại.
Mất một đồng tiền có đáng kể gì so với 9 đồng.
Người con bỏ nhà đi hoang, phung phí hết tiền của, làm sao sánh được đứa con luôn ở nhà với Cha.
Tình thương Chúa cao hơn ngàn tội lỗi, như lời Chúa nói qua miệng ngôn sứ Ezêkiel: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn sám hối và được sống” (Ez 18, 23).
Tình thương Thiên Chúa không dừng lại nơi đây, nhưng còn vượt xa hơn nữa. Là sau tìm kiếm để tha thứ, để chữa lành thì Ngài còn vui mừng biết bao.
Hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc. Hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc đã mất. Hãy mở tiệc ăn mừng, vì em con đã chết nay sống lại; đã mất nay lại tìm thấy. Cũng vậy, cả triều thần thánh vui mừng, vì một người tội lỗi hối cải hơn là 99 người công chính không cần hối cải.
Thực là mầu nhiệm tình thương ngàn đời ai hiểu thấu. Thiên Chúa không biết mệt mỏi tha thứ cho con người, trừ khi con người ngại ngùng không muốn đến kín múc lòng thương xót của Thiên Chúa mà thôi.
Anh chị em thân mến,
Cánh cửa tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn rộng mở không bao giờ đóng. Vậy tất cả chúng ta hãy mau mắn trở về với Chúa. Trở về để được yêu thương; trở về để được tha thứ. Trở về để được chữa lành.
Không tội lỗi nào mà Ngài không tha thứ; không vết thương nào mà Ngài không chữa lành. Không nỗi buồn nào mà Ngài không an ủi. Bởi vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Amen.
Có một nét đẹp đầy cảm động của Thiên Chúa mà con người cần học khám phá và trải nghiệm đó là lòng thương xót tha thứ. Đặc trưng của tình yêu là rất đòi hỏi, nhưng vẻ đẹp của tình yêu là lòng thương xót tha thứ. Thiên Chúa vừa rất đòi hỏi trong tình yêu, người cũng lại rất bao dung tha thứ. Khi con người tội lỗi muốn quay trở về với Thiên Chúa, người mở rộng vòng tay yêu thương bao dung chờ đón con người. Trong tương quan với Thiên Chúa, tình yêu về phía con người không hoàn toàn trơn tru bằng phẳng, vì con người yếu hèn, hay thay đổi, nên đã phản bội, bất xứng trong tình yêu. Tội là khuôn mặt của tính kiêu căng của con người với sự mẫu thuẫn trong chọn lựa làm con người thay vì chọn Thiên Chúa lại chọn lựa thụ tạo. Lịch sử của dân Israel đã cho thấy nhiều lần họ phản bội Thiên Chúa. Trong bài đọc sách Xuất hành đã cho thấy Thiên Chúa nổi giận vì Israel phản bội khi họ thờ bò vàng.
Dân tộc Israel khi sống giữa các dân tộc khác trong vùng Canaan đã dễ dàng bị ảnh hưởng bởi tôn giáo của các dân tộc chung quanh. Lúc bấy giờ các dân tộc chung quanh Israel thực hành hình thức tôn giáo phồn thực với những lễ hội ăn uống và giao hoan cách công khai. Hình thức lễ hội này tôn thờ tình dục vì họ cho rằng đó là một chúc lành của trời đất dành cho con người để sinh sôi nảy nở và tồn tại, đồng thời cũng là vì họ chưa có một quan niệm rõ nét về sự thánh thiện của Thiên Chúa. Israel đã thờ con bò vàng và đi theo những hình thức tôn giáo này. Thiên Chúa đã nổi giận đối với dân người và có ý định tiêu diệt dân Israel, nhưng Môisen đã đứng ra can thiệp cho dân với lời cầu nguyện tha thiết và sau cùng được Chúa nhậm lời. Điều đáng ghi nhận là lời cầu nguyện của Môisen làm Thiên Chúa nguôi giận và không còn nghiêm khắc muốn tiêu diệt Israel nữa, và Thiên Chúa lại yêu thương chăm sóc cho dân. Thánh vịnh 50 là lời cầu nguyện chân thành của người tội lỗi, cho chúng ta trải nghiệm tâm tình của người tội lỗi được tràn ngập niềm vui hạnh phúc được tha thứ và trở về với Thiên Chúa : “Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa và chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con”.
Bài Tin mừng theo thánh Luca chương 15 cho chúng ta thấy tình yêu thương tha thứ lạ lùng của Thiên Chúa. Những người biệt phái là những người rất chú tâm thực hành lề luật, nhưng lại có một quan niệm rất là khe khắt với người tội lỗi. Họ cho rằng cần phải xa tránh người tội lỗi để bảo vệ sự thánh thiện của mình, bởi vì tiếp xúc với người tội lỗi sẽ bị lây nhiễm sự ô uế của họ. Khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc gần gũi với những người thu thuế họ phê bình người. Chúa Giêsu liền kể cho họ hai dụ ngôn người chăn chiên và người đàn bà lạc mất đồng bạc. Người chăn chiên có một trăm con chiên, lạc mất một con, đã bỏ lại 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm gặp, ông vui mừng vác chiên trên vai trở về nhà và mời bạn bè chia vui với mình. Người đàn bà nghèo có 10 đồng bạc, lỡ mất một đồng, đã thắp đèn tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm gặp lại đồng bạc, bà vui mừng và mời láng giềng chia vui với mình. Đây quả thực là những tình cảm rất chân thật của con người. Đối với người chăn chiên hay đối với người đàn bà, con chiên và đồng bạc rất là thân thiết với họ và họ đã bỏ công sức để tìm kiếm lại để bảo vệ nguyên vẹn đoàn chiên cũng như đồng bạc. Đối với Thiên Chúa, con người thuộc về Thiên Chúa, thực là thân thiết và quí giá đối với Thiên Chúa là Đấng hằng sống và chân thật, luôn có những tình cảm yêu thương chân thành và trung tín ngàn trùng.
Chúa Giêsu còn mở rộng chủ đề này bằng câu chuyện dụ ngôn về người Cha có hai người con. Nói cho đúng, tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người là tình phụ tử thâm sâu và không có điều gì có thể cản trở tình yêu tha thiết chờ đợi của tình phụ tử này. Người con thứ là hình ảnh của con người tội lỗi thiếu kinh nghiệm, dại dột phiêu lưu theo những đam mê cám dỗ ngọt ngào của trần thế. Anh nghĩ thế gian có nhiều tình bạn đẹp và khi dấn thân vào trần gian, anh sẽ tràn ngập hạnh phúc với biết bao nhiêu bạn bè tốt thay vì tù túng ở trong nhà cha. Nhưng sau những trải nghiệm vội vã thụ hưởng với bạn bè, anh đã lâm cảnh túng thiếu và bị bỏ rơi đến mức đi chăn heo với bao nhục nhã đói rách. Với nhiều suy nghĩ đắn đo, anh đã hồi tâm và cương quyết trở về nhà cha để xin lỗi cha già. Người con trưởng là một hình ảnh thứ hai nói lên những khía cạnh tương phản của tương quan con người với Thiên Chúa. Nếu như người con thứ là hình ảnh con người tội lỗi, ngông cuồng dại dột, thì người con trưởng lại là hình ảnh của người đạo đức mẫu mực. Anh luôn ở trong nhà cha, cần mẫn làm việc và không hề trái lệnh cha điều gì. Nhưng điều thiếu sót của anh là anh rất khác với cha. Anh không chia sẻ niềm vui của cha khi đón nhận người em thứ trở về. Anh trở nên khó chịu với cha vì lòng thương xót tha thứ của cha đối với người em phung phá trở về để rồi trở nên nóng nảy, tức giận và phê phán cha vội vàng. Cha anh phải giải thích cặn kẽ cho anh lý do cần phải vui mừng đón tiếp người em thứ trở về: “chúng ta phải ăn tiệc mừng vì em con đã chết nay đã sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
Chúa Giêsu đã vận dụng nhiều dụ ngôn để giải thích cho những người biệt phái hiểu được lòng thương xót tha thứ kỳ diệu của Thiên Chúa. Tội lỗi thực là nặng nề và xấu xa, nhưng lòng thương xót tha thứ chữa lành của Thiên Chúa còn lớn hơn gấp bội. Người chăn chiên dám bỏ 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc, người đàn bà cẩn thận thắp đèn quét nhà để tìm đồng bạc mất, người cha già kiên nhẫn chờ đợi con trở về. Biết bao nhiêu hình ảnh thực là gần gủi để nói lên điều kỳ diệu của tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Có một động lực nội tâm kỳ diệu mà chúng ta không lý giải bằng những suy nghĩ hẹp hòi được. Động lực nội tâm này là tình yêu dạt dào vô bờ bến của Thiên Chúa đối với con người được diễn tả quả lời giải thích ngắn gọn của Cha: “chúng ta phải ăn tiệc mừng vì em con đã chết nay đã sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
Quả thực, người cha có lý để chờ đợi và hy vọng vì sau những tháng ngày nông nổi yếu đuối, người con đã trở về hạnh phúc trong nhà cha, anh trở nên cương nghị và trách nhiệm hơn, anh đã trở nên hiểu biết nhiều hơn. Anh đã tìm được sự sống. Hoá ra, người anh lớn mới là kẻ lạc loài, xa lạ với tình yêu thương xót của Cha vì anh còn để mình đóng kín trong những suy nghĩ hẹp hòi nóng nảy giận hờn, anh chưa thực sự trải nghiệm được niềm vui của sự sống của Thiên Chúa. Nghịch lý của tình yêu là như thế, vừa rất đòi hỏi nhưng cũng rất chân thành cho dù phải trải nghiệm những sóng gió vùi dập. Thánh Phaolô là người đã cảm nghiệm thực sự điều này trong đời mình và đã chia sẻ trong bức thư gửi cho Timôthêô: “Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất”. Cảm nghiệm này làm cho thánh nhân trở nên con người rất hiểu biết và trách nhiệm, chia sẻ niềm vui được tha thứ này cho mọi người để mọi người đón nhận được sự sống của Thiên Chúa nơi người con một là Đức Giêsu Kitô.
Khi nói đến “Con chiên lạc”, có thể bạn, tôi, chúng ta nghĩ ngay đến một số thành phần không mấy tốt đẹp, không mấy đàng hoàng trong Hội Thánh. Có người nghĩ ngay đến những người rối vợ, rối chồng công khai, hoặc nghĩ đến ả giang hồ ở cuối xóm, tên du thử du thực lang thang chè chén tối ngày ở đầu phố. Người khác lại nghĩ đến cụ già đôi ba vợ kia đã đến lúc sắp hết hơi rồi mà chưa chịu xưng tội rước lễ, hoặc nghĩ đến bao người nay ăn nên làm ra rồi, khá giả rồi, ở nhà thoải mái, bỗng trở nên cao ngạo, ươn lười, nguội lạnh với Nhà Thờ Nhà Thánh…
Nghĩ như thế là do bởi lòng kiêu ngạo xúi giục tự nhận mình là thánh thiện hơn bao nhiêu người khác và gắn cho mình con mắt, cõi lòng đầy thành kiến xấu xa về tha nhân.
Nghĩ như thế, thì thiết tưởng chính mình là… con chiên lạc trước tiên. Lạc mà không biết mình lạc. Còn lầm lạc hơn nữa, khi tỏ ra bất bình với một số người nhiệt thành trong Hội Thánh Chúa, mặc lấy tấm lòng nhân hậu của Chúa, luôn nghiêng về phía những người đau khổ, tội lỗi, thấp kém.
Nghĩ như thế thì có khác gì người Pharisêu đã từng suy nghĩ và lẩm bẩm về việc Chúa Giêsu làm trong Tin Mừng hôm nay: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”.
Cả hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng bạc bị đánh mất” được Chúa nói cho cả hai đối tượng: người Pharisêu và người thu thuế, kẻ tội lỗi.
Đối với người Pharisêu, hai dụ ngôn ấy là một lời cảnh tỉnh trực diện để họ phải nhận ra rằng chính họ mới là “con chiên lạc”, là “đồng bạc bị đánh mất”. Lạc vì họ đang sống kiêu căng, sống thiếu tình khoan dung, yêu thương; lạc vì họ không muốn hiểu đường lối của Chúa, vì không muốn mặc lấy tình thương của Chúa trong con tim mình… Bài học dành cho người Pharisêu là đừng lầm tưởng mình đạo đức, nếu không mặc lấy đức khiêm cung và lòng nhân hậu mà đối xử với tha nhân. Họ cần có cái nhìn mới mẻ hơn đối với người tội lỗi, cái nhìn của Thiên Chúa, cái nhìn của lòng thương xót xoáy vào sâu thẳm hơn, để cảm thông hơn vì bao nỗi bất hạnh, không phải cái nhìn nông cạn bề ngoài để rồi sinh ra ganh tỵ, xét đoán…
Còn đối với người tội lỗi, cả hai dụ ngôn là Lời rất vui mừng cho họ, vì:
– Lời mặc khải cho họ biết một Thiên Chúa vô cùng khiêm cung, và yêu thương. Lòng thương xót, khoan dung, nhân hậu của Ngài luôn luôn lớn hơn tội lỗi, thân phận của họ.
– Lời xóa tan nỗi ám ảnh bị khinh bỉ, phân biệt, có khi còn bị trừng phạt dã man cho đến chết vì luật xua đuổi khỏi cộng đồng, luật ném đá…
– Lời khơi dậy cho họ một niềm hy vọng, mở ra cho họ một con đường sống và nhất là tái lập cho họ một tương quan quí giá đối với Thiên Chúa, tái lập cho họ một nhân vị xứng đáng là con cái Thiên Chúa.
– Và cũng qua hai dụ ngôn, cả người Pharisêu và người tội lỗi có thể nhận ra một điều kỳ diệu là Thiên Chúa luôn đi bước trước đối với những tội nhân.
Đề cập đến bước trước, tôi nhớ câu chuyện về Đức Tin đơn sơ của cụ Biên ở phía sau nhà tôi. Cụ luôn là người khôi hài vui vẻ. Đến lúc gần chết cũng còn vui vẻ. Năm 1979, trong cơn hấp hối, khi nghe một anh Legio giữ kẻ liệt cầm sách mục lục đọc kinh cho cụ, đọc sai chỗ nào, cụ đập nhẹ bàn tay, bảo: “Đọc lại, đọc lại, đọc sai làm sao Chúa hiểu”. Đêm cuối cùng, cụ chỉ cho mọi người biết là cụ đang chết từ dưới chân lên đến giữa lưng rồi. Rồi cụ nói: “Còn nói được mấy câu nữa thôi, cho tôi nói với Chúa. Chúa đã lỡ bước xuống đời rồi, thì còn ngại ngần gì mà không bước tới đây đưa con về với Chúa. Chúa ơi, con tin”. Rạng sáng hôm ấy, cụ đã về với Chúa.
“Chúa đã lỡ bước xuống, thì còn ngại ngần gì mà không bước tới”. Câu nói đơn sơ mà cho thấy cả một xác tín. Hôm nay, nghe lại dụ ngôn “Con chiên lạc”, mới ngộ ra là không chỉ Chúa chẳng ngần ngại gì mà không bước tới, mà còn dám bước trước, và bước kiên trì nữa: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ?”
Vâng đó là một bước trước, và kiên trì: “Đi tìm cho kỳ được” Quả là kỳ diệu ! Nếu trước đây chưa ai dám tiếp xúc với những người thu thuế tội lỗi, vì sợ nhơ bẩn con người, thanh danh của mình, thì Chúa Giêsu đã bước một bước trước đến với họ.
Hai dụ ngôn hôm nay còn vén màn một chi tiết độc đáo của tình thương Thiên Chúa, đó chính Người đích thân đi tìm con chiên lạc, gọi đích danh, tha thứ vô điều kiện, âu yếm ẵm trong vòng tay, vui mừng vác chiên lên vai, mở tiệc tưng bừng. Thiên Chúa mời mọi người đến chia vui vì “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Người ta mở tiệc ăn mừng những dịp cưới hỏi, tân gia, sinh nhật, thi đỗ, thoát nạn… Trong đời tôi, lại được tham dự một bữa tiệc lạ thường. Chuyện là thế này: Giáo Xứ tôi có một người tên là T. được rửa tội năm 1972 tại Thủ Đức khi anh lập gia đình với chị N. Anh kể với các anh chị Legio, anh đã giữ đạo sốt sắng hơn 7 năm. Đến năm 1979, anh sa đà đủ món ăn chơi trên trần gian này. Chị N. bỏ anh đi. Anh càng lún sâu vào con đường tội lỗi. Bỏ lễ, bỏ các Bí Tích. Năm 1996, anh em Legio thăm và khuyên bảo anh xưng tội, anh nói: “Nhiều quá, làm sao xưng cho hết ! Chúa không thể tha một lúc nhiều như vậy đâu !” Sau hơn 3 năm, cha sở và các anh chị Legio kiên trì cầu nguyện cho anh, năm 1999, anh quyết định đi xưng tội. Cha sở FX. Lê Quang Diễn đã yêu thương lắng nghe anh nói chuyện tòa ngoài với ngài hết một buổi sáng và thêm nửa buổi chiều. Chiều hôm đó, anh xưng tội. Ngày hôm sau, anh mở tiệc mừng. Có khoảng 3 bàn tiệc. Anh nói mấy câu trước khi vào tiệc: “Con cảm ơn cha, cảm ơn mọi người, xin CHIA VUI VỚI CON, và xin CHIA VUI VỚI CHÚA”. Từ đó, anh đổi mới hoàn toàn, thật sốt sắng với Chúa và dễ thương với mọi người. Anh đã qua đời năm 2008. Linh hồn Phaolô.
Mọi người bất ngờ về câu nói của anh: “xin CHIA VUI VỚI CON, và xin CHIA VUI VỚI CHÚA”. Thiết tưởng, anh không chỉ cảm nghiệm được niềm vui của mình là được trở về, mà với Đức Tin, anh còn dám cảm nghiệm được “niềm vui của Chúa’, của Chúa Chiên, người đã bỏ chín mươi chín con chiên tốt lành kia trong ràn, mà đi tìm anh, con chiên lạc.
Cảm nghiệm được niềm vui của Chúa phải là người đang sống thông hiệp mật thiết với Chúa lắm, như hai người tình đang kết hợp toàn tâm toàn ý với nhau, và dĩ nhiên, niềm vui không của riêng chỉ một người. Suy tư ấy có thể là suy tư cách rất con người, rất chủ quan thôi. Nhưng rõ ràng, thử hỏi ai trong chúng ta, những người vỗ ngực xưng tên mình là đạo đức, đã có bao giờ có được cái cảm nghiệm “chia vui với Chúa” cách trọn vẹn, nếu không đặt trọn niềm tin vào lòng thương xót của Chúa, nếu không mặc lấy tình thương xót ấy mà xót thương bao kẻ tội lỗi, khốn cùng.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con Đức Tin vào lòng thương xót của Chúa để biết mình là con chiên lạc được Chúa tìm về, và mặc lấy tình thương ấy mà cộng tác với Chúa, chia vui với Chúa khi có người anh em tìm được hạnh phúc được Chúa thứ tha. Amen.
Kinh Thánh nhiều lần xác định: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; 2 Sb 20:21; Er 3:11; 1 Mcb 4:24; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4, 29; Tv 136:1-26). Tình thương thật kỳ diệu và lớn lao! Nếu không có tình thương thì cuộc sống vô nghĩa, sống mà như chết. Trong cuộc sống đời thường, người ta còn biết coi trọng chữ Tình, huống chi trong đời sống tâm linh, đời sống tôn giáo – các tín nhân Kitô giáo (nói chung) và các tín nhân Công giáo (nói riêng), bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16)
Đối với tình yêu đôi lứa, có vẻ nhiêu khê theo cảm nhận của NS Lê Dinh: “Chữ tình rắc rối lắm ai ơi, chữ tình khúc mắc quá đi thôi, chữ tình là số kiếp thương đau con người. Chữ tình là vô vàn nước mắt, chữ tình là đêm dài thức trắng, cuối cùng vòng tay rã rời là buồn nhiều hơn vui.” (Chữ Tình) Thật là khốn khổ! Còn NS Trần Thiện Thanh lại thấy tình yêu thế này: “Tình là tình nhiều khi không mà có, tình là tình nhiều lúc có như không…” (Tình Có Như Không) Trái tim phàm nhân “lôi thôi” lắm, thế nên tình yêu có lúc kỳ lạ, có lúc kỳ cục, hiếm khi kỳ diệu.
Có lẽ một trong những mối tình “kỳ ảo” nhất là T.T.KH. bí ẩn, gần trăm năm qua vẫn không ai biết bà là ai. Chỉ với 4 bài thơ, đặc biệt là bài “Hai Sắc Hoa Ti-gôn”, bà đã khiến bao con tim rung động thời ấy vì chuyện tình đau thương của bà. Cái đau và cái buồn không ai thích, nhưng nó lại quyến rũ và khiến người ta nhớ mãi. Phải chăng đó là điều kỳ diệu của tình yêu?
Thế nhưng, dù có thế nào thì đó cũng vẫn là dạng tình yêu bình thường, cấp thấp, bởi vì vẫn ẩn chứa phần ích kỷ. Trong tình yêu bình thường, gọi là CHO nhiều hơn NHẬN, nhưng thực chất vẫn vì mình hơn vì người mình yêu. Sự vị kỷ được che đậy khéo léo, vốn dĩ là tình-yêu-vị-kỷ. Nhưng tình yêu theo phong cách của Đức Kitô thì hoàn toàn khác, đó là tình-yêu-vị-tha, vì yêu cả kẻ thù – nên không cần đề cập vấn đề “yêu người yêu mình”. Chính Đức Kitô đã minh chứng dạng tình-yêu-vị-tha này. Nói chung, tình yêu loại nào cũng có cái “rắc rối” đặc thù, không hề đơn giản!
Là con người có trái tim biết rung động nên liên quan cả Tình và Tội – vì có Tội nên luôn cần Tình, mà ai cũng có Tội, do đó mà ai cũng cần Tình. Mối liên kết tuyệt vời, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Càng tuyệt vời hơn đối với tình yêu của Thiên Chúa: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương.” (Gr 31:3) Có Tình nên thấy Thương, càng Thương càng thấy Xót.
TỘI TẠI TÔI
Tất cả chỉ tại tôi: Lỗi tại tôi mọi đàng. Chắc chắn chẳng tại ai khác. Thiên Chúa đã truyền cho ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã HƯ HỎNG rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập. Chúng đã vội ĐI RA NGOÀI con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: ‘Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.’” (Xh 32:7-8) Dân Ít-ra-en “hư hỏng”, tức là phạm tội, chính là hình ảnh của chính mỗi chúng ta. Bò vàng ngày nay không phải là con bò thật hoặc bằng vàng, mà là những mánh lới tinh vi đủ kiểu – và đa dạng mê tín dị đoan khác, người ta tôn thờ và bị lệ thuộc mà lại tưởng là không. Loại “bò vàng” này còn nguy hiểm hơn nhiều.
Sẽ là quá hủ lậu nếu chúng ta ngày nay còn đúc bò vàng để thờ. Không, chúng ta “văn minh” lắm rồi, chúng ta “khôn khéo” hơn xưa nên “đúc” nhiều loại ngẫu tượng tinh xảo lắm, khó mà biết được thật – giả. Nghĩa là cách phạm tội của chúng ta cũng tinh vi hơn, với rất nhiều loại ngẫu tượng mà chúng ta lại cho đó không là tội lỗi – dạng tê liệt cảm thức tội lỗi. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta sùng kính các tượng thánh cũng có thể là tôn sùng ngẫu tượng, nếu chúng ta cuồng tín hoặc lệch lạc niềm tin. Kính mến Chúa ở đâu cũng được, sao lại cứ chạy đua theo số đông, chỉ vì ông kia hay bà nọ? Thật nguy hiểm biết bao với “phong cách tin” như vậy!
Thời nào cũng có kiểu riêng của thời đó. Ảo tưởng và mê muội nên khoái “bỏ mồi bắt bóng”, lấy cái giả mà bỏ cái thật, theo cái phụ mà quên cái chính. Ngày xưa, chính Thiên Chúa đã nói với ông Môsê: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân CỨNG ĐẦU CỨNG CỔ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn.” (Xh 32:9-10) Con người ngày nay cũng chẳng hơn gì, vẫn rất cứng đầu cứng cổ, rất bướng bỉnh, rất ương ngạnh, cứ tái đi phạm lại biết bao lần trong hành trình cuộc sống, càng sống lâu càng phạm tội nhiều. Thực tế ấy không thể chối cãi. Thế nên đừng vội cho rằng trường thọ là tốt, nếu không sám hối thì còn khốn hơn người đoản thọ hoặc yểu mệnh!
Thiên Chúa đã nổi giận khi thấy dân Ít-ra-en có những cái cổ xơ cứng, lòng chai dạ đá. Thấy Chúa như vậy, ông Môsê cố làm cho nét mặt Thiên Chúa của ông dịu lại. Ông chân thành thân thưa: “Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập?” (Xh 32:11) Và rồi ông khôn ngoan viện dẫn để cậy nhờ công nghiệp của các Tổ phụ: “Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Ápraham, Isaác và Ítraen; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.” (Xh 32:13) Thánh nữ Margaret Maria Alacoque (1647-1690) đã lý luận: “Một linh hồn công chính có thể xin được ơn tha thứ cho cả ngàn tội nhân.”
Đúng vậy. Kinh Thánh cũng đã xác định: “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe.” (Xh 32:14) Ôi, lòng thương xót của Chúa thật kỳ diệu! Lời cầu nguyện không chỉ hiệu quả đối với chính người cầu nguyện, mà còn hiệu lực đối với người được người khác nguyện giúp cầu thay.
Thật là tuyệt vời, bởi vì nhờ “thủ trưởng” Môsê mà dân lại được Thiên Chúa xót thương để có thể được tiếp tục sống. Tương tự, nhờ Đức Mẹ Maria, nhờ Đức Thánh Giuse và nhờ chư thần chư thánh mà chúng ta lại được Thiên Chúa xót thương để có thể được sống tiếp tục cho đến giây phút này. Quả thật, Hồng Ân Thiên Chúa bao la, chúng ta phải tự nhận thức mà cảm tạ Ngài mãi mãi, bởi vì có những điều rất ư bình thường và giản dị nhưng lại là thứ cụ thể vô cùng quan trọng: Không Khí.
Chắc hẳn đã có kinh nghiệm về tình trạng phạm tội nhưng biết sám hối, mà Thánh Vịnh gia van xin Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.” (Tv 51:3-4) Rất rõ ràng, nếu không có lòng thương xót của Chúa thì chúng ta tiêu tùng hết. Nhưng Thiên Chúa không nỡ lòng!
Không có gì không bởi Thiên Chúa ban cho. Tất cả là hồng ân. Và ngay cả lòng sám hối của chúng ta cũng là hồng ân Chúa ban: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài.” (Tv 51:12-13) Thật vậy, sống nhờ thần khí, và chỉ có thần khí làm cho sống. (x. Ed 37:14; Ga 6:63)
Thiên Chúa hứa: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.” (Ed 36:26) Thật là diễm phúc vì Thiên Chúa đã biến trái-tim-đá của chúng ta thành trái-tim-thịt mềm mại để chúng ta có thể kịp ăn năn sám hối sau mỗi lần lỡ bước sa chân. Ân tình thương xót của Ngài quá lớn. Vì thế, chúng ta phải biết thi hành bổn phận chúc tụng và trách nhiệm tạ ơn đối với Ngài: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.” (Tv 51:17) Và thiết tha tâm nguyện: “Ca ngợi Danh Thánh Chúa, từ rạng đông tới lúc chiều tà!” (Tv 113:3)
Mọi sự là của Chúa – hữu hình và vô hình, Ngài có tất cả, Ngài không cần gì, ngay cả lời chúc tụng của chúng ta cũng không thêm chút gì cho Ngài, nhưng lại có thể sinh ơn cứu độ cho chúng ta. Thật kỳ lạ! Điều Ngài muốn ở chúng ta cũng là điều khác lạ: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.” (Tv 51:18-19) Chúng ta tồi tệ thế mà Chúa vẫn yêu quý. Hạnh phúc cho chúng ta biết bao! Thú nhận tội lỗi là động thái khiêm nhường, mà càng khiêm nhường thì càng được Thiên Chúa xót thương. Rất lô-gích. Ngược lại, Ngài không chỉ ghét mà còn triệt hạ kẻ kiêu căng, ngạo mạn. (x. 1 Sm 2:7b; Tv 147:6; Lc 1:52)
Thánh Phaolô đã cảm nhận sâu sắc ân tình của Thiên Chúa và công nhận: “Tôi tạ ơn Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin.” (1 Tm 1:12-13) Dám nói ra cái xấu của mình là khiêm nhường, đã thực sự sám hối.
Và không thể không nói ra, Thánh Phaolô trần tình thêm: “Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời.” (1 Tm 1:14-16) Quả thật, đó là những lời tự thú, là xưng tội, nhờ vậy mà được Chúa tha thứ và xót thương. Chúng ta cũng phải vậy, không còn cách khác.
Cũng đã từng được thương xót và tha thứ, mỗi chúng ta cũng phải noi gương Thánh Phaolô cất lời tuyên xưng và tôn vinh: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (1 Tm 1:17) Thế thì thật tuyệt!
XÓT VÌ THƯƠNG
Vô tri bất mộ. Vì mến mà yêu, vì yêu mà thương, vì thương mà xót. Trình thuật Lc 15:2-32 là bản “hợp xướng thương xót” gồm ba đoạn: Con Chiên Lạc, Đồng Bạc Mất, và Đứa Con Hoang Đàng.
Từ khi nghe nói về Đức Giêsu, các người thu thuế và tội lỗi đều lui tới với Ngài để nghe Ngài giảng thuyết. Thấy thế, nhóm biệt phái và kinh sư xầm xì với nhau, cho rằng Chúa Giêsu là “dân chơi” nên mới giao du và ăn uống với phường tội lỗi. Ác khẩu quá, độc miệng quá, đúng là bản chất khó dời! Tuy nhiên, đừng vội trách họ mà tự mãn, bởi vì chúng ta cũng chưa chắc tốt bụng hơn lũ ác nhân đó đâu. Đôi khi miệng nói lời hay mà đầy vị cay!
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vô tận và khôn tả. Cả ba dụ ngôn Chúa Giêsu kể đều đầy ắp ân tình thương xót khiến chúng ta phải kinh ngạc.
Thật vậy, ai đời có một trăm con chiên, nhưng chỉ mất một con, thế mà dám để chín mươi chín con ở đó rồi đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Tìm được rồi thì mừng rỡ vác lên vai, sau đó làm tiệc mời người ta đến cùng chia vui. Theo kiểu nói khôi hài của ĐHY F.X. Nguyễn Văn Thuận, dụ ngôn này cho thấy Chúa Giêsu “không biết tính toán”. Nhưng cũng phải chân nhận rằng chính nhờ Chúa “không biết làm toán” mà chúng ta mới được cứu và được sinh tồn.
Còn nữa, có được mười đồng nhưng chẳng may mất một đồng, phụ nữ này thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được. Tìm được rồi thì vui vẻ mời những người thân quen đến cùng ăn mừng. Cũng theo kiểu nói khôi hài của ĐHY F.X. Nguyễn Văn Thuận, dụ ngôn này cho thấy Chúa Giêsu “không biết làm kinh tế”. Nhưng rồi cũng phải chân nhận rằng nhờ Chúa “không biết làm kinh tế” mà chúng ta mới được bảo toàn mạng sống.
Còn dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng” (nói tích cực hơn là dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu”). Đây là câu chuyện “nổi tiếng” nhất về Lòng Chúa Thương Xót, chắc hẳn Kitô hữu nào cũng biết – và thuộc lòng. Dụ ngôn này cũng là dụ ngôn “độc quyền” trong Phúc Âm theo Thánh Luca.
Quả thật, Chúa Giêsu làm toàn những “chuyện ngược đời”, thật là “khó hiểu”, kỳ lạ hóa kỳ diệu chứ không kỳ cục hoặc kỳ quặc. Một đứa con coi cha mình không ra gì, ngang ngược đòi chia gia tài rồi đi ăn chơi xả láng, trác táng. Đến khi cùng đường, thân tàn ma dại rồi mới nhớ tới cha mình. Nếu là người cha trần gian chắc rằng ông sẽ từ nó ngay. Thế nhưng cũng phải chân nhận rằng nhờ Chúa “ngược đời” như vậy mà chúng ta vẫn được tha thứ bất cứ lúc nào. Lòng Chúa Thương Xót thật là mầu nhiệm!
Thường thì chúng ta chỉ soi mói và xỉa xói thằng em, vì nó đi hoang công khai. Nhưng chính thằng anh cũng đâu hơn gì, có khi còn tệ hơn thằng em, vì thằng anh đi hoang ngay trong gia đình, không chỉ tức giận với em mà còn dám so đo với người cha. Tội thằng anh chẳng nhỏ, cũng chẳng ít, thế mà người cha vẫn điềm tĩnh.
Chúng ta không thể hiểu thấu Tình Yêu Thiên Chúa nên cũng không thể diễn tả rạch ròi. Nhưng đối với Ngài, Một vẫn to hơn và nhiều hơn Một Trăm. Hãy can đảm đứng dậy, tự động viên và tin tưởng: “Mạnh bạo lên, can đảm lên!” (Đnl 31:6-7, 23; Gs 1:6 và 9; Gs 10:25) Cách tốt là mỗi chúng ta phải nỗ lực sống yêu thương, đoàn kết, bảo vệ công lý và kiến tạo hòa bình, làm nhân chứng của Thiên Chúa giữa đời thường. Phàm nhân rất yếu đuối, nhưng quan trọng là không bao giờ thất vọng về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã thẳng thắn chỉ trích các người biệt phái và kinh sư: “Khốn cho các người! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23:27). Ước gì không ai trong chúng ta phải nghe lời nguyền rủa nặng nề như vậy!
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, tạ ơn Ngài luôn tha thứ và từ bi. Xin biến đổi chúng con nên khí cụ yêu thương và bình an của Ngài qua việc chu toàn bổn phận hằng ngày vì yêu mến Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta chương 15 của Tin Mừng Luca, được coi là chương của lòng thương xót. Trong đó, bài Tin Mừng là sưu tập ba dụ ngôn mà Chúa dùng để trả lời cho sự phàn nàn của những người Biệt Phái và Luật Sĩ đã phê phán hành vi của Người, khi họ nói rằng: “Con người này đón tiếp những người tội lỗi và ngồi ăn với họ” (Lc 15,2).
Với ba câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa Cha là người đầu tiên đã có thái độ đón tiếp và thương xót đối với các tội nhân. Thiên Chúa hành xử như thế trong thái độ của Người.
1. Thiên Chúa đến tìm kiếm
Trong dụ ngôn thứ nhất, Thiên Chúa được trình bày như là một người chăn chiên có một trăm con chiên mà bị mất một con, ông đã để 99 con chiên kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị lạc mất.
Trong dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa được ví như một người phụ nữ có mười quan tiền, mà chẳng may đánh mất một đồng, bà thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc cho kỳ được.
Trong dụ ngôn thứ ba, Thiên Chúa được hình dung như một người cha luôn trông chờ đứa con hoang đàng, ông vui mừng đón tiếp khi nó trở về. Hình ảnh người cha mạc khải trái tim thương xót của Thiên Chúa, được bày tỏ qua dung mạo của Chúa Giêsu.
Cả ba dụ ngôn đều có một điểm chung là diễn tả niềm vui mừng khi tìm được những gì đã mất. Cả ba dụ ngôn không nói đến nỗi buồn, mà chỉ nhấn mạnh đến niềm vui và lúc phải vui mừng. Người chăn chiên gọi các bạn hữu, những người hàng xóm và nói: “Hãy chung vui với tôi vì tôi đã tìm thấy con chiên bị lạc mất” (câu 6).
Người phụ nữ gọi bạn bè và những người hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” (câu 9).
Và người cha nói với đứa con cả rằng: “Giờ đây chúng ta phải liên loan và vui mừng, bởi vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (câu 32).
Trong hai dụ ngôn đầu, điểm nhấn là niềm vui quá lớn lao không thể diễn tả được nên phải chia sẻ với “bạn bè và hàng xóm.” Trong dụ ngôn thứ ba, điểm nhấn là niềm vui trào dâng từ trái tim của người cha nhân hậu và cần phải chia sẻ cho mọi người trong gia đình. Thiên Chúa vui mừng khi có một ai đó hoán cải trở về với Người.
2. Thiên Chúa kiên nhẫn đợi chờ
Với ba dụ ngôn này, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, một Thiên Chúa với vòng tay luôn mở rộng, một vị Thiên Chúa đến với những người tội lỗi bằng sự dịu hiền và cảm thông. Đây là dụ ngôn đánh động mỗi người chúng ta nhất bởi vì nó diễn tả tình yêu vô biên của Thiên Chúa – là tình yêu của người cha, người đã chạy ra ôm lấy cổ người con và hôn lấy hôn để vì nó mất nay lại tìm thấy. Đây là điều đánh động chúng ta nhất không phải là câu chuyện đáng buồn của một người trẻ bị gặp cảnh khốn cùng, nhưng đúng hơn là những lời đầy kiên quyết này: “Tôi sẽ đứng lên và trở về với Cha tôi” (c. 18).
Con đường trở về nhà Cha là con đường hy vọng cho đời sống mới. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta trở về theo hành trình này. Người kiên nhẫn đợi chờ, chủ động ra đón, rồi ôm lấy chúng ta và Người tha thứ cho chúng ta. Đây là vị Thiên Chúa của Kitô giáo. Người là người Cha nhân hậu của chúng ta. Người xóa bỏ mọi lỗi lầm quá khứ và tái sinh chúng ta trong tình yêu và ân sủng của Người. Thiên Chúa quên quá khứ tội lỗi của chúng ta. Người cứu chữa và đón chúng ta vào nhà Người.
3. Thiên Chúa vui mừng
Chính Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nói rằng: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7).
Chúng ta hãy đặt ra câu hỏi: Có bao giờ anh chị em nghĩ đến cả thiên đàng vui mừng như thế nào mỗi lần chúng ta đi xưng tội? Có bao giờ anh chị em nghĩ đến điều đó không? Điều đó thật đẹp đẽ!
Ngoài ra, chúng ta hãy chạy đến với Đức Maria, vì Mẹ là nơi ẩn náu của các tội nhân, để xin Mẹ thắp sáng lên trong lòng chúng ta niềm tin của người con hoang đàng: “Tôi sẽ đứng lên và trở về với cha tôi và tôi sẽ thưa với cha, “thưa Cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha” (c. 18).
Tất cả những suy niệm trên mang lại cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao để hoán cải bởi vì lòng thương xót Chúa lớn hơn tội lỗi chúng ta và mọi sự đều có thể với ơn Chúa! Chúng ta hãy bắt đầu lại sau khi đã sa ngã. Amen!
Đoạn Kinh Thánh hay dụ ngôn về Người cha nhân hậu là đoạn Kinh Thánh hay dụ ngôn mượn hình ảnh người cha để nói đến tấm lòng của Thiên Chúa.
Dụ ngôn gây nhiều cảm động vì cảm nhận tình yêu sâu đậm mà Thiên Chúa dành cho người tội lỗi biết ăn năn, một tình yêu lớn hơn mọi thác ghềnh, vượt trên mọi tội lỗi. Đó là tình yêu mà đất không thể sánh, trời không thể ví. Một tình yêu mà dù núi cao, dù biển rộng không có gì có thể đo lường.
Dụ ngôn mô tả cuộc đời lầm lỗi của đứa con trai vừa phản bội và xúc phạm nặng tình cha, vừa giẫm nát cuộc đời mình, vừa gây đổ vỡ mọi tương quan cùng Thiên Chúa cũng như loài người, vừa gây nên bao nhiêu đớn hèn đối nghịch hẳn với tình yêu của người cha già cao cả, mạnh mẽ đến nỗi dường như chỉ có yêu mà không hề có bất cứ tính toán, đong đo nào.
Chúa Giêsu kể: Anh là đứa con trai thứ trong hai đứa con mà người cha hết lòng yêu mến. Anh ra đi bụi đời sau khi đòi cha chia gia tài cho anh.
Vừa khi nhận phần gia tài, người con thứ đã thể hiện ngay bộ mặt xấu xa của mình: Chẳng những anh không biết ơn cha, không có một lời cảm tạ cha, mà anh còn cho thấy, anh xem gia đình mình như một thứ nhà tù cho bước chân “yêu đời” của anh, là thứ đập nước ngăn cản sức sống đang lên của anh.
Cuối cùng anh quyết định lựa chọn con đường riêng mà không thèm bàn hỏi gì với người cha già chỉ biết có yêu thương và chiều chuộng con.
Điều lạ ở đây là, người cha ngay lập tức đồng ý phân chia gia tài, dù biết rõ tính tình của đứa con. Người cha như phần nào thông cảm “cho đứa con không thể răn bảo được.”
Dụ ngôn cho thấy, dù bất cứ chuyện gì xảy ra, thì người cha vẫn tôn trọng tự do của con ông. Lòng thương tràn bờ của ông không nỡ để con thoát ly khỏi nhà mình, thoát ly khỏi vòng tay của mình với hai bàn tay trắng.
Còn đứa con, một khi quyết tâm ra đi, nó đã dại dột giày xéo dưới chân quyền làm con và từ chối quyền làm cha của cha nó.
Nhưng “cáo chết 3 năm quay đầu về núi”, hay “Lá rụng về cội”, “nước đổ về nguồn”. Đứa con ông mù quáng trong dục vọng, từ địa vị một đứa con gia giáo trở thành đứa chăn heo ở miền ngoại bang.
Tình trạng sa sút của anh quá sâu, sâu đến nỗi anh phải ăn đồ ăn của heo để cầm hơi sự sống. Sự sống của người con thứ, giờ đây được đặt ngang hàng với bầy heo, có khi kém giá hơn, vì heo còn có ăn, còn anh thì “muốn ăn đồ heo ăn, mà chẳng ai cho…”.
Chỉ khi rơi vào cảnh túng khổ tuyệt đối mới làm cho người con tội lỗi suy nghĩ lại. Nghĩa là dù anh có trở về, thì lý do đầu tiên vẫn không hề là nhớ về tình yêu của cha, hình ảnh tội nghiệp của cha đang ngày đêm mong chờ.
Anh chỉ trở về với cha vì bản thân mình, vì cái bụng đói cồn cào của mình, vì sự ích kỷ của bản thân: Anh nghĩ, trong nhà cha hàng ngày của ăn dư dật, ngay cả đầy tớ mà còn được hưởng thụ, còn anh thì đang chết đói, đang khổ sở tứ bề…
Những bước chân nặng nề, với tấm lòng rối bời tội lỗi và mặc cảm… người con phản bội quỳ sụp dưới chân cha mình: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha…”. Đó là lần xưng tội công khai, đó là sự ăn năn muộn màng.
Dù chỉ là sự thú tội, lòng ăn năn của một tâm hồn ích kỷ, người con thứ vẫn nhận được tình yêu bao dung, tình yêu bền vững trước sau như một của cha mình…
Người con trở về, dù là khoác lớp áo nào để trở về đi nữa, thì cuộc trở về ấy vẫn làm cho cả trời và đất vui mừng, gia đình vui mừng, họ hàng tuôn đến chia vui.
Đó là hình bóng đời người chúng ta. Một khi xa Thiên Chúa, con người ngày càng vong thân, mất mọi giá trị làm người, làm con Chúa và làm anh em giữa muôn người.
Một khi nhận ra lầm lỗi, sự yếu đuối, sức bạc nhược của mình mà trở về với Chúa bằng việc trung thành, hiếu thảo và chuyện trò cùng Chúa trong sự siêng năng cầu nguyện, chúng ta sẽ lấy lại nghị lực, tăng cao giá trị làm người và làm con Chúa của mình.
Mỗi người cần rút ra bài học từ Lời Chúa hôm nay mà sống sao, để từng ngày mỗi sát gần sự thánh thiện như Chúa muốn. Hãy là hình ảnh của Người Con mang tên Giêsu với Cha, chớ đừng là hình ảnh của những người con hư hỏng trong dụ ngôn.
Mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người là đề tài lặp đi lặp lại trong Kinh Thánh. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay không chỉ đề cập đến liên hệ giữa Ít-ra-en với Thiên Chúa, mà còn trình bày sự liên hệ giữa Chúa với từng cá nhân chúng ta. Mỗi lần Ít-ra-en bỏ Thiên Chúa để đi theo các thần ngoại và Thiên Chúa toan từ bỏ họ thì Người đều “nghĩ lại” mà nguôi cơn giận và tha thứ cho họ. Vậy bao nhiêu lần tha thứ ấy nói lên điều gì về Thiên Chúa nếu không phải là lòng thương xót của Người? Cũng vậy, trong mối tương quan giữa Chúa và cá nhân chúng ta, ta cũng có thể nghiệm thấy điều ấy khi bước ra khỏi tòa giải tội và tâm hồn được bình an đích thực. Điều này cũng gặp thấy trong cảm nghiệm “trở lại” của thánh Phao-lô. Tuy nhiên đặc biệt nhất chính là lời giảng của Chúa Giê-su về lòng thương xót khi Người dùng dụ ngôn để mô tả lòng nhân hậu vô bờ của Thiên Chúa.
Vậy trước hết bài trích sách Xuất Hành nói gì với chúng ta về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa? Sau khi dẫn con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập, ông Mô-sê luôn phải đương đầu với thái độ bất trung của họ đối với Thiên Chúa. Ông được Thiên Chúa gọi lên núi để Người ban cho ông Lề Luật khắc trên hai tấm bia đá. Trong khi ông vắng mặt khá lâu, dân chúng sinh tật, hùa theo thói dân ngoại nên cùng nhau quyên góp nữ trang để đúc một con bê bằng vàng. Họ gọi vật vô tri ấy là “Thiên Chúa” của họ và phụng thờ nó. Chúa bảo ông Mô-sê: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng”. Thế là ông Mô-sê lại một phen van nài Chúa đừng hủy diệt dân Người. Ông còn khéo léo nhắc nhở Chúa về những lời Người đã hứa với các tổ phụ dân Ít-ra-en, để Người giữ lời hứa, nguôi cơn giận và khỏi phải “mất sĩ diện” của Người trước các dân tộc khác! Lời chuyển cầu Mô-sê dâng lên Thiên Chúa đã đụng tới trái tim nhân hậu của Người, nên Người đã tha thứ, bỏ quyết định hủy diệt Ít-ra-en và tiếp tục giúp họ trở về Đất Hứa. Ôn lại bài học về lòng nhân hậu tha thứ của Thiên Chúa, tác giả Thánh Vịnh đã nhiều lần kêu lên: “Con sẽ ca tụng lòng Chúa thương xót đến muôn đời!”
Nhưng cốt lõi của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nằm trong bài Tin Mừng rất quen thuộc và cảm động, đó là ba dụ ngôn Chúa Giê-su kể để nói lên lòng nhân hậu của Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tội lỗi chúng ta nếu ta quay về với Người và nỗi vui mừng của Thiên Chúa vì Người nối lại được mối tương quan với chúng ta. Dụ ngôn con chiên lạc và đồng bạc đánh mất vừa diễn tả niềm vui của người chủ chúng, vừa nói lên giá trị tình cảm người chủ dành cho chúng. Như vậy hai dụ ngôn này dường như muốn nhấn mạnh rằng sở dĩ con chiên lạc và đồng bạc đánh mất đều có giá trị là vì tình cảm chủ dành cho chúng. Xét theo giá trị bình thường, một con chiên lạc không thể sánh với chín mươi chín con còn lại, cũng thế, đồng bạc đánh mất không thể bằng chín đồng tiền còn lại. Cho nên người chủ khổ công đi tìm kiếm cho được những cái đã mất là vì người ấy dành cho chúng một tình cảm đặc biệt mà thôi!
Hai dụ ngôn nhỏ ở trên được Chúa kể để chuẩn bị cho dụ ngôn lớn, dụ ngôn người cha nhân hậu. Nếu con chiên lạc và đồng tiền đánh mất còn đáng để chủ của chúng đi tìm, thì chúng ta là con cái Chúa lại chẳng đáng cho Người đi tìm và đưa chúng ta trở về sao? Dựa trên cách sắp đặt thứ tự ba dụ ngôn này, chúng ta càng dễ cảm nhận được Chúa Giê-su muốn đề cao lòng nhân hậu của người cha, tức tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, cao cả ngần nào! Câu chuyện thứ ba đã quá quen thuộc với chúng ta, nhưng không vì thế mà chúng ta rơi vào cái bẫy “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” Vậy hôm nay chúng ta sẽ tìm được điều gì mới trong dụ ngôn này? Trước kia người ta thường đặt đầu đề cho câu chuyện là “dụ ngôn đứa con hoang đàng”. Nhưng bây giờ thì ai cũng thích cái đầu đề “dụ ngôn người cha nhân hậu” hơn! Như vậy là chúng ta hiểu được ý của Chúa Giê-su rồi! Quả thực Người thích rao giảng về Thiên Chúa như người cha nhân hậu, nào là trong kinh Lạy Cha, nào là trong bài giảng trên núi khai triển ý niệm về Thiên Chúa quan phòng… Không những qua lời giảng, mà ngay trong đời sống hằng ngày, Chúa Giê-su đã đối xử với dân chúng bằng lối sống nhân hậu. Người tiếp nhận các người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến với Người. Người để ý hơn đến những người bị xã hội loại bỏ hoặc khinh dể. Người bỏ ngoài tai những lời phê bình Người “đi lại với quân tội lỗi và phường thu thuế”. Các dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay cũng là để nhằm biện hộ cho lối sống nhân hậu của Người (Lc 15:1-3).
Sống sứ điệp Lời Chúa
Ta có thể rút bài học của sứ điệp Lời Chúa hôm nay qua câu chuyện thánh Phao-lô. Đây không còn là câu chuyện dụ ngôn, nhưng là chuyện đời ngài. Ngài thích ôn lại chuyện cũ, nhất là việc ngài trở lại với Chúa Giê-su. Ngài không xấu hổ khi kể lại cho môn đệ Ti-mô-thê nghe dĩ vãng xấu xa, vì đây là cơ hội rao giảng lòng Chúa từ bi nhận hậu đối với cá nhân ngài. Chúa đã quên hẳn dĩ vãng của Phao-lô rồi, cho nên Phao-lô mạnh dạn “quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3:13)!
Có câu chuyện về một thiếu nữ sống trong tội lỗi lâu năm. Một ngày kia, người thiếu nữ này quyết định tự tử, bởi vì cô nghĩ rằng cuộc đời của mình quá tội lội, không còn có giá trị hay ý nghĩa gì nữa, vì thế không có một lý do gì để kéo dài thêm. Cô đi bộ tới một bờ biển và dự tính sẽ bơi ra thật xa và sau đó để cho biển cả định đoạt số phận. Nhưng trước khi bơi ra, cô đi dọc bờ biển vắng lặng, nói những lời từ biệt với mọi người thân thuộc. Bỗng nhiên cô nghe được một giọng nói thật rõ ràng ra lệnh cho cô dừng lại, quay về phía sau và nhìn xuống dưới đất. Cô quay đầu lại và nhìn về phía sau, nhưng cô chỉ thấy những dấu chân của chính cô để lại trên cát, sau đó bị những làn sóng đánh vào bờ xóa đi không còn dấu tích gì nữa. Cô tiếp tục bước đi và một lần nữa, cô nghe chính giọng đó nói với cô: “Như những làn sóng biển xóa đi nhưng dấu chân dưới cát, Ta cũng sẽ xóa hết những tội lỗi ở quá khứ của con. Ta muốn con sống và yêu thương chứ không chết.” Dựa vào linh tính, cô tin một cách chắc chắn đó là giọng nói của Chúa với cô. Sự việc này đã thay đổi quyết định của cô và cũng là một sự bắt đầu một cuộc sống mới của cô.
Câu truyện trên đây là một minh chứng hùng hồn cho sứ điệp lòng thương xót và nhân từ của Chúa trong các bài Kinh thành hôm nay. Thiên Chúa biết rõ mỗi người chúng ta và tội lỗi của chúng ta hơn chúng ta biết chúng ta. Mặc dầu vậy, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, và kêu mời chúng ta ăn năn quay trở về để được tha thứ. Thật vậy, trong các bài đọc hôm nay, chúng ta nghe những câu truyện tuyệt đẹp về Thiên Chúa và lòng thương xót của Người. Bài đọc một trích sách Xuất hành, cho chúng ta thấy vừa ngay sau khi được Chúa cứu thoát khỏi cuộc sống nô lệ lầm than khổ cực ở Ai cập, và ngay sau khi ký một giao ước với Thiên Chúa, dân Do thái đã quay lưng lại phản bội Chúa, thờ một thần tượng ngoại giáo là con bò vàng. Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ định tiêu diệt dân này để lập một dân khác trung thành hơn, nhưng nhờ lời cầu xin của ông Môisen, Thiên Chúa đã nguôi giận và rộng lòng thương xót tha thứ cho họ.
Trong bài đọc 2, chúng ta nghe câu truyện về cuộc đời của thánh Phao-lô. Ngài minh chứng cho chúng ta thấy tình yêu, lòng nhân từ và thương xót của Chúa đối với chính ngài. Từ một người tội lỗi sống trong lầm lạc, đi bắt bớ, hành hạ và bỏ tù những người theo Ki-tô giáo, ngài đã được chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh thương xót tha thứ, sau đó đã biến đổi ngài trở thành một tông đồ, và giao phó sứ vụ rao giảng Tin mừng của Người cho dân ngoại. Thật vậy, sau đó Thánh Phao-lô đã hy sinh, trung thành và can đảm chu toàn sứ vụ Chúa trao phó. Ngài đã cảm nghiệm được tình yêu và lòng thương xót của Chúa, cho nên ngài khẳng định rằng: “Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, cha là người thứ nhất”, như chúng ta vừa nghe.
Trong bài Tin mừng, chúng ta nghe ba câu truyện dụ ngôn về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cho chúng ta. Trong ba dụ ngôn trong bài Tin mừng, chúng ta thấy dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý, bởi vì ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc. Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu, vì một đồng xu có đáng là bao so với công sức, thời giờ mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó. Nhưng khi chúng ta lắng nghe dụ ngôn thứ ba thì chúng ta mới hiểu được ý của Chúa Giêsu là không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Thật vậy, người con hoang đàng tội lỗi ấy không ở đâu xa, mà có thể là chúng ta, là người đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta.
Những người Pharisêu và kinh sư thấy Chúa Giêsu thường xuyên lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không chính đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng bỏ đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những con người có những giá trị cao quí.
Một điểm quan trọng mà chúng ta để ý là: trong 2 dụ ngôn đầu “Chiên lạc” và “Đồng tiền đánh mất”, người đàn bà và chủ chiên đi tìm đồng bạc và chiên lạc cho đến khi tìm được. Nhưng trong dụ ngôn thứ 3, “Người con hoang đàng”, người cha không đi tìm nhưng kiên nhẫn chờ đợi đứa con sớm hồi tâm quay trở về mà thôi. Cũng vậy Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi chúng ta hồi tâm, thật lòng ăn năn quay trở về với Người.
Qua những câu truyện dụ ngôn trên, chúng ta khám phá ra rằng: con người dù tội lỗi đến đâu cũng còn cơ hội để làm lại cuộc đời, sự hư mất chỉ vì sự từ chối của chúng ta mà thôi. Thiên Chúa luôn yêu thương và kêu mời chúng ta trở về với Người để lãnh nhận ơn tha thứ. Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và tha thứ. Lòng nhân từ thương xót của Chúa làm cho chúng ta xác tín và vui mừng. Do đó chúng ta đừng bao giờ thất vọng, cho dù chúng ta có tội lỗi đến đâu, là những Ki-tô hữu chúng ta cũng phải tín thác vào tình yêu thương bao la và tha thứ của Chúa. Đây là sứ điệp mà chúng ta cần phải nghe thường xuyên và lập đi lập lại nhiều lần. Hy vọng rằng qua sự lập đi lập lại, chúng ta sẽ thấm nhuần tình yêu và lòng thương xót của Chúa vào trong trí óc, vào trong tâm hồn và cuộc sống chúng ta.
Trong hai dụ ngôn người chủ chiên đi tìm con chiên lạc và người đàn bà tìm đồng bạc đánh mất, Đức Giêsu đều nói đến “niềm vui của trời”. “Trời” ở đây là triều thần thiên quốc, là chính Thiên Chúa. Thật lạ lùng! sự trở lại của một cá nhân, xem ra chỉ là vô danh tiểu tốt mà lại là niềm vui của cả cõi trời. Điều này chứng minh cho chúng ta thấy mỗi người dù nhỏ bé đều có giá trị trước mặt Chúa và hết thảy đều được Ngài yêu thương. Chính vì yêu thương như thế, nên Chúa sẵn sàng bỏ lại chín mươi chín con chiên ngoài đồng hoang để đi tìm cho kỳ được một con chiên bị lạc. Đối với quan niệm thông thường của chúng ta, nếu có một trăm con chiên, mà lạc một con, thì chẳng có nghĩa lý gì, và cũng chẳng đáng phải cất công đi tìm vất vả. Cũng vậy, nếu có mười đồng mà chẳng may rơi mất một đồng thì cũng dễ dàng bỏ qua. Tuy vậy, đối với Thiên Chúa thì lại khác: Ngài cất công đi tìm con người, đưa họ ra khỏi lầm lạc, cho họ hưởng niềm vui của sự phục hồi. Con người trở về là niềm vui của chính Thiên Chúa. Hiểu như thế, chúng ta sẽ thấy tình yêu thương quan phòng của Chúa đối với chúng ta thật chu đáo, lớn lao như tình thương của cha mẹ dành cho con cái mình. Niềm vui của trời còn được diễn tả qua nhân vật người cha trong dụ ngôn người cha nhân hậu. Một trong những nét đẹp của nhân vật người cha là sự chờ đợi. Người cha nuối tiếc khi đứa con bỏ nhà ra đi. Ông luôn nghĩ đến nó. Trong suy nghĩ của ông, chưa bao giờ nó vắng mặt. Ông hiểu những gì đang xảy ra cho nó ở nơi xa xôi. Ông vẫn hàng ngày chờ đợi và biết chắc có ngày nó trở về, nên ông đã chuẩn bị sẵn giày dép, nhẫn quý và cả con bê béo sẵn sàng thết đãi láng giềng. Sự mong mỏi ấy được biến thành niềm vui vỡ òa khi cậu út trở về. Đối với người cha, việc người con trở về là sự kiện quan trọng, như đã chết mà sống lại, đã mất mà nay tìm thấy. Người cha đã gặp lại con mình. Mặc dù nó thân tàn ma dại, nhưng điều quan trọng là nó đã trở về và đang đứng trước mặt ông. Đó là niềm vui lớn nhất của đời ông. Cũng giống như người mục tử và người phụ nữ trong hai dụ ngôn trước, ông mời bạn bè đến chung chia niềm vui, để niềm vui ấy được nhân lên, lớn mãi. Thánh Luca cho chúng ta biết rõ bối cảnh của những dụ ngôn này. Đó là lúc những người Biệt phái và Pharisiêu phàn nàn chỉ trích Chúa và xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15,2). Chính vì thế, qua ba câu chuyện dụ ngôn, Chúa muốn gửi một thông điệp tới những người tự cho mình là thánh thiện, công chính rằng: các bạn hãy cẩn thận khi xét đoán nhận định người khác. Có thể họ đang là những người lầm lạc, nhưng nếu được khuyên bảo, họ sẵn sàng phục thiện. Nếu các bạn chỉ trích phê phán người khác, có thể các bạn dìm họ xuống sâu hơn trong vũng bùn lầy. Mặc dù họ tội lỗi, khi thành tâm sám hối trở về, họ vẫn được Thiên Chúa đón nhận. Nếu Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh giang rộng vòng tay đón người tội lỗi trở về, thì các bạn lại là ai mà không biết mở lòng đón nhận những anh chị em đồng loại (hoặc đồng đạo) của mình? Nhân vật người con cả phản ánh sự cố chấp và ganh tỵ của những người tự cho là thánh thiện. Anh không bỏ nhà đi. Anh luôn sống với cha, mà lòng anh xa lắc xa lơ. Tại sao anh khước từ đứa em ruột của mình? Có thể anh sợ nó về sẽ chiếm đoạt tài sản. Có thể vì anh chưa hết thù hận thành kiến về một đứa em lầm lạc. Anh đã từ chối mối tương quan huyết nhục khi tuyên bố với cha mình: “Thằng con của cha kia…” (câu 30). Vì lý do nào chăng nữa thì cách hành xử của anh cũng cho thấy anh là một người cố chấp và ghen tỵ. Anh không cảm nhận được niềm vui qua sự trở về của người em để cùng gia đình sum họp. Tấm lòng bao dung của người cha với lối suy nghĩ của anh thật cách biệt xa vời. Đó cũng là sự khác biệt giữa ý định của Thiên Chúa và những dự tính của loài người. Chắc chắn những người Pharisiêu và các kinh sư đều nhận ra hình ảnh của họ nơi người anh cả. Các bài đọc trong thánh lễ Chúa nhật này đều diễn tả tình thương của Thiên Chúa, và có ý nghĩa đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Khi thấy thấy Thiên Chúa giận dữ trước sự bất trung của dân Do Thái, vì họ đã bỏ Ngài mà đi thờ con bò vàng, Ông Môisen đã cầu nguyện với Chúa và lời cầu nguyện của ông đã làm Chúa nguôi cơn giận (Bài đọc I). Thiên Chúa là Đấng “nổi giận chỉ trong giây lát, nhưng yêu thương suốt cả đời”. Ngài đã tỏ tình thương đối với dân Do Thái. Sau này, trong hành trình sa mạc, còn nhiều lần dân bất trung phản nghịch cùng Chúa, nhưng Ngài vẫn tha thứ và không chấp tội họ. Năm Thánh Lòng Thương Xót không phải là những hoạt động văn hóa giải trí, nhưng là thời điểm của hồng ân để mỗi chúng ta cảm nhận lòng thương xót của Chúa đối với bản thân mình. Thánh Phaolô, người ý thức rõ về thân phận tội lỗi lầm lạc của mình trước khi được Chúa “tìm thấy” trên đường đi Damas, đã khẳng định: “Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi” (Bài đọc II). Năm Thánh cũng giúp chúng ta tìm lại niềm vui của đời sống tín hữu. Đó là niềm vui được tuôn chảy từ trời, nơi có Thiên Chúa và triều thần thiên quốc. Niềm vui ấy lan tỏa xuống cõi trần và gắn kết chúng ta trong tình hiệp thông, để rồi mỗi chúng ta là những người loan báo và kiến tạo niềm vui trong cuộc sống hôm nay.
Đặc nét của Kitô giáo chính là tình yêu thương. Không một tôn giáo nào có thể gọi Thần linh của họ là ‘Cha’ giống chúng ta. Hơn nữa,Thiên Chúacủa chúng ta còn là một người Cha nhân hậu, luôn sẵn sàng thứ tha những phản bội và bất trung nơi con người. Cao điểm diễn bày lòng thương xót chính là cái chết của Đức Giêsu trên Thập Giá. Điều này đã được chính Chúagợi nhắc trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga. 3,16). Các bài đọc Lời Chúa hôm nay xoáy sâu vào chủ đề này, đặc biệt trong bối cảnh của năm nay, năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. Sứ điệp Lời Chúa gợi nhắc chúng ta ba điều: Mỗi người đều là tội nhân đáng phải chết; Thiên Chúa luôn sẵn sàng bao dung và tha thứ; Cuối cùng chúng ta cũng phải quảng đại tha thứ cho nhau để diễn bày lòng thương xót như Thiên Chúa.
Mọi người đều là tội nhân
Cervantes, một biên kịch gia khá nổi tiếng đã nói một câu để đời: “Trong các sinh vật trên mặt đất, loài có khuôn mặt đẹp nhất chính là con người, và loài có khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng là chính con người.” Tội lỗi làm méo mó khuôn mặt chúng ta, vốn được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa. Chắc chắn không ai trong chúng ta dám vỗ ngực tự hào nói mình vô tội. Chúng ta nhớ lại giai thoại được thánh Gioan kể lại khi Chúa được mời tham dự phiên tòa xét xử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nói với đám đông : “Ai trong các ông sạch tội, hãy cầm đá mà ném trước đi” (Ga. 7,7). Sau khi được Chúa lay động lương tâm, tất cả đám đông ‘biến’ sạch, từ những tay già đầu nhất. Chúng ta đừng vội kết án người khác, nhưng trước tiên hãy nhìn lại chính mình. Hãy can đảm bới tìm những xấu xa bẩn thỉu, sâu tận bên trong tâm hồn mỗi người. Kinh nghiệm của thánh Phaolô mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) cũng là một kinh nghiệm rất thực tế để giúp chúng ta xét mình và lục soát lương tâm mỗi ngày. Ngài viết “Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi.” (1Tm15).
Thiên Chúa là Đấng khoan dung và hay tha thứ.
Cả ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đều diễn bày phẩm tính cao đẹp này nơi Thiên Chúa. Đây là ba dụ ngôn độc sáng của thánh Luca. Những hình ảnh rất đời thường nơi một người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, nơi một người đàn bà thắp đèn để kiếm tìm đồng bạc bị mất, nhất là qua dung mạo của một người cha ngày đêm mong ngóng đợi chờ đứa con đi hoang trở về, đã được Chúa Giêsu vay mượn để lột tả chân dung lòng thương xót của Chúa Cha. Thay vì kết án, Ngài tha thứ. Thay vì ruồng bỏ, Ngài lại đi kiếm tìm. Xét về kinh tế, Chúa Giêsu tính toán rất tồi. Ai lại dám liều lĩnh bỏ lại chín mươi chín con chiên giữa rừng vắng để đi kiếm một con ốm yếu lỡ đi lạc. Xét về bình diện toán học, Ngài làm tính cũng quá dở, khi coi con số 1 lớn hơn con số 9. Một đồng bạc lỡ đánh mất đáng là gì. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một nhà toán học. Ngài là một người Cha giàu lòng lòng thương xót đối với phận người tội lỗi. Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các học trò : “Anh em phải có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương” – Misericordes sicut Pater (Lc. 6.36). Đây cũng là chủ đề của năm nay, năm thánh Lòng Thương Xót.
Bài học về sự tha thứ
Tháng 03 năm 1981, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II bị một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ mưu sát tại quảng trường Thánh Phêrô. Anh ta tên là Ali Agca. Đức Thánh Cha thoát chết như một phép lạ, và cảnh sát bắt giữ chàng thanh niên ngay lập tức. Sau khi ra khỏi bệnh viện, Ngài đã sắp xếp thời gian để đến nhà tù Rebibbia gặp anh ta. Vị đại diện của Chúa đã hoàn toàn tha thứ cho kẻ sát nhân. Cái bắt tay chân tình, vòng ômhôn thắm thiết và ánh mắt dịu dàng của Đức Thánh Cha làm cả thế giới xúc động. Vài năm sau, vợ của kẻ sát nhân đã đích thân sang Rôma để bày tỏ lòng biết ơn đối với Người đã tha thứ cho chồng mình. Còn chính đương sự sau khi mãn hạn tù, cũng nài nỉ xin nhập quốc tịch Vatican và tự nguyện xin làm đàn em của Đức Thánh Cha. Đức Thánh Giáo hoàng đã không hề đưa ra một triết lý mới, hay một cung cách ứng xử đặc thù, nhưng đây chính là cốt lõi của Tin Mừng mà Ngài sao chép lại. Trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã giang tay cầu nguyện: ‘Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm’. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta lời cầu nguyện với kinh Lạy Cha : ‘Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc lỗi với chúng con’. Đó là những bài học rất căn bản, mời gọi chúng ta quảng diễn lòng thương xót và sự tha thứ như Thiên Chúa.
Một cha xứ nọ đã kể cho chúng tôi nghe một kinh nghiệm đau đớn, xảy ra nơi giáo xứ của ngài. Hai đứa bé chơi với nhau và đánh nhau, chuyện rất nhỏ vẫn thường hay xảy ra. Nhưng chuyện trẻ em dần dần lây lan thành chuyện của người lớn. Cả hai gia đình xúm vào cãi nhau, lúc đầu chỉ lời qua tiếng lại, sau đó dẫn đến tranh chấp. Đấu bằng miệng không đủ, chuyển sangđấu đá bằng tay chân. Khổ nỗi,vị đứng đầu một trong hai gia đình lại là trùm xứ, có tiếng là đạo đức và rất siêng năng trong việc chung. Một buổi tối nọ khi trời nhá nhem tối, hai gia đình lại xô xát. Ông trùm cầm một cây gậy lớn phang vào đầu đối thủ, chẳng may đập ngay vào đầu đứa con trai mình. Thằng bé chết trên đường chuyển đến bệnh viện. Từ đó, trong lòng ông, sự căm thù ngày càng dâng cao và ông quyết tâm trả thù. Cha xứ khuyên can thế nào ông cũng chẳng nghe. Lúc ông lâm trọng bệnh và hấp hối chờ chết, người nhà mời cha xứ đến để giải tội và xức dầu. Một lần nữa cha xứ lại hết lời khuyên lơn xin ông làm hòa để tìm lại bình an trong tâm hồn, nhưng ông nhất định không. Cha xứ không thể nào giải tội và ban Bí tích Xức dầu cho ông ta. Tâm hồn ông vẫn còn mang nặng một khối đá lớn cản che ơn thánh, đó là sự hận thù. Ông ta chết đi, đôi mắt vẫn luôn trợn ngược và không thể nhắm lại. Một kinh nghiệm thật đáng buồn.
Kết luận
Nói về lòng khoan dung và sự tha thứ thì dễ, nhưng thực hành không phải là chuyện giản đơn. Con người chúng ta ai cũng có tự ái và không dễ thứtha một cách vô điều kiện như Chúa mong muốn. Trong năm thánh Lòng Thương Xót, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết trải nghiệm và thấm sâu lòng thương xót của Ngài, để chúng ta cũng biết quảng đại tha thứ cho nhau. Misericordes sicut Pater.
Thiên Chúa vẫn luôn đi tìm con người vì Ngài đã mất con người là những đứa con Ngài rất mực yêu thương. Khi Ađam phản bội, Thiên Chúa đã đi tìm con người trong vườn địa đàng : “ Ađam, con ở đâu” ? Và trong suốt lịch sử dân Do thái, Ngài vẫn luôn đi tìm vì dân Itraen là một dân cứng cổ. Ngài đã sai nhiều tiên tri đến kêu gọi dân trở về và cuối cùng Ngài sai chính Con Một của Ngài đến trần gian tìm kiếm những gì đã hư mất.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Đó là khuôn mặt đáng yêu của Ngài và tình yêu của Ngài bền vững muôn năm. Ngài không bỏ mặc con người trong vũng lầy phản bội của họ, nhưng vẫn tìm hết mọi cách để đưa họ về trong tình yêu của Ngài.
Ba dụ ngôn mà Chúa Giêsu nói cho mấy ông Pharisêu xưa kia hôm nay vẫn còn giá trị đối với chúng ta. Đây chính là Tin Mừng của niềm vui, niềm vui tìm thấy những gì đã mất.
Cũng trong một bữa ăn. Chúa Giêsu dùng bữa với những người thu thuế và tội lỗi làm cho các ông Pharisêu khó chịu. Đối với họ, những người thu thuế là những người tội lỗi đáng kinh tởm nhất vì họ vừa làm việc cho Đế Quốc Rôma, là phản bội dân tộc, vừa là những người bóc lột chính đồng bào của mình, làm giàu trên xương máu của đồng bào mình. Những người tội lỗi khác, thánh Luca không nói rõ là hạng người nào. Các ông Pharisêu không cho ai đến nhà bọn thu thuế. Chúa Giêsu lại ăn uống với họ. Vào nhà một người thu thuế là một điều cấm kỵ rồi, ăn uống vui chơi với họ lại là một điều đáng kinh tởm. Chúng ta không hiểu được tâm lý của những ông Pharisêu nầy. Có lẽ chúng ta chỉ nghe nói rằng họ nghiêm ngặt đến tối đa thôi. Đây là một điều họ không thể chấp nhận được. Họ không hiểu được thái độ của Chúa Giêsu. Họ đặt những rào cản giữa họ với những người khác. Họ là những người đạo đức còn những người khác là hạng tội lỗi. Chúa Giêsu vượt qua những rào cản đó. Trước mặt Ngài, mọi người đều có giá trị như nhau, mọi người đều được yêu thương như nhau. Những người được xem là tội lỗi lại là những người được yêu thương hơn.
Chúa đi tìm người tội lỗi và ăn uống với họ, như người phụ nữ kia mất một đồng tiền đã dùng hết cách để tìm cho được đồng tiền đã mất, như người chăn chiên kia, mất một con, đã để 99 con trong chuồn để chạy tìm con chiên lạc. Và khi tìm được rồi, anh vui mừng vác con chiên trên vai và đưa về.
Dụ ngôn nầy là dụ ngôn của niềm vui. Niềm vui tìm thấy được những gì đã mất. Niềm vui ấy trào tràn đến nỗi không thể vui một mình mà phải mời mọi người chung quanh cùng vui. Thiên Chúa là như thế : “ Tôi nói cho các ông hay ; trên trời ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”. Chúng ta có hiểu được niềm vui của Chúa không ? Tại sao Chúa vui đến như thế ? Vì trước mặt Chúa chúng ta rất quí giá. Vì Chúa thương chúng ta hơn chúng ta tưởng. Chúa không muốn mất một người nào dù một người cũng vậy. Những người công chính cũng được yêu thương gìn giữ như con ngươi mắt Chúa. Nhưng Chúa vui khi Chúa tìm lại được một người hư mất.
Dụ ngôn thứ ba : người kia có hai đứa con trai. Đứa con út khi trưởng thành đã xin cha chia gia tài và rời gia đình đi phương xa làm ăn, nhưng thay vì làm ăn, cậu đã phung phí hết tài sản, trở thành nô lệ, phải chăn heo để có thể sống còn. Cậu đã sa đọa đến tột cùng. Theo luật Do thái, khi đã trưởng thành, mười tám tuổi, con cái có thể xin cha mẹ chia gia tài. Ở đây người cha sẽ chia cho cậu một phần ba tài sản, hai phần kia là của cha và người con cả. Tại sao người cha không ngăn cản mà lại bằng lòng chia gia tài cho đứa con út ? Thánh Luca không kể hết mọi chi tiết và chúng ta có thể hiểu rằng có lẽ người cha đã thuyết phục con mình, nhưng cậu không nghe. Đó là điều đáng trách.
Khi đã rơi vào cảnh bần cùng nhục nhã đến tột cùng, cậu út mới hồi tưởng lại thời vàng son của mình, khi còn ở trong gia đình. Và cậu quyết định trở về với cha, mong rằng cha sẽ cho mình làm đầy tớ thôi, vì cậu đã mất quyền làm con. Sự trở về của cậu cũng không tốt đẹp gì và có tính cách vụ lợi chứ không vì thương cha. Thế nhưng tình thương của người cha đã làm cậu nghẹt thở. Cậu cũng e sợ khi phải đối mặt với cha, nhưng ngược lại, cậu đã được tiếp nhận như một người con. Tình thương của cha vẫn nguyên vẹn như ngày nào. Người con bạc tình kia được tiếp đón với tất cả niềm vui. Không một lời trách mắng, không một ánh mắt phiền não. Tất cả đều bất ngờ ! Áo đẹp, nhẫn mới, dép mới, tất cả được hoàn lại cho người con khốn khổ. Phải ăn mừng ! Chúng ta có thể tưởng tượng được những gì xảy ra trong tâm hồn đứa con bội bạc đó không ? Đứa con bội bạc đó là ai ? Phải chăng là mỗi người chúng ta ? Là chính chúng ta đấy !
Biết bao lần chúng ta đã không yêu mến Cha, không muốn sống với Cha, chúng ta ham mê những thứ phù phiếm giả tạo , vùi đầu vào những thú vui trần gian. Chúng ta phung phí biết bao nhiêu ơn lành Cha đã ban để làm tổn thương tình yêu. Thế nhưng, mỗi lần chúng ta trở về là chúng ta được tha thứ, được hoàn lại mọi hồng ân. Chúng ta có thấy chúng ta được yêu thương đến mức độ nào không ? Chúng ta có một người Cha tuyệt vời như thế, chúng ta có cảm thấy yêu mến Cha không ? Hay chúng ta như người con cả, khư khư giữ đặc quyền của mình và loại trừ người em khốn khổ của mình ?
Thái độ của người con cả là thái độ loại trừ, khinh miệt, bất bao dung của người Pharisêu. Có thể phần cuối của dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn nói với người Pharisêu, là những người cho mình là trọn lành không cần ăn năn sám hối, là những người con ngoan của Thiên Chúa, phục vụ Chúa như người anh cả : “Đã bao nhiêu năm con phục vụ cha”, còn thằng con kia của cha…” Người cha cũng hiểu được thái độ của người con cả và ra năn nỉ anh cùng chung vui với ông vì con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay đã tìm thấy. Tình thương của Cha trên trời là vô biên, Ngài không để ý tới sự yếu đuối của chúng ta, chỉ vui mừng vì chúng ta và mời gọi chúng ta cư xử với nhau như Ngài đã cư xử với chúng ta. Ngài không mõi mệt tha thứ cho chúng ta, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như thế. Chúng ta dễ rơi vào thói quen bao dung cho chính mình mà không biết cảm thông sự yếu đuối của người khác. Trong các giáo xứ vẫn có những thành phần Pharisêu thường thích lên án anh em mình, loại trừ những người yếu đuối, tội lỗi. Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta vượt biên, ra khỏi những thành kiến cá nhân để biết nhìn anh em với lòng thương yêu chân thành và tìm hết mọi cách để cảm thông những lỗi lầm của anh em mình. Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới vô cảm, không lẽ chúng ta lại vô cảm như những người khác sao ? Chúng ta là con của Thiên Chúa Tình Yêu, chúng ta phải là nhân chứng cho tình yêu, nếu không chúng ta sẽ làm cho người khác thóa mạ Chúa chúng ta. Thánh Phaolô cũng đã dạy ; “ Trong Chúa Kitô, không còn phân biệt người Hy Lạp hay Do thái”.
Sau hơn hai mươi thế kỷ sau Chúa Kitô, những rào cản giữa con người với nhau càng ngày càng dày đặc: sắc tộc, kinh tế, chính trị, tôn giáo… Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vượt ra khỏi những rào cản đó để trở thành người nhà của Thiên Chúa, trong đó mọi người đều được yêu thương như nhau. Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta gánh vác lẫn nhau, những người mạnh nâng đỡ những người yếu đuối. Như thế chúng ta mới thực sự là con Cha trên trời.
Phải ăn mừng vì con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay được tìm thấy”. Chúng ta hãy ăn mừng vì chính chúng ta đã chết trong tội , nay được sống lại với Chúa Kitô. Chúa Giêsu đến mở tiệc vui hôm nay và chúng ta được mời gọi tham dự vào niềm vui của Chúa và chúng ta được mời ăn lấy Thịt Con Chiên đã chết và đã sống lại. Hãy đến chung vui với Chúa trong bữa tiệc Thánh Thể vì Chúa đã đến viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Hãy ăn lấy Chúa để cùng với Chúa, chúng ta đi tìm những con chiên thất lạc, tìm người anh em đang sống trong ách nô lệ tội lỗi, đưa họ về trong một đàn chiên duy nhất. Như thế, chúng ta mới làm cho niềm vui của Chúa được trọn vẹn, vì Ngài đã đến để cứu vớt những gì đã mất.
Cả ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay có cùng nội dung: Mất mát và tìm thấy:
– Người chủ chiên, mất chiên, sau khi vất vả tìm kiếm đã tìm lại được con chiên lạc loài, bỏ bầy ra đi.
– Người đàn bà bị mất đồng bạc, đã nhọc công dùng mọi phương cách mà bà có thể nghĩ ra, tìm cho đến khi gặp lại đồng bạc.
– Người cha ngóng trông từng giờ, từng phút đứa con phản bội bỏ nhà ra đi. Khi cuộc đời đứa con tan nát, tà tạ, nó quay về với người cha tội nghiệp, lại cũng chính là lúc ông nhận ra nó “từ đàng xa”.
Cả hai nội dung “mất mát” và “tìm thấy” trong ba dụ ngôn, đều đặt vào bối cảnh của tình yêu hết sức lớn lao, hết sức triều mến, hết sức đậm đà toát ra từ người làm chủ (dù là chủ vật chất hay chủ gia đình):
– Người chủ chiên yêu chiên đến nỗi, khi tìm được nó, ông không một lời oán trách, không một hành động tỏ ra nghiêm khắc. Ngược lại, ông ôm chầm lấy nó, vác nó lên vai trở về. Ông còn mời bè bạn, lối xóm đến chung vui, sớt chia hạnh phúc.
– Thái độ của người đàn bà mất đồng bạc cũng thật lạ thường, nếu không đặt trong khung cảnh của lòng yêu thương, ta không thể hiểu nổi. Thực tế, làm sao có ai tìm được đồng bạc mất mà lại mở tiệc mừng. Bởi khi mở tiệc mừng, sự tốn kém quá chênh lệch so với đồng bạc bị mất.
Chỉ có lòng yêu thương dành cho những gì vuột khỏi tầm tay mình là lớn hơn tất cả, để người chủ không còn tính toán thiệt hơn, mà chỉ biết làm mọi cách để lòng yêu thương của mình lên ngôi và ngự trị.
– Còn người cha, từ sau khi đứa con bê tha bỏ nhà ra đi, ông đã nhìn thấy cuộc trở về của nó trước khi nó thực sự trở về. Ông ngóng trông qua từng thời gian nặng trĩu cứ trôi, nhưng không mòn mỏi, không hề nản chí, ngược lại càng dày thời gian càng đầy hy vọng: Cong ông sẽ trở về!
Bởi đã thấy trước cuộc trở về ấy, ông nhận ra nó tận đàng xa, trước khi nó nhận ra ông. Ông hạnh phúc tìm lại đứa con bị mất:
+ Cử chỉ của ông tha thiết: “Ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để”.
+ Thái độ của ông luýnh quýnh: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”.
+ Suy nghĩ của ông quá cảm động: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
+ Và qua tất cả những bật thốt bên trên, cho thấy lời nói của ông đậm đặc tình yêu thương xót, đậm đặc tình yêu tha thứ.
Ông đã chuẩn bị cho ngày đón con ông trở về tự lúc nào. Sự chuẩn bị này, mọi người đều biết, thậm chí đầy tớ cũng biết. Ông bảo họ mang áo đẹp nhất, mang nhẫn, mang dép, và bắt con bê béo giết thịt đãi con ông, mà không cần phải cho biết chúng như thế nào, nằm ở đâu. Hình như đầy tớ thuộc nằm lòng sự xếp đặt của ông. Tất cả mọi sự đều nói lên tình thương không thể có đủ lời để diễn tả mà người cha dành cho đứa con đáng tội.
Cả ba dụ ngôn: Con chiên bỏ bầy, đồng bạc bị mất, đứa con hoang đàng chỉ là cái cớ để nhấn mạnh đến người tội lỗi và thái độ rất mực yêu thương của Thiên Chúa dành cho người có tội hồi tâm: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.
Vì thế, dẫu trong từng dụ ngôn, có những điều, mà theo logic, chúng ta khó chấp nhận. Nhưng đặt trong bối cảnh của tình yêu mà Đấng Hằng Sống dành cho chúng ta, những điều tưởng chừng vô lý lại càng đẩy đi xa, lại càng tôn lên cao tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu ngút ngàng, một tình yêu dung thứ, một tình yêu trời không thể đo đất không thể dò, một tình yêu bền bỉ ngay cả khi con người chẳng những lỗi phạm mà còn lỗi phạm nặng.
Biết mình có tội, chúng ta không đánh mất hy vọng, nhưng can đảm trở về với tình yêu của Chúa. Trở về với lòng xót thương không bao giờ vơi cạn ấy, chúng ta sẽ hạnh phúc, sẽ bình an, sẽ thấy cuộc đời mình tràn ngập lẽ sống, lẽ yêu đương.
Tòa giải tội là nơi Chúa dùng để ban ơn tha thứ. Hãy tỏ lòng sám hối bằng việc quỳ bên tòa giải tội, khiêm tốn xưng thú tội lỗi để nhận ơn tha thứ của Chúa.
Trong đời sống thường nhật, biết mình hay va vấp, chúng ta xin Chúa tuôn đổ ơn giúp ta khôn ngoan phân định điều tốt, điều xấu, cái gì cần thiết, cái gì không cần thiết để ta luôn bền chí thực thi sự lành, và dù có chết cũng nhất quyết tránh xa điều dữ.
Chúng ta nguyện xin Chúa ban sức mạnh của Chúa để ta luôn luôn sống trong sự khiêm tốn, đơn sơ, luôn luôn gần gũi với mọi người, luôn luôn nhìn thấy và học tập những điều tốt lành nơi mỗi con người mà ta gặp gỡ hay tiếp xúc, để ngày càng dồi dào thêm kinh nghiệm sống, kinh nghiệm vươn lên sự thiện, vương đến ơn phần rỗi.
Sự nhiệt tâm sám hối phải là ý thức bền bỉ qua hết mọi ngày của đời sống mà ta được Chúa ban tặng. Nhờ tinh thần sám hối không ngơi nghỉ ấy, ta luôn thắm ơn Chúa, thắm tình yêu của Chúa, luôn tìm mưu ích cho đời, cho mọi con người xung quanh ta.
Trên tất cả mọi sự, từ nội dung của ba dụ ngôn hôm nay, chúng ta phải đinh rằng, Chúa luôn tìm kiếm chúng ta. Chúa muốn chúng ta luôn đặt mình trong tay của Chúa, lệ thuộc Chúa, để Chúa làm chủ và điều khiển cuộc đời chúng ta.
Hoa có tươi đẹp mấy đi nữa, rồi cũng héo tàn, nhiều tiền lắm của đến đâu, chúng vẫn chỉ theo ta đến cuối cuộc đời ; sức khỏe ta có như lực sĩ, rồi cũng xuống cấp theo tuổi đời. Nước chảy ngược, chảy xuôi, nước vẫn trở về nguồn ; con cái có vô tình bạc nghĩa, chúng vẫn không thể quên câu ca dao : công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Dù là vật vô tri vô giác, hay một con người đa tình đa cảm, tất cả đều mang một giá trị riêng, đang góp phần làm nên sự phong phú cho vũ trụ này.
Con cá nhớ nguồn, ngược về dòng sông, con chim nhớ cội, tìm về tổ ấm. Mang phận làm con, người xưa sánh ví một câu hết sức tình nghĩa : ngựa xa mới biết đường hay, có con mới biết, ơn dày mẹ cha. Nếu cá nhớ nguồn, chim nhớ cội, con người không thể không nhớ đến tổ tiên dòng tộc của mình. Từ việc hướng thiện, thích nghe những lời hay ý đẹp, người thu thuế tội lỗi hôm xưa, họ được cuốn hút để nghe lời giảng dạy của Thầy Giêsu. Vị Thầy Giêsu hôm đó dẫn mọi người tới đích điểm của cội nguồn, khi Ngài đưa ra liền một lúc ba dụ ngôn.
Ngạc nhiên nơi các đối tượng mỗi lúc một đông hơn, ban đầu chỉ có người thu thuế, tội lỗi, rồi đến các luật sĩ, biệt phái…, số đông được thuyết phục trước tình yêu tha thứ mỗi lúc một thực tế hơn. Một con chiên lạc, được Đức Giêsu so với 99 con chiên ngoan hiền, do nặng tình nặng nghĩa, người mục tử quyết lên đường tìm chiên, dù việc kiếm tìm ấy đầy khó khăn. Một đồng tiền nhỏ bé bị mất, tưởng không đáng gì, nhưng nhỏ bé nó vẫn là tiền, chứ không phải vì rơi rớt đồng tiền ấy biến thành sỏi đá. Sau nữa, một người sai phạm, lầm lỡ, anh ta vẫn mang hình ảnh con người được Đấng yêu thương tạo thành.
Khái niệm bị lạc, bị mất, và tìm thấy, tự bản chất đã mang một tâm trạng : buồn vì lạc mất, vui vì đã tìm lại được thứ quý giá. Chiên lạc, đồng tiền bị mất, hay đứa con hoang đàng, đều phản ánh lý do đáng tiếc xảy ra. Nhưng hy vọng luôn tràn đầy bởi tình yêu của người mục tử đi tìm chiên ; lòng nhẫn nại của người phụ nữ thắp đèn tìm đồng bạc bị rơi, bị mất ; và tấm lòng bao dung của người cha nhân hậu mở rộng đón nhận con trở về. Nỗi niềm trào dâng được Chúa Giêsu diễn tả bằng bữa tiệc vui với bà con thân thuộc, cùng với triều thần thánh trên trời mừng vui vì một người sám hối trở về với nguồn yêu thương.
Nhờ sự nỗ lực của người mục tử, con chiên lạc tìm thấy được niềm vui trở về, nhờ sự chăm chỉ, nhiệt tâm nhiệt tình, đồng tiền sớm được tìm thấy. Nhờ tấm lòng đầy nhân ái của người cha, con thứ con trưởng đều nhận biết mình bất xứng, rất mong ơn thứ tha, hầu có được giá trị tình yêu thuở ban đầu. Phản ánh cuộc sống thực tế cho thấy, những thứ lạc mất hay hư hỏng càng cao quý, giá trị, người ta càng nuối tiếc da diết, nên cụm từ kiếm tìm, hồi tâm, bao dung tha thứ sẽ không xa dời nhau.
Tục ngữ có câu : mất của dễ tìm, mất lòng khó kiếm. Những gì gần gũi thân thiết với ta, nếu hư mất nay tìm thấy lại được càng vui, càng hạnh phúc biết bao, Chúa Giêsu sánh ví : “cả triều thần thiên quốc đều vui mừng vì người tội lỗi sám hối”. Tính toán sai, đầu tư làm ăn thất bại, thời nào cũng cản trở người ta gặt hái thành công hạnh phúc. Thời gian làm lành mọi vết thương, hay nước mắt chảy xuôi, luôn là những câu thành ngữ nhắc nhớ ta đến tấm lòng bao dung tha thứ của đấng bậc sinh thành, con cháu hãy tin tưởng.
Người mục tử mong tìm được chiên lạc, người phụ nữ luôn hy vọng tìm thấy đồng tiền bị mất, người cha già mơ ước các con biết trở về với tình yêu thương, nhưng Thiên Chúa luôn thao thức tất cả mọi người đều được hưởng niềm vui với triều thần thiên quốc. Con người lầm lỡ, sai đường vì bất cứ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa Ngài vẫn là Thiên Chúa yêu thương hơn là Thiên Chúa quở phạt. Dù ta tội lỗi bất xứng, Thiên Chúa vẫn tạo cơ hội để chúng ta trở về với cội nguồn yêu thương hơn là giết chết.
Đứa trẻ té ngã vì trẻ người non dại, thanh niên thiếu nữ có thể vấp váp thường vì thiếu kinh nghiệm, người trưởng thành, bậc đáng kính mà lỗi phạm sa ngã, nguyên nhân thường là do tự mãn kiêu căng. Chúa Giêsu đã thể hiện một tinh thần yêu thương không phân biệt nghèo hèn, tật nguyền, thân phận thu thuế hay tội lỗi, mọi thành phần đều có chỗ đứng bàn tiệc của Nước Chúa. Đức Giêsu muốn khẳng định : dù là chiên lạc, chiên ngoan, dù là đồng tiền bị rơi bị mất, người thánh thiện hay cứng lòng tin, mỗi người chúng ta đều là đối tượng của Đấng giầu lòng xót thương. Amen.
Trong chương trình phát sóng ‘Nhìn ra Thế giới’, đài truyền hình Vĩnh Long, có giới thiệu đến người xem những Thành Phố cổ một thời nỗi tiếng của đất nước Do Thái. (Phim nước ngoài, thuyết minh Anh ngữ, phụ đề Hàn ngữ, thông dịch Việt ngữ). Một trong bốn thành phố cổ nổi tiếng là Qumran. Nơi đây có các hang động lừng danh về mặt lịch sử. Chính tại một trong các hang động ấy, Bộ sách Kinh Thánh cổ quý giá của đạo Công Giáo đã được tìm thấy trong một trường hợp hi hữu, bất ngờ và ly kỳ khó tin. Bộ Kinh Thánh không cố tìm mà gặp lại được, nhờ một hôm, người mục tử mất chiên đi vào trong các hang tìm con chiên lạc. Các hang động ở đây xưa nay thường dành làm chỗ trú ngụ cho đàn chiên, và từ lâu cũng là nơi của nhiều người chạy giặc ẩn náu, cũng có thể nói là nơi an toàn cất giữ nhiều cổ vật quý giá phòng khỏi đạo quân lân bang đánh phá, cướp bóc. Qua đó có sự tương hợp nối kết hai động thái gợi ý độc đáo này: đi tìm chiên lạc mà ngẫu nhiên phát hiện bộ Kinh Thánh đã mất. Có thể nói đi tìm chiên lạc là tìm thấy ý Chúa. Vì khi đi tìm chiên lạc gặp lại bộ Kinh Thánh đã lạc, mà KT bao gồm những lời và ý TC bày tỏ thánh chỉ Ngài dạy dỗ dân! Cũng có thể nói là tìm thấy Chúa.
Tường thuật Luca hôm nay ghi lại cuộc tranh luận giữa ĐGS và những người Pharisêu và kinh sư. Họ lên án Người thân gần với những người tội lỗi, những người thu thuế chẳng hạng, mà còn ăn uống với họ. Một cách khách quan để giúp họ hiểu và tránh khỏi quan điểm và thái độ tách biệt cố hữu lầm lạc xưa nay, Người đưa ra ba câu chuyện như ba bức minh họa để họ suy ngẫm. Chuyện một con chiên lạc xa đàn, đồng xu mất khỏi túi người phụ nữ chỉ có hơn mười đồng lẻ, và đứa con trai hoang đàng của người cha nhân hậu chung sống khôn ngoan đầy tình duy chỉ với hai đứa con trai.
Chiên lạc được chủ tìm gặp, âu yếm vác trên vai đưa về đàn, rồi mở tiệc mời bầu bạn thỏa tình vui mừng. Đồng xu lẻ cũng được người phụ nữ tìm thấy trong bao vất vả, cùng một cách, mở tiệc mời chị em bạn đến, ai nấy cùng vui mừng. Phần đứa con trai đi hoang đàng, sau một thời gian ngắn, nhận ra tình huồng tồi tệ đang xảy đến với mình, nhận ra ‘đời không là ông chủ hào hoa luôn quảng đại rộng vãi hào phóng hạnh phúc êm ái’, anh hồi tâm rụt rè quay về với cha; Người cha vui mừng tha thứ bằng vòng tay ôm choàng lấy con vào lòng, tận bên ngoài cổng, cùng với những nụ hôn nồng ấm thuở nào mà anh đã từng rất quen đón nhận. Người cha cũng đã mở tiệc linh đình cùng vui mừng với mọi người vì ‘con đã mất mà nay lại tìm thấy’. Tất cả những bức ảnh minh họa như thế đâu là ý tưởng then chốt mà ĐGS muốn truyền đạt vào những người Pharisêu, kinh sư và biệt phái tự hào là thiện hảo xa lánh người tội lỗi và thu thuế?
Biết rằng:‘không ai chỉ có một quá khứ mà không có tương lai’ (Hồng Y Phanxico Xavier Thuận). Ý tưởng này có hàm ý bộc lộ ý tưởng mà ĐGS lồng vào ba dụ ngôn như ba bức tranh trong ba câu chuyện minh họa.
Trước tiên, chân lý được khẳng định dứt khoát, với TC, không có gì do Ngài dựng nên mà không trong trật tự kỳ diệu và trọn hảo tốt đẹp. Cho dù là ‘vật vô tri như đồng xu’, ‘sinh động vật’ mang sự sống với bản năng xúc cảm ít niều cảm thức như con chiên lạc, ‘con người như đứa con hoang đàng, sinh vật cao trọng. Cả ba ba thí dụ là hình ảnh ba đại diện mang tính tổng hợp. Tất cả phân bổ theo đẳng cấp giá trị cao thấp theo nguyên lý của Đấng tạo dựng ấn định cho mỗi chủng loại hiện hữu, để tất cả lệ thuộc vào nguyên tắc sinh tồn và sự cân bằng sinh thái hài hòa vũ trụ. Vì thế Ngài không muốn những gì mà Ngài dựng nên bị mai một vì bất kỳ lý do gì. Tất cả, cho dù ở tôn ti đẳng cấp nào, vẫn được gìn giữ, chăm sóc, bảo tồn nguyên vẹn hoàn hảo, tốt đẹp, thế giá.
Điều thứ hai, ở cuộc đàm luận, ở đây hay nhiều nơi khác, người Pharisêu và kinh sư không thể hiểu ra hay chấp nhận Đấng họ đang đối diện như Người muốn ủy thác chính mình cho họ, Người là Đấng tìm chiên lạc! Vai trò và sứ mệnh đó là vai trò và sứ mệnh được ủy thác cho Người, chỉ còn việc hoàn tất, tuy hiện tại chỉ mới khởi đầu, bước tiền khởi sự tái tạo mọi sự đã và còn hư đi vì tội và vì quyền lực của quỷ thần gieo rắc. Điều như vậy người biệt phái chẳng hề muốn biết! Mà nếu ĐGS có nói để họ biết thì họ vẫn chẳng thấy tự thay đổi dược gì, trừ một số nhỏ như Nicôđêmô!
Điều thứ ba, ĐGS muốn những người Pharisêu, kinh sư khả thi tự hiểu mình ra làm sao trong ba câu chuyện mà Người nói với họ? mong họ đón nhận và đổi mới. Suy cho cùng, chính những người này thật sự là những con chiên đang ‘rất lạc’, nhưng không phải một con, mà ‘cả đàn lạc’. Nếu chỉ lạc thôi chưa hẳn đã mất hay sẽ mất, hoặc không giá trị nữa! Mất xác mất hồn hay tiêu tán giá trị chỉ khi không biết quay lại để về. Thứ làm ra lạc chính là cái gieo rắc đam mê. Tội thì làm cho kẻ vấp ngã ra vong thân, hoen ố danh giá, nhưng phẩm tính vẫn là hình ảnh TC hay họa phẩm TC vẫn không thế hủy diệt dẫu có bị mờ mịt. Giá trị vô song! chính là ân ban cao cả được mang bản tính người trong đời trần. Nhưng làm sao, để giữa ‘người’ với nhau, có ‘tầm nhìn’ nâng cấp đến toàn hảo mỗi khi nhìn người khác, bằng cả thực chất là bản tính đồng nhất. Đồng nhất trong cùng một ngôi nhà chung, đồng nhất trong ‘kiếp sống người’, chung hành tinh diệu kỳ, nhưng có tầm giới hạng, lại đầy thữ thách tấn kích cho dẫu mỏng dòn.
Nhân loại là đoàn dân Chúa dựng nên. Sau tội Adong, đã trở nên đàn chiên lạc. Thời ĐGS đi rao giảng, có Gioan Tiền hô làm chứng, vẫn có những người thuộc thành phần không tiếp nhận Người. Vậy có nên khám phá ra một thứ chiên mang hình thái thứ ba không? Chiên tốt, ai cũng nhận ra được: có khả năng nhận biết chủ, nghe biết tiếng chủ, đi theo chủ; kế đến chiên lạc, chiên rơi vào một bối cảnh nào đó thay vì nhận ra đen tối đằng sau vẻ hấp dẫn thì chỉ thấy toàn ánh hào quang ‘lóe mắt’ đâm ra vấp chân té ngã như chụp nắm lấy một ảo giác, tỉnh dậy vẫn có ân hận rất muốn quay về. Bác sĩ Seguin với ‘con chiên cái’ trong chuyện ngụ ngôn La Fontaine đã cho thấy có sự đồng tình trong suy nghĩ như vậy; sau cùng là ‘chiên không tên’, chiên không lạc mà đầy tự hào là chiên ‘tốt’!, sống trong tâm thế tự giáo điều, ‘chủ quản cực đoan’. Triệu chứng dễ nhận ra của họ là sống theo lối người đi vừa hát khúc ‘tình ca’: ‘đường ta ta cứ đi’, ngang nhiên bước đi tới dù tình huống có lâm trận ‘điếc không sợ súng’ hoặc không muốn thay đổi theo kiểu ‘ếch ngồi đáy giếng’ an vị, thay đổi thì sợ, vươn lên nơi khác biết có thành công hay rủi ro rơi lạc phải hiểm họa nào khác? Họ bế tắc khả năng cảm thức được tiếng Chúa mời gọi và mỏi mòn chờ đợi họ như người cha đợi mong con trở về cùng sống an bình trong hạnh phúc đoàn tụ.
Nhìn lại, ĐGS trong khao khát: những người Pharisêu, kinh sư hãy nghiền ngẫm để thấy chính họ qua thái độ phán ứng của người anh cả với em thứ trong câu chuyện để hồi tâm. Lời mời gọi của Người dành cho họ, hãy có tâm hồn rộng mở để đón nhận ít nhiều cảm thông như cảm thông đứa em hoang đàng trở về từ chốn sa đọa tội lỗi, là đại diện cho những người thu thuế, và tất cả những người tội lỗi khác trong thiên hạ. Câu chuyện được kể, mở đầu, gồm ba nhân vật, mà có tới ba mặt, ba lòng. Nhưng kết thúc, thì còn lại ba mặt, một tấm lòng. Kẻ tội nhân quay về để sống trong đàn chiên hợp nhất, kẻ lành biết yêu thương cảm thông, quên mình, đón nhận để có chung tâm tình đi đến hài hòa, chung niềm vui sướng trong cùng Nước Chúa hiển trị. Nếp sống đó hạnh phúc biết bao cho hôm nay và nhất là mãi đến muôn nghìn sau trong Nước Trời hằng sống!
Lạy CGS, Đấng tìm chiên lạc mang về đoàn tụ trong đàn chiên hợp nhất. Xin khắc ghi sứ mệnh cao cả ấy vào tâm khảm chúng con, sứ mệnh thiêng liêng đẹp tình con thảo Cha trên trời và đẹp tình làm người, đồng môn nhân loại trên thế. Biết là để thực hành. Xin Người hằng ở kề bên nâng đở!
Có một câu chuyện về một thiếu niên tên Thông bỏ nhà ra đi sống bụi đời một thời gian. Nhưng vì không thể nào chịu đựng được sự tàn nhẫn của cảnh bụi đời nữa, cho nên cậu viết một lá thư gửi về cho mẹ, bày tỏ niềm hy vọng sẽ được bố tha thứ, và cho phép cậu trở về nhà. Lá thư như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì xin mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo ở trước nhà.
Vài ngày sau Thông lên xe buýt trở về nhà. Trong lúc xe buýt chạy gần đến nhà thì hai hình ảnh cứ chớp lòe liên tục hiện ra trong trí anh ta. Khi thì trên cây có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng có một miếng vải trắng nào. Xe buýt càng tiến gần nhà, trái tim của cậu càng đập nhanh hơn. Không còn bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra nơi khúc quẹo, nhưng Thông không dám tự mình nhìn, vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây có nhiều cành. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng không nhé.”
Khi xe buýt từ từ lướt qua cây táo, Thông nhìn chăm chăm về phía trước, và với giọng run run cậu hỏi người đàn ông: “Thưa ông, có một miếng vải trắng treo ở một cây nào đó không?” Ông ta sửng sốt trả lời: “Ồ này cậu bé, cành cây nào tôi cũng thấy có cột một miếng vải trắng cả, và hình như trong nhà đang chuẩn bị tiệc vui.”
Ông bà anh chị em thân mến. Câu truyện trên đây và những câu truyện trong những bài Kinh thánh Lời Chúa hôm nay cho chúng ta sự hiểu biết về Thiên Chúa là một người cha nhân từ yêu thương và những hành động của Người. Thiên Chúa biết rõ từng người chúng ta và những tội lỗi của chúng ta hơn chúng ta biết chúng ta. Mặc dầu vậy, Người vẫn luôn yêu thương chúng ta với một tình yêu bao la vô bờ bến hơn chúng ta và những người thân thuộc yêu thương chúng ta, và với lòng nhân từ và thương xót, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta hơn lòng chúng ta ước mong nơi Chúa.
Bài đọc một trích sách Xuất hành cho chúng ta thấy lòng nhân từ và sự tha thứ của Thiên Chúa cho sự phản bội và bất trung của dân Người. Sau khi dân Do thái được Chúa cứu thoát khỏi cuộc sống nô lệ bên Ai cập đang trên đường về Đất hứa, và vừa ký Giao ước trung thành với Thiên Chúa, họ đã quay lại phản bội Chúa. Trong khi Chúa gọi Môi-sê trở lên núi Si-nai để nhận mệnh lệnh, thì ở dưới dân chúng đúc và thờ thần bò vàng của dân ngoại giáo Ca-na-an. Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ định tiêu diệt dân này để lập một dân khác trung thành hơn, nhưng nhờ lời khẩn cầu của Môi-sê, xin Chúa nhớ lại những việc lạ lùng Chúa đã làm cho dân mà thương xót và tha thứ cho họ. Chúng ta được biết Chúa đã nguôi giận, mở rộng lòng thương xót và sẵn lòng tha thứ cho họ.
Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô minh chứng cho chúng ta về tình yêu, lòng nhân từ và thương xót của Chúa đối với chính ngài, một người tội lỗi tày trời. Từ một người tội lỗi sống trong lầm lạc, bắt bớ và hành hạ những người theo Ki-tô giáo, ngài đã được chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh thương xót tha thứ, và biến đổi trở thành tông đồ, giao phó sứ vụ rao giảng Tin mừng của Người cho những người ngoại giáo. Thánh Phao-lô xác tín rằng: “Ðức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi.”
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giê-su bị những người Biệt phái và Pha-ri-sêu phê bình và chỉ trích về việc liên hệ với những người tội lỗi, cho nên Người đã kể 3 dụ ngôn tuyệt đẹp để minh chứng Người là sứ giả tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha cho mọi người, nhất là những người tội lỗi và lầm lạc. Tôi biết ông bà anh chị em đã nghe 3 dụ ngôn này nhiều lần và đã được giải nghĩa qua nhiều ý tưởng, cũng như bài Tin mừng dài và ý nghĩa rõ ràng: Thiên Chúa yêu thương và quan tâm đến tất cả mọi người, và Người không muốn bất cứ một ai phải hư mất, cho nên tôi chỉ muốn chia sẻ 2 điểm ngắn gọn thôi.
Điểm thứ nhất mà tôi muốn nhấn mạnh là trong 2 dụ ngôn đầu “Chiên lạc” và “Đồng tiền đánh mất”, người đàn bà và chủ chiên không ngại khó nhọc và thời giờ đi tìm đồng bạc và chiên lạc cho đến khi tìm được. Trong khi dụ ngôn mà chúng ta thường gọi “Người con hoang đàng”, người cha không đi tìm và bắt con phải trở về. Người cha chỉ đơn giản kiên nhẫn chờ đợi và hy vọng người con sớm quay trở về với ông mà thôi. Trong một tình huống, Thiên Chúa dùng mọi phương cách đi tìm và dẫn dắt chúng ta về với Người khi chúng ta tội lỗi và sống xa lìa Người. Trong tình huống khác, Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta quay trở về với Người. Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi chúng ta tự do quyết định quay trở về với Người. Cũng như Chúa tôn trọng sự tự do của chúng ta nếu chúng ta quyết định tách xa, sống xa Chúa, cho đến khi như bài Tin mừng nhấn mạnh chúng ta “hồi tâm” quay trở về với Người. Cầu xin và hy vọng, chúng ta còn có thời gian và cơ hội quay trở về với Chúa.
Điểm thứ hai mà tôi muốn chia sẻ với ông bà anh chị em là chúng ta có thể tự hỏi: “Tại sao Chúa quá sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho chúng ta?” Thưa vì Chúa yêu thương và muốn chúng ta sống trong bình an, hạnh phúc và ân sủng của Người. Chúa biết khi chúng ta thành tâm mở rộng tâm hồn với Chúa, chỉ điều đó đã mang lại cho chúng ta an bình và hạnh phúc, và đó cũng là lý do tại sao Chúa đã tạo dựng nên chúng ta.
Điểm cuối cùng tôi muốn nhấn mạnh là khía cạnh vui mừng chứa đựng trong cả 3 dụ ngôn. Thiên Chúa đầy sự vui mừng khi đồng bạc, con chiên và người con hoang đàng đã tìm lại được. Tôi tin chắc Thiên Chúa cũng sẽ vui mừng khi tìm lại được chúng ta, hay khi chúng ta “hồi tâm” trở về với Người.
Chủ Ðề: Lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Người mục tử đi tìm con chiên lạc. (Lc 15, 4)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!"
Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.
Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.
II. Gợi ý sám hối
* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 32, 7-11. 13-14)
Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.
Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.
Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý:
Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel.
Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu "Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe".
2. Đáp ca (Tv 50)
Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa: "Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm".
3. Tin Mừng (Lc 15, 1-32)
Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 à 1/10 à ½). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc - người ta thường nói "đồng tiền liền khúc ruột - và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
4. Bài đọc II (1 Tm 1, 12-17)
Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài:
"Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót"
"Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi"
"Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài".
IV. Gợi ý giảng
* 1. Giá trị của từng con người
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v. v. một hội viên phát biểu: "Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng". Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: "Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi".
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).
* 2. Cái mất là cái quý
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là: cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.
Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)
Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: "Vì tôi lạc bị mất một con chiên". Chúa Giêsu nói: "Để Ta đi tìm nó cho". Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: "Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó".
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?
Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.
Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.
Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.
* 3. Những con người bị mất
Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất.
Những con người bị mất ấy là ai?
Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang.
Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo.
Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời.
Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau.
Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa.
Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.
Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.
* 4. Tuyệt đỉnh của yêu thương (Lc 15,1-12)
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa.
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
***
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất". Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, "lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa" (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: "Lạy Cha, xin tha cho họ". Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: "Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà".
***
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đường sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (Thiên Phúc)
5. Chuyện minh họa
a/ Sự tha thứ của Chúa
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
- Ông biết đây là gì không?
- Nó giống như cát.
- Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không?
- Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
- Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả?
- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
b/ Không cần đếm
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. "Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết? " Câu trả lời thật ý nhị: "Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt. "
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin:
1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần / tuôn đổ đầy trành tình yêu của Người vào tâm hồn mọi thành phần Dân Chúa / để ai nấy đều trở nên sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người.
2. Hiện nay / có biết bao thanh thiếu niên bỏ nhà đi bụi đời vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau / trong số đó nổi bật nhất là do thiếu tình thương / và sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ / hoặc cha mẹ bất hòa hay ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn là tổ ấm tình thương / là nơi nương tựa cho mọi thành viên của mình.
3. Thử thách gian truân nhiều khi làm cho con người lâm vào cảnh bế tắc / mất hết niềm hy vọng để vui sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chạy đến cùng Chúa khi gặp buồn phiền đau khổ / để được Người nâng đỡ ủi an.
4. Chúa yêu thương tất cả mọi người / không kỳ thị thiên tư / không phân biệt đối xử với bất cứ ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn noi gương Người trong cách cư xử của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
VII. Giải tán
Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.
Chuyện kể rằng, có cậu bé hư hỏng, bỏ nhà đi hoang, nay muốn hối lỗi trở về, nhưng lại sợ bố mẹ không chấp nhận. Trước khi về, cậu viết thư cho cha mẹ, với lời xin nếu cha mẹ sẵn sàng đón nhận, thì hãy treo trên cành cây trước cửa nhà một đồ chơi là chiếc xe tăng mà cậu bé rất thích. Cậu sẽ trở về nếu nhận được tín hiệu vui. Nhận được thư này, cha mẹ cậu bé treo trên cành cây, không chỉ là chiếc xe tăng, mà còn cả quần áo, đồ dùng và đồ chơi của cậu bé. Khi lén đi ngang qua nhà và nhìn thấy, cậu bé cảm động và bước vào nhà, lao vào vòng tay âu yếm bao dung của cha mẹ.
Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” trong Tin Mừng thánh Luca thường được đọc trong Mùa Chay, với lời mời gọi hãy trở về với Chúa, vì Ngài giàu lòng thương xót và rất mực yêu thương. Quả vậy, nếu chúng ta có thể tự tin trỗi dậy từ tình trạng tội lỗi để trở về với Chúa, là vì chúng ta tin vào lòng bao dung của Ngài, bởi “Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời” (Tv 29, 6).
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ngài luôn chờ đợi chúng ta. Người cha trong dụ ngôn, kể từ khi người con thứ bỏ nhà ra đi, luôn chờ mong con trở về. Trong khi người con đi hoang, với ảo tưởng có thể vươn cao vươn xa trong cuộc đời, thì người cha lại vẫn trông chờ và hy vọng nó sẽ trở về. Bằng chứng là ông vẫn vỗ béo con bê, để khi người con thứ trở về, thì đã có sẵn thực phẩm để đãi bạn bè láng giềng. Tình Cha thật cao siêu vời vợi. Sự chờ mong này cũng thể hiện ở chi tiết, khi người con thứ còn ở đàng xa, người cha đã nhận ra và chạy ra đón cậu. Tình thương vô bờ được thể hiện ở chỗ, ông không để cho cậu nói hết câu cậu định nói, mà gọi gia nhân mang đồ ra cho cậu mặc, nhẫn cho cậu đeo và giày cho cậu đi. Người cha muốn thay đổi thân phận của người con trở về, từ một người chăn heo thành một người con được yêu thương chiều chuộng.
Lòng thương xót của Thiên Chúa được diễn tả trong suốt bề dày của lịch sử. Tác giả sách Xuất Hành kể với chúng ta: khi Thiên Chúa giận dữ vì tội lỗi của dân Do Thái trong sa mạc, Ngài quyết định sẽ tru diệt họ, vì họ đã phản bội Ngài và tôn thờ con bê vàng. Ông Môisen đã năn nỉ với Chúa. Lời xin của ông đã làm Chúa nguôi cơn giận, và Ngài không trừng phạt dân. Nếu đọc sách Xuất Hành, chúng ta còn thấy nhiều trường hợp như vậy. Mỗi lần dân phản loạn, Thiên Chúa muốn trừng phạt, nhưng rồi Ngài lại thứ tha. Chúa nghiêm khắc đối với dân Do Thái, giống như một người cha trong gia đình. Sự nghiêm khắc ấy xuất phát từ tình thương và thiện ý muốn cho con nên người.
Lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Phụng vụ Chúa nhật này nối kết ba dụ ngôn: người chăn chiên bỏ 99 con chiên ngoài đồng hoang để tìm cho kỳ được một con chiên lạc; người phụ nữ vất vả kỳ công để tìm cho được một đồng bạc đã mất. Cả hai dụ ngôn này cũng diễn tả sự chờ mong của Thiên Chúa. Ngài vừa chờ đợi tội nhân trở về, vừa đi tìm kiếm những gì đã mất. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người để đi tìm kiếm những tội nhân. Trong câu chuyện ông Giakêu, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Con người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Dụ ngôn người chăn chiên và người phụ nữ, là những minh chứng cho điều Chúa đã khẳng định, đồng thời nêu lên sứ mạng của Người. “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi” (Bài đọc II).
Nếu Thiên Chúa thương xót con người, thì con người lại không thương yêu đồng loại. Người con cả trong dụ ngôn là đại diện cho những người cố chấp, ghen tương và thù hận. Anh đã từ chối mối tương quan huyết nhục khi tuyên bố với cha mình: “Thằng con của cha kia…” (câu 30). Hình ảnh người con cả cũng phổ biến trong xã hội của chúng ta hôm nay. Ghen tương thù hận đã dẫn tới tranh giành và xung đột huynh đệ tương tàn. Hậu quả là bạo lực, chém giết rồi tù tội. Thái độ người anh cả cũng là thái độ của những người hay kỳ thị coi thường những người đã một thời lầm lỗi, làm cho họ khó hoàn lương hội nhập cuộc sống bình thường.
Mỗi khi khởi đầu Thánh lễ, chúng ta thưa với Chúa ba lần: Xin thương xót chúng con!”. Lời van xin này thể hiện tâm tình sám hối của chúng ta trước nhan Chúa. Thánh Phaolô nhận mình là kẻ tội lỗi đầu tiên được Chúa cứu. Kinh nghiệm của ông trên đường đi Đa-mát vẫn sống động và ghi dấu ấn suốt cuộc đời ông. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu giúp ông cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài chờ đợi ông trên đường đi Đa-mát, để cải hoá và làm cho ông trở thành Tông đồ. Điểm đến hành trình của ông vẫn là thành Đa-mát, nhưng mục đích đã thay đổi. Ông đã là con người mới.
Ước chi kinh nghiệm của thánh Phaolô cũng là kinh nghiệm của mỗi chúng ta. Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta. Ngài luôn phát đi tín hiệu gọi mời chúng ta trở về. Bạn và tôi, chúng ta có ý thức được điều đó không?
Đọc dụ ngôn Con Chiên Lạc trong Tin Mừng của Thánh Luca xong, tôi thấy thật khó hiểu, nếu không muốn nói là hơi khó chịu một chút. Bạn biết tại sao không? Là bởi vì không có ai mà làm như vậy cả!
Bạn cứ nghĩ đi, nếu bạn có một trăm con chiên mà chỉ có một con đi lạc, thì bạn có để chín mươi chín con chiên khoẻ mạnh, béo tốt và lành lặn ở nơi đồng không mông quạnh như vậy để đi tìm một con chiên lạc đàn, gầy còm, và què quặt không? Bỏ chín mươi chín con chiên lành mạnh để đi kiếm một con chiên lạc thì có khác gì bỏ con tép để bắt con …vi trùng, ai mà lại làm như vậy?
Nhưng qua dụ ngôn Con Chiên Lạc tôi nghĩ Chúa muốn nói về ba vấn đề sau đây:
• Thứ nhất, tình yêu, lòng thương xót, sự tha thứ và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa dành cho các tội nhân thì cao vời, thì lớn lao và vĩ đại ngoài sức tưởng tượng của con người ta.
• Thứ hai, mỗi một con người, bất luận giàu hay nghèo, giỏi hay dở, thông minh hay dốt nát, da trắng hay đen, da vàng hay đỏ … tất cả đều có một giá trị vô cùng quý giá và lớn lao trước mặt Thiên Chúa.
• Thứ ba, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên con người ta, vì thế Ngài vô cùng tiếc nuối khi một trong những công trình của Ngài bị hư hoại.
Thật vậy! Mỗi một con người, dù có thế nào đi chăng nữa, tất cả đều có một giá trị vô cùng quý giá và lớn lao trước mặt Thiên Chúa vì thế cho nên Ngài mới ĐI TÌM. Khi Thiên Chúa đi TÌM tôi và bạn, thì điều đó chứng tỏ rằng chúng mình vẫn còn là những bảo vật quý giá, còn giá trị, còn xài được, còn hữu dụng … vì thế cho nên Ngài mới bỏ công, bỏ sức và bỏ thời giờ đi TÌM chúng ta, đúng không?
Kinh Thánh và lịch sử Giáo Hội đã ghi lại rất nhiều những trường hợp, mà đối với con người, và dưới con mắt thế gian, họ là những người hư hỏng, là những con người rơi vào trong tình trạng hết thuốc chữa, nhưng Thiên Chúa đã tìm kiếm và đưa về để phục hồi, để tân trang và làm cho trở nên những con người mới, và Chúa đã biến họ trở nên những khí cụ hữu dụng cho Ngài, đó là Lê-vi, Da-kêu, Phê-rô, Phao-lô, Augustine, Ignatius, Francis, Maria Sa mạc… Thiên Chúa quyền năng vô cùng, cho dù chúng mình có hư hỏng, dẫu cho linh hồn của tôi và của bạn có ô uế, dơ dáy và bẩn thỉu mấy đi chăng nữa… thì Ngài vẫn có thể phục hồi chúng ta, bởi vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (Lc 1:37). Ngài đã dựng nên chúng mình từ hư vô trở nên hữu hình được thì chuyện làm mới lại, chuyện sửa chữa và tân trang cho hoàn hảo lại thì chỉ là…chuyện nhỏ!
Bạn thân mến, nếu hôm nay bạn NHẬN RA rằng:
• Tình yêu, lòng thương xót, sự tha thứ và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa thì vô biên, vô cùng.
• Mỗi một con người, đều có một giá trị rất đặc biệt, và rất cao quý trước mặt Thiên Chúa.
• Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, cho dù chúng ta có tội lỗi và hư hỏng mấy đi chăng nữa, thì Ngài vẫn có cách để phục hồi và tân trang cho chúng mình trở nên mới, và trở nên hữu dụng.
Và nếu bạn thực sự TIN RẰNG Thiên Chúa là Cha của chúng ta Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong [chúng ta] phải hư mất (Mt 18:14) thì xin bạn đừng lo sợ, cũng đừng chán nản, thối chí hay tuyệt vọng khi đi lầm đường, hay khi bị lạc lối, hoặc khi mình bị những bóng đêm của tội lỗi thống trị. Hãy chạy ngay đến làm hòa với Chúa qua bí tích Giải Tội. Thiên Chúa sẽ tha thứ, sẽ băng bó và chữa lành những vết thương cho chúng mình, và Ngài sẽ biến đổi chúng ta thành những con người mới ngay cho mà xem!
“Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:9). Đừng bao giờ hồ nghi lòng từ bi nhân hậu, sự kiên nhẫn và sự tha thứ của Thiên Chúa đã, đang và sẽ dành cho chúng mình! “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18) Thiên Chúa đã phán như vậy, thì có gì đâu mà bạn và tôi phải lo lắng và sợ hãi, hãy trở về với Chúa và Giáo Hội qua bí tích Giải Tội ngay đi! Đừng chần chừ, đừng để lần lừa đến ngày mai nữa! Làm ngay hôm nay đi kẻo muộn!