Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 28-C Bài 1-50 Thái độ của 10 người phong cùi ------------------------ Phúc Âm: Lc 17, 11-19: "Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".
Thái độ vô ơn của chín người Do Thái được chữa lành, phải chăng cũng chính là thái độ của mỗi người chúng ta ?
Rải rắc trên đường đời, chúng ta đã nhận lãnh biết bao nhiêu ơn lành của Chúa, từ những ơn làn phần xác, đến những ơn lành phần hồn, thế nhưng chúng ta cho rằng mình được quyền hưởng dùng những ơn lành ấy và chẳng bao giờ chúng ta nghĩ tới việc phải cảm tạ Ngài.
Khi gặp gian nan thử thách, chúng ta khẩn cầu cùng Chúa, chúng ta thú nhận những sai lỗi, những vấp phạm của mình và chúng ta hứa với Ngài điều nọ điều kia. Thế nhưng, khi tai qua nạn khỏi, chúng ta dường như không còn nhớ gì nữa và chẳng bao giờ biết cám ơn Ngài.
Nếu thái độ vô ơn của chín người Do Thái đã làm cho Chúa Giêsu phải buồn phiền, thì chắc chắn thái độ vô ơn của chúng ta cũng sẽ chẳng hơn gì. Làm sao chúng ta có thể kể ra cho hết những ơn lành Chúa đã ban, bởi vì tình thương của Ngài thì dạt dào như biển khơi, không bờ không bến.
Thân phận chúng ta chỉ là tro bụi, thế nhưng, Chúa đã dựng nên, đã trao tặng sự sống phần xác, đã chiếu dõi ánh sáng đức tin phần hồn và đã hứa ban niềm hạnh phúc vĩnh cửu làm sản nghiệp, vậy mà chúng ta lại không biết cảm tạ Ngài hay sao?
Lòng biết ơn là một bông hoa tươi xinh của tình bác ái. Trái lại, sự vô ơn chính là một phép lạ vĩ đại của ma quỉ. Tôi xin đưa ra một thí dụ.
Chẳng hạn sức khỏe là một điều quí giá mà không một quà tặng trần gian nào có thể đánh đổi được. Một ông tỷ phú, trong cơn hấp hối, dù có bỏ ra hằng triệu đô la cũng không thể nào mua về cho mình sự sống, bởi vì đó là một hồng ân của Chúa. Thế mà biết bao nhiêu lần chúng ta đã hoang phí cho những cuộc nhậu thâu đêm, cho những canh bài suốt sáng. Đáng lẽ chúng ta phải dùng cuộc sống để làm đẹp tâm hồn và nâng tâm hồn lên cùng Chúa mà cảm tạ Ngài, thì chúng ta lại sử dụng nó để làm nô lệ cho những đam mê dục vọng xấu xa, cho những ý đồ đen tối và bất chính…
Vì thế, thánh Bernađô đã nói:
- Sự vô ơn là một bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và tạo vật, là một chiếc đập ngăn chặn nguồn suối với dòng sông.
Bởi đó, phải biết cảm tạ Chúa vì tâm tình biết ơn cũng chính là một lời kinh tuyệt vời chúng ta dâng lên Chúa, một cách không so đo, không tính toán.
Với những người biết ơn, chắc chắn Chúa sẽ ban cho họ những sự cần thiết, mặc dù họ không kêu xin. Vì biết ơn là một nhân đức đẹp đẽ nhất của người Kitô hữu. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, không phải chỉ trong những giờ phút may mắn và gặp được những sự tốt lành. Trái lại, chúng ta còn phải cảm tạ Chúa ngay cả trong những khi buồn phiền với những tai ương hoạn nạn xảy ra.
Có một chàng thanh niên, cha mẹ chẳng may bị giết chết trong một cuộc thảm sát. Tuy buồn, nhưng anh vẫn thầm thĩ kêu lên cùng Chúa:
- Lạy Chúa, con xin quì gối cảm tạ Chúa vì sự đau khổ con đang phải chịu cũng là một ơn huệ Chúa ban, để con biết chia sẻ với những khổ đau của Chúa.
Lòng biết ơn cũng chính là một dấu chỉ để phân biệt người đạo đức thật với kẻ đạo đức giả. Kẻ đạo đức giả thì trong những hoàn cảnh đen tối thường kêu trách Chúa. Còn người đạo đức thật, thì luôn khám phá ra bàn tay yêu thương của Chúa trong mọi tình huống, vì đối với họ: mọi sự đều là hồng ân.
Lời kinh cảm ta tuyệt vời nhất, theo tôi nghĩ, đó là lời kinh chúng ta thường hát trong thánh lễ:
- Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa.
Hay như trong kinh tiền tụng, chúng ta vốn thường đọc:
- Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu rỗi cho chúng con.
Và sau cùng, ở mọi nơi và trong mọi lúc, hãy sống một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho tình thương của Chúa và cuộc đời chúng sẽ trở thanh một hiến lễ tạ ơn dâng lên Chúa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm một cữ chỉ phù phép nào để chữa lành tức khắc mười người phong cùi, mà Ngài lại sai họ đi trình diện với tư tế trước đã. Họ đã làm theo lệnh của Ngài và tất cả đã được chữa lành, nhưng kỳ thực có phải tất cả mười người phong cùi đã được chữa lành không ? Xem chừng như Tin Mừng muốn nói với chúng ta rằng, chỉ có một người thực sự được chữa lành, người đó chính là người ngoại bang xứ Samaria, một kẻ thù không đội trời chung với người Do thái. Chỉ có kẻ ngoại bang này được thực sự chữa lành, bởi vì ông ta không những được lành lặn trong thân xác, mà còn được chữa lành trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã nói với ông ta: “Đức tin của ông đã cứu chữa ông”.
Có đức tin là nhìn nhận rằng, Chúa Giêsu không những là nguồn mạch duy nhất có thể chữa lành bệnh tật thân xác mà Ngài còn mang lại niềm vui, sức sống hy vọng cho tâm hồn. Chính đức tin đã khiến cho người xứ Samaria đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu để cảm tạ và thờ lạy Ngài. Người Samaria này không chỉ thấy mình đã khỏe trong thân xác, mà còn nhận được sức sống niềm tin bừng dậy trong tâm hồn, đó mới là điều quan trọng.
Tất cả mọi phép lạ của Chúa Giêsu đều nhắm đến việc phục hồi sức khỏe tâm linh ấy. Dĩ nhiên, Đức Giêsu mang đến cho con người ơn cứu rỗi toàn diện, còn việc được no cơm ấm áo, được khỏe mạnh trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ cần làm một cữ chỉ hoặc Ngài chỉ phán một lời thì nhân loại có thể đạt được giấc mơ ấy. Thế nhưng, đó không phải là đường lối của Thiên Chúa. Ơn cao cả nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho con người và Tin Mừng vĩ đại nhất mà Ngài mang đến cho con người trước hết chính là “niềm tin”. Có niềm tin là làm được tất cả. Chúa Giêsu đã chẳng nói với chúng ta sao: “Đức tin của con đã cứu con”.
Giấc mơ thông thường của con người là được giàu sang, được quyền bính, được sức khỏe tràn đầy, nhưng Thiên Chúa lại mở ra cho chúng ta một chân trời mới, đó là chân trời của đức tin. Có đức tin là có sức mạnh để đương đầu với mọi thử thách khổ đau của cuộc sống. Có đức tin là được chữa lành mọi thứ bệnh phong cùi của thất vọng, ích kỷ, tham lam. Có đức tin là có đủ sức mạnh để ra khỏi chính mình và không ngừng đến với tha nhân trong tin yêu và hy vọng.
Với cử chỉ của người Samaria trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy chạy đến với Chúa, sấp mình dưới chân Chúa để thờ lạy, cảm tạ tri ân Ngài. Vì Ngài đã ban cho chúng ta ơn đức tin, đưa chúng ta vào chân trời của sự sống, của niềm vui đích thực và của hy vọng tràn đầy.
Nguyện cho sức sống đích thực mà Ngài trao ban cho chúng ta hôm nay chữa lành được bệnh hoạn cùi hủi của tâm hồn chúng ta. Và với một tâm hồn tràn ngập hân hoan, chúng ta cũng hãy mau mắn ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ của Ngài cho tất cả mọi người.
Có câu chuyện kể rằng, một hôm Chúa sai hai thiên thần xuống trần gian đi làm nhiệm vụ, đúng hẹn hai thiên thần trở về, một vị đeo cái giỏ nặng trĩu, thấy vị kia đeo cái giỏ nhẹ tênh, hầu như không có gì bèn nói: Chúa sai tôi xuống trần gian thâu tất cả những lời cầu xin, nhưng nhiều quá nên cái giỏ của tôi rất nặng. Còn ngài, ngài đã làm gì mà sao cái giỏ của ngài nhẹ quá vậy ? Vị kia trả lời: Tôi xuống trần gian để thu tất cả những lời tạ ơn, nhưng chẳng có bao nhiêu.
Câu chuyện phần nào nói lên một thực tế của con người và giúp chúng ta hiểu được bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc, thì ra người ta hầu như biết cầu xin hơn là biết đón nhận và tạ ơn. Thánh Luca thuật lại sự kiện có mười người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu và khẩn khoản cầu xin Chúa thương xót, Chúa đã chữa lành bệnh cho họ, nhưng chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa. Người quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa lại là một người ngoại, vậy thì chẳng lẽ những người kia không được lành bệnh sao ?
Đọc bài Tin Mừng này tôi nhớ lại một sự kiện tôi đã gặp mà tôi nhớ rất rõ, đó là trưa ngày mùng 3 tháng 11 năm 1995 tại một nhà thờ của Dòng Đaminh, có một phụ nữ ôm một bó hoa tươi đang phân vân đi đi lại lại trước các tượng thánh Đaminh, thánh Vinh sơn Liêm và thánh Martinô trong khuôn viên nhà thờ. Tôi tiến lại gần và hỏi hình như bà muốn đặt hoa trước vị thánh nào đó phải không ? Bà thú nhận bà là người ngoại đạo, bà làm việc này theo yêu cầu của đứa con trai của bà. Nhưng thật đáng tiếc, bà không biết đâu là thánh Martinô, rồi bà tiếp tục tâm sự: gia đình bà đều ngoại giáo, cách đó nhiều năm đứa con trai của bà học lớp 9, theo các bạn bè Công giáo đến khấn xin thánh Martinô cho học hành tốt đẹp và tất cả chúng đã đạt được như ý. Kể từ đó, hàng năm vào ngày 3.11 lễ thánh Martinô nó vẫn mang bông đến tạ ơn thánh nhân, nhưng bởi vì năm nay nó đi xa, nó vẫn nhớ việc này và nhờ bà làm giúp cho nó.
Một người ngoại đạo họ không biết Chúa, không đón nhận Phép Rửa, không cùng tuyên xưng đức tin với chúng ta nhưng họ đã nhận ra nguồn hạnh phúc thật của sự sống. Họ ý thức rất rõ và xác tín những gì họ đã đón nhận. Họ hiểu ra rằng tất cả cuộc đời của họ đều là hồng ân. Họ chưa bao giờ tuyên xưng đức tin, nhưng họ đã luôn sống và thể hiện đức tin: “Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi”. Có thể nói, người biết tạ ơn đó là người có thái độ biết cầu xin và biết đón nhận, hay là người có thái độ tạ ơn Thiên Chúa, đó là người có đức tin.
Mỗi người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta thường hay nhắm đến cầu xin và luôn luôn cầu xin cho chúng ta, cho nên chúng ta đã quên mất rằng, tạ ơn là một trong những yếu tố quan trọng trong đời sống cầu nguyện. Cùng với chúc tụng, sám hối, chúng ta cầu nguyện hình như là để cầu xin Thiên Chúa thực hiện theo ý của chúng ta hơn là để chúng ta nhận ra thánh ý Chúa và thực hành ý Ngài.
Chính thái độ đó mà chúng ta cứ quay quắt trong ý định riêng tư và dằn vặt trong tính toán nên không thể nào nhận ra được hồng ân cao cả đầy yêu thương của Thiên Chúa đang thực hiện trong cuộc đời của mình. Nếu chúng ta ý thức một chút, chúng ta sẽ nhận ra cuộc đời của chúng ta là cả một cuộc đời đầy những hồng ân. Vì vậy, chúng ta phải chúc tụng, tạ ơn cả cuộc đời và cả một cuộc đời của chúng ta phải là một cuộc đời tạ ơn liên lỉ.
Xin cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đức tin để nhận ra trên thế giới này Thiên Chúa vẫn đang sống, vẫn đang hành động, đang ở với chúng ta, để chúng ta chúc tụng và tạ ơn. Giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin và xin cho mỗi người chúng ta cũng sống trọn vẹn đức tin để chúng ta chúc tụng, tạ ơn Chúa.
Một trong những tiếng được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn ngữ con người, từ đông sang tây, từ bắc tới nam, tức là khắp mọi nơi. Một tiếng rất ngắn nhưng đưa đi rất xa, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách trọn vẹn, chân tình. Đó là tiếng “cám ơn”. Nhưng trong thực tế, dường như người ta còn quá dè dặt và tiết kiệm tỏ lòng biết ơn nhau và cám ơn nhau.
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu lưu ý chúng ta về lỗ hổng trầm trọng ấy. Chúa đã làm phép lạ chữa lành cho cả mười người phong cùi. Thế là họ ra đi sung sướng, thỏa mãn, chỉ có một người nghĩ tới việc trở lại cám ơn Chúa. Chúa hỏi người ấy: “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ?” Chỉ là vì họ quên cám ơn. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta quên: cố tình quên hoặc vô tình quên như thế.
Có phải chúng ta vẫn thường coi việc người khác làm cho chúng ta hay phục vụ chúng ta như là những chuyện đương nhiên, những việc họ phải làm ? Chẳng hạn khi có người lưu ý một ông giám đốc hay một ông chủ về sự tận tâm của người thừa hành hay người giúp việc, thì các vị này đã tỉnh bơ trả lời: “Họ đã được trả lương để làm việc ấy mà”. Người ta trả tiền công và tưởng thế là sòng phẳng.
Chúng ta nên suy nghĩ tới đức bác ái Kitô giáo, tới tình người được gói ghém trong tiếng “cám ơn”, dù khi đã trả tiền công. Thực vậy, có biết bao nhiêu chuyện mà người ta không thể thanh toán được bằng tiền bạc, nhưng bằng một nụ cười, một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những người bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng của họ thế này: “Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền “puộc boa”, tiền trà nước, đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bày tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.
Chúng ta phải biết cám ơn những người sống chung quanh mình, bắt đầu từ những người gần gũi nhất, đó là những người trong gia đình. Người ta nói: hạnh phúc của mái gia đình tùy thuộc một phần không nhỏ vào bổn phận nhớ ơn nhau. Cuộc sống của chúng ta được dệt thành bởi trăm ngàn điều nhỏ mọn chẳng đáng kể gì, thế mà hạnh phúc gia đình phần lớn lại lệ thuộc vào những điều chẳng đáng kể gì đó, là tiếng “cám ơn” bé nhỏ nói cho đúng lúc.
Thực vậy, hạnh phúc thay gia đình nào có những người con biết nói cám ơn người cha người mẹ vẫn tận tâm tận lực lo lắng cho chúng và suốt ngày tảo tần mưu ích cho chúng. Và cũng thật hạnh phúc cho gia đình nào người chồng biết nói cám ơn đối với người vợ và người vợ biết nói cám ơn đối với người chồng. Tiếng cám ơn người chồng nói với người vợ đáng giá hơn tất cả mọi thứ vật chất, vì nó chứng tỏ người chồng lưu ý tới những gì người vợ làm cho mình. Cũng vậy, tiếng cám ơn người vợ nói với người chồng sẽ động viên cho ông thêm nghị lực, thêm can đảm, thêm sức mạnh để hăng say với công việc đều đều cực nhọc vất vả hằng ngày.
Sau hết nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết cám ơn Thiên Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng: về ngôi nhà đang che chở chúng ta, cái bàn kia, cái giường ấy, chiếc tủ này, những quyển sách đó, cái đèn đang cháy sáng kia, những người bạn chúng ta gặp tình cờ trong cuộc sống, và hàng trăm hàng ngàn điều khác đang ở trong tầm tay chúng ta… Chính Thiên Chúa ban cho chúng ta những điều ấy xuyên qua những nguyên do phụ thuộc. Vì thế, chúng ta phải luôn dâng lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân như đối với nguyên nhân tối hậu, từ đó phát xuất ra mọi điều thiện hảo cho chúng ta.
Có một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói: “Bố ơi, con sẽ đếm xem trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123, 124, 125…Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi: “Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi: “Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế”.
Hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại thời gian đã qua, nghĩ lại quá khứ cuộc đời mình và gia đình mình: có phải chúng ta đã lãnh nhận được rất nhiều ơn lành của Chúa mà rất ít khi chúng ta để ý cám ơn Chúa và tri ân Ngài không ? Đó là một thiếu sót lớn lao đấy. Cuộc đời chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa, từ mọi người thực là nhiều: từ một đồng bạc đến một sản nghiệp, từ một nụ cười đến một tình thương, từ một lời chào đến những lời an ủi, khích lệ, trao đổi, gặp gỡ… tất cả và bất cứ sự gì chúng ta lãnh nhận được đều là những viên gạch xây dựng đời chúng ta và gia đình chúng ta. Nên chúng ta phải luôn tạ ơn Chúa và cám ơn mọi người. Tạ ơn Chúa là chúng ta đem các ơn mình đã lãnh nhận được trình bày với Chúa, để rồi Chúa sẽ ban lại nhiều hơn, như người ta thường nói: “Một lần cám ơn là hai lần xin ơn”.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã khuyên bảo giáo dân Côlôsê: “Anh em hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn Chúa và biết ơn Chúa”. Đồng thời, chúng ta cũng phải luôn biết cám ơn mọi người, vì có thể nói, tất cả những người có liên hệ xa gần với chúng ta, đều là những ân nhân của chúng ta.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết khi Chúa đi lên Giêrusalem, qua giữa miền Samaria và Galilê thì Chúa chữa 10 người phong cùi. Theo thánh sử Luca, Giêrusalem đối với Chúa Giêsu là đích điểm của cuộc hành trình và cũng là nơi kết thúc cuộc đời của Chúa, để từ đây ơn cứu độ lan rộng khắp nơi, cho tất cả mọi người. Quả thật, Tin Mừng thuật lại cả 10 người đều được Chúa chữa cho khỏi bệnh, nhưng oái oăm thay, trong 10 người đó chỉ có một người – mà lại là người xứ Samaria, một người ngoại bang, người ngoại đạo – quay trở lại để tạ ơn, để tôn vinh Thiên Chúa.
Đối với những người Do thái thời xưa, ai bị bệnh phong cùi thì bị coi là đồ chúc dữ, là hình phạt của Thiên Chúa. Họ bị cô lập, tách riêng ra khỏi cộng đoàn và không được phép tham dự bất kỳ một nghi lễ phụng vụ nào. Đồng thời khi nghe có ai tiến gần đến họ thì phải kêu lên: “Ô uế ! Ô uế !” để cho người khác biết mà tránh xa. Nhưng khi biết Đức Giêsu sắp đến gần, thì họ đón gặp Người – Không phải để kêu lên “Ô uế ! Ô uế” – mà “lạy Thày Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Điều này chứng tỏ họ đã được biết, được nghe đến danh của Đức Giêsu và hy vọng một điều tốt đẹp xảy đến cho họ. Và Đức Giêsu đã đoái nghe đến lời khấn xin này, và bảo họ hãy đi trình diện tư tế, nghĩa là xác nhận đã lành bệnh. Quả thật, mệnh lệnh này là một thử thách đức tin của họ, vì chúng ta thấy trước khi đi thì họ vẫn trong tình trạng bị phong cùi. Và Tin Mừng thuật lại. Đang khi đi thì họ được khỏi, điều đó cho thấy 10 người cùng tin. Nhưng trong số 10 này chỉ có một là biết sống ơn đức tin đó: anh ta đã tiến thêm một bước trên con đường đức tin. Và nghịch lý thay, bước tiến lại là một bước quay trở lại, một bước trở về để tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đấng đã làm ơn cho mình.
Chúng ta thấy, điều mà người Samaria này cần phải làm khi được khỏi bệnh không phải là một cái gì khác, không phải là một nghi lễ phụng vụ nào nhưng là phải gặp lại Đức Giêsu để mà tạ ơn. Điều mà anh ta thấy là gì ? Là chính Đức Giêsu đã cứu anh, anh đã tin như thế. Người Kitô hữu hôm nay cũng thế, chúng ta xin Chúa đủ điều, chúng ta tiếp nhận mọi sự tốt đẹp từ Giáo Hội, từ những người khác, nhưng mấy khi tôi biết ngồi lại để tạ ơn Chúa, để tạ ơn người khác ? Hãy tự xét mình lại ta sẽ thấy được !
Trước đây, tôi có biết một chị, là người lương. Cứ mỗi tuần vào chiều thứ bảy là chị đem một bó bông huệ đến đặt dưới chân tượng Đức Mẹ. Sau khi tìm hiểu thì tôi biết được là chị có một đứa con bị bệnh đã nhiều năm, chạy chữa tốn rất nhiều tiền bạc, công sức mà không khỏi. Tình cờ khi đi ngang một nhà thờ, chị nhìn thấy nhiều người đang đứng cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ. Chị chẳng biết Đức Mẹ là ai, nhưng cũng đến để cầu xin cho con mình được khỏi bệnh. Và quả thật, chỉ hơn 2 tuần sau thì con chị được khỏi bệnh.
Ở đây, tôi không biết là do chạy chữa nhiều hay là ơn Chúa ban qua Đức Mẹ mà con chị đã khỏi bệnh. Nhưng điều mà tôi muốn chia sẽ là tâm tình của chị sau đó. Chị đã tin là “Bà đó” – người đã chữa lành bệnh cho con chị cách lạ lùng và chị đã không ngừng tạ ơn về điều đó.
Nhiều khi chúng ta luôn miệng nói cám ơn vì lịch sự hay do thói quen mà không cần suy nghĩ, cũng không để cho nó tạo ra một mối quan hệ hay một sự tương quan nào với ai. Vâng lời cám ơn chân thành phải làm cho chúng ta hiệp thông với một con người, nó phải là một lời bộc lộ tình yêu thương. Mỗi ngày khi tham dự thánh lễ, sau khi nghe lời Chúa chúng ta cùng thưa lên: “Tạ ơn Chúa hay ngợi khen Chúa”. Và việc tạ ơn này là gì? Nếu không phải là để cho lời Chúa thấm vào trong tôi, đi vào trong con người của tôi và là động lực để thúc đẩy tôi dấn thân, để tôi sống và làm chứng lời đó giữa cuộc đời.
Như vậy, chúng ta thấy lòng biết ơn không chỉ là đức tính nhân bản, mà còn là một nhân đức tôn giáo nữa ; không chỉ là lời nói xã giao, mà còn là một sự tự nguyện dấn thân để tin theo. Đó là hình ảnh của một chị người lương nói trên và cũng là hình ảnh của một người cùi xứ Samaria trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã tạo ra được một mối tương quan mật thiết với Chúa. Nhưng trong thực tế, mấy ai đã làm được điều này ?
Nhìn vào lịch sử dân Chúa, chúng ta thấy đầy dẫy những sự vô ơn: như Tin Mừng hôm nay 10 người được chữa lành nhưng chỉ có một người quay trở lại tạ ơn ; 5.000 rồi 4.000 người được Chúa cho ăn no như khi hóa bánh ra nhiều nhưng trên đường vác thập giá chỉ có một người vác đỡ Chúa ; cả một dân tộc mang ơn nhưng khi Chúa bị đóng đinh thì chỉ có một tên trộm tuyên xưng Chúa vô tội.
Tục ngữ ca dao Việt Nam cũng có nhiều câu để diễn tả lòng biết ơn như: “An quả nhớ kẻ trồng cây, hay uống nước nhớ nguồn”, nhưng cũng có nhiều câu để nói lên sự vô ơn của con người: “An cháo đái bát, vắt chanh bỏ vỏ hay có trăng quên đèn…” là người thì không ai cách này hay cách khác đã có lần phải chịu ơn.
Hơn nữa, là người Kitô hữu thì tôi lại càng mang ơn nhiều hơn. Cử chỉ của người cùi xứ Samaria trong Tin Mừng nhắc nhớ cho chúng ta về điều này. Anh ta sấp mình xuống dưới chân Chúa mà tạ ơn, một cữ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi: để nói lên rằng chính con người tôi đây, tôi chẳng là gì cả, tôi đã được nhận tất cả, tôi chỉ là cát bụi. Vậy thì hôm nay tôi phải tạ ơn Chúa vì chính sự sống của tôi đây, điều mà tôi không có quyền gì để đòi hỏi nơi Chúa nhưng do tình yêu nhưng không của Ngài, như lời thánh vịnh 8 đã nói: “Phàm nhân là gì để Người nhớ đến, con người là chi để Chúa phải lưu tâm”.
Vâng tôi chẳng là gì cả, tôi chỉ là thân cát bụi hèn yếu nhưng chính Ngài đã ban Thần Khí cho tôi, đã cho tôi có sự sống, tôi không thể sống mà không biết tạ ơn ! Lại nữa, tôi không chỉ tạ ơn về những điều tốt đẹp, mà còn tạ ơn về những thiếu sót, lỗi lầm, giới hạn của tôi nữa. Tại sao ư ? Vì có như thế, tôi mới nhận ra được con người đích thực của mình, tôi mới có thể nhận ra được những điều tốt, điều hay nơi những người xung quanh, nơi những anh chị em của tôi. Thực ra, thì Chúa chẳng cần chúng ta ca tụng tạ ơn đâu – như lời Kinh Tiền Tụng đã ghi – vì điều đó chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đó lại là một hồng ân cao cả, nó đem lại ơn cứu độ cho chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết không ngừng tạ ơn Chúa trong từng phút giây của cuộc đời chúng con. Lời Chúa hôm nay cho chúng con biết rằng, đối với Chúa điều làm cho chúng con có giá trị không phải là thân thế, sự nghiệp hay danh vọng, mà là chính tình yêu thương vô điều kiện của Chúa đã đổ tràn ngập xuống tâm hồn chúng con và bao phủ lấy cuộc đời của mỗi người chúng con. Chính điều này cho chúng con biết được Chúa là Thiên Chúa luôn gần gũi với con người, một Thiên Chúa luôn cúi xuống trên nỗi bất hạnh của con người.
Xin Chúa cho chúng con biết sống tâm tình tạ ơn bằng tất cả sự tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, chứ không phải chỉ trên đầu môi chót lưỡi. Để từ đó, chúng con cũng có được thái độ chia sẻ như là một trách nhiệm, đối với anh chị em chúng con, vì như thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Nhờ có cuốn sách Sehirdler’s Ark và cuốn phim Schindeler’s List, tên của Oskar Schindler được hàng triệu người trên thế giới biết đến. Schindler là một nhà công nghiệp người Đức. Trong suốt thế chiến II, ông đã cứu hàng ngàn người Do thái ở Balan khỏi các trại tập trung. Khi chiến tranh chấm dứt, quân Đức rút khỏi Balan và người ta chờ đợi quân Liên Xô đến. Ngay trước khi quân Liên Xô đến Schindler cũng đã quyết định trốn qua phương Tây.
Khi những người công nhân người Do thái, giờ đây đã được tự do nghe tin ông ra đi, họ họp lại để xem có thể bày tỏ lòng biết ơn ông như thế nào. Phải bắt tay ngay để làm một món quà bằng kim loại. Rồi một người gợi ý một cái gì tốt hơn. Ông ta mở miệng mình ra và chỉ chiếc răng vàng.
“Hãy lấy cái này”, ông nói “Nó mà còn là nhờ có Oskar, bọn mật vụ SS muốn chiếm lấy các vật dụng bằng mọi cách. Cái răng của tôi lẽ ra cũng đã ở trong đống đồ trong nhà kho của SS, giữa những chiếc răng vàng của những người khác”.
Ban đầu, những người khác phản đối đề nghị ấy, nhưng vì người ấy năn nỉ mãi nên người ta nhận. Một tù nhân trước kia là nha sĩ ở cracow đã lấy cái răng vàng đó ra khỏi hàm răng. Một hứ kim hoàn trong số họ nấu chảy vàng và tạo thành một chiếc nhẫn. Vòng bên trong của chiếc nhẫn, người ta ghi những lời lấy từ Kinh Talmud: “Người nào cứu sống chỉ một mạng người, người ấy cứu sống toàn bộ thế giới”.
Đó là một cữ chỉ bày tỏ lòng biết ơn làm người ta ngạc nhiên và cảm động sâu xa. Đó là một trong những việc kỳ diệu về lòng biết ơn – nó làm cho chúng ta muốn đền đáp một điều gì. “Lòng biết ơn là ký ức của tâm hồn” (Tục ngữ Pháp). Nhưng rồi người ta phải nói rằng đó là điều tối thiểu mà người ta có thể làm khi người ta mang ơn Schindler về cuộc đời của họ. Mười người phong hủi trong Tin Mừng cũng mang ơn Đức Giêsu về cuộc đời của họ. Tuy nhiên, chỉ có một người trở lại để cám ơn Người.
Dường như cũng kỳ lạ khi người quay trở lại để cám ơn là một người ngoài cuộc – một người Samari. Nhưng điều đó không thường xảy ra đó sao ? Người trong cuộc cho rằng mọi sự là đương nhiên và chính người ấy cũng được coi là đương nhiên. Trái lại, người ngoài cuộc nhìn mọi sự vật là một ơn huệ. Chúng ta thấy bài đọc I cũng một ý tưởng. Người nước ngoài Naaman trở lại để cám ơn Elisa vì đã chữa cho ông khỏi bệnh phong hủi.
Chúng ta đòi người khác biết ơn mình hơn là tỏ lòng biết ơn người khác. Điều này chỉ ra lòng ích kỷ của chúng ta khi chúng ta thi ân. Nếu có người nào nhận thấy người anh em mình vô ơn, bội bạc thì người ấy không tìm kiếm hạnh phúc cho người khác mà tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình.
Đức Giêsu đòi hỏi lòng biết ơn, không phải cho chính Người. Điều Người nói là: “Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” Qua đó rõ ràng Người không nghĩ đến chính mình. Người nghĩ đến những người phong hủi. Người nhận một ân huệ có thể bày tỏ lòng biết ơn là một điều tốt và cần thiết.
Chúng ta biết bày tỏ lòng biết ơn là một việc rất quan trọng. Trước tiên điều ấy tốt cho chúng ta, nó bắt buộc chúng ta phải biết món nợ mà chúng ta còn mắc người khác. Lòng tri ân dĩ nhiên cũng tốt cho người khác ấy – nó làm cho người làm ơn cảm thấy được đánh giá cao. Người không cám ơn điều nhỏ, sẽ không cám ơn điều lớn. Vì thế điều quan trọng là biết ơn và đánh giá cao các ơn huệ nhỏ mà người khác làm cho chúng ta cũng như các dịch vụ mà chúng ta nhận được mỗi ngày.
Về việc thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cảm ơn của chúng ta nhưng chúng ta cần cám ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi việc mà chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cám ơn Thiên Chúa về điều xảy đến cho chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời mình: điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thật sự gọi mình là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cám ơn về mọi việc đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi nó như là con đường cụ thể trong đó Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đến giây phút này.
Khi chúng ta nhìn lại đời sống của mình, chúng ta thấy rằng những điều làm tổn thương chúng ta và những điều giúp đỡ chúng ta không thể tách rời nhau. Chúng ta hãy cố gắng nhìn ra bàn tay hướng dẫn của Thiên Chúa yêu thương trong mọi việc đã đưa chúng ta đến nơi chúng ta đang có mặt hiện nay.
Câu chuyện mười người bị phong hủi có một bài học rất rõ ràng, đó là tầm quan trọng của việc bày tỏ lòng biết ơn. Nhưng nó có một bài học khác: Tìm thấy Thiên Chúa qua đau khổ. Đau khổ có thể đưa con người rời xa Thiên Chúa hoặc có thể đem họ đến gần Thiên Chúa. Nhiều người trở lại đạo là những tân tòng của Ngày Thứ Sáu Tốt Lành: họ vào Nước Chúa qua những cái cổng của đau khổ Naaman là một gương tốt.
Vào một giai đoạn của đời mình, ông ở đỉnh cao của ngọn sóng. Ông có một công việc danh giá: chỉ huy trưởng đạo quân hùng mạnh của nước Syri. Ông được nhà vua kính nể có quyền lực và danh tiếng. Ông ta không cần Thiên Chúa. Tôn giáo không có vai trò nào trong đời sống của ông. Ông là kiểu mẫu của một số người thành công hôm nay. Họ dường như không dành chỗ cho Thiên Chúa trong đời họ.
Tuy nhiên, khi ông đã đạt đến đỉnh cao của quyền lực, ông mắc một chứng bệnh kinh khủng: bệnh phong hủi. Thình lình, thế giới của ông bắt đầu tan rã.
Một phút trước, ông ở đỉnh cao của thế giới. Một phút sau ông rơi xuống vực thẳm.
Tuyệt vọng về việc chữa trị, ông phải nuốt trửng lòng tự hào và tìm kiếm sự giúp đỡ của ngôn sứ Elisa ở Do thái, một quốc gia nhỏ bé mà ông đã từng cướp bóc và khinh miệt. Tuy nhiên, điều ông tìm kiếm là một “thứ thần dược” để ông có thể sớm quay về và đảm nhận đời sống cũ giống như trước đây.
Nhưng ông đã mau chóng nhận ra rằng không có thứ thần dược ấy ; không có sự chữa lành mong chóng và không đau đớn. Vì thế ông phải học để trở nên khiêm nhường và nhẫn nại. Ông đã học tuân lệnh để thay đổi. Nhưng thời gian ông bỏ ra không uổng công bởi vì ông không chỉ được chữa lành bệnh phong hủi mà còn được hoán cải. Ông tìm thấy Thiên Chúa chân thực. Vì thế sau cùng ông có lý do để cám ơn bệnh phong hủi của ông, bởi vì qua đó ông đã nhận được ơn đức tin.
Người ta tự hỏi chín người phong hủi thu được gì từ kinh nghiệm khủng khiếp của họ. Khi họ không tạ ơn Thiên Chúa thì không chắc họ đã rút ra được lợi ích tâm linh nào từ kinh nghiệm ấy.
Giống với ông Naaman trước khi mắc bệnh, trong những thời kỳ tốt đẹp, chúng ta bỏ quên Thiên Chúa, dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người bằng môi miệng. Nhưng rồi một bệnh tật hoặc một cái gì tương tự bắt chúng ta phải quì gối, và chúng ta bất ngờ đối mặt với sự nghèo nàn, yếu đuối và phải chết của chúng ta. Chúng ta nhận ra nền móng mà trên đó chúng ta đã xây dựng bao nhiêu niềm hy vọng sao quá mong manh, nông cạn.
Nếu điều ấy đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng ta sống tâm linh hơn thì đó là một sự chúc ơn lành trong bộ y phục cải trang. Dường như chỉ một trên mười người phong hủi đã đucợ đưa đến Thiên Chúa gần hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người ấy.
Chúng ta không phải lúc nào cũng làm chủ những gì xảy đến với chúng ta, nhưng chúng ta phải làm chủ phản ứng của chúng ta khi sự việc xảy đến. Ví dụ như, có hai người bị thương nặng trong một tai nạn. Một người chọn cách sống cay đắng kinh nghiệm ấy và bị nó hủy hoại. Người kia sống kinh nghiệm ấy với lòng biết ơn. Người này tin rằng dù sự việc xảy ra là gì, dù nó có đau khổ thì nó vẫn có thể đem lại một điều tốt. Vấn đề không phải là quên nó đi mà nhớ đến nó và hội nhập nó vào trong đời sống của mình.
Ước muốn đền đáp lại một điều gì là một dấu chỉ cao cả của lòng biết ơn. Khi bạn có đầy lòng biết ơn, bạn sẽ không có chỗ cho sự cay đắng hoặc căm giận. Mọi người hạnh phúc đều biết ơn. Những người bội bạc không thể có hạnh phúc.
Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:
- Thưa Đức Cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế ?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:
- Vì đôi mắt của con rất đẹp !
- Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây ?
- Con ạ ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tụy băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa.
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xóa. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ òa trong tim.
Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Chúa Giêsu phải thốt lên lời quở trách: “Không phải cả mười người được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” “Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân ! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng “cám ơn” luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói “cám ơn” với tất cả chân thành, một cữ chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Chúa Giêsu là một “bài ca tạ ơn”. Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, trước khi lập Phép Thánh Thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là thánh lễ tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô”. Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: “Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận”. Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: “Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay”.
Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa, luôn thể hiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn.
Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, đó là người nói dối. Tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua tình yêu con người đối với nhau. Thiên Chúa cũng yêu thương con người qua những trung gian của Ngài, cụ thể qua những con người sống chung quanh chúng ta.
Thay đổi con người, để có thể lãnh nhận hồng ân
Naaman trước khi xuống tắm bảy lần ở sông Jordan, đã phẫn nộ với tiên tri Êlisa vì ông tưởng rằng tiên tri sẽ đứng trước ông, giơ tay cầu khẩn cùng Thiên Chúa, và chữa ông khỏi. Đằng này, tiên tri chỉ sai người nói với Naaman: “đi tắm bảy lần ở sông Jordan, thì sẽ được sạch”. Naaman nghĩ: “Nước sông ở Đa-mát chẳng sạch hơn nước sông ở Jordan sao?” Và Naaman đã không muốn xuống tắm.
Naaman đòi người của Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ và cách thế của mình. Nhưng Thiên Chúa không muốn thế, và người của Thiên Chúa lại không muốn vậy. Đòi hỏi để được khỏi bệnh quá đơn giản đến độ Naaman không thể tin được, và không muốn tin. Nếu Naaman không khiêm tốn bỏ mình để làm theo lời sứ giả của tiên tri, thì chắc ông chẳng khỏi bệnh. Trong cuộc sống, người ta cũng thường đòi Thiên Chúa phải làm theo ý người ta, theo điều kiện người ta đặt cho Chúa. Trường hợp của Naaman cho thấy, nếu người ta không bỏ mình, e rằng người ta khó có thể đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Bao nhiêu yếu tố xảy đến giúp Naaman đón nhận hồng ân: người tớ gái “quá thơ ngây” suýt gây họa cho cả nhà vua nước mình, những đầy tớ của Naaman khuyên ông nên vâng lời vị sứ giả của tiên tri, và cả dòng sông nước không được sạch dưới con mắt của Naaman. Trong cuộc sống của mỗi người, dường như cũng được đan dệt bằng bao nhiêu lời, bao nhiêu biến cố nhỏ nhỏ, để làm nên mỗi người như hiện tại. Chúng ta có nhận ra đó là những hồng ân để tạ ơn Thiên Chúa không?
Đức Yêsu- tình yêu của Thiên Chúa cho con người
Người phong cùi, theo luật Do Thái, không được tiếp xúc với người lành. Chính vì vậy, họ đứng đàng xa và kêu xin Đức Yêsu thương xót, chữa lành họ. Họ đáng thương, không chỉ vì con bệnh hành hạ làm họ đau đớn thể xác, nhưng họ còn đau khổ hơn khi phải tách biệt với xã hội con người, với những người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái của họ. Đức Yêsu giúp con người giao hoà với Thiên Chúa và giao hoà với nhau.
Đức Yêsu nói với những người phong cùi: “đi trình diện với các tư tế”. Luật Do Thái dạy những người phong cùi thấy mình khỏi bệnh, phải đi trình diện thầy tư tế, để được xác nhận là đã khỏi bệnh. Đang khi họ đi, họ được khỏi. Niềm tin phó thác biểu lộ qua thái độ vâng lời Đức Yêsu, làm những người phong cùi được khỏi bệnh. Thiên Chúa đòi con người tin tưởng và phó thác tất cả nơi Ngài. Tin tưởng phó thác tất cả nơi Thiên Chúa, đó là dấu chỉ của những người được thương và được cứu độ.
Chỉ có mỗi người ngoại trở lại để tạ ơn Thiên Chúa. “Chín người kia đâu? Không phải cả mười người được khỏi sao?” Chín người kia chắc chắn được khỏi bệnh phong cùi, còn người ngoại này không chỉ được khỏi bệnh thân xác, nhưng còn được nhiều ơn thiêng liêng khác nữa. Nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong đời mình, là một dấu chỉ của người đang sống hạnh phúc.
Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín
“Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài”. Đi theo Đức Yêsu, đòi chúng ta phải bỏ mình, bỏ những ham muốn của thế gian và xác thịt. Không chiều theo những ham muốn của xác thịt và thế gian, là một cách chết cho thế gian, cùng chết với Đức Kitô. Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín: nếu chúng ta chết cho thế gian cùng với Đức Kitô, chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài.
“Nếu chúng ta chối Ngài, Ngài cũng chối chúng ta”. Sở dĩ vậy, vì nếu chúng ta cứng lòng và cố tình chối Ngài, đứng đối nghịch với Ngài. Ngài không thể làm khác được. Thiên đàng không thể có đối với người không muốn “lên thiên đàng”. Về phía Thiên Chúa, Ngài luôn luôn yêu thương con người, Ngài muốn con người ở trong tình yêu của Ngài, Ngài muốn họ “lên thiên đàng” nhưng Ngài không buộc họ phải lên thiên đàng. Nếu một người cố tình thù nghịch Ngài, Ngài phải chịu vì Ngài đã cho con người tự do.
“Nếu chúng ta bất trung, thì Ngài vẫn trung thành”. Nếu vì yếu đuối, chúng ta bất trung, thì Thiên Chúa vẫn thành tín, Ngài chờ đợi chúng ta trở lại với Ngài. Tình yêu Thiên Chúa đối với con người được cụ thể qua bí tích hoà giải, mỗi khi con người trở lại với Thiên Chúa, đều được lãnh ơn hoà giải với Ngài qua trung gian thừa tác viên của Giáo Hội. Hơn nữa, hối hận hay muốn trở lại, đã là hồng ân của Thiên Chúa cho tội nhân rồi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn cho một vài thí dụ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người qua các trung gian!
2. Đức Yêsu có là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người không? Xin bạn chia sẻ quan điểm lập trường của bạn.
3. Với kinh nghiệm bản thân, thay đổi bản thân nên có thể đón nhận hồng ân, hay, đón nhận hồng ân nên thay đổi chính mình? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm!
Xa xưa, một chiếc tầu bị đắm chìm trong một Ngũ Biển Hồ. Những đội cấp cứu được đưa đến để cứu vớt, gồm cả một nhóm học sinh tại Đại Học Northwestern. Một học sinh, anh Edward Spenser, đã giải cứu 16 người trong chiếc tàu đắm chìm đó. Khi anh được khiêng ra khỏi hiện trường sau khi đã kiệt sức, anh chỉ còn nói, "Tôi có làm tốt không? Bạn có nghĩ là tôi đã làm hết sức tôi chưa?" Nhiền năm sau, trong một cuộc hiệp hội cùng các bạn ra trường, một trong những người diễn thuyết đã nhắc nhớ lại hành vi anh hùng này. Thì có người kêu lên rằng Edward Spenser đang hiện diện trong những khán giả. Ông Spenser đã được mời tiến lên trước mọi người. Già nua và tóc bạc, ông tiến lên khán đài trong khi mọi khán giả đứng lên vỗ tay tán thưởng ông. Người diễn thuyết hỏi ông sự kiện nào ông nhớ nhất trong biến cố đấy. Ông đáp, "Chỉ có một việc là trong số 16 hay 17 người tôi đã cứu vớt, không một ai đã cám ơn tôi."
Dân Cựu Ước trong Sách Xuất Hành đã nhận thấy những việc quyền uy về Quyền Lực và Ân Sủng và Tình Yêu của Thiên Chúa đã mời gọi họ đáp trả với lòng biết ơn đặc biệt và rõ ràng. Họ biết rõ rằng nó thật là không đủ khi chỉ cảm thấy biết ơn mà thôi. Những cảm nghiệm chỉ là hão huyền, tạm bợ, thường là bề ngoài, và thường hay sai lầm. Họ biết rõ rằng nó thật là không đủ khi chỉ biết nói về lòng biết ơn mà thôi. Nói vô tích sự! Vì tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ trong cuộc chạy loạn khỏi Ai-cập và trong cuộc hành trình về đất hứa. Những người này biết rằng họ cần phải biểu lộ lòng biết ơn trong một hình thức rõ ràng.
Một trong những hình thức rõ ràng để họ biểu lộ lòng biết ơn chính là mang những lễ vật đến nơi thờ phượng mà hiến dâng lên Thiên Chúa. Một hình thức khác, họ dùng những khả năng của họ, kinh nghiệm của họ, những tài năng của họ, kiến thức của họ, để làm một điều gì đẹp mà nói lên "Lời Cảm Tạ" đến Thiên Chúa.
Mariam chị của Môi-sen muốn có một cách thức tỏ lòng biết ơn một cách đặc biệt và rõ ràng vì Ơn Giải Cứu của Thiên Chúa. Bà đã sáng tác một bài ca, bà đã cầm lấy đàn và bắt đầu ca hát nhảy múa: "Hãy hát mừng Thiên Chúa, vì Ngài là niềm hỉ hoan mừng vui chiến thắng." Chính "Bài Ca Mariam" là một phần quan trọng không chỉ trong lịch sử nhưng còn là vì nó giúp cho chúng ta biết rằng một trong những phương thức biểu lộ lòng biết ơn chính là làm một điều gì đẹp cho Thiên Chúa.
Và tiếp đến Tân Ước. Thiên Chúa đang hành động với quyền uy và yêu mến. Giờ đây Ngài hành động qua việc sai Đức Kitô đến. Và Chính Đức Kitô này là Đấng Duy Nhất mà chúng ta thấy và cảm nghiệm được trọn vẹn sự sống của chúng ta là những con người. Chính Đức Kitô này là Đấng Duy Nhất mà chúng ta nối theo trong cuộc thám hiểm tìm kiếm chúng ta thật sự là ai và cái gì mới chính là cuộc sống của chúng ta thật sự. Chính Đức Kitô là Gương Mẫu tuyệt hảo về cái gì là con người hoàn hảo, trở nên con người trọn vẹn nghĩa là gì, trở nên con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta nghĩa là gì. Và Cộng Đồng Tân Ước đã cảm nghiệm chính Biến Cố Kitô này với một lòng vui sướng tràn đầy và trao ban, và như thế họ đặt để hoàn toàn con người của họ và biểu lộ đó. Họ đã dùng tài năng của họ để tạo nên một sự gì tuyệt đẹp và dâng nó lên Thiên Chúa như là dấu chỉ và biểu chứng lời ca tụng và cảm tạ.
Không gương sáng nào hơn gương của Thánh Luca, tác giả của bài Phúc Âm hôm nay! Phúc Âm theo Thánh Luca là một bài ca ngợi và cảm tạ. Ông đã dùng kiến thức và kinh nghiệm mà ông có để trao ban cho thế giới một Tin Mừng thật hay.
"Lòng biết ơn chính là ký ức của con tim." Trong bài giáo huấn hôm nay, Chúa Giêsu trên đường đi đến Giêsusalem khi Ngài gặp 10 người phong cùi. Chúng ta sẽ liền khám phá rằng 9 người trong bọn họ có một ký ức thật là ngắn ngủi. Khi 10 người gặp Chúa Giêsu, họ van nài, "Lạy Ngài Giêsu, xin thương đến chúng tôi" (Lk. 17:13). Họ nài nỉ xin Chúa Giêsu chữa họ khỏi căn bệnh khủng khiếp của họ. Và nằm trong lời van nài ơn cứu chữa nhân từ thông thường này chứa ẩn một đức tin thông thường -- đức tin mà Chúa Giêsu Nagiarét, danh tiếng Ngài được truyền lan đến ngay cả cộng đồng cô lập của người cùi, có quyền lực làm phép lạ chữa họ khỏi bệnh. Niềm tin của họ đã không bị lầm lạc. Chúa Giêsu nói với họ, "Hãy đi trình diện với các tư tế," và lập tức họ được lành sạch. Trong khi các người cùi bị dồn ép sống biệt lập, họ cần phải có chứng nhận chính thức của các tư tế cho sự lành sạch của họ trước khi có thể trở lại cuộc sống như những người thường. Do đó, chín người phong cùi đi thẳng đến đền thờ. Chỉ có một người trở lại bày tỏ lòng biết ơn với Chúa, khi anh nhận ra mình đã được lành sạch. "Lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa," anh sấp mình xuống chân Chúa Giêsu và cảm tạ Ngài. Chúa Giêsu nói với anh, "Hãy đứng dậy mà về; đức tin anh đã làm cho anh lành mạnh" (Lk. 17:19). Bản dịch khác dịch rằng, "Đức tin anh đã làm cho anh được trọn vẹn" hay "Đức tin anh đang là ơn cứu độ anh."
Cả 10 người cùi có niền tin vào quyền làm phép lạ của Chúa Giêsu. Thế nhưng Thánh Luca tỏ rõ rằng Chúa Giêsu nói những lời của ơn cứu độ với chỉ một người trong bọn họ. Rõ ràng, tác giả Tân Ước muốn nói cho chúng ta biết rằng những nguyên liệu của lời ca tụng và cảm tạ là trung tâm điểm của đức tin chân chính. Không có chúng, những việc bày tỏ đức tin của chúng ta thì chỉ là hời hợt.
Trong khi dùng chính những tài năng mà Thiên Chúa ban để tạo nên một sự việc tuyệt đẹp cho Thiên Chúa, các bạn hoạ nên một bức ảnh. Các bạn phổ ra một bài thơ. Các bạn sáng tác một bài hát. Các bạn sửa chữa một sự gì đã bị hư hỏng. Các bạn cất lên một căn nhà. Các bạn trồng lên một khóm hồng. Các bạn sửa soạn một bữa ăn ngon. Ai trong chúng ta cũng có một vài những khả năng, và chúng ta có thể làm những gì chúng ta có thể để làm vinh danh Thiên Chúa. Mỗi một người trong chúng ta có thể làm một cái gì đó hiển nhiên như là những phương tiện để đưa chính con người của chúng ta vào việc bày tỏ lời ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa. Nó trở nên một phần trong cách thức sống của chúng ta hầu thông mở máng chuyển Ân sủng triền miên.
Mỗi một người chúng ta có thể làm việc này: trước khi tuần lễ chấm dứt, đời sống của các bạn sẽ chạm đến nhiều người. Trong tinh thần của Chúa Giêsu Kitô, các bạn có thể tạo nên những mối dây liên kết tốt lành, và nhận ra niềm thành tín của người khác, và mời gọi với những tài năng đặc biệt của họ. Và các bạn có thể dâng những mối dây liên kết này như là những dấu chỉ hữu hình của lời ca tụng và cảm tạ của các bạn lên Thiên Chúa.
Ngài muốn thử thách lòng tin của họ. Ngài bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế như thể họ đã được khỏi bệnh rồi. Mười người phong đã vâng phục lên đường, và chính trên đường đi, tất cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa vào lòng mọi người. Cả nhóm tiếp tục cuộc hành trình, trừ một người phong ở vùng Samari.
Lòng biết ơn đối với Đức Giêsu khiến anh quay lại, sấp mình dưới chân Ngài mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu ngạc nhiên đặt câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình diện các tư tế như lời Đức Giêsu, nhưng họ quên Đấng mới ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại ở quà tặng, nhưng không vươn tới người tặng quà. Họ đã có lòng tin nên được khỏi bệnh, nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến lòng tin trở nên sâu xa hơn, vì là gặp lại chính Đấng đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu không làm phép lạ để được biết ơn. Ngài mong những người kia trở lại để gặp họ, và trao cho họ chính con người Ngài. Điều này còn quý hơn cả ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là nhịp cầu để ta gặp gỡ Đấng ban ơn, và lớn lên trong niềm tin cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường thuộc về nhóm chín người. Tôi quá quen với những ơn Chúa ban, đến độ thấy đó là chuyện bình thường, đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải là tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một hồng ân, một quà tặng. Tôi muốn sống đời tôi như một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về những gì đã lãnh nhận, là thấy mình được bao bọc bởi Tình Yêu, và muốn làm mọi sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng Samari đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa, vì Ngài đã chữa anh lành bệnh qua Đức Giêsu.
Chúng ta cũng đã nhận được biết bao ơn Chúa từ tay những người xa lạ hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời, cám on mọi người.
Đời tôi là quà tặng của Chúa cho tôi. Ước gì nó thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay người ta nói nhiều về lòng biết ơn đối với thầy cô, cha mẹ. Theo bạn, tại sao nhiều bạn trẻ vẫn sống một cách lãnh đạm, vô ơn?
Có khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những khó khăn và vấp ngã trong cuộc sống không? Bạn có thấy những mảng tối trong đời bạn cũng có thể là một ơn không?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha đã ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
(c.12) Người bị bệnh phong có vết thương nơi mình thì không được sạch sẽ hoặc thánh thiện. Vì thế họ bị tách riêng ra với những người thánh thiện trong các thành phố và bị cấm tham gia việc thờ phượng Thiên Chúa trong đền thánh.
(c.13) Đây là trường hợp duy nhất trong Luca mà tước hiệu "Lạy Thầy Giêsu" được dùng trên miệng những người không phải là môn đệ của Chúa Giêsu.
(c.14) Chúa Giêsu là Đấng từ Thiên Chuá đã đi ngang qua ranh giới ngăn cách sự sạch sẽ với sự ô uế để trả laị cho người ô uế đời sống cộng đoàn nhân loại.
(c.15) Chỉ có người phong hủi Samaritan mới nhận biết những gì thật sự xảy ra cho mình. Từ đó anh hiểu được không những anh được chữa lành mà anh tìm thấy được sự cứu rỗi của Thiên Chúa. Sự việc anh quay trở laị gặp Chúa Giêsu cho thấy sự hoán cải của anh.
(c.17) Chỉ có một người phong hủi quay trở lại. Mặc dầu là một dân ngoại, anh cảm tạ đã nhận được món quà Chúa Giêsu ban cho. Việc đó cho thấy anh đã nhận thức được Thiên Chúa là trung tâm cuả món quà.
(c.18) Người phong hủi Samaritan ca ngợi Thiên Chúa qua việc làm của Chúa Giêsu. Những gì đã hứa, đã được lập lại, nay được hoàn thiện nơi Chúa Giêsu: sự cứu rỗi của Thiên Chúa ban cho tất cả mọi dân tộc.
(c.19) Chúa đã chữa lành mười người phong hủi. Chỉ duy nhất với người phong hủi trở lại tạ ơn Ngàị mà Chúa nói "Lòng tin cuả anh đã cứu chữa anh". Ơn cứu rỗi mà người phong hủi có được rõ ràng hơn hẳn sự chữa lành thân xác của anh. Chúa Giêsu mong muốn chín người phong hủi kia trở lại không phải cho họ thấy sự thất vọng của Ngài, nhưng vì Chúa muốn ban phát thêm cho họ.
Một Điểm Chính
Ca ngợi Thiên Chúa là một cách để nói lên lời tạ ơn Ngài. Lòng biết ơn là một việc làm của đức tin. Sự cứu rỗi mà người phong hủi nhận được rõ ràng có giá trị hơn sự chữa lành thân xác của anh.
Suy Niệm
Câu chuyện mười người phong hủi gợi lên câu hỏi "Taị sao chín người phong hủi kia không quay trở lại cảm tạ và ngợi khen Chúa?" Bạn hãy trở về với chính lòng mình để trả lời câu hỏi này.
Lòng tạ ơn là điểm nổi bật trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Bạn có thể thấy được niềm vui và ơn cứu rỗi mà người phong hủi Samaritan có được. Có khi nào bạn cảm nhận được niềm vui và sự cứu rỗi mỗi khi nói lên lời cảm tạ hoặc ca ngợi Thiên Chúa không?
Ca ngợi Thiên Chúa là một cách noí lên lời cảm tạ. Lòng biết ơn của Đức Mẹ thật phi thường, "Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh người thật chí thánh chí tôn", là một gương sáng để noi theo. Bạn có thường ca ngợi Thiên Chúa về những gì Ngài ban cho bạn không, ngay cả những gì bạn ghi ơn và những gì bạn không mong xảy đến cho bạn?
3. Chúng ta phải làm thế nào để được lãnh nhận ơn Ngài?
Suy tư gợi ý:
Chủ đề các bài đọc hôm nay: Các bài đọc hôm nay giới thiệu cho chúng ta: Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, Ngài luôn cứu giúp những ai kêu cầu Ngài.
Bài sách các vua quyển thứ 2 kể kại câu chuyện ông Na-a-man được chữa lành bệnh phong hủi: Ông là tướng quân có thần thế và uy tín trước mặt Ben-Hađat vua Aram. Nghe biết ở Samari có Người của Thiên Chúa chữa được mọi thứ bệnh, Na-a-man đã ra đi cùng với đoàn tuỳ tùng, mang theo nhiều lễ vật và thư giới thiệu của nhà vua. Ông đến với vua Israel và xin được chữa bệnh. Đọc thư xong, vua Israel đã xé áo mình ra mà nói:"Ta đâu phải vị thần cầm quyền sinh tử mà ông ấy lại sai người này đền nhờ ta chữa khỏi bệnh phong hủi? … phải chăng ông ấy muốn sinh sự với ta?" Nghe biết câu chuyện, ngôn sứ Elisa liền sai người đến nói với vua:"Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ đến với tôi". Ông Na-a-man cùng đoàn tuỳ tùng lại ra đi và đến đứng trước cửa nhà vị ngôn sứ. Elisa sai người ra nói với Na-a-man: "Ông hãy đi tắm 7 lần trong sông Gióc-đan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước …" Thấy mình được tiếp đón, chữa trị quá sơ sài như vậy, Na-a-man nổi giận và nhất định ra về. Các tôi tớ của ông cố sức nài nỉ, sau cùng ông đã thuận theo và xuống dìm mình 7 lần trong sông Gióc-đan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt của ông trở nên như da thịt một trẻ thơ. Ông đã được sạch. Hết sức mừng rỡ, ông cùng với đoàn tuỳ tùng trở lại gặp ngôn sứ Elisa và đã tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất, Thiên Chúa của Israel. Ông đã dâng lễ vật tạơn, nhưng Elisa nhất mực từ chối.
Tin Mừng Thánh Lu-ca: Chúa Giê-su vào một làng kia, có mười người phong hủi đến xin Ngài cứu chữa. Chúa bảo họ hãy đi trình diện với các tư tế,và đang khi đi thì họ được sạch. Trong số họ có một người đã trở lại lớn tiếng tôn vinh, sấp mình dưới chân Chúa mà tạ ơn Ngài.
Trong thư gửi cho Timôthêô, Thánh Phao-lô, người tù của Đức Ki-tô, đã nêu tấm gương hy sinh quên mình vì phần rỗi của anh em. Ngài hô hào mọi người cộng tác vào công việc đem Tin Mừng Cứu Rỗi đến với lương dân noi gương Chúa Ki-Tô:" Nếu ta cùng chết với người ta sẽ cùng sống với người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Ngài …" (2 Tm 2, 11-12).
Ơn cứu độ của Thiên Chúa: Một ơn huệ nhưng không.
Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, Ngài muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người . Ơn Chúa ban không phải do công lao gì của chúng ta nhưng chỉ vì tình yêu bao la của Ngài: Mười người phong hủi kia là những người bần cùng bệnh tật, bị xã hội xa lánh ruồng bỏ. Ho-tay trắng- không có món quà nào để dâng lên Thiên húa nhưng chỉ với lời cầu xin chân thành, Ngài đã động lòng thương chữa lành họ. Tướng quân Na-a-man, một người quyền quý ra đi chữa bệnh đem theo đoàn tuỳ tùng với 300 ký bạc, 60 ký vàng. Có lẽ ông định bụng khi được chữa lành sẽ hậu tạ sao cho cân xứng, nhưng Người của Thiên Chúa chữa lành ông đã không nhận một lễ vật nào. Ơn cứu độ của Chúa đổ tràn như mưa tuôn, như ánh sáng mặt trời chan hoà khắp chốn . Ngài đợi sẵn ngoài cửa và sẵn sàng ban phát ơn huệ cho những ai kêu cầu Ngài .
Ta phải làm thế nào để lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa ?
Mười người phong hủi chắc chắn sẽ không khỏi bệnh nếu không làm theo lời dạy:" Hãy đi trình diện với các thầy tư tế". Và kỳ diệu thay, ngay trên đường đi họ đã được lành sạch. Còn tướng quân Na-a-man nếu cứ theo tính kiêu hãnh nóng nảy, không chịu dìm mình trong dòng sông Gióc-đan (mà theo ý ông cũng chẳng sạch sẽ hơn các con sông tại quê hương ông) thì làm sao khỏi bệnh được. Chính sự vâng lời và làm theo lời dạy của thiên Chúa mà Na-a-man và mười người phong hủi kia đã được chữa lành. Điều đó chứng tỏ Chúa muốn chúng ta tự nguyện cộng tác vào công việc cứu độ của Ngài. Ơn giải thoát của Chúa không chỉ nhằm cứu chúng ta thoát khỏi khổ đau, bệnh tật phần xác mà trên hết, Ngài muốn giải thoát chúng ta khỏi ách thống trị của tội lỗi,nguồn gốc của mọi điều ác ,và ban cho chúng ta ơn cứu rỗi đời đời. Ngài ban ơn nhiều hơn những điều chúng ta mong đợi. Trong hai bài đọc Sách Các Vua và Tin Mừng Luca hôm nay có 11 người phong hủi được chữa lành , nhưng chỉ có 2 người được ơn nhận biết Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ. Đó là Na-a-man và một trong 10 người phong kia. Cả hai đã trở lại sấp mình tạ ơn Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ chính là mục đích tối hậu Thiên Chúa muốn dành cho mỗi người chúng ta: Ngài muốn cho tất cả mọi người sum họp thành một đoàn chiên dưới quyền một Chủ Chiên.
NGUYỆN
Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha vì Cha đã ban cho chúng con được diễm phúc tham dự vào vào công việc của Cha là đem Tin Mừng đến cho những anh chị em ,những người chưa biết Cha. Xin cho chúng con biết loan truyền danh Cha bằng chính đời sống, lời cầu nguyện cùng với những hy sinh chia sẻ với những người xung quanh, đặc biệt với những anh chị đang cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
1. Có thể tín nhiệm vào lương tâm của những người thường tỏ ra vô ơn với những ân nhân của mình không? Tại sao?
2. Người Ki-tô hữu có nhiều tâm tình biết ơn hơn những người khác không? Nếu không thì bạn nghĩ thế nào?
3. Trong đời sống Ki-tô hữu, chúng ta cần phải biết ơn những ai? Và phải làm những gì để tỏ lòng biết ơn đối với những người ấy?
Suy tư gợi ý:
1. Làm ơn đừng nên nhớ, chịu ơn chớ nên quên
Bài đọc I đưa ra cho ta một hình ảnh rất đẹp. Tướng của Sy-ri là Na-a-man bầy tỏ lòng biết ơn của mình đối với ngôn sứ Ê-li-sa một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin ngôn sứ nhận cho. Còn ngôn sứ Ê-li-sa thì cương quyết từ chối, mặc dù lễ vật ấy chắc chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu thốn, và nhất là – theo cách suy nghĩ bình thường của người đời – có thể tạo cho ngài nhiều phương tiện hơn để thi hành sứ mạng của mình.
Cả hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của chúng ta khi hàm ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai.
Đức Giê-su cũng như các bậc cổ nhân xưa dạy ta thái độ nhớ và biết ơn đối với những người hy sinh cho ta, những người làm những điều tốt lành cho ta. Không phải chỉ nhớ và biết ơn, mà còn phải đền đáp lại ơn đó khi nào có thể. Nhưng đối với những người mà ta làm ơn cho, thì trái lại, không nên nhớ, cũng không nên đòi hỏi họ phải biết ơn hay trả ơn ta. Trang Tử, một triết gia Trung Hoa, khuyên ta nên «vô kỷ, vô công, vô danh» trong các việc làm của ta, nghĩa là không làm vì mình, làm rồi không cậy công, cũng không mong được khen ngợi, biết ơn.
2. Suy nghĩ về lòng biết ơn
Một trong những nguyên nhân hay động lực quan trọng của tình yêu thương là lòng biết ơn. Không phải tình yêu thương nào cũng phát xuất và đặt nền móng trên lòng biết ơn: Thiên Chúa hay cha mẹ yêu thương ta không phải vì mang ơn ta. Nhưng rõ ràng là tình thương của ta đối với Thiên Chúa, cha mẹ và nhiều ân nhân khác phát sinh và đặt nền tảng trên lòng biết ơn. Thiên Chúa và cha mẹ yêu thương ta trước, sinh thành tạo dựng, nuôi dưỡng giáo dục ta. Tình thương đó, công ơn đó làm nẩy sinh nơi ta lòng biết ơn, khiến ta đáp lại tình thương đó bằng chính tình yêu thương của ta đối với các Ngài. Lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và cha mẹ lại là tiêu chuẩn nền tảng để đánh giá mọi thứ biết ơn khác. Một người vô ơn đối với Thiên Chúa và cha mẹ, thì khó mà biết ơn thật sự đối với người khác.
Khi làm ơn cho ai, giúp ai việc gì, mà về sau người đó vô ơn, tự nhiên ta cảm thầy buồn, có khi đau khổ. Khuynh hướng tự nhiên của mọi người là mong muốn hoặc đòi hỏi người thụ ơn mình phải biết ơn (mặc dù khi làm ơn cho ai, tính cao thượng đòi hỏi ta vượt khỏi khuynh hướng tự nhiên ấy). Do đó, lòng biết ơn là một đức tính rất cần thiết trong giao tế xã hội, trong tư cách một con người. Trong xã hội, tiếng «cám ơn» luôn luôn nở trên môi những con người có giáo dục, lịch thiệp, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn xuất phát từ đáy lòng luôn luôn làm vui lòng những người tốt bụng, khuyến khích họ tiếp tục thi ân làm phúc. Trong đời sống tâm linh, tinh thần hay tôn giáo, lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và các ân nhân cần phải được biểu lộ trong các kinh nguyện, lễ nghi, trong tâm tình và cử chỉ của các tín hữu.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy 10 người được Đức Giê-su chữa lành, nhưng chỉ có một người trở lại cám ơn Ngài. Và mỉa mai thay, người biết ơn đó lại là một người ngoại giáo! Điều này làm ta phải tự hỏi: người Ki-tô hữu có nhiều tâm tình biết ơn hơn các tín đồ tôn giáo khác không? Nếu ta không tốt bằng họ hoặc không hơn họ, thì việc ta nỗ lực truyền giáo cho họ quả thật có phần nào nực cười! Việc Đức Giê-su – với tư cách là thầy dạy về tâm linh – đã trách móc 9 người vô ơn kia không biết tạ ơn Thiên Chúa cho thấy: rõ ràng là lòng biết ơn không thể nào thiếu được trong đời sống tu đức, đời sống hướng về sự toàn thiện. Không những thế, nó có thể là căn bản cho một lương tâm đứng đắn. Một người vô ơn, thường xuyên vô ơn, khó có thể có một lương tâm tế nhị và đúng đắn. Nhưng mỉa mai thay, biết bao người mang danh theo Chúa lại tỏ ra vô ơn với những người làm ơn cho mình nhiều hơn người thường!
3. Biết ơn ai? – Bốn trọng ân trong đời sống con người
Trong Phật giáo, có bốn trọng ân mà người Phật tử thường được các sư tăng nhắc nhở, nhất là vào dịp lễ Vu Lan (rằm tháng 7 âm lịch): ơn cha mẹ, ơn tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), ơn tổ quốc xã hội, và ơn thầy bạn. Chúng ta thử khai triển bốn trọng ân ấy trong chiều hướng Ki-tô giáo.
· Ơn cha mẹ: Cha mẹ trước tiên của chúng ta là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã tạo dựng và sinh thành chúng ta, cho ta sự sống siêu nhiên lẫn tự nhiên, đồng thời ban cho ta đủ mọi ơn để duy trì và phát triển sự sống ấy. Kế đến là cha mẹ ruột thịt của ta, là người sinh ra ta, nuôi dưỡng giáo dục ta nên người. Công ơn của cha mẹ ta to lớn biết bao! Ca dao có câu: «Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra». Người trần gian mà ta phải biết ơn nhất là cha mẹ.
· Ơn tam bảo: là công ơn của những người đã đem lại cho ta đời sống tâm linh, làm cho đời sống tâm linh ta phát triển và trở nên phong phú.
– Người đầu tiên mà ta phải nói tới là Đức Giê-su, Đấng chủ chốt đem lại đời sống tâm linh cũng là vị Thầy lớn nhất về đời sống này cho mọi người Ki-tô hữu. Ngài cũng là Đấng cứu chuộc để ta có lại đời sống thần linh, siêu nhiên của Thiên Chúa đã bị mất từ thời nguyên tổ, trước khi ta sinh ra. Bên cạnh Đức Giê-su có Mẹ của Ngài là Đức Ma-ri-a. Theo niềm tin của người Công giáo, tất cả mọi ơn Thiên Chúa ban, đều nhờ Mẹ và qua tay Mẹ.
– Kế đến là Lời Chúa, hay Kinh Thánh và Tin Mừng, là phương tiện hữu hiệu nhất Thiên Chúa dùng để soi sáng cho ta đi đúng đường, hầu phát triển đời sống thần linh và tâm linh của ta. Ta cần phải biết ơn bằng cách năng đem ra suy gẫm để thực hành những gì Lời Chúa chỉ dạy.
– Giáo Hội các cấp (toàn cầu, địa phương, giáo xứ, cộng đoàn cơ bản), là yếu tố nhân sự để tiếp nối công trình của Đức Giê-su, đồng thời là môi trường đào tạo và nuôi dưỡng đời sống tâm linh của ta. Nói một cách cụ thể hơn đó là các tông đồ, các vị chủ chăn các cấp mà gần nhất là cha xứ, những người dạy dỗ ta về mặt tâm linh (các nhà thần học, tu đức, các giáo lý viên, các huynh trưởng hội đoàn, v.v…)
Đó là Tam Bảo của Ki-tô giáo, là các đại ân nhân của chúng ta, mà chúng ta phải luôn luôn yêu mến và tỏ lòng biết ơn.
· Ơn tổ quốc và xã hội: Chúng ta không chỉ sống trong gia đình và Giáo Hội, mà còn sống trong lòng quốc gia dân tộc nữa. Quốc gia xã hội đã tạo cho chúng ta những điều kiện dễ dàng để có một đời sống ấm no, yên vui, hạnh phúc, một cách bao trùm, tổng quát, vượt khỏi khả năng hạn hẹp của cha mẹ, gia đình ta. Chúng ta được sống trong an vui, là do công sức của biết bao người đã từng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc, đã vắt óc ra để đưa ra những chính sách sáng suốt hầu phát triển xã hội về kinh tế, văn hóa, v.v… làm cho đời sống của ta tươi đẹp. Để thấy được công lao của quốc gia xã hội, ta thử tưởng tượng nếu mình sống một mình trong rừng, ta sẽ thấy thiếu thốn và không được bảo vệ như thế nào!
· Ơn thầy bạn: Trong đời sống của ta, ta còn biết bao người phải mang ơn, trước hết là những vị thầy đem lại cho ta đời sống tri thức, những người giáo dục ta nên người. Sau là những bà con thân thuộc, bạn bè, những người quen biết… Biết bao người đã vô tình hoặc cố ý làm ơn cho ta trong tất cả mọi lãnh vực mà ta có thể biết hoặc không biết. Chúng ta có bổn phận phải biết ơn và tìm cách trả ơn những người ấy.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức được rằng lòng biết ơn chính là thước đo của tình yêu đối với Thiên Chúa, nhân loại, Giáo Hội, xã hội, và tha nhân, và cũng là tiêu chuẩn đánh giá lương tâm và tư cách một con người. Xin giúp con ý thức được những hồng ân mà Chúa ban cho con từng giây từng phút, để con nhận ra được hạnh phúc Chúa ban hầu cảm tạ Chúa. Xin cho con luôn nhạy bén nhận ra tình thương, sự hy sinh, những ơn huệ, những cử chỉ yêu thương của những người chung quanh đối với con, để con cảm thấy hạnh phúc vì được yêu thương, đồng thời biết đáp trả bằng chính tình yêu chân thành và sự hy sinh của con. Xin cho con biết luôn cầu nguyện và mong ước những sự tốt lành cho các ân nhân của con. Amen.
1. Tại sao ta lại phải biết ơn Thiên Chúa? Ngài đã làm ơn cho ta thế nào? Biết ơn Thiên Chúa thì có lợi hay có hại cho ta? Lợi hại thế nào?
2. Ý thức được hồng ân bao la Thiên Chúa ban cho ta, thì thái độ hay hành động biết ơn thích hợp nhất của ta là gì?
3. Khi làm ơn cho ai, ta có nên mong họ biết ơn hay đền ơn không? Mong họ biết ơn ta có lợi bằng không mong họ biết ơn không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Lòng biết ơn đối với con người
Một trong những đức tính căn bản cần có của con người là biết ơn người làm ơn cho mình. Khi có ai giúp mình hay hy sinh cho mình, dù là chuyện nhỏ, thì người có lòng biết ơn luôn luôn nở trên môi hai chữ «cám ơn». Nếu là chuyện lớn thì người chịu ơn cần có một hành động cụ thể nào đó để biểu lộ lòng biết ơn, cho dù người làm ơn chẳng hề mong muốn. Chẳng hạn một lễ vật nho nhỏ làm quà, hoặc đền ơn khi có dịp… Nếu không thể đền đáp công ơn người thi ân (chẳng hạn vì không biết người ấy là ai, hay vì ơn đó lớn quá không thể đền đáp được, hay vì người làm ơn nhất định không nhận sự đền đáp…) thì ta có thể trả ơn ấy cho những người nghèo khổ hơn, những người có nhu cầu cần được ta giúp đỡ, hy sinh. Điều quan trọng là những hành động ấy phải phát xuất từ lòng biết ơn có thật từ đáy tâm hồn. Khi làm ơn cho ai, người càng cao thượng thì càng không cầu mong được biết ơn hay báo đáp, và không hề trách móc khi bị vô ơn. Chính những người cao thượng này xứng đáng được ta biết ơn hơn ai hết, cho dù ta không thể trả ơn cho họ, vì chính họ mới là người yêu thương ta một cách vô vị lợi và là người làm ơn cho ta cách đúng nghĩa nhất. Người ít cao thượng hơn, khi làm ơn cho ta thì cầu ta báo đáp. Như thế, hành động làm ơn ấy có nhiều điều giống như sự cho vay: cho vay thì có quyền đòi trả. Những người này ta cần trả ơn hơn là biết ơn.
2. Lòng biết ơn đối với Thiên Chúa
Nếu ta phải biết ơn những người đã làm ơn cho ta, thì ta càng phải biết ơn Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta, ban cho ta tất cả mọi thứ trên đời. Tất cả những gì ta có hay nhận được từ bất kỳ ai đều phát xuất từ Thiên Chúa, đều do Ngài xếp đặt để chúng đến với ta. Đúng như Gioan Tẩy Giả nói: «Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban» (Ga 3,27). Do đó, Ngài là người làm ơn cho ta nhiều nhất, và ban cho ta những ơn vĩ đại nhất. Vì thế, lòng biết ơn của ta đối với Ngài phải là lớn lao nhất. Mặc dù khi ban ơn cho ta, Thiên Chúa không cần và không cầu ta đáp lại, nhưng chính vì vậy ta càng phải biết ơn Ngài nhiều hơn nữa. Thánh Phaolô khuyên: «Chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người» (Dt 12,28). Cách biết ơn tốt nhất đối với Thiên Chúa là kính sợ và phụng thờ Ngài. Và cách phụng thờ Ngài tốt nhất chính là cố gắng trở nên giống Ngài, nghĩa là sống yêu thương và sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc tha nhân, vì bản chất của Ngài là tình yêu (x.1Ga 4,8.16).
3. Lòng biết ơn Thiên Chúa giúp con người sống hạnh phúc
Lòng biết ơn của ta đối với Thiên Chúa không thêm gì hay ích lợi gì cho Thiên Chúa, mà chỉ ích lợi cho ta. Chắc chắn Thiên Chúa không vì ta biết ơn hay không biết ơn mà yêu thương ta nhiều hơn hay ít đi giống như cách hành xử thường tình hẹp hòi của người đời. Đối với Thiên Chúa, tất cả mọi người đều được Ngài yêu thương như nhau, dù là thánh thiện hay tội lỗi, dù là biết ơn hay vô ơn đối với Ngài. Tuy nhiên, cách hành xử của Ngài đối với mỗi người đều khác nhau vì lợi ích riêng của mỗi người và mọi người. Theo đòi hỏi của sự công bằng và hợp lý thì người biết ơn xứng đáng được Ngài ban nhiều ơn hơn, và người không biết ơn thì đáng bị Ngài ban ơn ít đi, cho dù tình thương của Ngài vẫn luôn chan hòa và đồng đều đối với mọi người.
Theo luật tâm lý tự nhiên, người ta sở dĩ biết ơn là vì ý thức mình nhận ơn, được yêu thương, được ưu đãi, nên cảm thấy thỏa mãn và hạnh phúc. Cũng vậy, khi ý thức mình nhận được từ Thiên Chúa quá nhiều hồng ân một cách nhưng không (nào là được sinh ra làm người, làm con cái Thiên Chúa, nào là có cha mẹ, có anh em bạn bè, nào là có sức khỏe, có học vấn, nhà cửa, của cải, được nhiều may mắn…), đương nhiên ta cảm thấy hạnh phúc. Tâm lý tự nhiên và sự hợp lý đòi hỏi một khi «đã nhận được nhưng không, thì cũng hãy cho đi nhưng không như vậy» (Mt 10,8). Do đó, cách hành xử của người biết ơn thường trở nên dễ chịu, dễ thương, hài hòa, vui vẻ, quảng đại, thích chia sẻ, nên dễ được mọi người yêu mến, giúp đỡ, ban tặng.
Vì thế, người có lòng biết ơn thì đã hạnh phúc lại được hạnh phúc hơn, đã có lại có thêm, đã được nhiều lại càng được nhiều hơn, đúng như lời Đức Giêsu: «Phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa» (Mt 25,29a), (từ «có» trong nhóm từ «phàm ai đã có» nên hiểu là «ý thức rằng mình có, mình được Thiên Chúa ban, nên biết ơn Ngài»). Còn người vô ơn thường không ý thức được những ơn mình nhận, nên vẫn cảm thấy thiếu thốn, không hài lòng với những gì đang có, tự cho rằng mình bị bạc đãi nên sinh bất mãn, bực bội, khó tính, rồi trở nên tính toán, so đo, nên ít được quí mến, giúp đỡ hay ban tặng. Từ đó dễ sinh ghen tị, buồn phiền, mất bình an và đau khổ. Do đó, người vô ơn đã có ít (vì cho rằng mình được ít) lại càng bị mất đi, đúng như lời Đức Giêsu: «Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi» (Mt 25,29b).
4. Thái độ cần có khi nhận được ơn là biết tiếp tục cho đi
Người có lòng biết ơn – đối với Thiên Chúa cũng như đối với con người – thường nhận được nhiều ơn hơn nữa. Nhưng khi nhận được nhiều ơn như vậy, Thiên Chúa không muốn ta chỉ giữ khư khư những ơn ấy cho một mình ta, mà muốn ta tiếp tục ban phát, thi ân cho tha nhân. Đức Giêsu nói: «Anh em đã nhận được nhưng không, thì cũng hãy cho đi nhưng không như vậy» (Mt 10,8). Người biết cho đi giống như một cái hồ lớn: nó nhận được nước từ các sông ngòi, và nó cũng ban phát nước của nó cho những sông ngòi khác. Vì thế, nước của nó luôn luôn xanh trong, mát mẻ. Nó cho đi nhưng nhờ đó lại tiếp nhận được thêm. Còn ai chỉ biết nhận mà không biết cho đi, thì giống như một cái ao tù: nó giữ nước lại, không cho nước đi nên cũng không nhận được thêm nước nhiều nước khác, do đó nước của nó bị dơ bẩn, không trong sạch…
Nhưng khi cho đi, ta đừng nên coi những gì ta cho là của mình mà là của Thiên Chúa. Ta chỉ nên đóng vai một cái máng: cái máng thì nhận nước vào mình và tiếp tục cho chảy đi. Một cái máng tốt thì sẽ được sử dụng mãi để làm máng, nên nó sẽ không bao giờ thiếu nước, và cũng làm cho những hồ chứa hay những bình đựng luôn được đầy nước. Vì những gì ta nhận được và cho đi đều xuất phát từ Thiên Chúa chứ không phải của ta, nên ta cũng đừng mong ước hoặc đòi hỏi ai phải biết ơn ta. Như vậy, lòng ta mới luôn luôn được thanh thản, cho dẫu bị người đời vô ơn. Nếu ta mong hoặc đòi hỏi người khác biết ơn, thì ta rất dễ thất vọng và buồn tủi, vì người đời đa số thường vô ơn. Trong bài Tin Mừng, ta thấy: 10 người được Đức Giêsu chữa khỏi bệnh cùi – một hồng ân vô cùng lớn lao – thế mà chỉ có một người duy nhất tỏ ra biết ơn. Tỷ lệ số người biết ơn trong nhân loại hiện nay chắc hẳn không khá hơn tỷ lệ trên. Vậy, tốt nhất là chính chúng ta phải luôn đòi hỏi mình tâm tình biết ơn Thiên Chúa và tha nhân, nhưng lại không đòi hỏi ai phải biết ơn mình cả. Đó cũng là một hình thức «từ bỏ mình» mà Đức Giêsu đòi hỏi nơi tất cả những ai theo Ngài.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con nhận ra ơn Cha ban trong từng giây phút đời sống con để con luôn luôn nhận ra hạnh phúc con đang có. Xin cho con luôn có tâm tình biết ơn và cảm tạ Cha trong mọi hơi thở cuộc đời con. Một khi con luôn luôn biết ơn Cha, thì con cũng sẽ luôn luôn biết ơn những người Cha đã dùng để tuôn ơn xuống cho con. Và khi con ý thức được hạnh phúc to lớn mà Cha vẫn ban cho con, thì cũng hãy giúp con luôn ban phát hạnh phúc ấy một cách quảng đại cho mọi người chung quanh con.
Cách đây nhiều năm, trong một tờ nhật báo có đăng một bài nói về người ngư phủ và anh thanh niên say rượu.
Trời đã khuya, tất cả mọi sự vật đều chìm đắm trong cảnh yên lặng tĩnh mịch. Người thanh niên ngồi trên chiếc du thuyền. Anh đã xỉn rượu và lảm nhảm rống lên những tiếng ồn ào làm mất đi cái cảnh yên tịnh trong đêm tối.
Gần đấy, người ngư phủ vẫn phớt lờ anh và để tâm vào nghề nghiệp của ông. Bất chợt, người ngư phủ nghe một tiếng động lớn ở dưới nước. Ông quay lại, dưới ánh trăng, ông nhìn thấy người thanh niên xỉn rượu đã rớt xuống nước.
Người ngư phủ bơi với tất cả sức lực ra cứu anh ta. Khi đã vớt anh lên thuyền, người ngư phủ đã dùng hô hấp nhân tạo để cứu sống anh.
Khi trời bắt đầu sáng, người ngư phủ đã chèo chiếc thuyền của mình đến thăm người thanh niên xỉn rượu tối qua. Không ngờ, thay vì tỏ lòng biết ơn và cám ơn, anh lại chửi rủa và đuổi ông đi nữa.
Người ngư phủ liền xuống chiếc thuyền của ông và chèo đi. Ông nhìn lên trời và than thở: “Lạy Chúa, bây giờ con mới cảm thông được nỗi lòng của Chúa. Chúa đã hiến trót mạng sống để cứu con. Nhưng, giống như người thanh niên, thay vì tỏ lònt cám ơn Chúa, con đã đối xử tệ với Chúa và ra lệnh cho Chúa hãy tránh xa con.”
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu điều Chúa nói trong bài Phúc Âm hôm nay. Mười người phong hủi được chữa lành mà chỉ có một người ngoại trở lại tạ ơn Thiên Chúa.
Đây là đoạn mà hầu như mọi người chúng ta có thể biết đến ngay. Như Chúa Giêsu đã làm cho mười người phong hủi thế nào, thì Ngài đã làm biết bao nhiều điều tốt lành cho mọi người trên thế giới này.
Cũng thế, nhiều người chúng ta đã đối xử với Chúa Giêsu như mười người phong hủi. Chỉ có một người quay trở lại để tạ ơn Thiên Chúa. Có khi không phải vì chúng ta bội bạc, hay dữ tợn, nhưng chỉ là vì chúng ta đã quá bận rộn với cuộc sống hằng ngày mà quên đi Chúa Giêsu và những gì Ngài đã làm cho ta.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta có nhận ra, không phải chỉ trong một ngày nhưng là mọi ngày, lòng biết ơn đối với Chúa và biết bao hồng ân Chúa ban cho chúng ta? Chúng ta kiểm điểm xem chúng ta có tỏ ra biết ơn những người đang sống chung quanh?
“Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con biết bao nhiên ơn phúc, xin hãy thương ban cho chúng con thêm một điều nữa, đó là trái tim luôn tạ ơn” (George Herbert)
Một thi sĩ đã tả lại một giấc mơ thế này: Thiên Chúa mở đại hội “trăm hoa đua nở”. Tất cả các loại hoa trên mặt đất đều gởi đại biểu đến tham dự. Thật là một rừng hoa tươi thắm muôn màu, xông hương khoe sắc trước nhan Chúa. Các đại biểu hoa, tay bắt mặt mừng chào hỏi thăm nhau, duy chỉ có hai loại hoa không buồn giáp mặt nhau. Đó là hoa Thi ơn và hoa Nhớ ơn.
Giấc mơ chỉ vắn vỏi chừng ấy, nhưng thật có ích cho ta, vì nó mô tả trung thực sự kiện xảy trong bài Tin Mừng: mười người phong hủi đã được Chúa chữa lành, nhưng chỉ một người trở lại tạ ơn Chúa. Cũng như ở đời có lắm người thi ân mà có ít người nhớ ơn. Ta hãy cùng nhau suy niệm:
- Con số thống kê một trên mười nói lên những điều gì?
- Khi ta đã ý thức tạ ơn là một biểu hiệu của lòng tin, ta phải tạ ơn thế nào?
“Chỉ một trên mười người phong hủi được lành đến tạ ơn, nói lên chẳng những là sự vô ơn, mà một cách sâu xa hơn, là sự thiếu lòng tin”. Với câu hỏi của Chúa Giêsu trên người phong hủi biết ơn đang sụp dưới chân Ngài: “Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Cha Féder giải rằng: “Chúa ngạc nhiên khi thấy chỉ có một người quay trở lại mà lên tiếng tôn vinh Chúa, nên Ngài cảm phục lòng tin tưởng đầy biết ơn của người Samari đó.”
Vâng, chính đức tin đã thúc giục người phong hủi trở lại tạ ơn Chúa. Bởi lẽ, việc Chúa chữa mười người phong hủi này khác hẳn với trường hợp khác. Khi thấy Chúa đi qua, mười người phong hủi đứng xa và la lớn rằng: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con”. Chúa không đến với họ, nhưng Ngài cũng từ xa lớn tiếng trả lời: “Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế”. Thế là vâng theo lời Chúa dạy, mang thương tích mà đi. Và chỉ khi đã đi một đoạn đường xa, họ mới thấy mình lành mạnh. Như thế, Chúa Giêsu đã khuất bóng họ và có lẽ họ có cảm tưởng rằng, việc họ được sạch là một việc tình cờ chăng? Hơn nữa, có tạ ơn hay không, họ cũng đã sạch phong hủi rồi. Vì thế, việc đầu tiên của họ là đi trình tư tế, hầu được cấp giấy trở về với làng họ, với bà con. Duy chỉ người Samaria nghĩ khác mà trở lại cảm tạ Chúa.
Vâng, chỉ để ra một giây phút suy tư, một nháy mắt quan sát, ta có thể thấy đời ta tràn ngập hồng ân Thiên Chúa: Đây bầu không khí trong lành ta đang thở. Đây bát cơm ta đang ăn, chén nước ta đang uống. Đây tiếng chim thánh thót ta đang nghe, hương sắc những cánh hoa ta đang hưởng, tất cả đều nói cho ta hay tình yêu vô biên của Chúa chan hoà đời sống chúng ta.
Khi ta đã ý thức tạ ơn là một biểu hiệu của lòng tin, ta phải tạ ơn thế nào? Cái nhìn đức tin ấy có hướng chúng ta tới Thánh Thể để tạ ơn Chúa không?
Ta hãy đưa con người tướng quân Naaman được mô tả trong bài đọc I để làm gương sáng cho chúng ta. Khi Naaman đã xuống tắm bảy lần ở sông Giođan theo lời tiên tri dạy, da thịt ông lại trở nên hồng hào như da thịt đứa trẻ, thì việc trước tiên là ông và đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông không cảm tạ Elisê, nhưng ông lớn tiếng và ngước mắt lên trời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa và tạ ơn Ngài. Nói xong Naaman mới lấy của lễ dâng Elisê. Elisê không nhận, Naaman cố nài ép nhưng tiên tri nhất định từ chối. Sự từ chối của Elisê đã mạc khải cho Naaman rằng: Chúa không muốn nhận của lễ vật chất và chỉ nhất thời, nhưng phải là một của lễ thiêng liêng và trường tồn hơn. Chính trong lúc ấy, Naaman nảy ra một sáng kiến. Ông nói: “Vậy xin ngài ban phép cho tôi được chở một xe đất đem về nước tôi, để dựng tế đàn trên đất ấy mà dâng lễ tế cho Yavê, vì tôi tớ ngài đây sẽ không còn dâng thượng hiến và tế lễ cho một thần linh nào khác.” Sáng kiến ấy được tiên tri Elisê tán thành.
Như thế, nếu việc tạ ơn đẹp lòng Chúa hơn hết trong Cựu ước là mỗi ngày dâng lễ toàn thiêu hoặc hy lễ lên Yavê Thiên Chúa, thì ngày nay trong Tân Ước việc tạ ơn đẹp lòng Chúa hơn hết cũng phải hướng về Thánh Thể – tức là Thánh lễ Misa, một của lễ cao quí dâng lên hằng giây phúc “để từ Đông sang Tây có một hiến lễ trong sạch dâng lên Chúa” (Kinh nguyện Thánh Thể III).
Vậy Thánh lễ có một tầm quan trọng như thế bởi vì chỉ trong Thánh lễ, chúng ta mới tìm được một Tư tế xứng đáng, một bàn thờ trong sạch và một của lễ vẹn toàn. Vị Tư tế ấy, bàn thờ ấy, của lễ ấy chính là Chúa Giêsu. Nói đến đây, xin mọi người hãy tự vấn lương tâm coi thử chúng ta có thấy triệt cái tầm quan trọng của Thánh Lễ chăng? Ta có hối hận chăng vì đã bỏ lễ ngày Chúa Nhật? Chúng ta nghĩ xem: ai sẽ thay thế chúng ta để cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành mà Ngài đã ban cho chúng ta trong bảy này qua? Bởi vì “nhận ơn thì đừng quên ơn”. Rồi ai sẽ thay thế chúng ta để xin ơn Chúa cho bảy ngày tới? Bởi vì không có Chúa, ta không làm gì được”.
Như thế, hôm nay đây trước nhan Chúa, chúng ta hãy cùng nhau đoan hứa quyết dốc lòng luôn cảm tạ Thiên Chúa với một niềm tin chân thành.
Cách đây không lâu, trong kỳ nghỉ hè, một thanh niên Trung học tình nguyện đi làm việc xã hội ở Nicaragua. Chàng đi theo một nhóm y tế đến một làng nhỏ trên miền núi để chích thuốc ngừa bệnh tê liệt, bệnh đậu mùa, cho các trẻ em nghèo ở đó. Chàng thuật lại rằng:
“Cuối tuần đầu, tôi cảm thấy rất chán nản, nhớ nhà, nhớ bạn. Tôi đi ra ngoài trời, ngồi ủ rủ trong bóng tối và tự hỏi: Tại sao tôi lại tình nguyện đi tới một nơi xa lạ nghèo khổ như thế nầy? Bỗng tôi nghe có tiếng người nói trong đêm tối. Đó chính là José Santos, một giáo viên cũng là gia trưởng của gia đình tôi trọ. Ông kéo ghế ngồi gần bên tôi, mắt ngước lên nhìn trời.
Sau một phút thinh lặng, ông José bắt đầu nói:
“Thật là hùng vĩ” Tôi hỏi: - Thưa Thầy, Thầy nói gì vậy ? Ông José lại nói: “Thật là hùng vĩ!”
“Đôi mắt ông vẫn ngước nhìn lên trời. Tôi cũng nhìn lên trời theo. Thì ra tôi đã không để ý rằng trên đầu tôi, hằng hà sa số những ngôi sao lung linh nhấp nháy, một quang cảnh rực rỡ vô cùng. Chúng tôi cứ ngồi đó mãi, mắt nhìn lên trời hoài, thưởng ngoạn sự huy hoàng của muôn vì sao trên không trung lồng lộng.”
Cảm nghiệm hôm đó, không bao giờ tôi có thể quên được. Sáng hôm sau, tôi đi tới một ngọn suối để tắm. Chung quanh tôi, cỏ cây mơn mởn tươi xanh. Vạn vật điều yên tĩnh, trừ ra tiếng nước chảy róc rách, hòa với tiếng bầy chim ca hát líu lo trên ngọn cây. Bây giờ tôi nhớ lại lời ông José nói trong đêm vừa rồi: “Thật là hùng vĩ!” Những cảnh tượng Thiên Chúa ban cho chúng ta thật là hùng vĩ. Và tôi cảm thấy tâm hồn sảng khoái lạ thường. Chưa bao giờ tôi cảm nghiệm được lòng biết ơn đối với Chúa sâu sa như vậy. Chưa bao giờ tôi cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương tôi bao la như vậy. Khi trở lại chích ngừa cho các em trong làng, tôi luôn luôn vui cười, từ đầu chí cuối, đến nỗi đau cả hai gò má.”
Câu chuyện nầy nhắc chúng ta nhớ đến hai hạng người mà Chúa Yêsu nói đến trong Phúc âm hôm nay. Hạng người biết tri ân đối với những ơn Thiên Chúa đã ban cho mình. Và hạng người vô ơn bội nghĩa.
Câu chuyện trên cũng cho chúng ta thấy rằng: Các em nào lớn lên mà hay vô ơn, là vì các em đó đã không được ai chỉ vẽ cho biết cách tri ân. Cậu sinh viên Trung học nói trên, sở dĩ học biết lòng tri ân đối với các ơn Thiên Chúa ban cho là nhờ có ông giáo viên José Santos dạy bảo cho.
Một hôm nà Ann Landers nhận được một bài do người nào đó cắt trong báo Wall Street Journal gởi cho bà. Bài đó như sau:
“Một hôm, có người hỏi một người miền Nam Hoa-kỳ rằng:
- Ranh giới miền Nam thực sự bắt đầu từ chỗ nào?
Người miền Nam kia đáp lại cách kiêu hãnh:
- Ranh giới miền Nam bắt đầu từ chỗ người ta thấy các trẻ em biết nói: ‘Dạ, thưa ông có’. ‘Dạ, thưa không’.
Thật ra, bài báo nói tiếp, phép lịch sự không phải là vấn đề địa dư. Nhưng phép lịch sự đó, các học được nơi cha mẹ, không phải nơi con dấu của bưu điện.”
Bài báo vừa rồi nhắc nhở cha mẹ có bổn phận dạy bảo con cái biết ăn nói lịch sự. Nhưng ăn nói lịch sự và có lòng biết ơn cũng là một. Chỉ có những ai lịch sự mới biết nói: “Cảm ơn”. Không phải bất cứ lời cám ơn nào, nhưng là lời cám ơn chân thành.
Một trong những phương pháp hữu hiệu để dạy con phải có lòng biết ơn, là phương pháp của José Santos dạy cậu học sinh Trung học Chicago nói trên. Đó là chia sẻ những lý do thúc đẩy mình biết ơn Thiên Chúa về những ơn lành Ngài đã ban cho.
Ông Byron, một người sinh trưởng tại Nebraska, nói: “Khi lên 8 tuổi, tôi có một con ngựa nhỏ tên Frisky. Một buổi sáng, khi tôi đang ngồi trên lưng, bỗng nó lồng lên, chạy nhảy như điên khùng. Tôi hết hồn hết vía, nhắm mắt cố ghì chặt lấy lưng ngựa. Sau cùng, may quá, tôi được thoát nạn, an toàn. Tối đó, trước giờ đi ngủ, ba tôi lên phòng, bảo tôi quì xuống đất bên cạnh người, rồi người lớn tiếng chúc tụng tạ ơn Chúa vì đã cho tôi được qua tai qua nạn khỏi. Đến nay đã 55 năm rồi, tôi vẫn nhớ mãi đêm đó. Đêm mà ba tôi dạy tôi biết tạ ơn Thiên Chúa về ơn lành Ngài đã ban cho tôi như thế nào. Và từ đó, tôi coi việc tán tụng hồng ân Thiên Chúa là bổn vụ thường xuyên hằng ngày của cuộc đời tôi.”
Trở lại với Phúc âm hôm nay, chúng ta hãy tự hỏi mình: Tôi thuộc hạng người nào? Tri ân hay phụ ân?
Nếu là phụ huynh, là cha mẹ, tôi có lo dạy bảo con em biết tạ ơn Chúa về các ơn lành Chúa ban cho không?
Bài Phúc âm hôm nay nói trong số mười người được chữa khỏi bệnh phong cùi, thì chỉ có một người biết tạơn Chúa thôi. Mà người nầy lại là người ngoại giáo. Còn chín người thuộc dân riêng Chúa đều phụ ơn.
Trước cảnh tượng nầy, Chúa Yêsu lấy làm buồn, hỏi:
“Không phải tất cả mười người đều được lành sạch cả sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang nầy?
Chúa buồn không phải buồn vì bị phụ ơn, cho bằng buồn vì thấy trong 10 người, chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bệnh phong cùi là thứ bệnh nan y thời bấy giờ. Chỉ có một phép lạ do quyền năng của Thiên Chúa mới chữa lành được. Vậy việc Đức Yêsu chữa họ khỏi bệnh phong cùi là một lời tuyên bố Ngài là ai. Ngài là Đấng Thiên Sai đã được các tiên tri loan báo từ lâu đời về trước. Ngài đến để thuyên chữa các tật bệnh, đem hy vọng tới cho những người tuyệt vọng, những tù nhân.
Trong mười người chỉ có một đến tạ ơn Thiên Chúa, vì nhận biết rằng loài người trước mặt Ngài chỉ là những hành khất, những người đi xin bố thí. Và người đó là người dân ngoại. Còn chín người kia, những người thuộc dân Chúa chọn, thì vô ơn, coi ân huệ Chúa ban cho họ như tất nhiên. Như cha mẹ sinh con ra, tất nhiên phải lo gầy dựng cho con cái. Họ là những người mù lòa thiêng liêng, không nhìn thấy tình trạng thấp kém nghèo hèn của mình trước mặt Thiên Chúa. Chính sự mù lòa thiêng liêng của họ đây hơn là sự họ phụ ơn Ngài, làm cho Đức Yêsu phải buồn rầu.
Chúng ta biết rằng lòng biết ơn là một nhân đức trong đạo. Người Việt Nam gọi là hiếu nghĩa, hay là chữ Hiếu. Điều răn thứ IV dạy chúng ta phải có hiếu, phải biết ơn cha mẹ, ông bà tổ tiên, và trên hết là biết ơn.
Chúa Trời, Đấng tạo thành vạn vật. Thánh lễ, trung tâm điểm của việc thờ phượng Chúa mà chúng ta đang cử hành trong giờ nầy, là do tiếng Eucharistia, một danh từ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là Tạ Ơn.
Dâng thánh lễ hay là dâng lời Tạ Ơn Thiên Chúa cũng là một. Thể theo lời truyền dạy của Chúa trong đêm Tiệc Ly, Giáo Hội dạy chúng ta năng đi dâng lễ, tối thiểu một tuần một lần trong ngày Chúa nhựt, hầu nhớ lại những ơn lành hồn xác Ngài ban cho chúng ta là những người mắc bệnh phong cùi một cách nào đó, là những người thực sự đi ăn xin bố thí trước cửa nhà Chúa.
Hội Thánh dạy chúng ta năng đi dâng lễ là để Tạ ơn Chúa. Thánh lễ là trung tâm điểm của việc thờ phượng Chúa. Cảm tạ hồng ân Chúa cũng phải là trung tâm điểm của đời sống tín hữu của chúng ta.
Để tóm lược: nhân bài Phúc Âm có giọng điệu u buồn hôm nay, mỗi một người trong chúng ta hãy tự xét mình:
Trước hết, tôi thuộc về hạng người nào trong hai hạng người của Phúc Âm. Hạng người biết ơn như người ngoại bang Samari? Hay hạng người vô ơn bội nghĩa cùng Chúa như chín người Do-thái kia?
Sau nữa, nếu là cha mẹ, phụ huynh, tôi có lo dạy vẽ cho con em biết cách xử thế lịch sự cùng mọi người, biết tạ ơn Chúa về những ơn Ngài đã ban cho, ít nhứt trước khi lên giường nằm ngủ, như cụ thân sinh của ông Byron nói trên chăng?
Cách đây không lâu, giới điện ảnh Hollywood có phát hành một cuốn phim mang tựa đề Schindler’s List dựa trên một câu chuyện có thật thời Đệ Nhị Thế Chiến. Schindler là một nhà kinh doanh giàu có người Đức. Khi gặp cảnh những người Do thái bị ức hiếp, giết hại, ông đã tìm cách cứu họ qua việc mua chuộc các sĩ quan Đức để được phép chiêu mộ nhân công Do thái cho các cơ xưởng của ông. Việc này nếu bị bại lộ thì không những gia sản bị tước đoạt mà mạng sống của ông cũng chẳng còn, vì Hitler sẽ không dung thứ cho kẻ nào dám bao che hay bênh vực dân Do thái.
Cuốn phim được kết thúc không bằng cảnh quân đội đồng minh tiến vào giải phóng người Do thái, nhưng là cảnh Schindler phải chạy trốn vì bị tố cáo có chân trong Đảng Quốc xã. Lúc chia tay với các nhân công, ông đã bật khóc. Người ta tò mò hỏi tại sao ông khóc? Ông cho hay: "Tôi hối tiếc vì đã không cứu được nhiều người Dothái." Không ít người ngạc nhiên hỏi lại: "Thế nhưng ông đã cứu được hàng ngàn người Do thái chúng tôi cơ mà?"
Sau lúc dằn nén cảm xúc, Schindler trả lời: "Nếu tôi bớt được tính ích kỷ thêm một chút nữa thì có lẽ nhiều người Do thái đã không phải chết oan. Nếu những chiếc đồng hồ, cà rá trên tay tôi được bán đi sớm hơn một chút thì tôi đã cứu thêm được vài người. Nếu tôi không dùng chiếc xe quá sang trọng kia thì có lẽ tôi đã giải thoát thêm được ít là 10 người Do thái nữa rồi."
Câu nói của Schindler, người mà sau này dân Do thái vinh danh như một anh hùng, đáng cho con người hôm nay suy nghĩ: Làm việc thiện nhưng không nghĩ đến trục lợi. Lo cứu người đến độ không quản ngại tài sản, địa vị, và tính mạng của mình. Làm nhiều việc thiện, cứu được nhiều người mà vẫn còn cảm thấy như chưa thực hiện được bao nhiêu.
Thử hỏi động lực nào đã thúc đẩy Schindler ra tay cứu mạng người Do thái như thế? Phải chăng vì lợi nhuận? Hay mưu đồ riêng tư? Hay phải thi hành một sự báo đáp nào đó?
Không một động lực hay lôi cuốn lớn lao nào đã khiến cho Schindler dám trả giá mạng sống, địa vị, và tài sản mình có để cứu "kẻ thù của dân tộc Đức," ngoại trừ lòng xác tín vào một chân lý: chỉ mình Thượng Đế mới có toàn quyền trên sự sống con người; còn con người là phải biết tôn trọng và bảo vệ sự sống đó cho nhau.
Việc tôn trọng, bênh vực và làm thăng hoa chân lý đó, cộng với thái độ dám hy sinh của cải, sức lực và an toàn cá nhân chính là hành động biết ơn và tôn vinh Đấng ban sự sống cho mình cách chân thành và sâu xa nhất.
Trong sách Các Vua có nhắc đến chuyện ông Naaman, một người dân ngoại đang bị chứng phong cùi bào mòn sự sống. Ông được chữa lành sau khi nghe lời tiên tri Elisa đi tắm tại sông Giođan. Thế rồi, trước khi về lại quê hương, Naaman đã tuyên bố trước mặt vị tiên tri: "Từ nay, ngoài Chúa ra, tôi tớ ngài sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy tế tôn vinh bất cứ thần minh nào khác." Tâm tình biết ơn và tự nguyện vinh danh Thiên Chúa này đã được Đức Giêsu nhắc lại sau khi chữa lành cho 10 người phong cùi, nhưng chỉ có một người biết trở lại để tri ân và tôn vinh. Đức Giêsu phải thốt lên: "Còn chín người kia đâu? Chớ thì không phải họ đã được lành sạch hết sao? Tại sao chỉ có một người ngoại giáo này?"
Không phải Đức Giêsu cần đến lòng tri ân và lời ca ngợi chúc vinh của con người, nhưng bởi những ai biết ơn, kẻ đó sẽ nhận ra ơn mới. Một con người có lòng tri ân sẽ không bao giờ thiếu vắng hạnh phúc, vì nhận thức mình luôn được yêu thương và tặng ban. Chính điều này làm cho sức sống nơi họ thêm phong phú và tràn đầy. Sức sống đó sẽ giúp họ thêm quảng đại, cảm thương, và trao ban cho tha nhân. Đây chính là điều Đức Giêsu muốn nhìn thấy nơi con người, và đây cũng chính là điều mà Schindler đã thực thi.
Đức Giêsu muốn con người nhận ra ơn Chúa trong đời mình để tri ân và đáp đền qua việc bảo vệ và làm thăng hoa cho sự sống của người xung quanh. Biết ơn sẽ làm cho đời người thêm hạnh phúc.
Tôi muốn tri ân Thiên Chúa đã ban cho tôi sự sống, biết ơn Ngài vẫn hằng tuôn đổ ân thiêng từ trời cao, biết ơn những ai giúp làm phong phú đời mình, cả thể xác lẫn tinh thần, chính là thái độ cần có nơi những người mang danh Kitô hữu.
Có tâm tình biết ơn như vậy, tôi mới dám vượt trên danh dự cá nhân, gia đình để bảo vệ sự sống thay vì huỷ diệt.
Có biết ơn như vậy, tôi mới tích cực dùng khả năng, thời gian, sức lực, của cải vào việc giáo dục dạy dỗ, củng cố niềm tin, và gia tăng sức sống của tha nhân.
Và có biết ơn như vậy, tôi mới có thể đi sâu hơn vào ý nghĩa của Hiến lễ Tạ ơn--trung tâm điểm của đời sống Kitô hữu--nơi đó tôi tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa qua Đức Giêsu, và cũng nơi đó tôi đón nhận chính Ngài để làm phong phú cho sức sống của tâm hồn, gia đình, và xã hội.
Khi suy về bài Tin Mừng này, tôi liên tưởng đến bài Tin Mừng về người Samaritanô tốt lành (Lk 10:25-37). Chín người phong hủi có thể ví như hai thầy Tư tế và Lêvi trong dụ ngôn người Samaritanô tốt lành. Cả hai nhóm vì quá chú trọng đến việc chu toàn lề luật bề ngoài đến độ quên đến việc cần thiết là giúp tha nhân và tạ ơn Chúa.
Vì không muốn sống vụ luật như hai thầy Tư tế và Lêvi, người Samaritanô tốt lành đã dấn thân cứu kẻ bị thương. Người Samaritanô trong bài Tin Mừng hôm nay cũng không muốn sống theo tính tự nhiên như chín người kia nên đã trở lại tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa (Lk 17:15-16). Vì không muốn sống tầm thường như những người khác, hai người người Samaritanô đã được Chúa khen thưởng.
Tin Mừng hôm nay cũng gợi lên cho ta hai điểm quan trọng: Chúa muốn mọi người phải có lòng biết ơn và biết ơn là điều kiện cần thiết để được thêm ơn. Chúa Giêsu phán: “Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này.” (Lk 17:17-18) Qua lời trên ta có thể kết luận là Chúa muốn nhắc khéo cho chúng ta phải luôn biết tạ ơn Chúa. Biết ơn là một thái độ tối thiểu mọi người cần phải có đối với người ban ơn. Người mà ta cần biết ơn trước nhất phải là Thiên Chúa. Vì chính Ngài đã tạo thành ta từ hư vô và dưỡng nuôi ta cho đến giây phút này. Nhưng, nhất là Ngài đã ban Con Một Ngài hy sinh chịu chết để cứu chuộc ta. Nói cho cùng là Ngài đã ban cho ta mọi sự. Chính thánh Phaolô đã quả quyết: “Bạn được gì mà không được bởi Chúa. Nếu được bởi Chúa, tại sao tự hào như thể của mình.” ( 1Cor 4:7) Hơn nữa, chính Chúa đã phán: “Không có Cha các con không thể làm được gì” (Gn 15:5-6)
Trong thực tế, thử hỏi bao nhiêu người trong chúng ta nhận ra được điều này và sống tri ân Chúa trong mọi lúc? Chắc chắn có nhiều người nhận ra là mọi sự đều do Chúa ban, nhưng vì trong thực hành, bị thần tôi, thần tự ái, tự phụ và tình-tiền-tài lôi cuốn quên lãng việc tạ ơn ngợi khen Chúa.
Sách Gương Phúc có câu: “Ai biết ơn sẽ được thêm ơn mới. Người kiêu hãnh sẽ bị Chúa cất ơn quen ban cho người khiêm tốn.” (Quyển II, chương X). Chính Chúa phán với người Samaritanô rằng: “Ngươi hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của ngươi đã chữa ngươi.” (Lk 17:19). Là con người chúng ta có hồn và xác. Cả hai đều cần được chữa lành. Do lòng nhân từ, chắc chắn Chúa đã chữa cả mười người về phần thể lý. Nhưng chỉ có người Samaritanô được chữa lành cả thể lý và tinh thần vì ông đã biết ơn Chúa.
Sống trên đời mọi người cần phải biết ơn nhau. Theo tự nhiên khi ta giúp đỡ hoặc cho ai một vật gì ta đều mong họ đáp ơn. Cả những lúc chúng ta không đòi hỏi họ phải đáp ơn, nhưng, khi họ cám ơn, ta vẫn thấy vui hơn và có cảm hứng là sẽ tiếp tục thi ơn. Trái lại, nếu kẻ chịu ơn mà không biết ơn, ta thường trách họ là kẻ vô ơn. Là con cái Thiên Chúa, ta chịu ơn Chúa mọi đàng, nhất là ơn cứu rỗi. Biết rằng vô ơn là sự thiếu sót của mọi người, nhưng, ta phải cố gắng noi gương người Samaritanô để sống vượt trên tính tự nhiên của mọi người để nhận ra ơn Chúa và tạ ơn Ngài. Phải chăng ta cần cặp mắt của người ngoại giáo, để có thể lấy làm ngạc nhiên trước những ơn lành Chúa ban cho chúng ta trong lòng Giáo Hội?
Hãy sống tâm tình tri ân trong mọi lúc vì “sống vô ơn là mộc cuộc đời trống vắng tình yêu và không cảm xúc. Có hy vọng mà không có tri ân là sự thiếu hụt của một nhận thức tinh tế. Lòng tin mà thiếu niềm tri ân là một lòng tin không có nghị lực và sự dũng cảm. Tất cả những nhân đức bị tách biệt khỏi lòng biết ơn đều trở nên tàn tật khập khiễng trên con đường thiêng liêng.” (John Hery Jowett). Hãy tự hạ nhận mình không đáng được Chúa ban ơn và chúc tụng Ngài vì mọi ơn Ngài đã ban.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về mười người bệnh phong được chữa lành tuy nhiên đặc biệt chú ý tới một người trong nhóm, đó là người Samari đã tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và với Đức Giêsu là người đã chữa anh khỏi bệnh.
Tình trạng đáng thương của người mắc bệnh phong đã được Đức Giêsu chiếu cố chữa lành rất sớm trong đời công khai của Người (Lc 5,12-16). Chứng bệnh lây truyền này từng bị coi như hình phạt điển hình nhất Thiên Chúa gửi đến: "Đức Chúa sẽ làm cho anh em bị ung nhọt ác tính ở đầu gối và ở đùi, mà anh em không thể chữa khỏi, từ bàn chân cho đến đỉnh đầu." (Đnl 28,35). Người mắc bệnh phong phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu ria, và kêu lên "Ô uế! Ô uế!" Bao lâu còn mắc bệnh, người đó phải ở riêng ra một nơi ngoài trại (Lv 13,45-46). Bất kể tới hàng rào ngăn cách do luật cũ dựng lên, Đức Giêsu đã đụng tới thân mình người bệnh phong và cho anh ta lập tức được khỏi (Lc 5,13).
Với cuộc chữa lành nói trên, Đức Giêsu không những tỏ ra là Đấng quyền năng đối với thứ bệnh thuộc loại ghê gớm nhất này mà còn cho thấy chính Người đứng ra phá đổ hàng rào khiến cho con người xa cách nhau.
Cuộc xuất hành mới nhằm Trời cao
Riêng với bài Tin Mừng hôm nay điều được nhấn mạnh là mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Điều đó dễ hiểu vì Luca đặt cuộc chữa lành mười người bệnh phong trong cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Cuộc hành trình này được Luca quan niệm như cuộc xuất hành mới với Đức Giêsu đứng ra lãnh đạo dân mới của Thiên Chúa đi về đất hứa là Trời cao (Lc 9,51).
Cả nhóm chứ không phải chỉ một người bệnh phong, tụ tập lại để xin Đức Giêsu chữa lành. Nhóm gồm cả người Do Thái lẫn người Samari. Ngay từ đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu, kẻ chống đối đầu tiên đối với cuộc lên Giêrusalem này chính là những người Samari. Khởi sự, Đức Giêsu sai mấy sứ giả đi trước. Những người này vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến, nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem (Lc 9,52-53). Khi hai môn đệ là Giacôbê và Gioan tức giận muốn khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy dân làng Samari là dân chống đối cuộc lên Giêrusalem, hai ông liền bị Đức Giêsu quở mắng (Lc 9,55).
Vượt trên kỳ thị chủng tộc
Kỳ thị chủng tộc giữa người Do Thái và người Samari đã có từ xa xưa đặc biệt từ sau cuộc lưu đầy vào năm 722 trước công nguyên. Người Samari trở nên một dân pha trộn về chủng tộc. Hố ngăn cách giữa hai dân tộc càng thêm sâu khi người Samari từ cuộc lưu đày Babylon trở về muốn đoàn tụ với người Giuđê mà bị vua Giôrôbaben và nhà lãnh tụ Nêhêmi từ chối (Er 4,2-3). Người Samari liền xây đền thờ riêng cho họ trên đỉnh Garadim. Người có công xây cất chính là ông Manasê, con trai của vị thượng tế Yoađa, đã bị ông Nêhêmi đuổi khỏi Giêrusalem vì kết hôn với người con gái của một vị quan Ba Tư ngoại đạo.
Vậy Đức Giêsu không chỉ tỏ ra là một con người bao dung. Thái độ của Người đã dứt khoát muốn đi ngược lại dòng lịch sử của hơn bảy thế kỷ kỳ thị chủng tộc, để đến với người Samari.
Trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Đức Giêsu còn làm mọi người ngạc nhiên với dụ ngôn người Samari nhân hậu. Trong dụ ngôn này hai nhân vật tỏ ra thiếu tình người chính là hai người có địa vị trong đạo Do Thái, gồm một thầy tư tế và một thầy Lêvi. Hai vị này trên đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, gặp một người bị kẻ cướp bóc lột và đánh nhừ tử rồi để nằm nửa sống nửa chết trên đường. Cả hai lần lượt sang phía bên kia đường mà đi. Chỉ có một người Samari nặc danh vừa thấy nạn nhân liền động lòng thương. Người này đã cúi mình xuống rửa và băng bó vết thương cho nạn nhân. Kế đến ông còn vực người đó lên lưng lừa để chở đến quán trọ. Người Samari nhân hậu này không những trả tiền cho người chủ quán trọ mà như còn trao cho chủ quán một ngân phiếu đã ký sẵn để chủ quán tự do điền vào, khi nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác." (Lc 10,35)
Bằng con đường bác ái gương mẫu
Và ta biết dụ ngôn được kết thúc với lời Đức Giêsu khuyên nhà thông luật Do Thái là "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (Lc 10,37) -tức là hãy noi gương người Samari để sống tình người; như vậy mới mong có được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Nhưng sự sống đời đời chỉ đạt được khi người ta thể hiện cả hai vế của giới răn yêu thương. Mến Chúa mà thôi thì chưa đủ, còn phải yêu người nữa. Ngược lại, yêu người mà thôi cũng chưa đủ, còn phải "yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi" (Lc 10,27). Dụ ngôn người Samari nhân hậu chỉ mới nêu ví dụ điển hình về yêu người. Về mến Chúa, một người Samari nữa được Đức Giêsu chỉ cho thấy như một kiểu mẫu nổi bật. Đó là người Samari bệnh phong trong số mười người bệnh phong được Đức Giêsu chiếu cố chữa lành như ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Hết sức thuận lợi với Nước Thiên Chúa
Bề ngoài xem ra những người bệnh phong này đã bị Thiên Chúa chúc dữ nhưng trong thực tế Chúa đã biến đổi hoàn cảnh bất lợi trở nên hoàn cảnh hết sức thuận lợi cho Nước của Ngài.
+ Chính nhờ tách rời khỏi cộng đoàn địa phương nơi họ từng sinh sống, họ được tự do sống tình người như Thiên Chúa đã dựng nên họ, không phân biệt là người Samari hay là người Do Thái.
+ Bị xã hội ruồng bỏ, họ đã không trở nên mồi ngon cho thất vọng. Chính họ cùng nhau làm nên một xã hội mười người phong sống lây lất cạnh lối ra vào cổng thành. Họ sống dựa vào của bố thí nhưng đồng thời cũng luôn đòi người ta phải xét lại xem lối cư xử đối với họ có thực sự công bằng lắm hay không.
+ Họ nghiệm được phần nào về Nước Thiên Chúa đang đến với họ qua con người đầy tình thương và quyền năng của Đức Giêsu. Có lẽ họ đã nghe biết rằng tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay lên từng bệnh nhân và chữa họ. (Lc 4,40). Cho nên họ đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng "Lạy Thầy Giêsu xin dủ lòng thương xót chúng tôi" (Lc 17,13)
+ Thầy Giêsu nhẹ nhàng đưa họ vào nhịp sống của Nước Thiên Chúa ngang qua một lệnh truyền. Như xưa ngôn sứ Êlisê truyền cho quan Na-a-man mắc bệnh phong, phải tắm bảy lần trong sông Giođan để được lành (2V 5,10-12), nay Thầy Giêsu cũng đòi mười người phong phải thực hiện một việc chứng tỏ niềm tin và đức vâng phục của họ. Họ phải đi trình diện với những vị tư tế có nhiệm vụ xét xem họ có được khỏi để tái gia nhập cộng đoàn Do Thái chưa.
+ Điều lạ lùng xảy ra là khi họ vâng lời Thầy Giêsu để đi trình diện với các vị tư tế nói trên, thì tự nhiên bệnh phong biến mất trên người họ!
Vậy mười người phong đã tiến xa và sâu trong Nước của Thiên Chúa nhờ ơn tạo dựng vẫn duy trì họ trong hiện hữu và nhờ Chúa Thánh Linh vẫn nói với họ qua tiếng nói của lương tâm. Họ còn được Đức Giêsu, Con Thiên Chúa (Lc 1,35) chiếu cố can thiệp dẫn đưa họ tới ơn cứu độ.
Như đoá hoa nở rộ
Riêng nơi người bệnh phong gốc Samari, sự can thiệp của Đức Giêsu như đoá hoa nở rộ:
+ Một mình người Samari "thấy mình được khỏi liền quay trở lại" với Đức Giêsu. Anh có cái nhìn chính xác về xuất xứ của đời sống mới nơi anh. Tiên vàn phải trở lại với Thầy Giêsu là người đã cho anh được khỏi. Đấng có khả năng chữa anh khỏi thứ bệnh ghê gớm này phải có khả năng soi sáng nhiều cho đời anh.
+ Trước khi gặp lại Thầy Giêsu, anh đã "lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa" (c.15). Đó là Đấng Thiên Chúa gắn liền với hiện hữu của anh. Đó là Đấng mà Thầy Giêsu kêu là "Cha là Chúa Tể trời đất… Đấng đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn" (Lc 10,21).
+ "Anh liền sấp mình dưới chân Thầy Giêsu mà tạ ơn" (c.16). Đó là cử chỉ biểu lộ lòng tôn kính một vị vua; ở đây lòng tôn kính hướng tới một vị mà anh nhìn nhận là người mà Thiên Chúa đã sai đến cứu chữa anh.
+ "Chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa?" (cc.17-18). Họ đã vâng lời người của Thiên Chúa và đã được khỏi về thể lý. Thế mà tâm hồn họ không được đánh động để tôn vinh Thiên Chúa sao? Có sự tê liệt nào đó về thiêng liêng trong mối tương quan của họ đối với Thiên Chúa.
+ "Đứng dậy đi! Lòng tin của anh đã cứu anh" (c.19). Niềm tin cứu độ nơi người Samari giả thiết sinh hoạt cứu độ phát xuất từ nơi Thầy Giêsu. Người Samari này đã được Thầy Giêsu dẫn vào nhịp sống của đức tin. Nhịp sống ấy có thể đưa anh đi rất xa.
Một số câu hỏi gợi ý
Chúa Giêsu đã vượt lên trên truyền thống kỳ thị chủng tộc nặng nề để đến với người Samari. Riêng bạn có phải vượt thắng những khó khăn nào không để có tương quan tốt với một số những người không phải là người Công Giáo mà bạn biết. Tương quan ấy nên nhắm mục đích nào theo gương Chúa Giêsu?
Hãy so sánh người bệnh phong Samari được Chúa Giêsu chữa lành (Lc 17,11-19) với nhân vật Samari nhân hậu trong dụ ngôn (Lc 10,29-37). Họ nói với chúng ta những gì về Nước của Thiên Chúa?
Trên đường đi Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới hai miền Galilê và Samari, nơi lưu đầy những người cùi của hai dân tộc thù ghét nhau. Đức Giêsu đã cứu chữa mười người cùi được lành sạch. Nhưng chỉ có một người ngoại đạo đã trở lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
Hai người cùi khác nổi tiếng nhất Việt Nam, không được chữa lành thân xác, nhưng được ban Đức tin lạlùng, đã tôn vinh Thiên Chúa bằng cả cuộc đời cùi của mình. Đó là thi sĩ Hàn Mạc Tử và Đức Cha Cassaigne.
Hàn Mạc Tử sinh năm 1912. Ông chết mới 28 tuổi. Thế mà nhà thơ trí tuệ Chế Lan Viên đã hết lời ca ngợi: “Hàn Mạc Tử là đỉnh cao lòa chói trong văn học đầu thế kỷ, thậm chí qua các thế kỷ.” Hàn Mạc Tử chói lòa bằng những vần thơ như:
“Ave Maria linh hồn tôi ớn lạnh,
Run như run thần tử thấy long nhan,
Run như run hơi thở chạm tơ vàng,
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.”
Nhạc sư Hải Linh đã phổ nhạc bài thơ trên với cung điệu thần nhạc đầy ơn phúc. Ơn phúc của Hàn Mạc Tử không phải ở chỗ là thi sĩ trần gian mà là thi sĩ nước trời. “Đức tin của con đã cứu con.” Đức Giêsu đã an ủi khích lệ người cùi biết cảm tạ tôn vinh Thiên Chúa như thế. Đức tin của Hàn Mạc Tử cũng đã chữa thân xác nặng trĩu đau khổ bằng những bài thơ tuyệt diệu, cảm tạ tôn vinh Mẹ Chúa Thiên Đình. Đức Tin của Hàn Mạc Tử đã làm dịu đi đôi tay bị gậm nhấm, quên đi đôi mắt bị đục khoét, để tâm tư lắng đọng trong dòng nước thánh, cho hồn bay bổng, lặng nghe trời giải nghĩa chữ yêu:
“Ai hãy làm thinh chớ có nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu rung trong gióĐể nghe trời giải nghĩa chữ yêu.”
Đức tin của Hàn Mạc Tử đã giải thoát tâm hồn ông khỏi cảnh cô đơn đầy đoạ, để hoà nhập vào thần nhạc sáng hơn trăng, ngợp trong vạn ánh hào quang ngời chói:
“Hồn tôi bay tới bao giờ mới đậu,
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang.”
Người cùi nổi tiếng thứ hai của Việt Nam là Đức Cha Caissagne đã được báo chí rầm rộ ca ngợi. Năm 1972 một phái đoàn dưới quyền lãnh đạo của vị nguyên thủ quốc gia đã đến gắn huy chương cao quí cho Ngài. Đức Giám mục Phạm Ngọc Chi đã đến ôm hôn Ngài, ôm hôn tấm lòng vô cùng quảng đại hy sinh của Ngài. Hồng Thập Tự quốc tế đã quan tâm đặc biệt đến Ngài và sẳn sàng trợ giúp rất nhiều cho những trại cùi ở Việt Nam. Đức tin của Đức Cha Cassaigne không những cứu bao nhiêu người cùi đau khổ mà còn giúp cho bao nhiêu người biết tôn vinh Thiên Chúa.
Từ địa vị một Giám mục lớn nhất Việt Nam, Đức Tin đã thúc đẩy Ngài từ bỏ tòa Giám mục Sài Gòn năm 1955 đến sống lăn lộn, phục vụ những gia đình cùi trong rừng núi hoang vu ở Di Linh.
Nếu chỉ một bát nước cho người bé mọn, được Chúa cho là chính Chúa, thì ở đây, thân lạy Đức Cha, Ngài đã cho cả ngai vàng, cho hết mọi sự, và thí cả mạng sống của Ngài không phải cho một người, mà cho hàng ngàn người khốn cùng trong xã hội, Chúa phải kể là làm cho chính Chúa biết chừng nào!
Lòng tin của người cùi xứ Samari biết trở lại tôn vinh cảm tạ Chúa, khi được lành sạch, là việc làm hợp tình hợp lý. Lòng tin của đại tướng nước Syri khi được khỏi bệnh cùi đã suốt đời trở lại tế lễ Thiên Chúa là một lòng tin trung tín.
Đức Tin của thi sĩ Hàn Mạc Tử đã hy sinh vác thập giá mình theo Chúa là một Đức Tin quả cảm mạnh mẽ tử đạo. Đức tin của Đức Cha Cassaigne đã thí mạng sống mình làm của lễ hiến tế trên thập giá là một Đức Tin của Đấng cứu độ.
Các Ngài đã tôn vinh Thiên Chúa như thế. Còn chúng ta thì sao? Đức Giêsu đang hỏi mỗi người chúng ta: Không phải các ngươi cũng được khỏi bệnh sao? Bệnh của chúng ta là thứ bùn đất đã được nắn bóp thành người, bệnh của chúng ta là kẻ chết trong tội lỗi mà đã được cứu sống, là kẻ đói khổ mà được dư đầy của ăn áo mặc trong cái vũ trụ này, là những kẻ mù lòa mà được cho trí khôn sáng suốt, là những kẻ trần thế mà được làm con trời, là những kẻ đói khát ơn phúc, mà được cho bánh trường sinh, là những kẻ chỉ có cha mẹ xác thịt tan rữa mà lại được có cha mẹ hằng sống vinh quanh là Thiên Chúa. Chúng ta được chữa khỏi muôn vàn thứ bệnh khống cùng mà có biết trở lại tạ ơn tôn vinh Thiên Chúa không? Chúng ta không tôn vinh Thiên Chúaa được như Đức Cha Cassaigne và thi sĩ Hàn Mạc Tử, thì ít nhất cũng biết tôn vinh Thiên Chúa như người cùi Samari và đại tướng Naaman.
Lạy Chúa ! Chúng con có được Chúa công nhận: “Lòng tin của con đã cứu con” hay lại bị Chúa hạch hỏi: “còn chín người kia đâu?”. Lạy Chúa! Xin cho con biết sấp mình cảm tạ tôn vinh Chúa bằng cả cuộc đời của con. Amen.
Nhiều người thương tiếc cho số phận của hai chữ “cám ơn”. Xem chừng hai chữ ấy đã chết lịm trên môi miệng của trẻ thơ và của biết bao người thời nay. Thật ra, đó không phải là cái chết của công thức lịch sự, xã giao, mà còn là dấu chỉ cảu cái chết thảm hại hơn, đó là cái chết của tình người. Quả thực, khi con người không còn biết nói lên hai tiếng cám ơn, tức là cũng chối bỏ tình liên đới với tha nhân. “Tôi sống cho tôi, tôi không cần sống cho người khác”, đó là đàng sau sự vô ơn. Nhưng bên kia cái chết của tình người, còn có một cái cết thê thảm hơn, đó là cái chết của mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống con người: khi người ta khước từ tha nhân, người ta cũng chối bỏ chính mình và định mệnh siêu việt của mình.
Chúa Giêsu đến cứu độ con người, nhưng ơn cứu độ ấy không hề chối bỏ con người và cuộc sống tại thế gian này. Ngài đã làm cho con người và cuộc sống trở thành bí tích để gặp gỡ Thiên Chúa: chính qua những giá trị của cuộc sống là con người gặp gỡ Thiên Chúa, chính qua mỗi tha nhân mà con người có thể gặp được Ngài.
Tin mừng hôm nay như muốn nhắc nhở chúng ta chân lý ấy. Chúa Giêsu đã chữa lành cho 10 người phong cùi, nhưng chỉ có một người quay trở lại để cám ơn Ngài, mà người đó lại là người Samaria, một người ngoại giáo. Nhưng người có đạo lại trở thành ngoại đạo, vì họ đã không biết nói lời cám ơn, không biết sống tình người. Trong khi đó, dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, một người ngoại đạo đã trở thành có đạo vì đã biết sống tình người. Chúa Giêsu đã nói với người phong cùi Samaria: “Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi”. Lòng tin ở đây chính là biết trở lại tìm Chúa Giêsu và nói lên niềm tri ân của mình. Người Samaria ra về được lành không những trong thân xác, mà nhất là được chữa lành trong tâm hồn. Từ nay tâm hồn của ông được mở ra vì đã biết sóng tình liê đới với tha nhân. Trong khi đó 9 người Do thái kia được hồi phục trong thân xá, nhưng vẫn tiếp tục cắt đứt tâm hồn họ khỏi mọi liên đới và ràng buộc với tha nhân, và đó chính là sự cùi hủi đáng thương nhất của con người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống niềm tin một cách thiết thực. Niềm tin Kitô của chúng ta chỉ có thể và được thể hiện qua tình người mà thôi. Người Kitô hữu không thể tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa mà lại khước từ tha nhân và những giá trị của cuộc sống. Thể hiện lòng mến Chúa bằng cách sống tình người, đó là sứ mệnh của người Kitô hữu trong xã hội này. Họ được mời gọi để xây dựng một xã hội nhân bản hơn, trong đó con người biết sống tử tế hơn, yêu thương hơn, quảng đại hơn.
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVII Mùa Thường Niên Năm C tuần trước, Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ bí quyết làm cho đức tin nơi các vị tăng phát, bằng việc các vị “hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3), ở chỗ, thâm tín và thực hiện lời Người khuyên dạy: “Sau khi các con làm xong tất cả những gì các con được lệnh làm thì các con hãy nói rằng ‘Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi’”. Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, Chúa Giêsu còn cho các môn đệ đi theo Người lên Giêrusalem thấy thế nào là thực lòng tin tưởng, hay việc tin tưởng mạnh mẽ được thể hiện thực sự ra sao, qua việc Người chữa lành sạch cho mười người phong cùi ở một làng kia thuộc lãnh địa biên giới xứ Samaria và Galilêa. Phúc Âm Thánh Luca hôm nay trình thuật lại là trong mười người cùi được Chúa Giêsu chữa cho lành sạch này, chỉ có “một người trong họ”, “người này là người Samaritanô”, như Phúc Âm cho biết: “thấy mình được chữa lành đã trở lại lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa. Anh ta sấp mặt xuống dưới chân Chúa Giêsu mà ngợi khen Người”. Vấn đề Chúa Giêsu đặt ra ở đây là, cũng theo Phúc Âm thuật lại: “Chẳng lẽ cả mười người không được khỏi hết hay sao? Còn chín người kia đâu? Sao không có ai trở lại tạ ơn Thiên Chúa ngoại trừ người ngoại lai này?”. Qua một loạt vấn nạn tỏ vẻ bỡ ngỡ hết sức này, Chúa Giêsu muốn nói với ai đây? Với người cùi được sạch đang sấp mặt dưới chân Người, hay với các môn đệ đang ở bên cạnh Người bấy giờ, hoặc với chín người phong cùi được khỏi song đã biến đâu mất tiêu.
Trước hết, căn cứ vào ý nghĩa của một loạt vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra, chắc chắn Người không có vấn đề gì với người cùi Samaritanô ngoại lai trở về chúc tụng Thiên Chúa nơi Người là Đấng đã làm cho anh ta được lành sạch. Bởi vì, câu Người muốn nói với anh ta là: “Con hãy đứng dạy mà đi; đức tin của con đã cứu con”. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào câu Chúa Giêsu nói với người cùi Samaritanô này, thì chín người cùi kia cũng có đức tin, bằng không, họ cũng đâu có được lành sạch, đâu có được cứu khỏi bệnh cùi. Nghĩa là, cũng như người cùi Samaritanô trong bài Phúc Âm hôm nay, chín người cùi kia cũng thật sự tin tưởng rằng Chúa Giêsu có thể chữa họ lành sạch bệnh phong cùi, do đó họ mới cùng nhau, như Phúc Âm thuật lại: tìm “gặp Người. Đứng xa xa mà lên tiếng thưa Người rằng: ‘Lạy Thày Giêsu, xin Ngài thương đến chúng tôi!’”.
Chúng ta nên để ý đến hai chi tiết sau đây trong bài Phúc Âm hôm nay. Chi tiết thứ nhất là không phải chỉ có một người hay hai ba người bị phong hủi tìm đến gặp Chúa Giêsu để xin Người chữa cho được lành sạch, mà là mười người tất cả, nghĩa là một nhóm khá đông so với thành phần thiểu số dân chúng bị cùi. Chi tiết thứ hai là mười người cùi này hình như không phải ở một nơi trong cùng một trại cùi, mà là ở rải rác các nơi khác nhau trong vùng biên giới Samaritanô và Galilêa, và đã rủ nhau đến gặp Chúa Giêsu, vì trong đó có một người cùi thuộc xứ Samaritanô. Cũng có thể chín người cùi kia thuộc xứ Galilêa ở cùng một trại cùi có ý định đến gặp Chúa Giêsu chẳng may gặp phải người cùi Samaritanô có cùng một ý định như họ chăng? Tuy nhiên, con số đông người cùi, lên đến mười người một lúc đây, cho thấy chẳng những tiếng tăm của Chúa Giêsu đầy quyền năng mà còn cho thấy cả đức tin của những ai đến với Người nữa. Tóm lại, nếu mười người cùi trong bài Phúc Âm hôm nay không thực sự tin vào Chúa Giêsu là Đấng có thể chữa mình lành sạch thì đã không rủ nhau đông đảo tìm đến với Người như vậy. Chính sự kiện họ thật sự được lành sạch đã là bằng cớ hùng hồn cho thấy họ đã hết lòng tin vào Người, tin Người đến nỗi Người bảo họ làm gì, dù không biết kết quả ra sao, họ cũng làm y như vậy, đó là việc Người bảo họ “các anh hãy đi trình diện với các vị tư tế”, nhờ đó, nhờ lòng tin của mình, như Phúc Âm thuật lại, “Họ đang đi đến đó thì được khỏi”.
Việc mười người phong cùi trong bài Phúc Âm nghe lời Chúa Giêsu đi trình diện với các vị tư tế đây quả là một việc chứng tỏ họ hoàn toàn và hết sức tin tưởng Người. Bởi vì, theo luật Moisen, trong Sách Lêvi đoạn 12 từ câu 9 đến 34, khi biết mình bị cùi, họ đã phải đi trình diện với các vị tư tế rồi. Bây giờ họ lại phải đi trình diện nữa để mà làm gì? Họ có thể nghĩ như thế mà bỏ cuộc cũng được vậy. Giống như trường hợp của quan Naaman ở bài đọc thứ nhất hôm nay, trong phần trước đó, không được trích lại, Sách Các Vua Quyển 2 ở đoạn 5 câu 11 thuật lại rằng, sau khi nghe tiên tri Êlisa nói hãy xuống tắm ở sông Dược Đăng 7 lần thì da thịt của quan sẽ được lành sạch, thì quan tự ái tính bỏ cuộc mà rằng: “Ta tưởng rằng vị tiên tri này hẳn sẽ ra mặt đứng cầu cùng Chúa là Thiên Chúa của ông ta, rồi đặt tay lên để chữa lành dấu vết phong cùi chứ. Chẳng lẽ ở Đamascô lại chẳng có những giòng nước còn khá hơn tất cả những sông nước ở Yến Duyên hay sao?”. Thế rồi, sau khi nghe lời khuyên của đứa tớ gái Do Thái, quan đã bỏ mình đi nghe theo lời của tiên tri Elisa, để rồi, như bài đọc thứ nhất hôm nay thuật lại: “Khi quan trở lại đứng trước vị tiên tri mà nói: ‘Nay tôi biết rằng không có một Vị Thiên Chúa nào khác trên toàn thể địa cầu này ngoài Vị ở Yến Duyên”. Trường hợp của quan Naaman này cho thấy những gì Chúa Giêsu dạy các tông đồ trong bài Phúc Âm tuần trước về việc tăng phát đức tin của các vị, ở chỗ, các vị “hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ”, có thế, hạt giống đức tin, hạt giống mạc khải thần linh vốn có khả năng nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái, mới đạt đến tầm vóc viên trọn của mình nơi các vị. Thánh Phaolô đã khẳng định trong bài đọc thứ hai hôm nay về tác dụng thần linh vô cùng mãnh lực của những gì Chúa làm, Chúa nói, là: “Lời Thiên Chúa không thể bị trói buộc”.
Nếu mười người phong cùi được lành sạch đã xẩy ra như Phúc Âm thuật lại, thì nguyên nhân khiến tất cả mười người trong họ được lành sạch bệnh cùi này là do đức tin của họ, như Chúa Giêsu đã nói với một người trong họ: “Đức tin của con đã cứu con”. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao nhờ đức tin cả mười người cùi đã được lành sạch song chỉ duy một mình người cùi Samaritanô ngoại lai trở lại tạ ơn Thiên Chúa? Phải chăng lời Chúa Giêsu phán với người cùi ngoại lai này không phải chỉ áp dụng cho việc anh ta được lành sạch phần xác giống như chín người cùi kia, mà nhất là áp dụng cho việc lành sạch phần hồn của anh ta. Thật vậy, chính vì người cùi ngoại lai này trở lại với Đấng đã chữa mình lành sạch bệnh cùi phần xác, tức đã trở về với Thiên Chúa là cùng đích của mình, mà anh ta đã thực sự sống trong chân lý, trong ánh sáng, nghĩa là đã được “chân lý giải phóng” (Jn 8:32), được cứu độ. Còn chín người cùi kia, chỉ coi Thiên Chúa là phương tiện cứu độ hơn là cùng đích của mình, do đó, sau khi đạt được những gì mình xin, đạt được ý riêng là chủ tể của mình, được thoát khỏi những gì khổ sở, liền quên Ngài, cho Ngài sang một bên, coi như không có Ngài. Thế nhưng, họ có biết đâu rằng, một khi linh hồn họ không được giải thoát, không được cứu độ, như trường hợp người cùi ngoại lai trong số họ, thì thân xác vừa được lành sạch của họ có thể sẽ trở thành dịp tội cho họ, thậm chí có thể làm cho họ bị vĩnh viễn hư đi, đến nỗi, một khi chẳng may ở vào trường hợp đời đời bất hạnh như người phú hộ trong bài Phúc Âm cách đây 2 tuần, chắc họ sẽ phải ân hận thốt lên: thà mình cứ bị cùi còn hơn. Và bấy giờ họ mới thấm thía cái phúc và cái khốn Chúa Giêsu đã nói trong bài Phúc Âm Thánh Luca Mùa Thường Niên Năm C Tuần Thứ 6: “Phúc cho các người là kẻ khóc lóc; các người sẽ vui cười. Khốn cho các người là kẻ giờ đây vui cười; các người sẽ phải khóc lóc buồn thương”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Theo các Phúc Âm Nhất Lãm, nếu Chúa Giêsu chỉ chữa lành và thường chữa lành tật nguyền phần xác cho con người nếu họ có đức tin, hay tỏ đức tin của mình ra, thì 10 người cùi trong Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII Mùa Thường Niên Năm C theo Thánh Luca hôm nay cũng phải có đức tin mới được Người chữa lành cho. Vậy tại sao khi con người ta khổ thì tỏ ra có đức tin, phải nói là có một đức tin rất mạnh, tuy nhiên, một khi hết khổ, hay một khi được sung sướng thì hầu như hết đức tin, nếu không muốn nói là thậm chí mất đức tin một cách dễ dàng nhanh chóng, như trường hợp của 9 người cùi không quay trở lại tạ ơn Thiên Chúa như người cùi Samaritanô ngoại lai trong bài Phúc Âm hôm nay? Phải chăng đức tin nếu có tăng phát, như các tông đồ đã xin Thày mình tăng đức tin cho trong bài Phúc Âm tuần trước, thì đức tin cũng có thể giảm sút hay mất đi, như trường hợp chín người cùi trong bài Phúc Âm hôm nay? Tại sao nếu Thiên Chúa biết được con người vô ơn bội nghĩa như vậy mà còn ban ơn cho họ, những ơn lành về phần xác, những ơn sẽ khiến họ mắc tội với Ngài hơn, và có thể vì thế mà họ sẽ bị khổ về phần hồn hơn? Thà Ngài đừng ban cho họ có phải hay hơn không? Phải chăng, sở dĩ Ngài làm như vậy là bởi vì, như Thánh Phaolô thâm tín trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Nếu chúng ta chối bỏ Ngài, Ngài sẽ chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta bất trung, Ngài vẫn tín trung; vì Ngài không thể chối bỏ chính mình Ngài”?
(Tin Mừng Sự Sống www.tinmungsusong.org buổi phát thanh thứ năm mươi bảy, Chúa Nhật 14/10/2001)
Một nhà thần bí Ấn độ thường nói như sau: Thiên Chúa cười trong hai trường hợp. Ngài cười khi nghe vị y sĩ quả quyết với bà mẹ rằng tôi sẽ chữa lành cho đứa con của bà. Thiên Chúa nói: Ta đinh cất sự sống của đứa bé, thế mà người này lại đảm bảo sẽ chữa lành nó. Thiên Chúa cũng cười khi thấy hai người anh en đang tranh dành đất đai với nhau, phần này là của tôi, phần kia là của anh, nhưng Thiên Chúa bảo: Cả hai phần này đều là của ta, thế mà chúng lại chia chác giành giật với nhau.
Quả thật, Thiên Chúa có lối suy nghĩ và hành động khác với chúng ta. Thực vậy, qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã không làm phù phép hay cử chỉ nào để chữa mười người phong cùi, mà chỉ sai họ đi trình diện với các tư tế. Họ đã làm theo lệnh Ngài và được chữa lành. Nhưng kỳ thực có phải muời người phong cùi đều được lành sạch cả không? Xem chừng như tin ;ưng muốn nói với chúng ta rằng chỉ một người thực sự được chữa lành và người đó chính là người Samaria, kẻ thù không đội trời chung với người Do thái. Chỉ có kẻ ngoại bang này được thực sư chữa lành, bởi vì anh ta không những được chữa lành trong thân xác mà còn được chũa lành trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã nói với anh ta rằng: Đức tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Có đức tin là nhìn nhận rằng Chúa Gisêsu không những là nguồn mạch duy nhất có thể chữa lành bệnh thân xác, mà còn mang lại niềm vui mừng và hy vọng cho tâm hồn. Chính đức tin đã khiến cho người Samaria đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu để cảm tạ Ngài. Anh ta không chỉ thấy minh khỏe mạnh trong thân xác mà còn cảm nhận được sức sống niềm tin bừng dậy trong tâm hôn mình. Và điều đó mới thực sự quan trọng vì mọi phép lạ của Chúa đều nhắm đến tâm linh. Tin mưng vĩ đại nhất Chúa đem đến cho con người trước hết chính là niềm tin. Có niềm tin là có tất cả.
Tuy nhiên giấc mơ thông thường của con người là được giàu sang, quyền năng và mạnh khỏem nhưng Thiên Chúa lại mở ra cho chúng ta một chân trời mới, đó là chân trời của đức tin. Có đức tin là có sức mạnh để đương đầu với mọi thử thách trong cuộc sống, có đức tin là được chữa lành mọithứ phong cùi của ích kỷ, tham lam, thất vọng, thù hận trong tâm hồn. Có đức tin là có đủ sức mạnh để ra khỏi chính mình và không ngừng đến với tha nhân trong tin yêu, vui mừng và hy vọng.
Thái độ vô ơn của chín người phong cùi làm cho chúng ta bực tức và khó chịu, thế nhưng biết đâu đó lại là thái độ của chính mỗi người chúng ta.
Thực vậy, về phương diện thiêng liêng, tất cả chúng ta đều là những kẻ phong cùi, bởi vì Kinh thánh thường diễn tả tội lỗi như một thứ phong cùi làm cho tâm hồn chúng ta bị lở loét, đau đớn, hôi thối, chết dần chết mòn và không còn xứng đáng cho Chúa cư ngụ.
Biết bao nhiêu lần Chúa đã gột rửa, đã thanh tẩy, đã chữa lành cho chúng ta qua bí tích Giải tội. Chúng ta ra về sau khi đã vội vã làm việc đền tội quá nhẹ mà cha giải tội đã chỉ định. Và thế là hết. Có lẽ không bao giờ chúng ta nghĩ tới việc phải cảm tạ Chúa.
Tâm tình biết ơn là một bông hoa tươi xinh, nhưng lại rất họa hiếm. Một khi đã nhận ơn, chúng ta có bổn phận phải biết ơn.
Thiên Chúa là vị ân nhân cao cả nhất bởi vì từng giây từng phút chúng ta lãnh nhận biết bao nhiêu ơn lành của Ngài. Tất cả những cái chúng ta có đều do Ngài thương ban. Nếu Ngài không nâng đỡ và trợ giúp thì chỉ trong nháy mắt, chúng ta sẽ lại trở về với hư vô, với cát bụi.
Thực vậy, về phương diện tự nhiên, nếu không có cơm ăn, nước uống và khí trời để thở, chúng ta sẽ không thể nào kéo dài được sự sống.
Còn về phương diện siêu nhiên, Chúa Giêsu vì yêu thương, đã xuống thế làm người, và chịu chết một cách đau khổ trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài lại còn trở nên của ăn nuôi sống Linh Hồn chúng ta.
Thế nhưng có bao giờ chúng ta nghĩ đến những hồng ân cao cả đó, hay chúng ta cho đó chỉ là những chuyện bình thường và chúng ta có quyền được hưởng dùng ?
Rải rắc trên đường đời, chúng ta cũng đã đón nhận biết bao nhiêu ơn lành khác nữa, nhờ đó chúng ta được soi sáng, được an ủi, được khích lệ. Thế nhưng có bao giờ chúng ta đã nghĩ đến và cảm tạ Chúa ?
Mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách, chúng ta vội vã gửi đến cho Chúa những tín hiệu khẩn cấp SOS. Đó là điều hợp lý vì chúng ta tin tưởng và phó thác trong bàn tay của Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta còn có bổn phận phải cảm tạ Chúa vì tất cả những ơn lành chúng ta đã lãnh nhận trong dĩ vãng. Đó là một hành vi vừa tốt đẹp, vừa tế nhị lại vừa làm cho Chúa được hài lòng.
Trái lại, nếu chúng ta bắt trước chín người phong cùi vô ơn chắc hẳn chúng ta sẽ làm cho Chúa buồn phiền và chúng ta tự mình khép chặt bàn tay thương yêu của Ngài.
Thực vậy, nếu chúng ta biết cảm tạ tình thương của Chúa thì tình thương ấy càng tuôn đổ xuống trên chúng ta. Một ơn lành chúng ta biết cảm tạ thường dẫn đến những ơn lành khác nữa.
Vì thế việc cảm tạ Chúa vừa là một bổn phận, vừa là một việc đem lại lợi ích cho chúng ta, như lời kinh tiền tụng:
- Chúng con cảm tạ Chúa mọi nơi mọi lúc thật là chính đáng, công bình và hữu ích cho phần rỗi chúng con.
Ngoài việc cảm tạ Chúa, chúng ta còn có bổn phận phải cảm tạ tất cả những người đã nâng đỡ chúng ta, đã góp phần xây dựng cuộc đời chúng ta. Thực vậy, cuộc đời của chúng ta đã mang dấu ấn của biết bao nhiêu người, từ ông bà, cha mẹ, thày cô đến những người mà rất có thể chúng ta chưa biết đến, nhưng đã âm thầm nâng đờ và trợ giúp cho chúng ta.
Thế nhưng trong lãnh vực này chúng ta thường sao lãng và nhiều khi lại còn lấy oán đền ân, và hành động theo kiểu ăn cháo đá bát. Sở dĩ như vậy vì tính kiêu ngạo, chúng ta không muốn bị lệ thuộc hay phải mang ơn một ai.
Bởi đó, hãy biết cảm tạ Thiên Chúa và những người chung quanh. Hãy biết lấy ơn đền ơn, nhờ đó cuộc đời chúng ta sẽ là một bài ca vang lên những tiếng tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa.
Một cụ già bị cùi đã tâm sự như sau: khi khám phá ra bẹnh cùi trên thân xác, tôi đã giận dữ nổi loạn với định mệnh. Nhưng ngày nay, chính trong thân xác bệnh hoạn tàn tật này, tôi cảm thấy nhu cầu phải đội ơn Thiên Chúa vì căn bệnh này. Bởi chính nhờ nó mà con đã được biết Chúa. Nếu tôi đã không bị cùi, có lẽ con đã không bao giờ được các thừa sai đem về yêu thương chăm sóc, hướng dẫn và được diễm phúc nhận biết Chúa. Năm nay tôi 70 tuổi, nếu không có Đức Kitô, tôi sẽ giống như biết bao nhiêu người khác, kéo lê chuỗi ngày tàn của mình trong buồn chán, âu lo và sợ hãi cái chết đang gậm nhấm thân thể ngày càng đến gần. Trái lại. Tôi càm thấy vô cùng sung sướng và hạnh phúc khi nghĩ đến giây phút tôi được gặp Chúa. Tâm tình biết ơn của cụ già phong cùi trên đây chính là điểm tới của lòng tin.
Thực vậy, trong xã hội ngày xưa người bị bệnh cùi không những bị đánh đuổi khỏi cộng đoàn, mà còn bị nguyền rủa, bị coi như dấu chỉ của sự chúc dữ. Chúa Giêsu cho thấy từ nay luật lệ duy nhất phải hướng dẫn các mối liên hệ giữa người với người chính là tình yêu và lòng thương xót. Với câu chuyện về 10 người phong cùi, điều thánh Luca muốn nói lên không phải là lòng biết ơn như thái độ sống của người Samaria biết tìm đến vị ân nhân để cám ơn vì được lành bệnh, chobằng như một cử chỉ diễn tả một lòng tin, một niềm vui chúc tụng sự hiện diên hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong đời mình. Trong khi cả 10 người ra đi và được lành bệnh thì chỉ có người ngoại giáo trở lại, vừa đi vừa lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và quì phục dưới chân Chúa để tạ ơn Ngài và Chúa Giêsu đã nói với anh: Hãy đứng dậy, lòng tin của con đã cứu con.
Tất cả 10 người đều được khỏi bệnh phong cùi trên thân xác, những chỉ có một người duy nhất được ơn cứu độ, người đó lại không phải là tín hữu Do thái đã hiểu biết Thiên Chúa và lề luật cùa Ngài, mà là một người ngoại giáo. Như thế, người Samaria ở đây không phải chỉ biểu tượng cho người được ơn cứu độ, mà còn là mẫu gương người tín hữu đích thực, biết dâng lời ca tụng Thiên Chúa qua và với Chúa Giêsu. Nói cách khác, thánh Luca muốn khẳng định rằng Thiên Chúa cống hiến ơn cứu độ cho mọi người, đặc biệt nhưng người nghèo hèn và bị khinh bỉ nhất, thế nhưng không phải cứ mang danh hiệu tín hữu là tự động được ơn cứu độ, mà từ nay chỉ có những ai biết nhận ra sự hiện diện và hoạt đông cứu độ của Thiên Chúa trong đời mình và biết khiêm tốn mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ ấy với tất cả lòng biết ơn và tâm tình chúc tụng, thì mới có lòng tin tinh tuyền và lãnh nhận được ơn cứu rỗi đích thực.
Một em bé viết cho mẹ như sau: Mỗi ngày con quét nhà cho mẹ, nẹ thiếu con năm ngàn, con đi chợ mua hàng cho mẹ, mẹ thiếu con năm ngàn….ký tên: người con luôn vâng lời của mẹ. Đọc xong mẩu giấy, người mẹ trả lời: Mẹ đã cưu mang con trong lòng cực khổ suốt chín tháng, không tính tiền, mẹ săn sóc con mỗi khi con đau, không tính tiền. Tổng cộng: không đồng nào, ký tên: người mẹ luôn yêu con.
Câu chuyện trên đây giúp chúng ta hiểu thêm con người thường có thái độ giống nhau thái độ của em bé kia. Đó là kể công mình mà quên ơn cha mẹ, kể công mình mà quên ơn Thiên Chúa ban cho. Từ đó chúng ta đi vào đoạn tin mừng hôm nay.
Mười người phong cùi là những kẻ khốn cùng nhất, bị kỳ thị, bị thảy qua bên lề, bị kể như là đã chết. Phải sống ngoài cộng đoàn, bị mọi người xa tránh, những Chúa Giêsu thì lại không xa tránh họ. Ngài để họ đến gần và cầu khẩn: Lạy Chúa Giêsu xin thương xót chúng tôi. Chúa nhìn thấy họ, bên ngoài dung mạo xấu xa nhưng bên trong tâm hồn chất chứa điều tốt để lãnh nhận ơn Chúa. Đó là thái độ khiêm tốn hướng về Ngài, hy vọng nơi Ngài: Lạy Chúa Giêsu xin thương xót chúng tôi. Liệu chúng ta có thái độ sống như vậy hay không? Chúng ta có đủ khiêm tốn đến xin Chúa giúp đỡ mình hay không?
Đáp lại lời khẩn cầu của họ, Chúa Giêsu không làm ngay phép lạ, mà Ngài muốn họ có phần cộng tác vào đó. Chúa ra lệnh cho họ đi trình diện với các thày tư tế. Nếu họ không vững tin vào lời hứa của Chúa vàvâng phục ra đi thì sẽ không có phép lạ xảy ra. Chúng ta cũng vậy, cần cộng tác, vâng phục lời Chúa truyền dạy. Chúa Giêsu không quantâm đến phép lạ, mà chỉ quan tâm đến thái độ con người đáp lại dấu lạ Thiên Chúa thựchiện cho họ. Chỉ có một người trở lại, một trong số mười người nhận ra dấu lạ, nhận ra hồng ân của Thiên Chúa nên đã trở lại tôn vinh Ngài và cúi mình dưới chân Ngài để cảm tạ Ngài.
Cúi mình là thái độ trong kinh thánh con người dành cho Thiên Chúa mà thôi. Cúi mình trước Chúa Giêsu, anh nhìn nhận dấu lạ đã hướng dẫn anh đến với Chúa và tin nhận Ngài. Chúng ta cũng hãy để cho dấu lạ trong đời sống hướng dẫn chúng ta đến tin nhận Chúa và cảm tạ Ngài .
Để được như vậy, chúng ta cần phải có một tâm hôn khiêm tốn và dâng lên Chúa lời kêu cầu: Lạy Chúa Giêsu xin thương xót con.
Trong cuốn “Nói với chính mình” Đức cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, con chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi đâu về, con vật cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn là chuyện thường.
Một sự kiện khác cũng khiến chúng ta phải ngạc nhiên không ít: một số người Việt nam từ hải ngoại trở về thăm quê hương đã dưa ra nhận xét như sau: Dầu cố gắng che dấu đến đau cái tông tích việt kiều của họ, họ vẫn bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài hay là phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận ra ho bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai tiếng “cám ơn”. Nếu quả thực hai tiêng cám ơn đã trở thành quí hiếm trên môi miệng người Việt nam hiện nay, thì điều này hẳn phải là một báo động đáng lo ngại. Đó có thể là dấu hiệu của sự khô cạn tình người trong xã hội Việt nam chúng ta.
Thực vậy, khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc tình liên đới cũng trở thành mong manh. Và khi tình người bị chối bỏ, thì tất nhiên niềm tin tôn giáo cũng sẽ chỉ là chuyện thừa thãi mà thôi. Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống con người. Trong số mười người được chữa lành thì chỉ có một người quay lại ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Chúa Giêsu hẳn đã chua xót trước sự vô ơn của con người khi thốt lên: Chớ thì không phải cảmười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này mà thôi.Tỷ lệ quá thấp, chỉ có một phần mười. Và một phần mười ấy theo Chúa Giêsu nhận xét lại là thành phần ngoại bang. Ngoại bang ở đây theo kiểu nói quen thuộc của người Do thái thời bấy giờ cũng có nghĩa là ngoại giáo. Ngoại giáo theo ý tôn giáo nhưng lại rất có đạo theo nghĩa đạo làm người. Mà bởi đạo làm người cũng là thể hiện của đạo Chúa, cho nên người ngoại giáo Samaria này, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, hẳn phải là người có đạo hơn chín người Do thái kia, bởi vì người này đã thưc thi cái nhân đức cao quí nhất của con người là lòng biết ơn.
Con người không thể là người một cách sung mãn mà không cần đến người khác. Nói lên hai tiếng cám ơn là nói lên tình liên đới thâm sâu giữa người với người. Tôi không thể là tôi nếu không có người khác. Tôi cần có người khác để sống hoàn thiện, để được hạnh phúc. Từ cha mẹ tôi, gia đình tôi, nhũng người thân thích cua tôi cho đến cả những kẻ thù của tôi…tất cả đều đã đóng góp vào sự trưởng thành của tôi. Không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng. Cuộc sống là một chuỗi những lãnh nhận, từ sự sống cho đến những thành đạt của chúng ta. Không có gì chúng ta có mà không do lãnh nhận từ người khác. Do đó biết ơn là một đòi hỏi thiết yếu nhất của trái tim con người. Không có lời rủa sả nào thậm tẹ bằng tiếng đồ vô ơn. Hơn nũa lòng biết ơn còn là con đường dẫn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, đấng là cội nguồn mọi ơn huệ.
Người Samaria được chữa lành, đã ngợi khen Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài.Như vậy, lòng biết ơn chình là nẻo đường dẩn anh đến gặp gỡ và tri ân đối với Thiên Chúa. Sống cho ra người, sống cho có tình nghĩa, đó là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Vô thần, xét cho cùng , cũng chỉ là vô ơn. Kẻ chối bỏ Thiên Chúa thì dĩ nhiên cũng chối bỏ người đồng loại của mình.
“Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !" Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế." Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. Đức Giê-su mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?" Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh."
Sự chữa lành mười người cùi bắt đầu chu kỳ những biến cố cuối cùng của đánh dấu những chặng đường chót của Chúa Giê-su trong hành trình hướng về Giê-ru-sa-lem. Lu-ca ghi lại phép lạ này rất thích hợp, vì đặc điểm chính của câu chuyện là lòng biết ơn và phước lành của một người Sa-ma-ri, mà Lu-ca luôn luôn mô tả Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế chẳng phải riêng cho người Do-thái mà cho cả nhân loại.
Tuy nhiên trong phép lạ này còn có một đặc điểm khác, những người cùi này được truyền lệnh đi khai cho các thầy tư tế rằng họ đã khoẻ mạnh trước khi họ được chữa lành. "Đang khi họ đi thì được sạch". Hành động theo đức tin sẽ được tưởng thưởng. Ngài truyền lệnh cho họ hành động như đã nhận được lời cầu xin ấy, rồi cùng với hành động đức tin, lời cầu nguyện được nhận. Mệnh lệnh của Chúa Giê-su bao hàm một lời hứa, và đối với mọi lời hứa của Ngài, chúng ta có thể luôn luôn tin cậy trong an toàn tuyệt đối.
Lúc ấy Chúa Giê-su đang đứng trên bờ cõi xứ Ga-li-lê và Sa-ma-ri, có một tốp người cùi ra đón Ngài. Chúng ta đã biết người Do-thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri, nhưng trong số này có ít nhất là một người Sa-ma-ri. Đây là một dẫn chứng về một qui luật trong cuộc sống. Nỗi bất hạnh chung đã phá đổ những bức rào ngăn cách về chủng tộc, họ đã quên mình là Do-thái hay Sa-ma-ri, và chỉ còn nhớ rằng mình là những con người đang có nhu cầu. Người ta cho biết, khi có một trận lụt tràn ra trên một vùng đất nào, các thú vật phải tụ trên một mô đất cao, thì bạn sẽ thấy chúng đứng chung được với nhau, dầu vốn dĩ chúng từng thù địch nhau, và trong dịp khác, hẳn chúng đã dùng hết để cắn xé nhau đến chết. Chắc chắn một điều có thể kéo mọi người lại gần nhau, ấy là niềm khát khao chung của họ đối với Thiên Chúa. Tốp người cùi đứng đàng xa. Họ phải đứng cách xa bao nhiêu thì luật không nói rõ, nhưng có một thẩm quyền cho biết khi chiều gió thổi xuôi từ người cùi tới người lành thì người cùi phải đứng các xa bốn mươi lăm mét. Điều đó nói lên rõ ràng sự cô lập khủng khiếp mà người cùi phải chịu trong đời sống.
Trong các sách Phúc Âm, không có câu chuyện nào cho thấy rõ lòng vô ân của con người một cách chua chát như câu chuyện này. Những người cùi này đã đến với Chúa Giê-su trong niềm hy vọng cao độ, Chúa Giê-su chữa lành cho tất cả, chín người trong số đó đã không trở lại cám ơn Ngài. Thường là thế, một khi người ta đã nhận được điều mình mong muốn, người ta không bao giờ trở lại.
Con người thường hay quên ơn cha mẹ.
Lúc còn bé nếu chúng ta bị bỏ quên trong một tuần lễ chắc là chúng ta đã chết. Trong các loài sinh vật, chỉ có con người cần thời gian lâu dài hơn cả mới có thể tự lo được các nhu cầu thiết yếu cho đời sống mình. "Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa." Suốt bao năm trời đằng đẵng, chúng ta phải luỵ cha mẹ trong tất cả mọi sự. Nhưng rồi một ngày ta thấy cha mẹ phải trở nên một nỗi phiền hà quấy rầy chúng ta, và có ít người biết nghĩ đến đền đáp công ơn cha mẹ.
Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặt, vừa khả năng của nó, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiền nhiều ít tùy theo công việc nặng nhọc. Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ đau nằm liệt giường. Thế là con nhỏ phải giúp, và cả thay thế mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi những công tác chưa nhận được tiền thưởng gồm: xách nước hai giờ, nấu cơm ba giờ, giặt quần áo năm giờ … tất cả các thứ tính chung trong một tuần là tám mươi giờ. Xong, em rón rén vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay mẹ.
Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em tám mươi giờ kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công dưỡng nuôi, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau bệnh nhân mười năm: chưa có mục nào được thanh toán cả ! Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội vàng chạy vào xin lỗi mẹ.
Chúng ta hay quên ơn đồng loại mình.
Không mấy ai trong chúng ta chưa từng mang ơn lớn đối với một người nào. Ngay lúc đó ít ai nghĩ rằng rồi đây mình sẽ quên ơn, và cũng ít người trong chúng ta đã trả xong nợ tri ân mình đang mắc. Thường là một người bạn một thầy dạy, một người khách qua đường, một bác sĩ làm cho chúng ta một ơn gì đó mà chúng ta không thể báo đáp. Thảm kịch của cuộc đời là người ta không muốn cố gắng để trả ơn nữa !
Vào dịp lễ tạ ơn, cô giáo bảo các em học sinh lớp một vẽ tranh về điều gì chúng mang ơn. Cô thầm nghĩ: chắc sẽ chẳng có gì đặc biệt: lại những con gà quay hay bàn tiệc đầy đồ ăn là cùng, và cô đã sững sờ trước bức tranh của Douglas, một bàn tay !
Nhưng bàn tay của ai đây ? Cả lớp bị lôi cuốn bởi hình ảnh đầy biểu tượng này. Một em nói:
Em nghĩ đó là bàn tay Thiên Chúa đã ban của ăn cho chúng ta.
Đó là bàn tay của bác nông dân vì đã nuôi những con gà, một em khác nói.
Cuối cùng, khi các em đang làm việc, cô giáo cúi xuống bên Douglas và hỏi xem bàn tay đó là của ai thì em khẽ nói: Thưa cô đó là bàn tay của cô !
Cô giáo nhớ lại vào giờ ra chơi, cô thường dùng bàn tay dắt Douglas, đứa trẻ tầm thường khốn khổ. Mặc dù cô vẫn làm điều đó với các đứa khác, nhưng với Douglas, nó lại mang một ý nghĩa rất đặc biệt.
Thường chúng ta hay quên ơn Thiên Chúa.
Trong giờ phút túng cực, chúng ta cầu nguyện thật hăng say thống thiết, túng cực qua rồi chúng ta quên ơn Chúa. Biết bao người trong chúng ta không hề biết cảm tạ Chúa trước bữa ăn nữa, Ngài đã ban cho chúng ta Con Một của Ngài, mà ta lại không bao giờ biết nói lên lời cảm tạ Chúa.
Thi sĩ Lamatine người Pháp có kể lại một giai thoại như sau: một hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ: cứ sau một tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn ! Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa vào phiến đá, ông lại thốt lên hai tiếng "cám ơn".
Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, người thợ đá mới giải thích: "Tôi tạ ơn Chúa ! Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo:
Giả như bác được giàu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng "cám ơn". Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi mật lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao bác lại mỏi miệng cám ơn Ngài ?
Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao ?
Dĩ nhiên - Lamactin bèn thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi !
Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên:
Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao ? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa !
Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông: vừa đập đá vừa cám ơn Chúa !
Lời cảm tạ tốt nhất chúng ta có thể dâng lên Chúa là cố gắng sống xứng đáng với tình thương và lòng nhân từ của Ngài, mỗi ngày hơn lên:
Nhà thần bí nổi tiếng người Ấn Độ là ông Krama Kritsma thường nói như sau: Thiên Chúa cười trong hai dịp: Ngài cười khi nghe một y sĩ quả quyết với bà mẹ rằng: “bà đừng sợ, Tôi sẽ chữa lành cho đứa con của bà”. Thiên Chúa nói: “Ta định cất sự sống của đứa bé này, thế mà người này dám bảo là hắn sẽ cứu chữa được nó”. Thiên Chúa cũng cười khi thấy hai người anh em đang tranh giành đất đai với nhau, họ cãi vã nhau: “Phần đất này là của tôi, phần đất kia là của anh”. Nhưng Thiên Chúa nói: “Cả vũ trụ này là của Ta, vậy mà chúng lại chia chác giành giựt với nhau”. Quả thực, Thiên Chúa có lối suy nghĩ và hành động khác với lối thông thường của con người.
Qua câu chuyện của ông tướng người Syria tên là Naman mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe trong bài đọc thứ nhật hôm nay, Kinh thánh muốn xác quyết chân lý ấy. Lối suy nghĩ và cung cách giải quyết vấn của Naman là lề lối thông thường của con người. Với tư cách là một lãnh tướng, ông nghĩ rằng: vị tiên tri Êlisê sẽ ra chào đón ông, sẽ ra đọc một câu thần chú nào đó và bệnh cùi của ông sẽ biến tức khắc. Thế nhưng, vị tiên tri của Chúa đã không làm theo dự án của Naman, không những tiên tri không ra khỏi nhà để đón tiếp Naman, mà còn ra lệnh cho ông phải đến tắm bảy lần tại sông Jordan là một con sông sơ bẩn gấp mấy lần con sông tại xứ sở của ông. Naman nổi giận vì cách cư xử của vị tiên tri, ông định lên đường ra về nhưng nhờ lời khuyên của người hầu cận, ông đã tuân lệnh vị tiên tri, ông đã đến sông Jordan để tắm bảy lần và được chữa lành bệnh cùi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có một lối hành động giống như cung cách của tiên tri Êlisê. Ngài đã không làm một cử chỉ phù phép nào để chữa lành tức khắc mười người phong cùi mà lại sai họ đi trình diện tư tế trước đã. Họ đã làm theo lệnh của Ngài và tất cả đã được chữa lành. Nhưng kỳ thực có phải tất cả mười người phong cùi đã được chữa lành không ? Xem chừng như Tin Mừng muốn nói với chúng ta rằng: chỉ có một người thực sự được chữa lành, người đó chính là người ngoại bang xứ Samaria, kẻ thù không đội trời chung của người Do Thái. Chỉ có kẻ ngoại bang này được thực sự chữa lành, bởi vì ông ta không chỉ được lành lặn trong thân xác mà còn được chữa lành trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã nói với ông ta: “Đức tin của ông đã cứu chữa ông”.
Có đức tin là nhìn nhận rằng, Chúa Giêsu không những là nguồn mạch duy nhất có thể chữa lành bệnh tật thân xác mà còn mang lại niềm vui, sức sống hy vọng cho tâm hồn. Chính đức tin đã khiến cho người xứ Samria đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu để cảm tạ Ngài, để thờ lạy Ngài. Người Samria này không chỉ thấy mình đã khỏe trong thân xác mà còn nhận được sức sống niềm tin bừng dậy trong tâm hồn và đó mới là điều quan trọng.
Tất cả mọi phép lạ của Chúa Giêsu đều nhắm đến việc phục hồi sức khỏe tâm linh ấy. Dĩ nhiên, Đức Giêsu mang đến cho con người ơn cứu rỗi toàn diện, còn việc được no cơm áo ấm, được khỏe mạnh trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ cần làm một cử chỉ hoặc Ngài chỉ phán một lời thì nhân loại có thể đạt được giấy mơ ấy. Thế nhưng đó không phải là đường lối của Thiên Chúa, ơn cao cả nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, Tin Mừng vĩ đại nhất mà Ngài mang đến cho con người trước hết chính là “niềm tin”. Có niềm tin là làm được tất cả, Chúa Giêsu đã chẳng nói với chúng ta sao: “ Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi, người ta lấy gì mà đổi được linh hồn mình”.
Giấc mơ thông thường của con người là được giàu sang, được quyền bính, được sức khỏe tràn đầy, nhưng Thiên Chúa lại mở ra cho chúng ta một chân trời mới, đó là chân trời của đức tin. Có đức tin là có sức mạnh để đương với mọi thử thách khổ đau của cuộc sống. Có đức tin là được chữa lành mọi thứ bệnh phong cùi của thất vọng, ích kỷ, tham lam. Có đức tin là có đủ sức mạnh để ra khỏi chính mình mà không ngừng đến với tha nhân trong tin yêu, vui sống và hy vọng.
Với cử chỉ của người Samaria trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy chạy đến với Chúa, sấp mình dưới chân Chúa để thờ lạy, cảm tạ tri ân Ngài, vì Ngài đã ban cho chúng ta ơn đức tin, vì Ngài đã đưa chúng ta vào chân trời của sự sống, của niềm tin đích thực, của hy vọng tràn đầy.
Nguyện cho sức sống đích thực mà Ngài trao ban cho chúng ta trong Thánh lễ hôm nay chữa lành tâm hồn bệnh hoạn cùi hủi của chúng ta, và với một tâm hồn tràn ngập hân hoan chúng ta cũng hãy mau mắn ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ của Ngài cho tất cả mọi người.
Sau khi bị thua tan tác trong trận đánh tại Xích bich, Tào Tháo cùng với một số ít tướng sẽ tìm đường thoát thân khỏi sự truy đuổi của quân Ngô và quân Thục. Tưởng thoát nạn, ai ngờ bị phục kích mấy lần khiến Tào Tháo rơi vào một hoàn cảnh thảm thương, dở sống dở chết. Nhưng Tào Tháo vẫn cố kiên trì chạy trốn và khi đã đến một nơi khá an toàn, Tào Tháo dừng chân nghỉ ngơi và cười nhạo Không Minh khờ khạo không biết dụng binh. Đúng lúc đó, Tào Tháo lại bị phục binh cuối cùng do Quan Vân Trường chỉ huy. Tưởng đâu hết đời Tào Tháo, nhưng không ngờ lúc sắp bị bắt thì Quan Vân Trường ra lệnh ngưng chiến, rồi bảo một binh sĩ dắt một con ngựa khỏe tặng Tào Tháo và mở đường sống cho Tào Tháo chạy trốn trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Té ra, lúc trước vì để bảo vệ những người thân của Lưu Bị mà Quan Vân TRường phải đầu Tào thá và được Tào Tháo đãi ngộ rất tử tế nên khi thấy Tào Tháo sa cơ lỡ vận, Quan Công nhớ lại ơn xưa và đã tha chết cho Tào Tháo.
Chính vì thế, mà người đời sau đã ca ngợi Quan Công là trung nghĩa và đã lập miếu tôn ông như một vị thần. Dĩ nhiên, không phải chỉ vì một hành động trả ơn Tào Tháo mà Quan Công được ca tụng, nhưng việc nhớ ơn người đã giúp đỡ mình với tất cả ý thức biết mình biết người rõ ràng phân mih như thế mới chứng tỏ Quan Công là một con người có một đời sống đạo đức chân chính thực sự. Qua đó, ta có thể đưa ra một nhận định rằg: kẻ nào biết cám ơn thì kẻ đó là người biết sống đàng hoàng, tử tế.
Thật vậy, đừng tưởng việc nhớ ơn, biết nói lời cám ơn là một chuyện dễ dàng, không mấy khó khăn. Nếu nghĩ thế vừa lầm to vừa chưa biết cám ơn bao giờ vì qua cách sống của mỗi người và qua thực tế như bài Phúc Ấm hôm nay trình cho chúng ta thấy rằng: phận ơn thì ai cũng muốn, còn nhớ ơn lại rất ít người làm hoặc cho ai cái gì người ta nhớ rất dai, còn khi nhận được cái gì thì lại quên mau chóng. Như thế, chỉ những ai có một tâm hồn đạo đức, một lòng trí trong sáng mới có thể biết ơn ân nhân của mình cách đúng đắn.
Và tất nhiên, kẻ sống vô ơn là một biểu hiện rõ nét nhất của một tâm hồn xấu xa, tội lỗi. Riêng chúng ta không thể sống tầm thường và bại hoại như thế đối với những ai làm ơn cho ta, nhất là với Thiên Chúa, vị ân nhân cao cả, vĩ đại nhất của con người. Hơn nữa, đối với chúng ta, những Kitô hữu được giáo huấn bằn giáo lý chân thật, thì việc cám ơn không còn là chuyện muốn làm hay không muốn mà phải làm vì đó là một bổn phận cần thiết và quan trọng cho con người.
Bởi vì, đã là người, ai mà chẳng nhận lãnh từ bàn tay nhân ái của Chúa ơn này đến nơi khác, ơn phần hồn ơn phần xác, ơn lớn ơn nhỏ suốt cả đời. Có thể nói sống đến hôm nay, cả khi đang mang trọng tội trong mình, chúng ta vẫn luôn thụ hưởng ơn Chúa. Cho nên, nếu ta có cám ơn Ngài hết sức mình, bằng đủ mọi cách, cũng chỉ là một giọt nước trong biển cả mênh mông. Hơn nữa, việc tạ ơn Chúa không thêm vinh quang hay lợi lộc gì cho Ngài vì Ngài là Đấng Toàn Thiện Toàn Mỹ, nhưng đó lại là việc cần thiết và hữu ích vô cùng cho chúng ta vì mỗi lần ta biết cám ơn đàng hoàng là mỗi lần ta được Chúa yêu và ban ơn thêm.
Ngoài ra, nếu việc cám ơn được gọi là đúng nghĩa, nhất là trong lãnh vực thiêng liêng, thì nó không chỉ là một biểu lộ tình cảm biết ơn, trả nghĩa, mà thực chất cốt yếu của nó còn là một nhận thức sâu xa về bản thân mình và về Thiên Chúa. Thật vậy, cứ nhìn cung cách của người phong cùi được lành trở lại cám ơn Chúa và nghe lời Chúa chỉ dạy, chúng ta mới thấy chỉ một mình anh ta nhận ra Chúa là ai và khiêm tốn nhận rõ mình là kẻ yếu đuối, khốn khổ như thế nào nên anh ta mới vội vã đến cám ơn. Như vậy, việc cám ơn là hậu quả của lòng thống hối, ăn năn thật mình, nghĩa là khi con người đã nhận thức được về Chúa quá ư tốt lành và bản thân mình quá ư hèn hạ một cách chân thành thì không thể mà không cám ơn Chúa. Do đó, có thể nói: kẻ nào biết cám ơn thì kẻ đó mới biết cải thiện đời sống nên tốt hơn.
Nhưng thử hỏi phải cám ơn Chúa như thế nào ? Dĩ nhiên, chúng ta không chỉ cám ơn Chúa và người khác bằng môi miệng mà thôi, nhưng còn bằng việc làm và bằng cả đời sống. Nói khác đi, không có gì làm vui lòng ân nhân của mình cho bằng biết sử dụng ơn nghĩa nhận được một cách thật hữu ích và cố gắng sống xứng đáng với hồng ân đó. Còn đối với chúng ta, có một cách cám ơn Chúa tốt nhấtlà tham dự Thánh lễ vì Thánh lễ la một sự tạ ơn Chúa có giá trị nhất. Thêm vào đó, việc lành như hy sinh, hãm mình, bố thí…cũng là một phương thế tạ ơn được Chúa ưa thích.
Tóm lại, lòng biết ơn không chỉ là một việc làm xã giao, lịch sự, biết điều, mà còn là một hồng ân cứu rỗi, một bổn phận cần thiết. Bởi vì, khi biết cám ơn và tôn vinh Chúa là ta dâng lại tình yêu chân thật mà ta đã được lãnh nhận và yêu Chúa nồng nàn hơn. Còn ai chỉ đòi, chỉ biết nhận, nhưng vì ích kỷ giữ lại cho mình thì không sinh lợi gì thêm cho họ mà nhiều khi còn khốn khổ hơn.
Nếu nhìn lại đời sống đạo của người Do Thái, chúng ta sẽ thấy đời sống ấy được đan kết bằng những lời nguyện chúc tụng Thiên Chúa.
- Khi thức giấc người theo đạo Do Thái đọc: Lạy Thiên Chúa, chúc tụng Ngài là chúa tể càn khôn, vì Ngài đã hoàn lại linh hồn cho thân xác này.
- Khi rửa mặt họ đọc: Lạy Thiên Chúa, chúc tụng Ngài là Chúa tể càn khôn,vì Ngài đã thánh hóa chúng con bằng lể luật của Ngài.
- Khi mặc quần áo họ đọc: Lạy Thiên Chúa, chúc tụng Ngài là Chúa tể càn khôn, vì Ngài đã ban cho những kẻ trần truồng được quần áo mặc v.v…
Và tất nhiên lời kinh chúc tụng ấy đã hàm chứa những tâm tình tạ ơn rồi. Họ tạ ơn vì tất cả những gì mình có, vì tất cả những gì họ nhận được.
Nhắc lại nét đặc trong đời sống đạo và kinh nguyện của Do Thái giáo như thể để ta có thể nhận ra mình thuộc nhó 9 người đã được chữa lành và bỏ đi luôn không trở lại tạ ơn Chúa. Bởi vì chỉ trong một ngày sống thôi, chúng ta đã nhận lãnh biết bao ơn huệ của Thiên Chúa rồi, nhưng thử hỏi được bao nhiêu lần chúng ta đã thưa lên lời cám ơn Người ? Và giả như chúng ta có đọc kinh ầu nguyện thì hầu như cũng lại chỉ xoay quanh việc xin xỏ những ân huệ vật chất chứ mấy khi tạ ơn.
Thật vậy, mọi sự trong cuộc sống này đều là hồng ân của Thiên Chúa:
- Không khí chúng ta hít thở, chúng ta không tạo nên, nhưng có sẵn đó như một quà tặng.
- Bản thân chúng ta với những khả năng tiềm tàng trong đó, chúng ta cũng không thể tự tạo nên, nhưng ta đón nhận như những ân ban.
- Ngay cả đến những khổ đau trong đời thì với con mắt của những người tin, đó cũng là những ân huệ. Bởi nhiều khi trong đau khổ có hàm chứa những điều hữu ích cho ta…
Do đó, khi nhìn mình với những kinh nguyện đọc lên ta mới thấy mình vô ơn. Vô ơn hơn cả những người ngoại giáo đã được nói tới trong các bài đọc Lời Chúa của Thánh lễ hôm nay. Chúa Giêsu phiền trách sự vô ơn của những người đã được chữa lành. Sự phiền lòng của Người phải là một nhắc nhở để mỗi người chúng ta ý thức hơn. Ý thức rằng từng giâh phút ta được đón nhận những quà tặng của Thiên Chúa. Ý thức rằng từng giây phút ta sống trong tình thường của Người…
Ý thức như vậy để ta luôn biết dâng lên Người những lời tạ ơn. Tạ ơn Kitô hữu vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như khi thất bại, khi may mắn cũng như hi rủi ro. Chính khi biết tạ ơn như thế, chúng ta mới cht tiếp tục để lãnh nhận thêm những hồng ân của Thiên Chúa, Cha chúng ta.
Trong bất cứ nền văn hóa nào, dù Đông hay Tây Phương, dù văn minh hay mọi rợ, thì lòng biết ơn và lời cám ơn là nét đẹp văn hóa vô cùng quan trọng. Biết ơn và cám ơn không chỉ ở lãnh vực và cấp độ cá nhân, mà cả ở lãnh vực và cấp độ quốc gia. Lễ Tế Đàn Nam Giao của các Vua triều Nguyễn là nét đẹp của văn hóa Việt Nam: Ngày đầu năm nhà Vua dâng lễ vật và lời tạ ơn lên Trời Đất, thay cho bá quan văn võ và thần dân. Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) cuôi tháng 11, là nét đẹp của văn hóa Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Lễ này đã có từ thời những người Anh đến lập nghiệp trên mảnh đất mênh mông và trù phú này.
Với các Ki-tô hữu, dù thuộc dân tộc và nền văn hóa nào, thì lòng biết ơn và lời cám ơn còn mang một chiều kích tôn giáo và tâm linh, vừa linh thiêng vừa nhân bản sâu sắc. Thánh Lễ Mi-sa được gọi là Lễ Tạ Ơn. Vì chưng, có ơn nào cao trọng cho bằng Ơn Cứu Độ mà Chúa Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa làm nguời, đã đem đến cho nhân loại bằng cuộc Thưong Khó và cái chết thập giá của Người. Chúng ta hãy học bài học của tướng Na-a-man (bài đọc 1), của Thánh Phao-lô (bài đọc 2), và của người bệnh phong Sa-ma-ri (bài Phúc Âm) được chữa lành, mà sống và thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với Thiên Chúa và Chúa Giê-su Ki-tô.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Lời Chúa trong Sách Các Vua (2 V 5,14-17): 14 Vậy ông Na-a-man xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
15 Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước mặt ông Ê-li-sa và nói: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của tôi tớ ngài đây." 16 Ông Ê-li-sa nói: "Có ĐỨC CHÚA hằng sống là Đấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả." Ông Na-a-man nài ép ông nhận, nhưng ông vẫn từ chối. 17 Ông Na-a-man nói: "Nếu ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài ĐỨC CHÚA.
(2) Bài đọc 2: Lời Chúa trong thư 2 của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi ông Ti-mô-thê (2 Tm 2,8-13): 8 Anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sống lại từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng dõi Đa-vít, 9 Vì Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích! 10 Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời.
11 Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. 12 Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. 13 Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.
(3) Bài Tin Mừng: Lời Chúa trong Sách Tin Mừng theo Thánh Lu-ca (Lc 17,11-19: 11 Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng: "Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi!" 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế." Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? 18 Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này? ".19 Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh."
19 "Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông"
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 ((2 V 5,14-17) là câu truyện ông Na-a-man, một vị tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram (Xy-ri), được chữa lành khỏi bệnh phong nhờ tắm sông Gio-đan bẩy lần theo lời khuyên của ngôn sứ Ê-li-sa. Để tỏ lòng biết ơn, ông Na-a-man đã trở lại gặp vị ngôn sứ, long trọng tuyên bố rằng “trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en”. Ông Na-a-man còn xin tặng quà cho ông Ê-li-sa. Vì vị ngôn sứ nhất định không nhận, nên ông xin được lấy một ít đất mang về quê hương để luôn nhớ đến ơn chữa lành của Thiên Chúa Ít-ra-en.
Qua đoạn của Sách Các Vua (5,14-17) này, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng đã dùng nước sông Gio-đan mà chữa lành ông Na-a-man khỏi bệnh phong. Bệnh phong là bệnh ngoài da nhưng có căn nguyên, gốc rễ từ bên trong thân thể con người. Bệnh phong là một bệnh gớm ghiếc trước mắt mọi người, nhất là ở thời xưa. Thiên Chúa chữa lành tướng Na-a-man khỏi bệnh phong là giải thoát ông chẳng những khỏi bệnh mà còn khỏi mặc cảm và xấu xổ với mọi người.
(2) Bài đọc 2 (2 Tm 2,8-13) là những lời giảng dậy hay đúng hơn là lời tâm sự hay chia sẻ thân tình của Thánh Phao-lô với người cộng sự thân yêu là ông Ti-mô-thê. Tuy chỉ là đôi lời ngắn ngủi nhưng lại mang một nội dung sâu sắc và cốt yếu của Ki-tô giáo: Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chêt. Người gắn bó và liên kết chặt chẽ với những ai tin vào Người, đến độ vẫn trung tín với ta ngay cả khi ta không trung tín với Người. Vì khám phá ra Chúa Giê-su là Đấng như thế nên Thánh Phao-lô sẵn sàng, “chịu khổ” và “phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi” vì Tin Mừng của Chúa Giê-su.
Trong đoạn thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê (2,8-13) chúng ta thấy Chúa Giê-su, - Thiên Chúa làm người - là Đấng thật tuyệt vời như Thánh Phao-lô đã quảng diễn trong câu này: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.”
(3) Bài Tin Mừng (Lc 17,11-19) là câu truyện Chúa Giêsu chữa lành 10 người bị bệnh phong mà chỉ có một người trở lại cám ơn Chúa. Câu truyện xẩy ra trong vùng biên giới giữa Sa-ma-ri và Ga-li-lê. Ga-li-lê là đất dân nội (có đạo); còn Sa-ma-ri là đất dân ngoại (không có đạo, đối với con mắt của người Do Thái thời Chúa Giê-su). 9 người có đạo được ơn chữa lành lại đi luôn. 1 người ngoại đạo được ơn chữa lành biết quay trở lại để cám ơn Chúa Giê-su là người cứu mạng sống anh. Mạng sống hiểu theo hai nghĩa: khỏi bệnh phần xác, được hội nhập cộng đồng.
Qua đoạn Phúc âm Lc 17,11-19 này chúng ta khám phá ra Thiên Chúa và Chúa Giê-su, Thiên Chúa làm người, là Đấng ban ơn cho hết mọi người: cho người ở trong cũng như kẻ ở ngoài, (tức cho người giáo cũng như kẻ lương), cho người biết ơn cũng như người quên ơn, cho người lành cũng như kẻ dữ, cho kẻ trung tín cũng như kẻ bất trung….
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai khía cạnh, một ở phía Thiên Chúa, một ở phía chúng ta:
* Phía Thiên Chúa: Thiên Chúa và Chúa Giê-su, Thiên Chúa làm người, là Đấng ban ơn cho hết mọi người: cho người ở trong cũng như kẻ ở ngoài, (tức cho người giáo cũng như kẻ lương), cho người biết ơn cũng như người quên ơn, cho người lành cũng như kẻ dữ, cho kẻ trung tín cũng như kẻ bất trung….
* Phía chúng ta: Thiên Chúa làm ơn không phải để được đền ơn. Nhưng người chịu ơn phải biết thể hiện lòng biết ơn. Cách tốt nhất và đầy đủ nhất để thể hiện lòng biết ơn là nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất (như tướng Na-a-man), Chúa Giê-su la Chúa (như người phong Sa-ma-ri) và dấn thân loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa (như Thánh Phao-lô).
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Suy nghĩ một chút, tôi thấy để thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay, tôi phải làm 2 việc sau đây:
3.1 Nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa duy nhất, Chúa Giê-su là Chúa, của toàn thể nhân loại và của riêng tôi; là Đấng ban ơn cho hết mọi người; là Đấng đã ban cho tôi tất cả (sự hiện hữu, xác, hồn. sức khỏe, khả năng, của cải, thời gian, cơ hội, hoàn cảnh sống và phục vụ).
3.2 Thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa bằng tâm tình biết ơn và lời ca tạ ơn; bằng cống hiến cho công cuộc loan báo Tin Mừng và phục vụ tha nhân theo phương châm là chính lời của Chúa Giê-su “Được nhưng không, hãy cho đi nhưng không!”
IV. CẦU NGUYỆN (Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ)
4.1 Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hội Thánh, nhất là cho các vị lãnh đạo là Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI, các Giám Mục, các Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, luôn biết nhớ ơn và thể hiện lòng biết ơn, đối với Thiên Chúa là Đấng đã ban muôn hồng ân cho Hội Thánh và cho mỗi người, trong bậc sống và trách nhiệm của mình.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
D.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 Chúng ta hãy cầu nguyện cho dân tộc và đất nước chúng ta đã được Thiên Chúa ban cho không biết bao nhiêu là hồng ân. Xin cho hết mọi người, từ chính quyền cho đến người dân, biết tận dụng những ơn huệ mà Chúa ban, để xây dựng yêu thương và hạnh phúc cho mọi người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
D.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo xứ và cho chính chúng ta đã được Thiên Chúa che chở, chúc phúc và chữa lành. Xin cho giáo xứ và mọi người chúng ta biết đáp lại Tình Thương của Chúa mà sống hòa thuận, thương yêu nhau.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
D.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.4 Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những người đang mắc bất cứ một thứ bệnh tật nào, trên thân thể và trong tâm hồn. Xin Chúa thương chữa lành và giải thoát những người ấy khỏi bệnh phần hồn, phần xác để họ thêm tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Chúa!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. D.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội. Seattle ngày 02 tháng 10 năm 2007
Con người thường hay quên ơn. Trước hết là đối với cha mẹ lúc còn bé nếu chúng ta bị bỏ quên trong một tuần lễ chắc là chúng ta đã chết. Trong các loài sinh vật, chỉ có con người cần thời gian lâu dài hơn cả mới có thể tự lo được các nhu cầu thiết yếu cho đời sống mình. “Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”. Suốt bao năm trời đằng đẵng, chúng ta phải luy cha mẹ trong tất cả mọi sự. Nhưng rồi một ngày ta thấy cha mẹ phải trở nên một nỗi phiền hà quấy rầy chúng ta, và có ít người biết nghĩ đến đền đáp công ơn cha mẹ. Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặn, vừa khả năng của nó, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiến nhiều ít tùy theo công việc nặng nhọc. Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ đau nằm liệt giường. Thế là con nhỏ phải giúp, và cả thay thế mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi những công tác chưa nhận được tiền thưởng gồm: xách nước hai giờ, nấu cơm ba giờ, giặt quần áo năm giờ …tất cả các thứ tính chung trong một tuần là tám mươi giờ. Xong, em rón rén vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay mẹ. Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em tám mươi giờ kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công dưỡng nuôi, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau bệnh nhân mười năm: chưa có mục nào được thanh toán cả ! Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội vàng chạy vào xin lỗi mẹ.
Tiếp đến là đối với đồng loại. Không mấy ai trong chúng ta chưa từng mang ơn lớn đối với một người nào. Ngay lúc đó ít ai nghĩ rằng rồi đây mình sẽ quên ơn, và cũng ít người trong chúng ta đã trả xong nợ tri ân mình đang mắc. Thường là một người bạn một thầy dạy, một người khách qua đường, một bác sĩ làm cho chúng ta một ơn gì đó mà chúng ta không thể báo đáp. Thảm kịch của cuộc đời là người ta không muốn cố gắng để trả ơn nữa ! Vào dịp lễ tạ ơn, cô giáo bảo các em học sinh lớp một vẽ tranh về điều gì chúng mang ơn. Cô thầm nghĩ: chắc sẽ chẳng có gì đặc biệt: lại những con gà hay bàn tiệc đầy đồ ăn là cùng, và cô đã sững sờ trước bức tranh của Douglas, một bàn tay! nhưng bàn tay của ai đây ? Cả lớp bị lôi cuốn bởi hình ảnh đầy biểu tưởng này. Một em nói: Em nghĩ đó là bàn tay Thiên Chúa đã ban của ăn cho chúng ta. Đó là bàn tay của bác nông dân vì đã nuôi những con gà, một em khác nói. Cuối cùng, khi các em đang làm việc, cô giáo cúi xuống bên Douglas và hỏi xem bàn tay đó là của ai thì em khẽ nói: Thưa cô đó là bàn tay của cô ! Cô giáo nhớ lại vào giờ ra chơi, cô thường dùng bàn tay dắt Douglas, đứa trẻ tầm thường khốn khổ. Mặc dù cô vẫn làm điều đó với các đứa khác, nhưng với Douglas, nó lại mang một ý nghĩa rất đặc biệt.
Sau cùng là đối với Thiên Chúa. Trong giờ phút túng cực, chúng ta cầu nguyện thật hăng say thống thiết, túng cực qua rồi chúng ta quên ơn Chúa. Biết bao người trong chúng ta không hề biết cảm tạ Chúa trước bữa ăn nữa, Ngài đã ban cho chúng ta Con Một của ngài, mà ta lại không bao giờ biết nói lên lời cảm tạ Chúa. Thi sĩ Lamatine người Pháp có kể lại một giai thoại như sau: một hôm ông tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ: cứ sau một tiếng búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn ! Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa và phiến đá, ông lại thốt lên hia tiếng “cám ơn”. Thi sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, người thợ đá mới giải thích: “Tôi tạ ơn Chúa ! Ngạc nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo: Giả như bác được giàu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng “cám ơn”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi mật lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao bác lại mỏi miệng cám ơn Ngài ? Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao ? Dĩ nhiên Lamactin bèn thách thức Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi ! Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên: Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi, vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao ? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa ! Nói xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông: vừa đập đa vừa cám ơn Chúa ! Lời cảm tạ tốt nhất chúng ta có thể dâng lên Chúa là cố gắng sống xứng đáng với tình thương và lòng nhân từ của Ngài, mỗi ngày hơn lên:
Người xưa rất quí trọng luân thường đạo lý. Ai hành xử đúng theo luân thường đạo lý liền được người đời khen ngợi, ai làm trái với đạo lý sẽ bị miệng đời chê trách. Trong đạo lý, lòng biết ơn được xem là đức tính căn bản của con người. Kẻ có lòng biết ơn dù ở địa vị thấp hèn cũng được quí trọng. Trái lại, người vong ân bội nghĩa dù ở địa vị cao sang vẫn bị người đời khinh chê. Để nhắc nhở nhau sống biết ơn, ca dao Việt Nam dạy:
Ai mà phụnghĩa quên ơn,
Dù đeo răm cánh hoa hồng chẳng thơm.
Tại sao phụ nghĩa quên ơn, thì dù đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm ? Hoa hồng đẹp và quí ở hương và sắc. Nhưng hương hoa hồng làm sao sánh ví được với danh thơm tiếng tốt của con người. Hương sắc hoa thuộc vật chất, chỉ đẹp nhất thời, còn danh thơm tiết tốt thì lưu lại muôn thuở. Điều này có nghĩa là kẻ vong ân bội nghĩa dầu được vinh sang tột bậc thì cũng chỉ là cái nhất thời. Trái lại, người biết ơn, tuy phải sống nghèo vẫn được người đời yêu quí, danh thơm tiếng tốt của họ vẫn mãi mãi tồn tại.
Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu đưa ra hai hạng người: hạng người biết ơn và hạng người vô ơn. Mười người phong cùi đến xin Chúa Giêsu cứu chữa khỏi bệnh. Động lòng trắc ẩn, Ngài chữa cả 10 người được khỏi bệnh. Tuy nhiên, chỉ có một người ngoại giáo trở lại cám ơn Chúa. Còn 9 người có đạo kia không trở lại cám ơn Người.
Tại sao 9 người có đạo ấy không có tâm tình biết ơn ? Có thể vì họ không có thói quen biết ơn. Có thể họ thiếu một nếp sốmg nhân bản. Có thể họ thiếu một nền giáo dục sơ đẳng… Tất cả những lý do trên có lẽ đều đúng, và càng đúng hơn khi biết họ có đạo Chúa mà thiếu đạo làm người, họ được ơn Chúa mà sớm quên ơn.
Hiện nay, nền đạo đức xã hội đang suy giảm. Báo chí, truyền thanh, truyền hình báo động những tội phạm ngày càng gia tăng. Lễ phép và lòng biết ơn không còn được tôn trọng như xưa. Việc chấn hưng nền đạo đức là bổn phận của mọi người. Hãy chấn hưng từ nơi bản thân và gia đình trước. Người xưa bảo: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Muốn được con cái nhớ ơn chúng ta hãy diễn tả lòng biết ơn ông bà, cha mẹ qua việc làm cụ thể. Chúng ta chê 9 người vô ơn trong phúc âm hôm nay, nhưng biết đâu, chính chúng ta lại là những kẻ vô ơn đối với Chúa và đối với anh em.
Trong các kinh “nhà đạo” có một kinh rất dễ thương, và rất năng được đọc, đó là kinh cám ơn. Mỗi khi đọc kinh ấy, lòng chúng ta hãy hướng về Chúa để cảm tạ Chúa vì mọi ơn lành hồn xác Chúa hằng thương ban cho chúng ta. Và hãy xin Chúa trả công bội hậu cho những kẻ đã làm ơn cho mình.
John Hughes là một tài xế Taxi tại Nữu Ước. Một sáng nọ, trong khi lau chùi xe, ông bắt gặp một chiếc nhẫn bằng ngọc bảo trên xe. Ông cố nhớ xem chiếc nhẫn này là của người hành khách nào. Cuối cùng, ông nhớ đến một người phụ nữ mang theo rất nhiều tiền. Sau hai ngày tìm kiếm, ông gặp lại người phụ nữ và hồi hộp trả lại chiếc nhẫn cho bà ta. Chẳng những không thưởng, mà bà ta cũng chẳng nói một lời cám ơn. Sau đó, ông John Hughes nói: “Tôi rất mừng vì dù sao cũng đã gặp được bà ta. Đó là việc tôi phải làm”.
Tin mừng hôm nay kể lại việc mười người phong cùi được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng chỉ có một người trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà người đó lại là người Samaria, tức là người ngoại giáo.
Sở dĩ, chín người Do thái được chữa lành không trở lại tôn vinh Thiên Chúa, có lẽ vìhọ quá chú trọng đến việc thi hành lề luật là đi trình diện tư tế, để được công nhận đã khỏi bệnh và được hòa nhập vào cộng đoàn trở lại. Cũng có thể vì quá vui mừng tìm đến gia đình bạn hữu mà quên Đấng đã cứu mình. Nhưng dù lý do nào đi nữa, thì sự thật vẫn là những người được ơn đã quên mất Đấng là mọi nguồn ơn lành.
Ngày nay, biết bao lần chúng ta cũng lãnh nhận ơn Chúa, nhưng nhiều khi vì quá chú trọng đến các nghi lễ, các bí tích, mà quên Đấng là nguồn ơn phúc và dâng lời cảm tạ Ngài. Và nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ nhận thấy rằng tất cả những gì chúng ta có về mặt tự nhiên cũng như siêu nhiên, đều đã lãnh nhận từ Thiên Chúa và qua người khác. Dó đó, thái độ đúng đắn của chúng ta là phải biết ơn Chúa, đồn thời noi gương Chúa thi ân cho người khác, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh.
Xin Chúa tha thứ cho thái độ vô tâm biết ơn của chúng ta. Xin cho chúng ta từ nay biết sống trong tâm tình cảm tạ và quảng đại liên đới chia sẻ với những anh em thiếu thốn.
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao đổng khổ sai bên Ai cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Để đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu lễ. Đó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày người Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dầu dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu trưng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người ; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bảng kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Đó cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu, Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa là giảng phóng con người, mà trở thành gánh nặng đẻ bẹp con người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa ; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái trong Tin mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samaria không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samaria không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samaria vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ những người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Đền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn đối với Đấng đã thi ân cho mình ; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh ? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi ? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần ? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó ? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mặc khải là Thiên Chúa Tình yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta mà không dựa vào công đức chúng ta, Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Đó là thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
1. Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng này: biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì “dừng lại đàng xa” và kêu xin.
2. Khi của Chúa Giêsu bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế”, Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài:
- Thử thách đức tin: vì Ngài không chữa bệnh ngay
- Mời gọi đức tin: nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.
3. 9 người cùi do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
B. ... nẩy mầm.
1. Cám ơn là gì ? Điểm đáng chú ý là Thánh Luca không ghi lại lời cám ơn của Người Samari cho nên chúng ta không biết anh ta đã nói gì. Nhưng Thánh Luca ghi khá tỉ mỉ thái độ của anh ta: anh “thấy mình được khỏi, liền quay trở lại, lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài”. Thực ra nói cám ơn Chúa thì chúng ta đã nói nhiều. Nhưng lòng biết ơn thực còn xuất phát từ sự nhận thấy tình thương Chúa, thức đẩy ta quay trở lại với Chúa, thôi thúc ta tôn vinh Chúa và sấp mình thờ lạy Chúa nữa.
2. Hai tiếng “Cám ơn” giúp ích rất nhiều chẳng những cho ta mà còn cho người được nghe nó nữa:
- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sẵn sàng giúp ta nữa.
- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.
Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn học trò, chủ cám ơn tớ...
Nhưng tại sao người ta thường cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn “người nhà” ? (Frank Mihalic).
3. Tâm lý chung:
- Ta quen nghĩ đến mình và quên nghĩ tới người, nhất là trong những lúc quá mừng, quá lo (những ngày đại tiệc, dễ quên cám ơn những người phục vụ bếp núc đã vất vả cho buổi lễ của ta).
- Ta dễ vụ lợi, ích kỷ, vô ơn: ‘Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất’, ‘Vòng chưa thoát khỏi đã cong đuôi’.
4. Người Á đông chúng ta có thói quen trọng sự biết ơn: Biết ơn ông bà tổ tiên, Đạo ông bà… Nhưng cũng nên đề phòng thái độ biết ơn chỉ ngừng lại ở phạm vi công bằng, biết điều, ‘Ơn đền; oán trả’, và đi đến chỗ phải mau lo đền ơn để rũ nợ cho sớm.
5. Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt. Thấy một cụ già lên xe, cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống, không nói tiếng nào. Cậu bé hỏi:
- Thưa ông, ông vừa nói gì thế ?
- Tôi có nói gì đâu.
- Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ. (Quote)
6. Các tâm tình tạ ơn gương mẫu: - Magnificat - Benedictus - Nunc dimmittis - Thánh Lễ (Eucharistie).
7. “Một người trong bọn thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 17,15)
Chúa cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công Chúa cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh Chúa cho con đôi môi, con hẻ mở nụ cười Chúa cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút Chúa cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường Chúa cho con khối óc, phân biệt điều thực hư…
Những điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.
Mà đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để cám ơn Chúa.
Chắc đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một điều nữa là cho chúng con luôn biết nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng cảm tạ tri ân. Amen. (Hosanna)
- Bài đọc I: Lòng biết ơn của tướng Naaman người xứ Aram sau khi được khỏi bệnh cùi. - Đáp ca: Ca tụng những ơn lành Thiên Chúa đã ban. - Tin Mừng: Lòng biết ơn của một người cùi đối với Chúa Giêsu.
Minh họa
- Mille images 110 D - Người cùi xứ Samaria trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa (Lc 17,15)
"Thánh lễ" còn được gọi bằng một tên khác đúng với ý nghĩa hơn, đó là "Lễ Tạ Ơn". Mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài đã ban cho chúng ta, đặc biệt các ơn Ngài ban qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.
Vậy giờ đây chúng ta hãy nhớ lại những ơn lành của Chúa để cảm tạ Ngài.
Nhưng trước hết, chúng ta cũng ý thức rằng rất nhiều lần mình đã vô ơn với Chúa, và thành tâm xin Ngài tha thứ cho chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
- Rất nhiều khi chúng ta nhận lãnh ơn Chúa ban, nhưng không biết tạ ơn Ngài.
- Nhiều lần chúng ta tham dự Lễ Tạ Ơn, nhưng trong lòng không chút tâm tình tạ ơn nào cả.
- Những thánh giá trong cuộc đời cũng là những ơn lành Chúa ban. Nhưng chẳng những chúng ta không vui lòng đón nhận, mà còn tìm cách trốn tránh.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (2 V 5,14-17)
Chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho tướng Naaman người xứ Aram:
- Được biết bên xứ Israel có ngôn sứ Êlisa đã từng chữa trị nhiều người khỏi bệnh, vua xứ Aram viết thư giới thiệu và đưa cho tướng Naaman đang mắc bệnh cùi đến cho Êlisê cứu chữa.
- Êlisê bảo Naaman xuống tắm 7 lần trong sông Giođan. Ban đầu Naaman không chịu. Nhưng do một người hầu gái thuyết phục nên sau đó Naaman làm theo. Và ông đã được khỏi bệnh cùi.
- Naaman trở lại tạ ơn ngôn sứ Êlisê và tuyên dương quyền phép của Thiên Chúa.
2. Đáp ca (Tv 97)
Ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa: "Hát lên mừng Chúa một bài ca mới vì Người đã thực hiện bao kỳ công"
3. Tin Mừng (Lc 17,11-19)
a. Thái độ của 10 người cùi trong đoạn Tin Mừng này: biết phận mình nên khi thấy Chúa Giêsu thì "dừng lại đàng xa" và kêu xin.
b. Khi của Chúa Giêsu bảo họ "Hãy đi trình diện với các tư tế", Chúa Giêsu vừa thử đức tin của họ vừa mời họ tin tuyệt đối vào Ngài:
- Thử thách đức tin: vì Ngài không chữa bệnh ngay - Mời gọi đức tin: nếu họ đi là chứng tỏ họ tin Ngài chữa họ.
c. 9 người cùi do thái không trở lại tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Một người cùi xứ Samari trở lại tạ ơn vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được ơn, thế mà lại được.
4. Bài đọc II (2 Tm 2,8-13)
Mặc dù đang chịu cảnh khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng Phaolô vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng sống với Ngài.
IV. Gợi ý giảng
1. Suy nghĩ về lòng biết ơn
a. Chi tiết đánh động nhất trong bài Tin Mừng này là trong số 10 người cùi đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, chỉ có một người biết quay lại tạ ơn Ngài, mà người này lại là một người Samaria ngoại đạo. Tại sao thế ?
Thưa vì tâm lý thông thường của những kẻ "ở trong nhà" là nghĩ rằng mọi điều tốt mà người nhà làm cho mình là đương nhiên. Còn những "kẻ ở ngoài" thì nghĩ rằng mình chẳng có lý do nào để được những điều ấy, cho nên khi nhận được thì rất biết ơn. Câu chuyện của bài đọc I minh chứng điều đó: Tướng Naaman không phải là người do thái mà là một người Aram. Bởi đó khi ông được Thiên Chúa của Israel và ngôn sứ Êlisê chữa cho khỏi cùi thì ông vô cùng biết ơn. Ông mang nhiều lễ vật đến tạ ơn Êlisê, và ông lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
b. Chúng ta muốn người chịu ơn ta phải tỏ lòng biết ơn ta, thế nhưng khi chịu ơn người khác chúng ta lại ít tỏ lòng biết ơn. Điều này bộc lộ khuynh hướng ích kỷ của chúng ta: chúng ta làm ơn là để được biết ơn. Nói cách khác, chúng ta làm vì mình chứ không vì người khác.
Chúa Giêsu thì ngược lại: Ngài muốn chúng ta tỏ lòng biết ơn Ngài không phải vì Ngài mà vì ích lợi của chính chúng ta. "Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa ?" Khi nói thế, Chúa Giêsu không nghĩ cho bản thân Ngài mà nghĩ cho những người cùi: Ngài muốn họ có tâm tình tốt đối với Thiên Chúa, từ đó sẽ có một liên hệ tốt với Thiên Chúa, và liên hệ tốt này lại phát sinh nhiều ơn lành khác nữa.
c. Biết ơn Thiên Chúa là một điều rất tốt, không phải tốt cho Thiên Chúa, mà tốt cho chính chúng ta: do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ ý thức hơn về tình thương của Thiên Chúa ; do bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về thân phận nghèo nàn của mình ; hai ý thức ấy sẽ giúp chúng ta gắn bó với Chúa và nương tựa vào Ngài nhiều hơn.
d. Kẻ nào không biết cám ơn trong những việc nhỏ thì cũng không biết cám ơn trong những việc lớn. Vì thế ta cần phải tập cám ơn trong từng việc nhỏ.
e. Cám ơn Chúa vì những điều vừa ý mình thì rất dễ, nhưng cám ơn Chúa vì những điều trái ý mình mới khó. Vì thế ta cần phải tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho mình: chuyện vui cũng như chuyện buồn, thành công cũng như thất bại, sức khoẻ cũng như bệnh tật. Sự biết ơn về tất cả mọi điều xảy đến cho mình như thế còn phát sinh một ích lợi nữa là khiến ta biết nhìn đời mình một cách toàn diện, thấy cả hiện tại và quá khứ, từ đó ta sẽ nhận ra rằng đời mình được dẫn dắt bởi bàn tay yêu thương kỷ diệu của Chúa như thế nào. Thực vậy, khi nhìn lại quá khứ, ta sẽ thấy rằng những điều làm ta thích và những điều làm ta khổ không tách rời nhau, nhưng liên kết với nhau, đan xen nhau và đều góp phần dẫn ta đến cái hiện tại tốt đẹp ngày nay, từ đó ta có thể nói như Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng "Tất cả đều là hồng ân".
2. Suy nghĩ về 9 người cùi vô ơn
Chín người cùi do thái không cảm thấy tâm tình biết ơn có lẽ vì trước đó họ chỉ thấy tình trạng khốn khổ của họ chỉ là ngoài da, và sau đó họ cũng coi tình trạng được khỏi của họ chỉ là ngoài da. Nói cách khác họ chẳng thấy gì khác ngoài một chứng bệnh da liễu: Họ bị da liễu, Chúa Giêsu chữa họ khỏi da liễu, thế là xong. Họ trở về với nếp sống cũ, với những thói quen cũ, những tật xấu cũ, những suy nghĩ cũ… Chẳng có gì thay đổi trừ ra một làn da hết bệnh.
Còn người cùi xứ Samaria, cũng như Naaman xứ Aram đã ý thức thân phận mình khốn khổ sâu xa như thế nào: đau đớn phần xác, mặc cảm tâm lý, tủi nhục tinh thần, cuộc đời như đã bị bỏ đi. Bởi vậy sau đó, cùng với sự khỏi bệnh ngoài da, họ còn được cứu chữa về tâm lý, tinh thần và đạo đức nữa. Họ trở thành những con người mới hẳn.
3. Suy nghĩ từ chuyện ông Naaman
a. Chuyện tướng Naaman mắc bệnh cùi rồi được chữa khỏi cho ta thấy từ đau khổ người ta có thể rút ra nhiều sự lành như thế nào.
- Naaman là một con người có nhiều quyền hành và thế lực vì ông là tướng chỉ huy quân đội nước Aram. Ông rất tự tin vào chính mình, chẳng cần gì đến Thiên Chúa.
- Thế rồi chứng bệnh cùi khủng khiếp đã làm ông mất tất cả, đầy ông từ chóp đỉnh xuống vực sâu của xã hội. Ông biết mình khốn khổ, ông cần ai đó cứu ông, Ông trở thành khiêm tốn hơn.
- Nhờ có người mách bảo, Naaman tìm đến với ngôn sứ Êlisê với hy vọng vị này chỉ nói một lời hay làm một việc gì đó thôi thì ông sẽ khỏi bệnh ngay. Nhưng Êlisê bảo ông đi tắm trong dòng sông Giođan nhỏ bé và phải tắm đến 7 lần. Ban đầu ông không chịu, nhưng sau đó ông chấp nhận à Ông đã biết chịu đựng và kiên nhẫn.
- Khi khỏi bệnh, Naaman ngoại đạo ấy còn khám phá một điều quan trọng hơn tất cả, đó là có một Thiên Chúa thực sự và quyền năng. à Ông có đức tin.
b. Cũng như Naaman trước khi bị bệnh, chúng ta ít nghĩ tới Chúa khi đời mình đang thuận buồm xuôi gió. Chúng ta cho rằng đời mình hoàn toàn tùy thuộc vào khối óc và đôi tay của mình.
- Khi gian truân khốn khổ ập đến, ta chợt ý thức rằng mình quá nghèo nàn và yếu đuối. Mắt ta được nhìn thấy mặt trái của cuộc đời, đầu ta biết cúi xuống, chân ta biết quỳ xuống, và lòng ta biết hướng lên cao.
- Như thế, đau khổ có rất nhiều lợi ích: nó đem ta đến gần Chúa hơn, nó khiến ta bớt duy vật hơn, nó còn cho ta thấy những khía cạnh tốt lành ẩn giấu trong những điều trái ý.
4. Dòng suối ân tình
Chuyện: Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen
chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:
- Thưa Đức cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế ?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:
- Vì đôi mắt của con rất đẹp ! - Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây ?
- Con ạ ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tuỵ băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
***
Phong cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Đức Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa (x. Lv 13,1-44).
Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Đức Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xoá. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ oà trong tim.
Trớ trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Đức Giêsu phải thốt lên lời quở trách: "Không phải cả mười người được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?" (Lc 17,17-18). "Sở dĩ Đức Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: "Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh" (Lc 17,19). Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân ! Thú vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng "cám ơn" luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói "cám ơn" với tất cả chân thành, một cử chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Đức Giêsu là một "bài ca tạ ơn". Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hoá bánh và cá ra nhiều, trước khi lập phép Thánh thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy". Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là Thánh lễ Tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: "Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô" (1 Cr 1,4). Ngài cám ơn tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: "Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận" (Pl 4,10). Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: "Cho người có lòng biết ơn chính là cho vay". * Lạy Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa. luôn thế kiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu", năm C)
5. Chuyện minh họa
Chuyện: David đang đi đường thì gặp một người ăn xin.
Anh cho người ấy một số tiền rồi tiếp tục đi, lòng rất sung sướng. Nhưng chỉ một sau, anh cảm thấy bực bội khi chợt nhớ hồi nảy người ăn xin kia không cám ơn anh. Anh đem chuyện ấy kể cho một Rabbi nghe.
Vị Rabbi chăm chú lắng nghe, rồi hỏi:
- Khi anh cho tiền người ăn mày, anh cảm thấy sao ? - Con thấy rất vui. - Thế đó không phải là phần thưởng cho con rồi đó sao ? - Nhưng con nghĩ rằng dù sao thì người ấy phải cám ơn con mới phải. - Thế sao con đã không cám ơn Chúa ? - Vì sao ? - Vì Chúa đã ban cho con cơ hội làm dụng cụ cho Chúa thực hiện tình thương của Ngài cho một con người khốn khổ. (Flor McCarthy)
V. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha hằng ban xuống cho chúng ta là con cái Ngài biết bao ơn lành. Vậy bây giờ chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha để bày tỏ lòng biết ơn chân thành của chúng ta.
- Trước khi rước lễ: Ơn cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là ban chính Con Một của Ngài cứu chuộc chúng ta và còn trở thành lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…"
VI. Giải tán
"Tất cả đều là hồng ân". Anh chị em hãy trở về với cuộc sống thường ngày, và đừng quên cám ơn Chúa về tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời.
Tiếng cám ơn vẫn là lời quan trọng của con người đối xử với nhau. Còn gì ấm êm, an ủi, phấn khích cho bằng một tiếng cám ơn khi người khác tế nhị nói với ta. Cuộc đời lắm phiền toái hơn gặp những sự hưng phấn, thoải mái, vỗ về, an ủi. Ta làm ơn cho kẻ khác, không mong được đáp trả báo đền. Nhưng một tiếng cám ơn vẫn là sự khích lệ lớn làm ta quên đi những sự nhọc nhằn đã giăng đầy chồng chất trên đời ta. Lời Chúa hôm nay nói lên tấm lòng biết ơn của một người Sa-ma-ri ngoại đạo đã trở lại gặp Chúa để cảm tạ tri ân Người vì anh ta đã được chữa khỏi bệnh phong cùi . Ý NGHĨA LỜI CHÚA:
Tin Mừng Lu-ca trích đoạn 17, 11 – 19 diễn tả cuộc hành trình của Chúa Giê-su đi Giê-ru-sa-lem. Phép lạ Chúa làm hôm nay xảy ra trong cuộc đời rao giảng của Người tại biên giới Sa-ma-ri và Ga-lil-ê. Chúa gặp mười người mắc bệnh phong cùi. Theo tục lệ của người Do-thái lúc đó, người mắc bệnh phong cùi là người bị xã hội loại trừ, người bị ô uế phải sống cách xa mọi người. Lề luật cấm họ không được lại gần bất cứ một ai. Nên, khi thấy Chúa Giê-su, họ chỉ dám đứng xa xa mà van xin Người chạnh lòng thương xót.Chúa Giê-su đã đáp ứng lời van xin của họ và dạy họ hãy đi trình diện các tư tế. Lề luật Do-thái dành cho các tư tế quyền xem xét và tuyên bố bệnh nhân đã khỏi bệnh thật chưa. Được các tư tế xác nhận khỏi bệnh, họ mới có quyền trở lại cuộc sống bình thường và hòa nhập với xã hội đương thời .
Vâng, cả mười người đến trình diện với các tư tế đã được xác nhận hoàn toàn khỏi bệnh.Chín người Do-thái được chữa lành đã không nhận ra nguyên nhân nào và ai đã chữa họ khỏi bệnh cùi. Họ đã quá nê vào lề luật và tưởng rằng họ đã làm theo lề luật dạy nên họ được lành bệnh. Họ chỉ dừng lại ở việc họ đã được khỏi bệnh. Còn người ngoại giáo Sa-ma-ri: một người đáng ghét và bị liệt vào hạng tội lỗi trước mặt người Do-thái lại là người biết ơn, đã quay trở lại để cám ơn Chúa Giê-su khi anh ta được tuyên bố khỏi bệnh. Anh cảm nghiệm được tình thương của người đã chữa lành anh ta là Chúa Giê-su. Anh đã quỳ dưới chân Chúa Giê-su, cám ơn và ngợi khen lòng thương xót của Người, Đấng đã cứu chữa anh ta không chỉ cơn bệnh hiểm nguy thân xác mà còn chữa anh ta cả tâm hồn. Anh đã không dừng lại ở sự sống thân xác, nhưng đã đi tới lòng tin. Tin vào Chúa Giê-su, Đấng nhân lành, thương xót, hiền hậu.
CÁI TRỚ TRÊU VẪN LÀ CÁI NGHỊCH LÝ CỦA TIN MỪNG:
NGƯỜI Ở TRONG LẠI PHẢI Ở NGOÀI VÀ NGƯỜI Ở NGOÀI LẠI ĐƯỢC Ở TRONG:
Sự đời vẫn thường xảy ra những điều ta không hay trước, những sự bất ngờ. Tin Mừng đã nhiều lần nhắc lại nghịch lý này. Chúa Giê-su đã mặc khải Đạo Tình Thương và xây dựng Giáo Hội của Người trên cốt lõi Tin Mừng Tình Thương. Chúa Giê-su dạy mọi người hãy sống tình thương và thực thi tình thương bác ái đối với người khác.
Chúa Giê-su đã quả quyết viên sĩ quan bách quản, người ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ hơn bất cứ người Ít-ra-en nào. ”Tôi nói cho các ông hay:ngay cả trong dân Ít-ra-en, Tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế“ ( Lc 7, 9 ). Hay nói về người đàn bà ”ngoại“ Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a, Chúa khen bà: ”Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi“ ( Mc 7, 29 ). Hoặc bên bờ giếng Gia-cóp, Chúa Giê-su đã biết rõ người đàn bà đang nói với mình là ai, Người thấy hết cả cõi lòng của người đàn bà, đến nỗi người đàn bà đã chạy vào thành và nói với người ta: ”Đến mà xem:có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đức Ki-tô sao ?“ ( Ga 4, 29 ). Còn đối với người Sa-ma-ri nhân hậu, Chúa đã quả quyết: chính ông ta là người đã chạnh lòng thương và bác ái với người đồng loại chứ không phải là vị tư tế, thầy Lê-vi hay bất cứ người Do-thái nào khác. ( Lc 10, 29 – 37 ).
Đời lúc nào cũng lẫn lộn vàng thau. Cái thật và cái giả. Ánh sáng và bóng tối. Cái trớ trêu mà Chúa Giê-su đã nêu lên ở đoạn Tin Mừng hôm nay và nhiều đoạn Tin Mừng khác để dạy các môn đệ và mọi người ở muôn thời vẫn là người có đạo chưa chắc đã thực thi bác ái tốt, chưa chắc đã có lòng tin mạnh nếu họ chỉ mang nhãn hiệu là Ki-tô hữu, là Công giáo. Người ngoại đạo xem ra bị coi là tội lỗi là xấu xa trước mắt người Do-thái, đối với Chúa Giê-su họ lại là những người thực thi đạo. Họ chưa được nghe rao giảng, nhưng lòng họ đã rất gần Chúa, Đấng họ tin chắc chắn sẽ giúp họ. Nên, Chúa nói: ”Kẻ sau hết sẽ trở nên trước và ngược lại“ quả thực rất chí lý, đáng cho muôn đời suy nghĩ !
ÁP DỤNG THỰC TẾ:
Trong đời sống, chúng ta đã nhận được biết bao ơn huệ nhưng không của Chúa. Chúng ta có biết đáp trả lại tình thương vô biên dạt dào của Chúa hay không ? Thánh Lễ, Kinh Nguyện và các Bí Tích ( họp thành Phụng Vụ ) có giúp ta đặt mối tương quan mật thiết giữa ta và Chúa Giê-su, Đấng nuôi sống ta ?
Có bao giờ chúng ta nghi ngờ lòng nhân từ của Chúa không ? Chính Chúa Giê-su cứu độ chúng ta.Lề luật chỉ giúp ta. Sự thật mới giải phóng ta. Chính Chúa Giê-su dạy ta thực thi những điều thiện hảo: ”Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng“ ( Mt 12, 29 ).
Làm người, ai trong chúng ta chẳng thích sống với những người có nhân có nghĩa. Thế nhưng, không phải luôn luôn chúng ta được như ý muốn. Người xưa có những câu chuyện về thói vô ơn bạc nghĩa của con người. Chẳng hạn như chuyện một người vợ cả một đời hy sinh, lam lũ, thức khuya dậy sớm lo cho chồng đèn sách, gánh hết trách nhiệm của chồng là nuôi dạy con cái, những mong sau này: “Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh...”
Ấy thế mà, đỗ đạt rồi, anh chồng nhanh chóng quên ân tình phu phụ, vội se duyên mới với con cháu quan quyền, cố xua nhanh quá khứ nghèo nàn, gốc gác bần dân của mình.
Người thời nay cũng có những câu chuyện tương tự. Nghe nói ở một giáo xứ nọ, có một gia đình đồng lòng chửi cha xứ, chửi Hội Đồng Giáo Xứ, bỏ Đạo, bỏ Chúa vì bị yêu cầu dời nhà ra khỏi khuôn viên nhà thờ. Trước đây, hai vợ chồng này nghèo khổ, không có mảnh đất cắm dùi. Thương hoàn cảnh nghèo nàn, khó khăn, cha xứ và Hội Đồng Giáo Xứ cho mượn một miếng đất cất tạm căn chòi, có chỗ chui vào chui ra, với giao kèo miệng: lúc nào giáo xứ cần hoặc gia đình làm ăn được, có điều kiện mua đất thì trả. Hoàn cảnh thay đổi, gia đình đã khá giả lên, nhưng thay vì mua đất, họ lấy tiền đó xây nhà. Hội Đồng Giáo Xứ đến trao đổi, bàn bạc, nhất định không nghe. Cãi chầy cãi cối. Cha xứ đến, cũng không ăn thua. Thế là rùm beng.
Lời Chúa trong Chúa Nhật 28 Thường Niên năm C hôm nay mời gọi chúng ta quay lại với tình nghĩa, không chỉ đối với anh chị em, nhưng nhất là đối với Thiên Chúa.
Bài đọc I trích trong Sách Các Vua quyển thứ hai ( 5, 14 – 17 ) tường thuật câu chuyện về vị tướng chỉ huy quân đội Na-a-man của nước A-ram. Tướng Na-a-man chỉ là một người dân ngoại, trong khi đó, dân Ít-ra-en lại là Dân riêng, Dân tuyển chọn của Đức Chúa. Ông bị mắc bệnh phung cùi, là chứng bệnh bất trị vào thời đó. Chết thì không chết, mà sống cũng không ra sống. Chẳng thà chết còn hơn, vì người thì cứ lở loét, hôi thối; nay rụng mất ngón tay, mai khuyết mất cái mũi. Dù vinh quang phú quý, bổng lộc vô vàn, nhưng cuộc sống đối với ông bây giờ là vô nghĩa.
Thế rồi, cứ như một chuyện phim mà đạo diễn là Thiên Chúa, ông được tiếp xúc với ngôn sứ Ê-li-sa và được chữa lành sau khi đã vâng lời người của Thiên Chúa đi tắm bảy lần trong sông Gio-đan. Như một người bình thường, ông đã làm việc phải làm là quay trở lại gặp ngôn sứ Ê-li-sa để tạ ơn. Làm sao không quay trở lại được khi lòng ông đang rạo rực hân hoan vì ơn huệ mình vừa nhận được; và người cần được thông tin trước nhất là vị sứ giả của Đức Chúa, người đã chỉ cho ông con đường sống.
Những chi tiết kỳ diệu trong câu chuyện này là: thứ nhất, ông tướng này biết rõ rằng không phải giòng nước sông Gio-đan có sức chữa bệnh. Ông đã từng nói: “Nước các sông A-va-na và Pác-pa ở Đa-mát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Ít-ra-en sao ? Ta lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch sao ?”. Ông hiểu và ông tin đây chính là quyền năng của Vị Thần của người Ít-ra-en đã làm cho ông khỏi bệnh, như lời ông tuyên xưng: “Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en.”
Điều kỳ diệu thứ hai là sau khi đã nhận biết Đức Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa thật qua dấu lạ chữa lành, ông tướng này đã xin một ít đất của quê hương này mang về nhà của ông ở xứ A-ram, để từ nay ông chỉ thờ lạy và dâng lễ tế cho một mình Người trên “mảnh đất” của dân riêng Người thôi. Như thế là lòng biết ơn của vị tướng ngoại giáo này đã “đến nơi đến chốn”, nghĩa là lòng biết ơn có sức xoay chuyển cuộc đời; hay nếu chúng ta có thể nói, trong trường hợp này, lòng biết ơn đồng nghĩa với lòng tin, với Đức Tin.
Trong bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca, chúng ta gặp lại cũng chính kết cấu của câu chuyện ông Na-a-man với một vài chi tiết khác biệt. Mười người bị bệnh phong cùi cũng kêu xin Đức Giê-su chữa lành. Người bảo họ đi trình diện với các tư tế. Đây là việc họ chỉ phải làm sau khi lành bệnh, theo Luật Mô-sê dạy ( x. Lv 14, 2 – 3 ). Họ đã vâng lời; và lúc đi đường, họ nhận ra mình được lành sạch. Một người đã quay trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Và người ấy là một người Sa-ma-ri-a, nghĩa là một người ngoại.
Chúng ta có thể nhận ra dễ dàng những điểm tương đồng giữa hai câu chuyện như quyền năng chữa lành thuộc về Thiên Chúa, sự vâng lời diễn tả lòng tin là điều kiện để được chữa lành và lòng biết ơn đòi người thụ ơn phải quay trở lại tạ ơn và tuyên xưng Đức Tinvào Đức Chúa là Thiên Chúa thật. Nếu chỉ dừng lại ở đó, chúng ta đã có thể rút ra nhiều bài học cho đời sống Đức Tincủa mình.
Tuy nhiên, tác giả Tin Mừng còn muốn dẫn chúng ta đi xa hơn: ngoài người Sa-ma-ri-a được chữa lành, còn có chín người khác nữa cũng được chữa lành, nhưng họ đã không quay trở lại để tạ ơn. Đức Giê-su đã than thở: “Không phải cả mười người đều được sạch cả sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?”
Theo lời đó của Đức Giê-su, thì chúng ta có thể hiểu, chín người kia là người Do-thái. Cả mười người đều vâng lời Đức Giê-su để đi trình diện với tư tế, có nghĩa là tất cả họ đều tin Đức Giê-su chữa lành cho họ, nên họ mới ra đi làm cái công việc của một người đã được lành bệnh theo Luật dạy. Chúng ta càng có lý để khẳng định lòng tin đó của cả mười người, khi nghe lời cuối cùng Đức Giê-su nói với người Sa-ma-ri quay trở lại: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Lòng tin đã cứu chữa anh sa-ma-ri cũng như chín người Do-thái, dù họ có quay trở lại hay không.
Tin Đức Giê-su chữa lành; và khi lòng tin đã được thỏa mãn thì đáng lý công việc phải làm ( theo lẽ bình thường ) là quay trở lại tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Vậy mà chỉ có người ngoại là làm công việc đáng làm; còn chín người Do-thái, vốn tự hào mình là Dân riêng Thiên Chúa, lại bỏ qua. Đó chính là vấn đề tác giả Tin Mừng Lu-ca muốn đặt ra. Một phần để đề cao lòng tin của người dân ngoại, một phần để cảnh giác óc tự hào quá đáng đối với những kẻ tự cho mình, tôn giáo mình, dân tộc mình là cao trọng hơn kẻ khác.
Người Sa-ma-ri ngoại bang đã tin vào Đức Giê-su, nên đã được chữa lành. Điều đó chúng ta khỏi nhắc lại. Anh đã quay trở lại để “sấp mình xuống dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn”. Người Sa-ma-ri vốn chẳng thiện cảm gì với người Do-thái vì họ bị khinh miệt ra mặt. Thế nhưng sau khi lòng tin đã được kiểm nghiệm là sự chữa lành, mối ác cảm và mặc cảm do hoàn cảnh xã hội, tôn giáo trước kia đã bị xua tan, nhường chỗ cho tâm tình biết ơn sâu xa và lòng tin tưởng chân thành. Không thay đổi sao được khi anh tự nhận thấy mình chỉ là ngoại bang, không thuộc về cộng đoàn con cái Ít-ra-en, nên không có quyền kêu xin Thiên Chúa một điều gì. Vì thế mà ân huệ anh vừa nhận được thực sự là ơn được ban không, hoàn toàn do lòng xót thương vô điều kiện của Thiên Chúa.
Hơn nữa, ân huệ anh vừa nhận được lại quá lớn lao, tựa như ơn cứu sống, “đã chết nay sống lại”. Ơn ấy được ban cho anh qua “Thầy Giê-su”, vì thế anh quay trở lại sấp mình tạ ơn Ngài, sau khi đã lớn tiếng “tôn vinh Thiên Chúa”. Tất cả muốn nói lên: đối với anh, Đức Chúa là Thiên Chúa thật và Đức Giê-su là Người của Thiên Chúa, là Sứ Giả của Thiên Chúa. Qua ơn chữa lành thể xác, anh đã được Ơn Cứu Độ, được sự sống đời đời: nhận biết Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai ( x. Ga 17, 3 ).
Còn chín người Do-thái thì không quay trở lại để tôn vinh Thiên Chúa ( tác giả Lu-ca không nói: để tạ ơn “Thầy Giê-su” ). Tại sao vậy ? Phải chăng họ tiếp tục vâng lời Đức Giê-su, đi tìm gặp các tư tế để được chứng thực mình đã khỏi bệnh. Dĩ nhiên đó là việc họ phải làm rồi. Nhưng việc trước tiên đáng phải làm, theo lẽ thường tình, đó là bày tỏ lòng biết ơn đối với người vừa cứu chữa mình, làm cho mình như sống lại từ cõi chết.
Ở đây, chín người Do-thái kia đã không làm theo lẽ thường tình, bởi họ nghĩ rằng mình thuộc giống nòi được tuyển chọn nên có quyền đòi hỏi Đức Chúa của họ thi ân và đáng hưởng ân huệ của Đức Chúa. Đối với họ, Đức Giê-su chỉ là một tôi tớ của Đức Chúa, làm việc của Đức Chúa sai bảo, nên chẳng cần phải cám ơn, cũng tựa như đầy tớ hay người giúp việc ở nhà người bạn của ta thôi. Y có vâng lời chủ nhân mà giúp ta điều gì, thì hà tất ta phải mang ơn y ? Chính thái độ tự hào, tự tôn đó đã ngăn cản nhiều người Do-thái tin nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, và vì thế mà không nhận được Ơn Cứu Độ.
Lòng biết ơn, đạo nghĩa thường tình, tưởng chừng như chỉ liên quan đến đời sống nhân bản, thế nhưng lại là con đường dẫn đến đức tin; đôi khi lại đồng nhất với đức tin. Đã là người vô ơn thì đừng nói đến chuyện tin Chúa, tin Trời. Người có lòng biết ơn luôn có một cảm nhận sâu xa về những gì người khác làm cho mình, và tìm mọi cơ hội có thể để diễn tả lòng biết ơn. Người đó sẽ càng nhạy cảm với bao ân huệ muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa: ơn làm người, hồng ân sự sống, ơn nhận biết Chúa, được Chúa tín nhiệm trao cho trọng trách này nọ, được Chúa Quan Phòng cho gặp người bạn đời tuyệt vời...
Mỗi một ngày qua đi, người ấy càng thêm xác tín mình được thương yêu, mình mắc nợ Thiên Chúa quá nhiều, nên tìm mọi cách, mọi dịp để tạ ơn. Tạ ơn khi vui, tạ ơn khi buồn, tạ ơn khi gặp may mắn và cũng tạ ơn khi gặp rủi ro, bởi cách làm vui lòng Chúa nhất là đón nhận mọi sự Người gửi đến trong tin tưởng, phó thác theo tinh thần thơ bé thiêng liêng.
Ngược lại, kẻ vô ơn chẳng bao giờ nghĩ đến việc đền ơn. Trong đầu hắn chẳng có chữ tạ ơn, mà chỉ luôn suy tính mưu lợi. Hắn xem việc người khác giúp mình là “chuyện nhỏ”, chuyện bình thường, chẳng đáng để tâm. Tệ hơn, có lúc còn nghĩ xấu cho họ: nó muốn lợi dụng mình chuyện gì đây ? Suy bụng ta ra bụng người mà ! Đối với những kẻ ấy thì làm gì có Đức Tin. Tâm trí đâu mà nghĩ đến Chúa cơ chứ ! Vì thế khi quyền lợi vật chất bị đụng chạm thì chửi cha xứ, chửi Hội Đồng Giáo Xứ, bỏ Đạo, bỏ Chúa. Chúa Giê-su đã từng nói: Không ai có thể làm tôi hai chủ ! Rõ ràng là như thế !
Tạ ơn Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa đã dựng nên con người là một thể thống nhất: cuộc sống trần thế không tách rời cuộc sống Đức Tin. Nhờ đó Ơn Cứu Độ là cho toàn thể con người, chứ không phải chỉ có phần thể xác mà thôi.
Xin Chúa cho chúng con biết xét mình nghiêm túc về thái độ biết ơn của chúng con đối với Chúa và đối với bố mẹ, anh chị em và mọi người.
Xin Chúa cho chúng con ơn cảm nhận bao ân huệ chúng con đã nhận được, dù chúng con chẳng xứng đáng, để nhờ đó chúng con sám hối thật vì đã phụ ơn bội nghĩa cùng Chúa suốt bao ngày tháng qua, để chúng con có quyết tâm cụ thể đổi mới đời sống, làm đẹp lòng Chúa hơn mỗi ngày. Amen.
Một ngày nọ có một gia đình giàu có, quý tộc thuộc nước Anh đi về miền quê chơi vào ngày nghĩ cuối tuần. Từ thành phố về thôn quê với biết bao phong cảnh đẹp và các trò chơi dân giã. Trong khi nô đùa thoả thích thì tai nạn xảy đến, cậu con trai nhỏ của gia đình họ đã trượt chân ngã xuống dòng nước chảy xiết. Một chú bé, con của người làm vườn nghèo ở gần đó nghe tiếng kêu cứu đã chạy đến nhảy xuống nước kịp thời cứu đứa bé kia lên.
Một đứa bé nhà giàu với đôi bàn tay điêu luyện trên phím đàn, nhưng lại không biết bơi. Một đứa bé nghèo quê mùa với đôi bàn tay chai cứng sạm nắng vì cuốc đất, nhưng hôm nay đã cứu được người. Sự gặp gỡ của hai cậu bé đã tạo nên điều kỳ diệu sau này cho lịch sử nhân loại.
Cha của cậu bé giàu có biết ơn cậu bé nghèo. Thay vì cám ơn, khen ngợi, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu bé cứ luẩn quẩn trong ruộng vườn. Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé lên trời cao. Ông hỏi cậu bé: “Khi lớn lên con muốn làm gì ?” Cậu trả lời: “Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha con.” Ông lại hỏi: “Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao ?” Cậu bé cúi đầu: “Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì !” Ông gạn hỏi thêm: “Nhưng nếu con có ước mơ thì con ước mơ gì ?” Ánh mắt cậu bé như nhìn xa xăm về cuối chân trời ước mơ: “Thưa Ngài, con muốn đi học, muốn làm bác sĩ.”
Năm tháng qua đi, hai cậu bé cùng được đi học. Cậu bé không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới, đó là thủ tướng Winston Churchill của nước Anh, người đã giữ vai trò quan trọng trong việc thay đổi cục diện của đệ nhị thế chiến và đã làm cho nước Anh tự hào vì tài ba chính trị lỗi lạc.
Còn cậu bé nhà nghèo, nhờ tình thương và lòng biết ơn của cha cậu bé Churchill, cậu đã không còn đặt ước mơ của đời mình ở bờ đê, vườn tược. Cậu đã trở thành bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời. Vị bác sĩ này là Fleming, người đã tìm ra thuốc kháng sinh Penicillin. Sau này khi thủ tướng Churchill lâm trọng bệnh, vương quốc Anh đã tìm những danh y lẫy lừng để cứu sống thủ tướng của họ. Cuối cùng chỉ có vị danh y tài ba mới cứu được Churchill, đó là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.
Cha cậu bé Churchill tỏ lòng biết ơn người cứu con trai mình bằng sự giúp đỡ học hành. Fleming biết ơn người lo lắng cho mình nên đã học thành tài, đem sự hiểu biết phục vụ cho nhân loại.
Sống trên đời này mọi người cần biết ơn nhau. Biết ơn là thái độ cần thiết cần phải có đối với người ban ơn. Trong cuộc sống, tiếng “cám ơn”, ”xin lỗi” luôn có sẵn trên môi miệng những người có giáo dục, lịch sự, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn phát xuất từ tấm lòng chân thành luôn làm vui lòng mọi người. Chính lòng biết ơn Thiên Chúa, biết ơn cha mẹ là nền tảng cho mọi thứ biết ơn khác.
Khi đọc bài Phúc Âm hôm nay, tôi thấy thật buồn cho chín người vô ơn. Trong số 10 người phong hủi được Chúa Giê-su chữa lành thì chỉ có một người biết tạ ơn Chúa thôi, mà người này lại là người ngoại giáo, còn chín người thuộc Dân Riêng của Thiên Chúa thì lại đều phụ ơn.
Chúa Giê-su hỏi người ngoại giáo: “Không phải tất cả mọi người đều được lành sạch cả sao ? Còn chín người kia đâu ?” Không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ? Chúa Giê-su buồn không phải vì bị phụ ơn mà vì trong số mười người chỉ có một người hiểu biết tình trạng thiêng liêng của mình trước mặt Thiên Chúa. Chúa xem trọng lòng biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho anh phần xác, thì Chúa lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là cũng cố niềm tin: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Có hai thứ chịu ơn, vật chất và tinh thần. Vật chất thì có thể tính bằng con số, đo lường bằng mức độ như một cây vàng, một ngàn đồng, một sào đất... Tất cả những thứ ấy đều có thể trả được. Chịu ơn về tinh thần thì khó định nghĩa rõ ràng để trả ơn. Khi một người thất vọng, chán chường, cô đơn, đau khổ, bệnh tật... nếu có được một chút lửa ấm tình thương nâng đỡ xẻ chia giúp cho người đó ra khỏi đêm tối, tìm lại ánh sáng, niềm vui, bình an, hy vọng, thì lòng biết ơn đó là mãi mãi. Kẻ nghĩ rằng trả ơn là xong, không cần biết ơn nữa, đó là một tâm hồn nghèo nàn. Vô ơn chẳng làm cho người ban ơn thiệt thòi mà chỉ làm cho tâm hồn kẻ chịu ơn ra chật hẹp. “Sống vô ơn là một cuộc đời trống vắng tình yêu và không cảm xúc. Có hy vọng mà không có tri ân là sự thiếu hụt của một nhận thức tinh tế. Lòng tin mà thiếu niềm tri ân là một lòng tin không có nghị lực. Tất cả những nhân đức bị tách biệt khỏi lòng biết ơn đều trở nên tàn tật khập khiễng trên con đường thiêng liêng” ( John Hery Jowett ).
Vậy tôi phải mang ơn những ai ?
Bắt đầu mầm sống trong lòng mẹ, nơi ngôi nhà ấm cúng, thầm kín đầu tiên đó, tôi được mẹ lấy máu thịt nuôi dưỡng lớn dần từng ngày, ngày đó tôi đã chịu ơn rồi. Tôi vào đời với tiếng khóc như biểu tượng sự yếu đuới và cần đến mọi người. Rồi tôi lớn lên nhờ giòng sữa, nhờ hơi ấm, nhờ những bàn tay nuôi nấng dẫn dắt. Công cha, nghĩa mẹ, thầy cô giáo dục. Vào đời, tôi cần tình yêu, cần tình bạn, cần thông cảm. Cuộc đời được dệt nên bằng những ơn nghĩa nối tiếp nhau. Sự sống là ân ban cao cả nhất, thiêng liêng nhất mà tôi được đón nhận từ Thiên Chúa. Ngài tạo thành tôi và còn ban Con Một của Ngài chịu chết thập giá để cứu chuộc và ban cho tôi Sự Sống Mới.
Nói đến trả ơn, chỉ có thể trả ơn người, chứ không bao giờ trả ơn Chúa được. Hôm nay tôi nghèo, có người giúp tôi. Thời gian sau, có thể khá hơn tôi có dịp trả ơn. Nhưng với Chúa thì bao giờ tôi cũng nghèo, cũng túng thiếu. Chúa chẳng cần gì để tôi có thể trả ơn, vì mọi sự đều đến từ Chúa. Tôi chỉ có thể biết ơn Ngài bằng thái độ yêu quý những gì Ngài ban tặng. Tặng vật lớn nhất là sự sống và lời mời gọi làm con của Ngài. Bởi đó phải yêu quý sự sống của mình, yêu bản thân mình, yêu con người và yêu cuộc đời. Ghét bỏ chính mình, không yêu người là sự vô ơn đối với người ban tặng.
Mọi sự đều đến từ Thiên Chúa. Ngài sắp xếp hoà điệu để con người tham gia vào chương trình đón nhận ân sủng Ngài trao tặng. Những gì tôi đón nhận từ tha nhân cũng là ơn Chúa, nên lòng biết ơn đối với tha nhân cũng chính là lòng biết ơn đối với Chúa.
Mỗi sáng khi vừa thứa dậy, tâm tình đầu tiên là Tạ Ơn Chúa, dâng một ngày mới cho Chúa. Cùng cộng đoàn hiệp dâng Thánh Lễ chung lời Tạ Ơn Chúa, một ngày mới tràn đầy bình an và ơn thánh.
Tạ ơn để đón nhận thêm ơn lành cho cuộc sống như lời Kinh Tiền Tụng số IV trong Sách Lễ Rô-ma: “Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn sống tâm tình biết ơn, biết ơn Chúa, biết ơn người, để cuộc đời chúng con là bài ca tri ân tình thương của Chúa.
Nếu có ai đưa cho tôi một chiếc đĩa đầy cát và bảo tôi hãy thử tìm những mảnh sắt bé nhỏ nằm lẫn lộn trên cát, thì với đôi mắt và những ngón tay bình thường của mình, tôi khó lòng mà thành công. Thế nhưng, với một thỏi nam châm, tôi lại có thể dễ dàng và nhanh chóng hút ra những vụn sắt li ti trộn lẫn trong cát.
Một trái tim vô ơn có thể so sánh với đôi mắt trần và những ngón tay vụng về của tôi mò mẫm trên đống cát, không tài nào khám phá được những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho đời tôi. Nhưng với một trái tim biết ơn, giống như một thỏi nam châm hút được sắt, tôi có thể lướt nhanh qua mỗi giây phút của một ngày sống và vui mừng đọc ra được biết bao nhiêu là hồng ân Chúa, chỉ khác một điều là những mảnh sắt nhỏ lẫn trong đống cát của Thiên Chúa lại là những vật quý giá hơn vàng!
Nhiều người sống quá hời hợt nên thấy cuộc đời, những biến cố xảy ra hằng ngày, và những cảnh vật chung quanh mang toàn một mầu đen tối và vô giá trị, như thể đất cát tro bụi tầm thường. Thế nhưng đối với những người sống có chiều sâu nội tâm, từng biến cố, từng sự vật chung quanh, dầu tầm thường nhỏ bé đến đâu cũng là dịp để họ suy niệm và dâng lời cảm tạ. Đó có thể là một nụ hồng vừa hàm tiếu, những tia nắng tinh nguyên của một buổi sáng đẹp trời, một cái xiết tay cảm thông, một cử chỉ tha thứ, một sự giúp đỡ nho nhỏ...
Trích từ LẼ SỐNG, 27.3.2000
Chứng từ: CẢM TẠ THIÊN CHÚA
Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Ý về Hoa Kỳ mang theo một số vị Giám Mục Mỹ mới đi dự Công Đồng Vatican 2 về, có một nữ chiêu đãi viên hàng không rất xinh đẹp, tận tình và nhã nhặn phục vụ các hành khách. Thế nhưng đặc biệt trong cả chuyến bay, cô vẫn cảm thấy bực bội trong lòng và mất tự nhiên trước một đôi mắt cứ nhìn chăm chú mãi vào khuôn mặt và vóc dáng của cô mỗi khi thấy cô xuất hiện. Lại càng đáng bất bình hơn nữa khi cô tìm cách kín đáo hỏi thăm một hành khách ngồi gần đó, thì hóa ra đó lại là đôi mắt của một giáo sĩ, Đức Cha Fulton Sheen, vị Giám Mục Tông Đồ lừng danh nước Mỹ.
Khi phi cơ hạ cánh, đợi các hành khách xuống hết, Đức Cha mới tiến đến trước mặt cô gái, ngỏ ý một cách đứng đắn trang trọng nhưng không kém phần trìu mến dịu dàng: “Hỡi cô bé, cô xinh lắm ! Cô hãy cảm tạ Thiên Chúa thật nhiều, vì Người đã ban tặng cho cô một sắc đẹp tuyệt vời...”
Thế rồi chỉ vài ngày sau, có tiếng gõ cửa văn phòng làm việc của Đức Cha Fulton Sheen ở Tòa Tổng Giám Mục New York. Cô chiêu đãi viên hàng không hôm nọ vào đề ngay khi vừa ngồi xuống ghế: “Thưa Đức Cha, câu nói của Đức Cha đã làm cho con phải băn khoăn suy nghĩ mãi. Vậy thưa Đức Cha, con biết phải cảm tạ Thiên Chúa như thế nào cho xứng đáng với những gì Người đã ban cho con ?”
Đức Cha điềm đạm đặt lại cho cô một câu hỏi thay vì trả lời: “Thế con có bao giờ nghe nói đến một trại phong cùi mang tên Di Linh ở Việt Nam chứ ?” Cô gái ngước đôi mắt xanh như dọ hỏi: “Thưa Đức Cha, có lần con đã đọc được trên báo và cũng đã được nghe ai đó kể về trại Di Linh.”
Đức Cha dõi nhìn xa xăm qua khuôn cửa sổ: “Có thể hiểu theo một cách nào đó thì Thiên Chúa đã dành tất cả những nét đẹp của những người cùi ở Di Linh mà ban riêng cho con. Nếu con thành tâm muốn cảm tạ Thiên Chúa, con hãy xin sang Việt Nam và tìm cách an ủi họ bằng đời sống phục vụ...”
Chỉ chừng ấy thôi, cô chiêu đãi viên hàng không sau đó đã trút bỏ tất cả tương lai để tự nguyện khoác áo nữ tu. Sau một thời gian tập tu và học hỏi, chị đã xin Nhà Dòng cho được sang Việt Nam phục vụ ngay giữa những con người bất hạnh ở Di Linh...
Theo lời kể của Lm. TIẾN LỘC, trích Nối Lửa Cho Đời tập 2
Chuyện: ĐỂ TỎ LÒNG BIẾT ƠN/ Tai xế Taxi kể kinh nhgiệm lượm và trả bóp tiền
Tuần trước, vào một buổi chiều đẹp trời, tôi đi taxi. Cứ nhìn cái cách anh tài xế sang số xe một cách nóng nẩy, tôi hiểu ngay là anh ta đang có điều gì không ổn trong tâm trí. Lựa lời hỏi han, tôi được anh cho biết lý do: “Bực mình quá anh ạ ! Sáng nay, có một người khách bỏ quên ví tiền trên xe của tôi. Tôi mở ví để tìm địa chỉ mới biết trong ví có 1.500 quan tiền Pháp. Tôi bỏ hơn 1 giờ để tìm cho ra khách sạn ông ấy trọ. Anh có tin là ông ta chẳng thèm nói một lời với tôi không ? Ông ta mở ví đếm lại tiền, nhìn tôi chằm chằm y như tôi đã móc túi ông ta vậy !”
Tôi tế nhị hỏi thêm anh tài xế: “Thế ông ấy không biếu anh một chút sao ?” Anh ta ngoái lại băng ghế sau nhìn tôi phân bua: “Không một xu ! Tôi hoàn toàn thất vọng, mất bao nhiêu thì giờ, lại tốn xăng nữa chứ ! Thật ra, tôi không nghĩ đến chuyện được thưởng tiền. Giá như ông ta chỉ cần nói với tôi một lời cảm ơn...”
Mọi người chúng ta đều cần một sự biết ơn tương xứng với hành động của mình. Lòng vô ơn dễ bóp chết thiện ý. Và chúng ta nhớ rằng sự biết ơn là một đức tính mà chúng ta không bao giờ thực hành cho đầy đủ.
Trong chiến tranh thế giới lần hai, bà mẹ của một người lính nhảy dù Mỹ nhận được thư con từ bên Pháp. Anh kể rằng anh bị thương, bị đói khát, nhưng lại được một phụ nữ ở làng Avranches nuôi dưỡng và che giấu khỏi quân Đức đang chiếm đóng. Rủi thay, vài tháng sau, người lính tử trận trong khi tấn công vùng Ardennes.
Để cám ơn người phụ nữ chưa biết tên kia, trong suốt 2 năm, bà mẹ đã để dành tiền, vượt Đại Tây dương, đến thành phố được nhắc đến trong thư con. Bà tìm được người phụ nữ đã săn sóc con bà và tặng một gói quà nhỏ. Đó là chiếc đồng hồ mà con bà đã lĩnh thưởng trong kỳ thi tú tài, một kỷ vật vô giá đối với bà. Việc bà mẹ tỏ lòng biết ơn đã gây xúc động cho người dân miền Normandie nước Pháp, đến nỗi cử chỉ ấy trở nên một huyền thoại tại Avranches và toàn vùng...
Lòng biết ơn là một nghệ thuật chứng tỏ mình nhạy cảm với mọi thiện ý của người khác, dù điều ấy lớn hay nhỏ. Đa số chúng ta đều cảm thấy vui thích khi được người khác đối đãi tử tế, tặng quà hoặc giúp đỡ khi cơ nhỡ. Nhưng chúng ta cũng cần hoàn thiện việc tỏ lòng biết ơn bằng cách làm cho nó trở nên càng chân thành và càng riêng tư càng tốt. Quả thật, không có gì xúc phạm người khác bằng một lời cảm ơn qua loa, nói cho lấy có nơi đầu môi chót lưỡi !
Nhà viết kịch nổi tiếng của Hoa-kỳ là ông James Barrie kể lại một câu chuyện như sau: “Một chiều nọ, tôi và một người bạn Tô-cách-lan đang bàn chuyện làm ăn. Đứa con gái 9 tuổi của ông ấy đem đến một đĩa bánh ngọt do bé mới làm xong. Ông bố bực mình vì câu chuyện bị ngắt ngang, liền cầm một chiếc bánh cắn một chút, nói vội một lời cảm ơn con cho xong để tiếp tục nói chuyện với tôi. Cô bé lặng lẽ rời căn phòng. Vài tuần sau. mẹ cô hỏi sao bé không còn hí hửng làm bánh ngọt như mọi khi thì bé òa khóc: “Con sẽ không bao giờ làm bánh nữa đâu !”
Lòng biết ơn đôi khi cũng vượt quá khuôn khổ chuyện riêng tư. Con trai tôi, một sinh viên y khoa kể rằng, một bệnh nhân đã được cứu sống nhờ truyền máu. Sau khi lành bệnh, ông ta hỏi các bác sĩ liệu có cách nào biết được tên người đã hiến máu cho ông. Người ta trả lời là không. Vài tuần sau, ông ta trở lại bệnh viện và xin hiến máu. Và ông đã hiến khá nhiều lần. Một bác sĩ ngạc nhiên về nghĩa cử của ông thì ông đơn giản đáp: “Có một người vô danh đã hiến máu cho tôi. Nay tôi cũng xin hiến máu để tỏ lòng biết ơn !”
Cũng cần phải nghĩ rằng lòng biết ơn có thể không đơn thuần là một tình cảm chóng qua, nhưng lại là một nguồn mạch làm trỗi dậy sức sống trong một số trường hợp. Nhà vạn vật học Hudson kể lại câu chuyện sau đây: “Một tối nọ, tôi dẫn một người bạn thân về nhà chơi, có gì ăn nấy. Sau bữa ăn, ông bạn ấy bảo tôi: “Bạn may mắn có người vợ lo lắng sửa soạn những bữa ăn thật tuyệt vời, mặc dù tôi thấy chị có vẻ yếu và nặng gánh con cái.” Chính lời khen này đã mở mắt cho tôi. Lời khen ấy giúp tôi nhìn thấy sự anh hùng trong đời thường của vợ tôi mà vốn dĩ trước đó, tôi cứ xem là chuyện thường tình !”
Lòng biết ơn cần được biểu lộ cả trong từng chi tiết nữa. Người đưa thư, anh thợ hớt tóc, cô thợ may, người phục vụ khách sạn... họ đều giúp đỡ một cách nào đó cho chúng ta lúc này lúc khác. Khi cảm ơn họ, chúng ta biến các quan hệ máy móc thành ra nhân bản hơn, và biến các công việc nhàm chán đều đặn thành ra hết sức dễ chịu.
Một bệnh nhân của tôi, vốn là nhân viên bán vé xe buýt ở Luân-đôn kể với tôi: “Đôi khi tôi chán ngấy công việc. Người ta cự nự, quấy rầy tôi hoặc kêu ca là không đủ tiền nên không chịu mua vé. Thế nhưng, có một bà cụ già đi chuyến xe buổi sáng và buổi tối đã luôn cảm ơn tôi rất lịch sự khi tôi trao vé cho bà. Tôi tưởng tượng như thể bà đang nhân danh tất cả mọi hành khách để cảm ơn tôi, và điều đó làm cho tôi thấy phấn chấn hơn trong công việc...”
Một số người rất ngại việc diễn tả sự biết ơn, sợ rằng sẽ quấy rầy kẻ khác. Một bệnh nhân của tôi, vài tuần sau khi rời bệnh viện, đã trở lại để cảm ơn cô y tá. Ông nói: “Tôi không đến sớm hơn được, vì tôi cứ ngần ngại, nghĩ rằng chị không thích những người đến cám ơn...” Cô y tá đáp: “Trái lại chứ ạ ! Tôi rất mừng vì ông đã trở lại đây thăm tôi. Rất ít người hiểu rằng chúng tôi cần đến những lời khuyến khích động viên để chúng tôi có thể làm tốt hơn nữa công việc của mình...”
Chúng ta đừng sợ là mình biểu lộ sự biết ơn quá nhiều. Chúng ta đừng quên rằng nụ cười, lời cảm ơn, lời nói tri ân của chúng ta sẽ đem lại bao lợi ích cho nhiều người trong cuộc sống của họ...
Dịch từ Sélection, báo TTCN 6.1997, trích Nối Lửa Cho Đời tập 2
Chuyện: CẦU XIN VÀ TẠ ƠN
Có 2 thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc túi lớn. Họ chia nhau để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến với những người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em và người già lão, đúng vào những lúc họ đang cầu nguyện tại nhà riêng hay ở Nhà Thờ.
Sau một thời gian, 2 thiên thần gặp lại nhau đúng thời điểm đã hẹn trước để trở về Nước Trời. Chiếc túi của một thiên thần thì nặng như chì, còn chiếc túi của thiên thần kia thì lại có vẻ nhẹ như bông.
Thiên thần có chiếc túi nhẹ mới thắc mắc hỏi: “Ngài mang cái gì mà nặng thế ?” Vị kia vừa thở hổn hển, vừa lau mồ hôi, trả lời: “Ngài quên rằng tôi được sai xuống trần gian để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại hay sao ? Còn ngài, cái giỏ của ngài xem ra nhẹ nhàng quá nhỉ ?”. Vị này buồn rầu trả lời: “À, tôi được sai xuống để góp nhặt tất cả những lời thiên hạ cám ơn Thiên Chúa vì những ơn lành Người đã luôn ban cho họ ! Và tiếc thay, tôi chỉ tìm được quá ít !”
Sự thật về hai cán cân nặng nhẹ của những lời cầu xin và những lời cảm tạ Thiên Chúa nói trên cũng được bài Tin Mừng về 10 người phong cùi đã được Đức Giê-su chữa lành. Chỉ có mỗi một người trong bọn họ, khi thấy mình đã được lành bệnh, bèn quay trở lại, xấp mình dưới chân Đức Giê-su để tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Sa-ma-ri vốn bị coi là dân lạc đạo trong đất nước xứ Pa-lét-tin. Đức Giê-su thắc mắc hỏi anh: “Chẳng lẽ 9 người phong cùi còn lại không được tôi chữa lành cả hay sao mà chỉ có mỗi người ngoại bang này ?” ( x. Lc 17, 11 – 19 ).
“. . . Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Sự kiện này khiến chúng ta hết sức bối rối vì thẹn, sao chín người có đạo lại vô ơn đến thế, tệ hơn người không đạo?
Lòng biết ơn là nhân đức cha mẹ của mọi nhân đức khác, quả đúng như thế vì biết ơn có nghĩa là chúng ta luôn trân trọng những điều tốt lành người khác đã từng làm cho mình. Hơn nữa sự biết ơn chứng tỏ rằng người nhận ơn là một người có văn hóa, có giáo dục đúng mức vì: “Lòng biết ơn là một hoa trái của công trình rèn luyện cao quí, bạn không tìm thấy nó ở những kẻ thô lỗ.”(Samuel Johnson, thi sĩ Anh). Lòng biết ơn còn được gọi là trí nhớ của trái tim, nó giúp ta biết hưởng nếm những giờ phút thích thú nhất trong cuộc sống, vì còn gì sung sướng hơn giữa cơn túng quẩn cần trợ giúp lại có người ra tay nâng đỡ: “buồn ngủ gặp chiếu manh!” Những nghĩa cử cao đẹp của tình thương càng giá trị gấp muôn vạn lần hơn lúc bình thường, giữa cảnh ngặt nghèo mà gặp được sự cứu giúp: “miếng khi đói bằng gói khi no!” Lòng biết ơn còn diễn tả mối thân tình của ta dành cho người đã làm ơn, vì nếu không có sự biết ơn, nghĩa là ta đã coi khinh người làm ơn cho mình như một kẻ đấy tớ hay đứa nô lệ thấp hèn không đáng lưu ý. Và nếu ta không thể thân mật với những người từng làm ơn cho mình, thì làm sao ta có thể thân mật với các kẻ xa lạ?
Ai cũng cần biết ơn người đã thi ân cho mình, đối với Thiên Chúa, con người cần phải tri ân biết đến ngần nào cho cân!? Việc cảm tạ Chúa chẳng thiệt thòi gì cho ta, ngược lại đấy chính là chìa khóa mở rộng tình thương vô biên của Ngài dành cho chúng ta.
Hai phép lạ được thuật lại trong phụng vụ hôm nay nhấn mạnh về sức mạnh của sự vâng phục. Chẳng thấy có một cử chỉ chữa bệnh nào nơi Êlisê và cả nơi Đức Giêsu. Không thấy có một công thức chữa bệnh nào được đọc trên người bệnh, như thường xảy ra nơi các trình thuật phép lạ khác. Chỉ có một lệnh truyền. Lệnh của Êlisê cho Naaman, “Hãy đi tắm bảy lần trong sông Giođan”. Còn Đức Giêsu nói với những người bệnh phong, “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Ngay lúc đó cả Naaman và mười người bệnh phong chưa được chữa lành, và họ cũng chẳng biết rằng họ sẽ được chữa lành hay không nữa; nhưng họ đã tin và vâng phục. Sức mạnh của lòng tin và sự tuân phục đã làm phép lạ xảy ra. Sự tuân phục, ít ra đã cho thấy một chút lòng tin vào người mà mình vâng lệnh, một lòng tin không miễn chuẩn khỏi những ngăn trở và gian khổ. Rõ ràng nơi trường hợp của Naaman. Ông đã có sẵn quan niệm và những mong đợi hoàn toàn khác về phép lạ, và nhất là về cách thức phép lạ xảy ra, “Ta cứ nghĩ bụng là thế nào ông ấy cũng đích thân đi ra, rồi đứng mà cầu khẩn danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ông ta. Ông ta sẽ quơ tay lên đúng chỗ phung hủi mà chữa khỏi”.
Không có gì như ông nghĩ cả. Ông chẳng được thấy mặt Êlisê, chỉ nhận được lệnh truềyn từ một người trung gian. Naaman tức giận và quyết định quay trở về, chẳng còn hy vọng được chữa lành bệnh. Trên đường về, nhờ các đầy tớ thuyết phục, ông đã vâng lệnh; ông đã tắm trong sông Giođan và “da thịt ông trở nên như da thịt một trẻ nhỏ.” Sau cùng, Naaman mới hiểu rằng không phải dòng nước sông Giođan chữa ông khỏi bệnh phong mà chính Thần Khí Đức Chúa, Đấng dùng sông Giođan và những cách thức khác nhau để thi ân và cứu độ con người. Theo lệnh của Đức Giêsu, mười người phong lên đường quay về đền thờ Giêrusalem. Họ phải đi bộ nhiều cây số. Họ vẫn còn mắc bệnh phong và.. như thế làm sao họ dám đến trình diện với các tư tế? Tốt hơn hết là cứ đợi đến khi nào chắc chắn mình đã được lành đã ? Họ đã tranh đấu với những khó khăn như thế, và trên đường đi họ đã nhận ra da thịt họ đã sạch, họ được chữa lành. Sự vâng phục đức tin có sức mạnh của một phép lạ. Chẳng phải lòng vâng phục đức tin đã khiến Phaolô bị tù đày vì Tin mừng đó sao? Chẳng phải vì sự vâng phục đức tin đã làm cho Ông phải chấp nhận mọi khổ đau để mang lại ơn cứu độ cho mọi người đó sao?
Chữa lành nội tâm.
Naaman đã được chữa lành bệnh, nhưng ông còn tiếp tục chịu đau khổ vì cảnh mù tối tâm hồn. Là một người có giáo dục, ông đã trở lại nhà Êlisê và đã dâng cho ông này các lễ vật quý giá để cảm tạ. Giờ đây, trước mặt người của Thiên Chúa, mắt ông đã mở để nhận ra Thiên Chúa đích thật, nên ông đã nói, “nếu Ngài từ chối, thì xin cho phép tôi tớ Ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa chở được, vì tôi tớ Ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào khác ngoài Đức Chúa.” Điều tương tự như thế cũng đã xảy ra nơi một trong những người phong khi ông nhận thấy mình được chữa lành. Chín người trong bọn họ vẫn tiếp tục cuộc hành trình về Giêrusalem, họ trình diện các tư tế, nhưng quá đỗi vui mừng, họ quay về nhà mình mà quên cảm tạ Đức Giêsu. Như thế, họ không để cho Đức Giêsu ban tặng cho họ ơn cứu độ mà Người mang đến cho muôn dân. Duy nhất chỉ có người Samaria, thấy mình lành bệnh, liền vội vàng trở lại cảm tạ Đức Giêsu. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu trong tâm tình tôn kính biết ơn. Và Đức Giêsu không chỉ chữa lành anh khỏi bệnh phong, mà còn khỏi tội lỗi, khỏi mọi rào cản để anh ta đón nhận ơn cứu độ. “Đứng dậy về đi, lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” Cuộc chạm trán của Phaolô với Đức Giêsu trên đường đi Đamát, mở mắt đức tin cho Phaolô tin vào Đức Kitô, giải thoát ông khỏi não trạng của giới Pharisiêu nghiêm nhặt, khỏi lòng oán ghét đối với các Kitô hữu, để chấp nhập sự yếu kém hơn hết mọi người đến độ chịu đựng xích xiềng tù ngục và kiên trung rao giảng sứ điệp Tin Mừng. Đức Giêsu Kitô là vị bác sĩ thật cả phần xác lẫn phần hồn.
GỢI Ý MỤC VỤ
Lý do vâng phục.
Mọi người, từ khi sinh ra đến lúc chết, hầu như đều sống trong vâng phục. Là kitô hữu ta còn có lý do mạnh để vâng phục nữa.
Vâng phục làm đẹp lòng Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là nguời xa lạ, Ngài là Cha chúng ta. Làm thế nào ta có thể làm vui lòng Ngài hơn là thực thi những điều Ngài mong muốn?
Đức Giêsu, gương mẫu của chúng ta, là mẫu mực tuyệt vời về sự vâng phục. Ngài vâng phục Thiên Chúa trong suốt cuộc đời tại Nagiarét, vâng phục cha mẹ Ngài. Ngài vâng phục Thiên Chúa suốt cuộc đời công khai, của ăn của Ngài là làm theo ý Chúa Cha. Ngài vâng phục Thiên Chúa cho đến chết, và chết trên thập giá. Thánh Thần Chúa đồng hành và thêm sức cho ta bên trong, để khi ta vâng phục theo Ngài, ta không còn cảm thấy cô đơn và yếu hèn nữa.
Lời xin vâng của Đức Maria thách thức chúng ta trong sự vâng phục đáng ao ước, đơn sơ và kiên trung vào ơn gọi và sứ mạng mà Chúa trao phó cho. Lời xin vâng dịu dàng của Đức Maria, vang lên ba lần mỗi ngày, là lời nhắc nhớ trong thâm tâm người kitô hữu. Bản tính xã hội của Mẹ Maria và đặc tính chia sẻ của đức tin nêu bậc về sự cần thiết phải có tổ chức, điều hành và tất nhiên cũng cần có sự vâng phục. Khi một người vâng phục với lòng tin yêu, sự vâng phục đó sẽ mang lại an bình cho tâm hồn. Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã chọn câu châm ngôn cho chức Giám Mục, “Vâng phục và bình an”. Sự vâng phục tin yêu góp phần lớn vào việc trưởng thành nhân cách của người kitô hữu, và đó chính là thánh ý của Thiên Chúa. “Lạy Chúa, Thánh ý của Ngài vượt trên hết mọi sự”. Kinh nghiệm và sự khôn ngoan của các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục, xem đây như là ân sủng được ban cho những ai nắm giữ một chút ít quyền hành trong Hội Thánh.
Xét về mặt hiệu quả, sự vâng phục góp phần cho một cơ quan dân sự hoặc một cơ quan của Hội Thánh đạt được mục đích của riêng mình. Đoàn kết và vâng phục là sức mạnh.
Bất tuân và Tuân phục.
Chủ nghĩa cá nhân, như xu hướng hiện nay, là một đại lộ rộng lớn dẫn đến sự bất tuân trong gia đình, xã hội và cộng đồng Hội Thánh. Bất đồng ý kiến về những vấn đề đang tranh luận, không mấy quan trọng, không phải là điều nghiêm trọng. Nhưng một thái độ thường xuyên bất tuân phục trên nhiều bình diện cơ bản của đời sống và đức tin – và cho rằng một sự bất tuân như thế như là một quyền bất khả nhượng của con người – là một thái độ liều lĩnh. Trong một vài trường hợp có thể là một sự bất tuân hợp pháp, nếu đã suy nghĩ chín chắn, với một sự khao khát thành tâm tìm sự thật, và nếu điều đó xảy ra cách kín đáo và tuân theo tiêu chuẩn cò sẵn. Hình như lúc nào cũng có một ít người ở bên ngoài chờ đợi Giám Mục hoặc Đức Thánh Cha tuyên bố điều gì đó để tự động bất đồng với điều đó. Tại sao không vượt lên trên tất cả, và tuân phục trước mọi cám dỗ (ví dụ: sự bất tuân) bằng một lòng tin vững mạnh và một sự tuân phục chân thành đối với Hội thánh? Vương quốc Đức Kitô sẽ đáng tin cậy hơn trong sự hài hòa của mọi người! Và nhất là, ta sẽ là những kitô hữu tốt hơn!
1. Đây là lần thứ ba (x. 9,51; 13,22; và c.11 chương này) Lc nói đến việc CGS lên Giêrusalem. Ngài đã “đi ngang qua Samaria và Galilea”. Các dòng chữ này từ lâu đã gây nhiều khó khăn trong các thủ bản và các sách Chú giải. Có 2 cách giải thích:
a/ “Đi ngang qua Samaria và Galilea” có nghĩa “đi ngang giữa Samaria và Galilea”, nghĩa là đi giữa đường ranh giới ngăn cách 2 tỉnh. Có lẽ CGS đã đi theo lộ trình đó để đến thung lũng sông Giodan miền Scythopolis và từ đó xuống Giêrico (18,35) để lên Giêrusalem. Việc đi gần Samaria đó cắt nghĩa sự có mặt của một người Samaritanô trong nhóm mười người phong cùi. Xét về văn phạm, lối chú giải này xem ra vững chắc, vì chữ meson không có mạo từ và ở accusatif, thay vì ở cas ghénitif (vd 4,30). Xét về địa dư, lối chú giải này càng vững, vì nếu đi về Giêrusalem, CGS phải đi từ bắc xuống Nam; còn nói “đi ngang qua Samaria và Galilea”, có lẽ phải đi từ nam ra bắc.
b/ Tuy nhiên có lẽ ở đây Lc đứng trên bình diện thần học hơn là địa dư. Do đó, vì đứng từ Giêrusalem nhìn lui đoạn đường đã đi, ông đã nhắc Samaria trước Galilea, vì thế ông viết “đi ngang qua Samaria và Galilea”. Lộ trình và hành động của CGS đều bị Giêrusalem chi phối, đến độ khi nhìn lại đoạn đường đã đi, cũng phải tính từ đích điểm là Giêrusalem. Chỉ có thể hiểu lộ trình và hành động của CGS dựa trên cơ sở Giêrusalem, là nơi Ngài sắp được nâng lên. Trình thuật về chuyến đi của Ngài đã bắt đầu với biến cố có nhắc đến Samaria. Samaria là chiếc cầu nhờ đó nhờ đó lời chúa đi từ Galilea sang Giêrusalem, rồi từ Giêrusalem đến với các dân ngoại. Sau khi phục sinh, CGS sẽ uỷ thác cho môn đệ Ngài sứ mệnh: “các con sẽ là chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cvsđ 1,8). CGS đi trước vạch đường cho giáo hội theo lộ trình của giáo hội là hậu kết lộ trình của CGS.
Lối chú giải thứ hai, xét về phương diện ngữ học, có thể được chấp nhận: chữ địa với túc từ chỉ nơi chốn ở cas accusatif, dù trong TƯ chỉ dùng một lần ở đây mà thôi, nhưng trong tiếng Hy lạp sau này, được người ta dùng rất nhiều.
Thật khó mà chọn một trong hai lối chú giải này. Tôi thiết nghĩ, nếu muốn nói “giữa ranh giới Samaria và Galiela” (BJ) hay “dọc theo biên giới Samaria và Galilea”, có lẽ Lc đã viết như thế. Có lẽ bản dịch TOB tự nhiên hơn ("Ngài đi ngang qua Samaria và Galilea"). Dù lối chú giải thứ hai có vẻ hơi bị ép theo nghĩa thần học, nhưng vẫn thích ứng với chủ tâm của Lc, là người thích nói đến điạ dư trong viễn cảnh thần học. Vì thế tôi tạm thì theo lối chú giải thứ hai.
CGS và các môn đệ đi từ thành này sang thành nọ, từ làng này đến làng kia (13,22), nên đã gặp nhóm người phong cùi khi vào một trong các làng đó. Thật lạ lùng khi nhóm này gồm cả người Do thái lẫn người Samaritanô. Đau khổ và bệnh tật làm cho con người xích lại gần nhau, quên đi mối thù truyền kiếp giữa người Do thái và Samaritanô (x.9,53; Gio 4,4-9). Chúng tôi không biết nhóm người phong cùi, ngoài một người Samaritanô, được nhắc đến trong phúc âm hôm nay, còn có thêm người Samaritanô nào nữa chăng. Chắc là không, vì nếu có những người Samaritanô khác nữa, có lẽ họ sẽ đi theo người đồng hương, đồng đạo đến cảm ơn CGS, hơn là ở lại với các người phong cùi Do thái khác. Nhưng đây chỉ là một phỏng đoán. Việc CGS đối chiếu “người ngoại bang này” (c.18) với “chín người kia” (c.17) làm cho vững chắc lời phỏng đoán chỉ có một người Samaritanô thôi.
Người phong cùi được phép vào các làng, nhưng không được vào đô thị có xây tường, thành chung quanh; do đó họ càng không được vào thành thánh Giêrusalem, không được đến gần các người khác: “người mắc bệnh phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, tóc bờm xờm, râu dài tua tủa và phải la lên: ô uế, ô uế ! Bao lâu còn mắc chứng bệnh này, bấy lâu bị ô uế, và phải ở riêng biệt, xa chỗ dân chúng ở” (Lv 13,45). Vì thế những người phong cùi đó phải đứng ở đàng xa.
Ở đây CGS được gọi là thày. Cho đến nay, chỉ có các tông đồ là những người cảm kích quyền năng của Ngài, mới gọi Ngài là Thày (5,5; 9,49); các ông đã gọi Ngài là thày khi sững sờ vì vinh quang của Ngài (9,33) hay khi lo âu sợ hãi, phải xin Ngài giúp đỡ (8,24). Không những gọi: “Thày”, các người phong cùi còn van xin Ngài dủ tình thương xót. Đối với họ, CGS không chỉ là một thày rabbi thông luật, mà còn là một đấng quyền năng và nhân hậu. Vương quốc TC đã tỏ hiện trong Ngài, một vương quốc luôn xót thương mọi người.
CGS dạy các người phong cùi chấp hành luật thanh tẩy: “Đây là luật dành cho người phong cùi một khi được lành bệnh: phải được dẫn đến thày tư tế” (Lv 14,2). CGS không chữa lành họ ngay tức khắc, nhưng ra lệnh cho họ, việc họ tuân lệnh giả thiết họ sắp được chữa lành. Quả thế theo lề luật, người phong cùi phải đến trình diện thày tư tế, không phải để được lành bệnh, nhưng để ông ta xác nhận đã lành bệnh. Vậy khi ra lệnh cho các người phong cùi chấp hành lề luật như thể họ đã được lành bệnh rồi, CGS đòi họ phải biết vâng lời trong đức tin; và Ngài muốn hành vi tín thác đó phải được thể hiện bằng việc tuân phục lề luật. Như Lc vừa nhắc lại trong dụ ngôn Ladaro nghèo khó và nhà phú hộ xấu bụng, rằng người tuân nghe Môisen và các tiên tri sẽ được cứu rỗi (16,29). Người Samaritanô cũng được lành bệnh khi đi cùng con đường đó (trình thuật không nói rõ: y đã đến trình diện các tư tế Samaritanô ở núi Garizim hay trình diện tại Giêrusalem). Ơn cứu rỗi đến với người Samaritanô - và với tất cả dân ngoại - nhờ CGS, vì “ơn cứu rỗi đến từ dân Do thái” (Gio 4,22) trong người CGS.
3. Phép lành chữa lành bệnh đã xảy ra khi họ đang trên đường đi trình diện thày tư tế (c.14). Một người trong nhóm mới được chữa lành liền quay trở lại, lớn tiếng “tôn vinh TC”. Chính TC hành động qua CGS. Người vừa người chữa lành ngợi khen TC trước mặt CGS, đồng thời sấp mình xuống dưới chân Ngài. TC cứu rỗi nhờ CGS. Hồng ân TC đã xuất hiện trong Ngài. Cách tạ ơn của người phong cùi đã nói lên điều đó.
Việc TC thường làm phát sinh một cảm xúc sâu xa đích thực. Những ai cảm nghiệm điều đó đều “hô lớn tiếng": ma quỉ (4,33; 8,28), dân chúng dịp tiến vào Giêrusalem (19,37), CGS khi tắt thở (23,23), Stêphanô khi sinh thì (Cvsđ 7,60). Những người thờ lạy TC đang đến gần họ trong con người CGS cũng “sấp mặt xuống đất": cha của cô bé hấp hối (8,41), người phong cùi xin chữa lành (5,12)... Quyền năng và lòng thương xót của TC tỏ hiện trong con người CGS. Quả thực Ngài là “sự thần hiển của TC”. Chính vương quốc của TC đã đến trong Ngài.
Bệnh nhân được chữa lành và đến tạ ơn CGS là một người Samaritanô (c.16). Cũng như người Samaritanô nhân lành qua việc thương xót săn sóc cho người bị rơi vào tay bọn cướp trong dụ ngôn (Lc 10,30tt), người Samaritanô hôm nay cũng đang đi trên con đường của phúc âm và vương quốc TC qua việc ông tỏ lòng biết ơn. Các đức tính nhân bản đích thực, đi kèm theo lòng khiêm nhu và tâm hồn đại lượng, là đường đưa đến ơn cứu rỗi, với điều kiện là các đức tính đó được liên kết với niềm tin vào lời CGS (một khi đã nghe lời Ngài),là lời tóm kết lề luật và các tiên tri. Lời sẽ sinh hoa trái, khi gặp được một “tâm hồn tốt lành và thiện hảo” (8,15). Trong bản thân người Samaritanô, chúng ta thấy vẽ lên con đường mà phúc âm sẽ dùng để đến với dân ngoại.
CGS đợi tất cả mọi người đến tôn vinh TC, qua trung gian của Ngài. Chính nhờ Ngài mà ân sủng của TC đến với chúng ta và cũng chính nhờ Ngài mà lời chúng ta tôn vinh thấu đến TC. “không có ơn cứu rỗi nhờ một Danh hiệu nào khác” (Cvsđ 4,12). Vì “chỉ có một đấng trung gian độc nhất giữa TC và loài người” (1Tm 2,5). Nhưng chỉ có người ngoại bang đến bên CGS. Với tư cách là người ngoại quốc, người Samaritanô không thuộc về cộng đoàn con cái Israel, nên không có quyền kêu xin TC điều gì. Mọi thứ y nhận được đều là do ân huệ nhưng không của TC, do đó y đã tỏ lòng biết ơn sâu xa. Người Do thái không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái, nên có quyền đòi hỏi TC thi ân. Họ thiếu thái độ căn bản để có thể đón nhận ơn cứu rỗi. Trái lại, người ngoại bang đã tỏ ra có các dự kiện đưa y đến ơn cứu rỗi: lòng biết ơn, lời ngợi khen, việc ý thức thân phân nghèo hèn của mình trước mặt TC. Đường cứu rỗi đã được chuẩn bị cho mọi người, cho cả “người ngoại bang”, người tội lỗi, lương dân. yếu tố cứu rỗi, chính là niềm tin, sự quyết tâm phó thác vào lời CGS và hành động cứu rỗi của TC thực hiện nhờ CGS.
KẾT LUẬN
Các người Do thái lẫn Samatitanô đều đã tin vào CGS. Họ đã tin vào lời hứa sẽ chữa lành tiềm tàng trong mệnh lệnh CGS. Nhưng một khi được phép lạ, chỉ một người trở lại tạ ơn. Các người khác xem việc họ được chữa lành như là một quyền lợi đáng được. Chỉ có một người duy nhất trở lại, hoán cải và nhìn nhận mình là kẻ thụ ân, mắc nợ TC. Chỉ có một người cảm thấy mình còn tươi trẻ để sững sờ trước ân huệ nhận được, để tiếp tục lên đường tìm gặp đấng đã thi ân. Chỉ có một người đã biết vượt qua niềm tin vào người chữa bệnh để tin vào TC cứu độ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phong cùi là bệnh tryuền nhiễm và ghê tởm, nhất là vào thời Đức Kitô. Người mắc bệnh bị loại ra khỏi cộng đoàn, vì lý do vệ sinh dĩ nhiên, nhưng cũng vì lý do thiêng liêng nữa. Bệnh này không chỉ đau đớn và ghê sợ, nhưng đối với người Do thái còn là dấu chỉ phán xét của TC; Quả thực, thời đó người ta tưởng rằng bệnh nhân mắc bệnh đó là vì tội lỗi cá nhân của y bị TC trừng phạt, nên không được tham dự vào đời sống của cộng đoàn. Quan niệm đó được rút từ kinh thánh, ví dụ trong sách Đệ-nhị-luật: “Nếu ngươi không nghe lời Giavê, TC của ngươi, mà tuân hành mọi giới luật Ngài ban... Giâvê sẽ giáng xuống ngươi bệnh lở lói kinh khủng nơi đầu gối và chân, ăn từ bàn chân đến đỉnh đầu không sao chữa nổi (Đnl 28,15.35).
2. Đối với người Samatitanô cũng như người Do thái, phong cùi không phải là một thứ bệnh thông thường, mà là dấu chỉ của tội lỗi, của hình paht TC giáng xuống; nó làm bệnh nhân mất phẩm cách con cái TC và loại họ ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Khi thấy nhóm người phong cùi van xin mình, CGS chỉ phán một lời (mà giờ chúng ta đã quán triệt): “Hãy đi trình diện với các thày tư tế.... Họ sẽ chính thức cho thấy họ không còn bị phạt nữa nhưng đã được giao hòa với Chúa và nhờ đó sẽ được tái nhập cộng đoàn. Qua phép lạ này, CGS cho thấy chương trình cứu rỗi của Ngài nhằm làm con người trở thành con cái TC, cũng như thành anh em với mọi người khác trong sự hiệp thông huynh đệ. Số lượng bệnh nhân được chữa lành thật đông đảo, cũng là dấu chỉ cho thấy tất cả mọi người đều được Chúa cứu thoát, không phân biệt quốc tịch, chủng tộc...
3. Người Samatitanô quay trở lại gặp CGS. Tất cả các người phong cùi đều được chữa lành, đều được Chúa ân cần săn sóc yêu thương, cũng thế mọi người đều được tình yêu liên lỉ của Chúa nâng đỡ chở che. Không ai bị loại ra khỏi phạm vi hoạt động của Đức Kitô. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Nhưng thử hỏi trong số 10 người đã có người nào biết và nhận ra Chúa ? Chính chúng ta, trong 10 lần thử hỏi đã cám ơn Chúa lần nào chưa ? Không chắc. Cám ơn không phải là dễ.
4. Người Samatitanô đã biết Chúa đang hành động trong CGS; việc đi gặp CGS sau khi lành bệnh, chứng tỏ anh đã nhận ra Chúa của anh, vì thế anh đã sấp mặt xuống đất và tạ ơn. Chính bấy giờ CGS với anh lời lạ lùng này: “Hãy chỗi dậy mà đi, lòng tin của anh đã cứu anh”. Sau khi được chữa lành, anh trở lại bên CGS, cám ơn và tôn vinh TC. Cách cư xử của anh làm anh đáng được cứu thoát. CGS không nói: Ta cứu anh, nhưng nói: lòng tin của anh đã cứu anh. Anh đã nhận ra hành động của Chúa, đã vui vẻ chấp nhận và dâng lại cho Ngài. Trái lại, 9 người kia không được cứu thoát, dù đã được yêu thương như người Samatitanô. Họ đòi hỏi và đã nhận được, nhưng họ chỉ giữ lại ơn Chúa cho riêng họ, vì tư lợi của họ. Họ chỉ yêu thích chính mình; nên dù được Chúa thương mến điều đó không sinh ích gì cho họ.
5. Phần thứ hai bổ túc phần thứ nhất của đoạn phúc âm hôm nay. Nếu mỗi người có thể được Đức Kitô cứu rỗi và chỉ nhờ một mình Ngài mà thôi, thì hành động của Chúa chỉ có hiệu quả, nếu chúng ta biết cởi mở dâng lại mọi sự cho Ngài.
6. Bí tích Thánh Thể chúng ta đang tham dự hôm nay, thực hiện tất cả những gì chúng ta mới khám phá. Là hành động nhờ đó Đức Kitô đã cứu rỗi và biến đổi chúng ta. Thánh Thể cũng là phương tiện nhờ đó chúng ta ta ơn Chúa, vì mọi điều Ngài đã ban cho chúng ta, và nhờ đó chúng ta dâng lại cho Ngài mọi hồng ân Ngài đã ban. Hãy sốt sắng thông hiệp và tham dự thánh lễ đang được cử hành.
CHÚA NHẬT 28/QUANH NĂM C: BIẾT TẠ ƠN CHÚA
Người thi ơn không đòi phải biết ơn, không đòi phải có đáp đền, nhưng người nhận ơn không tỏ lòng biết ơn thì thua con chó người ta nuôi trong nhà !
Người nhận ơn phải tỏ cử chỉ biết ơn vì:
- Giá trị kinh tế vật càng đắt thì ơn càng nặng.
- Nhận quà tặng là cắt xén một phần sự sống nơi người thi ơn. Ví dụ: Tôi nhận của một bà cụ một chục trứng, là bà phải nhịn ăn, bớt khoẻ, bớt sống !
- Người nhận ơn phải biết là mình được chọn trong muôn người. Vì tại sao người khác còn khổ hơn tôi mà họ không có người giúp còn tôi?
Chính Thánh Phaolô đã nhận ra giá trị này khi ông nói: “Tôi là người thứ nhất được Chúa cứu độ” (I Tm. 1,15), “Chúa đã yêu tôi, liều chết vì tôi” (Gal. 2,20), chứ không phải chỉ vì Chúa thương mọi người mà thôi !
Tuy nhiên Thiên Chúa không cần người ta phải tỏ lòng biết ơn Ngài như người đời, vì lời tạ ơn của ta không thêm gì cho Chúa. Nhưng phải tạ ơn theo ý Chúa dạy để đem lại ơn cứu độ cho ta.
MỤC ĐÍCH CHÚA BAN ƠN
Có quyền nói ngay: Chúa ban ơn cho thể xác để thăng tiến Đức tin và nhất là để được ơn cứu độ:
1/ Được ơn thể xác để thăng tiến Đức tin:
Naaman về làm theo lời ngôn sứ Elysê, ông được ơn khỏi cùi, nhờ đó Đức tin ông thăng tiến:
a. Chỉ nhận Giavê là Chúa: Naaman là người ngoại Giáo, sau khi được khỏi cùi, ông tuyên xưng Đức tin trước mặt mọi người: “Khắp cả và Thiên hạ, không đâu có Thiên Chúa, trừ phi là ở Israel, và cụ thể từ nay tôi không dâng thượng hiến và lễ tế thần linh cho một Đấng nào khác ngoài Chúa”(2 V.5,15.17b)
Không biết những người việt chúng ta nghĩ sang ngoại quốc sống là một ơn Chúa, thì khi ở nước ngoài có đạo đức, có thăng tiến Đức tin hơn khi còn ở Việt Nam hay không ? Hay ngược lại?
b. Nhận ra chỉ có đất Israel là Đất Thánh:
Vì ơn cứu độ phát xuất từ Do Thái (Ga 4,22), hay ơn cứu độ bung lên từ Giêrusalem đi khắp thế giới. Tư tưởng này tác giả Luca đã diễn tả trong Tin Mừng hôm nay: “Đức Giêsu lên Giêrusalem Ngài đã ngang qua Samari và Galilê” (Lc 17,11). Như thế là đi ngược tuyến đường sao? Vì theo nhất lãm, đời công khai trong 3 năm của Chúa chỉ có một lộ trình từ Galilê đến Samari tới Giêrusalem.
Naaman đã nhận ra Giá trị đất Israel, đất Giêrusalem, nơi xuất phát ơn cứu độ, cho nên khi ông về Syria quê ông sinh sống, ông cũng chỉ muốn sinh hoạt tôn giáo của ông trên đất Israel, do đó ông xin Elysê ít đất bằng hai con la trở về nhà để ông lập bàn thờ kính Chúa.
Niềm vui tôn giáo này của Naaman chứng tỏ ông không còn là người ngoại, mà là người Israel mới, vì người Do Thái xác tín rằng: Bài ca kính Chúa trời, làm sao ta hát nổi. Nơi đất khách quê người (ở Babylon hay ở Syria). Giêrusalem hỡi lòng này nếu quên ngươi, thì ta gãy đàn thành tê bại !(Tv 136 4-5)
Biết bao người ngoại Giáo được ơn Chúa, hỏi sau đó được mấy người vào Hội Thánh là đất Israel mới để ca tụng Chúa?
2/ Chúa cứu thể xác phải là dấu chỉ Chúa cứu Linh hồn:
Mục đích Chúa Cha ban tặng con một Ngài cho thế gian, nhờ Đức Giêsu Kitô, con người được sống đời đời là chứng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và Chân thật, và Đấng Cha đã sai, Giêsu Kitô”(Ga 17,3)
Như thế ơn thể xác chỉ là sự sống biểu kiến ; nhận ra Thiên Chúa độc nhất như ông Naaman là người đang đi đến sự sống đời đời; chỉ có 1/10 người khỏi cùi nhận ra Đức Giêsu Kitô, Đấng Cha đã sai, và tôn thờ Ngài là Chúa duy nhất, người cùi Samari này mới đạt được sự sống đời đời và như thế chỉ có người này mới đạt được trọn vẹn mục đích Chúa ban ơn, được cứu cả xác lẫn hồn (người Do Thái xưa không lạy ai trừ Thiên Chúa mà người cùi Samari này đã làm).
B. LỜI TẠ ƠN CHÚA CHỈ ĐƯỢC HOÀN TẤT TRONG ĐỨC GIÊSU KITÔ:
Tại sao chín người Do Thái khỏi cùi kéo nhau lên Giêrusalem để trình diện với hàng tư tế và dâng lễ tạ ơn theo luật dạy (Lv 14,2-20), mà Đức Giêsu không chấm giá trị, Ngài hỏi người cùi Samari: “Không phải là cả 10 người được khỏi cùi sao? 9 người kia đâu, sao không thấy họ trở lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ phi con người dị chủng này?” (Lc 17,17-18).
Câu hỏi này chính là Đức Kitô muốn tuyên bố nghi thức phụng vụ của Do Thái Giáo đã đến lúc phải chấm dứt, vì đó chỉ là hình bóng của phục vụ Thiên quốc, chỉ có phụng vụ “Chính nhờ Giêsu, với Giêsu và trong Giêsu, mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Thiên Chúa là Cha, cùng với Chúa Thánh thần” (lời kết kinh nguyện Thánh Thể). Đây mới là phụng vụ Thiên Chúa chấp nhận, như lời Chúa Giêsu đã nói và chỉ phụ nữ Samari: “Này bà hãy tin Ta, sẽ đến giờ không phải trên núi Saridim hay tại Giêrusalem, mà các ngươi thờ phượng Cha ! Nhưng giờ sẽ đến - và là ngay bây giờ - những kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế”(Ga 4, 21.23).
“Thờ phượng Cha trong Thần Khí và Sự Thật”, theo thư Do Thái, Thánh Phaolô nói: “Phụng vụ Chúa Giêsu thiết lập cho Hội Thánh đã thay thế cho phụng vụ Do Thái Giáo”.
Vậy người ta không được nói trống: Chúa ở khắp mọi nơi, thờ Chúa ở đâu cũng được dù trong Lời Chúa cũng biết, cũng đủ rồi ! Mà phải xác tín rằng: ai thờ Chúa đích thực họ phải:
- Thuộc về Hội Thánh qua Bí tích Thánh Tẩy.
- Tôn thờ Thiên Chúa trong Phụng vụ của Hội Thánh, nhất là dâng lễ (Thánh Thể)
Như thế, khi người ta coi thường Phụng vụ của Hội Thánh: không dự kinh Phụng vụ, không lãnh nhận Bí tích; đi lễ không nghe Lời Chúa, không rước lễ mà lại sốt sắng làm các việc đạo đức khác, thì cùng lắm họ chỉ như chín người cùi lên đền thờ trong Tin Mừng hôm nay. Mà ta biết, cả người phàm như Elysê còn không muốn nhận lễ vật vàng bạc, Châu báu của Naaman (xem 2V; 5,15-16), huống hồ Thiên Chúa làm chủ muôn vật lại thèm khát báu vật dâng ngoài phục vụ của Hội Thánh sao?
Tuy nhiên lời tạ ơn Chúa cũng không chỉ dừng lại trong phụng vụ, mà cả đời chịu ơn Chúa phải gắn liền với Đức Kitô như mẫu người của Phaolô trong bài đọc II hôm nay: Tôi bị xiềng xích bởi Tin Mừng vì các kẻ được chọn lãnh phúc trong Đức Kitô (2tm, 2,9-10)
Bị Tin Mừng xiềng xích là sao? Đó là kẻ tin Chúa nhất cử nhất động, từ tư tưởng, lời nói, việc làm của họ phải do Tin Mừng cho phép, thúc đẩy, phù hợp ý Chúa.
Một người sống như thế khi họ dâng lễ, chính đời họ là của lẽ kết hợp với của lễ Đức Giêsu Kitô đang dâng lên Chúa Cha tuyệt hảo nhất
Trong Thánh Lễ mỗi ngày ta tham dự, nếu chưa sống được thế, ta hãy sám hối và xin Chúa ban ơn giúp thực hiện được niềm tin đi vào mầu nhiệm ơn cứ độ đã được Giáo lý hôm nay dạy.
Lòng biết ơn là một đức tính cao quí của con người, xong nhiều lúc loài cầm thú còn biết sống tâm tình tốt đẹp đó hơn con người, chẳng vậy mà trong dân gian vẫn có câu than: Cứu vật, vật trả ơn; cứu người, người trả oán! Đây là một sự thật quá phủ phàng làm đau lòng người quá đổi! Đúng lý ra, con người có trí khôn, biết suy nghĩ phải biết hành xử với ân nhân của mình tốt hơn loài vật, nhưng trong thực tế cuộc sống, con người đã thua kém loài vật trong việc báo đáp ơn nghĩa!
Được làm người là một hồng ân cao quí chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và làm người để cất tiếng ca tụng ngợi khen sự thánh thiện và quyền năng của Chúa là một đặc ân Ngài đã ban cho chúng ta. Vì chính Chúa Giêsu đã sống kiếp con người để nêu gương cho hết thảy phàm nhân, hãy biết suy tôn và cảm tạ Thiên Chúa luôn trong cuộc đời. Và lời tri ân cảm tạ tốt đẹp nhất người ta có thể dành cho Thiên Chúa chính là thực hiện thánh ý Ngài trong đời sống của mình, như Chúa Giêsu đã can đảm chấp nhận từ bỏ ý riêng mình để thực hiện thánh ý Chúa Cha, cho dù phải chết oan ức tủi nhục trên cây thập tự. Đó chính là của lễ tạ ơn tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa Cha vẫn thương đoái nhận trên bàn thờ mỗi ngày. Chúng ta không thể tìm đâu ra một của lễ tạ ơn nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng chính Mình và Máu thánh Con Một Chí Ái của Ngài, bởi nhờ của lễ toàn thiêu tốt đẹp này nên Thiên Chúa vẫn thương tha thứ bao tội lỗi cho đa số nhân loại vô tình bội bạc với Ngài.
Vậy sống tâm tình tạ ơn, là ta biết trân quí hết mọi ơn huệ lớn bé Thiên Chúa đã ban cho ta và cả gia đình nhân loại; là sống gần với Thiên Chúa nhất; là sống một cuộc sống cao cả và ý nghĩa hơn kiếp sống cầm thú. “Lòng biết ơn là hoa quả của sự rèn luyện bền bỉ, bạn không gặp thấy nó nơi những kẻ thô lỗ.” (Samuel Johnson, thi sĩ người Anh)
Lạy Chúa, xin giúp con luôn biết bày tỏ lòng tri ân cảm tạ Chúa vì muôn hồng ân cao quí Chúa vẫn thương ban xuống cho con và toàn thể gia đình nhân loại; để môi miệng con luôn vang tiếng ca tụng Chúa đã thực hiện bao điều kỳ diệu như Đức Mẹ đã làm gương: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa.. . ”
1) Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần:
Phần I: Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã chữa cho mười người phong cùi được khỏi do lòng tin của họ được biểu lộ qua lời cầu xin và thái độ vâng lời Người dạy.
Phần II: Trong 10 người được khỏi bệnh chỉ có một người Samari là trở lại tôn vinh Thiên Chúa và tạ ơn Đức Giêsu. Người đã trách những kẻ còn lại như sau: “Thế còn chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” Sau đó Người cho người này về và còn cho biết: “Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
2) CHÚ THÍCH:
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong cùi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi !” (Lc 17,11-13):
+ Trên đường lên Giêrusalem: Đây là lần thứ ba thánh Luca nói tới việc Đức Giêsu đi lên Giêrusalem (Lc 9,51; 13,32). Thành Giêrusalem là đích điểm của cuộc hành trình, và cũng là nơi kết thúc cuộc đời của Đức Giêsu trước khi Tin Mừng được rao giảng đi khắp thế giới (x. Lc 24,47).
+ Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê: Để lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã đi qua đồng bằng sông Giođan và Giêricô (x. Lc 18,35).
+ Người vào một làng kia thì có mười người phong cùi đón gặp Người: Đức Giêsu chưa vào làng, thì có mười người phong cùi đã đón gặp Người. Để tránh cho nhiều người khỏi bị ô uế, Luật Môsê buộc những người cùi phải sống cách xa chỗ ở của dân chúng (x. Lv 13,46).
+ Họ dừng lại đằng xa: Đối với người Do thái, thì bệnh cùi không những là bệnh đáng ghê sợ về thể xác, mà còn là hình phạt mà Đức Chúa dành cho những tội nhân (x. Đnl 28,27). Thời xưa khi khoa học chưa tiến bộ, nên khi thấy một số triệu chứng nghi ngờ trên da bệnh nhân, các tư tế dễ qui cho người ta bị mắc bệnh này (x. Lv 13,9-17). Người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và khi thấy người lành đến gần thì phải kêu lên “Ô uế ! Ô uế !” cho người ta tránh xa (x. Lv 13,45).
+ “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi !”: Chữ “Thầy” ở đây bày tỏ một lòng tin tưởng sâu xa. Chữ này chỉ thấy trong Tin Mừng Luca và do các môn đệ xử dụng (x. Lc 5,5; 8,24-45; 9,33.49). Trong câu này là trường hợp duy nhất tước hiệu Thầy do các người phong cùi dùng. Họ không những coi Đức Giêsu là một Ráp-bi, mà còn là Đấng quyền năng giàu lòng nhân ái mà họ từng nghe biết.
Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Đang khi đi thì họ đã được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari (Lc 17,14-16):
+ “ Hãy đi trình diện với các tư tế”: Khi ra lệnh cho các người cùi đi trình diện với các tư tế, Đức Giêsu đã gián tiếp chữa bệnh dựa vào lòng tin của các bệnh nhân. Sau đó, nhờ vâng lời Đức Giêsu là đến với các tư tế để họ chứng nhận cho mình đã khỏi bệnh (x. Lv 13,49). Quả thật, khi đi đường thì họ thấy mình được lành sạch. Qua phép lạ này, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người vừa là Đấng quyền năng, lại vừa trung thành giữ Lề Luật (x. Lv 14,2-3).
+ lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa: Luca thích ghi nhận thái độ của người nhận được phép lạ là tôn vinh Đức Chúa (x. Lc 5,25-26; 7,16; 13,13; 17,15.18; 18,43; 19,37).
+ Anh ta lại là người Samari: Người Do thái coi người Samari là hạng người đáng khinh. Thế mà người Samari này lại tỏ lòng biết ơn bằng việc quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Qua đó ta hiểu rằng Đức Giêsu đến là để cứu chuộc mọi người, không phân biệt Do thái với dân ngoại.
Đức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ?” Rồi người nói với anh ta: “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh” (Lc 17,17-19):
+ “Không phải cả mười người đều được sạch sao ?”: Đức Giêsu đón chờ tất cả 10 người đều quay trở lại. Nhưng chỉ có người Samari là bày tỏ lòng biết ơn bằng cách trở lại tôn vinh Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Chín người kia là người Do thái đã không trở lại cám ơn, có lẽ họ nghĩ rằng mình là dân Do thái được ưu tuyển, nên có quyền đòi Chúa phải ban ơn mà họ không cần phải cám ơn Người.
+ “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”: Đức Giêsu ưu ái cách riêng với người Samari ngoại đạo, vì anh đã bày tỏ lòng biết ơn. Người cho biết: ơn cứu độ được ban cho người ta không căn cứ trên nguồn gốc Do thái hay dân ngoại, nhưng căn cứ trên lòng tin. Một lòng tin thực sự phải được biểu lộ không những bằng lời xin ơn, mà còn bằng việc biết ơn Chúa và tôn vinh Người khi được ơn Chúa ban.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
CHỦ ĐỀ 1: TÔN VINH CHÚA: BỔN PHẬN CỦA NGƯỜI NHẬN ƠN
1) LỜI CHÚA: “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này ? “ (Lc 17,17-18).
2) CÂU CHUYỆN 1:
- TÔN VINH CHÚA BẰNG NHỮNG BÀI THƠ SIÊU THOÁT:
HÀN MẶC TỬ sinh năm 1912, bị mắc bệnh phong cùi và chết khi mới được 28 xuân xanh. Tuy không được Chúa cho khỏi bệnh phong cùi về mặt thể xác, nhưng ông lại được ơn có một đức tin lạ lùng, biểu lộ bằng những vần thơ siêu thoát thánh thiện. Nhà thơ Chế lan Viên đã hết lời ca ngợi ông như sau: “Hàn Mặc Tử là đỉnh cao chói lòa trong văn học đầu thế kỷ, thậm chí của các thế kỷ”. Hàn Mặc Tử chói lòa bằng những vần thơ như sau: “Ave Maria linh hồn tôi ớn lạnh. Run như run thần tử thấy long nhan. Run như run hơi thở chạm tơ vàng. Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”. Nhạc sư Hải Linh đã phổ nhạc bài thơ trên với cung điệu thần nhạc đầy ơn phúc.
Ơn phúc của Hàn Mặc Tử không phải là được khỏi bệnh phần xác, nhưng ơn phúc ông được là trở nên một nhà thơ của Nước Trời. Chính đức tin của Hàn Mặc Tử cũng đã chữa thân xác nặng trĩu đau khổ bằng những bài thơ tuyệt diệu, cảm tạ tôn vinh Mẹ Chúa Thiên Đình. Đức tin của ông đã làm dịu đi đôi bàn tay đang bị gậm nhấm, quên đi đôi mắt đã bị mù lòa, để tâm tư lắng đọng trong dòng nước ơn thánh, cho hồn bay bổng, lặng nghe trời giải nghĩa thế nào là tình yêu: “Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều, Để nghe dưới đáy nước hồ reo, Để nghe tơ liễu rung trong gió, Để nghe trời giải nghĩa chữ yêu”.
Đức tin của Hàn Mặc Tử đã giải thoát tâm hồn ông khỏi cảnh cô đơn đày đọa, để hòa nhập vào thần nhạc sáng hơn trăng, ngợp trong vạn ánh hào quang ngời chói: “Hồn tôi bay tới bao giờ mới đậu, Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang”.
- TÔN VINH CHÚA BẰNG HÀNH ĐỘNG QUÊN MÌNH PHỤC VỤ THA NHÂN: Trong một chuyến bay từ Rôma về Nữu Ước, Tổng Giám Mục Phun-tơn Sin (FULTON SHEEN) đang chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng không xinh đẹp đang đi lại phục vụ hành khách. Thấy cử chỉ lạ lùng của vị Giám Mục, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi: “Thưa Đức Cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế ? Vị Tổng Giám Mục mỉm cười đáp: “Vì đôi mắt của con đẹp lắm ! Con phải cám ơn Chúa thật nhiều, vì Người đã ban cho con có đôi mắt đẹp như thế”. Cô tiếp viên hỏi: “Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây ?” Bấy giờ vị Tổng Giám Mục nhìn thẳng vào mặt cô và nói: “Con ơi, Chúa đã lấy tất cả cái đẹp của nhiều người phong cùi ở trại cùi Di Linh Việt Nam mà tặng cho con đấy. Nếu con muốn cám ơn Chúa thì hãy mau đến nơi đó mà phục vụ những bệnh nhân cùi đang đau khổ kia. Sau đó một thời gian, người ta thấy một chị nữ tu có khuôn mặt xinh đẹp đang tận tụy rửa sạch và băng bó các vết thương lở loét cho các người cùi tại trại cùi Di Linh. Người nữ tu đó không ai khác hơn là cô tiếp viên hàng không đã nói chuyện với Tổng Giám Mục Phun-tơn Sin cách đó ít lâu. Cô đã vâng lời dâng hiến cuộc đời để đến nơi hẻo lánh phục vụ những bệnh nhân cùi.
3) SUY NIỆM:
- Mười người phong cùi đón gặp Đức Giêsu. Họ chỉ dám đứng xa và nài xin Người thương xót. Đức Giêsu không chữa cho họ ngay để thử thách lòng tin của họ. Người bảo họ hãy đi trình diện với tư tế như thể họ đã được khỏi bệnh rồi. Mười người phong này đã vâng lời Người lên đường. Trên đường đi, tất cả bọn đều đã được khỏi bệnh. Sau đó 9 người Do thái không còn nhớ tới Đức Giêsu nữa. Riêng người Samari thi quay trở lại để tỏ lòng biết ơn Người. Anh ta tôn vinh quyền năng Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Đức Giêsu.
- Đức Giêsu ngạc nhiên hỏi: “Thế còn chín người kia đâu ?”. Khi hỏi như vậy, không phải Người muốn đòi được cám ơn, nhưng Người mong họ quay lại gặp Người để ban cho họ đức tin là ơn đáng quí hơn ơn được khỏi bệnh.
- Thế thì chín người kia đâu ? Nhóm 10 người được chia thành hai nhóm nhỏ: Nhóm một người Samari biết cám ơn và nhóm chín người Do thái vô ơn. Mỗi người chúng ta hãy tự xét mình: Tôi thuộc nhóm nào trong hai nhóm trên ? Có khi tôi thuộc nhóm chín người khi không biết cám ơn Chúa. Không cám ơn vì đã quá quen, đến độ coi ơn đó chỉ là một điều tự nhiên, không cần phải quan tâm để cám ơn.
- Thật ra biết ơn phải là tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của chúng ta. Toàn bộ cuộc đời chúng ta là một chuỗi những hồng ân và chúng ta phải sống cuộc đời mình như một lời tạ ơn không ngừng. Tạ ơn là thấy được Tình Thương của Chúa ấp ủ và quyết tâm làm mọi sự để đáp lại Tình Thương đó. Chúng ta đã nhận được biết bao ơn Chúa ban, qua những người xa lạ hay thân quen. Cuộc đời của ta là một quà tặng của Thiên Chúa. Ước gì nó trở thành quà tặng mà chúng ta sẵn sàng chia sẻ cho mọi người.
4) THẢO LUẬN:
- Theo bạn, tại sao ngày nay nhiều bạn trẻ vẫn thường tỏ ra vô ơn đối với cha mẹ, thầy cô…là những người đã làm ơn cho mình ?
- Có khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những khó khăn và những vấp ngã trong cuộc sống không ? Bạn có cảm thấy những điều rủi ro thất bại trong đời bạn có thể là những hồng ân do Chúa gửi đến mà bạn phải cám ơn Người hay không ?
CHỦ ĐỀ II: GIÁO DỤC LÒNG BIẾT ƠN
1) CÂU CHUYỆN 1: NHIỆM VỤ CỦA CHA MẸ LÀ PHẢI DẠY CON BIẾT ƠN.
Một hôm có người hỏi đùa một người dân sống ở miền Nam Hoa Kỳ rằng: “Miền Nam bắt đầu từ đâu vậy ?” Ong ta kiêu hãnh trả lời: “Từ chỗ mà bạn gặp thấy những đứa trẻ luôn tỏ ra lễ phép để trả lời bạn bằng câu nói này: ‘Thưa ông vâng ạ ! Thưa bà không ạ !’…” Tuy nhiên, phẩm chất con người không liên quan đến nơi chốn. Nhiều trẻ em ở các nơi khác cũng có thể trả lời cách lễ phép như vậy. Trẻ em học được cách ăn nói lễ phép chủ yếu là do cha mẹ chúng dạy dỗ chúng hay không. Bạn sẽ hài lòng khi một ngày nào đó đứa con của bạn nói với bạn rằng: “Con cám ơn ba má vì đã dạy con biết nói hai tiếng ‘cám ơn’!”
2) CÂU CHUYỆN 2: PHẢI BIẾT NÓI LỜI CÁM ƠN MỖI KHI ĐƯỢC GIÚP ĐỠ.
Một cậu bé đang ngồi ở hàng ghế đầu trên xe buýt. Em thấy một ông cụ già run run bước lên xe và sau đó đảo mắt qua các hàng ghế để tìm ghế ngồi. Nhưng lúc đó trên xe đã chật không còn một chỗ trống. Em cảm thấy thương cụ già phải đứng, nên đã tự động đứng dậy nhường ghế cho cụ. Ong cụ tươi nét mặt và ung dung ngồi xuống mà không nói một lời nào. Cậu bé đã được cha mẹ dạy phải cám ơn khi ai đó làm ơn cho mình, thấy cụ già không biết cám ơn thì cảm thấy bực mình. Cậu nói với cụ già rằng: “Thưa cụ, cụ vừa nói điều gì vậy ?” Cụ già đáp: “Không. Ta không nói gì cả”. Bấy giờ cậu bé liền nói như để nhắc nhở ông cụ rằng: “Vậy mà cháu cứ tưởng cụ đã nói với cháu hai tiếng ‘cám ơn’ chứ”.
2) CÂU CHUYỆN 3: ĐIỀU QUAN TRỌNG LÀ PHẢI TẠ ƠN CHÚA.
BAI-ƠN ĐEN (Byron Dell) kể lại câu chuyện liên quan đến ông hồi còn nhỏ như sau: “Tôi đã lớn lên tại một nông tại miền Nê-bát-ca (Nebraska). Khi lên tám tuổi, tôi có nuôi một con ngựa nhỏ tên là Phít-ki (Frisky). Một buổi sáng kia, khi tôi đang ngồi trên lưng con ngựa thân yêu và tiến đến gần mấy con bò cái đang ăn cỏ, thì bổng nhiên chú ngựa con tôi đang cưỡi nổi hứng lên và vùng chạy như điên mà tôi không sao ghìm cương cho nó đứng lại được. Mấy lần tôi sắp bị té lăn xuống đất, nhưng may sao tôi đã kịp gượng ngồi lại được trên yên ngựa. Ba tôi cùng mấy người giúp việc vội vàng leo lên ngựa đuổi theo tôi. Sau mấy cấy số băng rừng lội suối, cuối cùng ba tôi cũng đã bắt kịp tôi. Ba tôi bỏ ngựa của mình và nhảy sang ngồi sau lưng tôi. Ong nắm chặt giây cương và bắt nó dừng lại. Sau đó ba tôi bồng tôi sang ngồi trên yên ngựa của ông và dắt con ngựa của tôi chạy theo phía sau. Nó ngoan ngoản theo chân con ngựa con ngựa của chúng tôi quay về nông trại. Tối hôm đó, ba tôi theo tôi đã lên tận giường tôi trên gác. Ong yêu cầu tôi cùng ông quì trên sàn cạnh giường để tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho tôi an toàn. Ong đọc to một lời cầu tự phát để cảm tạ ơn Chúa thay cho tôi”.
Biến cố ấy xảy ra cách đây đã 55 năm. Thế mà Bai-ơn vẫn không bao giờ quên được. Nó làm cho ông cảm thấy xúc động và cảm phục ba ông nhiều hơn. Nhất là biến cố đó đã dạy cho Bai-ơn bài học về lòng biết ơn đối với Chúa. Từ ngày ấy, mỗi tối trước khi đi ngủ, ông đều quì bên giường đọc ít kinh và thưa với Chúa bằng một lời cầu nguyện tự phát để cám ơn Người đã ban các ơn hồn xác cho ông trong một ngày đã qua.
II. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) LẠY CHÚA GIÊSU, Thánh Inhaxiô đã nói: “Tội lớn nhất nơi con người là tội vô ơn”. Hôm nay, Chúa dạy chúng con bài học phải biết cám ơn Chúa. Cám ơn Chúa như người cùi Samari biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa sau khi thấy mình được lành sạch. Con phải cám ơn Chúa vì đó là điều mang lại lợi ích cho con, như lời kinh tiền tụng trong thánh lễ: Việc tạ ơn không thêm gì cho Chúa, nhưng mang lại lợi ích cho phần rỗi đời đời của con.
LẠY CHÚA. Chúa đã ban cho con biết bao hồng ân mà nhiều khi con không ý thức đó là một ơn: Có lẽ ít khi nào con tạ ơn Chúa vì con đã được làm người và được làm con cái Chúa: Có lẽ chưa khi nào con tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho con khí trời để thở, vũ trụ thiên nhiên tươi đẹp để con được sống vui tươi. Cũng ít khi nào con tạ ơn Chúa vì con được Chúa ban ơn mạnh khỏe, thân xác lành lặn, tâm hồn bình an…Quả thực, đó là những ơn to lớn mà con cứ tưởng là chuyện tự nhiên, nên con đã vô ơn với Chúa. Xin Chúa cho con luôn biết nhận ra những ơn lành Chúa đã thương ban và không ngừng dâng lời cảm tạ tri ân.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) LẠY MẸ MARIA, nhiều lần con đã chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ tạ ơn Chúa cho con sau những lần con được như ý như được thi đậu, buôn bán có lời, khỏi một cơn bệnh liệt giường…Con đem tới nhà thờ một bó hoa, xin một thánh lễ, và yên tâm là mình đã tạ ơn Chúa. Nhưng thật ra Chúa đâu cần những bó bông của con, cũng như đâu cần lễ tế chiên bò của dân Do thái khi xưa. Chỉ những việc làm theo Thánh ý Chúa mới là của lễ đích thực làm đẹp lòng Chúa. Chúa muốn việc tạ ơn của con phải kéo dài trong đời sống của con, trong cách ăn nết ở theo lời Chúa dạy. Xin Mẹ giúp con luôn sống xứng đáng với tình thương của Chúa bằng một đời sống tốt lành, yêu thương và phục vụ.
LẠY MẸ, Xin dạy con biết dâng lời cảm tạ tri ân Chúa, vì những ơn lành Chúa đã thương ban. Mỗi khi con gặp một điều trái ý, hay khi con cầu xin một điều tốt mà Chúa vẫn ngoảnh mặt làm ngơ không chấp nhận, xin Mẹ giúp con nhận ra thánh ý Chúa, nhận ra tình thương của Chúa luôn bao bọc đời con. Xin cho con ý thức rằng: sở dĩ Chúa không ban theo ý con xin, là vì những điều đó có hại cho phần rỗi đời đời của con. Xin cho con luôn vững tin vào tình thương của Chúa, dù con không hiểu hết những gì Chúa đã làm cho con. Xin cho đời con trở thành một bài ca cảm tạ ngơi khen và tri ân Chúa không ngừng, vì Chúa đã làm những điều trọng đại nơi con, như Mẹ đã làm xưa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Vào buổi sáng tinh mơ “Ngày Thứ Nhất trong tuần” cách đây 2000 năm, ở trước “Ngôi Mộ Trống” gần Núi Sọ đã vang lên hai tiếng”MARIA” và “RABBOUNI”. “MARIA” chính là lời gọi của Đức Kitô, “ĐẤNG PHỤC SINH” và “RABBOUNI” là lời đáp của cô Maria Mác-đa-la đang tan nát cõi lòng và mang cả một trời thất vọng buồn tênh. Và cũng khởi đi từ giây phút nhiệm mầu có một không hai ấy, mối quan hệ giữa đất và trời, giữa Chúa và người, giữa Đấng Cứu độ và nhân loại tội lỗi… tưởng đâu đã nổ tung và cắt đứt với buổi chiểu thê lương “NGÀY THỨ SÁU TỬ NẠN”, lại được một lần nối lại cách vĩnh viễn và phong phú bội phần. Chúng ta có thể đọc thấy trong hai tiếng “MARIA”, và “RABBOUNI” ấy âm vang bao nhiêu nội dung: đó chính là TIẾNG GỌI MỜI VÀ LỜI ĐÁP TRẢ”, ĐÓ CHÍNH NHẮC NHỞ VÀ HOÀI NIỆM THÂN THƯƠNG, ĐÓ CHÍNH LÀ CUỘC MẶC KHẢI CỦA TÌNH YÊU VÀ LÒNG TRI ÂN CẢM TẠ…Nói tóm lại: đó chính là ĐỨC TIN. Một đức tin đến bởi từ lời mời gọi, nhắc nhở không mệt mõi của Thiên Chúa về những hồng ân kỳ công mà Ngài đã thực hiện, một đức tin của con người biết khiêm hạ lắng nghe để nhớ, để thương mà tri ân cảm tạ.
Và cũng chính vì thế, chúng ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên, sao bài đọc thứ nhất hôm nay, phụng vụ lại chọn trích đoạn sách Các Vua quyển thứ hai để tường thuật cho chúng ta câu chuyện vị lãnh tướng Naaman xứ Sy-ri đã tin tưởng vào lời sứ ngôn Ê-li-sê-ô dạy bảo đã thực hiện cuộc hành trình đi tắm ở dòng sông Gio-đan và được khỏi bệnh phong cùi. Nhờ hồng ân đặc biệt nầy, ông đã tin và cảm tạ Thiên Chúa. Vâng, đức tin luôn là cuộc hành trình như thế: cuộc hành trình của đáp trả tiếng gọi mời để nhận lãnh hồng ân và trở lại để tri ân cảm tạ.
Và nhất là chúng ta sẽ càng xác tín hơn, khi bài Tin mừng hôm nay, thánh sử Luca tường thuật “hồng ân phép lạ chữa lành 10 người phung cùi của Chúa Giêsu” và nhất là lời nhắc bảo của Ngài sau đó: “Không phải cả mười người đều được sạch sao ? Thế thì chín người kia đâu ? Sao không không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang nầy ?”. Thế đấy, đức tin của chúng ta hôm nay vẫn là môt “đức tin” theo kiểu “đương nhiên”. Tôi giữ đạo như thế, tôi sống tốt như thế, tôi chăm chỉ làm ăn, học hành như thế…thì đương nhiên tôi được như thế, có gì đâu mà phải “tạ ơn, cám ơn”. Và hàng ngày, hàng tháng, hàng năm và có khi cả cuộc đời, có người vẫn không nhận ra được bao nhiêu hồng ân đã lãnh nhận để ngước mắt lên mà thân thưa một lời tạ ơn chân thành và hiếu thảo với Thiên Chúa, Đấng đã bao nhiêu lần gọi mời thân thương và ban tặng những hồng ân cao quí.
Và cũng để nhắc bảo đồ đệ là Giám Mục Ti-mô-thê đừng vội quên Thiên Chúa và hồng ân cao cả của Ngài, nhất là trong những khi gặp thử thách gian nan, Thánh Phaolô đã công bố những lời đầy xác tín: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người…Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng tín trung …”.
Tóm lại, sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nói với chúng ta rằng: Thiên Chúa vẫn có đó để lắng nghe và thông cảm; nhất là vẫn luôn gọi mời, gõ cửa tâm hồn chúng ta, để sẵn sàng ban tặng hồng ân. Điều quan trọng là thái độ đức tin của chúng ta. Sống đức tin đích thực đó là biết mở lòng lắng nghe Lời Thiên Chúa và sẵn sàng đáp trả trong tin yêu phó thác. Một đức tin chân thành sẽ là con đường tất yếu đưa ta tới bến bờ hạnh phúc, như đã đưa viên tướng Sy-ri-a khỏi bệnh phong cúi, như đã đưa người hủi xứ Sa-ma-ri-a chẳng những khỏi bệnh thân xác mà còn được chữa lành cả tâm hồn; và hơn thế nữa, như “Chứng nhân Phao-lô”, tin tưởng, và trung thành làm chứng cho Đức Ki-tô, chúng ta sẽ được dự phần cuộc chiến thắng vinh quang của Đấng Phục sinh trong Vương quốc hằng sống.
Thế nhưng chúng ta đừng quên rằng: Có được đức tin cũng lại là một ân ban của Thiên chúa. Nhờ bí tích rửa tội, người ki-tô hữu chúng ta được ban tặng hồng ân đức tin; và vì thế vẫn tự nhận mình là những “tín hữu”, những kẻ có đức tin. Tuy nhiên, việc thể hiện niềm tin của chúng ta không ít thì nhiều đã nhạt mờ hay xơ cứng. Chúng ta không còn nhạy cảm đối với tiếng nói của Thiên chúa, không còn tỉnh táo táo đủ để lắng nghe và thực hiện Lời Chúa mỗi ngày; thậm chí, không còn biết mau mắn nhận ra bao nhiêu hồng ân Chúa ban tặng để biết mở lòng cảm tạ tri ân.
Thánh lễ hôm nay là dịp để một lần nữa chúng ta thể hiện niềm tin của mình; lắng nghe và tin tưởng vào Lời quyền năng của Thiên Chúa và hân hoan dâng lễ tế hy sinh của Đức Ki-tô để tôn vinh cảm tạ. Chúng ta hãy xác tín rằng, Thiên Chúa một lần nữa đang “thực hiện những việc lạ lùng và biểu tỏ ơn cứu độ của Ngài” cho tất cả chúng ta, như lời Thánh vịnh 97 mà chúng ta cùng hát lên trong đáp vịnh ca vừa rồi. Và như thế, kể từ hôm nay, chúng ta sẽ biến đức tin của chúng ta thành một cuộc “hẹn hò luôn mới mẻ với Thiên Chúa, với Đấng Phục sinh”, một hoài niệm không ngừng để nhớ để thương bao kỳ công và quà tặng của Thiên Chúa, và nhất là “biến đức tin mỗi ngày thành một cuộc hành trình để cảm tạ tri ân”. LM. Jos. Trương Đình Hiền