Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-C Bài 101-150 Người Cha nhân hậu
------------------------------- Phúc Âm: Lc 15, 1-10 {hoặc 1-32}: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy, Tôi bảo các ông: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải. "Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải". {Người lại phán rằng: "Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: 'Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha'. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình. "Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: 'Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ'. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: 'Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó'. "Nhưng người cha bảo: 'Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'".} - Ðó là lời Chúa. -----------------------------------------
Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương nhân loại, nên đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu: TN 24-C101
Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương nhân loại, nên đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu xuống trần gian để đem hạnh phúc cho con người và để nói lên trọn vẹn tình yêu cao vời của Chúa Giêsu qua cái chết trên thập giá.chính vì thế, khi Chúa Giêsu tiếp đón những người thấp cổ bé họng, những người thu thuế, những người tội lỗi thì các Kinh sư, Pharisêu lẩm bẩm kêu trách Người. Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp họ nhưng Ngài đã dùng ba dụ ngôn để dạy họ và dạy mọi người.Dụ ngôn: Con Chiên Lạc, Đồng Bạc Đánh Mất và Người con Hoang Đàng, ba dụ ngôn này nói lên lòng nhân từ thương xót của Chúa Giêsu đối với các tội nhân biết hối cải ăn năn.
Đối với những người Pharisêu, Kinh sư và Biệt phái người tội lỗi là người đáng khinh chê, là người phải đẩy ra bên lề xã hội, không được tiếp xúc, không được lại gần họ.Quan niệm như vậy, những Kinh sư, Pharisêu và Biệt phái luôn rình mò để bắt bẻ Chúa Giêsu.Họ coi những kẻ tội lỗi là nọc độc, là ghê tởm. Còn đối với Chúa Giêsu tuy chống đối tội lỗi, nhưng lại xót thương kẻ có tội. Bởi vì Ngài đến để tìm những gì đã mất. Chúa luôn để cơ hội cho tội nhân có dịp quay trở lại với Ngài. Con người dù thế nào đi nữa vẫn có cơ may trở lại với Chúa và Ngài luôn dành chỗ cho họ nơi trái tim vẹn sạch của Ngài. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu, ba mươi năm sống ở làng Nagiarét và ba năm đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã luôn gần gũi mọi lớp người, Ngài luôn yêu thương những người tội lỗi. Nên, khi thấy Chúa Giêsu xót thương những người tội lỗi, những người cơ cực, khó nghèo, Ngài đã bị Kinh sư và Pharisêu chống đối khi thấy Chúa dùng cơm tại nhà ông Lêvi, một người dưới mắt họ là kẻ tội lỗi. Khi dùng bữa với những người tội lỗi theo quan điểm, theo cách nghĩ của họ, Chúa Giêsu đã bị họ ghen ghét và tìm cách mưu hại họ. Ba dụ ngôn ngày hôm nay là tiếng nói yêu thương cho nhân loại, cho con người thấy sáng kiến của Thiên Chúa: Ngài luôn yêu thương tội nhân, Ngài đi tìm họ và mời họ quay trở về, và hưởng nếm niềm vui.
Vâng, tội lỗi là điều đáng khinh bỉ, đáng xa tránh. Nhưng những ai lầm lỡ phạm tội, nếu biết quay gót trở về, nếu biết ăn năn sám hối, chắc chắn Chúa sẽ yêu thương tha thứ. Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ như người chăn chiên bỏ chín mươi chín con chiên để tìm con chiên lạc, như người đàn bà đánh mất đồng bạc, đốt đèn, quét tìm và khi tìm được đồng bạc đánh mất đã làm tiệc mời bạn bè chia vui với mình, như người trộm lành được Chúa yêu thương tha thứ. Tuyệt đỉnh của yêu thương là tha thứ. Cái chết trên thập giá là tuyệt đỉnh của yêu thương. Chết mới nói lên tất cả:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Trên thập giá dù đau đớn, dù bị khinh khi, phỉ nhổ, Chúa Giêsu vẫn một lòng yêu thương, tha thứ:” Lạy Cha, xin tha cho họ “. Lời này nói lên lòng nhân hậu, cao thượng tuyệt đối của Chúa Giêsu.
Con người luôn nhận được sự tha thứ của Chúa khi con người thật lòng sám hối ăn năn. Người trộm lành suốt cuộc đời tội lỗi nhưng trong giây phút ông đã nhận ra tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ. Chúa đã tha thứ cho ông và đưa ông vào Nước Thiên Chúa. Ông đại đội trưởng dù chưa là con Chúa, nhưng ông đã biết nhận uy quyền của Chúa và nhận ra mình là yếu hèn, là thua chúa, nên ông đã đươc Chúa chữa lành cho người đầy tớ của ông. Người con hoang đàng trở về thật lòng ăn năn, sám hối, nên anh đã nhận được tình thương tha thứ của người cha.
Là Thiên Chúa, Ngài đã tha thứ cho chúng ta dẫu tội lỗi chúng ta tầy trời. Chúa đã tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta…Chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúng ta chỉ dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi chúng ta nhận ra thân phận yếu hèn, tội lỗi của chúng ta. Người ta dễ nhìn ra cái rác trong mắt người khác mà không nhận ra cái sà trong mắt của mình. Xem ra tự tha thứ cho ta thì dễ dàng hơn tha thứ cho kẻ khác. Tuy nhiên, có nhận ra lỗi lầm của mình, con người mới dễ dàng cảm thông với tội lỗi, với khuyết điểm của kẻ khác. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn yêu thương mọi người và không bao giờ bỏ rơi ai. Ngài yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vô điều kiện, tình yêu tuyệt vời. Do đó, trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta cũng không được nản lòng, thất vọng, hãy tín thác vào Chúa, hãy đặt tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con không bao giờ nản chán giữa cuộc đời đầy chông gai thử thách và xin cho chúng con luôn biết tín thác vào tình yêu tha thứ của Chúa. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta điều gì ? 2.Tại sao Kinh sư, Biệt phái và Pharisêu lại chống đối Chúa Giêsu ? 3.Thiên Chúa là Đấng nào ?
+ Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi: Trong xã hội Do thái, những người thu thuế bị coi như tội nhân công khai. Hai hạng người thu thuế và gái điếm thường bị nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư lên án (x. Lc 5,30; 7,34). Ở đây Lu-ca ghi nhận những người thu thuế và tội lỗi thường đến nghe Đức Giê-su giảng. Điều này cho thấy Đức Giê-su không khinh dể xa lánh tội nhân, nhưng sẵn sàng đón tiếp để cứu độ họ.
- C 4-7:
+ Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con...: Hình ảnh người mục tử với đàn chiên là một đề tài cổ điển của Cựu ước, nói lên quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Người (x. Lc 12,32). Con chiên tìm lại được là biểu tượng về ơn cứu độ của Thiên Chúa (x. Mt 4,6-7). Lu-ca cho thấy tình thương của Thiên Chúa luôn đi tìm và đem các tội nhân trở về đàn chiên (x. Lc 15,4-7).
+ Để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất: Ở đây phải hiểu ngầm là chín mươi chín con chiên trong đàn đã được mục tử nhốt ở một nơi an tòan trong hoang địa, trước khi đi tìm con chiên lạc. Tuy chỉ là một con chiên, nhưng đối với người mục tử cũng là một số lớn đến nỗi ông quyết tâm đi tìm bằng được. Điều này cho thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với tội nhân thật là lớn lao.
- C 8-10:
+ Người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng...: Đồng quan là một đơn vị tiền tệ của Hy-lạp. Đơn vị tiền tệ này tương đương với quan tiền Rô-ma (x. Lc 7,41), là tiền công nhật của một nông nhân làm việc đồng áng (x. Mt 20,2).
+ Lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ?: Nhà của người dân Pha-lét-tin làm bằng đất sét và có ít cửa nên bị tối. Do đó, dù giữa ban ngày, để tìm kiếm một vật nhỏ như một quan tiền, người ta cũng phải thắp đèn cầy. Trong dụ ngôn này, một phụ nữ vốn liếng chỉ có mười quan tiền, nên phải vất vả tìm kiếm bằng được đồng quan bị mất... Điều này ám chỉ tình thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Người không muốn bất cứ ai bị hư mất, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống.
+ Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối: Thiên Chúa vui mừng và chia sẻ niềm vui với cả triều thần thánh trên trời khi thấy một người tội lỗi ăn năn hối cải trở về.
4. CÂU HỎI:
1) Những ai bị người Pha-ri-sêu và kinh sư khinh dể, nhưng được Đức Giê-su sẵn sàng đón tiếp ?
2) Thánh kinh thường dùng hình ảnh nào để diễn tả tương quan giữa Đức Chúa với Ít-ra-en là con dân của Người ?
3) Phải chăng chủ chiên bỏ mặc 99 con chiên giữa hoang địa cho sói dữ cắn xé, để đi tìm một con chiên bị lạc ?
4) Hai dụ ngôn nào diễn tả tình thương của Thiên Chúa luôn quan tâm đi tìm các tội nhân, và dụ ngôn nào cho thấy tình thương của Người sẵn sàng tha thứ và đón nhận tội nhân sám hối trở về ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7).
2. CÂU CHUYỆN: LOÀI NGƯỜI THÍCH KẾT ÁN HƠN CẢM THÔNG VỚI TỘI NHÂN:
Bệnh HIV AIDS (hay SI-DA) ngày nay đã trở thành một vấn đề lớn của nhân loại, một “căn bệnh của thế kỷ” mà đến nay loài người vẫn chưa tìm ra phương thế chữa trị hữu hiệu. Cách đây ít lâu, trên đài VTV3 có chiếu một bộ phim nhiều tập khá hay, nhan đề là “Gió qua miền tối sáng”. Bộ phim đề cập đến số phận của nhiều nhân vật bị lây nhiễm vi-rút liệt kháng (HIV-AIDS). Thái độ của các bệnh nhân đầu tiên thường là bàng hoàng, không tin là mình lại bị mắc chứng bệnh quái ác này. Rồi sau khi đã chấp nhận thực tế, một mặt họ tìm xem ai đã lây bệnh cho mình, mặt khác họ vẫn cố che giấu không để người chung quanh không biết mình đã bị mắc bệnh. Rồi trong số những người mắc bệnh, người thì chấp nhận hoàn cảnh để cố sống tốt đẹp và tránh lây bệnh cho tha nhân. Nhưng cũng có kẻ hận đời để sống buông thả, quan hệ tình dục bừa bãi, nhằm truyền bệnh cho nhiều người cùng chết cho hả dạ. Còn quần chúng nói chung, do chưa hiểu về phương cách lây lan, nên khi vừa nghe người nào mắc phải thứ bệnh quái ác này là họ bắt đầu bàn tán xầm xì to nhỏ và cảnh giác cao độ thể hiện qua thái độ xa lánh bệnh nhân... khiến người mắc bệnh cảm thấy rất cô đơn và tủi hổ. Cuối cùng người bệnh đành phải dời chỗ ở đến nơi không ai biết mình bị mắc chứng bệnh này.
Gần đây ở Phi-líp-pin cũng có chiếu một bộ phim tài liệu về việc phòng chống HIV AIDS. Phóng viên đã hỏi một thanh niên bị mắc bệnh AIDS thời kỳ chót: “Anh dự định thế nào về tương lai của anh ?” Chàng thanh niên đã thành thật cho biết như sau: “Tôi hy vọng sau khi tôi chết, hãng bảo hiểm nhân thọ sẽ trả cho tôi một số tiền để nuôi chú chó cưng của tôi. Vì từ khi tôi công khai cho biết về chứng bệnh này, tôi đã bị mọi người khinh dể xa lánh, kể cả những người thân trong gia đình ruột thịt của tôi. Chỉ có chú chó cưng là không thay lòng đổi dạ. Nó vẫn tiếp tục vẫy đuôi mừng rỡ mỗi khi gặp mặt như trước”.
3. SUY NIỆM:
Khi thấy Đức Giê-su tiếp đón và ngồi ăn đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi thì các người pha-ri-sêu và các kinh sư liền lẩm bẩm phê phán Người. Để trả lời cho họ, Đức Giê-su đã kể ra ba dụ ngôn về tình thương của Thiên Chúa đối với các tội nhân: Một là con chiên bị lạc, hai là đồng bạc bị mất và ba là người cha bao dung để tư đó mời gọi mọi người phải noi gương Thiên Chúa đối xử bao dung với các tội nhân có lòng sám hối.
1)Tinh thương bao dung của Thiên Chúa đối với các tội nhân thể hiện qua hai thái độ của Đức Giê-su như sau:
a) Không bỏ rơi nhưng ra sức đi tìm:
Đức Giê-su là mục tử tốt lành biết rõ và gọi tên từng con chiên (x Ga 10,14), đến để cho chiên được sống và sống dồi dào (x Ga 10,10). Con người thật là đáng quí trước mặt Người. Người tìm kiếm con người và không muốn một ai bị hư mất. Như người mục tử tốt lành không đành bỏ rơi một con chiên lạc, nhưng quyết tâm đi tìm cho tới khi tìm thấy (x Lc 15,4); Như người đàn bà có mười quan tiền mà bị rớt một đồng, đã không bỏ mặc, nhưng đốt đèn, quét nhà quyết tìm cho bằng được (x Lc 15,8); Như người cha có hai đứa con trai, đã không bỏ mặc đứa con thứ bất hiếu bỏ nhà đi hoang, nhưng hằng ngày mong chờ no sớm hồi tâm trở về (x Lc 15,20).
b) Vui mưng khi tìm thấy và chia sẻ niêm vui với người chung quanh: Đức Giê-su là hiện thân lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa khi không muôn tội nhân bị hư mất nhưng muốn họ ăn năn sám hôi và được sống. Người vui mưng đón tiếp người tội lỗi sám hối trở về:
Người giống như một mục tử tốt lành khi đã tìm thấy con chiên lạc, liên vui mừng vác nó trên vai đưa về đàn. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó” (Lc 15,5-6); Người cũng có thái độ giống như người đàn bà kia sau khi tìm thấy quan tiền bị mất, đã chia sẻ niềm vui với người xung quanh: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” (Lc 15,9); Người giống như người cha nhân lành trong dụ ngôn, hằng ngày chờ mong đứa con đi hoang trở về, và khi thấy bóng nó từ đàng xa, đã chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ nó và hôn lấy hôn để. Rồi không để cho nó nói hết câu sám hối đã tha thứ và trả lại hết nhưng quyên lợi nó bị mất khi bỏ nhà đi hoang: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,20-24).
2) Chung ta phải làm gì để noi gương nhân hậu của Đưc Giê-su ?
- Thực ra con chiên lạc, đồng bạc mất và cả đứa con hoang đàng đều không đáng để chủ nhân phải hành động “điên rồ”: người chăn chiên phải bỏ lại chín mươi chín con chiên khác; người phụ nữ phải vất vả thắp đèn, quét nhà, moi móc từng góc nhà; người cha phải suốt ngày đứng tựa cửa, héo hắt chờ đợi. Nhưng ở đây phải xét theo giá trị tình thương: Sở dĩ con chiên, đồng bạc hay người con có giá trị lớn lao là nhờ tình thương của chủ nhân dành cho chúng. Nói cách khác: giá trị của chúng được đo bằng thước đo tình thương hơn bằng giá trị vật chất. Mối tương quan thân thiết và tấm lòng yêu thương của chủ nhân trong ba dụ ngôn nói trên đều phản ảnh tình yêu bao dung của Thiên Chúa đối với tội nhân. Dù chúng ta đã cố tình bỏ nhà đi hoang thì Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi chúng ta. Ngài đã dùng nhiều người nhiều cách để tìm kiếm chúng ta và mong chúng ta mau hồi tâm trở về với Ngài. Ngài và cả triều thần thiên quốc đều vui mừng khi thấy các tội nhân thực tâm sám hối như người cha nói với anh con cả trong dụ ngôn: “Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,32).
- Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thường có thái độ giống như biệt phái và Kinh sư Do thái khi hay xét đoán và kết án lỗi lầm của tha nhân. Nhưng Tin Mừng hôm nay cho thấy thái độ của Đức Giê-su thật từ bi nhân hậu: Người cảm thông khi sẵn sàng ngồi đồng bàn với các người thu thuế tội lỗi. Người chọn một người thu thuế tên là Lê-vi vào số mười hai Tông đồ. Người bênh vực người phụ nữ phạm tội ngoại tình khỏi bị ném đá chết. Chỉ có một tội không bao giờ được tha là “xúc phạm đến Chúa Thánh Thần” của các người Pha-ri-sêu và Kinh sư Do thái, khi họ cố chấp không tin nhận Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và không gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập.
- Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng từ bi nhân hậu tha thứ tội lỗi chúng ta, thì Người muốn mỗi người chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ các tội xúc phạm của tha nhân đối với chúng ta, như người cha trong dụ ngôn đã yêu cầu người anh cả hãy tiếp nhận đứa em đã phạm tội bỏ nhà đi hoang. Trong thực tế, người ta chỉ dễ tha thứ lỗi lầm của kẻ khác khi ý thức được tình trạng tội lỗi của mình. Có nhận mình cũng là tội nhân, người ta mới dễ cảm thông và tha thứ cho kẻ khác. Chúng ta đừng đòi kẻ có tội phải bị trừng phạt thì mới hài lòng. Mục sư Mác-tin Lu-thơ Kinh (Martin Luther King) đã nói như sau: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì chắc mọi người đã trở thành những kẻ mù lòa từ lâu rồi !”.
- Phải tha thứ thế nào?: Một phóng viên đã hỏi Tổng thống LANH-CÔN (A Lincoln) là ông sẽ đối xử thế nào đối với dân Miền Nam sau khi cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ chấm dứt ? Ông liền trả lời rằng: “Tôi sẽ đối xử với họ như họ chưa bao giờ bỏ nhà ra đi”. Đây cũng chính là cách đối xử của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Người sẵn sàng tha thứ, “phục hồi trọn vẹn” cho Phê-rô, như thể ông chưa bao giờ phạm tội chối Thầy. Đây cũng chính là cung cách chúng ta phải cư xử với những kẻ có lỗi với chúng ta: phải sẵn sàng tha thứ vô điều kiện để đem họ về với Chúa, cư xử với họ với một tình thương bao dung như Thiên Chúa đã đối xử nhân từ bao dung với chúng ta như lời kinh Lạy Cha: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12). Vì nếu chúng ta đối xử với tha nhân thế nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với chúng ta như thế như lời Đức Giê-su: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy” (Mt 7,2).
4. THẢO LUẬN:
Giả như bạn là người anh cả trong dụ ngôn hôm nay thì bạn sẽ làm gì: vào nhà cha để cùng tham dự bữa tiệc vui đón đứa em đi hoang trở về, hay đứng bên ngoài kêu trách lòng nhân hậu của Cha, như các người Pha-ri-sêu và kinh sư xưa đã làm ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHA. Chúng con thường hay cư xử như người con thứ trong bài dụ ngôn khi muốn tự do bay nhảy ngoài vòng tay che chở của Cha. Nhưng chính sự tự do ấy đã biến chúng con trở thành nô lệ cho ma quỷ, thế gian và xác thịt mình, và những hạnh phúc do thế gian ban tặng cuối cùng cũng chỉ là thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua. Cũng như người con thứ trong bài Tin mừng hôm nay, chúng con bỗng cảm thấy mình bị rơi xuống hố sâu tội lỗi và nếm mùi đau khổ cùng cực.
- LẠY CHA đầy lòng bao dung nhân hậu. Xin dẫn dắt chúng con mau quay về với Cha, giúp chúng con năng điều chỉnh những sai lỗi. Xin hãy nâng chúng con mau trỗi dậy vì tin rằng tình thương của cha còn lớn gấp muôn ngàn lần những tội lỗi của chúng con. Ước gì vấp ngã sẽ làm chúng con nên trưởng thành hơn, thấy được sự mỏng dòn yếu đuối của bản thân và cảm nghiệm được lòng bao dung nhân hậu của Cha. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con cũng biết đối xử bao dung hơn đối với những kẻ đã xúc phạm đến chúng con.
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 15:1-32)
Chúa Giê-su kể luôn một mạch ba dụ ngôn, tìm được con chiên lạc, tìm được đồng bạc bị đánh: TN 24-C103
Chúa Giê-su kể luôn một mạch ba dụ ngôn, tìm được con chiên lạc, tìm được đồng bạc bị đánh mất và tìm về lại đứa con đã đi hoang. Không hẳn Chúa Giê-su chỉ nhằm mục đích bênh vực cho hành động của Người là “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”, nhưng mặt khác để nói cho người ta biết rằng mỗi người chúng ta dù thân phận tội lỗi vẫn có một giá trị tuyệt đối trước mặt Thiên Chúa.
Trước hết chúng ta nhận thấy một sự thật tréo cẳng ngỗng: những người Pha-ri-sêu tự coi mình là những kẻ công chính thì lại không muốn đến với Chúa Giê-su, còn “các người thu thuế và các người tội lỗi lại đều lui tới với Chúa Giê-su để nghe Người giảng”! Với bối cảnh như vậy, chúng ta có thể tin chắc rằng Người đang giảng cho những ai lui tới với Người và Người muốn bảo đảm với họ rằng khi đến với Người là họ đang tìm lại giá trị của họ đã bị tước đoạt hoặc đánh mất. Đến với Người, họ sẽ nhận biết sứ mệnh của Người là phục hồi cho họ phẩm giá và địa vị làm con cái Thiên Chúa. Vậy chúng ta lắng nghe Chúa Giê-su giảng điều gì về giá trị của chúng ta?
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho họ một giá trị. Đặc biệt giữa muôn loài thụ tạo, con người đã được làm nên “theo hình ảnh Thiên Chúa”. Kinh Thánh khẳng định chỗ đứng của chúng ta trong công trình tạo dựng: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Thánh Vịnh 8:6-7). Ngoài ra còn rất nhiều hình ảnh khác đã được sử dụng để diễn tả giá trị của con người trước mặt Chúa. Giá trị ấy không được đánh giá bằng những gì bề ngoài như tiền bạc, bằng cấp…, nhưng là giá trị tình cảm, một giá trị hoàn toàn căn cứ vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ. “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?”, tác giả Thánh Vịnh đặt câu hỏi như vậy. Còn Chúa Giê-su thì trả lời bằng những dụ ngôn chúng ta nghe hôm nay. Con chiên lạc hay đồng quan mất đâu có đáng giá để người mục tử và người phụ nữ phải cất công đi tìm! Ngay đến đứa con hoang đàng tự ý muốn mất, muốn chết thì người cha bình thường cũng có thể coi nó như đã mất đã chết rồi! Vậy mà giá trị tình cảm của đứa con đã khiến người cha nhân hậu ngày ngày mòn mỏi đứng chờ trước cửa nhà.
Một cái gì mang giá trị tình cảm sẽ làm cho chủ nhân của nó vui mừng khi họ tìm lại được nó. Khi nhấn mạnh đến niềm vui của người chăn chiên, của người phụ nữ và người cha, Chúa Giê-su đã khéo léo nói lên giá trị của những gì đã mất. Càng yêu mến bao nhiêu, người ta càng vui mừng và biểu lộ niềm vui ấy khi tìm lại được vật hoặc người đã mất! Chúa yêu thương chúng ta nhiều lắm nên chúng ta mới có giá trị tuyệt đối đối với Người. Chúa vui mừng nhiều lắm khi chúng ta ăn năn sám hối, vì Người không muốn mất đi một đứa con có giá trị trên các tạo vật khác. Một góc nhìn của bài Tin Mừng hôm nay tuy đơn sơ nhưng vô cùng ý nghĩa, đã giúp chúng ta có một xác tín về giá trị của mình và của những người anh chị em.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúng ta thuộc mọi tầng lớp khác nhau, giàu hay nghèo, khỏe mạnh hay bệnh tật, công chính hay tội lỗi…, nhưng chúng ta có một mẫu số chung: là con người, là con cái của Cha trên trời. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư không nhận biết giá trị của con người nên mới xầm xì phê bình Chúa Giê-su. Họ không giúp cho người tội lỗi trở về, nhưng tránh xa như tránh hủi. Đó không phải là thái độ của Ki-tô hữu. Người ta có thể đánh mất địa vị làm con Chúa khi họ phạm tội, nhưng thật nhiều lần chính chúng ta lại là những người tước đoạt phẩm giá của họ. Chúng ta khinh dể người khác vì họ không cùng giai cấp, màu da. Chúng ta coi thường người khác vì họ không có bằng cấp, xe hơi nhà lầu… Người ta xấu xa, tội lỗi bao nhiêu chưa phải là kết luận, nhưng quan trọng hơn, đó là người ta vẫn “lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng”, vẫn được tiếp đón và cùng ăn uống với Người!
Chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình: TN 24-C104
Chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.
Thực vậy, đây là hình ảnh của một tình yêu không biên giới và vô điều kiện của Thiên Chúa. Ngài là Cha và chúng ta là con. Làm con thì có quyền hưởng gia tài của cha. Thiên Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta nhưng đồng thời mỗi người chúng ta lại phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trước mặt Ngài. Vì tôn trọng quyền tự do của con, người cha đã chia gia tài cho cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của người cha luôn đi theo cậu không ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ngày ngày ông những nóng cùng trông. Cho tới một ngày kia, ông nhìn thấy bóng dáng cậu từ xa thất thểu lê lết từng bước chân. Thế là ông vội chạy về phía cậu, quên đi tuổi già sức yếu của mình, ông lại gạt bỏ khỏi lòng mình mọi đau buồn về lầm lỗi thất hiếu của cậu. Ông ráng chạy, chạy thật nhanh mà ôm lấy người con yêu dấu, đã chết mà nay lại sống. Rồi ông mở tiệc linh đình để ăn mừng.
Thiên Chúa là thế. Vì là Cha, Ngài luôn trông chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Chỉ cần chúng ta biết nhớ lại tình thương vô bờ bến của Cha, nhận ra sự dại dột của mình mà ăn năn sám hối. Chúa luôn tha thứ và muốn chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, như một trong những ơn cao đẹp nhất của tình yêu Ngài ban cho con người.
Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người anh cả, nhờ đó mà hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn này. Người anh cả trong thời Chúa Giêsu, ám chỉ dân Do Thái. Họ tưởng rằng chỉ họ là trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, họ khinh bỉ các dân tộc khác và những kẻ mà lề luật đạo cũ gọi là tội lỗi.
Ngày nay, người công giáo chúng ta cũng nên thật trọng, kẻo lại có cách nhìn và thái độ của đạo cũ, tự coi mình là nắm hết chân lý, có sự trọn hảo đạo đức, rồi khinh chê, xa tránh và thậm chí thù ghét những người không cùng chia sẻ một niềm tin, một lối sống như chúng ta.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc đến mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lần đường lạc lối, Ngài tạo mọi điều kiện để chúng ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta, đó là tin vào tình thương tha thứ của Ngài, để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi chín con ở lại trong đàn. Niềm vui tha thứ thật trong lòng là niềm vui của những người biết và dám sống nội dung của kinh Lạy Cha, lời kinh duy nhất của những công dân đích thực Nước Trời, đó là: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Hôm qua có dịp ra phố ghé ngang một sáp báo, tôi tình cờ nghe từ quán cà phê đối diện vẳng ra một: TN 24-C105
Hôm qua có dịp ra phố ghé ngang một sáp báo, tôi tình cờ nghe từ quán cà phê đối diện vẳng ra một giọng hát trong trẻo: “Cao cao bên cửa sổ có hai người hôn nhau”. Bài hát đã nghe dăm lần bảy lượt qua các phương tiện truyền thông, có chăng chỉ là một cảm nhận về mùa xuân hạnh phúc, thế mà chiều nay bỗng thấy nôn nao khác lạ. Đó không phải là thứ nôn nao của kẻ độc thân bất chợt thấy mùa xuân bên cửa sổ, rồi tự nhiên tủi về phận mình như Michel Quoist đã ghi trong cuốn sách của ông; cũng chẳng phải thứ nôn nao của những kẻ trên đường phố đang hối hả về nhà dịp nghỉ cuối tuần. Thứ nôn nao rất lạ mà cũng rất đỗi thân quen.
Đang còn vẩn vơ với cái nôn nao ấy thì cô chủ sạp đã trao cho tôi tờ báo và vui miệng cô hát theo: “Thành phố ơi hãy im lặng cho hai người hôn nhau”.
Tới lúc này, tôi mới vỡ lẽ. Thì ra mình nôn nao là vì cái nụ hôn. Không phải của “anh lính về thăm phố với cô gái vào ca ba” như bài hát kể, mà là cái nụ hôn của một người cha dành cho đứa con hoang đàng trở về của bài Phúc Âm. Giai điệu ấy, nụ hôn ấy quyện lấy nhau và tự nhiêm ngấm vào người tôi trở thành một thứ nôn nao, để hôm nay, xin được trang trải với cộng đoàn như suy nghĩ về trang Tin Mừng. Đó là nụ hôn của lòng thương xót.
1. Nụ hôn ấy vượt trên lý lẽ của sự công bình.
Nếu để ý, người ta thấy nếp nghĩ của những người con trong dụ ngôn Tin Mừng là nếp nghĩ vượt trên lẽ công bình. Làm sao người con thứ dám xin cha mình chia gia tài mà anh gọi là “thuộc về anh” trong khi cha mình sờ sờ còn sống? Làm sao người con cả lại vùng vằng làm mày làm mặt với cha khi cả đời hầu hạ mà chẳng có lương? Sẽ là hỗn nếu dựa trên cái tình, nhưng cũng có thể quan niệm được nếu dựa vào cái lý. Chính nhân danh sự công bình đương nhiên nào đó mà tư cách của hai người con trong dụ ngôn đã được hình thành.
Nhất là việc người con thứ trở về. Sau những ngày phung phá đến bước đường cùng, đến độ khánh kiệt gia tài, cạn kiệt sức khỏe, anh vẫn còn đủ tỉnh táo để hạch toán nẻo lối tìm về. Bởi vì dựa trên công bình, anh đã đốt cháy quyền làm con nên không thể được gọi là con nữa. Bởi vì dựa trên công bình, anh đã tự ý bỏ nhà ra đi ôm theo sản nghiệp nên muốn tìm về phải được cha chấp nhận. Bởi vì dựa trên công bình, anh chỉ dám coi mình như “người cần việc” tìm đến “việc cần người”. Nếu anh có gặp cảnh then cài khóa ổ xua đuổi chối từ có lẽ anh cũng phải công bình mà chấp nhận.
Lẽ công bình khó khăn là như thế nhưng nụ hôn của người cha đã hóa giải tất cả. Nó vượt qua giới hạn của lẽ công bình để rạng rỡ là một nụ hôn của lòng thương xót. Người cha tha thứ hết. Không khóa trái đời sống người con thứ vào quá khứ tội lỗi, không niêm phong nhịp đời của anh vào bước đường phóng đãng, nhưng phục hồi quyền làm con như thuở ban đầu. Người ta không biết ở đâu lẽ công bình dừng lại và ở đâu lòng thương xót khởi đầu, nhưng chỉ biết rằng, bằng nụ hôn ấy sự tha thứ đã vượt lên chiếm lĩnh tiếng nói của lẽ công bình để trở nên nụ hôn của lòng thương xót.
2. Nụ hôn ấy vượt trên khuôn khổ của nền giáo dục.
Vẫn biết rằng khuôn khổ của tình yêu là một tình yêu không theo một khuôn khổ nào, nhất là tình ấy lại là tình cha, lại là lòng mẹ, cùng lắm chỉ dám ví von như núi cao biển rộng, tựa lai láng của dòng sông và mênh mông của đồng lúa. Nhưng trong trọng trách giáo dục, người ta cũng phải mặc nhiên chấp nhận một thứ khuôn khổ nào đó. Chả thế mà ca dao Việt Nam bảo: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Yêu con không phải là nuông chiều theo ý của con, nhưng là biết cách cho con roi giọt giáo hóa, và ghét con đâu phải chỉ là hằn học mắng la mà nhiều khi lại là những ngọt ngào ghẻ lạnh của một tình thương vắng bóng.
Một trong những châm ngôn nổi tiếng trong bổn phận giáo dục con cái là câu: “Nếu hôm nay không muốn con khóc vì được dạy dỗ, thì coi chừng sẽ phải khóc vì con hư đốn mai ngày”. Như trường hợp nóng hổi thời sự tại phiên tòa, khi người cha nghe con mình, một thành viên trong băng cướp “quý tử”, bị kết án chung thân đã nhỏ lệ thốt lên: “Tôi đã thiếu trách nhiệm làm cha”. Cũng là tình phụ tử, nhưng quá muộn màng.
Tình phụ tử cũng cần theo một khuôn khổ nào đó. Nhưng tình phụ tử trong dụ ngôn đã vượt lên tất cả. Không có một lời trách móc, không có một lời răn đe, cũng chẳng có hình phạt để mà nhớ đời. Chỉ có nụ hôn như một minh chứng: Với bản lĩnh của lòng thương xót, người ta vẫn có thể đi xa hơn để yêu con đích thực bằng cách cho ngọt cho ngào.
3. Nụ hôn ấy không dừng lại nơi cá nhân mà còn lây lan đến cả cộng đoàn.
Đây chính là đỉnh cao của trang Tin Mừng. Nó mở ra một nhãn giới mới lạ. Nơi nụ hôn ấy là rạng rỡ lên hình ảnh của một Người Cha: chung cho người con cả và người con thứ, chung hco dân Do Thái và Dân Ngoại, chung cho cả người đã biết Chúa hay chưa biết Chúa. Nếu “cha chung không ai khóc” theo lẽ thường tình, thì ở đây lại khác, Cha chung này không cần đến tiếng khóc của ai, nhưng lại sẵn sàng cúi xuống với bất cứ tiếng khóc sám hối nào để ban tặng nụ hôn ntha thứ nồng nàn xót thương. Người Cha chung ấy yêu thương hết mọi người và chẳng bao giờ bỏ quên những trường hợp tội lỗi đáng thưong và bởi đáng thương nên Ngài cũng thương cho đáng với tấm lòng không vơi cạn của mình.
Qua nụ hôn đầu ngõ, Người Cha ấy biến nỗi buồn sám hối trở thành niềm vui tha thứ. Ngài ban ơn rộng rãi cho những kẻ tìm về với Ngài, rồi nhanh chóng gửi họ về lại gia đình cộng đoàn xã hội trong một nhịp sống mới nồng nàn tình xót thương, để những kẻ được ơn tha thứ hiểu rằng, từ nụ hôn ấy, họ phải minh chứng bằng cả cuộc đời biết phát triển ơn tha thứ và cũng biết dìu đưa những kẻ còn sa chìm về với lẽ xót thương. Đó là niềm vui của lòng thương xót, không dừng lại nhưng triển nở sinh sôi, không khép kín cá nhân nhưng mở ra cho hết mọi người.
Tóm lại, ba lý do: vượt trên lẽ công bình, vượt trên nền giáo dục và vượt trên đời sống cá nhân khiến nụ hôn cha – con là nụ hôn của lòng thương xót. Dẫu có kinh nghiệm về nụ hôn như phần lớn cộng đoàn hay chưa có kinh nghiệm ấy như một số bạn nhỏ, thiết tưởng nụ hôn xót thương của Tin Mừng cũng đọng lại trong ta một thứ nôn nao lạ lạ quen quen.
Khi thấy quen quen, là khi ta đồng hóa mình với người con phung phá tìm về và được tha thứ, trong lời kinh, trong Thánh Lễ, nơi tòa Giải Tội. tất cả đều là những nụ hôn thương xót. Khi thấy là lạ, là khi ta chợt nhận ra vẫn còn lẩn khuất đâu đó trong ta một anh con cả vùng vằng: Chúa đã đối xử với ta bằng tình thương xót còn ta chỉ đối xử với Chúa theo sự công bình, ta không đi hoang lang thang xa đạo, nhưng cách sống của ta biết đâu còn tệ hơn cả chối Chúa công khai.
Và khi thấy chen lẫn quen quen lạ lạ ấy chính là khởi đầu cho một quyết định: bởi tôi đã nhận được ơn tha thứ của Chúa, tới phiên tôi phải sống ơn tha thứ bằng cách bỏ qua lỗi lầm cho anh em; tôi đã nhận lòng xót thương của Chúa, tôi phải phát triển lòng thương xót ấy qua cách sống tốt lành của mình. Hãy quên đi những phần đời không đáng nhớ khi anh em có lỗi với mình, và hãy nhớ lấy những phần đời không thể quên khi mình đã được Thiên Chúa tha thứ xót thương.
Làm được như thế cũng là lúc ta có thể hát lên: “Thành phố ơi, hãy im lặng cho mọi người hôn nhau”
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất tàn phá phẩm chất cao đẹp của con người. Cho dù lũ lụt: TN 24-C106
Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất tàn phá phẩm chất cao đẹp của con người.
Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả nhà cửa ruộng vườn, biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn trôi phẩm giá người ta.
Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều phố xá làng mạc, cướp đi tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể thiêu rụi phẩm giá con người.
Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một vài chi thể của con người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể cướp đi phẩm chất cao đẹp của người ấy.
Không gì từ bên ngoài có thể làm mất phẩm chất, mất giá trị con người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ diệt phẩm giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy: "Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mc 7, 21-23).
Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.
Sau khi đòi chia gia tài và phung phí tài sản của mình với bọn đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát cùng cực và phải xin làm nghề chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do Thái.
Không có hình ảnh nào diễn tả tình trạng xuống cấp và suy đồi phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm hại, chen chúc với đàn heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng ai cho.
Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm cho giá trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.
Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi làm mất giá trị có thể được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.
Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của mình nhờ quay về với Chúa.
Một người giàu có bị phá sản, còn rất lâu mới có cơ may xây dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.
Một người bị mất chức, mất việc... khó lòng kiếm lại được chức, được việc ngon lành như trước.
Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của mình... thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước.
Sau khi người con thứ lâm vào tình trạng đói khát, anh ta hồi tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một người tôi tớ.
Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng rỡ chạy lại ôm lấy đứa con hoang và hôn nó hồi lâu.
Không để cho đứa con hư nói hết lời hối lỗi, ông truyền sai tôi tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn quý vào tay cậu, mang giày sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng...
Thế là từ một con người thân tàn ma dại, một thằng chăn heo hèn hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành chàng công tử thượng lưu với bao nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi hám, cậu được mặc vào người tấm áo đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu được mang giày dép sang trọng, được đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền quý. Thay vì trước đây khao khát được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn heo, cậu được ngồi ăn với cha, với họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không thấy.
* * *
Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Kitô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô: "Phàm ai kết hợp với Đức Kitô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi." (2C 5,17).
Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời Chúa và Hội Thánh vẫn liên tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi ta. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng cấp đời sống mình hay không.
Có ai đó đã nói rằng: "con tim có lý lẽ của con tim". Hành động của con tim không đo lường bằng: TN 24-C107
Có ai đó đã nói rằng: "con tim có lý lẽ của con tim". Hành động của con tim không đo lường bằng toán học, không kiểm chứng bằng khoa học. Hành động của con tim chỉ có thể hiểu được bằng tình yêu. Thế nên, chỉ có những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu được những việc làm xem ra thiếu tính toán của tình yêu. Đó cũng là cách hành xử mà Chúa Giêsu đã nói đến qua dụ ngôn con chiên lạc và đồng tiền đánh mất. Cả hai dụ ngôn đều nói lên một tình yêu vượt lên trên mọi tính toán vụ lợi. Vì không ai dại gì bỏ lại 99 con chiên trong rừng vắng để đi tìm con chiên lạc. Và cũng không có ai dại gì bỏ hàng vạn đồng để chiêu đãi bà con lối xóm khi tìm lại 1 đồng bạc bị đánh mất. Thiên Chúa không tính toán thiệt hơn.Thiên Chúa luôn hành động vì yêu thương. Chính tình yêu đã thúc bách Ngài phải lên đường ngay để tìm con chiên lạc. Chính trong sự nhẫn nại của tình yêu đã làm cho Ngài tràn ngập niềm vui sướng khi tìm được đồng tiền đã mất.
Con chiên và đồng tiền đánh mất tựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại con người chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài của lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương ngàn đời.
Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị vật chất. Ngài không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: "Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được". Chúa đã không chấp tội Đavít mà "lòng nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời".
Vâng, lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn ở trong cuộc đời chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa ví tựa như tấm lòng người mẹ, luôn yêu con bằng trái tim chứ không bằng trí óc. Và cũng chỉ có tình thương trời bể của người mẹ mới cho chúng ta hiểu nổi tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta, nhất là đối với kẻ tội lỗi, người nghèo khó bé mọn. Vì "Có người mẹ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Nhưng cho dù người mẹ có quên con đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ".
Dù có những người mẹ độc ác bỏ con mình, Chúa không bao giờ bỏ chúng ta. Người còn ban ơn chăm sóc chúng ta hằng ngày: "Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối. Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy".
Chúng ta thường nghe hát: "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình". Còn lòng Chúa thương chúng ta thì không gì sánh được. Tình mẹ đã khó mà đền đáp cho đủ, còn tình Chúa thì sao? Liệu rằng chúng ta sẽ làm gì để đền đáp ơn Ngài cho cân xứng?
Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra lòng Chúa xót thương để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh em. Amen.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ba dụ ngôn: - người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. – Người đàn bà: TN 24-C108
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ba dụ ngôn: - người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. – Người đàn bà tìm đồng tiền mất. – Và người cha nhân hậu đón nhận đứa con phung phá trở về. Ba dụ ngôn đó nội dung khác nhau nhưng đều quy về một đề tài là: lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với con người có tội.
Ta có thể nói, toàn bộ Thánh Kinh, Cựu ước cũng như Tân Ước chứng minh rằng: Thiên Chúa hằng đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa nhẫn nại chờ đợi họ quay về và vui mừng đón nhận khi họ quay trở lại.
Trước hết Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội.
Tất cả lịch sử cứu độ, Cựu ước cũng như Tân ước cho ta thấy: Thiên Chúa hằng làm mọi cách để đưa con người tội lỗi trở về, bằng sự ngăm đe, bằng lời hứa hẹn, bằng tiếng kêu gọi, bằng những cử chỉ ưu ái, những phép lạ vĩ đại, những hình phạt nặng nề, những lần xuất hiện uy linh, bằng sai các vị tiên tri khuyến cáo, và sau cùng bằng sai chính Con Ngài xuống trần gian chịu chết trên thập giá để cứu chuộc kẻ có tội.
Trong vườn địa đàng, Thiên Chúa đã đích thân đi tìm con người lẩn trốn và Ngài đã lên tiếng kêu gọi: “Ngươi ở đâu?”. Đây là tiếng gọi đầu tiên trong muôn vàn tiếng gọi. Về sau Thiên Chúa thôi thúc con người, kêu gọi trong oán trách như một người tình bị phụ bạc, kêu gọi trong đau buồn như người mẹ xót thương con. Những lời kêu gọi đó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần qua miệng các tiên tri. Thí dụ, qua tiên tri Ô-zê Chúa phán như sau: “Khi Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương chúng, và từ nước Ai-cập Ta đã gọi con Ta về. Nhưng khi kẻ khác gọi chúng, chúng liền bỏ Ta. Chúng đã đốt lễ vật dâng kính các thần tượng. Dù thế, chính Ta đã tập cho chúng bước đi, Ta đã bồng bế chúng trên cánh tay Ta, nhưng chúng nào biết rằng mình được chăm sóc. Chúng đã từ chối không trở lại cùng Ta. Vì thế, lưỡi gươm sẽ vung lên trong thành của chúng và tiêu diệt đồn luỹ của chúng”.
Lời Thiên Chúa kêu gọi con người tội lỗi ăn năn trở về, lời kêu gọi đó luôn được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước và đã tiếp tục vang lên một cách mạnh mẽ trong Tân ước qua những lời giảng dạy, qua cuộc đời của Đức Giêsu nhất là qua cái chết của Người trên thập giá.
Trong những năm giảng Đạo, Chúa không quản ngại hy sinh thời giờ sức lực và cả danh dự để đi tìm kẻ có tội, gần gũi họ, ngồi ăn đồng bàn với họ, tha thứ và cứu giúp họ, thái độ đó đã làm cho người Biệt phái bất bình, phản đối. Họ gọi Chúa là bạn bè với những người thu thuế và tội lỗi. Nhưng Chúa cương quyết trả lời: không phải những người khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc nhưng là những người đau yếu. Ta đến không để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi người tội lỗi. Con Người đến tìm và cứu vớt những gì đã hư mất.
Không những Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi người có tội trở về mà Ngài còn chờ đợi một cách kiên nhẫn không biết mệt mỏi như người cha hằng ngày ra đứng cửa trông đợi đứa con phung phá trở về. Thánh Augustinô nói: Biết bao kẻ mê ngủ trong tội lỗi nhiều tháng nhiều năm. Họ còn khoe khoang về những tội ác của họ, thế mà Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Thánh nhân tiếp: “Lạy Chúa, chúng con khiêu khích cơn thịnh nộ Chúa, còn Chúa thì lại đưa chúng con tới lòng thương xót của Người”.
Trong cuộc đời, có khi chúng ta thắc mắc vì thấy người nọ người kia quá gian ác mà Thiên Chúa không phạt nó chết đi, để nó làm khổ người khác, làm khổ những người vô tội. Chúng ta thắc mắc như vậy vì không hiểu lòng Thiên Chúa. Cũng như một ông bố trong gia đình có đứa con hư không ai chịu nổi muốn tống cổ nó ra khỏi nhà, thế mà ông bố kia vẫn kiên nhẫn chịu đựng chỉ vì nó là con mình và mình đã sinh ra nó. Thiên Chúa cũng kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội chỉ vì Ngài là Cha nhân lành đã sinh ra nó, đã cứu chuộc nó bằng giá Máu cực trọng Con Ngài, có thế thôi.
Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi nó hối cải, hơn nữa Ngài còn vui mừng đón nhận nó khi trở về. Dụ ngôn người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc và ông bố gia đình đón nhận người con phung phá trở về, cả ba dụ ngôn đó chứng minh như vậy.
Người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, mời chị em bạn bè đến chia vui. Người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc không hắt hủi đánh đập nó vì đã làm cho ông mất bao thì giờ, hao tốn sức lực và liều để 99 con khác ở một nơi. Trái lại,ông vui mừng sung sướng âu yếm vuốt ve nó, ôm nó lên ngực, vác nó trên vai đem về nhà mời chúng bạn đến chia vui với mình. Cũng thế, người bố trong gia đình, khi thấy đứa con phung phá trở về, ông không hề xua đuổi trách mắng vì nó bỏ nhà ra đi, phụ bạc tình cha, phung phí tài sản, ăn chơi truỵ lạc, bôi nhọ danh dự gia đình… không, ông không hề trách mắng, mà trái lại, khi nó ở đàng xa ông đã vội vã chạy ra ôm choàng lấy nó mà hôn thật lâu, ông cũng không cần nghe nó thú tội xin lỗi, ông truyền đầy tớ lấy áo đẹp mặc cho nó, lấy nhẫn đeo vào tay, lấy giầy xỏ vào chân nó. Hỏi rằng ở trần gian có ông bố nào đối xử với đứa con phụ bạc một cách lạ lùng như vậy? Ông bố trong dụ ngôn đón nhận đứa con phung phá chính là Cha trên trời nhận kẻ có tội quay trở về. Thật âu yếm biết bao! Cảm động biết bao! Lạ lùng biết bao! Nếu Đức Giêsu không tỏ ra thì ai có thể tin được?
Sau đây, ta rút ra hai bài học thực hành:
* Trong đời ta dù có sa ngã phạm tội, dù tội ta nhiều và nặng đến đâu cũng cứ vững lòng trông cậy Chúa sẽ khoan hồng tha cho ta như người cha trong Phúc âm tha thứ cho người con phung phá trở về.
* Theo gương người con đó, ta phải thành khẩn và khiêm tốn nhìn nhận tình trạng khốn nạn của ta khi phạm tội lìa xa Chúa. Khi bỏ nhà ra đi, người con đó tưởng mình sẽ được tự do sung sướng, nhưng tự so không thấy, lại phải làm đầy tớ chăn lợn cho người, sung sướng không thấy lại phải đói khổ cùng cực muốn ăn cám lợn cũng chẳng ai cho. Khi phạm tội lìa bỏ Thiên Chúa chúng ta cũng mất địa vị và sự tự do của con cái Thiên Chúa rơi vào ách nô lệ của tà thần. Sung sướng không thấy lại phải nhiều sự khốn khó đời này và nhất là đời sau trong hoả ngục, vì tội là nguyên nhân sinh ra mọi sự dữ. Người con phung phá đã hối hận lên đường trở về. Theo gương người con đó, ta cũng quyết tâm từ bỏ tội lỗi ăn năn hối cải và nói như anh: “Tôi đi về cùng cha tôi”.
Chương 15 của Phúc âm Luca, một chương hoàn toàn nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, có: TN 24-C109
Chương 15 của Phúc âm Luca, một chương hoàn toàn nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, có kể ba dụ ngôn. Dụ ngôn thứ ba tường thuật về một nhân vật mà mà truyền thống gọi là đứa con hoang đàng và coi anh như nhân vật chính của câu truyện. Ngày nay nhiều tác giả cho rằng người cha nhân hậu mới là nhân vật chính. Một nhân vật thứ ba được đề cập tới, và chắc chắn chỉ giữ vai phụ là người anh tuân phục. Khi kể câu chuyện dụ ngôn lừng danh này, ý của Đức Giêsu về các nhân vật rất rõ ràng: Người cha là Thiên Chúa nhân hậu và thứ tha, người con hoang đàng phải là những kẻ tội lỗi tiếp nhận Tin Mừng, còn người con cả để chỉ những người Do Thái, đặc biệt các Pharisêu, đang xầm xì phản đối.
Xét theo diện luân lý thông thường thì người anh tuân phục mới là diện mạo đáng được đề cao hơn cả. Là con trưởng trong nhà, không khi nào dám làm trái lệnh cha, hầu hạ cha trong mọi sự, không có gì đáng trách… anh đáng được thừa hưởng phần lớn gia tài của cha. Trước mặt mọi người xung quanh, anh thật đáng nể phục và kính trọng, đáng nêu gương cho mọi người. Ai có thể đòi hỏi nơi anh điều gì hơn nữa?
Còn cậu em thì ngược lại, cậu thật đáng cho mọi người khinh khi. Bất tuân lệnh cha và làm phật lòng người, chơi bời trác táng, sống mất nhân phẩm… cậu thật không đáng hưởng bất cứ phần gia tài nào của cha. Như thế cậu em này chẳng có gì đáng được đề cao để nêu gương cho hậu thế soi chung. Nói trắng ra anh chàng này chẳng có giá trị gì hết!
Thế nhưng khi kể câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu cho thấy có một yếu tố mới làm đảo lộn tất cả; yếu tố đó là điểm độc đáo đặc trưng nhất của Tin Mừng, đó là cảm nhận và sống trong lòng nhân ái của Cha. Cho dầu có hội đủ tất cả mọi điều được coi là tốt lành nhất, ông anh vẫn còn thiếu một điều gì đó để biến cuộc sống đúng khuôn phép trong gia đình của anh trở nên hạnh phúc. Còn cậu em, thì dầu đã đánh mất tất cả mọi điều được luân thường đạo lý cho là cao đẹp, nhưng may mắn đã khám phá ra được điều sẽ thực sự làm cho mối tương quan giữa anh với cha già từ đây trở nên sâu đậm, đó là nhận ra lòng nhân ái của cha. Đức Giêsu hình như muốn gói ghém trong câu chuyện này một điều gì quan trọng lắm mà Người gọi là Tin Mừng, là rượu mới. Nếu ông anh là hình ảnh của nhóm Do Thái Pharisêu trung thành thuộc Cựu Uớc thì chính cậu em mới là hiện thân của Kitô hữu Tân ước qua mọi thời.
Nhận ra điều này tôi mới thấy sững sờ. Hình như chính tôi và nhiều Kitô hữu đã dành quá nhiều thời giờ và sức lực để xây dựng cho mình, và cho những người mình được trao phó, hình ảnh một ông anh hơn là cậu em. Chúng ta đã chẳng dành quan tâm hàng đầu nhấn mạnh phải sống trung thành với luật Chúa, phải tuân phục cặn kẽ mọi qui tắc luân lý đạo đức… để vào Nước Thiên Chúa hay được lên thiên đàng… hơn là nhận biết và cảm tạ lòng nhân ái cứu độ của Cha trên trời hay sao? Chúng ta đã chẳng từng mong đợi được Chúa thưởng công cho sự công chính đạo đức của mình hơn là phó thác trọn vẹn cho lòng từ bi nhân ái của Người là gì? Thậm chí đôi lúc có người trong chúng ta còn cảm thấy ganh tị khi nghĩ rằng các cậu em tội lỗi kia sẽ được Cha nhân ái đối xử ngang bằng với mình hay hơn cả mình trên thiên quốc. Một người đã trọn đời dâng hiến và phục vụ trong tư cách là linh mục, tu sĩ, hay giáo dân lành thánh – lẽ ra phải được Thiên Chúa ưu đãi thưởng công xứng đáng hơn trên thiên đàng mới phải chứ!
Thế đấy, chúng ta, vì chưa xác định được điều gì là độc đáo đặc trưng nhất của một Kitô hữu (và hơn nữa của linh mục, tu sĩ) nên có thể đã đặt cuộc sống mình sai trọng tâm chăng? Chính tôi vẫn thường nhắc nhở cho giáo dân: phải trung thành giữ các lề luật Chúa và Hội Thánh… và dựa vào tiêu chuẩn đó mà đánh giá giáo dân mình là tốt hay xấu. Vô hình chung tôi đang biến mình thành con người của Cựu Ước hơn là Tân Ước chăng, có khác chi chỉ là thay tên gọi Gia-vê thành Thiên Chúa? Câu chuyện dụ ngôn, và nhất là khi so sánh vai diễn của ông anh và cậu em, cho tôi thấy hiện rõ một chân lý mà từ lâu mình đã lãng quên: hãy sống triệt để Tin Mừng Tân Ước hơn qua việc đón nhận tình yêu tha thứ của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi thập giá Đức Kitô, hơn là chỉ chăm chú vun quén một đời sống tốt lành đạo đức theo kiểu Cựu Ước. Hãy thâm tín sâu hơn nữa câu khảng định của Đức Giêsu: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13). Giữ luật là quan trọng, nhưng nhận biết và sống lòng thương xót từ nhân của Thiên Chúa còn quan trọng hơn rất nhiều. Tóm lại hãy trở thành cậu em hơn là chỉ cố sống như ông anh. Đừng dừng lại mãi trong Cựu Ước một hãy thẳng tiến ngày càng sâu hơn vào Tân Ước của Tin Mừng.
Lạy Chúa, xin không chỉ hoán cải con trong một vài chi tiết tốt xấu luân lý của cuộc sống. Xin cho con được lột xác tận căn và chuyển bước dứt khoát từ Cựu Ước qua Tân Ước. Xin cho con, nếu đang được sống trong nhà như ông anh, thì cũng có được tâm tình và cảm nghiệm sâu xa của cậu em khi đi bụi trở về. Xin cho con biết ngước nhìn lên Thập giá Chúa Kitô để nhận ra Thiên Chúa không phải là người cha nghiêm nghị bắt phải tuân phục, nhưng trên hết là người cha đầy lòng nhân ái thứ tha. Xin cho con ơn trọng đại này để được sống hạnh phúc trong nhà Cha muôn đời. Amen.
Khi con người sai lầm, con người phạm tội, con người “chạy trốn” chính mình! Khi ấy, con người: TN 24-C110
Khi con người sai lầm, con người phạm tội, con người “chạy trốn” chính mình! Khi ấy, con người không muốn nghe tiếng nói lương tâm, tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình.
Nhiều kẻ lún sâu vào sai lầm, vào tội ác, nhưng vẫn sống an nhiên như người thánh thiện. Họ đã rời xa con người thật của họ. họ sống trong lớp vỏ bình an giả tạo. Với loại người này, họ không còn con đường về nẻo thiện lương. Họ đánh mất chính mình. Họ đánh mất nhân tính. Có những vụ án giết người, mà kẻ tội phạm kể lại tội ác mình làm khi đứng trước vành móng ngựa thật bình thản đến lạ lùng!
“Sai lầm là thường tình của con người”. Để “nhận ra mình sai lầm”, cần phải khiêm nhường.
Không khiêm nhường không thể thấy mình sai. Không thấy mình sai thì cứ cho mình đúng. Cứ cho mình đúng là kiêu ngạo. Mà kiêu ngạo thì đối nghịch lại khiêm nhường… cái vòng lẫn quẫn ấy cản trở con người bước vào con đường nội tâm. Không đi vào nội tâm, không thể tìm về chính mình được.
Đi vào nội tâm là lúc con người hồi tâm lại, và nhìn đoạn đường mình đã đi qua. Để xem mình đang đi về đâu. Có hồi tâm mới có hối hận. Không giọt nước mắt ăn năn sám hối nào rơi xuống mà con người không nhìn sâu vào tận đáy lòng mình. Đó chính là lúc tìm về chính mình thật sự.
TÌM VỀ GIA ĐÌNH
“Không ai là một hòn đảo”. Ngay cả những người đã “phủi bụi trần” để khép mình vào “bốn bức tường” tu viện, vẫn cần có tình người. Tìm về gia đình - hay đại gia đình - là mở rộng tấm lòng để sống có trách nhiệm với cha mẹ, anh em, người thân, tha nhân, đoàn thể, cộng đồng…
Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, đứa con hoang đàng đã tìm về không phải vì nhớ thương cha mẹ hay anh em trong nhà, mà vì cái bụng đói, vì cuộc sống quá gian nan, nhục nhã. Lý do tìm về chỉ nhắm tới lợi ích riêng mình, còn rất ích kỷ. Khi ra đi với lý do ích kỷ, tìm về cũng với lý do ích kỷ. Động lực sám hối chưa sâu xa. Chính vì lý do đó mà người anh trong câu chuyện đã không thể chấp nhận được. “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay tìm về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15,30)
Nhưng, cũng chính vì lý do non nớt, trẻ con đó, mà tình cha càng nổi bật, càng lớn lao. Bất kể là vì lý do gì, miễn là đứa con biết ăn năn sám hối, biết tìm về gia đình. Người cha không nói rằng đứa con trai lớn đã nghĩ sai, nhưng chỉ nói lên lý do đứa con lầm lỗi cần được thương xót. Nó đang cần tình thương. Và dù cho thế nào, nó vẫn là đứa con mà ông hết mực thương yêu. Và tình yêu đó không có sức mạnh nào lay chuyển. Và người cha muốn đứa con trai lớn mình phải hiểu và chấp nhận em mình với tấm lòng bao dung cao cả như vậy. “Yêu thương em mình như tình cha”. Điều này, chúng ta gặp thấy nơi giới luật yêu thương của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con”.
Và đó, chính là ý nghĩa của việc tìm về gia đình. Không có nơi nào con người nương tựa vững chắc như mái ấm gia đình. Trong sự bảo vệ, đùm bọc của tình cha nghĩa mẹ. Đó còn là hình ảnh của “gia đình Chúa Giêsu”, của “đại gia đình nhân loại”. Tình thương anh em phải được nâng cao lên, hơn tầm nhìn của người anh trong câu chuyện Tin Mừng này. Vì đó là Đại Gia Đình Thiên Chúa. “Một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha”.
TÌM VỀ BÊN CHÚA
Trong cuộc đời, có những cuộc tìm về bị chối từ, nhưng với Thiên Chúa thì không, vòng tay của Ngài luôn rộng mở.
Điều Ngài muốn duy nhất, là con người biết ăn năn, sám hối. Sự sám hối có khi còn rất nông cạn, còn rất đời thường, còn rất vật chất, còn vì cái lợi trước mắt. Nhưng căn bản là nhận ra rằng Chúa chính là nơi con người nương tựa thật sự. Không tìm về nơi đâu khác, mà tìm về chính Thiên Chúa. Và tin tưởng rằng Chúa vẫn hằng yêu thương tha thứ.
Sự tìm về của Giuđa Ít-ca-ri-ốt là sự tìm về dang dở.
Giuđa biết “tìm về chính mình”. Anh ta đã “nhìn lại mình” và đau khổ. Anh có sám hối. Đó là một khởi đầu rất tốt. Giuđa thật can đảm. Sự tìm về với chính mình của Giuđa thật tuyệt vời. Nhưng thật đáng tiếc, những bước tiếp theo lại thất bại. Thật tội nghiệp cho Giuđa, anh đã không đến được với Chúa vì anh không hình dung được tình yêu Chúa bao la đến mức có thể tha thứ tội tày trời của anh!
Có người bảo rằng thật tiếc là kết thúc cuộc đời của Giuđa “không có hậu”. Nếu Giuđa tin vững vào Tình Yêu của Chúa, không ngã lòng trông cậy, phần kết luận sẽ khác! Thí dụ như Giuđa không tự tử, Giuđa khóc lóc hối hận một đời như thánh Phêrô. Rồi Giuđa sau này rao giảng về Chúa phục sinh, lời lẽ của Giuđa sẽ mạnh mẽ: “Tôi đã từng bán Chúa! Tôi đã chen vào đám đông và đứng chứng kiến người ta đóng đinh Chúa trên Thập Giá. Trong khoảnh khắc tình cờ từ trên Thập Giá Chúa đã nhìn thấy tôi. Đôi mắt Ngài nhân từ, đượm buồn nhưng rất âu yếm…”. Và cuối cùng, Giuđa đã bị treo cổ vì đã rao giảng về Giêsu đã chết và đã Phục Sinh, chứ không phải tự treo cổ vì tuyệt vọng! Kết thúc được như vậy cuộc đời Giuđa thật đẹp biết bao!
Có thể sự hối hận của Giuđa quá muộn màng. Cách sống của Giuđa quá biệt lập trong “gia đình các môn đệ”. Khi Giuđa biết “tìm về chính mình” và sám hối ăn năn, Giuđa lại cảm thấy lẻ loi, mang nặng mặc cảm tội lỗi với Chúa và với anh em. “Một trong các môn đệ của Chúa Giêsu là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: ‘Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga.12.4-6). Bước tiếp theo “tìm về gia đình”, hòa nhập vào “cộng đoàn môn đệ” là không thể được. Giuđa không thể nào chịu nổi sự lạc lỏng, cô đơn, có khi là “búa rìu” của “dư luận” ngay trong “gia đình môn đệ”, không còn con đường tìm về bên Chúa được nữa, Giuđa đã chọn con đường tự tử. Giuđa không đủ niềm tin để chỗi dậy.
Hãy thử tưởng tượng đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay đã “không dám” về gặp thẳng cha mình, mà về gặp anh mình để “thăm dò” xem cha mình có thể “nhận” mình không, thì người anh sẽ phản ứng ra sao? Dựa vào phần kết câu chuyện, chắc chúng ta cũng có thể suy ra những câu nói của người anh đối với em mình thế nào! Những câu nói có thể đại loại như: - “mầy còn vác mặt mày về đây hả?” – “Mày định về đây chia cái gì nữa đây?” – “ Mày làm tán gia bại sản chưa hài lòng chắc?” – “Ông già thất vọng về mày”… Và đứa con trai hoang đàng sẽ rút lui. Sự tìm về của nó thất bại. Nó sẽ lại bước vào dòng đời gió bụi. Nó sẽ chết ở xó kẹt nào đó, mang theo nỗi lòng đau khổ sám hối ăn năn mà không còn cơ hội nhận ra được người cha đang yêu thương chờ đợi nó.
Có rất nhiều vật cản trên “bước đường tìm về”. Có rất nhiều sương mù làm nhạt nhòa hình ảnh Thiên Chúa là Người Cha Nhân Hậu. Không phải chỉ ngày xưa, thời Pharisêu, Biệt Phái, mà trong cả thời nay, có khi ngay cả trong lòng Giáo Hội.
Chuyến tìm về của đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay thành công, vì anh đã can đảm đến với cha mình. Anh trực tiếp thấy được dung nhan hiền từ của cha mình ngoài sức tưởng tượng của anh. Không có cánh tay trừng phạt giáng xuống anh, chỉ có vòng tay êm ái ôm chằm lấy anh. Không có những lời hạch tội quát mắng, chỉ có những lời ra lệnh mở tiệc ăn mừng. Không có những lời lên án, chỉ có những lời bênh vực. Không có bờ môi đay nghiến, chỉ có những nụ hôn. Không có chỗ ở để nhận thêm một đầy tớ, chỉ có chỗ ở dành cho đứa con bao năm chờ đợi trở về. Anh trực tiếp cảm nghiệm được lòng yêu thương của cha anh trổi vượt hơn vạn lần anh suy đoán. Anh nhận được ân huệ của cha anh lớn lao vạn lần hơn những gì anh van xin.
Sự vui mừng của cha anh cho anh lòng tự trọng. Cho anh vững bước tiến lên để xứng đáng với tình cha. Cha anh tin tưởng anh làm lại cuộc đời mới. “Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc.15,32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới trả lời được vì sao “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Người”, và vì sao Người lại “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với họ”. Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." (Lc.15,1-32).
Chỉ có Chúa Giêsu mới diễn tả đúng mức thế nào là Thiên Chúa là Cha Nhân Từ. và thế nào là Tình Yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại khi vòng tay của Người dang rộng trên Thập Giá. “Ông Philípphê nói: ‘Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện’. Đức Giêsu trả lời: ‘Thấy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” (Ga.14,8-9).
Lạy Chúa, Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng, lạy Chúa, xin đừng! nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương. (Tv.115,1). Amen.
Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em : TN 24-C111
Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
1.- Ngữ cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của Tin Mừng Luca (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn đám đông về những điều kiện để làm môn đệ Ngươi (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Ngươi khi Ngươi tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là “trái tim của Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là “Dụ ngôn đứa con hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người con hư mất”, nhưng nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Một dẫn nhập (15,1-3);
2) Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (15,4-32):
a) Dụ ngôn Con chiên bị lạc mất và được tìm thấy (cc. 4-7); b) Dụ ngôn Đồng bạc bị đánh mất và được tìm thấy (cc. 8-10); c) Dụ ngôn Người con hư mất và được tìm thấy (cc. 11-32).
3.- Vài điểm chú giải
- Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi (1): Đây là những người ở bên lề xã hội Do Thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”, nhưng mục đích là cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
- lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này ở 19,7, thì vị hồn (imperfect) cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của người Pharisêu và các kinh sư. - ông này (2): Đại từ chỉ định houtos có nghĩa xấu: “tên này”.
- Người nào trong các ông có một trăm con chiên (4): Đây là một mục tử vô danh, được dùng như biểu tượng của Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót (xem Cựu Ước: Tv 23,1-3; Ed 34,11-16).
- hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn (7): Nếu chín mươi chín người này là các kinh sư và người Pharisêu, thì câu kết này có giọng mỉa mai. Nhưng rất có thể đây chỉ là cách tác giả Lc phóng đại niềm vui của Thiên Chúa khi có một người tội lỗi hối cải.
- mười đồng bạc (10): Đồng drachmê là đồng bạc cổ. Chúng ta khó biết giá trị chính xác của đồng bạc này. Có một thời người ta có thể dùng một đồng drachmê mà mua được một con chiên, hoặc được nhận như lương làm việc một ngày. Vào thời hoàng đế Nêrôn, đồng denarius được dùng đểthay thế đồng drachmê và coi như tương đương.
- Một người kia có hai con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ Paléttina.
- phần tài sản con được hưởng (12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi ông qua đời (Ds 36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống (HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng “hai phần sản nghiệp”, nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế, người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
- sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs có nghĩa là “một cách không lành mạnh”. Chúng ta không biết là “không lành mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là “nuốt hết của cải với bọn điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
- chăn heo (15): Theo Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là loài nhai lại, nên bị coi là “ô uế” đối với người Do Thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.
- nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.
- chạy ra (20): Chi tiết này diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ đi.
- và hôn lấy hôn để (20): Không phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
- Thưa cha … con (21): Người con lặp lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
- áo đẹp nhất (22): dịch sát là “chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người con như anh ta yêu cầu (“như người làm công”), nhưng như một người khách được tôn kính.
- xỏ nhẫn… xỏ dép (22): Nhẫn là dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự do.
- đã mất mà nay lại tìm thấy (24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.
- con hầu hạ cha (29): Người con cả dùng động từ douleuein, “phục vụ”, “hầu hạ”, hàm ý là anh ta không chỉ tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos): “hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.
- chẳng khi nào trái lệnh (29): Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ hơn là tật xấu! - một con dê con (29): Chi tiết này cho thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.
- thằng con của cha đó (30): Người con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con thứ như là “em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với nghĩa xấu.
- lúc nào con cũng ở với cha (31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ mất).
- tất cả những gì của cha đều là của con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người con cả, sau khi cha chết.
- em con (32): Câu trả lời của người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người; những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không. Cách xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư phải lẩm bẩm trách móc. Họ trách Đức Giêsu hai điểm: đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Các kinh sư thường nói: “”Chớ có một ai đi giao du với những kẻ xấu xa, cho dù là thử thuyết phục họ đi theo luật của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi không được thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng phải làm như thế. Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống với họ, tức là làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao, chia sẻ tình bạn, tình liên đới với người ấy.
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người tội lỗi. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên Chúa đã thực hiện “sự hoán cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an bình với Ngài.
* Ba Dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa (4-32)
Từ dụ ngôn đầu đến dụ ngôn thứ ba của chương 15, tác giả cho thấy có một sự tiệm tiến: một con chiên trong số một trăm, một đồng bạc trong số mười đồng, rồi một đứa con trong số hai người. Bản văn càng đi tới càng cho thấy rằng điều đã mất nay lại tìm thấy càng lúc càng trở nên quí báu hơn.
Người mục tử, người phụ nữ và người cha đều vô danh, bởi vì cả ba được đề ra như một biểu tượng của Thiên Chúa yêu thương.
Một con chiên có giá trị của nó. Không phải vì còn chín mươi chín con kia, mà con chiên bị lạc không đáng kể. Người mục tử sẽ kiên nhẫn đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó. Chín đồng bạc còn lại vẫn không miễn cho người phụ nữ khỏi tha thiết đi tìm đồng đã mất. Một người con thì còn đáng giá hơn muôn vàn con chiên hoặc đồng bạc. Các kinh sư dạy rằng Thiên Chúa vui mừng khi người công chính sống lại, và kẻ gian ác phải tiêu vong. Đứcd Giêsu lại nói rằng Thiên Chúa vui mừng khi kẻ gian ác được sống lại, “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (c. 7). Ở đây không phải là một lời kêu gọi hãy phạm tội, nhưng là một lời mời gọi hãy nhìn nhận rằng tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi trước mắt Thiên Chúa. Không có một ai là “công chính” cả. Vị thần linh ban thưởng tùy theo các công trạng chỉ hiện hữu trong tâm trí người Pharisêu (xưa và nay). Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu là một vì Thiên Chúa ban tặng nhưng-không ơn cứu độ cho tất cả chúng ta mặc dù chúng ta không đáng nhận.
Giờ đây chúng ta suy niệm về truyện người con thứ và người con cả. Thật ra, cả hai người con được nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.
a) Người con thứ:
Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài “diễn từ cảm đông” để mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.
b) Người con cả:
Lúc người con thứ trở về, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức Giêsu.
Trước tiên người con cả nói về chính mình: “Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: “phục vụ” Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều răn nào.
Sau đó, người con cả nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là “em con”, nhưng nói là “thằng con của cha đó”. Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến “tên thu thuế kia” với giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa? c) Người cha:
Người cha trông mong người con thứ từng ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: “vì em con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại không vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ biết được phản ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã mất.
+ Kết luận
Nếu đọc cả ba dụ ngôn, chúng ta sẽ thấy hai dụ ngôn đầu kết “có hậu”, còn dụ ngôn thứ ba có kết mở: Người con cả có vào nhà theo lời cha mời chăng? Như thế, hai kết luận tốt đẹp đầu nhằm đưa tới chúng ta một câu hỏi: Chúng ta có hết lòng chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa mà đón người tội lỗi hối cải vào Nước Thiên Chúa không? Trong thực tế, chúng ta vẫn được Thiên Chúa vui lòng đón tiếp, chúng ta cũng hãy sẵn lòng đón lấy người anh em trở về.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mỗi con người đều có giá trị vô song trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã tạo nên từng con người với tất cả những phong phú làm nên nhân vị con người ấy. Ngài hỗ trợ cho con người ấy phát triển đến mức tối đa, để cuộc đời người ấy thành một tuyệt tác cho Ngài và cho loài người. Khi chúng ta phục vụ anh chị em, chúng ta phục vụ từng con người có giá trị độc đáo duy nhất, hay là chúng ta chỉ coi như là những con số, những “con chiên” không tên tuổi, theo nhau lầm lũi trước mặt chúng ta?
2. Thiên Chúa thương tất cả mọi người và muốn cho mọi người đều được cứu độ. Nhưng “tất cả” không có nghĩa là một khối người tương đối đông, mà là “từng người”. “Tất cả” là “từng người” trong thế giới, không bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố đến từng con người y như chỉ có một mình người ấy trên đời.
3. Chúng ta có thể thấy mình như người con thứ: không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy đúng phần mình; chúng ta cũng còn biết nói “thưa cha!”, nhưng không hề vui thích được ở với cha, mà chỉ muốn ra đi “ăn chơi” cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp khó khăn, thì chỉ dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán. Người con thứ không biết nghĩ rằng xin làm một “người làm công”, thì sỉ nhục cha quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong đón mình về để làm “con”. Nay được cha đón vào nhà rồi, anh có biết đáp lại tình cha không? Phần này, chính chúng ta sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
4. Chúng ta cũng có thể thấy mình như người con cả, không bao giờ trái lệnh cha, nhưng cũng chẳng thích ở với cha; trái lại chỉ tính toán, mong có ngay “thoát ly” để đi vui chơi với bạn bè. Đã thế, chúng ta lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những kẻ bị coi là “tội lỗi”. Nay đã được cha ra gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để chung vui không? Phần này, chính chúng ta cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
5. Vì không hiểu tình yêu của cha, cả hai người con, đặc biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo sự hiểu biết đó: anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta không thể phục vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia tình yêu của Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
Nhà thơ Allan Peterson kể câu chuyện: “Tôi đọc câu chuyện một bé trai ngày nào cũng đi học về TN 24-C112 Ephata
Nhà thơ Allan Peterson kể câu chuyện: “Tôi đọc câu chuyện một bé trai ngày nào cũng đi học về trễ. Một ngày nọ, cha mẹ em cảnh cáo, em phải đi học về đúng giờ. Vậy mà ngày hôm đó em lại về trễ hơn mọi hôm. Mẹ em đứng đợi ngoài cửa và không nói gì. Tối hôm đó, em nhìn vào đĩa cơm của mình. Chỉ có một lát bánh mì và một ly nước. Em nhìn qua đĩa cơm của bố, một đĩa đầy đồ ăn, rồi em nhìn bố, bố em im lặng. Em quá buồn.
Người cha chờ em nhận ra trong chính sâu thẳm lòng mình, hệ quả nào cho lỗi của mình, rồi ông lẳng lặng lấy đĩa cơm của em để trước mặt ông, còn đĩa cơm đầy đồ ăn của ông để trước mặt em và cười với em. Đứa bé lớn lên để trở thành một người đàn ông. Ngày hôm nay, ông nói: “Suốt đời tôi, tôi hiểu thế nào là Chúa qua những gì cha tôi làm tối hôm đó.”
Cũng vậy, vì tội bất tuân của chúng ta lặp đi lặp lại, Chúa Giêsu trả giá bằng từ bỏ vinh quang của mình, Ngài đem cho chúng ta bằng cách mang lấy sự khốn cùng và tội lỗi của chúng ta. ( Marta An Nguyễn dịch, “Điều kỳ diệu qua tình yêu của Chúa !” ).
Lòng Thương Xót quảng đại
Các con số trong ba dụ ngôn giảm dần rất ý nghĩa, từ số 100, đến 10, cuối cùng chỉ còn số 1. Chủ chăn bỏ lại 99 con chiên đi tìm 1 con chiên lạc đàn, người phụ nữ để lại 9 đồng bạc, đi tìm 1 đồng mất, người cha nhân hậu trông ngóng 1 đứa con đi hoang trở về. Thiên Chúa chẳng hề bỏ mất một ai. Ngài không loá mắt trước số lượng ấn tượng, mà bỏ quên đơn vị nhỏ bé, tầm thường.
“Cha của anh em, Đấng ngự trên Trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" ( Mt 18, 14 ). Mỗi cá nhân, mỗi phận người đều được Đức Giêsu tận tình quan tâm, chăm sóc và cứu giúp, vì Đức Chúa Cha đã trao phó cho Người. Hơn nữa, Người còn ra sức chiến đấu, bảo vệ từng người thoát khỏi vòng kiểm toả của sự dữ: “Cha tôi, Ðấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.” ( Ga 10, 29 ).
Lòng Thương Xót tìm kiếm
Người không dửng dưng, hờ hững, thụ động, ngồi chờ những thân phận yếu đuối, lạc đường, lấm lem tội lỗi, đầy mặc cảm tự ti, muốn trở về với Chúa. Nhưng Người tích cực hy sinh, vất vả, lặn lội, tìm kiếm. "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao ?” Vượt qua gian lao, hiểm nguy, gai góc, sói dữ, Người chẳng nề hà tìm cho bằng được. Người cũng cần kiệm như bà cụ nghèo chắt chiu từng đồng bạc: "Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao ?”
Đó chính là sứ vụ Cứu Thế cao cả của Người đến thế gian: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất” ( Lc 19, 10 ). Người ân cần tìm kiếm những người tự cảm nhận, khiêm tốn thấy mình hèn mọn, bệnh tật, yếu đuối, tội lỗi, chứ Người không đến với những kẻ kiêu căng, tự phụ, cao ngạo. Bởi chưng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" ( Lc 5, 31-32 ).
Lòng Thương Xót tha thứ
Chiều nào, Người Cha Nhân Từ cũng lóng ngóng ra đầu ngõ, mòn mỏi đợi chờ đứa con đi hoang trở về. “Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu.” Người đã hoàn toàn tha thứ, khi vừa nhác thấy bóng dáng tiều tuỵ, thất thểu của chàng trai.
Thiệt khó tin, vì xem ra Người Cha kém trí nhớ, chẳng hề nghĩ đến những tội tày trời của đứa con hoang đàng. “Chúng ta thấy ở đây trí nhớ của Chúa Giêsu dường như không còn làm việc nữa ! Ngài quên vô điều kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay không tốt của ta, mỗi khi chúng ta quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên khi ta quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự sống của Thiên Chúa.” ( Tgm. FX. Nguyễn Văn Thuận, 10 Khuyết điểm của Chúa Giêsu ).
Hân hoan trùng phùng
Cả ba dụ ngôn đều kết thúc có hậu. Nhờ Lòng Thương Xót, con chiên lạc lối được tìm thấy, đồng bạc nhân phẩm được tái hiện, nhất là người con hoang đàng trở về với Người Cha Nhân Từ. “Cả thiên đàng vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn” ( Lc 15, 7 ). Làm sao diễn tả cho đủ niềm hân hoan trùng phùng, giữa Người Cha và đứa con sám hối trở về nhà Cha.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã dạy chúng con phải thương xót như Cha trên trời, và cho chúng con biết: Ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha. Xin tỏ cho chúng con thấy nhan thánh Chúa và chúng con sẽ được cứu thoát… ( Kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót ).
Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu cho chúng con mãi cảm nhận sâu sắc Lòng Thương Xót vô bến bờ của Thiên Chúa, để sau những lầm lỡ, vấp phạm, chúng con có thể tỉnh ngộ, sám hối trở về Nhà Cha Nhân Từ. Amen. AM. TRẦN BÌNH AN
Có người nói rằng, xếp quyển Thánh Kinh lại, chỉ để lại trang Luca chương 15 mà hôm nay chúng: TN 24-C113
Có người nói rằng, xếp quyển Thánh Kinh lại, chỉ để lại trang Luca chương 15 mà hôm nay chúng ta được nghe.
Chương 15 của Luca là một trong những chương sách đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước. Cả chương sách bừng lên niềm vui chan chứa, niềm vui của tình yêu mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm được. Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối cảnh đó làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân và là lời cảnh giác cho những kẻ tự hào mình là người công chính.
Trang Tin Mừng Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Với sự quyến định trở về của mình, người con này được đề cao hơn cả cuộc đời hoang đàng của anh ta. Ngày nay, người ta lại chuyển hướng và nhìn vào hình ảnh từ bi đại hải của người cha. Nhìn như thế để như là trách khứ tấm lòng không bao dung, không nhân hậu và miệt thị của người anh cả.
Dẫu sao đi nữa, dụ ngôn ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Nét độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca về Chúa Giêsu đó là lòng thương xót. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới là người đến máng cỏ đầu tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa nói những điều tốt lành về người Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương 15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên cường của các bà trong những giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
Tin Mừng Luca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Dụ ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô tả Thiên Chúa như người mục tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc, và niềm vui tràn bờ khi Ngài tìm lại được con chiên lạc, đến nỗi vác nó lên vai đem về, và mời mọi người đến chung vui vì đã tìm lại được con chiên bị mất. Trong mắt của Chúa, mỗi một con người, bất kể yếu đuối và tội lỗi đến đâu, đều là một nhân vị độc đáo và không thể thay thế. Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu đi tìm khi nó lạc bầy. Chính vì thế, không ai có quyền thất vọng về tình thương của Chúa vì tình thương ấy dứt khoát lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Điều duy nhất cần thiết là sám hối ăn năn, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của mình.
Trong chùm dụ ngôn về lòng thương xót, dụ ngôn “Người con hoang đàng” vẫn là dụ ngôn nổi tiếng nhất, cả về văn chương lẫn nội dung (15,11-32). Không phải vô lý mà có tác giả đã đề nghị đặt tên cho dụ ngôn này là “Người cha phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”. Bởi lẽ trọng tâm của dụ ngôn không phải là sự phung phí của cải vật chất của đứa con thứ, mà chính là lòng thương xót của người cha dành cho cả hai đứa con, lòng thương xót vô bờ đến độ không thể hiểu nổi… cho nên được gọi là ‘phung phí’ tình yêu.
Con đầu lòng được hưởng gấp đôi phần gia sản theo luật lệ của người Do thái (Đnl 21,17). Và bởi thế, người con út trong dụ ngôn được chia một phần ba sản nghiệp. Việc phân chia tài sản phải đợi đến khi người cha qua đời theo lẽ thường của sự đời . Nếu như việc chia gia tài tiến hành trước thời gian thì có những khoản về hình phạt đi theo đó. Tuy nhiên điều quan trọng của luật ở khía cạnh tinh thần chứ không nằm ở khía cạnh lề luật. Người con út đã đoạn tuyệt với gia đình, không thương tiếc cha mình, anh mình sau khi có tài sản trong tay. Bất chấp tất cả, anh ta đòi hỏi chia gia tài rồi bỏ nhà đi,. Với quyết định như thế, anh ta đem mọi sự theo mình và không có hi vọng gì sẽ trở lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn đối với gia đình, cách riêng với người cha.
Phải chăn heo, đó là kết cục bi tham cho cuộc sống phóng đãng và phung phí dẫn người con út. Chăn heo, với người Do thái, gợi lên ý tưởng ô uế, “lạc đạo” và như thế, người con út đã đánh mất tư cách là thành viên trong gia đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn, người con út thậm chí còn tệ hơn cả heo, vì “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho”.
Người con út hồi tâm khi đối diện với nỗi cơ cực đến tột cùng. Được trở về nhà trong tư cách kẻ làm thuê, đó là ước muốn của anh ta. Để cuộc trở về được thành công theo ước muốn, anh chuẩn bị kỹ lưỡng những gì phải thưa thốt với cha mình, và lường trước sẽ bị mọi người tiếp nhận bằng cái nhìn soi mói và nghi ngờ. Chuyện đặc biệt là dù thế nào đi chăng nữa nhưng cha anh vẫn thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi thấy con ở đàng xa, “ông chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (câu 20) đến độ người con không kịp nói hết bài diễn văn đã soạn sẵn! Cuộc đoàn tụ này rất giống với cuộc đoàn tụ của Esau và Giacóp (St 33,4). Giacóp nhớ đến tội ác mình đã phạm chống lại anh, nhưng giống như người cha trong dụ ngôn này, Esau chỉ nghĩ đến hoà giải. Người cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc mọi sự cho đứa con của mình, nào là áo, nào là nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn nhận đây là đứa con của chủ nhà chứ không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội, không có chuyện tra khảo, cũng không có chuyện bàn bạc xem thằng con hư hỏng này có xứng đáng được tha tội không… chỉ có điều quan trọng duy nhất là: “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Câu chuyện đẹp tưởng chừng đã hạ màn với cảnh đẹp tuyệt vời như thế, không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Người con cả đã nổi đóa lên. Anh đã cố gắng, đã tự nhủ rằng anh đã cố gắng sống công chính đến thế: “Đã bao năm con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29), thế mà “chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để ăn mừng với chúng bạn”. Và nhân danh sự công chính đó, anh khước từ việc chia sẻ niềm vui với gia đình khi “thằng con của cha” (chứ không phải đứa em của tôi) trở về. Lại một lần nữa, tình yêu và lòng thương xót của người cha bừng sáng và xua tan mọi hận thù ghen ghét. Ông đã bước ra đón đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra đón người con cả, vì ông mong muốn cả hai đứa con đều được hạnh phúc. Anh con cả chỉ nhìn thấy gia tài và nỗ lực làm việc của bản thân anh. Người cha không từ chối điều đó, nhưng những điều đó đều không quan trọng bằng điều này là: một đứa con và một người anh em đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Vì thế, mọi chuyện khác đều phải dẹp sang một bên để “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần nữa, tâm trí ta nhớ đến câu chuyện Giacóp. Giống như Esau, đến giai đoạn cuối đời, Giacóp khám phá ý nghĩa và tầm quan trọng của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống, ông quên hết những tội ác mà chính những anh em trong nhà đã gây ra cho Giuse, và chỉ nhớ một điều: “Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, Ngài mãi mãi xót thương chúng ta. Chúng ta, có quay về với Chúa như người em và chúng ta có bao dung cho em chúng ta khi em chúng ta lầm lỗi hay không, vẫn là lời mời gọi lòng bao dung thương xót của mỗi người chúng ta.
Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để làm gì? 2. Vị trí của ba dụ ngôn 3. “Con thứ đi hoang” xin được: TN 24-C114
1. Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để làm gì? 2. Vị trí của ba dụ ngôn 3. “Con thứ đi hoang” xin được coi như “người làm công” 4. “Con cả ở nhà” sống như “người làm công” 5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong trình thuật 6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Kết luận
Dẫn nhập
Đoạn Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Nhưng bản văn đề cao quyết định quay trở về của người con này hơn là sự hoang đàng của anh ta. Hiện nay người ta thường gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, nhưng có lẽ bản văn nhấn mạnh hơn đến sự không nhân hậu của người con cả, là người đã trách cha và miệt thị em mình. Có thể dụ ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Sự phong phú về ý nghĩa của bản văn làm cho việc đặt một tựa đề thường là rất khó. Một câu chuyện mô tả ba cách nhìn cuộc đời khác nhau của ba nhân vật thì không thể tóm tắt chỉ trong dăm ba chữ. Có lẽ nên tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn này trong bối cảnh văn chương của nó, để từ đó có thể thưởng thức, lắng nghe và sống với dụ ngôn hơn là loay hoay tìm cách đặt một tựa đề.
1. Đức Giêsu kể dụ ngôn cho ai và để làm gì?
Tin Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pharisêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Trong bối cảnh trên, “Đức Giêsu kể cho họ dụ ngôn:…”. “Họ” – thính giả nghe các dụ ngôn trong bản văn – chính là những người Pharisêu và các kinh sư. Có thể hiểu thêm là có cả những người thu thuế và những người tội lỗi nữa, vì bản văn nói về họ. Như thế, mục đích việc Đức Giêsu kể dụ ngôn là để giải thích và trả lời cho câu hỏi đặt ra: Tại sao Đức Giêsu và những người thu thuế và tội lỗi lại đến với nhau? Đây là điều mà những người Pharisêu và các kinh sư cho là chướng tai gai mắt, nên dẫn đến việc xầm xì. Đồng thời, dụ ngôn cũng cho biết thực chất về cách cư xử của họ.
Ngày nay, nhân vật “họ” là bất kỳ ai đọc bản văn. Thực vậy, độc giả mới là thính giả đích thực của câu chuyện, vì bản văn được viết ra cho họ. Độc giả trực tiếp là cộng đoàn Lu-ca cuối thế kỷ I, tiếp đến là độc giả qua mọi thời đại, với tư cách là người đọc bản văn. Vậy, dụ ngôn này có ý nghĩa gì cho độc giả? Câu chuyện này nói gì với độc giả là tất cả chúng ta ngày nay?
2. Vị trí của ba dụ ngôn
Trong Lc 15, Đức Giêsu kể ba dụ ngôn, trong đó, hai dụ ngôn đầu tiên rất ngắn, nói về con chiên đi lạc (Lc 15,4-7) và đồng bạc bị đánh mất (Lc 15,8-10). Hai dụ ngôn này diễn tả tấm lòng của Thiên Chúa dành cho những người lạc lối, qua hình ảnh người mục tử đi tìm cho bằng được chiên lạc và người phụ nữ tìm cho bằng được đồng tiền bị mất. Điều hai dụ ngôn này nhấn mạnh là chính Thiên Chúa đi bước trước để tìm kiếm những gì đã mất. Áp dụng vào bối cảnh câu chuyện thì hai dụ ngôn đầu tiên muốn ám chỉ Đức Giêsu, Người đến để tìm kiếm những con chiên lạc, tìm kiếm những gì đã mất. Cụ thể là Người đến với những người thu thuế và tội lỗi để dẫn họ trở về với Thiên Chúa.
Dụ ngôn thứ ba, tạm gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu, dài hơn và ý nghĩa phong phú hơn. Dụ ngôn thứ ba này bổ túc thêm những gì hai dụ ngôn trước chưa diễn tả được. Điểm mới trong dụ ngôn này là chính “con chiên lạc” tự tìm đường trở về với người mục tử, qua việc đứa con hoang đàng quyết định trở về với cha của mình, chứ người cha không đi tìm. Như thế, thay vì đi tìm chiên, đi tìm đồng bạc như trong hai dụ ngôn trước, thì dụ ngôn thứ ba trình bày hoàn cảnh và tâm tư của những người đi lạc. Đi lạc theo cả hai nghĩa: Bỏ nhà đi hoang (người con thứ) và đi lạc ngay tại nhà mình (người con cả), anh ta ở nhà mà sống như người làm công.
Tóm lại, hai dụ ngôn đầu giải thích tại sao Đức Giêsu tiếp đón và ăn uống với phường tội lỗi, dụ ngôn thứ ba giải thích hành động tích cực của những người thu thuế và những người tội lỗi: Họ đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng. Dụ ngôn thứ ba còn cho biết thái độ của người cha và đề cao sự tự do của hai người con trong sự lựa chọn của mình.
3. “Con thứ đi hoang” xin được coi như “người làm công”
Người con thứ tự quyết định ra đi và tự quyết định trở về sau khi học được bài học quý giá từ cuộc sống. Người cha không ngăn cản con mình ra đi. Đó là cách tốt để người cha huấn luyện con mình có trách nhiệm với lựa chọn của mình. Như thế, nhận ra mình đã lạc đường và can đảm quyết định quay trở về là một bước tiến lớn trong sự trưởng thành nhân cách. Anh ta đã đi một bước dài trong tiến trình tự đào tạo bản thân. Điều anh ta tự nhủ đáng cho người đọc qua mọi thời đại học hỏi: “17Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ 20Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha” (15,17-20).
Hoàn cảnh sống và quyết định của người con thứ là lời mời gọi độc giả hãy học lấy từ cuộc sống, từ những thất bại, những bài học quý giá để làm cho mình trưởng thành hơn. Nhờ học trường đời mà người con thứ đã can đảm làm lại cuộc đời và biết lấy quyết định đúng đắn, không mặc cảm tự ti hay tự tôn, cũng không sợ mất thể diện.
4. “Con cả ở nhà” sống như “người làm công”
Nhân vật phản diện của dụ ngôn người cha nhân hậu là “người con cả”. Thái độ và cách xử sự của anh ta ám chỉ thái độ của những người Pharisêu và các kinh sư. Lời xầm xì giữa họ với nhau được đặt song song với lời người con cả trách cha mình và nhục mạ em mình: “29Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30). Lời trách móc cha (ám chỉ Đức Giêsu trong lời xầm xì ở 15,2) và lời chối bỏ em mình (ám chỉ những người thu thuế và tội lỗi ở 15,1-2) cho thấy người con cả đã không sống “tư cách làm con” và “tư cách làm anh” trong gia đình. Những người Pharisêu và các kinh sư cũng đang xử sự như người con cả.
Không sống và cư xử như một người con, không đứng ở địa vị con cái, người con cả suy nghĩ và hành động như một đứa ở trong nhà. Từ trước đến bây giờ anh ta không biết đến điều cha anh nói: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15,31).
Người con cả cũng không sống tư cách làm anh vì đã không đón nhận sự trở về của em mình. Anh ta đã phủ nhận tư cách làm anh và hạ thấp em mình khi nói: “Thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (15,30). Đó là “thằng con của cha” chứ không phải là “đứa em của con”, một đứa em đáng quý trọng vì đã biết ăn năn hối cải trở về.
Điều trớ trêu và châm biếm trong bản văn là tương phản giữa hai người con: Người con thứ quay trở về chỉ xin được cha xem là “người làm công”, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng “làm con”, thì người con thứ lại được hưởng trọn vẹn quyền “làm con” qua các biểu tượng: Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, đi dép và dự tiệc mừng (15,22-23). Ngược lại người anh cả tự cho mình là “người con gương mẫu”, đã có công “hầu hạ” cha trong nhiều năm, anh ta lại sống và suy nghĩ “như người làm công”, “như người làm thuê”, “như đứa ở” chứ không phải là “người con thực sự”.
Tình trạng của người con cả trầm trọng hơn nhiều so với việc bỏ nhà đi hoang của người con thứ. Bởi vì người con cả ở nhà với cha nhưng không sống tư cách làm con mà anh ta lại không biết điều ấy, nghĩa là vẫn nghĩ mình là đứa con ngoan và hiếu thảo.
5. Áp dụng dụ ngôn vào nhân vật trong trình thuật
Người con cả tưởng mình là con cái trong nhà, nhưng thực ra là không phải. Cũng vậy, những người Pharisêu và các kinh sư tưởng mình thuộc về Thiên Chúa, làm công việc của Thiên Chúa, phục vụ Thiên Chúa, nhưng thực sự không phải. Họ đang đi ngược lại ý định của Thiên Chúa khi chống lại Đức Giêsu.
Sự tương phản giữa các nhân vật: “con cả – con thứ”, “những người Pharisêu và các kinh sư – những người thu thuế và những người tội lỗi” song song với nhau. Bên ngoài, người con cả ở nhà là đứa con ngoan, chăm lo hầu hạ cha nhưng thực chất bên trong anh ta là đứa ở. Bên ngoài, người con thứ bỏ nhà đi hoang, không nhận ra lòng thương xót của cha, nhưng tự trong lòng, anh đã biết hối cải quay về. Như thế người con đi hoang trở về mới là “người con đích thực”. Mạch văn cho phép hiểu: Những người thu thuế và những người tội lỗi sám hối trở về với Thiên Chúa mới thực sự là con cái Thiên Chúa. Còn những người Pharisêu và các kinh sư là những người làm thuê.
Liệu những người Pharisêu có hiểu và có nhận ra sự trớ trêu này qua dụ ngôn không? Bản văn không cho độc giả biết, vì dụ ngôn kết cách đột ngột với lời dạy của người cha: “31Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (15,31-32). Dụ ngôn kết dở dang ở đây để lại nhiều câu hỏi: Người anh cả phản ứng thế nào trước lời dạy của cha mình? Liệu lời giáo huấn này có làm người con cả thay đổi lập trường để biến tức giận thành niềm vui và trở lại làm con cái trong nhà hay không? Liệu người anh có đổi cách suy nghĩ của người nô lệ để sống và ứng xử với cha với tư cách là con và đón nhận em mình với tư cách là anh hay không?
Khi áp dụng dụ ngôn cho những người Pharisêu và các kinh sư, độc giả biết câu trả lời cho những câu hỏi trên là “KHÔNG”, bằng chứng là trong phần tiếp của Tin Mừng, những người Pharisêu và các kinh sư đã đeo đuổi cho đến cùng việc chống đối Đức Giêsu và họ đã góp phần vào việc giết chết Đức Giêsu trên thập giá.
6. Áp dụng dụ ngôn cho độc giả
Những điều trên đây là diễn tiến trình thuật trong Tin Mừng, điều quan trọng mà bản văn nhắm tới là quyết định của độc giả, vì bản văn được viết ra cho độc giả. Ở đây là độc giả của cộng đoàn Luca cuối thế kỷ I và cũng độc giả qua mọi thời đại. Độc giả nghĩ gì và quyết định thế nào sau khi đọc trình thuật. Thiết nghĩ độc giả có thể rút ra ba bài học từ câu chuyện:
1) Bài học nơi người con thứ. Dám quyết định, dám ra đi, dám sống hết mình, dám nhìn nhận sự thật về mình, dám nhận trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Đáng phục hơn cả là dám đứng lên, dám làm lại cuộc đời, dám quay lưng lại với quá khứ, dám hối cải và trở về để sống trọn vẹn tư cách làm con trong tình yêu thương của cha mình. Trong trình thuật, việc những người thu thế và tội lỗi “đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng” (15,1) được ví như là người con thứ đã can đảm hối cải trở về. Vậy, độc giả đang ở giai đoạn nào trong hành trình tìm kiếm của người con thứ?
2) Bài học từ người anh cả. Có bao giờ chúng ta nghĩ mình là “con cái trong nhà” mà thực sự đang sống như “người làm công” hay không? Trong tương quan với anh chị em mình, làm thế nào để đón nhận và cùng chia sẻ trách nhiệm với anh chị em mình chứ không dùng kiểu nói của người con cả: “Thằng con của cha đó”. Liệu lời dạy của người cha có làm cho độc giả nhận ra sự thật trong tương quan với Cha trên trời và với anh chị em mình không?
3) Bài học nơi cách xử sự của người cha. Có nhiều điều để học hỏi nơi người cha về cách giải quyết những vấn đề phức tạp và tế nhị trong cuộc sống. Có thể nói, khởi đầu dụ ngôn, người cha có hai người con, nhưng trong thực tế lại không có đứa con nào cả. Một đứa thì đi hoang, một đứa thì sống ở nhà với cha nhưng lại sống như một người làm công chứ không phải là con. Làm thế nào để vừa tôn trọng tự do của đứa con muốn ra đi, vừa biết chỉ dạy cho đứa con ở lại về cách thức làm con? Bản văn mời gọi các bậc cha mẹ – cũng như những người có trách nhiệm trên người khác – biết áp dụng cách giáo dục của người cha: Dùng tình thương để cảm hoá và tôn trọng sự tự do để giáo dục sự tự do. Nhờ đó con người có khả năng lấy những quyết định đúng đắn cho mình.
Cả ba bài học trên được trao vào tay người đọc là tất cả chúng ta. Câu chuyện vẫn chỉ là câu chuyện, dụ ngôn vẫn mãi mãi là dụ ngôn. Bản văn luôn là những gợi ý, những đề nghị chứ không trả lời thay cho chúng ta.
Kết luận
Trình thuật mở đầu (Lc 15,1-3) và dụ ngôn người cha nhân hậu với hai người con (Lc 15,11-32) vẽ lên một bức tranh với nhiều màu sắc mạnh mẽ có khả năng dẫn người đọc đến suy tư và nhận ra chính mình trong các nhân vật ấy.
Phần mở đầu (15,1-3) và phần dụ ngôn (15,11-32) soi sáng cho nhau và nối kết chặt chẽ với nhau. Đứa con hoang đàng sám hối trở về là hình ảnh của những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng dạy. Cách xử sự của người con cả là hình ảnh của những người Pharisêu và các kinh sư. Họ tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa, nhưng khi chống đối và bách hại Đức Giêsu, họ đã lạc đường và không sống tư cách làm con Thiên Chúa nữa. Tất cả những tình tiết trong toàn bộ trình thuật được gửi đến độc giả như một lời mời gọi độc giả đọc ra được ý nghĩa của câu chuyện.
Ước mong độc giả thưởng thức được những chi tiết độc đáo trong bản văn, với những nét đẹp, nét tương phản, nét châm biếm, cùng với những lời trách móc và sự hiểu lầm của các nhân vật… Nhờ việc sống với bản văn và suy niệm dụ ngôn, người đọc sẽ được biến đổi để dần dần sống trọn vẹn tư cách làm con và xây dựng tình anh em nhờ sự hối cải và trở về với Tình Yêu đích thực của Cha trên trời.
Vâng, đúng vậy đấy. Trong cả ba câu chuyện: Người nuôi chiên, người đàn bà nội trợ, và gia đình: TN 24-C115
Vâng, đúng vậy đấy. Trong cả ba câu chuyện: Người nuôi chiên, người đàn bà nội trợ, và gia đình ông phú hộ kia, tất cả đều đã bị mất của. Nhưng cái may mắn, là cả ba lại đều tìm thấy. Người mất chiên, người mất tiền, người mất con. Thứ nào cũng quý; mất thứ nào cũng tiếc. Nhưng có thứ quý nhiều, có thứ quý ít. Nhưng dù quý nhiều hay quý ít, khi tìm lại được ai cũng vui mừng. Ba câu chuyện, tuy hơi giống nhau, nhưng có 2 điều khác biệt:
1- Cách mất khác nhau
Một con chiên bị lạc; có lẽ là con chiên ngố ngác dại khờ. Tính theo xác xuất, mất thế thì quá ít: Có mỗi một con bị lạc. Con chiên, bản tính vốn hiền lành. Chẳng có thứ vũ khí nào để tự vệ: Răng cũng chẳng sắc, móng vuốt cũng mòn cùn. Con chiên sống được là nhờ vào sự coi sóc của người mục tử mà thôi. Có thể có giây phút nào đó, người mục tử lơ là, chểnh mảng, không quan tâm đủ, khiến cho có con chiên dại khờ kia bị lạc. Không phải nó muốn đi lạc, nhưng có thể tại nó ham chơi, say mê đuổi theo những con chuồn chuồn, bươm bướm tung tăng trước mặt. Cũng có khi, tại ông chủ lạc quan, tưởng rằng con nào cũng khôn như nhau, nên không tận tình quan tâm; mà con này lại khù khờ, nên lạc lại mà ông chủ không biết. Còn đồng tiền, bị rơi lạc, đó là sự sơ sẩy của cuộc đời. Không phải do cố ý, nhưng rớt nhiều khi, bởi một sự vô tình, rớt vào một hoàn cảnh không ngờ trước, lại không đủ ý chí, nên bị văng ra, giữa cô đơn chợ đời. Còn với đứa con út thì khác. Xác xuất khá lớn: 50 phần trăm. Nhà có hai, trước mắt đã lạc một rồi. Nó có tất cả: Tình yêu thương của cha, của anh; Có cả một mái gia đình đầy đủ vật chất, ấm êm. Nhưng nó đã tự ý xin đi. Ra đi với một xác tín quan trọng: CÓ TIỀN LÀ CÓ TẤT CẢ. Tình yêu thương của cha, là vô nghĩa; mái ấm gia đình là vô duyên. Ôm chặt đống tiền trong tay, nó ra đi. Nhưng của thiên lại trả địa. Đồng tiền lại quay về với đời. Bỏ rơi nó lại quanh bầy heo đói. Không gian không xa lắm, nhưng trong lòng nó, tình cha ấm áp hôm nào, ôi sao, xa mãi nghìn trùng.
2- Cách tìm khác nhau
Cả ba người cùng đau, vì mất. Nên cả ba cùng muốn đi tìm về. Người mục tử, đã rong ruổi qua đồi qua núi; và đã tìm được con chiên lạc đường. Ôm nó trên vai, bước chân tấp tíu rộn rã, ông về. Dù thật mệt, nhưng sao đôi mắt ông vẫn cứ sáng ngời, ấm áp hạnh phúc sướng vui; giống hệt đôi mắt hoan lạc, của người đàn bà, vừa tìm thấy đồng tiền rơi, ở góc xó nhà. Chỉ có người cha già là không đi tìm. Ông mỏi mắt trông chờ nó từng mỗi phút giây; nhưng ông không đi tìm. – Nó tự do lựa chọn ra đi; nó phải chịu trách nhiệm về việc làm của nó. Có tìm nó cũng sẽ chẳng về, nếu nó chưa nhận ra việc làm của nó là sai. Mãi tới khi, bị chính cuộc đời, là cái ảo ảnh mà nó ước mơ, quay lại đạp dập dụi trên thân xác và tâm hồn nó, nó mới vỡ nhẽ. Mới nhận ra được sự sai lầm nghiêm trọng của lựa chọn đời mình. Nó mới quay về, tự ý quay về. Giờ này, thì nó đã thấm thía được một chân lý quan trọng: hạnh phúc lớn nhất trong đời, chính là sự ấm áp của tình yêu trong tâm hồn.
Hỏi:
1- Đã có lần nào, ban lỡ chân lạc bước? 2- Bạn đang ở trong hay ở ngoài mái ấm của Thiên Chúa?
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là một trong số ít những bài Tin Mừng kể là dài nhất trong cả ba năm phụng: TN 24-C116
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là một trong số ít những bài Tin Mừng kể là dài nhất trong cả ba năm phụng vụ ABC. Có Cha hài hước nói rằng: vừa đọc xong bài Tin Mừng, mình phải đứng thinh lặng một lát để lấy hơi và xin cậu giúp lễ cho uống một ngụm nước rồi mới tiếp tục giảng được.
Trong bài Tin Mừng này, Thánh sử Luca đã khéo léo kết hợp đến ba dụ ngôn liên tiếp vào một chỗ (ba trong một), nhằm tô đậm hình ảnh: người mục tử tìm thấy con chiên đi lạc, bà góa tìm thấy đồng bạc bị mất, và người cha tìm được đứa con hoang đàng trở về. Vì thế, bài Tin Mừng này cũng kể vào hạng nhất phong phú về chủ đề. Mỗi người có thể đọc bài Tin Mừng này với sự nhập vai khác nhau, hầu tìm thấy giáo huấn của ba dụ ngôn ấy ứng với đời sống của mình càng gần gũi và chính xác hơn.
Tâm đắc nhất, có lẽ là dụ ngôn thứ ba, bởi vì trong dụ ngôn này có đến ba nhân vật phản diện, đó là ba cha con; và hầu như các nhà chú giải, chỉ giải thích qua loa hai dụ ngôn trên, vì dễ hiểu hơn chăng hay có lẽ tính hấp dẫn của hai dụ ngôn trên không bằng dụ ngôn thứ ba này? Chắc rằng: Ý của Chúa Giêsu cũng không nhằm nói tới con chiên lạc, hay đồng bạc bị mất mà chỉ muốn nói tới con người trở về với lòng thống hối ăn năn. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con yêu của Ngài.
Người viết cũng tâm đắc với dụ ngôn thứ ba hơn và gọi dụ ngôn này với tên gọi riêng của mình là: “Dụ ngôn ba cha con”.
Để khởi đầu cho việc giải thích chi tiết từng nhân vật trong dụ ngôn thứ ba này. Người viết xin đề nghị bạn đọc khám phá và hình dung quang cảnh của một gia đình có ba cha con: ba cha con cùng một nhà, nhưng ba cha con lại có ba cá tính khác nhau, và cá tích đặc trưng của từng người đã làm cho ba cha con có ba cách sống và ba cách xử sự khác nhau và hơn nữa có lẽ vận mệnh của ba cha con cũng sẽ khác nhau.
Đặt mình vào hoàn cảnh người nghe dụ ngôn này, người viết thấy mình thấp thoáng có bóng dáng ở một trong ba nhân vật ấy! Lại có lúc cả ba nhân vật đều có những nét phản ánh khá trung thực đời mình! Còn bạn, bạn nghĩ sao? Từ đó, mỗi người chúng ta tự rút ra cho mình một bài học kinh nghiệm, để giải đáp cho cuộc đời và vận mệnh của mình.
II.- DIỄN TẢ HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Có lẽ, chỉ có trong Kinh Thánh và trong văn học người ta mới vận dụng hình ảnh người cha nhân hậu: chăm lo, săn sóc và yêu mến con cái mình… còn trong thực tế, sự yêu thương, chăm sóc và tha thứ cho con cái dường như là phẩm chất của người mẹ nhiều hơn.
Không biết các nhà truyền giáo giảng cho những người dự tòng thế nào? Nhưng riêng tôi, tôi không thích dùng hình ảnh của người cha để giải thích lòng thương xót của Thiên Chúa cho người dự tòng chút nào; tôi vẫn thích dùng hình ảnh người mẹ hơn. Sở dĩ như vậy, là vì đa số những người cha ngày hôm nay đã đánh mất hình ảnh người cha nhân hậu rồi, hoặc có chăng thì cũng còn lờ mờ lắm không thể soi gương được…Ai cũng biết những người làm cha và làm chồng trong thời đại ngày nay là thế nào rồi, miễn cho tôi kể ra những sự ấy. Còn bản tính của người mẹ đối với con mình xưa cũng vậy và nay vẫn còn thế, dù sao cũng thấy đậm nét nhân từ với con cái hơn; nhất là người mẹ ấy vốn là một người nữ sẵn có bốn đức tính: công-dung-ngôn-hạnh.
Dù là người cha nhân hậu hay người mẹ hiền lành hay ông chủ từ tâm… Thì sự thể hiện hình ảnh đẹp ấy muốn đưa chúng ta đến một hình ảnh thực tế gần giũ đã từng cảm nghiệm, kiểu như tự kỷ ám thị, để chúng ta có thể chiêm ngắm một hình ảnh cao hơn xa hơn về một Thiên Chúa vô hình-Đấng giàu lòng thương xót.
Trong lịch sử Cựu Ước, sách Xuất Hành thuật lại chuyện con người nhiều lần làm Thiên Chúa nổi giận và muốn giáng phạt hết thảy, vì đã phản bội Thiên Chúa, thờ ngẫu tượng, ăn chơi sa đọa, say sưa trong men lạc thú…(x. Bài đọc I: Xh 32,7-11.13-14). Nhờ lời van xin của ngôn sứ Môsê là một người công chính luôn thi hành và lắng nghe lời Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nhận lời ông, không giáng phạt mà rộng lòng tha thứ.
Trong thư Thánh Phaolô gửi cho Timôthê, thuật lại câu chuyện về chính ông là một người tội lỗi bách đạo Chúa Kitô khét tiếng. Nhờ ân sủng và ơn tha thứ của Chúa, ông đã ăn năn trở lại và dùng cả cuộc đời của mình để minh chứng tình yêu thương khoan dung của Đức Kitô Phục Sinh. (x. Bài đọc II: 1Tm 1,12-17)
Và trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng để trả lời cho những người luật sĩ và biệt phái đến chất vấn Chúa Giêsu vì sao lại ngồi chung, và đồng hành với những người tội lỗi. Chúa Giêsu đã dùng các dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc bị mất và người con hoang đàng trở về. Để nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi ăn năn trở lại. Và đó là lý do cho sự tiếp cận của Chúa Giêsu bên những người tội lỗi.
Dụ ngôn “ba cha con” được đặt vào phần cuối của đoạn Tin Mừng này, như là những câu giải đáp cuối cùng của Chúa Giêsu để trả lời cho những người Pharisiêu và các kinh sư trách móc Ngài thân cận với kẻ tội lỗi, được nêu ra ở những giòng đầu: “Ông này tiếp đón phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15,2). Đó là lý do của các bài đọc hôm nay.
III.- HÌNH ẢNH HAI NGƯỜI CON TRAI
1. Người con thứ được nhắc đến trước:
-Người con thứ được nói đến trước và tội của anh cũng được nói đến trước. Anh là người con phung phá, cương quyết không muốn cha mình xen vào cuộc đời: “Xin cho con những gì con được hưởng để con sống như con muốn… rồi thu góp tất cả trẩy đi phương xa… sống phóng đãng, phung phí tài sản”. Đến mức đời sống của anh trở nên càng ngày càng tồi tệ, không còn chút phẩm giá nào là một con người nữa “muốn ăn thứ mà heo ăn cho đầy bụng cũng không được ăn”. Đây chính là hình ảnh diễn tả sự sâu sắc của bi kịch tội lỗi. Nó làm cho con người còn tệ hơn con vật mà con vật ấy lại là con heo, tượng trưng cho loài vật dơ bẩn và hèn hạ nhất. Với góc nhìn nhân bản, thì đứa con bỏ nhà ra đi, nhất là ra đi đem theo cả gia tài, không hẹn ngày về, vĩnh biệt đối với gia đình, có thể coi là đứa con đã chết!
-Giai đoạn hai của cuộc đời người con thứ được trình bày với cái nhìn hướng tâm. Bằng những phút giây hướng tâm, anh nhìn lại chính mình, cảm thấy mình xấu sa, bê tha, tội lỗi và anh nghĩ anh phải trở về nhà cha cũng là nhà của anh ngày nào. Anh tự nhủ với lòng mình: “Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta…”. Đây,là giai đoạn người con phung phá cảm nghiệm nỗi cơ cực của mình khi đối chiếu với những người làm công ở nhà cha. Anh nghĩ rằng để tốt hơn, mình phải từ bỏ con đường lầm than, tha hóa để khởi sự bước chân trở về nhà, cũng là trở về với Thiên Chúa.
-Giai đoạn ba của cuộc đời người con thứ là quyết định từ bỏ quá khứ và trở về nhà cha để làm lại cuộc đời. Đây là giai đoạn cuối và cũng là giai đoạn quyết định hơn cả trong hành trình trở về nhà cha. Hành động này là dấu chỉ của sự giao hòa, là bí tích thể hiện lòng sám hối trong tâm hồn. Thiếu quyết định dứt khoát này, sự hoán cải vẫn chỉ là một ước muốn đạo đức, và sẽ không thể đạt được một cuộc sống mới, cũng không thể thay đổi vận mệnh cuộc đời được. Chính nhờ biết quyết định như vậy mà người con phung phá tìm lại được sự tự do chân chính của mình. Người con phung phá đã thực sự hoán cải, trở về và nói lên lời hối lỗi thiết tha: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa” (Lc 15,21). Thật tuyệt vời! Chỉ cần một lời thú tội, mà quyết định được cả một vận mệnh con người. (xem thêm lời thú tội của kẻ trộm bị đóng đinh bên hữu Chúa: Lc 23,42).
2. Người con cả thật đáng thương:
Chúng ta cùng nhìn tới người con cả, nhân vật thứ ba trong một gia đình có ba cha con, không biết người mẹ đâu mất rồi? Kinh Thánh không nói đến, quả thật là tội nghiệp cho người cha góa vợ và đáng thương cho hai thằng con trai mồ côi mẹ. “Không biết có khi nào hai cậu con trai này phải đi liếm lá dọc đường chưa?”
Trở lại chuyện người con cả, anh là người luôn sống ở nhà, nơi mà anh luôn luôn sống ngoan ngoãn, gần gũi bên cha, vâng phục cha. Đời sống ban đầu của anh gắn bó với cha và sự nghiệp trong nhà cha kể như tốt lành từ A đến Z. Cá tính đó, gia nghiệp đó, là cả một đời sống tích cực vâng lệnh cha, chúng ta không thể phủ nhận được công trạng mà anh đã cùng cha vun đắp xây dựng qua bao tháng năm chịu thương chịu khó.
Nhưng cuối cùng điều gì đã xảy ra cho người con cả này? Chỉ vì tính đố kỵ và ích kỷ, thiếu lòng quảng đại và bao dung mà đã xảy ra bi kịch cho người anh cả. Ở ngoài đồng về gần đến nhà, anh nghe thấy tiếng đàn hát và bắt đầu nghi ngờ, rồi hỏi han, rồi tức giận, rồi không chịu vào nhà. Anh không chịu làm hòa với cha và không chịu tha thứ cho em, mặc dầu cha anh đã hạ giọng năn nỉ anh vào nhà chung vui cùng cha và em. (x. Lc 15,25-32)
Thật đáng thương và thật tội nghiệp cho người anh cả, vì dụ ngôn lại chấm dứt ở đây. Chấm dứt đúng ngay lúc anh đang vấp phạm, dụ ngôn không cho anh một khoảnh khắc để ăn năn, anh không có thời gian ăn năn. Giá như anh có một thời gian dài như thằng em để hồi tâm thì hy vọng còn có thể mở ra, và nếu thời gian có đủ để anh ăn năn mà anh vẫn cố tình cố chấp thì mới thật trách và đáng ghét chứ?
Lại tội nghiệp cho người cha giầu lòng nhân hậu. Tưởng rằng tìm được thằng con hư hỏng ăn năn trở về thì được luôn cả hai đứa vuông tròn, nào ngờ tìm được đứa này lại mất đứa kia.Trong lúc vui mừng chưa trọn vẹn, thì người cha bất ngờ lại có thể mất đi một lần nữa, mất đi người con cả.
Làm cha khổ lắm ai ơi, làm cha nhân từ đâu phải là dễ. Con mình mà mình không nhân từ thì còn nhân từ với ai được; cũng tại mình là cha chúng nó mà.
3. Ba trong một: “Tuy ba là một, tuy một mà ba”
Rõ ràng, dụ ngôn muốn đưa chúng ta nhìn lại chính mình trong từng phút giây hiện tại: “Sống trung thực, sống thành tín, sống hết mình, sống sám hối, sống bao dung, sống thánh thiện… trong mỗi phút giây hiện tại” đó mới là giáo lý của bài Tin Mừng này.
Chúng ta không biết các sự việc kết thúc như thế nào, vì chỉ có cái chết mới chứng minh trọn vẹn vai diễn của từng con người, chỉ có cái chết mới chấm dứt. Nhưng dụ ngôn thì chấm dứt ở đây, mà người cha và hai thằng con trai vẫn còn sống, kẻ thì phây phây, người thì vất vưởng... Chúng ta muốn biết người con thứ sẽ sống ra sao sau khi trở lại, và điều gì sẽ xảy ra cho người con cả, và người cha có tìm lại được cả hai người con hay vẫn cứ mất một.
Có thể, chính chúng ta phải là “vai thế” để tiếp tục sống điều Tin Mừng đã dạy, điều đã được kể lại trong dụ ngôn, cũng là điều kể lại chính đời sống hiện tại của mỗi người chúng ta. Và khi ấy, có lẽ mỗi người chúng ta đều thấy mình vừa là anh cả vừa là em thứ (kiểu hai trong một), để biết đường lựa chọn một mà không phải là hai, cái một của sự thiện chứ không phải cái một của sự dữ, kẻo bất thình lình một ngày nào Chúa gọi ra khỏi đời này, một sự đứt phim, một sự dứt chuyện không hề báo trước.
IV.- THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ LUÔN THA THỨ
Thiên Chúa yêu thương muốn cứu độ tất cả mọi người. Chúa Giêsu qua các dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay đã nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa, thể hiện cách cụ thể tình yêu cứu độ của Chúa. Ngài yêu thương cứu độ từng người; Ngài chủ động tìm kiếm và vui mừng khi một người tội lỗi quay trở về. Các dụ ngôn đều nhấn mạnh đến lòng quảng đại của Thiên Chúa: người mục tử đi tìm con chiên lạc; người đàn bà tìm kiếm đồng tiền bị mất và người cha nhân lành chờ đón và vui mừng tha thứ cho người con hoang đàng quay trở về. Các tình tiết của ba dụ ngôn nối kết và liên hệ với nhau càng lúc càng tỉ mỉ hơn, phức tạp hơn, cao trào hơn; làm cho hoàn cảnh, nguyên do và các yếu tố liên quan cũng được tăng thêm. Do đó việc gặp lại được đứa con, có thể coi là đứa con đã sống lại trong lòng người cha. Tình phụ tử của con người, và tình Cha con của Thiên Chúa đối với chúng ta cũng như vậy.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi thì mừng rỡ khoác chiên trên vai. Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi thì hân hoan loan tin chia vui với mọi người. Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó… và bày tỏ những thái độ đón tiếp đến mức cuồng si.
Thật vậy, Thiên Chúa là người cha nhân hậu, là người mục tử nhân lành luôn yêu thương chăm sóc cho từng con người, mỗi người trước mặt Chúa cho dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn luôn được hưởng trọn tình yêu của Ngài. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha đã sai Chúa Con đến tìm kiếm và cứu vớt tất cả nhân loại tội lỗi. Lòng thương xót được thể hiện khi không trách phạt mà lại yêu thương cứu độ con người tội lỗi luôn quay lưng phản bội Ngài.
Mỗi Kitô hữu ngày nay, công tâm nhìn lại mình thì sẽ luôn nhận thấy rõ mỗi người đều là tội nhân cả. Tuy nhiên, đừng bi quan thất vọng chán nản, tình yêu Thiên Chúa luôn dư đủ để khỏa lấp tội lỗi của mình. Tình yêu của Chúa luôn theo đuổi, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Hãy mạnh dạn sám hối, quay về với Chúa. Sự quay về không bao giờ là trễ muộn cả; hãy tin tưởng vào lòng quảng đại xót thương của Thiên Chúa.
Sách tu đức dạy rằng: "Lỗi lầm vốn là bản chất của con người; tha thứ chính là bản chất của Thiên Chúa; và ăn năn sám hối mới là bản chất để trở thành thánh nhân" (A. Pope).
V.- TỘI NHÂN ĂN NĂN TRỞ LẠI
Cả ba dụ ngôn đều có kết thúc vui mừng. Người mục tử vui vẻ vác con chiên lạc trên vai khi tìm thấy; người đàn bà vui mừng khi tìm được đồng bạc bị mất và người cha nhân hậu tràn đầy sung sướng khi người con hoang đàng trở về. Thiên Chúa cũng vui mừng khi người tội lỗi ăn năn trở lại: “Ta nói cho các ông biết: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối ” (Lc 15,10). Đây chính là đỉnh cao của một tình yêu quảng đại thực sự. Một tình yêu gột rửa tất cả mọi uế nhơ của tội lỗi nơi con người; làm trắng tinh một tâm hồn đã đen đúa vì tội lỗi; chỉ có tình yêu mới biến đổi tận căn một tội nhân thành thánh nhân. (x. 1Pr 4,8)
Thiên Chúa vui mừng vì người tội lỗi quay trở về. Chúng ta hãy vững tin cho mình và cho người khác. Thân phận khốn nạn của kiếp tội nhân không làm suy giảm tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta, không làm cho Thiên Chúa ghét bỏ mình. Nói đến đây, chúng ta không thể nào không nhắc lại hai câu kết của hai dụ ngôn trước: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,9); “Và giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng khi một người tỗi lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15,10).
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Chúa Giêsu-Con Thiên Chúa xuống trần gian: "Vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu những gì đã mất" (Lc 19,10). Do đó, đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm chính là con người. Con người mới thực là báu vật vô cùng quí giá của Thiên Chúa. Người không muốn để mất một ai trong cõi trần này.
Tin tưởng quay về không chỉ bản thân mình vui mừng hạnh phúc vì được ơn tha thứ mà điều đó còn làm cho Thiên Chúa vui mừng. Vậy thì, quay về làm cho Thiên Chúa vui mừng cũng chính là cách thức chúng ta biểu lộ tình yêu thương của chúng ta dành cho Ngài. Yêu ai thì biết làm cho người ấy vui mừng và hạnh phúc.
VI.- NHẬN ĐỊNH
1. Hai người con:
Người con thứ bỏ nhà đi hoang đắc tội với cha và với anh của mình; còn người con cả cũng đắc tội với cha và em của mình. Xét cho cùng, có lẽ cả hai đều giống nhau về cung cách sống và đối xử với cha và anh em mình.
Tuy nhiên, mỗi người đều có điểm đáng khen và đáng chê:
-Đáng khen cho người anh cả đã sống vâng lệnh cha: ngoan ngoãn, chăm chỉ, tận tụy gầy dựng sự nghiệp cùng cha, bên cha bao năm.
-Nhưng cũng đáng chê là người anh cả không kiên trì sống tốt lành như thế mãi, để đến phút chót lại đánh mất tình nghĩa với cha và em mình.
-Đáng chê cho thằng em thứ đã đòi cha chia của để đi đàn điếm, ăn chơi trác táng, đến mức đánh mất nhân phẩm làm người.
-Nhưng lại đáng khen là đến phút chót anh đã hồi tâm ăn năn sám hối và trở về với cha để xin ơn tha thứ và để được phục hồi nhân phẩm.
2. Hai người con là hai mẫu người điển hình của những con người bị mất:
Người con thứ (hư thân hoang đàng), hay người con cả (ghen tương ích kỷ) chính là mẫu người hoặc là biểu tượng của tất cả mọi người trong mọi thời đại, trong đó có tôi và các bạn... Con người đó rất có thể đã hủy bỏ hoặc chối từ giao ước tình yêu với cha mình, với cộng đoàn, và với chính mình. Con người đó là con người bị mất!!!
Những con người bị mất điển hình còn là:
- Những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang.
- Những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo.
- Những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời.
- Những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau.
- Những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa.
- Những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.
- Những con người tuyệt vọng, không cậy trông vào tình yêu của Thiên Chúa.
Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta, đôi lúc là chính chúng ta. Nhưng tiếc thay, chúng ta không hề quan tâm đi tìm họ trở về và chính mình cũng không hề muốn hồi tâm sám hối ăn năn trở lại.
3. Người cha:
Trong dụ ngôn ba cha con, chính người cha đã nhận ra đứa con bỏ nhà ra đi trở về từ đằng xa, và người cha này đã không còn tự chủ đứng chờ người con lê bước rã rời trở về với mình nữa, người cha cũng không chờ người con nói hết câu xin lỗi mà anh đã dự định sẽ nói hết với cha, nhưng người cha đã chạy tới với người con, ôm lấy con và hôn người con. Người cha yêu thương người con thứ quá sức, cho dù nó hoang đàng đã bỏ cha bỏ nhà ra đi!
Người cha này không chỉ yêu thương người con thứ hoang đàng, nhưng còn yêu thương luôn người con cả, yêu cả hai đứa đầy như bát nước đầy. Đến khi thằng em trở về thì thằng anh lại trở quẻ. Người cha lại đích thân ra tận nơi năn nỉ người con cả, xin người con cả chấp nhận em mình và cả chấp nhận thái độ bao dung của cha nữa.
Cha là tất cả của con, cái lý của cha là cho con và vì con. Tình yêu của cha là yêu hết mình. Chỉ biết yêu, chỉ biết tha thứ, chỉ biết khiêm nhường, đó chính là bản chất làm cha, và muôn đời bản chất đó vẫn luôn được tôn vinh và thuyết phục nhất trong lòng mọi người.
4. Thiên Chúa là một người cha:
"Tình yêu vọt ra từ bản tính làm cha, bắt buộc người cha phải quan tâm đến phẩm giá của con mình". Sự quan tâm đầy thương xót đó, Tân Ước, và đặc biệt Thánh Phaolô, gọi là Đức Mến (x. 1Cr 13,4-8). Đức Mến là một tình yêu thăng tiến, phục hồi giá trị và "đem lại sự thiện từ mọi hình thức của sự ác".
Khi chiêm ngắm người cha nhân hậu, ta khám phá ra khuôn mặt một Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa khiêm tốn. Như người cha chấp nhận chia gia sản cho con, chấp nhận để con bỏ nhà ra đi, Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do của con người. Đấng toàn năng đã giới hạn mình để chúng ta có thể hiện hữu tự do. Ngài như thể thu mình lại nhường chỗ cho thụ tạo.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết đợi chờ: Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con người rời xa Ngài. Người cha vẫn luôn ra ngóng chờ, lòng cha luôn hướng về con. Bởi thế ngay khi con còn ở xa, cha đã thấy dù con đã tiều tụy. Thiên Chúa không thất vọng về con người, Ngài không bắt ép con người hoán cải, Ngài kiên nhẫn đợi chờ, vì Ngài tôn trọng tự do của con người.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết tha thứ: Ngài là cha yêu con bằng cung lòng người cha nhân hậu. Tình thương của cha lớn hơn tội lỗi của con. Cha thương con dù con đã phạm tỗi lỗi, là tội nhân. Tội lỗi tự nó đem lại hình phạt. Người cha có lẽ không cần nghe con xin lỗi, vì cho rằng hành động trở về là cả một sự thống hối ăn năn. Thiên Chúa không nhớ mãi chuyện đã qua, điều quan trọng đối với Chúa là hiện tại: con đang sống trong vòng tay của Cha.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa bước trước như người cha chạy ra đón người con thứ, như người cha đi năn nỉ đứa con cả. Thiên Chúa không thể bình yên trong hạnh phúc của chính mình nếu có người con nào đứng ngoài. Nhân loại cũng được Thiên Chúa yêu thương đến mức như vậy! Con người yếu hèn mong manh, nay còn mai mất, thế nhưng lại là tạo vật vô cùng quý đối với Thiên Chúa. Qua người tội lỗi được yêu thương, con người nhận biết Thiên Chúa là Đấng nhân từ và yêu thương.
Tình yêu người cha đối với con mình và tình yêu Thiên Chúa với nhân loại, là một sự so sánh rất rõ rệt và đầy ngụ ý, cho dù chẳng chút nào tương đồng. Cả hai người cha vẫn một lòng trung tín với giao ước: cả hai đón nhận người con hư mất trở về trong niềm vui hạnh phúc. Ðây chính là lúc mà người cha và Thiên Chúa bày tỏ sự trung tín qua lòng thương xót của mình (Hesed).
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài chỉ biết yêu thôi, và làm tất cả vì yêu. Ngài không làm bất cứ điều gì cho con người mà không phải vì tình yêu đối với con người. Cụ thể Thiên Chúa không làm gì cho tôi mà không phải vì yêu thương tôi.
Nếu Thiên Chúa yêu thương con người và ngay cả người tội lỗi vô cùng, thì con người phải có thái độ đối với nhau thế nào cho xứng hợp là con cái Thiên Chúa.
VII.- KẾT LUẬN
Hai dụ ngôn đầu kết thúc rất có hậu: tốt đẹp và vui vẻ cả làng. Còn dụ ngôn thứ ba, “dụ ngôn ba cha con” nhà này, thì xem ra niềm vui chưa trọn vẹn, vì thái độ của người anh cả chưa thực sự biết đón nhận người em quay trở về, chưa biết chia sẻ niềm vui với người cha.
Người mục tử và người đàn bà khi tìm được của bị mất đã vui mừng và mời gọi bạn hữu chia sẻ niềm vui với mình, người cha cũng mời người con cả và các gia nhân chia vui khi người con thứ trở về. Tất cả ba dụ ngôn đều nói lên thông điệp của Tình Yêu Thiên Chúa, Ngài kêu gọi chúng ta yêu mến nhau. Mời chúng ta chung vui với Ngài. Mời gọi chúng ta lên đường tìm kiếm, kêu gọi những anh chị em lầm lạc quay trở về. Ngài vui mừng khi người tội lỗi ăn năn hối cải và mời gọi mỗi người cùng chia sẻ niềm vui với Ngài. Ở đây đặt ra vấn đề liên hệ đến mối tương quan giữa con người với nhau: Chúng ta có thực lòng chung vui với Thiên Chúa khi thấy người anh em quay trở về không? - “Vì con ta đây đã chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,24); - “…vì em con đã chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,32).
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Ngài chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ để trở nên một vị Thánh. Ông trở nên Thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Là con Thiên Chúa, chúng ta hãy sống xứng đáng với địa vị và phẩm giá của một người con Thiên Chúa và tạo điều kiện thích hợp để mọi người, cũng là anh em con cùng một Cha trên trời, có một cuộc sống như vậy. Từ đó, chúng ta ý thức rằng: mỗi khi xúc phạm đến tha nhân là xúc phạm đến phẩm giá con Thiên Chúa và cũng là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cũng mời gọi mỗi người Kitô hữu nhìn lại thái độ của mình, để trở về với Thiên Chúa vì chúng ta đang là những tội nhân. Chúng ta còn được mời gọi thể hiện lòng thương xót của Chúa qua việc đối xử với những người tội lỗi, những người xúc phạm đến mình. Không chỉ tha thứ mà còn phải chủ động tha thứ và vui mừng chia sẻ niềm vui với Chúa khi những anh chị em ấy quay trở về.
Mong thay, mỗi người chúng ta ý thức được lời xác quyết chân lý này: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15,31).
Và như vậy, chúng ta có quyền hãnh diện, tin tưởng và phó thác cuộc sống của mình trong vòng tay yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa.
Ai trong chúng ta ít nhiều gì cũng có những món đồ vật chất mà ta không bao giờ muốn đánh mất: TN 24-C117
Ai trong chúng ta ít nhiều gì cũng có những món đồ vật chất mà ta không bao giờ muốn đánh mất vì nó có giá trị - là hàng đắt tiền, hoặc là thứ kỷ vật mà ta nâng niu quý trọng có thể nói là vô giá. Nếu lỡ mất đi, buồn biết bao nhiêu, còn may mắn tìm lại được, niềm vui thật khôn tả, hơn cả khi được người khác ban tặng thay thế.
Có một bé gái mới chừng 8 tuổi, khi tắm trong phòng tắm, nó làm tuột mất chiếc nhẫn mà cậu nó trong một chuyến đi làm ăn ở phương trời xa xứ lạ đã mua tặng cho nó. Cả ngày trời nó tìm kiếm khắp nơi, những chỗ mà nó nghĩ là dòng nước khi tắm có thể cuốn trôi đi đến đó, nhưng không gặp. Nó khóc hoài. Mẹ nó an ủi nó và hứa mua cho nó chiếc nhẫn khác, nhưng nó không thích điều đó.
Cuối cùng, nó bắt ghế leo lên bàn thờ, nơi có đặt tượng thánh An-tôn Pa-đua, vị thánh mà nó thường nghe người lớn nói rằng “ngài sẽ cho gặp những gì đang tìm kiếm”, nó ôm thánh An-tôn vào phòng nó, đặt thánh An-tôn trên giường, và nó quỳ lạy thánh An-tôn xin cho nó tìm lại được chiếc nhẫn. Có lẽ ơn trên xót thương tấm lòng đơn sơ của nó, quả nhiên, nó tìm lại được chiếc nhẫn ở một xó kẹt trong nhà. Nó reo mừng, và thật khó mà tả được niềm vui của nó: “Đã mất mà nay lại tìm thấy”.
2. Mất người thân
Mất một món đồ vật chất đã buồn nhiều rồi huống chi mất một người thân. Món đồ vật chất ngay khi không thể tìm lại được, dù sao, nó vẫn là một thứ vô tri vô giác, còn người thân, tiếng nói, tiếng cười, bao kỷ niệm ăn sâu trong tim óc, làm sao quên được.
Có hai câu chuyện thời chiến, mà tôi chứng kiến ở quê tôi.
Câu chuyện thứ nhất.
Dượng năm tôi đi lính miền Nam trước 1975, trong một cuộc giao tranh ác liệt, ông được ghi nhận là mất tích. Một tháng, hai tháng, rồi ba tháng trôi qua… Ông không quay về. Chiến trường đẫm máu đầy những thây người, nhưng vùng chiến còn đang khói lửa nên không lấy thây được. Người nhà coi như ông đã chết.
Ông là người Công Giáo, nên gia đình tổ chức “cầu lễ” tại gia. Tấm di ảnh được đặt trên bàn thờ cùng khói hương nghi ngút… Ở quê tôi lúc ấy có quan niệm “nam thất nữ cửu”, nên cầu lễ cho người nam 7 đêm liên tiếp, còn người nữ thì 9 đêm.
Đến đêm thứ ba, đang cầu lễ thì dượng năm tôi về. Ông từ sau hè bước vào cửa sau và đi luôn ra phía trước. Mọi người đang cầu lễ hết hồn, bọn nhỏ hét lên, còn dì năm tôi, sau phút bàng hoàng, đã ôm chầm lấy chồng mình mình khóc nức nở…
Câu chuyện thứ hai.
Người ta báo tin anh Sang, người lính trẻ, tử trận. Đã mấy ngày rồi, nên người nhà chỉ đến đơn vị lãnh xác đã được đặt trong quan tài về chôn, không còn thấy mặt.
Quan tài được lưu lại một đêm để cầu lễ và sáng hôm sau là Thánh Lễ an táng.
Buổi sáng, khi mọi người chuẩn bị đưa quan tài đến Nhà thờ thì anh Sang “thật” về. Có sự trùng tên và lầm lẫn địa chỉ. Anh Sang “xa lạ” kia tạm thời được chôn ở phần đất gần đó.
Có thể thấy hình ảnh vô cùng cảm động niềm vui của người vợ trẻ, đứa con nhỏ, đặc biệt là bà mẹ già, giành nhau ôm lấy “người chết trở về”. Những gì xảy ra tưởng chỉ có trong chuyện cổ tích.
Trong Kinh Thánh, ta thấy niềm vui của bà mẹ thành Na-im khi “lại tìm thấy” đứa con. Như Matta và Maria “lại tìm thấy” đứa em là La-da-rô…
Mất người thân là vì họ chết.
Mất người thân có khi còn là vì họ đã sai đường, lầm lỗi. Một người thân đã xa Chúa, đã mất Đức Tin. Họ - những người thân yêu ấy - còn sống nhưng kể như đã chết.
Một người đàn ông kia có đứa con đi theo bọn xã hội đen. Ông buồn lắm. Sau đó nó cướp của giết người, phải lãnh án tử hình. Án chưa thi hành, ông buồn vô hạn rồi lâm trọng bệnh. Ai đến thăm ông, hỏi ông về nó, ông đều bảo: - “Nó đã chết !”. Rồi bệnh ông ngày càng trầm trọng hơn, trước khi chết, ông nhắc đến tên đứa con trai mình, hai giòng lệ trào ra khi đôi mắt ông vĩnh viễn khép lại.
Tình cha vẫn âm ỉ cháy trong lòng ông. Chắc hẳn ông sẽ vui biết bao khi con ông được trở về làm lại từ đầu với cuộc sống hoàn lương. Nhưng “đã mất và không còn cơ hội tìm thấy” !
3. Lại tìm thấy
Từ những đau buồn khi “đã mất”, ta hiểu được nhiều hơn thế nào là niềm vui “lại tìm thấy”. Ta suy ra niềm vui của bao người “bị mất mát mà nay lại tìm thấy”, trong đó có Tình Cha.
Tình Cha được Chúa Giê-su nhắc đến và diễn tả sống động trong câu chuyện dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu”. Tình Cha bao dung ấy là chính Tình Yêu Thiên Chúa – Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót - “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
4. Thiên Chúa là Cha Nhân Hậu.
Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người?". (Lc.11.13).
Sự trở về của con người thường dừng lại ở giới hạn trần gian. Như đứa con đi hoang trở về chỉ mong được làm một tên đầy tớ, bao nhiêu đó thôi đủ để no lòng, không dám mơ cao xa hơn.
Nhưng, lòng Thương Xót của Thiên Chúa thì không bờ không bến, hơn cả những gì ta chờ đợi. Đứa con đi hoang vẫn là đứa con yêu dấu đã mất mà nay tìm lại được. Đứa con ấy được trang điểm lại, - "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu,” - để không có sự khác biệt nào giữa hình ảnh đứa con ngày xưa khi còn ở nhà và đứa con bây giờ sau khi đi hoang trở về. Đứa con ấy được xóa mọi thương tích và mạnh lành trong vòng tay Cha mình. Đứa con ấy tìm lại được niềm tin yêu và vui sống. Vẫn là đứa con yêu dấu.
Thôi giã từ dĩ vãng đắng cay, với mãnh hình hài đầy thương tích…
Không ai có thể cho ta cuộc đời mới bằng Thiên Chúa, Đấng Giàu Lòng Thương Xót, là Người Cha Nhân Hậu tuyệt đối của chúng ta.
Ông Phi-líp-phê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện." Ðức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. (Ga,14.8-9)
Và, Ta nhận ra Thiên Chúa - Người Cha Giàu Lòng Thương Xót - ở đỉnh cao Thập Giá.
“ Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc 23,34).
Lạy Chúa,
Đã muộn màng rồi sau thuở đi hoang…
Tìm lại bình an địa đường ngày cũ,
Đời tơi tả ngày sầu thương ủ rũ,
Còn lại gì ngoài những vết thương tâm.
Con gục xuống trong vực tối âm thầm
Những bước chân người đi qua hờ hững.
Thân rã rời sức tàn con gượng đứng…
Tim nhói đau rỉ máu những giọt sầu.
Con chấp tay khờ dại phút nguyện cầu
Cho con gọi: “Cha ơi…Cha thương xót !”
Ôi, ấm áp lòng con hương dịu ngọt !
Con đổi thay Tình Cha vẫn như xưa…
Amen.
Suy niệm Lời Chúa CN 24 TN năm C của Lm.Giacôbê Phạm Văn Phượng
(Lc 15,1-10)
Một hôm, Sa-tan ra lệnh cho một người kia phải thi hành một trong ba điều nó yêu cầu, nếu không: TN 24-C118
Một hôm, Sa-tan ra lệnh cho một người kia phải thi hành một trong ba điều nó yêu cầu, nếu không nó sẽ đoạt linh hồn người đó. Ba điều đó: một là giết cha, hai là hành hạ người em, ba là uống rượu. Người đó ngẫm nghĩ: giết cha, đánh đập em là điều trái với đạo lý, anh không thể nào làm được, còn uống rượu thì dễ quá ai mà làm không được. Sau khi cân nhắc mọi hơn thiệt, anh đi mua rượu về uống. Lúc đầu anh còn tự chủ được, nhưng về sau, không còn làm chủ được mình nữa, anh đã say túy lúy, và kết quả đã diễn ra đúng như Sa-tan mong đợi, anh đã giết cha và hành hạ người em.
Câu chuyện trên có lẽ không chỉ là chuyện ngụ ngôn mà là thực tế xảy ra từng ngày trước mắt chúng ta. Tội ác nằm trong máu của con người, rơi vào một hoàn cảnh nào đó, ai cũng có thể là một tên sát nhân. Thế nhưng câu chuyện trên không phải chỉ nêu lên mặt trái của con người, nó còn nói lên nét cao quý trong lòng con người nữa. Người thanh niên trong câu chuyện, chúng ta thấy anh đã không lao vào tội ác như một phản ứng bình thường, đạo lý và lẽ phải đã đến với anh trước tiên. Điều đó cho chúng ta thấy: từ thâm cung của lòng mình, con người luôn hướng về điều thiện. Con thú cắn xé rồi lăn ra ngủ yên, nhưng con người thì không như thế, có kẻ sát nhân nào mà không cảm thấy bị cắn rứt trong lương tâm, có hành động xấu nào mà không dày vò lòng dạ con người. Con người sinh ra vốn hướng về điều thiện: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Không có một tâm hồn nào hư đốn hoàn toàn, không có một con người nào xấu xa tuyệt đối, đâu đó trong tâm hồn mỗi người luôn vang vọng lời mời gọi của thiện hảo.
Vì thế, con người dù lầm lỗi thế nào chưa quan trọng, điều quan trọng hơn là có biết cải thiện sửa đổi hay không, và trong việc cải thiện đời sống hay ăn năn trở lại, có ít là ba giai đoạn: Thứ nhất là nhận biết hay nhìn nhận tình trạng sai lỗi của mình. Không nhìn nhận mình là tội nhân thì làm sao có thể nghĩ đến việc trở lại. Thứ hai là quyết định trở lại, quyết tâm sửa đổi như người con hoang đàng: “Thôi, tôi sẽ lên đường trở về cùng cha tôi”. Chúng ta dễ dùng dằng, lần lữa từ tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác là chuyện quá thường, là cơn cám dỗ quen thuộc của ma quỷ để ngăn cản việc cải thiện đời sống. Thứ ba là thi hành điều quyết định trở về như người con hoang đàng: “Anh đã chỗi dậy mà về nhà cha anh”. Đó là bước quyết liệt đòi nhiều can đảm và hy sinh để dứt bỏ mọi quyến rũ của đối phương. Người Âu châu thường nói: “Bước khó khăn nhất là bước qua ngưỡng cửa”, tức là bước quyết định. Vì khó, nên cần ơn trợ giúp của Chúa. Thay đổi tóc trên đầu đen thành trắng hay trắng thành đen còn làm được huống nữa là thay đổi tâm hồn từ tội lỗi trở nên thánh thiện, chỉ cần tỏ thiện chí tối thiểu là lập tức có đủ ơn trợ giúp để cải thiện đời sống.
Mỗi người khi dấn thân đổi mới cuộc đời, từ bỏ tật xấu, tập nhân đức và lớn lên trong các nhân đức đòi hỏi ba yếu tố: Thứ nhất là sự kiên quyết, thứ hai là ơn trợ giúp của Thiên Chúa, thứ ba là sự giúp đỡ của những người chung quanh.
Không ai có thể tự mình chừa bỏ tật xấu, tự mình luyện tập nhân đức, sự quyết tâm là điều cần thiết, nhưng cũng còn cần đến sự trợ giúp của ơn Chúa và sự giúp đỡ của những người chung quanh.
Ơn Chúa chắc chắn luôn luôn được ban cho mỗi người, vì Thiên Chúa nhân từ, hằng muốn mọi người ăn năn trở về với Ngài: “Ta không kết án con”. Ngài là Đấng vui mừng mạc khải cho chúng ta biết: toàn thể thiên đàng hân hoan vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn 99 người công chính không cần trở lại. Còn lại hai yếu tố: sự nhất quyết của cá nhân và sự giúp đỡ của những người chung quanh. Mỗi người có quyết tâm cải thiện đời sống hay không, và có được những người chung quanh thông cảm, nâng đỡ để giúp nhau sửa đổi đời sống hay không ? Rồi đến lượt chúng ta, mỗi người có trở thành một người giúp đỡ kẻ khác, để khuyến khích họ trở về với Chúa không ? Hay chúng ta lại nghiêm khắc xét đoán, lên án, khinh thường và loại bỏ người anh em đang thành tâm chiến đấu với tật xấu của họ để đổi mới cuộc đời. Cùng chia sẻ thân phận tội lỗi, chúng ta dễ dàng thông cảm, tha thứ và giúp đỡ nhau để cùng nhau đổi mới đời sống.
Xin Chúa thương gọi chúng ta trở về với Ngài, đổi mới cuộc đời cho tốt đẹp hơn, và giúp chúng ta trở thành một người bạn thay vì là một quan tòa, một người bạn đầy thông cảm, nâng đỡ anh chị em chung quanh, để chúng ta biết giúp đỡ nhau và nương tựa nhau sửa đổi đời sống mỗi ngày tốt đẹp hơn.
Niềm vui đức tin là niềm vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.
Trong ba dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm: TN 24-C119
Trong ba dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc và vác chiên lên vai rồi về nhà mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đồng bạc mất cũng mời lối xóm đến chia vui; người cha có đưa con đi hoang trở về liền mở tiệc ăn mừng.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Chúa Giêsu bày tỏ niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; ở dụ ngôn thứ hai "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; và ở dụ ngôn thứ ba "phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy".
Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.
Hôm nay xin suy niệm về dụ ngôn thứ ba. “Dụ ngôn đứa con hoang đàng” được gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của câu chuyện chính là người cha.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
1. Người con thứ
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà. Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về ? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây ! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn ? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao ? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi. Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc. Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Đọc câu chuyện, tôi nhận thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa; mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều người như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
2. Người con cả
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “ không như thằng con của cha” Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẽ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và sự sống.
3. Người cha
Khi chia gia tài cho con lòng cha đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái, người ta mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
Để có được niềm vui trong Chúa, điều căn bản là phải tin tưởng gắn bó cuộc đời với Chúa, phải thực lòng yêu mến Ngài. Chính niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa thúc đẩy con người hoán cải khi lầm lỗi. Cuộc sống sẽ vui tươi hạnh phúc khi chúng ta có Chúa trong cuộc đời của mình. Niềm vui đức tin là niềm vui trong Chúa và có Chúa ở giữa chúng ta.
“Hãy chia vui với tôi”, Thiên Chúa vui mừng khi con người sống thân mật với Ngài trong tình cha con.
“Hãy chia vui với tôi”, đó cũng là lời mời gọi mỗi kitô hữu chia sẻ niềm vui đức tin với anh em mình trong cuộc sống hàng ngày.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
------------------------------------
TN 24-C120: Lòng bao dung của Thiên Chúa
(Lc 15, 1-10)
Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu: TN 24-C120
Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu thương.
Để đối phó với những người phạm tội, luật hình sự tại các quốc gia quy định nhiều hình phạt khác nhau: phạt tiền, giam nhốt trong các nhà tù hay xà lim, lưu đày biệt xứ hoặc trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng thì đem ra xử tử để vĩnh viễn loại trừ người lỗi phạm khỏi thế giới loài người.
Trong khi đó, để đối phó với tội nhân, Thiên Chúa không muốn trừng phạt mà chỉ muốn giúp tội nhân ăn năn hối cải quay về đường lành. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Ê-dê-kiên: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống” (Ê-dê-kiên 18, 23 và 33, 11)
Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu thương. Dù con người có đắm chìm trong lầm lạc và tội lỗi, Thiên Chúa không bỏ rơi, không hủy diệt họ, nhưng tìm mọi cách đưa họ trở về đàng lành.
Dụ ngôn người đi tìm chiên lạc trong Tin Mừng Luca (Lc 15, 4-7) chứng tỏ cho chúng ta thấy điều đó:
Người chăn chiên tốt hết lòng yêu thương, quý mến từng con trong đàn, bất kể đó là chiên tốt hay chiên xấu, mập hay gầy, già hay non. Và khi phát hiện ra một con chiên lạc đàn, anh ta bôn ba, tất tả kiếm tìm cho bằng được con chiên lạc với bất cứ giá nào. Một khi đã tìm thấy, anh vác chiên lên vai, mừng vui hớn hở trở về, kêu mời bà con làng xóm đến chia mừng với anh.
Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giê-su tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa xem mỗi người chúng ta là báu vật vô giá, nên nếu có bất kỳ ai “lạc mất”, thì Ngài phải tìm về cho bằng được.
Dụ ngôn trên cũng cho thấy cung cách ứng xử rất khoan dung và đầy thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thay vì trừng trị hoặc trừ khử các tội nhân như các tòa án khắp nơi thường làm, Thiên Chúa Ngôi Hai đã rời bỏ ngai trời vinh hiển, vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm để đi tìm kiếm từng người trong nhóm họ.
Thay vì tống giam các tội nhân vào ngục, bắt họ mang gông cùm xiềng xích, Chúa Giê-su rất tôn trọng và quý mến tội nhân, tìm nhiều cách hoán cải họ; có khi Ngài còn đến ở lại trong nhà người tội lỗi, cùng ăn uống đồng bạn với họ, trở nên bạn bè của họ, nhằm lấy tình bạn mà cảm hóa họ trở về. (Luca 15,2)
Thay vì kết liễu mạng sống của các tội nhân ác nghiệt, bắt họ phải đền nợ máu họ đã gây ra như các tòa án nhân loại thường làm, Chúa Giê-su đã đổ máu châu báu của mình ra để chết thay cho họ, để rửa sạch họ khỏi muôn vàn tội lỗi và cho họ được sống đời đời.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, ngay cả những tội nhân bầm dập, khốn cùng nhất, đã được Chúa Giê-su khẳng định trong Tin Mừng Mat-thêu: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Ngài đưa công lý đến toàn thắng.” (Mt 12, 20 và Is 42, 3)
Lạy Chúa Giê-su,
Hôm xưa, Chúa đã rong ruổi tìm kiếm từng con chiên lạc để vác chiên về. Hôm nay, để tiếp tục sự nghiệp đó, Chúa đã dùng bí tích Thánh Tẩy để tháp nhập chúng con vào Thân Mình Chúa, cho chúng con trở thành một chi thể sống động trong Thân Thể Chúa để chúng con đồng hành với Chúa trên hành trình tìm kiếm và đưa về đàn nhiều con chiên lạc trong thôn xóm chúng con.
Xin cho chúng con trở nên đôi chân của Chúa, rảo bước không mệt mỏi trên vạn nẻo đường đời, để tìm kiếm và đưa về những anh em lạc xa đường Chúa.
Xin cho chúng con trở nên đôi vai của Chúa để làm chỗ dựa tinh thần cho những con người lâm cảnh khốn cùng đang cần một chỗ tựa nương. Amen.
Chữ Tình thật vĩ đại! Vì nếu không có chữ Tình thì cuộc sống vô nghĩa, và người ta chết hết. Trong: TN 24-C121
Chữ Tình thật vĩ đại! Vì nếu không có chữ Tình thì cuộc sống vô nghĩa, và người ta chết hết. Trong cuộc sống đời thường, người ta còn biết coi trọng chữ Tình, huống chi trong đời sống tâm linh, đời sống tôn giáo, nhất là đối với người Công giáo, vì Thánh Gioan Tông đồ đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8).
NS Trần Thiện Thanh đã cảm nhận: “Tình là tình nhiều khi không mà có, tình là tình nhiều lúc có như không…” (Tình Có Như Không). Tình yêu là vậy, có khi rất KỲ LẠ, mà có khi lại cũng rất KỲ CỤC. Còn NS Lê Dinh nói: “Chữ tình rắc rối lắm ai ơi, chữ tình khúc mắc quá đi thôi, chữ tình là số kiếp thương đau con người. Chữ tình là vô vàn nước mắt, chữ tình là đêm dài thức trắng, cuối cùng vòng tay rả rời là buồn nhiều hơn vui” (Chữ Tình). Khốn khổ quá, tình ơi!
Nhưng đó là tình yêu bình thường, chưa thực sự cao thượng, vì còn ẩn chứa nhiều ích kỷ. Trong tình yêu bình thường, gọi là CHO nhiều hơn NHẬN, nhưng thực chất vẫn vì mình hơn vì người mình yêu. Đó là tình-yêu-vị-kỷ. Nhưng tình yêu theo phong cách của Đức Kitô thì hoàn toàn khác, đó là tình-yêu-vị-tha, yêu cả kẻ thù chứ không chỉ yêu người yêu mình. Bằng chứng là Đức Kitô đã thực hiện dạng tình-yêu-vị-tha này. Tình yêu loại nào cũng có cái “rắc rối” rất đặc thù vậy!
Chữ TÌNH có gì đó liên quan chữ TỘI. Vì có Tội nên luôn cần Tình, mà ai cũng có Tội, do đó mà ai cũng cần Tình. Một thuận lý tuyệt vời, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên!
TỘI LỖI
Thiên Chúa phán với ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: “Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập” (Xh 32:7-8). Dân Ít-ra-en “hư hỏng”, tức là phạm tội, chính là hình ảnh của chính mỗi chúng ta.
Rồi Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: “Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn” (Xh 32:9-10). Chúng ta cũng rất cứng đầu cứng cổ, rất bướng bỉnh, rất ương ngạnh, cứ tái phạm biết bao lần trong hành trình cuộc sống, càng sống lâu càng phạm tội nhiều. Thực tế ấy không thể chối cãi! Đừng tưởng sống thọ là “ngon”. Ngày nay, chúng ta không đúc bò vàng để thờ, nhưng chúng ta “đúc” nhiều loại ngãu tượng còn tinh vi hơn nhiều, nghĩa là cách phạm tội của chúng ta cũng tinh vi hơn, với rất nhiều loại ngẫu tượng mà chúng ta lại cho đó không là tội lỗi. Thậm chí ngay khi chúng ta sùng kính thánh tượng cũng có thể là tôn sùng ngẫu tượng, nếu cuồng tín hoặc lệch lạc niềm tin. Rất nguy hiểm!
Ngày xưa, thấy dân Ít-ra-en có những cái cổ cứng như đá, Thiên Chúa đã nổi giận. Thấy Chúa như vậy, ông Môsê cố làm cho nét mặt Đức Chúa, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa: “Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập?” (Xh 32:11). Thánh Môsê còn viện dẫn để cậy nhờ công nghiệp của các Tổ phụ: “Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Ápraham, Isaác và Ítraen; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời” (Xh 32:13). Và rồi Kinh Thánh cho biết: “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe” (Xh 32:14). Ôi, chữ TÌNH của Chúa thật khôn tả!
Cảm ơn Thánh Môsê lắm! Nhờ Thánh Môsê mà dân lại được Thiên Chúa xót thương để có thể được sống. Cũng vậy, nhờ Đức Mẹ, nhờ Đức Thánh Giuse và nhờ chư thánh mà chúng ta lại được được Thiên Chúa xót thương để có thể được sống tiếp. Quả thật, Hồng ân Thiên Chúa bao la!
Cũng vì đã phạm tội, nhưng biết sám hối, mà tác giả Thánh Vịnh van xin Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4). Rõ ràng là nếu không có lòng thương xót của Chúa thì chúng ta chết hết!
Tất cả là hồng ân, ngay cả lòng sám hối của chúng ta cũng là hồng ân Chúa ban: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài” (Tv 51:12-13).
Chúng ta thật hạnh phúc vì Chúa đã biến lòng chai đá của chúng ta nên mềm nhũn để chúng ta có thể ăn năn sám hối. Chữ TÌNH của Ngài quá lớn. Vậy chúng ta phải thi hành bổn phận chúc tụng và tạ ơn: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài” (Tv 51:17). Đây là lời khẩn cầu mà Giáo hội dùng trong mọi giờ Kinh Nhật Tụng.
Thiên Chúa có tất cả, Ngài không cần gì, ngay cả lời chúc tụng của chúng ta cũng không thêm chút gì cho Ngài, nhưng lại có thể sinh ơn cứu độ cho chúng ta. Thật lạ! Điều Ngài muốn ở chúng ta cũng là điều khác lạ: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận. Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 51:18-19). Chúng ta tồi tệ thế mà Chúa lại yêu thích. Hạnh phúc cho chúng ta biết bao! Nhận tội là động thái khiêm nhường, mà càng khiêm nhường thì càng được Thiên Chúa xót thương. Rất lô-gích!
Sau khi cảm nhận được chữ Tình của Thiên Chúa, Thánh Phaolô công nhận: “Tôi tạ ơn Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin” (1 Tm 1:12-13).
Thánh Phaolô trần tình thêm: “Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời” (1 Tm 1:14-16). Quả thật, đó là những lời tự thú, là xưng tội, nhờ vậy mà được Thiên Chúa tha thứ và xót thương nhiều hơn.
Mỗi chúng ta cũng phải noi gương Thánh Phaolô cất lời tuyên xưng và tôn vinh: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen” (1 Tm 1:17).
THƯƠNG XÓT
Một hôm, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Thế nhưng các người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Ác khẩu quá! Độc miệng quá! Nhưng chúng ta cũng đừng vội trách họ mà tự mãn, và đừng quên rằng có lúc chúng ta cũng chẳng hơn Pharisêu đâu!
Đức Giêsu mới kể cho họ ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót:
1. Người có một trăm con chiên mà bị mất một con, để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, rồi đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại để chia vui (Lc 15:4-6).
Theo kiểu nói khôi hài của cố Hồng y P.X. Nguyễn Văn Thuận, dụ ngôn này cho thấy Chúa Giêsu không biết tính toán. Nhưng phải chân nhận rằng cũng nhờ Chúa “không biết làm toán” mà chúng ta mới được cứu và được sống đến nay!
2. Một phụ nữ có mười đồng quan, chẳng may đánh mất một đồng, phụ nữ này thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được. Tìm được rồi, bà mời bạn bè, hàng xóm lại để chia vui (Lc 15:8-9).
Cũng theo kiểu nói khôi hài của cố Hồng y P.X. Nguyễn Văn Thuận, dụ ngôn này cho thấy Chúa Giêsu không biết làm kinh tế. Nhưng phải chân nhận rằng cũng nhờ Chúa “không biết làm kinh tế” mà chúng ta mới được cứu và được sống đến nay!
3. Dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” (Lc 15:11-32), trước đây thường gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”. Đây là câu chuyện “nổi tiếng” nhất về Lòng Chúa Thương Xót, chắc hẳn không Kitô hữu nào lại không biết.
Chúa Giêsu làm toàn những “chuyện ngược đời”, thật là “khó hiểu”, “kỳ lạ” hết sức! Một đứa con coi cha mình không ra gì, lại còn đòi chia gia tài rồi đi ăn chơi hoang đàng chi địa. Thân tàn ma dại rồi mới nhớ tới cha mình. Người cha trần gian đăng báo hoặc công khai từ con là cái chắc. Thế nhưng phải chân nhận rằng cũng nhờ Chúa “ngược đời” như vậy mà chúng ta mới được cứu và được sống đến nay!
Chữ TÌNH của Chúa kỳ diệu quá!
Chúng ta phải nhớ những câu đặc biệt Chúa Giêsu đã nói để mà cố gắng sống yêu thương và đoàn kết, cùng bảo vệ công lý và kiến tạo hòa bình:
– Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn (Lc 15:7).
– Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối (Lc 15:10).
– Em con đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy (Lc 15:32).
Hãy lưu ý, đừng để Chúa nguyền rủa: “Khốn cho các người! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23:27).
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa! Xin cho chúng con biết sống yêu thương và thể hiện lòng thương xót với mọi người, xin giúp chúng con thực hành nghiêm túc chứ không nói suông bằng môi miệng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay cho con nhận ra được lòng thương xót của Chúa với con: TN 24-C122
Bài Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay cho con nhận ra được lòng thương xót của Chúa với con người thật là cao cả. ”Để cứu rỗi chúng con, Người đã từ trời xuống thế” (Kinh Tin kính), và còn hơn thế nữa, những người tội lỗi lại là những người đựơc Chúa thương một các đăc biệt. Không vì tán đồng những hành vi của họ, nhưng là thương xót, không muốn để họ phải hư mất. Người đã đến với họ, cùng ăn chung một bàn, cùng ngồi chung một chiếu. Sẵn sàng lắng nghe họ, tìm hiểu họ, với mục đích chỉ ra cho họ con đường thóat khỏi xiềng xích của ác thần, dẫn dắt họ trở về với tình thương yêu, trở về với Cha để đón nhận đựoc tình thương của Ngài. Tuy nhiên việc Chúa làm lại bị những kẻ giả hình phê phán: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng “.
Đức Giêsu đã mô tả việc một người tội lỗi trở về là một niềm vui, cho họ được cơ hội đón nhận tình yêu thương của Chúa, qua đó nói lên sứ mạng của Người khi đến trần gian. Như người chăn chiên đau đáu trong lòng khi có một con chiên trong đàn bị thất lạc, bằng bất cứ giá nào ông sẽ đi tìm về, thậm chí dám rời bỏ cả đòan 99 con, để đi tìm lại một con. Chúa cũng nêu hình ảnh một người phụ nữ tiếc xót thế nào khi đánh mất một đồng quan trong nhà. Bà không quản ngại tìm cho được, dù phải thắp đèn, moi móc, quýet dọn để tìm cho ra. Và khi tìm thấy thì vui mừng vô kể, mời xóm giềng đến chia vui. Và còn hơn thế nữa, chuyện người cha nhân hậu càng làm cho con nhận ra được Chúa yêu thương con người xiết bao.
Người Cha trong tin mừng chính là Thiên Chúa, đấng luôn ngóng trông con mình tội lỗi trở về đã củng cố cho con niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Hành động người con hoang đàng trở về là một mẫu gương cho con trong đời sống. Con cũng bao lần bỏ nhà ra đi, cũng bao lần đựoc Cha chia gia tài là ơn Chúa, là khả năng, là phúc lộc… vậy mà con vẫn bỏ đi, phung phá, sa vào mọi điều xấu. Đã nhiều lúc lâm vào tình trạng kiệt quệ, thay vì trở về với cha, con lại tìm đến cầu cứu nơi các thế lực đen tối khác, để mong thóat ra khỏi cơn nguy nan. Con không nhận ra Chúa vẫn dang tay gọi mời.
Lạy Chúa,
Xin cho con khi nhận biết tình Chúa yêu con, con dám can đảm đứng lên, rời bỏ quá khứ tội lỗi để trở về với Chúa, Đấng là Cha hết mọi người. Con biết rằng thân phận con thì mỏng dòn yếu đuối. Con biết được, khi trở về ở nhà rồi, được mấy ngày, lại tìm cách kiếm ít tiền của rồi trốn đi, ăn chơi, sa ngã. Tái đi tái lại bao lần. Sợ Cha rầy la, không chấp nhận, nên con ngã lòng đến nỗi bỏ đi thật xa. Tư tưởng ấy tồn tại trong con, cho thấy lòng tin của con vào tình thương của Chúa còn non yếu. Xin Chúa giúp con, xin Người ban thêm đức tin cho con.
Xin cho con biết nhìn nhận mình yếu đuối, phải cây dựa vào Lòng Chúa xót thương, biết thưa lên như người con thứ trong Tin Mừng: “Cha ơi! Nay con đã về, về đây cùng ở với Cha. Bao nhiêu tháng năm hoang đàng, một lần ghi dấu ăn năn. Con xin làm người tôi hầu, về đây bên Cha dấu yêu. Rồi đây những khi ưu sầu, con được tình Cha xót thương nhiều” . AMEN.
Những người Pharisêu và các kinh sư cảm thấy khó chịu vì thái độ sống phóng túng của Đức: TN 24-C123:
Những người Pharisêu và các kinh sư cảm thấy khó chịu vì thái độ sống phóng túng của Đức Giêsu. Họ ‘xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”.
Cũng dễ hiểu thôi, đầu óc Cựu Ước của họ đâu cho phép phản ứng cách khác. Đức Chúa Giavê là Đấng thánh, ba lần chí thánh. Sự thánh thiện nào mà chẳng khai trừ tội lỗi, xa lánh bùn nhơ ? Một người thánh mà gần gũi với phường gian ác là không thể chấp nhận, không thể biện minh được. Đàng này ông Giêsu Nadarét đã từng nhận mình là Đấng Thánh, là Con của Thiên Chúa tối cao, thế mà còn dám... Cho dầu Cựu Ước cũng có lúc đã đề cập tới ‘Thiên Chúa là đấng giầu lòng từ bi và hay thương xót’ nhưng điều này chỉ được hiểu như một luật trừ, được áp dụng cho một số ít tội nhân đã thực tình cải tà qui chính mà thôi.
Đức Giêsu dùng tới ba dụ ngôn liên tiếp để quảng diễn điều được Người cho là điểm độc đáo nhất trong Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên cũng chính các câu truyện này đã gây nên các chống đối vì chứa đựng một nội dung nghịch lý tới độ không một người Do Thái chân chính nào có thể chấp nhận được. Đặc biệt đối với nhóm Pharisêu và Luật Sĩ thì giáo lý mới này lại càng chướng tai gai mắt mà bất cứ ai chủ trương trung thành với giao ước Môsê đều phải lên án nó.
Theo học thuyết mà Đức Giêsu đang rao giảng thì Thiên Chúa đương nhiên là đấng vô cùng thánh thiện, nhưng nơi Người có một điều gì khác còn cao quí hơn cả ‘sự thánh thiện’. Thiên Chúa tiên quyết là một Thiên Chúa của tình yêu thứ tha, đầy lòng từ bi và hay thương xót. Thiên Chúa đó chắc hẳn sẽ vui mừng vì sự thánh thiện của con người, nhưng Ngài còn vui hơn nhiều khi có một tội nhân ăn năn sám hối. “Trên Trời ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn… Giữa triều thần Thiên Quốc, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối…”
Khảng định như thế vì Đức Giê-su cho rằng Thiên Chúa tìm thấy vinh quang và niềm vui lớn nhất mỗi khi lòng tha thứ của Ngài được biểu dương. Để có được niềm vui khôn tả đó, Thiên Chúa không thụ động ngồi chờ hay chỉ lên tiếng kêu gọi xuông. Ngài chủ động ‘đi tìm cho kỳ được… thắp đèn rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được…’ Và đó chính là lý do giải thích tại sao có lịch sử cứu độ, tại sao có việc nhập thể của Ngôi Lời, tại sao có cuộc tử hình thập giá, tại sao Thánh Thần được ban tặng, và tại sao Hội Thánh được thiết lập. Tất cả đều là vì Ngài muốn ‘moi móc tìm kiếm cho kỳ được !’
Hiểu được niềm vui thần thánh này ( heavenly joy ) là cả một mạc khải của Thần Khí hoan lạc… Nhưng đâu có dễ gì, ngay cả các bậc thánh hiền, thông thái và chính trực nhất cũng không thể hiểu nổi; hay nói cách khác, hạng người như thế có lẽ lại càng hiểu khó hơn. Họ là những người tin tưởng rằng mình đã làm đẹp lòng Ông Chủ khi ‘chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt ( Mt 20, 12 )’ hay ‘bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng bao giờ trái lệnh’. Họ phân bì và tức tối khi thấy mình không được hơn, mà còn có thể bị xếp dưới cả phường tội lỗi bất nhân.
Vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức… Thế là những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót.” Họ không thể chấp nhận nổi câu khích lệ của Người Cha nhân từ: “phải ăn mừng, phải vui vẻ!” Công nghiệp và phần thưởng mà họ nghĩ rằng mình đáng được hưởng đã bịt kín mắt để họ không thể nhận ra rằng: lòng nhân từ của Cha mới là điều vĩ đại và niềm vui lớn lao nhất được ban tặng cho loài người.
Nếu quả Tin Mừng chính yếu hệ tại ở việc nhận biết lòng thương xót của Thiên Chúa thì hậu quả của nó sẽ vô cùng lớn lao. Ta vẫn thường cho rằng giá trị Tin Mừng hệ tại ở việc ăn ngay ở lành, sống đạo đức thánh thiện… Quan niệm này là điều ta dễ dàng chia sẻ với nhiều tôn giáo hoặc các nền triết lý cao đẹp khác. Đàng này nếu ta xác tín rằng: tham gia vào lòng nhân ái và thương xót tội nhân của Thiên Chúa mới chính là nội dung lớn nhất của Tin Mừng, ta sẽ hiểu rõ hơn những khảng định trên của Đức Giêsu.
Và còn hơn thế nữa, ta mới phát hiện ra giá trị vô song của Thập Giá Đức Kitô. Càng là Kitô hữu, ta càng phải tự mình nghiệm ra rằng tình yêu cứu độ phổ quát của Thiên Chúa mới là điều cao cả nhất. Càng là Kitô hữu ( hơn thế nữa càng là Tu Sĩ, Linh Mục ), tôi càng phải có khả năng nếm cảm được niềm vui vô bờ mỗi khi lòng từ nhân này được tỏ hiện ( qua các công tác giáo dục, mục vụ và tông đồ ).
Bao lâu còn duy trì cảm giác lạnh nhạt, kết án, tự cao tự đại trước các tội nhân, bấy lâu tôi còn bước đi trên con đường công chính của Cựu ước, hoặc của một tôn giáo nào đó. Tôi vẫn còn đi trên con đường lầm lạc bao lâu vẫn chưa thâm nhập được vào cõi lòng đầy xót thương và nhân ái của Chúa Kitô Thập giá và Thánh Thể.
Xét theo tiêu chuẩn này, phẩm chất đời sống Kitô hữu của tôi hiện như thế nào ?
Lạy Cha, Cha đã nói với con rằng “tất cả những gì của cha đều là của con”. Vâng, xin cho con hiểu ra rằng ‘của Cha’ chính là lòng thương xót Cha dành cho con chiên lạc, cho đồng bạc bị mất, cho đứa con hoang… thì đó cũng phải là ‘của con’ nữa.
Xin cho con biết cùng Cha lùng sục tìm kiếm những của quí đó, khi con làm các việc tông đồ hay chu toàn tác vụ Linh Mục Cha trao. Cũng xin cho con được chia sẻ niềm vui của Cha, để ăn mừng và vui vẻ khi có người anh em con đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Xin cho tim con được đập cùng nhịp với con tim thương xót cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Con Cha. Amen.
Năm 1865, nội chiến Hoa Kỳ, trong lúc binh sĩ của miền Nam đang bị vây khốn ở làng Appomattox: TN 24-C124:
Năm 1865, nội chiến Hoa Kỳ, trong lúc binh sĩ của miền Nam đang bị vây khốn ở làng Appomattox, nhiều người đã khuyên tướng Lee nên chia quân ra để tiếp tục đánh bằng du kích thay vì đầu hàng. Nhưng tướng Lee đã từ chối, không muốn cuộc chiến này kéo dài một cách vô ích. Ông quyết định chấm dứt chiến tranh và ra đầu hàng tướng Grant của quân đội miền Bắc.
Trong buổi lễ ký giấy đầu hàng tại Appomattox Court House, tướng Grant đã ra nghiêm lệnh cấm binh sĩ miền Bắc không được reo hò vui mừng chiến thắng, và lập một hàng quân danh dự đứng nghiêm chào tướng Lee và đoàn tùy tùng đi tới. Tướng Lee chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Ngoài ra tướng Grant còn cung cấp lương thực cho một số binh đoàn miền Nam để họ đủ sức trở về quê.
Tổng thống Abraham Lincoln thường cho mọi người biết là ông mong muốn cuộc chiến kết thúc trong sự khoan dung độ lượng. Nên khi tướng Grant hỏi Tổng Thống Lincoln làm gì với binh sĩ miền Nam đầu hàng, ông không do dự trả lời: “Hãy để họ được tự do ra về. Tôi sẽ đối xử với họ như thể chưa bao giờ họ rời bỏ mái nhà.”
Người con hoang đàng trong Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay, trở về quê nhà, mệt mỏi, kiệt sức và thất thểu như binh lính Miền Nam thất trận hồi hương. Nhưng Người Cha Nhân Hậu vẫn yêu thương mong mỏi đứa con hư, cũng như tha thứ đón chờ.
Yêu thương đi tìm
Ba dụ ngôn liên tiếp trong trích thuật Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay là câu trả lời quyết liệt, đanh thép, nhưng rất dịu dàng, êm ái, thấm thía của Đức Giêsu cho Pharisêu và kinh sư về việc Người gần gũi với kẻ tội lỗi, người thu thuế gian tham, người tàn tật, bệnh tật, nghèo khó.
Người tận tâm, tận tụy, thương xót, đi tìm chiên lạc đàn, những kẻ xa lìa cộng đồng Dân Chúa, chạy theo những ảo ảnh phù phiếm thế gian, của cải, vật chất, quyền cao chức trọng, đam mê hưởng lạc. Người thương yêu chủ động đi tìm chiên lạc về, vác lên vai, âu yếm chăm sóc và chia vui cùng bạn hữu, xóm làng. Trong khi “trên Trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” ( Lc 15, 7 ).
Người không bị choáng ngợp mê hoặc bởi số đông, con số lớn, số nhiều, như thói đời, nhưng trái lại, Người trân trọng từng con số lẻ ít ỏi, từng thân phận nhỏ nhoi, cô quả, yếu đuối, như người đàn bà hối hả đi tìm một đồng tiền đánh rơi mất. Đối với Thiên Chúa mỗi con người đều là báu vật vô giá. Mặc dù con người sa đọa, lấm lem tội lỗi, Thiên Chúa vẫn không hề bỏ rơi. Ngài không trừng phạt nhãn tiền, mà vẫn yêu thương và trân trọng, vẫn ra sức tìm mọi cách đưa những tâm hồn bầm dập về lòng thương xót vô biên. Kể cả những tội nhân bị xã hội kết án nặng nề, bị hành hình sắp chết, Thiên Chúa vẫn cứu thoát, nếu biết sám hối trở về, như người trộm lành: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng” ( Mt 12, 20 và Is 42, 3 ).
Tha thứ chờ đón
Tổng thống Abraham Lincoln khoan dung với binh sĩ miền Nam thất trận, còn giúp đỡ hồi hương. Thiên Chúa còn từ bi nhân hậu gấp bội với kẻ lầm đường lạc lối, sám hối quay trở về, còn tưởng thưởng hạnh phúc viên mãn
Mòn mỏi chờ đón đứa con hoang đàng trở về mái ấm. Từ xa thấy con, Người chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để. Người Cha Nhân Từ tha thứ hết, chẳng hạnh hỏi tội bất hiếu, chẳng hề nhớ đến những thói hư tật xấu. Chẳng kịp nghe hết lời ăn năn sám hối, Người đã vội ra lệnh lấy áo đẹp, nhẫn vàng, dép mới phục sức cho con. Vì coi như đứa con đã mất nay tìm thấy, đã chết, nay đã sống lại bên Người.
Chúng ta thấy ở đây trí nhớ của Chúa Giêsu dường như không còn làm việc nữa ! Ngài quên vô điều kiện, quên tức khắc tất cả quá khứ không hay, không tốt của ta, mỗi khi chúng ta quay trở về. Ngài chỉ nhớ mỗi người là con Cha Ngài, là em Ngài, nên khi ta quay lại gặp Ngài, thì tức khắc ta lại được mặc áo vinh hiển sự sống của Thiên Chúa ( Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận, Tại sao tôi chọn Chúa ).
Ngài luôn mãi chờ đợi cuộc hạnh ngộ, nhưng tôi cứ mãi đi hoang. Trở về nhà êm ấm, qua Bí Tích Hòa Giải, rồi lại lạnh lùng bỏ đi, tôi mù lòa chạy theo xác thịt, theo đam mê phù phiếm, theo vui thú trần gian. Nhưng Lòng Thương Xót bao dung vô bến bờ, vẫn nhẫn nhục lặng lẽ thứ tha và chờ đợi.
Lạy Chúa Giêsu đầy lòng bao dung, xin kêu gọi, lôi kéo con về với Chúa mỗi ngày, dù con chưa dứt nổi cám dỗ, dù con cứ luôn phụ bạc, phản nghịch và cứng lòng. Xin soi sáng con cảm nghiệm lòng Chúa thương xót bao la dạt dào, mỗi khi con trở về, cùng nhận ra sự yếu đuối mỏng manh thân phận. Xin cho con cảm nghiệm Tình Yêu sung mãn, để có thể yêu thương và tha thứ cho tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ luôn có Chúa ở cùng, khấn xin Mẹ luôn nhắc nhủ con mau mắn trở về với Chúa, dù con luôn lỗi phạm, luôn phản bội, luôn làm mất lòng Chúa. Xin Mẹ ghi lòng tạc dạ con rằng, Chúa luôn sẵn sàng thương xót tha thứ, vỗ về an ủi, thương yêu, nếu con biết sám hối trở về.
Đức Giêsu đã dùng rất nhiều dụ ngôn để nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân: TN 24-C125
Đức Giêsu đã dùng rất nhiều dụ ngôn để nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân. Con người thường hay đập phá, hủy bỏ thay vì kiện toàn. Nhân loại rất kém lòng nhẫn nại đối với người tội lỗi, nhưng Thiên Chúa thì hoàn toàn trái ngược. Có thể khẳng định, tội con người xúc phạm đến Thiên Chúa cao hơn trời, rộng hơn bể, vậy mà Thiên Chúa luôn luôn yêu thương và tha thứ. Tại sao vậy ? Thật đơn giản, vì Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu và Lòng Thương Xót. Hơn nữa, Ngài là Cha, là Đấng Tạo Hóa đã dựng nên nhân loại, có lẽ nào Ngài có thể hủy bỏ sản phẩm chính tay Ngài tạo nên ?
Chờ đợi và tha thứ là phẩm tính của Thiên Chúa. Con người thì không vậy. Chính sự ngạo ngược này mà nhân loại mới sát hại, chém giết lẫn nhau. Hàng ngàn năm, biết bao thế hệ qua rồi, người ta vẫn chưa thể yêu thương nhau trọn vẹn. Ánh hào quang của danh vọng, bạc tiền, chức vụ, địa vị… đã làm lu mờ lương tâm và lý trí nhân loại. Một khi tình yêu thương bị đẩy xuống hàng thứ yếu, thì đau khổ, bất hạnh bắt đầu nảy sinh.
Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng, Ngài không tạo dựng nên con người và vũ trụ này trong tội lỗi và bóng tối. Thế nhưng, dường như sự ân tặng nhưng-không của Ngài cao vời quá, và con người đã để cho lòng tự trọng bị lợi dụng, loại trừ Thiên Chúa khỏi đời mình, đặt nhu cầu cá nhân lên trên tất cả, vì thế mà tình yêu thương không còn nữa.
Trong dụ ngôn nói về người chăn chiên bị lạc mất chiên của mình, Đức Giêsu đã khẳng định: “Trên trời ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn” ( Lc 15, 7 ). Bài toán đánh đổi xem chừng chênh lệch quá, con số ở đây chỉ là biểu tượng để diễn tả lòng yêu thương, chờ đợi và tha thứ vô bờ của Thiên Chúa.
Ngài yêu thương con người thật, Ngài yêu thương nhân loại vô bờ, đến cả thí bỏ mạng sống của Người Con Duy Nhất để cứu chuộc tội lỗi nhân loại. Bài toán ấy đã được thực hiện nhưng thời gian càng trôi qua, con người càng xem thường, lãng quên, cứ mải miết chạy theo tiếng gọi của đam mê dục vọng điên cuồng mà thôi.
Dụ ngôn người cha nhân hậu nói đến cả hai người con hoang đàng. Một người bỏ cha chạy theo của cải bạc tiền, sống buông thả theo dục vọng cá nhân. Một người ở lại bên cạnh cha nhưng chỉ với cái xác không hồn, sống trong nhà của cha nhưng lòng lại hướng theo của cải vật chất, chẳng khác gì người em. Cho nên đến khi người em đói khát quay trở về, người cha sung sướng hạnh phúc vui mừng đãi tiệc, quên mọi quá khứ tội lỗi của con, sẵn sàng phục hồi danh dự và nhân phẩm mà người em đã đánh mất thì người anh lại tức tưởi, ghen tỵ: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha và chẳng khi nào dám trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè” ( Lc 15, 29 ).
Cả hai anh em cùng hoang đàng, cả hai anh em đều bất xứng. Người em có trở về cũng vì thực dụng, vì được có cơm ăn áo mặc, chứ chưa hoàn toàn vì thương cha, vì hối hận: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói. Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha ta và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như người làm công của cha vậy” ( Lc 15, 17 – 19 ).
Nhân loại cũng vậy, thế giới cũng thế, đều là những người con hoang đàng bất xứng. Tất cả đều lạm dụng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa và đối đãi với nhau bằng sự ích kỉ. Cho nên, mỗi ngày thế giới càng vắng bóng yêu thương.
Không cần biết con là ai, không cần biết con đã làm gì, chỉ cần con trở về là cha đã hết sức hạnh phúc vui mừng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng. Vì con ta đây đã chết nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” ( Lc 15, 22 – 24 ).
Lạy Chúa, chìa khóa để giải mã mọi suy nghĩ và hành động của Ngài là ở đây, là Tình Yêu, Lòng Thương Xót, sự chờ đợi và tha thứ. Con người chúng con thì không vậy, chúng con chỉ muốn trả thù, tàn sát, tiêu diệt sự ác và phá hủy nó. Con kém lòng kiên nhẫn, thiếu sự bao dung trong khi chính con lại lạm dụng lòng bao dung và thương xót của Thiên Chúa biết chừng nào.
Xin giúp con hiểu rằng hơn ai hết, con chính là kẻ hoang đàng với hai gương mặt của cả hai anh em kia, để rồi mỗi ngày con biết mau mắn trở về cùng Thiên Chúa và luôn bao dung kiên nhẫn với mọi anh em sống quanh con.
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi muốn dừng lại ở thái độ của người cha và của người anh cả. TN 24-C126 Lượng
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi muốn dừng lại ở thái độ của người cha và của người anh cả. Trước hết là của người cha.
Người Cha
Ở vào hoàn cảnh của chúng ta, chúng ta có nhiều cách xử sự. Trước hết, ông có thể đuổi ngay đứa con vừa mới trở về và nói với nó: Hãy cút đi, hãy xéo cho khỏi mặt tao. Mày đã chẳng đem lại gì ngoài sự nhục nhã đến cho gia đình. Đồ khốn nạn, đồ mất dạy. Mày coi cả xứ này đang bàn tán về gia đình mày, vì vậy mà tao chẳng dám vác mặt đi tới đâu. Thứ đến ông có thể thử thách đứa con một thời gian, và đây là điều mà bất cứ người con nào đã bỏ nhà ra đi, khi trở về đều mong được hưởng: Xin hãy xử với con như một người làm thuê trong gia đình. Sau hết người cha có thể làm thinh, không thèm để ý đến nó. Cách này là một hình phạt nặng nề nhất đối với đứa con trở về. Nhưng người cha đã chẳng chọn một cách nào trong ba cách nói trên, thay vào đó, ông sung sướng như một đứa trẻ khi thấy cha mẹ đi xa trở về. Ông còn trút như mưa trên đứa con những dấu chỉ mạnh mẽ để chứng tỏ tình yêu khoan dung ông dành cho con. Ông phục hồi quyền lợi cho nó một cách tràn đầy như một người con của ông vậy. Người ta nói rằng đứa con trở về đó như đã mất mà nay lại tìm thấy và lại được thương mến hơn trước.
Vậy Chúa Giêsu muốn nói về ai thế? Ngài nói về Thiên Chúa, bởi vì chính người cha chứ không phải là đứa con giữ vai trò chính trong câu chuyện. Đó là cách Thiên Chúa cư xử với tội nhân khi họ quay trở về với Ngài, khi họ thực sự đổi mới cách ăn nết ở. Đó là tâm tình đích thực của Thiên Chúa.
Người con cả
Trái lại người con cả sau khi nghe biết đứa em trở về và người cha giết bê béo ăn mừng, thì anh liền nổi giận và nhất quyết không vào nhà. Anh đã trả lời cùng người cha: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha, không hề trái lời cha, vậy mà chẳng bao giờ cha cho tôi một con bê con để ăn mừng với chúng bạn. Câu chuyện có thể chấm dứt một cách tốt đẹp khi bữa tiệc được chuẩn bị. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại thêm phần này vào dụ ngôn? Tôi xin thưa vì Ngài muốn mạc khải cho chúng ta biết về cách thức Thiên Chúa suy nghĩ, cách thức ấy hoàn toàn trái ngược với con người. Như người anh cả xét đoán đứa em thế nào thì người đời cũng đoán xét kẻ tội lỗi như vậy, dù họ đã ăn năn hối cải. Người đời đâu có thèm vui mừng khi thấy một người tội lỗi trở lại như Thiên Chúa đã làm. Đối với họ, kẻ tội lỗi là một con người xấu xa và đáng khinh chê. Họ còn chống đối lòng thương xót của Chúa nữa. Và đó cũng là lý do để Chúa nói lên dụ ngôn này.
Người bị người ta chê trách vì đã làm bạn với bọn thu thuế và tội lỗi, khi những người này tìm đến để mong Ngài ban ơn cứu độ. Chúng ta chỉ cần đọc lại câu dẫn nhập là thấy rõ điều đó: Khi ấy những người thu thuế và tội lỗi đến gần Người để nghe giảng, thấy vậy bọn biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm: Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng. Với ba dụ ngôn vừa nghe, Chúa Giêsu đã chỉ trích cái nhìn hẹp hòi của người đời, chứng tỏ cho họ thấy rằng họ chẳng biết gì về Thiên Chúa. Người đã nhấn mạnh: Trên trời sẽ vui mừng biết mấy khi một kẻ tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công chính. Dù có vấp phạm, chúng ta đừng bao giờ thất vọng, trái lại hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa mà chỗi dậy, mà trở về để được hưởng nhờ ơn Ngài tha thứ.
Chủ đề Tin mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên C là lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã TN 24-C127
Chủ đề Tin mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên C là lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với những người Pharisêu 3 dụ ngôn: dụ ngôn một con chiên lạc mất trong số 100 con chiên; dụ ngôn một đồng bạc bị mất trong số 10 đồng; và dụ ngôn người con hoang đàng (một trong hai anh em). Mức độ càng tăng từ cấp độ thứ nhất đến cấp độ thứ ba cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với người tội lỗi thật lớn lao. Một trên một trăm( 1/100) và một trên mười (1/10) không đáng giá bằng một trên hai (1/2). Lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua cung cách của người cha già luôn sẵn sàng mở rộng vòng tay đón người con hoang đàng trở về, tha thứ cho hắn trước khi hắn mở miệng xin lỗi Cha. Thiên Chúa luôn chờ đón mọi người chúng ta quay trở về trong vòng tay yêu thương của Người.
Khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố trước mặt mọi người:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó ban bố ân xá cho kẻ tù đày cho người đui mù được thấy cho kẻ bị áp bức được giải oan loan báo năm hồng ân của Chúa"
Niềm vui và hạnh phúc đến với những ai tội lỗi khi đã gặp được Đức Giêsu: - Với người bất toại: "Tội lỗi của anh đã được tha"; Với Lêvi, người thu thuế: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà là kẻ tội lỗi"; Với Giakêô: "Con Người đến để tìm kiếm những gì đã hư mất".
Những người đau khổ, bé mọn cảm thấy mình được yêu thương nâng đỡ khi tìm gặp Đức Giêsu: Với người phung hủi: "Tôi muốn anh được sạch"; Với người nghèo: "Phúc cho những người nghèo"; Với các trẻ nhỏ: "Hãy để trẻ nhỏ đến cùng tôi, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những người giống như chúng". Với người phụ nữ băng huyết: "Lòng tin của chị đã chữa chị, hãy đi bình an".
+ Người không để người góa bụa cô thế cô thân ra về mà không một lời an ủi. + Người trả lại sự sống cho đứa con duy nhất của bà góa thành Naim. + Người ngợi khen bà góa bỏ hai đồng xu vào hòm tiền dâng cúng.
Cao điểm khuôn mặt dịu hiền của Đức Giêsu bộc lộ khi Người hấp hối trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".
Kitô hữu là người đứng bên bờ vực thẳm, nhích lên một milimét nữa là rớt xuống vực thẳm như: Vực thẳm của nạn ghiền ma túy; Vực thẳm của rượu chè, cờ bạc; Vực thẳm của nạn mại dâm.
Đó là vực thẳm mà NGƯỜI CON THỨ rơi vào.
Vực thẳm nguy hiểm hơn, khó nhận thấy hơn, là vực thẳm của NGƯỜI ANH CẢ: Khi cho rằng chu toàn lề luật là đủ; khi cho rằng mình phục vụ nhiều, nào đi học, dạy giáo lý, tập hát... cho mình quyền đòi hỏi. Đó là một điều ích kỷ khi phục vụ. Khi tưởng rằng mình thờ Thiên Chúa, nhưng thực ra là chỉ thờ một bức tượng khô cứng, bụi bậm. Và vì thế họ dễ phê phán người khác.
Lạy Chúa, Ngài kêu gọi chúng con phải tha thứ cho nhau luôn mãi. Mỗi ngày nhiều biến cố xảy ra, nhiều sự hiểu lầm to và nhỏ khiến chúng con phiền lòng, mỗi ngày vang lên tiếng kêu mời hãy tha thứ cho nhau. Nhưng, lạy Chúa, con lại không muốn tha thứ, vì con thấy phải hạ mình để tha thứ. Thế rồi con nhìn Chúa trên thập giá, Chúa đã phải can đảm lắm và yêu mến nhiều thì mới có thể thốt lên lời "Lạy Cha, xin tha cho chúng...". Xin cho chúng con sức mạnh để tha thứ luôn mãi.
Đặc nét của Kitô giáo chính là tình yêu thương. Không một tôn giáo nào có thể gọi Thần linh của TN 24-C128
Đặc nét của Kitô giáo chính là tình yêu thương. Không một tôn giáo nào có thể gọi Thần linh của họ là ‘Cha’ giống chúng ta. Hơn nữa,Thiên Chúacủa chúng ta còn là một người Cha nhân hậu, luôn sẵn sàng thứ tha những phản bội và bất trung nơi con người. Cao điểm diễn bày lòng thương xót chính là cái chết của Đức Giêsu trên Thập Giá. Điều này đã được chính Chúagợi nhắc trong cuộc đàm đạo với Nicôđêmô. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga. 3,16). Các bài đọc Lời Chúa hôm nay xoáy sâu vào chủ đề này, đặc biệt trong bối cảnh của năm nay, năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. Sứ điệp Lời Chúa gợi nhắc chúng ta ba điều: Mỗi người đều là tội nhân đáng phải chết; Thiên Chúa luôn sẵn sàng bao dung và tha thứ; Cuối cùng chúng ta cũng phải quảng đại tha thứ cho nhau để diễn bày lòng thương xót như Thiên Chúa.
Mọi người đều là tội nhân
Cervantes, một biên kịch gia khá nổi tiếng đã nói một câu để đời: “Trong các sinh vật trên mặt đất, loài có khuôn mặt đẹp nhất chính là con người, và loài có khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng là chính con người.” Tội lỗi làm méo mó khuôn mặt chúng ta, vốn được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa. Chắc chắn không ai trong chúng ta dám vỗ ngực tự hào nói mình vô tội. Chúng ta nhớ lại giai thoại được thánh Gioan kể lại khi Chúa được mời tham dự phiên tòa xét xử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Ngài nói với đám đông: “Ai trong các ông sạch tội, hãy cầm đá mà ném trước đi” (Ga. 7,7). Sau khi được Chúa lay động lương tâm, tất cả đám đông ‘biến’ sạch, từ những tay già đầu nhất. Chúng ta đừng vội kết án người khác, nhưng trước tiên hãy nhìn lại chính mình. Hãy can đảm bới tìm những xấu xa bẩn thỉu, sâu tận bên trong tâm hồn mỗi người. Kinh nghiệm của thánh Phaolô mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay (bài đọc 2) cũng là một kinh nghiệm rất thực tế để giúp chúng ta xét mình và lục soát lương tâm mỗi ngày. Ngài viết “Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi.” (1Tm15).
Thiên Chúa là Đấng khoan dung và hay tha thứ.
Cả ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đều diễn bày phẩm tính cao đẹp này nơi Thiên Chúa. Đây là ba dụ ngôn độc sáng của thánh Luca. Những hình ảnh rất đời thường nơi một người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, nơi một người đàn bà thắp đèn để kiếm tìm đồng bạc bị mất, nhất là qua dung mạo của một người cha ngày đêm mong ngóng đợi chờ đứa con đi hoang trở về, đã được Chúa Giêsu vay mượn để lột tả chân dung lòng thương xót của Chúa Cha. Thay vì kết án, Ngài tha thứ. Thay vì ruồng bỏ, Ngài lại đi kiếm tìm. Xét về kinh tế, Chúa Giêsu tính toán rất tồi. Ai lại dám liều lĩnh bỏ lại chín mươi chín con chiên giữa rừng vắng để đi kiếm một con ốm yếu lỡ đi lạc. Xét về bình diện toán học, Ngài làm tính cũng quá dở, khi coi con số 1 lớn hơn con số 9. Một đồng bạc lỡ đánh mất đáng là gì. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một nhà toán học. Ngài là một người Cha giàu lòng lòng thương xót đối với phận người tội lỗi. Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các học trò: “Anh em phải có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương” - Misericordes sicut Pater (Lc. 6.36). Đây cũng là chủ đề của năm nay, năm thánh Lòng Thương Xót.
Bài học về sự tha thứ
Tháng 03 năm 1981, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II bị một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ mưu sát tại quảng trường Thánh Phêrô. Anh ta tên là Ali Agca. Đức Thánh Cha thoát chết như một phép lạ, và cảnh sát bắt giữ chàng thanh niên ngay lập tức. Sau khi ra khỏi bệnh viện, Ngài đã sắp xếp thời gian để đến nhà tù Rebibbia gặp anh ta. Vị đại diện của Chúa đã hoàn toàn tha thứ cho kẻ sát nhân. Cái bắt tay chân tình, vòng ômhôn thắm thiết và ánh mắt dịu dàng của Đức Thánh Cha làm cả thế giới xúc động. Vài năm sau, vợ của kẻ sát nhân đã đích thân sang Rôma để bày tỏ lòng biết ơn đối với Người đã tha thứ cho chồng mình. Còn chính đương sự sau khi mãn hạn tù, cũng nài nỉ xin nhập quốc tịch Vatican và tự nguyện xin làm đàn em của Đức Thánh Cha. Đức Thánh Giáo hoàng đã không hề đưa ra một triết lý mới, hay một cung cách ứng xử đặc thù, nhưng đây chính là cốt lõi của Tin Mừng mà Ngài sao chép lại. Trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã giang tay cầu nguyện: ‘Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm’. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta lời cầu nguyện với kinh Lạy Cha: ‘Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc lỗi với chúng con’. Đó là những bài học rất căn bản, mời gọi chúng ta quảng diễn lòng thương xót và sự tha thứ như Thiên Chúa.
Một cha xứ nọ đã kể cho chúng tôi nghe một kinh nghiệm đau đớn, xảy ra nơi giáo xứ của ngài. Hai đứa bé chơi với nhau và đánh nhau, chuyện rất nhỏ vẫn thường hay xảy ra. Nhưng chuyện trẻ em dần dần lây lan thành chuyện của người lớn. Cả hai gia đình xúm vào cãi nhau, lúc đầu chỉ lời qua tiếng lại, sau đó dẫn đến tranh chấp. Đấu bằng miệng không đủ, chuyển sangđấu đá bằng tay chân. Khổ nỗi,vị đứng đầu một trong hai gia đình lại là trùm xứ, có tiếng là đạo đức và rất siêng năng trong việc chung. Một buổi tối nọ khi trời nhá nhem tối, hai gia đình lại xô xát. Ông trùm cầm một cây gậy lớn phang vào đầu đối thủ, chẳng may đập ngay vào đầu đứa con trai mình. Thằng bé chết trên đường chuyển đến bệnh viện. Từ đó, trong lòng ông, sự căm thù ngày càng dâng cao và ông quyết tâm trả thù. Cha xứ khuyên can thế nào ông cũng chẳng nghe. Lúc ông lâm trọng bệnh và hấp hối chờ chết, người nhà mời cha xứ đến để giải tội và xức dầu. Một lần nữa cha xứ lại hết lời khuyên lơn xin ông làm hòa để tìm lại bình an trong tâm hồn, nhưng ông nhất định không. Cha xứ không thể nào giải tội và ban Bí tích Xức dầu cho ông ta. Tâm hồn ông vẫn còn mang nặng một khối đá lớn cản che ơn thánh, đó là sự hận thù. Ông ta chết đi, đôi mắt vẫn luôn trợn ngược và không thể nhắm lại. Một kinh nghiệm thật đáng buồn.
Kết luận
Nói về lòng khoan dung và sự tha thứ thì dễ, nhưng thực hành không phải là chuyện giản đơn. Con người chúng ta ai cũng có tự ái và không dễ thứtha một cách vô điều kiện như Chúa mong muốn. Trong năm thánh Lòng Thương Xót, chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết trải nghiệm và thấm sâu lòng thương xót của Ngài, để chúng ta cũng biết quảng đại tha thứ cho nhau. Misericordes sicut Pater.
Để đối phó với những người phạm tội, luật hình sự tại các quốc gia quy định nhiều hình phạt khác nhau: TN 24-C129
Để đối phó với những người phạm tội, luật hình sự tại các quốc gia quy định nhiều hình phạt khác nhau: phạt tiền, giam nhốt trong các nhà tù hay xà lim, lưu đày biệt xứ hoặc trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng thì đem ra xử tử để vĩnh viễn loại trừ người lỗi phạm khỏi thế giới loài người.
Trong khi đó, để đối phó với tội nhân, Thiên Chúa không muốn trừng phạt mà chỉ muốn giúp tội nhân ăn năn hối cải quay về đường lành. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Ê-dê-kiên: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống” (Ê-dê-kiên 18, 23 và 33, 11)
Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu thương. Dù con người có đắm chìm trong lầm lạc và tội lỗi, Thiên Chúa không bỏ rơi, không hủy diệt họ, nhưng tìm mọi cách đưa họ trở về đàng lành.
Dụ ngôn người đi tìm chiên lạc trong Tin Mừng Luca (Lc 15, 4-7) chứng tỏ cho chúng ta thấy điều đó:
Người chăn chiên tốt hết lòng yêu thương, quý mến từng con trong đàn, bất kể đó là chiên tốt hay chiên xấu, mập hay gầy, già hay non. Và khi phát hiện ra một con chiên lạc đàn, anh ta bôn ba, tất tả kiếm tìm cho bằng được con chiên lạc với bất cứ giá nào. Một khi đã tìm thấy, anh vác chiên lên vai, mừng vui hớn hở trở về, kêu mời bà con làng xóm đến chia mừng với anh.
Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giê-su tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa xem mỗi người chúng ta là báu vật vô giá, nên nếu có bất kỳ ai “lạc mất”, thì Ngài phải tìm về cho bằng được.
Dụ ngôn trên cũng cho thấy cung cách ứng xử rất khoan dung và đầy thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thay vì trừng trị hoặc trừ khử các tội nhân như các tòa án khắp nơi thường làm, Thiên Chúa Ngôi Hai đã rời bỏ ngai trời vinh hiển, vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm để đi tìm kiếm từng người trong nhóm họ.
Thay vì tống giam các tội nhân vào ngục, bắt họ mang gông cùm xiềng xích, Chúa Giê-su rất tôn trọng và quý mến tội nhân, tìm nhiều cách hoán cải họ; có khi Ngài còn đến ở lại trong nhà người tội lỗi, cùng ăn uống đồng bạn với họ, trở nên bạn bè của họ, nhằm lấy tình bạn mà cảm hóa họ trở về. (Luca 15,2)
Thay vì kết liễu mạng sống của các tội nhân ác nghiệt, bắt họ phải đền nợ máu họ đã gây ra như các tòa án nhân loại thường làm, Chúa Giê-su đã đổ máu châu báu của mình ra để chết thay cho họ, để rửa sạch họ khỏi muôn vàn tội lỗi và cho họ được sống đời đời.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, ngay cả những tội nhân bầm dập, khốn cùng nhất, đã được Chúa Giê-su khẳng định trong Tin Mừng Mat-thêu: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Ngài đưa công lý đến toàn thắng.” (Mt 12, 20 và Is 42, 3)
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm xưa, Chúa đã rong ruổi tìm kiếm từng con chiên lạc để vác chiên về. Hôm nay, để tiếp tục sự nghiệp đó, Chúa đã dùng bí tích Thánh Tẩy để tháp nhập chúng con vào Thân Mình Chúa, cho chúng con trở thành một chi thể sống động trong Thân Thể Chúa để chúng con đồng hành với Chúa trên hành trình tìm kiếm và đưa về đàn nhiều con chiên lạc trong thôn xóm chúng con.
Xin cho chúng con trở nên đôi chân của Chúa, rảo bước không mệt mỏi trên vạn nẻo đường đời, để tìm kiếm và đưa về những anh em lạc xa đường Chúa.
Xin cho chúng con trở nên đôi vai của Chúa để làm chỗ dựa tinh thần cho những con người lâm cảnh khốn cùng đang cần một chỗ tựa nương. Amen.
Bước vào Chúa nhật thứ XXIV thường niên C, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc Tin Mừng TN 24-C130
Bước vào Chúa nhật thứ XXIV thường niên C, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta đọc Tin Mừng chương 15 Phúc Âm theo thánh Luca (15,1-32). Chương này gồm ba thể hiện lòng thương xót nên gọi là "dụ ngôn lòng thương xót": con chiên lạc, đồng tiền mất, và người con trai hoang đàng.
Khi đọc "Người kia có hai con trai", dù người biết rất ít về Tin Mừng vừa nghe đọc mấy lời trên sẽ biết ngay là " dụ ngôn người con trai hoang đàng", có người gọi là "dụ ngôn người cha nhân hậu".
Dụ ngôn này thường được khai thác dưới nhiều khía cạnh về mặt thiêng liêng. Thực ra dụ ngôn này chỉ là chuyện hoà giải giữa cha và con, một sự hòa giải như thế là thiết yếu cho hạnh phúc của các người cha và con cái.
Trong ca dao, thơ ca, hò vè, văn chương, nghệ thuật, kịch nghệ sân khấu và những quảng cáo, xem ra chỉ tập trung vào một tương quan nhân bản duy nhất là tình yêu lứa đôi giữa người nam và người nữ, giữa người vợ và người chồng. Tương quan giữa cha và con thật quan trọng, vậy mà ít được khai thác. Tương quan này là đem lại vui mừng cho sự sống, niềm vui trong cương vị làm cha và làm con.
Khi nói về tương quan gia đình, không có gì xấu hơn trong tương quan giữa một người nam và một người nữ cho bằng sự lạm dụng, khai thác và bạo lực, và không có gì dễ bị phơi bày và biến dạng trong tương quan giữa những người cha và con cái cho bằng tính độc đoán, chủ nghĩa gia trưởng, sự nổi loạn, sự loại trừ, sự thiếu liên lạc.
Thiên Chúa đã than: "Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta" (Is 1, 2). Nhiều người cha ngày nay có kinh nghiệm về điều trên.
Sự đau khổ là hỗ tương; không phải như dụ ngôn mà lỗi hoàn toàn ở người con. Có những người cha bị đau khổ hơn cả trong cuộc đời khi bị con cái loại bỏ hay khinh chê. Và có những đứa con bị đau khổ sâu xa nhất, đến nỗi không thể chấp nhận được khi cảm thấy bị hiểu lầm, không được coi trọng, bị loại trừ bởi cha mình.
Thực ra một sự hoà giải giữa cha mẹ và con cái và một sự chữa lành nội tâm sâu thẳm về tương quan giữa họ là một điều quan trọng cho sự tân phúc âm hóa. Chúng ta biết, tương quan của một người cha trần thế có thể ảnh hưởng rất lớn, tích cực hay là tiêu cực, đến tương quan chúng ta với Cha trên trời và như thế cũng ảnh hưởng tới đời sống Kitô hữu.
Vậy khi chúng ta phạm tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, chúng ta khước từ Ngài, chúng ta phải làm gì, vì Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín, không từ bỏ chúng ta? Thiết nghĩ, chúng ta lấy lại những lời đã soạn sẵn của người con thứ trong dụ ngôn, cùng với can đảm để thưa với cha mình.
"Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha' ". Lời thú nhận đầu tiền của chúng ta với Thiên Chúa là Cha, Đấng Tạo Hóa, giầu lòng thương xót và là thẩm phán là như thế. Cho dẫu Thiên Chúa biết mọi sự, Ngài vẫn đợi chờ chúng ta trở về lên tiếng thú lỗi; lý do là "tuyên xưng nơi miệng thì được ơn cứu rỗi" (Rm 10,10)...
Đó là điều người con thứ đã từng nói với cha mình; nói thôi, chưa đủ, nếu anh không về cùng Cha. Nhưng giờ này biết cha ở đâu để về gặp? " Tôi sẽ trỗi dậy". Đó là điều thánh Phaolô Tông Đồ nói: "Thức dậy đi, hỡi người ngủ mê! Từ trong cỏi chết, hãy đứng dậy!" (Ep 5,14)... Trước hết hãy trỗi dậy, nếu chúng ta đang ngồi đây và ngủ mê. Hãy thức dậy trở về với Giáo hội, với Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần. Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sâu thẳm nơi con người, đến tìm gặp con người; nếu người cha trong dụ ngôn ngày ngày ra ngóng chờ con, nên khi con còn ở đàng xa ông đã chạy tới ôm chầm lấy con. Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn dõi mắt theo con người, khi thấy con người khi còn ở đàng xa, Chúa đã thấy và chạy tới ôm chầm lấy con người và hôn lấy hôn để... khi con người bị tội lỗi thế gian vùi dập, Ngài cúi xuống để nâng con người lên; hướng con người về Trời để tìm thấy Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống để giải thoát con khỏi thân phận nô lệ và trở nên chỗ êm ái nhẹ nhàng để con người dưỡng sức nghỉ ngơi, khi nói, nơi Đức Giêsu, con người gặp được Thiên Chúa Cha Đấng giầu lòng thương xót: «Hãy đến với Ta, hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng". Và Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức" (Mt 11,28). Đó là cách mà Chúa ôm chặt con người, nếu con người hoán cái trở về với Chúa.
Áo, nhẫn, giầy, con người đánh mất, Thiên Chúa sẽ ban lại. Áo ở đây là áo sự khôn ngoan..., áo tinh thần và là y phục lễ cưới. Nhẫn ở đây không gì khác là dấu ấn của niềm tin chân thành và dấu ấn của chân lý đó sao? Còn đôi giầy đi, chỉ sự loang báo Tin Mừng.
Hãy hồi tâm và trỗi dậy, can đảm trở về với Thiên Chúa khi ta lầm đường lạc lối, để đón nhận được lòng xót thương của Thiên Chúa là Cha nhân lành. Amen.
Hai dụ ngôn: con chiên lạc và đồng bạc bị mất giống nhau về hình thức, lời văn cũng như nội dung TN 24-C131
Hai dụ ngôn: con chiên lạc và đồng bạc bị mất giống nhau về hình thức, lời văn cũng như nội dung tư tưởng và giáo huấn, đến nỗi có thể gọi chúng là hai dụ ngôn sinh đôi. Thực vậy, hai dụ ngôn đó, Đức Giêsu lần lượt đưa ra một người đàn ông và một người đàn bà, một mục tử mất chiên và một nội trợ mất tiền. Có khác về con số nhưng cùng một giáo huấn:
Dụ ngôn chiên lạc
Một người chăn chiên có một trăm con, lạc mất một, người đó để chín mươi chín con nơi hoang vắng để đi tìm con lạc, việc đi tìm không phải dễ, giữa cảnh bao la rừng núi. Vả lại, một sánh với chín mươi chín có là gì. Thế mà với đôi chân trần đạp trên đá sỏ, ông đã chạy lang thang khắp nơi để tìm.
Tại sao? Vì yêu thương. Đối với tình yêu, số học không còn như cũ. Lúc đó có thể đặt dấu bằng ở giữa số một và số chín mươi chín (1=99). Như thế, bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con được ông coi giá trị như chín mươi chín. Giống như đại tướng yêu binh lính, bất cứ giá nào cũng không để chết đi một người, dù là lính quèn. Một người lính được coi như cả một đoàn quân, chết một có thể chết cả đoàn. Bởi thế, khi tìm thấy con chiên lạc, ông đã vui mừng chạy lại ôm lấy, vác trên đôi vai, cho dù con chiên có nặng, ông rất mệt, đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi sỏi đá, dưới ánh nắng chói chang của mặt trời. Nhưng theo ông, một con chiên xa đàn, lang thang nhiều giờ, nó kiệt sức, cần ông vác. Khi về đến nhà, niềm vui như vỡ bờ, ông đã kêu bạn bè hàng xóm đến chia vui, niềm vui của ông tỏa rộng và lây sang người khác.
Đồng bạc bị đánh mất.
Đây là cảnh xảy ra bên trong nhà người dân xứ Palestin: Một căn phòng bằng đất nện, với vài chiếc chiếu, hay ít đồ đạc lỉnh kỉnh, ánh sáng không bao nhiêu và chỉ lọt qua cửa chính, giữa ban ngày cũng cần một ngọn đèn nhỏ để soi các góc xó. Một phụ nữ có mười đồng bạc, bị mất một, bà đã gia công tìm kiếm, soi đèn quét nhà, moi móc khắp nơi, tìm cho kỳ được, tìm được, lòng tràn ngập vui mừng, đồng tiền thế nào cũng được cất vào một nơi chắc chắn, bà cũng mời bạn bè hàng xóm đến chia vui.
Tại sao? Đối với bà một đồng trị giá bằng một ngày công, nhưng nó quá lớn. Mất đi một đồng, bà mất đi một ngày sống. Dụ ngôn con chiên lạc, một so với chín mươi chín là quá nhỏ. Ở đây một so với chín quá quan trọng. Vì thế người đàn bà này có lý vui mừng.
Giáo huấn của hai dụ ngôn
Qua hai dụ ngôn, Đức Giêsu dạy: Tội nhân muốn trở lại cần có sự hối cải, nhưng sự hối cải của họ không phải là điều kiện tiên quyết để được Thiên Chúa ân cần đón tiếp, như những người Pharisiêu và các Kinh sư chủ trương. Trái lại, sự hoán cải này trước tiên được Thiên Chúa thực hiện.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một hữu thể bất động, không thay đổi. Đức Giêsu cho chúng ta thấy một Thiên Chúa chuyển động, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái Người đã mất. Đức Giêsu đặt trước mặt chúng ta: Người mục tử vùng đồi núi Galilê, chân trần trên đá sỏi đang chạy hết tốc độ, để tìm con chiên lạc; người đàn bà đang soi đèn quét tước tìm đồng bạc đã mất. Đức Giêsu bảo: Thiên Chúa là như thế. Không có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi, không có người nào bị mất hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về, Người ra đi tìm họ.
Đối với người chăn chiên, một con bằng chín mươi chín, với người đàn bà, một đồng bằng chín. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi người đàn bà, có một giá trị độc nhất vô giá. Một con chiên lạc mất đã chiếm hết ý nghĩ của người mục tử, một đồng bạc bị mất đã chiếm hết ý nghĩ của người đàn bà. Xem ra chỉ con chiên lạc, đồng bạc mất mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Ngài, một Thiên Chúa đau khổ vì một linh hồn hư mất, bởi mỗi người đều quý giá, đều chiếm chỗ quan trọng trong con tim Ngài.
Tuy giáo lý dạy, con người không thêm gì cho vinh quang và hạnh phúc nội tại của Thiên Chúa. Nhưng theo những dụ ngôn này, mỗi người chiếm địa vị thiết yếu trong tình yêu Ngài đến chừng nào. Nếu không có bệnh nhân, đâu có thầy thuốc. Nếu không có tội nhân, đâu có tình thương cứu độ. Nói thế, không có nghĩa đề cao tội lỗi. Đức Giêsu không bao giờ nói, tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ: "Nếu tay ngươi hoặc chân ngươi làm dịp tội cho ngươi, hãy chặt nó đi..." Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Mc 1,15). Nếu các dụ ngôn này là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa, chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi.
Câu chuyện minh họa
Ngày 13-5-1981, giữa lúc hàng chục ngàn ngời chen chúc nhau tại quảng trường thánh Phêrô để đón đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát vang lên làm mọi ngời đứng tim. đức thánh cha đã ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị giáo hoàng bị mu sát. Ali Agaca, hung thủ tội ác, bị bắt ngay tại chỗ. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này bị giam tại nhà tù Rebiblia ở Rôma, cả thế giới kinh hoàng về tội ác tày trời này. Năm 1984, thế giới còn kinh ngạc hơn nữa. Đấng bị thảm sát đã đến nói chuyện với kẻ sát hại mình. Không ai biết hai bên nói gì. Nhưng người ta rất cảm động, thấy đức thánh cha bắt tay Ali Agaca, với nụ cười rất trìu mến. Phải chăng đây là hình ảnh sống động nhất về tình yêu Đức Giêsu niềm nở đón tiếp các tội nhân. Đức thánh cha, vị đại diện Đức Giêsu, bị bắn gục, vẫn tỏ lòng rất nhân từ đối với kẻ tội ác. Ali Agaca đã nhập vào đoàn hành hương của đoàn chiên lành đang vui mừng chào đón chủ chiên đến thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng tinh thần bằng lời hằng sống. Ali Agaca như con chiên ghẻ, như đứa con phung phá xô đến giết chủ chăn, giết cha mình. Nhưng người cha hiền, người mục tử nhân hậu đã sẵn sàng liều chết đến cứu đứa con hư, sẵn sàng tha thứ hòa giải và vui mừng ôm lấy đứa con trở về.
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin số 13 như sau: “Một điều TN 24-C132
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết trong Tự Sắc Cửa Đức Tin số 13 như sau: “Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin này là điểm lại lịch sử đức tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi”.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay là dịp để mỗi người chúng ta điểm lại lịch sử lạ lùng về mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi của nhân loại cũng như của từng người chúng ta.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đọc I: Xh 32, 7-11.13-14
Thiên Chúa đã yêu thương, chọn một dân bơ vơ, vất vưởng, rày đây mai đó làm dân riêng của mình: “Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa” (Xh 6, 7). Ngài đã sử dụng “cánh tay quyền lực của Ngài” để “quyến rũ” dân, không phải vì Ngài cần được người ta tôn thờ, nhưng bởi vì: “Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Ngài với các tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop” (Xh2, 24). Sau khi dùng Môsê đưa dân vượt qua biển Đỏ, thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập, Thiên Chúa đã gặp gỡ riêng tư với ông để có những kế hoạch dành cho dân tộc Israel: “Người gọi ông Môsê lên đỉnh núi và ông đi lên” (Xh20, 20b).
Thế nhưng sự việc xảy ra là: “Dân thấy ông Môsê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông Aaron và nói với ông: “Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Môsê này, là người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai Cập” (Xh 32, 1).
Thiên Chúa nhìn thấy cảnh tượng đó nên đã “méc” ông Môsê: “Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và bảo: đây là thần của chúng ta” (x. Xh 32, 7-9). Chúng ta phải đặt mình trong hoàn cảnh của Thiên Chúa, để thấy được sự nỗi giận của Thiên Chúa là hoàn toàn đúng.
Một người mới cưới vợ, cô vợ này xấu xí lắm, nhưng anh chồng vẫn thương lạ thương lùng. Một thời gian sau, anh chồng có công việc phải đi vắng, cô vợ này ở nhà rước một người thanh niên khác về và bảo: đây là chồng tôi. Cô vợ này ôm ấp, tình tứ với người thanh niên “mà cô gọi là chồng” ngay trước mặt người chồng cũ của mình, thì thử hỏi người chồng đó có chịu nỗi không? Trời đất ơi, chắc tức, giận, và có cả sự kinh tởm không thể tưởng tượng được!
Thiên Chúa đã đòi tiêu diệt dân này, và sẽ thay thế bằng nhà của ông Môsê. Nhưng chúng ta để ý thái độ của ông Môsê, quả thật là một con người tuyệt vời. Nếu là chúng ta, hổng chừng chúng ta sẽ nói: “Được đó, Chúa giết sạch hết đi, chừa lại nhà của con thôi, con sẽ làm cho Chúa được vinh quang, rạng rỡ…”. Đằng này: “Ông lại cố làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại”. Chắc có lẽ ông cũng dùng những lời nói chơi, những lời xoa dịu cho Chúa mát bụng: “Thôi Chúa ơi, có gì đâu mà giận dữ vậy, Chúa phải vất vả lắm mới đưa được dân này ra khỏi đất Ai Cập. Với lại tụi nó mới quá mà. Bây giờ giả dụ tụi nó có làm gì sai, thì thây kệ tụi nó, Chúa chỉ cần nhớ đến mấy người lớn, ông Apraham, Isaac, Giacop, bạn thân của Ngài không hà, nể họ mà tha cho dân lần này đi nghe Chúa!”. Nhờ vậy mà: “Đức Chúa đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe”.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy được 3 điều:
Thứ nhất, không phải dân chúng bỏ Chúa, không tin Chúa nên sụp lạy con bò vàng, mà bởi vì họ muốn một vị Thiên Chúa có hình ảnh cụ thể, một vị Thiên Chúa như họ muốn. Hay nói cách khác, họ muốn một Thiên Chúa vừa với tầm nhìn của họ.
Thứ hai, hình ảnh ông Môsê, một khi đã nhận nhiệm vụ lãnh đạo dân, ông coi dân như chính bản thân mình, gắn bó với dân, không màng chi đến những lợi lộc cá nhân, coi tội lỗi của dân chính là tội lỗi của mình.
Điểm thứ ba quan trọng hơn, đó là tình yêu của Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tuyển chọn. Sẽ có những lúc họ làm cho Thiên Chúa nỗi giận, nhưng giận thì giận mà thương thì vẫn thương. Ngài sửa dạy họ để mỗi ngày họ nên tốt hơn. Đó là mầu nhiệm tội lỗi và thánh thiện nơi con người và từng người chúng ta.
2. Đáp ca: Tv.50
Đây là thánh vịnh nổi tiếng về lòng ăn năn sám hối. Nó là tâm tình của vua Đavit sau khi được Thiên Chúa cho biết những tội lỗi tày trời của ông. Ông đã phạm tội ngoại tình, hơn thế nữa, để ngoại tình ông đã bày mưu giết người, mà người đó lại là một vị tướng giỏi của ông. Ông không che giấu, không biện minh, mà chỉ biết nói: “Nguyện xót thương con theo lòng nhân hậu của Chúa, nguyện xóa tội con theo lượng cả đức từ bi Người”. Mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi được đan xen nơi con người vua Đavit.
3. Bài Đọc II: 1Tm 1, 12-17
Thánh Phaolô trong thư gửi cho ông Timôthêô đã nói rất rõ ràng: “Đức Giêsu Kitô đã đến thê gian để cứu những người tội lỗi”, ông cũng không ngần ngại xác nhận: “Mà kẻ đầu tiên là tôi’’ (1Tm1, 15). Ông không giấu diếm về quá khứ của mình: “Trước kia tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược” (1Tm1, 13). Tuy nhiên: “Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1Tm1, 14). Có ai ngờ một người bắt đạo lại trở thành một người giảng đạo cách nhiệt thành. Đó là mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi nơi cuộc đời Phaolô, vị tông đồ dân ngoại.
4. Tin mừng: Lc 15, 1-32
3 dụ ngôn trong đoạn Tin mừng hôm nay làm nổi bật khuôn mặt thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa chúng ta là Đấng giàu lòng thương xót.
Chúng ta nhớ bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, đổ máu mình ra để chuộc tội cho muôn người. Tuy nhiên, những người biệt phái và Pharisêu thì lại bực bội, khó chịu khi thấy Chúa Giêsu “đón tiếp phường tội lỗi”. Hơn thế nữa còn “đồng bàn với quân thu thuế và phường tội lỗi”, nghĩa là tỏ ra mình thuộc về phe của những người đó.
Để trả lời cho bức xúc của những người được cho là đạo đức, thánh thiện, Chúa Giêsu đã kể một loạt 3 dụ ngôn về lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Cả 3 dụ ngôn đều làm nổi bật sáng kiến của Thiên Chúa. Chính Ngài đi bước trước để tìm kiếm những thứ đã hư mất, những gì là lạc loài và những con người tội lỗi. Một mục tử băng rừng vượt suối để đi tìm con chiên lạc. Một bà góa đốt đèn, quét nhà để tìm đồng tiền đánh mất. Một người cha chiều chiều ra ngõ ngóng đứa con trở về, và khi thấy nó về thì chạy lại ôm chầm lấy nó.
Tác giả Cousin đã nhận xét về 3 dụ ngôn này như sau: “Tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chẳng được yêu và cũng chẳng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ”.
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một mầu nhiệm. Mầu nhiệm không phải là sự thánh thiện, càng không thể là tội lỗi; mà mầu nhiệm ở chỗ “đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi”.
II. MẦU NHIỆM ĐAN XEN GIỮA THÁNH THIỆN VÀ TỘI LỖI
Đâu là sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi, khiến nó trở thành một mầu nhiệm? Thưa đó chính là lòng hoán cải phát xuất từ một tình yêu chân thành.
1. Hoán cải là nhìn lại mình:
Nơi mỗi con người, ranh giới giữa sự thánh thiện và tội lỗi chính là sự trở về. Chính con tim sẽ đẩy lùi tội lỗi và hướng đến thánh thiện. Hay nói cách khác nhờ tình yêu mà chúng ta sẽ quyết tâm từ bỏ những gì bất xứng để hướng đến những gì là xứng hợp. Các nhà tu đức nói: “Không có thánh nhân nào mà không có quá khứ, cũng như không có tội nhân nào mà không có tương lai”. Với thân phận mỏng dòn của một con người, chắc chắn chúng ta sẽ bị ma quỷ cám dỗ để đi nghịch lại đường lối của Thiên Chúa. Nhưng cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta biết vươn lên, vượt thoát khỏi những cạm bẫy của ma quỷ.
Tình trạng bi thảm của con người là không nhận ra được lỗi lầm của mình. Vì vậy mà đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Tội lỗi lớn nhất của con người là cho rằng mình không có tội”. Luôn luôn nghĩ rằng mình công chính, thánh thiện. Luôn luôn cho rằng mình không làm gì sai.
Người ta kể quỷ đến trách Chúa: “Tại sao con người làm biết bao nhiêu tội mà Chúa cũng tha thứ hết, còn tôi chỉ phạm một tội thôi mà Chúa không tha?” Chúa hỏi nó: “Thế có bao giờ ngươi xin Ta tha thứ cho ngươi chưa?” Nghe đến đó, quỷ ngoảnh mặt bỏ đi.
Ngạn ngữ Đức có câu: “Sa ngã vào tội chính là con người, nhưng ở lại trong tội chính là quỷ sứ”.
Chúng ta hãy thường xuyên nhìn lại những suy nghĩ, lời nói và việc làm của mình; nhìn lại những dự tính, những chương trình của chúng ta; nhất là nhìn lại đời sống đức tin của mỗi cá nhân để kịp thời chỉnh đốn những sai lỗi và sai xót.
2. Hoán cải là rộng lượng với người khác.
Thiên Chúa biết được quá khứ tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài cũng biết cả tương lai của chúng ta nữa. Như người cha biết chắc sẽ có ngày con trai mình trở về nên chiều chiều ra ngõ ngóng trông. Trong việc chờ mong của người cha đã có ý định tha thứ. Tuy nhiên người con cả trong nhà lại không muốn cha mình tha thứ cho đứa em. Thái độ đó hoàn toàn đi ngược lại với lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Chúng ta muốn Thiên Chúa, muốn người khác tha thứ cho mình, mà mình lại không muốn tha thứ cho người khác. Vì vậy hoán cải là chúng ta biết rộng lượng tha thứ cho người khác. Khi chúng ta tha thứ cho người khác là chúng ta đang mở đường để Thiên Chúa tha thứ cho mình: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đừng bao giờ đặt dấu chấm hết cho một người, dù cho người đó có cố chấp, có đang trong tình trạng tội lỗi. Đó là con đường của Đức Giêsu Kitô. Ngài đồng bàn với tội nhân, tự xem mình thuộc về phe của họ.
Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được mầu nhiệm thánh thiện và tội lỗi luôn đan xen trong cuộc đời chúng ta. Dù chúng ta có tội lỗi, và tội tày trời: “không đáng là con cha nữa”, thì tình yêu của Thiên Chúa cũng tha thứ, mở ngõ, chờ đợi để được ôm ấp chúng ta vào lòng, miễn là chúng ta biết hoán cải để quay trở về. Đồng thời cũng phải biết rộng rãi tha thứ cho những lỗi lầm của người khác.
Có lẽ có người cho rằng các dụ ngôn được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay hơi có tính cách cường TN 24-C133
Có lẽ có người cho rằng các dụ ngôn được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay hơi có tính cách cường điệu. Có mục tử nào dám bỏ lại chín mươi chín con chiên trên cánh đổng rổi đi tìm con chiên bị lạc mất? Có ai lại bỏ công tìm cho kỳ được đổng bạc trong khi mình còn chín đổng nữa? Hay có người cha nào sẵn sàng đợi chờ, tha thứ cho đứa con đã đòi chia gia tài và bỏ nhà ra đi?
Quả vậy, theo quan điểm của con người, ít có khi nào xảy ra những điều như thế. Nhưng đối với Thiên Chúa, chẳng có gì là cường điệu. Những câu chuyện này cho thấy thế nào là tình yêu, là lòng thương xót của Thiên Chúa.
Tình thương không giới hạn
Con người được Thiên Chúa tạo dựng do lòng yêu thương. Thế nhưng, con người đã từ khước tình yêu ấy qua việc ăn trái cấm. Và Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người dưới quyền thống trị của tội lỗi, của sự chết. Nếu Thiên Chúa có trừng phạt con người thì cũng là việc xứng đáng. Nhưng Thiên Chúa không xử sự như thế. Một tình yêu đích thực không thể bằng lòng với việc trợ giúp cách chung chung, để rổi khi bị từ khước thì bỏ rơi không còn đoái hoài gì tới. Nếu Thiên Chúa hành động như thế thì khó có người được cứu, và Đức Giê-su đã không được sai đến trần gian.
Đàng khác, Thiên Chúa cũng chẳng tính toán những hổng ân Người đã ban. Thiên Chúa không đưa cho con người một bản tỗng kết những gì Người đã ban cho họ: ân sủng của Người tuôn chảy không ngừng, tình yêu thương chẳng bao giờ vơi cạn. Nếu có kể ra những hổng ân, điều đó chỉ có mục đích nhắc nhở con người hãy sống xứng đáng với hổng ân đã lãnh nhận để rổi tiếp tục nhận được những ân huệ khác.
Cả khi con người đi lang thang phiêu lãng, Thiên Chúa vẫn đuỗi theo. Không có chỗ nào con người ở một mình cả. Chẳng bao giờ con người có thể tự nhủ Thiên Chúa bỏ rơi mình rổi. Một người thợ săn kiên nhẫn, rình chờ con mổi, một người câu cá âm thầm chờ đợi. Thiên Chúa như thế đó.
Thật vậy, chính lòng yêu thương đã thúc đẩy Thiên Chúa tìm kiếm con người. Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải như một đổ vật, nhưng là để họ tham dự vào sự sống của Người, để sống trong tình yêu thương. Nếu Thiên Chúa chỉ coi con người là một đổ vật, thì khi bị lạc mất, Người có thể tiếc nuối, những rổi thôi, Người có thể lại có cái khác, hay hơn, tốt đẹp hơn, và nhiều hơn nữa. Ở đây, các dụ ngôn cho thấy tính cách lớn rộng của tình yêu: quan tâm đến tất cả, nhưng không bỏ rơi bất cứ ai, dù người đó có thế nào chăng nữa. Vì tình yêu, Thiên Chúa không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, chán nản, chỉ cần là Người tìm lại được người tội lỗi, chỉ cần là họ cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa.
Vì thế, trong tình thương của Thiên Chúa, không có ai là người bị bỏ quên. Mỗi người đều được Thiên Chúa quan tâm săn sóc, mỗi người đều ở trong trái tim của Thiên Chúa, không có ai bị đẩy ra ngoài, không có ai nhận được ít tình thương...
Hãy chia vui với tôi
Trong cả ba dụ ngôn, Đức Giê-su đều kết thúc bằng những lời nói đến niềm vui. Người chăn chiên tìm được chiên lạc thì vác chiên lên vai, và mời bạn hữu láng giềng đến chia vui; người đàn bà tìm thấy đổng bạc đã mất cũng vậy; và người cha có đưa con đi hoang trở về thì mở tiệc lớn ăn mừng.
Lý do của việc ăn mừng này đã rõ ràng. Nhưng sau đó, Đức Giê-su muốn cho thấy niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi hối cải. Ở dụ ngôn thứ nhất, "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; ở dụ ngôn thứ hai, "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải"; và ở dụ ngôn thứ ba, "phải ăn mừng, vì em con đây đã chết, mà nay lại sống; đã thất lạc, mà nay lại tìm thấy".
Tội nhân hối cải, không những được tha thứ, nhưng còn được chờ đợi, được đón tiếp. Niềm vui của Thiên Chúa thật lớn lao khi người tội lỗi biết từ bỏ con đường xấu xa, để trở về sống trong tình thương của Thiên Chúa.
Có thể nói, Thiên Chúa không có niềm vui nào khác ngoài việc con người sống thân mật với Người. Dù cho có thế nào chăng nữa, Người vẫn chờ đợi họ, vẫn mở rộng vòng tay đón tiếp. Đây thực là một lời an ủi và nhắc nhở cho con người. Là một lời an ủi, vì con người biết rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương họ và mong họ trở về với Người. Thiên Chúa vẫn đi tìm họ, dù họ cố tình tránh né. Thiên Chúa vẫn thi ân giáng phúc, dù họ từ khước không nhận. Là một lời nhắc nhở, vì nếu như tội lỗi đã làm Thiên Chúa phiền lòng, thì Người sẽ còn phiền lòng hơn biết mấy khi con người từ chối tình thương Người dành cho họ, mong họ trở về sống trong tình thương.
Hơn nữa, ở đây còn có lời mời gọi chia sẻ niềm vui với Thiên Chúa vì người tội lỗi đã trở về. Kẻ từ chối chia vui với Thiên Chúa cũng chính là kẻ phải trở về, phải sám hối. Kẻ từ chối chia vui với Thiên Chúa cũng chính là người không nhận ra tình thương đích thực, và như thế là họ đã từ khước tình thương của Thiên Chúa.
* * *
Ở giai đoạn đầu của lịch sử cứu độ, sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã lên tiếng hỏi, đang khi họ chạy trốn: "Ngươi đang ở đâu?" Ngày nay, Thiên Chúa đã mở tiệc để thết đãi họ. Nhờ sự tuân phục của Đức Giê-su Ki-tô, nhân loại đã được cứu thoát, đã được chữa lành khỏi mọi thương tích, đã được tha thứ.
Đó là niềm vui của Thiên Chúa, hãy chia vui với Người.
* * *
Phải tin vào Thiên Chúa vì Người đã tin tưởng chúng ta. Người đã làm cho chúng ta tin vào Người, khi trao cho chúng ta Người Con duy nhất. Phải tin vào Thiên Chúa vì Người đã tín nhiệm chúng ta đã làm cho chúng ta tin vào Người. Chẳng lẽ sự tín nhiệm của Thiên Chúa dành cho chúng ta lại không được đặt đúng chỗ? Thiên Chúa đã làm bừng lên nơi chúng ta niềm hy vọng Người đã khởi đầu. Người mong rằng kẻ tội lỗi sẽ làm một chút gì đó cho ơn cứu độ của mình. Một chút! chỉ cần một chút thôi!
TIN VÀO SỰ THA THỨ ĐỂ LÀM HÒA VỚI CHÚA VÀ VỚI ANH EM Kính thưa quý OBACE
Trên tầm mức thế giới chúng ta thấy các cuộc nội chiến tại một số quốc gia hiện nay dường như mỗi TN 24-C134
Trên tầm mức thế giới chúng ta thấy các cuộc nội chiến tại một số quốc gia hiện nay dường như mỗi ngày một khốc liệt hơn, anh em chém giết lẫn nhau. Các quốc gia khác, kể cả Tòa Thánh cũng đã nỗ lực hết mình để mong tìm được giải pháp hòa bình, hòa giải cho các quốc gia nội chiến này, mà dường như vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi. Quốc gia này còn đang đánh nhau thì quốc gia khác lại bắt đầu khai chiến chém giết, đàn áp, trả thù… con người dường như khó chấp nhận sự tha thứ và hòa giải với nhau. Ngay trong một gia đình, một xóm nhỏ cũng đã xảy ra như thế, những cuộc cãi vã qua lại giữa hàng xóm, giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra, bởi vì ai cũng cho rằng mình là người đúng, còn bên kia hoàn toàn có lỗi. Trong lãnh vực đời sống tâm linh đối với Thiên Chúa cũng thế, nhiều người đã cố tình sai phạm, quay lưng lại với Thiên Chúa nhưng họ vẫn cho là mình đúng, và tìm mọi cách để biện minh cho những hành động sai trái của mình.
Thưa quý vị, con người chỉ có thể thực sự hòa giải được với Thiên Chúa, làm hòa được với anh em khi mỗi người nhận ra tình trạng sai lỗi của mình, tin vào sự tha thứ và quyết tâm làm lại cuộc đời. Nếu như Chúa nhật tuần trước, Tin Mừng mời gọi chúng ta sám hối cách cụ thể chân thành, thì Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin vào sự tha thứ của một Thiên Chúa là Cha để trở về với Ngài làm hòa cùng Thiên Chúa và anh em, làm lại cuộc đời mới.
Câu chuyện Người Cha nhân hậu mà Thánh Luca thuật lại hôm nay, trước hết muốn diễn ta một Thiên Chúa là cha yêu thương con người và sẵn sàng tha thứ cho những ngỗ nghịch của con người. Đứa con thứ tượng trưng cho sự ngỗ nghịch ấy. Trong ánh mắt của người con thứ, người cha dường như chẳng con vị trí nào quan trọng, mặc dù rằng ông yêu thương kể cả chiều chuộng nó, ông đáp ứng cho nó đầy đủ không thiếu thứ gì. Khi khôn lớn, người con thứ đòi chia gia tài của ông, ông cũng sãn lòng chia cho nó, rồi nó bỏ nhà ra đi mang theo của cải của ông. Ông biết rõ, là nó sẽ phung phí hết số tài sản đó, và nó sẽ không còn nhớ gì đến ông, nhưng ông vẫn đợi vẫn chờ. Đến khi nó trở về với thân tàn ma dại quần áo tả tơi thì ông lại chạy ra ôm lấy nó mà hôn, ông còn ra lệnh cho đầy tớ đem áo, đem nhẫn và giày dép mang vào cho nó và còn giết bê béo ăn mừng với chỉ một lý do duy nhất: Vì con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Mặc dù nó trở về vời lý do khác, nhưng ông vẫn tin vào sự trở về của nó và đã trả lại cho nó quyền được làm con cái trong nhà. Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về tình trạng của con người, dù con người có tội lỗi xấu xa, nếu biết quyết tâm chỗi dậy, thì Thiên Chúa luôn tin vào sự hoán cải của con người, để đón nhận và tha thứ.
Đứa con thứ đã lao vào tình trạng tồi tệ, tội của nó đáng chết đến trăm lần, nó đã bỏ tình yêu và cuộc sống hạnh phúc trong nhà Cha để lao đầu vào cuộc sống hưởng thụ sa đọa, nó lấy tiền của cha nó để ăn chơi đàng điếm. Chỉ khi nó sa cơ thất thế, không còn tiền bạc của cải, không còn chỗ dựa nào nữa, nó đã rơi xuống tận đáy của xã hội, đến tột cùng của sự nhục nhã nó phải đi chăn heo cho người khác, và thậm chí còn phải giành ăn đồ ăn của mấy con heo. Chính từ lúc cùng quẫn nhục nhã đó, nó có cơ hội để nhìn lại quãng đời của mình, và thấy rằng, chỉ có quãng thời gian ở trong nhà với cha là quãng đời đẹp nhất và hạnh phúc nhất, trong khi đầy tớ trong nhà cũng được ăn uống dư thừa, còn nó thì đang phảỉ đói khát phải sống cùng bầy heo. Nó tin rằng nó trở về, thì cha nó sẽ tha thứ, sẽ đón nhận nó, dù cho nó sẽ phải sống kiếp đầy tớ trong nhà, thì vẫn còn hạnh phúc hơn là cảnh xa nhà: Nó hồi tâm và tự nhủ tôi sẽ chỗi dậy và trở về với Cha tôi và thưa Người rằng: Thưa Cha con đã lỗi phạm đến trời và đến Cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin Cha đối xử với con như đầy tớ trong nhà của cha. Nhận ra tình trạng của mình, tin vào sự tha thứ của Cha, và nó đã chỗi dậy làm một cuộc trở về với Cha, bỏ lại quá khứ để làm lại cuộc đời, bắt đầu một cuộc đời mới, và nó đã đón nhận được sự tha thứ vượt trên cả sức nó tưởng tượng. Người cha đã chạy ra ôm nó vào lòng, trả lại danh dự cho nó, và đón nhận nó với niềm vui mừng hân hoàn: Vì con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Nếu như lý do thúc đẩy cho sự trở về làm hòa với Thiên Chúa là: Tin vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, thì việc làm hòa với anh em, đòi phải nhìn thấy tình huynh đệ con cùng một cha nơi người anh em mình, để có thể tha thứ và đón nhận nhau, đó là câu chuyện xảy ra cho người con cả. Anh này không chấp nhận và không tin vào sự hối hận trở về của em mình, vì thế anh ta đã giận dỗi và từ chối không chỉ người em, mà vì giận người em, anh từ chối không bước vào nhà cha nữa. Khi người ta giận dỗi nhau, thì người ta cũng từ chối gặp mặt Thiên Chúa, đó cũng là thái độ của nhiều người hôm nay: khi có vấn đề xích mích với anh em thì bỏ bê việc đến với Chúa. Người anh cả này đã nhất định từ chối người em, và từ chối bước vào nhà cha để dự bữa tiệc vui: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha chẳng hề trái lời, vậy mà có bao giờ cha cho riêng tôi được một con bê để ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của Cha kia sau khi đã phung phí hết tài sản thì cha lại cho làm thịt bê béo để ăn mừng.
Anh đã tự mãn với đời sống hiện tại của mình, anh ganh tị với người em, anh không nhìn nhận nó là em của anh nữa, anh đã gọi nó là: thằng con của cha kia, chứ không phài là em tôi. Anh ở với Cha, nhưng lại không cảm nhận được tình thương của cha, anh có đầy đủ, cả khối tài sản được chia giống như người em, nhưng anh vẫn không thỏa mãn, anh còn tham một con bê nhỏ. Anh không thể tha thứ khi nhìn em của anh được cha tha thứ, anh muốn tiếp tục đẩy người em ra khỏi nhà, và khi anh giận dỗi với em mình, thì anh cũng đã tự tách mình ra khỏi nhà của cha, trở thành kẻ đứng ngoài.
Thưa quý OBACE, người cha trong câu chuyện của Tin Mừng hôm nay là hình ảnh của Thiên Chúa là cha yêu thương đang vẫn đang ngày ngày đợi chờ chúng ta là những đứa con trở về với Ngài. Có thể chúng ta giống như đứa con thứ đã xa lìa tình cha, vô ơn bội nghĩa với thiên Chúa, để mình chìm đắm trong cuộc sống hoang đàng, song chúng ta không thất vọng, chỉ cần mỗi người cũng hãy tự nhủ với mình rằng: Tôi sẽ chỗi dậy và trở về với cha tôi và thưa với ngài rằng: thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, và chỗi dậy trở về, thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa là Cha chạy ra ôm lấy chúng ta và tha thứ cho chúng ta.
Cũng có thể nhiều khi chúng ta thấy mình không đến nỗi tội lỗi, cũng không bỏ nhà đi hoang như người con thứ, thì rất có thể chúng ta đang giống như người con cả, mặc dù vẫn ở gần Cha nhưng lòng thì xa Cha, và nhất là chúng ta đang để trong mình sự so đo tính toán với cha, ganh tị với anh em khác và cũng nhiều lần chúng ta đã khép lòng từ chối anh em, và không cho họ có cơ hội trở về, và cũng nhiều lần vì ghét bỏ anh em, mà chúng ta đã không đáp lại lời mời của Thiên Chúa từ chối tình thương của Thiên Chúa… tất cả chúng ta đều được mời gọi trở về để xin lỗi cha và làm hòa với anh chị em.
Thánh Phaolo đã cho thấy, tất cả chúng ta đã trở nên tạo vật mới, con người mới, với cuộc đời mới, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa, và vì thế chúng ta hãy mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa là cha, và nhất là mỗi người chúng ta đã lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, thì chúng ta cũng phải biết đón nhận và tha thứ cho nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người, mỗi gia đình, hãy mau chóng làm hòa cùng Thiên Chúa và làm hòa lại với nhau, đừng ngại ngần, hãy bước đến với Thiên Chúa nơi Bí tích Hòa giải, để mỗi người sẽ cảm nhận được tình yêu tha thứ của Thiên Chúa là cha, được an ủi và được chữa lành. Hãy rà soát lại các mối tương quan với anh chị em, hãy gỡ bỏ những bất đồng thành kiến, những giận hờn thù oán, hãy chủ động bước tới và đưa tay ra để bắt tay người anh em, để xóa đi những mặc cảm và giận dỗi, để cùng nhau sống tình huynh đệ con cùng một cha.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta đừng bao giờ thất vọng về tình trạng của mình, nhưng luôn tin tưởng vào lòng bao dung của Thiên Chúa để làm lại cuộc đời. Amen.
CHÚA GIÊSU TRỞ NÊN “NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG” VÌ CHÚNG TA.
Lm Jude Siciliano OP, viết suy niệm trong bài “cuộc trở về an toàn”: Nếu từ “hoang đàng” có nghĩa TN 24-C135
Lm Jude Siciliano OP, viết suy niệm trong bài “cuộc trở về an toàn”: Nếu từ “hoang đàng” có nghĩa là phung phí thái quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ ngôn hôm nay là hoang đàng, tuy mỗi người một kiểu. Người cha về tình thương và người con về tiền bạc vật chất. Theo thói quen chúng ta gọi dụ ngôn là người con hoang đàng. Nhưng nhiều nhà mô phạm cũng gọi người cha là hoang đàng nữa. Ông đã phung phí tình cảm trên hai đứa con vô độ, không có giới hạn nào. Người cha thế gian dù dễ dãi đến đâu cũng phải có chút hạn chế cho những đứa con của mình. Đàng này, trước các lỗi lầm của hai con, ông chỉ biết trông chờ, vui mừng và nài nỉ…Thiên Chúa là Đấng phung phí lòng xót thương trên các tội nhân.
Người con thứ đòi cha chia gia tài. Với tiền bạc, nó bỏ đi vô tình và ăn chơi trác táng. Hết tiền, nó đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Khi trở về, nó chẳng còn gì cả. Tiền bạc, sức khoẻ, danh dự, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí.
Người cha mòn mỏi đợi chờ con trở về. Kể từ ngày con cất bước ra đi, cha ngong ngóng mong con về. Đứa con đã trở về thật rồi. Nó về vì chẳng có chỗ nào đón nhận, chẳng còn chỗ nào nuôi dưỡng, chẳng còn người bạn nào tiếp đón. Không sao cả, con trở về là cha mừng vui. Người cha không cần lời thú lỗi của con, cha đã tha thứ cho con rồi. Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho sao! Tắt một lời, ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
Nhiều người không chấp nhận lối hành xử nhân lành của Thiên Chúa theo dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Kiểu cách suy tư và thái độ của người anh cả là một biểu trưng. Người anh cả tưởng rằng, Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công, phạt kẻ có tội. Người anh cả không hiểu rằng, Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người bị hư mất, chịu thất bại trong ơn gọi làm người do chính Ngài tạo dựng nên; Ngài gìn giữ, yêu thương quí mến, nâng niu trong bàn tay nhân hiền của Ngài hay sao? Ðể cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy, Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem người con trở về trong vòng tay yêu thương của Ngài.
Anh Piere Marie người sáng lập Huynh Đoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về Chúa Giêsu như người con hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị. Xin trích dẫn tác phẩm “Người Cha Nhân Hậu” của Henri J. M. Nouwen, trong đó có một đoạn anh Pierre Marie đã viết:
“Đức Giêsu được sinh ra không bởi dòng dõi, ước muốn hay ý chí của con người, nhưng bởi chính Thiên Chúa. Một ngày kia, Ngài đã để mọi sự dưới chân Người và ra đi với gia sản của Ngài, là tước hiệu làm Con Thiên Chúa của Ngài…
Với giá chuộc tất cả, Ngài đã ra đi tới miền xa... miền đất rất xa... nơi mà Ngài đã trở thành như con người và đã làm trống rỗng chính mình. Chính dân của Ngài cũng không nhận biết Ngài và cái giường đầu tiên của Ngài là một nệm rơm. Giống như một cây đâm rễ nơi đất khô cằn, Ngài trưởng thành trước chúng ta, đã bị khinh bỉ là hạng thấp nhất trong con người. Chẳng bao lâu Ngài đã nếm sự lưu đày, sự chống đối, sự cô độc... sau khi đã cho đi mọi thứ trong đời sống cách rộng rãi, của cải, bình an, ánh sáng, sự thật, chính đời sống của Ngài... mọi kho tàng hiểu biết, khôn ngoan và mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn đời.
Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Israel, Ngài đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi, ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài; sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Samaria, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài bị đóng đinh: ”Ta khát”. Ngài đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, chỗi dậy từ chiều sâu ngục tối nơi Ngài đã xuống, Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng ta. Đứng thẳng, Ngài kêu lên: ”Phải, Ta lên Trời với Cha Ta cũng là Cha của con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con”. Và Ngài đã trở lại Thiên Đàng...
Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả con cái trong Người Con từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người Cha nói với các tôi tớ: “Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy... Người Con Hoang Đàng của Ta đã mang tất cả mọi ngươì trở về...”
Và tất cả bọn họ bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên...”
Chúng ta đang tiến gần đến giai đoạn cuối của của Năm Thánh Lòng Thương Xót, ba dụ ngôn trong TN 24-C136 Dalat
Chúng ta đang tiến gần đến giai đoạn cuối của của Năm Thánh Lòng Thương Xót, ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay làm nổi bật hình ảnh ba chiều về Lòng Thương Xót Chúa: Lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô tận; Chúa thương xót hết mọi loài; Chúa hành động vì xót thương.
Dụ ngôn: "Con chiên lạc" (x. Lc 15, 4-7); " Đồng bạc bị đánh mất" (x. Lc 15, 8-10); cụ thể hơn cả là dụ ngôn "Tình phụ tử " (x. Lc 15, 11-32) thể hiện niềm vui viên mãn tràn đầy. Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Vì đồng bạc vô tình bị đánh mất, con chiên lạc có thể cố gắng tìm thấy đàn của mình, và người mất chiên cũng có thể tìm lại được chiên, nhưng không một trường hợp nào hồi tâm trở về với chính mình. Nên người tội lỗi trở về, Chúa Cha khao tiệc ăn mừng. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, rất mực yêu thương chúng ta như thế.
Cả thiên đàng vui mừng khi ta tội lỗi trở về cùng Chúa
Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn: "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi" (Lc 15,18). Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và sự hoán cải của người con tìm thấy được tình yêu trìu mến của cha.
Cha Marko I. Rupknik S.I tác giả Logo của Năm Thánh Lòng Thương Xót họa vẽ Chúa Giêsu đang vác con người lầm lạc trên vai, là một minh hoạ tuyệt vời về lòng thương xót Chúa.
Lòng Thương Xót đã trở nên người, mặt Chúa và mặt người giống hệt nhau. Khi vác con người trên vai, Thiên Chúa và con người hướng về nhau, đến nỗi có chung một con mắt. Như thế, Thiên Chúa nhìn con người bằng chính mắt con người, để cảm thông, yêu thương và hoán cải con người. Từ nay con người nhìn vũ trụ vạn vật bằng đôi mắt của Thiên Chúa, mà hiểu được Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa, để sống trong vũ trụ theo chương trình ban đầu của Thiên Chúa là đem lại hạnh phúc cho con người.
Con người bỏ Chúa ra đi, lầm đường lạc lối, đi vào ngõ cụt, bị thương tích. Thiên Chúa vẫn yêu thương mang về. Logo Năm Thánh diễn tả, Chúa tay chân vẫn còn mang thương tích vì bị con người đóng đinh. Nhưng Chúa không quan tâm đến vết thương đau đớn của chính mình, vẫn vội vã, chân thấp chân cao đi tìm con người. Tìm được rồi, Chúa không lên án lỗi lầm, Chúa vác con người trên vai mang về mở tiệc ăn mừng. Đó là tình yêu thương vô biên, yêu thương đến tha thứ những phản bội, yêu thương đến quên mình, dám chết vì người mình yêu. Lòng Thương Xót của Chúa thật vô biên, không ai hiểu thấu, không lý luận nào có thể cắt nghĩa được.
Có người nghi ngờ về lòng thương xót ấy nên mới nói: Tôi tội lỗi lắm, vào xưng tội, cho dù cha có tha, không biết Chúa có tha cho tôi không ?
Xin thưa: Để lãnh ơn tha thứ, cần phải có tội, và cho dù tội có đỏ như son Chúa vẫn tha thứ, vì Chúa là Đấng tha thứ không biết mệt mỏi. Thứ tha là việc của Chúa, lỗi lầm là của con người chúng ta. Con người tha cho nhau còn nhớ lại. Thiên Chúa tha thứ là xóa sạch tội khiên. Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên: nếu xưng tội xong lại phạm, hãy đến tòa giải tội để lĩnh ơn tha thứ. Xin bật mí, ấn tín tòa giải tội luôn được cha giải tội trân trọng giữ gìn, nghe xong quên luôn là việc các cha phải làm.
Có người còn hỏi: Khi ta phạm tội, ta xin Chúa tha thứ, Ngài thứ tha, vậy cần gì phải đến xưng tội với cha cho mất thời gian và thêm phiền toái ?
Quả thật, sau khi phạm tội chúng ta thật lòng hối cải ăn năn tội cách trọn thì đã được Thiên Chúa tha thứ rồi, nhưng nếu ta không đến tòa giải tội, ta không lĩnh nhận được cách trực tiếp ơn tha thứ ấy. Cũng như người con thứ bỏ nhà ra đi, cha anh ở nhà đã sắm cho anh nhẫn vàng, áo đẹp và giầy sang, những thứ đó là của anh, nhưng nếu anh không về thì anh chưa nhận được trực tiếp.
Tìm lại chính mình và trở về với tha nhân
Người con trưởng tuy ở hằng ở cùng cha, nhưng anh đã đánh mất chính mình, tự nhận mình là kẻ làm tôi "con đã làm tôi cha" (Lc 15,29), đánh mất em, em mình mà anh gọi là "thằng con con của cha kia" (Lc 15,30). Và giờ đây anh ta tố cáo cha đã không bao giờ cho anh một con dê con để mừng lễ với bạn bè. Tội nghiệp người cha! Một đứa con bỏ nhà, đứa kia thì lại đã không bao giờ gần gũi cha thực sự! Ông đã mất cả hai thằng con. Cái khổ đau của người cha giống nỗi khổ đau của Thiên Chúa, khi chúng ta rời xa, hay bởi vì chúng ta ở xa hoặc vì chúng ta ở gần nhưng lại không gần. Người anh cả cũng cần phải trở về. Những người công chính, những người tin rằng mình công chính cũng cần lòng thương xót.
Đạo của chúng ta không phải là đạo ghen tị, được thua mà là đạo của tình thương. Chúng ta buồn vì anh em thành công, được ưu đãi hơn mình, tìm cách hạ bệ, thậm trí đối xử với đồng loại, cả đồng đạo, tệ hơn nữa là coi cha mẹ, anh em ruột thịt mình như kẻ thù, không bằng người dưng nước lã. Lúc ấy cần phải sám hối trở về với chính mình và anh em.
Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ------------------------------------
Trong Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta luôn bắt gặp hạng người đa nghi, xét nét, dòm ngó người khác. TN 24-C137
Trong Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta luôn bắt gặp hạng người đa nghi, xét nét, dòm ngó người khác. Việc của người thì sáng, việc của mình thì quáng. Hạng người này, Chúa Giêsu rất ghét, Ngài chống đối họ khi họ tìm đủ cách để bắt bẻ và ám hại Ngài. Bất cứ Chúa Giêsu làm gì, nói gì thì người Pharisêu và Biệt phái cũng chống đối Ngài. Bởi vì, họ không bao giờ nghĩ tốt về Chúa. Họ cho rằng Chúa không làm theo ý họ và luôn làm ngược lại những điều họ ước muốn.
Thực tế, họ không thể bắt bẻ được bất cứ sự sơ hở nào trong lời giảng dạy của Chúa. Do đó, họ để ý, dò xét cử chỉ, việc làm và sự giao dịch của Ngài.Chúa không hề quan tâm đến những việc đó.Bởi Chúa đến để cứu sống, để giải cứu, giải thoát những hạng người tội lỗi. Chính vì thế, Chúa đã đi với những người thu thuế, đã tới nhà họ, đã đồng bàn với họ.Chúng ta thử đan cử một vài trường hợp trong Tin Mừng: Chúa đã vào nhà ông Giakêu, nhà ô Lêvi, Chúa đã đồng bàn với những người này và bạn bè của những người này. Giakêu và Lêvi là những người thu thuế.Một lần khác một người thu thuế mời Chúa Giêsu và các tông đồ của Ngài tới nhà ông ấy dùng bữa.Trong đám tiệc này có rất nhiều thu thuế bạn bè của nhà đãi tiệc cũng có mặt và rồi có một người đàn bà được coi là tội lỗi đem dầu thơm mà xức lên chân Chúa, nước thấm đầm chân Chúa, bà lại lấy tóc mà lau chân và hôn cả chân Chúa nữa. Cử chỉ và thái độ này của Chúa Giêsu đã làm những người Pharisêu và Biệt phái khó chịu, họ đã thốt lên:” Nếu quả thực Ông này là tiên tri thì đã biết người đàn bà đụng đến mình là ai, và thuộc hạng người nào: một đứa tội lỗi “ ( Lc 7, 39 ).Chúa quả thực là người Cha nhân từ, luôn giầu lòng thương xót. Chúa ghét tội lỗi nhưng lại yêu thương những người tội lỗi. Ngài không muốn họ hư đi nhưng luôn muốn cứu vớt họ, luôn luôn muốn cứu sống họ vv…Để giải thích cho thái độ của mình và để minh chứng lòng thương xót của mình đối với con người và để minh giải trước bọn chống đối, Chúa Giêsu đã đưa ra ba dụ ngôn thật cảm động, ấn tượng. Đây không chỉ là ba dụ ngôn nhưng thật ra chính là ba câu chuyện có thật, thực tế, đánh động lòng người và gây thức tỉnh những người tội lỗi, yếu hèn.
Những câu chuyện này là “ Con chiên lạc .Đồng bạc đánh mất và Người con hoang đàng trở lại.
Tất cả ba dụ ngôn này đều cho chúng ta hiểu lòng nhân từ bao dung của Chúa. Chúa luôn sẵn sàng tha thứ và chúc lành, ban ân huệ cho những người biết ăn năn trở về. Thiên Chúa thật vui mừng khi gặp lại những người hư mất sau bao nhiêu năm, bao ngày chờ đợi tìm kiếm. Vâng, Thiên Chúa, Đấng toàn thiện toàn hảo, uy quyền tuyệt đối lại vui mừng khi một người tội lỗi hối cải. Chúa đã cho chúng ta thấy rõ, Ngài vui mừng bỏ chín mươi chín con chiên để tìm kiếm con chiên lạc. “ Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi sám hối, ăn năn, trở về “. Lòng nhân hậu, cách cư xử và thái độ tha thứ của Chúa giúp chúng ta hồi tâm hơn về cách cư xử, và thái độ của chúng ta đối với kẻ khác. Chúa đã dạy chúng ta:” Xin tha cho kẻ có nợ chúng ta như Chúa đã tha thứ cho chúng ta “ hoặc “ Phải tha thứ mãi mãi, luôn luôn, không ngừng chứ không phải chỉ tha bảy lần bảy “. Trên Thập giá, Chúa đã tha thứ cho những kẻ làm hại mình, giết mình. Chúa đã tha thứ và đưa vào Thiên Đàng kẻ trộm lành. Chúa đã tha thứ và tha thứ không ngừng cho tất cả mọi người tội lỗi biết ăn năn, thống hối, quay trở về với Ngài. Gương của Cha Kolbê đã chết thay cho một tử tù. Gương của thánh nữ Maria Goretti đã tha thứ cho Alexandre đã làm hại, và giết mình. Gương của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tha thứ cho Ali Agca đã bắn gục Ngài tại công trường thánh Phêrô. Câu chuyện người con trai hoang đàng trở về càng làm nổi bật tấm lòng thương xót, thứ tha của Thiên Chúa…
Lạy Chúa Giêsu, Đấng giầu lòng thương xót, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa, để chúng con luôn biết tha thứ cho những người làm hại, chống đối chúng con như Chúa đã tha thứ cho chúng con dù chúng con tội lỗi yếu hèn.Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Ba du ngôn trong Tin Mừng hôm nay của thánh Luca nói lên gì ? 2.Tại sao Chúa lại đồng bàn và giao du với những kẻ tội lỗi ? 3.Tại sao ông chủ lại bỏ 99 con chiên mà đi tìm con chiên lạc ? 4.Điều gì nói lên lòng thương xót của Chúa ?
Thật tồi tệ khi các công ty đa quốc gia đôi khi cắt giảm nhân công, mà không chút quan tâm đến TN 24-C138
Thật tồi tệ khi các công ty đa quốc gia đôi khi cắt giảm nhân công, mà không chút quan tâm đến những con người bị sa thải. Đối với họ, lợi nhuận được đặt hàng đầu trên tiền trợ cấp của công nhân.
Đây là tiêu điểm mà những dụ ngôn về con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất Chúa Giêsu muốn đề cập tới. Trong cả hai câu chuyện, điều bị đe doạ đó là giá trị của từng cá nhân. Nhưng người ta có thể nói rằng: Tại sao lại quan trọng hoá con chiên đáng thương hoặc đồng tiền chẳng đáng gì ấy ? Đối với một người chăn chiên tận tâm thì mỗi một con chiên đều quan trọng và quý giá. Đồng tiền mà người phụ nữ làm mất là một đồng tiền Hy Lạp, chỉ đáng giá khoảng 4 xu. Nó không nhiều đối với chúng ta, nhưng vào thời điểm đó nó tương đương cả một ngày làm công. Chúng ta có thể hiểu tại sao bà ta lại cố gắng tìm kiếm đến như vậy. Nó có giá trị nhiều đối với bà ta.
Có một nhóm người đã tập hợp lại để lên kế hoạch mở một trại cải tạo cho những bé trai. Họ mời một nhà sư phạm danh tiếng đến để xin lời khuyên về việc thực hiện kế hoạch này. Nhà sư phạm đã kêu gọi với đầy nhiệt tình về những phương pháp nhân bản của công việc giáo dục nơi trường cải tạo, hối thúc những người sáng lập đừng tiết kiệm trong việc mời các thầy dạy giỏi và có tấm lòng nhân hậu. Ông kết luận rằng: “Nếu chương trình cải tạo này chỉ cứu được một đứa trẻ bị suy đồi đạo đức thì cũng xứng đáng với tiền bạc và công sức quý vị đã đầu tư.”
Sau đó một thành viên trong ban quản trị đã gặp ông và nói: “Ông đã nói không quá lời chứ ? Có thật là tất cả tiền bạc và công sức được đền bù nếu chúng ta chỉ cần cứu được một đứa trẻ ?”
“Đúng, nếu đứa trẻ đó là con tôi”, ông trả lời.
Nếu ta hỏi người chăn chiên: “Có bõ công không, khi ông bỏ thời gian và công sức để tìm kiếm một con chiên ?” Người chăn chiên sẽ trả lời tương tự: “Có chứ, khi con chiên đó là của tôi.” Không có điều gì là ngoại lệ về câu chuyện người chăn chiên của Chúa Giêsu. Bất kỳ người chăn chiên nào sống đúng với danh xưng của họ cũng đều làm như thế.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không nói về con chiên mà là nói về con người, một cách chính xác hơn là về những người tội lỗi. Người Biệt phái lấy làm khó chịu khi thấy Người hầu như dành tất cả thời gian để kết bạn với những người tội lỗi. Và Người không đợi đến lúc những người tội lỗi tỏ ra hối lỗi rồi mới làm bạn với họ. Người làm bạn với họ ngay trong chính tình trạng tội lỗi của họ, trong sự mất mát của họ. Đây là điều mà những chức sắc tôn giáo lấy làm khó chịu, vì Người đã kết bạn với kẻ tội lỗi ngay khi họ còn là tội nhân.
Lời biện hộ của Chúa Giêsu thật hoàn toàn thẳng thắn, Người nói Người đến với những ai thực sự cần. Con chiên bị lạc và dĩ nhiên là nó đang bị nguy hiểm, sẽ cần đến sự giúp đỡ của người chăn chiên hơn là những con chiên đang yên ổn trong bầy. Và người chăn chiên không đợi đến lúc con chiên lạc trở về ; ông đi tìm nó. Những người tội lỗi cần Người hơn là những người công chính vì họ đang lầm lạc.
Khi kết thân với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã không dung thứ cho hoàn cảnh của họ. Đúng hơn, Người đã cố gắng chỉ cho họ thấy con đường tốt đẹp hơn. Nhưng Người không thể nào làm được điều này nếu Người không gần gũi với họ và không tỏ ra thông cảm với họ. Ta không bao giờ cải thiện được ai nếu ta lảng tránh họ. Trong khi hành động như thế, Chúa Giêsu đã bày tỏ lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi.
Thánh Phaolô không bao giờ quên sự việc ngài đã từng là kẻ bách hại Chúa Giêsu. Nhưng giờ đây, ngài xem bản thân mình như là một nhân chứng cho việc Chúa Giêsu đến để cứu vớt những người tội lỗi (bài đọc 2). Nếu như những người công chính là nhân chứng về ân sủng của Thiên Chúa thì những người tội lỗi sám hối là nhân chứng về lòng nhân từ của Người.
“Tôi không tán thành với những công việc trên quy mô lớn. Đối với chúng tôi, vấn đề là từng cá nhân con người” (Mẹ Têrêsa).
Có người sẽ nói: Tại sao người chăn chiên lại quan trọng hoá việc một con chiên bị mất trong khi TN 24-C139
Có người sẽ nói: Tại sao người chăn chiên lại quan trọng hoá việc một con chiên bị mất trong khi ông ta còn có tới chín mươi chín con ? Và tại sao người phụ nữ lại quan trọng hoá sự việc chỉ vì bị mất một đồng xu ?
Bất cứ cái gì ta bị mất đều có giá trị cao hơn. Ví dụ nếu ta mất chiếc chìa khoá. Ngay khi ta vừa mất nó, nó trở nên quan trọng hơn cả trị giá tính bằng tiền của những đồ vật mà ta đang sở hữu. Chúng ta chẳng bao giờ biết được hết giá trị những gì ta có cho đến khi ta đánh mất nó.
Có một thanh niên nọ khao khát được trở thành nhà nhiếp ảnh. Mỗi năm anh ta đem một đống những ảnh đẹp nhất của mình đến với nhà nhiếp ảnh già và nổi tiếng, để xin những lời khuyên và đánh giá. Người nhiếp ảnh già xem xét các bức ảnh, phân chúng ra làm hai loại: đẹp và xấu. Ông khám phá ra rằng có một tấm ảnh phong cảnh năm nào anh thanh niên cũng đều đem đến và rồi tấm ảnh đó luôn bị loại ra. Cuối cùng ông gặp anh thanh niên và nói: “Anh hẳn là phải có sự quan tâm đặc biệt đến tấm ảnh này. Tại sao anh lại thích nó đến như vậy ?”
Và chàng thanh niên trả lời: “Bởi vì tôi đã phải trèo lên một ngọn núi cao để chụp nó.”
Một vật trở nên quý giá với chúng ta bởi những gì ta đã nhận được từ nó. Nó cũng trở nên quý giá với chúng ta bởi tâm huyết ta đặt nơi nó. Những hy sinh ta phải đổ ra để có được nó, đã tăng giá trị của nó dưới cái nhìn của ta.
Có một câu chuyện vui: Ngày nọ, Chúa Giêsu tới gặp người chăn chiên, anh ta đang cố gắng để vượt qua nỗi muộn phiền. Chúa Giêsu hỏi: “Tại sao anh lại buồn đến thế ?” Người chăn chiên trả lời: “Bởi vì con đã bị lạc mất một con chiên, và mặc dù con đã tìm kiếm khắp nơi nhưng vẫn không tìm thấy. Có thể sói đã ăn thịt nó mất rồi.” Nghe đến đây Chúa Giêsu nói: “Hãy đợi ở đây, Ta sẽ kiếm nó cho con.”
Nói rồi, Người biến mất sau những ngọn đồi. Vài giờ sau Người trở lại với con chiên. Đặt nó xuống dưới chân của chàng chăn chiên, Người nói: “Từ nay trở đi, anh phải thương con chiên này nhiền hơn bất kỳ con nào khác trong bầy, vì nó mất nay đã tìm lại được.”
Vấn đề Chúa Giêsu đề cập đến trong câu chuyện con chiên lạc và đồng tiền bị mất, là mỗi người đều quan trọng và đáng quý trước mặt Chúa. Nếu một người nào đó bị lầm lạc thì Chúa càng thương yêu người đó nhiều hơn, chứ không ít hơn.
Người Biệt phái tự nhận mình là mẫu mực đạo đức, không quan hệ với người tội lỗi. Họ cho rằng Thiên Chúa cũng không quan hệ với những người tội lỗi như họ. Điểm chính yếu trong giáo lý của họ là: “Chúa yêu người công chính và ghét kẻ tội lỗi.” Nhưng Chúa Giêsu đã cho họ thấy về một vị Thiên Chúa hoàn toàn khác.
Chúa Giêsu hiền lành và thích đến với những người tội lỗi. Chúa biết rằng loại trừ và chỉ trích sẽ không bao giờ giúp thay đổi một con người. Vì thế Người đã hiện diện một cách đặc biệt để tội nhân được cảm thấy mình được đón nhận và yêu thương, và chỉ trong bầu khí đó họ mới có thể đáp lại và thay đổi.
Ngay cả khi nhìn theo quan điểm nhân bản, cách thức hành động của Chúa Giêsu thật ý nghĩa. Khi một đứa trẻ đói và lạnh, nó chẳng cần một bài thuyết giáo ; điều cần thiết với nó là sự ấm áp và thức ăn. Như Jean Vanier đã nói: “Một người bất hạnh không cần một cái nhìn xét đoán và những lời chỉ trích, mà cần sự hiện diện đầy an ủi, đem lại sự an bình và hy vọng cho cuộc sống.”
“Khi một người cha than vãn rằng con ông đã sa vào con đường tội lỗi, thì ông ta nên làm gì ? Ông ta nên yêu thương nó nhiều hơn nữa” (Baal Shem Tov).
Không phải chỉ có chiên và tiền mới bị mất. Con người cũng bị lạc mất như vậy. Theo báo The TN 24-C140
Không phải chỉ có chiên và tiền mới bị mất. Con người cũng bị lạc mất như vậy. Theo báo The Tablet (tháng 12/1996) có khoảng 250.000 người biến mất tại Anh quốc mỗi năm. Ở mọi lứa tuổi và thuộc mọi tầng lớp, từ trẻ em đến người lớn, với rất nhiều lý do, đều có thể bị lạc. Sự biến mất của nạn nhân để lại phía sau nơi các gia đình những hoài nghi, đầy tội lỗi, đau khổ, những con người phải sống trong sự hỗn tạp giữa sự hy vọng và thất vọng, họ không thể đón nhận được điều đã xảy ra hoặc quá đau khổ như chính họ đã chết. Tổ chức tìm kiếm những người bị mất tích quốc gia (A National Missing Persons Line) được thành lập tại Anh vào năm 1992, hoạt động liên tục trong 24 giờ một ngày, 365 ngày trong năm, là một trong những tổ chức từ thiện phát triển rất nhanh tại Anh quốc.
Vấn đề này còn nghiêm trọng hơn tại Mỹ. Ước tính khoảng 50.000 trẻ em biến mất mỗi năm, trong đó 5.000 trẻ em được phát hiện đã chết. Tại sao chúng lại bị mất tích ? Một số trường hợp là do cha mẹ ly dị. Một số trường hợp khác là nạn nhân của bạo hành. Một số khác trốn khỏi gia đình vì gia đình không hạnh phúc.
Kevin là đứa trẻ vui tính 10 tuổi. Cậu sống với cha mẹ và hai chị gái tại San Francisco. Ngày nọ cậu rời khỏi trường sau buổi tập bóng rổ và không còn ai gặp lại cậu nữa.
Hầu hết các nước đều không có con số chính xác về số trẻ mất tích hàng năm. Đa số các lực lượng cảnh sát đều không hành động ngay tức khắc khi các báo cáo tường trình về trường hợp mất tích của trẻ được gửi đến, mà lại để ít nhất là 24 tiếng sau. Tại Mỹ, Cục Điều tra liên bang nói rằng nếu họ chỉ lo tìm trẻ mất tích thì họ chẳng còn có thời gian làm các việc khác nữa. Nhiều nước có các chương trình tìm kiếm xe hơi và thẻ tín dụng bị mất cắp, nhưng lại không có chương trình tìm kiếm trẻ bị mất tích.
Con người có thể bị mất tích, mất phương hướng trong nhiều trường hợp. Những người nghiện rượu và ma tuý, những người không thể ổn định được cuộc sống, những người không thể giữ được công việc của mình hoặc không thể hoàn thành một khoá học, những người không thể duy trì được mối tương quan cân bằng, tất cả những người này có thể gọi là những kẻ đi lạc và sẽ rất khó để tìm lại họ. Điều khiến cho sự việc thất bại ở chỗ là thực sự họ không ở xa chúng ta. Họ bị mất tích ngay khi ở giữa chúng ta, đôi khi mất tích ngay trong chính gia đình của mình.
Và rồi, dường như không có ai có thể đến được với họ. Trong những trường hợp này, người chủ chăn không làm gì khác hơn là phải tìm kiếm họ, giúp họ tìm lại chính bản thân mình.
Và dĩ nhiên cũng phải kể đến những người đánh mất đạo đức và tinh thần. Họ giống như chiếc thuyền không có mỏ neo hoặc như người thuỷ thủ không có la bàn. Một số trong họ lầm lạc vì tội lỗi của chính họ, nhưng những người khác lầm lạc vì không có người dẫn dắt, không có ai quan tâm đến họ. Mỗi người Kitô hữu chúng ta phải thể hiện vai trò tích cực của mình nơi những người bị lầm lạc này.
Chúa Giêsu bày tỏ mối quan tâm của Người với ‘con chiên bị lạc’, đó là những người thu thuế, những người tội lỗi và vân vân, những người đã bị chính những nhà lãnh đạo tôn giáo bỏ rơi. Những nhà lãnh đạo tôn giáo đã ngạc nhiên bởi những việc Chúa Giêsu đã làm. Nhưng Người trả lời họ rằng Người chỉ đơn thuần làm những gì mà một chủ chăn đúng với tên gọi của mình phải làm.
Người chủ chăn không đợi cho đến khi con chiên lạc của mình trở về, mà phải đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như thế. Người được Chúa Cha sai đến với chúng ta. Người không đợi những người tội lỗi đi kiếm Người. Người lên đường để đi tìm kiếm họ. Và khi Người tìm được họ, Người đưa họ về nhà Cha với niềm hân hoan.
Ăn năn hối lỗi là trở về với Chúa, và trở về với Chúa là trở về nhà.
Ai trong chúng ta cũng mong muốn mình hoàn hảo, không sai lỗi... Chúng ta cố gắng sống tốt TN 24-C141
Ai trong chúng ta cũng mong muốn mình hoàn hảo, không sai lỗi... Chúng ta cố gắng sống tốt lành, hòa hợp với những người xung quanh, yêu mến Chúa và tha nhân. Nhưng với thân phận yếu hèn của kiếp người, càng cố gắng, ta càng hay lỗi phạm như lời thánh Phaolô nói "Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm."(Rm 7,19) Và ngài khẳng định là "Do tội vẫn ở trong tôi." Vâng, tất cả chúng ta là người tội lỗi, nhiều hay ít, chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa. Thế nhưng, Chúa Giêsu- khuôn mặt của Thiên Chúa lại được nói đến như "Một người đón tiếp phường tội lỗi." Chính vì thế, chúng ta tin tưởng vào Lòng Xót Thương Tha Thứ của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vén mở cho ta thấy qua ba dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay.
- Xót Thương nên hết lòng tìm kiếm. Sự tính toán của Thiên Chúa khác với chúng ta. Chúng ta luôn để ý tới số lượng. Còn Thiên Chúa, Ngài tính "Một" bằng "Chín mươi chín". Mỗi người chúng ta có một giá trị cao quí. Đây là mầu nhiệm về sự tôn trọng của Thiên Chúa với mỗi người trong chúng ta. Chúa yêu chúng ta cách cá nhân và riêng biệt. Thế nên, chiên lạc mất, Người luôn nghĩ tới, lo lắng, đi tìm...cho bằng được. Đứa con thứ bỏ nhà ra đi, Người trông ngóng từng giây chờ nó trở về. Chúng ta có một Thiên Chúa không ngừng nghĩ đến những con cái sai lầm, lạc lối. Một Thiên Chúa yêu thương những đứa con không yêu Ngài. Một Thiên Chúa luôn lên đường tìm kiếm "Những con chiên bị mất" và vui mừng khi tìm thấy.
Mục tử hạnh phúc khi tìm thấy chiên "Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai." Một hình ảnh kỳ diệu chúng ta được chiêm ngắm. Mục tử cười rạng rỡ, hoan hỉ và vui mừng. Đó là Thiên Chúa mà Chúa Giêsu giới thiệu với chúng ta. Và qua chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã đến, ở cùng chúng ta như vậy. Người đón tiếp, tìm kiếm những người tội lỗi. Vì thế, Thiên Chúa không ở yên chờ đợi nhưng lên đường tìm kiếm. Chúng ta là con, ta không bị bỏ rơi, lòng thương xót của Thiên Chúa luôn bao phủ chúng ta, tìm kiếm khi ta lạc lối và ôm ấp, dẫn chúng ta về. Niềm vui của Thiên Chúa là tìm thấy những con cái bị lạc mất và tha thứ cho chúng tất cả lỗi lầm.
- Xót Thương nên hết lòng Tha Thứ. Thật quan trọng đối với Thiên Chúa khi chỉ một người sám hối mà cả Nước Trời vui mừng. "Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn." Vậy ta hãy can đảm đến với Thiên Chúa, xin lỗi Ngài về các tội của ta vì Ngài luôn sẵn lòng tha thứ cho chúng ta.Thiên Chúa không bao giờ rời bỏ chúng ta. Dẫu cho ta có tội lỗi thế nào, Thiên Chúa nhìn con tim của ta, Người nhìn vào sâu thẳm hồn ta khi ta thực lòng nhận mình sai lỗi và xin tha thứ.
Thiên Chúa, Đấng rất mực xót thương, Người luôn tha thứ cho tất cả những ai đến van xin Người. Sự tha thứ của Thiên Chúa không có giới hạn, vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, dù cho ta có trở về vì quá đói khổ chứ chưa phải là vì yêu thương cha như người con thứ. Thế nhưng, Thiên Chúa- Cha nhân lành chỉ cần ta biết nhận ra sai lỗi của mình và trở về. Người trông ngóng và đón chờ để tha thứ, để bao phủ ta bằng lòng xót thương "Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để." Dù tội lỗi có ngập tràn cũng không ngăn cản được tình yêu, lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa dành cho chúng ta và mãi nhận ta là con cái của Ngài.
- Xót Thương nên phục hồi địa vị là con. Thiên Chúa đã tác tạo nên chúng ta với một phẩm giá cao quí, nhưng vì những vết nhơ tội lỗi, ta đã làm hoen ố phẩm giá của mình.Vậy hãy gượng đứng dậy, cất bước, lên đường trở về với Chúa vì Người luôn đang chờ đợi chúng ta. Người không màng tới tội lỗi của ta, cho dù ta có xưng thú, nhưng Người chẳng để ta nói hết câu, vì Người biết tất cả, biết tận cõi lòng ta chân thành sám hối hay không. Và với cung cách hành xử đầy lòng thương xót của Thiên Chúa, Người sẽ phục hồi cho chúng ta phẩm giá là con (x. Lc 15,22-24). Bởi vì, không có gì mạnh mẽ hơn lòng thương xót của Thiên Chúa.
Chúng ta là những tội nhân mà Thiên Chúa như người mục tử bỏ chín mươi chín chiên ngoan, đi tìm một chiên lạc; như người cha nhân lành đã chạy ra ôm lấy và thứ tha tất cả cho đứa con đi hoang và cả người con ở nhà; và như người phụ nữ "thắp đèn","quét nhà", "moi móc tìm cho kỳ được". Xin cho chúng ta cũng được ở dưới ánh đèn tình yêu của Chúa để Người thấy ta, đem ta về với Người. Chúng ta tin tưởng vào lời khẳng định của Chúa Giêsu "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." Vậy ta hãy khiêm tốn trở về với Chúa và khẩn cầu "Lạy Chúa, xin thương xót chúng con". Chúng ta hãy đến với Chúa trong Bí tích Hòa Giải, Người luôn chờ đợi để tha thứ tất cả những lỗi lầm của ta và để yêu thương ta. Qua Bí tích Hòa Giải, Chúa nắm lấy chúng ta, ôm chúng ta vào lòng và đổ tràn lòng thương xót của Người cho chúng ta. Sự trở về và được tha thứ là một niềm vui đối với chúng ta, nhưng còn là niềm vui mừng lớn lao hơn đối với Thiên Chúa và cả Nước Trời.
Trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này, hơn bao giờ hết, mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi thực lòng trở về với Chúa vì Người đang tìm ta, trông chờ ta. Chúng ta hãy sống tâm tình của người con, luôn tin tưởng vào tình yêu và lòng bao dung tha thứ của Cha. Cha chúng ta là Thiên Chúa Tình yêu và chúng ta là con cái của Người. Vậy Chúa cũng mong chúng ta cộng tác với Người trong sứ mạng tìm kiếm anh em lạc đường và dẫn họ trở về với Chúa. Vì còn biết bao anh chị em đang lầm lạc, đi xa; đang đau khổ, đói nghèo tình yêu Chúa mà không biết lối quay trở về. Nhiều người còn đang sống trong thù hận, ghen tương, đố kỵ và ích kỷ với anh em mình dù chẳng xa đàn chiên. Thái độ và cách đối xử đó không phải là của những người con cùng một Cha, và không phải là lối sống của Kitô hữu. Vậy chúng ta hãy trở về với Chúa Cha Nhân Từ, ăn năn sám hối, cầu xin Người tha thứ và đổ tràn lòng xót thương trên chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu- Dung Nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha, xin giúp chúng con biết tín thác vào lòng Chúa xót thương mà can đảm nhìn nhận tội lỗi và trở về với Chúa để được tha thứ và được sống trong vòng tay, trong mái nhà của Chúa Cha Nhân Hậu. Amen.
(Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 03 tháng 05 năm 2016)
Câu chuyện trong Tin Mừng mở đầu bằng một sự đối nghịch, một đàng các người tội lỗi đến TN 24-C142
Câu chuyện trong Tin Mừng mở đầu bằng một sự đối nghịch, một đàng các người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người, đàng khác các là các luật sĩ và các kinh sư nghi ngờ tránh xa Chúa vì thái độ hành xử của Người. Họ tránh xa bởi vì Chúa Giêsu tới gần những người tội lỗi. Những người này kiêu căng, họ tin mình là những người công chính, những người tuân giữ luật Môse một cách nhiệm nhặt.
Dụ ngôn trong Tin Mừng xoay quanh ba nhân vật: mục tử, con chiên lạc và số còn lại của đàng chiên. Nhưng chỉ có mục tử là người hành động, chứ không phải các con chiên. Như vậy, mục tử là nhân vật chính và điểm nhấn là những hành động nơi người mục tử này. Dụ ngôn được dẫn nhập bằng một câu hỏi: “Ai trong các ngươi, nếu có một trăm con chiên và mất một con, lại không bỏ chín mươi chín con trong sa mạc và đi tìm con chiên lạc, cho tới khi tìm ra nó?” Đây là một mâu thuẫn dẫn đưa tới chỗ nghi ngờ hành động của người mục tử: có khôn ngoan không khi bỏ chín mươi chín con chiên để đi tìm một con chiên lạc như vậy? Còn hơn nữa bỏ chúng không phải trong một chuồng chiên mà trong sa mạc? Theo truyền thống Kinh thánh, sa mạc là nơi của chết chóc, khó mà tìm ra nước và thực phẩm, không có chỗ trú ngụ và bị bỏ rôi cho thú dữ và tôm cướp. chín mươi chín con chiên để lại sẽ không được bảo vệ? Tuy nhiên, sự mâu thuẫn tiếp tục khi nói rằng người mục tử, sau khi tìm thấy con chiên, vác nó lên vai, về nhà, gọi bạn bè và hàng xóm láng giềng tới chung vui. Dường như người mục tử không trở vào trong sa mạc để dẫn chín mươi chín con chiên trở về đàng! Duy chỉ hướng đến con chiên đi lạc, xem ra người mục tử quên chín mươi chín con chiên kia. Nhưng thật ra không phải vậy!
Giáo huấn của Chua Giêsu muốn dạy cho chúng ta, đó là không có con chiên nào bị hư mất. Chúa không chịu để một ai phải hư mất dù chỉ một người nhỏ bé nhất. Hoạt động của Thiên Chúa là hoạt động của người đi tìm các con cái bị mất để rồi vui mừng với tất cả vì tìm lại được họ. Đây là một ước muốn không thể nào kìm hãm được: chín mươi chín con chiên có thể kéo chân người mục tử lại, và giữ ông trong chồng chiên. Ông có thể lý luận như sau: tôi có chín mươi chín con chiên mất một con thì chẳng có gì là quá đáng! Nhưng không! Người mục tử đi tìm con chiên lạc ấy vì mỗi một con chiên đều rất quan trọng đối với ông, và con chiên đó là con chiên cần được giúp đỡ nhất, con chiên bị bỏ rơi nhất, bị gạt bỏ nhất và ông đi tìm nó.
Tất cả chúng ta đều cảm nhận lòng xót thương của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi là cách thức hành động của Thiên Chúa và Ngài tuyệt đối trung thành với lòng xót thương ấy. Không có gì và không có ai lấy đi khỏi Chúa ý muốn cưú rỗi của Ngài. Thiên Chúa không biết tới nền văn hóa lại bỏ của chúng ta ngày nay. Trong Thiên Chúa không có điều đó. Thiên Chúa không loại bỏ một người nào. Ngài yêu thương tất cả mọi người. Ngài tìm kiếm tất cả mọi người. Tất cả! Từng người một. Ngài không biết từ “loại bỏ người ta,” bởi vì Ngài là tất cả tình yêu và tất cả lòng thương xót.
Đàn chiên của Chúa luôn luôn tiến bước. Nó không chiếm hữu Chúa. Nó không thể nuôi ảo tưởng nhốt Ngài trong các lược đồ và chiến thuật của con người. Người mục tử ra đi để tìm thất con chiên bị lạc ở bất cứ nơi dâu. Như vậy người mục tử là chủ thể của hành động. Ngài muốn đến gặp gỡ chúng ta, chứ không phải chúng ta yêu sách muốn tìm thất Ngài. Không có cách nào khác có thể quy tụ đàn chiên nếu không theo con đường do lòng thương xót của người mục tử vạch ra.
Trong khi người mục tử tìm con chiên lạc, người mục tử mời gọi chín mươi chín con khác đến tham dự vào viẹc tái hiệp nhất đàn chiên. Khi đó không chỉ con chiên lạc được mang trên vai, mà tất cả sẽ theo mục tử trở về nhà để chung vui với các bạn bè và hàng xóm láng giềng.
Chúng ta phải năng suy tư dụ ngôn này, bởi vì trong cộng đoàn Kitô luôn luôn có ai đó thiếu và đã ra đi bỏ chỗ mình trống. Đôi khi điều này khiến nản lòng, và khiến cho chúng ta tin rằng một sự mất mát là điều không thể tránh được, một tật bệnh không có thuốc chữa. Và khi đó chúng ta có nguy cơ khép kín mình trong chuồng chiên, nơi sẽ không có mùi của chiên, nhưng mùi hôi của việc đóng kín. Và người kitô hữu không được phép đóng kín, vì chúng ta sẽ có mùi hôi của những gì đón kín. Không bao giờ! Chúng ta phải ra khỏi việc đóng kín nơi chính mình, trong các cộng đoàn nhỏ, trong giáo xứ.
Chúng ta đón kín mình khi thiếu lòng hăng say truyền giáo. Đóng kín mình khiến chúng ta không còn muốn đến gặp gỡ người khác. Trong nhãn quan của Chúa Giêsu, không có con chiên nào bị mất vĩnh viễn, nhưng chỉ có các con chiên cần tìm về. Chúng ta phải hiểu rõ điều này, đối với Thiên Chúa không có ai bị hư mất vĩnh viễn. Không bao giờ! Cho tới phút cuối cùng, Thiên Chúa vẫn tìm kiếm và cứu vớt. Chúng ta hãy nghĩ tới anh trộm lành. Trong Thiên Chúa không có ai bị hư mất vĩnh viễn, mà chỉ có các con chiên được tìm thấy.
Vì thế viễn tượng hoàn toàn năng động, rộng mở, khuyến khích và sáng tạo. Nó thúc đẩy chúng ta tìm bước đi trên một con đường của tình huynh đệ. Không có khoảng cách nào có thể giữ người mục tử ở xa và không có đàng chiên nào có thể khước từ một người anh em. Tìm ra người anh em đã mất là một niềm vui của chúng ta trong tư cách tham dự vào sứ mạng của Vị Mục Tử Nhân Lành Giêsu. Và đó cũng là niềm vui của cả đàn chiên là cộng đoàn dân Thiên Chúa! Chúng ta tất cả đều là các con chiên được tìm lại và được quy tụ do lòng xót thương của Chúa, được mời gọi cùng Ngài thu thập thành đàn chiên. Amen.
Ngôi Lời Nhập Thể, đặc biệt trong sứ vụ công khai, Chúa Giêsu nổi bật dung mạo Thiên Chúa đầy TN 24-C143
Ngôi Lời Nhập Thể, đặc biệt trong sứ vụ công khai, Chúa Giêsu nổi bật dung mạo Thiên Chúa đầy yêu thương nhân từ. Tình yêu của Người quá kỳ lạ, quá lớn lao, thật khác thường.
Chúa Giêsu chính là Hiện thân của Thiên Chúa Vô hình, Thiên Chúa tình yêu (Cl 1,15). Trái tim Chúa Giêsu dành yêu thương hết mọi người, đặc biệt người nghèo khổ, bệnh tật, bọn thu thuế, đĩ điếm… nói chung họ thuộc thành phần tội lỗi, thuộc đối tượng cảnh giác, bị tôn giáo gạt lề. Do đó họ bị xã hội Do Thái ghét ra mặt, khinh khi ra mặt, tẩy chay ra mặt; tệ hơn còn ra luật vạ tuyệt thông: cấm tiếp xúc, ai tiếp xúc đều lây tội.
Một người Do Thái giáo đạo đức thời Chúa Giêsu không bao giờ nói chuyện, tiếp xúc chứ đừng nói chuyện ăn chung bàn với người mà họ cho là quân tội lỗi.
Khi còn tại thế, nhiều người Do Thái công nhận Chúa Giêsu là bậc thầy, là sư phụ không chỉ uyên thâm Lời Chúa, giảng dạy như Đấng có uy quyền mà còn là nhà đạo đức số một.
Chúa Giêsu nhà đạo đức số một, ấy thế mà!…
Người ta bắt đầu nghi ngờ về đạo đức của Chúa Giêsu, nhất là nhóm Biệt phái- luật sĩ là những bậc thầy đạo đức của người Do Thái, khi thấy Chúa Giêsu đối xử tử tế, nhân hậu với người tội lỗi như người bình thường, xem ra còn ưu ái hơn người bình thường. Khó chịu nhất cảnh Người trò chuyện thân tình, đồng bàn ăn với họ.
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cho thấy phản ứng khó chịu, thái độ nghi ngờ đạo đức Chúa Giêsu của nhóm Biệt phái luật sĩ. Họ xầm xì: nếu Thầy Giêsu đạo đức tại sao ngài đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng?.
(Ở đây ta lại đụng phải thành kiến vững chắc, cố chấp của họ. Nhất định cho mình đúng, cái gì không như mình nghĩ là sai. Xét cho cùng đấy là thái độ kiêu ngạo. Chính trong thái độ không chịu sám hối- thay đổi lối nhìn ấy mà người Do Thái chưa nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messia)
Để trả lời nghi vấn của họ, Chúa Giêsu kể ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con hoang đàng.
Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi, tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
Mặt khác, Chúa Giêsu cho thấy rõ giá trị Tin Mừng của một người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về với Chúa.
Như người Mục tử tìm được chiên lạc, như người đàn bà tìm được đồng tiền mất, như người cha tìm được đứa con hoang- họ đã không vui một mình, niềm vui quá lớn không thể vui một mình, đòi hỏi cần phải có người chia sẻ, phải mở tiệc ăn mừng- Họ đã rủ người khác đến chia sẻ niềm vui:
Người Mục tử tìm được chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc…
Người Đàn bà tìm được đồng tiền: “Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất…
Người Cha khi thấy con trở về nhà: Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình”
Cha chúng ta trên trời của cũng thể, một người tội lỗi có nguy có mất ơn cứu độ sám hối trở về Nhà Cha không chỉ có mình Thiên Chúa vui mà cả triều thần thiên quốc mừng vui. “Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải…Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.”
Tất cả là hình ảnh để diễn tả Tình yêu của Thiên Chúa, một Tình yêu quá tuyệt vời, mà bất cứ ai trong chúng ta một khi đã chạm đến Tình yêu ấy, một lần gặp gỡ có kinh nghiệm về Tình yêu ấy không thể thờ ơ, không thể không trở về với Cha.
Nói rõ hơn, Chúa không chỉ xót xa khi thấy những người con yêu dấu của Ngài phạm tội, mà còn tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu một con chiên lạc, một người tội lỗi Chúa không nản chí vì bất kỳ lý do nào, không mệt nhọc hoặc hiểm nguy. Ngài dùng mọi cách để đánh động, để báo động tình trạng tội lỗi của mình, Ngài luôn nói với ta qua tiếng lương tâm (bởi thế khi phạm tội, nhất là tội trọng lương tâm ta bất an), nếu ai đó lương tâm khô khan hơn, Ngài đánh động chúng ta mạnh hơn, chẳng hạn qua một biến cố tai nạn, qua biến cố đau thương nào đó….
Đặc biệt trong Giáo hội và qua Giáo hội Tông truyền, Thiên Chúa luôn đồng hành, hằng ngày nói với chúng ta qua Lời Chúa; gia tăng ân sủng qua các Bí tích để ta có thêm, có dư đủ sức mạnh chiến thắng những cám dỗ của ma quỷ- thế gian và xác thịt.
Đến hết cách mà chúng ta nhân danh tự do từ chối lòng Thương xót của Chúa thì Chúa cũng đành… bó tay. Bởi Ngài không thể và không bao giờ xâm phạm tự do mà Ngài đã đặc ban cho con người- thụ tạo được dựng nên giống Hình Ảnh Chúa. Đấy là lúc ta chạm ngưỡng tội phạm Chúa Thánh Thần, điều mà Chúa cảnh báo: “mọi tội, kể cả tội phạm thượng cũng sẽ được tha cho con người, chứ tội phạm đến Cha Thánh Thần sẽ chẳng được tha” (Mt 12,31). Tội phạm Thánh Thần là gạt bỏ ơn tha thứ của Thiên Chúa, cố tình chai lì sống tội lỗi, không chịu sám hối trở.
Nói cách khác, trực diện trước Tình yêu của Chúa Cha trong Chúa Con nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, trái tim của mỗi chúng ta không thể không mở ra, không thể không sinh ra hoa trái hiệp thông và bác ái.
Ở đây ta không nói về chiên lạc, đồng tiền mất, hay đứa con hoang trở về mà nói về Người Mục tử mất chiến- người đàn bà mất đồng tiền- người cha mất con.
Nghĩa là ta nói về Cha trên trời của chúng ta, chiêm ngắm về Tình yêu giàu lòng Thương xót của Cha chúng ta dành cho mỗi ta, cho cả nhân loại, đặc biệt dành cho những người tội lỗi biết sám hối trở về. Điều mà chúng ta đáng học- đáng noi theo hơn cả nơi các dụ ngôn này là Tình yêu thương của Người Cha của chúng ta.
Đấy là điều Chúa Giêsu muốn khi Ngài kêu mời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”;
Đấy là điều Chúa Giêsu muốn khi Người công khai đòi hỏi môn đệ học theo Ngài: “hãy học nơi Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường”.
Đấy là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta khi khẩn nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời… Xin Cha tha tội chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”
Đấy là điều Chúa Giêsu muốn, trước khi ra đi chịu chết đã trăn trối giơi răn mới yêu thương làm nền tảng, thuộc bản chất cho Kitô giáo: “các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”.
Nghĩa là con của Thiên Chúa được gọi là Tình yêu; mang danh Kitô hữu- có Chúa Giêsu hiện diện nơi mình chúng ta phải là những Sứ giả của Tình yêu Thiên Chúa; là hiện thân của Tin Mừng cứu độ là Chúa Giêsu.
Đánh mất Tình yêu, chúng ta đánh mất quyền làm con Chúa, không còn Kitô hữu đích thực nữa. Thực tế biến chất, mất chất ‘Kitô hữu’ mà vẫn mang danh Kitô hữu, nguy hiểm cho ta và cho xã hội. Sự hiện diện của ta chẳng khác gì cáo đội lốt chiên; chẳng khác gì, miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm…
Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót đã bước vào trong những tháng cuối cùng. Vậy ta đã sống và Loan báo Lòng Chúa Thương xót chưa? Đôi khi đơn giản là nụ cười cảm thông, lời nói trân trọng dễ nghe, lời cầu nguyện cho những người mình....dễ ghét....
Bài Tin mừng hôm nay có thể coi là một trong những bài Tin Mừng làm nổi bật Lòng Thương Xót của Cha trời. Chiêm ngắm Lòng Xót Thương của Thiên Chúa là Cha, liệu trái tim ta có mở ra, có Thương xót như Cha không?
Là Sứ giả Tình yêu, vậy chúng ta phải yêu thế nào?
Thánh Phaolô về Tình yêu Kitô giáo: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc; không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù; không mùng khi thấy sự gian ác,nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả , tin tưởng tất cả; hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7)
Lời thánh Phaolô trên, có thể nói như bản ‘xét mình’ về Giới răn yêu thương.
Lạy Chúa xin cho chúng con luôn biết tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa, biết sam hối ăn năn, đổi mới cuộc sống để chúng con trở thành Sứ giả Tình yêu của Chúa giữa trần thế. Amen.
Trang Tin Mừng vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là TN 24-C144
Trang Tin Mừng vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Tin Mừng Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Tin Mừng. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Những bài sách thánh hôm nay hé mở cho ta mấy nét của lòng thương xót vô biên đó.
Thiên Chúa kêu gọi con người tội lỗi ăn năn trở về, lời kêu gọi đó luôn được nhắc đi nhắc lại trong Cựu ước và đã tiếp tục vang lên một cách mạnh mẽ trong Tân ước qua những lời giảng dạy, qua cuộc đời của Đức Giêsu nhất là qua cái chết của Người trên thập giá. Trang Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.
Thật vậy, đây là hình ảnh của một tình yêu không biên giới và vô điều kiện của Thiên Chúa. Ngài là Cha và chúng ta là con. Làm con thì có quyền hưởng gia tài của cha. Thiên Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta nhưng đồng thời mỗi người chúng ta lại phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trước mặt Ngài. Vì tôn trọng quyền tự do của con, người cha đã chia gia tài cho cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của người cha luôn đi theo cậu không ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ngày ngày ông những nóng cùng trông. Cho tới một ngày kia, ông nhìn thấy bóng dáng cậu từ xa thất thểu lê lết từng bước chân. Thế là ông vội chạy về phía cậu, quên đi tuổi già sức yếu của mình, ông lại gạt bỏ khỏi lòng mình mọi đau buồn về lầm lỗi thất hiếu của cậu. Ông ráng chạy, chạy thật nhanh mà ôm lấy người con yêu dấu, đã chết mà nay lại sống. Rồi ông mở tiệc linh đình để ăn mừng.
Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi kẻ có tội, Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi nó hối cải, hơn nữa Ngài còn vui mừng đón nhận nó khi trở về. Dụ ngôn người đàn bà tìm thấy đồng tiền mất, người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc và ông bố gia đình đón nhận người con phung phá trở về, cả ba dụ ngôn đó chứng minh như vậy.
“Khi cậu còn ở xa, cha cậu đã trông thấy cậu”. Người cha đang chờ đợi. Ông không tự hỏi người con thứ của mình nói gì hoặc làm gì, ông chỉ nghĩ: “Nếu con ta xuất hiện nhỉ!”. Ngay khi ông thấy cậu, ông ôm cậu vào lòng, hết sức thương hại và yêu mến. Ông chạy lại (không cần phải làm đến như thế đâu!), ông hôn cậu tới tấp (nói cha tha thứ cho con không tốt hơn sao!), ông không lắng nghe những lời xin lỗi, ông quá vội vàng khi làm bùng lên niềm vui và ngày lễ hội. Nhanh lên, hãy đưa áo quần lại đây! Nhanh lên, hãy làm thịt bê béo! Con ta đã mất nay lại tìm thấy.
Người cha không những đã bày tỏ lòng thương yêu đối với người con thứ, đứa con đã đòi chia gia tài, rồi sau khi ra đi đã ăn tiêu hoang phí, khi trở về lúc nó còn đàng xa người cha đã nhận ra và lập tức chạy đến ôm chầm lấy, hôn lấy hôn để. Ông còn cho mở tiệc ăn mừng, vì điều quan trọng đối với ông là đứa con đã trở về. Đứa con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Người cha còn bày tỏ lòng nhân hậu với người con cả, đứa con hằng ngày vẫn ở bên cha mà hình như tâm hồn của nó đã đi hoang từ lâu. Nó kể công, nó phân bì, nó ghen tị rồi tức tối giận dỗi, nó muốn cắt đứt tình nghĩa huynh đệ không chấp nhận cho đứa em trở về và nó cũng đang cắt đứt luôn tình nghĩa phụ tử không chịu vào nhà, vì trong lòng của nó chưa bao giờ có tình thương. Sự chuyên cần trong công việc hằng ngày của nó xem ra vì thói quen hoặc vì bổn phận hơn là vì một mối tình. Nhưng người cha vẫn nhân hậu đầy yêu thương năn nỉ: “Này con, hằng ngày con vẫn ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”.
Người con cả là một người con chí thú làm ăn ở nhà với cha, nhưng xem ra quan hệ với cha không được thân mật, thẳng thắn. Tuy ở nhà với cha nhưng lòng vẫn xa cách. Và kết quả là người con cả đã không hiểu và không chấp nhận nổi cách xử sự của cha đối với đứa em của anh vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với cha và với em, người con cả đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở thể tách biệt với gia đình sum họp.
Người con cả ở đây tiêu biểu cho nhóm người Biệt phái Pharisêu trong dân Do Thái. Họ tưởng rằng họ trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, rồi khinh bỉ các dân ngoại và những hạng người mà họ cho là tội lỗi. Thì ra, Tin Mừng hôm nay là một Tin Mừng đối với người tội lỗi sám hối trở về, nhưng đồng thời lại cũng là một lời cảnh cáo đối với những người “ở trong nhà”, những người tưởng mình đạo đức, tốt lành. Người con cả, bao nhiêu năm ai cũng tưởng là ngoan ngoãn tốt lành lắm. Đến ngày em của anh hồi sinh và trước niềm vui vô bở của người cha, anh đâm ra hậm hực, bực tức… thì ra bề ngoài anh ngoan, nhưng nội tâm của anh thì cay nghiệt, tù túng, đầy những ghen tị, sát phạt. Cả anh nữa, anh cũng chẳng hiểu thế nào là lòng thương xót. Cuối cùng anh không muốn bước vào lòng thương xót đó. Anh chưa gặp được Thiên Chúa. Anh vẫn ở ngoài ơn cứu độ.
Dụ ngôn cho thấy, người cần trở lại hơn hết chính lạ người con cả, người con vẫn ở nhà với cha nhưng lòng thì không ở cùng với cha.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, ngay cả những tội nhân bầm dập, khốn cùng nhất, đã được Chúa Giê-su khẳng định trong Tin Mừng Mat-thêu: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Ngài đưa công lý đến toàn thắng.” (Mt 12, 20 và Is 42, 3)
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh và sai mở tiệc ăn mừng.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được hiểu thêm lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin cho chúng ta mau mắn chỗi dậy mỗi lần sa ngã, với niềm xác tín vào lòng nhân hậu vô bờ của Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về với Ngài.
Bài Tin mừng hôm nay kể lại các dụ ngôn của Lòng Thương Xót: dụ ngôn con chiên lạc, đồng TN 24-C145
Bài Tin mừng hôm nay kể lại các dụ ngôn của Lòng Thương Xót: dụ ngôn con chiên lạc, đồng xu thất lạc và người cha với hai đứa con (x. Lc 15,1-32). Trong Tông sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Các dụ ngôn này cho thấy Thiên Chúa luôn tràn ngập vui mừng, nhất là khi Ngài tha thứ. Nơi những dụ ngôn ấy, chúng ta thấy được điểm cốt lõi của Tin Mừng và của đức tin, vì lòng thương xót tỏ hiện như một sức mạnh vượt thắng tất cả, đong đầy trái tim bằng tình yêu thương và mang lại an ủi bằng ơn tha thứ” (Số 9).
Thật vậy, vì thương xót, Thiên Chúa đã tha thứ tội lỗi cho nhân loại như người cha đã tha thứ cho đứa con đi hoang trở về. Không những tha thứ mà người cha còn tìm mọi cách để trả lại cho đứa con của mình những chức phận làm con mà anh ta đã đánh mất. Ông nói với gia nhân: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu” (Lc 15, 22). Không những thế, ông còn cho giết bê béo để mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 23).
Vì thương xót, Thiên Chúa luôn đi tìm kiếm con người khi con người xa đường lạc lối. Người đàn bà đi tìm đồng tiền bị đánh mất và người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, đó là hình ảnh của chính Ngài đi tìm kẻ tội lỗi. Hành động đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm được, hoặc hành động bỏ 99 con chiên còn lại để trèo đèo lội suối tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc…nói lên sự hy sinh, sự quan tâm lo lắng của Ngài đối với người tội lỗi.
Vì thương xót, Thiên Chúa đã không dấu được sự vui mừng khi có người tội lỗi ăn năn hối cải. Đó là niềm vui của người chủ chiên khi tìm thấy con chiên lạc: ông vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!”(x. Lc 15,5-6). Đó là niềm vui của người đàn bà khi tìm thấy đồng tiền bị đánh mất. Bà mời bạn bè và những người láng giềng đến mà rằng: “Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất” (x. Lc 15, 9). Niềm vui đó được lan tỏa tới các thần thánh trên Thiên đàng. Chính Đức Giêsu khẳng định rằng: "Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”(Lc 15, 10).
Vì thương xót, Đức Giêsu đã bị những người luật sỹ và biệt phái khiển trách khi Ngài đón tiếp và ăn uống với người tội lỗi. Đó cũng chính là hình ảnh người cha bị người con cả giận hờn, xa lánh khi ông tha thứ tội lỗi cho đứa con thứ. Mặc dầu bị khiển trách, nhưng Ngài vẫn không thay đổi thái độ yêu thương, vì yêu thương là bản chất của Ngài. Ngài không những yêu thương kẻ tội lỗi, đứa con thứ mà Ngài còn yêu thương cả những người biệt phái, yêu thương người con cả. Ngài nói với đứa con cả rằng: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”(Lc 15, 31-32).
Bài đọc I hôm nay còn cho chúng ta biết, lòng thương xót của Thiên Chúa còn được thể hiện qua việc Ngài tha thứ cho dân Do Thái: khi được Thiên Chúa giải thoát ra khỏi Ai-cập, dân Do thái phải có bổn phận trung thành với Ngài, tiếp tục thực hiện theo đường lối Ngài chỉ dạy…Đó là cách tốt nhất để đền đáp công ơn của Ngài. Nhưng họ không làm như vậy. Trái lại, họ còn phạm tội, bỏ đường lối của Ngài chỉ dạy, thay vì trung thành với Ngài thì họ lại đúc tượng một con bò và thờ lạy nó, dâng lên nó của lễ hiến tế. Chính vì thế, Thiên Chúa đã nổi giận và định hủy diệt họ. Nhưng nhờ lời cầu khẩn của ông Môsê, Thiên Chúa đã không hủy diệt họ.
Bài đọc II, Thánh Phaolô cũng cho chúng ta thấy vì tình thương mà Đức Giêsu đã tha thứ cho Thánh nhân. Thánh Nhân không ngần ngại kể lại rằng: trước đây, Thánh nhân là “kẻ nói phạm thượng, bắt đạo và kiêu căng,” nhưng vì lòng thương xót, Đức Giêsu đã đi tìm và biến đổi Thánh nhân thành người Kitô hữu, đặt Thánh nhân làm Tông đồ của dân ngoại.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục thi thố lòng thương xót của Ngài trên nhân loại. Ngài vẫn đi tìm kẻ tội lỗi. Ngài vẫn tha thứ cho họ khi họ biết ăn năn thống hối trở về. Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn mở ra cho con người niềm hy vọng lớn lao. Ở đời, một người mất chức, mất quyền, một người giàu có bị tán gia bại sản, một người suy sụp về sức khỏe…thật khó để phục hồi lại như trước. Nhưng thật hạnh phúc cho chúng ta là người Kitô hữu, nếu lỡ may sa ngã phạm tội, đánh mất phẩm giá cao đẹp của mình. Chỉ cần chúng ta cố gắng quyết tâm ăn năn thống hối, chạy đến với Bí tích Giao hòa thì Thiên Chúa sẽ tức khắc trả lại phẩm giá cao quý cho chúng ta. Chúng ta thấy điều này nơi chính đứa con hoang đàng. Đó cũng chính là hình ảnh của biết bao nhiêu người có quá khứ tội lỗi, nhờ thống hối ăn năn họ đã được làm thánh. Chẳng hạn: Thánh Augustinô, thánh Mathêu, Thánh Maria Mađalêna…
Mới đây, trên trang wed phanxico.vn có đăng tải bài viết với chủ đề: “Sự trở lại lạ lùng của một người bị lên án tử hình qua một bản tin cáo phó.” Nội dung bài viết kể lại cuộc đời của tử tội Joshua Daniel Bishop, 41 tuổi, ở Mỹ. Ông can tội giết người và bị chích thuốc để chết. Một luật sư cũng là người bạn từ thời thơ ấu của tử tội kể lại từng giai đoạn trong cuộc đời của ông, từ tuổi thơ ấu bất hạnh cho đến những giây phút cuối cùng ở Texas. Ông nêu lên tình trạng nghiện ngập ma túy và rượu, và những “sai lầm khủng khiếp” mà tử tội đã phạm. “Sự nghiện ngập này đã cướp đi đời sống của Joshua, nhưng Joshua mong các bạn trẻ đối diện với các trạng huống như anh đã đối diện học được bài học từ kinh nghiệm của anh”, bài báo viết.
Người bạn luật sư kể lại giai đoạn anh “sống dưới cầu Milledgeville” và thế nào mà khi ở tù anh đã quay về với Chúa Kitô và xin rửa tội theo đạo Công Giáo. Chính vì thế mà tử tội đã ý thức, “không một ai mà không được tha thứ.”
Sau đó, ông Joshua bắt đầu học vẽ và ông là một nghệ sĩ thực thụ. Điểm xúc động là vào giây phút cuối cùng, người tử tội được những người thương mình ở bên cạnh mình. “Cho đến giờ cuối, Joshua đã an ủi các bạn của mình. Anh cầu nguyện với chúng tôi, nhắc chúng tôi săn sóc nhau, rồi tất cả cùng hát bài “Amazing Grace.” Anh hy vọng cái chết của mình sẽ làm anh khỏi đau khổ và giúp anh có được bình an, sau tất cả những gì anh đã chịu đựng.”
Cho đến khi anh đi vào hành lang tử thần, anh luôn chú ý đến sự đau khổ của người khác, điều này chứng tỏ, đến điểm nào, “con quỷ” mà nhà nước muốn gạt hẳn ra trong con người của anh đã không còn. “Điều duy nhất thực sự khi anh rời thế gian này là một tâm hồn được cứu chuộc, dứt khoát muốn làm điều tốt...”
Thiên Chúa đầy lòng thương xót. Cánh cửa tha thứ của Ngài luôn rộng mở. Chúng ta hãy mạnh dạn bước vào. Đồng thời, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho tất cả những kẻ tội lỗi biết thống hối ăn năn trở về và đi qua cánh của của lòng thương xót Chúa. Amen.
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm bị mất. Không phải chỉ con người bị mất mà ngay cả TN 24-C146
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm bị mất. Không phải chỉ con người bị mất mà ngay cả loài thú hoang cũng có kinh nghiệm bị mất. Nói một cách chung thì có hai loại mất cho con người đó là mất về mặt thể chất và mất về mặt tinh thần.
Về thể chất lại được chia làm hai loại. Mất những gì trong con người và mất những gì liên quan đến con người. Có những thứ mất trong ta thể hiện bản tính của ta. Thí dụ như mất tự chủ, hay nóng giận thể hiện bản tính con người. Mất trí nhớ, mắt kém, mất ăn, mất ngủ đều thể hiện trạng thái trong con người. Mất liên quan đến con người như vật kỉ niệm, quà tặng, giấy tùy thân, mất hướng đi, mất học. Tất cả đều ảnh hưởng đến cuộc sống.
Mất về mặt tinh thần được chia thành tinh thần và tâm linh. Mất về mặt tinh thần nguy hiểm hơn mất vật chất. Thí dụ như mất bạn hữu, mất nhận biết mình là ai. Mất tự tin, mất hy vọng vào cuộc sống, mất lòng tin vào anh em. Mất nguy hiểm nhất là mất đức tin bởi mất đức tin là mất tất cả, kéo theo cả sự sống trường sinh.
Mất ảnh hưởng đến cả cuộc đời là mất người thân và đây chính là kinh nghiệm của người cha trong Kinh Thánh nhắc đến. Nghe thoáng qua thì người ta thấy người cha này mất con. Khi suy nghĩ kĩ sẽ thấy người cha mất nhiều hơn là mất con. Truớc hết người cha không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ chia nửa gia tài cho người con. Như thế ông ta mất rất nhiều của, nửa gia tài. Có của trong tay người con bỏ nhà ra đi như thế ông ta biết rõ con ông mất hướng đi tốt. Cách sống tốt lành ông dậy con, mong con thành người tốt, nhân đức bị con cho vào sọt rác. Ông là người thành công trên thương trường, có gia sản đồ sộ, có con ăn, đầy tớ, người làm nhưng ông thất bại trong gia đình, thất bại việc bày tỏ tình yêu cho con hiểu. Hai điều mất tiếp theo làm ông đau khổ hơn nhiều. Thứ nhất là việc người con bỏ nhà ra đi đánh mạnh vào cái tâm lí thất bại của người cha. Con bỏ nhà đi vì không chịu nổi cha. Ở đây không phán đoán đúng sai nhưng nói về cảm xúc người này cảm nhận về người kia. Người con cảm nhận cha anh không yêu anh. Tình cha con sứt mẻ không thể hàn gắn ngoài cách thoát li. Điều làm người cha đau khổ hơn nữa là vấn đề tâm linh của người con. Anh ta đi theo con đuờng ăn chơi, bê tha đời sống đức tin và ảnh hưởng đến sự sống trường sinh.
Người cha có quá nhiều kinh nghiệm đau thương, mất mát nhưng người cha không bao giờ mất hy vọng, không tuyệt vọng. Không biết điều gì khiến ông tin tưởng mãnh liệt ngày nào đó con ông sẽ trở về. Điều chắc chắn là tình yêu ông dành cho con lớn hơn lỗi lầm con mắc phạm- bỏ nhà ra đi, chê trách cha. Tình yêu ông dành cho con quan trọng hơn vật chất- nửa gia tài của ông. Niềm hy vọng của người cha luôn vững chắc và tin tưởng ngày nào đó con ông sẽ nhận ra sai lầm của mình và quay về. Người cha không chỉ hy vọng trong thầm lặng, hy vọng, ông chuẩn bị đón chờ ngày đó đến. Ông âm thầm cho vỗ béo bò chuẩn bị cho tiệc mừng con ông trở về. Bên cạnh đó ông còn sắm giầy cho cậu, mua áo mới cho cậu. Khi việc chuẩn bị tạm ổn, chiều chiều ông ngồi trước cổng nhìn về phía chân trời hy vọng trông thấy con thất thểu trở về. Niềm hy vọng của ông không tắt và ông được toại nguyện. Người con nhận ra mình sai lầm, nhận biết tình yêu của cha và anh đã từ giã bóng tối trở về ánh sáng tình thương. Người con trở về nhận lại tình yêu cha dành cho, ông ôm con trong lòng, tha thứ mọi lầm lỗi và mở tiệc mừng đón con.
Tình yêu và lòng xót thương Chúa dành cho ta khoan dung, đại lương hơn tất cả tội ta đã phạm. Xin ơn này để can đảm trở về.
Cha ông ta nói rằng: Chữ nhẫn là chữ tương vàng. Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu. Sự nhẫn TN 24-C147
Cha ông ta nói rằng:
Chữ nhẫn là chữ tương vàng Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu
Sự nhẫn nại sẽ giúp chúng ta sống bao dung hơn với anh em. Sự nhẫn nại sẽ giúp chúng ta kìm chế tính nóng giận hay nổi nóng với anh em. Sự nhẫn nại sẽ giúp chúng ta “sống dĩ hòa vi quý” để gìn giữ sự hòa thuận với nhau.
Có một thầy giáo vừa mở cửa bước ra thì đụng ngay một người đàn ông có bộ râu quay nón, cú va chạm mạnh và bất ngờ khiến cặp kính của thầy rơi vỡ vụn và mắt bị bầm tím. Ông ta đã không xin lỗi mà còn lớn tiếng quát: Ai bảo ông đeo kính làm gì? Ông thầy đồ vẫn đáp lại sự vô lý của người đàn ông bằng nụ cười rất hiền hòa khiến hắn kinh ngạc hỏi:
– Này, sao ông không tức giận?
Thầy đồ mới nói:
- Tức giận vừa không gắn được cặp kính đã vỡ, vừa không xoá được vết bầm trên mắt ta. Vả lại nếu ta tức giận mắng chửi anh hoặc động đến chân tay, ắt gây ra cãi vã lớn hơn thậm chí hại đến thân mà vẫn không hoá giải được sự việc. Chi bằng cứ vui vẻ chấp nhận cho xong!
Ông ta nghe xong rất cảm động về bài học đầy tình người này và rồi tiếp tục lên đường. Bẵng đi một thời gian, một hôm thầy đồ nhận một bức thư như sau: “Rất cảm ơn thầy đã khai sáng cho con, hôm đó nhờ đụng phải thầy mà sau nầy con đã cứu được 3 sinh mạng. Sự thể là thế nầy: một hôm đi làm con quên cặp tài liệu nên quay về nhà lấy, không ngờ bắt gặp vợ con đang hú hí với người đàn ông khác. Con rất tức giận, chạy vào bếp cầm dao định giết họ sau đó tự sát để chấm dứt mọi chuyện. Không ngờ người đàn ông đó kinh hoàng quay đầu lại, cặp kính đeo mắt rơi xuống đất vỡ toang… con bỗng nhớ đến thầy và câu nói của thầy “Tức giận không giải quyết được vấn đề” giúp con bình tĩnh lại và thấy rằng oán báo oán, oán lại chập chùng… Con đã tha thứ tất cả. Hiện nay cả nhà chúng con sống hạnh phúc hòa thuận, công việc làm ăn thuận lợi. Gương sáng của thầy đã thay đổi nhận thức của con. Ngàn lần tri ân thầy.
Vâng, đã là con người thì bất cứ ai cũng sẽ mắc sai lầm trong cuộc đời. Vì thế hãy khoan dung với những ai biết hối hận, biết sửa chữa. Hãy cho nhau cơ hội được tha thứ. Vì chắc chắn cuộc đời ta cũng cần những cơ hội như thế. Có tha thứ thì tâm mới bình yên và lòng mới thanh thản. Tha thứ cũng chính là liệu pháp chữa lành tâm hồn chúng ta khỏi nỗi đau của vô ơn, của phản bội...
Thiên Chúa vẫn nhẫn nại với lỗi lầm của con người. Ngài còn ân cần với từng người chúng ta. Ngài ví cuộc đời chúng ta như con chiên đi lạc, như đồng tiền đã mất. Ngài đã tức tốc đi tìm mà không màng đến những con chiên còn lại và cũng không tiếc sót mở tiệc ăn mừng khi tìm thấy đồng tiền đã mất. Ngài còn ví tình yêu của Ngài như người cha nhân ái bao dung. Một người cha đã chia gia tài cho con, thế nhưng nó lại dùng của cải để ăn chơi, để vượt ra khỏi mái nhà của cha. Nó đàn điếm đến nỗi thân tàn ma dại. Thế mà, chỉ cần thấy nó trở về, Cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của con, và còn ban lại quyền làm con mà nó đã tự đánh mất.
Cuộc sống nơi các gia đình sẽ đẹp biết bao nếu chúng ta biết sống chữ nhẫn này.
+ Cha con biết nhẫn nhịn, gia đạo mới an vui. + Vợ chồng biết nhẫn nhịn, gia đình mới không bị đổ vỡ. + Anh em biết nhẫn nhịn, gia đình êm ấm bình yên. + Bạn bè biết nhẫn nhịn, tình nghĩa mãi không phai mờ. + Tự mình biết nhẫn nhịn, được mọi người yêu mến.
Ước mong năm thánh Lòng Thương Xót là dịp chúng ta theo gương Chúa mà nhẫn nhịn nhau. Xin đừng ăn thua đủ với nhau. Xin hãy đối xử khoan dung với nhau. Ước gì chúng ta biết làm sáng danh Chúa khi họa lại chân dung Lòng Thương Xót Chúa trong thế giới hôm nay. Amen.
Một cô bé và cha đi ngang qua cây cầu. Cô bé sợ nên hỏi cha: “Cha ơi, con có thể nắm lấy tay TN 24-C148
Một cô bé và cha đi ngang qua cây cầu. Cô bé sợ nên hỏi cha:
“Cha ơi, con có thể nắm lấy tay cha để con khỏi rơi xuống sông không?”
Cha đáp:
“Con yêu, không được, chính Cha sẽ nắm tay con đi.”
Cô bé nói: “Như vậy thì có khác nhau gì đâu ?”
Cha đáp.
“Rất khác đó con ơi.”
Và người cha nói tiếp: “Nếu con nắm tay cha và có điều gì đó xảy ra với con, rất có thể là con thả tay cha ra. Nhưng nếu cha nắm tay con, con biết là cho dù điều gì xảy ra, cha sẽ không bao giờ buông tay con ra.”
Thiên Chúa không bao giờ buông tay chúng ta ra. Ngài luôn nắm chặt tay chúng ta để dìu chúng ta đi qua những khó khăn của giòng đời. Cho dù, đã nhiều phen chúng ta cố tình buông tay khỏi tay Chúa. Cho dù chúng ta muốn vuột khỏi tầm tay Chúa, Chúa vẫn níu kéo chúng ta và gìn giữ chúng ta. Vì Chúa biết một khi chúng ta vuột khỏi tầm tay Chúa, sẽ phải đối phó với biết bao cạm bẫy của Sa tan, của sự dữ. Chúa biết một khi chúng ta vuột khỏi tầm tay Chúa, sẽ lạc vào những ảo ảnh của danh lợi thú mau qua.
Tình yêu Chúa đời đời vẫn là thế! Nhân ái - bao dung và nhẫn nại. Tình yêu của Ngài luôn ân cần với từng người chúng ta. Ngài ví cuộc đời chúng ta như con chiên đi lạc, như đồng tiền đã mất. Ngài đã tức tốc đi tìm mà không màng đến những con chiên còn lại và cũng không tiếc sót mở tiệc ăn mừng khi tìm thấy đồng tiền đã mất. Ngài còn ví tình yêu của Ngài như người cha nhân ái bao dung. Một người cha đã chia gia tài cho con, thế nhưng nó lại dùng của cải để ăn chơi, để vượt ra khỏi mái nhà của cha. Nó đàn điếm đến nỗi thân tàn ma dại. Thế mà, chỉ cần thấy nó trở về, Cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của con, và còn ban lại quyền làm con mà nó đã tự đánh mất.
Vâng, tình yêu Thiên Chúa thì bao dung và không giới hạn. Tình yêu của Ngài luôn chậm bất bình và rất mực khoan dung. Tình yêu ấy Ngài đã thể hiện qua sự bao dung dành cho Adam – Eva. Ngài không đoạn tình với ông bà, dù rằng ông bà đã cố tình quay lưng lại với Chúa. Ngài không bỏ rơi dân Ngài đã tuyển chọn, cho dù họ cố tình không để Chúa dẫn dắt họ. Tình yêu ấy, hôm nay Ngài vẫn dành cho chúng ta. Ngài vẫn kiên nhẫn với lỗi lầm chúng ta. Ngài vẫn vui mừng khôn xiết khi thấy chúng ta ăn năn trở về. Ngài sẽ ân cần choàng chiếc áo ân sủng và ban thưởng gia tài trên trời cho chúng ta.
Làm người ai cũng có những lầm lỗi. Ai cũng có những bước chân lầm lạc. Điều quan yếu là biết tỉnh thức và quay trở về. Đừng cố tình sống trong tội lỗi. Đừng làm ngơ trước tiếng mời gọi trở về của lương tâm, của lề luật. Đừng nại vào lòng thương xót của Chúa để cố tình ngủ mê trong tội lỗi.
Hãy nhớ rằng: Chúa không bao giờ buông tay và rời xa chúng ta, mà chính chúng ta đã nhiều lần cố tình rời xa Chúa. Ước gì cuộc đời chúng ta luôn bước đi trong sự dẫn dắt của Chúa. Xin hãy để Chúa dẫn dắt chúng ta hơn là để ma quỷ lôi kéo chúng ta. Xin hãy để Chúa cầm tay chúng ta trong sự phó thác trọn vẹn nơi Chúa. Amen.
Chúa Nhật ngày 11.9.2016 năm nay, trùng vào dịp nước Mỹ nói riêng và thế giới nói chung, tưởng TN 24-C149
Chúa Nhật ngày 11.9.2016 năm nay, trùng vào dịp nước Mỹ nói riêng và thế giới nói chung, tưởng niệm mười lăm năm biến cố khủng khiếp, làm chấn động và hoang mang cả thế giới, nhất là người Mỹ, xảy ra ngày 11.9.2001.
Đó là một ngày đầy nước mắt, kinh hoàng và sửng sốt đối với dân chúng nước này. Vì thế, nhân dịp này, dựa vào Lời Chúa Giêsu dạy, tôi muốn nói về những mất mát và sự tìm thấy.
Lời của Chúa dạy hôm nay là ba dụ ngôn: Người chủ tìm thấy con chiên lạc, Người đàn bà tìm thấy đồng bạc bị mất, Người cha đón nhận đứa con hoang đàng trở về, mang cùng một ý nghĩa: MẤT MÁT và TÌM THẤY (Lc 15, 1-32).
Cái bị mất càng lớn, người đi tìm càng vất vả bao nhiêu, khi tìm thấy, nỗi vui mừng càng lớn bấy nhiêu. Ý nghĩa của sự mất mát và tìm thấy trong ba dụ ngôn, là lòng ca ngợi tình yêu lớn lao của Thiên Chúa đối với con người.
Nhất là mỗi khi con người phải sống trong tai ương, mất mát, đổ vỡ, tang tóc, chết chóc, chia lìa, hận thù, lo sợ, nghi nan và giết hại nhau…, là mỗi lần khuôn mặt của tình yêu ấy lại sáng ngời, làm dịu bớt nỗi thất vọng, thăng hoa niềm hy vọng.
Nhờ tình yêu của Thiên Chúa, chính trong mất mát, con người hiểu rằng, họ đã được tìm thấy.
Chính trong nỗi chết chóc của sự tàn bạo, họ lại nhận ra chiều kích thánh thiêng của sự sống.
Tôi muốn nói tới vụ khủng bố Trung tâm Thương mại Thế giới tại New York gồm hai tòa nhà cao 110 tầng và Ngũ Giác đài ở Washington, bị ba chiếc máy bay lớn do không tặc khống chế đâm vào. Một chiếc khác cũng bị khống chế, rơi tại Pennsylvania dọc đường đến mục tiêu.
Người ta ước tính trên 3.000 nạn nhân thiệt mạng. Phải mất gần chín tháng mới dọn dẹp hết đống đổ nát gồm 1.600.000 tấn. 100 tỷ đôla bị mất trắng. 8.300.000 người thất nghiệp trên khắp nước Mỹ.
Ngoài ra, từ biến cố kinh hoàng ấy, người Mỹ và thế giới còn mất rất nhiều thứ quý báu khác:
- Mất cảm giác bảo đảm và an toàn, vì từ trước đến nay, khoa học thời nay vẫn tự hào, đặc biệt nước Mỹ rất tự hào: họ ổn định. Hơn nữa, người Mỹ còn có phần ngủ yên trong hãnh diện mình là quốc gia giàu có, quyền hành, sẽ chẳng ai dám thọc vào sự ổn định của mình. Nhưng mọi suy nghĩ ấy, giờ đây bị “lật đổ”.
- Con người khắp nơi cũng đánh mất sự bình an trong tâm hồn. Vì từ đó đến nay, không ngày nào, thế giới và nước Mỹ không sống trong nỗi lo và cảnh giác. Sống mà cứ phải lo lắng và cảnh giác từng ngày, làm sao có bình an!
- Lòng tin nơi người Mỹ cũng bị đánh cắp. Lòng tin vào con người, trên khắp thế giời, ngày càng vắng bóng. Nhìn bất cứ ai xa lạ, nhất là những người từ Trung Đông, những người xuất thân từ đạo Hồi, họ đều có thể đáng nghi ngờ. Thay vì bắt tay thân thiện, họ chấm ngay một dấu hỏi thật to trên khuôn mặt người lạ ấy. Anh ta là ai? Lương thiện hay bất lương?
- Cứ như thế, sự tấn công khủng bố sát hại hàng loạt đã và có thể sẽ xảy ra khắp nơi, quá nhiều, làm nhức nhối lương tâm từng người chúng ta. Sự tấn cống ấy, càng ngày càng cho thầy nước Mỹ và châu Âu là mục tiêu hàng đầu.
Từ vụ khủng bố 1.9.2001 đến nay, hai tiếng “khủng bố” luôn là nổi ám ảnh ghê gớm trong tâm trí từng người, trên khắp thế giới. Những gì mà loài người đã và vẫn mất mát thật là lớn lao. Những gì mà chúng ta phải và vẫn chịu đựng thật là đau đớn.
Nhưng những gì đã tìm thấy được cũng không phải ít. Đó chính là đức tin, tin nơi Thiên Chúa và tìm đến Thiên Chúa để được giải thoát nỗi u buồn.
Người ta kể rằng, sau ngày đại họa của năm 2001, rất nhiều người đến nhà thờ cầu nguyện. Các thánh lễ liên tục được tổ chức để tưởng nhớ người bị nạn và cầu bình an. Tất cả các thánh lễ ấy đều có rất đông người đến tham dự. Chính tổng thống Bush đã trích Thánh Vịnh 23 để trấn an dân chúng: “Lạy Chúa, dù bước đi trong thung lũng của sự chết, con không lo nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”.
Nhưng chẳng phải chỉ có người Mỹ – là những người, nhờ nền văn minh rực rỡ của mình, đã góp phần không nhỏ làm cho lối sống tiêu thụ, tâm lý hưởng thụ lớn lên, từ đó phần nào lôi kéo đạo đức xã hội đi xuống – lại có dịp tiếp cận và lấy lại đức tin của mình, nhưng trong ngày ấy, họ còn nhận được biết bao nhiêu sự cảm thông và lời cầu nguyện mà khắp thế giới dành cho họ.
Cho đến hôm nay, mỗi lần ở đâu đó xảy ra những tấn công kinh hoàng như thế, cũng đều lôi kéo những con người, nhất là những nạn nhân còn sống sót trở về với lòng tin, trở về với Đấng giàu lòng xót thương.
Những gì tìm thấy được còn là niềm tương trợ lẫn nhau, sống gắn bó và thắt chặt tình đoàn kết. Tất cả những nơi bị đánh, đều tìm thấy những tấm lòng quả cảm và can đảm của biết bao nhiêu người liều mạng cứu lấy người khác.
Lính cứu hỏa và các nhân viên cảnh sát đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ giải cứu và cấp cứu nạn nhân là một điển hình. Trong số những người hy sinh vào ngày 11.9,2001, có cha Mychal Judge, một linh mục dòng Phanxicô, tuyên úy cho lính cứu hỏa tại thành phố New York.
Cũng như anh chị em mình, cha hiểu rất rõ, giữa cảnh điêu tàng, nếu đến gần, sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng cha vẫn đến làm tròn nghĩa vụ của mình. Tòa nhà kinh khủng ấy đã tàn nhẫn đè bẹp và vùi lấp cha Judge cùng mấy trăm lính cứu hỏa, trong khi cha đang cử hành bí tích Xức dầu và ban các phép lần sau hết cho họ.
Hóa ra, trong những lúc tối tăm của cuộc đời, người ta ngỡ rằng, mình đã mất, đã chẳng còn, đã tiêu tang, thì chính lúc ấy, ánh sáng của những cái được nơi những gì có thể tìm thấy, lại cứ lóe lên.
Bởi thế, ta có thể nói mạnh rằng, không ai sống lạc quan cho bằng những anh chị em tín hữu Kitô. Họ biết khôn ngoan trực diện với nỗi đau xé lòng đang diễn ra trước mắt, và lấy ánh mắt đức tin nhìn vào đó.
Đức tin dạy họ rằng, thập giá không dừng lại ở ngày thứ Sáu ảm đạm nhuộm đầy máu, tử nạn và ô nhục, nhưng thập giá đã bừng lên ánh sáng trường cửu, bừng lên sự sống không tàn không phai của sáng Chúa Nhật Phục sinh.
Với đức tin, nhìn vào sự tàn phá của tử thần, họ tìm thấy sự sống. Nhìn vào hận thù tưởng đã lên ngôi thống trị, họ tìm thấy lòng yêu thương. Nhìn vào nỗi bi đát ê chề của đổ nát, của mất mát, của tha hóa, họ tìm thấy niềm lạc quan tin tưởng. Nhìn vào nỗi hoang mang nghi ngờ của nhân loại, họ tìm thấy khuôn mặt dịu hiền, đầy yêu thương thông cảm và thứ tha của Thánh Giá Chúa Kitô.
Thiên Chúa không bao giờ vắng mặt. Con người không bao giờ mất Thiên Chúa. Bởi thế, cái mất vẫn còn đó trong nỗi đau cuộc đời, trong tội lỗi, trong sự tha hóa, và lòng hận thù lồng lộng như một con thú dữ, thì những gì tìm thấy được vẫn cao cả, vẫn sang trọng, vẫn vượt thắng.
Và Tình yêu vời vợi của Thiên Chúa là niềm hạnh phúc, là sức mạnh lớn, giúp con người vượt qua, đó là điều mà các Kitô hữu tìm thấy được trong nỗi đau mất mát tột cùng.
Bạn ạ, Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta. Người là Đấng toàn năng, tự giới hạn quyền năng của mình, đứng ngoài tự do của chúng ta, để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do.
Lý do mạnh nhất, khiến ta đánh mất rất nhiều, là bởi ta lạm dụng tự do và lỗi phạm không ngừng. Chính vì có tự do, ta đánh mất chính mình, đánh mất Thiên Chúa, xa lìa tình yêu của Chúa, để trôi tuột khỏi cuộc đời mình bao nhiêu ơn lành mà Chúa hằng ban phát. Đánh mất là sự thật của mỗi con người đầy yếu đuối, hèn mọn.
Nhưng còn một sự thật khác vô cùng quan trọng, vì nhờ đó mà ta sống và lấy lại những gì đã mất. Sự thật ấy chính là Thiên Chúa đi tìm con người.
Người không đi tìm như tìm một cái gì có lợi cho Người. Người cũng không đi tìm như tìm một thứ sở hữu cho riêng mình. Sự tìm kiếm của Chúa là một sự tìm kiếm có lợi cho ta.
Đó là một sự tìm kiếm đầy hân hoan, vui mừng, tin tưởng. Đó là một sự tìm kiếm mà khi tìm thấy, vỡ òa vì một niềm vui trào dâng tột đỉnh. Bởi ta là con chiên thất lạc, là đồng bạc bị mất, đã lìa xa Chúa vì chọn cuộc đời này làm bạn, chọn tội lỗi làm chốn nương thân.
Một khi tìm thấy ta trong bóng đen tăm tối ấy, Thiên Chúa đã vui mừng đưa về, không phải dẫn đi, mà vác trên vai, như giữ lấy một của báu quý giá. Niềm vui ấy còn là một niềm vui nức nỡ, được diễn tả qua lời mời mọc bè bạn chia vui với mình, vì mới đưa về chốn hạnh phúc một kẻ vong thân.
Chưa dừng lại, Chúa Giêsu đã đẩy đến đỉnh điểm, để kết thúc nỗi vui mừng vì yêu ấy trên một cao trào đẹp khôn xiết: Tình yêu quá đỗi diệu hiền, nhưng rất mạnh mẽ của một người cha dành cho đứa con hư đốn của mình.
Dụ ngôn người cha nhân hậu đón nhận đứa con đi hoang trở về vì đói, chứ không phải vì nghĩ đến tình cha, cho ta bài học không thể có bài học nào lớn hơn, về lòng thương xót đến không thể tưởng tượng, không thể hiểu nổi mà Thiên Chúa dành cho ta.
Bài học ấy còn dạy ta rằng, vong thân trong tội, ta đánh mất tất cả: cả sự sống (biểu hiện qua sự đói khát của người con), cả nhân phẩm (biểu hiện qua nồi cám heo mà người con phải ăn cắp để nhét cho đầy bụng), cả tình yêu (người con bị ruồng rẩy, bị bỏ rơi), là những cái làm nên căn cội của cuộc đời con người.
Chỉ có trở về cùng Thiên Chúa, ta mới lấy lại tất cả những gì đã mất mà thôi. Chính người cha đã trả lại cho đứa con sự sống, nhân phảm và tình yêu (Lc 15, 22-32).
Ý thức Thiên Chúa luôn luôn yêu thương kiếm tìm, chúng ta đừng cứng đầu, nhưng hãy trở lại cùng Người.
Hãy đứng lên để quyết tâm đi tới. Hãy đứng lên để làm một chọn lựa mới: chọn lựa tách mình khỏi tội và đứng về phía tình yêu của Chúa.
Tội lỗi đã là điều đáng sợ khôn cùng. Nhưng chưa phải đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là ta cứng đầu ở lỳ trong tội. Vì tự đánh mất chính mình đã là một nguy hiểm. Tự chôn mình chìm đắm trong sự mất mát ấy, là một nguy hiểm khó lường, một nỗi dại khờ không có gì có thể biện minh.
Vậy với tất cả những gì đã suy nghĩ, bắt đầu từ Lời Chúa đến tội ác khủng bố, sự mất mát và sự tìm thấy trong đời sống nhân loại, cũng như mất mát và tìm thấy đối với đời sống đức tin, chúng ta thành tâm dâng lên Chúa lời cầu nguyện tha thiết của mình:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra ánh sáng của sự sống giữa chết chóc bạo tàn; ánh sáng của hy vọng giữa những tuyệt vọng; ánh sáng của sự tìm thấy giữa những mất mát và đổ nát; ánh sáng của tình yêu Chúa giữa những thù hận dối gian; ánh sáng của ơn cứu độ giữa bóng tối tội lỗi đang cuốn hút chúng con vong thân; ánh sáng của niềm tin giữa những lầm lạc, hụt hẫng.
Lạy Chúa, xin ban ơn bình an để nhân loại được hạnh phúc. Và xin ban cho tâm hồn chúng con hạnh phúc vì biết giữ mình thanh sạch, thánh thiện.
Xin cho chúng con bao dung để tha thứ; khiêm nhu để tránh kiêu căng; ôn hòa để nhường nhịn; yêu chuộng hòa bình để tâm hồn bình an.
Đoạn văn mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN 24 TN-C. Lc 15, 1-32) có nêu nhận định của đám TN 24-C150
Đoạn văn mở đầu bài Tin M
ừng hôm nay (CN 24 TN-C. Lc 15, 1-32) có nêu nhận định của đám người Pha-ri-sêu và các kinh sư về Đức Giê-su Ki-tô: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước đó, cũng đám kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thắc mắc như vậy và đã được Đức Giê-su trả lời thẳng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 31-32). Biết quá rõ về đám người này chỉ chuyên đi “nhìn người” để săm soi, xét nét, rồi kết án nọ kia; nên lần này Đức Giê-su không trả lời thẳng vào thắc mắc của họ, mà kể cho họ nghe 3 dụ ngôn liền: “Con chiên bị mất”, “Đồng bạc bị đánh mất” và “Người cha nhân hậu”.
Dụ ngôn thứ nhất nói về con chiên lạc đàn. Đối với chiên cừu thì những con đi hai bên cạnh hoặc ở cuối đàn thường hay bị lạc bầy, lạc đàn. Lý do chiên bị lạc thường chỉ vì đồng cỏ phía trước mặt đã bị những con chiên đi trước ăn trụi, chỉ còn ở hai bên mới có cỏ, vì thế nên mải mê với những bãi cỏ non xanh, quên mất hoặc không nghe được tiếng chủ chăn, lạc xa bầy đàn. Chủ chăn với tấm lòng nhân hậu, thương đàn chiên như con cái, khi kiểm diện nếu thấy có chiên bị lạc, thì dù chỉ có một con trong tổng số cả trăm con, chắc chắn sẽ bằng mọi cách tìm lại con chiên lạc ấy. Và khi tìm được, sẽ vác nó trên vai đem về với sự vui mừng hân hoan khôn tả và mời mọi người đến "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Dụ ngôn kết bằng Lời Đức Giê-su: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15, 4-7).
Đến dụ ngôn thứ hai nói về người phụ nữ có 10 đồng quan, đánh mất một đồng, liền thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm, và khi tìm được thì mời hàng xóm láng giềng lại để "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” (Lc 15, 8-10). Thực tế, có thể không có trường hợp tương tự như người phụ nữ trong dụ ngôn. Mất có một đồng quan, tiếc của, tìm cho kỳ được thì có thể; nhưng mời xóm giềng lại chung vui thì hơi quá! Tuy nhiên phải hiểu đây là một dụ ngôn, mà đã nói đến dụ ngôn (ví ngầm) là muốn nói đến cái ngụ ý ẩn trong câu chuyện kể hiện thực. Cụ thể hơn, đó là cách dùng con vật (chiên, cừu), hoặc vật chất (đồ dùng, tiền bạc) để nói về con người. Ca dao hay truyện cổ Việt Nam cũng không thiếu những ngụ ngôn dùng cách này. Đức Ki-tô đã kết lụân dụ ngôn này rất rõ ràng: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."
Cuối cùng, dụ ngôn thứ ba (Lc 15, 11-32) kể lại chuỵên một người có hai đứa con trai. Khi được chia gia tài thì người con thứ hai đã chứng tỏ mình là một “phá gia chi tử” (người con phá nhà) bằng cách “thu góp tất cả (phần tài sản được chia) rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Khi đã nhẵn túi, anh ta mới “Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không” (Nguyễn Gia Thiều), đến cám heo cũng không có mà ăn, liền hồi tâm và “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chay ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” (Lc 15, 20-21). Chính nhờ vậy mà anh được người cha vui mừng đón tiếp rất nồng hậu ("Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”).
Một đứa con hoang đàng tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với gia đình hoặc một con chiên lạc mất mà tìm lại được, mở tịêc mời bà con lối xóm đến chung vui thì còn có thể hiểu được, nhưng đến như mất một đồng quan mà tìm lại được cũng mời hàng xóm tới chung vui thì… kỳ quá! Thực tế có thể không có chuyện đó, nhưng đây là một dụ ngôn nên những hành động biểu hiện bên ngoài chỉ là một cách diễn tả ngụ ý bên trong. Và ẩn ý trong cả ba dụ ngôn đó chính là: “giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 10). Con chiên hay đồng bạc chỉ là một hình ảnh ẩn dụ về một người lầm lạc, sa vòng tội lỗi (như người con hoang đàng). Và mục đích chính của dụ ngôn nhắm tới chính là biểu hiện tấm lòng bao dung độ lượng đầy tính nhân đạo của chủ đàn chiên, người chủ đồng tiền hay người cha nhân hậu của đứa con hoang đàng.
Như vậy là đã rõ: con chiên lạc, đồng tiền bị mất hay đứa con hoang đàng cũng chỉ là hình ảnh phản ánh trong muôn một bản tính con người trần thế. Kể từ khi Nguyên tổ loài người sa vòng tội lỗi, bị tội lỗi thống trị, đã kéo theo hệ luỵ cho con cháu đến muôn đời muôn kiếp, để tội lỗi trở nên như một bản tính cố hữu. Nói đến tội lỗi là nói đến bản chất con người. Là con người thì không ai là không có những thiếu sót, lỗi lầm, “nhân vô thập toàn” là điều hiển nhiên. Vấn đề đặt ra là bản thân có nhìn ra được những sai lầm tội lỗi hay không, và khi đã nhận ra những thiếu sót lầm lỗi, thì có biết ăn năn hối cải hay không.
Đối với chủ con chiên bị lạc, chủ đồng tiền bị mất hay người cha của đứa con hoang đàng, thì luôn luôn và mãi mãi vẫn rất vui mừng khi tìm lại được con chiên, tìm thấy đồng bạc hoặc đứa con biết ăn năn sám hối trở về. Người chủ, người cha ấy đối với những cảnh “đã lạc, đã mất nay lại tim thấy, đã chết nay lại sống” luôn tỏ ra bao dung độ lượng với tấm lòng nhân hậu vô bờ bến. Đó chỉ có thể là Thiên Chúa với Tình Yêu vô lương dành cho con người. Một minh hoạ sống động cho cảnh “người con đã chết nay lại sống”, là chính tác giả bài đọc 2 trong Thánh lễ CN hôm nay: Thánh Phao-lô với biến cố Đa-mat (Cv 9, 1-19).
Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hũu Ti-mô-thê đã bày tỏ rõ ràng sự vui mừng mà Đức Giê-su Thiên Chúa ban cho ngài. Thánh nhân chân thành cảm tạ Thiên Chúa, vì ngài đã được đón nhận cách lạ lùng lòng thương xót của Chúa. Nếu Thiên Chúa không thương xót thánh nhân, thì Phao-lô suốt đời chỉ là Sao-lô, một biệt phái rất thông thái nhưng đã tiêm nhiễm giáo lý sai lạc của Do-thái giáo, sống với não trạng và thái độ kỳ thị, chỉ có mình và “phe ta” là đáng được hưởng ân huệ của Thiên Chúa, còn những kẻ khác (thuộc nhóm “theo Ki-tô”) thì không xứng đáng và cần diệt đi. Sao-lô đã là một con chiên không những lạc bầy mà còn a dua theo sói dữ quay lại mưu toan hãm hại chủ chiên và cả đàn chiên (lùng bắt Ki-tô, sát hại những người theo Ki-tô).
Rõ ràng não trạng tôn giáo của biệt phái, của Sao-lô đã sai lầm về Chúa, sinh ra sai lỗi về đồng bào, kỳ thị người khác và hết coi họ là anh em. Lòng Thương xót của Chúa không vì thế mà bị suy giảm, trái lại càng tăng trưởng mãnh liệt, vì “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Và với biến cố Đa-mát, Đức Giê-su Thiên Chúa đã làm cho một kẻ đã chết là Sao-lô được sống lại thành Phao-lô Tông đồ kiệt xuất. Thánh nhân khẳng định chắc nịch: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời.” (1Tm 1, 15-16).
Người Ki-tô hữu hôm nay rất cần thiết nhìn lại mình xem có phải mình cũng cách nào đó giống Sao-lô hoặc những biệt phái, Pha-ri-sêu… với cái não trạng hẹp hòi ích kỷ, chỉ biết “săm soi người” mà không biết “xét tật mình”. Từ đó, sám hối để trở về cùng Người Cha Nhân Lành, cũng tức là thể hiện tinh thần hoà giải với Thiên Chúa và với anh em. Muốn đạt được hiệu quả tốt thì phải biết đổi mới tận gốc rễ con người của minh, mà muốn đổi mới thì phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm tội lỗi và quyết tâm thống hối. Hãy cầu nguỵên xin cho được cùng chết đi với Đức Ki-tô để được cùng sống lại với Người. Hãy cùng với Thánh Phao-lô dâng lời tôn vinh: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.” (1Tm 1, 17).
Ôi! Lạy Chúa! “Cao vời khôn ví, tình yêu của Chúa cao vời khôn ví, tình yêu của Người, con lấy gì, Chúa ơi, đền đáp cho cân, Chúa ơi, con lấy gì đền đáp cho cân (là đền đáp cho cân). TK: Thương con thủa rất xa vời (là vời), từ khi chưa chưa có (í-a) mặt trời, (trăng) mặt trăng. Khi chưa tạo tác (í-a) gian trần, người luôn ấp ủ (í-a) một niềm, một niềm son sắt son.” (TCCĐ “Cao vời khôn ví”). Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con. Amen.