Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 27 TN-C Bài 101-132 Xin thêm lòng tin cho chúng con ---------------------------------- Phúc Âm: Lc 17, 5-10: "Nếu các con có lòng tin".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền vâng lời các con. "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: 'Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa', mà trái lại không bảo nó rằng: 'Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống'. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm'". - Ðó là lời Chúa. --------------------------------------
Sống trong một thế giới đầy bất công, tội ác và đạo đức bị khinh thường, như Lời Chúa đã trình TN 27-C101
Sống trong một thế giới đầy bất công, tội ác và đạo đức bị khinh thường, như Lời Chúa đã trình bày trong mấy Chúa Nhật trước, Ki-tô hữu chúng ta phải làm gì? Hãy kiên trì trong đức tin. Đó là câu trả lời chúng ta có thể gặp thấy trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Đáp lại câu hỏi của ngôn sứ Kha-ba-cúc: “Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau?”, Thiên Chúa phán: Cứ an tâm, giờ của Ta chưa đến thôi, vì kẻ ác sẽ ngã gục và người công chính sẽ được sống! Còn thánh Phao-lô thì khuyên môn đệ thân tín Ti-mô-thê cứ “đồng lao cộng khổ” với ngài để loan báo Tin Mừng. Sau hết, Chúa Giê-su cũng dạy môn đệ Người hãy tiếp tục chu toàn việc bổn phận mà “ông chủ” là Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta.
Chắc chắn đã nhiều lần chúng ta thắc mắc: tại sao những kẻ ác vẫn sống nhởn nhơ mà không bị Thiên Chúa trừng phạt? Rồi từ đó nhiều khi chúng ta nghi ngờ Chúa không công bằng. Đây không chỉ là thắc mắc của chúng ta thời nay. “Trong Kinh Thánh, ngôn sứ Kha-ba-cúc là người đầu tiên dám cật vấn Thiên Chúa. Suốt nhiều thế kỷ, đức tin vẫn tuyên xưng công lý của Thiên Chúa. Tuy nhiên, công lý ấy không phải bao giờ cũng rõ ràng, và nhiều người phải im lặng giấu đi mối ngờ vực của mình. Ngôn sứ Kha-ba-cúc là người đầu tiên đặt câu hỏi: Tại sao Đức Chúa cho phép sự bất công chiến thắng? Khi Người trừng phạt một kẻ áp bức, tại sao Người lại thay thế kẻ ấy bằng một người khác tệ hại hơn?” (Dẫn nhập sách Kha-ba-cúc, Bản dịch Kinh Thánh cho mọi người, do nhóm Các Giờ kinh Phụng vụ). Để giúp chúng ta bỏ đi mối nghi ngờ, câu trả lời của Thiên Chúa qua ngôn sứ Kha-ba-cúc nhấn mạnh đến hai điểm: thứ nhất, công lý của Thiên Chúa nhất định sẽ được thực hiện “vào thời ấn định”, vậy nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ; thứ hai, trong khi chờ đợi, kẻ nào không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình. Hôm nay hoặc bất cứ thời nào, nếu chúng ta phải chứng kiến những kẻ ác, nhất là những kẻ có quyền thế, hà hiếp bóc lột người khác, thì đừng vội nản lòng. Chúng ta cứ tiếp tục sống công chính trong đức tin Ki-tô giáo và tích cực hơn nữa, cứ tiếp tục cầu nguyện cho họ biết sám hối và cho tình thế được mau thay đổi.
Nói về đức tin, một đề tài Chúa Giê-su rất yêu thích khi rao giảng Tin Mừng, hôm nay Người đã trả lời các môn đệ xin Người “thêm lòng tin” cho họ: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải…” Chúa lấy hình ảnh hạt cải để mô tả sức mạnh của đức tin. Một đức tin cỡ hạt cải, nghĩa là chỉ lớn bằng cái đầu mũi kim, mà lại có sức mạnh sai khiến được một cây dâu to lớn. Làm sao chúng ta có được một đức tin dù chỉ bằng tầm cỡ ấy? Ai sẽ ban cho đức tin chúng ta một sức mạnh kinh hồn như vậy? Để trả lời, chúng ta cứ đọc lại lời các tông đồ thưa với Chúa Giê-su: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Quá rõ ràng rồi nhé! Lòng tin phát xuất từ Chúa chứ không phải từ chúng ta. Chắc chắn Chúa có tất cả những gì khiến chúng ta dám đặt mọi sự tin tưởng của chúng ta vào đó. Nếu các tông đồ không nhận biết Chúa là ai thì các ông đâu có đến xin Chúa thêm lòng tin cho họ! Sau này, chúng ta còn thấy ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin vào Chúa khi ông thưa: Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Nói theo ngôn từ thần học, chúng ta gọi “đức tin là nhân đức đối thần”, nghĩa là trong đức tin, Thiên Chúa là đối tượng. Chúng ta tin Chúa không phải là hành vi chủ động phát xuất từ chúng ta đối với Chúa, nhưng là hành vi đáp trả của chúng ta khi Chúa tỏ ra cho chúng ta biết những đức tính cao cả của Người. Trở lại với trường hợp ông Phê-rô, chúng ta thấy vì Chúa “có những lời ban sự sống đời đời”, nên ông nhận ra mình thật diễm phúc được đón nhận những lời ban sự sống từ nơi Chúa mà ông không bao giờ nhận được từ một người nào khác, do đó Chúa đã làm cho ông tin vào Người. Càng nhận biết Chúa tốt lành, nhân hậu, quyền năng…, thì đức tin chúng ta càng mạnh. Nhưng còn một vấn đề không kém quan trọng, đó là sống đức tin ấy thế nào? Dễ thôi. Chúa Giê-su cho chúng ta một hình ảnh cụ thể: cứ làm giống như người đầy tớ làm cho ông chủ mình. Sau khi anh ta đi cày hoặc đi chăn chiên về, thì anh lại tiếp tục phục vụ ông chủ theo lệnh của ông. Chẳng những anh phục vụ chu đáo, mà còn phục vụ với thái độ thật khiêm tốn khi anh thú nhận: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Mục đích anh phục vụ không phải để được thưởng, nhưng để chu toàn bổn phận.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta gặp được gương mẫu sống đức tin rất sống động qua đoạn thư thánh Phao-lô gửi anh Ti-mô-thê. Trước hết là gương thánh Phao-lô. Vì rao giảng Tin Mừng, Phao-lô đã bị cầm tù như một tội phạm của xã hội. Ngài hãnh diện là bị giam cầm vì Chúa Ki-tô. Hơn nữa, ngài còn khuyên Ti-mô-thê “cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa” và khuyên anh hãy đồng lao cộng khổ với ngài để loan báo Tin Mừng. Làm sao các ngài giữ vững đức tin? Phao-lô trả lời Ti-mô-thê: “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy”. Phải, chính sự kết hợp với Chúa Giê-su là nguồn sức mạnh giúp ta thể hiện đức tin trong cuộc sống!
Chủ đề của Lời Chúa tuần này là về đức tin và khởi đầu với lời cầu xin của các tông đồ xin thầy TN 27-C102
Chủ đề của Lời Chúa tuần này là về đức tin và khởi đầu với lời cầu xin của các tông đồ xin thầy gia tăng đức tin cho các ông: “Xin thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”. Đáp lại lời cầu xin của các tông đồ, Chúa Giêsu đã nhắc nhở hãy thực hành sống đức tin sẽ thấy hiệu quả lớn lao: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải thì các con có thể khiến cho cây dâu bứng rễ đi và mọc dưới biển, nó sẽ nghe lời các con”. Người môn đệ là người đặt lòng tin vào Thiên Chúa, nhất là vào Chúa Giêsu, vào lời của người và bắt đầu khai triển khả năng tiềm tàng của đức tin qua đời sống trung tín phục vụ của mình. Tin luôn là một tương quan, một thái độ và hành động kiên nhẫn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa là Đấng luôn muốn những điều tốt đẹp cho những người Thiên Chúa tuyển chọn dù hiện tại nhiều khi làm cho người ta có cảm tưởng như Thiên Chúa thinh lặng. Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu nhắc nhở người tin cũng là người tôi tớ, phải luôn biết trung tín phục vụ theo ý của chủ. Chính khi trung tín phục vụ cần mẫn theo ý của chủ mà đức tin của họ càng được vững vàng và gia tăng và đạt được những hiệu quả lớn lao.
Ngược dòng lịch sử trở về với dân Chúa trong Cựu ước. Sách tiên tri Habacúc trình bày vấn nạn gay gắt vào thời của ông. Tại sao Chúa lại để cho quân thù xâm lăng và dày xéo lên đất nước của dân Chúa. Tại sao con kêu lên Chúa mà Chúa không lắng nghe, để cho biết bao nhiêu cướp bóc, bất lương diễn ra trước mắt và để cho quân thù thắng thế. Vấn nạn nhiều lúc rất căng thẳng khi nêu lên những vấn đề mà vị tiên tri cảm thấy khó hiểu như tại sao Thiên Chúa là Đấng thánh thiện lại để cho những người ngoại xứ Canđê là những đứa gian ác hành hạ con dân của Chúa, trừng phạt ác nhân bằng những đứa ác hơn. Câu trả lời của Thiên Chúa là dù cho có nhiều điều bất công xảy ra, những kẻ gian ác có chiến thắng, nhưng rồi thì suy cho cùng mọi kẻ bất lương, ác nhân rồi sẽ bị trừng phạt tất cả, chỉ có những người công chính có đức tin sẽ sống nhờ trung tín. Qua nhiều đường lối xem ra nghịch lý, Thiên Chúa là Đấng toàn năng chuẩn bị cho chiến thắng quyết định sau cùng của người ngay thẳng và người công chính sẽ sống nhờ bởi sự trung tín và lòng tin.
Như thế, suy tư về đòi hỏi của lòng tin và sự trung tín không chỉ liên hệ với chính mình mà còn với Thiên Chúa là Đấng toàn năng làm chủ lịch sử và vận mệnh con người. Chúa Giêsu khẳng định lại với các tông đồ hiệu quả của lòng tin dù là bé nhỏ, vẫn có thể thực hiện những điều lớn lao kỳ diệu. Bất cứ ai có lòng tin thì đều có thể làm được điều bất khả như khiến cho cây dâu được bứng đi và được trồng dưới biển. Xem chừng như các môn đệ cảm thấy thúc bách phải xin Chúa Giêsu ban thêm cho họ đức tin vì dường như họ nghĩ rằng Chúa phải ban thêm lòng tin để họ trải nghiệm hiệu quả một cách cụ thể hơn. Chúa Giêsu như muốn nhắc nhở các ông hãy trải nghiệm đức tin vốn đã được ban cho các ông, dù bé nhỏ nhưng hiệu quả sẽ rất lớn lao. Vấn đề quan trọng là ở chỗ người ta chưa thực sự sống và khai triển đức tin mình vốn có.
Đức tin là sống tương quan với Thiên Chúa, đặt tin tưởng vào Thiên Chúa cách cụ thể chứ không phải vào một điều gì đó và chờ đợi hiệu quả mà mình chưa thực sự bắt đầu cách cụ thể, hay nhiều khi hình dung hay chờ đợi Thiên Chúa thực hiện những điều lớn lao mà chính mình không bắt đầu bằng những việc phục vụ bé nhỏ. Để giải thích, Chúa Giêsu nhấn mạnh nhiều về thái độ của người tin nơi hình ảnh của người tôi tớ phục vụ chuyên cần. Người tin, giống như một người tôi tớ chuyên cần luôn sẵn sàng phục vụ tức là bắt đầu trải nghiệm cụ thể qua những công việc phục vụ của mình. Đối diện với nhiều vấn đề đặt ra, người tôi tớ này không được phép để cho mình bị chao đảo, nghi ngờ hay bi quan thất vọng mà vẫn luôn vững vàng trung tín phục vụ. Người tôi tớ là người có bổn phận phục vụ, dù là mới đi làm vất vả ngoài đồng trở về, anh vẫn phải phục vụ bàn ăn cho chủ cho đến khi chủ ăn uống xong. Tình tiết Chúa Giêsu nêu ra có vẻ thiếu gần gủi thân thiện giữa chủ và tớ, nhưng gần với những dụ ngôn khác mà Chúa Giêsu đã đưa ra như những người tôi tớ trung tín cần mẫn chu toàn công việc phục vụ khi chủ vắng nhà, hay tỉnh thức đợi chủ trở về muộn. Những người tôi tớ ở trong nhà chủ luôn phải sẵn sàng phục vụ tận tụy theo bổn phận của mình. Chúa Giêsu còn khẳng định hơn nữa khi xác định rõ chủ không hề mang ơn người đầy tớ khi người đầy tớ phải nghe theo lệnh chủ và tâm niệm của người đầy tớ phải luôn là phục vụ và nghĩ rằng đó chính là những công việc mà mình phải chu toàn như là những người tôi tớ bất xứng.
Sống đức tin là sống tương quan với Thiên Chúa, và cụ thể là sống tương quan tin tưởng phục vụ của người tôi tớ trung tín và cần mẫn phục vụ đối với Thiên Chúa là chủ cuộc đời của con người. Anh là người ở trong nhà của chủ, được tin tưởng và có trách nhiệm chứ không phải chỉ là một người làm công hết giờ. Chính lòng trung tín phục vụ làm cho anh vững vàng và sẽ thực sự trải nghiệm và gia tăng tương quan với chủ hơn. Như thế, đức tin được trải nghiệm cụ thể qua việc làm, không nhất thiết phải là những việc làm to lớn vĩ đại mà là những việc bé nhỏ hằng ngày khi chuyên cần phục vụ, khi có những chọn lựa can đảm và hy sinh theo sự thúc đẩy của Thánh Thần. Thánh Phaolô nhắc lại cho Timôthêô ân sủng mà ông đã lãnh nhận do bởi việc đặt tay. Chính Thiên Chúa, khi trao ban sứ vụ cho mỗi người, đã rộng rãi ban ơn Thánh Thần để làm cho họ có được ơn sức mạnh nâng đỡ để chu toàn công việc được trao phó. Ân sủng này là ơn sức mạnh, tình yêu và lòng tự chủ chứ không phải là sự hèn nhát, nhờ đó Timôthêô trở nên người làm chứng cho Chúa Giêsu như Phaolô vốn cũng là người chứng của Chúa Giêsu và Tin mừng.
Đức tin rất cần thiết cho ơn cứu độ của chúng ta. Vì như lời Đức Giêsu khẳng định: “Thiên Chúa yêu TN 27-C103
Đức tin rất cần thiết cho ơn cứu độ của chúng ta. Vì như lời Đức Giêsu khẳng định: “Thiên Chúa yêu thương thế giam đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).
Các tông đồ là những người được Đức Giêsu tuyển chọn. Các ông ở với Chúa, đã từng nghe lời Chúa giảng, từng thấy phép lạ Chúa làm, ấy thế mà họ vẫn thấy đức tin còn yếu kém, nên ngỏ lời xin Chúa “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Trong ba năm đi rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ, điều đó chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự. Thế nhưng, để phép lạ xảy ra, thì Chúa lại đòi lòng tin nơi con người, vì sau khi mỗi phép lạ xảy ra, thì Đức Giêsu thường nói : “Đức tin của con đã cứu chữa con”.
Anh chị em thân mến,
Trong buổi họp với các nhân viên Bộ Giáo Lý Đức Tin, đức thánh cha Bênêđictô 16 nói rằng: “Hiện nay nhiều nơi đức tin có nguy cơ bị dập tắt như một ngọn lửa đang tàn. Những khủng hoảng đức tin sâu xa nhất chính là mất ý thức tôn giáo trong đời sống”. Thế thì căn cứ vào đâu mà ngài nói lên điều đó?.
Thưa, với kinh nghiệm hơn 20 năm làm Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin và 5 năm trên ngôi Giáo Hoàng, Ngài thấy nhiều nơi và mọi tầng lớp trong Giáo hội cũng như ngoài Giáo hội đức tin đã bị lung lay.
Ngoài Giáo hội đây, là những tôn giáo bạn, những tôn giáo tin vào Chúa, nhưng chưa hiệp thông với Giáo hội Rôma. Những tôn giáo này ngày nay cũng đang gặp những thử thách về đức tin.
Rồi trong Giáo hội, số tín hữu hiện tại trong Giáo Hội Công giáo hơn 1 tỉ người, nhưng thử hỏi trong số những tín hữu này sống đức tin như thế nào?
Chúng ta biết rằng trước đây các nước Châu Âu có thể nói là chiếc nôi đức tin, vì máu các thánh tông đồ và các vị tử đạo đã đổ ra tưới thấm không biết bao nhiêu trên mảnh đất này, từ đó phát sinh ra các Kitô hữu. Và cũng từ đó các nhà truyền giáo mang hạt giống đức tin gieo vãi trên các xứ truyền giáo khác. Vậy mà ngày nay Châu Âu một số tín hữu đã không sống đức tin. Chính vì thế Đức Thánh Cha đã hô hào để tái “Phúc Âm hóa” và ngài nhắm vào Châu Âu một cách đặc biệt hơn, bởi vì họ là trưởng nữ của Giáo Hội.
Mặc dầu họ vẫn tin có Thiên Chúa, nhưng dường như họ sống không cần Thiên Chúa nữa. Hay nói cách khác, họ loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống dưới nhiều hình thức khác nhau. Họ sống tự do, muốn tin gì thì tin, muốn giữ thì giữ… chứ không theo một luật nào và cũng không theo một Đấng nào có quyền trên họ cả.
Vì đối tượng của đức tin, là tin những chân lý Chúa mặc khải được qui tóm trong Kinh Tin Kính, nhưng còn phải thực hành đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Vì như lời thánh Giacôbê nói: “Đức tin không hành động là đức tin chết”(Gb. 2,17). Vậy để vun trồng đức tin, chúng ta cần làm những việc sau đây:
Trước hết, chúng ta thường ca tụng Chúa danh hiệu này hay ưu phẩm kia, nhưng trong thực tế, Ngài có quan trọng với chúng ta không? Nếu Chúa quan trọng nhất, không gì quan trọng hơn Chúa, thì phải coi thánh ý Chúa quan trọng, giới răn Chúa quan trọng.
Vì Chúa quan trọng, nên chúng ta dành thời giờ, tài năng, sức khỏe… mọi sự tốt đẹp nhất ưu tiên cho Chúa mà không tính toán, bởi vì Chúa quan trọng nhất đối với chúng ta.
Tiếp đến, tham dự Thánh lễ, là chúng ta cử hành mầu nhiệm đức tin. Chúng ta cố gắng cử hành với tất cả ý thức – trang nghiêm- linh động và đầy đủ theo ý Giáo Hội dạy. Đặc biệt, lúc rước lễ về, chúng ta nhớ cám ơn Chúa về hồng ân đức tin này. Đồng thời, noi gương các tông đồ, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.
Cuối cùng, thưa anh chị em, làm Dấu Thánh giá là dấu chỉ người đó thuộc về Chúa Kitô – Dấu Thánh giá là biểu lộ đức tin. Vì thế, chúng ta nên ý thức hơn khi làm Dấu Thánh giá.
Xin Đức Mẹ Mân côi, là Mẹ của những kẻ trên đường lữ hành đức tin. Xin Mẹ giúp chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa, để vun trồng đức tin mỗi ngày cho được lớn mạnh hơn vào Chúa. Amen.
Trên một chuyến xe lửa từ Lion đến Paris, có một chàng sinh viên trẻ tuổi ngồi bên cạnh một cụ TN 27-C104
Trên một chuyến xe lửa từ Lion đến Paris, có một chàng sinh viên trẻ tuổi ngồi bên cạnh một cụ già có vẻ quê mùa chất phác, mặc một bộ đồ bình dân, mang một đôi giầy cũ kỹ, mái tóc cắt vắn và gương mặt nhân từ đạo hạnh. Điều làm cho chàng sinh viên này khó chịu là thấy trên tay cụ già một cỗ tràng hạt, lộ vẻ đạo đức sùng mộ, miệng lâm râm cầu nguyện. Chàng ta không nén nổi lòng bực rọc khó chịu, lên tiếng hỏi móc cụ già:
– Tôi thấy cụ còn tin tưởng những điều có từ thời trung cổ về chuỗi tràng hạt? Chắc cụ cũng tin Bà Maria Đồng Trinh và một mớ tín điều tôn giáo, do mấy ông cố đạo dạy chứ gì?
– Đúng thế, còn cậu thì sao? Cụ già điềm tĩnh trả lời.
– Tôi mà lại tin những điều vô lý và dị đoan như thế à! Chàng sinh viên cười rộ lên cách ngạo nghễ đáp lời, tôi đã tìm được sự thật nơi trường đại học. Nếu cụ muốn sống hợp thời hơn, cụ hãy ném xâu chuỗi này đi và ghi tên học một vài khoa học tân tiến của thời hiện đại.
– Khoa học tân tiến à? Cụ già hỏi lại và nói tiếp: Tôi sợ tôi không hiểu nổi khoa học, chắc cậu có thể giúp tôi được chứ?
– Được, nếu cụ biết đọc, chàng sinh viên cao hứng nhận lời, tôi rất sung sướng được gởi tặng cụ một số sách.
– Tôi cũng biết đọc sách mà, cụ già khiêm tốn đáp lời.
– Tốt, vậy tôi phải gởi theo địa chỉ nào? Chàng sinh viên hỏi lại.
Cụ già lấy trong túi áo ra một tấm danh thiệp trao cho cậu. Trên tấm danh thiệp ghi rõ địa chỉ, số phone, với danh tánh và chức vị như sau:
LOUIS PASTEUR
Viện Nghiên Cứu Khoa Học Paris
Phải chăng khi đọc mấy hàng chữ trên tấm danh thiệp, chàng sinh viên trẻ tuổi kiêu hãnh này đã phải đứng tim và hối hận, vì cái thông thái rởm và thái độ tự kiêu lố bịch của mình, trước sự hiện diện của Louis Pasteur, một nhà bác học nổi danh của thế giới trong thời hiện đại.
ĐỨC TIN CẦN THIẾT CHO CUỘC SỐNG
Nhìn vào thực trạng của thế giới ngày nay, nhất là nơi những người theo thuyết vô thần duy vật và hiện sinh; hẳn chúng ta thấy không thiếu những hạng người thông thái rởm, họ tự hào mình thông biết mọi sự, họ chỉ cậy dựa vào trí khôn hữu hạn và nông nổi của mình, mọi sự đều phải được khoa học giải quyết, điều gì khoa học không chứng minh được, họ cho là mê tín dị đoan. Do đó, họ từ chối tất cả những chân lý siêu nhiên như linh hồn bất tử, hạnh phúc đời sau, Thiên Chúa hiện hữu và các phép lạ Ngài đã thực hiện, những ơn phúc Ngài đã ban cho nhân loại… Chính vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa, con người đã ra tối tăm mê muội, trở nên nô lệ cho thú tính, cho đam mê, cho dục vọng. Chính vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa, con người đã chúi đầu xuống với kiếp sống thú vật, họ chỉ biết tận hưởng cho thỏa mãn những thú vui đê hèn, những cảm giác mau qua, những của cải tạm bợ phù ảo đời này. Chính vì thiếu niềm tin mà xã hội đã phát sinh biết bao tội ác, gây nên biết bao đồi phong bại tục, phá đổ nền luân lý lành mạnh của các dân tộc… Lòng con người đã ra đồi bại, họ dùng mọi mánh lới quỉ quyệt, man trá, lừa đảo, tranh dành, giết người cướp của… Đó là cái ác quả bi đát của sự thiếu niềm tin nơi Thiên Chúa và các giáo huấn của Ngài.
Vì vậy, niềm tin rất cần thiết cho cuộc sống con người trên trần gian. Chính niềm tin nâng cao phẩm giá con người, giúp chúng ta hiểu biết giá trị đích thực của cuộc sống, nó mở rộng trí khôn, tăng triển lòng muốn, củng cố ý chí; nó đưa chúng ta lên cao, vượt lên trên vạn vật, xứng danh một thụ sinh siêu đẳng, được Tạo Hóa ban quyền thống trị vạn vật do Người tạo dựng. Nhờ niềm tin, chúng ta có thể hướng tâm hồn lên cao, khát khao những sự cao siêu trên trời, những chân lý vĩnh cửu của cuộc sống và đạt được hạnh phúc trường tồn của đời sống mai hậu, mà Thiên Chúa đã hứa ban cho các con cái trung thành của Người.
Đức Giám Mục Gay đã rất hữu lý khi quả quyết rằng: “Nhờ Đức Tin, sự thông sáng của Chúa nên sự thông sáng của chúng ta, sự khôn ngoan của Chúa nên sự khôn ngoan của chúng ta, tinh thần của Chúa nên tinh thần của chúng ta, sự sống của Chúa nên sự sống của chúng ta”.
2. MÃNH LỰC VÔ SONG CỦA ĐỨC TIN
Thánh Công Đồng Tridentinô đã dạy: “Đức Tin là phương thế khẩn thiết, vì mọi người cần có Đức Tin thường xuyên, đến nỗi thiếu nó, con người không thể được cứu độ” (Dz # 1793). Do đó, Thánh Phaolô Tông Đồ đã quả quyết: “Không có Đức Tin, chúng ta không thể đẹp lòng Thiên Chúa” (Heb 11:6). Còn Thánh Gioan lại nhấn mạnh với chúng ta rằng: “Đức Tin của anh chị em là một chiến công thắng được cả trần gian” (I Jn 5:4). Quả thật, nếu chúng ta đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban cho chúng ta một sức mạnh vô song, chiến thắng được cả trần gian, chiến thắng mọi mưu thâm chước độc của Satan hỏa ngục; và hơn nữa, chúng ta còn có thể thắng được cả Thiên Chúa, vì Chúa không bao giờ từ chối ban những ơn cần thiết cho con cái hết lòng tin tưởng nơi Người, lại ban chính mình Người là nguồn mọi ơn phúc cho chúng ta nữa.
Biết bao phép lạ Chúa đã thực hiện do niềm tin tưởng con người đặt nơi Chúa. Biết bao ơn phúc Chúa ban xuống cho nhân loại do lời cầu bầu của Đức Mẹ và các Thánh, cũng như của những tâm hồn đẹp lòng Chúa. Mở sách Tin Mừng, đọc hạnh tích các Thánh, tìm hiểu các sự lạ xảy ra tại các trung tâm hành hương trên thế giới, chúng ta sẽ thấy biết bao sự lạ lùng, cả trong lãnh vực tự nhiên cũng như siêu nhiên, Chúa đã thực hiện do lòng tin tưởng con người đặt nơi Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chính Chúa đã quả quyết: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con có thể truyền cho cây dâu bứng rễ lên, đem trồng dưới đáy biển, nó cũng sẽ vâng nghe” (Lc 17:6). Nơi khác, Chúa còn quả quyết: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con còn có thể chuyển rời cả núi đồi nữa”. Tóm lại, nếu chúng ta hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa, tín thác và hy vọng mọi sự nơi Chúa, sống đẹp lòng Người; chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng trọn vẹn lời Chúa hứa: “Chẳng có việc gì mà các con không làm được” (xem Mt 17:19).
Thánh Benedictô dự định xây cất một Tu Viện trong khu đất của Hội Dòng, nhưng lại bị một quả đồi cản trở; hồi đó đâu có xe ủi như ngày nay. Ngài sực nhớ lại lời Chúa phán: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con có thể chuyển rời được núi đồi”. Rồi ngài đi cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào Chúa, ngài truyền: “Quả đồi này hãy rời đi chỗ khác, để chúng ta có chỗ xây cất Tu Viện”. Ngài rất tin tưởng lời truyền đó sẽ được thực hiện, rồi ngài an tâm đi nghỉ đêm. Sáng hôm sau khi thức dậy, ngài thấy quả đồi đã chuyển đi chỗ nào không rõ.
3. ĐỨC TIN TRONG CUỘC SỐNG CHÚNG TA
Thánh Giacobê dạy: “Nếu ai trong anh chị em xưng mình có Đức Tin, mà không hành động theo Đức Tin thì nào có ích gì? Đức Tin như thế có cứu họ được không?” (Jac 2:14). Thánh nhân còn quả quyết: “Cũng như xác không hồn là xác chết, thì Đức Tin không việc làm cũng là Đức Tin đã chết tận gốc rễ” (Jac 2:17).
Vậy làm thế nào để Đức Tin được sống động, được duy trì và tăng triển trong bản thân và trong cuộc sống của chúng ta? Chúng ta cần sống theo các nguyên tắc Đức Tin, để Đức Tin trở nên hồn sống, chỉ huy, hướng dẫn và điều khiển mọi tư tưởng, ngôn ngữ và hành động của chúng ta trong trót cuộc sống, xứng với danh nghĩa chúng ta là con cái Chúa; hơn nữa, còn là những linh hồn đã được Chúa tuyển chọn sống Đời Thánh Hiến, được Chúa ủy thác sứ mạng làm tông đồ, trở nên chứng nhân và nên ánh sáng chiếu soi các linh hồn, để chinh phục họ trở về với Chúa, bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của chúng ta.
Đức Tin sống động đó phải được hiện thực qua các tư tưởng, lời nói và việc làm hằng ngày của chúng ta:
* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra thánh ý Chúa nơi luật pháp, nơi tinh thần Dòng, nơi giáo huấn của Giáo Hội, nơi mệnh lệnh của các vị Đại Diện Chúa, nơi tiếng lương tâm chân chính, để chúng ta biết mau mắn thi hành sao cho Chúa được hài lòng.
* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng khôn ngoan của Chúa, nơi các biến cố may rủi xảy đến cho bản thân, cho gia đình, cho Hội Dòng, cho dân tộc, để chúng ta biết vui lòng chấp nhận và thuần phục thánh ý Chúa, đồng thời nhận ra tình thương của Người.
* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa nơi tha nhân, nhất là nơi những người nghèo khó tàn tật, để yêu mến và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa đang ẩn thân nơi họ.
* Đức Tin sống động đó sẽ giúp chúng ta không tin kiêng dối trá, không mê tín dị đoan, không tin bói toán, đồng bóng, hên xui như dân ngoại… Ví dụ: Tin thần tài, tin thầy bói nói mò, tin hên xui tốt xấu, tin ngày lành tháng tốt, tin phương hướng mồ mả, hoặc nhiều điều nhảm nhí khác tương tự.
Kết Luận
Cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta hãy cầu xin Chúa: “Lạy Chúa xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con được hân hoan hạnh phúc sống theo thánh ý Chúa; can đảm đón nhận những khó khăn nghịch cảnh, Chúa quan phòng khôn ngoan gởi đến, như những món quà Chúa yêu thương ban tặng, hầu chứng tỏ được lòng chúng con yêu mến Chúa”.
Lạy Mẹ là Mẹ của niềm tin, xin Mẹ củng cố niềm tin cho chúng con, để chúng con được noi theo gương Mẹ, sống vững mạnh trong niềm tin, ngay cả những lúc theo lý trí tự nhiên của con người không còn lý do để tin, hầu chúng con được Chúa chúc phúc: “Phúc cho những ai đã không thấy mà vốn vững niềm tin“.
Các Tông đồ đã đi theo Đức Giêsu, nghe Ngài giảng dạy, xem những phép lạ Ngài làm và được TN 27-C105
Các Tông đồ đã đi theo Đức Giêsu, nghe Ngài giảng dạy, xem những phép lạ Ngài làm và được trao trách nhiệm đi rao giảng Tin mừng. Trước sứ mạng mở rộng Nước Thiên Chúa và trước những đòi hỏi của Luật mới (x. Lc 17.1-4) cũng như trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn, các ông cảm thấy mình còn yếu kém và bất lực nên các ông đã xin Đức Giêsu ban thêm lòng tin cho các ông, lòng tin mà trước đó các ông bị Chúa trách là yếu kém :”Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”(Lc 17,5).
Đức Giêsu hài lòng với lời cầu xin đó và Ngài cho biết : với đức tin nhỏ bé thôi, các ông có thể làm được những việc lớn lao. Với đức tin, các ông có thể biến cái không thể trở thành có thể, cái tầm thường trở nên phi thường. Bởi vì với lòng tin, các ông đặt niềm tín thác vào Chúa, cậy dựa vào quyền năng của Ngài và Chúa dùng quyền năng ấy mà làm được mọi sự, chứ không phải do quyền năng của các ông :”Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”(Lc 1,37).
Nhân dịp này, Đức Giêsu muốn ngầm nối kết đức tin của các ông với sự phục vụ (Ga 12,26), điều mà các ông không nghĩ như vậy. Trong tâm thức của các ông, đức tin đồng nghĩa với quyền lực (Cv 1,6). Các ông chứng kiến Đức Giêsu làm các phép lạ lớn lao bằng đức tin. Các ông cũng muốn làm như vậy. Các ông muốn sự vinh quang của quyền lực (Lc 9,49). Do đó, khi cắt nghĩa về đức tin, Đức Giêsu dùng hình ảnh của người đầy tớ hết lòng phục vụ chủ của nó. Hình ảnh này nhắc cho các ông biết rằng các ông không được kể công với Chúa như người biệt phái cầu nguyện nơi Đền thờ mà phải phục vụ Thiên Chúa và anh em mình như những người đầy tớ với tình con thảo đối với Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Hb 1,2 ; 2.2-4.
Trong một thời buổi đặc biệt nhiễu nhương, tiên tri Habacúc than thở và cũng như chất vấn Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và người ác cứ nhởn nhơ, không bị phạt. Và Chúa đã trả lời, đã chỉ ra con đường duy nhất đưa đến giải thoát : ấy là tin tưởng vào Chúa và trung tín với Giao ước trong suốt cuộc đời của mình, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 1,6-8.13-14.
Thánh Phaolô khuyên Timôthêô hãy kiên vững trong đức tin. Thánh Thần Thiên Chúa mà Timôthêô nhận trong ngày thụ phong sẽ giúp ông trở nên chứng nhân của Chúa ngay trong những gian nan thử thách. Không được sống trong tinh thần nhát sợ nhưng phải sống trong tinh thần mạnh mẽ hiên ngang, và hãy cậy dựa vào Thiên Chúa để tiếp tục nhiệm vụ mình.
+ Bài Tin mừng : Lc 17,5-10.
Bài Tin mừng hôm nay có hai lời giáo huấn :
a) Đức tin: Đức Giêsu muốn các tông đồ trông cậy tuyệt đối vào quyền năng cũng như lòng nhân hậu Chúa. Câu nói về cái cây bật rễ không nên hiểu theo nghĩa đen. Đây là cách nói diễn tả mạnh mẽ của người Đông phương và có ý nghĩa là đức tin có sức mạnh lớn lao, với đức tin việc gì xem ra không thể lại trở thành có thể.
b) Phục vụ: Đàng khác, một đức tin trần trụi không tính toán thì đặt tất cả tin yêu vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức mình, rồi đòi trả công. Như thế mọi chức vụ trong Giáo hội chỉ là một việc làm nhỏ bé để kéo ơn Chúa xuống cho mọi người. Đừng lấy đó làm vênh vang, vì ta chỉ là đầy tớ vô dụng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. CÁC TÔNG ĐỒ XIN THÊM ĐỨC TIN.
Hoàn cảnh.
Trên đường tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu vừa mới giảng cho các môn đệ nhiều bài học như nguy hiểm của tiền bạc, cớ vấp phạm cho người khác, bác ái huynh đệ và tha thứ. Các tông đồ, ở đây chỉ là 12 ông, chứ không phải nói chung các môn đệ – là những người đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Đứng trước những đòi hỏi của luật mới (x. Lc 17,1-4) và sứ mạng mở rộng Nước Thiên Chúa, các ông cảm thấy bất lực. Các ông đã xin Đức Giêsu ban thêm lòng tin. Lòng tin mà trước đó các ông đã bị Ngài khiển trách yếu kém. Là những người gánh trách nhiệm của cộng đoàn, các ông trăn trở về cách thế để thực hiện đời sống huynh đệ này, nên các ông cầu xin Chúa:”Xin Thầy thêm lòng tin cho chúng con”.
Đức tin và hạt cải.
Đức Giêsu không trực tiếp trả lời mà chỉ dùng một hình ảnh rất sống động để nói lên ý kiến của Ngài:”Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì dù các con có bảo cây dâu này :”Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời các con”(Lc 17.5-6).
Hạt cải là hạt giống nhỏ nhất (x. Mt 13,32). Đức Giêsu so sánh đức tin với hạt cải, là có ý nhấn mạnh về mặt phẩm chất hơn là về số lượng của đức tin. Hạt cải đây không phải là cải bẹ, cải bắp hay cải hoa, mà là một thứ cải đặc biệt ở Palestine, hạt nhỏ hơn cả hạt quả của cây trứng cá, mà cây thì tương đương với cây trứng cá cao khỏang 4-5 mét. Hình ảnh đó nói lên một sự phó thác dù nhỏ đến đâu, nếu được thực hiện trong đức tin, thì vẫn có thể làm được những điều lớn lao kỳ diệu. Vì bấy giờ người ta làm không phải do sức riêng mình, nhưng nhờ quyền ăng của Thiên Chúa.
Sức mạnh của Đức tin.
Hôm nay Đức Giêsu khuyên các tông đồ nên dùng cái đức tin nhỏ bé sẵn có để đối phó với những thử thách của cuộc sống và làm những việc vĩ đại :”Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, thì dù các con bảo cây dâu này :”Hãy bật rễ lên, xuống biển kia mà mọc, nó sẽ vâng lời các con”(Lc 17,6).
Cây dâu là một cây đại thụ, rễ rất lớn, có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, thì cũng có thể bứng cây đó khỏi đất để xuống mọc trong lòng biển. Ở đây, Đức Giêsu không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân. Chắc chắn Ngài không khi nào thực hiện việc dời cây dâu trồng xuống biển. Nhiều lần Ngài đã từ chối làm các phép lạ để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa như các đầu mục yêu cầu. Tóm lại, đây là một kiểu nói chỉ nhằm để đề cao sức mạnh của lòng tin mà thôi.
Những người có đức tin mạnh cũng đã làm được những việc tương tự cả thể. Chẳng hạn thánh Grêgôriô đã có lần di chuyển núi non để xây nhà thờ. Thánh Raymunđô có lần lấy áo làm thuyền vượt qua biển cả. Còn thánh Phêrô đã theo lệnh Chúa đi trên mặt biển. Ông ta chỉ chìm xuống khi bắt đầu hồ nghi mà thôi.
Nhìn vào các tông đồ, chúng ta thấy các ông đã thực hiện : một đức tin nhỏ nhất còn mạnh hơn mọi công việc của con người bởi vì sự tham gia vào chính sức mạnh của Thiên Chúa là một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu quả đức tin của các tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ chức, báo chí, truyền hình, tóm lại là không gì cả… thế mà họ đã thay đổi dòng lịch sử.
Trong Kinh thánh, có nhiều tấm gương của những con người bé nhỏ, hay một nhóm nhỏ, với đức tin đã làm nên những việc vĩ đại. Đavít, cậu bé chăn chiên đã hạ tên khổng lồ Golíat bằng dây phóng và hòn đá (1Sm 17,50) Trong sách Công vụ Tông đồ, những nhóm nhỏ người Kitô hữu đầu tiên họp nhau lại, cầu nguyện, chia sẻ của cải, đã làm cho con số Kitô hữu gia tăng (Cv 2,43-45). Timôthêô được thánh Phaolô nhắc nhở rằng mặc dù còn trẻ, anh có thể làm một người lãnh đạo cộng đòan vì đức tin và lòng đạo hạnh của anh (1Tm 4,12). Thánh Phaolô coi mình là “kẻ hèn mọn nhất”, và các Tông đồ xưng mình là “rác rưởi của thế gian”(1Cr 4,13).
Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu tự coi mình như “bông hoa nhỏ bé của Chúa Giêsu” với đường lối nên thánh rất đơn sơ, nhỏ bé, đã trở nên thánh Tiến sĩ của Hội thánh. Thánh Phanxicô Assisi đã đặt tên cho các môn sinh của mình là “Dòng Anh em Hèn mọn”.
Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi từ bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các phương pháp và phương tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt nhất… để chỉ dựa vào đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện .
Đức tin trong cuộc sống.
Đức Giêsu nói về đức tin khi các môn đệ xin Ngài “gia tăng đức tin” của họ. Ngài không đòi đức tin của họ phải to lớn, chất đầy chiếc xe tải. Ngài chỉ cần bằng hạt cải thôi nhưng phải được sử dụng. Làm thế nào để sử dụng nó ? Qua việc trở nên những người đầy tớ vâng lời và trung kiên của Thiên Chúa (Dt 5,8-9). Bởi “Tin là gắn bó bản thân của con người với Thiên Chúa”(Giáo lý Công giáo, số 150).
Với đức tin, chúng ta có thể biến cái không có thể thành cái có thể. Thiên Chúa dùng quyền năng của mình để biến tất cả mọi sự thành có thể cho những ai có đức tin. Ngay trong lãnh vực khoa học, những người trong những thế kỷ trước không thể tin được những phát minh kỳ diệu trong những thế kỷ sau. Chúng ta thử nói chuyện với những người cách đây 3 thế kỷ
Bây giờ, giả sử họ hỏi bạn truyền hình là gì ? Chắc hẳn bạn sẽ nói rằng đó là một phương cách nhìn xem một chuyện gì đó ở tận Trung hoa đúng lúc nó đang thực sự xẩy ra tại đó. Giả sử họ hỏi bạn hỏa tiễn hạch nhân tầm xa là gì ? Chắc hẳn bạn sẽ trả lời đó là dạng một trái đạn khổng lồ bắn tại Mỹ, nhưng lại tiêu diệt được bất cứ thành phố nào ở Nga mà bạn muốn. Giả sử họ lại hỏi bạn đổ bộ lên mặt trăng là sao thì hẳn bạn sẽ diễn tả cho họ là có người trên mặt đất leo vào phi thuyền không gian bay tới mặt trăng rồi đổ bộ ở trên đó.
Chà ! Bạn thử nghĩ xem dân chúng ở cách đây 300 năm đó sẽ nói gì với bạn ? Chỉ cần hiểu biết chút ít thì họ cũng đã cho bạn là điên cuồng, mất trí rồi, vì bất cứ người nào còn tỉnh táo đều cho rằng bạn không thể nào ngồi tại một phòng khách ở New York mà lại thấy được một chuyện nào đó đang xẩy ra tại Trung hoa. Bất cứ ai khờ mấy thì cũng cho rằng một trái đạn bắn từ Mỹ thì dù to bự đến đâu cũng không thể nào tiêu hủy toàn thành phố Matscơva được. Và họ cũng cho rằng bạn không thể nào bay được như một con chim lên tới tận mặt trăng trong một phi thuyền giống như cỗ xe ngựa kéo, rồi bước ra đi bộ vòng vòng, và sau đó lại trở về trái đất được.
Chủ điểm của trò chơi trên cho thấy điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả, thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thương, điều mà dân thế kỷ này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân ở thế kỷ khác lại là chuyện rất bình thường(M. Link).
Bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn dạy chúng ta : “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, các con cứ nói với cây dâu này :”Hãy nhổ gốc lên và xuống mọc dưới biển”, nó sẽ nghe lời các con”. Tin mừng hôm nay cho thấy nhờ đức tin mà chúng ta có được quyền năng Chúa nằm nơi tầm tay của mình. Từ đó, không có điều gì là không thể được – kể cả một thế giới không có chiến tranh, không còn nghèo đói, không còn hận thù.
Đức tin mở cho chúng ta cánh cửa đi vào thế giới mới, thế giới khác, thế giới của Thiên Chúa mà mắt phàm không thể thấy được. Cái nhìn của đức tin là cái nhìn luôn hướng về Chúa, vượt ra khỏi sự hiểu biết hạn hẹp của con người, mới có sức mạnh chuyển núi dời non, mới phát sinh hiệu quả kỳ diệu. Nhưng khốn thay, đức tin của chúng ta thường mang tính quá chủ quan, nặng cái tôi kiêu căng : nghĩa là để tin và chấp nhận được chúng ta hay đòi hỏi đức tin phải hợp tình hợp lý, phải rõ ràng minh bạch, phải đúng như lòng trí ta suy tưởng. Thế thì ta coi cái tôi, ý riêng mình quan trọng hơn ý Chúa, làm sao có thể gọi đó là đức tin chân chính được.
Tóm lại, bao lâu chúng tin và yêu Chúa mà không nhìn vào Chúa như cùng đích của đời mỗi người, mà lại nhìn vào tấm gương phản chiếu cái tôi của mình thì bấy lâu chúng ta mãi mãi là những kẻ khốn khổ và bất hạnh nhất trên đời.
II. ĐỨC TIN VÀ PHỤC VỤ.
Ý nghĩa “người đầy tớ”.
“Ai trong các con có người đầy tớ đi cầy hay đi chăn chiên, mà khi ở ngoài đồng về, lại bảo nó :”Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo :”Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn xong đã rồi anh hãy ăn uống sau”(Lc 17,7-8). Thường các bản văn dịch chữ “Servus” của tiếng La tinh là “đầy tớ”, nhưng ngày xưa chữ servus của tiếng La tinh còn có nghĩa là ‘nô lệ”. Hoàn cảnh của nô lệ ở Palestine vào thời Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở thế giới La Hy vào thời của thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát, đến nỗi chúng ta khó mà tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là vật sở hữu của ông chủ không phải trả lương, cũng không biết ơn.
Như vậy, theo tập tục thời đó, người đầy tớ không được tự do làm việc theo ý mình, nhưng phải luôn làm theo ý chủ. Ở đây, người đầy tớ vừa cầy ruộng về, hay dẫn đàn chiên từ đồng cỏ về, ông chủ đòi anh ta phải tiếp tục phục vụ ông ăn bữa tối trước đã. Bổn phận của người đầy tớ là làm theo ý chủ dạy, làm hết việc này sang việc khác mà không có quyền đòi hỏi chủ phải biết ơn.
Người đầy tớ vô dụng.
“Chẳng lẽ ông chủ phải biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao”? Đối với các con cũng vậy : khi đã làm hết tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã làm việc bổn phận đấy thôi”(Lc 17,9-10). Khi dùng hình ảnh “đầy tớ vô dụng” thì chỉ là kiểu nói khiêm tốn. Nhưng xét cho cùng, con người chỉ là vô dụng đối với Thiên Chúa. Vì Ngài là Đấng trọn hảo và quyền năng vô biên. Ngài chẳng cần chúng ta ca tụng, và cũng chẳng cần chúng ta cộng tác. Tuy nhiên, vì thương yêu chúng ta mà Ngài đã liên kết và còn trở thành người phục vụ chúng ta.
Qua hình ảnh đầy tớ, Đức Giêsu muốn dạy các tông đồ đừng bao giờ vênh vang như thể mình có quyền đòi hỏi Chúa phải biết ơn sau khi mình đã làm xong bổn phận. Khi nói “Đầy tớ vô dụng” không có nghĩa là không làm được việc gì. Các tông đồ cũng làm cho nhiều người tin theo Chúa. Tuy nhiên ở đây, “đầy tớ vô dụng” chỉ là kiểu nói có tinh cách cường điệu và có nghĩa là “thân phận hèn kém”. Người tông đồ cần tránh thái độ “công thần”. Vì thành quả tuy do các ông làm, nhưng đều nhờ Chúa ban ơn trợ giúp, như là Ngài phán:”Không có Thầy, các con không thể làm được gì”(Ga 15,5).
Người đầy tớ và phục vụ.
Đức tin đi đôi với sự trung thành phục vụ (Ga 12,26). Có lẽ các môn đệ đã không nghĩ như vậy. Trong tâm thức của họ, đức tin đồng nghĩa với quyền lực (Cv 1,6). Họ chứng kiến Đức Giêsu làm các phép lạ lớn lao bằng đức tin. Họ cũng muốn làm như vậy. Họ muốn sự vinh quang của quyền lực (Lc 9,49). Do đó khi cắt nghĩa về đức tin, Đức Giêsu dùng hình ảnh của người đầy tớ hết lòng phục vụ chủ của nó, nếu hiểu rõ, có lẽ các ông không vui vẻ cho lắm:”Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng :”Chúng tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều phải làm”.
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta bị đòi buộc phải phục vụ Thiên Chúa và phục vụ anh chị em mình như những đầy tớ. Đức Giêsu đã đến phục vụ, chứ không phải để được phục vụ. Ngay cả Ngài là chủ, là Chúa mà Ngài còn rửa chân cho các môn đệ. Ngài cũng mời gọi chúng ta buớc theo con đường phục vụ khiêm tốn. Nếu chúng ta có đức tin bằng hạt cải, chúng ta có thể di chuyển cả núi đá kiêu hãnh cản trở chúng ta sống như những “đầy tớ của các đầy tớ Thiên Chúa” (Nguyễn văn Thái).
Truyện : Nghệ nhân và cục đất sét.
Pete là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khảo công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai ông bà đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tách và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt ngưồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực tế riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đàng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Khi ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Sách gương phúc) của Thomas A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt, đã viết câu này :”Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã làm ra nó hay sao” ?
Và khi ông muốn bàn thêm, vị đạo sư đã nhắc lại một câu chuyện của một học giả người Âu với một đạo sĩ Đông phương. Học giả này mới hoàn tất được một quyển bách khoa tự điển lớn, các bạn của ông xúm lại khen tặng rằng đó là một công trình lớn lao phi thường. Trong chuyến viếng thăm An độ, học giả hỏi đạo sư xem liệu ông ta có xứng đáng được hưởng những danh dự đó không, thì được đạo sư hỏi :”Ông dùng phương tiện nào để viết : bút, máy chữ hay điện toán” ? Ông cho biết ông luôn sử dụng bút. Đạo sư nói ngay :”Khi viết xong cuốn sách, ông có thường cảm ơn cây bút mà ông đã dùng không” ?
Đó là câu trả lời cho mỗi người chúng ta khi thấy mình làm được một việc lành nào.
Còn thánh Phaolô trong thư gửi cho Timôthêô (bài đọc 2) căn dặn ta phải canh giữ đức tin và bền vững trong việc tuân giữ lời hứa khi chịu phép Rửa tội. Tin vào lời Chúa là sẵn sàng làm theo ý Chúa, để Chúa làm chủ đời sống và tìm vinh danh Chúa. Tuy nhiên trong thực tế ta thường giữ đạo theo lối tính tóan : có đi có lại. Đó là những khi chúng ta mặc cả hoặc đòi điều kiện với Chúa như khi nói : Nếu con phụng sự Chúa, nếu con làm việc này việc nọ cho Chúa, thì con sẽ được phần thưởng gì ? Người ngọai giáo trong đế quốc La mã thời xưa tôn thờ, khấn vái chư thần của họ trong lối mặc cả có đi có lại “DO UT DES”. Còn bổn phận người con hiếu thảo với Chúa không thể nằm trong cái lối mặc cả ti tiện đó. Nếu cha mẹ không thích lối mặc cả của những đứa con khi làm việc nọ việc kia như quét nhà, đổ rác để nhận phần thưởng, thì Thiên Chúa cũng không ưa gì lối mặc cả đó của ta. Cha mẹ nào mà thí dỗ con làm việc để lãnh phần thưởng, có thể sẽ tạo ra những đứa con sau này cũng mặc cả với Chúa khi làm việc phụng sự Chúa và phục vụ đồng lọai (TBT).
Nếu ta sống trọn niềm tin thì khi làm việc phụng sự Chúa hay phục vụ đồng lọai, ta không được nghĩ rằng ta làm ơn cho Chúa, mà chỉ tâm niệm rằng mình đang làm bổn phận người con thảo. Bổn phận người con thảo là không cần mặc cả, cũng không đặt điều kiện. Nếu người cha ruột thịt thương và lo liệu săn sóc cho đứa con hiếu đễ, thì Thiên Chúa cũng thường lo liệu, săn sóc cho những người con hiếu thảo và quảng đại.
Truyện: Thánh Phanxicô Assisi.
Có người hỏi thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà Ngài đã làm được những việc làm to lớn như thế ? Thánh nhân trả lời :”Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống cõi trần và tự hỏi :”Ta tìm đâu ra một người yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ nhất để Ta sai làm việc đây”? Thế rồi Thiên Chúa đã tìm thấy tôi. Người lại tự nhủ :”Ta đã tìm được đứa đó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ với những việc nó đã làm, vì nó biết rằng : Sở dĩ ta dùng nó chỉ vì nó là đứa yếu đuối nhỏ bé và hèn hạ mà thôi”.
Phục vụ trong khiêm nhường và thành thật.
Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về tinh thần phục vụ. Trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói:”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8). Đức Giêsu đã thực sự trở nên người phàm như chúng ta mà còn hạ mình xuống làm nô lệ để phục vụ phần rỗi cho chúng ta. Đúng là Chúa đã xuống thế làm người để chúng ta làm Thiên Chúa, Ngài đã hoán đổi địa vị cho chúng ta, thử hỏi còn thái độ nào khiêm nhường hơn được nữa không ?
Truyện : Khiêm nhường giả tạo.
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lòng ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói :”Từ thời Salômôn đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói :”Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của Abraham”. Người thứ ba nói :”Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua kém sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào :”Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Maisen và thầy thôi”.
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi :
– Ông có nghe họ ca tụng ông không ?
– Có.
– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế ?
Vị Rabbi than phiền :
– Vì không có ai nhắc đến sự khiêm nhường của tôi.
Câu trả lời của vị Rabbi muốn các đồ đệ ca tụng sự khiêm tốn của ông cho thấy ông chẳng khiêm nhường chút nào. Vì nếu người ta làm việc tốt với thái độ khoe khoang thành tích như người biệt phái đã làm trong đền thờ, thì họ thực sự không phải là người khiêm tốn ! Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy cần Chúa. Họ luôn tự mãn với thành quả đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do công khó của họ. Trái lại, người khiêm tốn luôn hãnh diện về những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Vì ý thức mình còn thiếu sót nên họ lại càng cậy nhờ vào ơn Chúa trợ giúp. Do đó, khi được thành công thì họ coi đó là món quà Chúa ban, chứ không nghĩ là công lao tài sức của mình.
Vấn đề đức tin còn phải đặt ra mãi cho mọi thời đại và cho mỗi người chúng ta, nhất là cho thời đại chúng ta đang sống. Tìm đâu ra lối thoát cho cơn khủng hoảng đức tin hôm nay ? Không còn cách nào khác nếu không phải dựa vào Lời Chúa và ơn thánh của Ngài. Chúng ta sẽ bị thử thách vì đức tin như các tông đồ xưa. Bởi đó, lúc bị thử thách gian truân, chúng ta đừng khép kín, đừng thất vọng. Lời cầu nguyện cũng như đức tin của cộng đoàn, của Hội thánh là những chiếc phao trong cơn bão tố, khi chiếc tầu hòng chìm xuống. Các tông đồ đã thưa với Chúa:”Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”.
Trong bất cứ thử thách và đau khổ nào, chúng ta đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Vì đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Nếu đức tin bị thử thách, thì chính ơn Chúa sẽ là sức mạnh củng cố chúng ta. Cũng như nguồn nước tuôn chảy xuống thung lũng để làm cho đất thêm phì nhiêu và cây cối xanh tươi, ơn thánh Chúa sẽ tràn đổ xuống tâm hồn khiêm nhường:”Phần các con, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng : chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi làm những điều chúng tôi phải làm”.
Đức Giê-su đã có lần dạy về lòng tin có thể “dời non lấp bể” (“Nếu anh em có lòng tin lớn bằng TN 27-C106
Đức Giê-su đã có lần dạy về lòng tin có thể “dời non lấp bể” (“Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia” nó cũng sẽ qua.” – Mt 17, 20). Các tông đồ đã được mạc khải nhiều lần về Đức Giê-su qua những lời giảng dạy cùng với những dấu lạ, điềm thiêng. Nhằm củng cố niềm tin cho họ, Người lại còn ban quyền năng để dẹp trừ những thần ô uế và chữa lành bệnh tật (Mt 10, 1-2). Tuy nhiên, vì mang trong mình thân phận con người, các tông đồ thấy có những lúc còn quá yếu đuối, nên các ông mới cất tiếng xin với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Lời cầu xin này toát lên nỗi trăn trở trước sứ mạng và sự lo sợ trước những thách đố lớn lao của sứ vụ mà các tông đồ sẽ đón nhận.
Suy niệm Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay (CN XXVII/TN-C – Lc 17, 5-10) trình thuật lời cầu xin của các tông đồ (-nt-), tự nhiên nảy sinh thắc mắc: Lòng tin xuất phát từ chủ thể khi nhìn nhận một vấn đề, một sự kiện hay một nhân vật. Theo từ nguyên thì lòng tin có nghĩa là: 1- Có ý nghĩ cho là đúng sự thật, là có thật; 2- Cho là thành thật; 3- Đặt hoàn toàn hi vọng vào người nào hay sự việc gì đó; 4- Nghĩ là rất có thể sẽ như vậy (Wikipedia). Như thế, tin hay không là tự chủ ý của bản thân, vậy thì làm sao lại có chuyện xin người khác ban thêm lòng tin cho mình được? Thắc mắc này chỉ có lý khi lòng tin đó xảy ra giữa con người với nhau, nhưng ở đây là lòng tin mà các Tông đồ xin Đức Giê-su Thiên Chúa, thì vấn đề lại khác.
Trước hết, phải hiểu lòng tin là một ân huệ Chúa ban. Một cách cụ thể thì phải hiểu ở đây là lòng tin của con người đặt vào thần linh, nghĩa là chính Thiên Chúa là đối tượng của lòng tin. Không có đức tin, không cậy dựa vào Thiên Chúa, con người không thể làm được gì, đúng như Đức Giê-su đã dạy: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Nhưng nếu tin vào Thiên Chúa, người tín hữu sẽ có năng lực để làm được tất cả mọi sự, như thánh Phao-lô đã từng cảm nghiệm: “Tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4, 13). Ầy cũng bởi vì lúc đó, năng lực mà thánh Phao-lô sử dụng không phải đến từ bản thân bất toàn của mình; nhưng đến từ Thiên Chúa, cội nguồn của mọi sức mạnh trong vũ trụ, là Đấng Toàn Năng không có gì là không thể làm được (“đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” – Lc 1, 37).
Rõ ràng là nếu con người không có đủ năng lực, chính là vì họ chưa có đức tin đích thực. Vấn đề căn bản vẫn là ở chủ thể người tin, chớ không phải ở nơi đối tượng của lòng tin. Thật vậy, nếu con người thật sự tin nhau và hy vọng đối tượng sẽ đem đến cho mình những điều tốt đẹp, họ sẽ sẵn sàng đến với đối tượng để cầu mong được giúp đỡ. Nói cách khác, khi đã hoàn toàn tin tưởng vào nhau, người tín hữu sẽ sẵn sàng hợp tác với đối tượng để biến những điều tốt đẹp mà họ cầu mong sẽ trở thành hiện thực. Đối với Thiên Chúa thì cũng vậy, bởi “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Người.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Có lẽ cũng vì thế nên Đức Giê-su đã không trả lời thẳng vào lời cầu xin của các môn đệ, mà Người chỉ nêu bật sức mạnh của lòng tin, để các môn đệ tự trang bị và củng cố đức tin của mình.
Đức Giê-su đã lấy đức tin so sánh với hình ảnh một hạt cải nhỏ bé, để có thể ra lệnh cho một cây dâu to lớn di chuyển. Mới nghe qua thì thấy có vẻ vô lý, vì cái lòng tin nhỏ bé như vậy thì làm sao có thể đứng vững được, chớ đừng nói là có thể ra lệnh cho cây dâu di chuyển. Tuy nhiên, suy cho kỹ Lời dạy bởi một Người Thầy chuyên dùng dụ ngôn, sẽ thấy là Người muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, cho nên Người mới dùng một hình ảnh cụ thể là hạt cải nhỏ bé mà có thể ra lệnh cho một cây dâu to lớn, cốt ý để nói lên sức mạnh của lòng tin, của đức tin. Câu này có thể diễn nôm: “Nếu anh em thực sự tin vào Thầy, tin vào quyền năng tối thượng của Thiên Chúa, thì bất cứ việc gì dù to lớn tới đâu chăng nữa (“di sơn đảo hải” – dời non lấp biển, chẳng hạn), anh em vẫn có thể làm được.”
Mấu chốt vấn đề vẫn chỉ là điểm nhấn: Đức tin. Mà nói về đức tin là phải nghĩ đến mạc khải vì “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người, thì đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Thật vậy, “Kẻ chú tâm vào Lời Chúa dạy sẽ gặp chuyện tốt lành, người đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA thật hạnh phúc dường bao.” (Cn 16, 20); “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân.” (Gr 17, 7). Khi về Na-da-rét, Đức Giê-su không làm được phép lạ nào, chỉ vì dân đồng hương không tin (Mt 13, 58). Khi chữa lành bệnh cho ai, Đức Giê-su không nói rằng Người đã chữa lành bệnh cho họ, mà là “Đức tin của con đã chữa lành con” (Mt 9, 22; Mc 5,34; Lc 8,48; Lc 17,19). Đức Maria được bà Ê-li-da-bet khen: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45), và chính Mẹ cũng được tôn xưng là “Mẹ đức tin”.
Thánh Phê-rô là mẫu gương nổi bật về vấn đề đức tin. Cùng với các môn đệ khác, khi Phê-rô đi theo Đức Ki-tô, vì đã tin Người có thể giúp thánh nhân “lưới người như lưới cá”. Được sống liền bên với Người Thầy mà mình tin tưởng, được nghe dạy và nhất là được chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ Người đã làm, vậy mà khi thì tuyên xưng “Thầy là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa hằng sống”, khi lại tưởng Thầy là ma khi thấy Thầy đi trên mặt biển, nhất là khi Thầy đã Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ (Lc 24, 37). Vừa mới khẳng định chắc nịch: “Dù có phải chết, con cũng không chối Thầy”, ấy vậy mà chỉ một đứa tớ gái nhà Cai-pha gạn hỏi, đã chối Thầy không chỉ một lần mà tới 3 lần trong một đêm: “Tôi thề là không biết Người ấy” (Mt 26, 72). Nếu đức tin của Phê-rô đã kiên định thì có thể xảy ra trường hợp tréo cẳng ngỗng như vậy không?
Câu chuỵên đi trên mặt biển đã minh hoạ về đức tin của con người bộc trực Phê-rô: Khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển, ông tin rằng ông cũng có thể đi trên mặt biển đến với Người, và với niềm tin ấy, ông đã đi trên mặt nước không khác gì đi trên mặt đất. Nhưng khi thấy gió thổi mạnh thì ông đâm ra nghi ngờ, đức tin của ông bị chao đảo, vì thế ông bị chìm xuống và la lên cầu cứu: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14, 22-33). Rõ ràng việc Phê-rô đi được trên mặt nước hay bị chìm xuống là do đức tin của ông có mạnh mẽ hay không. Trường hợp này có thể nói: ông đi trên đức tin của ông, hay đức tin của ông chính là nền tảng nâng đỡ bước chân ông đi, cũng như nâng đỡ toàn bộ cuộc đời ông. Quả thật, khi có một đức tin vững vàng, thì đời sống nội tâm luôn luôn an bình hạnh phúc, bất chấp nghịch cảnh; nhưng khi đức tin bị chao đảo, thì đời sống cũng bị chao đảo theo.
Phân tích những sự kiện Kinh Thánh nêu trên, thấy nổi bật một chân lý: Để thành tựu được một phép lạ, phải có hai yếu tố quan trọng: Quyền năng của Thiên Chúa và lòng tin của con người. Thiếu một trong hai thì phép lạ không thể thành tựu được (một minh hoạ sống động là câu chuyện “Đức Giê-su về thăm Na-da-ret”, nhưng những người đồng hương và cả thân nhân của Người vì không tin nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” (Mc 6, 5). Tuy nhiên, quyền năng của Thiên Chúa thì bao giờ cũng có, lúc nào cũng sẵn sàng tác động, không bao giờ thay đổi hay mất đi, nên yếu tố hiển nhiên ấy không cần bàn cãi. Vấn đề còn lại chỉ là lòng tin của con người. Phép lạ hay điều con người cầu xin Thiên Chúa có xảy ra hay không, hoàn toàn do con người có thật sự tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa hay không.
Người Ki-tô hữu nhiều khi hoang mang lo sợ trước viễn cảnh tương lai vĩnh cửu và không ý thức mình đang trên con đường được Thiên Chúa cứu độ. Từ chỗ mất niềm tin ấy, người tín hữu có thể dần dần đi tới tình trạng buông xuôi, phó mặc cho số phận đẩy đưa, không còn sống theo những điều Chúa và Giáo hội dẫn dắt nữa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thắp lại ánh sáng đức tin và niềm hy vọng vào ơn cứu độ Đức Ki-tô đem đến. Mà cũng “Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5, 2). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Hãy nhìn vào đích điểm của hành trình đức tin là niềm vui được cứu độ và sống “kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” như thánh Phao-lô dạy. Đó chính là điều giúp ta nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc sống trần gian và vững lòng tiến bước trong tinh thần hoan hỷ vì ngày Chúa quang lâm đã gần kề.
Tiếp theo lời dạy về niềm tin, Đức Giê-su lại đưa ra hình ảnh một người đầy tớ trung tín. Người đầy tớ làm xong việc ông chủ trao phó đã không hợm hĩnh như kiểu anh chàng Pha-ri-sêu cầu nguỵên trong Đền Thờ (“Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế” – Lc 18, 11-12), mà biết thưa với chủ “chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Quả thật, đừng khoe khoang, chớ hợm hĩnh, mà hãy khiêm tốn phục vụ, bởi “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên .” (Mt 23, 11-12). Tốt hơn cả là hãy làm, đừng nói suông kiểu những ông kinh sư thích ngồi trên toà ông Mô-sê (Mt 23, 1-6) và nhất là đừng bao giờ “làm láo báo cáo hay”. Cũng bởi vì “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.” (2Tm 1, 13-14).
Tóm lại, bài học rút ra được khi suy niệm bài Tin Mừng hôm nay phải là: Đừng hãnh diện cho rằng mình đã có một đức tin vững mạnh, mà hãy nhìn lại mình để thấy được sự bất toàn của bản thân mà cầu xin: “Lạy Chúa! Xin thêm lòng tin cho chúng con.” Ôi! Lạy Chúa! Chúng con chỉ biết hãnh diện khoe thành tích này, việc tốt nọ, mà không biết rằng những thành tích ấy, những việc làm ấy, nếu không được Thần Khí Chúa soi sáng và thúc đẩy, thì rốt lại cũng chỉ là con số không. Chúng con biết rằng chúng con luôn hão huyền tự đắc cho rằng mình được làm con cái Thiên Chúa, được làm bạn hữu của Con Thiên Chúa, thì chắc chắn lòng tin sẽ vững mạnh. Đó quả thực là điều không tưởng! Vâng, lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho chúng con, “xin thêm lòng tin cho chúng con”, để chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
Môn đệ Đức Kitô xin Ngài ban thêm đức tin cho các ông. Không rõ lí do vì sao các ông xin điều TN 27-C107
Môn đệ Đức Kitô xin Ngài ban thêm đức tin cho các ông. Không rõ lí do vì sao các ông xin điều trên. Điều chắc chắn là sau khi nghe Đức Kitô nói với các ông phải tha thứ cho anh em khi họ xin tha. Không phải tha một lần mà hàng trăm lần Luca 17,4. Ngay sau đó các ông xin Đức Kitô ban thêm đức tin cho các ông. Có lẽ các môn đệ tin là với một đức tin mạnh mẽ các ông sẽ tránh được nhiều cơn cám dỗ và sẵn sàng hơn trong việc tin theo Đức Kitô và phục vụ dân Ngài.
Tha thứ là điều nói dễ khó làm. Lí thuyết dễ, thực hành khó. Càng khó hơn khi người kia làm cho mình thừa chết, thiếu sống, đứt ruột, tím gan. Nhổ tận gốc rễ cảm xúc đau đớn trong tâm chính là tự giải thoát mình khỏi đau khổ, thoát được ràng buộc của hận thù. Càng suy nghĩ về hận thù càng bị nó dần vật, trở nên nô lệ cho hận thù. Xã hội chúng ta đang sống kêu gọi con người nên xả bỏ hận thù bằng cách giải toả chúng với tâm lí gia chuyên về xúc cảm, hầu tìm giải pháp mang chúng xuống tuyền đài.
Mọi người thợ đều biết, dụng cụ đóng một phần nhỏ, không phải dụng cụ tốt giúp họ làm những kiệt tác để đời, mà chính là tài năng của người thợ. Không phải do đức tin mạnh mà ta có khả năng đạt được những kì công vĩ đại, mà chính là qua ta, Thiên Chúa là Đấng làm những kì công vĩ đại qua đức tin nhỏ bé, yếu đuối của ta. Đức kitô không ban thêm đức tin cho các môn đệ như điều các ông xin. Ngài giải thích cho các ông biết đức tin, dù nhỏ bé bằng hạt cải, yếu đuối, nhưng với lòng tin, tâm tình phó thác cộng với đức khiêm nhường của các môn đệ, các ông thực hiện được nhiều điều vĩ đại cho muôn dân. Kitô hữu chân chính là người trở thành dụng cụ trong tay Thiên Chúa. Không thể đong đo đức tin, lớn nhỏ, nhiều ít bởi đức tin xuất phát từ lòng mến, tình yêu và phó thác trong Chúa. Khiêm nhường và sẵn sàng trở thành dụng cụ trong tay Chúa là điều cần thiết để phục vụ nước trời. Cuối bài Phúc Âm Đức Kitô giải thích thêm về liên hệ giữa chủ và người làm công. Chủ nhân là người ra lệnh và công nhân là người thi công, làm công việc chủ giao. Hoàn thành công việc tốt đẹp là làm tròn nhiệm vụ của người làm công chân chính. Người làm công không có gì để khoe khoang, nếu có thì người đó hãnh diện về tài năng chủ mình. Bởi chính chủ là người ra kế hoạch cho người công nhân thi hành. Mọi tính toán, khôn ngoan đều đến từ chủ; thợ chỉ thi hành điều chủ hướng dẫn, chỉ bảo. Tin vào Đức Kitô chính là khiêm nhường phục vụ theo hướng dẫn của Ngài. Làm theo điều Ngài hướng dẫn sẽ gặt hái kết quả ngoài sức tưởng. Thánh Luca cho biết thực hành í Chúa sẽ chuyển được cây; thánh Marco 11,22-23 cho biết đức tin chuyển núi, dời non.
Chúng ta thường hay xin Đức Kitô ban thêm đức tin cho chúng ta bởi chúng ta tin là đức tin có sức mạnh biến đổi cuộc sống của chính mình, và cảm hoá người thân. Chúng ta tin đức tin làm những việc trọng đại trong đời và giúp cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong Phúc âm Đức Kitô nói ‘đức tin con đã cứu,chữa, con’. Tự đức tin không thể làm phép lạ. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa là Đấng thực hiện điều kì lạ. Người nhận ơn lạ cần có đức tin để Thiên Chúa thực hiện điều kì diệu. Rõ hơn phải hiểu là bởi lòng tin của ta mà Đức Kitô thực hiện điều kì lạ. Đức tin là điều kiện căn bản để nhận ơn lạ.
Các Tông đồ đã được Đức Giêsu mạc khải nhiều lần về Ngài qua những lời giảng dạy và nơi TN 27-C108
Các Tông đồ đã được Đức Giêsu mạc khải nhiều lần về Ngài qua những lời giảng dạy và nơi các dấu lạ điềm thiêng. Ngài lại còn ban cho các ông quyền năng để dẹp trừ những thần ô uế và chữa lành bệnh tật (x. Mt 10, 1-2), nhằm củng cố niềm tin cho họ. Tuy nhiên, vì mang trong mình thân phận con người, các Tông đồ thấy có những lúc còn quá yếu đuối, nên các ông mới cất tiếng xin với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5).
Lời cầu xin này toát lên nỗi trăn trở trước sứ mạng và sự lo sợ trước những thách đố lớn lao của sứ vụ mà các Tông đồ sẽ đón nhận sau này. Đây cũng là tâm tình của mỗi chúng ta ngày hôm nay.
Tại sao phải xin thêm lòng tin?
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Lời cầu xin đó của các Tông đồ cho thấy đức tin không phải do cố gắng của con người mà đạt được, nhưng nó được xuất phát từ Thiên Chúa và do tình thương của Ngài. Vì vậy, Ngài trao ban cho ai tùy ý. Hệ quả chân thực của đức tin chính là lòng kiên trì, trung thành, can đảm và phó thác nơi Thiên Chúa (x. Mt 6, 25 -34).
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay làm toát lên đặc tính đó của đức tin: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). Lời cầu xin này được cất lên phát xuất từ con tim của các Tông đồ. Các ông được chứng kiến nhiều phép lạ Thầy mình đã làm, nhưng cũng cảm nghiệm được sự khó khăn, phức tạp trong quá trình loan báo Nước Trời của Đức Giêsu. Đồng thời, các ông cũng thấy được trách nhiệm quá lớn lao nơi sứ vụ mà rồi đây các ông sẽ tiếp nhận. Bên cạnh đó là những đòi hỏi quá khắt khe của luật mới nơi người môn đệ Đức Giêsu. Vì thế, các ông không khỏi những lo lắng trước trách nhiệm to lớn đó. Các ông xin Chúa ban thêm lòng tin là để giúp các ông đứng vững trước mọi cuồng phong bão tố trên hành trình loan báo Tin Mừng và để xứng đáng trong tư cách là người môn đệ chân chính.
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5) còn là một cách minh chứng cho thấy đức tin của các ông chưa đủ lớn. Và như thế, không thể đối diện với những nghịch cảnh trên hành trình theo Chúa cũng như loan truyền sứ vụ. Một cách gián tiếp, chúng ta nhận thấy các Tông đồ đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Khó khăn lớn nhất đối với các ông lúc này là thử thách về niềm tin vào chính con người Đức Giêsu. Có lẽ các ông ít nhiều vẫn mang trong mình những tâm trạng hoài nghi và tự hỏi về vị Thầy mà các ông đã bỏ mọi sự để đi theo: Đức Giêsu này có phải là Đấng mà muôn dân mong đợi hay không? Tại sao Ngài là Thiên Chúa mà vẫn chấp nhận bị người ta xua đuổi, khinh thường…? Tại sao Ngài không thiết lập và tổ chức triều đình để đem lại sự giàu sang, phồn thịnh cho nhân loại…?
Đức Giêsu thấy được tâm trạng hoang mang cũng như cái tôi ích kỷ của họ nổi lên, điều này được biểu hiện qua việc tranh nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời, rồi bà mẹ của Giacôbê và Gioan đến xin cho một ngồi bên tả, một bên hữu…! Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã dạy cho họ bài học yêu thương, khiêm tốn và phục vụ. Thật thế, đức tin phải đi đôi với việc làm, nghĩa là phải “hoạt động qua đức ái” (Gal 5,6) vì: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17). Đức tin đi đôi với sự trung thành phục vụ (x. Ga 12,26). Đức tin không phải để khoe khoang. Vì thế, Đức Giêsu đã lấy hình ảnh người tôi tớ trong vai trò phục vụ để giáo huấn cho các ông bài học về sự khiêm tốn trong phục vụ: “Ðối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
Như vậy, các ông thấy rõ những đòi hỏi của Đức Giêsu và nhận thấy con người mình yếu đuối, nên các ông cần thêm lòng tin để tin vào Chúa hơn, yêu người hơn, khiêm tốn hơn, và phục vụ cách vô vị lợi hơn.
Sống Đức Tin trong đời thường
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Trong cuộc sống, ngoài xã hội, nơi thương trường, nhiều lúc chúng ta cảm thấy mình bất lực hoặc hèn nhát không dám can đảm để làm chứng cho Chúa. Lý do là vì thiếu niềm xác tín nơi Chúa. Vì thế, lời cầu xin của cácTông đồ khi xưa cũng là lời cầu nguyện của mỗi chúng ta ngày hôm nay.
Quả thật, xã hội ngày hôm nay nhiều người sống rất vô cảm, ít tương trợ lẫn nhau, và nhiều khi còn cắn xé lẫn nhau, hệ quả xảy ra là: tham nhũng, bóc lột, đàn áp những người thấp cổ bé họng… đứng trước những bạo nạn đó, nhiều khi chúng ta thấy mình quá nhỏ bé nên không dám lên tiếng, không dám nói lên chính kiến của mình, không dám thể hiện một nghĩa cử liên đới với những anh chị em đang lâm nạn. Những lúc chúng ta cảm thấy bất lực vì sợ hãi như vậy, ấy là lúc chúng ta cần phải: “Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta” (x. Lc 17,5).
Câu nói của Karl Marx đáng để cho mỗi chúng ta suy nghĩ: “Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi đau đồng loại mà chăm chút bộ lông của mình”. Chớ trêu thay, sự thật này đang là chuyện rất bình thường trong một xã hội hiện đại. Chúng ta biết nó là không tốt, nhưng đôi khi chúng ta cũng sống không kém gì họ, hay không bao giờ dám đứng lên đi ngược dòng để tìm về sự thật và xây dựng tình liên đới chỉ vì sợ sự liên lụy. Đây chính là yếu đuối của chúng ta. Vì thế chúng ta hãy: “Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta” (x. Lc 17,5).
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta xin Chúa mãi mà vẫn không được những ơn chúng ta xin. Những lúc đó, chúng ta hay phàn nàn trách móc Chúa vì Ngài không nhận lời. Ta thấy tâm trạng của mình lúc này có phần giống tiên tri Kha-ba-cúc trong bài đọc I, ông phải chịu đựng những điều nghiệt ngã tương tự: “Con la lên: Bạo tàn! Mà Ngài không cứu vớt”; “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu van mà Ngài chẳng đoái nghe?” (Kb 1,2-3). Tuy nhiên, chúng ta đâu biết được rằng: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Ðấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7, 9-11). Chúng ta chưa nhận được là vì chưa có niềm tin đủ mạnh. Vì thế, chúng ta cũng cần: “Xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta” (x. Lc 17,5).
Trên thương trường, nhiều khi chúng ta bị cám dỗ làm ăn bất chính. Vẫn biết là tội, nhưng nhiều người làm như thế, nếu chúng ta không thế thì không thể sống được, và chúng ta đã sẵng sàng thỏa hiệp với gian dối, để làm ăn bất chính. Những lúc như thế, chúng ta phải xin với Chúa như các Tông đồ: “Xin Thầy thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5).
Lạy Chúa Giêsu, lời cầu xin của các Tông đồ khi xưa cũng là lời cầu xin của chúng con ngày hôm nay: “Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con”, để chúng con vững bước trên con đường theo Chúa và sẵn sàng thi hành sứ vụ Chúa trao phó. Amen.
Cộng tác là cùng nhau chung tay góp sức làm một công việc nào đó, có thể không cùng chung một TN 27-C109
Cộng tác là cùng nhau chung tay góp sức làm một công việc nào đó, có thể không cùng chung một trách nhiệm nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm riêng phần mình. Công việc liên quan trách nhiệm, trách nhiệm liên quan con người hữu dụng hay vô dụng.
Người không chịu làm việc hoặc làm không xong phần việc được giao là người vô trách nhiệm, gọi chung là vô dụng – không có ích lợi gì cho cộng đồng, kể cả bản thân. Kẻ vô dụng là người vô tích sự, chẳng làm nên trò trống gì, chỉ thích sống bám người khác như loại ký sinh trùng nguy hại. Kẻ vô dụng là kẻ không ai ưa, chẳng ai thích, và bị người ta nguyền rủa: “Đồ vô dụng!” Kinh Thánh nói: “Hy vọng của đứa vô ơn bạc nghĩa tan chảy như sương giá mùa đông, trôi đi như dòng nước vô dụng.” (Kn 16:29)
Nhưng người dám tự nhận mình là “đồ vô dụng” (thật lòng, không giả vờ để được khen) thì hẳn là người khiêm nhường, thậm chí họ có thể là người đa năng và đa dụng. Đó là “phong cách” mà Chúa Giêsu dạy người ta không chỉ nên làm mà còn phải làm. Trong cuộc sống, người ta có thể cảm thấy mình vô dụng về một lĩnh vực nào đó. Cảm giác đó có thể là khiêm nhường, có thể là mặc cảm hoặc tự ti, cũng có thể do nhút nhát. Thật tốt khi biết khiêm nhường nhận mình là vô dụng, nhưng nên tránh cảm giác thấy mình vô dụng vì tự ti mặc cảm. Khi cảm thấy mình “yếu kém”, bất kỳ ai cũng cần được hỗ trợ hoặc cần được khuyến khích, động viên. Nhưng nếu cứng đầu cứng cổ, tôn sùng ngẫu tượng, thì đúng là vô dụng thật: “Dân xấu xa này không chịu nghe lời Ta, cứ ngoan cố cứng lòng, chạy theo các thần khác mà làm tôi và sụp lạy chúng; nó sẽ nên như chiếc đai lưng hoàn toàn vô dụng kia.” (Gr 13:10)
Chắc hẳn ngôn sứ Kha-ba-cúc là người thẳng thắn, ông không chịu nổi những điều chướng tai, gai mắt, nên ông thắc mắc với Thiên Chúa: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: ‘Bạo tàn!’ mà Ngài không cứu vớt?” (Kb 1:2) Tình thẳng thắn nên ông cảm thấy “khó chịu” trước những điều ác cứ xảy ra hằng ngày: “Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài, còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ đau? Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ nào cũng thấy TRANH CHẤP và CÃI CỌ. Vì thế, Luật không được tuân giữ, CÔNG LÝ CHẲNG CÒN thấy xuất hiện, vì kẻ gian ác bủa vây người công chính nên chỉ còn thứ công lý vạy vọ.” (Kb 1:3-4) Một dạng khổ rất đặc biệt của những người thẳng thắn. Tuy nhiên, thẳng thắn cũng cần phải khéo léo nữa, kết hợp giữa cương và nhu.
Ở cái cõi trần gian này thì thời nào cũng có bất công – khác chăng là về mức độ, đặc biệt là ở thời chúng ta đang sống ngày nay. Người có tính bộc trực, thích thẳng thắn thì không thể đứng lặng hoặc ngồi yên, thế nên họ bức xúc mà phải nói, đôi khi chịu thiệt thòi. “Thuận ngôn” luôn gây “nghịch nhĩ” và lời thật cũng thường làm mất lòng. Họ nói ra thì bị ghét, bị kèn cựa, bị trù dập. Thế gian quá nhiêu khê: “Dốt nát thì bị khinh, thông minh thì bị ghét.” Kiểu nào cũng khổ. Không làm sao có thể làm vừa lòng mọi người. Nhưng thà bị ghét chứ không chịu bị khinh. Cuộc đời có dạng “thực tế buồn” mà người ta thường nói: “Thẳng thắn thường thua thiệt, lươn lẹo lại lên lương.” Chính Chúa Giêsu đã nói rồi: “Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng.” (Lc 16:8) Khôn ngoan đó là khôn lỏi, khôn xảo. Tại sao vậy? Bởi vì sự công chính là kẻ thù của ma quỷ, bóp méo sự thật, bẻ cong điều thẳng thắn. (x. Cv 13:10)
Đừng lo lắng hoặc sợ hãi, cứ vững tin và vui mừng vì chúng ta có luôn có Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ nên hữu dụng chứ không vô dụng. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv 95:1-2) Niềm vui của tín nhân là thế, bởi vì “Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8b)
Thiết tưởng, đừng bao giờ thần tượng bất kỳ ai. Thần tượng người hoặc vật gì là tự biến mình thành nô lệ. Chỉ có Thiên Chúa mới chính là Thần Tượng của chúng ta mà thôi: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt. Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!” (Tv 95:6-7) Thánh Vịnh gia nói “ước gì”, nhưng thật ra là chính bổn phận và nhiệm vụ của chúng ta. Thiên Chúa vừa khuyên nhủ vừa khuyến cáo: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.” (Tv 95:8-9) Có nhiều kiểu cứng lòng, mỗi người mỗi kiểu và với mức độ khác nhau. Chúng ta vẫn phạm tội phản nghịch Ngài vì còn cứng lòng chứ chưa mềm lòng.
Thánh Phaolô hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của Timôthê, nhờ lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít và nơi bà cố Êu-ni-kê (ngoại và mẹ của Timôthê), và nói: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy ĐỒNG LAO CỘNG KHỔ với tôi để loan báo Tin Mừng.” (2 Tm 1:6-8) Đó là công vụ, là nhiệm vụ chung của mọi người. Ai cũng có trách nhiệm cộng tác bằng cách nào đó theo hoàn cảnh và khả năng của mình – mà khả năng đó là do Chúa ban chứ tự mình chẳng làm được gì. (x. Ga 15:5)
Quả thật, Thánh Phaolô giải thích chi tiết và rõ ràng: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Kitô Giêsu đã xuất hiện. Chính Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh bất tử.” (2 Tm 1:9-10) Đồng thời thánh nhân xác định trách nhiệm của mình: “Thiên Chúa đã đặt tôi làm người rao giảng Tin Mừng đó, làm tông đồ và thầy dạy.” (2 Tm 1:11) Nhận biết ý Chúa và ý thức trách nhiệm là điều tuyệt vời nhưng không dễ chút nào.
Có nhiều thứ đối lập, cụ thể là ánh sáng – bóng tối. Người nào hướng về ánh sáng thì đối nghịch với bóng tối – và ngược lại, lẽ tất nhiên là vậy, vì hai thứ không thể nhìn chung hướng với nhau. Thánh Phaolô giải thích: “Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó. Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Kitô Giêsu, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta.” (2 Tm 1:12-14)
Và rồi một hôm, các môn đệ thưa với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” (Lc 17:5) Ngài nói với họ: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” (Lc 17:6) Lời cầu xin đức tin rất cần thiết, nhưng đôi khi chúng ta thường quên, hoặc cho rằng đó là chuyện tất nhiên.
Quả thật, đức tin vô cùng quan trọng – mọi nơi và mọi lúc. Khi thấy cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu nguyền rủa nó và nó chết khô, Ngài xác định với các môn đệ về tầm quan trọng của đức tin: “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em TIN và KHÔNG CHÚT NGHI NAN thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: ‘Dời chỗ đi, nhào xuống biển!’, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.” (Mt 21:21-22) Đức tin thật là kỳ diệu!
Không chỉ vậy, Ngài còn phân tích chi tiết và rất cụ thể: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau’? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?” (Lc 17:7-9) Đặc biệt hơn, Ngài căn dặn rằng khi chúng ta đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói: “Chúng tôi là những ĐẦY TỚ VÔ DỤNG, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (Lc 17:10) Một dạng khiêm nhường cần thiết. Mà đúng như vậy, bởi vì tất cả những gì chúng ta có được cũng đều là hồng ân của Thiên Chúa.
Nhận mình vô dụng là một động thái “nhỏ” nhưng lại rất khó thực hiện, nếu thật lòng mà nói thì đã là khó rồi, huống chi là hành động thật, bởi vì Cái Tôi không “cho phép” làm vậy. Mở ngoặc nhỏ: Có lẽ “cái tôi” của người Anh Mỹ “lớn” hơn, bởi vì chính mình luôn viết hoa là “I”, không bao giờ viết thường, dù đứng bất cứ vị trí nào trong câu. Ghê thật!
Khi nói gì hoặc làm gì, ai cũng muốn nhiều người biết, thậm chí người ta còn “nổ” dù làm chi chẳng ra hồn. Tay trái làm mà không cho tay phải biết thì chắc là… “khó chịu” lắm. Thực tế đã và đang có nhiều “cấp độ” về bảng vàng, bằng ân nhân, giấy chứng nhận,… Chuyện nhỏ mà hóa chuyện lớn chứ chẳng đùa đâu. Chắc chắn phải thực sự khiêm nhường thì mới khả dĩ nhận mình là “vô dụng” theo phong cách của Thầy Giêsu chí thánh.
Thật tuyệt khi Thánh Vịnh gia thân thưa: “Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng lạy Chúa, xin đừng, nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương.” (Tv 115:1) Lời cầu nguyện thật khiêm nhường và tốt đẹp biết bao!
Lạy Thiên Chúa, con thực sự vô dụng nhưng không muốn nhận như vậy, mà chỉ muốn tự tôn rởm. Xin Ngài thương ban ơn biến đổi để con biết sống khiêm nhường, dám nhỏ lại để Ngài được nổi bật, xin làm cho trái tim chai cứng của con trở thành mềm mại và chứa đầy máu hồng trắc ẩn, nhờ đó mà con có thể trở thành cộng tác viên của Ngài, trở nên con người theo đúng Thánh Ý Ngài, để hữu dụng cho mọi người và cho chính con nữa. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVII Thường Niên Năm C nêu bật chủ đề về sức mạnh của đức TN 27-C110
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVII Thường Niên Năm C nêu bật chủ đề về sức mạnh của đức tin được chứng thực ở nơi lòng thành tín.
Kb 1: 2-3; 2: 2-4
Ngôn sứ Kha-ba-cúc mời gọi hãy gìn giữ đức tin và lòng thành tín đối với Thiên Chúa, thậm chí ngay khi trí khôn phàm nhân của chúng ta không thể nào hiểu thấu những ý định khôn dò của Thiên Chúa đi nữa.
2Tm 1: 6-8, 13-14
Thánh Phao-lô khuyên ông Ti-mô-thê hãy gìn giữ đức tin cho thật tinh tuyền và vô tỳ vết trong việc trung thành tuân giữ lời cam kết và công bố toàn vẹn Tin Mừng.
Lc 17: 5-10
Bài học của Tin Mừng hôm nay là phải ra sức tăng trưởng đức tin của mình và trung thành phục vụ Thiên Chúa một cách vô vị lợi.
BÀI ĐỌC I (Kb 1: 2-3; 2: 2-4)
Sách Kha-ba-cúc là một trong những sách Cựu Ước ngắn nhất, chỉ vọn vẹn có ba chương: hai chương đầu theo hình thức đối thoại giữa vị ngôn sứ và Thiên Chúa, còn chương thứ ba là một thánh vịnh. Nhưng sách này nêu lên một vấn đề căn bản: sự chiến thắng của sự dữ và sự im lặng của Thiên Chúa.
Bối cảnh
Chúng ta không biết chút gì về thân thế của vị ngôn sứ này, tuy nhiên bản văn cho phép chúng ta định vị niên biểu sứ điệp của ông vang lên vào năm 600 trước Công Nguyên. Đây là thời kỳ Tân Ba-by-lon chiến thắng đế quốc Át-sua: phá hủy kinh thành Ni-ni-vê vào năm 610 trước Công Nguyên và tiếp tục bành trướng thế lực của mình cho đến tận miền Pa-lét-tin. Ngôn sứ Kha-ba-cúc tiên báo cuộc xâm lăng này, vì thế ông ghi lại sứ điệp của ông giữa những cuộc xâm lăng và vây hãm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào những năm 598-597 trước Công Nguyên.
Bản văn được trích dẫn hôm nay chỉ thuật lại câu hỏi đầu tiên của vị ngôn sứ (1: 2-3) và câu trả lời thứ hai của Thiên Chúa (2: 2-4) trong cuộc đối thoại giữa vị ngôn sứ và Thiên Chúa. Để hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ theo đuổi diễn tiến toàn bộ tác phẩm này.
Thiên Chúa im lặng (1: 2-3)
Kha-ba-cúc chứng kiến chung quanh ông chỉ toàn là cảnh bạo lực, cướp bóc, tàn phá và khổ đau. Ông cầu xin Thiên Chúa ra tay cứu độ, nhưng Thiên Chúa không trả lời, như thể Ngài chẳng đoái hoài đến dân tình thế sự.
Những lời than van của con người trước việc sự ác hoành hành và sự im lặng của Thiên Chúa thường được phát biểu trong Kinh Thánh: những tiếng than van nhiều lần của các thánh vịnh gia, của ông Gióp trên giường khổ đau, của ngôn sứ I-sai-a: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống…” (Is 63: 19).
Câu trả lời của Thiên Chúa cho Kha-ba-cúc giúp cho hiểu rằng Thiên Chúa để cho con người cứ mặc sức tự tung tự tác chừng nào có thể, nhưng rồi Thiên Chúa sẽ ra tay khi cho một dân tộc khác dấy lên chống lại dân tộc này:
“Này Ta khiến cho dân Can-đê nổi lên, một dân hung hăng tàn bạo; nó rảo khắp mặt đất mênh mông để chiếm đoạt nhà cửa không phải của mình” (1: 6).
Lúc đó, vị ngôn sứ hỏi Thiên Chúa về số phận mà Ngài dành cho kẻ gian ác, những kẻ vênh vang tự đắc về sự chiến thắng của mình, trong khi người công chính thường bị đè bẹp nghiền nát. Ông tìm kiếm lý do tại sao Thiên Chúa không can thiệp và nêu lên câu hỏi thứ hai:
“Mắt của Ngài thật quá tinh tuyền không thể chịu được điều gian ác, Ngài không thể nhìn xem cảnh khốn cùng, tại sao Thiên Chúa cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?” (1: 13).
Kiên nhẫn và trung tín (2: 2-4)
Câu trả lời của Thiên Chúa cho câu hỏi thứ hai của vị ngôn sứ là chính yếu; nó là trọng tâm sứ điệp của sách Kha-ba-cúc. Chính Thiên Chúa mặc lấy cho câu trả lời này một tính cách long trọng:
“Đức Chúa trả lời và nói với tôi: ‘Viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được cho xuôi chảy” (2: 2).
Thị kiến này sẽ ứng nghiệm vào thời được ấn định không một chút sai chạy. Nếu nó chậm tới, người công chính phải đợi chờ một cách thành tín:
“Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (2: 4).
Thánh Phao-lô trích dẫn đến hai lần bản văn Kha-ba-cúc này để hỗ trợ cho luận đề của thánh nhân về ơn công chính hóa nhờ đức tin: “Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được cứu sống” (Rm 1: 17) và “Vả lại, không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Gl 3: 11). Tác giả thư gửi tín hữu Do thái cũng trích dẫn bản văn này: “Người công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, thì Ta không hài lòng về người ấy” (Dt 10: 38).
Thật ra, từ Hy-lạp: “pistis” này, cũng như từ La-tin “fides”, đều có hai nét nghĩa: “đức tin” và “lòng thành tín”. Kha-ba-cúc nhấn mạnh lòng thành tín, nghĩa là người công chính phải kiên trung bền vững trong đức tin bất chấp những tăm tối mà đức tin này phải đối mặt. Trong khi đó, những lời trích dẫn của bản văn Kha-ba-cúc trong Tân Ước lại nhấn mạnh đức tin hơn lòng thành tín.
BÀI ĐỌC II (2Tm 1: 6-8, 13-14)
Đây là bức thư cuối cùng của thánh Phao-lô vào lúc thánh nhân bị giam cầm một cách nghiêm ngặt ở Rô-ma. Thánh nhân nhận thức rất rõ số phận đang chờ đợi mình: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi” (4: 6). Như vậy, bức thư này một cách nào đó là di chúc tinh thần của thánh nhân. Thánh Phao-lô ngỏ lời với người cộng tác viên thân yêu của ngài bằng cung giọng thân tình trìu mến, nhưng cũng đầy tính kiên quyết của ngài. Thánh nhân để hết tâm huyết của mình vào những lời khuyên bảo này. Ông Ti-mô-thê xem ra đã là một người nhút nhát, thêm nữa bị tác động bởi những chướng ngại nổi lên trong Giáo Đoàn Ê-phê-xô, mà thánh Phao-lô đã giao phó cho ông trách nhiệm coi sóc.
Thần Khí đầy sức mạnh
“Anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh”. Động từ Hy-lạp được dịch ở đây là “khơi dậy”, thực ra có nghĩa “khơi lên ngọn lửa trong lòng”, tức là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mà ông Ti-mô-thê đã lãnh nhận vào lúc ông được thụ phong. Thần Khí này “không là một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh”. Lời khuyên khởi đầu này cho hiểu rằng những căng thẳng đã trở nên nghiêm trọng và ông Ti-mô-thê phải trở nên kiên quyết hơn đối với những lạc thuyết.
Thần Khí đầy lòng mến
Những lạc thuyết này vì gây nên những bất đồng nên không thể phát xuất từ đức mến được, như thánh Phao-lô đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Khi đi Ma-kê-đô-ni-a, tôi đã khuyên anh ở lại Ê-phê-xô để anh truyền cho một số người đừng dạy một giáo lý khác…; những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ không đóng góp vào kế hoạch của Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta biết. Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình” (1Tm 1: 3-5). Ông Ti-mô-thê phải ra sức làm cho đức ái Ki-tô giáo ngự trị trong cộng đoàn.
Thần Khí biết tự chủ
Từ ngữ được dùng ở đây “biết tự chủ” thuộc từ vựng khôn ngoan Hy-lạp; nó gợi lên phẩm chất của một tinh thần vừa biết tự kiềm chế chính mình trước sự sợ hãi hay đam mê vừa biết uốn nắn chính mình. Đối với ông Ti-mô-thê đây là tất cả chương trình hành động. Khi thực hành nhân đức này, ông sẽ làm tan biến những lạc thuyết mà xuống dưới vài dòng thánh Phao-lô sẽ xác định là “những chuyện nhảm nhí, trống rỗng” (2: 16).
Biết làm chứng và chịu đau khổ
Thánh nhân nhấn mạnh rồi trong thư thứ nhất của ngài gửi cho Ti-mô-thê về tầm quan trọng của lời chứng, lời tuyên xưng đức tin trước các chứng nhân; thánh nhân thêm vào đây giá trị của sự đau khổ: “Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác quyết rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó” (2Tm 1: 12). Ông Ti-mô-thê chắc chắn phải chịu đau khổ nhiều lắm vì những bất đồng nội bộ trong cộng đoàn Ê-phê-xô. Thánh Phao-lô xin ông hãy kết hiệp những đau khổ của ông với sự đau khổ của thánh nhân – sự đau khổ của một tù nhân bị giam cầm – và nghĩ đến sự hữu hiệu tinh thần của ông và ngài: những đau khổ của họ làm cho lời loan báo Tin Mừng được trổ sinh nhiều hoa trái.
TIN MỪNG (Lc 17: 5-10)
Theo văn mạch của Tin Mừng Lu-ca, Chúa Giê-su tiếp tục giáo huấn các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem; nhiều lần Ngài đưa ra những yêu sách đối với những ai muốn bước đi theo Ngài. Đoạn trích chương 17 này là đoạn văn cuối cùng về đề tài này, không kém phần nghiêm khắc. Thánh Lu-ca đặt vào trong bối cảnh các môn đệ xin Chúa Giê-su thêm lòng tin cho họ.
Đức tin
Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Danh xưng “Tông Đồ” thì hiếm trong các sách Tin Mừng. Thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô và thánh Gioan dùng danh xưng này chỉ một lần; họ tránh dùng danh xưng này vì nó có nghĩa “người được sai đi” mà chỉ một mình Chúa Giê-su mới xứng đáng tước hiệu này: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai phái. Thánh Lu-ca dùng danh xưng “Tông Đồ” này sáu lần, nhưng có chủ ý, trong vài trường hợp. Vì thế, chúng ta được báo trước rằng câu chuyện này thì quan trọng.
Cả ba thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô và thánh Lu-ca đều thuật lại việc Chúa Giê-su chữa lành một em bé bị quỷ ám mà các môn đệ đã bất lực. Tại Mát-thêu, các môn đệ ngạc nhiên nên hỏi Chúa Giê-su: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?”. Chúa Giê-su trả lời: “Tại anh em kém tin” (Mt 17: 20). Tại Mác-cô, chính cha của đứa trẻ xin Chúa Giê-su cứu giúp khi thốt lên: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” (Mc 9: 24).
Có lẽ chính vào dịp thất bại này hay thất bại tương tự khác mà các Tông Đồ đã bày tỏ lời thỉnh nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Tuy nhiên, những ngôn từ được chọn lựa, cung giọng được ban cho lời thỉnh nguyện này, hướng tư tưởng về thời hậu phục sinh. Trước biến cố Phục Sinh, các sách Tin Mừng trình bày đức tin như một ân ban của Chúa Cha. Như vậy, sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô, Chúa Giê-su công bố: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Gần trước cuộc Thương Khó, Chúa Giê-su còn công bố cho thánh Phê-rô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22: 32).
Vì thế, xem ra khả dĩ hơn rằng lời thỉnh nguyện được thánh Lu-ca trích dẫn ở đây đã được ngỏ lời với Đấng Phục Sinh (vì thế, mới có những lời “Lạy Chúa”, “các Tông Đồ”). Thánh Lu-ca tham dự trước viễn cảnh hậu Phục Sinh, viễn cảnh Giáo Hội thường hằng lộ ra trong Tin Mừng của thánh nhân. Chính là Giáo Hội được mời gọi cầu nguyện với Đức Giê-su là “Chúa”, xin Ngài thêm lòng tin cho mọi chi thể của Ngài.
Sức mạnh của đức tin
Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp lời thỉnh nguyện của các môn đệ Ngài. Nhưng nếu chúng ta cho lời thỉnh nguyện này một âm vang hậu phục sinh khi biện minh rằng thánh Lu-ca đặt ở đây những lời của Chúa Giê-su mà thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô trích dẫn trong một bối cảnh khác (x. Mt 13: 32; Mc 4: 31). Với những người sắp đảm nhận một công việc bao la là nâng dậy thế giới, Chúa Giê-su công bố rằng nếu anh em có lòng tin thì không gì là không thể, ngay cả truyền cho một cây cổ thụ có gốc rễ bám sâu trong lòng đất, mà xuống mọc dưới đáy biển đi nữa. Đức tin có quyền năng biến đổi mọi sự.
Phục vụ Thiên Chúa một cách vô vị lợi
Dụ ngôn tiếp theo sau không có mối liên hệ trực tiếp với giáo huấn đi trước; chắc hẳn dụ ngôn này nguyên thủy đã là độc lập. Tuy nhiên, sau lời dạy gợi ý về những điều kỳ diệu mà những người có lòng tin có thể thực hiện, Chúa Giê-su hạ xuống sự kiêu hãnh tiềm tàng của các môn đệ.
Bức tranh mang đậm nét miền Pa-lét-tin. Một nông dân, tiểu điền chủ, chỉ có một người nô lệ. Người nô lệ phải làm hết mọi việc trong nhà ngoài đồng của chủ. Dù phải mệt nhọc sau một ngày làm việc vất vả ngoài đồng, người nô lệ không được yêu sách bất cứ điều gì, dù nghỉ ngơi hay ăn uống, trước khi phục vụ chủ mình. Đó là bổn phận của một người nô lệ phải có đối với chủ mình. Dụ ngôn thì rắn rỏi, nhưng ý nghĩa thì rõ ràng: những ai cam kết phục vụ Thiên Chúa, thì phải phục vụ cách khiêm tốn: “Khi đã làm tất cả những gì theo mệnh lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”, nghĩa là đừng tự cho mình là cần thiết.
Bữa ăn
Tại sao Chúa Giê-su lại đưa ra một ví dụ về một bữa ăn như sự phục vụ tối hậu của người nô lệ đối với chủ mình sau khi kết thúc một ngày làm việc vất vả nhỉ? Đây không phải nhằm quy chiếu đến một bữa ăn khác sao? Thánh Lu-ca thích bức tranh bộ đôi, thậm chí nếu hai bức tranh không được kể ra trong bản văn của mình. Ở chương 12, trong bài diễn từ về việc phải sẵn sàng luôn, Chúa Giê-su gợi lên những người đầy tớ trung thành tỉnh thức đợi chủ trở về trong đêm khuya: “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12: 37). Ở bàn tiệc cánh chung, chính Thiên Chúa đích thân phục vụ những tôi trung của Ngài… Nhưng trước đó, người tôi trung phải chứng tỏ là mình phục vụ Ngài một cách khiêm tốn và vô vị lợi.
Rõ ràng là Đức Giê-su đang đề cập tới sức mạnh của niềm tin. “Nếu anh em có lòng tin lớn TN 27-C111
Rõ ràng là Đức Giê-su đang đề cập tới sức mạnh của niềm tin. “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Tôi không biết tường tận ẩn dụ cây dâu là như thế nào trong văn chương Do Thái, nhưng rõ ràng Đức Giê-su đang muốn diễn tả niềm tin như một sức mạnh gì ghê gớm lắm, đồng thời cũng cực kì phi lý, phi lý tựa ‘cây dâu xuống biển mà mọc’.
Niềm tin đưa một người đi vào tương quan với Thiên Chúa, và như mọi mối tương quan bất kì, nó có khả năng làm thay đổi vị thế và quyền lực nơi người đó. Trong Cựu Ước những ai đi vào tương quan với một Đức Chúa hùng mạnh và thánh thiện vô song chắc chắn cũng được tham dự phần nào vào vinh quang thánh thiện đó. Mô-sê từ trên núi Si-nai đi xuống với khuôn mặt sáng chói tới độ, dân không dám ngước nhìn. Sau khi Ê-li-a được Đức Chúa đưa về trời trên cỗ xe bằng lửa, chỉ một chiếc áo choàng ông ném lại đã đủ để Ê-li-sêu có quyền năng rẽ nước sông Gióc-đan… (2 V 2:13 tt.) Trong ngôn ngữ Cựu Ước đang rất phổ thông thời bấy giờ, hình như Đức Giê-su cũng muốn xác quyết cho các Tông Đồ rằng, nếu các ông có được một chút niềm tin như thế, các ông cũng sẽ nhận được một quyền năng nào đó (chưa xác định) mà Đức Chúa sẽ ban cho.
Thế nhưng các Tông Đồ lại đang là môn đệ của một Giê-su Na-da-rét, và lòng tin mà Thầy Giê-su này đang đề cập tới chắc chắn không phải là niềm tin vào một Đức Chúa hùng mạnh; niềm tin vào Thiên Chúa của Đức Ki-tô chắc phải có một điều gì khác xa hơn; và điều này hình như Đức Giê-su đã không hề dấu diếm.
Trước hết Người khảng định: môn đệ mình không được chờ đợi nơi lòng tin bất cứ một đền đáp nào, thăng quan tiến chức hay được phục dịch hưởng thụ, hay được khen ngợi ghi ơn. Hình ảnh người đầy tớ, sau khi làm lụng vất vả ngoài đồng trở về nhà, vẫn còn phải tiếp tục phục dịch ông chủ mà không được quyền đòi hỏi công lênh nào hết, quả là một minh họa rất dễ hiểu đối với mọi người; “Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?” Việc một số tổ phụ và ngôn sứ được chia sẻ quyền năng Đức Chúa thì cũng chỉ là vì kế hoạch của Thiên Chúa chứ không hề muốn nói lên công nghiệp hay ân thưởng. Vậy thì, người môn đệ của Tân Ước, một khi đi vào tương quan với Đấng “Đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45) sẽ phải nghĩ sao đây; hơn thế nữa, nếu chính Ông Chủ lại là người đang ‘thắt lưng hầu bàn’, thì người môn đệ đó sẽ có thái độ nào? Người môn đệ Ki-tô, hay bất cứ ai đặt niềm tin vào một Thiên Chúa như thế, liệu có dám đòi hỏi được phục dịch hay được trả công vì các công nghiệp mình đã cất công thu tích hay không?
Nhìn vấn đề như thế, ta mới thấy lòng tin đặt nơi Đức Giê-su là không đơn giản chút nào. Rời bỏ cái quan niệm cố hữu và rất phổ biến là giữ đạo để được phần thưởng thiên đàng, làm việc thiện hay tập tành các nhân đức để thu tích công nghiệp trước mặt Chúa, quả là một thách thức vô cùng to lớn; điều này thoạt nghe có vẻ phi lý còn hơn cả việc khiến cho ‘cây dâu… bật rễ lên… xuống biển mà mọc’. Nếu hình ảnh ‘cây dâu…’ tự nó là rất bất hợp lý, đồng thời cũng là một điều rất khó thực hiện, thì lòng tin vào Thiên Chúa từ nhân của Tân Ước, như Đức Giê-su trình bày, cũng tương tự như thế. Nó đòi phải có, hay phải tạo nên cả một đảo lộn, một hoán cải tận căn. Sau khi phải chịu đựng bao nỗi vất vả nhọc mệt, bao nhiêu từ bỏ khổ chế, bao nhiêu cố gắng hy sinh, thế mà Ki-tô hữu (nhất là tu sĩ, linh mục) vẫn phải mở miệng công bố: ‘ơn cứu độ tôi nhận được hoàn toàn là hồng ân Chúa ban nhưng không’, thì quả là khó lắm đấy; “Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” là câu nói thoạt nghe có vẻ hợp lý, nhưng rồi lại rất khó nuốt trôi. Chẳng trách gì đã từng có những lời càm ràm:
“Chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt… còn mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ… thế mà ông lại coi họ ngang bằng với chúng tôi” (Mt 20:1-16), những thái độ bất mãn: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh… Còn thằng con của cha đó… nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15:25-31). Tự nhiên thì lòng tin vào một Thiên Chúa ban thưởng sẽ dễ dàng khích lệ để tín hữu trung thành giữ cặn kẽ các lề luật và giới răn. Tin rằng: các khó nhọc vất vả hiện tại chỉ là nhất thời trong khi hạnh phúc vĩnh cửu mới đáng mơ ước, quả là một nâng đỡ tâm lý – tinh thần rất hữu hiệu. Nó lô-gích như: đem cây dâu trồng nơi đất tốt để có được hoa trái xum xuê, điều chẳng có gì là khác thường cũng như chẳng cần một phép lạ cả thể; ngược lại mới là điều ký lạ đáng nói. Tin vào một Thiên Chúa nhân ái thứ tha, hiến mình cho tội nhân cách nhưng không, và không mong đền đáp, để rồi tới lượt tôi, tôi cũng phải hiến mình phục vụ tha nhân không tính toán được thua, cả trước mặt Thiên Chúa lẫn trước mặt người đời, đó mới thật là điều khó tới độ gần như phi lý. Tuy nhiên một lòng tin như thế mới được Đức Giê-su mô tả như có khả năng “bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc!” Lòng tin của Ki-tô hữu là thế đó: nó có một đặc điểm để biện phân không thể nhầm lẫn. Nếu thiếu nét độc đáo đó, niềm tin này cũng sẽ trở thành tầm thường tới độ… “cả những người tội lỗi cũng làm như thế” (Lc 6:27-38).
Lạy Chúa, lúc này con muốn cầu nguyện cùng Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con!” Con xin được thứ lòng tin bằng hạt cải mà Chúa đòi các môn đệ phải có, không phải để làm phép lạ này nọ, nhưng là để thực hiện được một chút thôi điều phi lý của Tin Mừng: nhận biết Chúa yêu con vô điều kiện, để rồi sau khi đặt lòng tin vào Thiên Chúa yêu thương như thế, con cũng có một chút khả năng mở rộng cõi lòng yêu mến tha nhân mà không tính toán công lênh. Đối với con, đó đã là thực hiện được phép lạ ‘bắt cây dâu xuống mọc dưới biển” rồi đấy. A-men.
Chúng ta vẫn được mệnh danh là tín hữu, tức là những người có đức tin. Với đức tin, nhiều người TN 27-C112
Chúng ta vẫn được mệnh danh là tín hữu, tức là những người có đức tin. Với đức tin, nhiều người đã quảng đại từ bỏ tất cả, bỏ gia đình, bỏ quê hương xứ sở, bỏ bạn bè thân quen.. để lên đường dấn thân truyền giáo. Vì đức tin, biết bao anh hùng tử đạo đã can đảm chấp nhận cái chết để bày tỏ sự gắn kết với Đấng mà họ tín thác. Cộng đoàn quy tụ trong ngôi giáo đường để tham dự Thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật cũng để diễn bày đức tin qua việc cùng nhau hướng về Chúa và cầu nguyện. Đức tin là ngọn đèn soi dẫn hầu giúp khám phá những chân lý được mặc khải mà đầu óc con người không thể lý giải. Các bài đọc lời Chúa hôm nay, đặc biệt bài Tin mừng nhấn mạnh về đức tin. Chúa nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” Đức tin là chìa khóa then chốt để chúng ta có thể mở toang mọi cánh cửa, đi sâu vào thế giới của mầu nhiệm. Vậy đức tin là gì, và chúng ta cần hiển thị đức tin như thế nào?
Đức tin là gì?
Để trả lời câu hỏi này, Giáo hội dạy : “Tin là gắn kết trọn vẹn con người chúng ta với Thiên Chúa, đấng đã mặc khải chính mình. Đức tin được diễn bày qua 2 chiều kích: Tin vào Thiên Chúa và tin vào Chân lý đã được Thiên Chúa mặc khải (Sách Giáo lý Công giáo số 176,177). Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần và là nền tảng của đời sống Kitô hữu. Đó là một ơn nhưng không, do Thiên Chúa trao ban và con người cần mở lòng ra để đón nhận.
Trong bài Tin mừng hôm nay, các tông đồ xin Chúa tăng thêm lòng tin cho họ. Chúa Giêsu dần dần đưa dẫn các học trò đến chân trời đức tin. Chân trời này không phải chỉ tóm gọn trong một định thức giản đơn hay một bài học đơn sơ, nhưng cần phải trải nghiệm dần để tiến sâu vào trong suốt cả cuộc đời. Chúa nói với Nicôđêmô : “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).Vì vậy, đức tin là điều kiện duy nhất để được cứu độ.
Nhiều người vô thần hiện nay cho rằng tôn giáo chỉ là những gì mê tín. Karl Marx đã từng tuyên bố: “Tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ nhân dân.” Quan niệm này ngày nay đã trở nên quá lạc điệu. Con người ngày càng nhận thức nhu cầu tâm linh một cách sâu xa.
Ông Eyrien, một nhà xã hội học đã thống kê và cho thấy rằng trong số 432 nhà bác học có tên tuổi khắp nơi trên thế giới vào thế kỷ 19 và vào đầu thế kỷ 20, chỉ có 16 người tự nhận là vô thần, 34 người không có lập trường rõ ràng, còn lại 367 vị vẫn tin có Thiên Chúa. Như vậy, có đến 92% các nhà khoa học nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, tiêu biểu như Ampère, Copernic, Volte, Newton, Lavoisier, Pasteur, Pascal, J.J. Rousseau…Giáo hội vẫn khẳng định rằng đức tin không đối kháng với khoa học, nhưng ngược lại càng tìm hiểu khoa học, con người lại càng khám phá sâu hơn về Thiên Chúa.
Ông D’Alembert là một bác học vô thần đã mất niềm tin hoàn toàn. Nhưng trên giường hấp hối, ông xin gặp một linh mục để trở về với Chúa và tìm lại đức tin cho mình. Triết gia Shaupenhauer thế kỷ 19, một triết gia vô thần người Đức, suốt cuộc đời đã nguyền rủa tôn giáo và chọc giận Thiên Chúa. Lúc gần chết, ông đau đớn thốt lên: “Chúa ơi, sao tôi khổ thế này”. Vị bác sĩ săn sóc ông ta ngạc nhiên và hỏi: “Ông cũng còn tin Thiên Chúa nữa hay sao?” Ông trả lời : “Vào lúc này khi đối diện trước cái chết, cái triết lý vô thần của tôi đã hoàn toàn trở nên vô tích sự, chẳng giúp gì cho tôi được cả.” Ông Voltaire cũng vậy, ông đã chối bỏ Thiên Chúa và ra sức tấn công Giáo hội. Trên giường bệnh, ông gào thét lên: “Kìa, tôi nhìn thấy bàn tay của Thiên Chúa đang giơ ra để trừng phạt tôi, và cửa hỏa ngục đang mở toang để đón tôi vào, vì tôi đã chống lại Thiên Chúa, chống lại Giáo hội của Ngài”. Một người bạn đứng đó chứng kiến và đã kể lại : “Nếu ma quỷ có chết được, nó cũng không phải trải qua cái chết ghê sợ như cái chết của Voltaire.”
Ngược lại, chúng ta thấy rất nhiều khoa học gia tài ba vẫn thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa một cách sâu xa. Ông Louis Amstrong cùng 2 người bạn Mỹ là những người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng vào năm 1969. Khi vừa đến nơi, việc đầu tiên họ thực hiện là quỳ gối xuống, khiêm tốn cầu nguyện với Chúa và tạ ơn Ngài.
Như vậy, đức tin không đối nghịch với khoa học. Có những điều khoa học không giải thích được, nhưng chỉ với đức tin, con người mới có thể cảm thấu. Chúng ta vẫn gọi đó là những phép lạ, là những sự việc siêu thường xảy ra do sự can thiệp nhiệm mầu của Thiên Chúa. Tương tự, Chúa nói hôm nay: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, anh em bảo cây dâu này dời xuống biển, nó sẽ vâng lời anh em”. Nói cách khác, với đức tin, phép lạ sẽ xảy ra.
Sống và vun trồng đức tin.
Thánh Giacôbê đã dạy : “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” Đức Hồng Y Etchegarey khi đến thăm Việt Nam vào năm 1989 đã so sánh Giáo hội Việt Nam với Giáo hội Pháp. Ngài nói, ở Pháp 90% dân chúng có đạo nhưng chỉ 10% trong số ấy thực hành đức tin, cụ thể là đến nhà thờ ít nhất mỗi tuần một lần. Còn tại Việt Nam, số người Công giáo chưa tới 10%, nhưng trong số này có đến 90% vẫn thực hành đức tin đều đặn. Song Ngài tiên báo, Giáo hội Việt Nam trong vòng 30 năm nữa cũng sẽ giống Giáo hội Pháp bây giờ. Khi con người bắt đầu lao vào cuộc sống duy vật và chỉ lo hưởng thụ, đức tin của họ sẽ dần dần bị sói mòn. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa dạy các môn đệ cách thức vun trồng đức tin, đó là phải sống thật khiêm hạ, luôn ý thức mình chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa. Chúa nói : “Khi anh em làm xong bổn phận, thì hãy thưa lên : “Chúng tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” Kết luận
Chúng ta nhìn vào Đức Maria như là khuôn mẫu và cũng là Thầy dạy đức tin. Mẹ đã khiêm tốn, coi mình như một tôi tớ, luôn để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình và sẵn sàng thực thi những gì Chúa muốn. “Phúc cho bà là kẻ đã tin.” Xin Mẹ dạy chúng ta biết thể hiện và vun trồng đức tin giống như Mẹ năm xưa.
Khi kể dụ ngôn về ông chủ và người đầy tớ, hình như Chúa cổ võ chế độ nô lệ? Chúa không thương TN 27-C113
Khi kể dụ ngôn về ông chủ và người đầy tớ, hình như Chúa cổ võ chế độ nô lệ? Chúa không thương xót người đầy tớ sau một ngày vất vả lao nhọc để làm lợi cho chủ, chiều về đến nhà lại còn hầu hạ chủ, trong khi chủ chẳng đếm xỉa gì đến sự mệt nhọc của đầy tớ?
Thực ra, qua tương quan giữa hai hình ảnh chủ – tớ, Chúa Giêsu muốn dạy hãy loại trừ thái độ kẻ cả, thái độ vênh vang trước bất cứ một thành công nào, bất cứ một chiến thắng nào, dù lớn hay nhỏ. Hãy nhớ, trước mặt Chúa, mỗi người chỉ là đầy tớ vô dụng, chỉ là kẻ thọ ơn.
Vì thế, thấm thía lời dạy của Chúa: “Phần các ngươi, khi đã làm mọi điều truyền dạy cho các ngươi rồi, hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, không làm gì hơn là phận sự phải làm”, chúng ta cần có mấy tâm tình sau đây:
Ý thức mọi sự tốt lành điều do Chúa.
Hãy nhớ, Chúa là chủ tể, là nguồn cội, là cùng đích của đời ta, của cả vũ trụ. Con người cần luôn luôn ý thức: không có Chúa, bản thân họ chẳng có gì và cũng chẳng làm được gì.
Sống ở đời, như nhiều anh chị em, chắc chắn, có lúc ta thực hiện được “công trình” này, hay hoàn thành xuất sắc công tác nọ, nhưng cho dù đạt đến cái mà người ta gọi là “công trình”, hay chỉ là việc tầm thường hằng ngày, tất cả đều không ngoài thánh ý Chúa.
Hãy luôn ghi khắc, tâm niệm và cầu nguyện bằng lời Thánh vịnh 127, 1-2: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm. Bạn có thức khuya hay dậy sớm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ, Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng”.
Tập sống khiêm tốn.
Ai đó từng nói: “Tài năng thường được tỏa sáng trong im lặng. Kém cỏi thường tự lan tỏa bằng âm thanh”. Không khiêm tốn là cách dẫn đường tới sự mù tối của tâm trí. Bởi không khiêm tốn, người ta sẽ dễ tự mãn, dễ tự đắc thắng về chính mình. Người ta sẽ chẳng lãnh hội được bất cứ bài học hay kinh ngiệm nào. Không ai ưa thích kẻ thiếu khiêm tốn. Thậm chí người không khiêm tốn còn bị ghét, bị soi mói, bị xem thường…
Trước mặt người đời, đã phải khiêm tốn, thì trước mặt Thiên Chúa càng phải hạ mình. Chúa luôn đoái thương đến những ai khiêm tốn, biết hạ mình trước mặt Chúa. Chúa ban phần thưởng đời đời cho người sống khiêm nhu nghèo hèn.
Chúng ta cần khiêm tốn, đặt mình trước mặt Chúa, xin ơn soi sáng của Chúa, để tự đánh giá và có ý thức đúng mức về bản thân, để không bao giờ tự mãn, tự kiêu, không tìm cách đặt mình hơn người, hay tự cho mình hơn người. Nhờ đó, chúng ta có những lời lẽ, cử chỉ, hành động, thái độ, cách ứng xử, cách sống… khiêm tốn.
Bạn và tôi cần ghi nhớ lời sách Huấn ca: “Hỡi con, con hãy thi hành công việc con cách hiền hoà, thì con sẽ được người đẹp lòng Chúa quý chuộng. Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa; vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhường phải tôn vinh Chúa…
Tai hoạ dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa, vì mầm mống tội lỗi đã ăn sâu vào lòng chúng mà chúng không biết. Người thông minh suy ngắm trong lòng lời dụ ngôn, chăm chỉ nghe là kỳ vọng của người khôn ngoan” (3, 19-21. 30-31).
Luôn tạ ơn Chúa.
Càng khám phá ra mọi sự tốt lành đạt được đều là ơn Chúa, ta càng cảm nhận mạnh mẽ tình thương của Chúa dành cho, thì càng được thúc giục phải tạ ơn Chúa. Ta không chỉ tạ ơn trong một lúc nào, nhưng là mọi nơi, mọi lúc, suốt đời.
Hãy làm như ông Gióp, ngay cả lúc mất mát nhất, đau khổ nhất, tan thương nhất, ta vẫn cất lên lời tạ ơn, vẫn cảm nhận bàn tay uy quyền của Chúa: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1, 21).
Hãy luôn tâm nguyện rằng, Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử. Chỉ một mình Người có quyền “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1Sm 2, 6; Kn 16, 13). Chỉ có Người là Đấng “bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp và nhắc lên cao” (1Sm 2, 6-7).
Tuy quyền uy của Chúa là thế, nhưng Chúa vẫn chỉ một lòng yêu thương. Chúa là Đấng mà “ai quỵ ngã, Ngài đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Ngài cho đứng thẳng lên” (Tv 145, 13-14).
Tâm tình tạ ơn phải là tâm tình của mỗi con người sống khiêm tốn và luôn học để biết khiêm tốn hơn. Từng người hãy lắng nghe lời Thánh vịnh mà lặp đi lặp lại trong mỗi giây phút, mỗi hơi thở của đời mình: “Lạy Thiên Chúa con thờ, là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh” (Tv 145, 1-2).
Kết.
Tôi còn nhớ, trong thánh lễ khánh thành nhà thờ Chánh tòa Phú Cường, Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ, người đã bỏ nhiều công sức để xây dựng ngôi thánh đường, đã thinh lặng hoàn toàn trong suốt thánh lễ. Đến cuối thánh lễ, người ta mời Đức Cha phát biểu, Đức Cha chỉ nói một câu vỏn vẹn: “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”.
Có thể nói, đây là công trình để đời cho những thế hệ mai sau. Cùng với những ân nhân và nhiều người khác âm thầm cầu nguyện, Đức Cha có quyền nói với mọi người về những năm tháng vất vả, chạy đôn, chạy đáo để lo mọi thứ. Đức Cha có quyền tổng kết về kết quả mà bao nhiêu ân nhân, bao nhiêu công sức của nhiều con người, cùng với Đức Cha, dù tuổi đã cao, vẫn cố gắng hoàn thành. Nhưng Đức Cha chọn cách im lặng.
Trải nghiệm cuộc đời, đã không ít lần cho ta thấm thía rằng, đời ta mong manh, cuộc sống của ta dòn mỏng. Chỉ có cách duy nhất, là phó thác vào Chúa, đặt vào bàn tay của Chúa mọi công trình, mọi việc làm và cả cuộc đời ta, mới là cách hay nhất để ta tồn tại, và tồn tại trong Chúa đời đời.
Như Đức Cha Phêrô, chúng ta hãy để Chúa đếm từng giây phút, từng bước đi trong đời ta. Chính khi sống phó thác, ta sẽ thấy mình thật an nhiên, thật tự tại. Càng phó thác, ta càng dễ khiêm tốn. Càng khiêm tốn, ta càng là kẻ cao thượng trước mặt người đời, đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời trước mặt Thiên Chúa.
Vậy hãy luôn ghi nhớ lời dạy của Chúa: “Phần các ngươi, khi đã làm mọi điều truyền dạy cho các ngươi rồi, hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, không làm gì hơn là phận sự phải làm”.
Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần, đối tượng của đức tin chính là Thiên Chúa. Con người TN 27-C114
Đức tin là một trong ba nhân đức đối thần, đối tượng của đức tin chính là Thiên Chúa. Con người với tất cả nổ lực của bản thân, cùng với hồng ân đến từ Thiên Chúa, họ có thể đáp trả và tin vào Thiên Chúa. Đức tin vừa mang chiều kích cá nhân, nhưng cũng mang tính cộng đồng. Tôi tin và chúng tôi tin.
Khi ấy, các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”. Mở đầu bài Tin mừng là một lời kêu xin của các Tông đồ, lời cầu xin này chắc hẳn được hun đúc, và đúc kết trong một hành trình tương đối dài, cam go, thử thách và cũng hết sức phiêu phỏng, trên con đường đi theo Chúa. Ý thức được nỗi chênh vênh của phận người bất tất, các học trò của Chúa không còn biết phải làm gì, ngoài điều kêu lên cùng Chúa. Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Ha-ba-cúc, vị tiên tri cùng thời với Giê-rê-mi-a khoảng năm 600 TCN, cũng chua chát, và dường như bất lực, trước những bất công, sự dữ, sự phản bội của dân Thiên Chúa, để thốt lên lời kêu cứu với Thiên Chúa. Dường như là một điều tất yếu, khi con người lao vào cảnh khốn cùng, thì họ chạy đến với Thiên Chúa, để được che chở, và bảo vệ. Nhưng rồi lúc thoát ra khỏi tai ương, khốn khó thì họ ngoảnh mặt, làm ngơ, có khi không còn nhớ đến Chúa nữa. Đức Giê-su chỉ đòi hỏi lòng tin, những phép lạ cứu chữa dường như xuất phát từ lòng tin. Nếu chúng con có đức tin bằng hạt cải, quả là phi thường cho những ai tin vào Danh Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã chứng minh điều này, tổ phụ Ap-ra-ham người được mệnh danh là Cha của các kẻ tin. Ông đã tin và dấn thân đi theo Chúa, dù phía trước vẫn là những khoảng sáng tối, mong manh kiếp người. Thế nhưng, một khi đã tin Chúa, thì bước đi cho tới cùng. Giáo hội Chúa trường tồn và phát triển, cũng là nhờ đức tin soi đường, dẫn lối. Trải qua biết bao sóng gió, thử thách cam go, nhưng người Ki-tô hữu vẫn một lòng trung kiên, phó thác vào Chúa Quan phòng.
Cuộc sống luôn dành cho những người giàu nghị lực, biết vươn lên, và tin tưởng vào những cố gắng sẽ dẫn đến những điều may mắn trong cuộc đời. Lạy Chúa Giê-su, con tín thác vào Ngài. Amen.
Đức Tin là hồng ân của Thiên Chúa ban, nhưng cũng là một hành động tự do sâu xa của con người TN 27-C115
Đức Tin là hồng ân của Thiên Chúa ban, nhưng cũng là một hành động tự do sâu xa của con người. Đức Tin là một trong ba nhân đức đối thần. Đức Tin có thể biến những cái không thể thành những cái có thể. Đức Giêsu nói với các Tông đồ, dù có Đức Tin nhỏ bé cũng có thể làm được những chuyện lớn lao. Ngài khẳng định: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì dù các con có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời các con”(Lc 17, 5-6). Như vậy, Đức Tin có sức mạnh vô biên: nhờ Đức Tin, các Thánh Tử đạo vượt qua được những cực hình đau đớn; nhờ Đức Tin, các Kitô hữu vui vẻ chấp nhận những thử thách đau khổ trong đời sống đạo; nhờ Đức Tin, nhiều người kitô hữu dấn thân trong các lãnh vực từ thiện, bác ái; nhờ Đức Tin, Thánh Giáo Hoàng Giao Phaolô II đã tha thứ cho kẻ ám sát mình là Ali Agca; nhờ Đức Tin, Mẹ Têrêxa Caculta đã dấn thân không mệt mỏi để phục vụ những người bị bỏ rơi trong xã hội. Hôm nay, mỗi chúng ta có mặt trong thánh đường này để cử hành thánh lễ cũng chính là nhờ Đức Tin. Chút nữa đây, chúng ta dọn mình sốt sắng lên rước lễ, tức là rước Mình Máu Thánh Chúa qua hình bánh rượu, đó cũng là nhờ Đức Tin…
Như vậy, Đức Tin hết sức cần thiết trong đời sống đạo. Đức tin là điều kiện để các thụ nhân lãnh nhận các Bí tích. Mỗi lần làm phép lạ, Đức Giêsu thường đòi hỏi Đức Tin hoặc Ngài công bố phép lạ xảy ra là nhờ Đức Tin: “Đức tin con đã cứu chữa con.” Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bảo chứng cho những điều ta không thấy (x. Dt 11,1). Khi lãnh nhận Bí tích rửa tội, vị linh mục hỏi người dự tòng: “Đức Tin sinh ơn ích gì cho con?” Người dự tòng thưa: “Đức tin đem lại cho con sự sống đời đời.”
Trong cuốn sách “Mỗi Ngày Một Ý Tưởng” của MS Anhre, có đoạn viết: “Nếu bạn mất tiền, bạn sẽ mất đi một ít; nếu bạn mất đi danh dự, bạn sẽ mất đi rất nhiều; nhưng nếu mất đức tin thì bạn sẽ mất tất cả. Đức Tin là chìa khoá để bạn bước vào kho báu của Đức Chúa Trời. Đức Tin là con đường dẫn bạn đến sự chiến thắng. Đức Tin là lối sống đẹp lòng Đức Chúa Trời. Đức Tin là chìa khoá vạn năng giúp bạn mở toang những cánh cửa của Nước Trời. Đức Tin là hành động giúp bạn biến điều bất năng thành khả năng. Vì thế đừng đánh mất Đức Tin mà hãy giữ Đức Tin cho đến cuối cùng thì phần thưởng của Đức Tin đang chờ đón bạn.”
Để không đánh mất Đức Tin, chúng ta phải năng cầu xin Chúa bên thêm Đức Tin cho chúng ta (x. Lc 17,5). Đồng thời, chúng ta phải học hỏi và thực hành Đức Tin trong đời sống, bởi vì“Đức tin không việc làm là đức tin chết tận gốc rễ” (Gb 2,26). Tinh thần phục vụ vô vị lợi là cách thực hành Đức Tin một cách cụ thể nhất.
2. Tinh thần phục vụ vô vị lợi
Trong xã hội nô lệ, ông chủ có toàn quyền trên người đầy tớ. Ông có thể sai người đầy tớ làm hết việc này tới việc khác. Giống như người đầy tớ mà Đức Giêsu đề cập trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: ‘Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa’, mà trái lại không bảo nó rằng: ‘Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống’ (Lc 17,7-8). Dầu người đầy tớ phải làm hết công việc này đến công việc khác, nhưng luôn phải vâng theo ý ông chủ, không được đòi hỏi quyền lợi cho mình. Đức Giêsu nói tiếp: “Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không?” (Lc 17,9).
Khi đề cập đến vấn đề này, không phải Đức Giêsu tán đồng chế độ nô lệ, nhưng Ngài muốn dùng hình ảnh này để giúp chúng ta hiểu về vai trò của chúng ta đối với Thiên Chúa. Ngài nói: “Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: “Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm” (Lc 17,10).
Thật vậy, Thiên Chúa là người Cha, Ngài đặt để mỗi người chúng ta trong trần thế này với những khả năng và vai trò khác nhau. Chúng ta phải dùng vai trò và khả năng đó để chu toàn nhiệm vụ của mình. Nếu không chu toàn nhiệm vụ được giao phó, chúng ta có lỗi trước mặt Chúa, nhưng nếu chúng ta chu toàn nhiệm vụ được giao phó cũng chỉ là làm trọn bổn phận của chúng ta mà thôi, chúng ta không có quyền đòi hỏi Chúa trả công.
Những người Biệt phái nghĩ rằng, họ được Thiên Chúa ban cho ơn này ơn khác, họ được lên Thiên đàng là do công phúc của họ. Vì thế, họ thường kể công trước mặt Chúa. Thậm chí, họ còn khinh bỉ anh chị em xung quanh, nhất là những người ngoại giáo, những người họ cho là tội lỗi. Câu chuyện người Biệt phái lên đền thờ cầu nguyện cho chúng ta thấy điều đó. Ông kể lễ các công đức của mình: không tham lam, bất chính, ngoại tình, mỗi tuần ăn chay hai lần, dâng cho Chúa một phần mười thu nhập. Rồi ông còn nói, con không như người thu thuế kia (x. Lc 18,9-14).
Trong thực tế cuộc sống, nhiều người trong chúng ta cũng có thái độ như những người biệt phái: đi lễ, đi nhà thờ, ăn chay, cầu nguyện, làm việc bác ái…Có ý để Chúa trả công chứ không phải vì lòng mến Chúa hay vì làm việc đáng phải làm. Phải nhớ rằng: chúng ta luôn được mời gọi cộng tác với ơn Chúa để làm việc lành, việc thiện. Nhưng chúng ta không có quyền dựa vào việc lành, việc thiện của mình làm để đòi Thiên Chúa trả công. Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy tình thương của Ngài. Nhưng vì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và quảng đại, nên Ngài sẽ không bao giờ quên những việc lành, việc thiện chúng ta đã làm.
Lạy Chúa, xin ban thêm Đức tin cho chúng con, để chúng con có thể tin trọn vẹn những gì Chúa dạy và Hội Thánh truyền. Xin cho chúng con luôn có tinh thần phục vụ vô vị lợi theo khả năng và sứ mạng mà Chúa trao phó. Amen.
Ngày mùng 4 tháng 9 vừa qua, Mẹ Tê-rê-sa Calcutta đã được tôn vinh lên bậc hiển thánh, và do đó TN 27-C116
Ngày mùng 4 tháng 9 vừa qua, Mẹ Tê-rê-sa Calcutta đã được tôn vinh lên bậc hiển thánh, và do đó, trong Giáo hội có tất cả 3 vị thánh mang tên Tê-rê-sa, hai vị thánh kia là: Tê-rê-sa Giê-su, còn có tên là Tê-rê-sa Avila, mừng kính vào ngày 15 tháng 10, và Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su mà Giáo hội mừng kính vào ngày mùng 1 tháng 10 hôm nay. Ba vị thánh nữ tuy có chung một thánh hiệu (Tê-rê-sa) và cùng chung một chí hướng, hiến dâng cuộc sống mình để rao giảng Tin mừng và tình yêu của Chúa, nhưng các vị vẫn có những nét riêng trong cuộc đời.
Hôm nay nhân ngày kính thánh Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su, tôi xin được chia sẻ vài điểm đặc biệt trong cuộc đời của thánh nữ. Tê-rê-sa sinh ngày 2 tháng giêng năm 1873 tại nước Pháp. Ngài là con thứ chín trong gia đình. Khi mới lên bốn tuổi thì Têrêxa đã mất mẹ, bà chết vì căn bệnh ung thư. Nhưng Tê-rê-sa đã được người cha rất hiền từ đạo đức chân thật bao bọc suốt quãng thời thơ ấu. Lúc lên mười, Tê-rê-sa ngã bệnh nặng, nhưng ngài đã thấy Đức Trinh Nữ Maria hiện ra mỉm cười với mình và cơn bệnh biến mất.
Ngày từ lúc còn nhỏ, Tê-rê-sa đã có ước vọng và quyết định nên thánh và muốn được sớm tận hiến cuộc đời cho Chúa. Khi gia nhập dòng, ngài đã nhận được tên Têrêxa Của Chúa Giêsu Hài Đồng. Tê-rê-sa đã sống khiêm nhường và đơn sơ, nhưng rất sâu sắc và được nuôi dưỡng không ngừng bằng những suy ngắm. Tê-rê-sa vui mừng làm những việc nhỏ mọn và tầm thường mà các chị em trong dòng thường tránh né như quét nhà, rửa chén, lau bụi, giặt rũ, làm vệ sinh, nhưng những công việc đó lại được biến đổi trở nên gương sáng và thánh thiện bởi một tình yêu quảng đại và bao dung. Một phương thế để nên trọn lành. Ngài luôn coi những hy sinh đó như những đóa hoa hồng dâng lên trước tôn nhan Chúa. Trong tu viện, Têrêsa có một đời sống cầu nguyện chăm chỉ và sốt sắng, có lòng khao khát luôn được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Trong tâm hồn của ngài luôn bừng cháy ngọn lửa mến Chúa, luôn phó thác vào Chúa, có một nhân đức bác ái cao quí đối với mọi người và yêu mến các linh hồn. Trong mọi tình cảnh, Tê-rê-sa có một niềm cậy trông vững vàng, sắt đá vào sự phù trợ đắc lực của Đức Mẹ Maria.
Sau cơn bệnh trầm trọng, Tê-rê-sa đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 30 tháng 9 năm 1897, ở tuổi 24. Ðức Giáo Hoàng Piô XI đã phong Têrêxa lên bậc hiển thánh và đặt ngài làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Nhân dịp Ngày quốc tế giới trẻ lần thứ 12 diễn ra tại Paris, ngày 19 tháng 10, năm 1987, Đức Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô Đệ nhị đã tôn phong Thánh nữ lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh.
Ông bà anh chị em thân mến. Nhìn vào cuộc sống Ki-tô hữu, chúng ta phải thú nhận chúng ta không có một đức tin vững chắc và lòng mến Chúa và tha nhân sâu sắc như thánh nữ Tê-rê-sa. Chúng ta nhận biết cuộc sống đức tin của chúng ta ngày hôm nay như thế nào tùy theo mức độ lòng tin của chúng ta vào Chúa và lời Chúa dạy. Vì thế, như các môn đệ, chúng ta cùng cầu xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta hai bài học quan trọng cho đời sống Kitô hữu. Bài học thứ nhất phải có lòng tin mạnh mẽ, và bài học thứ hai phục vụ trong sự vui mừng và khiêm tốn. Thật vậy, muốn có một lòng tin mạnh mẽ và vững chắc thì phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, bằng các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, và những giáo huấn của Giáo hội. Lời Chúa được sánh ví như ngọn đèn, như ánh sáng trong đêm đen soi đường dẫn lối cho chúng ta làm những điều lành, tốt và đạo đức, cũng như tránh được những sự dữ, sự xấu trong đời sống hằng ngày. Chúng ta biết sự dữ xuất hiện trong xã hội ngày hôm nay qua nhiều hình thức cám dỗ của tiền bạc, vật chất, qua những sự gian dối, tham lam, ích kỷ, kiêu căng và tự phụ, qua những sự nghi ngờ về đức tin, coi thường và thờ ơ việc đạo đức, và nhất là bình thường hóa tội lỗi. Đó là những sự dữ rất nguy hiểm mà chúng ta thường đối diện trong xã hội ngày nay.
Như các tông đồ chúng ta cần Chúa ban thêm lòng tin. Nhưng chúng ta phải chú ý, vấn đề ở đây không phải là chúng ta cần có thêm nhiều đức tin, nhưng cần có đức tin vững mạnh và kiên trì vào Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô khuyên chúng ta hãy lấy những lời lành lẽ phải làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Ðức Giêsu Kitô, và hãy gìn giữ kho tàng đó cho tốt đẹp.
Sau khi đã dạy về bài học cần có lòng tin mạnh mẽ, Chúa dạy chúng ta bài học phục vụ trong vui mừng và khiêm nhường. Như trong cuộc đời của thánh nữ Tê-rê-sa, sự thánh thiện luôn đòi hỏi đức khiêm nhường. Một người làm được nhiều việc tốt lành, đạo đức hay hy sinh nhưng chỉ để khoe khoang, tự mãn, hay kể công với Chúa thì quả thực không còn sự thánh thiện nữa. Chúng ta biết khiêm nhượng là nền tảng của mọi nhân đức, do đó, trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu dạy chúng ta “Khi các con đã làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm.”
Chúng ta thấy trong bài đọc 1 hôm nay, tiên tri Habacuc đã kiên nhẫn và khiêm tốn khẩn cầu Thiên Chúa ban cho đức tin mạnh mẽ, bởi vì Habacuc biết rằng Thiên Chúa là Người duy nhất có thể thay đổi lòng dạ con người. Tiên tri Habacuc cũng ý thức rằng ngài chỉ là đầy tớ vô dụng và là tạo vật của Thiên Chúa, phải vâng lệnh chủ làm những gì chủ sai hay cần đến, mà không được kể công, không được bắt ông chủ nhớ đền công trạng của mình.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta cầu xin Chúa, qua lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria trong Tháng Mân côi này, và qua lời cầu bầu của thánh nữ Tê-rê-sa, giúp chúng ta học đức khiêm nhường từ Đức Maria và thánh Tê-rê-sa, vui mừng sử dụng tất cả những ơn lành Chúa ban để sống theo thánh ý Chúa, phục vụ và xây dựng làm sáng danh Chúa. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta đền tạ những gì đã và đang lỗi phạm đến Chúa, bằng cách thi hành sốt sắng 3 mệnh lệnh của Mẹ dạy: Cải thiện đời sống, Đền tạ Mẫu tâm và lần hạt Mân côi, và qua những việc hy sinh, yêu thương và quảng đại để làm sáng danh Chúa. Xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta có lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giê-su Con Mẹ trong mọi tình cảnh, tránh những sự dữ, nhất là những sự hiểm nghèo cho linh hồn và phần rỗi chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVII/TN-C – Lc 17, 5-10) trình thuật: “Các Tông Đồ thưa với TN 27-C117
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVII/TN-C – Lc 17, 5-10) trình thuật: “Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Lòng tin là gì và quan trọng tới mức độ nào mà các Tông đồ phải xin Thầy mình như vậy? Lòng tin xuất phát từ chủ thể khi nhìn nhận một vấn đề, một sự kiện hay một nhân vật. Theo từ nguyên thì lòng tin có nghĩa là: Có ý nghĩ cho là rất có thể sẽ như vậy, là đúng sự thật, là có thật, là thành thật, tử tế; từ đó đặt hoàn toàn hi vọng vào người nào hay cái gì đó. Trong nhãn giới xã hội học, lòng tin (hay sự tin cậy) vào người khác là một hiện tượng xã hội + tâm lý + văn hóa tổng hợp, và tâm thế này được coi là một trong những điều kiện căn bản để có thể duy trì đời sống tập thể.
Gia đình và cộng đồng xã hội (khu xóm, thôn ấp, làng xã, phường khóm…) là những tập thể mà người ta thường coi là điển hình cho mối quan hệ tin cậy giữa con người với nhau. Cuộc sống xã hội không thể ổn định và bền vững nếu mỗi cá nhân chỉ hành xử theo những tính toán thuần túy dựa trên lợi ích cá nhân. Trong phạm vi một tổ chức hay phạm vi xã hội nói chung, người ta không thể quản lý một cách có hiệu quả bằng sự hoài nghi và lại càng không thể bằng sự sợ hãi, né tránh, mà trước hết phải bằng lòng tin vào người khác, nhất là trong môi trường xã hội hiện đại. Nguồn gốc của sự tin cậy trong xã hội không phải xuất phát từ thiện ý (lòng tốt) chủ quan của từng cá nhân, mà là xuất phát chủ yếu từ các định chế xã hội. Nói cách khác, sự tin cậy tồn tại trên nền tảng của các qui ước và các chuẩn mực xã hội trong khuôn khổ của những định chế xã hội nhất định.
Trong xã hội cổ đại, người ta tin nhau vì cùng là thành viên của một định chế xã hội nào đó, như làng xã, dòng tộc hay cộng đồng tôn giáo. Mỗi thành viên yên tâm rằng các thành viên khác (trong cùng một cộng đồng) sẽ cư xử với mình phù hợp với những qui tắc và chuẩn mực mà cả cộng đồng cùng chia sẻ. Cách đây trên 2500 năm, một nhà hiền triết bậc thầy là Đức Khổng Tử (Trung Quốc) đã dạy môn đệ: “Nhân vô tín bất lập 人無信不立 ” (người không có niềm tin – lòng tin – thì không đứng được ở đời). Còn Tấn Văn Công, vua nhà Tấn – chư hầu của nhà Chu bên Trung Quốc, vào thời Xuân Thu (khoảng năm 770-476 trước Công nguyên) – thì nói: “Tín vì quốc chi bảo 信為國之寶 ” (trung tín là báu vật của quốc gia).
Thời hiện đại, ngoài những mối liên hệ trực tiếp trong gia đình hay giữa bạn bè thân thiết với nhau, người ta còn có những mối liên hệ giao tiếp rộng rãi hơn ngoài xã hội (trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội). Ngoài phạm vi gia đình và những nhóm xã hội nhỏ, cơ sở xã hội của sự tin cậy giữa các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội lúc này phần lớn không còn dựa trên phong tục và tình cảm như trong xã hội cổ truyền, mà dựa trên luật pháp và lý tính. (nguồn: Từ điển Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia org).
Với Ki-tô giáo thì xã hội loài người có hồn và xác được Thiên Chúa Tình Yêu dựng nên, như vậy thì tất cả mọi sự từ tinh thần (hồn) tới thế chất (xác) đều đo Thiên Chúa ban tặng, nên phải hiểu lòng tin là một ân huệ Chúa ban. Một cách cụ thể thì phải hiểu ở đây là lòng tin của con người đặt vào thần linh, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là đối tượng của lòng tin. Không có đức tin, không cậy dựa vào Thiên Chúa, chúng ta không thể làm được gì, đúng như Đức Giê-su đã dạy: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Nhưng nếu tin vào Thiên Chúa, ta sẽ có năng lực để làm được tất cả mọi sự, như thánh Phao-lô đã từng cảm nghiệm: “Tôi có thể làm được tất cả nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi” (Pl 4, 13). Ầy cũng bởi vì lúc đó, năng lực mà tôi sử dụng không phải đến từ bản thân bất toàn của tôi, mà đến từ Thiên Chúa, nguồn của mọi sứcmạnh trong vũ trụ, là Đấng Toàn Năng “không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).
Rõ ràng là nếu con người không có đủ năng lực, chính là vì họ chưa có đức tin đích thực. Vấn đề căn bản vẫn là ở chủ thể người tin, chớ không phải ở nơi đối tượng của lòng tin. Thật vậy, nếu tôi thật sự tin anh và hy vọng anh sẽ đem đến cho tôi những điều tốt đẹp, tôi sẽ sẵn sàng đến với anh để cầu mong anh giúp đỡ. Nói cách khác, khi tôi đã hoàn toàn tin tưởng vào anh, tôi sẽ sẵn sàng hợp tác với anh để biến những điều tốt đẹp mà tôi cầu mong đó sẽ trở thành hiện thực. Đối với Thiên Chúa thì cũng vậy thôi, bởi “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Người” (Thánh Au-gus-ti-nô). Có lẽ cũng vì thế nên Đức Giê-su đã không trả lời thẳng vào lời cầu xin của các môn đệ, mà Người chỉ nêu bật sức mạnh của lòng tin, để các môn đệ tự trang bị và củng cố đức tin của mình.
Đức Giê-su đã lấy đức tin so sánh với hình ảnh một hạt cải nhỏ bé, để có thể ra lệnh cho một cây dâu to lớn di chuyển. Mới nghe qua thì thấy có vẻ vô lý, vì cái lòng tin nhỏ bé như vậy thì làm sao có thể đứng vững được, chớ đừng nói là có thể ra lệnh cho cây dâu di chuyển. Tuy nhiên, suy cho kỹ Lời dạy bởi một Người Thầy chuyên dùng dụ ngôn, sẽ thấy là Người muốn củng cố lòng tin cho các môn đệ, cho nên Người mới dùng một hình ảnh cụ thể là hạt cải nhỏ bé mà có thể ra lệnh cho một cây dâu to lớn, cốt ý để nói lên sức mạnh của lòng tin, của đức tin. Câu này có thể diễn nôm: “Nếu anh em thực sự tin vào Thầy, tin vào quyền năng tối thượng của Thiên Chúa, thì bất cứ việc gì dù to lớn tới đâu chăng nữa (“di sơn đảo hải” – dời non lấp biển, chẳng hạn), anh em vẫn có thể làm được”.
Mấu chốt vấn đề vẫn chỉ là điểm nhấn: Đức tin. Mà nói về đức tin là phải nghĩ đến mạc khải, vì “Nhờ mạc khải, “do tình yêu vô biên, Thiên Chúa vô hình ngỏ lời với con người như với bạn hữu. Người đối thoại với họ, để mời gọi cho họ hiệp thông với Người” ( x. DV 2). Đức tin là lời đáp trả thích đáng của con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG sớ 142), Một vài sự kiện trong Kinh Thánh đáng suy gẫm: “Kẻ chú tâm vào lời Chúa dạy sẽ gặp chuyện tốt lành, người đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA thật hạnh phúc dường bao.” (Cn 16, 20); “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào ĐỨC CHÚA, và có ĐỨC CHÚA làm chỗ nương thân.” (Gr 17, 7); Khi về Na-da-rét, Đức Giê-su không làm được nhiều phép lạ nào, chỉ vì dân đồng hương với Người “không tin” (Mt 13, 58). Khi chữa lành bệnh cho ai, Đức Giê-su không nói rằng Người đã chữa lành bệnh cho họ, mà là “Đức tin của con đã chữa lành con” (Mt 9,22; Mc 5,34; Lc 8,48; Lc 17,19). Đức Maria được bà Ê-li-da-bet khen: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45), và chính Mẹ cũng được tôn xưng là “Mẹ đức tin”. Nhân vật nổi bật nhất về vấn đề đức tin vẫn chỉ có thể là Thánh Phê-rô.
Cùng với các môn đệ khác, Phê-rô đi theo Đức Ki-tô chỉ vì đã tin Người có thể giúp thánh nhân “lưới người như lưới cá”. Được sống liền bên với Người Thầy mà mình tin tưởng, được nghe dạy và nhất là được chứng kiến biết bao nhiêu phép lạ Người đã làm, vậy mà khi thì tuyên xưng “Thầy là Đấng Mê-si-a, Con Thiên Chúa hằng sống”, khi lại tưởng Thầy là ma (khi thấy Thầy đi trên mặt biển, nhất là khi Thầy đã Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ). Vừa mới khẳng định chắc nịch: “Dù có phải chết, con cũng không chối Thầy”, ấy vậy mà chỉ một đứa tớ gái nhà Cai-pha gạn hỏi, đã chối Thầy không chỉ một lần mà tới 3 lần trong một đêm: “Tôi thề là không biết Người ấy”. Nếu đức tin của Phê-rô đã kiên định thì có thể xảy ra trường hợp tréo cẳng ngỗng như vậy không?
Câu chuỵên đi trên mặt biển đã minh hoạ về đức tin của con người bộc trực Phê-rô: Khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển, ông tin rằng ông cũng có thể đi trên mặt biển đến với Người, và với niềm tin ấy, ông đã đi trên mặt nước không khác gì đi trên mặt đất. Nhưng khi thấy gió thổi mạnh thì ông đâm ra lo sợ, nghi ngờ, đức tin của ông bị chao đảo; vì thế ông bị chìm xuống và la lên cầu cứu: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14, 22-33). Rõ ràng việc Phê-rô đi được trên mặt nước hay bị chìm xuống là do đức tin của ông có mạnh mẽ hay không. Trường hợp này có thể nói: ông đi trên đức tin của ông, hay đức tin của ông chính là mặt đất nâng đỡ bước chân ông đi, cũng như nâng đỡ toàn bộ cuộc đời ông. Quả thật, khi có một đức tin vững vàng, thì đời sống nội tâm luôn luôn an bình hạnh phúc, bất chấp nghịch cảnh; nhưng khi đức tin bị chao đảo, thì đời sống cũng bị chao đảo theo.
Phân tích những sự kiện Kinh Thánh nêu trên, thấy nổi bật một chân lý: Để thành tựu được một phép lạ, phải có hai yếu tố quan trọng: Quyền năng của Thiên Chúa và lòng tin của con người. Thiếu một trong hai thì phép lạ không thể thành tựu được (một minh hoạ sống động là câu chuỵên “Đức Giê-su về thăm Na-da-ret”, nhưng những người đồng hương và cả thân nhân của Người vì không tin nên “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó” (Mc 6, 5). Tuy nhiên, quyền năng của Thiên Chúa thì bao giờ cũng có, lúc nào cũng sẵn sàng tác động, không bao giờ thay đổi hay mất đi, nên yếu tố hiển nhiên ấy không cần bàn cãi. Vấn đề còn lại chỉ là lòng tin của con người. Phép lạ hay điều con người cầu xin Thiên Chúa có xảy ra hay không, hoàn toàn do con người có thật sự tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa hay không.
Là con người, Ki-tô hữu chúng ta nhiều khi hoang mang lo sợ trước viễn cảnh tương lai vĩnh cửu và không ý thức mình đang trên con đường được Thiên Chúa cứu độ. Từ chỗ mất niềm tin ấy, chúng ta có thể dần dần đi tới tình trạng buông xuôi, phó mặc cho số phận đẩy đưa, không còn sống theo những điều Chúa và Giáo hội dẫn dắt nữa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay thắp lại ánh sáng đức tin và niềm hy vọng vào ơn cứu độ Đức Ki-tô đem đến cho chúng ta. Mà cũng “Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5, 2). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Hãy nhìn vào đích điểm của hành trình đức tin là niềm vui được cứu độ và sống “kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” như thánh Phao-lô dạy. Đó chính là điều giúp ta nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc sống trần gian và vững lòng tiến bước trong tinh thần hoan hỷ vì ngày Chúa quang lâm đã gần kề.
Tiếp theo lời dạy về niềm tin, Đức Giê-su lại đưa ra hình ảnh một người đầy tớ trung tín. Làm xong việc ông chủ trao phó đã không hợm hĩnh như kiểu anh chàng Pha-ri-sêu cầu nguỵên trong Đền Thờ (“Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế” – Lc 18, 11-12), mà biết thưa với chủ “chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” Bài học rút ra là đừng khoe khoang, chớ hợm hĩnh, mà hãy khiêm tốn phục vụ, bởi “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23, 11-12). Tốt hơn cả là hãy làm, đừng nói suông kiểu những ông kinh sư thích ngồi trên toà ông Mô-sê (Mt 23, 1-6) và nhất là đừng bao giờ “làm láo báo cáo hay”.. Cũng bởi vì “Với đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. Giáo lý tốt đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng ta” (2Tm 1, 13-14).
Tóm lại, bài học rút ra được khi suy niệm bài Tin Mừng hôm nay phải là: Đừng hãnh diện cho rằng mình đã có một đức tin vững mạnh, mà hãy nhìn lại mình để thấy được sự bất toàn của bản thân mà cầu xin: “Lạy Chúa! Xin thêm lòng tin cho chúng con.” Ôi! Lạy Chúa! Chúng con chỉ biết huênh hoang khoe thành tích này, việc tốt nọ, mà không biết rằng những thành tích ấy, những việc làm ấy, nếu không được Thần Khí Chúa soi sáng và thúc đẩy, thì rốt lại cũng chỉ là con số không. Chúng con biết rằng chúng con luôn hão huyền tự đắc cho rằng mình được làm con cái Thiên Chúa, được làm bạn hữu của Con Thiên Chúa, thì chắc chắn lòng tin sẽ vững mạnh. Đó quả thực là điều không tưởng! Vâng, lạy Chúa, xin ban Thần Khí cho chúng con, “xin thêm lòng tin cho chúng con”, để chúng con biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy. Amen.
(5) Các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. (6) Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. (7) Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi !”, (8) chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau !” (9) “Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ? (10) Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”.
Ý CHÍNH:
Nhân việc các Tông đồ xin Đức Giêsu ban thêm đức tin, Người đã đề cao sức mạnh của một đức TN 27-C118
Nhân việc các Tông đồ xin Đức Giêsu ban thêm đức tin, Người đã đề cao sức mạnh của một đức tin đích thực. Qua dụ ngôn về một người đầy tớ luôn vâng lời và khiêm tốn, Người muốn các ông phải tránh thái độ công thần, đòi phải được Chúa trả công ngay ở đời náy, nhưng phải biết khiêm tốn phục vụ, chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng với tinh thần vô vụ lợi.
CHÚ THÍCH:
– C 5-6:
+ Tông đồ: Ở đây đức Giêsu nói riêng với nhóm Tông đồ chứ không phải nói chung với các môn đệ. Tông đồ là tước hiệu dành riêng cho Nhóm 12 được Đức Giêsu tuyển chọn từ nhóm 72 môn đệ (x. Lc 10,1; 6,12-13). Các Tông đồ phải từ bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu và sau này sẽ được Người trao quyền lãnh đạo đoàn chiên và được sai đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa.
+ Xin thêm lòng tin cho chúng con: Đứng trước những đòi hỏi của Luật Mới (x. Lc 17,1-4) và sứ vụ phải mở rộng Nước Thiên Chúa, các Tông đồ cảm thấy bất lực. Các ông đã xin Đức Giêsu gia tăng thêm lòng tin vốn đang yếu kém của các ông (x. Lc 8,25). Các ông xin Người mở rộng tâm hồn để đón nhận ánh sáng đức tin.
+ “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải”: Hạt cải là loại hạt giống nhỏ nhất (x. Mt 13,32). Khi so sánh lòng tin với hạt cải, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh về phẩm chất hơn số lượng của đức tin. Một sự phó thác dù nhỏ bé đến đâu, nếu được thực hiện trong đức tin, thì vẫn có thể làm được những điều lớn lao kỳ diệu. Vì bấy giờ người ta làm không phải do sức riêng mình, nhưng là nhờ quyền năng Thiên Chúa.
+ “Thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”: Cây dâu là một cây đại thụ, rễ của nó rất lớn và nó có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, thì cũng có thể bứng cây đó khỏi mặt đất để xuống mọc trong lòng biển Galilê (x. Mt 17,20). Ơ đây Đức Giêsu không khuyến khích người ta cầu xin những phép lạ giật gân, và chắc không bao giờ Người lại di dời cây dâu để trồng xuống dưới biển. Vì Người luôn từ chối làm phép lạ để chứng minh Người là Con Thiên Chúa như các đầu mục Do thái nhiều lần yêu cầu. Đây chỉ là một kiểu nói nhằm đề cao sức mạnh của lòng tin mà thôi.
– C 7-8:
+ Có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên…: Theo tập tục thời đó, người đầy tớ không được tự do làm việc theo ý mình, nhưng phải luôn làm theo ý chủ. Ở đây, người đầy tớ vừa cày ngoài ruộng về, hoặc vừa dẫn chiên từ đồng cỏ về nhà. Ông chủ đòi anh ta phải tiếp tục phục vụ bữa ăn tối cho ông. Bổn phận của người đầy tớ là phải làm hết việc này sang việc khác theo ý chủ.
– C 9-10:
+ Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ?: Qua hình ảnh đầy tớ. Đức Giêsu muốn dạy người làm việc cho Chúa không được vênh vang đòi Chúa phải đền ơn sau khi anh ta làm xong nhiệm vụ của mình. Trái lại, họ cần ý thức thân phận tôi tớ thấp hèn của mình để sẵn sàng làm mọi việc theo lệnh Chúa truyền.
+ “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”: “Đầy tớ vô dụng” không có nghĩa là không làm được gì. Ở đây, “đầy tớ vô dụng” là một kiểu nói cường điệu ám chỉ “mang thân phận hèn kém”. Người Tông đồ cần tránh thái độ “công thần”. Vì các thành quả tuy bề ngoài do các ông làm, nhưng thực sự đều nhờ ơn Chúa giúp, như lời Người phán: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Thánh Phaolô cũng khiêm tốn nhận rằng: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới cho lớn lên” (1 Cr 3,6). Tóm lại, khi rao giảng Tin Mừng ta cần phải biết noi gương khiêm hạ của Đức Giêsu (x. Pl 2,6-8).
CÂU HỎI:
1) Tông đồ là những ai ? 2) Tại sao các ông lại xin Đức Giêsu gia tăng thêm lòng tin ? 3) Khi so sánh đức tin với hạt cải, Đức Giêsu muốn dạy điều gì ? 4) Đức Giêsu nói về sức mạnh của một đức tin chân chính qua câu nói nào ? 5) Tại sao Người lại muốn các Tông đồ phải tránh thái độ “công thần” ? 6) Tại sao Đức Giêsu muốn các Tông đồ phải luôn tự nhủ: mình chỉ là “những đầy tớ vô dụng”? II. SỐNG LỜI CHÚA
LỜI CHÚA: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). CÂU CHUYỆN:
Ngày nay, trên thế giới, ít có người không biết đến tên Mẹ TÊRÊSA CAN-QUÝT-TA. Mẹ là một nữ tu đã được tặng nhiều giải thưởng cao quý nhất: Năm 1963, Ấn Độ đã tặng Mẹ giải thưởng “Bông Huệ Tuyệt Vời”; Phi-líp-pin thì tặng giải thưởng Mas-say-say; Năm 1974 Rôma tặng Mẹ giải “Hòa Bình Gioan 23” và đến năm 1979, Mẹ được tặng giải No-ben Hòa Bình thế giới. Mẹ đã qua đời vào năm 1997 hưởng thọ 87 tuổi. Dù chỉ là một nữ tu không chút địa vị quyền hành, không có bao nhiêu tiền bạc hay thế lực… thế mà khi qua đời, Mẹ đã được nhiều vị đứng đầu quốc gia như Tổng Thống, Cựu Chủ Tịch Nhà Nước của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ… hay các nước nhỏ như Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia… hiện diện hay cử đại biểu đến dự lễ an táng, tiễn đưa Mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Vào năm 1948, Mẹ đã nhìn thấy một người đàn bà đang đói ăn và đứa con nhỏ mới sinh đang nằm bên một đống rác hôi thối, ruồi nhặng bu đầy chung quanh. Cảnh ấy làm Mẹ xúc động như nhìn thấy Đức Giêsu đang bị bỏ rơi trên cây thập giá. Từ đó Mẹ đã quyết hiến trọn cuộc đời để phục vụ những người cùng khổ. Họ là những người đang bị bệnh hoạn, đói rách và nằm trên các hè phố hay bãi rác công cộng để chờ chết mà không được chăm sóc tử tế. Mẹ đã mang họ về nhà dòng và phục vụ họ thật chu đáo, cho đến khi qua đời. Nhờ lời cầu nguyện và sự cộng tác giúp đỡ của nhiều nhà hảo tâm. Mẹ và các nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái đã lập được gần 300 nhà hấp hối như thế. Cuộc đời và công việc của Mẹ Têrêsa, một nữ tu nghèo nhưng đã làm được những việc lớn lao phi thường nhờ đức tin, minh chứng cho Lời Chúa dạy hôm nay: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Vậy đức tin là gì? Tại sao chúng ta phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta?
SUY NIỆM:
Nhân việc các Tông đồ xin Đức Giêsu ban thêm đức tin, Người đã cho biết đức tin là hồng ân nên các ông phải biết cầu xin Thiên Chúa ban cho. Tiêp đen Người đề cao sức mạnh của một đức tin đích thực. Qua dụ ngôn về một người đầy tớ luôn vâng lời và khiêm tốn, Đức Giêsu muốn các ông phải tránh thái độ “công thần”, tự hào đòi Chúa phải trả công ngay, nhưng phải biết khiêm tốn phục vụ, chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng với tinh thần vô vụ lợi.
1) “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”:
– Đức tin do Chúa ban: Trong cuộc sống chúng ta thường nghe nói: “Vô tri bất mộ” – Không biết sẽ không yêu. Tuy nhiên lời Chúa hôm nay lại cho thấy về phạm vi đức tin không giống như vậy: Các Kinh sư và các biệt phái tuy am hiểu Kinh Thánh, nhưng họ đâu có tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, đang khi những người ngheo đói, bệnh tật, tội lỗi… tuy ít học, nhưng lai vững tin nơi Nguời. Như vậy cho thấy đức tin không luôn đi đôi với sự khôn ngoan thế gian nhưng là một ơn ban của Chúa, như lời Đức Giêsu đã ngợi khen Chúa Cha: “Lay Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Do đó, muốn có đức tin vững mạnh chúng ta phải cầu xin như các Tông đồ trong Tin Mừng hôm nay đã xin với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
– Sức mạnh của đức tin: Tiếp theo, Đức Giêsu đã đề cao sức mạnh của đức tin khi nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Nói câu này, Đức Giêsu không khuyến khích các Tông đồ làm phép lạ cho người ta tin, nhưng Người muốn các ông ý thức về sức mạnh của một đưc tin đích thực. Nếu có đức tin vững vàng, chúng ta sẽ làm được những việc lớn lao vượt quá khả năng giới hạn của chúng ta như Đức Giêsu đã hứa: “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14,12-13).
– Thành quả của đưc tin: Quả thật, sau khi Đức Giêsu lên trời, nhờ quyền năng Thánh Thần, các Tông đồ đã thực hiện được nhiều dấu lạ: Sau bài giảng của Simon Phêrô, đã có ba ngàn người xin tòng giáo. Các Tông đồ còn làm nhiều phép lạ trên những người tin (x. Cv 2,41; 5,12-16). Như vậy, đang yếu đuối, các ông đã nên mạnh mẽ nhờ cậy nhờ vào ơn Chúa giúp. Về vấn đề này, thánh Phaolô viết : “Chúa quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên, tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi… Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10c).
2) Đưc tin phải đi đôi với sự khiêm tốn phục vụ:
-Phục vụ cách khiêm tốn: Người tín hữu phải biết phục vụ Chúa và tha nhân cách khiêm tốn vô điều kiện, giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày hay đi chăn chiên về, sẽ tự thấy có bổn phận phải tiếp tục phục vụ bữa tối cho chủ, rồi sau cùng mới được ăn.
-Phải tránh thái độ “công thần”: Đức Giêsu đã dạy các môn đệ: “Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10). Phải tránh thái độ vênh vang “công thần”, nghĩa là tự hào về công khó của mình để đòi Chúa phải trả công như người biệt phái trong dụ ngôn hai người lên Đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,11.13).
3) Chúng ta phải làm gì ?
-Xin thêm đức tin: Noi gương các Tông đồ xưa, chúng ta hãy năng cầu xin Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). Chính nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ làm được những điều lớn lao. Chẳng hạn: Sẽ giúp cho nhiều tội nhân hồi tâm trở về; Sẽ giúp nhiều người lương nhận biết tin thờ Thiên Chúa; Sẽ kêu gọi được nhiều người rộng rãi đóng góp công sức tiền bạc để làm các việc từ thiện bác ái lớn lao, noi gương Mẹ Têrêsa Canquýtta đã làm. Đàng khác, Tin và yêu luôn phải đi đôi với nhau: Có yêu Chúa nhiều thì mới tin vững vào Chúa được. Do đó, ngoài việc năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta còn phải xin Chúa ban thêm lòng yêu mến Chúa nữa.
-Loan Tin Mừng bằng việc bác ái: Ngày nay, loan báo Tin Mừng không những phải dựa vào ơn Chúa giúp, mà còn phải khiêm nhường dấn thân phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giêsu (x. Ga 13,6.13-15). Thực tế cho thấy: Việc chia sẻ bác ái cụ thể có sức thuyết phục khiến nhiều người dễ dàng đón nhận đức tin hơn bài giảng hùng hồn, như Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã dạy: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp Evangelii nuntiandi, số 41).
-Yêu phải đi đôi với tin: Có yêu Chúa nhiều thì mới vững tin vào Chúa. Trươc khi trao quyền chăn chiên cho Simon Phêrô, Chúa Phục Sinh đã ba lần sát hạch ông về long mến dành cho Người: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” (x. Ga 21,15-17). Do đó, ngoài việc năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, mỗi tín hữu chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng mến Chúa cho chúng ta.
-Phục vụ trong khiêm hạ: khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, chúng ta cần tránh thái độ tự mãn khoe khoang thành quả đạt được, nhưng phải luôn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Phải chờ đên ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu sẽ ban thưởng cho các tôi trung của Người, cho họ được tham dự bàn tiệc Nước Trời và sẽ quan tâm phục vụ lại họ (x. Lc 12,37).
THẢO LUẬN:
1-Khi bạn làm việc tông đồ mà cảm thấy chán nản và muốn buông xuôi tất cả thường do những nguyên nhân nào ?
2-Bạn cần làm gì để lấy lại tinh thần hăng say phục vụ Tin Mừng Nước Thiên Chúa ?
NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Xin ban cho con một đức tin như hạt cải, để con loại bỏ các thói hư tật xấu ra khỏi lòng con. Xin cho con một đức tin can đảm, để con không sợ bị thiệt thòi khi dấn thân, sẵn sàng từ bỏ những điều con thường cậy dựa xưa nay. Xin cho con một đức tin sáng suốt, để con nhìn thấy Chúa đang hoạt động trong vũ trụ và trên thế giới, thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khổ chung quanh con. Xin cho con một đức tin quảng đại, dám hy sinh bản thân vì Chúa và tha nhân. Xin cho con một đức tin liều lĩnh, dám lội ngược dòng và khước từ những cám dỗ của ma quỷ và thế gian. Xin cho con một đức tin vui tươi, vì biết những gì đang chờ đợi con ở cuối đời, sung sướng và hy vọng vì biết mình sẽ được Chúa yêu thương đón nhận. Cuối cùng, xin cho con một đức tin trưởng thành, để con luôn kiên vững khi gặp những khó khăn gian khổ, dù phải trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, nhưng vẫn luôn cậy trông và phó thác cho một mình “Thiên Chúa Tình Yêu”.
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXVII Thường Niên , năm C, của LM Antôn Nguyễn văn Độ
(Lc 17, 5-10)
Đức tin là chủ đề nổi bật trong phụng vụ Chúa Nhật tuần này. Đức tin được đề cập đến trong bài TN 27-C119
Đức tin là chủ đề nổi bật trong phụng vụ Chúa Nhật tuần này. Đức tin được đề cập đến trong bài đọc I : “Người công chính sẽ sống nhờ trung tín “ (Kb 1,4). Ý tưởng này được Thánh Phaolo lấy để khuyên môn đệ mình là Thimôthê : “Con hãy lấy những lời lành lẽ phải… làm mẫu mực trong đức tin… ” (2Tm 1,13-17). Bài Tin Mừng bắt đầu với lời cầu xin của các tông đồ cùng Chúa Giêsu : “Xin thêm lòng tin cho chúng con! ” (Lc 17, 5-6).
Thay vì thỏa mãn lòng ao ước của các ông, Chúa Giêsu xem ra muốn làm đức tin lớn mạnh hơn. Người nói : “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng :’hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biến’, nó liền vâng lời các con ” (Lc 17,6). Chúng ta lấy câu này làm lời cầu xin của mình trong thế giới hôm nay. Chúa Giêsu có ngoa ngữ hay không khi nói đức tin của các môn đệ chỉ bằng hạt cải thôi, cũng có thể làm những điều con người không bao giờ nghĩ tới. Đúng như vậy, người đơn sơ, khiêm tốn nhưng có đức tin mạnh mẽ thì có thể chuyển núi dời non. Chẳng hạn như, một người cha hay một người mẹ, lúc phải đối mặt với những khó khăn nặng nề hay một ai đó đang lâm bệnh rất nặng mà có đức tin, thì những người đến thăm họ sẽ cảm nhận được sự thanh thản và bình an. Quả thật, những người ấy, nhờ đức tin của họ, đã không tự hào về những gì mình làm, nhưng, như Chúa Giêsu bảo họ: “Chúng con chỉ là những người tôi tớ. Chúng con chỉ làm những điều phải làm” (Lc 17,10).
Sống trong thời buổi ngày hôm nay, hỏi bao nhiêu người trong chúng ta có được đức tin mạnh mẽ để làm được những điều cả thể.
Đức Tin là gì ?
Đức tin không phải là một vấn đề phức tạp. Những hoàn cảnh vốn phức tạp, nhưng bản thân đức tin lại rất đơn giản. Tin chính là biết Thiên Chúa là ai, biết Ngài hằng yêu thương và muốn giúp đỡ chúng ta, Ngài sẽ thực hiện cho dù sự hiểu biết ấy trái ngược với những hiểu biết thông thường của chúng ta và biết rằng Ngài nghe lời chúng ta cầu nguyện.
Đức tin thì không giao động hoặc hoài nghi. Thiên Chúa biết chúng ta không hoàn hảo. Khi chúng ta có lòng tin, chúng ta sẽ vững vàng tin tưởng vào Chúa, không bị lay động bởi những tin tức xấu hoặc xu hướng xấu (x. Tv 112,7). Mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho (x.Rm 12,3). Vì thế, chúng ta phải xin Chúa ban cho món quà của Thần Khí là ơn đức tin (x. 1 Cr 12,9). Xin Thiên Chúa gia tăng lòng tin nơi chúng ta (x. Lc 17, 5).
Sự cần thiết của Đức Tin
Còn sống là còn cần đến đức tin. Đức tin để tin tưởng và đón nhận Lời được viết; để nghe những Lời từ Thiên Chúa ; để vâng phục và thi hành ý Chúa; tin vào Chúa trong những lúc ngặt nghèo; phó thác mọi sự trong tay Chúa; đương đầu với những thử thách và ngay cả những hoàn cảnh không thể. Tiên tri Khabacuc mô tả người có đức tin, cậy dựa vào Chúa, nhưng bị thử thách quá sức : “Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? Cớ sao Chúa tỏ cho con thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt con? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng“ (Kb 1,2-3). Chúa bảo : “Người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Kb 1,5). Đức tin cho ta rất nhiều thứ.
Để hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời ta, chắc chắn chúng ta phải cần đến đức tin. Làm sao để đức tin của chúng ta lớn mạnh là việc chúng ta phải làm ngay hôm nay. Chúng ta sẽ không có được đức tin để chuẩn bị cho tương lai nếu chúng ta không bắt đầu luyện tập và củng cố thêm đức tin của chúng ta ngay từ bây giờ.
Tháng truyền giáo, tháng Mân Côi
Bước vào tháng Mười, tháng dành riêng cho việc truyền giáo, với chủ đề : “Được Rửa tội và được sai đi. Giáo Hội của Chúa Kitô với sứ mạng truyền giáo trên thế giới“. Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi toàn thể Giáo Hội cử hành “Tháng ngoại thường về truyền giáo” này để cầu nguyện cho hòa bình thế giới và làm mới mẻ lại tinh thần Loan Báo Tin Mừng nơi người Kitô hữu.
Chúng ta nhớ đến các nhà truyền giáo đang hăng say rao giảng và mang Tin Mừng đến cho người khác, họ đã phải vượt qua những khó khăn đủ loại, kể cả trao ban sự sống. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho họ ơn can đam, nâng đỡ họ, để họ can đảm, như thánh Phaolo nói với Timôthê : “Con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa” (2Tm 1,8). Mỗi chúng ta cũng có thể làm chứng cho Chúa, với sức mạnh của Thiên Chúa, sức mạnh của niềm tin. Ðức tin của chúng ta nhỏ bé nhưng mạnh mẽ: với sức mạnh đó chúng ta làm chứng cho Chúa Giêsu, là những người Kitô hữu bằng đời sống, bằng chứng ta của chúng ta.
Và làm thế nào để chúng ta có được sức mạnh ấy? Chúng ta phải cầu xin. Lời cầu nguyện là hơi thở của đức tin. Lời cầu nguyện, đức tin, tình yêu liên kết với nhau vốn là điều không thể thiếu, lời cầu nguyện là thưa chuyện với Thiên Chúa.
Tháng 10 cũng là tháng Mân Côi, chúng ta hiệp ý cùng nhau cử hành hành vi đức tin với Ðức Trinh Nữ Maria Rất Thánh Mân Côi, Mẹ chúng ta, đồng thời xin Mẹ là cô giáo của trường cầu nguyện, trường đức tin dạy chúng ta siêng năng lần chuỗi Mân Côi để cầu cho thế giới được muôn muôn sự lành. Amen.
Niềm tin vào Chúa của bạn mạnh đến mức nào và làm thế nào bạn có thể lớn lên trong nó? Đức tin TN 27-C120
Niềm tin vào Chúa của bạn mạnh đến mức nào và làm thế nào bạn có thể lớn lên trong nó? Đức tin không phải là điều gì mơ hồ, không chắc chắn, không thể xác định, hay điều gì đó đòi hỏi sự nhảy vọt của trí tưởng tượng hay tệ hơn nữa, là loại trung thành mù quáng. Trên thực tế, nó hoàn toàn ngược lại. Đức tin là lời đáp trả của sự trông cậy và tin tưởng nơi điều đáng tin, đáng cậy, chắc chắn, và hiện thật. Có đức tin là tin cậy vào ai đó hay vào điều gì đó. Chúng ta tin vào năng lượng của điện ngay khi chúng ta không thấy nó rõ ràng bằng mắt thường. Chúng ta biết chúng ta có thể cắm dây điện vào năng lượng đó và sử dụng nó để làm những điều tự sức con người chúng ta không thể làm được. Đức tin vào Thiên Chúa hoạt động cũng giống như vậy.
Khi Thiên Chúa mặc khải chính mình cho chúng ta, Người ban cho chúng ta “bảo chứng” và “sự thuyết phục” rằng quyền năng và sự hiện diện của Người là thật sự, và còn thật hơn cả kinh nghiệm của chúng ta về thế giới tự nhiên hữu hình xung quanh ta (Hr 11,1-3). Những sự vật quanh chúng ta thay đổi, nhưng Thiên Chúa không bao giờ thay đổi. Người bất biến, lời Người lúc nào cũng đúng, và luôn luôn trung tín với mọi lời hứa của Người (Tv 145,13; Hr 10,23). Đó là lý do tại sao chúng ta có thể có sự bảo đảm lớn nhất về tình yêu vô điều kiện của Người dành cho chúng ta và tại sao chúng ta có thể hy vọng với sự thuyết phục hoàn toàn rằng Người sẽ ban cho chúng ta mọi sự Người đã hứa. Đức Giêsu là bằng chứng của Thiên Chúa hữu hình rằng Lời Người là đáng tin cậy và thật sự – tình yêu của Người không thay đổi và vô điều kiện – và quyền năng của Người thì vô cùng vô hạn.
CTT giúp chúng ta lớn lên trong niềm tin kiên vững
Đức Giêsu có ý nói gì khi Người nói với các môn đệ rằng lòng tin của chúng ta có thể chuyển cây dời núi (Mt 17,20; Mc 11,23). Kiểu nói “ngọn núi dời đi” được sử dụng vào thời Đức Giêsu để mô tả ai đó có khả năng giải quyết những vấn nạn khó khăn. Chẳng phải chúng ta thường đối mặt với những thách đố và khó khăn mà xem ra vượt ngoài khả năng của mình đó sao? Điều không thể đối với con người lại có thể đối với những ai có lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Đức tin là quà tặng Chúa ban để giúp chúng ta nhận biết Chúa một cách cá biệt, để hiểu biết chân lý của Người, và sống trong sức mạnh tình yêu của Người. Thiên Chúa mong muốn từ nơi chúng ta còn hơn cả chúng ta có thể làm tự sức mình. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu ban cho chúng ta hồng ân và quyền năng Chúa Thánh Thần, Đấng giúp đỡ chúng ta lớn mạnh trong đức tin, kiên trì trong đức cậy, và chịu đựng trong đức mến.
Niềm tin vào Thiên Chúa là chìa khóa để di chuyển những chướng ngại và khó khăn ngăn cản chúng ta không thực hiện thánh ý Người. Chúng ta là những tôi tớ của Người, và Người luôn sẵn sàng hành động qua chúng ta và trong chúng ta vì vinh quang của Người. Để cho niềm tin có hiệu quả, nó phải được nối kết với đức cậy và đức vâng phục – sự vâng phục Thiên Chúa và sẵn sàng thực hiện bất cứ chuyện gì Người truyền ban. Bạn có tin cậy vào ơn sủng và quyền năng của Chúa để chống lại cám dỗ và chế ngự những chướng ngại trong việc thực hiện thánh ý Người không?
Dụ ngôn người đầy tớ trung tín, kẻ mắc nợ và biết ơn Thiên Chúa
Bạn có sẵn sàng dâng hiến cho Chúa điều tốt nhất của mình, bất kể những gì nó có thể đòi hỏi bạn không? Dụ ngôn của Đức Giêsu về người đầy tớ biết vâng lời để đề nghị rằng chúng ta luôn phải cố gắng hết sức mình, bỏ qua những gì chúng ta có thể mong được đáp lại. Nhưng chẳng phải chúng ta giống như người đầy tớ trong dụ ngôn của Đức Giêsu, người mong mỏi tiền công cho ngày làm việc của mình đó sao? Thật bất công biết bao khi người chủ bắt buộc họ làm nhiều hơn những gì được mong đợi! Không phải chúng ta đòi quyền lợi cho mình khi nói rằng: “Tôi chỉ làm những gì được yêu cầu chứ không làm hơn!” đó sao? Nhưng ai có thể làm thỏa mãn những khát vọng của tình yêu?
Đức Giêsu dùng dụ ngôn này về người đầy tớ biết có trách nhiệm để giải thích rằng chúng ta không bao giờ có thể đặt Chúa vào món nợ của mình, hay cho rằng Thiên Chúa nợ chúng ta một điều gì đó. Chúng ta phải coi mình là tôi tớ của Chúa, cũng giống như Đức Giêsu đến “không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mt 20,28). Việc phục vụ Chúa và tha nhân cả hai đều là một hành động tự nguyện hay tự do, và một nhiệm vụ thiêng liêng. Người ta có thể tình nguyện phục vụ hoặc bị buộc phải phục vụ cho đất nước hay gia đình của mình, khi những nhu cầu đặc biệt phát sinh. Tương tự như vậy, Thiên Chúa mong đợi chúng ta thờ phượng và chúc tụng Người theo bổn phận của mình. Và Người vui lòng chấp nhận lễ tế tự nguyện của cuộc sống của chúng ta cho Người và cho công việc phục vụ của Người. Điều làm cho lễ tế của chúng ta đẹp lòng Thiên Chúa là tình yêu chúng ta thể hiện trong sự hy sinh quên mình. Tình yêu thật sự luôn là hy sinh, quảng đại, và vị tha – tất cả đều nhắm tới người mà chúng ta yêu mến và phục vụ.
Lòng mến Chúa buộc chúng ta cho đi điều tốt nhất
Chúng ta có thể yêu người khác một cách vị tha và vô điều kiện như thế nào? Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng chính Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16) vì Người là Tác giả của sự sống và Nguồn gốc của tất cả các mối quan hệ. Người đã tạo dựng nên chúng ta trong tình yêu và cho tình yêu, và Người lấp đầy trái tim chúng ta với tình yêu vô biên đến nỗi cho đi bất cứ điều gì là tốt lành vì lợi ích của nước khác (Rm 5,5). Nếu chúng ta yêu thương nhau, Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người trọn hảo nơi chúng ta (1 Ga 4,12).
Thiên Chúa kính trọng người đầy tớ trung thành, người yêu thương và phục vụ với tấm lòng quảng đại. Người luôn sẵn sàng hoạt động trong và thông qua mỗi người chúng ta cho vinh quang của Người nhờ Thần Khí. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng Thiên Chúa không bao giờ mắc nợ chúng ta. Chúng ta không được than trách về Người. Tình yêu của Người đòi buộc chúng ta dâng hiến cho Người những gì tốt nhất! Và khi chúng ta đã làm hết sức mình, chúng ta chỉ đơn giản hoàn thành nhiệm vụ của mình. Chúng ta không bao giờ có thể trổi vượt Thiên Chúa trong tình yêu thương xót vô bờ, lòng nhân hậu và tốt lành vô biên, sự quan tâm liên tục không ngừng nghỉ dành cho chúng ta. Kinh thánh nhắc đi nhắc lại với chúng ta rằng tình yêu Thiên Chúa bền vững, trung tín, và tồn tại muôn đời – không bao giờ chấm dứt (Tv 89; 100; 118; 136). Thánh Augustine thành Hippo viết: “Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta như thể chỉ có một người để yêu”. Liệu tình yêu của Thiên Chúa có đòi buộc bạn phải cho đi điều tốt nhất của mình cho Người, với tình yêu quảng đại và lòng biết ơn đối với tất cả những gì Người đã làm cho bạn không?
Lạy Chúa Giêsu, xin lấp đầy lòng con với tình yêu nóng bỏng của Chúa và cho con tự do để yêu thương cách quảng đại và phục vụ quên mình. Xin ban cho con lòng biết ơn đối với tất cả những gì Chúa đã làm cho con, và gia tăng đức tin và lòng trung thành của con dành cho Chúa, là Tất Cả, là Sức Mạnh, là Sự Sống của con.
Tác giả: Don Schwager (http://dailyscripture.servantsoftheword.org/readings/) Bro. Paul Thanh Vu – chuyển ngữ
Tôi có cơ duyên giúp cho một gia đình gồm năm người theo đạo. Sở dĩ họ theo Chúa là vì TN 27-C121
Tôi có cơ duyên giúp cho một gia đình gồm năm người theo đạo. Sở dĩ họ theo Chúa là vì có nhóm đọc kinh đến nhà cầu nguyện và người mẹ bệnh tiểu đường biến chứng sang thận được thuyên giảm. Cả nhà ra điều kiện với Chúa: nếu được Đức Mẹ chữa khỏi cả nhà sẽ theo đạo vì ông bố là đạo gốc nhưng đã bỏ đạo từ ngày 17 tuổi. Tôi ra công dạy và hi vọng Chúa sẽ làm phép lạ. Sau mỗi buổi học giáo lý, tôi cùng gia đình cầu nguyện xin Chúa ban thêm đức tin. Việc học diễn tiến cách tốt đẹp và bệnh tình của bà cũng thuyên giảm trong thời gian học giáo lý. Gia đình tối nào cũng sốt sắng đọc kinh trước khi đi ngủ và xin Mẹ Maria chữa bệnh tình cho bà. Ngày rửa tội của gia đình được tổ chức cách sốt sáng và tốt đẹp.
Nhưng ngay sau ngày rửa tội bà mệt vì bụng của bà to hơn và phải đi cấp cứu ngay. Nhà bà rất nghèo vì đang phải trang trải món nợ chữa bệnh cho bà trong quá khứ. Gia đình chỉ mong vào năm con dê mẹ để kiếm ăn hằng ngày và trả nợ, nhưng bây giờ phải bán tới bốn con dê mẹ mới đủ tiền cho mẹ đi nhà thương. Từ ngày bà đi cấp cứu kinh tế gia đình xuống dốc không phanh. Bữa cơm hằng ngày là chao với rau luộc hòa với nước mắt. Nhìn cảnh gia đình như thế, tôi đau lòng thưa với Chúa như các môn đệ hôm nay: “Xin thêm lòng tin cho chúng con.” Trước thử thách này chính tôi cũng bị lung lay huống hồ những người còn non nớt kia. Tôi chỉ biết cầu nguyện: con không hiểu, con không hiểu. Đến thăm gia đình trong cảnh rách nát với những nỗi buồn choáng ngợp trên các khuôn mặt, tôi rát lòng và cố gắng bật lên ba tiếng: hãy vững tin. Tôi đọc được nỗi đau, sự nghi ngờ trong lòng những kẻ đáng thương này. Tôi cũng đã nhiều lần vật vã với Chúa: Tại sao lại như thế? Chúa không kéo dài được một thời gian để cho những cây đức tin này đâm rễ đã, con sẽ nói làm sao với gia đình của Chúa đây?
Chúa vẫn thinh lặng trước những cật vấn của tôi. Còn tôi vẫn cố gắng hết sức để củng cố niềm tin đang chao đảo trước sóng gió này. Dẫu cố gắng nhưng tôi vẫn đọc được từ sâu thẳm lòng họ sự nghi ngờ.
Chúa có cách của Ngài, sau đó ít lâu, gia đình mượn tiền và mua lại được bầy dê đã bán. Và sau bốn tháng gia đình chìm trong đêm tối, gia đình đã mua được một bầy dê bốn con mẹ và bảy con con với giá rất rẻ. Từ đó họ có một bầy dê gấp ba lần bầy dê trước. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi thấy mọi người trong gia đình hưng phấn hơn. Kinh tế của gia đình mỗi ngày một tiến hơn vì bà không phải đi cấp cứu thường xuyên và ông cũng có công ăn việc làm đều đặn. Ông bà trả được món nợ đeo đẳng từ lâu. Gia đình đã dần dần cảm nghiệm được sương trời đổ xuống trên gia đình. Lúc này tôi lại dùng võ miệng để cao rao tình thương của Chúa với gia đình để mọi người thêm lòng tin. Ngọn đèn đức tin lu mờ trong cơn thử thách thì bây giờ lại được bùng cháy qua cơn sóng gió. Trong phong ba lời nói của tôi bị gió cuốn nhưng trong khi trời yên bể lặng thì nó lại vang sâu hơn bình thường. Lúc này tôi mới hiểu sự dẫn dắt của Chúa: Nếu Chúa để phép lạ tiến triển bình thường thì con người quen dần mà không nhận ra sự quan phòng và tình thương của Thiên Chúa cách rõ nét. Nhưng trong cơn bão tố tuy con thuyền đức tin có tròng trành thì khi trời lặng, biển yên con người sẽ nhận ra quyền năng vô biên của ngài.
Đúng vậy, cho đến bây giờ gia đình đã cảm nghiệm được điều này và họ vẫn giữ đạo tốt. Đức tin của họ được nuôi dưỡng bằng những giờ kinh tối đều đặn và họ sốt sắng giữ luật Chúa.
Bài tin mừng hôm nay giúp tôi liên tưởng đến gia đình tân tòng này. Hằng ngày họ xin Chúa: xin thêm đức tin cho chúng con mỗi khi một cơn thử thách đến đe dọa lòng tin non nớt của họ. Họ đã được Thiên Chúa ban đức tin một cách nhưng không, còn họ phải tín thác tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa, cậy dựa vào một mình Ngài. Chúa đang từ từ uốn nắn họ để đức tin của họ mỗi ngày một trưởng thành hơn.
Còn tôi, tôi được sinh ra trong đức tin, được lớn lên trong dòng sữa đức tin và được ủ ấp, được rèn luyện trong môi trường đức tin. Đức tin đó có thể trả lời cho những vấn đề sâu xa nhất của cuộc đời. Không có đức tin mọi sự đều vô nghĩa. Đức tin cho tôi nguồn hi vọng, nguồn vui và ánh sáng để sống. Đời sống mà không có ánh sáng giống như đêm tối không trăng sao.
Đức tin là quyền năng lớn nhất trong thế giới này nên hôm nay các môn đệ tha thiết xin Chúa: Xin gia tăng đức tin cho chúng con. Đức tin phải được lớn lên mãi để có thể làm được những gì không thể như lời Chúa nói: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, anh em có thể nói với cây này: “ Hãy bứng rễ và trồng xuống biển và nó sẽ vâng lời anh em.”
Đức tin có khả năng làm phép lạ không theo nghĩa phù phép, bùa chú nhưng là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm những việc to lớn phi thường, vì người có đức tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. Do đó người có lòng tin có thể làm được những việc mà chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa mới làm được. Thực ra không phải người ấy hành động nhưng là chính Thiên Chúa hành động trong người ấy và qua người ấy.
Hình ảnh hạt cải bé nhỏ nói lên sự phó thác dù nhỏ đến đâu nếu được thực hiện trong đức tin, vẫn có thể làm được những điều lớn lao vì không phải ở sức mình nhưng là ở sức mạnh của Thiên Chúa.
Đức Giêsu dùng hình ảnh hạt cải có bộ rễ rất to và khỏe nhưng hạt nó thì nhỏ xíu như đầu kim để nói lên sức mạnh của niềm tin. Để làm bật rễ một cây dâu thật to chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin vững vàng mạnh mẽ.
Có nhiều thứ bám rễ trong đời tôi: Những khuynh hướng xấu, những thói quen do môi trường, lối nhìn, lối suy nghĩ, lối đánh giá tha nhân, lối sống đạo theo thói quen, hình thức là những thứ rễ chằng chịt. Rễ chằng chịt này khó gỡ để ném nó xa tôi. Chỉ khi có lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa tôi mới có thể gỡ mình khỏi những ràng buộc, mới làm được những điều tưởng như không sao làm nổi.
Những kết quả chúng ta thực hiện được là nhờ lòng tin nghĩa là chính Thiên Chúa hành động nơi chúng ta và qua chúng ta. Như thế chúng ta đâu dám tự phụ cho nó là công lênh của mình: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Khi nói về huân công của Đức Maria hay của các thánh, chúng ta nói Chúa đội triều thiên cho những ơn của Chúa, vì nhờ Chúa ban ơn thánh chúng ta mới sản sinh những ước muốn thánh thiện và thúc đẩy chúng ta làm điều thiện.
Như thế, chúng tôi không có lý do để vênh vang tự đắc và kiêu hãnh với anh em là mình đã làm được những việc tốt lành, thánh thiện. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được điều này sâu hơn chúng tôi: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”, nghĩa là khi Ngài nhận mình yếu đuối và khiêm tốn cậy dựa vào Chúa thì Chúa sẽ biểu dương sức mạnh của Chúa nơi ngài: “Tôi được mạnh mẽ trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”.
Lời các tông đồ hôm nay tha thiết xin Chúa: “Xin thêm đức tin cho chúng con” mời gọi tôi hãy luôn tín thác vào Chúa trong lúc vui cũng như lúc buồn, khi hoạn nạn cũng như lúc thành công để ngọn đèn đức tin của tôi không vụt tắt giữa cơn bão tố. Ngọn đèn đức tin này phải được gìn giữ và phát triển trong cầu nguyện và trong cuộc sống phó thác. Chính Chúa sẽ làm phép lạ để cây đức tin này sinh hoa quả, còn tôi phải luôn khiêm tốn chân nhận mình: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần TN 27-C122
Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau.
1. Khoảng cách đời này
Người phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Hai con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.
Thánh Luca với ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so sánh đầy ấn tượng: người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương, kẻ không ai thương, người không thương ai.
2. Khoảng cách đời sau
Cái chết đến làm đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới chân bàn ăn được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy bị đày xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt.”
3. Khoảng cách đời này và đời sau
Khoảng cách nơi cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh cực hình ở đời sau? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo hãy chấp nhận, hãy an phận? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng phúc thiên đàng?
Chắc chắn Thánh Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi và nghèo khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương 16 giáo huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.
Người phú hộ bị luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội phú hộ mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là “mackeno” (mặc kệ nó) trước sự cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.
Lazarô không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại cho họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.
Con người đi đến vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép kín lòng mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc sống vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương, lòng không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Chúa Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.
Lý tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động (GHAC số 34).
Vẫn còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn. Lạy Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ chia niềm vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa đã hạ mình xuống thế làm người phàm và đã hiến thân phục TN 27-C123
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa đã hạ mình xuống thế làm người phàm và đã hiến thân phục vụ muôn người như một người tôi tớ.
Khi thấy đoàn dân đông đảo đang đói, Ngài lo cho họ được ăn no. Khi thấy những người phong hủi bị chứng bệnh nan y hành hạ và bị loại trừ ra khỏi làng mạc, Ngài chữa họ được lành để đoàn tụ với gia đình. Ngài làm cho người câm được nói, cho người điếc được nghe, cho kẻ què được đi và cho người chết sống lại.
Ngài sẵn sàng hầu hạ phục dịch mọi người. Ngài nói với các môn đệ: “Giữa người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ” (Lc 22, 27).
Chúa Giêsu đã thực sự làm tôi tớ hầu hạ, khi trong bữa tiệc ly, chính Ngài đã lấy nước đổ vào chậu rồi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đó là công việc của người nô lệ phục vụ chủ mình.
Và sau khi sống lại, Chúa Giêsu đến với các môn đệ trên bờ biển Galilê ngay khi trời hừng sáng. Ngài không đến với hai bàn tay không nhưng mang theo than, củi, bánh và cá. Rồi Ngài nhóm lửa trên bãi biển, nướng bánh và cá rồi mời các môn đệ lại ăn. Ngài phục vụ y như người tôi tớ trong gia đình (Ga 21, 4-14).
Cao điểm của phục vụ là Ngài hiến mình như chiên đền tội. Ngài làm chiên gánh lấy tội lỗi thế gian, cho người ta trút tội lên đầu Ngài, Ngài mang lấy tội lỗi muôn người để đền tội cho mọi người, chết thay cho mọi người.
Còn chúng ta thì sao?
Chúa Giêsu là Chúa tể mà lại đem thân làm tôi mọi cho loài người như thế đó; còn chúng ta là tôi tớ hèn mọn lại thích làm như thể mình là chủ của Thiên Chúa, muốn Thiên Chúa làm theo mọi ước vọng của mình, muốn Thiên Chúa phục dịch mình mọi mặt.
Chẳng hạn khi đau yếu, người ta yêu cầu Chúa chữa họ mau lành. Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa cho no đủ. Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự thành công! Khi phải sống cảnh nghèo, người ta xin Chúa cho trúng số… Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!
Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện ý Chúa trước.
Hôm nay, Chúa Giêsu muốn chúng ta trở về vị trí của mình, vị trí của người tôi tớ và dạy ta hãy làm tròn nhiệm vụ tôi tớ của mình. Ngài nói: “Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi. ”
Lạy Chúa Giêsu,
Từ lâu nay, chúng con ước mong, kêu cầu Chúa thực hiện rất nhiều điều theo ý chúng con muốn, nhưng thử hỏi: Chúng con đã làm theo điều Chúa muốn chúng con làm hay chưa?
Chúa muốn chúng con sống bác ái, yêu thương, phục vụ, tôn trọng mọi người… chúng con đã làm những điều đó chưa?
Nếu chúng con chưa làm được những việc Chúa giao thì làm sao chúng con dám đòi Chúa thực hiện điều chúng con muốn.
Trước khi kêu cầu Chúa thực hiện điều con muốn, xin cho chúng con chu toàn mọi điều Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng con.
Đời sống trần gian rất nhiều thử thách. Đó là một cuộc chiến khốc liệt. Với rất nhiều đau khổ TN 27-C124
Đời sống trần gian rất nhiều thử thách. Đó là một cuộc chiến khốc liệt. Với rất nhiều đau khổ. Trần gian thực là một “thung lũng nước mắt”, là bể khổ. Khiến con người yếu đuối ngã gục. Những đau khổ như bóng tối phủ vây. Khiến con người hầu như lạc lối. Không còn biết đi đâu về đâu. Biến trần gian thành bến mê. Để có thể vượt biển trần gian, đạt tới bến quê Thiên đàng bình an, cần có đức tin vững mạnh. Lời Chúa hôm nay cho ta hiểu đức tin giúp ta vượt qua đêm tối trần gian thế nào.
Đức tin giúp ta vững tin vào Lời Chúa.
Tiên tri Khabacuc cho thấy thế giới là một bóng tối khủng khiếp. Vì tội ác tràn ngập. Bạo tàn khắp nơi. Kẻ ác thắng thế. Không có ngày nào bình an. Không có nơi nào yên ổn. “Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ”. Trong khi đó Thiên Chúa dường như vắng mặt. Hoặc có mặt cũng chỉ đứng nhìn.
Trong bóng tối dầy đặc ấy, Lời Chúa hứa là ngọn đèn soi bước. Cho vị tiên tri vững vàng lần mò trong đêm tối. Tin tưởng “thị kiến ấy sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành”.
Vì tin tưởng nên dù đau khổ, vị tiên tri cũng vẫn sống công chính. Trong khi những kẻ thiếu niềm tin ngã gục thì người vững tin sẽ đứng vững. “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.”
Đức tin giúp ta kết hợp với Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô lại nhìn thế giới đầy bóng tối đau khổ là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với đau khổ để vượt qua. Chiến đấu với chính mình để không nản lòng. Hãy an tâm chiến đấu. Vì khi chịu phép rửa tội ta đã được nhận Thánh Thần. Nhất là những người được đặt tay đặc biệt. Chúa Thánh Thần sẽ ban ơn sức mạnh. Giúp ta đủ bình tĩnh đối đầu với đau khổ. Và giúp ta đủ sức chiến thắng bóng tối.
Khi ta quyết tâm lao vào cuộc chiến không nhượng bộ, không sợ hãi, kỳ tích phát sinh. Khi ấy ta được đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cho ta được kết hợp với Người. Chính trong đức tin và đức mến này mà ta đủ sức chiến đấu. Và với Chúa Giêsu ta sẽ chiến thắng.
Đức tin giúp ta chiến thắng nhờ Chúa Giêsu
Khi kết hợp nên một với Chúa Giêsu, ta không phải làm gì nữa. Chính Chúa làm việc trong ta. Khi ta từ bỏ mình hoàn toàn, Chúa hoàn toàn chiếm ngự trong ta. Bấy giờ lời nói và hành động của ta là của Chúa. Nên phát sinh hiệu quả tối đa. Như Chúa dạy hôm nay: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” Đó là trường hợp của Phêrô khi chữa người què bẩm sinh. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Bấy giờ ông Phêrô nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Chúa Giêsu Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi!” rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh trỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. Anh đứng phắt dậy, đi lại được”. (Cv 3,5-7)
Khi ta hoàn toàn từ bỏ bản thân. Hoàn toàn để Chúa sử dụng. Ta trở nên dụng cụ của Chúa. Trở nên tôi tớ vô dụng của Chúa. Chúa sẽ làm việc. Và đức tin đưa đến chiến thắng.
Nhưng có lẽ đức tin của ta còn yếu kém. Mà những gian nan khốn khó trong đời sống còn rất nhiều. Vậy ta hãy noi gương các tông đồ tha thiết cầu xin Chúa: “Lạy Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Khabacuc đã làm gì để vượt qua thung lũng đầy nước mắt? 2.Timôthê đã nhờ bí quyết nào để chiến đấu với đau khổ? 3.Người đầy tớ vô dụng là gì? 4.Bạn đã sống đức tin chưa?
Chúa Giêsu dạy: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rẽ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’ nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc17,6).
Làm sao đức tin nhỏ xíu, chỉ bằng hạt cải mà lại có thể chuyển cây dâu đi một cách thần kỳ như TN 27-C125
Làm sao đức tin nhỏ xíu, chỉ bằng hạt cải mà lại có thể chuyển cây dâu đi một cách thần kỳ như vậy. Trong lịch sử Giáo hội cũng chưa thấy vị thánh nào lại thể hiện lòng tin một cách ngoạn mục theo kiểu này!
Một em bé đang rơi từ trên cao xuống, không biết có vị thánh nào, có lòng tin bằng hạt cải, ra lệnh: “Hãy dừng lại, đừng rơi nữa”. Kết quả là em bé ngưng rơi xuống chăng?
Vậy thì, cần phải hiểu làm sao về giáo huấn của Chúa Giêsu về đức tin lớn bằng hạt cải?
Trước tiên, lời dạy của Chúa Giêsu không có ý dạy về quyền năng của con người nhờ sự tin tưởng của mình. Điều tin tưởng này được thấy nơi những nhà ma thuật, những phù thủy, mà ta thường nghe nói hay đọc trong những chuyện cổ tích. Họ có thể hô biến, tức thì cục đã hóa ra bánh, cục sắt hóa ra thỏi vàng, cây gậy hóa ra con rắn như các thầy phù thủy của các vua Ai Cập ngày xưa.
Chúa Giêsu cũng không có ý dạy về một đức tin, kiểu như cậy nhờ vào danh hay quyền năng của Thiên Chúa, để làm một điều lạ lùng để biểu diễn, để chứng tỏ mình là có ơn Chúa, như được thấy qua lời cám dỗ của ma quỷ: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!" (Mt 4,3) “Nếu ông là con Thiên Chúa thì hãy biến đá thánh bánh đi”. "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi..." (Mt 4,6).
Chúa Giêsu đã không hóa đá ra bánh; đã không gieo mình xuống để chứng tỏ đức tin của mình đối với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu cũng không có ý dạy về một đức tin, kiểu như bắt Chúa phải làm theo ý muốn của con người, hoặc có vẻ mù quáng, kiểu như các bà hiếm muộn cầu nguyện xin Chúa cho mình có con trong câu chuyện về các bà bầu, khoảng mười năm trước đây. Các bà đi cầu nguyện và sau khi cầu nguyện, thì các bà phải tin rằng mình đã có thai, và không được đi siêu âm. Theo giải thích của họ, nếu đi siêu âm thì mình còn nghi ngờ; mà còn nghi ngờ thì Chúa sẽ không ban cho.
Đó quả là một đức tin mù quáng. Một bà bị hiếm muộn, đã nói chuyện với tôi, kể rằng bà thấy mình mang thai, vì bụng đã to ra. Nhưng sau chín tháng mười ngày mà vẫn chưa thấy mình sinh nở gì cả. Rồi hai ba năm sau cũng chẳng thấy sinh con gì cả. Đặt biệt là bà cũng không đi siêu âm để biết mình có thai thật không. Sau này, bà mới vỡ lẽ, nhận ra rằng mình chẳng có thai gì cả, bụng mình to ra chỉ vì mình ăn uống bồi bổ, nghĩ ngơi để dưỡng thai. Bụng nó to ra không phải vì có thai, mà vì có nhiều mỡ tích tụ.
Câu chuyện của các bà bầu ở đây cho thấy một đức tin mù quáng, muốn bắt Chúa làm theo niềm tin của mình.
Vậy đoạn Tin Mừng muốn giáo huấn ta về một đức tin như thế nào?
Chúa Giêsu đã dạy, sau khi các môn đệ cầu xin Ngài ban thêm ơn đức tin. Chắc là lúc đó, các môn đệ cảm thấy mình rất yếu đuối, rất khó khăn để có thể tin vào Chúa Giêsu. Phải tin Ngài là Đấng Kitô, trong khi Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria ở làng quê Nazaret; phải tin Ngài là Con Thiên Chúa, trong khi họ luôn tin tưởng rằng, Thiên Chúa là độc nhất, một Thiên Chúa duy nhất mà thôi.
Phải tin vào Ngài khi các môn đệ không thấy được tương lai sáng sủa huy hoàng mà chỉ thấy những tối tăm hoạn nạn. Khi Phêrô tuyên xưng rằng: Đức Giêsu là Đấng Kitô là Con Thiên Chúa, thì Chúa Giê-su khen ngợi: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc...” (Mt 16,17). Nhưng ngay sau đó khi Chúa Giêsu loan báo: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”, thì Thánh Phêrô đã can ngăn Ngài: Thưa Thầy, không thể như vậy được (xem Mc 8,27-35).
Quả là rất khó mà các môn đệ có đức tin, ngay cả Thánh Phêrô. Gần trước cuộc Thương Khó, Chúa Giê-su còn nói với thánh Phê-rô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32).
Vậy đức tin mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta là tin vào Ngài, vào Thiên Chúa Cha với một niềm tín thác.
Ở đây, chúng ta cũng nên tìm hiểu tin hay “tín thác” có ý nghĩa là gì?
Chúng ta vẫn thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa”, nhưng thật sự chúng ta có tín thác vào Chúa không?
Một bà bị hiếm muộn, không có con, bà cầu xin Chúa cho mình được có con, nhưng bà cũng cầu nguyện thêm: “Nhưng nếu Chúa muốn, con cũng vui lòng sống hiếm muộn; con sẽ dâng Chúa thời gian chăm sóc những người già yếu bệnh tật thay vì chăm sóc con cái”.
Bà này quả đúng là có sự tín thác vào Chúa!
Ông nọ, bị bệnh nan y, chạy chửa nhiều thầy nhiều thuốc mà vẫn không khỏi, cầu xin Chúa cho mình được khỏi bệnh những ông cũng cầu nguyện thêm: “Nhưng nếu Chúa muốn, Chúa cứ vẫn để con bệnh tật, con xin dâng Chúa những đau đớn, mệt nhọc để cầu cho gia đình con được an vui khỏe mạnh, để đền bù những tội lỗi của con”.
Ông này quả đúng là có sự tín thác vào Chúa!
Cô gái trẻ nọ lỡ mang thai, hoặc một người vợ mang thai kèm theo nguy hiểm cho sức khỏe, mạng sống của mình, hoặc thai nhi bị dị tật. Họ vẫn kiên quyết không phá thai, mặc dù phải chịu những hy sinh mất mát trước mắt.
Họ quả đúng là có sự tín thác vào Chúa!
Cha mẹ Công giáo nọ, nghèo nàn, làm ăn vất vả nhưng vẫn sinh và nuôi nấng giáo dục con cái. Họ cũng bỏ ra thời gian công sức để giúp đở người hàng xóm, không sợ mình sẽ nghèo thêm, sẽ đói thêm. Gia đình này quả đã tín thác vào Chúa. Họ quả là theo gương Chúa Giêsu, tín thác vào Thiên Chúa Cha. Trong vườn Cây Dầu, trước viễn cảnh mình sẽ bị bắt, bị tra tấn, bị sĩ nhục và bị đóng đinh vào thập giá, Chúa Giêsu đã sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: "Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Mt 26,39).
Đức Giêsu chính là mẫu của những ai tin hay tín thác vào Thiên Chúa, tin rằng mình luôn ở trong bàn tay quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa, tin rằng những thiệt hại, những đau đớn bệnh tật, những nghèo nàn khổ sở, những thất bại sĩ nhục là như hạt lúa mì rơi xuống đất, chịu mục nát đi để sinh nhiều bông hạt.
Tín thác vào Chúa theo gương Đức Kitô cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu chết đi cho thế gian để sống cho Thiên Chúa.
Hành trình Đức tin là một hành trình liên lỉ, suốt đời. Tin vào Chúa là chọn Ngài làm lý tưởng TN 27-C126
Hành trình Đức tin là một hành trình liên lỉ, suốt đời. Tin vào Chúa là chọn Ngài làm lý tưởng tối thượng của cuộc đời. Đức tin không giống như ghi danh vào một tổ chức xã hội, khi thích thì tuân thủ, khi không hài lòng thì bất mãn tiêu cực. Gia nhập Giáo Hội không giống như xin việc ở một công ty, chỉ nhất thời tạm bợ và đòi hỏi quyền lợi. Tin vào Chúa cũng là sự chọn lựa ưu tiên cho cả cuộc đời. Chính vì vậy mà cần phải có lòng kiên trung, trong mọi biến cố hoàn cảnh.
Thánh Phaolô khuyên nhủ người môn sinh của ngài là Timôthê, hãy “khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa” Đặc sủng này, ông Timôthê đã đón nhận qua nghi thức đặt tay (tức là Bí tích Truyền chức thánh). Đặc sủng, tức là ơn đặc biệt do Chúa ban. Ơn này vẫn hiện hữu trong con người được lĩnh nhận các Bí tích, nhưng cần phải được khơi lại, vì nhiều khi đặc sủng này bị lớp bụi thời gian bao phủ. “Khơi dậy đặc sủng”, tức là tái nhận ra quyền năng của Thiên Chúa hiện hữu nơi chúng ta, giúp chúng ta ý thức bổn phận của mình trong cộng đoàn Giáo Hội. Thánh Phaolô lúc đó đang bị cầm tù. Ông khuyên nhủ dặn dò người môn đệ của mình hãy vững tâm và hãy trung thành với sứ mạng loan báo Tin Mừng, đồng thời sống mẫu mực, để những lời giảng dạy có sức thuyết phục đối với người nghe. Vị Tông đồ minh chứng về lòng trung thành của mình đối với Chúa, ngay cả trong tù ngục xiềng xích.
Trong bài Tin Mừng, một ngày nọ, các môn đệ xin Chúa ban thêm Đức tin, nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu xem ra không ăn nhập với câu hỏi của các ông. Theo giáo huấn của Chúa, điều quan trọng không hệ tại ở việc chúng ta có nhiều Đức tin hay ít, nhưng là ở ý thức về Đức tin nơi chúng ta. Đối với người tín hữu, Đức tin luôn hiện hữu từ ngày được thanh tẩy. Qua Bí tích Thanh tẩy, Chúa ban cho chúng ta Đức tin, như một món quà vô giá. Món quà ấy, luôn hiện diện trong tâm hồn chúng ta và để lại dấu ấn không thể xoá nhoà. Có những người để cho lớp thời gian che phủ, đến nỗi Đức tin bị bóp nghẹt. Như thế, theo Chúa Giêsu, mỗi người tín hữu phải khơi lên ngọn lửa Đức tin nơi cuộc đời mình, để ngọn lửa ấy soi sáng mọi hành động, sưởi ấm con tim và tăng cường sức mạnh nơi họ.
Đức tin Chúa ban là món quà quý giá đem lại niềm vui, đồng thời cũng là nguồn sức mạnh để chúng ta vươn lên giữa dòng đời. Xã hội thời Đức Giêsu là chế độ nô lệ. Vì thế, trong giáo huấn của Người, chúng ta vẫn thấy những hình ảnh ông chủ và người nô lệ hoặc người đầy tớ. Chúa đã dùng những hình ảnh và quan niệm thời bấy giờ, để diễn tả nội dung giáo huấn của Người. Những người đầy tớ, đương nhiên phải làm bổn phận của người đầy tớ. Người đầy tớ không có quyền đòi hỏi nơi ông chủ. Ông Chủ tối cao chính là Thiên Chúa. Ngài dựng nên con người và cho họ hiện hữu trên trái đất này. Của cải vật chất mà mỗi người đang sở hữu, thực ra cũng chỉ là tài sản Chúa trao cho quản lý và sinh lợi. Có những người quản lý trung tín, nhưng cũng có những người quản lý bất trung. Trong Tin Mừng thánh Luca, nhiều lần Chúa Giêsu đã mạnh mẽ lên án những người giàu có mà cậy tiền cậy của để khinh thường người khác, nhất là ích kỷ độc đoán và dửng dưng với người nghèo khổ. Người quản lý trung tín vừa biết chăm lo để tài sản được sinh lợi, vừa biết phân phát để giúp đỡ người khác. Con Thiên Chúa làm người đã trở nên đầy tớ (tức là người phục vụ) của mọi người. Nhờ mầu nhiệm Nhập thể và Cứu cuộc, con người, vốn thấp hèn và tội lỗi, lại trở nên thánh thiện cao sang.
“Khi anh em đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Lời dạy của Chúa có thể gây sốc đối với chúng ta! Nhưng Chúa Giêsu muốn khẳng định, ở đời này, mỗi khi làm được việc gì, suy cho cùng, đó cũng làm những việc bổn phận mình mà thôi. Người dạy ta khiêm tốn khi thành công, kiên trì khi thất bại, và nhất là đừng cậy mình ỷ thế, vênh vang tự đắc khi làm được những việc lớn lao.
Như trên đã nói, hành trình Đức tin là hành trình liên lỷ suốt đời. Hành trình Đức tin cũng nhiều nỗi gian truân. Ngôn sứ Kha-ba-khúc hoạt động dưới thời Giơ-hô-gia-kim. Đây là giai đoạn đen tối của lịch sử Do Thái: luân lý suy đồi, tôn giáo pha tạp, vua quan lầm lạc và đi ngược lại với giáo huấn của Chúa. Sách mang tên Kha-ba-cúc được viết khoảng từ năm 612 đến 597 trước Công nguyên. Tác giả than vãn với Chúa, vì dân tộc suy đồi. Ông phàn nàn vì cầu nguyện mãi mà Chúa không đáp lời. Chính trong bối cảnh đó, Chúa đã trả lời ông. Ngài hứa với ông, người công chính sẽ được Chúa bù đắp, kẻ gian ác sẽ phải diệt vong. Ngài phán: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.” Lời hứa này đã tiếp sức cho vị ngôn sứ, để ông can đảm thực thi sứ vụ của mình, vì ông biết ông luôn có Chúa ở cùng.
Trong bối cảnh hiện tại, người tín hữu đôi khi bị cám dỗ chán nản, vì những người tin vào Chúa là một thiểu số quá ít. Hơn nữa, những khuynh hướng và quan điểm tục hoá đang làm cho Đức tin phai nhạt. Rồi bạo lực tràn lan trong xã hội. Khi chứng kiến những bất công, hoặc khi phải đối diện với những khó khăn thử thách, nhiều khi chúng ta cũng thốt lên như ngôn sứ Kha-ba-cúc: “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe, con la lên: “Bạo tàn!” mà Ngài không cứu vớt?”. Từ nơi sâu thẳm của tâm hồn, Chúa vẫn đang ngỏ lời với chúng ta. Ngài khuyên chúng ta hãy kiên trung trước mọi thử thách. Những ai sống công chính sẽ không bao giờ bị bỏ rơi. Lịch sử cứu độ và lịch sử cá nhân mỗi người đã chứng minh điều đó.
Khi gia nhập Giáo Hội qua Bí tích Thanh tẩy, mỗi chúng ta, dù còn nhỏ, đã tuyên xưng Đức tin và hứa từ bỏ ma quỷ, từ bỏ những hành vi ám muội xấu xa để sống xứng đáng là con cái ánh sáng. Nhiều người tín hữu không ý thức lời hứa ấy, thậm chí họ không biết là cha mẹ và người đỡ đầu đã thay họ để tuyên xưng những điều này. Chính vì thiếu hiểu biết, nên đời sống Đức tin của họ mờ nhạt. Lời thề hứa từ bỏ ma quỷ, từ bỏ tội lỗi vì thế mà không được tôn trọng giữ gìn.
Cũng có người quan niệm lệch lạc, cho rằng tuyên xưng Đức tin trong kinh Tin Kính là đủ. Đức tin kiên trung thể hiện qua việc tuyên xưng Đức tin trong Phụng vụ và việc sống Đức tin trong cuộc đời. Phụng vụ giúp ta tăng trưởng Đức tin. Đời sống cụ thể là nơi chúng ta làm chứng cho Đức tin. Đức tin tuyên xưng, phải đi đôi với Đức tin thực hành. Tinh thần Đức tin phải thấm nhập cuộc sống gia đình cũng như mọi lĩnh vực của đời sống. Một cách cụ thể, người tin Chúa phải tránh nói dối, tránh xúc phạm đến danh dự, tài sản và thân thể người khác. Người tin Chúa phải luôn xác định rằng, mọi hành vi và tư tưởng của tôi, Chúa đều thấu hiểu. Ngài biết rõ và Ngài sẽ xét xử tôi về những hành vi đó. Nếu luôn tâm niệm như thế, người Kitô hữu sẽ cảm nhận được giá trị của cuộc sống và trân trọng từng phút giây cuộc đời. Bởi lẽ mỗi phút giây ấy là cơ hội để chúng ta gặp Chúa và thực thi giáo huấn của Người.
“Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa. Người phán: các ngươi chớ cứng lòng”. Lời Thánh vịnh nhắc nhở chúng ta về giây phút hiện tại của cuộc sống trần gian. Hãy nghe tiếng Chúa. Không bao giờ là muộn, vì Chúa bao dung và rộng lượng thứ tha. Hãy xác tín nơi Ngài, dù tội lỗi đến đâu chăng nữa. Tin vào Ngài sẽ không bao giờ thất vọng, vì Chúa là Đấng tín trung.
Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, các môn đệ xin với Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm TN 27-C127
Trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay, các môn đệ xin với Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm long tin cho chúng con.” (Mt 19:27) Bạn có biết tại sao các ông không xin những thứ khác mà lại xin THÊM LÒNG TIN không? Tôi nghĩ có lẽ là bởi vì lòng tin của các ông đang bị thiếu hụt nên các ông mới xin THÊM LÒNG TIN!
Thật vậy, đọc qua những trang Tin Mừng, tôi thấy lúc mới đi theo Chúa Giê-su, lòng tin của các ông rất mạnh mẽ vì các ông đã tận mắt thấy Chúa Giê-su làm phép lạ cho người què đi được, người mù thấy được, người phong hủi được sạch và kẻ chết sống lại. Thế nhưng lòng tin của họ dần dần bị hao mòn, họ nhận ra rằng đi theo Chúa cả mấy năm trời mà họ chả được gì cả, chức tước thì không, địa vị cũng chẳng thấy, chỉ thấy thiếu thốn và khổ cực, cho nên có lần ông Phê-rô đã đại diện họ lên tiếng hỏi Chúa: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19:27). Chưa hết, lòng tin của các ông cứ bị hao mòn dần khi họ nghe những lời giảng dạy và giáo huấn của Chúa Giê-su. Ví dụ:
• Khi Gia-cô-bê và Gio-an mở miệng xin với Chúa Giê-su, và khi trong đầu các môn đệ khác cũng mong ước là sẽ được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Chúa Giê-su, khi Ngài được vinh quang, thì Chúa lại bảo họ rằng: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10:43-44).
• Họ tưởng khi đi theo Chúa thì sẽ được giàu sang phú quý, sẽ được chăn êm nệm ấm, có kẻ hầu người hạ…nhưng Chúa lại phán: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có” (Lc 6:24); và cho họ biết một sự thật rất phũ phàng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9:58).
• Họ hy vọng Chúa Giê-su sẽ lãnh đạo họ để đánh đuổi Đế Quốc Rôma ra khỏi lãnh thổ, đem lại sự tự do cho dân tộc, nhưng Ngài lại chủ trương là phải sống hiền lành, biết nhẫn nhục và phải tha thứ: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em”(Lc 6:27-28).
Bạn thân mến, giống như các môn đệ khi xưa, ngày hôm nay, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô của chúng mình rất có thể đang bị hao mòn và đang bị suy yếu vì nhiều lý do khác nhau, ví dụ như:
• Tôi cầu nguyện xin Chúa ban cho tôi được may mắn, có công ăn việc làm ổn định, kiếm được người vợ hiền, chồng giỏi…nhưng tôi cứ phải bài “Đời Tôi Cô Đơn” và “Liên Khúc Nghèo!” hết năm này qua năm nọ!
• Trước kia, tôi xin gì Chúa cũng ban cho, nhưng sau khi được Rửa Tội, khi trở thành con Chúa, tôi xin hoài, cầu mãi mà chẳng thấy Chúa trả lời trả vốn gì cả!
• Tôi ăn chay, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, dự các giờ Chầu Thánh Thể, làm việc bác ái, bố thí…để cầu nguyện cho thế giới được hòa bình, nhưng chỉ thấy khủng bố, chiến tranh và hận thù ghen ghét! …
Còn nhiều lắm, tôi không có đủ kiên nhẫn để viết ra. Nhưng nếu hôm nay bạn nhận ra rằng niềm tin vào Thiên Chúa của bạn đang bị hao mòn, đang bị suy yếu, thì bạn hãy cầu xin với Chúa: “Lạy Chúa, xin ban thêm cho con lòng tin.” Đừng xin tiền bạc, của cải vật chất, cũng không nên xin sắc đẹp hay được tài giỏi…nhưng hãy xin Chúa ban thêm lòng tin bởi vì khi đức tin của tôi và của bạn được dồi dào, sung mãn và vững mạnh:
- Thì chúng ta sẽ thấy mọi sự trên thế gian này chỉ là phù vân, tất cả sẽ qua đi, danh vọng, chức quyền, tiền tài, nhan sắc…chỉ như một đóa hoa sớm nở chiều tàn, chỉ có sự sống vĩnh cửu ở đời sau là quan trọng!
- Thì chúng mình mới có đủ sức và can đảm để chấp nhận tất cả những thử thách, những gian nan và kể cả những bất hạnh do cuộc đời này đem lại.
- Thì bạn và tôi mới có thể trung thành với Chúa, và hoàn tất cuộc hành trình đi về Thiên Quốc với Ngài.
"Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho! (Mt 7:7-8). Chúa Giêsu đã hứa như vậy rồi. Ráng chịu khó kiên nhẫn và xin Chúa ban thêm niềm tin và củng cố niềm tin của chúng mình mỗi ngày bạn nhé!
Chúc bạn một tuần lễ mới vui khỏe, bình an, và ước mong rằng đức tin của bạn, và đức tin của những người thân của bạn mỗi ngày được mạnh mẽ và vững vàng hơn.
Kinh thánh nói: “Ai xin thì nhận được” (Mt 7:8). Vậy tại sao Thiên Chúa lại không ban cho chúng TN 27-C128
Kinh thánh nói: “Ai xin thì nhận được” (Mt 7:8). Vậy tại sao Thiên Chúa lại không ban cho chúng ta bất cứ những gì chúng ta muốn từ nơi Ngài, miễn là chúng ta xin Ngài?
Các sách Tin mừng chứa đựng một số phát biểu đáng chú ý về sự cầu nguyện. Các phát biểu ấy đặc biệt được tìm thấy trong Tin mừng Mátthêu, mặc dù có những điểm tương đồng trong Máccô và Luca.
Những câu nói này nghe có vẻ rất tích cực — như thể bạn có thể cầu xin Chúa bất cứ điều gì bạn muốn, và Ngài sẽ ban cho bạn chừng nào bạn còn tin.
Khi mọi người đọc những đoạn này một cách riêng rẽ — ngoài những điều khác mà Tân Ước nói — họ có thể phát triển một thứ thần học sai lầm về sự cầu nguyện.
Trong giới Tin lành, có một phong trào được gọi là thần học thịnh vượng (còn được gọi là Tin mừng thịnh vượng hoặc Tin mừng sức khỏe và sự giàu có), theo đó Thiên Chúa muốn tất cả dân tộc của mình được khỏe mạnh, giàu có và thành công vượt bậc. Nếu một kitô hữu không có những phúc lành này, thì hoặc là người ấy đã không xin chúng hoặc người ấy đã không xin chúng trong đức tin. Dù thế nào thì người ấy cũng có lỗi.
Nhưng đọc kỹ Tân ước cho thấy quan điểm này bị bóp méo.
Một bản văn cầu nguyện khích lệ được tìm thấy trong Bài giảng trên núi:
“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7: 7-8).
Chúa Giêsu không đề cập đến giới hạn về những gì bạn có thể xin, và bạn có thể cho rằng bạn hoàn toàn có thể xin bất cứ điều gì và nhận được điều đó.
Nhưng Chúa Giêsu cũng không đưa ra ví dụ. Chúa Giêsu không nói, “Hãy xin giàu có, sức khỏe và thành công tuyệt vời, và những điều đó sẽ là của bạn.”
Vì vậy, trong tâm trí của Chúa Giêsu có thể có một điều gì đó khiêm tốn hơn, và khi nói như vậy có thể Ngài có ý nói là trước hết hãy xin những phúc lành về tinh thần hơn là vật chất.
Trong cả Mátthêu và Luca, Chúa Giêsu ngay lập tức đưa ra một phép loại suy dựa trên việc người cha cho con cái ăn. Trong Mátthêu, Chúa Giêsu kết luận rằng Thiên Chúa sẽ ban “những của tốt lành” cho con cái ngài (7:11), và trong Luca, Ngài nói rằng Thiên Chúa sẽ ban cho họ “Thánh Thần” (11:13) — gợi ra rằng đoạn văn này có thể chủ yếu nói về “những điều tốt đẹp” thuộc tâm linh.
Khi xem phần còn lại của Bài giảng trên núi, chúng ta không thấy Chúa Giêsu khuyến khích những ước mơ về một lối sống xa hoa.
Trong Kinh Lạy Cha, Ngài dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6:11), gợi lên sự cậy trông hằng ngày vào Thiên Chúa — chứ không phải sự giàu có xa hoa.
Chúa Giêsu tiếp tục tuyên bố một cách rõ ràng:
“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (6: 19-21).
Do đó, Ngài chỉ ra rằng những của cải trên trần thế có thể đưa tới một sự quên lãng thiêng liêng khỏi Thiên Chúa, và chúng ta không nên đặt cõi lòng mình vào những của cải như thế. Chúa Giêsu cũng nói:
“Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (6:24).
Ngài cũng nói với chúng ta:
“Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho” (6: 31-33).
Do đó, Chúa Giêsu muốn chúng ta tập trung “trước hết” vào các giá trị tinh thần và coi nhu cầu vật chất là thứ yếu. Thay vì khuyến khích mọi người “mơ ước lớn” về những gì Chúa có thể ban cho họ, Ngài khuyến khích sự tin cậy khiêm tốn, liên tục — xin Chúa những gì chúng ta cần chứ không phải những gì chúng ta mơ ước.
Chúa Giêsu chắc chắn không khuyến khích chúng ta tưởng tượng về một cuộc sống đầy thành công và không gặp rắc rối khi nói rằng, “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (6:34). Một lần nữa, mục tiêu là sống một cuộc sống tâm linh, tin cậy — chứ không phải là một cuộc sống thành công dễ dàng.
Một đoạn văn cầu nguyện khích lệ khác xảy ra khi các môn đệ hỏi tại sao họ không đuổi được quỷ ra khỏi một cậu bé, Chúa Giêsu nói đó là:
“Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia! " nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (17:20).
Điều này có vẻ nghịch lý. Chúa Giêsu nói rằng các môn đệ có “đức tin nhỏ bé” nhưng sau đó lại nói rằng nếu họ có “đức tin như hạt cải”, họ sẽ có thể làm được những phép lạ đáng kinh ngạc. Nếu vậy, niềm tin nhỏ bé của họ chẳng phải đã đủ rồi hay sao?
Giải pháp được tìm ra bằng cách xem xét ai thực sự là người làm phép lạ — chính Thiên Chúa — và nhớ rằng quyền năng của Thiên Chúa là vô hạn. Do đó, rốt cuộc niềm tin của bạn lớn đến đâu không quan trọng, bởi vì Thiên Chúa mới là Đấng thực hiện phép lạ.
Lý do khiến các môn đồ thất bại là họ có đức tin không đầy đủ và không tin cậy đúng mức vào Thiên Chúa. Có lẽ họ nghĩ rằng họ đã được trời phú cho những khả năng pháp thuật trừ tà ma và không còn nhìn thấy Chúa khi sử dụng những khả năng đó.
Một văn bản khác trong chương tiếp theo cho thấy rõ ràng dễ xảy ra sự lạm dụng:
“Một lần nữa Thầy bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho” (18:19).
Nghe có vẻ tốt lành, phải không? Hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, xin Chúa ban điều đó, và điều đó sẽ được thực hiện.
Nhưng không nhanh như vậy đâu. Câu nói này được giới thiệu bằng từ “một lần nữa”, cho chúng ta biết rằng chúng ta cần xem xét bối cảnh, bởi vì Chúa Giêsu đang trình bày lại một suy nghĩ mà Ngài đã khám phá.
Khi xem xét bối cảnh, chúng ta thấy rằng đó không phải là chuyện tích lũy tài sản cho bản thân, mà là kỷ cương của Giáo hội. Chúa Giêsu đang nói với các môn đệ cách đối xử với một người đồng đạo phạm tội. Ngài nói rằng nếu người vi phạm không nghe lời người khác, hãy đưa người ấy đến cộng đoàn giáo hội, và nếu anh ta không nghe lời cộng đoàn giáo hội, hãy trục xuất người ấy. Sau đó Ngài nói:
“Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (18:18).
Lời tuyên bố về việc hợp ý “trên trái đất” là nằm trong bối cảnh thực hiện năng quyền cầm buộc và tháo cởi, liên quan đến các vấn đề về kỷ cương tinh thần – chứ không phải là sự thịnh vượng vật chất.
Khi Chúa Giêsu đảm bảo với các môn đệ “một lần nữa” về những gì sẽ xảy ra khi họ hợp ý, thì Ngài đảm bảo với họ về năng quyền cầm buộc và tháo cởi.
Đoạn cuối cùng mà chúng ta nên xem xét xảy ra khi các môn đệ hỏi làm thế nào mà cây vả lại héo nhanh như vậy. Chúa Giêsu trả lời,
“Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: "Dời chỗ đi, nhào xuống biển! ", thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.” (Mt 21: 21-21; xem Mc 11: 22-24, Lc 17: 6).
Về cơ bản, đây chính là điểm mà chúng ta đã thấy với cuộc trừ quỷ thất bại: kích cỡ lớn nhỏ của những gì bạn đang xin không quan trọng, bởi vì Thiên Chúa có quyền năng làm bất cứ điều gì. Và Chúa Giêsu đặt vấn đề một cách tích cực khi nói rằng “bất cứ điều gì bạn xin” thì sẽ được.
Nhưng có một giả thiết không được nói ra ở đây mà Chúa Giêsu mong chúng ta hiểu — rằng những gì chúng ta xin phải phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất biết rằng không phải mọi lời xin khi cầu nguyện đều là ý Chúa muốn, và ý Chúa muốn mới là yếu tố quyết định.
Chính Chúa Giêsu đã làm chứng cho điều này trong vườn Cây dầu khi Ngài cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (26:39).
Nếu chính Con Thiên Chúa thừa nhận rằng ý Chúa muốn không phải là ban cho mọi thứ người ta cầu xin, thì chúng ta cũng nên thừa nhận điều đó!
Chúa Giêsu muốn khuyến khích chúng ta cầu nguyện, và không phải lúc nào Ngài cũng có thể đề cập đến ngoại lệ này, nhưng Ngài mong chúng ta thừa nhận điều đó.
Điều đó chắc chắn được tìm thấy ở những nơi khác trong Tân Ước. Thánh Giacôbê cảnh báo rằng những ai khoe khoang kế hoạch kinh doanh của mình cần phải tính đến ý Chúa muốn: “Thay vì nói: "Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ sống và làm điều nọ điều kia", thì các người lại tự phụ vì những chuyện khoác lác của mình. Mọi thứ tự phụ như thế đều xấu” (4: 15).
Ngài cũng xác định một trong những nguyên nhân cầu nguyện mà không được đáp lại: “Anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (4: 3).
Xin giàu có và thành công bất tận đúng là kiểu cầu nguyện sẽ không được đáp ứng.
Và điều đó lại có thể là một điều tốt lành, vì Chúa Giêsu cũng nói, “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19:24).
Jimmy Akin - https://www.catholic.com Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
Với bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Lu-ca đã đưa chúng ta trở lại cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem TN 27-C129
Với bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Lu-ca đã đưa chúng ta trở lại cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem với Đức Giê-su. Người biết ngày hoàn tất sứ vụ đang đến gần, nên từ giờ phút này trở đi, Người dành nhiều thời gian để hướng dẫn các môn đệ.
Đức Giê-su nhìn nhận rằng việc gặp thử thách, bị vấp ngã rồi phạm lỗi là các điều thường xẩy ra trong cuộc sống của người môn đệ. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta có thể nại vào sức yếu đuối rồi làm gương mù, gương xấu khiến cho các thành viên khác trong cộng đoàn bị vấp ngã. Đức Giê-su xem ra có vẻ nghiêm khắc khi lên án những ai làm cớ vấp phạm cho kẻ bé mọn, Người nói rằng chẳng thà người đó bị đá cột và xô xuống biển thì hơn. Lời Đức Giê-su vừa phán có vẻ khá gay gắt, nhưng Người không có ý khuyến khích chúng ta có những hành vi bạo động đối với những ai làm gương xấu cho kẻ khác. Thật ra, Đức Giê-su muốn nhắc nhở chúng ta nên nhớ đến bổn phận của mình. Đó là: hãy cẩn thận trong lời nói và hành động. Đừng làm cho người khác bị lầm đường lạc lối, bị vấp ngã hay lòng tin bị lung lay.
Đức Giê-su không dừng lại ở lời cảnh báo nghiêm khắc đó. Người tiếp tục khuyên các môn đệ phải giúp nhau nhận ra lỗi lầm mà sửa đổi, không chỉ bẩy lần mà là bẩy mươi lần bẩy. Con số bẩy mươi lần bẩy không ám chỉ đến số lần phải tha, nhưng muốn nhấn mạnh đến việc tha thứ vô hạn định, tha liên tục, tha không điều kiện và điều quan trọng hơn cả là chúng ta tha cho nhau vì chúng ta yêu nhau.
Hẳn chúng ta còn nhớ rằng, mọi hình thức đổ vỡ thường xẩy ra ở nơi khi con người không biết tha thứ, khi con người sống vô tâm, sống ích kỷ và không để ý đến nhu cầu trong cuộc sống của nhau. Trong khi đó, chúng ta được mời gọi sống bên nhau như một gia đình. Chúng ta là phần tử của một thân thể, nối kết và được nuôi dưỡng bởi Đức Ki-tô. Chúng ta được mời gọi sống và chia sẻ cho nhau, chăm sóc lẫn nhau và xây dựng nhau trong gia đình đức tin.
Đó là tâm trạng và cảm nhận của các môn đệ khi họ nghe Chúa ban các chỉ dẫn về việc làm gương sáng và tha thứ cho nhau. Đây quả thật là một lịnh truyền vô cùng trọng đại và vượt quá sức của họ. Tự mình họ rất khó thực hiện. Vì thế, các tông đồ, thay mặt cho các môn đệ, xin Chúa: “Hãy thêm lòng tin cho chúng con.”
Các môn đệ đang cầu xin Chúa Giêsu thêm lòng tin cho họ, nghĩa là làm cho họ biết sống phó thác hơn, biết lệ thuộc và nương tựa vào Chúa nhiều hơn nữa, biết cố gắng sống trung tín với ơn gọi của người môn đệ. Họ biết rằng nếu họ tuân theo mệnh lệnh của Người để tha thứ như Chúa thì họ cần Chúa giúp đỡ. Hành vi tha thứ này không tự nhiên đến với bất cứ ai, phải được phát sinh từ Chúa. Họ thấy mình yếu đuối, trong khi đó giới lịnh của Chúa thì cao cả. Họ chỉ có thể hoàn thành với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Vì thế, họ đã xin thêm lòng tin.
Đó cũng là lời van xin của chúng ta. Đã có nhiều lúc chúng ta đối diện với các khó khăn, những trở ngại vượt quá sức mình. Tôi muốn thay đổi nhưng dường như cảm thấy bất lực trong việc sửa chữa vì vậy tôi, không chỉ một lần mà rất nhiều lần, đã cầu xin: Chúa ơi, con cần Ngài, xin hãy thêm sức mạnh và lòng tin cho chúng con.
Ngay lúc đó, Lời Chúa phán hôm nay vang vọng trong tai tôi: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh chị em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh chị em.” Lòng tin ở đây là sự phó thác và vâng lời mệnh lệnh mà Chúa muốn. Nó ẩn chứa tấm lòng cậy trông và tín thác vào Chúa là mình sẽ thực hiện các việc làm gương sáng, mình sẽ quan tâm, chấp nhận lỗi lầm và sẵn sàng tha thứ cho họ nữa. Lòng tin như thế không chỉ chứng tỏ mình đã trưởng thành, mà còn trở thành gương sáng cho người khác nữa.
Thưa anh chị em,
Như thế, cuộc sống của người môn đệ trước tiên phải được đặt trên căn bản của lòng tin, sự phó thác và lòng yêu mến vào Đấng mà chúng ta tin tưởng sẽ bảo vệ và săn sóc cho chúng ta. Ý nghĩ này được mô tả qua câu chuyện sau đây. Truyện kể như sau:
Mỗi khi có dịp đi xem xiếc, chúng ta thấy có màn đu bay nhào lộn rất hồi hộp. Một lần kia cha Henri Nouwen, một thần học gia chuyên về tu đức, đi xem xiếc. Đến màn biểu diễn đu bay. Ngài chăm chú theo dõi và đặc biệt ghi lại những động tác của các diễn viên khi thực hiện màn xiếc này. Nhiệm vụ của người bay là bung người ra khỏi xà ngang, đôi tay duỗi thẳng. Ông ta bay về hướng người đu, rồi để người đu lo phần chộp bắt. Người bay đặt trọn niềm tin và phó thác nơi bạn diễn của mình. Ông ta không hề có ý định nắm chụp tay của người đu; bởi vì, nếu ông ta phạm phải lỗi lầm đó thì sẽ gây ra tai nạn cho cả hai.
Sau buổi trình diễn, cha Nouwen đến hỏi người bay ra khỏi xà ngang rằng: “Vai trò của ông có phải chỉ cần bung người mình ra mà thôi và không cần làm bất cứ một động tác nào khác chứ?” Đúng vậy, tôi không được phép làm bất cứ chuyện gì khác, ngoài việc bung người ra và duỗi thẳng đôi tay để cho bạn tôi là người đu chộp lấy”. Cha cũng như mọi khán giả đều nghĩ tôi là một diễn viên xuất sắc. Thật ra thì không phải như thế, chính người đu và chộp vào đôi tay của tôi mới là diễn viên chính, anh bạn diễn của tôi cần bay ra, chụp vào cườm tay của tôi và đưa tôi về lại xà ngang đúng lúc. Tất cả mọi động tác anh làm cần đúng thời điểm và chuẩn xác bằng không thì tai nạn sẽ xẩy ra cho chúng tôi.
Anh chị em thân mến,
Cuộc sống của chúng ta cũng thế, giống hệt như nhiệm vụ của người bay trong màn đu bay của đoàn xiếc. Chúng ta được sinh ra và sống trong thế gian này với tất cả mọi thứ tự do bay lượn và thực hiện những ước mơ, nhưng chúng ta cần bay lượn trong sự phó thác, bay trong niềm xác tín vào Đấng sẽ chụp bắt và đưa chúng ta vào trong vũ trụ của Ngài.
Như người bay trong đoàn xiếc chúng ta hãy bung ra khỏi xà ngang và đặt trọn vẹn niềm tin vào Đấng đang đu và luôn trông chờ để chộp bắt chúng ta. Hãy để cho người chộp lo toan mọi sự cho chúng ta.
Hãy từ bỏ mọi ước vọng, mọi toan tính, mọi ước muốn có thể thay thế vai trò và nhiệm vụ của người đu bắt.
Trên hết mọi sự hãy sống vui tươi, sống phó thác, sống tin tưởng và đặt mình vào bàn tay yêu thương của Đấng nắm giữ vận mạng cuộc đời của ta.
Cuối cùng, hãy thân thưa cùng Chúa rằng: “Trong tay Ngài, Lậy Chúa, con xin phó thác thần trí, hơi thở, sức sống và mọi sinh hoạt trong đời sống của con.” Amen! Lm. Giuse. Mai Văn Thịnh, DCCT
Sống phải có niềm tin và hy vọng. Niềm tin cần phải thực hành! Không thực hành, luyện tập liên TN 27-C130
Sống phải có niềm tin và hy vọng. Niềm tin cần phải thực hành! Không thực hành, luyện tập liên tục, niềm tin sẽ bị phôi pha, không phát triển rồi chết, và chẳng giúp ích gì được cho mình và cho người. Một lực sĩ mà không luyện tập sẽ bị yếu và trở thành vô dụng. Những bài đọc và Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta có một ý niệm về niềm tin. Đồng thời noi gương sáng thánh Mary MacKillop đã được Giáo Hội tuyên thánh ngày ngày 17-10-2010.
XIN THÌ SẼ ĐƯỢC
Bài đọc 1 hôm nay (Hb1:2-3; 2:2-4) là lời tiên tri Habakkuk than với Chúa về quỉ nội thù ở Judah. Ông dùng ngôn từ của Amos, Isaiah và Jeremiah để kết án những lạm dụng trong xã hội thời đó. Chúa đã trả lời ông là Chúa dùng đế quốc Chaldean để trừng phạt dân người vì chúng phạm quá nhiều tội lỗi (Hb1:5-7). Tuy nhiên tiếng kêu của Habakkuk cũng không vô ich. Chúa nói: Hãy viết lại những cái con thấy, hãy khắc vào một tấm bảng để mọi người đọc. Vì có một biến cố đã định là thời sau cùng -dù nó chưa tới- nhưng chắc chắn nó sẽ tới, không trì hoãn (2:2-3). Đó là điều Habakkuk muốn và chúng ta sẽ được: “Hãy kiên nhẫn chờ đợi ngày đó”. Vì vậy niềm tin của chúng ta phải luôn tỉnh thức, sống động và phát triển lớn mạnh.
TIN THÌ CÁI GÌ LÀM CŨNG ĐƯỢC
Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Luca hôm nay (Lc 17:5-10) là một kích thích tố giúp các môn đệ tăng niềm tin (17:5-6) nhưng phải tự mình làm. Để hoàn thành đòi hỏi, họ phải chu toàn đầy đủ bổn phận. Chúa đã nói 4 điều (cc1-2,3-4,5-6,7-10) và Luca đã sắp đặt thành câu chuyện với 2 chủ đề. Đừng làm gương xấu (c.1-2) và hãy tha thứ (c.3-4). Giảng huấn có vẻ khó nuốt nên các môn đệ xin Chúa ban thêm niềm tin. Chúa trả lời và xác quyết: Tin thì làm gì cũng được (c.5-6).
Cả hai giảng huấn này cần phải được thực hiện cùng một lúc. Trong cộng đồng Kitô giáo, mức độ hiểu biết và niềm tin của các thành viên không luôn luôn giống nhau. Thứ nhất là trẻ em và người mới chịu phép thanh tẩy, tâm hồn còn non nớt, lời nói việc làm bậy bạ của người lớn / bổn đạo cũ sẽ là gương xấu làm họ dễ sa ngã. Đó là kích thích phạm tội (c1), lý do gây ra tội (c2). Song song với kiểu nói của Luca ta cũng thấy trong Mátthêu (18:6-7) và Máccô (9:43). Khó khăn thứ hai là anh em xúc phạm nhau (c3-4). Chuyện này rất thực tế, trong cộng đồng làm sao tránh khỏi bất đồng và làm mất lòng nhau. Khi nghe Chúa nói vậy (c1-4) các môn đệ xin Chúa thêm niềm tin (c5). Dùng từ ‘môn đệ’ và ‘Chúa’ là Luca muốn nói không phải chỉ có Chúa Giêsu và những người trực tiếp theo Chúa ở thời điểm đó, mà còn nói về Chúa sống lại qua lịch sử và các môn đệ, những lãnh đạo của Giáo Hội cùng thời.
Giảng huấn 4 và cuối cùng (c.7-10) được diễn tả dưới hình thức dụ ngôn thì không thấy trong Mátthêu và Máccô. Trong Luca thì thường là dụ ngôn: “Ai trong anh em? (11:5-7; 14:23,31; 15:4,8). Câu trả lời là “không” hay “không có ai”. Dụ ngôn này viết về liên hệ chủ tớ, rất thường thấy trong Tân Ước.
KHÔNG PHẢI KHIỂN TRÁCH MÀ LÀ XÁC QUYẾT
Câu 5 cho thấy các môn đệ cảm thấy lãnh đạo là một gánh nặng và rất khó khăn nên Chúa Giêsu đã yêu cầu họ phải xem xét cẩn thận những trách nhiệm và thách đố của họ: “Nếu các anh có niềm tin….” Trong ngôn ngữ có 2 loại nếu, một loại diễn tả điều trái ngược với thực tế và một loại diễn tả điều hợp với thực tế. Chữ nếu ở câu 6 thuộc loại 2: Nếu anh có niềm tin, anh sẽ làm được. Bấy giờ câu trả lời của Chúa không phải là khiển trách vì họ thiếu niềm tin mà xác quyết là họ có niềm tin nhưng họ phải thực hành. Dù chỉ là nhỏ xíu - mà người đời cho là “không có thể làm được”- nó cũng tạo được những điều vĩ đại.
CHỈ LÀ ĐẦY TỚ THÔI
Tôi không dám chắc các môn đệ đã giữ lời Chúa Giêsu khi đi rao giảng Tin Mừng. Nhưng họ đi từ tình này qua tỉnh nọ, miền này qua miền kia, xả thân phụng sự Nước Trời và luôn giữ trong tâm khảm lời Chúa dạy: “Khi đã hoàn tất những gì phải làm theo lệnh thì hãy nói: ‘Tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi chỉ làm bổn phận của chúng tôi thôi’” (Lc 17:10).
Những câu Chúa hỏi không thể bỏ qua được: Anh có thực sự thi hành bổn phận của anh không? Anh phải làm gì bây giờ? Bổn phận nào đang ở trước mắt anh? Anh có nguồn lực nào, sức mạnh nào trong tay? Những câu hỏi này khá phức tạp nên trả lời phải cẩn thận.
Chúa Giêsu đã nói Chúa đến với chúng ta là để phục vụ thì các môn đệ cũng phải làm như vậy, phải là kẻ tiên phong làm đầy tớ, không phải là chủ. Không có lúc nào và ở đâu người môn đệ có thể nói: “Tôi đã hoàn thành bổn phận rồi, bây giờ tôi phải được người ta phục vụ”. Câu này có lẽ đặc biệt nên áp dụng cho những ai được trao phó nhiệm vụ lãnh đạo dân Chúa. Xin tăng niềm tin (c 5) không phải tăng chức. Môn đệ và lãnh đạo phải tuân giữ mọi giáo huấn dành cho các môn đệ. Ta là ai không quan trọng, đầy tớ là đầy tớ.
VỊ THÁNH ĐẦU TIÊN CỦA ÚC CHÂU: MARY MACKILLOP
Cùng với cha Julian Tenison Woods, thánh MacKillop thiết lập một nhà dòng Những Chị Em Thánh Giuse Trái Tim Cực Thánh chuyên phục vụ người nghèo ở Úc Châu. Suốt đời chị rất hăng say nói với chúng ta về ý nghĩa những bài đọc Tin Mừng hôm nay. Khi chị bị rút phép thông công, các thành viên của tu hội bị cấm không được tiếp xúc với chị, và phải di chuyển đi xa khỏi nhà dòng. Mary phải ở nhờ nhà bạn bè, cuối cùng nhờ một thương gia Do Thái giúp nơi ở. Các linh mục Dòng Tên nhận thấy bất công và vô lý nên vẫn ban bí tích cho chị. Năm tháng sau khi rút phép thông công chị, giám mục nhận ra mình đã sai, và trên giường bệnh lúc gần chết đã sai một linh mục hủy bỏ việc phép rút thông công chị.
Trong thời gian bị rút phép thông công, chị không một giận hờn hay chửi bới giám mục, trái lại đã liên tục cầu nguyên cho giám mục. Chị không bao giờ tỏ vẻ cay đắng với những vị lãnh đạo Giáo Hội đã chống đối chi hăng say như vậy. Dịp đại hội giới trẻ thế giới năm 2008 tại Sydney, Úc, Đức GH Benedict XVI đã nói về mẹ Mary MacKillop như sau: “Cha biết rằng sự kiên trì của chị trước những nghịch cảnh, sự đòi hỏi công lý của chỉ vì bị đối sử bất công, gương mẫu thánh đức thực tế của chị đã là nguồn linh hứng cho toàn thể dân Úc....” Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì gương sáng ngời của Thánh Mary MacKillop. Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Một ông kia tưởng phải lên được thiên đàng do cái thang từ thiện mình xây dựng, nên suốt đời TN 27-C131
Một ông kia tưởng phải lên được thiên đàng do cái thang từ thiện mình xây dựng, nên suốt đời tận tụy cứu giúp người cùng khổ, bênh vực kẻ yếu hèn. Ông tin rằng mỗi khi làm một việc thiện thì thang kia thêm được một nấc, cứ như vậy mãi thì khi chết, ông sẽ có một cái thang rất cao đưa ông lên tận thiên đàng. Rồi một đêm kia, ông chiêm bao thấy mình qua đời và trước mặt mình có một cái thang bắc lên trời thật. Vui mừng quá, ông bèn leo lên, nhưng leo đã đến đầu thang mà thiên đàng vẫn còn xa lắm. Đang khi tuyệt vọng, ông nghe một tiếng than van thảm thiết rằng: “Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tất cả chúng con héo tàn như lá úa, và tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi” (Is 64, 5)
Tin Tưởng Mạnh Mẽ
Thái độ của kẻ “tự bắc thang lên trời” trên đây chính là thái độ bị Đức Giê-su nhắc nhở phải tránh trong phần hai của bài đọc. Bài này hôm nay dạy cho chúng ta biết hai thái độ đích thực khác của một tông đồ, một môn đệ: tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa và khiêm tốn thực hiện công việc của chính mình.
Bản văn nằm trong phần “tiến lên Giê-ru-sa-lem” của Đức Giê-su. Sau khi đã nói với phái Pha-ri-sêu (Lc 16,1-31) rồi với các môn đệ (Lc 17,1-4), nay Đức Giê-su ngỏ với các “Tông Đồ”. Tước hiệu này (“apostoloi” trong tiếng Hy-lạp, có nghĩa là “sứ giả”, “sứ đồ”, “kẻ được sai đi”) chỉ được ban cho Nhóm Mười Hai một lần duy nhất trong mỗi Tin Mừng khác. Nhưng Lu-ca lại sử dụng nó tới 6 lần trong Tin Mừng của ông và 28 lần trong sách Công Vụ. Dưới ngòi bút của vị thánh sử, duy Nhóm Mười Hai có quyền mang ước hiệu đó, vì họ là các chứng nhân chính thức của Tin Mừng Phục sinh cho đến tận cùng trái đất. Họ “thưa với Chúa: Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Xin thêm lòng tin, vì nên Tông Đồ không phải là một quyết định thuần túy nhân loại! Làm chứng nhân cho Đấng Phục sinh, điều đó không do chỗ lý trí đã thấy một điều hiển nhiên và buộc phải công nhận một sự kiện lịch sử, nhưng là do một mình đức tin. Chính đức tin mới mở lòng đón nhận các thực tại thần linh, những thực tại có tính chất siêu việt, vượt quá mọi hợp lý tính khoa học. Mà đức tin lại là một “hồng ân của Thiên Chúa”. Vì ai, ngoài chính Thiên Chúa, đã có thể biến đổi các Tông Đồ sau những lúc bỏ chạy thảm thương và chối Thầy bai bải? Ai ngoài Thiên Chúa đã khiến họ trở nên những “chứng nhân” can trường đến độ tử đạo? Không, đức tin chẳng phải là một điều hiển nhiên, một cuộc chinh phục, một cố gắng của lý trí... mà là việc khiêm tốn đón nhận một ân sủng. Điều đó không có nghĩa con người chẳng cần làm gì để cộng tác: “đón nhận” là một hành vi nhân linh tích cực vô cùng... Bạn không phải là ánh sáng. Nhưng nếu bạn đóng kín cửa sổ, thì dẫu có muốn ngập tràn nhà bạn, mặt trời cũng sẽ chẳng vào được bao giờ. Đức tin là một mặt trời. Một “hồng ân” luôn luôn được ban cho tất cả. Nhưng phải mở lòng ra.
“Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hại cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: 'Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em’.” Hình ảnh khó quên, đặc trưng của người Do-thái, nằm trong kiểu nói ngược đời của Đức Giê-su! “Hạt cải” là “hạt nhỏ nhất trong mọi hạt” (Mc 4,31). “Cây dâu”, theo châm ngôn của các rab-bi, là cây khó nhổ rễ nhất. Dĩ nhiên Đức Giê-su ở đây không khuyên chúng ta cầu xin những phép lạ giật gân ngoạn mục. Người chẳng bao giờ bứng một cây dâu đem trồng dưới biển cũng như đã lắm phen từ chối hiện thực những “dấu chỉ” kỳ diệu thiên hạ yêu cầu. Qua hình ảnh này, Người mạnh mẽ nói với ta rằng đức tin giúp ta làm điều bất khả, đưa ta tới cùng Thiên Chúa. Một mẩu đức tin nhỏ xíu nhất cũng mạnh hơn mọi công cuộc của con người, vì nó không gì khác là sự tham dự vào sức mạnh sáng tạo của chính Thiên Chúa. Trong thực tế, hiệu lực của đức tin các Tông Đồ sau ngày Phục sinh, chẳng cân xứng chút nào với các khả năng nhân loại nghèo nàn của họ. Là những con người không thế lực, không tài chánh, không tổ chức, không báo chí, không truyền hình, không mạng ỉnternet, không gì hết... nhưng trong thực tế, họ đã đổi dòng lịch sử.
“Xem kìa: một trinh nữ sinh con, một con người sinh bởi Thiên Chúa, trời ở giữa chúng ta, nhân loại chẳng còn cô độc... Chỉ cần một chút đức tin là bạn sẽ thấy cây cối xuống biển, nghĩa là những kẻ hành khất làm vua, những người quyền thế bị lật đổ, các kho tàng được chia nhau... Xem kìa: nước hóa thành rượu, rượu trở thành máu, bánh hóa ra nhiều, dân không còn đói nữa... Chỉ cần một chút đức tin là bạn sẽ thấy cây cối xuống biển, nghĩa là những kẻ nản chí lại hy vọng, các tội nhân lại chỗi dậy, các ngõ cụt có lối thoát, các cuộc chiến lụi tàn, tình yêu được tái sinh... “. Một nhà thơ đã viết như thế. Thế giới khủng hoảng ư? Giáo Hội khủng hoảng ư? Cái chết chiến thắng ư?... Xem kìa: nấm mồ của Đức Giê-su đã vỡ tung, trống rỗng. Người đã sống lại. Thần Khí của Người đã thổi khắp thế giới từ hơn hai mươi thế kỷ nay!
Phục Vụ Khiêm Tốn
Thái độ thứ hai của người tông đồ là phục vụ khiêm tốn. Đấy là điều Đức Giê-su muốn nói qua dụ ngôn mà mới đọc, ta đã thấy chói tai, công phẫn. Hoàn cảnh nô lệ tại Palestina thời Đức Giê-su, trong đế quốc Rô-ma thời thánh Lu-ca, ở một vài chỗ trên thế giới thời bây giờ, vẫn là một hoàn cảnh lệ thuộc bi thảm. Nô lệ là “vật sở hữu” của chủ, ông ta không trả lương cho y cũng chẳng cần biết ơn y. Nhưng xin nhớ: chúng ta không có quyền dựa trên những lời này của Đức Giê-su để biện minh cho các thái độ phản xã hội của mình. Khá nhiều đoạn Tin Mừng bênh vực tình yêu, sự chia sẻ, tôn trọng kẻ khác. Thật ra, Đức Giê-su có ý dạy cho chúng ta một chân lý rất quan trọng, đến nỗi đã nói với chúng ta qua những hình ảnh ngược đời ấy, gần như không thể chịu đựng theo các tiêu chuẩn nhân loại hiện thời của chúng ta. “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì được lệnh (hiểu ngầm: Thiên Chúa buộc) phải làm...”. Đây là điểm Người muốn đi tới. Không phải là bài học về các tương quan xã hội, nhưng là bài học về các tương quan của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta gặp lại chỗ này ngữ điệu Do-thái: một động từ ở thể thụ động nhưng không có túc từ tác nhân (complément d'agent), vì muốn hiểu ngầm đó là Thiên Chúa (x. Lc 14,11).
Đức Giê-su là con người triệt để hướng về Thiên Chúa. Người phá hủy các tham vọng lố bịch của chúng ta. Người đặt thụ tạo lại vị trí đích thực của thụ tạo. Thiên Chúa là tất cả. Tôi chẳng là chi trước mặt Người. Ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta phải nghe chân lý hiển nhiên đó: Thiên Chúa là “Chủ tể”! Hình ảnh khắc khổ nhưng chân thật, mà chớ nên đem đối chọi với bao hình ảnh khác về Người mà Đức Giê-su đã dùng: một “người cha”, một “người chồng”, thậm chí “một tôi tớ” (x. Lc 12,37). Nghĩa là phải quân bình hai mạc khải: khiêm tốn của tạo vật, dẫn tới lòng kính sợ - và thoải mái của con cái, dẫn tới tình yêu thương. Vâng, lạy Chúa, con chấp nhận đặt mình trước mặt Chúa như một tôi tớ hết sức nhỏ bé, chăm chỉ trung tín thực thi mọi chuyện Chúa truyền, như Đức Ma-ri-a, như bao vị thánh nam nữ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm bổn phận của mình thôi”. Phải thưa vậy vì Thiên Chúa bao giờ cũng muốn hơn nữa. Nếu khi xong việc phải làm, chúng ta xin Người chuẩn nhận, thì hãy nhớ ngay lúc rất bằng lòng về ta, Người vẫn đòi hỏi quyết liệt. Chính vì tình yêu mà Người muốn chúng ta luôn làm hơn và hơn nữa.
Phái Pha-ri-sêu rốt cuộc đã tin chắc họ đáng hưởng thiên đường nhờ các việc lành của họ y như câu chuyện mở màn: có đi có lại! Họ đứng trong tương quan người với người, ngay cả đối với Thiên Chúa. Họ đã chỉ xem Người như một siêu chủ (super-patron) thôi. Thế nhưng Thiên Chúa là Đấng Toàn Tha (hoàn toàn khác hẳn), Đấng chẳng mắc nợ chúng ta chút nào, Đấng chẳng ai có thể đặt tay khống chế. Muốn có một quyền lực, ma thuật hay không, trên Thiên Chúa là coi Người như một “ngẫu tượng”. Bỏ mình trọn vẹn là thái độ duy nhất đích thực trước Người. Làm tôi tớ theo cách Đức Giê-su chẳng có gì nhục nhã, vì phục vụ Thiên Chúa chính là thống trị!
Trình thuật thánh Luca nay cũng ghi đôi điều về niềm tin yêu rất đáng kính. Bàn về niềm tin nơi TN 27-C132
Trình thuật thánh Luca nay cũng ghi đôi điều về niềm tin yêu rất đáng kính. Bàn về niềm tin nơi Chúa, nên cân nhắc xem việc nào tạo khác biệt, việc nào không. Có cân nhắc, mới đặt hết tâm tình để tin vào Ngài. Trong cuộc sống, nhiều lúc có người những muốn tạo khác biệt với người khác, đã quay về phía người mình không ưa/không thích mà nặng lời: hãy đi cho khuất mắt tôi, rồi muốn làm gì thì làm.
Ngày nay, muốn tỏ cho thấy mình có khác biệt, con người không còn giận dữ/cãi cọ như trước nữa, nhưng im lặng, mềm dẻo hơn. Trong đời mình, Hội thánh nay cũng đã đổi thay rất nhiều. Có những điều khi xưa gò bó người đi Đạo biết bao nhiêu, thì nay không còn gay gắt như trước nữa. Có những việc khi xưa bị cấm đoán, nay được phép thực hiện rất thả dàn. Có những điều tưởng chừng như không thể thiếu trong đời, nay trở thành thứ yếu, bớt nhiêu khê và cũng chẳng còn huý kỵ nữa. Nhiều người, nay vẫn chú tâm vào những chuyện độc đáo, khác biệt hoặc mới mẻ. Họ quan niệm: không đổi mới, thì đời người rồi ra cũng đáng chán.
Vậy thì, đâu là sự việc căn bản, ở đời người?
Nếu kể ra đây, sẽ thấy rất nhiều, như: ý-niệm Chúa hiện hữu, nay đã nhẹ nhõm, tích cực hơn với con người. Tích cực, là vì: ta nhận biết Chúa hoà mình với ta, và Ngài còn ban chính mình Ngài cho ta, dù ta chỉ là người con nhỏ bé, rất hèn mọn.
Thêm nữa, ta trải nghiệm rõ rệt hơn, việc Chúa sống lại và ở giữa ta qua cuộc sống hiện tại, khắp mọi chốn. Rõ ràng là: xưa kia ta cứ tưởng tội lỗi của ta thực sự sờ-chạm vào Chúa, đụng đến Chúa rất khốn khổ. Nhưng, sự thực không phải thế. Vì, lỗi tội nào đến được Chúa, Đấng vô tì vết và chẳng nề hà.
Ngày nay, ta quan tâm nhiều hơn đến những người sống quanh ta, có nhu cầu nhiều hơn ta. Và nay, cũng có nhiều tiêu-chuẩn để ta sống thực, sống xứng đáng đặt ra với ta nhiều hơn trước. Và, ta cần biết tự tha thứ chính mình, hơn cứ mải lo việc Chúa thứ tha ta, khiến ta bối rối. Và ngày nay, ta đặt nặng trọng-tâm sự việc ở đời vào những chuyện tích-cực của cuộc sống hiện tại, hơn khi trước.
Điều cần thiết, cấp bách, là: ta có thể và cũng cần tin tưởng vào những chuyện như thế. Tin tưởng, là đảm bảo những gì căn bản trong đời người. Chuyện còn lại, là: chỉ nên mở rộng lòng với những chuyện liên quan đến đời sống tâm-linh, thần thánh và thứ rào cản cần lướt thắng, đó là: mất niềm tin và quyết đạt uy quyền, cho bằng được.
Mất niềm tin, là động thái nay ăn sâu vào chủ-nghĩa cá-thể bộc phát ở khắp nơi. Là, chủ nghĩa vị kỷ, chỉ biết mỗi mình mình, còn: mọi người chỉ là cỏ rác. Cá-thể chủ nghĩa, còn là: chỉ bận tâm lo sinh sống cho riêng mình, chẳng cần để tâm giùm giúp bất kỳ một ai, ngoài chính mình. Là, nhìn người khác bằng cặp mắt nghi-ngờ rằng họ sẽ làm khó, chống đối mình. Là, coi người khác lúc nào cũng bất mãn, càm ràm, kình chống đủ mọi chuyện, chỉ tin những người ưa thích mình, sống giống mình, mà thôi. Tóm lại, là: coi “mình” khác “nó”, chống lại “nó”.
Nguyên do dẫn đến động-thái mất tin tưởng, là do mình chọn cuộc sống khép kín, chỉ tin tưởng mỗi chính mình, thôi. Đó, là nguồn cội của mọi ý-thức-hệ rất khác biệt. Là, hành xử đố kỵ, cục-bộ. Nói cho cùng, thì: những người sống khép kín/vị kỷ, không còn tin tưởng một ai và chẳng ưa thích người nào, cả người khác chính-kiến, sắc tộc và lý lịch nữa. Không ưa ai, là bởi người khác hạy chất vấn họ. Và, cứ muốn đặt quyền-uy lên người họ.
Đó, cũng là thái-độ lạ kỳ, xuất từ động-thái sống riêng-tư khép kín bên trong vỏ sò. Nó ngăn chặn sự tin tưởng người khác, không nghĩ rằng người khác cũng đã làm vì lợi ích chung. Động-thái đố-kỵ này, còn thấy rõ ở môi-trường kinh-tế, thông-tin, giáo dục và cả đạo giáo nữa.
Môi trường kinh tế chỉ hoạt-động, nếu người người biết tin vào hệ-thống tiền-tệ và ngân hàng. Hệ thống tiền/hàng từng suy sụp vào những năm 2008/2009, đến độ cần có chính phủ nhúng tay vào, mới sống sót. Khi kinh-tế thế-giới được hồi-phục rồi, nó vẫn cần đến niềm-tin chân-chất, của mọi người. Bởi có tin-tưởng như thế, thì định-chế mới đảm bảo được “trò chơi” thị-trường tự-do có đầu-tư khởi sắc, rất tiếp-thị. Nếu không, tất cả chỉ là tranh-giành quyền-lực để có quyền (mà) hành người khác, thôi. Muốn thành công, mọi người phải tin vào luật chơi thật chân-phương, lương thiện mới được.
Vì mất tin tưởng, nên con người lại đi vào một cuộc chiến tôn-giáo dai dẳng, chẳng bao giờ kết thúc. Cuộc chiến này, đang có ngay trong lòng của đạo-giáo mà phần lớn đang phát-triển. Đây là vấn đề rất phức-tạp. Là, ưu tư của những người chỉ muốn kiểm-soát những gì lẽ đáng ra phải được tự-do về mặt tin tưởng nữa.
Thế nên, nhiều người quyết chống lại hình thức của chủ nghĩa tóm chặt như thời đầu, khiến họ chưa sẵn sàng có động-thái tự-do phát-triển về mặt tôn-giáo, vì lợi ích của nhiều người. Nhiều nhóm/bè đạo-giáo, lại đã du-nhập chủ-nghĩa tân–giáo sĩ, qua đó có vị còn muốn có đủ mọi quyền-bính trong tay, nên đã chối-bỏ quyền đòi-hỏi tối-thiểu của giáo-dân. Cuối cùng, vấn đề thời đại hôm nay, là: đâu đâu cũng thấy mất đi đối-thoại thực-tình, cả trong đạo lẫn ngoài đời.
Vấn đề của thời hôm nay, không chỉ là: làm sao chuyển-đạt thông-tin tới mọi người, mà là vận-động để mọi người có thể kiểm-soát được truyền-thông, báo chí. Bởi truyền-thông, nay vẫn khoanh vùng những điều mà người thời nay gọi là “không-gian chung đụng”. Đó cũng là đấu-trường, trong đó sự tin-tưởng trở thành niềm khuynh-loát; và khuynh-loát trở-thành độc-tố mang đến cho lương-tâm con người các giá-trị khó kiểm-chứng.
Kết cuộc, lại dẫn đến độc-tài trong cảm nhận và dẫn đến chiến-thắng của chủ-trương đại-trà, hoành tráng, như hí-trường danh-lợi cho công chúng. Và tương lai, chúng-dân lại sẽ tùy thuộc sự-kiện: ta tin-tưởng được bao nhiêu? Làm sao để ta vượt qua thái-độ sống ích-kỷ và ý chí muốn đạt quyền-lực. Bởi, tin-tưởng là lớp xi-măng làm nền, cho cuộc sống mỗi ngày.
Cuộc sống hàng ngày tự nó sẽ khó khăn. Nền-tảng lịch-sử cũng thế. Lịch-sử các thế-kỷ vừa qua, đã làm cho sự sống con người ra khỏi cảnh rẽ chia, khác biệt. Khác biệt về kinh-tế giữa người giàu/kẻ nghèo. Khác biệt, về văn-hóa/giáo-dục, người thì được học, kẻ vẫn mù chữ. Khác biệt, về an toàn/lành mạnh trong xã-hội. Khác biệt, cả trong sinh-hoạt của Hội thánh, tức: khác biệt giữa người chuyên chăm nhà thờ và người không đi. Và khác biệt cả về cấu-trúc, có lập-trường sống tập-trung trong gia-đình hoặc bị đẩy lùi khỏi xã-hội.
Nói cho cùng, khác biệt nào cũng dẫn con người về với cuộc sống nội-tâm hay chỉ sống bề ngoài, thôi. Sống sâu sắc hay chỉ hời-hợt, trống-rỗng. Sống, giùm giúp, đỡ đần hết mọi người hoặc chỉ biết mỗi chính mình, thôi. Thêm vào đó, cũng nên nhìn vào chính mình và tự hỏi xem mình có đặt nặng cuộc sống vào với niềm tin linh-đạo không? Có tạo khác biệt trên/dưới giữa giáo-sĩ và giáo-dân không? Có chê bai, kỳ thị nam/nữ, già/trẻ, ngôn ngữ và/hoặc màu da không?
Tóm lại, sống ở đời, thời này, là sống biết tự kiểm-điểm xem mình có đi quá đà, trong động-thái tỏ-bày sự khác biệt giữa mình và người cả về đạo lẫn đời, không? Và, sống cuộc sống đạo-hạnh hôm nay, là: sống và tự hỏi lòng mình xem có đặt bức tường ngăn-cách trong cuộc sống giữa mình và mọi người? Để rồi, có tương-quan êm-đẹp trong nhóm hội/đoàn-thể; trong xã-hội và giáo-hội mình đang sống? Có sống như thế, mới tìm ra được sự bình-an trong tâm hồn, vào mọi lúc, mà không cần bức bách, ưu-tư quá nhiều điều cho mình và cho mọi người, ở đời.