Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-C Bài 1-50 Người Cha nhân hậu
------------------------------- Phúc Âm: Lc 15, 1-10 {hoặc 1-32}: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy, Tôi bảo các ông: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải. "Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải". {Người lại phán rằng: "Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: 'Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha'. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình. "Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: 'Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ'. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: 'Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó'. "Nhưng người cha bảo: 'Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'".} - Ðó là lời Chúa. -----------------------------------------
Dụ ngôn về đứa con hoang đàng, về chàng trai phung phá, hay nói đúng hơn, câu chuyện về tấm lòng của một người cha là một hình ảnh cảm động thật nói lên tình thương vô biên của Thiên Chúa. Ngài luôn chờ đời và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, ngay cả những tội lỗi xấu xa và nặng nề nhất.
Chàng thanh niên, tuổi đời còn ít và kinh nghiệm chẳng được bao nhiêu, đã đòi người cha phải chia gia tài cho mình, để rồi lên đường đi bụi đời.
Chàng hăm hở lao mình vào những cuộc ăn chơi đàn đúm, tiêu xài hoang phí cho đến khi không còn một đồng xu dính túi.
Chính trong giây phút đau khổ và đói khát, chàng mới nhận ra rằng mình đã hành động sai quấy đối với người cha. Và cũng chính những đau khổ và đói khát ấy đã làm cho chàng suy nghĩ và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Biết bao nhiêu người ngày hôm cũng thế. Sau những hành động tội lỗi, thì trong cảnh tĩnh mịch của nhà tù họ mới tìm lại khuôn mặt của Thiên Chúa mà họ đã quên lãng từ lâu.
Hiểu được sự sai trái của mình, chàng thanh niên đã dứt khoát trở về nhà cha. Cõi lòng chàng tan nát khiêm cung, cho dù cái lý do thúc đãy chàng trở về chưa thực sự tốt lành và tinh ròng cho lắm. Chàng sẽ quì xuống để xin cha tha thứ. Chàng nói: - Thưa cha, con đã phạm tội nghịch với trời và lỗi với cha, con không xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha hãy đối xử với con như một người làm công. Và thế là chàng lên đường. Khi chàng còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy, bởi vì biết bao nhiêu ngày ông đã mòn mỏi đợi chờ.
Nếu là chúng ta, có lẽ chúng ta đã quát tháo:
- Cái thằng trời đánh thánh vật kia ơi. Mày đã làm cho tao đau khổ biết bao nhiêu. Mày không còn là con tao nữa. Hãy cút xéo khỏi nhà tao.
Nhưng không. Người cha trong câu chuyện đã không nói và làm như thế. Trái lại, ông đã tha thứ hết. Ông chạy tới, ôm choàng lấy chàng và hôn chàng hồi lâu.
Không một lời khiển trách, trái lại với tất cả tình yêu thương, ông đã truyền lấy áo mới cho chàng mặc, lấy nhẫn cho chàng đeo, lấy giày cho chàng đi, rồi lại còn chuẩn bị tiệc mừng. Ông nói:
- Hãy giết con bê béo làm tiệc ăn mừng vì con ta đã chết nay được sống, đã mất nay lại tìm thấy.
Câu chuyện trên đây quả thực đã đem lại cho chúng ta, những kẻ tội lỗi, một niềm an ủi lớn lao. Bởi vì qua câu chuyện này, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy lòng nhân từ, khoan dung và thương xót của Thiên Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ, sẵn sàng xóa bỏ tất cả mọi tội lỗi của chúng ta, miền là chúng ta biết sám hồn ăn năn và lên đường trở về với Ngài.
Cha Piô là một vị linh mục nổi tiếng thánh thiện. Ngày kia, ngài tới Rotondo và tình cờ gạp Cesare Festa, một kẻ đứng đầu phái Tam Điểm tại đây. Khi gặp ngài, ông ta ngạc nhiên và nói:
- Ngài cũng ở đây với chúng tôi, những người theo phái Tam Điểm hay sao ?
Cha Piô đáp lại:
- Phải, thế các anh đã làm gì ?
Ông ta trả lời:
- Chúng tôi chống lại Giáo hội.
Cha Piô cầm tay ông ta, nhìn ông ta bằng cặp mắt trìu mến, rồi kể lại cho ông ta nghe câu chuyện đứa con hoang đàng, hay câu chuyện tấm lòng của một người cha.
Một giờ sau, ông ta đã quì gối xưng tội. Rồi sau đó, ở mọi nơi và trong mọi lúc, ông ta sẵn sàng tuyên xưng lòng khoan dung và thương xót bao la của Thiên Chúa.
Riêng mỗi người chúng ta, hãy sám hối ăn năn trở về cùng Chúa để được hưởng nhờ ơn tha thứ, bởi vì tâm tình sám hối ăn năn chính là một thứ tiền để mua lấy ơn tha thứ.
Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, ta đọc được câu chuyện sau đây: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện. Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều của mỗi người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi, một người thì lại ốm o buồn phiền. Cả hai người đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã suy niệm về những gì. Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp: Trong suốt một năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội lỗi tôi đã phạm. Từng giây từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau: Suốt một năm qua, từng giây từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi. Vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng con người ốm o sầu buồn kia cũng được đón nhận vào cộng đoàn.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Không phải tất cả các vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân. Nhưng tất cả đều bắt đầu có ý thức sâu sắc về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người càng cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Đó là thực trạng tâm hồn của tất cả các vị thánh trong giáo hội. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Chúa Giêsu đã nối kết lòng sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì nếu không phải là tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua con người của Đức Giêsu Kitô? Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình. Sám hối đích thực không dừng lại ở đau xót, buồn phiền, sợ hãi, mà phải là ngõ dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là hoan lạc, vui mừng.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài là một người cha yêu thương và tha thứ, một người cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Do đó, đạo mà Chúa Giêsu đã thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau mà là đạo của Tin Mừng, của Tình Yêu, của hân hoan, của hy vọng. Đành rằng thập giá là biểu tượng của Kitô giáo. Nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, buồn phiền, khổ đau. Họ luôn được mời gọi nhìn ra ánh sáng, hy vọng, tin yêu, sự sống bên kia thập giá.
Một văn sĩ nọ đã kể lại câu chuyện ngắn về cậu bé David trong câu chuyện có tựa đề là: “Người Con Của Ai Đó” như sau:
David đã bỏ nhà ra đi, nó viết thư về cho mẹ như sau: Thưa Mẹ, vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà, con sợ cha lắm, nếu cha tha thứ cho con thì mẹ hãy xin cha cột một dây vải trắng nơi cây xoài trước nhà, nhìn thấy dấu hiệu này con biết là cha đã tha thứ và con sẽ về lại.
Vài ngày sau, David lấy vé xe lửa về quê. Đường xe lửa đi ngang qua trước nhà, cậu nghĩ, nếu cậu thấy được sợi dây vải trắng cột trên cây xoài thì cậu sẽ xuống trạm xe kế bên và đi về nhà, nếu không thì sẽ đi luôn sang nơi khác. Cậu David rất hồi hộp khi xe gần đến nhà, sợ mình có thể nhìn lầm hay không kịp nhìn, cậu nhờ một người bên cạnh cùng nhìn phụ. Xe chạy ngay qua địa điểm, không những là cậu mà cả người bạn cũng nhìn thấy, người bạn hỏi cậu:
- Tại sao cây xoài nhà đó lại đầy những tấm vải trắng treo trên khắp các cành cây như vậy ?
David mỉm cười không trả lời, cậu chỉ giữ lấy ý nghĩa của dấu hiệu đó cho riêng mình mà thôi và hân hoan xuống trạm xe kế tiếp.
---------------------------
Câu chuyện vui trên giúp chúng ta hiểu thêm sứ điệp Phúc âm mà Chúa gởi đến chúng ta hôm nay. Như cậu David, chúng ta mang nặng ý thức về những lỗi lầm của mình và nghi ngờ tình thương tha thứ của Thiên Chúa. David cần được củng cố vì tình thương của cha sẵn sàng tha thứ. Chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa đã thực hiện nhiều dấu chỉ trong cuộc đời để chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Ngài, và dấu chỉ quan trọng nhất hằng ngày chúng ta thấy, đó là thập giá Chúa Giêsu Kitô, dấu chỉ đó cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất ; dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm , Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta dụ ngôn về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu thái độ của Thiên Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc cho đến khi gặp được mới thôi hay không ? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao ? Quan niệm của con người chúng ta thường hay căn cứ vào số lượng, và có thể chúng ta cho rằng hành động của người chăn chiên là một hành động khác thường, nếu không muốn nói là điên khùng theo mức độ con người. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không điên khùng, vì Ngài không đặt tương quan của Ngài trên căn bản con số, chất lượng nhiều hay ít, nhiều người hay ít người, nhưng trên căn bản tương quan giữa Ngài với từng cá nhân. Mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới thôi.
Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng, nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không ?
Trong bài dụ ngôn về người cha của đứa con hoang đàng, chúng ta còn quan sát thái độ giữa hai anh em ganh tị với nhau. Người anh cả ở nhà với cha, thay vì thông cảm và mừng với em mình trở về thì anh lại tỏ ra ganh tị.
Mặt khác, như trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.
Có câu chuyện kể rằng, một ngày nọ Abraham mời một lữ hành vào lều của ông dùng một bữa cơm, sau khi đọc kinh chúc tụng trước khi ăn, người khách này bắt đầu chửi rủa Thiên Chúa, ông nói rằng, ông không thể chịu nổi khi nghe gọi tên Thiên Chúa. Phẫn nộ trước thái độ đó Abraham đuổi ngay kẻ phạm thượng ra khỏi lều. Tối đến, khi Abraham cầu nguyện Chúa nói với ông: “Abraham, người kia đã chửi rủa Ta từ 50 năm nay và Ta vẫn cứ ban cho ông ta lương thực hằng ngày. Còn ngươi, ngươi không thể nào cho ông ta chỉ một bữa cơm sao?”.
Tin Mừng theo thánh Luca của Chúa nhật hôm nay vốn được mệnh danh là Tin Mừng về “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Và quả thực như vậy, bài Tin Mừng khá dài nhưng thật cảm động, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra một mà tới ba dụ ngôn để phá đổ thái độ hống hách đạo đức giả của những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư. Nhưng quan trọng hơn hết là Ngài bày tỏ lòng nhân hậu đầy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Dụ ngôn đầu tiên, Thiên Chúa như người mục tử nhân lành quyết tâm đi tìm cho bằng được con chiên bị lạc, dù chỉ là một trong số một trăm. Khi tìm được rồi, ông vui mừng vác chiên trên vai, về đến nhà ông mời bà con hàng xóm đến chung vui. Dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa như người phụ nữ mất một đồng bạc, có lẽ giá trị của nó chỉ bằng tiền lương của một ngày công lúc bấy giờ. Nó không lớn đối với nhiều người trong chúng ta, nhưng nó quan trọng đối với người phụ nữ. Bà đã thắp đèn quét nhà moi móc tìm kiếm cho bằng được, khi tìm được rồi bà mời bạn bè hàng xóm đến chung vui.
Trong cả hai dụ ngôn này, thái độ vui mừng của người mục tử và của người phụ nữ có lẽ trong thời buổi thị trường kinh tế chúng ta thấy thật phi lý, nhưng nó lại là lôgích của tình yêu trong cuộc sống và là bản chất yêu thương của Thiên Chúa. Rõ ràng giá trị của con chiên bị lạc hay đồng bạc bị mất không đặt trong sự so sánh cái này với cái khác, cũng không đặt trong tỉ lệ phần trăm hay phần mười, nhưng giá trị của chính nó trong tương quan của người tìm kiếm, trong lòng thương xót và trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là sự vui mừng của Nước Trời khi có một tội nhân ăn năn sám hối.
Điều này càng nổi bật hơn trong dụ ngôn thứ ba người cha nhân hậu. Người cha không những đã bày tỏ lòng thương yêu đối với người con thứ, đứa con đã đòi chia gia tài, rồi sau khi ra đi đã ăn tiêu hoang phí, khi trở về lúc nó còn đàng xa người cha đã nhận ra và lập tức chạy đến ôm chầm lấy, hôn lấy hôn để. Ông còn cho mở tiệc ăn mừng, vì điều quan trọng đối với ông là đứa con đã trở về. Đứa con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Người cha còn bày tỏ lòng nhân hậu với người con cả, đứa con hằng ngày vẫn ở bên cha mà hình như tâm hồn của nó đã đi hoang từ lâu. Nó kể công, nó phân bì, nó ghen tị rồi tức tối giận dỗi, nó muốn cắt đứt tình nghĩa huynh đệ không chấp nhận cho đứa em trở về và nó cũng đang cắt đứt luôn tình nghĩa phụ tử không chịu vào nhà, vì trong lòng của nó chưa bao giờ có tình thương. Sự chuyên cần trong công việc hằng ngày của nó xem ra vì thói quen hoặc vì bổn phận hơn là vì một mối tình. Nhưng người cha vẫn nhân hậu đầy yêu thương năn nỉ: “Này con, hằng ngày con vẫn ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”.
Thiên Chúa, Ngài đã kiếm tìm chúng ta trước khi chúng ta tìm kiếm Ngài. Ngài chờ đón chúng ta trước khi chúng ta trở về, và Ngài đã yêu thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn là tội nhân. Trong lòng thương xót của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đã trở nên viên ngọc quí mà Ngài là thương gia bán tất cả gia tài đang có để chuộc lấy viên ngọc quí là chúng ta. Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người thế. Người còn tự hạ sống vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên Chúa nhân hậu và hay thương xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không đánh dập tắt tim đèn còn khói. Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những người con yếu đuối, tội lỗi ăn năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử nhân lành như thế đó ; Thiên Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta như thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
Đề cập đến Tin Mừng nghiêm chỉnh một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rõ điều này: những kẻ cầm quyền đương thời trong đạo Do thái, những người Pharisêu, những người tự cho mình là công chính… đã khinh thường và tẩy chay Chúa Giêsu. Trái lại, những người tội lỗi, những kẻ thu thuế… đã trân trọng và nhận biết Ngài. Thử hỏi: Nếu Chúa Giêsu trở lại giữa chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ thuộc hạng người nào ? Thuộc hạng người “công chính” không cần đến Ngài hay thuộc hạng người tội lỗi, đối tượng Ngài quan tâm khi đến thế gian ? Bài Tin Mừng nêu lên vấn đề ấy. Chúng ta thấy Chúa Giêsu yêu thích “những gì đã lạc mất” một cách hết sức ngỡ ngàng. Ngài đến “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất”. Những lời nói này giúp chúng ta đi sâu vào tâm khảm của Chúa. Những lời nói đó đã làm rung lên một cung nhịp chính yếu của Kitô giáo: cung nhịp của tình thương.
Bài Tin Mừng thánh Luca kể lại một loạt ba dụ ngôn cùng diễn tả về một chủ đề duy nhất. Dụ ngôn thứ nhất nói về sự lo âu tìm kiếm và mừng rỡ của người chăn chiên khi tìm lại được con chiên lạc trong số 100 con chiên. Dụ ngôn thứ hai tương tự như vậy, nói về sự cố công tìm kiếm và vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc rơi trong số 10 đồng. Dụ ngôn thứ ba nói về tình phụ tử hay thường gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nói lên tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Cả ba đều cho biết Thiên Chúa vui mừng biết bao khi một tội nhân ăn năn hối cải. Dụ ngôn con chiên lạc cho thấy: khi người chăn chiên tìm thấy con chiên lạc, đã vác nó lên vai, vui sướng trở về nhà, kêu gọi láng giềng lại và nói với họ: “Các bạn hãy vui mừng với tôi vì tôi đã tìm được một con chiên đã lạc mất”. Rồi Chúa kết luận: “Tôi bảo thật các ông: trên trời sẽ vui mừng vì người tội lỗi hối cải hơn 99 người công chính không cần hối cải”. Cùng một cung giọng, trong dụ ngôn đồng tiền mất, chúng ta thấy những câu kết còn rõ ràng và vui vẻ tưng bừng hơn: “Tôi nói thật với các ông: các thiên thần của Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn thống hối”. Rồi trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, cung giọng càng cảm kích hơn nữa về tình phụ tử của Chúa đối với người tội lỗi thống hối ăn năn trở về với Chúa: khi đứa con còn ở xa, người cha đã nhận ra nó, và ông thổn thức trong lòng, chạy lại ôm cổ con mà hôn.
Qua ba dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất, sứ mạng tình thương của Ngài. Thứ hai, bổn phận và thái độ của chúng ta. Trước hết, chúng ta đều biết: Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi. Ngài đến để kêu gọi những người tội lỗi thống hối ăn năn, và để tìm kiếm, cứu vớt những gì đã lạc mất. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho Timôthêô cũng khẳng định: “Chúa Kitô đến thế gian để cứu vớt những kẻ tội lỗi”. Đó là động lực cần có để kéo Ngài xuống thế gian. Về điểm này, giáo huấn của mạc khải thật đồng nhất. Không có một đoạn văn nào, không có một chỗ nào quả quyết rằng: không có kẻ tội lỗi, Ngài cũng vẫn xuống thế gian.
Quả thực, Chúa Giêsu đã đến vì tội nhân. Đó chính là ánh sáng trong đó mạc khải bày tỏ Chúa Giêsu cho chúng ta và chúng ta phải luôn luôn ngắm nhìn Ngài trong ánh sáng này. Nói khác đi, vì yêu thương loài người tội lỗi mà Chúa Giêsu đã bỏ trời xuống thế gian. Chính tên “Giêsu” của Ngài, nghĩa là “Cứu Thế” cũng đã gắn liền với kẻ có tội. Cứu ai ? Người lành đâu cần cứu, mà cứu là phải cứu người có tội. Do đó, đối với chúng ta, tình thương đã hiển hiện như một nét nổi bật của Chúa. Tình thương của Chúa không phải là một tình cảm mờ nhạt, mong manh mà là cả một tâm hồn say mê nóng bỏng. Lòng say mê đó là tình yêu đã đến cảm mến cảnh cùng khổ của chúng ta và để nâng cảnh cùng khổ đó lên. Tình thương của một Thiên Chúa làm người khôn lường và da diết. Tình thương đó không phải là một đức tính phụ thuộc nơi bản thân Người, nhưng là một nét chính yếu, đặc biệt: chính vì đó mà Ngài đã đến. Tội lỗi của chúng ta nếu được đưa vào ngọn lửa nóng bỏng yêu thương này sẽ bị thiêu hủy ngay.
Vậy nếu chúng ta có xa cách Ngài thì không phải vì chúng ta khốn cùng mà chính vì chúng ta đã không dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó. Chúng ta đã chẳng dâng lên cho Ngài sự khốn cùng hoặc vì chúng ta còn quá ham cái cái cảnh cùng khốn, hoặc vì chúng ta nghĩ rằng tình thương xót của Ngài quá nhỏ bé so với tội lỗi tầy trời của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta thực sự dâng lên cho Ngài sự khốn cùng đó, thì Ngài đã vồ lấy con người tội lỗi chúng ta mau lẹ hơn cả chim phượng hoàng vồ lấy con mồi. Khi ấy, dầu tội lỗi của chúng ta có thắm đỏ bao nhiêu, Ngài cũng sẽ biến nó trắng tinh như tuyết.
Chúng ta nghĩ sao đây ? Chúng ta sẽ được liệt vào hạng người Pharisêu, kinh sư hay vào hạng những người tội lỗi, những người thu thuế ? Chúng ta tự nhận mình là người công chính hay người tội lỗi ? Chắc chắn không ai dám cho mình là trong sạch, vô tội trước mặt Chúa, bởi vì từ ngày có trí khôn cho đến nay, biết bao nhiêu lần chúng ta đã không giữ trọn 10 điều răn của Chúa. Bao nhiêu lần chúng ta đã chịu thua cám dỗ và sa ngã. Bao nhiêu lần lời ăn tiếng nói của chúng ta là những lời hành tỏi, xét đoán, gièm pha, kết án hay là những lời hư từ vô ích. Bao nhiêu lần chúng ta đã ghen ghét, oán thù, tranh chấp… Có lẽ chúng ta không chịu bới đống rác tội lỗi của chúng ta ra thôi, chứ thiếu gì những lý do để chúng ta phải ăn năn thống hối. Chúng ta phải thành thật nhận mình là tội nhân đáng hình phạt như người trộm lành ; chúng ta là đứa con hoang đàng trở về, là Mađalêna thống hối, là Phaolô bị quật ngã, là Âu Tinh cần đổi mới. Kinh Kính mừng, Thương xót, An năn tội, Chiên Thiên Chúa… dạy cho chúng ta biết chúng ta chỉ là tội nhân, là kẻ bại trận, chỉ trông hòng vào lòng Chúa thương xót mà thôi.
Mong sao tự thâm tâm chúng ta luôn vọng lên lời tự thú của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi”. Và rồi chúng ta cũng hãy trào ra những giọt lệ sung sướng như Tin Mừng đã kể. Không cần phải có những giọt lệ trào ra từ khóe mắt, nhưng là những dòng lệ âm thầm chảy tự trong lòng. Những bước chân trở về và hoán cải thường gọi là niềm ân hận, âm thầm đau đớn về những lầm lỡ đã qua, đó là con tim tan vỡ, hay nói giản dị hơn, là lòng ăn năn hối cải. Tấm lòng ăn năn đó đôi khi được bộc lộ bằng những dòng lệ chảy ra từ khóe mắt, đó là những dòng lệ thấy được từ bên ngoài, nhưng quí hóa hơn, âm thầm sâu kín hơn vẫn là những dòng lệ đau đớn của con tim. Ước mong đó là những dòng lệ của chúng ta. Lạy Chúa, xin đừng chê bỏ con, xin nhận lấy tấm lòng con: tấm lòng tan nát khiêm cung.
Có một bài hát chúng ta hay hát trong lễ cầu hồn mà tôi rất thích: “Chúa là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương”. Vâng, tình thương nhân hậu ấy của Thiên Chúa từ ngàn xưa đến nay vẫn luôn tuôn đổ trên muôn loài Chúa tác thành: trên muôn vật, muôn dân, muôn người, và đặc biệt trong Phúc âm hôm nay, tình thương ấy còn được tuôn đổ trên tội nhân khiến “Người không xử với họ như họ đáng tội, và không trả cho họ theo lỗi của họ”.
Vâng, trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng cách rõ nét và cụ thể lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa, để rồi từ đó ta được mời gọi sống noi gương Ngài, cư xử nhân ái với anh chị em xung quanh.
Trước hết, điều đáng chú ý trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay là: có một sự tiến triển trong việc mạc khải khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa. Nói cách khác, từ bài đọc I đến bài Phúc âm, lòng nhân hậu của Thiên Chúa được khắc họa ngày càng rõ nét hơn.
Thật vậy, nếu như ở bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội “thờ bò vàng” của dân Israel, và phải nhờ lời cầu khẩn của Môsê, cơn thịnh nộ ấy mới nguôi dần, cho thấy khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa mới chỉ được phác họa cách mờ nhạt, thì đến bài đọc II, thánh Phaolô đã diễn tả khuôn mặt ấy ở một chiều kích khác, cụ thể hơn, gần gũi hơn: Chúa nhân hậu không chỉ cách chung chung với một dân, một nhóm người, mà Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm chính thánh Phaolô đã thuật lại khi xác tín: “Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chuộc những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. Với câu nói này, khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa đã được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ con người.
Tuy nhiên, hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu chỉ thực sự được xuất hiện cách rõ nét trong bài Phúc âm qua chính hình ảnh của Chúa Giêsu và ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu của Thiên Chúa mà chỉ Phúc âm thánh Luca, một Phúc âm được mệnh danh là “Phúc âm của lòng nhân hậu Chúa” mới ghi lại, đó là các dụ ngôn: “Con chiên lạc”, “đồng bạc mất” và “người cha nhân hậu”.
Đi vào bối cảnh của ba dụ ngôn ta sẽ thấy được chủ ý của Chúa Giêsu khi đưa ra ba dụ ngôn này. Người Biệt phái thấy Đức Giêsu đón tiếp người tội lỗi thì khó chịu và phiền trách Chúa: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước thái độ ấy, Chúa Giêsu đã cho họ một bài học. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là một Thiên Chúa xa xôi, hay giận dữ như trong Cựu ước quan niệm nữa, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi và giàu lòng nhân hậu đối với những kẻ lỗi lầm.
Lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa được diễn tả qua hai hành động cụ thể: Đi bước trước đến với tội nhân và hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân.
Đi bước trước đến với người tội lỗi: các dụ ngôn hôm nay đều diễn tả điều này. Hình ảnh người chăn chiên không chờ phải nghe tiếng con chiên lạc kêu cứu mới đi tìm, mà ngay khi phát hiện nó đi lạc, ông đã vội vã đi tìm ngay ; hay người cha nhân hậu chạy ào ra đón con khi thấy nó từ đàng xa, mà không chờ một lời xin lỗi đã nói lên điều đó. Cũng thế, Thiên Chúa luôn yêu thương và đi bước trước đến với con người. Ngay khi ta còn là tội nhân, Thiên Chúa đã sai Con Một đến cứu độ chúng ta. Chính Chúa Giêsu, trong cuộc đời tại thế cũng vậy, Ngài từng đi bước trước đến với người tội lỗi để cứu chữa họ, nâng họ dậy. Những cuộc gặp gỡ giữa Ngài và Mađalêna, người phụ nữ bên giếng Giacop, Giakêu… đã cho thấy điều này. Cảm nghiệm được tình thương ấy của Thiên Chúa, thánh Gioan đã thốt lên: “Chúa thương ta ngay từ khi ta còn là kẻ có tội”.
Hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân: dấu chỉ của sự tha thứ ấy là: phục hồi nguyên trạng cho họ. Hình ảnh người cha sai gia nhân mang áo, nhẫn, giày mới… cho người con trở về đã nói lên điều đó. Anh ta đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được lại địa vị làm con trong gia đình. Chúa Giêsu cũng từng phục hồi phẩm giá cho tội nhân khi tha thứ mọi lỗi lầm cho họ: cho Phêrô, cho người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành… và nhất là cái chết của Ngài đã phục hồi địa vị làm con cho toàn nhân loại tội lỗi.
Chúng ta cũng cảm nhận được điều này khi lãnh nhận Bí tích Giải tội: được lại những công phúc ta lập đã bị mất đi do tội lỗi gây nên, và nhất là được lại địa vị làm con Thiên Chúa.
Tóm lại, qua giáo huấn và chính cuộc đời Chúa Giêsu, ta nhận ra một Thiên Chúa nhân hậu với những hành động thật cụ thể. Tuy nhiên, không dừng ở lại đó, Ngài còn mời gọi ta hãy noi gương Ngài, cư xử nhân hậu với tha nhân.
Với lời mời gọi: “Hãy chung vui với tôi” và “chúng ta phải vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài cư xử nhân hậu với tha nhân, những anh chị em của mình, đặc biệt là những người bị coi là tội lỗi.
Tuy nhiên, với bản tính con người ta thấy, thực hiện điều này không phải là dễ: làm sao tôi có thể đi bước trước để đến với kẻ xúc phạm tôi ? Làm sao tôi có thể tha thứ cho kẻ đã cướp bóc, chà đạp nhân phẩm tôi …? Vậy thì công bằng ở đâu ? Vâng, đó cũng là suy nghĩ của người Biệt phái và người anh cả hôm nay, thế nên họ không thể tha thứ lỗi lầm cho người khác. Với lẽ tự nhiên của con người thì không thể được, nhưng thử nhìn lại cuộc đời mình xem: biết bao lần nếu Chúa cư xử công bằng với ta như ta đáng tội, thì liệu ta có còn tồn tại như ngày hôm nay không ? Thế nên, trong cuộc sống không chỉ có công bằng mà còn có bác ái, có lòng nhân hậu nữa, nhất là đối với những người con cái Chúa. Như vậy, lời mời gọi sống nhân hậu của Chúa hôm nay vẫn là lời mời gọi chúng ta. Dù biết rằng khó, ta vẫn phải cố gắng thực hiện, lý do vì:
Mỗi người đều là tội nhân, đều từng được Chúa cư xử nhân hậu, nên phải nhân hậu với nhau. Đừng để lời quở trách trên con nợ bất lương xưa kia giờ lại xuống trên ta: “Sao ngươi không cư xử với anh em ngươi như Ta đã cư xử với ngươi !”. Hơn nữa, “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, nếu Chúa là Đấng Nhân hậu thì tại sao là con, ta không sống nhân hậu như Thiên Chúa là Cha của mình?
Tóm lại, lời Chúa hôm nay trình bày cho ta hình ảnh một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, qua đó mời gọi chúng ta noi gương Ngài trong cư xử với tha nhân. Để kết luận, xin đưa một vài thực hành cụ thể qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay như sau:
* Đối với Chúa: Ta hãy luôn sống trong tâm tình cảm tạ, vì Chúa đã đối xử nhân hậu với ta, bằng cách tránh xa tội lỗi ; đồng thời, mỗi khi lỡ phạm tội, hãy tin tưởng vào lòng Chúa xót thương mà chạy đến với Ngài trong Bí tích Giải tội.
* Đối với tha nhân: Ta hãy noi gương Chúa, luôn thông cảm với những lỗi lầm của anh em, và tha thứ khi anh em xúc phạm đến mình, không mang tật xấu của họ ra bàn tán…
Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn giúp sức để chúng ta biết sống noi gương Ngài, Đấng Từ Bi Nhân hậu, hầu xứng danh là con của Cha trên trời.
Người ta có thể nói: Tại sao người mục tử lại quan trọng hóa như thế với một con chiên đi lạc trong lúc người ấy vẫn còn 99 con khác ? Và tại sao người phụ nữ lại quan trọng hóa như thế với một đồng tiền đánh mất ? Bất cứ cái gì mà chúng ta đánh mất đều có một giá trị thái quá. Ví dụ như bạn đánh mất một cái chìa khóa. Ngay khi bạn làm mất, cái chìa khóa ấy trở nên quan trọng hơn tổng số mọi vật mà chúng ta vẫn có. Không bao giờ chúng ta biết giá trị của một vật chúng ta có cho đến khi chúng ta mất nó.
Một lần kia, có một thanh niên mong ước mình sẽ trở thành một nhà nhiếp ảnh. Mỗi năm, anh đem một gói các bức ảnh đẹp nhất của mình đến nhà một nhiếp ảnh gia lão thành và danh tiếng để xin ông này chỉ dẫn và đánh giá. Nhiếp ảnh gia lão thành nghiên cứu các bức ảnh và chia ra làm hai gói nhỏ, một gói gồm các bức ảnh đẹp và một gói gồm các bức ảnh xấu, chưa đạt. Năm nào ông cũng nhận thấy rằng người thanh niên luôn đem đến một bức ảnh chụp phong cảnh và lần nào cũng bị xếp vào các bức ảnh xấu bị loại. Vì thế, ông mới quay lại người thanh niên và nói: “Rõ ràng là cậu đánh giá cao bức ảnh này. Tại sao cậu lại thích nó như thế ?”
Người thanh niên đáp: “Bởi vì cháu phải leo lên núi để chụp nó”.
Một vật trở nên quí giá đối với chúng ta bởi vì chúng ta mất nó. Nhưng nó cũng có thể trở nên quí giá vì công sức mà chúng ta đã bỏ ra cho nó. Những hy sinh mà chúng ta đã thực hiện có được hoặc giữ được nó làm tăng thêm giá trị của nó trong mắt chúng ta.
Có một câu chuyện tuyệt vời kể lại rằng một ngày nọ Đức Giêsu hiện ra với một người mục tử đang gặp chuyện đau buồn. “Tại sao con buồn bã thế ?” Người hỏi “Bởi vì con đã để mất một trong các con chiên của con”, người mục tử đáp “và dù con đã tìm kiếm khắp nơi, con đã không tìm thấy nó. Có lẽ chó sói đã xé xác nó”. Nghe đến đây Đức Giêsu nói: “Con hãy chờ ở đây. Chính Thầy sẽ đi tìm nó”. Nói xong, Người biến mất vào trong các đồi. Ít giờ sau, Người trở lại với con chiên lạc. Đặt con chiên dưới chân người mục tử, Người nói: “Kể từ ngày hôm nay, con phải yêu thương con chiên này hơn những con chiên khác trong bầy chiên của con, vì nó đã mất mà nay đã tìm lại được”.
Trong các câu chuyện con chiên lạc và đồng tiền đánh mất Đức Giêsu nhấn mạnh một điều, đó là: Đối với Thiên Chúa, mỗi người đều quan trọng và quí giá. Nhất là khi người ấy đã hư mất. Thiên Chúa sẽ yêu thương người ấy nhiều hơn chứ không ít đi.
Những người Pharisêu tự coi mình là những mẫu mực về đạo đức nên không liên can gì đến những người tội lỗi. Họ cho rằng Thiên Chúa cũng không quan tâm đến những người tội lỗi. Tín điều chính yếu trong tôn giáo của họ là: “Thiên Chúa yêu thương người đạo đức và ghét bỏ kẻ tội lỗi”. Nhưng Đức Giêsu cho họ thấy có một loại Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn.
Đức Giêsu nhân hậu và yêu thương khi Người tiếp cận với những người tội lỗi. Người biết rằng sự loại trừ và phán xét không bao giờ giúp cho một người thay đổi. Vì thế Người dùng sự hiện diện của Người như một cách để người ta cảm thấy được chấp nhận và yêu thương và trong bầu không khí ấy họ có thể đáp lại và thay đổi.
Dù từ một quan điểm nhân bản, sự tiếp cận của Người cũng mang nhiều ý nghĩa. Nếu một đứa bé bị lạnh và đói lả, nó không cần một bài giảng thuyết ; nó cần hơi ấm và lương thực. Jean Vanier cũng nói rất hay: “Con người ở trong cảnh khốn cùng không cần một cái nhìn xét đoán và chỉ trích, nhưng cần một sự hiện diện đầy an ủi đem lại bình an, hy vọng và sự sống”.
“Khi một người cha than khóc đứa con của mình đã đi vào những con đường xấu xa, ông sẽ làm gì ? Ông sẽ yêu thương nó nhiều hơn bao giờ hết”(Beal Shem Tov).
Không chỉ có chiên cừu và các đồng tiền bị đánh mất. Con người cũng bị lạc mất. Theo tờ The Tablet (Tháng 12-1996) có khoảng 250.000 người ở Anh Quốc bị mất tích mỗi năm. Đủ mọi loại tuổi và thành phần, từ trẻ em cho đến người đứng tuổi, bởi mọi loại lý do và không lý do nào giống lý do nào, và họ bỏ đi mất tích. Những người ở lại, gia đình của họ bị nghi kỵ dày vò, tội lỗi dằn vặt và lo lắng, người ta vừa sống với niềm hy vọng vừa tuyệt vọng, không thể chấp nhận điều đã xảy ra hoặc đau buồn vì họ đã chết. Đường dây những người mất tích của quốc gia được thiết lập ở Anh quốc năm 1992 và mở ra 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Đây là một trong những hoạt động từ thiện phát triển nhanh nhất ở nước Anh.
Vấn đề còn to lớn hơn ở Mỹ. Người ta ước chừng 50.000 trẻ em xuất tích mỗi năm, trong đó có 5000 em tìm thấy đã chết. Tại sao những em ấy mất tích ? Một số em cha hoặc mẹ đã ly dị bắt đem đi. Một số em là bạn thân của các tội ác bạo hành. Một số bỏ trốn khỏi những gia đình không hạnh phúc.
Kevin là một cậu bé mười tuổi hay cười. Cậu sống với cha mẹ cậu và hai người chị ở San Francisco. Một ngày kia, cậu rời khỏi trường sau giờ thực hành bóng rổ. Người ta không còn nhìn thấy cậu nữa.
Phần lớn các quốc gia không có con số chính xác các trẻ em mất tích mỗi năm. Hầu hết các lực lượng cảnh sát không hành động theo một báo cáo có một đứa trẻ mất tích ít nhất trong vòng 24 giờ. Ở Mỹ, cảnh sát liên bang FBI nói rằng nếu họ phải đi tìm mỗi đứa trẻ mất tích, họ sẽ không có thời gian để làm những việc khác. Nhiều quốc gia có những chương trình hiện đại để lần theo dấu vết của các xe cộ bị mất cắp và thẻ tín dụng nhưng không có chương trình nào cho các trẻ em bị mất tích.
Người ta có thể lạc loài bằng nhiều cách. Có người đã nghiện rượu hoặc ma túy, có người không thể ổn định cuộc sống, có người không thể giữ được việc làm hoặc hoàn tất chương trình học, có người không thể duy trì một tương quan rất khó mà tìm thấy họ. Điều làm cho sự việc thêm trầm trọng là thông thường họ không bỏ đi. Họ biến mất ở giữa chúng ta, họ lạc loài ngay giữa gia đình mình.
Dĩ nhiên xem ra không ai có thể đến gần họ. Trong những trường hợp như thế, nhiệm vụ của người mục tử không tìm kiếm họ cho bằng giúp họ tìm thấy chính mình.
Và dĩ nhiên, người ta lạc loài về tinh thần và tâm linh. Những người như thế giống như con thuyền không neo hoặc một thủy thủ không có la bàn. Trong số họ, có những người lạc loài vì lỗi của họ. Nhưng những người khác lạc loài vì họ không có người hướng dẫn, không có một ai quan tâm tích cực đến những người sống lạc loài.
Đức Giêsu bày tỏ mối quan tâm của Người đối với các “con chiên lạc” – những người thu thuế, những người tội lỗi v.v…là những người đã bị các mục tử chính thức bỏ rơi. Những mục tử chính thức phẫn nộ đối với việc mà một mục tử xứng đáng với danh xưng ấy phải làm.
Người mục tử không chờ cho con chiên lạc quay về ; người ấy đi tìm nó. Đức Giêsu cũng thế. Người là vị sứ giả mà Chúa Cha sai đến với chúng ta. Người không chờ cho những người có tội đến tìm Người. Người ra đi tìm họ. Và khi người tìm thấy họ, Người đưa họ trở về nhà Cha với niềm hoan hỉ.
Hối cải là trở về với Thiên Chúa, và trở về với Thiên Chúa là trở về nhà mình.
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v.v… một hội viên phát biểu: “Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng”. Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: “Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi”.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới ba dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc ? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để đi tìm lại nó ? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa ? Những người Pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quí giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao ? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người Pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người Pharisêu nổi tiếng là thánh Phaolô (bài đọc 2).
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là: Cái mất đi trở thành cái quí giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quí.
Sự quí giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta ( thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó ( như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau).
Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: “Vì tôi bị lạc mất một con chiên”. Chúa Giêsu nói: “Để Ta đi tìm nó cho”. Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: “Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó”.
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì ?
- Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại. - Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn. - Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới Đức Giám mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức Cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như tế ? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được ; tôi phải làm gì hơn nữa. Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, Đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được ; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để 99 con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa”. Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi ; nhưng người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng giòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù lòa”.
Qua những gì Thiên Chúa làm cho con người, con người biết hơn về Thiên Chúa. Qua thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân, con người biết Thiên Chúa là Đấng nhân từ, Đấng yêu thương con người vô cùng.
Con người có là chi!
Con người thường chỉ yêu quý những người tài giỏi và ngoan hiền. Với những người không tốt, con người thường xa lánh. Thiên Chúa không đối xử với con người như vậy. Ngài đi tìm người tội lỗi như người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, như người cha đứng chờ người con hoang trở về. Con người là chi đối với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đối xử với con người như vậy?
Như người chăn chiên bỏ lại 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc, và khi tìm được, lại còn vác nó trên vai, Thiên Chúa cũng yêu thương và trân trọng con người như vậy! Tin Mừng hôm nay cho thấy khi một tội nhân trở về, cả trời đất đều vui mừng, cả triều thần trên trời hân hoan. Theo cách nói nhân hình, có thể nói, chính Thiên Chúa cũng vui mừng khi một người tội lỗi ăn năn trở lại. Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương ngay cả người tội lỗi vô cùng.
Người con bỏ nhà đi hoang đắc tội với cha và với anh của mình. Thế nhưng, người con trưởng cũng lỗi phạm với cha và với em của anh ta. Vì anh ta sống với cha mà có thái độ và tâm tình của người làm thuê. Người con trưởng coi cha như ông chủ chứ không phải như cha mình, hơn nữa, anh ta không muốn nhận em mình khi nó trở về. Người con thứ từ bỏ cha và anh để ra đi; còn người anh đã không coi cha như cha và cũng chẳng muốn nhận em mình; có lẽ cả hai đều giống nhau. Còn người cha, người cha không chỉ yêu thương người con thứ hoang đàng, nhưng Ngài yêu thương cả người con trưởng. Ngài năn nỉ người con trưởng, xin người con trưởng chấp nhận em mình.
Trong dụ ngôn hai người con, chính người cha đã nhận ra đứa con bỏ nhà ra đi trở về, và người cha này đã không còn tự chủ đứng chờ người con đi về với mình nữa, người cha cũng không chờ người con nói lời xin lỗi, nhưng người cha đã chạy tới với người con, ôm lấy con và hôn người con hoang đàng cho dù nó chưa nói lời xin lỗi. Người cha yêu thương người con quá sức, cho dù nó hoang đàng đã bỏ cha bỏ nhà ra đi! Con người được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy sao?! Nếu Thiên Chúa yêu thương con người và ngay cả người tội lỗi vô cùng, thì con người phải có thái độ đối với nhau thế nào cho xứng hợp là con cái Thiên Chúa.
Con người có là gì mà được Thiên Chúa yêu thương và quý trọng như vậy? Giá trị con người là tuyệt vời. Nếu không tuyệt vời, tại sao lại được Thiên Chúa yêu thương và quý chuộng như vậy? Nếu Thiên Chúa yêu thương con người như vậy, con người còn gì phải lo lắng nữa? Thiên Chúa yêu thương con người đến độ ban chính Con của Ngài cho chúng ta, vậy thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ, không phải vì chúng ta tốt, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta, ai giựt chúng ta khỏi tay Ngài được?!
Thiên Chúa nhân từ
Con người yếu hèn mong manh, nay còn mai mất, thế nhưng lại là tạo vật vô cùng quý đối với Thiên Chúa. Qua người tội lỗi được yêu thương, con người nhận biết Thiên Chúa là Đấng nhân từ và yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Ngài chỉ biết yêu thôi, và làm tất cả vì yêu. Ngài không làm bất cứ điều gì cho con người mà không phải vì tình yêu đối với con người. Cụ thể Thiên Chúa không làm gì cho tôi mà không phải vì yêu thương tôi. Phaolô trước khi trở lại, là người tội lỗi. Chính Phaolô đã giữ áo cho những người ném đá thánh Tê-pha-nô. Phaolô đã miệt mài bắt bớ các ki-tô hữu. Biến cố trên đường Đamas xảy ra khi Phaolô đang trên đường truy lùng ki-tô hữu. Tuy vậy, Thiên Chúa vẫn yêu thương và chọn Phaolô, và không chỉ thế, Thiên Chúa còn dùng Phaolô như lợi khí của Thiên Chúa đối với dân ngoại. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tha thứ, nhưng Ngài còn luôn mời gọi người tội lỗi trở lại cộng tác và thực hiện chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.
Bài đọc trong sách Xuất Hành cho thấy tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa tha thứ, để dân Do Thái bắt đầu lại cuộc đời mới, tương quan mới với Thiên Chúa. Đôi khi một vài bản văn của một số sách Cựu Ước làm người ta có cảm tưởng rằng Thiên Chúa không nhân từ bằng Abraham hay Môsê, nhưng đó là cách diễn tả để tôn trọng tính tuyệt đối của Thiên Chúa, chứ chính Thiên Chúa là Đấng đã làm cho Abraham và Môsê như các ông là, để cho dân được hưởng tình yêu nhân từ tha thứ của Thiên Chúa.
Trong mọi bằng chứng diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, Đức Yêsu chết trên thập giá là bằng chứng tuyệt hảo nhất cho thấy Thiên Chúa nhân từ và yêu thương con người. Nếu không yêu thương, tại sao Lời Thiên Chúa lại nhập thể làm người? Nếu không yêu thương, tại sao Ngài phải chịu chết ô nhục như vậy? Thập giá mình chứng tình yêu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đối với những người chán đời và muốn chết, điều gì là quan trọng nhất? 2. Đâu là bằng chứng tuyệt nhất cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người? Tại sao? 3. Làm sao để thành người tuyệt vời? Cụ thể trong cuộc sống thường ngày, làm gì để đáp trả tình yêu Thiên Chúa?
Một hạt giống nhỏ bé nằm ở dưới lòng đất, và bắt đầu nảy mầm. Nhìn thấy những đóa hoa khác, nó tự hỏi, "Không biết mai mốt tôi sẽ nhìn giống hoa gì nhỉ?" "Gương mặt của hoa huệ thì đẹp, lộng lẫy, nhưng hơi lạnh lùng. Còn hoa hồng thì quá sặc sỡ, và cũng quá cổ rồi. Còn đóa hoa tím, tôi sẽ không chọn kiểu hoa ấy đâu, hoặc là cả cái hoa mầu xanh dương."
Và cái hoa nhỏ bé đó đã phê bình đủ mọi thứ hoa cho đến khi nó tỉnh giấc vào một buổi trưa hè nắng khi nó nhận ra mình chỉ là một loại hoa cỏ dại!
Các thánh ký viết Phúc Âm nói cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã bị bè phái Pharisiêu phê phán đủ chuyện cả. Trong bài Phúc Âm hôm nay, họ bàn tán phản đối Ngài là người qua lại với thứ tội lỗi. Trong thời Chúa Giêsu, kẻ tội lỗi được hiểu là người chống lại Thiên Chúa, có thể là cuộc sống vô luân hoặc là đang làm công việc bần tiện. Dĩ nhiên, câu định nghĩa này bao gồm luôn cả những người thu thuế, đĩ điếm, là những người bị phái Pharisiêu xa cách, mà chỉ có Chúa Giêsu thì không.
Thánh Luca kể lại cho chúng ta biết rằng những người thu thuế và kẻ tội lỗi thì đến gần Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng. Còn những người Pharisiêu và luật sĩ thì bàn tán với nhau rằng, "Ông này qua lại và ăn uống với kẻ tội lỗi" (Lc 15:2). Những người Pharisiêu là những kẻ bị gai mắt soi bói rằng: Làm sao mà ông này lại nói về Thiên Chúa với thứ dân này? Chúa Giêsu đã trả lời các ông qua các dụ ngôn.
Dụ ngôn thứ nhất là về người chăn 100 con chiên mà bị lạc mất một con. Anh đã bỏ 99 con kia lại mà đi tìm con chiên bị lạc mất. Khi tìm thấy nó, anh đã vác nó lên vai và trở về nhà vui mừng. Sau đó, anh đã gọi bạn bè lại và ăn mừng. "Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn" (Lc 15:7).
Dụ ngôn thứ hai là người đàn bà có 10 đồng quan, mà chẳng may bà đã đánh mất một đồng. Sau đó, bà đi tìm và tìm thấy nó, bà vui mừng và mời bạn bè đến chia vui (Lc 15:8-9).
Dụ ngôn thứ ba là người con hoang đàng. Anh đã đòi cha của anh chia gia tài và đi chơi phung phí ở phương xa. Sau khi đã xài hết tiền của rồi, hai bàn tay trắng, anh đã trở về với lòng thống hối xin cha anh tha thứ. Người cha đã sẵn sàng tha thứ cho anh mà còn ôm hôn anh. Thế nhưng, người con lớn trong gia đình thì không chút vui vẻ gì đối với thái độ cư xử nhân hậu của cha, anh hậm hực tức tối bởi vì anh đã ở nhà với cha trong khi người em của anh lại đi trụy lạc ở ngoài.
Có lẽ nhiều người sẽ thà chịu mất một con chiên và ở lại với 99 con chiên, hoặc là chẳng để công mà tìm một quan tiền, đàng nào cũng còn 9 quan. Có lẽ nhiều người sẽ đồng ý với thái độ bực tức của người con lớn bởi vì anh đã trung thành ở với cha mình mà lo lắng tất cả những công việc trong nhà.
Hãy thành thật với chính mình đi! Bạn có thấy tiếng từ trong tâm hồn của bạn đang đồng ý với những điều đó không? Đáng lẽ người con trung thành ở nhà với cha, phải đáng giá hơn chứ?
Trong đề tài về giá trị con người, nhà thần học Michael P. Green đã trình bày như sau:
Giả dụ như có một bà mẹ vừa mới sinh ra được một người con. Sau đó, một người đến hỏi bà mẹ đó bán người con đó cho ông. Ông sẽ trả cho bà $10,000 hoặc thậm chí ông có thể trả cho bà cả một triệu đồng. Thế nhưng bà mẹ ấy sẽ vẫn không bán người con yêu quí của mình cho người đàn ông đó. Bà chỉ biết ôm con sát vào lòng và trả lời, "Con của tôi thì vô giá."
Một điều dĩ nhiên là bà mẹ đã đó không suy nghĩ gì đến những vất vả mà bà sẽ phải trả khi phải nuôi lớn đứa con của bà. Bà sẽ phải thay cả đến hơn ngàn cái tã, thức khuya dậy sớm, lo thuốc thang khi nó bệnh. Thế nhưng tất cả những cái khổ cực đó vẫn không là gì bởi vì bà mẹ đó đã chọn cái giá trị của đứa bé đó cao quí hơn là tiền bạc và khó nhọc. Bà đã chọn để yêu người con của bà.
Đáng giá như thế không phải là ở chỗ cái nhìn ở bên ngoài, nhưng là con người. Cái đáng giá đó, phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa, phải là một căn bản cho sự định giá của con người chúng ta.
Trở về dụ ngôn người con hoang đàng, người cha đã có thể mở rộng cánh tay để ôm người con vào lòng là bởi vì ông không nghĩ đến những điều cậu đã làm, nhưng vì cậu là con của ông.
"Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn" (Lc 15:7). Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương kẻ có tội hơn là những người ăn ở tốt lành. Chân lý của Phúc Âm không phải là Thiên Chúa thiên vị yêu kẻ này hơn kẻ khác. Chân lý của Phúc Âm chính là Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta một cách đồng đều. Chân lý đó là tất cả chúng ta đều là kẻ tội lỗi, kể luôn cả những kẻ cho rằng mình tốt lành mà không nghĩ rằng mình cần phải sám hối.
Khi chiêm ngắm người cha nhân hậu, ta khám phá ra khuôn mặt một Thiên Chúa yêu thương.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa khiêm tốn.
Như người cha chấp nhận chia gia sản cho con, chấp nhận để con bỏ nhà ra đi, Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do của con người.
Đấng Toàn Năng đã tự giới hạn quyền năng của mình để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do. Ngài như thể thu mình lại để nhường chỗ cho thụ tạo.
Không phải chỉ con người mới cần cởi giày trước Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng cởi giày trước mầu nhiệm con người, vì lòng con người cũng là phần đất thiêng thánh.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết chờ đợi.
Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con người lìa xa Ngài.
Người Cha vẫn luôn ngóng con từ bên cửa sổ. Lòng Cha luôn hướng về con. Bởi thế ngay khi con còn ở đàng xa, Cha đã thấy. Cha vẫn nhận ra con, dù con xanh xao tiều tụy.
Thiên Chúa không thất vọng về con người. Ngài không bắt ép người ta hoán cải, Ngài chỉ chờ. Ngài chờ vì Ngài tôn trọng tự do của họ.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết tha thứ.
Ngài là Cha yêu con bằng cung lòng người mẹ.
Rõ ràng con thứ thật đáng trách, vì bất hiếu. Nhưng tình thương của Cha còn lớn hơn tội của anh.
Cha thương anh vì anh đã lỗi phạm.
Tội lỗi tự nó đã đem lại hình phạt rồi.
Người cha có vẻ không cần nghe con mình xin lỗi. Sự trở về của anh đã là lời thống hối ăn năn.
"Con ta đã chết, nay đang sống; đã mất, nay lại tìm thấy."
Thiên Chúa không nhớ mãi chuyện đã qua. Điều quan trọng là hiện tại: con đang sống trong vòng tay Cha.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa luôn chạy ra, như người cha chạy ra để đón đứa con thứ, như người cha đi ra để năn nỉ đứa con cả.
Thiên Chúa dường như không yên trong hạnh phúc của mình, nếu có một người con còn đứng ngoài.
Người cha trong dụ ngôn chẳng sợ mất uy nghi, đạo mạo. Ông chạy đến với con, phá vỡ khoảng cách của quyền uy. Quyền uy của người cha là quyền uy của tình yêu, mà tình yêu thi có can đảm vượt qua mọi khoảng cách.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết nhảy mừng.
Thiên Chúa đãi tiệc vì một người ăn năn sám hối.
Nhưng Thiên Chúa nhảy mừng cũng là Thiên Chúa từng đau khổ. Ngài đau nỗi đau của con khi cố tình xa Cha.
Thiên Chúa biết buồn vui với con người và vì con người.
Hãy trở lại và ở lại trong nhà Cha, vì Cha muốn trao cho bạn tất cả những gì Ngài có. Tiệc đã sẵn, vào với Cha cũng là về với anh em.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua bài Tin Mừng này, bạn hãy cho thấy khuôn mặt khiêm tốn của người cha. Bạn thấy Thiên Chúa có khi nào khiêm tốn với bạn không?
Đâu là những nét giống nhau giữa người con thứ và người con cả? Người con cả cần hoán cải về tội gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
1. Bình thường, cha mẹ có còn yêu thương con cái khi chúng bất hiếu hay tệ bạc với mình không? Tại sao? Thái độ của Thiên Chúa thế nào?
2. Giữa hai thái độ: tha thứ và kết án, thái độ nào là thái độ của bậc cha mẹ? thái độ nào có tác dụng làm người tội lỗi trở lại với đường ngay nẻo chính hơn? Những người lãnh đạo trong Giáo Hội, trong các hội đoàn nên có thái độ nào?
Suy tư gợi ý:
1. Thiên Chúa là người Cha đầy tình thương, sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho con cái tất cả mọi lỗi lầm
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dùng một hình ảnh, một câu chuyện cụ thể để mô tả chân dung của Thiên Chúa, vừa là Cha chung của toàn thể nhân loại, vừa là Cha của mỗi người chúng ta. Trong chân dung ấy, có hai đặc tính nổi bật: tình thương vô hạn và sự tha thứ vô điều kiện.
a/ Tình thương vô hạn của Thiên Chúa: Thiên Chúa được Đức Giê-su mạc khải là một người Cha (chắc hẳn nếu phải nói về Thiên Chúa trong một nền văn hóa mẫu hệ thì Ngài sẽ mạc khải Thiên Chúa là một người Mẹ). Cha mẹ nào mà chẳng thương yêu con cái bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc chúng đối xử tệ bạc với mình tới đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ thành hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là: (1) sự tha thứ vô điều kiện, và (2) sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua cả hai cách ấy nơi con người Đức Ki-tô: «Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta» (Rm 5,7).
b/ Sự tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa: Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người con hoang đàng đã đối xử thật tệ bạc với cha, đã rời bỏ cha mẹ mình để đi hoang, không còn biết nghĩ đến nỗi cô đơn, thương nhớ và đau khổ của cha mẹ khi mình bỏ đi, lại còn tiêu tán hết gia sản cha mẹ dành cho mình. Thế mà khi đứa con bội bạc ấy trở về, thái độ của người cha là: khi «anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để» và ngay tức khắc ra lệnh cho «các đầy tớ: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!». Ông làm như đứa con ấy chưa hề phạm một lỗi nhỏ nào đối với mình. Tội lỗi của đứa con hết sức to lớn nhưng ông làm như không nhìn thấy, chỉ nhìn thấy nó đã trở lại với mình, như thể nó «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy». Tình thương, lòng tha thứ và quảng đại chỉ có thể biểu lộ đến thế là cùng.
Chúng ta đã từng nghe nói có biết bao cha mẹ đã đến thăm nuôi đứa con tệ bạc và bất hiếu với mình hiện đang bị tù đày, bất chấp xa xôi, hiểm nguy hay trước đó nó đã làm phiền lòng mình tới đâu. Cho dù cha mẹ đó có là phường xấu xa trộm cướp, cũng vẫn có thể đối xử tốt với đứa con tệ bạc của mình như vậy. Có thế mới là bậc cha mẹ! Có nghĩ như thế, ta mới thấy được ý nghĩa vô cùng sâu xa khi Đức Giê-su mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha Mẹ của chúng ta. Tình thương đầy khiếm khuyết của cha mẹ trần gian còn như thế, huống gì tình thương hoàn hảo của Thiên Chúa! Ngài đã được thánh Gioan định nghĩa là Tình Thương (x. 1 Ga 4,7-8), một tình thương vô hạn của bản tính Thiên Chúa, nên sự tha thứ của Ngài cũng vô hạn. Đây quả là một thông tin hết sức vui mừng và vô cùng quí báu cho tất cả mọi con người, vốn yếu đuối và đầy lầm lỗi!
2. Hãy tin tưởng vào tình thương và sự tha thứ vô bờ bến của Thiên Chúa
Động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với «thân tàn ma dại», cha nó cũng biết nó về vì động lực gì. Nhưng đối với ông, điều ấy không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy». Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó.
Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người con tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa và nói lên lời hối hận: «Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...», thì lập tức trước mặt Thiên Chúa, họ trở thành người vô tội, trở thành con cái trong nhà, được yêu thương, bảo vệ, được hưởng mọi quyền lợi của một người con y như trước. Vì thế, dù ta có phạm một tội tầy đình, nếu ta biết trở về với Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả, và coi ta như con cái hiếu thảo trong nhà.
Mẹ Giáo Hội của chúng ta đã từng có những hành vi như thế. Chẳng hạn, Âu-Tinh, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin Mừng. Thế mà khi trở về với Giáo Hội, Giáo Hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo Hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảng đại ấy của Giáo Hội, Âu-Tinh đã trở nên một vị thánh. Giáo Hội xưa là như thế, Giáo Hội ngày nay thì sao? Thiết tưởng Giáo Hội không nên quá chú trọng đến vấn đề lý lịch hay quá khứ của những người muốn trở về với Thiên Chúa và với Giáo Hội. Chúng ta không nên lấy cớ khôn ngoan để hành xử giống như những thế lực trần gian. Đức Giê-su đã trao cho Giáo Hội quyền tha và buộc (x. Mt 16,19; 18,18), thiết tưởng Giáo Hội nên tha nhiều hơn là buộc, nên có thái độ của bậc cha mẹ yêu thương con cái hơn là thái độ của các quan tòa. Các bậc làm cha mẹ cũng cần có thái độ quảng đại như thế đối với những đứa con hư hỏng. Đọc Tin Mừng, tôi chỉ thấy Đức Giê-su kết án có một loại người duy nhất là bọn kinh sư và biệt phái giả hình hoặc các tiên tri giả mà thôi!
Người con hoang đàng sẽ không dám quay trở về khi đoán rằng cha mẹ mình sẽ không tha thứ, sẽ ruồng rẫy nó khi nó trở về. Nếu biết như thế thì trở về làm gì? Vì thế, nếu cha mẹ vẫn luôn luôn tỏ thái độ yêu thương chăm sóc khi chúng bất hiếu và tệ bạc với mình, thì sẽ khiến chúng trở về với đường ngay nẻo chính hơn là thái độ bỏ rơi, ruồng rẫy chúng. Thái độ kết án, ruồng rẫy chỉ làm cho con cái xa lìa và chống lại cha mẹ mà thôi. Lịch sử Giáo Hội cũng như chuyện đời thường chứng minh điều ấy.
Dụ ngôn người cha và đứa con hoang đàng của Đức Giê-su là một bài học cho nhiều loại người: không chỉ cho những người tội lỗi cần quay trở về, mà còn đề nghị với các bậc làm cha mẹ và với cả những người tốt lành ở trong Giáo Hội cách đối xử với những người con hay anh em đang sống trong lầm lạc tội lỗi. Không nên có thái độ như người anh kém quảng đại trong bài Tin Mừng chỉ biết ganh tị với em, mà không hề tỏ một tâm tình yêu thương gì với cha và với em cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giê-su đã cho con thấy khuôn mặt đầy tình thương và giàu lòng tha thứ của Cha qua dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng. Xin cho con luôn ý thức tình yêu thương ấy của Cha để sẵn sàng quay trở về với Cha ngay khi lầm lỗi, đồng thời cũng luôn luôn bắt chước Cha trong việc quảng đại tha thứ vô điều kiện cho con cái, cũng như cho tất cả mọi người có lỗi đối với con. Amen.
(Xuất hành 32,7-11.13-14; 1 Timôthê 1,12-17; Tin Mừng Luca 15,1-32)
Phúc Âm: Lc 15, 1-32
"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng".
Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy, Tôi bảo các ông: "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Người lại phán rằng: "Người kia có hai con trai. Ðứa em đến thưa cha rằng: 'Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con'. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó muốn hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha'. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: 'Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa'. Nhưng người cha bảo các đầy tớ: 'Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: 'Ðó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ'. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: 'Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó'.
"Nhưng người cha bảo: 'Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy'".
Suy Niệm:
Chúng ta hãy gọi Chúa Nhật hôm nay là Chúa Nhật của lòng thương xót. Thiên Chúa đã xót thương: TN 24-C15
Chúng ta hãy gọi Chúa Nhật hôm nay là Chúa Nhật của lòng thương xót. Thiên Chúa đã xót thương Israen tội lỗi và tha thứ cho họ. Người đã đoái thương thánh Phaolô khi biến đổi một con người hung hăng lùng bắt các tín hữu trở nên vị tông đồ kiệt xuất của Tin Mừng cứu độ. Và Ðức Giêsu trong bài Tin Mừng không những cho chúng ta thấy Người đã xuống thế để đi tìm các chiên lạc là loài người tội lỗi; mà Người còn khẳng định điều đó biểu lộ lòng thương xót của chính Thiên Chúa.
Sau những tuần lễ nói hơn nhiều về các đòi hỏi của Tin Mừng, Phụng vụ hôm nay đem đến cho chúng ta một làn khí mát dịu. Ðành rằng Lời Chúa vẫn không thiếu êm ái và lôi cuốn khi đưa ra các yêu sách của đời sống làm con cái Thiên Chúa và làm môn đệ Chúa Giêsu Kitô; nhưng dù sao những bài Kinh Thánh hôm nay lập tức đã đưa chúng ta vào một bầu khí trìu mến và biết ơn. Chúng ta hãy cố gắng đón nhận hết mọi khía cạnh của lòng thương xót Chúa, tức cũng là nhiệt tâm tìm hiểu hết lời Mạc Khải của Người hôm nay. 1. Dân Ðược Tha Thứ...
Bài sách Xuất hành nghe rất thuận tai. Câu chuyện hấp dẫn: Cấu trúc thông thái khiến chúng ta có thể đoán ngay bài sách đã được viết vào một thời đại văn hóa đã cao. Chắc không phải thời Môsê, nhưng sau thời các tiên tri. Nói cách khác nội dung câu chuyện thời Môsê đã được các nhà thần học sau thời tiên tri viết lại.
Môsê bấy giờ đã ở trên núi Sinai lâu ngày với Thiên Chúa. Dân chúng ở dưới sốt ruột. Họ xin Aharôn đúc cho họ một thần tượng để họ có một tôn giáo như mọi dân tộc khác. Tâm lý của loài người ở cách chúng ta trên dưới 3,000 năm khó giữ vững được tinh thần trong một tôn giáo không có hình tượng nào cả. Mọi dân chung quanh đều có thần tượng của họ. Vì sao con cái Israen lại không có tượng để thờ.
Do đó việc xin Aharôn đúc cho họ một tượng, chẳng qua cũng vì yếu đuối... nhưng vẫn là một xúc phạm tới Thiên Chúa và là một bội phản Giao ước. Thiên Chúa đã buộc họ không được đồng hóa, hình dung Người dưới bất cứ biểu tượng nào, vì Người là Ðấng Thánh, tức là Ðấng khác hẳn mọi sự hữu hình. Vẫn biết người ta không có ý đồng hóa Người một cách hoàn toàn với hình một con bê đâu. Những tâm trí sáng suốt vẫn chỉ nghĩ Người đứng trên một con vật như thế. Nhưng với đa số quần chúng có não trạng thô sơ thời bấy giờ bê bò là những con vật có sức mạnh. Từ quan niệm Thiên Chúa ngự trên Ngai mạnh mẽ uy dũng, họ dễ tưởng tượng Người ở trong sức mạnh của con vật biểu tượng kia. Tượng bò bê trở thành hình ảnh của Thiên Chúa uy dũng.
Aharôn biết như vậy. Nhưng ông yếu đuối không dám đi ngược ý dân. Thiên Chúa thấy cần phải chặn đứng chiều hướng xuống dốc của dân ưu tuyển. Người bảo Môsê phải xuống lại với dân. Và có lẽ ở đây các thần học gia Do Thái sau thời tiên tri đã góp thêm ý kiến của mình vào. Họ thấy con cái Israen đã bội phản liên tiếp trong suốt lịch sử, kể từ ngày đúc tượng tại Sinai. Họ nhìn thấy Thiên Chúa đã nhiều lần trừng phạt dân phản loạn này. Nên ở đây sau khi nói Thiên Chúa thấy dân bội phản, họ viết luôn rằng Người tỏ ý phẫn nộ muốn tiêu diệt dân cứng cổ để làm một dân mới khởi xuất từ Môsê.
Nhưng ông này đã tỏ ra là một người thánh, xứng đáng trở thành hình ảnh của Ðức Giêsu Kitô sau này. Môsê đứng ra van xin Thiên Chúa cho dân. Xin Người đừng mâu thuẫn với Người. Người đã không tuyển chọn Israen sao? Thiên hạ sẽ không nói rằng Người đã thất bại khi giải cứu họ ra khỏi Ai Cập sao? Và lời hứa với Abraham sẽ thế nào, vì ông đã được đoan chắc có miêu duệ đông đúc chiếm hữu đất chảy sữa và mật?
Môsê đã không bao biện cho dân tội lỗi. Ông không thấy mình xứng đáng là tổ phụ một dân mới, vì có gì chắc dân này sẽ không cứng cổ. Ông chỉ nhìn vào chính Thiên Chúa, nại đến chính tình thương xót của Người đã tỏ lòng ưu ái nhưng không khi chọn Israen, khi cứu dân này và khi cam kết cho họ có tương lai rực rỡ... Ông đã nói đúng vào trái tim của Thiên Chúa, Ðấng đã yêu thương loài người và không thể bỏ rơi họ, huống nữa là tiêu diệt họ.
Lời van xin của Môsê vì thế đã hiệu nghiệm. Nó báo trước hậu quả lớn lao hơn nữa của lời nguyện xin của Ðức Giêsu Kitô trong Mầu nhiệm Thập giá. Thiên Chúa không thể bỏ rơi bản tính loài người mà Người đã kết hợp nơi Ðức Giêsu Kitô, cho dù bản tính ấy đang mặc hình thức tội nhân. Niềm tin này khiến hết thảy tội nhân chúng ta chạy đến với Ngai ân sủng là thánh giá Chúa Giêsu Kitô để ở nơi Người luôn luôn chúng ta lãnh nhận được ơn cứu độ. Chính Người hôm nay làm chúng ta tin tưởng biết bao trong bài Tin Mừng Luca mà giờ đây chúng ta muốn tìm hiểu. 2. Phải Vui Mừng!
Bài sách tuy dài nhưng có một chủ ý rõ rệt: chúng ta hãy vui mừng với Thiên Chúa khi thấy anh em lầm lạc trở về đường ngay chính. Chúa Giêsu nói với chúng ta như vậy, nhân một câu chuyện xảy ra trong đời Ngài. Hôm ấy Ngài đang giảng dạy. Có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến gần để nghe. Các biệt phái và luật sĩ, tỏ vẻ khó chịu. Họ vẫn sống trong kỳ thị. Những người không như họ đều không đáng tham dự các hồng ân của Thiên Chúa. Họ nói lên tâm trạng âm thầm của chúng ta. Ðối với chúng ta, những người khác với chúng ta cũng không đáng được các ân huệ của Thiên Chúa. Chúng ta thường có não trạng của người con cả trong bài Tin Mừng. Anh ta so đo tính toán. Anh nói: Ðã bao năm con hầu hạ Cha mà Cha không bao giờ cho riêng một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn, còn với thằng con của Cha kia (anh ám chỉ đứa em phung phá) Cha lại sai làm thịt con dê béo ăn mừng...
Lời Chúa Giêsu hôm nay muốn nói với những kẻ giữ đạo có não trạng so đo hơn thiệt và kỳ thị phân chia loài người thành tốt xấu như vậy. Lời Chúa nhiều ít nói với chúng ta hết thảy.
Chúa Giêsu dùng ba dụ ngôn để diễn tả ý nghĩ của Người. Câu chuyện mất chiên và câu chuyện mất tiền giống nhau hầu như hoàn toàn. Tự nhiên ai mất như vậy cũng đi tìm, và tìm được tự nhiên ai cũng vui. Nhưng điều khác với tự nhiên và hơn hẳn tự nhiên, là ở trên trời và Chúa Trời hân hoan khác thường khi thấy một người tội lỗi trở lại. Và điều khác thường này được Chúa Giêsu nói lên khi kể chuyện người tìm được chiên và tiền đã kêu gọi các người lân cận "hãy chia vui, chia mừng với tôi" vì tôi đã tìm thấy của đã mất. Thường ra người ta không làm như vậy, mặc dù thâm tâm người ta có niềm hân hoan đó. Chúa Giêsu bảo: "Nước Trời ở trong lòng các ngươi...". Và trên trời người ta sống thật sự chân lý sâu xa đó, nghĩa là trên trời các thần thánh vui mừng khôn tả khi thấy một người tội lỗi ăn năn.
Như vậy bài Tin Mừng đã đi xa hơn bài Cựu Ước. Bài sách Xuất hành đã cho chúng ta thấy một Thiên Chúa nguôi giận, không trừng phạt dân tội lỗi. Bài viết của Luca biểu lộ lòng hân hoan của Thiên Chúa khi thấy người ta hối cải. Hơn nữa Người còn muốn mọi người chia sẻ niềm vui to lớn của Người.
Nhưng loài người thường khó thi hành điều này. Họ thường là người con cả trong dụ ngôn thứ ba. Biệt phái và luật sĩ đã khó chịu khi thấy thu thuế và tội lỗi đến nghe lời Ðức Giêsu. Người Do Thái sau này sẽ bực tức khi nghe nói Phaolô quyết tâm đi giảng đạo cho lương dân. Chúng ta ngày nay không muốn cho kẻ mình không ưa thích được những sự lành. Chúng ta luôn có đầu óc kỳ thị và tính toán so đo, ngay trong phạm vi tôn giáo. Chúng ta giữ đạo để được ban riêng cho những ơn mà mình nghĩ Thiên Chúa đừng ban cho kẻ "khác". Chúng ta hãy nghe lời Thiên Chúa nói qua miệng lưỡi người Cha trong dụ ngôn.
"Hỡi con, con luôn ở với Cha và mọi sự của Cha đều là của con". Nghĩa là giữa Thiên Chúa và chúng ta không có quan hệ làm thuê ở mướn nữa; nhưng đã là Cha-Con trong nhà thì tất cả đã nên của chung. Chân lý này, người Cha trong dụ ngôn cũng đã nói với đứa con phung phá. Anh ta trở về chỉ muốn được xử như một người làm công. Nhưng người Cha chỉ muốn nhận anh như là con.
Chúng ta hãy suy nghĩ nhiều về chân lý này để sống thân mật hơn với Thiên Chúa chứ đừng giữ đạo vì óc lợi lộc, biến tôn giáo thành một thứ mặc cả mua bán, làm con người cư xử như nô lệ đối với Thiên Chúa, đang khi chính Người đã muốn kết hợp với con người trong một thân thể để sống mật thiết với họ bằng tình yêu.
Và đã không hiểu biết tình Cha, nên người con cả cũng không hiểu biết tình anh em. Anh ta nói với Cha về người em rằng: còn thằng con Cha kia..., anh bộc lộ tâm trạng của anh. Anh khó chịu thấy Cha lấy tình phụ tử xử với thằng tội lỗi ấy mà bây giờ cũng như đã từ lâu anh không nhận nó là anh em nữa. Anh ta đã nói lên não trạng hèn hạ của loài người sánh với lòng thương cao cả của Thiên Chúa. Anh đã cho chúng ta thấy rõ tâm lý loài người đã chê chối nhau và phủ nhận nhau là anh em đồng bào.
Thiên Chúa hôm nay không phải chỉ muốn biểu lộ tình thương lạ lùng của Người, mà còn muốn chúng ta nhìn lại nhau như anh em một nhà. Người nói qua miệng người Cha trong bài dụ ngôn: Hỡi con, phải ăn tiệc vui mừng vì em con (chứ không phải là thằng ấy, thằng con của Cha chứ không phải là em của con), em con đã chết nay sống lại, đã mất nay đã tìm thấy.
Thế nên khi gọi bài Tin Mừng hôm nay là chuyện thằng con phung phá hay là chuyện về tình Cha hay thương xót, chúng ta đừng quên nhớ đây là bài học Chúa dạy cho chúng ta hãy nhìn nhận nhau lại như anh em một nhà, như đồng bào cùng một khúc ruột; và chúng ta hãy sống vui mừng hớn hở với nhau cũng như trên trời đang sung sướng vì loài người nay đã được cứu chuộc trong Ðức Giêsu Kitô.
3. Noi Gương Thánh Phaolô
Thánh tông đồ trong bài thư hôm nay rõ ràng có sự vui mừng mà Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hô hào chúng ta phải có. Ðọc đoạn thư này chúng ta thấy lòng thánh Phaolô sung sướng lạ lùng. Người cảm tạ Thiên Chúa cách rất trung thành sâu xa, vì Người đã được lòng thương xót của Chúa. Nếu Thiên Chúa đã không thương xót Người, thì Phaolô suốt đời sẽ là Saul, một kẻ rất thông thái nhưng chẳng hiểu biết Chúa và do đó cũng chẳng hiểu biết anh em và luôn lùng bắt sát hại đồng bào của mình. Saul thời trước cũng là biệt phái, sống với não trạng và thái độ kỳ thị; chỉ có mình và phe của mình là đáng được hưởng ân huệ của Thiên Chúa và của hạnh phúc; còn những kẻ khác, thuộc bọn ấy, không xứng đáng và đáng diệt đi. Nhưng Saul đã xử sự như vậy vì không biết. Ông không biết Chúa là Ðấng Thương xót mà cứ nghĩ là Ðấng thưởng phạt. Chúng ta có thể đọc lại câu chuyện người biệt phái lên đền thờ cầu nguyện. Rõ ràng não trạng tôn giáo của biệt phái, của Saul là tôi giữ đạo thì đáng được thưởng; còn kẻ thu thuế tội lỗi kia chỉ đáng phạt. Lầm lẫn về Chúa, sinh ra sai lỗi về đồng bào, kỳ thị người khác và hết coi họ là anh em.
Nhưng Saul đã nhận được lòng thương xót của Chúa. Ông thấy Ðức Giêsu tiếp đón các tội nhân ngày trước, bây giờ là Chúa. Chúa tỏ cho ông biết điều này là để ông hiểu rằng Thiên Chúa đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban Con Một Người xuống thế để cứu chuộc tội nhân. Lập tức thay vì đứng đối lập với những người mà xã hội lên án là có tội, ông đã gia nhập hàng ngũ của họ để được hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa. Ông đã không xử giống như người con cả trong bài Tin Mừng: thấy người Cha thương yêu đón nhận người em đã mất nay tìm lại được, anh ta đã không muốn chia sẻ tình thương, khiến tâm hồn càng trở nên gay gắt đến nỗi phủ nhận cả em mình. Saul đã không làm như vậy. Ông thấy lòng thương xót của Chúa ở đâu, ông chạy đến đó và ông đã được thương xót. Và chính khi ông trở thành thánh Phaolô: nhận ra lòng Chúa thương xót mình quá đỗi nên từ nay chỉ còn biết cao rao lòng thương xót ấy. Phaolô trở nên tông đồ rao giảng Tin Mừng này là: Thiên Chúa đã xót thương nhân loại nên đã sai Con Một của Người đến cứu chuộc những người có tội, mà tiêu biểu là chính Phaolô.
Tất cả chúng ta đều có thể là những tông đồ như vậy vì hết thảy chúng ta đã là tội nhân và đã được thương xót. Tất cả chúng ta phải trở nên những tông đồ như Phaolô nếu chúng ta biết noi gương Người đón nhận ơn Chúa. Không những chúng ta luôn vui mừng vì ơn cứu độ, mà còn ý thức về lòng thương xót vô biên của Chúa đối với mình, chúng ta sung sướng muốn chia sẻ tình thương đối với mọi người. Không còn não trạng tính toán so đo nữa, chúng ta cũng bỏ hẳn óc kỳ thị và phủ nhận anh em. Chúng ta luôn theo gương Chúa Giêsu Kitô không chê chối loài người tội lỗi, nhưng đã đến ở giữa, trở nên anh em của họ, và cứu chuộc họ trong thái độ khẩn nài trong mầu nhiệm thập giá.
Giờ đây trên bàn thờ Chúa Giêsu Kitô, không phải chỉ như Môsê ngày trước. Không những Người van xin Thiên Chúa cho chúng ta, Người còn dùng Lời nói trong Kinh Thánh kêu gọi chúng ta đón nhận tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Người dâng mình chịu chết cho loài người để kết hợp chúng ta vào ý chí cứu độ của Thiên Chúa hầu thôi thúc chúng ta hãy nhìn lại mọi người như anh em đồng bào.
Tham dự mầu nhiệm cứu thế nơi bàn thờ như vậy không những là trở nên con cái Thiên Chúa một cách hoàn toàn hơn mà đồng thời cũng trở thành anh em với nhau mặn mà hơn trong tình thương xót của Thiên Chúa.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Suy nghiệm kỹ hai bài Phúc Âm, bài của Chúa Nhật XXIII Mùa Thường Niên Năm C tuần trước và bài của Chúa Nhật XXIV Mùa Thường Niên Năm C tuần này, chúng ta thấy ý nghĩa của hai bài Phúc Âm này rất ăn khớp với nhau. Nếu trong bài Phúc Âm tuần trước Chúa Giêsu khuyên dạy đối tượng muốn theo Người phải “từ bỏ chính bản thân mình”, thì trong bài Phúc Âm tuần này, Người lại diễn tả tâm tưởng của Người về đối tượng không chịu “bỏ mình” theo Người, tức lạc xa Người, là “Tôi đã tìm thấy con chiên thất lạc… tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất”. Đúng thế, theo lời Chúa Giêsu ở bài Phúc Âm tuần trước, con người có trách nhiệm phải chủ động bỏ mình đi và vác thập giá mới có thể theo Người, tức mới có thể đến cùng Cha, mới có thể hiệp thông với Thiên Chúa. Trái lại, trong bài Phúc Âm tuần này, dù con người không thể hay không chịu theo Chúa, không thể hay không chịu đến với Người, vì không chịu hay không thể bỏ mình và vác thập giá theo Người, mà chính Người đã phải chủ động và tích cực đi tìm họ cho đến khi gặp được họ, để có thể dẫn họ về với Cha, nghĩa là Người đã tự bỏ mình và vác thập giá theo đuổi họ, thay vị họ phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người. Chính vì thế, trong bài chia sẻ tuần trước, chúng ta đã cùng nhau cảm nghiệm là: “Thiên Chúa chẳng những đã ‘bỏ mình đi’, khi ban Con Một Ngài cho chúng ta, để có thể đến với chúng ta nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể, Ngài còn phải ‘vác thập giá’, khi phó nạp Con Ngài vì chúng ta qua Mầu Nhiệm Vượt Qua, để có thể cứu độ chúng ta và ban Thánh Linh hiệp thông cho chúng ta”.
Ở đây, qua bài Phúc Âm hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa hơn là nhấn mạnh đến phản ứng của tội nhân đối với Ngài. Sự kiện đề cao thái độ chủ động của Thiên Chúa khoan dung, hơn là phản ứng của tội nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, được hiện tỏ qua hai bài đọc một và hai. Đó là lý do, Giáo Hội chỉ buộc đọc hai dụ ngôn, dụ ngôn thứ nhất về việc chủ chiên tìm thấy con chiên lạc duy nhất trong đàn 100 con, và dụ ngôn thứ hai về người đàn bà tìm thấy đồng bạc bị mất duy nhất trong 10 đồng. Ngoài ra, chúng ta cũng có thể đọc dụ ngôn thứ ba về người con hoang đàng, nhưng lại là đoạn Phúc Âm được Giáo Hội để trong ngoặc đơn, nghĩa là không buộc đọc. Tại sao? Theo tôi, tại vì hai lý do sau đây. Thứ nhất là vì dụ ngôn thứ ba liên quan đến thái độ chủ động thống hối của người con hoàng đàng hơn thái độ thứ tha của người cha, do đó mới có lý do thứ hai, lý do là vì dụ ngôn thứ ba này nói đến thái độ người cha chờ con về chứ không tự động đi tìm kiếm nó, như thái độ của người chủ chiên đi tìm chiên lạc hay như thái độ của người đàn bà tìm của mất ở hai dụ ngôn trước. Tuy nhiên, nếu chỉ để ý đến khía cạnh Thiên Chúa chấp nhận con người, dù con người tội lỗi đi nữa, thì dụ ngôn về người con hoang đàng cũng hợp với dụ ngôn chiên lạc và đồng bạc mất. Thật vậy, qua bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXIV Năm C tuần này, chúng ta thấy được giá trị hết sức cao cả của bản thân mỗi một con người tạo vật chúng ta trước nhan Thiên Chúa hằng sống vô cùng toàn thiện. Việc Thiên Chúa yêu thương tìm kiếm con người nói chung và từng người nói riêng cho chúng ta thấy con người tạo vật chúng ta, chung cũng như riêng, thực sự là loài được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự như Ngài. Không phải hay sao, nếu Thiên Chúa Duy Nhất nhưng lại một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần, thì con người cũng thế, cho dù đều là con người như nhau, song mỗi con người lại là một ngôi vị riêng biệt, một chủ thể biệt lập, chứ không phải chỉ là một khối đồng thể như nơi loài thú vật?
“Thiên Chúa là tình yêu”, như Vị Tông Đồ được Chúa Giêsu yêu định nghĩa trong Thư Thứ Nhất của mình ở đoạn 4 câu 8 và 16, đã chẳng những “yêu (chung) thế gian đến ban Con Một mình” (Jn 3:16), mà còn yêu riêng từng người đến trong thế gian nữa; và Ngài chẳng những yêu họ khi họ đã vào đời mà còn yêu họ ngay cả trước khi họ nhập thế nữa, khi họ còn trong lòng mẹ nữa, như chính Ngài đã phán cùng tiên tri Giêrêmia, vị đã ghi nhận sự thật cảm kích này ở đoạn 1 câu 5: “Trước khi Ta hình thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, trước khi ngươi được sinh ra, Ta đã thánh hiến ngươi, Ta đã chỉ định ngươi làm tiên tri cho các dân nước”. Chưa hết, “Thiên Chúa là tình yêu” chẳng những yêu thương mỗi một người chúng ta chỉ vì chúng ta là tạo vật của Ngài, một tạo vật được Ngài dựng nên hoàn toàn tốt lành ngay từ ban đầu, nghĩa là khi chúng ta còn ngây thơ vô tội chưa biết đến tội lỗi là gì, mà còn yêu thương chúng ta cả khi chúng ta “là những tội nhân” nữa, như Vị Tông Đồ Dân Ngoại xác nhận trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 5 câu 8. Đó là lý do, ngay sau khi sa ngã phạm tội, hai nguyên tổ của loài người chúng ta, lúc hai vị còn đang đổ lỗi cho nhau, không hề biết mở miệng xin Chúa thứ tha, thì chính Ngài đã tự động tuyên hứa cứu độ cho chính thành phần tạo vật phản nghịch Ngài rồi, như Sách Khởi Nguyên ghi lại ở đoạn 3 câu 15. Trường hợp “Thiên Chúa là tình yêu” yêu thương chúng ta khi chúng ta “là những tội nhân” còn được thể hiện tỏ tường qua việc Ngài tha không tận diệt dân Do Thái nữa, đám dân đã thực sự bỏ Ngài là Đấng họ đã tận mắt chứng kiến thấy Ngài ra tay uy quyền để cứu họ ra khỏi cảnh làm tôi Ai Cập, mà quay đầu đi tôn thờ con bò vàng đúc do họ tạo nên, như Sách Xuất Hành thuật lại trong bài đọc thứ nhất hôm nay. “Thiên Chúa là tình yêu” yêu thương chúng ta khi chúng ta “là những tội nhân” chẳng những được thể hiện qua việc thứ tha cho cả loài người ngay từ ban đầu, hay cho cả một dân tộc, như trường hợp Dân Do Thái trong bài đọc một hôm nay, mà còn cho từng con người chúng ta nữa, như trường hợp của chính Vị Tông Đồ Dân Ngoại, qua những gì ngài chia sẻ với Timôthêu trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Chúa Giêsu Kitô đến thế gian để cứu các tội nhân. Trong số đó, cha là đệ nhất tội nhân”.
Ôi, như thế thì Thiên Chúa đã chẳng yêu thương chung loài người tạo vật vô cùng thấp hèn chúng ta và mỗi con người tội nhân vô cùng bất xứng của chúng ta cho đến cùng hay sao? Mức độ “cho đến cùng” nơi tình yêu Thiên Chúa tỏ ra qua Chúa Giêsu Kitô đây, như Thánh Ký Gioan viết trong Phúc Âm của mình ở đoạn 13 câu 1, theo tôi, không liên quan đến chủ thể yêu là Thiên Chúa, mà là đến đối tượng yêu là tội nhân chúng ta. Bởi vì, đối với “Thiên Chúa là tình yêu” thì một khi yêu là Ngài yêu bằng cả tấm lòng của Ngài, một tình yêu tuyệt đối thủy chung, yêu từ đầu đến cuối, “yêu đến cùng”, chứ không yêu dang dở, yêu từ từ, yêu có hạn, yêu bập bềnh lên xuống tùy theo đối tượng có đáng yêu chăng, hay đáng yêu bằng nào hoặc đáng yêu lúc nào v.v. Đó là lý do Thiên Chúa vẫn yêu loài người chúng ta cả khi chúng ta “là những tội nhân”. Và cũng chính vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta “là những tội nhân” mà Người đã yêu “cho đến cùng”. “Cho đến cùng” ở đây không phải chỉ được hiểu “Thiên Chúa là tình yêu” tỏ lòng xót thương với chung loài người tội lỗi chúng ta, mà còn được hiểu là Ngài yêu thương cho đến tội nhân cuối cùng trong chúng ta, hay cho đến con người “đệ nhất tội nhân” trong chúng ta nữa. Đó là lý do Thánh Ký Gioan, sau khi cảm nhận “Người đã yêu thương thành phần thuộc về mình trên thế gian và muốn tỏ cho họ thấy Người yêu họ cho đến cùng”, liền nói ngay đến tông đồ Giuđa Ích-Ca: “Ma quỉ đã cám dỗ Giuđa trong việc phản nộp Người”, rối chính thánh nhân dùng câu “không phải mọi người đều sạch cả đâu”, câu Chúa Giêsu nói với tông đồ Phêrô, để ám chỉ về tông đồ Giuđa là: “vì Người biết kẻ phản nộp mình”. Như thế, Chúa Giêsu “đã yêu những kẻ thuộc về mình trên thế gian và Người cho họ thấy rằng Người yêu họ cho đến cùng” ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu yêu cả Giuđa là kẻ Người biết trước là sẽ phản nộp Người, bằng việc Người cũng cúi mình xuống rửa chân cho cả Giuđa nữa vậy.
Nếu qua Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô, “Thiên Chúa là tình yêu” đã yêu thương nhân loại tội nhân chúng ta “cho đến cùng”, tức là cho đến con người “đệ nhất tội nhân” trong chúng ta, hay cho đến con chiên lạc duy nhất trong đàn 100 con, cho đến đồng bạc duy nhất bị mất trong số 10 đồng bạc, thì quả thực, như Chúa Giêsu quả quyết với các môn đệ của Người trong Bữa Tiệc Ly, ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 1 và 2, là: “Lòng các con đừng bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin tưởng nơi Thày. Trong nhà Cha thày có nhiều chỗ ở lắm”. Chúng ta hãy nhớ rằng, Chúa Giêsu phán lời này ngay sau khi Người báo trước cho Phêrô biết sự việc Phêrô sẽ chối bỏ Người. Như thế có nghĩa là, dù chúng ta là ai và có tội lỗi đến đâu đi nữa, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, yêu thương từng người chúng ta, tức mỗi một người tội nhân chúng ta bao giờ cũng có chỗ của mình trong cung lòng yêu thương vô biên bất tận của Thiên Chúa. Miễn là, phải, miễn là tội nhân chúng ta biết hết lòng tin tưởng vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài, đừng bao giờ hồ nghi tình Ngài yêu thương chúng ta “cho đến cùng”. Như thế, “hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin tưởng nơi Thày” chính là lời Con Thiên Chúa mời gọi “người ta từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa” vậy. Thành phần từ đông tây nam bắc được Chúa Giêsu nhắc đến trong Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật Thường Niên XXII Năm C cách đây 2 tuần này không phải là thành phần “khi được mời thì đến ngồi vào chỗ thấp nhất” hay sao? Điển hình là con người đã thành thực cảm nhận trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Chúa Giêsu Kitô đến thế gian để cứu các tội nhân. Trong số đó, cha là đệ nhất tội nhân”, hay con người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 18 câu 13: “không dám ngẩng đầu lên trời. Chỉ biết đấm ngực mà thưa: ‘Ôi lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi’”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIV Mùa Thường Niên Năm C theo Phúc Âm Thánh Luca hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa thực sự yêu thương con người tạo vật chúng ta “cho đến cùng”. Ở chỗ, qua Con Một của mình, Ngài đã đến để tìm kiếm chung loài người chúng ta cũng như riêng từng người chúng ta trong khi chúng ta “là những tội nhân”. Vì mỗi một con người chúng ta là một ngôi vị, một chủ thể, chứ không phải là thú vật, là một khối đồng thể, (tức là loài có thể cloning hay có thể được tạo sinh theo phương pháp vô tính dục), do đó, Thiên Chúa không thể yêu thương thế gian mà lại không yêu thương từng người chúng ta, hay yêu thương riêng cá nhân hơn tập thể loài người, như Ngài có vẻ tỏ ra như thế trong bài đọc một hôm nay. Tuy nhiên, dù là một ngôi vị riêng biệt, chúng ta cũng là một con người thuộc về loài người, loài được Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã làm người như loài người chúng ta. Phải chăng vì thế mà chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu chúng ta, và phải tha thứ cho nhau như Ngài đã thứ tha cho chúng ta.
Niềm vui khi tìm gặp lại, thiết tưởng ai cũng đã sống trải qua trong đời. Cha mẹ gặp lại con cái sau lâu ngày đi làm hay đi học xa nhà. Vợ chồng gặp lai nhau, vì hoàn xa cách do chiến tranh gây ra, do tỵ nạn di cư mỗi người lạc một nơi. Bạn bè tìm thấy nhau sau thời gian cùng chung học mỗi người lưu lạc mỗi phương trời...
Còn nỗi vui mừng nào lớn lao hơn nữa, khi gia đình, bạn bè, đồng hương được xum hợp, đất nước được thống nhất không còn chia cắt hai miền Nam Bắc năm xưa ở bên quê nhà Việt Nam, năm 1989 khi bức tường Bá Linh sụp đổ không còn chia cắt hai miền đất nước Đông Tây nữa, khi người Đại Hàn ở miền Nam được sang tìm gặp lại thân nhân của mình ở miền Bắc nước Triều Tiên...
Đức Mẹ Maria và bà thánh Elisabét vui mừng hân hoan gặp lại nhau. Họ mừng rỡ chúc tụng nhau và cảm tạ Thiên Chúa (Lc 1:39-45)
Đức Mẹ Maria và Ông thánh Giuse lo lắng âu sầu đi tìm trẻ Giêsu đi lạc. Khi tìm gặp lại con mình, niềm vui mừng của Ông Bà biểu lộ qua sự ngạc nhiên, vì thấy con mình chững chạc ngồi nói chuyện với những người thông thái. Hai Ông Bà thở ra nhẹ nhàng và thốt lên lời biểu lộ niềm vui mừng âu yếm thương con: “Con ơi, sao con lại xử với Cha Mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:41-48)
Khi tìm gặp lại người thân yêu hay đồ vật quí báu đã lâu ngày thất lạc, tưởng như đã mất, lúc đó niềm vui mừng hân hoan không chỉ dào dạt trong trái tim trí não, nhưng hiện lộ ra trên gương mặt, nơi khoé mắt.
Niềm vui mừng đó có thể biến thành giòng nước mắt sung sướng hạnh phúc vì quá cảm động không nói nên lời và chỉ còn biết giang tay đón nhận. Như người cha con nhân lành mừng mừng tủi tủi giang đôi tay ôm hôn cậu ấm trở về bình an. (Lc 15:11-32).
Niềm hạnh phúc đó biến đổi gương mặt thành sáng rực đỏ chói, không phải vì xấu hổ, nhưng là dấu hiệu của sung sướng hạnh phúc đang sôi sục dâng tràn trong tâm hồn.
Niềm hân hoan sung sướng có thể là tiếng cười dòn đã vang tiếng, là lời khoe báo tin mừng cho mọi người. Như người mục đồng tìm thấy lại con chiên, con trâu, con bò, con dê của mình đi lạc đàn. Như một bà lão sống cảnh đạm bạc nghèo khó chiu chắt tiết kiệm từng đồng xu cắc bạc, lo âu quét nhà soi đèn mò mẫm tìm thấy lại đồng bạc đã mất. Vì đồng bạc này có thể giúp bà mua được gạo, được thức ăn cho ngày sống (Lc 15:1-10).
Vui mừng sung sướng hạnh phúc vì của châu báu hay người mình quý mến thương yêu đã thất lạc xa vắng, nay lại tìm gặp thấy.
Đó cũng là nỗi vui mừng hân hoan của Thiên Chúa, Đấng sinh thành nuôi dưỡng đời con người, khi chúng ta từ bỏ điều xấu xa tội lỗi sống theo điều thiện, theo giới răn Tình Yêu như Chúa muốn: “Triều Thần Thiên Chúa, ai nấy vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (Lc 15:10).
Theo một bản thống kê đư ợc đăng trên tờ Tablet (12/1996): hàng năm tại Anh quốc có khoảng 250 ngàn người thuộc mọi lứa tuổi bị mất tích, vì đủ thứ lý do. Một cơ quan bác ái chuyên về tìm người thất lạc được thành lập năm 1992, hoạt động liên tục 24 giờ một ngày, 365 ngày một năm, và hiện nay vẫn đang phát triển không ngừng.
Riêng tại Hoa kỳ, mỗi năm, có khoảng 50 ngàn đứa bé được ghi nhận mất tích. Trong số đó, 5 ngàn em bị thiệt mạng trước khi được tìm thấy xác. Tại nhiều quốc gia, người ta không thể đưa ra con số chính xác về các vụ mất tích. Có nơi chính phủ chỉ thành lập các chương trình tìm kiếm xe mất cắp, các đồ vật bị đánh rơi, hay quà cáp thư từ bị giao sai chỗ, chứ không hề có chương trình tìm người thất lạc.
Nguyên nhân gây nên tình trạng mất tích hay thất lạc thì vô số, nhưng các chuyên gia xã hội tóm tắc vào ba điều căn bản sau đây: 1) bị bắt cóc bởi các cha mẹ không còn chung sống với nhau; 2) là nạn nhân của các tội ác bạo động trong xã hội; 3) bỏ nhà ra đi vì không tìm thấy hạnh phúc gia đình.
Dù khởi đi từ nguyên nhân nào, sự thất lạc cũng đều gây cho người ở lại một nỗi xót xa nuối tiếc. Của thất lạc càng quí thì niềm tiếc nuối càng da diết, càng thúc đẩy một cuộc kiếm tìm. Càng tha thiết gắn bó với của bị mất bao nhiêu càng làm cho nỗi vui mừng thêm chất ngất khi tìm gặp lại bấy nhiêu.
Nhớ nhung, xót xa, nuối tiếc, kiếm tìm, hân hoan, hạnh phúc… tất cả diễn tả tâm tình của một người Cha nhân từ đối với đứa con "bị lạc" nhưng nay lại "tìm thấy," "bị chết" mà nay đã "phục sinh." Nỗi niềm đó được trình bày trong ba dụ ngôn: "Con Chiên Lạc," "Đồng Bạc Mất," và "Người Con Hoang Đàng."
Các dụ ngôn, với cấp độ đi lên, từ con vật đến đồng tiền rồi đến con người, và cấp số giảm xuống từ 100 đến 10 rồi còn 2, đã nói lên giá trị quí báu của từng con người trong đôi mắt yêu thương của Thiên Chúa. Đối với Ngài, ai cũng có một phẩm giá riêng biệt. Không phải vì con số 99 quá lớn mà chấp nhận bỏ đi số "1" nhỏ nhoi.
Với người giàu, một đồng nào có nghĩa lý gì, công đâu bỏ ra để bới tìm một đồng cho phí giờ, nhọc thân. Trên thế gian có biết bao nhiêu sinh linh, hà cớ chi phải lao đao vất vả vì một kẻ tội đồ. Chắc hẳn những người biệt phái nghĩ thế. Nhưng Chúa Giêsu nghĩ khác. Ngài ví mình như một người rất nghèo, thiếu thốn những tâm hồn sám hối, khao khát tìm lại những gì thất lạc để đưa về với nẻo chính đường ngay. Phải chăng vì "nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở", hay vì lòng Cha quá quảng đại bao dung mà thêm một tâm hồn lầm lạc trở về, thì lòng Ngài lại mừng vui sung sướng: "Bà con hãy chia vui với tôi… Bà con hãy vui mừng cùng tôi… Chúng ta phải ăn khao mới được" (Lc 15:6,9,23).
Những "con chiên lạc đàn" được ví như những chiếc tàu không bánh lái hay mất hướng đi. Hành trình lầm đường này có thể xảy ra do sự u mê của chính nó, nhưng cũng có khi vì không được quan tâm chỉ dẫn đúng mức.
Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con dê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng cũng chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tieng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu rít đầy lôi cuốn của xác thịt.
Sai lạc nào cũng cần chỉnh đốn. U mê nào cũng cần ánh sáng chiếu soi. Nhưng có thứ ánh sáng nào ấm đẹp cho bằng yêu thương. Vì có yêu thương mới có tìm kiếm chiên, cõng lên vai, đem về nhà. Có yêu thương, người ta mới ngóng trông, đón nhận, dung thứ, ăn mừng. Nhờ yêu thương mà chiên lạc thành chiên ngoan và con đi hoang lại tìm được mái ấm gia đình.
Cách đây không lâu, Nhật báo Người Việt có đăng một bản tin: Vào một ngày tối trời tháng Ba năm 1999, đang lúc xem TV trong nhà, bà Huỳnh P. T. Vân tại Bà điểm Hóc môn chợt nghe tiếng chó sủa dữ dội. Bà vội mở cửa xem thì khám phá một em bé trai sơ sinh trần trụi, đang nằm dưới hàng dậu trước nhà. Đứa bé dường như mới chào đời, cuống rốn còn nguyên chưa ai cắt, mình mẩy dính đầy cát, kiến đang bắt đầu bu lại, và đôi chân tím bầm.
Hốt hoảng, bà vội bế đứa bé vào nhà và tìm cách đưa ngay đến bệnh xá trong huyện. Sau khi được y tá cắt cuống rốn cùng chữa trị đôi chân, bà Vân đưa đứa bé về nhà, đặt tên Trần Minh Phúc.
Nhiều người dân trong vùng muốn nhận em làm con nuôi, thậm chí có người xin tặng bà Vân ba lượng vàng để có được cháu bé. Thế nhưng bà Vân vẫn không tha thiết với lời đề nghị kia. Bà tâm sự: "Nhìn mặt cháu tự nhiên thấy thương như con đẻ của mình. Thức với nó mấy đêm, thương lắm rồi, không xa được." Nhà tuy nghèo nhưng bà khẳng định sẽ giúp cháu sau này ăn học đàng hoàng.
Xót xa làm sao khi người mẹ ruột đành đoạn đánh mất con mình trong mớ bung xung của áp lực xã hội, danh dự gia đình, và nỗi yếu đuối cá nhân. Nhưng cảm động và đáng phục biết bao khi có những con người bất chấp tình cảnh túng nghèo, vượt thoát áp lực của một xã hội chuyên lấy đồng tiền và quyền lực làm thước đo mọi giá trị, để làm nỗi bật phẩm chất cao quí của yêu thương. Nhờ tình thương, sự sống đã được bảo tồn và nâng cao.
Lắm khi vì tiếng gọi ngọt ngào của hưởng thụ, phóng túng, đam mê, ích kỷ mà người ta đã bán đứng nhân phẩm và bước vào con đường lầm lạc, nhưng nhờ tình thương và lòng quảng đại từ ái mà bao tâm hồn tìm được mái ấm và bước chân hoang can đảm trở về.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết gieo yêu thương trên mọi lối đi của cuộc đời, để tha nhân có thể gặp được dấu mà bước vào, và lần tìm về với Chúa là cội nguồn của yêu thương tha thứ. Chúng con tin rằng: đi theo Chúa, hạnh phúc sẽ không hề tắt; ở bên Ngài, hoan lạc sẽ chẳng hề phai bao giờ.
Sau khi đã nêu ra một số những đòi hỏi của người môn đệ, đó là phải đi vào cửa hẹp (CN 21), và sống khiêm tốn (CN 22), hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta làm một cuộc chọn lựa dứt khoát để thực sự xứng đáng là môn đệ của Ngài.1. Sống là chọn lựa:Thực ra, không phải chỉ khi làm môn đệ, chúng ta mới phải chọn lựa, nhưng trong suốt cuộc sống của mình, chúng ta luôn luôn phải chọn lựa.
Có thể có những chọn lựa thật đơn giản như việc lựa chọn khi mua sắm, hay chọn lựa các môn giải trí. Tuy nhiên, cũng có những chọn lựa quan trọng hơn, như việc chọn lựa nơi ăn, chốn ở, chọn lựa công việc làm ăn, chọn lựa cho mình một người bạn đời… Nhưng cho dù đơn giản, hay phức tạp, thì tất cả các chọn lựa này đều đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta một sự từ bỏ nhất định nào đó.Tương tự như thế, ngay lúc này đây, Đức Giêsu cũng đang mời gọi chúng ta làm một cuộc chọn lựa dứt khoát.
Chúng ta không thể “bắt cá hai tay”, “vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13b). Tuy nhiên, việc chọn lựa này không giống như các cuộc chọn lựa khác, bởi lẽ một khi chấp nhận làm môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không còn được phép sống cho riêng mình, hay sống theo ý muốn của mình, hay nói theo cách nói của thánh Phaolô, một khi đã chọn bước đi theo Đức Kitô: từ đây chúng ta sống, nhưng không phải chúng ta sống mà là Đức Kitô sống trong chúng ta (x. Gl 2, 20).
2. Một chọn lựa làm thay đổi cuộc sống
Cũng giống như bất cứ chọn lựa quan trọng nào khác, chọn lựa làm môn đệ Đức Giêsu sẽ làm thay đổi cả cuộc đời của chúng ta. Chọn lựa này đòi chúng ta dấn bước vào con đường hẹp, con đường của sự khiêm tốn, từ bỏ và hy sinh. Con đường theo Chúa không phải là con đường dễ dãi, nhưng là con đường dành cho những người thật can đảm. Nó đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta một sự cố gắng liên lỷ trong từng phút giây của cuộc sống.
Chính vì thế, trong cuộc hành trình về Giêrusalem lần này, khi thấy có một đám đông đi theo mình, Đức Giêsu đã cảnh báo họ: “Nếu ai đến với Ta, mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”.Khi mời gọi chúng ta “bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em”, Đức Giêsu không muốn phủ nhận mối dây liên hệ thiêng liêng trong gia đình, bởi lẽ, khi nhập thể, Đức Giêsu cũng đã chọn sinh ra trong một gia đình, và Ngài không hề quên bổn phận hiếu thảo của người con đối với cha mẹ. Ngay trên thập giá, khi phải đối diện với cái chết đau đớn cận kề, Đức Giêsu vẫn nhớ đến người mẹ đã sinh ra mình và Ngài đã giao phó mẹ mình cho Gioan chăm sóc (x. Ga 19, 25-27).
Thực ra khi nói như thế, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự dứt khoát của chúng ta khi muốn làm môn đệ của Ngài. Như thế, giữa việc “theo” và trở thành “môn đệ” còn có một khoảng cách. Ngày hôm nay cũng đang có rất nhiều người đi theo Đức Giêsu, nhưng số người dám can đảm làm môn đệ của Ngài lại rất ít, bởi lẽ làm môn đệ thì phải giống Thầy, phải dám “vác thập giá mình mà theo Thầy”. Đi theo làm môn đệ Đức Giêsu không những đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ đi lối sống cũ cùng với những tội lỗi, bất công, nhưng còn đòi từng người chúng ta dám bỏ đi những quyền lợi xem ra là chính đáng của mình.Chúng ta có thể nhận ra điều này qua bài đọc hai được trích từ lá thư của thánh Phaolô gởi cho người môn đệ Philêmon.
Trong thư, thánh nhân gởi Ônêsimô lại cho Philêmon. Ônêsimô trước đây là người nô lệ của Philêmon, nhưng đã bỏ trốn và đã được thánh Phaolô rửa tội. Giờ đây, khi trao lại Ônêsimô cho Philêmon, thánh nhân muốn Philêmon từ bỏ quyền làm chủ chính đáng của mình để nhận Ôsênimô như là một người anh em trong Đức Kitô.Sự từ bỏ này trước mắt người đời có thể là một sự khờ dại, nhất là khi nó đụng chạm đến những dục vọng và cả những quyền lợi xem ra chính đáng của chúng ta, nhưng đó lại là sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.
Một sự khôn ngoan có thể nói là vượt trên mọi trí hiểu giới hạn của con người. đó cũng chính là kinh nghiệm của vua Salomon. Ông là một vị vua nổi tiếng là khôn ngoan nhất trong Cựu Ước, và danh tiếng của ông cũng không dừng lại nơi đất nước Do Thái, nhưng đã được lan xa, đến nỗi Nữ Hoàng Saba từ phương Nam xa xôi cũng đã đến để học hỏi sự khôn ngoan của ông (x. 1 V 10, 1-10). Thế nhưng, ông cũng đã phải thú nhận “Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của chúng tôi đều không chắc chắn… Ai hiểu thấu Thánh Ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống?”.
Vâng, chọn lựa làm môn đệ của Đức Kitô quả thật là dại khờ trước mặt thế gian. Do đó, để có thể can đảm quyết tâm làm môn đệ của Ngài, chúng ta cần nhờ đến chính sức mạnh và sự khôn ngoan của Chúa soi dẫn. Chính thánh Phaolô sau cả một đời với biết bao là vinh quang lẫn với nước mắt đã tuyên bố: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô” (Pl 3, 8).
3. Chúng ta hôm nay
Lắng nghe lời Chúa hôm nay là một cơ hội để mỗi người chúng ta tự hỏi lại mình: Đâu là cùng đích trong cuộc sống của mỗi người chúng ta: Phải chăng đó là: Tiền bạc, danh vọng, quyền thế, sự nghiệp… hay điều gì giống như vậy? Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở những thành công ở đời này, thì nói như tác giả sách Khôn ngoan trong bài đọc một, quả thật chúng ta chưa thật sự khôn ngoan. Chúng ta đang để cho “nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề”. Còn nếu chúng ta nói rằng mình đã chọn lựa làm môn đệ Đức Giêsu, thì đây cũng là cơ hội để chúng ta tự xét lại mình, xem thử chúng ta đã sống xứng đáng với chọn lựa này của mình chưa?
Trong đời sống thường ngày, chúng ta đã làm gì để chứng tỏ mình là người môn đệ của Đức Giêsu? Nếu chúng ta còn ngại ngần khi phải tham dự Thánh Lễ, còn tính toán khi tìm hiểu giáo lý và Lời của Chúa, còn ngại ngần khi chia sẻ, chưa dám từ bỏ một ý riêng, thì thử hỏi, chúng ta có thực sự là môn đệ của Đức Kitô không? Chớ gì nhờ sức mạnh của Thánh Thần Chúa, mỗi người chúng ta can đảm đi theo bước chân của các tông đồ và cha ông chúng ta khi xưa, biết chọn lựa Đức Giêsu làm lẽ sống cuối cùng cho cuộc đời mình. Và nếu chúng ta chọn lựa làm môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta hãy sống thế nào, để cho dù miệng chúng ta không tuyên xưng, nhưng nhìn vào đời sống của chúng ta, mọi người vẫn có thể nhận ra chúng ta đích thực là môn đệ của Ngài. Amen.
Chuyện minh hoạ:
Người ta kể rằng: có một con lừa kia đang rất đói và khát. Thấy thế người ta liền để trước mặt nó một bó cỏ và một thùng nước. Vừa thấy thức ăn và nước uống, con lừa mừng lắm. Nó liền đi đến chổ để bó cỏ định ăn cho đầy bụng, nhưng đang khi đi, nó chợt nghĩ, có lẽ cần uống nước trước cho thoả cơn khát trước đã. Thế là nó bỏ bó cỏ và quay lại phía thùng nước. Nhưng thật đáng tiếc, chưa đi đến thùng nước, nó lại nghĩ, chắc là mình cần ăn trước rồi mới uống. Vậy là nó lại quay trở về phía bó cỏ. Và cứ thế, nó cứ đi qua, đi lại giữa bó cỏ và thùng nước và cuối cùng, người ta gặp thấy nó nằm chết giữa bó cỏ non và thùng nước mát.
Trên đường lên Giêrusalem để hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, không ít lần Chúa Giêsu gặp phải những chướng ngại trên đường do bè phái Pharisêu và Kinh sư gây nên. Nhận thấy những người thu thuế và những người tội lỗi tuôn đến lắng nghe giáo huấn của Chúa, lòng căm tức của những ông “kẹ” này đối với Chúa Giêsu như càng thêm lửa, không dám nói thẳng, chỉ lẩm bẩm chê bai cái ông Giêsu này tại sao lại đi kết thân với những hạng người ấy- điều mà không một vị tư tế Dothái nào dám làm, vì sợ ra ô uế! Để trả lời cho những ta thán lẩm bẩm này, Chúa Giêsu đã kể cho họ liên tiếp ba dụ ngôn xoay quanh chủ đề nói về lòng thương xót của Thiên Chúa.
Có thể nói trong ba dụ ngôn mà giáo hội muốn mỗi người chúng ta suy chiêm, dụ ngôn người cha nhân hậu là một tuyệt tác rất riêng của thánh sử Luca. Vì thế, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về dụ ngôn tuyệt tác này.
Người con thứ-phá gia chi tử
Chúng ta hãy bắt đầu với người con thứ. Trong truyền thống Đông phương, một người con hay một ai đó chỉ có thể thừa hưởng tài sản của bố mẹ hay của một người nào đó khi và chỉ khi bố mẹ hoặc người đó qua đời, lúc đó, có thể nói, quyền thừa kế mới hiệu lực. Người con thứ hẳn phải biết điều này. Thế nhưng anh đã bất chấp tất cả, đòi người cha phải chia tài sản cho bằng được, điều đó cho thấy trong thâm tâm, anh ta đã xem người cha như đã chết, không còn hiện diện trên cõi trần này nữa, có chăng đó chỉ là cái bóng, “cản mũi kỳ đà” mà thôi.
Đạt được mục đích. Có được số tài sản cha chia, người con thứ nhanh nhảu ra đi. Thế là từ nay, như chim xổ lồng, thoát sự kiềm kẹp, tự do trác táng với túi tiền lúc nào cũng rủng rỉnh cùng chúng bạn vui suốt đêm thâu. Cái cách tiêu xài kiểu ấy thì đến núi cũng phải mòn huống nữa là… Tuy nhiên vấn đề không chỉ dừng lại ở đấy. Chúng ta thấy người con thứ cách nào đó, đã rơi vào tình trạng suy đồi về mặt luân lý vì lẽ niềm vui thú của anh ta là ở chỗ có tiền và ra sức hưởng thụ.
Một khi coi thường nền luân thường đạo lý, con người dễ dàng sa lầy hơn trên con đường mà hắn đang theo đuổi. Hơn ai hết, người con thứ giờ đây mới cảm nghiệm được thế nào là tình cảnh “còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi”, không còn tiền thì bầu bạn cũng cao chạy xa bay, để lại anh ta bơ vơ cùng với nạn đói xảy đến. Không tiền, không bạn, túng quẫn, người con thứ dường như tự buộc mình hay nói đúng hơn là rơi tiếp vào tình trạng của người suy thoái về phương diện địa vị xã hội. Thật vậy, đang ở trong tình trạng của cậu ấm cô chiêu có người hầu kẻ hạ thì nay phải rơi vào cảnh làm đầy tớ cho người khác.
Chưa dừng lại ở đó, người con thứ lại tiếp tục làm cho chúng ta kinh tởm khi anh ta chấp nhận đi chăn heo cho một người trong làng chỉ vì đói. Đối với chúng ta, việc chăn heo là chuyện hết sức bình thường, nhưng với người Dothái vấn đề không đơn giản như vậy. Trong Dothái giáo, heo là một con vật ô uế và đi chăn heo tức là đi vào con đường cùng của sự sa đoạ. Chấp nhận công việc này, tức là người con thứ để mình rơi vào tình trạng của người suy thoái về niềm tin Dothái giáo. Như thế là, cùng với tình trạng suy đồi về luân thường đạo lý, suy thoái về địa vị và nay niềm tin tôn giáo cũng mai một, người con thứ đã tự chuốc lấy tình trạng của một con người ở ngoài xã hội, cắt đứt mối quan hệ với dân tộc, với tôn giáo và gia đình.
Trong cảnh khốn cùng như thế, người con thứ hồi tâm. Mừng cho người con thứ vì biết hồi tâm nhưng cũng trách anh ta vì động thái của việc hồi tâm không có gì khá hơn. Thật vậy, lý do của việc quyết tâm trở về nơi người con thứ chỉ là vấn đề giải quyết cái đói, vấn đề bao tử chứ không phải vì anh ta yêu thương gì người cha đang ngày đêm mong chờ anh trở về. Tuy nhiên, cuối cùng anh cũng đã trở về…
Người cha-biểu tượng của tình yêu và tha thứ
Người cha trong dụ ngôn hẳn phải một phú hộ giàu sang, đầy quyền lực và oai nghi đúng với đặc điểm của một phú ông miền Đông phương. Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Có thể nói chính ông đã phá tan dáng vẻ oai nghi đường bệ của một phú hộ Đông phương để hồ hởi chạy ra với người con tựa như trẻ thơ mong mẹ về.
Nỗi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được. Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó. Chúng ta biết rằng đối với người Dothái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểu trưng cho tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác lập lại mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác lập lại quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó - điều mà người con thứ không hề nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao?
Người anh cả- xác tại gia, hồn lạc xa
Nếu chúng ta vui mừng với sự kiện người con trở về và trân quý trước lòng bao dung và yêu thương vô bờ của người cha bao nhiêu, chúng ta lại càng thương cho người anh cả bấy nhiêu.
Thật vậy, người anh cả, cách nào đó đã đại diện cho những người Pharisêu và Kinh sư mà Chúa Giêsu muốn nhắm tới. Người anh cả không biết rằng được ở với cha, được sống dưới tình yêu thương của cha là một hạnh phúc, trái lại anh đã xem đó là một gánh nặng, một sự cản trở và đè nén; cái đích của anh nhắm tới là phần thưởng, là tiền công, là “con dê con” để vui với chúng bạn chứ không phải là tình yêu và hạnh phúc được sống trong nhà cha. Tệ hơn nữa, anh đã lên án, chửi rủa và không thừa nhận đứa em ruột của mình mà lẽ ra anh phải có trách nhiệm với nó. Anh còn thua những người đầy tớ trong nhà - những người đã nhận và thông báo cho anh biết viêc người cha mở tiệc ăn mừng là do “em cậu đã trở về”.
Giống như những thủ lãnh tôn giáo, người anh cả tự cho mình là người công chính và dĩ nhiên không cần hối cải ăn năn. Không những thế, anh còn khước từ sự trở về của người em, không chấp nhận lòng sám hối ăn năn của người lầm lỗi. Và, tệ hơn, chính anh là người không chấp nhận lòng bao dung và tha thứ của người cha, không chấp nhận tình yêu thương của Thiên Chúa.
Tin mừng không cho biết cuối cùng thì người anh cả có vào dự tiệc với cha hay không, nhưng như thế cũng đủ để chúng ta nhận ra rằng dù thế nào đi nữa thì người cần trở về, cần phải hoán cải không chỉ có người con thứ, không chỉ có kẻ lỗi lầm mà đó còn là người con cả, là thủ lãnh tôn giáo, là tất cả những ai tự cho mình là công chính, là kiểu mẫu sống đạo. Có thể người con cả hay những người Pharisêu và Kinh sư không bỏ nhà đi hoang, không ăn chơi trác táng như người con thứ hay người tội lỗi, nhưng hãy coi chừng, rất có thể những thái độ và cách hành xử của họ đối với người đồng loại cách nào đó biến họ trở thành những người “xác ở nhà mà hồn đang phiêu du nơi nào”, trở thành những đồng bạc bị lạc mất ngay trong chính ngôi nhà mình.
Con chiên đi lạc, chúng ta không hề thấy tiếng kêu cầu cứu của nó, thế mà chủ nó vẫn cứ ra đi tìm cho kỳ được. Con chiên chẳng có công trạng gì, thế mà chủ nó vẫn vác trên vai, vui mừng mở tiệc mời bạn bè ăn mừng. Rồi sự trở về của người con thứ, dù động cơ sự trở về của anh ta không làm cho chúng ta hài lòng,… nhưng chính tình yêu, sự tha thứ và nỗi mừng vui của người cha cách nào đó đã che khuất bóng đen kia để rồi, toàn bộ Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy nổi lên sáng kiến của Thiên Chúa trong việc tìm kiếm những tội nhân. Niềm vui mừng của Thiên Chúa khi có người biết chỗi dậy, nhận ra những lầm lỗi thiếu sót của mình để bắt đầu cuộc sống mới. Đó cũng chính là điều chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta không ngừng tìm kiếm, tha thứ và yêu thương hết những ai đang sống trong lỗi lầm để dẫn đưa họ trở về với Thiên Chúa tình yêu.
Trong đời sống hàng ngày, ta có thể đã có kinh nghiệm khi tìm lại được những gì đã mất, nhất là những vật qúi giá và cần thiết. Ai mà không vui thích khi tìm lại được cặp kiếng đeo mắt. Ai mà không thích thú khi tìm lại được chùm chìa khoá. Ai mà không hí hửng khi tìm lại được ví tiền có chứa đựng những giấy tờ cần thiết. Ai mà không vui mừng khi tìm lại được cái nhẫn cưới. Tìm lại được tình yêu hôn nhân đã chết trong con tim mà nay được đổi mới lại, đã khiến cho những cặp vỡ chồng vui mừng cảm động khóc ra nước mắt.
Cái tâm trạng vui mừng của những người khi tìm lại được những vật đã mất cũng là cái tâm trạng của người chăn chiên trong Phúc âm hôm nay khi tìm thấy con chiên lạc, hay của người đàn bà chỉ có mười đồng bạc mà mất một đồng, nay lại tìm thấy, hay của người cha có hai đứa con mà một đứa đi lưu lạc, nay lại trở về. Vậy tìm thấy được vật đã mất, lưu lạc rồi trở về, phạm tội rồi được tha thứ, xa cách rồi làm hoà, bằng cách này hay bằng cách khác là đề tài chung của ba bài đọc Thánh kinh hôm nay.
Bài trích sách Xuất hành ghi lại câu chuyện con bò vàng. Khi người Do thái trong hoang địa không còn kiên nhẫn đủ về sự vắng mặt lâu dài của Môsê trên núi Sinai, thì họ kêu trách Chúa đã đem con đi bỏ chợ. Vì thế họ xin Aaron để đúc con bò vàng cho họ tôn thờ thần tượng vô tri vô giác thay vì tôn thờ một Thiên Chúa. Vì tội bất trung của dân chúng, Thiên Chúa nổi giận định huỷ diệt họ. Nhưng Môsê van xin Thiên Chúa tha thứ và Chúa đã nguôi giận tha phạt dân chúng. Lòng thương xót của Chúa còn được tỏ hiện qua việc trở lại của Thánh Phaolô.
Trong thư gửi cho Timôthêô, Phaolô viết: Đức Kitô Giêsu, đã đến trong thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi (1Tm 1:15). Cả ba ngụ ngôn trong Phúc âm hôm nay nói lên lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Nếu người chăn chiên bày tỏ nỗi vui mừng với người lân cận, và người đàn bà mời chị em đến chia vui vì đã tìm thấy đồng bạc, nếu người cha biểu lộ nỗi vui mừng khi thấy đứa con hoang lạc trở về, thì trên trời cũng có sự vui mừng khi có người tội lỗi ăn năn trở lại.
Thính giả nghe bài Phúc âm từ chính miệng Chúa giảng là những người Biệt phá và Luật sĩ. Họ phàn nàn là Chúa thường lui tới, ăn nhậu với phường tội lỗi và thâu thuế. Họ không muốn thấy Chúa lai vẵng tới xóm nhà lá. Vì thế khi thấy Chúa làm quen với những thành phần bị coi là căn bã của xã hội, họ lấy làm vấp phạm. Chúa trả lời cho họ là: Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất (Lc 19:10).
Hôm nay mỗi người cần tự hỏi, có khi nào ta đã đi lưu lạc, lìa bỏ đàn chiên của Chúa? Ta đi lạc khỏi đàn chiên khi ta sa phạm tội, bất trung với lời giao ước khi chịu phép Rửa tội. Ta trở thành những chiên lạc khi ta không sống theo đường lối phúc âm, không tuân giữ giới răn Chúa. Thiết tưởng ít ai muốn chối bỏ đức tin vào Chúa. Tuy nhiên ta có thể quên Chúa khi ta tạm gác bỏ việc thờ phượng qua một bên, hoặc khi ta nhốt Chúa vào góc xó nhà của tâm hồn. Điều quan trọng là khi ta sa ngã phạm tội, ta có can đảm tìm đường trở về nhà Cha, hay ta vẫn chần chừ trong bóng tối của đam mê, của tham vọng hão huyền hay của nghi ngờ thất vọng?
Đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi thấy man mác một màu tím buồn với người con thứ.
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Anh ta đã phá đi truyền thống gia đình. Trẩy đi miền xa, người thanh niên này mang nỗi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà.
Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Khi trở về chẳng còn gì: Tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng, sự hối hận… mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta đã mất bạn bè, mất niềm vui bình an nội tâm, chỉ còn lại một điều duy nhất là ”đứa con nhỏ của cha nó”. Ở đời, người ta thường vinh quy bái tổ khi công thành danh toại, còn người con thứ khi trở về thì thân tàn ma dại, hai bàn tay trắng.
Động lực nào đã khiến nó trở về ? Thánh Lu-ca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây ! Thôi dậy, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn.Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công. Đó là một cuộc trở về trọn vẹn hay sao ? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao ? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi.
Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin,không đủ liều mạng để đi trộm cướp, không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu, nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời, đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Giu-đa đã phản bội Chúa Giê-su, Phê-rô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giu-đa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn.Còn Phê-rô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giu-đa chọn cái chết. Phê-rô chọn sự sống.
Đọc câu chuyện, thấy sự trở về của người con thứ không phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thức tế cuộc sống, khi ngồi Toà Giải Tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống.
”Ngồi Toà” với những người như thế, tôi càng thấm thía hơn dụ ngôn ”Đứa Con Hoang Đàng”
CHÚA GIÊ-SU ĐÃ TRỞ NÊN “NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG” VÌ CHÚNG TA
Anh Piere Marie người sáng lập Huynh Đoàn Giê-ru-sa-lem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về Chúa Giê-su như người con hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị. Xin trích dẫn tác phẩm “Người Cha Nhân Hậu” của Henri J. M. Nouwen, trong đó có một đoạn anh Pierre Marie đã viết:
“Đức Giê-su được sinh ra không bởi dòng dõi, ước muốn hay ý chí của con người, nhưng bởi chính Thiên Chúa. Một ngày kia, Ngài đã để mọi sự dưới chân Người và ra đi với gia sản của Ngài, là tước hiệu làm Con Thiên Chúa của Ngài…
Với giá chuộc tất cả, Ngài đã ra đi tới miền xa... miền đất rất xa... nơi mà Ngài đã trở thành như con người và đã làm trống rỗng chính mình. Chính dân của Ngài cũng không nhận biết Ngài và cái giường đầu tiên của Ngài là một nệm rơm. Giống như một cây đâm rễ nơi đất khô cằn, Ngài trưởng thành trước chúng ta, đã bị khinh bỉ là hạng thấp nhất trong con người. Chẳng bao lâu Ngài đã nếm sự lưu đày, sự chống đối, sự cô độc... sau khi đã cho đi mọi thứ trong đời sống cách rộng rãi, của cải, bình an, ánh sáng, sự thật, chính đời sống của Ngài... mọi kho tàng hiểu biết, khôn ngoan và mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn đời.
Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Ít-ra-en, Ngài đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi, ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài; sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Sa-ma-ri-a, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài bị đóng đinh: ”Ta khát”. Ngài đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, chỗi dậy từ chiều sâu ngục tối nơi Ngài đã xuống, Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng ta. Đứng thẳng, Ngài kêu lên: ”Phải, Ta lên Trời với Cha Ta cũng là Cha của con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con”. Và Ngài đã trở lại Thiên Đàng...
Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả con cái trong Người Con từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người Cha nói với các tôi tớ: ”Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy... Người Con Hoang Đàng của Ta đã mang tất cả mọi ngươì trở về...”
Và tất cả bọn họ bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên...”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dùng một hình ảnh, một câu chuyện cụ thể để mô tả chân dung của Thiên Chúa, vừa là Cha chung của toàn thể nhân loại, vừa là Cha của mỗi người chúng ta. Trong chân dung ấy, có hai đặc tính nổi bật: tình thương vô hạn và sự tha thứ vô điều kiện.
Tình thương vô hạn của Thiên Chúa:
Thiên Chúa được Đức Giê-su mạc khải là một người Cha ( chắc hẳn nếu phải nói về Thiên Chúa trong một nền văn hóa mẫu hệ thì Ngài sẽ mạc khải Thiên Chúa là một người Mẹ ). Cha mẹ nào mà chẳng thương yêu con cái bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc chúng đối xử tệ bạc với mình tới đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ thành hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng ( x. Gc 2, 16.26 ).
Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là:
Sự tha thứ vô điều kiện,
Sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua cả hai cách ấy nơi con người Đức Ki-tô: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” ( Rm 5, 7 ).
Sự tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa:
Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người con hoang đàng đã đối xử thật tệ bạc với cha, đã rời bỏ cha mẹ mình để đi hoang, không còn biết nghĩ đến nỗi cô đơn, thương nhớ và đau khổ của cha mẹ khi mình bỏ đi, lại còn tiêu tán hết gia sản cha mẹ dành cho mình. Thế mà khi đứa con bội bạc ấy trở về, thái độ của người cha là: khi “anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” và ngay tức khắc ra lệnh cho các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng !
Ông làm như đứa con ấy chưa hề phạm một lỗi nhỏ nào đối với mình. Tội lỗi của đứa con hết sức to lớn nhưng ông làm như không nhìn thấy, chỉ nhìn thấy nó đã trở lại với mình, như thể nó “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Tình thương, lòng tha thứ và quảng đại chỉ có thể biểu lộ đến thế là cùng.
Chúng ta đã từng nghe nói có biết bao cha mẹ đã đến thăm nuôi đứa con tệ bạc và bất hiếu với mình hiện đang bị tù đày, bất chấp xa xôi, hiểm nguy hay trước đó nó đã làm phiền lòng mình tới đâu. Cho dù cha mẹ đó có là phường xấu xa trộm cướp, cũng vẫn có thể đối xử tốt với đứa con tệ bạc của mình như vậy. Có thế mới là bậc cha mẹ ! Có nghĩ như thế, ta mới thấy được ý nghĩa vô cùng sâu xa khi Đức Giê-su mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha Mẹ của chúng ta. Tình thương đầy khiếm khuyết của cha mẹ trần gian còn như thế, huống gì tình thương hoàn hảo của Thiên Chúa ! Ngài đã được thánh Gio-an định nghĩa là Tình Thương ( x. 1 Ga 4, 7 – 8 ), một tình thương vô hạn của bản tính Thiên Chúa, nên sự tha thứ của Ngài cũng vô hạn. Đây quả là một thông tin hết sức vui mừng và vô cùng quí báu cho tất cả mọi con người, vốn yếu đuối và đầy lầm lỗi !
2. HÃY TIN TƯỞNG VÀO TÌNH THƯƠNG VÀ SỰ THA THỨ VÔ BỜ BẾN CỦA THIÊN CHÚA
Động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình ? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với «thân tàn ma dại», cha nó cũng biết nó về vì động lực gì. Nhưng đối với ông, điều ấy không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó.
Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người con tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa và nói lên lời hối hận: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...”, thì lập tức trước mặt Thiên Chúa, họ trở thành người vô tội, trở thành con cái trong nhà, được yêu thương, bảo vệ, được hưởng mọi quyền lợi của một người con y như trước. Vì thế, dù ta có phạm một tội tầy đình, nếu ta biết trở về với Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả, và coi ta như con cái hiếu thảo trong nhà.
Mẹ Giáo Hội của chúng ta đã từng có những hành vi như thế. Chẳng hạn, Augustino, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin Mừng. Thế mà khi trở về với Giáo Hội, Giáo Hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo Hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức Giám Mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảng đại ấy của Giáo Hội, Augustino đã trở nên một vị thánh. Giáo Hội xưa là như thế, Giáo Hội ngày nay thì sao ?
Thiết tưởng Giáo Hội không nên quá chú trọng đến vấn đề lý lịch hay quá khứ của những người muốn trở về với Thiên Chúa và với Giáo Hội. Chúng ta không nên lấy cớ khôn ngoan để hành xử giống như những thế lực trần gian. Đức Giê-su đã trao cho Giáo Hội quyền tha và buộc ( x. Mt 16,19; 18,18 ), thiết tưởng Giáo Hội nên tha nhiều hơn là buộc, nên có thái độ của bậc cha mẹ yêu thương con cái hơn là thái độ của các quan tòa. Các bậc làm cha mẹ cũng cần có thái độ quảng đại như thế đối với những đứa con hư hỏng. Đọc Tin Mừng, tôi chỉ thấy Đức Giê-su kết án có một loại người duy nhất là bọn kinh sư và biệt phái giả hình hoặc các ngôn sứ giả mà thôi !
Người con hoang đàng sẽ không dám quay trở về khi đoán rằng cha mẹ mình sẽ không tha thứ, sẽ ruồng rẫy nó khi nó trở về. Nếu biết như thế thì trở về làm gì ? Vì thế, nếu cha mẹ vẫn luôn luôn tỏ thái độ yêu thương chăm sóc khi chúng bất hiếu và tệ bạc với mình, thì sẽ khiến chúng trở về với đường ngay nẻo chính hơn là thái độ bỏ rơi, ruồng rẫy chúng. Thái độ kết án, ruồng rẫy chỉ làm cho con cái xa lìa và chống lại cha mẹ mà thôi. Lịch sử Giáo Hội cũng như chuyện đời thường chứng minh điều ấy.
Dụ ngôn người cha và đứa con hoang đàng của Đức Giê-su là một bài học cho nhiều loại người: không chỉ cho những người tội lỗi cần quay trở về, mà còn đề nghị với các bậc làm cha mẹ và với cả những người tốt lành ở trong Giáo Hội cách đối xử với những người con hay anh em đang sống trong lầm lạc tội lỗi. Không nên có thái độ như người anh kém quảng đại trong bài Tin Mừng chỉ biết ganh tị với em, mà không hề tỏ một tâm tình yêu thương gì với cha và với em cả.
CẦU NGUYỆN:
Lạy Cha, Đức Giê-su đã cho con thấy khuôn mặt đầy tình thương và giàu lòng tha thứ của Cha qua dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng. Xin cho con luôn ý thức tình yêu thương ấy của Cha để sẵn sàng quay trở về với Cha ngay khi lầm lỗi, đồng thời cũng luôn luôn bắt chước Cha trong việc quảng đại tha thứ vô điều kiện cho con cái, cũng như cho tất cả mọi người có lỗi đối với con. Amen.
CÂU TRUYỆN: SỰ THA THỨ CỦA CHÚA
Một nhà truyền giáo trên một hòn đảo nọ ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông. Bà ta hỏi: “Ông biết đây là gì không ?” Nhà truyền giáo trả lời: “Nó giống như cát.” Bà ta lại hỏi: “Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không ?” Ông lắc đầu chịu thua: “Không, tôi không thể tưởng tượng được tại sao...” Người phụ nữ cúi đầu buồn bã: “Đây chính là những tội lỗi tôi đã phạm. Tội lỗi của tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cảcơ chứ ?”
Nhà truyền giáo chậm rãi bảo: “Bây giờ bà hãy đưa chỗ cát đó ra bãi biển và vun thành một nhúm cát nho nhỏ. Rồi bà hãy ngồi đó mà nhìn xem những cơn sóng đang ập tới, chắc chắn sóng biển sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Thiên Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa còn bao la hơn cả đại dương. Hãy thành thật sám hối mọi tội lỗi và Thiên Chúa bao dung, Người sẽ tha thứ tất cả...”
- Bài đọc I: Thiên Chúa nhân từ tha thứ cho dân Israel đã thờ tượng con bê vàng.
- Đáp ca: Lời nguyện sám hối của Tv 50
- Tin Mừng: 3 dụ ngôn về lòng nhân từ của Thiên Chúa: con chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con đi hoang.
- Bài đọc II: Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài.
Minh họa
- Mille images 90 A
- Người mục tử đi tìm con chiên lạc (Lc 15,4) I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được !" Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.
Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.
II. Gợi ý sám hối
* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 32,7-11.13-14)
Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.
Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.
Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý:
- Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel.
- Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu "Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe".
2. Đáp ca (Tv 50)
Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa: "Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm".
3. Tin Mừng (Lc 15,1-32)
Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 à 1/10 à ½ ). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc – người ta thường nói "đồng tiền liền khúc ruột – và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
4. Bài đọc II (1 Tm 1,12-17)
Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài:
- "Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót"
- "Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi"
- "Sở dĩ tôi được thương xót là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài".
IV. Gợi ý giảng
1. Giá trị của từng con người
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v.v. một hội viên phát biểu: "Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng". Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: "Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi".
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc ? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó ? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa ? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao ? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).
2. Cái mất là cái quý
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là: cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.
Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)
Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: "Vì tôi lạc bị mất một con chiên". Chúa Giêsu nói: "Để Ta đi tìm nó cho". Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: "Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó".
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì ?
- Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại. - Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn. - Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.
3. Những con người bị mất
Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất.
Những con người bị mất ấy là ai ?
- Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang. - Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo. - Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời. - Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau. - Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa. - Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.
Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.
4. Tuyệt đỉnh của yêu thương
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế ? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được ; tôi phải làm gì hơn nữa.
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
*****
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Đức Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được ; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất". Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, "lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa" (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: "Lạy Cha, xin tha cho họ". Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi ; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: "Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà".
****
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đàng sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C)
5. Chuyện minh họa
a/ Sự tha thứ của Chúa
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
- Ông biết đây là gì không ? - Nó giống như cát. - Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không ? - Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao. - Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả ?
- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
b/ Không cần đếm
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. "Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết ? " Câu trả lời thật ý nhị: "Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt."
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
VI. Giải tán
Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.
Trong cuốn tiểu thuyết Trạng Sư Quỉ, văn sĩ Morris West kể chuyện Cha Blaise Reredith làm việc lâu năm trong bộ Phong thánh ở Rôma. Sau khi bác sĩ cho biết chỉ còn sống được ít tháng nữa, Cha hồi tưởng lại thấy rằng suốt cuộc đời mình Chà đã chu toàn các bổn phận vì bổn phận đòi hỏi chỉ có thế thôi; và cha sắp sửa phải ra đi với tâm hồn trống vắng vô vị. Điều đó làm cha sợ hãi, bàn tay cha run rẩy, mồ hôi cha toát ra. Cha đến gặp Đức Hồng Y Marotta tổng trưởng Thánh bộ Phong Thánh. Sau khi nghe cha trình bày, Đức Hồng Y khuyên nhủ:
“Như nhiều người ở đây, cha cũng như tôi, chúng ta là những linh mục chuyên nghiệp. Đã từ lâu chúng ta không trực tiếp làm việc mục vụ. Do đó, chúng ta mất đi những cơ hội giao tiếp với dân chúng là những người giúp chúng ta tiếp xúc với Thiên Chúa. Chúng ta mất đi tình thương xót, sợ hãi, và tình yêu. Là những người độc thân chúng ta trở nên ích kỷ và đơn độc. Chúng ta làm việc và phán quyết căn cứ trên các khoản Giáo Luật mà không dựa trên đức bác ái, trên tình thương yêu. Vì vậy trong những ngày tới đây, tôi nhờ cha đi đến một tỉnh nhỏ ở miền Nam nước Ý để giúp điều tra hạnh kiểm và nhân đức của một người chết mà dân chúng vùng đó đã đang coi ngài như là một vị thánh. Ngài là thánh hay tội nhân, điều đó cuối cùng không là gì cả. Điều quan trọng là cha có dịp tiếp xúc với những người nhà quê đơn sơ chất phác, với hy vọng nhờ đó có thể chữa được tâm bệnh của cha.”
Cha Blaise hỏi lại: “Con có tâm bệnh gì? Thưa Đức Hồng Y.”
Đức Hồng Y chậm rãi trả lời: “Không có tình yêu trong đời sống cha. Cha đã không yêu đàn bà, cha cũng không ghét đàn ông, và cũng chẳng thương hại trẻ nhỏ. Cha đã khép kín lòng cha quá lâu và đã trở thành một người khách lạ trong gia đình nhân loại. Cha chu toàn bổn phận chỉ vì bổn phận. Cha đã chẳng xin gì cũng chẳng cho gì. Đó là bệnh của cha, vì một người không thể yêu tha nhân thì cũng không thể yêu Thiên Chúa được.”
Tin mừng Chúa nhật hôm nay đề cập đến thái độ hành động của người anh cả. Anh đã chu toàn bổn phận một cách tỉ mĩ, và đã không hề trái lệnh cha anh điều gì. Giống như các Pharisêu, anh đãgiữ các lề luật một cách cặn kẽ nhưng lề luật quan trọng nhất là lề luật yêu thương anh lại không giữ, không học được nơi người cha của anh. Trái lại lề luật và bổn phận đã làm cho tâm hồn anh ra khô cừng khiến anh tính toán, khó chịu, ghen tương với cả người em ruột của mình, mà đáng lý ra anh phải vui mừng sung sướng khi thấy em mình còn sống sót trởvềbằngan.
Sống cuộc sống hiện tại, mỗi người chúng ta cũng đã đang đối diện với nhiều luật lệ bổn phận đòi chúng ta phải chu toàn: Luật Chúa với 10 giới răn: tôn thờ một Thiên Chúa, không trộm cắp, không giết người.. Luật Giáo hội: ăn chay kiêng thịt, tham dự thánh lễ Chúa nhật và lễ buộc... Luật quốc gia, xã hội, luật đi đường... và chúng ta giữ những lề luật đó không phải chỉ một ngày nhưng là nhiều ngày, không phải chỉ một tháng nhưng là nhiều tháng, không phải chỉ một năm nhưng là nhiều năm, hết năm này qua năm khác.
Điểm chúng ta cần để ý tới, cần kiểm điểm lại là thái độ giữ luật của chúng ta. Nếu không lưu tâm để ý thì trước hết chúng ta sẽ giữ luật chỉ vì luật và coi luật như là cùng đícy, để rồi sẽ phán đoán theo luật mà không kể gì đến đức bác ái, đến tình yêu thương. Hễ ai giữ luật như chúng ta giữ, đó là người tốt. Ngược lại là người xấu, và khó chịu ghen tương khi thấy anh chị em vì một vài lý do nào đó đã được chước chuẩn luật này luật kia.
Thứ đến vì chúng ta giữ quá nhiều luật, nên nhiều lần đã không phân biệt được luật nào quan trọng hơn, luật nào kém quan trọng, do đó có những luật quan trọng chúng ta lại hờ hững bỏ qua, trong khi quá câu nệ chú trọng đến hình thức và cố chấp trong những luật nhỏ mọn không cần thiết. Chúng ta sẽ giống như người anh cả trong phúc âm: Anh chu toàn các lề luật, nhưng có lề luật quan trọng nhất là lề luật về đức bác ái, về yêu thương anh lại không giữ, không chu toàn.
Cả hai người con trong bài phúc âm hôm nay đều có những điểm không tốt. Người con thứ đã xin chia gia tài là điều theo phong tục người Do thái chỉ làm sau khi người cha chết hay về hưu. Có lẽ anh không có ý sỉ nhục hay làm cho người cha tủi, nhưng việc anh xin như thể anh nói với người cha: “Cha chết sớm đi để con lấy gia tài.” Còn người anh cả đã khó chịu, ích kỷ, ghen tương với người em ruột của mình. Anh muốn công bằng chứ không để ý gì đến tình yêu thương. Cuộc sống của chúng ta phải chăng đã phản ảnh phần nào cá tính của cả hai người anh em đó? Đã bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em, gây đau khổ cho cha mẹ, những người thân yêu, nhưng chúng ta thiếu tế nhị, vẫn vô tình tỉnh bơ sống ung dung thoải mái như không có chuyện gì xảy ra. Hoặc bao lần khác chúng ta đã muốn công bằng như là nguyên gắt căn bản hướng dẫn các quyết định của chúng ta đối với anh chị em mà không kể chi đến đức ái yêu thương.
Giáo hội đang mời gọi chúng ta trở về với Chúa là Cha nhân từ. Nếu đã không quá muộn còn đủ thời giờ cho người con thứ, thì chắc chắn cũng không quá muộn đối với mỗi người chúng ta? Điều quan trọng là chúng ta có muốn trở về và thấy mình cần phải trở về hay không, không ai có thể trả lời thay được trừ chính chúng ta.
Phúc Âm thánh Luca nhấn mạnh về tính không thể thiếu nổi của ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa
Ở đầu Tin Mừng của Luca chương 15, ta được đặt đối diện với nhóm biệt phái và thông luật đang lẩm bẩm kêu trách Đức Giêsu vì Người "tiếp đón những kẻ tội lỗi và đồng bàn ăn uống với chúng" (c.2). Đức Giêsu chẳng những không biện minh mà còn làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa bằng một loạt dụ ngôn.
Dụ ngôn thứ nhất nói về chiên lạc đàn tìm lại được (c.4-7). Kế đến là dụ ngôn về đồng tiền bị rớt mà tìm thấy (c.8-10). Dụ ngôn thứ ba về đứa con bụi đời trở về (c.11-32) thường được gọi là dụ ngôn người con phung phá.
Cả ba dụ ngôn đều cho thấy điều gì đó bị mất (một người, một con vật hoặc một sự vật) khiến sở hữu chủ miệt mài đi tìm. Thiên Chúa muốn mọi người nhận được ơn cứu độ. Dù chỉ một người bước, Người cũng miệt mài tìm kiếm.
Thiên Chúa xót thương và chạnh lòng trước số phận của từng người, bất kể họ thuộc hạng người nào. Càng là người yếu kém, người càng thương. Thiên Chúa như muốn nói với bất cứ ai lạc bước rằng: "Ta thương con, vì thế con trở nên quan trọng đối với Ta. Có một sự thiếu vắng xảy ra vì con đi lạc. Ta sẵn sàng hy sinh tính mạng để tìm kiếm con."
Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh niềm vui của người tìm lại được của bị mất. Trường hợp người chăn chiên, niềm vui được diễn tả bằng cử chỉ vác chiên tìm được lên vai. Người đó còn tổ chức mừng biến cố tìm lại được chiên lạc. Nhưng quan trọng hơn cả là lời Đức Giêsu tuyên bố thẳng với những kẻ chỉ trích Người khi nói: "Trên trời ai nấy sẽ vui mừng vì một người ăn năn hối cải hơn là chín mươi chín người không cần sám hối" (c.4-7).
Trường hợp người đàn bà đánh rớt một quan tiền mà tìm được, bà ta cũng tổ chức ăn mừng và mời bạn bè xóm ngõ tới cùng chia vui, và Đức Giêsu, một lần nữa, tái khẳng định về niềm vui trên trời rằng: "Tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (c.10), điều được hiểu ngầm là Thiên Chúa vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối hơn là chín mươi chín người không cần sám hối (xem c.7).
Riêng dụ ngôn đứa con bụi đời
Riêng với dụ ngôn "Đứa con bụi đời trở về" (Lc 15,11-32) Đức Giêsu có ý dậy ta điều gì và ai thuộc đối tượng của lời dậy đó? Xem ra khá rõ dụ ngôn này nhắm thẳng những kẻ chỉ vì ghen tuông nên lẩm bẩm trách móc Thiên Chúa. Họ không thể chấp nhận tình thương vô bờ Thiên Chúa dành cho những kẻ tội lỗi.
Những kẻ ghen tuông ấy trước tiên là những người con vẫn ở nhà cha, không bao giờ đi bụi đời cả. Trong cụ thể, dụ ngôn thứ ba này nhắm thẳng nhóm Pharisêu và thông luật là những người lên tiếng trách móc Đức Giêsu. Họ là những người vững vàng trong địa vị lãnh đạo Do Thái Giáo. Sự ghen tuông của họ được diễn tả cách đầy tích cực qua phản ứng giận dữ của người con cả. Thấy người cha tổ chức mừng con thứ đi bụi đời trở về, con cả liền nổi nóng nhất định không bước vào nhà (c.27-28). Anh tìm đủ cách để bêu xấu người con thứ: Nó không những phá hoại tài sản của cha mà còn làm ô danh cha giữa bọn đàng điếm (xem c.30).
Loại người ghen tuông thứ hai là đối tượng được nhắm tới qua dụ ngôn này là những người không những vẫn ở nhà cha mà không đi bụi đời, mà còn tin rằng mình thực sự biết cha, tâm trạng của loại người này được diễn tả rất rõ qua phản ứng của người con cả. Anh nói: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha và chẳng bao giờ trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy một con dê con để ăn mừng với bạn bè" (c.29). Quả thật, không thiếu những người kể mình là người siêng năng giữ đạo, dựa vào đấy để nói với Thiên Chúa, như: "Tại sao Thiên Chúa lại xử tốt với những người chỉ nhập đạo vào giờ chót. Họ sống bê bối cả một đời thế mà khi chết họ được chịu mọi bí tích và các nghi lễ như người giữ đạo từ nhỏ! Thật là một cách đối xử thiếu công bằng."
Loại người thứ ba có thể là đối tượng nhắm tới qua dụ ngôn người con phung phá, đó là những người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê người khác. Chính Đức Giêsu cho thấy sự vô hiệu của lời cầu nguyện của loại người này trước mặt Thiên Chúa trong dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế (Lc 18,9-14).
Cả ba loại người nói trên đều cần được hoán cải để đón nhận tình thương vô hạn của Thiên Chúa. Tình thưong ấy vượt ngoài cái nhìn so đo, ích kỷ và ghen tuông của họ. Hãy coi tình thương không bờ bến của người cha trong dụ ngôn thứ ba đối với người con cả. Mặc dầu người cha đã chia gia tài cho cả hai con (c.12), thế mà người con cả vẫn được đối xử như anh chưa nhận được gì làm của riêng anh. Anh được đoan chắc rằng "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con" (c.31).
Điều phi lý của ghen tuông
Có lẽ điều tiên quyết là họ phải giải toả tính ghen tuông của họ. Có thể dụ ngôn thợ làm vườn nho (Mt 20,1-16) sẽ giúp họ nhận ra điều phi lý của ghen tuông. Trong dụ ngôn thợ làm vườn nho, kẻ cằn nhằn gia chủ là người tới làm việc từ sáng sớm. Anh không chấp nhận tiền công nhật là một quan tiền như chủ đã hứa với anh, chỉ vì anh thấy thợ đến làm vào giờ chót cũng đưọc chủ trả một quan tiền như anh. Vậy chủ nhà đã nêu rõ lập trường của ông là ông có quyền tùy ý định đoạt những gì là của ông. Ông nói "Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?" (Mt 20,14-15).
Với mức độ lan tràn nhanh chóng của bệnh sida, dần dần những người mắc chứng bệnh này chưa có thuốc chữa, cũng cảm thấy can đảm hơn để được thu hình và phỏng vấn về những cảm nghĩ và kinh nghiệm của mình. Tôi nhớ mãi cuộc phỏng vấn một chàng thanh niên người Mỹ mắc bệnh sida được trình chiếu trên màn hình tại Philippine cách đây không lâu.
Được phóng viên hỏi về niềm hy vọng của mình, anh thành thật nói: “Tôi hy vọng là hãng bảo hiểm sẽ trả thêm cho tôi một số tiền để tôi có thể giữ con chó tôi đang nuôi, vì từ khi tôi công khai thú nhận mình bị bệnh sida, mọi người dần dần đều xa cách tôi, kể cả những người thân thương nhất, chỉ có con chó tôi nuôi là nó không thay đổi lòng dạ, nó vẫn trung tín và quyến luyến tôi như xưa”.
Có lẽ những bệnh nhân sida bị mọi người xa lánh không chỉ vì người ta sợ lây nhiễm nhưng nó còn gián tiếp là một lời lên án của đa số dân chúng, vì dư luận chung hiện nay cho rằng: Những kẻ bị bệnh này là những kẻ có đời sống luân lý xấu.
Đoạn phỏng vấn trên nhắc tôi nhớ một đoạn phim khác trình bày trên màn hình về một thiếu nữ bị chửa hoang. Ngày kia khi đi dự lễ, cô phải lấy hết can đảm đi từ cuối nhà thờ lên đến những hàng ghế ở giữa mới có chỗ ngồi vì cô không còn sức đứng lâu hơn được nữa. Suốt con đường cô đi đến chỗ trống, cô bị chào đón bằng những đôi mắt soi mói, bằng những cái lắc đầu lên án, bằng những tiếng xì xầm không cần nghe rõ cũng biết là mang nội dung châm biếm, mường tượng như câu nói: “Gái chưa chồng mà chửa mới ngoan”. Đa số những người dự lễ Chúa nhật hôm đó có lẽ tự cho là những người lành thánh, những kẻ hoàn toàn trong sạch. Đoạn phim trên nếu được quay ngay trong Thánh lễ này, liệu chúng ta có phản ứng khác với những người dự lễ hôm ấy không ?
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe đọc thường mang tựa đề: “Đứa Con Hoang Đàng” hay là “Người Cha Nhân Hậu”, và thiết nghĩ đã hơn một lần chúng ta đã nghe đào sâu ý nghĩa của câu truyện theo hai đề tài trên. Hôm nay chúng ta hãy thử khai thác một khía cạnh khác, bởi vì đây là một trong ba câu chuyện dụ ngôn được Đức Giêsu thuật lại cho những nhóm biệt phái và luật sĩ là những kẻ chỉ trích Ngài, vì Ngài tiếp xúc thân mật với người tội lỗi và thường ăn uống vui vẻ với họ, xem ra Đức Giêsu muốn kết bạn với họ và săn lòng tha thứ mọi tội lỗi cho họ.
Khi nghe câu chuyện dụ ngôn trên mà chúng ta vừa đọc, chắc hẳn với lòng đạo đức của họ, những người biệt phái và luật sĩ không thể nào đồng hóa mình với đứa con hoang đàng, cũng như với lòng kính sợ Thiên Chúa, họ không thể xem mình là người cha nhân hậu. Vì thế chỉ còn vai trò người con trưởng trong câu chuyện là họ có thể đồng hóa với mình, và đó cũng là chủ đích của Chúa Giêsu khi Ngài thuật cho họ câu truyện dụ ngôn này. Như vậy, xem ra Đức Giêsu đã thành công, vì qua câu truyện dụ ngôn trên Ngài như đưa cho những người biệt phái và luật sĩ chiếc gương để họ tự thấy mình trong đó. Còn chúng ta thì sao ?
Chúng ta có thể đồng hóa mình với ai trong ba vai chính của câu chuyện: Với người cha nhân hâụ, có lẽ đây là những đôi giầy quá số, những bộ quần áo quá to chúng ta không thể mang khít mặc vừa. Nếu có can đảm mặc vào thì chúng ta sẽ bị lúng túng, xùng xình trong những bộ áo quần quá khổ hay khó bước đi với những đôi giầy quá rộng. Chúng ta có thể đồng hóa mình với người con hoang đàng. Có lẽ không ai trong chúng ta bị chìm sâu trong vũng tội để xuống cấp đến độ ao ước ăn những thức ăn của heo mà cũng chẳng ai bố thí cho. Nhưng chúng ta là những người thuộc đoàn thể này hay mang chức vụ nọ trong giáo xứ, hoặc ít ra là một kitô hữu cố gắng đi nhà thờ, tham dự Thánh lễ thường xuyên thì chúng ta rất có thể đóng vai trò người con trưởng. Bởi lẽ như nhóm biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu, chúng ta thường tự cho mình là những người lành thánh, vì thế chúng ta dễ dàng phê bình, chỉ trích, khinh dể và lên án những ai sa ngã phạm tội, nhất là những người mang tính hư tật xấu mà ai cũng biết.
Ngoài việc học và áp dụng từng bước về lòng thương xót và nhân từ của người cha nhân hậu, chúng ta phải cố gắng biến đổi hội đoàn hay biến giáo xứ của mình thành những cộng đoàn Kitô hữu đích thực, những cộng đoàn Kitô biết thông cảm, biết đỡ nâng và tha thứ để những người đã trót lỡ sa ngã có thể can đảm trỗi dậy và trở về với cộng đoàn thay vì chạy trốn bỏ nhà thờ, bỏ cộng đoàn, qua đó bỏ Giáo Hội, vì họ sợ những cái nhìn soi mói, họ sợ những cái lắc đầu lên án, họ sợ những lời mỉa mai chỉ trích của những người đồng đạo như cô gái bị chửa hoang, như anh chàng mắc bệnh sida đã được đề cập đến ở trên, hay những người nghiện ngập matúy, nghiện rượu, những người bất tín trong cuộc sống hôn nhân, những cô gái sa cơ lỡ bước… thường phải kinh nghiệm trong chính cộng đoàn, hay trong chính giáo xứ của mình. Làm cách nào để những hạng người đó, những gia đình hay những anh chị em của chúng ta tìm gặp nơi cộng đoàn Kitô những cái nhìn thông cảm, những lời nói an ủi khích lệ, những bàn tay đỡ nâng để giúp họ ngoi lên khỏi vũng bùn lầy tội lỗi để họ can đảm từ bỏ tính hư tật xấu mà trở về tận hưởng hồng ân tha thứ của Thiên Chúa, cũng như tình thương yêu ấp ủ của mái ấm gia đình, của mái nhà chung giáo xứ và của tình người trong xã hội.
Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 - 1/10 - ½ ). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc – người ta thường nói “đồng tiền liền khúc ruột – và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
B. ... nẩy mầm.
1. Thật cảm động thái độ ân cần của người chăn chiên đối với con chiên đi lạc: chỉ vì một con chiên nhỏ trong bầy 100 con mà đành bỏ mọi việc để chỉ làm một việc là đi tìm nó, tìm thấy rồi thì vác nó trên vai, mời bạn bè và hàng xóm đến chung vui. Thái độ của người đàn bà mất tiền cũng thế: chỉ một đồng quan mà tìm rất cực khổ và kỹ lưỡng: thắp đèn, quét nhà, moi móc, và cũng mời bạn bè hàng xóm chung vui khi tìm thấy. Nhưng cảm động hơn nữa là cảnh trên thiên đàng: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Chúng ta hãy im lặng. Không cần suy nghĩ, chỉ chiêm ngưỡng, cảm xúc và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa đối với tội nhân.
2. “... hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn”: Những kẻ thấy mình “không cần phải sám hối ăn năn” là những người nghĩ rằng mình “công chính”, nhưng thực ra họ không phải là người “công chính” thật. 99 người như thế không đáng là gì cả so với chỉ một người biết mình tội lỗi nên ăn năn sám hối.
3. “Một trong những hiện tượng tiêu cực rất phổ biến, đó là ở đâu và thời nào tâm lý con người cũng giống nhau: ai cũng tự đặt mình vào tư thế quan tòa để xét xử, kết án người khác. Chúa Giêsu cảm thông tha thứ mọi yếu hèn của con người. Ngài đồng bàn với người tội lỗi, thể hiện tình bạn với họ. Nhưng chỉ có một thái độ Ngài không thể dung tha, đó là thái độ của những người tự cho mình thánh thiện tẩy chay và kết án người khác. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ như thế, vì đó là tước quyền Thiên Chúa: chỉ một mình Ngài mới có quyền xét xử” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
4. “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất”. (Lc 15, 6)
Vui với tôi bạn nhé, tôi lại tìm thấy được tình yêu. Đôi mắt tôi không còn nhìn anh em với những thành kiến hẹp hòi. Lời nói tôi thôi làm bạn đau đớn. Tai tôi biết lắng nghe bạn trân trọng, cảm thông. Bàn tay tôi trong tay bạn, ấm nóng yêu thương nhiệt thành. Và tôi đến với bạn với cả tấm lòng của kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương. Người đặt tình yêu của mình trong hình ảnh bạn và trong mắt tôi.
Tạ ơn Chúa đã cho con hạnh phúc của người tìm lại được tình yêu bị lãng quên. Xin Cha cho con luôn biết gìn giữ, trân trọng tình yêu của người. (Hosanna)
5. Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể: một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai, người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách làng xóm. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà qui chánh thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong diã thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra toà vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con. Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin Mừng thánh Luca.
6. Riêng dụ ngôn người cha nhân từ giống như một bộ tranh gồm 3 bức. Bức nào cũng đáng ta chiêm ngưỡng:
- Hãy nhìn bức tranh người cha, và chiêm ngưỡng tấm lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa.
- Hãy nhìn bức tranh đứa em, để suy nghĩ về con đường hư đốn của kẻ tội lỗi và con đường trở về của kẻ sám hối.
- Hãy nhìn bức tranh người anh, để thấy cõi lòng “người công chính” có thể trở nên hẹp hòi như thế nào.
7. Một bà già thường đến gõ cửa phòng Cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất ?’, sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa Cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con. - Thế bà có hỏi Ngài không ? - Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào ? - Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ?”
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không ? - Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao ? - Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi”
Cha xứ thở phào nhẹ nhỏm (Kể theo Đức Cha Px NVT)
8. “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30)
“Con trai của ba ! Hôm nay em con trở về. Cha biết con không thích và ganh tị với em. Điều này thì hợp lý vì nó đã ăn chơi đến tán gia bại sản mà khi quay về lại được cha yêu mến ! Nhưng con hãy thương cậu em một chút. Nó thiếu tình thương cha, tình cảm bạn bè, sự đầm ấm của gia đình, thậm chí còn bị khinh chê và đã từng nơm nớp lo sợ vì một nắm cám heo nhét cho đầy bụng. Lúc đó con mới thấy hạnh phúc biết chừng nào khi được sống cạnh cha, trong gia đình ấm cúng, nơi mà tất cả những gì của cha đều là của con. Vậy thì con ơi, có lẽ nào lại không muốn em con hạnh phúc như con. Hãy vui lên vì bây giờ bên cạnh con còn có thêm một người em nữa và niềm vui của chúng ta sẽ được nhân lên gấp bội…”
Lạy Cha, xin cho con cảm thấy hạnh phúc khi được sống bên cạnh Cha. (Hosanna)
Tờ Nature đã làm một cuộc thăm dò cả ba nhóm văn hóa khác nhau gồm Á Đông, Phi Châu, Âu Mỹ, để xem mẫu đàn ông nào được mọi người mến chuộng nhất hiện nay. Kết quả thật ngạc nhiên được tiến sĩ Kieran Lee của đại học St Andrew bên Tô Cách Lan công bố.
Mẫu người hấp dẫn nhất bây giờ thì giống nét của Johnny Depp hay Leonardo DiCaprio trong phim Titanic. Nghĩa là người đàn ông có nét đơn thành và mềm dịu, chứ không phải là những nét quá khôn lanh và xông xáo như mẫu John Wayne người hùng của những thập niên trước đây. Tiến sĩ Kieran Lee nhấn mạnh rằng không phải vì Leonardo DiCaprio đẹp trai đóng vai chính với Winslet trong phim Titanic mà được ưa thích, nhưng chính vì những nét ăn khách thời đại của anh chàng búng ra sữa và nghệ sĩ này mà đạo diễn Cameron đã chọn.
Nhà nhân chủng học David Perrett giải thích thêm rằng vì người có dáng hùng và hung hăng bọ xít thì mạnh kích thích tố testorsterone nên ít kiên nhẫn và chung thủy, lại hay gây gỗ khiến gia đình khó bề ổn định bền lâu.
DẤU CHỈ GÌ TỪ NHỮNG ĐỔI THAY?
Thôi thì các nhà nghiên cứu cứ tha hồ mổ xẻ mà tuyên bố những khám phá mới. Có người bảo rằng đây là dấu phụ quyền đang chuyển giao, vì cả vợ cùng chồng đều phải lao động như nhau thì cùng chia sẻ quyền lợi trong nhà bằng nhau, chứ không ai lấn lướt ai theo kiểu "một nam là có, mười nữ cũng vất đi" (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô)!
Chỉ biết chắc một điều là Leonardo thủ vai Jack Dawson con nhà nghèo mà khoáng đạt, ngô nghê mà thủy chung, nghệ sĩ mà hạnh phúc. Chả cần phải gò bó vào thủ tục rườm rà làm mất nét vui nhộn tự nhiên như đám hành khách hạng nhất với những bữa tiệc kiểu cách ngột ngạt. Jack Dawson không có được viên bích ngọc hình trái tim như người hôn phu tỷ phú tặng cho Rose, nhưng chàng có một trái tim bằng thịt biết rung động nhạy cảm làm cho Rose say mê chết được. Nắm bắt được cái cốt tủy của đời sống lại không phải là nét thu hút sao?
Biết đâu có thể một ngày gần đây người ta lại làm cuộc thăm dò khác về mẫu người đàn bà hấp dẫn nhất là những người sống nét đẹp tự nhiên trời cho thay vì quá sửa sang trưng diện. Đúng là thời điểm con người tìm về những gì giản đơn và tự nhiên chứ không phải là những phiền toái bày vẽ che đậy với những ước lệ làm mờ mắt.
Truyện vui kể về một bà mới trung tuổi mà đã bị bệnh chết. Đến cửa thiên đàng bà ta khóc lóc kêu xin tội nghiệp rằng bà còn nhiều con phải lo lắng. Thấy vậy Chúa động lòng thương hứa cho bà được về sống thêm ba mươi năm nữa.
Bà ta hớn hở trở lại trần thế sống tiếp tục săn sóc gia đình. Nhưng một ngày kia bà nổi hứng nảy ra ý tưởng đi sửa sắc đẹp cho bớt tiêu điều, vì còn sống lâu tới ba chục năm nữa cơ mà. Vậy là bà đi sửa môi hình trái tim, sửa mũi cho cao ráo, sửa mắt cho mở lớn ngơ ngác giống nai vàng, căng da mặt cho bớt lồi lõm và hút mỡ cổ cho thon... Xong công tác "tái thiết cơ sở", bà ta ung dung trở về nghĩ bụng phen này thiên hạ sẽ lác mắt. Nhưng chẳng may, vừa tới gần nhà thì bị xe đụng chết tại chỗ. Tới cửa thiên đàng bà ta trách Chúa liền rằng tại sao hứa với bà cho sống ba mươi năm nữa mà chưa chi đã nên nông nỗi này. Chúa nhìn lại kỹ bà ta mới giật mình: "Ủa, con hả? Cha cứ tưởng ai chứ! Sao con đổi khác quá vậy?!"
NGHE ĐƯỢC TIẾNG CHIM HÓT
Truyện kể về một đệ tử cứ phàn nàn với sư phụ"
- Thầy vẫn giấu con bí quyết cuối cùng của đời sống.
Và anh ta bắt đầu hồ nghi Thầy mình. Một ngày kia sư phụ rủ anh đi dạo trên đồi, có tiếng chim hót líu lo. Thầy mới hỏi:
- Con có nghe thấy tiếng chim hót không?
Lần đầu tiên đệ tử sực nghe được tiếng chim hót mà trả lời: Thưa Thầy, có ạ.
Sư phụ nói ngay: "Vậy bây giờ con đã biết Thầy không hề giấu con điều gì?"
Đệ tử đáp lại: "Vâng, con đã hiểu".
Nhà tu đức Anthony DeMello khi kể chuyện trên thì hỏi ngay: Có bao giờ bạn thực sự nghe được tiếng chim hót, thực sự thấy được một cái cây?
Bạn nói sao? Rằng bạn đã nghe cả ngàn con chim hót và đã thấy hàng triệu cây rừng? À, bạn đã thực sự thấy cái cây hay chỉ là nhãn hiệu? Khi mà bạn nhìn một cái cây và bạn chỉ thấy đó là cái cây thì quả thật bạn chưa thấy cái cây.
Khi nào bạn nhìn cái cây và bạn thấy một phép lạ, bấy giờ bạn mới thực sự thấy cái cây! Có khi nào tâm hồn bạn tràn ngập những kinh ngạc không diễn tả được thành lời khi nghe tiếng chim hót không?
TIN VUI GỬI VỀ NHÀ THUYẾT GIÁO ĐINH VĂN NGHỊ
Mẫu đàn ông hay đàn bà thu hút nhất bây giờ không ngờ lại là những nét đơn thành của cuộc sống, nhận ra được phép lạ của cuộc hiện hữu: màu sắc tươi tỉnh của chậu cây đang mỉm cười trên bàn đây, con sóc đang đùa giỡn ngay trước cửa sổ... Từng cái nhìn, từng cử động, tất cả đều kinh ngạc quá. Một người mù không bao giờ thấy được cảnh trí này. Một người bất toại không thể nhấc tay đánh máy như thế này được. Vậy chả lẽ cứ đợi cho đến khi bị mù hay bị liệt hoàn toàn mới thèm khát phút giây này hay sao?! Những ơn ban thì nhiều quá, tại sao mình không biết mở tay ra mà đón nhận với lòng biết ơn, lại cứ đi so bì để rồi thu mình lại, lấp phủ đi bằng cái vỏ dầy cộm khiến trở thành tù túng và đời sống trở thành nghèo nàn đi một cách tội nghiệp! Mà chính cái đua đòi càng ngày càng làm cho mình khổ sở thêm ra, đâu còn giờ mà hưởng được cái thú đã luôn sẵn đó.
Có lần được hân hạnh nói chuyện với nhà thuyết giáo Đinh Văn Nghị về nét đặc sắc của đường tu đức Việt, tôi được chỉ ngay là chữ hiếu. Hiểu một cách mộc mạc là nhận biết ơn, cảm được ơn. Cứ nhìn cụ thể một chén cơm, đâu phải tự nhiên mà có chén cơm trước mặt đây. Từ một cây lúa ở một cánh đồng với mưa nắng vất vả trồng cấy. Rồi phải trông trời trông đấy trông mây, bao tháng mong mỏi với ánh mắt tràn trề hy vọng, khi thấy đòng đòng bật lên rồi đâm bông, cho đến khi chín vàng. Mùa gặt với mồ hôi nhễ nhãi, rồi đập, rồi xay... có được một hạt gạo đâu phải là dễ! Rồi từ hạt gạo đến thành hạt cơm đâu phải của trời ơi. Rồi cái chén kia nữa. Bao công trình tim óc và nghệ thuật. Chả lẽ mình cắm đầu ăn mà không nhìn thấy gì sao?
PHÚT TỊNH TÂM
Hôm nay ngồi vào bàn ăn mình bỗng chiêm nghiệm cái chén cơm của nhà thuyết giáo mà thấy cuộc đời mình sao sung mãn quá. Và bỗng hổ thẹn khi sực nhận ra xưa nay mình giống hệt đứa con đi hoang trong Kinh Thánh. Kho trời đất thì lồng lộng bao dung vô tận, mà mình chỉ lo thu mình lại thành vỏ ốc to vo khiến phải đói khát đi ăn mày ăn xin những đồ phế thải ở vệ đường cuộc đời mà cũng chẳng ai thèm cho.
Và tim mình bỗng đánh nhịp bản hoan ca trở về khi cảm nhận được lượng từ tâm bao la và giầu có của đất trời. Mình mượn tâm tình của nhà thơ Tô Thùy Yên trong Ta Về mà tạ tội với trời và với đời:
Tiếng biển lời rừng nao nức giục Ta về cho kịp độ xuân sang. Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời. Cảm ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.
Biên giới của yêu thương chính là yêu thương không biên giới. Chúng ta phải yêu thương mọi người. Dầu vậy, có một hạng người tự nhiên chúng ta cảm thấy khó thương nhưng lại rất cần được thương, một hạng người bị khinh bỉ nhưng lại rất cần được nâng đỡ, đó là những kẻ tội lỗi.
Thực vậy, tội lỗi là điều xấu xa. Tất cả những gì liên quan tới tội lỗi cũng xấu xa như thế. Bởi vậy, kẻ tội cũng xấu xa. Như thế, phải chăng tôi sẽ ghét bỏ hết mọi người và phải ghét bỏ chính bản thân nữa, bởi vì tất cả chúng ta không nhiều thì ít đều đã phạm tội. Và như vậy, giữa người với người chỉ còn lại một sự ghét bỏ nhau mà thôi.
Quan niệm trên chắc hẳn sẽ không được chấp nhận. Kẻ điên khùng nhất cũng cho đó là sai. Đúng thế, tội lỗi thì xấu xa, nên phải ghét bỏ tội lỗi. Còn kẻ tội lỗi thì trái lại, họ là những người đáng thương, và hơn thế nữa tuy họ xấu về điểm này, nhưng lại tốt về điểm kia, như một câu danh ngôn đã bảo:
- Trong lồng ngực của tên tướng cướp, vẫn có được một mảnh tim vàng.
Vì thế, ghét bỏ họ là trái với lương tri, trái với giới luật yêu thương của Chúa.
Chính Chúa Giêsu cũng đã phân biệt rõ ràng tội lỗi và tội nhân. Ngài ghét bỏ tội lỗi nhưng lại khoan dung với tội nhân và dành cho họ một chỗ đứng đặc biệt trong trái tim đầy yêu thương của Ngài. Thực vậy, Ngài đã phán:
- Không phải người khỏe mạnh mà là những kẻ đau yếu mới cần thày thuốc. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi kẻ tội lỗi.
Chính vì họ mà Ngài đã xuống thế làm người, sinh ra trong nghèo hèn, lớn lên trong túng cực và đã chết đi trong tủi nhục. Ngài là vị mục tử tốt lành đã lên đường tìm kiếm họ. Ngài là người cha nhân từ luôn chờ mong họ trở về để mở rộng vòng tay tha thứ. Ngài đã thiết lập các bí tích để nuôi dưỡng, nâng đỡ vàchăm sóc cho họ. Ngài lại còn xác quyết:
- Một kẻ tội lỗi xám hối ăn năn sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần ăn năn xám hối.
Tóm lại, suốt cả cuộc đời Ngài đã tận tụy hy sinh cho họ. Vậy kẻ tội lỗi là ai ?
- Là bản thân tôi và những người chung quanh.
Phải, tôi tội lỗi hơn nhiều người khác, thế mà cũng đã được Chúa yêu thương. Vậy tại sao tôi lại không yêu thương những kẻ tội lỗi như Chúa đã yêu thương tôi ? Nếu tôi cho rằng họ xấu xa, tại sao tôi lại không nhận ra rằng chính tôi cũng xấu xa và còn xấu xa hơn họ nữa ? Nếu tôi bảo rằng họ chẳng đáng thương, tại sao tôi không nhận ra rằng chính tôi là kẻ kiêu căng, ích kỷ và chẳng có một điểm nào dễ thương cả ? Nếu tôi cư xử tệ bạc với họ, tại sao tôi không nhớ rằng tôi cũng sẽ bị Chúa cư xử lại như vậy ? Tên đầy tớ bất lương, vì không tha cho người bạn mấy đồng bạc lẻ, nên đã không được nhà vua tha cho món nợ kếch xù, mà còn bị tống giam cho tới khi trả xong đồng bạc cuối cùng. Hay như lời kinh Chúa đã dạy:
- Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Nếu tôi tội lỗi mà còn được Chúa yêu thương, thì tôi cũng phải yêu thương những kẻ tội lỗi, như Chúa đã yêu thương tôi.
Vậy chúng ta phải yêu thương họ như thế nào ?
Trước hết, hãy cầu nguyện cho họ.
Thực vậy, lời cầu nguyện của chúng ta tuy âm thầm, sự góp phần của chúng ta tuy nhỏ bé, nhưng cũng sẽ cứu được nhiều linh hồn.
Chúng ta chỉ là một dụng cụ tầm thường, nhưng nếu được đặt vào bàn tay của Chúa, chắc chắn Ngài sẽ biến đổi để chúng ta có thể thu lượm được những thành quả to lớn.
Thứ đến, hãy bênh đỡ họ như mẫu gương của Chúa.
Thực vậy. Ngài không bao giờ đứng về phía bọn biệt phái kiêu căng mà kết án những kẻ tội lỗi. Trái lại, Ngài luôn bênh vực, thông cảm và khoan dung đối với họ.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về người đàn bà ngoại tình. Chiếu theo luật Maisen, chị ta sẽ bị ném đá cho chết. Thế nhưng, Chúa Giêsu chỉ nói với bọn biệt phái:
- Ai trong các ngươi vô tội thì hãy ném hòn đá thứ nhất đi.
Rồi Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên đất, không nhìn và cũng không nói. Lúc ngẩng đầu lên, chỉ còn thấy người đàn bà, Ngài bảo:
- Không ai kết án chị sao ? Vậy tôi cũng chẳng kết án chị đâu. Chị hãy về và đừng phạm tội nữa.
Nếu có mặt ở đó, hẳn chúng ta đã về hùa với bọn biệt phái để kinh bỉ, kết án và ném đá chị ta. Còn thái độ của Chúa Giêsu thì khác. Ngài đã bênh đỡ và tha thứ cho chị ấy.
Trên thập giá cũng vậy, Ngài đã tìm cách bênh vực và cắt nghĩa tốt cho tội lỗi của bọn lý hình:
- Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Thái độ của Chúa là thế, luôn bênh đỡ, cảm thông và tha thứ cho kẻ tội lỗi.
Sau cùng, hãy tiếp xúc với họ.
Trong Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn làm như vậy. Matthêu là một người thu thuế mang nhiều tai tiếng, thế nhưng Chúa đã đến dùng bữa tại nhà ông cùng với nhiều kẻ tội lỗi khác. Chính Ngài cũng đã kêu gọi và tuyển chọn ông làm tông đồ của Ngài.
Giakêu cũng là một người thu thuế nổi tiếng tham nhũng, bị mọi người xa tránh, thế nhưng Chúa Giêsu đã viếng thăm gia đình ông và đã cảm hóa được ông.
Rồi bên bờ giếng Giacóp, người đàn bà đến kín nước là người đã có năm đời chồng, chính Chúa Giêsu đã bắt chuyện trước với chị ta, để rồi cảm hóa và dẫn đưa chị ta trở về đường ngay nẻo chính.
Còn chúng ta thì sao ? Mặc dù phải đề phòng, dè dặt và khiêm tốn, nhưng không phải theo kiểu bọn biệt phá là xa lánh và kết án. Đừng muốn sống Phúc âm hơn Chúa Giêsu kẻo sẽ trở thành những kẻ sống ngoài Phúc âm của Ngài.
Có một bà già nghèo túng và tội lỗi, sống cô độc ở một nơi hẻo lánh. Người ta cho rằng bà là một mụ phù thủy độc ái, không ai dám bén mảng tới gần túp lều tranh của bà và cũng chẳng ai nghĩ đến chuyện bà đã làm gì để sinh sống.
Nhưng rồi vào buổi sáng nọ, một cô bé đánh bạo rủ mấy nhỏ bạn đến thăm bà. Cô bé đã biếu bà một bó hoa mà cô bé hái được ở dọc đường. Trong lúc thăm viếng, cô bé đã ân cần hỏi han và đối xử với bà bằng những cử chỉ lễ phép. Đó là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm tháng bị bỏ rơi bà đã mỉm cười và thích thú.
Chúa đã dùng bàn tay của cô bé để gõ cửa trái tim chai cứng của bà. Bà cảm thấy mình vẫn còn được Thiên Chúa và mọi người yêu thương. Bà bắt đầu đọc kinh Lạy Cha, lời kinh mà bà đã quên lãng từ lâu.
Mấy ngày sau, người ta phát giác ra bà đã chết trong túp lều của bà. Gương mặt không còn nhăn nheo và xấu xa, nhưng toát ra một vẻ an bình và thánh thiện. Bà nằm chết, đôi tay còn nắm chặt bó hoa đồng nội mà cô bé đã trao tặng. Bó hoa ấy đã dẫn đưa bà trở về cùng Chúa.
Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác đứng thay vào chổ đó. Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám phá ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh: “Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa.
Dù có u mê đến đâu thì ai cũng nhận thấy rằng cách đối xử với tội nhân của thiền sư Sengai mang dáng dấp bất thường khác lạ với quan niệm và thái độ chung của mọi người, nhưng lại phản ảnh được một chút nho nhỏ cách đối xử của Chúa với tội nhân mà bài Phúc Âm hôm nay trình bày.
Thật vậy, phần đông chúng ta, có lẽ vì còn mang nặng tự ái kiêu căng và quá bon chen, ganh đua quyền lợi, nên trong cuộc sống thường ngày dễ sinh ra xích mích, tranh chấp, ghen ghét, oán giận. Và một khi đã không ưa nhau, nghi ngờ nhau, thiếu thông cảm, tất nhiên ý nghĩ, cái nhìn về nhau bao giờ cũng khắt khe, soi mói, dè dặt. Huống chi, khi biết hoặc thấy được lỗi lầm của người khác thì thái độ, cách cư xử của chúng ta với họ không phê bình chỉ trích ác ý thì cũng tỏ vẻ khinh thường, ruồng rẫy họ.
Trái lại, khi so sánh cách đối xử của Chúa với tội nhân hoàn toàn khác với quan niệm và cách đối xử của chúng ta khiến chúng ta không dám trách móc Chúa như dân Do thái xưa, nhưng lại không đồng tình chấp nhận. Bởi vì, chỉ nhìn qua cách tiếp xúc cũng như nghe qua những lời dạy của Chúa thì cũng dễ dàng nhận thấy rằng Chúa thương yêu và tôn trọng các tội nhân như thế nào rồi. Đặc biệt, qua mấy dụ ngôn diễn tả lòng nhân lành của Chúa, chúng ta thấy Chúa dường như quên hết mọi chuyện khác mà chỉ chú tâm lo lắng khi con người lìa xa Chúa và khi họ quay trở về với Chúa thì Chúa vui mừng đến phát điên. Điều này chứng tỏ không phải Chúa làm như thế để khuyến khích con người phạm tội, nhưng muốn nói lên rằng mục đích Chúa xuống trần gian là dùng đủ mọi cách, ban đủ mọi ơn để thương yêu, tha thứ, để sẵn sàng ra tay cứu vớt tội nhân khỏi nanh vuốt của ác thần hơn là lên án trừng phạt họ.
Chính vì lẽ đó, khi đặt bài Phúc Âm này vào Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mong muốn chúng ta phải nhận thức rằng để trở thành con cái, môn đệ , bạn hữu thực sự của Chúa thì chúng ta hãy cố gắng thực hiện hai điểm này:
Thứ nhất phải thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lầm lỡ, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt trước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, biết cầu nguyện cho anh em.
Thứ hai hãy nhớ rằng mình cũng là tội nhân. Một trong muôn cái sai lầm của con người là chỉ nhìn người khác mà quên nhìn mình, chỉ để ý đến tội người khác mà ít quan tâm đến tội mình. Điều đó muốn nói rằng mỗi người chúng ta đều cần đến sự thương yêu tha thứ của Chúa và sự rộng lượng bao dung của anh em để có cớ hội và điều kiện mà ăn năn sửa sai. Nhất là khi lầm lỡ sa ngã trầm trọng thì cũng đừng quá lo lắng buồn sầu mà dễ sinh lòng thất vọng chán nản, buông xuôi, nhưng hãy đặt niềm tin tưởng vững chắc nơi tình thương tha thứ của Chúa và can đảm nhờ anh em giúp đỡ. Dĩ nhiên, khi tin tưởng Chúa thương ta và sự thông cảm của anh em không có nghĩa là ta cứ lì lợm trong sự sa ngã, nhưng nhờ Chúa và anh em thúc đẩy ta quyết chí, hăng hái trong việc sám hối sửa mình.
Hình ảnh một chủ chiên bôn ba đi tìm con chiên lạc, một người đàn bà vất vả tìm đồng tiền mất và một người cha mong ngóng con hoang trở về cũng đã đủ để nói lên rằng Thiên Chúa quá giàu lòng xót thương với hết mọi người, nhất là tội nhân, nhưng đó cũng phải là cung cách sống của mỗi người chúng ta với Chúa và với anh em.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhằm mô tả bức chân dung của Thiên Chúa như một người Cha đầy tình yêu thương và hay tha thứ. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhìn và suy nghĩ về hình ảnh của anh con trai hoang đàng để nhận ra bóng dáng mình qua hình hài của anh con trai ấy, đồng thời cũng để nhận ra thân phận mình sẻ khốn khổ thế nào khi chúng ta liều mình sống trong tội lỗi.
Theo luật Do thái, con cái trong nhà có quyền hưởng gia tài cha mẹ để lại, nhưng chỉ thực sự được hưởng khi cha mẹ đã khuất bóng. Nếu cha mẹ còn sống, con cái không có quyền đòi hỏi. Vậy mà trong bài Tin Mừng, anh con trai thứ lại đòi cha chia gia tài cho mình khi ông còn sống , còn mạnh khoẻ. Làm như thế có khác gì anh bầy tỏ lòng mong ước cho cha anh mau chết. Rồi sau khi nhận phần gia tài, anh đã bỏ cha, bỏ gia đình ra đi. Ra đi như thế có khác gì anh nói với cha anh: Tôi ở nhà ông chán quá, ngộp thở quá, mất tự do quá. Và khi ra đi như thế, hẳn là anh đã mường tượng ra một khung trời tươi sáng, tự do và hoan lạc đang chờ đón anh trước mặt…
Nhưng cuộc sống thực tế đã dạy cho anh những bài học đích đáng, đã mở mắt để anh thấy nhiều điều đắng cay. Bạn bè anh vây bọc quanh anh, tán tụng anh, bợ đỡ anh khi anh còn tiền còn bạc, nhưng lại tránh xa anh khi anh tay trắng. Lạc thú anh tận hưởng không phải là những trái ngọt mà là những viên thuốc độc bọc đường đã giết chết đời anh. Khi ra đi anh tưởng mình sẽ là một ông hoàng, những giờ này anh chỉ là một tên chăn heo với một ước vọng rất tầm thường là được ăn cám heo cho no bụng mà cũng không được. Từ cương vị một người con trong gia đình, anh đã tự hạ thấp mình xuống đến độ không bằng một con heo.
Anh con trai này được đề cập đến như đại biểu của những người tội lỗi, trong đó có mỗi người chúng ta. Khi phạm tội ta cũng mong cho Thiên Chúa hãy chết đi, tiếng nói lương tâm hãy chết đi, những lời khuyên răn, những gương sáng hãy chết đi để ta được tự do phạm tội. Nhưng những tội lỗi và chúng ta tưởng là những trái chín ngọt ngào đã chỉ để lại nơi miệng ta cảm giác đắng đót, để lại nơi lòng ta sự ray rứt khôn nguôi, để lại trong tâm ta sự bất an và biết bao tai ương khác cho bản thân mình và cho người khác. Ta tưởng mình tự do khi muốn làm gì thì làm. Nhưng thật sự ta đã biến mình thành nô lệ cho tội lỗi, cho những thú tính ở trong ta. Cố tình sống trong tội lỗi, ta tự hạ thấp nhân phẩm của mình xuống ngang tầm con vật, bởi lẽ con vật không phân biệt tốt xấu, đúng sai mà hoàn toàn sống theo sự sai khiến của bản năng.
Ngày hôm nay cả thế giới đang báo động về đại họa của bệnh Sida, của sự ô nhiễm môi trường, của sự suy thoái về đạo đức, về nhân cách nơi các tầng lớp. Người ta lo ngại về những băng nhóm chỉ biết ăn chơi, quậy phá, đâm chém, cướp giật…Tất cả những điều ấy lại chẳng phải là hậu quả của việc sử dụng tự do cách bừa bãi, là trái đắng do tội lỗi mang lại cho mọi người hay sao ?
Mong rằng những kinh nghiệm đớn đau ấy sẽ trở thành một lời cảnh tỉnh, một lời nhắc nhở để chúng ta hiểu rằng: hạnh phúc thật chỉ có nơi Thiên Chúa, và chỉ mình Người mới có thể lấp đầy những khát vọng của ta, hầu chúng ta can đảm khước từ những lời mời mọc đầy hầp dẫn của tội lỗi.
Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba đứa con thứ được một phần ba gia tài. Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói vào mặt cha nó: “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi…
Nó nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa đối với người Do thái. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó hồi tâm tự nhủ, trở về với chính mình”. Chúa Giêsu tin rằng bao lâu con người xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không thự sự là chính mình khi đang trên đường trở về nhà. Nó quyết định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con trở về, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, đôi dày là dấu hiệu làm con, và yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang nay đã trở về.
Loài người có ba điều quý: Tài sản, tiền bạc và con cái. Cả ba đều mất, mất lớn lao đáng tiếc. Chúa không mất súc vật, tiền bạc, nhưng mất loài người, mất cái quý báu nhất, không gì sánh bằng. Và Ngài tiếc như ta tiếc của cải, tiền bạc, con cái.
Khi mất một phần trăm đã tiếc, mất mười phần trăm tiếc hơn, mất năm mươi phần trăm tiếc hơn nữa. Nhưng Thiên Chúa mất hết, mất từ thời Ađam, nên Chúa lập cách cứu loài người: “Con người đến tìm kiếm những gì đã mất”.
Khi nghiên cứu nguyên nhân đưa tới việc mất, chúng ta thấy khác biệt. Con chiên bị lạc mất vì hoàn toàn ngu dại. Nó không biết suy nghĩ, nhưng có nhiều người sẽ tránh được tội lỗi nếu họ suy nghĩ kịp thời. Đồng tiền bị mất vì không phải lỗi của chính nó. Có người đi lạc đường vì bị kẻ khác lừa dối, và Thiên Chúa không kể là vô tội kẻ nào xui kẻ khác phạm tội. Đứa con tự ý đi lạc, nhẫn tâm quay lưng lại với cha mình.
Nhưng Thiên Chúa có thể dùng tình yêu của Ngài chiến thắng sự dại dột của con người, chiến thắng những tiếng cám dỗ, và chiến thắng cả sự phản bội của con tim chúng ta nữa. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn nữa.
Ngày 13/05/1981 giữa lúc hàng chục ngàn người chen chúc nhau tại công trường Thánh Phêrô để đón Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên làm mọi người đứng tim, Đức Thánh Cha đã ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: một vị Giáo hoàng bị mưu sát. Ali Agca, hung thủ tội ác, bị bắt ngay tại chỗ. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này bị giam tại nhà tù Rebibbia ở Rôma, cả thế giới còn kinh ngạc hơn nữa: Đấng bị thảm sát đã đến nói chuyện với kẻ sát hại mình. Không ai biết hai bên nói gì. Nhưng người ta rất cảm động thấy Đức Thánh Cha bắt tay Ali Agca với nụ cười rất trìu mến.
Đây là hình ảnh sống động nhất về tình yêu Đức Giêsu niềm nở đón tiếp các tội nhân. Đức Thánh Cha, vị đại diện Đức Giêsu, bị bắn gục, vẫn tỏ lòng rất nhân từ đối với kẻ tội ác. Ali đã nhập vào đoàn hành hương của đoàn chiên hiền lành đang vui mừng chào đó chủ chiên đến thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng tinh thần đoàn chiên bằng lời hằng sống. Ali như con chiên ghẻ, như đứa con phung phá, xô đến giết chủ chiên, giết cha mình, nhưng người cha hiền, người mục tử nhân hậu đã sẵn sàng liều chết đến cứu đứa con hư, sẵn sàng tha thứ, hòa giải và vui mừng ôm lấy đứa con trở về.
Bài Tin Mừng nói lên tình yêu của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi qua ba dụ ngôn: Chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con đi hoang. Mỗi dụ ngôn diễn tả một sắc thái đậm tình sâu thẳm.
Ông chủ có 100 con chiên, Chúa chỉ lạc một con giữa cảnh bao la rừng núi, biết đâu mà tìm, thế mà với đôi chân trần đạp trên sỏi đá, gai gốc, ông đã chạy lang thang khắp nơi để tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 con còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm ông nghèo đi chút nào ! Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng: Bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con được ông cho giá trị như 99 con. Nó giống như Đại tướng bất cứ giá nào cũng không để chết đi một người lính quèn, một người lính được coi như cả một đoàn quân. Chết một tên lính gác, có thể chết cả đoàn quân.
Đức Giêsu như chủ chiên, mỗi người dù chẳng đáng gì, nhưng đều được Người thương yêu đặc biệt nhưng không. Người tội lỗi như yêu tất cả các thánh. Người đánh giá mạng sống mỗi người hơn tất cả lời lãi thế gia. Vì thế, “cả triều thần thiên quốc, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Đức Giêsu còn đặc biệt tôn trọng từng người tội lỗi: Người ăn uống với họ, tọa đàm với họ và còn vui mừng vác họ lên vai.
Thực ra, tình yêu Thiên Chúa đối với con người không thể so sánh với bất cứ dụngôn nào được. Chủ với chiên cũng chỉ là loại thụ tạo, còn Thiên Chúa với con người cách xa nhau vô cùng. Thiên Chúa là Đấng tạo hóa, con người là thụ tạo. Thiên Chúa thánh thiện cao sang vô cùng, con người tội lỗi và thấp hèn như bùn đất. Thế mà, Thiên Chúa đã bỏ trời vinh quang xuống thế chịu chết, cứu vớt con người. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với tội nhân không ai hiểu thấu”.
Trong Tông thư ngàn năm thứ ba đang đến, Đức Gioan Phaolô II đã kêu gọi toàn thể Giáo hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm về những lầm lỗi của mình trong quá khứ. Con cái Giáo Hội phải gánh chịu phần trách nhiệm trong việc làm phát sinh óc bài Do Thái, dẫn sát tế sáu triệu người Do Thái do Đức quốc xã chủ trương trong thời đệ nhị thế chiến. Các Kitô hữu cũng phải đấm ngực về những lầm lỗi khác, từ các cuộc thập tự viễn chinh đến việc buôn bán nô lệ qua các cuộc chiến tôn giáo.
Thật ra, đấm ngực xin lỗi không phải là điều phi thường trong Giáo Hội. Mỗi ngày từng giây từng phút trên khắp thế giới, nơi nào có thánh lễ cử hành, thì nơi đó Giáo Hội, qua các kitô hữu, vừa đấm ngực vừa nói: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, Giáo Hội đấm ngực xin lỗi vì ý thức rằng mình gồm những con người tội lỗi.
Sám hối ăn năn vốn là tâm tình cơ bản nhất của người Kitô hữu. Một đức tin càng trưởng thành, lòng sám hối càng thiết tha sâu đậm.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mượn hình ảnh người chăn chiên bỏ chín mươi chín con khác, để đi tìm một con chiên lạc, và cảnh người phụ nữ đốt đèn lục lạo tìm kiếm cho được đồng quan đánh mất, để nói lên thái độ ưu ái của Ngài đối với người tội lỗi. Thiết lập những luật lệ về thanh tẩy khắt khe và thiếu khách quan, các biệt phái và luật sĩ loại trừ những người thu thuế và các tội nhân ra khỏi bàn ăn của họ, và loại trừ Ngài kết thân với họ, Ngài nên một với họ. Qua hành động này, Chúa Giêsu thể hiện chính lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với mọi người, không trừ ai. Thiên Chúa yêu thương mọi người, nhưng Ngài dành ưu ái cho những người tội lỗi, hay đúng hơn cho những ai nhận ra mình tội lỗi. Càng ý thức thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu và lòng nhân từ của Chúa, và càng dễ cảm thông với người khác.
Chúa Giêsu đã đến để thực hiện công cuộc hòa giải của con người với Chúa và với nhau. Chỉ khi nào con người thực sự biết đấm ngực về những lỗi lầm của mình, thì con người mới cảm nhận được hồng ân cứu chuộc của Thiên Chúa được thực hiện trong và qua Chúa Kitô, đồng thời mới thấy được sự thúc đẩy xích lại gần với người anh em của mình hơn.
Ước gì cử chỉ đấm ngực xin lỗi của chúng ta trong mỗi thánh lễ, không là một công thức trống rỗng, mà là một cam kết sống tinh thần sam hối và hòa giải thực sự với Chúa và với anh em.
Câu chuyện dụ ngôn con chiên lạc, dồng bạc mất và dứa con hoang trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta dã nghe di nghe lại rất nhiều lần. Ðây không phải thuần túy là một câu chuyện nhung nó mang một ý nghia thâm sâu về tình thuong, on tha thứ của TC dối với kẻ có tội biết an nan hối cải.Ðồng bạc bà goá dã dánh mất, bà cố tìm lại cho bằng duợc vì nó là của riêng của bà. Vì dồng tiền nó liền khúc ruột, mất di bà dau lòng lắm. Khi tìm lại duợc bà mừng rỡ, vội mời bà con hàng xóm dến chia vui an mừng cho dù có tốn kém ba bốn dồng bà cung không màng. Bà an mừng vì dã tìm lại duợc cái của bà dã mất. Nguời có con chiên lạc, ông di tìm cho bằng duợc vì nó là tài sản của ông, hon nữa nó còn là bạn của ông. Giữa chốn dồng không mông quạnh nầy, chủ và chiên sống gần gủi nhau, ông thuong nó và nó mến ông. Giả dụ có ai cho ông một con chiên nữa, thì bầy chiên ông có thêm con số là 101 con.
Chắc ông vui lắm nhung không dến dổi phải làm tiệc an mừng, sỏ di ông an mừng vì ông dã tìm lại duợc con vật mà ông thuong mến. Còn về dứa con hoang trong dụ ngôn thứ ba, nó dã làm một quyết dịnh sai, một lựa chọn xấu là dòi chia tài sản lúc cha già còn sống, tệ hon nữa, nó dã bán di dể tiêu xài phung phí. Ðối với nguời Do thái, bán dất là diều tối kỵ vì dất là Linh dịa (Holy Land) là Ðất hứa (Promised Land) mà TC dã ban cho Dân riêng Nguời. Trong sách Các Vua quyển 1 (21: 3) Nông gia Nabaoth dã từ chối bán dất cho Ahab, vua xứ Samari: Xin TC dừng dể tôi nhuợng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài. Bán dất là khuớc từ phần gia nghiệp dời dời mà TC dã ban cho. Thứ dến là nó còn phạm một tội khác nữa là khuớc từ trách nhiêm làm con dối với cha mẹ già. Nguời xua có câu: Phụ mẫu tồn bất khả viễn du. Cha mẹ già sống cậy dựa vào con cái. Bỏ nhà ra di lúc cha mẹ già nua tuổi tác là dại bất hiếu.Ðồng bạc, quý thật, trị gía bằng một ngày lao dộng. Bà goá dã vô tình dánh mất nó chứ nó có tội tình gì dâu vì nó là vật vô tri. Con chiên di lạc vì dôi mắt nó kém, lại ham an cỏ, nên di lạc, chủ thuong di tìm nó, bằng không nó sẽ bị sói rừng an thịt mất, nó dâu biết duờng mà về và nó dâu có biết hối hận là gì.Trái lại, nguời con hoang biết hối hận: Thôi, tôi dứng lên di về cùng cha tôi. Và cả ba truờng hợp dều kết thúc bằng bữa tiệc an mừng. Nhung bữa tiệc mà nguời cha dành cho dứa con mình thì quá linh dình, có thịt béo, ruợu ngon, có dàn ca có nhảy múa, dó là hình ảnh bữa tiệc Nuớc trời. Mọi nguời dều an uống no say, mọi nguời dều hân hoan vui mừng. Mọi nguời, tất cả mọi nguời. . . duy chỉ trừ có nguời anh cả là không vui, không vào dự tiệc, vì anh tự cho mình là nguời công chính: Con không hề lỗi phạm diều gì.
Do dó, tự anh, anh dã dánh mất phần gia nghiệp Nuớc Trời. Trên trời, ai nấy sẽ vui mừng vì một nguời tội lỗi an nan sám hối hon là chín muoi chín nguời công chính không cần phải sám hối an nan. (Lc 15:7) An nan sám hối dẫn dến on cứu dộ. Truớc khi về trời, Ðức Giêsu dã nói mấy lời cuối cùng nầy với các môn dệ:Hãy rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối dể duợc on tha tội. (Lc 24: 47) Qua ba dụ ngôn trên, Ðức Giêsu tỏ cho chúng ta biết những diều kỳ diệu sau dây:-Tình thuong của Chúa là một tình thuong dặc biệt, giữa con nguời với Chúa. Cá nhân ta là của riêng của Chúa cung nhu dồng bạc là của riêng của bà goá. -Tình thuong của Chúa là tình thuong không dòi hỏi diều kiện.Từ dời dời Chúa dã thuong tôi, thuong tôi lúc tôi có nghia cùng Nguời cung nhu lúc tôi phản nghịch với Nguời. Nguời di tìm tôi cho dến khi gặp lại duợc tôi nhu nguời chan chiên di tìm con chiên của mình. -Tình thuong của Chúa là một tình thuong trong hân hoan vui mừng trọn vẹn, tràn dầy, không hề pha lẩn chút hờn trách, lỗi lầm quá khứ nhu nguời cha dối xử với dứa con mình. Chúng ta là kẻ có tội, là dồng bạc dã mất, là con chiên di lạc, là dứa con hoang dã nhiều lần bỏ nhà ra di. Hôm nay, Chúa tìm lại duợc, vác lên vai dem về nhà, ngồi kề bên nhau và sắp sửa dự bữa tiệc mừng, tiệc Thánh thể. Chúng ta hân hoan vui mừng, muợn lời TV mà cám tạ TC vì tình thuong và on tha thứ của Nguời: Việc Chúa làm cho ta, ôi vi dại, Chúng ta mừng rỡ hân hoan trong một niềm vui. /.
Lời Chúa trong Chúa Nhật vừa rồi dã mời gọi mỗi nguời chúng ta làm một cuộc chọn lựa dứt khoát, dể di theo làm môn dệ của Ðức Giêsu. Sự chọn lựa này quả thật không dễ dàng, và nhất là việc sống trọn vẹn sự chọn lựa này cho dến cùng thì càng khó khan hon nữa. Thật vậy, trong cuộc sống của mình, chắc hẳn mỗi nguời chúng ta dều có kinh nghiệm chua xót về sự sa ngã và sự thất bại không thể thực hiện duợc những quyết tâm của mình. Và cung dã có những lần chúng ta có cảm thấy nhu tuyệt vọng truớc những yếu duối của mình. Thế nhung, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy rõ lòng thuong xót của Thiên Chúa. Cho dù chúng ta có yếu duối tội lỗi dến dâu thì Thiên Chúa vẫn luôn chờ dợi, thậm chí Ngài còn lên duờng dể dẫn dua chúng ta trở về lại với tình yêu của Ngài. Ðây quả là một tin mừng to lớn cho mỗi anh chị em chúng ta.
1. Tin mừng của lòng thuong xót: Trong bài dọc một, Môisen dã nại vào lòng thuong xót của Thiên Chúa dể xin Ngài tha thứ cho sự bội bạc, bất trung, cứng dầu, cứng cổ của dân Do Thái. Họ dã quên mất Thiên Chúa, Ðấng vừa giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, mà quay sang dúc tuợng bò vàng dể thờ lạy. Truớc lời kêu nài khẩn thiết của Môisen, Thiên Chúa “dã nguôi con giận, không thực hiện diều dữ mà Nguời de doạ phạt dân Nguời”. Nhu thế, lòng thuong xót dã chiến thắng tội lỗi, tình yêu dã vuợt qua sự bất trung. Còn bài dọc hai là lời tạ on của thánh Phaolô truớc tình yêu vô bờ mà Thiên Chúa dã dành cho thánh nhân. Thánh Phaolô tạ on Chúa vì Ngài dã thuong xót tha thứ cho sự kiêu cang của thánh nhân truớc kia, và hon nữa còn chọn thánh nhân làm tông dồ cho Chúa. Thánh Phaolô tâm sự với Timôthê: “Dù truớc kia cha là kẻ nói phạm thuợng, bắt dạo và kiêu cang, nhung cha dã duợc Thiên Chúa thuong xót”. Thánh nhân dã cảm nhận duợc lòng thuong xót của Thiên Chúa luôn deo duổi và quật ngã thánh nhân trên duờng Ða-mát, dể biến dổi thánh nhân từ một nguời hang say bắt dạo trở nên một “tông dồ dân ngoại”.
Kể từ khi bị Ðấng Phục Sinh quật ngã trên duờng Ða-mát, cho dù bản thân có gặp phải nhiều hiểu lầm và chống dối, cho dù có bị dòn vọt, tù tội … di chang nữa, thì dối với thánh Phaolô, tất cả vẫn là do lòng thuong xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa dã dùng tất cả những diều dó dể rèn luyện Phaolô trở nên một khí cụ sắc bén của Ngài, và nhất là qua dó, Ngài ban on cứu dộ cho Phaolô. Chính trong niềm xác tín vào tình thuong cứu dộ của Thiên Chúa noi Ðức Giêsu Kitô, thánh nhân nói với Timôthê: “Lời nói chân thật và dáng tiếp nhận mọi dàng là Ðức Giêsu Kitô dã dến trong thế gian nầy dể cứu dộ những nguời tội lỗi”. Và thánh nhân khẳng dịnh: “Trong số ấy, cha là nguời thứ nhất”. Thánh nhân dã thực sự cảm nghiệm duợc lòng thuong xót của Thiên Chúa noi bản thân mình. Lòng thuong xót của Thiên Chúa còn duợc thánh Luca làm nổi bật hon với các chi tiết thật bất ngờ và thú vị nhu chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng. Ðầu tiên là việc nguời chủ tìm duợc con chiên lạc và nguời dàn bà tìm duợc dồng bạc bị mất, cả hai dã làm một chuyện mà có lẽ chẳng ai trong chúng ta làm, dó là loan báo cho bạn bè thân hữu biết và mời gọi họ cùng chung vui với mình.
Niềm vui này lại duợc thánh Luca dẩy lên tới dỉnh diểm, với việc nguời cha dọn tiệc lớn an mừng vì khi con ông trở về. Mà dứa con này nào có phải là một dứa ngoan ngoãn, cham chỉ, học giỏi gì dâu. Ðúng ra dó là dứa con dã từng phá tán hết nửa phần gia tài của ông. Thế nhung ông vẫn vui mừng, vì dối với ông tài sản không quan trọng, con ông mới là diều ông quan tâm, bởi vì ông ý thức duợc rằng: “Ðuợc lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào duợc ích gì” (Mt 16, 26). Hay nói theo cách nói của cha ông chúng ta, tâm niệm của nguời cha trong bài Tin mừng này là “nguời còn thì của còn”, nguời quan trọng hon của.Lòng thuong xót của Thiên Chúa tuy bao la, nhung dể nhận duợc lòng thuong xót này, mỗi nguời cung phải biết lên duờng trở về với Thiên Chúa, nhu nguời con thứ lên duờng trở về với Cha nó.
2. Lời mời gọi trở về: Nếu nhu nguời mục tử dã lên duờng vuợt núi non dể tìm con chiên lạc, và nguời dàn bà dốt dèn lên soi mọi xó xỉnh, ngõ ngách trong nhà dể tìm cho duợc dồng bạc mất, dó là vì con chiên thì vô tri, còn dồng bạc thì lại không thể tự mình di chuyển. Còn nguời con trong câu chuyện thì muốn huởng duợc lòng thuong xót của cha, thì anh ta phải tự mình lên duờng trở về. Thật vậy, cho dù hết lòng thuong con, nhung Cha anh không thể làm tiệc, may áo mới, deo nhẫn, mang giày cho anh, nếu nhu anh không trở về. Nguời cha tuy hết lòng yêu thuong anh ta, sẵn sàng tha thứ cho anh tất cả, nhung ông vẫn không cuỡng ép anh, ông vẫn tôn trọng tự do và sự chọn lựa của anh. Và nếu xét kỹ, chúng ta thấy dó mới chính là tuyệt dỉnh của tình yêu.
Tình yêu thật không guợng ép nhung luôn dợi chờ, và sẵn sàng tha thứ. Mặt khác, chính vì nguời cha dể cho con mình tự quyết dịnh việc trở về của anh ta, nên hành vi này của anh ta trở nên có giá trị dặc biệt, vì dó là một hành vi duợc anh thực hiện với tất cả tự do và lý trí của anh. Anh dã từng quyết dịnh bỏ nhà ra di, an choi, phung phá, và giờ dây, anh cung phải tự mình quyết dịnh trở về với cha, cho dù việc trở về này chỉ vì anh ta sắp chết dói, nhung dù sao, dó cung là một quyết dịnh của riêng anh.3. Sống trong tình thuong xót:Lắng nghe lời Chúa hôm nay cung dòi mỗi nguời chúng ta một cuộc trở về thật sự.
Chắc ai trong chúng ta cung dã có một kinh nghiệm về sự vấp ngã không chỉ một lần mà thật nhiều lần của bản thân. Sự vấp ngã này nhiều dến nỗi lắm lúc làm chúng ta ngã lòng vì nghi rằng mình không dủ sức chỗi dậy, và không dáng duợc tha thứ. Nhung thật ra, tình yêu của Thiên Chúa là không giới hạn. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ tất cả, miễn là chúng ta nhận ra lỗi lầm của mình và dám dặt tất cả những yếu duối tội lỗi của chúng ta trong trái tim bị dâm thâu của Ngài. Ðồng thời với việc trở về dể dón nhận on tha thứ của Thiên Chúa, lời nguời cha trong bài Tin mừng nói với nguời anh: “Hỡi con,… phải an tiệc vui mừng, vì em con dã chết nay sống lại, dã mất nay lại tìm thấy” cung là lời mời gọi mỗi nguời chúng ta mở lòng mình, dể dón nhận sự trở về của anh chị em chúng ta. Chúng ta hãy can dảm trở về làm hoà với Thiên Chúa và anh chị em qua việc siêng nang lãnh nhận bí tích Giao Hoà. Giờ dây, tin tuởng vào lòng Chúa xót thuong, chúng ta thật lòng sám hối xin Ngài thứ tha mọi lỗi lầm của chúng ta, dể chúng ta xứng dáng tham dự vào hiến lễ của tình yêu, bí tích của hiệp nhất sắp duợc cử hành trên bàn thờ dây. Ðể rồi khi trở về nhà, chúng ta tiếp tục chia sẻ cho anh chị em mình tình yêu tha thứ của Thiên Chúa mà chúng ta dã lãnh nhận. Nhờ dó, ngày càng có nhiều nguời nhận ra tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
Richard Pindell có viết một chuyện ngắn nhan đề “Đứa con trai của một nguời nào đó” (Somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khổ quá, không chịu nổi cậu bèn viết một lá thu gởi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng đuợc ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thu nhu sau: “Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta. Vài ngày sau, David lên xe lửa đi về. Trong lúc tàu hoả lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ chớp lòe liên tục hiện ra trong trí cậu ta. Khi thì trên cây có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng cột miếng vải trắng nào. Xe lửa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hon. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra ở khúc quẹo, nhung David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang nguời đàn ông bên cạnh ấp úng nói: “Thua ông, ông có thể làm on giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cây. Ông làm on cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng không nhé”.
Khi xe lửa rầm rầm luớt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía truớc. Đoạn run run giọng cậu hỏi nguời đàn ông: “Thua ông, có một miếng vải trắng treo ở một cành cây nào đó không?” ông ta sửng sốt trả lời: “Ồ, này cậu bé, cành cây nào ta cung thấy có cột một miếng vải trắng cả!”.
*****
Câu chuyện trên minh hoạ cho những gì Chúa Giêsu kể lại trong phần đầu bài dụ ngôn hôm nay. Ngài bảo rằng Chúa luôn luôn tha thứ cho chúng ta sau khi chúng ta phạm tội, và Chúa Giêsu còn cho biết thêm không những Chúa tha thứ cho chúng ta khi chúng ta phạm tội, mà sau đó Ngài còn đối xử với chúng ta nhu chúng ta chua hề phạm tội vậy. Điều này đuợc nhìn thấy rõ ràng qua ba hành vi của ông bố trong dụ ngôn hôm nay.
Truớc hết ông choàng tay ôm đứa con trai mình. Choàng tay ôm con tỏ cho thấy ông bố đón con về hết sức nồng nhiệt. Ông tuôn trào mọi cử chỉ trìu mến đối với đứa con trai.
Tiếp đó, ông xỏ giày vào chân cho cậu ta. Xỏ giày vào chân chứng tỏ ông đã tha thứ hoàn toàn cho cậu. Vào thời Kinh Thánh thuở xua, mang giày là dấu chỉ của một nguời tự do, còn đám nô lệ thì đi chân trần. Xỏ giày vào đôi chân trần của cậu con tức là xoá đi dấu hiệu thằng con ấy từng là nô lệ của một kẻ nào đó, và đồng thời trả lại cho cậu ta dấu chỉ cậu là đứa con trai trong gia đình .
Cuối cùng, ông bố trao nhẫn cho cậu con. Gắn nhẫn vào ngón tay cậu chứng tỏ ông bố phục hồi trọn vẹn cho cậu tình trạng truớc khi cậu bỏ nhà ra đi. Vì chắc chắn đây là chiếc nhẫn mang dấu ấn của gia đình . Đeo nó vào đồng nghia với đuợc quyền hành xử nhu một thành viên trong gia đình .
Và nhu thế, khi choàng tay ôm xỏ giày và đeo nhẫn cho đứa con trai. Nguời bố đã cho thấy ông hoàn toàn nồng nhiệt tiếp đón cậu ta, tha thứ hoàn toàn và phục hồi cho cậu ta trọn vẹn tình trạng truớc khi cậu bỏ nhà ra đi.
Từ đó chúng ta buớc sang phần cuối bài dụ ngôn. Phần này liên quan đến nguời con thứ nữa mà lại liên quan đến nguời con cả. Ông bố rộng luợng tha thứ bao nhiêu thì nguời anh cả này lại hẹp luợng với em bấy nhiêu. Anh ta không muốn buớc vào nhà để ăn mừng đứa em trở về dù ông bố đã nài nỉ anh ta vào. Dụ ngôn kết thúc mà không nói cho chúng ta biết cách cu xử của nguời con lớn. Liệu cuối cùng anh ta có chịu buớc vào dự tiệc mừng không? Hay vẫn đứng ở bên ngoài lẩm bẩm? lý do Chúa Giêsu không nói rõ ra là vì nguời con lớn đại diện cho đám luật si và biệt phái đuong thời, còn nguời con thứ đại diện cho đám dân tội lỗi và những kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Lúc đó, đám tội lỗi trộm cuớp này biết đáp lại lời kêu gọi thống hối của Chúa Giêsu và Ngài đã tha thứ cho họ, đồng thời tiệc tùng vui vẻ với họ. Điều này khiến các luật si và biệt phái căm tức. Họ cho rằng lu nguời tội lỗi kia lẽ ra phải bị trừng phạt chứ đâu lại đuợc tha thứ! Và nhu thế Chúa Giêsu không kết thúc dụ ngôn này mà lại nhuờng phần kết câu chuyện cho mỗi luật si và biệt phái viết thêm vào cho trọn. Mỗi nguời trong bọn họ đều nhận biết rằng mình là đứa con lớn và phải tự quyết định sẽ tha thứ và chung vui với nguời em hay nhất quyết không chấp nhận thứ tha và đồng bàn với nó.
Tất cả điều này muốn nói gì với chúng ta hôm nay? Theo tôi thì có hai điểm:
Thứ nhất lŕ Chúa Gięsu luôn sẵn sŕng tha thứ cho chúng ta sau khi chúng ta lỡ phạm tội.
Thứ đến, chúng ta phải biết tha thứ cho kẻ khác nhu Chúa đã thứ tha cho chúng ta. Hon nữa chúng ta còn phải tiếp nhận họ trở lại với trọn vẹn lòng quảng đại nhu Chúa đã cu xử với chúng ta, nghia là nồng nhiệt tiếp đón, tha thứ hoàn toàn, và hồi phục tình trạng ban đầu cho họ nhu xua.
Có một câu chuyện nói về tổng thống Lincoln nhu sau: Khi có nguời hỏi rằng ông sẽ đối xử với miền Nam nhu thế nào sau khi cuộc nội chiến kết thúc, ông liền trả lời: Tôi sẽ đối xử với họ nhu là họ chua bao giờ bỏ nhà ra đi”. Đây là điều chúng ta muốn ám chỉ từ ngữ: phục hồi trọn vẹn. Đây cung là cách thức Chúa Giêsu đối xử với Phêrô sau khi Phêrô chối bỏ Ngài vào đêm thứ năm Tuần thánh. Ngài không những thứ tha mà còn phục hồi ông về trạng thái nguyên thủy trong vai trò “đá tảng” trên đó Ngài sẽ xây Giáo hội Ngài. Lẽ ra Chúa Giêsu đã phải nói với Phêrô: “Thày đã dự tính một kế hoạch lớn lao cho con, nhung con đã làm hỏng bét. Phêrô à, thầy tha thứ cho con, nhung thầy sẽ trao cho con một vai trò kém hon, vì con đã làm thầy quá thất vọng”. Nhung Chúa Giêsu không làm nhu thế! Ngài vẫn đối xử với Phêrô nhu thể ông chua hề phạm tội.
Đây chính là cách thức chúng ta phải cu xử với những kẻ có lỗi với chúng ta. Chúng ta phải tha thứ cho họ và đem họ về với con tim chúng ta bằng tình yêu quảng đại nhu Chúa đã đối xử với chúng ta. Và nếu chúng ta làm đuợc điều này, chắc chắn khi lìa cõi đời này, khi tiến đến cổng trời, chúng ta cung sẽ nhìn thấy ở đó một cây táo, trên mỗi cành cây đều có cột một mảng vải trắng.
Chúng ta hăy kết thúc với lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin tỏ lòng thuong xót con, và lấp tràn đầy trái tim con tình yêu tha thứ của Chúa.
Con là đứa con thứ đã bỏ ra đi rồi lại trở về. Con cảm on Chúa đã đón nhận lại con.
Vŕ con cung lŕ nguời con lớn đã từng khu khu không chịu tha thứ cho anh chị em con nhu Ngài đã đã tha thứ cho con. Vậy xin Chúa hãy chạm vào trái tim con với tình yêu tha thứ của Ngài.
Để rồi sau khi yên nghỉ trong cõi chết, con sẽ thức dậy truớc thánh nhan Ngài để vui huởng sự thứ tha của Ngài mãi mãi cùng với những anh chị em từng đuợc con tha thứ lỗi lầm.
Nguời ta gọi chàng là bợm nhậu Joe vì chàng uống quá nhiều ruợu, say sua tối ngày. Chàng và gia: TN 24-C39
Nguời ta gọi chàng là bợm nhậu Joe vì chàng uống quá nhiều ruợu, say sua tối ngày. Chàng và gia đình sống trên nông trại nhỏ của cha mẹ ở Tannessee. Nguời anh độc thân tàn tật và nguời mẹ goá phải làm hết mọi việc. Vợ và bốn đứa con của Joe khổ sở. Họ không đủ tiền ăn và may mặc. Lối xóm và bạn học nhạo cuời cha của chúng. Đời sống gia đình nhu một hoả ngục trần gian vì Joe nhục mạ và hành hạ gia đình mỗi khi anh say ruợu.
Một hôm đang lúc say ruợu, anh lái xe ra đuờng và bị tai nạn bể đầu. Khi chữa trị vết thuong, Bác sỹ nói với Joe rằng ngày nào đó anh sẽ tự giết mình và có khi cả những nguời khác nữa. Bác sỹ khuyên anh bỏ ruợu, trong thời gian vắn anh cai ruợu, anh không uống nữa và anh bắt đầu đi nhà thờ. Gia đình anh sung suớng vô cùng.
Đây là một con chiên lạc, nhung nay chủ chiên đã tìm thấy. Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay rằng: Trên trời sẽ vui mừng vì một nguời tội lỗi hối cải hon là 99 nguời công chính không cần hối cải.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Trên mặt đất cung vui mừng khi một nguời tội lỗi ăn năn hối cải. Hãy nhìn gia đình của Joe. Họ vui suớng biết bao khi cha của họ bỏ uống ruợu. Họ không những ăn ngon hon, mặc đẹp hon, có tiện nghi hon mà tâm lý và xã hội cung trở nên tốt đẹp hon. Họ vui mừng xum họp với nguời cha của họ, họ hãnh diện với bạn bè. Họ có thể tự hào đi nhà thờ, đi chợ, đi choi và đi học. Sự thay đổi của Joe, sự trở lại của anh đem lại bao niềm vui - trên mặt đất này - cho những nguời gần và thân yêu của anh.
Chúng ta cung có thể nói nhu thế với mỗi tội nhân trở về cùng Chúa: Nguời cờ bạc biết sử dụng tiền bạc cho gia đình. Nguời nóng nảy biết kiềm chế. Nguời ích kỷ biết chia sẻ và cộng tác, nguời bất mãn biết thông cảm. Nguời bép xép biết nói đến điều hay điều tốt của kẻ khác. Nguời bỏ đạo biết lắng nghe tiếng Chúa gọi trở về, những nguời đuợc biệt đãi chia sẻ ân huệ cho nguời bị bỏ roi, những cha mẹ biết tỉnh thức trong bổn phận và trách nhiệm. con cái và các bạn trẻ biết nhìn nhận tình yêu và sự chăm sóc của cha mẹ. Những nguời chồng, nguời vợ thất trung, hờ hững biết chú ý và chăm sóc nguời bạn đời, nguời bất luong biết sống luong thiện và công bình. Những nguời khô khan biết nghe và đáp lại lời kêu gọi của Chúa Kitô để yêu Chúa và nguời thân cận. Tất cả là tội nhân, hãy hối cải, hãy làm cho các Thiên thần vui mừng và làm cho cả loài nguời cung vui mừng nữa. Làm cho nguời khác vui mừng là một cách thế quan trọng bày tỏ tình yêu của bạn cho nguời đó.
Chủ chăn tìm con chiên lạc, Nguời đàn bà tìm đồng tiền đánh rớt đuợc nhắc nhớ, chúng ta tìm lại đuợc tình bạn với Thiên Chúa trong và qua Thánh Lễ. Thánh Lễ làm các thiên thần vui mừng, thánh lễ làm nhân loại hân hoan. Niềm vui trên trời vang vọng niềm vui duới đất. Xin Chúa Kitô giúp chúng ta đem lại niềm vui cho các thiên thần, đem lại hân hoan cho những nguời ở gần và thân yêu với chúng ta trên mặt đất này. Xin Chúa chúc lành bạn. Amen.
Có một vấn đề ngày càng gia tăng trong xã hội hiện nay, đó là con người không thể và không muốn tha thứ cho nhau.
Một sự kiện cụ thể chứng minh cho sự thật trên, đó là tình trạng ly dị mỗi lúc một gia tăng, nó làm cho nhiều cặp vợ chồng phải đau khổ, nhiều gia đình bị đổ vỡ.
Qua sự điều tra về những người vợ đòi ly dị, một tác giả đã rút ra hai kết luận như sau:
Trước hết, họ đã phải tiêu phí một cách khủng khiếp năng lực và tiền bạc để trả thù người chồng cũ của họ. Tiếp đến vì cứ nuôi mãi mối căm hận, nên nhiều người tự gây thương tổn cho mình hơn là cho người chồng cũ mà họ thù ghét.
Để thấy rõ sự giận hờn và căm thù có thể hủy diệt chúng ta như thế nào, hội y khoa nước Mỹ đã mở cuộc thăm dò hàng ngàn bác sĩ với câu hỏi:
- Trong một tuần lễ, bạn điều trị được bao nhiêu bệnh nhân?
Hầu như tất cả đều trả lời rằng họ chỉ điều trị được khoảng 10% bệnh nhân. Còn 90% kia, mặc dù có đau đớn, nhưng nỗi đau đớn của họ lại thuộc lãnh vực tâm lý, mà những thuốc men bình thường không thể giải quyết được. Và nguyên nhân chính gây bệnh đó là nỗi căm giận, sự thù ghét dồn nén, những bất mãn và phản kháng.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: khi chúng ta giữ mãi trong mình mối ác cảm, không chịu tha thứ và luôn tìm cách báo thù, thì chúng ta gây thương tổn cho mình không kém gì gây thương tổn cho kẻ thù.
Nói một cách sống động hơn, mũi gươm thù địch chúng ta dùng để gây thương tích cho đối phương sẽ đâm vào bản thân chúng ta trước. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai cứ quyết tâm nuôi mộng báo thù thì nên đào sẵn hai cái huyệt, một cái cho kẻ thù và một cái cho chính mình.
Tất cả những sự việc trên góp phần làm sáng tỏ lời Chúa về lòng tha thứ qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Đây là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần phải ghi nhớ và thực hành.
Hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đang làm gì đối với sự thù hận, mối ác cảm chua chát đang làm cho đời sống chúng ta mất đi sự bình an? Hãy xét lại mối liên hệ giữa chúng ta và những người chung quanh để xem chúng ta đã thực sự sống lời Chúa truyền dạy về vấn đề này hay chưa:
- Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét bỏ chúng ta. Hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi hãy đến mà dâng của lễ sau? Hãy tha thứ không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy lần. Chúng ta đã phản ứng như người cha nhân từ, giàu lòng thương xót, hay như người anh cả vừa nhỏ nhoi lại vừa ích kỷ.
Để kết luận, chúng ta hãy mượn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô mà dâng lên Chúa:
- Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Khi những người cha người mẹ yêu con cái của mình họ sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho chúng: TN 24-C41
Khi những người cha người mẹ yêu con cái của mình họ sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho chúng. Tuy nhiên đã xảy ra là những đứa con ít khi nhận biết tình yêu sâu nặng của cha mẹ dành cho chúng. Cả hai người con trong dụ ngôn hôm nay của Chúa Giêsu đã không hiểu được tình yêu của cha mình. Cũng không thể hiểu được sự dâng hiến của ông dành cho chúng, như là những người con của ông không hề thay đổi, không hề có vấn đề gì. Người cha không thể nào tưởng tượng có gì đổi khác trong mối liên hệ với những người con của mình.
Đầu tiên, tôi nghĩ về người con thứ, người con mà chúng ta hay nhắc tới là người con hoang đàng, người con phung phá hết tất cả tài sản của mình. Khi anh nhận ra sự điên rồ của mình, anh đã sửa soạn một bài diễn văn nhỏ để nói với cha của mình. Trong những lời anh đã soạn sẵn đó, anh cũng nhận ra rằng anh không còn xứng đáng để được gọi là con, và anh mong cha coi anh như một người làm công thôi.
Khi anh trở về nhà và nói lên những lời đã soạn sẵn của mình, nhưng người cha không hề để ý đến điều ấy. Người cha đã ôm choàng lấy người con, hôn lấy hôn để và gọi gia nhân làm tiệc mừng. Ông ta nhấn mạnh: “Hãy xỏ giày vào chân cậu”, một dấu hiệu anh trở về với gia đình như một thành phần của gia đình chứ không phải là một tôi tớ, bởi vì chỉ những phần tử của gia đình mới mang giày trong nhà. (Một bài hát thiêng liêng cổ đã hát: ‘Tất cả những con cái của Thiên Chúa đều được mang giày’).
Người con lớn mà chúng ta cũng không hề có cảm tình. Anh ta không hề rời xa nhà, anh vẫn tiếp tục chu toàn công việc bổn phận với người cha. Anh đã từ chối vào dự tiệc mừng đứa em của mình và lý do anh đưa ra để biện minh cho sự từ chối của mình tiết lộ rằng, anh ta đã quá thất bại trong mối tương quan của anh với cha của mình. Anh ta minh chứng: “Bao nhiêu năm con đã làm việc hầu hạ cha như nô lệ, mà cha không hề cho con một con dê nhỏ để con ăn mừng với chúng bạn”. Người ch của anh đã trở thành một chủ nô, một người chủ keo kiệt bủn xỉn, đứa con đã nghĩ rằng nó như nô lệ, vì anh ta chỉ trông đợi một phần thưởng, anh ta đã không phục vụ người cha của mình với tình yêu. Nhưng người cha đã đáp lại: “Con luôn luôn ở với cha, mọi sự của cha là của con”. Thật sự điều này đã biểu lộ được cảm xúc của người cha, thật ra ông ta đã đáp lại sự giận dữ của con trai bằng một sự dịu dàng. Ông ta không hề khuyên nhủ con mình, ông chỉ nhìn con và nói hai từ: “Con ơi”.
Người Cha trong dụ ngôn là một người đáng để ý. Khi người con thứ quyết định trở về nhà thì ông đã nồng nhiệt chạy ra tiếp đón nó: “Khi người con cả từ chối vào dự tiệc, người cha cũng chạy ra nói anh ta và nài xin anh ta vào”.
Điểm đáng chú ý hơn, Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Để bắt đầu hiểu và nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải nhớ chúng ta là ai. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, là những con trai, con gái yêu dấu của Người. Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi tình yêu mà Người luôn luôn qua tâm đến chúng ta ngay cả khi chúng ta từ bỏ Ngài. Không có vấn đề chúng ta điên rồ thế nào trong cách sống, không có vấn đề chúng ta xa rời tình yêu của Thiên Chúa thế nào. Thiên Chúa vươn đến chúng ta bằng ân sủng của Người.
Mỗi ngày Chúa Nhật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến nhà của Ngài, nhà thờ. Thiên Chúa luôn luôn là Cha của chúng ta. Nhà của Người là ngôi nhà gia đình của chúng ta. Nơi đây Ngài mời gọi chúng ta cử hành nghi thức gia đình, một bữa ăn thánh thiện mà tại đó Người Con thần linh của Ngài nói với chúng ta bằng những lời trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể. Chúng ta được kêu gọi tới bữa ăn này như là một bữa tiệc vui mừng và một biến cố hạnh phúc của chúng ta, bởi vì chúng ta nhận biết rằng chúng ta đã chết một lần trong tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu bằng cái chết đã phục hồi cho chúng ta sự sống. Chúng ta đã trở nên thành phần của gia đình Thiên Chúa, những con cái yêu dấu của Người và Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi mối quan hệ đó. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài đã trình bày rằng Ngài sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho chúng ta. Chúng ta có thể điên rồ hoặc là quên lãng được Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người sao?
Chúa Nhật ngày 12.9.2004 năm nay, trùng vào dịp nước Mỹ nói riêng và thế giới nói chung, tưởng niệm ba năm biến cố khủng khiếp làm chấn động và hoang mang cả thế giới, nhất là người Mỹ, xảy ra ngày 11.9.2001. Đó là một ngày đầy nước mắt, kinh hoàng và sửng sốt đối với cả nhân loại. Vì thế, nhân dịp này, dựa vào Lời Chúa Giê-su dạy, tôi muốn nói về những mất mát và sự tìm thấy.
Lời của Chúa dạy hôm nay là ba dụ ngôn: Người chủ tìm thấy con chiên lạc, Người đàn bà tìm thấy đồng bạc bị mất, Người cha đón nhận đứa con hoang đàng trở về, mang cùng một ý nghĩa: mất mát và tìm thấy ( Lc 15, 1 - 32 ). Cái bị mất càng lớn, người đi tìm càng vất vả bao nhiêu, khi tìm thấy, nỗi vui mừng càng lớn bấy nhiêu. Ý nghĩa của sự mất mát và tìm thấy trong ba dụ ngôn, là lòng ca ngợi tình yêu lớn lao của Thiên Chúa đối với con người. Nhất là mỗi khi con người phải sống trong tai ương, mất mát, đổ vỡ, tang tóc, chết chóc, chia lìa, hận thù, lo sợ, nghi nan và giết hại nhau..., là mỗi lần khuôn mặt của tình yêu ấy lại sáng ngời, làm dịu bớt nỗi thất vọng, thăng hoa niềm hy vọng. Nhờ tình yêu của Thiên Chúa, chính trong mất mát, con người hiểu rằng, họ đã được tìm thấy. Chính trong nỗi chết chóc của sự tàn bạo, họ lại nhận ra chiều kích thánh thiêng của sự sống.
Tôi muốn nói tới vụ khủng bố Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại New York gồm hai tòa nhà cao 110 tầng và Ngũ Giác Đài ở thủ đô Washington, nước Mỹ, bị ba chiếc máy bay lớn do không tặc khống chế đâm vào. Một chiếc khác cũng bị khống chế, rơi tại Pennsylvania dọc đường đến mục tiêu. Người ta ước tính trên 3.000 nạn nhân thiệt mạng. Phải mất gần chín tháng mới dọn dẹp hết đống đổ nát gồm 1.600.000 tấn. 100 tỷ đô-la bị mất trắng. 8.300.000 người thất nghiệp trên khắp nước Mỹ.
Ngoài ra, từ biến cố kinh hoàng ấy, người Mỹ còn mất rất nhiều thứ quý báu khác: Mất cảm giác bảo đảm và an toàn, vì từ trước đến nay, họ vẫn tự hào nước Mỹ rất ổn định. Hơn nữa, một quốc gia giàu có, quyền hành như Mỹ, sẽ chẳng ai dám thọc vào sự ổn định nội bộ của mình. Họ cũng đánh mất sự bình an trong tâm hồn. Vì từ đó đến nay, không ngày nào, người Mỹ không sống trong nỗi lo âu và cảnh giác. Sống mà cứ phải phập phồng cảnh giác từng ngày, làm sao có bình an ? Lòng tin nơi người Mỹ cũng bị đánh cắp. Nhìn bất cứ ai xa lạ, nhất là những người từ Trung Đông tới, họ đều nghi ngờ. Thay vì bắt tay thân thiện, họ chấm ngay một dấu hỏi thật to trên khuôn mặt người lạ ấy. Anh là ai ? Lương thiện hay bất lương ?
Những mất mát ấy lớn lắm. Nhưng những gì đã tìm thấy được cũng không phải ít. Đó chính là Đức Tin, tin nơi Thiên Chúa và tìm đến với Thiên Chúa để được giải thoát nỗi u buồn. Người ta kể rằng, sau ngày đại họa ấy, rất nhiều người đến Nhà Thờ cầu nguyện. Các Thánh Lễ liên tục được tổ chức để tưởng nhớ người bị nạn và cầu bình an. Tất cả các Thánh Lễ ấy đều có rất đông người đến tham dự. Chính tổng thống Bush đã trích Thánh Vịnh 23 để trấn an dân chúng: “Lạy Chúa, dù bước đi trong thung lũng của sự chết, con không lo nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”.
Nhưng chẳng phải chỉ có người Mỹ - là những người, nhờ nền văn minh rực rỡ của mình, đã góp phần không nhỏ làm cho lối sống tiêu thụ, tâm lý hưởng thụ lớn lên, từ đó phần nào lôi kéo đạo đức xã hội đi xuống - lại có dịp tiếp cận và lấy lại Đức Tin của mình, nhưng họ còn nhận được biết bao nhiêu sự cảm thông và lời cầu nguyện mà khắp thế giới dành cho họ.
Những gì tìm thấy được còn là tinh thần tương trợ lẫn nhau, sống gắn bó và thắt chặt tình đoàn kết. Họ cũng tìm thấy những tấm lòng quả cảm của biết bao nhiêu người liều mạng cứu các nạn nhân. Lính cứu hỏa và các nhân viên cảnh sát đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ cấp cứu nạn nhân là một điển hình. Trong số những người hy sinh, có cha Michael Judge, một Linh Mục Dòng Phan-xi-cô, Tuyên Uy cho lính cứu hỏa tại thành phố New York. Cũng như anh chị em mình, cha hiểu rất rõ, giữa cảnh đổ nát, nếu đến gần, sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng cha vẫn làm tròn nghĩa vụ của mình. Tòa nhà kinh khủng ấy đã tàn nhẫn đè bẹp và vùi lấp cha Judge cùng mấy trăm lính cứu hỏa, trong khi cha đang cử hành Bí Tích Xức Dầu và ban các phép lần sau hết cho họ.
Hóa ra, trong những lúc tối tăm của cuộc đời, người ta ngỡ rằng, mình đã mất, đã chẳng còn, đã tiêu tan, thì chính lúc ấy, ánh sáng của những cái được, những gì có thể tìm thấy, lại cứ lóe lên. Bởi thế, ta có thể nói mạnh rằng, không ai sống lạc quan cho bằng những anh chị em tín hữu Ki-tô. Họ biết khôn ngoan trực diện với nỗi đau xé lòng đang diễn ra trước mắt, và lấy ánh mắt Đức Tin nhìn vào đó.
Đức Tin dạy họ rằng, thập giá không dừng lại ở ngày thứ sáu ảm đạm nhuộm đầy máu, tử nạn và ô nhục, nhưng thập giá đã bừng lên ánh sáng trường cửu, bừng lên sự sống không tàn không phai của sáng Chúa Nhật Phục Sinh. Với Đức Tin, nhìn vào sự tàn phá của tử thần, họ tìm thấy sự sống. Nhìn vào hận thù, tưởng đã lên ngôi thống trị, họ tìm thấy lòng yêu thương. Nhìn vào nỗi bi đát ê chề của đổ nát, của mất mát, của tha hóa, họ tìm thấy niềm lạc quan tin tưởng. Nhìn vào nỗi hoang mang nghi ngờ của nhân lọai, họ tìm thấy khuôn mặt dịu hiền, đầy yêu thương thông cảm và thứ tha của Thánh Giá Chúa Ki-tô.
Thiên Chúa không bao giờ vắng mặt. Con người không bao giờ mất Thiên Chúa. Bởi thế, cái mất vẫn còn đó trong nỗi đau cuộc đời, trong tội lỗi, trong sự tha hóa, và lòng hận thù lồng lộng như một con thú dữ, thì những gì tìm thấy được vẫn cao cả, vẫn sang trọng, vẫn vượt thắng. Và Tình Yêu vời vợi của Thiên Chúa là niềm hạnh phúc, là sức mạnh lớn nhất, giúp con người vượt qua, đó là điều mà họ tìm thấy trong nỗi đau mất mát tột cùng.
Bạn thân mến, Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta. Người là Đấng Toàn Năng, lại như thể tự giới hạn một phần quyền năng của mình, để loài người chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do. Lý do mạnh nhất, khiến ta đánh mất rất nhiều, là bởi ta lạm dụng sự tự do ấy và lỗi phạm không ngừng. Chính vì có tự do, ta đánh mất chính mình, đánh mất Thiên Chúa, xa lìa Tình Yêu của Chúa, để trôi tuột khỏi cuộc đời mình bao nhiêu ơn lành của Người. Đánh mất là sự thật của mỗi con người đầy yếu đuối, hèn mọn.
Nhưng còn một sự thật khác vô cùng quan trọng, vì nhờ đó mà ta sống và lấy lại những gì đã mất. Sự thật ấy chính là Thiên Chúa đi tìm con người. Người không đi tìm như tìm một cái gì có lợi cho Người. Người cũng không đi tìm như tìm một thứ sở hữu cho riêng mình. Sự tìm kiếm của Chúa là một sự tìm kiếm có lợi cho ta. Đó là một sự tìm kiếm đầy hân hoan, vui mừng, tin tưởng. Đó là một sự tìm kiếm mà khi tìm thấy, vỡ òa vì một niềm vui trào dâng tột đỉnh. Bởi ta là con chiên thất lạc, là đồng bạc bị mất, đã lìa xa Chúa vì chọn cõi trần tục này mà đánh bạn, chọn tội lỗi làm chốn nương thân.
Một khi tìm thấy ta trong bóng đen tăm tối ấy, Thiên Chúa đã vui mừng đưa ta về, không phải dẫn đi, mà nâng niu ẵm vác trên vai, như giữ lấy một vật quý giá. Niềm vui ấy còn là một niềm vui phở lở, được diễn tả qua lời mời bè bạn đến chia vui với mình, vì mới đưa được một kẻ vong thân về chốn hạnh phúc.
Chưa dừng lại, Chúa Giê-su đã đẩy đến đỉnh điểm, để kết thúc nỗi vui mừng vì yêu ấy trên một cao trào đẹp khôn xiết: Tình yêu quá đỗi diệu hiền, nhưng rất mạnh mẽ của một người cha dành cho đứa con hư đốn của mình. Dụ ngôn người cha nhân hậu đón nhận đứa con đi hoang trở về vì đói, chứ không phải vì nghĩ đến tình cha, cho ta bài học không thể có bài học nào lớn hơn, về lòng thương xót đến không thể tưởng tượng, không thể hiểu nổi mà Thiên Chúa dành cho ta.
Bài học ấy còn dạy ta rằng, vong thân trong tội, ta đánh mất tất cả: cả sự sống ( biểu hiện qua sự đói khát của người con ), cả nhân phẩm ( biểu hiện qua nồi cám heo mà người con phải ăn cắp để nhét cho đầy bụng ), cả tình yêu (người con bị ruồng rẫy, bị bỏ rơi ), là những cái làm nên căn cội của cuộc đời con người. Chỉ có trở về cùng Thiên Chúa, ta mới lấy lại tất cả những gì đã mất mà thôi. Chính người cha đã trả lại cho đứa con sự sống, nhân phảm và tình yêu ( Lc 15, 22 - 32 ).
Ý thức Thiên Chúa luôn luôn yêu thương kiếm tìm, chúng ta đừng cứng đầu, nhưng hãy trở lại cùng Người. Hãy đứng lên để quyết tâm đi tới. Hãy đứng lên để làm một chọn lựa mới: chọn lựa tách mình khỏi tội và đứng về phía Tình Yêu của Chúa. Tội lỗi đã là điều rất đáng sợ, nhưng chưa phải là điều đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là ta cứng đầu ở lỳ mãi trong tội. Vì tự đánh mất chính mình đã là một nguy hiểm, nhưng tự chôn mình chìm đắm trong sự mất mát ấy, lại là một hiểm nguy khó lường, một nỗi dại khờ không có gì có thể biện minh !
Vậy, với tất cả những gì đã suy nghĩ, bắt đầu từ Lời Chúa đến tội ác khủng bố, sự mất mát và sự tìm thấy trong đời sống nhân loại, cũng như mất mát và tìm thấy đối với đời sống Đức Tin, chúng ta thành tâm dâng lên Chúa lời cầu nguyện tha thiết của mình:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra ánh sáng của sự sống giữa chết chóc bạo tàn; ánh sáng của hy vọng giữa những tuyệt vọng; ánh sáng của sự tìm thấy giữa những mất mát và đổ nát; ánh sáng của Tình Yêu Chúa giữa những thù hận dối gian; ánh sáng của Ơn Cứu Độ giữa bóng tối tội lỗi đang cuốn hút chúng con vong thân; ánh sáng của Niềm Tin giữa những lầm lạc, hụt hẫng.
Lạy Chúa, xin ban ơn bình an để nhân loại được hạnh phúc. Và xin ban cho tâm hồn chúng con hạnh phúc vì biết giữ mình thanh sạch, thánh thiện. Xin cho con bao dung để tha thứ; khiêm nhu để tránh kiêu căng; ôn hòa để nhường nhịn; yêu chuộng hòa bình để tâm hồn bình an.
Thành kiến của con nguời dã làm cho chúng ta xa cách nguời anh em chị em của mình, do dó chúng ta cung từ từ xa cách Thiên Chúa của chúng ta trong cuộc sống dời thuờng. Chúa Giêsu dến dể cứu và chữa lành nên Ngài dã dồng bàn an com với những nguời mà các kinh su và biệt phái cho là tội lỗi, nhung dối với Chúa Giêsu thì họ chính là những nguời cần duợc xót thuong. Truớc hết, nguời cần duợc xót thuong là tôi, bởi vì tuy tôi là nguời Kitô hữu nhung lòng dạ thì là mẫu mã nhu các kinh su và biệt phái dã khiển trách Chúa Giêsu vì Ngài dã cùng an cùng uống với những nguời tội lỗi, khi dã chỉ trích nhu thế thì tất nhiên là họ cung coi khinh những nguời thu thuế và di diếm. Tôi là nguời cần duợc Chúa Giêsu chữa lành và xót thuong, vì tôi cung dã nhiều lần coi khinh và lên án những nguời anh em bất hạnh khi vì không có gì an nên dã lấy cắp một củ khoai của nguời bán hàng trong chợ, tôi lên án một lỗi nho nhỏ của anh em là dể che giấu những việc xấu xa hon anh em gấp nhiều lần mà tôi dã phạm nhung không ai biết…
Tôi dã lên tiếng trách cứ phê phán nguời anh em dã ngồi an với những nguời ma cô di diếm bên lề duờng, họ là những nguời mà Chúa Giêsu dã không ngần ngại tìm kiếm cứu chữa dể họ trở thành những con nguời mới, cho nên tôi cần duợc Thiên Chúa xót thuong hon những nguời ấy, vì tôi dã nhu nguời biệt phái trách cứ Chúa Giêsu … Hạnh phúc cho những nguời duợc Chúa Giêsu chữa lành, vì chính họ dã duợc tình yêu thần thánh chạm dến. Con chiên lạc dã trở nên giá trị sau khi duợc Chúa Giêsu tìm thấy và vác trên vai trở về nhà. Chính diều này dã làm cho nguời Pharisiêu và các kinh su bực mình hon nữa, bởi vì chính họ là những nguời tự cho mình là thánh thiện trổi vuợt trên mọi nguời, nên họ dã chuớng tai gai mắt khi Chúa Giêsu dứng về phía những nguời bị xã hội bỏ roi. Một con chiên lạc và một dồng bạc bị mất là hình ảnh của nguời mà hôm qua, hôm nay và ngày mai mà tôi dang sỉ vả, khinh chê và lên án là phuờng tội lỗi. Khi lên án nguời tội lỗi là tôi dã làm quan tòa tiếm quyền của Thiên Chúa dể luận tội tha nhân mà không biết rằng, mình cung dã có nhiều lần sa ngã và tệ hại hon họ nhiều. Anh chị em thân mến, Ma quỷ sẽ cuời vui thắng lợi khi chúng ta phê phán anh em chị em của mình, bởi vì dó là dộng co thúc dẩy anh em chị em xa dần Thiên Chúa và cộng doàn giáo xứ.
Không ai là không có tội, không ai là không sa ngã chí ít là một lần, không ai là không có tâm hồn hối hận sau khi sa ngã phạm tội, nhung chính chúng ta là những nguời Kitô hữu có trách nhiệm một phần trong việc sa ngã của họ khi chúng ta sống sai và không dúng với lời của Chúa Giêsu dạy, do dó mà chúng ta phải có bổn phận -trong tình liên dới- di tìm và giúp dỡ những anh chị em dang bị xã hội tục hóa mà sống nhu không có Thiên Chúa trong cuộc dời của họ, nhất là những nguời dang bị xã hội lên án… Chúa Giêsu dã dến thế gian dể tìm kiếm và cứu chữa những nguời tội lỗi, trong dó có cả chúng ta, cho nên khi duợc chữa lành thì chúng ta lại có bổn phận tìm và dẫn dắt những anh chị em vì bất hạnh, vì nguời dối xữ bất công, bị xã hội quên mất mà dang xa dần Thiên Chúa là tình yêu trở về với Thiên Chúa là Cha rất yêu thuong họ… Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Bài giảng chủ nhật 24 thuờng niên tại nhà thờ Phục Sinh-Taiwan. Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Tin rằng “Thuợng Ðế là Một Ðấng Từ Bi giàu lòng thuong xót” mãi mãi vẫn là một thách dố, một “chuyện khó chấp nhận” dối với tâm thức của một số dông nguời, nhất là những nguời dã hon một lần bị vùi dập duới sức nặng của dau thuong, tai họa, khổ sầu…Bằng chứng là có một lần kia, tôi dã dọc thấy 4 câu tho ai oán của một nguời Cha ghi duới bức chân dung của dứa con bảy tuổi tên Ái vừa mới qua dời: Ái an dâu ? Ái ở dâu ? Ðể thuong dể nhớ dể u sầu! Trời Già dộc dịa làm chi bấy ! Nở bắt con tôi bảy tuổi dầu ! Vâng, trong ý nghi, trong con mắt của nguời Cha vừa gánh chịu nổi dau mất dứa con yêu bảy tuổi dầu, thì “Ông Trời”, “Thuợng Ðế” chỉ còn là một “Ông Trời già dộc dịa”, một Thuợng dế không công bằng, một Ðấng Tạo Hóa “lòng chai dạ dá” dã vô tâm cắt dứt mạng sống của một dứa em tho vừa lên bảy tuổi, một tuổi dời trắng trong, vô tội…
Và cung dã có không biết bao nhiêu “tín hữu” cựu trào, ngoan dạo bị mất niềm tin, thất vọng về “Vị Thuợng Ðế của mình” khi phải dối diện với những oái am, bi dát mà cả “lý trí cung nhu con tim” không thể lý giải duợc nguyên do. Thuợng Ðế của những tín hữu nầy nếu không trở thành một thần tuợng xa lạ trên mây trời, thì cung chỉ là một Thuợng dế của kinh hoàng sợ hải nhu lời than vãn của ông Gióp lúc bị thử thách dau thuong: “Nầy có sang Ðông, tôi sẽ chẳng thấy Nguời, Ði sang Ðoài, cung không gặp duợc. Tôi lên Bắc tìm Nguời cung không gặp thấy, Có xuống Nam Nguời cung biệt tam…” (G 23, 8-9) “Vì thế, truớc nhan Nguời, tôi dâm sợ hãi, Chỉ nghi dến Nguời là dã khiếp kinh. Thiên Chúa làm cho tôi nhát dảm, Ðấng Toàn Nang làm cho tôi phải kinh hoàng…” (G 23, 15-16) Thế nhung, cái “sợi chỉ dỏ xuyên suốt chân lý về Thiên Chúa” duợc chính Ngài mặc khải qua Thánh Kinh lại là “Một Thiên Chúa yêu thuong”, “Một Ðấng Thuợng Ðế giàu lòng thuong xót”. Ðể cho con nguời mày mò học biết và cảm nhận chân lý cao siêu này, Thiên Chúa quả dã thực dày công và kiên nhẫn.
Cả một chuổi dài lịch sử của dân tộc Ít-ra-en chua dủ, cho dù Ngài dã thể hiện không biết bao nhiêu biến cố và kỳ công. Trích doạn sách Xuất Hành của Bài Ðọc I, Chúa Nhật 24 TN C, là một trong muôn vàn những cách mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu uớc về chân dung dích thực của Ngài: Nhờ lời can gián và cầu khẩn của Mô-sê, Vị Lãnh dạo sát cánh cùng Dân Chúa trên từng cây số lữ hành về dất hứa, Thiên Chúa dã “nguôi giận” và tha thứ cho tội bất trung, mê tín của dân, dám dúc hình bò thờ lạy thay vì trung tín với Giao uớc…Trình thuật của sách “Xuất Hành” về biến cố “Bò Vàng” nầy dã nêu bật “hình tuợng Môsê một Vị Trung Gian dầy ấn tuợng” nhu một tiên báo rõ nét vai trò của “Vị Trung Gian Giao Uớc Mới, Ðức Giêsu Kitô, dám dứng ra lấy máu mình dể chuộc tội cho “bàn dân thiên hạ”…..Lòng khoan dung tha thứ, chậm bất bình và rất mực yêu thuong của Thiên Chúa còn duợc tái diễn hoài hoài không phải chỉ ở giữa lòng lịch sử của dân Ít-ra-en, không phải chỉ trong một thời gian nhất dịnh…mà cho muôn thế hệ loài nguời ở khắp muôn noi và mọi miền thế giới. Và cung chính dể cho nhân loại xác tín chân lý nầy, Thiên Chúa “dã sai Nguời Con Một nhập thể và cắm lều ở giữa chúng ta”. Thật vậy, với Ðức Giês-Kitô, con nguời từ dây có thể “rờ dụng” duợc một Thiên Chúa là Cha yêu thuong, có thể cảm nhận duợc một Thuợng Ðế gần gui biết “cảm thuong” và giàu lòng lân tuất, có thể tiếp cận, ngỏ lời, van xin một “Ông Trời” biết lắng nghe và quan tâm dến từng hoi thở và nhịp dập của trái tim con nguời. Chân lý nầy dã duợc Công Ðồng Vatican II trong Hiến Chế Mục vụ “Vui Mừng và hy vọng” xác quyết bằng những lời sau: “Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào dó dã kết hợp với tất cả mọi nguời. Ngài dã làm việc với bàn tay con nguời, dã suy nghi bằng trí óc con nguời, dã hành dộng với ý chí con nguời, dã yêu mến bằng quả tim con nguời. Sinh bởi trinh nữ Maria, Nguời dã thực sự trở nên một nguời giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi”. (G.S 22) Nhập thể làm nguời dể con nguời nhận ra Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa, dó chính là sứ vụ của Ngôi Hai, là trọng tâm của chuong trình cứu rỗi, là tiêu dích của “Lời mặc khải. Kể từ khi có tiếng khóc oa oa của Em bé Giêsu noi hang lừa máng cỏ ở giữa dám mục dồng cù bo cù bất tại Bêlem, kể từ lúc có nguời tử tội Giêsu bị dóng dinh trên dồi canvê vào chiều thứ Sáu giữa hai nguời trộm cuớp…
Thuợng Ðế không còn là một “Ông Trời Già” xa tít trên các tầng mây dể chỉ biết “hù dọa”, de phạt hay “bắt” con “bắt” cháu ngang nguợc dã man…mà là một Thiên Chúa là Tình yêu, một Tình yêu khoan dung tha thữ, một tình yêu thông cảm quảng dại, một tình yêu rộng mở trao ban, một tình yêu cho di và tận hiến. Vâng, Thiên Chúa của Ðức Giêsu là một Thiên Chúa “không nỡ lòng nhìn thằng vào dôi mắt thẹn thùng, hổ thẹn, mặc cảm của nguời phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình”…Thiên Chúa của Ðức Giêsu là một Thiên Chúa sẵn sàng dể cho cô gái làng choi Maria Mác-da-la nhỏ những giọt nuớc mắt hối cãi an nan trên chân mình mà làm lại cuộc dời…Thiên Chúa của Ðức Giêsu là một Thiên Chúa vẫn dua mắt nhân từ “nhìn lại” dể mở duờng cho bao nhiêu Phêrô biết sám hối an nan sau những lần bội phản….Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô là một Thiên Chúa biết thổn thức truớc cái chết của nguời bạn Ladarô, biết cảm thông nổi xót xa dau dớn của nguời mẹ góa Naim khi mất dứa con một, nổi khốn khổ của nguời dàn bà Canaan bị loạn huyết chỉ dám uớc mo rờ dụng tới cái gấu áo của Thầy dể duợc khỏi….Và hôm nay, liên tiếp mấy dụ ngôn của Tin Mừng Luca, Ðức Giêsu muốn tuyên cáo một cách cách dõng dạc:
Thiên Chúa một nguời cha rất mực yêu thuong sẵn sàng mở rộng vòng tay tha thứ chờ dón những dứa con hu trở về, sẵn sàng mở tiệc hoan vui dể tội nhân duợc khoác áo mới làm lại cuộc dời trong tin yêu hy vọng… Sống niềm tin kitô hữu là luôn trở thành “bài thuyết minh sinh dộng” về chân lý nền tảng dó: Thiên Chúa là tình yêu. Và những ai có tham vọng trở thành Ðại Thánh nhân giữa lòng Hội Thánh thì cung chỉ cần dạt tiêu chí “tình yêu” mà Phúc âm của Ðức Kitô dã vạch lối chỉ duờng dó thôi, nhu một Têrêsa Hài Ðồng: “ Ở giữa lòng Hội Thánh, em sẽ là tình yêu”, hay nhu Á Thánh Anrê Phú Yên “Hỡi anh em, dối với Chúa Giêsu rất yêu dấu của chúng ta, chúng ta hãy lây tình yêu dáp lại tình yêu. Chúa dã chịu chết dau khổ vì chúng ta, chúng ta hãy dem mạng sống dáp dền mạng sống”. Giá cao luôn duợc dành cho của quí. Tình yêu lớn dòi phải hy sinh nhiều. Nhu câu chuyện ngụ ngôn của Oscar Wide “Con chim hoạ mi và cây hoa hồng”: Ðể làm nên quà tặng tình yêu, chim hoạ mi chấp nhận ép tim vào gai nhọn của hoa hồng dể cây hoa hút máu tạo nên một cánh hoa hồng dẹp, làm quà tặng tình yêu”. Muốn sống tình yêu dó, muốn có trái tim dó, muốn rao giảng và trở thành “nhân chứng của Thiên Chúa tình yêu”chúng ta phải khiêm hạ cầu xin và không ngừng “học yêu” trong mái truờng của Chúa Giê-su, mái truờng “Tin Mừng”, nhu lời nguyện thâm thuý sau dây của Mẹ Tê-rê-xa thành Calcutta: Chúa Giê-su rất yêu mến của con Chúa dã sinh ra với tình yêu Chúa dã phục vụ bằng tình yêu Và buớc di, với tình yêu Chúa dã duợc tôn kính, với tình yêu Chúa dã dau khổ và chết trong tình yêu Và dã ra khỏi mồ với tình yêu Con cảm tạ Chúa vì tình yêu Chúa dã cho con Và tình yêu mà Chúa dem dến cho thế giới Con xin Chúa hôm nay cung nhu mỗi ngày, Hãy vui lòng dạy con Tình yêu Ðể con cung vậy, con biết yêu. Amen.
Trong Hội thánh có những nguời duợc Chúa cho trí nhớ rất tốt. Họ dọc thuộc lòng nhiều doạn Thánh Kinh quan trọng hoặc có thể trích từng câu trong van cảnh của nó. Ví dụ Thu 1Corintô doạn …. câu… diều này rất lợi ích trong nhiều hoàn cảnh của cuộc dời. Họ có thể trích dẫn Lời Chúa khi ngắm trang sao, tinh tú; lúc dầy lòng tạ on hay tranh luận tôn giáo. Bất cứ thời diểm nào vui, giận, mừng, lo, họ cung có thể dùng Lời Chúa dể hỗ trợ cho lòng mình. Thực tình, tôi ghen tị với những nguời ấy. Phần mình, trí nhớ tôi rất tồi. Cố gắng lắm thì cung chỉ dọc duợc vài ba câu tho, nhớ duợc tên vài cuốn sách. Vậy thì những nguời giống nhu tôi, chúng ta phải làm sao dể cho duợc bằng nguời? Tuong kế, tựu kế; khoẻ dùng sức, yếu dùng muu. Xin mách quí vị một phuong pháp nhỏ dể vuợt lên sự kém cỏi của mình. Ðó là chúng ta phải làm cuộc di tắt. Thí dụ bài Tin Mừng hôm nay. Nó dài tới hon 30 câu, làm sao mà nhớ?
Vậy thì chỉ tóm gọn vào 3 từ: “Bởi, Nhung, Vậy” (since, but, so). Mỗi từ có vài chữ tuong duong. Nhung thôi cứ tập trung vào 3 từ ấy cho dễ xử lý. Chúng ta lấy bài Tin Mừng hôm nay làm ví dụ: Từ “bởi vì”: “Nhung chúng ta phải an mừng, phải vui vẻ. Bởi vì em con dây dã chết mà nay lại sống, dã mất mà nay lại tìm thấy”. “Xin chung vui với tôi, bởi vì tôi dã tìm duợc con chiên của tôi, con chiên bị mất dó”. “Xin chung vui với tôi, bởi vì tôi dã tìm lại dồng quan dã dánh mất”. Từ này nói lên hoàn cảnh mà nhân loại dang ngụp lặn vào, hoặc những cay dắng khốn khổ mà chúng ta nhận ra tình trạng của mình. Chẳng riêng gì bài Phúc âm, bài dọc 1 trích sách Xuất Hành cung vậy. Thiên Chúa gởi Môsê từ trên núi xuống, bởi vì dân Israel dã trở nên tồi tệ: “Hãy di xuống, vì dân nguoi dã hu hỏng rồi, dân mà nguoi dã mang lên từ dất Ai Cập, chúng dã vội di ra ngoài con duờng Ta truyền cho chúng di”. Thực tế, dân Do Thái dã trở nên “cứng cổ” và xem ra Thiên Chúa dã từ bỏ họ, mặc cho họ di theo duờng lối lầm lạc của mình. Ngài nổi giận, vì dân Do Thái bao phen dã làm Ngài cực lòng.
Tuy nhiên xin dừng vội tự hào, thế giới ngày nay còn tệ hại hon nhiều. Các dấu chỉ thờ bò vàng nhan nhản khắp hang cùng ngõ hẻm. Ðâu dâu cung thấy dân chúng lập thần tuợng “dể thờ”: tiền tài, danh vọng, sắc dục, chức quyền, xì ke, ma tuý, bạo lực, trác táng. Dân chúng thế giới ngày nay “cứng cổ” hon Israel thuở xua. Bao nhiêu cố gắng hoà dàm, hoà giải dều luống công. Các phuong tiện truyền thông hằng ngày về bạo lực, giết chóc, dàn áp dã man, chứng tỏ loài nguời chẳng thay dổi gì nhiều từ thời Thiên Chúa gọi Israel là “cứng cổ”. Hai nam vừa qua, chiến tranh ở Iraq dã giết chết 900 lính Mỹ, 15.000 thuờng dân Iraq, bất chấp lời phê phán nhiều lần của Ðức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II. Ngài gọi dó là cuộc chiến không cần thiết và bất công (unjust and unnecessary war). Ngoài ra còn nhiều triệu vụ phá thai, giết chết êm dịu,… nghèo dói bẩn thỉu. Cho nên chúng ta có thể diễn tả phần này bằng từ “bởi vì”. Bởi vì những hoàn cảnh khốn dốn của nhân loại do tội lỗi, tính hu nết xấu, gây nên.
Chúng tồn tại ngoài ý muốn của Thuợng dế. Nó là sự “cứng cổ” của con cháu Adam, Eva. Bởi vì tình trạng của loài nguời là nhu vậy. Cho nên lòng thuong xót của Thiên Chúa phải chiếu cố dể cứu vớt họ. Họ chẳng tự thân thoát ra khỏi số phận nô lệ. Cho nên Ðức Chúa Trời phải hành dộng dể họ duợc giải phóng. Ðến dây thì chữ thứ hai “Nhung” là cần thiết: Nhung Môsê dã dứng ra cầu khẩn cho dân (bài dọc 1). Nhung tôi dã duợc Nguời xót thuong (bài dọc 2). Nhung nguời cha nói với anh ta (phúc âm). Môsê dã lên tiếng thay cho dân tộc tội lỗi. Ông xin Thiên Chúa nhớ lại họ vẫn là dân riêng của Ngài, mặc dù cách dó ít lâu Ngài dã từ chối họ, gọi họ là dân của Môsê chứ không là dân của Thiên Chúa nữa: “Hãy xuống mau vì dân nguoi dã hu hỏng rồi”. Môsê dã thua lớn: “Nhung lạy Ðức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài dã gio cánh tay mạnh mẽ uy quyền dua ra khỏi dất Ai Cập?” Họ là dân của Ngài, dòng dõi các tôi trung Abraham, Isaac, Giacob.
Tính chất trung gian của Môsê rất mạnh mẽ, dân Do Thái có thể cậy dựa vào mà duợc lại lòng Thiên Chúa xót thuong. Ông dã xin Ngài nhớ lại những mối dây giàng buộc (khế uớc) mà Ngài dã nhiều lần ký kết với họ. Dân này, dù tội lỗi, nhung vẫn là dối tuợng duợc huởng lời Ngài dã hứa. Tuy tự thân họ không dáng duợc lòng Ngài xót thuong. “Nhung” vì long trung tín của Ngài, Ngài không thể quên họ, vẫn ban on giải cứu khi họ lâm cảnh khốn cùng. Bằng bất cứ giá nào, họ phải duợc Ngài ra tay uy quyền cứu giúp. Ðó là lý luận của chữ thứ hai. Chữ thứ ba của các bài dọc hôm nay là: “Vì vậy”, vì vậy Thiên Chúa hối hận không giáng phạt dân Ngài nhu dã de doạ. “Vì vậy tôi bảo cho các ông hay, trên trời cung sẽ vui mừng vì một nguời tội lỗi an nan sám hối”. Giọng van sau “vì vậy” mô tả dầy dủ tình cảm nhân loại duợc gán cho Ðức Chúa Trời. Ðây là phần dẹp nhất của câu chuyện, gây nhiều xúc dộng cho nguời dọc:
Hẳn quí vị dã hiểu ra khía cạnh này, phải không? Vì chẳng ai có thể bỏ qua giây phút vui mừng của tâm hồn duợc tha thứ. Thiên Chúa quả là nguời tình vi dại của loài nguời. Ngài chẳng thể bỏ mặc chúng ta quằn quại trong kiếp sống ngục tù tội lỗi, mặc dầu nhiều khi chúng ta tỏ ra “cứng dầu cứng cổ”, hu hỏng, mất nết. Ðiểm nhấn mạnh là lòng thuong xót của Thiên Chúa và các dụ ngôn dều là câu chuyện của on thánh. Cánh cửa mở vào on Chúa là chữ “nhung”, tuy nhiên hậu quả tất yếu của nó nằm trong chữ “vì thế”. Nhân loại tội lỗi nhung lòng thuong xót của Thiên chúa thật bao la trời bể. Cho nên Ngài tha thứ, vì thế cả thiên dàng dều vui mừng. Chúng ta thử áp dụng quy luật của lòng Thiên Chúa thứ tha này vào bài dọc 2 hôm nay trích thu thứ 1 thánh Phaolô gửi cho Timothê. Ở dây không phải là một dân tộc nhung là một cá nhân. Chính bản thân thánh Phaolô, ông cảm nghiệm sâu sắc chuyện này. Cuộc trở lại của ông là một phép lạ do lòng tha thứ, Thiên Chúa thực hiện noi ông. Chính thánh nhân kể lại, không qua trung gian nguời thứ hai. Truớc kia ông là nguời tội lỗi, nói lộng ngôn, bắt dạo…
Chúng ta có thể dùng từ “bởi vì” cho giai doạn này: Bởi vì tôi là kẻ tội lỗi, dã bách hại dạo Chúa, bắt bớ và giết chết các tín hữu. Ông chẳng thể duợc Thiên Chúa thi ân do công trạng riêng của mình. Thánh nhân nhanh chóng dổi giọng van: “Nhung tôi dã duợc Nguời thuong xót vì tôi hành dộng một cách vô ý thức, trong lúc chua có lòng tin”. Ðây là thời diểm của on tha thứ, on trở lại của Phaolô. “Vì thế” Thiên Chúa dã buớc vào dời ông, ban cho ông sự tha thứ cần thiết dể ông làm môn dệ Ngài. Tiếng “vì thế” diễn tả hậu quả của lòng Chúa thuong xót. Lúc này ông hoàn toàn dổi khác, mặc ấy Chúa Kitô và trở nên con nguời mới. Một sự dổi dời gây ngạc nhiên tột dộ không ai tuởng tuợng nổi. Thánh Luca thuật: Ông phải nhờ Barnaba làm trung gian dể gặp các Tông dồ ở Giêrusalem vì không ai có thể tin duợc sự trở lại dó (Cv9,26). Nguời truớc kia là kẻ bắt bớ các tín hữu, nay trở nên dấu chỉ của lòng Chúa xót thuong! Chính thánh nhân viết: “Ðây là lời dáng tin cậy và dáng mọi nguời dón nhận: Ðức Kitô Giêsu dã dến thế gian, dể cứu nhung nguời tội lỗi, mà kẻ dầu tiên là tôi”.
Chúng ta biết rõ sứ vụ rao giảng của Phaolô sau khi trở lại rất thành công. Thánh nhân có thể kiêu hãnh về kết quả dó, nhu bao nhà truyền giáo thời nay. Họ làm thống kê dài ngoằng và tạ on Thiên Chúa. Nhung không, trong bài dọc hôm nay, thánh nhân thú nhận kết quả dó hoàn toàn do Thiên Chúa hoạt dộng qua ông: “Ðức Giêsu muốn bày tỏ tất cả lòng dại luợng của Nguời noi tôi là kẻ dầu tiên, mà dặt tôi làm guong cho những ai tin vào Nguời dể duợc sống muôn dời”. Thánh nhân kết thúc bằng một lời ngợi khen Thiên Chúa. Thánh lễ hôm nay chúng ta có thể dùng lời dó cho chính thân phận mình. Không phải là ngẫu nhiên mà Chúa ban Bí tích Rửa tội cho mỗi nguời. Chính là do lòng thuong xót của Ngài, cung giống nhu truờng hop của Phaolô. Cho nên mỗi nguời phải hết lòng dâng lên Ngài lời biết on tán tạ: “Kính dâng lên vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng nguời danh dự và vinh quang dến muôn thuở muôn dời. Amen”. Ðến dây chúng ta có thể chuyển sang bài Tin mừng. Câu mở dầu khai mào cho ba dụ ngôn tiếp theo. Mấy ông kí lục và Pharisêô chỉ trích Chúa Giêsu về thái dộ thân hữu của Ngài: “Ông này dón tiếp các kẻ tội lỗi và an uống dồng bàn với chúng”. Chúa Giêsu trả lời bằng ba dụ ngôn. Cả ba dều mang ý nghia chung: Mất mát và tìm thấy. Nhiều tác giả dặt cho phần này của phúc âm Luca tiêu dề: “Dụ ngôn về lòng xót thuong của Thiên Chúa”.
Mỗi dụ ngôn dều khởi dầu bằng sự kiện mất mát: Con chiên lạc, dồng bạc mất và dứa con di hoang. Phân doạn này hiểu ngầm từ “Bởi vì”. Bởi vì nhân loại dã di hoang, dã lạc mất, dã trầm luân mà không tự mình trở lại với duờng ngay lối phải, cho nên Thiên Chúa dã ra tay cứu vớt. Cả ba dụ ngôn dều không nhấn mạnh về khía cạnh luân lý cho bằng sự “mất tìm” và giá trị mất mát dều dáng giá dối với chủ nhân. Ðây là diểm cần quan tâm trong ba dụ ngôn. Loài nguời chẳng là gì truớc mặt Thuợng dế, Ðấng thuợng trí và giàu sang vô cùng. Nhung chỉ vì lòng thuong xót của Ngài mà chúng ta trở nên dáng giá, duợc Ngài tìm kiếm và nóng lòng chờ dợi chúng ta trở về. Tu tuởng này khiến nhiều linh hồn lành thánh phải roi nuớc mắt cảm dộng. Chai dá lắm thì cung phải mềm lòng. Còn chúng ta? Mỗi nguời tự trả lời câu hỏi! Chủ ý của Chúa Giêsu khi kể các dụ ngôn có lẽ không nhắm vào nội dung mất mát cho bằng não trạng hẹp hòi của các kí lục, biệt phái, kinh su và chúng ta hôm nay. Họ nghi rằng mình dáng duợc tha thứ vì những “công nghiệp” mình làm và không thể tuởng tuợng lòng thuong xót của Ðức Chúa Trời có thể vuợt qua ranh giới họ cho phép, tức phải loại trừ những phạm trù bất khả. Ôi loài nguời lòng chai dạ dá, cứng cổ hon dân Israel thời Môsê. Họ nên duợc hình ảnh nguời con cả dại diện. Nhung sự thật Thiên Chúa dã thấu hiểu tình trạng vô vọng của dứa con thứ. Ngài buớc vào, lật nguợc tâm hồn anh ta và gio tay cứu vớt …
Kết quả của tiến trình này là một tuong lai tuoi sáng, dầy hứa hẹn, mở ra cho anh: “Mau mau giết bê béo dể an mừng, vì con ta dây dã chết, nay lại sống, dã mất, nay lại tìm thấy”- hiện thực của từ vì thế (so ). Áp dụng vào dời sống thiêng liêng của mỗi linh hồn, ba từ này diễn tả một tiến trình hết sức thực tiễn và cảm dộng. Bất cứ ai sống ở thế gian này dều có những giây phút bế tắc vì tội lỗi, tính mê, nết xấu. Tự thân tìm kiếm, chẳng thể nào thấy duợc lối ra. Càng cố gắng càng lún sâu vào bùn den nuớc dộc. Ðó là những giây phút “bởi vì” của các bài dọc hôm nay. Bởi vì chúng ta không có khả nang tự giải thoát, xiềng xích của hoả ngục quá nặng nề. Chúng ta phải kêu lên nhu thánh Phaolô: “Khốn nạn thân tôi, ai sẽ cứu tôi khỏi gánh nặng nề này?” Ðiều chi sẽ xảy ra dể thay dổi tình trạng hiện thời? Ðến dây là giây phút của “Nhung”. Nhung lòng thuong xót của Thiên Chúa can thiệp vào và dổi nguợc mọi sự: Từ tuyệt vọng dến hy vọng, từ tối tam dến anh sáng, từ ngục tù dến tự do, từ duờng cùng dến lối thoát. “Vì vậy” cuộc sống mới bắt dầu, dầy tuong lai và hạnh phúc. Hẳn chúng ta hiểu ra tại sao trong giai doạn này thánh Phaolô lại dùng cụm từ “mặc lấy Ðức Kitô”, dể mô ta dời sống mới của nguời tín hữu. Ðời sống vinh cửu, hoàn toàn tuoi sáng, tự do. Tạ on Chúa. Cho nên, hôm nay truớc bàn thờ Thánh Thể, Chúa cho chúng ta co hội tốt dể nhớ lại quá khứ của mình: Ðã mất nay lại tìm thấy, dã chết nay lại sống. Giống nhu những nhân vật trong các dụ ngôn, chúng ta cử hành niềm vui mừng tìm thấy linh hồn mình, bị trầm luân nhung duợc Chúa cứu sống, bị kết án nhung duợc Chúa phóng thích. Tuy nhiên, việc này hoàn toàn không do nang lực riêng mỗi nguời. Ðấng là Lòng Thuong Xót dã tìm kiếm và cứu chữa chúng ta. On này chẳng bao giờ ngợi khen cho dủ. Xin hãy cúi dầu phủ phục truớc tôn nhan và quyết tâm phụng sự Ngài hiện diện trong tha nhân. Amen.
“Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:
"Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.' Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
"Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.' Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."
Rồi Đức Giê-su nói tiếp: "Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: 'Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
"Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: 'Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: 'Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
"Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: 'Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa ...' Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: 'Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng.
"Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: 'Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.' Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: 'Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !'
"Nhưng người cha nói với anh ta: 'Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
Chúa Giê-su kể những dụ ngôn này trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các thầy dạy luật và các đạo sĩ Do-thái lấy làm vấp phạm khi thấy Chúa Giê-su giao du với những kẻ mà người Do-thái đạo đức gọi là tội nhân. Đạo sĩ Do-thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ luật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là "Dân của đất". Có một hàng rào ngăn cách dứt khoát giữa những đạo sĩ Do-thái và người "dân của đất". Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do-thái định rằng: Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặt nó coi trẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó." Có luật cấm đạo sĩ Do-thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cũng cấm đạo sĩ Do-thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do-thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỷ mỷ trong luật pháp. Dĩ nhiên họ rất khó chịu khi thấy Chúa Giê-su làm bạn với những người chẳng những thuộc hạng cùng đinh mà còn là tội nhân nữa, vì liên hệ với hạng người này thì bị ô uế. Chúng ta sẽ hiểu các dụ ngôn này đầy đủ hơn nếu chúng ta nhớ rằng người Do-thái ngoan đạo không nói: "Cả thiên đàng mừng vui vì một tội nhân ăn năn hối cải." Nhưng họ nói: "Cả thiên đàng mừng vui vì một tội nhân bị hủy diệt trước mặt Thiên Chúa !" Họ hướng đôi mắt độc ác chờ xem sự hủy diệt tội nhân chứ không mong chờ tội nhân được cứu thoát.
Trước hết Chúa Giê-su nói cho họ dụ ngôn về con chiên lạc và niềm vui của kẻ chăn. Chăn chiên ở xứ Do-thái là một công việc khó khăn và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm hoi. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn phần nhiều là địa thế những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu. Không có một bức tường chắn giữ nên chiên dễ đi lạc đàn. Người chăn phải trực tiếp chịu trách nhiệm về bày chiên. Nếu một con chiên bị mất, thì người chăn phải mang về nhà ít nhất là cái lốt chiên để chứng tỏ là nó đã chết thế nào. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, họ có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hàng dặm qua núi đồi. Không có người chăn chiên nào không coi bổn phận mỗi ngày của mình là bỏ mạng sống mình vì bầy chiên. Có nhiều bầy chiên là tài sản chung thuộc một làng và có hai hay ba người chăn. Những người chăn có bầy chiên còn đầy đủ thì có thể về nhà đúng giờ và báo tin rằng còn có một người chăn đang lặn lội trên sườn núi để tìm kiếm con chiên lạc. Cả làng sẽ chờ đợi, rồi khi thấy từ đàng xa một người chăn chiên đang vội vã trở về, trên vai có một con chiên, cả làng sẽ reo vui cảm tạ. Đó là hình ảnh Chúa Giê-su phác vẽ về Thiên Chúa, Người bảo Thiên Chúa cũng thế, Ngài vui mừng vì tìm lại được một tội nhân đã lạc mất cũng như người chăn tìm lại được con chiên đi lạc đem về chuồng.
Chúa nối tiếp tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói đến ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị lạc mất trong nhà dân quê xứ Pa-lét-tin, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do-thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khoảng bốn mươi lăm phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được. có hai lý do khiến người đàn bà sốt sắng và kiên nhẫn tìm kiếm đồng tiền.
Có thể vì nhu cầu:
Dù một đồng tiền không nhiều nhưng nó cũng cao hơn công giá một ngày làm việc của một công nhân tại xứ Pa-lét-tin. Họ thường sống trong cảnh thiếu hụt và hầu như luôn bị nạn đói đe dọa. Có thể người đàn bà nóng nảy tìm cho ra, vì nếu không, gia đình bà sẽ không có ăn.
Nhưng có thể còn một lý do khác thơ mộng hơn lý do trên:
Tại Pa-lét-tin, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng mười đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn đã đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác ũng làm thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy.
Vì thế chúng ta dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại đồng bạc bị mất. Chúa Giê-su cho biết: cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ vui mừng khi một tội nhân ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi lại tìm lại được.
Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn qua dụ ngôn người con hoang đàng. Theo luật Do-thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ được một phần ba gia tài (x. Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn. Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói vào mặt cha nó: "Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này ." Người cha không tran luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi …
Nó nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa đối với người Do-thái. Và Chúa Giê-su cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: "Khi nó hồi tâm tự nhủ, trở về với chính mình." Chúa Giê-su tin rằng bao lâu con người xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không thực sự là chính mình khi đang trên đường trở về nhà. Nó quyết định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con trở về, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, đôi dày là dấu hiệu làm con, và yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang nay đã trở về.
Nếu chúng ta chú ý, chúng ta sẽ thấy ba câu chuyện xoay quanh một chủ đề: đã mất mà lại tìm thấy, loài người bị mất. Thiên Chúa mất loài người, loài người đã bị mất tức là đã đi khỏi sự hiện diện của Thiên Chúa, và đó là cái mất lớn lao nhất. Thiên Chúa không mất gì đáng tiếc hơn mất loài người. Dụ ngôn nêu lên ba khía cạnh để giải thích giá trị của loài người: con chiên bị mất, đồng tiền bị mất, đứa con bị mất.
Loài người có ba điều quý: Tài sản, tiền bạc và con cái. Cả ba đều mất, mất lớn lao đáng tiếc. Chúa không mất súc vật, tiền bạc, nhưng mất loài người, mất cái quý báu nhất, không gì sánh bằng. Và Ngài tiếc như ta tiếc của cải, tiền bạc, con cái.
Khi mất một phần trăm đã tiếc, mất mười phần trăm tiếc hơn, mất năm mươi phần trăm tiếc hơn nữa. Nhưng Thiên Chúa mất hết, mất từ thời A-đam, nên Chúa lập cách cứu loài người: "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất."
Khi nghiên cứu nguyên nhân đưa tới việc mất, chúng ta thấy khác biệt. Con chiên bị lạc mất vì hoàn toàn ngu dại. Nó không biết suy nghĩ, nhưng có nhiều người sẽ tránh được tội lỗi nếu họ suy nghĩ kịp thời. Đồng tiền bị mất vì không phải lỗi của chính nó. Có người đi lạc đường vì bị kẻ khác lừa dối, và Thiên Chúa không kể là vô tội kẻ nào xui kẻ khác phạm tội. Đứa con tự ý đi lạc, nhẫn tâm quay lưng lại với cha mình.
Nhưng Thiên Chúa có thể dùng tình yêu của Ngài chiến thắng sự dại dột của con người, chiến thắng những tiếng cám dỗ, và chiến thắng cả sự phản bội của con tim chúng ta nữa. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn nữa.
Gioan Scotus nói: “Đích điểm ra đi phải là khởi điểm trở về, con người lạc mất Thiên Chúa là khổ hình bậc nhất !”
Thực vậy, từ khi Ađam, Eva phạm tội, dòng giống họ càng ngày đi xa Thiên Chúa, và chìm sâu trong tội lỗi đến đỗi Chúa phải dùng lụt hồng thuỷ mà tiêu diệt hết công trình Ngài đã tạo dựng ! Nhưng cũng từ lúc ấy Thiên Chúa đã đặt điểm mốc-cầu vồng-cho con người biết trở về với Chúa, bởi vì khi con người lạc xa Chúa như con thứ xa Cha, thì chỉ là phá tan sản nghiệp Cha đã giao cho, và tự cảm thấy tủi nhục như kẻ trần truồng dù sống trong môi trường hoan lạc của vườn địa đàng (St 3). Thiên Chúa là Cha yêu thương chỉ mặc lại ân sủng của Ngài cho kẻ có tội biết trở về nhà Ngài như người Cha trong Tin Mừng hôm nay đã cho xỏ nhẫn, mang giầy, mặc áo mới cho con, đó là niềm vui vượt quá ước mơ của con (xem Ep.3,20). Cho dù Thiên Chúa đã trao ban hết ân huệ cho con người, như người Cha đã chia hết gia tài cho các con, thì Thiên Chúa vẫn không tín nhiệm con người trung tín với Ngài để được đảm bảo sự sống hạnh phúc muôn đời (Ga 2, 23-25;Lc18,8). Lòng thổn thức ấy càng ngày càng gia tăng, như người giầu mất 1/100 con chiên, không xót xa bằng bà góa mất 1/10 số tiền bà có, nhưng cũng không chua xót bằng người Cha lúc nào cũng lạc mất một trong hai người con ! Như thế TỘI LẠC XA CỘNG ĐOÀN là tội làm cho Chúa thổn thức và đau khổ nhất. Để đáp lại lòng Chúa thương ta, con người phải ý thức sống ba điều sau: sống liên kết trong cộng đoàn bằng giao ước yêu thương
1/ THIÊN CHÚA KHÔNG MUỐN CỨU ĐỘ CON NGƯỜI CÁCH RIÊNG RẼ THIẾU LIÊN KẾT (HCHT.9):
Cả ba dụ ngôn hôm nay đều nhấn mạnh sự đoàn tụ:
a. Một con chiên lạc phải tìm đưa về đàn. Dụ ngôn không nói chiên lạc mắc nạn phải lo cứu về, nên rất có thể chiên lạc đang ăn uống một mình tại khu có cỏ xanh non bên suối nước trong lành. Dụ ngôn chỉ muốn nhấn mạnh: cả bầy (100 con) phải sống một nơi dưới quyền Chăm sóc của chủ .
b. Một đồng bạc mất, dụ ngôn không có ý nói bà góa đi tìm đồng bạc mất vì thương nó, nhưng chỉ vì nhu cầu của bà muốn giữ trọn tài sản, hay không một đồng nào lạc xa túi bà: cả 10 đồng phải ở một chỗ bà quy định.
c. Con xa nhà, không thấy người Cha trách tội con thứ là kẻ phá sản; cũng không trách con cả ích kỷ với em, nói hỗn và vô ơn Cha. Đứa nào Cha cũng chỉ muốn sống chung nhà với Cha .
Hình ảnh người con cả ở đây chính là dân Do Thái. Họ mới thực là người con hoang đàng làm Cha đau khổ, họ phải trở về nhà Cha là Hội Thánh Chúa Kitô, mới được Chúa hứa ban: “Mọi sự của Cha đều là của con”(Lc 25,31).
Trong bài đọc II (2 Tm.1,12-17), Phaolô-một biệt phái Do Thái, là hiện thân sống động cho người con cả (Do Thái) trở về nhà Cha. Ông nói: “Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo, vũ phu… Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu các kẻ tội lỗi, mà trong số đó, tôi là người thứ nhất”.
“Kẻ thứ nhất” ở đây Phaolô muốn nhấn mạnh: trước hết người Do Thái phải vào Hội Thánh như mẫu người của ông:
-Đừng tự mãn mình là dòng giống của Abraham, là dân riêng của Chúa.
-Đừng dừng lại lề luật va nghi lễ Môsê đã truyền dạy như cùng đích của ơn cứu độ, để rồi đi đến quá khích giết hết những ai không đồng hai quan điểm trên (xem Cv 9).
Nhưng:
-Phải gia nhập cộng đoàn nhóm 12 là Israel mới, dù những người này xét về mặt xã hội, chưa đáng là học trò của Phaolô.
-Phải đón nhận lề luật mới ban qua Phêrô (Mt 16,17) hay qua Hội Thánh (Mt 11, 25-30), và nghi lễ mới “thông phần mình và Máu Chúa Kitô”, chứ máu chiên bò xưa không cứu được kẻ tin Chúa (xem Dt 10,4t).
Như vậy trở về với Chúa không nhấn mạnh ở luân lý cá nhân như trộm cắp, đĩ điếm… mà nhấn mạnh ở chiều kích Hội Thánh Chúa Kitô. Bởi vì “Thiên Chúa không cứu độ con người cách riêng rẽ thiếu liên kết với Hội Thánh” (HCHT.9)
2/ TRỞ VỀ VỚI GIAO ƯỚC MỚI ĐỂ ĐƯỢC SỐNG:
Giao ước mới của Chúa Kitô đưa đến không chỉ dựa trên luật mà dựa trên tình thương. Thực vậy, người Cha trong Tin Mừng đã không xử với các con theo luật mà Cha đã làm xong: con thứ được 1/3 gia tài của Cha và con cả được 2/3 phần còn lại (xem Dnl.21,17); nhưng Cha đã xử với con theo tình thương: lấy nhẫn trao cho con là trao cho con quyền hành như Cha (xem St 41,42), cũng Cha nói với con cả: “Mọi sự của Cha đều là của con’ (Lc 15,31), chứ Cha đâu chỉ cho con 2/3 gia tài.
Như thế cốt lõi của giao ước là tình thương, là sự sống, chứ không phải là luật, để ai phạm luật là xử án ! Chính vì vậy mà trong thời Môsê, khi dân Do Thái phạm luật bỏ Chúa thờ bò vàng, cứ theo luật thì dân phải bị xử tử, nhưng Môsê đã nại vào sự sống Chúa đã giao ước với các tổ phụ: “Xin Chúa hãy nhớ Abraham, Isaac và Giacóp, với họ Chúa đã lấy chính mình mà thề và đã phán: Ta sẽ cho dòng giống các ngươi nên đông như sao trên trời… thế là Chúa đã hối lại không phạt dân, lại cho dân sống chiếm hữu được đất Chảy sữa và mật” (bài đọc I).
3/ SỐNG YÊU THƯƠNG:
Cái đau khổ nhục nhã của con thứ khi phải làm thuê Chăn heo-làm tôi ma quỷ-mà không ai thương xót bằng con heo, đến nỗi cám heo ăn còn dư hắn muốn ăn cho đỡ đói mà cũng không ai cho ! Dĩ nhiên sự đau khổ này đã là cái đòn bẩy như chiếc roi đặt trên mông anh, để anh thức tỉnh. Nhưng chính hình ảnh yêu thương của Cha anh đối với những kẻ làm công, những kẻ nô lệ cũng còn có dư bánh ăn (Lc 15,17) mới chính là động lực thôi thúc anh quyết tâm trở về cùng Cha, chứ nếu anh nhớ lại cảnh sống gia đình như một địa ngục, Chắc chắn không khi nào anh muốn trở về, cho dù có đói khát ở vệ đường !
Cũng trong bài đọc II, Phaolô còn đóng vai trò diễn tả người con thứ trở về, cũng là hình ảnh muôn dân vào Hội Thánh:
- Người con thứ nhờ hấp lực tình thương của Cha, thôi thúc nó trở về, thì Phaolô nói: “Đội ơn Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (I Tm. 1,12a).
- Cuộc trở về của con thứ chỉ có Giá trị hệ tại ở chỗ: xin vào làm công cho nhà Cha (Lc 15,19). Nếu nó trở về đòi hỏi yêu sách này nọ với Cha nó, thì việc trở về có Giá trị gì ? Do đó Thánh Phaolô ý thức việc Chúa gọi ông vào Hội Thánh: “Vì Ngài xét tôi tín cẩn mà cho tôi xung vào công việc phục vụ” (I Tm. 1, 12b).
Nói tắt: trở về Hội Thánh sống yêu thương, chính là phục vụ Hội Thánh như tôi tớ.
Mỗi ngày và đặc biệt ngày Chúa Nhật, Hội Thánh như người Cha mong chờ con cái mình vào dự tiệc Thánh Thể đã dọn sẵn. Để nơi bàn tiệc này, mọi tội nhân như người con hoang được giao hòa lại với Thiên Chúa và Hội Thánh, để được tái lập giao ước mới, giao ước sự sống, được Hội Thánh công bố qua các Bài đọc và bài giảng của Linh mục.
Sau đó được mời ăn tiệc Thánh Thể và chính Chúa Phục Sinh. Thay thế con tim chai đá của chúng ta bằng con tim biết yêu thương của Chúa.
Nhờ lời ban sự sống và nhờ tình thương của Chúa rót vào tim ta, ta lại được Chúa sai đi để quy tụ những con chiên lạc về một đàn là Hội Thánh, ăn một đồng cỏ là Thánh Lễ. Mỗi tín hữu phải làm việc này để trở thành người thứ hai được Chúa thương xót theo mẫu người thứ nhất mà Phaolô đã làm gương .
Phạm tội là tách khỏi Thiên Chúa. Ai trong chúng ta có thể nói rằng tôi chưa bao giờ từ bỏ Người ? Chúa Giêsu, Đấng chăn chiên nhân từ, Người đến tìm kiếm chúng ta, và Người vui mừng khôn xiết khi tìm thấy lại chúng ta. Chúng ta hồi tâm trong giây lát để ý thức rằng chúng ta cần ơn tha thứ của Chúa về những điều đã tách chúng ta khỏi Người.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa từ bi với chúng con, và lòng thương xót của Chúa che phủ bao xúc phạm của chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúa tẩy rửa những tội lỗi của chúng con và làm cho chúng con được tinh sạch. Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúa tạo dựng trái tim tinh tuyền và ban thần khí mới vào lòng chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: Xh 32,7-11.13-14: Môsê đứng ra can thiệp nài xin với Thiên Chúa thay cho dân vì sự vấp ngã của dân đã thờ lạy tượng thần.
Bài đọc 2 : 1 Tm 1,12-17: Cuộc trở lại của thánh Phaolô là một minh chứng cho sự kiện Thiên Chúa đã đến thế gian để cứu tội nhân. Tin Mừng: Lc 15,1-32: Xuyên qua ba dụ ngôn, Chúa Giêsu minh chứng thái độ quan tâm của Người dành cho những tội nhân.
Bài giảng: GIÁ TRỊ CỦA TỪNG CÁ NHÂN
Thật tồi tệ khi các công ty đa quốc gia đôi khi cắt giảm nhân công, mà không chút quan tâm đến những con người bị sa thải. Đối với họ, lợi nhuận được đặt hàng đầu trên tiền trợ cấp của công nhân.
Đây là tiêu điểm mà những dụ ngôn về con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất Chúa Giêsu muốn đề cập tới. Trong cả hai câu chuyện, điều bị đe doạ đó là giá trị của từng cá nhân. Nhưng người ta có thể nói rằng: Tại sao lại quan trọng hoá con chiên đáng thương hoặc đồng tiền chẳng đáng gì ấy ? Đối với một người chăn chiên tận tâm thì mỗi một con chiên đều quan trọng và quý giá. Đồng tiền mà người phụ nữ làm mất là một đồng tiền Hy Lạp, chỉ đáng giá khoảng 4 xu. Nó không nhiều đối với chúng ta, nhưng vào thời điểm đó nó tương đương cả một ngày làm công. Chúng ta có thể hiểu tại sao bà ta lại cố gắng tìm kiếm đến như vậy. Nó có giá trị nhiều đối với bà ta.
Có một nhóm người đã tập hợp lại để lên kế hoạch mở một trại cải tạo cho những bé trai. Họ mời một nhà sư phạm danh tiếng đến để xin lời khuyên về việc thực hiện kế hoạch này. Nhà sư phạm đã kêu gọi với đầy nhiệt tình về những phương pháp nhân bản của công việc giáo dục nơi trường cải tạo, hối thúc những người sáng lập đừng tiết kiệm trong việc mời các thầy dạy giỏi và có tấm lòng nhân hậu. Ông kết luận rằng: “Nếu chương trình cải tạo này chỉ cứu được một đứa trẻ bị suy đồi đạo đức thì cũng xứng đáng với tiền bạc và công sức quý vị đã đầu tư.”
Sau đó một thành viên trong ban quản trị đã gặp ông và nói: “Ông đã nói không quá lời chứ ? Có thật là tất cả tiền bạc và công sức được đền bù nếu chúng ta chỉ cần cứu được một đứa trẻ ?”
“Đúng, nếu đứa trẻ đó là con tôi”, ông trả lời.
Nếu ta hỏi người chăn chiên: “Có bõ công không, khi ông bỏ thời gian và công sức để tìm kiếm một con chiên ?” Người chăn chiên sẽ trả lời tương tự: “Có chứ, khi con chiên đó là của tôi.” Không có điều gì là ngoại lệ về câu chuyện người chăn chiên của Chúa Giêsu. Bất kỳ người chăn chiên nào sống đúng với danh xưng của họ cũng đều làm như thế.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không nói về con chiên mà là nói về con người, một cách chính xác hơn là về những người tội lỗi. Người Biệt phái lấy làm khó chịu khi thấy Người hầu như dành tất cả thời gian để kết bạn với những người tội lỗi. Và Người không đợi đến lúc những người tội lỗi tỏ ra hối lỗi rồi mới làm bạn với họ. Người làm bạn với họ ngay trong chính tình trạng tội lỗi của họ, trong sự mất mát của họ. Đây là điều mà những chức sắc tôn giáo lấy làm khó chịu, vì Người đã kết bạn với kẻ tội lỗi ngay khi họ còn là tội nhân.
Lời biện hộ của Chúa Giêsu thật hoàn toàn thẳng thắn, Người nói Người đến với những ai thực sự cần. Con chiên bị lạc và dĩ nhiên là nó đang bị nguy hiểm, sẽ cần đến sự giúp đỡ của người chăn chiên hơn là những con chiên đang yên ổn trong bầy. Và người chăn chiên không đợi đến lúc con chiên lạc trở về ; ông đi tìm nó. Những người tội lỗi cần Người hơn là những người công chính vì họ đang lầm lạc.
Khi kết thân với những người tội lỗi, Chúa Giêsu đã không dung thứ cho hoàn cảnh của họ. Đúng hơn, Người đã cố gắng chỉ cho họ thấy con đường tốt đẹp hơn. Nhưng Người không thể nào làm được điều này nếu Người không gần gũi với họ và không tỏ ra thông cảm với họ. Ta không bao giờ cải thiện được ai nếu ta lảng tránh họ. Trong khi hành động như thế, Chúa Giêsu đã bày tỏ lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi.
Thánh Phaolô không bao giờ quên sự việc ngài đã từng là kẻ bách hại Chúa Giêsu. Nhưng giờ đây, ngài xem bản thân mình như là một nhân chứng cho việc Chúa Giêsu đến để cứu vớt những người tội lỗi (bài đọc 2). Nếu như những người công chính là nhân chứng về ân sủng của Thiên Chúa thì những người tội lỗi sám hối là nhân chứng về lòng nhân từ của Người.
“Tôi không tán thành với những công việc trên quy mô lớn. Đối với chúng tôi, vấn đề là từng cá nhân con người” (Mẹ Têrêsa).
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên lành, Người đã đến để tìm kiếm và cứu những gì đã hư mất. Với niềm tin, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những nhu cầu của chúng ta.
Xướng: Cầu nguyện cho các vị chủ chăn của Giáo Hội để các ngài trung thành với sứ mạng chăm sóc đàn chiên Chúa, bày tỏ lòng quan tâm đặc biệt đến những con chiên lạc.
Xướng: Cầu nguyện cho các vị lãnh đạo xã hội biết dành sự quan tâm chăm sóc những người bị loại trừ và những thành viên bị thua thiệt trong xã hội.
Xướng: Cầu nguyện cho các bậc cha mẹ, để họ biết xây dựng mái ấm gia đình, nơi mà các trẻ em cảm nghiệm được rằng chúng được yêu thương.
Xướng: Cầu nguyện cho những người bị mất tích và cho gia đình đang đau khổ của họ.
Chủ tế: Lạy Chúa đầy tình yêu thương và khoan dung, xin ban cho chúng con được vững tin rằng bên kia cái chết là sự sống ; nơi mà những gì tan vỡ được hàn gắn, những gì bị mất lại được tìm thấy ; nơi mà sự an nghỉ thay cho những mệt nhọc, niềm vui thay cho nỗi buồn ; là nơi chúng con sẽ gặp lại người thân yêu của chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Các người thu thuế và tội lỗi đến gần Đức Giêsu để nghe Ngài. Không có ranh giới, không có phân biệt và kỳ thị. Cảnh tượng đó khiến các người Pharisêu và các kinh sư khó chịu, lẽ ra Đức Giêsu phải xa tránh thì Ngài lại đón tiếp và cùng ăn với hạng tội lỗi. Đức Giêsu biện minh cho thái độ của mình khởi đi từ cách cư xử của con người trong cuộc sống hàng ngày. Ngài kể hai dụ ngôn có cấu trúc giống nhau: người chăn chiên có 100 con chiên, mất một con; Người phụ nữ có 10 đồng quan, mất một đồng. Cả hai đều nỗ lực tìm kiếm, và tìm cho đến khi thấy mới thôi, dù phải để 99 con chiên khác ngoài đồng hoang, hay phải thắp đèn, quét nhà… Cả hai đều mừng rỡ khi tìm thấy điều đã mất, niềm vui lớn quá, không giữ một mình được, nên phải mời hàng xóm đến chung vui. Từ hai dụ ngôn này, Đức Giêsu đưa chúng ta đến với thái độ của Thiên Chúa. Cả trời cao, cả triều thần thiên quốc cũng vui mừng về chuyện một tội nhân hối cải. Tội nhân là người vuột ra khỏi vòng tay Thiên Chúa, như con chiên bị lạc, như đồng quan bị mất, Ngài khởi công tìm thấy họ, Thiên Chúa vui mừng, và Ngài cũng muốn chúng ta chung vui với Ngài.
Thiên Chúa quý con người, quý từng người, từng tội nhân. Các tôi nhân lại lôi kéo sự quan tâm của Ngài. Hạnh phúc của Thiên Chúa là tìm thấy lại điều đã mất. Khi kể hai dụ ngôn này, hẳn Đức Giêsu có ý nhắc các người Pharisêu và kinh sư rằng họ được mời gọi để chung vui với Thiên Chúa. Coi chừng họ lại mang thái độ của người tưởng mình là công chính, không cần hối cải, không chia sẻ được niềm vui đang rạo rực nơi Thiên Chúa. Từ chối chung vui với Đức Giêsu, từ chối niềm vui của ơn tha thứ được ban và được nhận, là khinh thường niềm vui của trời cao, là lẩm bẩm chống lại Thiên Chúa.
Khuôn mặt người con thứ
Trong quan niệm của văn hóa thời Đức Giêsu, người con thứ là đứa con bất hiếu. Chẳng ai đòi chia gia tài khi cha mình còn sống khỏe mạnh. Chỉ khi cha qua đời, tài sản mới thực sự được trao lại cho các người con sử dụng. Cứ sự thường người cha sẽ nổi giận trước lời nài xin hỗn xược đó, thế nhưng ở đây người cha lại chiều ý con. Ông cho đứa con thứ tự do ở lại hay ra đi, chấp nhận hay từ khước cha. Chỉ nơi cha mới có sự sống: "Vì con ta đây đã chết, nay sống lại." Đứa con thứ còn vui sống thỏa thuê bao lâu nó còn những đồng tiền của cha nó. Khi hết tiền, nó nghĩ mình có thể tự sống được bằng cố gắng của mình, nhưng nó đã suýt chết đói. Nó phải làm một nghề hèn hạ là chăn heo cho dân ngoại, hơn nữa nó còn thấy mình không bằng heo. Cái chết rình rập đâu đây, người con thứ đã xuống tới đáy vực thẳm. Nó cảm thấy phải trở về với cha để tránh cái chết trước mắt. Đây chưa phải là một hoán cải sâu xa vì thấy mình xúc phạm đến tình yêu cha. Nó muốn trở nên đứa làm công cho cha, được cha trả lương. Nó vẫn muốn tự sống bằng lao động của mình. Chỉ tình yêu cha mới khiến nó hoán cải thực sự. Chỉ trong vòng tay và những nụ hôn của cha mà nó hiểu rằng chỉ nơi cha mới có sự sống, cắt đứt với cha là cắt đứt với sự sống.
Khuôn mặt người con cả
Chẳng hơn gì người con thứ, người con cả chỉ biết hầu hạ cha, nhưng anh không yêu cha. Nếu anh yêu cha thực sự, hẳn anh có thể hiểu được niềm vui của cha khi người em trở về, và anh đã có thể chia sẻ niềm vui đó với cha, không một chút dè dặt hay ganh tỵ với em. Anh có chút tự hào, tự mãn vì mình đã hầu hạ cha ba năm, chưa bao giờ trái lệnh. Người con cả tượng trưng cho những người Pharisêu và kinh sư, những người đã phục vụ Chúa và giữ luật một cách tỉ mỉ. Anh không hiểu được tại sao cha lại đón tiếp một cách long trọng cái thằng con phung phá và bất hiếu đó. Người Pharisêu cũng không hiểu được tại sao Đức Giêsu lại tiếp đón người tội lỗi và ăn uống với họ. Người anh cả tưởng mình sống gần cha, nhưng thực sự lại ở xa cha. Điều quan trọng không phải chỉ là ở trong nhà của cha mà còn là ở trong tim của cha nữa.
Trở lại với cha
Trở lại với cha là trở về với nguồn cội, với tình yêu ấm áp và sự sống dư dật.
Ai cũng cần trở lại. Dù bạn là con út đã đi hoang hay mới chỉ mang trong mình ước mơ được tự do bay nhảy, coi mái nhà cha là nơi tù túng, buồn chán. Dù bạn là con cả, đã luôn ở bên cha, đã làm việc cho cha, bạn cũng cần trở về, nghĩa là thôi đứng ngoài, đứng ngoài nhà, đứng ngoài lối nghĩ và tâm tình của cha, đứng ngoài niềm vui đang rạo rực trong lòng Cha, đứng ngoài hạnh phúc bất ngờ của người em biết ăn năn hối cải.
Hãy bước vào nhà để giang tay đón lấy người em của mình, để lần đầu tiên hiểu được sự bao la của tình cha. Cha yêu mình không phải vì mình đã phụng dưỡng cha bao năm, chẳng hề một lần trái lệnh. Cha yêu mình không phải vì mình ngoan hơn "thằng con cha kia". Cha yêu mình chỉ vì mình là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Mỗi người con đều có chỗ đứng trong Trái Tim Cha.
Hãy trở về để bắt đầu thực sự "ở với Cha" như một người con, nghĩa là nhận ra mình quá ư giàu có: "mọi sự của Cha là của con". Vậy mà trong quá khứ mình vẫn thèm thuồng những chuyện chẳng đáng gì, một con dê nhỏ chẳng hạn. Có thể mình đã sống như một nô lệ hay một người làm công cho Cha, chỉ mong Cha trả công bằng một cái gì thấy được cụ thể ở trần gian này, mà quên rằng hạnh phúc đích thực là được sống bên Cha như một người con.
Trở về không phải chỉ là thái độ của Mùa Chay. Trở về là thái độ hàng ngày. Có những khoảnh khắc trong ngày, bạn được mời gọi trở về, trước khi bị lún sâu. Bạn đừng dập tắt tiếng gọi này. Nếu bạn trở về lập tức, bạn sẽ tránh được những vấp ngã nặng nề.
Ai cũng cần trở về. Không ai trong chúng ta quá hoàn hảo đến nỗi không cần phải trở về. Có khi là những trục trặc nhỏ cần điều chỉnh lại. Có khi lại là một thay đổi lớn lao hơn: thay đổi hướng sống, thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa, về tha nhân và về chính mình.
Trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng. Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường. Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người con út cần khiêm tốn mới dám trở về gia đình giàu có của mình trong tình trạng thân tàn ma dại. Để trở về bao giờ cũng cần chút khiêm hạ và từ bỏ, có thể là những từ bỏ đớn đau. Nhưng hạnh phúc thì tuyệt vời.
Người con thứ cảm nếm được hạnh phúc của tình Cha. Không rõ người con cả có vào nhà để dự tiệc không, hay là cố tình đứng ngoài chịu đói?
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về khuôn mặt của người cha? Thái độ nào của người cha đối với hai con đánh động bạn hơn cả?
2. Bạn thấy mình có nét nào giống với người con thứ và người con cả?
Trong mấy năm gần đây, ở hải ngoại cũng như ở trong nước, rộn lên một phong trào đạo đức sùng kính Lòng Chúa Thương Xót. Xuất phát điểm của Phong trào thánh thiện này là ‘mạc khải’ mà Chúa Giê-su đã ban cho Giáo hội qua Thánh Nữ Faustina Kowalska (1) và sự cổ võ mạnh mẽ của người đứng đầu Hội thánh Công giáo toàn cầu là Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II.
Nhưng giả như không có hai yếu tố quan trọng trên thì Lòng Chúa Thương Xót không được biết đến và tôn vinh sao? Những trang Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, nhất là ba dụ ngôn trong Phúc âm Lu-ca của Phụng vụ Chúa nhật 24 Thường Niên năm C hôm nay không đủ sức thúc đẩy mọi người, mọi cộng đoàn Ki-tô hữu tôn vinh Lòng Chúa Thương Xót sao?
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH 2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Lời Chúa trong Sách Xuất Hành (Xh 32,7-11.13-14): 7 ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê: "Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai Cập. 8 Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập." 9 ĐỨC CHÚA lại phán với ông Mô-sê: "Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. 10 Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn."
11 Ông Mô-sê cố làm cho nét mặt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa: "Lạy ĐỨC CHÚA, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai Cập? 13 Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời." 14 ĐỨC CHÚA đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe.
(2) Bài đọc 2: Lời Chúa trong thư thứ nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi ông Ti-mô-thê (1 Tm 1,12-17): 12 Tôi tạ ơn Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. 13 Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. 14 Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. 15 Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. 16 Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời. 17 Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.
(3) Bài Tin Mừng: Lời Chúa trong Sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca (Lc 15,1-32): 1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:
4 "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? 5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. 7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
8 "Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất. 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."
11 Rồi Đức Giê-su nói tiếp: "Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. 14 "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. 17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
21 Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa... 22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.
25 "Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!
31 "Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Xh 32,7-11.13-14) là một trích đoạn của Sách Xuất Hành kể lại sự nổi giận và dự tính tiêu diệt dân Ít-ra-en của Thiên Chúa trước sự cứng lòng và hành động phản bội của những người này và sự can thiệp hữu hiệu của ông Mô-sê khi ông nhắc lại với Thiên Chúa lời Người đã hứa với các tổ phụ là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en.
Qua đoạn Sách Xuất Hành trên (32,7-11.13-14) chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng rất trung tín với lời hứa và rất yêu thương dân Ít-ra-en nói riêng và loài người nói chung. Thiên Chúa không muốn một con người nào bị trừng phạt, bị tiêu diệt vì tội lỗi và sự phản bội mà người ấy đáng chịu. Chúng ta cũng thấy ông Mô-sê là người có “thần thế” như thế nào trước mặt Thiên Chúa, khi lời cầu xin và năn nỉ của ông đã làm cho Thiên Chúa nguôi lòng trong cơn thịnh nộ.
(2) Bài đọc 2 (1 Tm 1,12-17) là bức thư tuyệt vời mà Thánh Phao-lô viết cho ông Ti-mô-thê, một cộng sự thân cận của ngài, về hồng ân vĩ đại của Lòng Chúa Thương Xót. Từ một kẻ bắt đạo, Thánh Phao-lô chẳng những không bị Chúa trừng phạt mà còn được thứ tha, cứu vớt và được giao phó sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Thánh Phao-lô nhận thức sâu sắc lý do tại sao Thiên Chúa đã hành động như vậy là để Lòng Chúa Thương Xót nổi bật hơn, hầu đem lại niềm hy vọng cho tất cả mọi tội nhân.
Trong đoạn thư gửi ông Ti-mô-thê trên (1 Tm 1,12-17) của Thánh Phao-lô Tông đồ, chúng ta thấy rõ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vĩ đại như thế nào và cách hành động của Người diệu kỳ như thế nào trong cuộc đời của Thánh Phao-lô. Tình thương và quyền năng của Thiên Chúa đã biến “thù nghịch” thành “nghĩa thiết”, biến “đáng bị trừng phạt” thành “đáng được thưởng công”.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 15,1-32) là ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót đối với tội nhân tức đối với hết mọi người chúng ta (vì có ai trong chúng ta không là tội nhân?). Đó là dụ ngôn người chủ chiên tìm lại được con chiên lạc; người phụ nữ tìm lại được đồng quan (tiền) bị mất và người cha tìm lại được đứa con trai đi hoang nay trở về. Ba dụ ngôn trên diễn tả ba niềm vui: niềm vui của việc tìm lại được con/cái/người đã mất và là hình bóng của niềm vui trên trời khi có một tội nhân thống hối trở về!
Qua Bài Phúc Âm theo Thánh Lu-ca trên (15,1-32) chúng ta có một khám phá đầy đủ và quyết liệt nhất về Thiên Chúa Cha và về chính Chúa Giê-su Ki-tô:
(a) Thiên Chúa Cha là Đấng đầy Lòng Xót Thương, không muốn một tội nhân nào phải hư mất, trái lại Người tìm kiếm hết mọi người có tội để thứ tha và phục hồi tư cách và phẩm giá là con Thiên Chúa cho họ: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”
(b) Chúa Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa xuống thế làm người và làm bạn với phường tội lỗi là để cứu vớt mọi người có tội, bằng cách mạc khải Lòng Cha Thương Xót và vạch đường chỉ lối cho tội nhân biết cách trở về với Cha. Đó là ăn năn sám hối và quay trở về như người con hoang đàng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...”
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.”
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy sứ điệp của Lời Chúa hôm có hai áp dụng:
3.1 Cậy trông và đón nhận Lòng Chúa Thương Xót: Càng thánh thiện người Ki-tô hữu càng ý thức tình trạng yếu đuối, tội lỗi của mình và càng cảm thấy nhu cầu cần được Thiên Chúa xót thương và thứ tha. Ba bài đọc Lời Chúa hôm nay đủ sức thuyết phục mỗi người, dù tội lỗi yếu đuối đến đâu, vững lòng cậy trông và đón nhận Lòng Chúa Thương Xót!
3.2 Quảng bá và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót với mọi người: Trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội, chúng ta được giao phó sứ mạng quảng bá và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót với mọi người, nhất là với những người bé mọn, mang đầy mặc cảm tội lỗi và bị nỗi tuyệt vọng đè nặng. Cách quảng bá và thể hiện Lòng Chúa Thương Xót tốt nhất là gần gũi, chia sẻ, cảm thông với những người ấy để giúp họ cảm nhận được Lòng Chúa Xót Thuơng vô bờ vô bến. IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Cầu Nguyện Giáo Dân)
4.1 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã mạc khải cho chúng con biết Chúa là Đấng Từ Bi Thương Xót. Xin Chúa thứ tha mọi tội lỗi, yếu đuối và xúc phạm của chúng con và ban ơn hoán cải cho chúng con, để chúng con được nhận lại tư cách và phẩm giá làm con của Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã mạc khải cho chúng con biết Chúa là Đấng Từ Bi Thương Xót. Xin Chúa thứ tha mọi tội lỗi, yếu đuối và xúc phạm của các nhà lãnh đạo các Giáo hội Ki-tô giáo và ban ơn thánh hiến cho những con người ấy để tiếng nói của họ được thế giới yêu mến và lắng nghe hơn.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã mạc khải cho chúng con biết Chúa là Đấng Từ Bi Thương Xót. Xin Chúa thứ tha mọi tội lỗi, yếu đuối và xúc phạm của các nhà cầm quyền trên toàn thế giới và ban ơn thay lòng đổi dạ cho những người ấy để thế giới bớt tội ác và khổ đau.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.4 Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con dâng lời chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa, vì Chúa đã mạc khải cho chúng con biết Chúa là Đấng Từ Bi Thương Xót. Xin Chúa thứ tha mọi tội lỗi, yếu đuối và xúc phạm của những người buôn bán ma túy, trẻ em và phụ nữ và ban ơn thay lòng đổi dạ cho những con người gây ra các tội ác ấy để xã hội trở nên trong sạch và tươi vui hơn.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Seattle (WA/USA) 03.09.2007. -------------------- Ghi chú:
(1) Thánh Nữ Faustina Kowalska sinh ngày 25/8/1905 tại Glogowiec, qua đời ngày 5/10/1938 tại Cracovia (Ba Lan) và được phong thánh ngày 30/4/2000.
Một trong những lời Thánh Nữ Faustina Kowalska nhận được từ Chúa Giê-su là: “Vào lúc 3 giờ chiều, hãy khẩn cầu Lòng Thương Xót của Cha cho các tội nhân cách riêng, và nếu có thể trong giây lát, con hãy trầm mình vào cuộc khổ nạn của Cha, đặc biệt lúc Cha bị bỏ rơi trong lúc hấp hối. Ðây là giờ điểm của Lòng Thương Xót vĩ đại nhất đối với thế giới… Trong giờ này, Cha sẽ chẳng từ chối bất cứ ai điều gì với các linh hồn kêu van Cha nhân danh cuộc khổ nạn của Cha.”
Muốn biết thêm về Thánh Nữ Faustina Kowalska và về Sứ Điệp Lòng Thương Xót, xin mời quý vị vào thanhlinh.net/Phòng Thương Xót.