Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 26 TN-C Bài 151-200 Ngườigiàu có và anh La-da-rô nghèokhó
--------------------------------------- Phúc Âm: Lc 16, 19-31: "Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: "Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các Thiên Thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: 'Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này'. Abraham nói lại: 'Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được'. Người đó lại nói: 'Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này'. Abraham đáp rằng: 'Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài'. Người đó thưa: 'Không đâu, lạy cha Abraham, nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải'. Nhưng Abraham bảo người ấy: 'Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu'". - Ðó là lời Chúa. -----------------------------
Một hôm, được tin có một gia đình đang lâm cảnh cùng quẫn, đến nỗi không còn một chút lương TN 26-C151
Một hôm, được tin có một gia đình đang lâm cảnh cùng quẫn, đến nỗi không còn một chút lương thực cho đàn con đang đói lả; Mẹ Têrêxa Calcutta và một số chị em Dòng Bác Ái tới thăm viếng và đem cho gia đình này một bao gạo. Khi vừa nhận được bao gạo các Nữ Tu tặng, bà mẹ của gia đình này đã vội chia ra làm hai và đem đi một phần, chỉ để lại cho gia đình một phần.
Mẹ Têrêxa rất lấy làm bỡ ngỡ hỏi: "Bà đem đi đâu vậy?" Bà mẹ này trả lời: "Con đem đến cho một gia đình nghèo cũng như gia đình con ở gần đây đang bị đói lả. Con nghĩ cần phải chia sẻ với họ trong hoàn cảnh túng cực này".
Mẹ Têrêxa và các Nữ Tu của Mẹ cảm động đến rơi lệ, trước nghĩa cử bác ái và tấm lòng quảng đại của bà mẹ nghèo trong gia đình túng quẫn này.
I. TẠI SAO NGƯỜI GIẦU BỊ CHÚA CHÚC DỮ
Của cải là những ơn huệ Chúa ban để giúp con người sinh sống mà phụng sự Chúa và làm vinh danh Ngài, vậy tại sao Chúa lại thường nặng lời chúc dữ những người giầu? Chúng ta sẽ đọc thấy những lý do ngay trong những lời Chúa chúc dữ: "Khốn cho các ngươi là những kẻ giầu có, vì các ngươi đã được an ủi rồi! Khốn cho các ngươi là những kẻ hiện nay đã được no nê, vì sau này các ngươi sẽ bị đói khổ! Khốn cho các ngươi bây giờ tươi cười sung sướng, vì mai sau các ngươi sẽ phải âu sầu than khóc!" (Lc 6:24-25)
Trong Cựu Ước, chúng ta thấy Chúa thường ban của cải giầu sang chức quyền cho những tôi trung con thảo của Chúa, chẳng hạn như các tổ phụ: Abraham, Maisen, Đavit, Job. Các ngài thường được Chúa chúc phúc và ban cho đông con nhiều cháu như sao trên trời như cát bãi biển, lại được của cải dư tràn: Vàng bạc, trâu châu, đá ngọc, hạt trai, hoa mầu ruộng đất phì nhiêu, những đoàn gia súc chiên bò, dê cừu vô số... Nhưng các ngài đã luôn ý thức và chân nhận rằng: Tất cả những của cải đó đều là những ơn phúc do lòng nhân từ Chúa ban, còn các ngài chỉ là những viên quản lý những kho tàng Chúa ủy thác, nên phải xử dụng theo đúng thánh ý Chúa. Hơn nữa, các ngài còn ý thức được nhiệm vụ phải làm cho số vốn Chúa trao sinh sôi nảy nở, bằng cách dùng chúng để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho tha nhân. Rồi khi Chúa cất lấy, các ngài thưa với Chúa như tổ thụ Job: "Chúa đã ban cho, rồi Chúa cất lấy, con xin chúc tụng danh Chúa!" Các ngài không phàn nàn kêu trách, mà còn hân hoan xin cho thánh ý Chúa nên trọn.
Nhưng với những người giầu tiền của mà tự kiêu tự đại, cậy chức quyền, cậy tiền của, tự cho mình là chủ mọi sự, không cần đến ai, khinh dể mọi người, ăn chơi xa xỉ, tiêu xài phung phí, chè chén say sưa, yến tiệc tối ngày, hưởng lạc thâu đêm, như trong bài đọc nhất chúng ta vừa nghe. Họ không hề quan tâm đến nỗi thống khổ của những người túng thiếu; họ không hề biết thông cảm với những người xấu số, bị bỏ rơi và cô độc đang rên xiết trong cảnh túng cực.
Chính vì lạm dụng những ơn huệ Chúa ban, mà những người nhiều tiền lắm của này đã chuốc lấy cái khổ vào thân; họ trở nên nô lệ cho tiền của, bị tiền của làm cho họ tối mắt, không nhận ra Đấng làm chủ mọi sự và những ơn huệ Ngài ban, để cảm tạ Ngài.
Để ngăn ngừa chúng ta khỏi mắc phải những lỗi lầm đó, Chúa đã ân cần nhắn nhủ: "Hỡi các ngươi là những kẻ cậy dựa vào tiền của, thật khó vào Nước Thiên Đàng biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Đàng" (Mc 10:24-25) và (Lc 18:24-25).
Dụ ngôn người giầu sang và ông Lazarô nghèo hèn trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã nêu lên cái số phận bi đát của người giầu trong cuộc sống mai hậu, vì ông đã được tận hưởng sự giầu sang phúc quí, mà không hề động lòng trắc ẩn trước nỗi thống khổ nghèo nàn túng thiếu, bệnh tật ghẻ lở của con người xấu số là Lazarô đang ngồi gần cổng nhà ông. Đồng thời, Chúa cũng đề cao cái hạnh phúc may mắn mà Lazarô đã được ân thưởng trên nơi vĩnh phúc. Hai hình ảnh thật tương phản và xa cách nhau muôn phần. Qua lời tổ phụ Abraham nói với người giầu, đang rên xiết cầu cứu sự trợ giúp của Lazarô, cho chúng ta hiểu được bài học Chúa dạy trong dụ ngôn này: "Hỡi con, suốt đời con được toàn sự lành; còn Lazarô toàn gặp sự khốn khó. Vậy bây giờ Lazarô được an ủi ở chốn này; còn con thì phải chịu khốn khổ. Điều đó quả là đích đáng".
II. ĐỂ ĐÁNG ĐƯỢC CHÚA ÂN THƯỞNG
Để đáng được Chúa chúc phúc và ân thưởng hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta trên Quê Trời trong đời sống mai hậu, chúng ta hãy quyết địch thực thi mấy điểm sau đây:
Nếu chúng ta là những người được Chúa ban dư giả những của cải vật chất, chúng ta hãy biết thương cảm những nỗi sầu khổ của tha nhân, bằng cách chia cơm sẻ áo với những người túng thiếu nghèo nàn.
Nếu chúng ta là những người gặp may mắn, có địa vị chức quyền, được mạnh khoẻ, nhiều khả năng, được hưởng an bình, tự do và hạnh phúc, chúng ta hãy dùng những ân huệ Chúa ban để trợ giúp tha nhân, nâng đỡ những người yếu kém cô thân cô thế, an ủi những người sầu khổ, khích lệ những người ngã lòng nản chí, nâng dậy những người sa ngã.
Hơn nữa, là con cái Chúa, chúng ta được hưởng muôn vàn ân huệ siêu nhiên Chúa ban, chúng ta hãy cầu nguyện và trợ giúp những anh chị em chưa được diễm phúc làm con cái Chúa, những người chưa nhận biết chân lý, chưa được ánh sáng Đức Tin chiếu soi, nhất là những người lầm đường lạc lối, những người cố tình chống đối Thiên Chúa, để họ được ơn trở về làm hòa với Chúa, phụng sự và yêu mến Người.
Chúng ta còn có nghĩa vụ khẩn thiết là rao giảng Tin Mừng Cứu Rỗi cho tha nhân, chinh phục họ trở về với Chúa; chúng ta hãy luôn tâm niệm và tự răn mình theo gương Thánh Phaolô: "Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô cho anh chị em tôi". Chớ gì lời đó trở nên lẽ sống thúc đẩy chúng ta luôn biết tha thiết đến phần rỗi anh chị em chúng ta, tức là chu toàn nghĩa vụ đem Chúa đến cho tha nhân, bằng chính cuộc sống thánh thiện như mẫu gương chiếu giãi, trước tiên cho những phần tử trong gia đình, cùng sống chung một nhà, rồi đến họ hàng thân quyến, bạn hữu và tất cả những người chúng ta giao tiếp hằng ngày, tùy theo hoàn cảnh hợp với địa vị và môi trường của mỗi người chúng ta.
Kết Luận
Tấm lòng quảng đại của bà mẹ nghèo trong câu truyện chúng ta vừa nghe, đã biết quan tâm chia sẻ những nhu cầu sinh sống cấp bách, với những người cùng cảnh ngộ đói khổ như mình, là một tấm gương đáng chúng ta suy nghĩ, cảm phục và noi theo bắt chước. Chúng ta lại không có thể hy sinh làm được đôi việc bác ái tương tự như thế cho anh chị em chúng ta vì lòng yêu mến Chúa sao?
Lạy Mẹ, Mẹ là Hiền Mẫu hằng nhân từ thương yêu ban mọi ơn lành cho con cái và tất cả chạy đến cầu khẩn với Mẹ, không bao giờ để họ phải trở về tay không, xin Mẹ dạy chúng con biết noi theo lòng nhân từ bác ái cao cả của Mẹ, để chúng con biết mở rộng tấm lòng trước nỗi thống khổ của tha nhân, như giáo huấn Chúa đã dạy chúng con.
Chúng ta thường bị tình cảm con người lừa gạt. Lý do rất đơn giản là bạn nghĩ việc đó đã được TN 26-C152
Chúng ta thường bị tình cảm con người lừa gạt. Lý do rất đơn giản là bạn nghĩ việc đó đã được giải quyết ổn thoả. Bạn cảm thấy yên tâm, không quan tâm đến nữa. Nghĩ như thế là bạn đang bị lừa gạt bởi sự việc có thể rất đơn giản đối với bạn nhưng xem ra phức tạp với người bạn đối xử với họ. Bạn cho vấn đề đó đơn giản bởi do công việc và địa vị trong xã hội khiến bạn từng giải quyết nhiều vấn đề phức tạp hơn trăm lần; tuy nhiên người khác có thể không có kinh nghiệm đó, điạ vị xã hội của họ không phải giải quyết vấn đề phức tạp nên vấn đề đối với họ là phức tạp. Quan hệ tình cảm, bác ái và lòng xót thương luôn đòi hỏi vừa tế nhị vừa công bằng. Thiếu những điều căn bản này vấn đề thay vì giải quyết êm thắm lại trở nên phức tạp. Có nhiều vấn đề bạn quyên bẵng đi vì công việc quan trọng khác chiếm chỗ nhưng nó lại sống động trong tâm não người khác nhất là khi họ cảm thấy họ là nạn nhân, bị đối xử bất công. Để í một chút bạn sẽ thấy hầu hết thời giờ trong các tiệc tùng, họp mặt người ta luôn nói về những vấn đề giao tế và cách xử thế con người đối xử với nhau trong xã hội. Có những chuyện tốt khi nghe kể lại ai cũng vui và cám ơn lòng tốt, lòng bác ái, thương người của kẻ vô danh nào đó. Lại cũng có hành động xảy ra truớc đó vài ba chục năm vẫn còn được khơi lại như chuyện mới bởi vết thẹo trong tim họ chưa lành và sẵn sàng bật máu khi cơ hội nhắc đến nó. Bị xử oan ức, hàm oan; bị coi thường, khinh khi, lăng mạ; bị vu cáo. Toàn là những bị. Những bị này chất trên vai họ khiến lưng họ cong xuống. Chúng nằm trong kí ức khiến tâm trí họ bị khuấy động. Chúng đè nặng con tim nên con tim hận thù hơn tha thứ. Chúng chợt thức giấc khi tiếng động thức tỉnh chúng.
Một số lý luận không làm gì cả là giải đáp tốt nhất. Thật ra không làm gì cả lại là một loại lừa gạt khác bởi hành động yêu thương, bác ái cần được thể hiện trong mọi hoàn cảnh khi có thể. Không thực thi bác ái là một tội. Chính Đức Kitô xác định điều này và đây cũng là điều mà người giầu trong Phúc âm hôm nay phạm phải- thiếu bác ái với tha nhân. Người giầu có đã bỏ qua hành động yêu thương và đó là cái vạ đời anh. Cả người giầu và người nghèo sống cùng một xóm nhưng cuộc sống hai người quá khác biệt. Người giầu có dư ăn, dư mặc, sống cuộc sống hưởng lạc; ngoài cửa nhà anh có người nghèo nhiều tối đi ngủ bụng đói cồn cào vì thiếu ăn, cơn gió lạnh căm khiến anh co rúm vì thiếu mặc. Cả đời chỉ được đứng ngoài hàng rào nhìn ngó thiên hạ dự tiệc, còn anh chưa bao giờ có cái vinh dự đó. Cuối cùng cả hai cùng chết và cùng gặp nhau trước toà Chúa. Người nghèo vật chất được tổ phụ đón chào, người nghèo bác ái thì không. Người nghèo vật chất được sống an vui, người nghèo bác ái khóc than. Người nghèo vật chất tràn ân sủng Chúa, người nghèo bác ái trắng tay. Người nghèo vật chất có bạn bè đón chào; người nghèo bác ái không cô đơn bởi cuộc sống trần thế của anh không có họ nên khi chết đi họ cũng không biết anh.
Ai sống cuộc đời thực thi bác ái, yêu thương họ sẽ được sống trong bác ái, yêu thương của Thiên Chúa. Ai sống chỉ lo hưởng lạc, khi chết tất cả lạc thú chết theo bởi lạc thú trần thế không gây tình cảm, khi chết họ cô đơn. Hãy sống chân thành, sống cho anh em người, lừa mình nhưng thực thi bác ái, công bình, yêu thương là đường dẫn đến tình yêu chân thật và vĩnh cửu.
Nếu chúng ta chưa thấm nhuần những lời Chúa Giêsu dạy dỗ về đức khó nghèo mà thánh sử Luca TN 26-C153
Nếu chúng ta chưa thấm nhuần những lời Chúa Giêsu dạy dỗ về đức khó nghèo mà thánh sử Luca ghi lại trong Tin Mừng của Ngài, thì hôm nay thánh sử lại kể cho chúng ta một dụ ngôn khác chất lượng hơn. Đó là dụ ngôn ông phú hộ giàu có và Lazarô nghèo khổ cùng cực. Dụ ngôn nói rõ hơn quan điểm của thánh Luca về vấn đề này. Chúng ta thường tìm kiếm mọi lý do để tránh né. Nhưng thánh Luca không khoan nhượng. Ngay từ đầu và trong suốt cả Phúc Âm người nghèo và tinh thần nghèo khó luôn luôn có một chỗ đứng đặc biệt trong trái tim Chúa Giêsu. Họ là những người dễ dàng đón nhận Phúc Âm (4, 17-19). Chính Ngài cũng thuộc hạng người nghèo khổ, ngay từ lúc dâng mình vào đền thờ, của lễ cha mẹ Ngài dâng là của lễ của lớp người nghèo khó (2, 24). Khi ra giảng đạo, Ngài chẳng có chỗ gối đầu (9, 58), khi chết chẳng có mảnh vải che thân (23, 34).
Tuy nhiên, thánh Luca không thực sự liệt kê một cách chính xác chúng ta phải sống thế nào để được gọi là nghèo khó. Ngài chỉ nói rằng phải từ bỏ mọi sự để theo Chúa, như trong Phúc Âm tuần trước: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 15, 33). Vậy mà Lazarô, Mat-ta, Maria vẫn còn có nhà cửa để đón tiếp Ngài và các môn đệ khác. Ông Gia-kêu chỉ phải phân phát có một nửa gia tài mà cũng được khen là theo chân Chúa Giêsu! Cho nên vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ để chúng ta suy gẫm trong ơn soi sáng của ChúaThánh Thần và chúng ta sẽ đáp ứng theo tiếng gọi của Ngài. Có một điểm chắc chắn trong bài Tin mừng hôm nay là đừng tự mãn về sự giàu có và gia sản của mình, nhưng hãy biết chia sẻ với những người cùng cực nghèo khó. Của cải có thể là hòn đá làm ta vấp ngã trên con đường theo Chúa. Có lẽ thánh Luca đang chống lại tính tham lam ích kỷ của các quyền lực tôn giáo lúc ấy (16, 14) coi giàu có là đặc ân Thiên Chúa chúc phúc và khinh rẻ đa số nghèo hèn là tội lỗi. Dụ ngôn sẽ cho chúng ta cái nhìn chính xác hơn.
Ông phú hộ cực kỳ giàu có, ăn vận hết sức sang trọng, toàn lụa là gấm vóc. Ông nổi bật trên nền trời nghèo khó chung quanh ông. Bữa ăn của ông được thánh Luca mô tả là yến tiệc linh đình, nhưng ông lại chẳng có tên! Không hiểu thánh sử có dụng ý ám chỉ đến ai? Các nhà chú giải kinh thánh cho là toàn thể giai cấp Pha-ri-sêu lúc ấy, bởi lẽ nếu nói rõ tên, ngài sẽ bị trù dập và khai trừ. Còn Lazarô thì có tên. Người nghèo thì lấy quyền lực đâu mà trả thù, cho nên phải cắn răng chịu đựng mọi thứ mạt sát. Lời văn của thánh Luca thật là chính xác và cay đắng. Thời nay cũng vậy thôi. Tầng lớp nghèo khó tha hồ chịu đựng những lời thóa mạ chua cay, đắng đót, còn những kẻ sang giàu dù một lời chỉ trích nhẹ nhàng cũng gây nên sóng gió. Cho nên nhiều vị có bổn phận coi sóc linh hồn phải tìm cách tránh né, mặc dầu gương xấu tày đình. Xã hội loài người là như thế đó, không có luật trừ. Sang giàu thì bao giờ cũng kiêu ngạo, chỉ có nghèo hèn mới khiêm nhường được mà thôi. Vậy những linh hồn khiêm nhường phải là những linh hồn có tinh thần nghèo khó và sống thực sự bằng tinh thần ấy. Sống xa hoa không thể nào khiêm tốn được. Có chăng chỉ là giả dối.
Tôi có người bạn thân đi giảng đạo ở Châu Mỹ La Tinh, ông sống với dân da đỏ mười năm, khi trở về nước Mỹ, bất cứ cái chi cũng làm ông ngỡ ngàng. Một hôm tôi đưa ông đi thăm siêu thị, vào gian hàng thực phẩm thấy bầy bán la liệt nước uống tinh khiết, giá một đô la hai mươi lăm xu một chai. Ông ngạc nhiên hỏi: “Vậy thì nước mạch của chúng ta ô nhiễm hết rồi sao? Tôi trả lời: không phải như thế, nhưng bây giờ người ta ưa uống nước này, vệ sinh hơn. Ông tròn xoe đôi mắt nói: Ngần ấy tiền chúng tôi sống được hai ngày. Tôi phải vất vả lắm mới giải thích cho ông hiểu nổi những thức ăn tân thời của nước Mỹ. Tới gian hàng bán đồ ăn cho chó mèo, ông thở dài khi thấy cơ man nào là nhãn hiệu thực phẩm dành riêng cho chó: ước chi những người nghèo khổ của tôi ở Nam Mỹ được những thứ này để ăn”. Phải, chính thế, mọi sự còn tùy vào cách suy nghĩ, cách nhìn sự vật của chúng ta.
Trở lại với dụ ngôn. Có tác giả dịch là Lazarô nằm lê la ở “cổng” nhà người phú hộ, với ngụ ý nhà của ông phú hộ to lớn lắm, đó là một lâu đài. Lazarô ước ao được ăn no nê những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn nhà phú hộ. Liệu Lazarô có phải tranh nhau với mấy chú cho con không nhỉ. Thảm thương đến thế là cùng! Trong thực tế thì còn nhiều hoàn cảnh thảm thương hơn. Cơm không có ăn, áo không có mà mặc, ngày này qua ngày khác nhịn đói chịu rét hoặc có chút cháo rau cầm hơi. Báo chí, Tv nhan nhản những cảnh tượng như thế. Vậy mà ở những chân trời khác, khách sạn ba sao, năm sao mọc lên như nấm; thức ăn, đồ uống thừa thãi, mỗi ngày phải đem chôn hoặc phá huỷ từng nhiều tấn lương thực thực phẩm. Vấn đề không phải là thiếu thốn, mà là ích kỷ, phân phối không đều. Dụ ngôn Lazarô và người phú hộ tân thời nằm ở ý nghĩa đó.
Đối với đa phần trong chúng ta, chẳng ai dám tự nhận là người phú hộ, bởi chúng ta sống theo tiêu chuẩn hiện hành của những người lao động trong xã hội. Thức ăn nhanh, đồ uống pha sẵn, vừa đi làm vừa ăn sáng, nhưng tiêu chuẩn của chúng ta có khi quá đáng, so với những người nghèo đói, nó đã là thịnh soạn (sumptuous) rồi! Các nhà đạo đức thường khuyên nhủ chúng ta mỗi khi ăn uống nên nhớ đến những người nghèo đói, bớt một phần phung phí để giúp đỡ họ (giống như hũ gạo tình thương ở Việt Nam). Bằng không chẳng bao giờ chúng ta có được tinh thần khó nghèo và tình tương thân tương ái. Trong dụ ngôn Chúa Giêsu gọi rõ tên một người nghèo đói, ông Lazarô. Nghĩa là rất cụ thể chứ không phải là chung chung trừu tượng. Không có người nghèo đói trừu tượng, mà chỉ có người đói khổ cụ thể, ở bên cạnh chúng ta, ở gần nhà chúng ta. Ông A, bà B. Phản ứng của chúng ta ra sao? giúp đỡ hay khinh bỉ? số phận của họ là số phận của Chúa Giêsu hay của kẻ bị chúc dữ? điều đó tuỳ thuộc vào viễn tượng mỗi người.
Phần thứ hai của bài dụ ngôn là một nghịch đảo của phần trên. Lazarô được hạnh phúc và người phú hộ bây giờ bất hạnh. Ông van xin tổ phụ Ap-ra-ham sai Lazarô nhúng ngón tay vào nước để làm mát lưỡi ông, nhưng chẳng được, tương tự như xưa kia Lazarô ước ao được ăn những mẩu bánh rơi, nhưng cũng chẳng ai cho! Hố ngăn cách đã có ngay từ khi hai người còn sống!
Đây là quan điểm rất quyết liệt của thánh Luca. Chúng ta nên suy tư cho quán triệt. Cái hố ấy là nghe hoặc không nghe lời Thiên Chúa. Kinh thánh đã quá đủ để chúng ta tự sửa lỗi lầm và nên lành nên thánh, nhưng người ta ưa thích nghe theo dục vọng hơn lời Thiên Chúa, vì vậy cho dù kẻ chết sống lại, người ta cũng không tin. Lời Môisen, lời các tiên tri đã trở nên vô ích. Điều đó vẫn đúng với thực tế hôm nay, bao nhiêu sách vở, thông điệp, lời kêu gọi đều rơi vào quên lãng, người ta vẫn ương ngạnh sống theo sự chỉ đạo của thế gian, ma quỷ và dục vọng. Nếu người ta biết chất vấn lương tâm, hối cải và thành thật sửa lỗi lầm, thì cục diện thế giới đã hoàn toàn đổi khác, chẳng cần đến binh hùng, tướng mạnh.
Bài đọc thứ nhất vẫn còn trích từ sách tiên tri Amos. Ông khiển trách những người giàu có sang trọng trong xứ sở. Báo trước với họ một tai hoạ khủng khiếp (eschaton) sẽ giáng xuống đất nước, nếu họ không ăn năn trở lại, thương kẻ nghèo hèn, giúp đỡ người cùng khổ. Họ tưởng rằng sự giàu có bất chính họ đang được hưởng là ân huệ trời ban và như vậy họ được chúc phúc. Không phải như thế, “ngày của Chúa” đã tới gần và là kết quả của lối sống vô luân, tham lam, ác độc mà họ đã từng gieo rắc bấy lâu nay. Sự hoà bình chính trị hiện nay thực ra trước mặc Chúa là ghê tởm, bởi nó là thứ hoà bình liên minh ma giáo để cho người giàu bóc lột người nghèo.
Đối với viễn tượng của Amos họ sẽ là kẻ đầu tiên phải lưu đày. Như vậy chúng ta thấy tư tưởng và lời cảnh cáo của vị tiên tri am hợp với bài Phúc Âm hôm nay. Và Giáo hội cho chúng ta đọc lại như bài bổ túc cho Tin Mừng. Chẳng hiểu có mấy ai để ý lắng nghe mà chất vấn lương tâm. Hiếm lắm thay! Amen.
Ý tưởng chung: Cuộc sống đời này không phải là hưởng thụ, nhưng là phục vụ. Người nghèo được TN 26-C154
Ý tưởng chung: Cuộc sống đời này không phải là hưởng thụ, nhưng là phục vụ. Người nghèo được Thiên Chúa quan tâm đặc biệt. Vì họ thường bị bóc lột và lãng quên. Thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu hãy biết trông đợi ngày Chúa quang lâm, để số phận mỗi người được phân định rõ ràng.
Thưa quí vị,
Sách tiên tri Amos rất ngắn, chỉ gồm 144 câu, chia ra làm 9 chương. Mỗi chương hơn chục câu. Nhưng lại được phụng vụ trích đọc khá dài. Lý do là vì quan điểm của vị tiên tri về của cải vật chất về người nghèo khổ, gần giống với phúc âm Luca. Có thể nói nó bổ túc cho lời rao giảng của Chúa Giêsu. Bài đọc hôm nay ở đoạn 6: “Khốn cho những người sống yên ổn tại Sion và sống an nhiên, tự tại trên núi Samari, nằm dài trên giường ngà, ngả nghiêng trên trường kỷ, ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng, chúng đàn hát nghêu ngao”. Tiên tri mạt sát nếp sống an toàn giả tạo của những kẻ cầm quyền lúc bấy giờ. Họ thu tích giàu sang của cải trái đất mà an hưởng nhung lụa, sung sướng. Đồng thời nghĩ rằng như vậy là được phúc lành của Thiên Chúa, được Ngài ưu ái, che chở. Tuy vị ngôn sứ công nhận vị trí đặc biệt của tuyển dân Israel. Nhưng tiên báo sự sụp đổ ghê gớm của thành thánh Giêrusalem. Bởi vì đã không làm tròn nhiệm vụ của một dân tộc được Thiên Chúa lựa chọn. Đoạn trước đó (5,20) tiên tri đã nói đến “ngày của Chúa. (eschaton). Ngày mà quyền bính đền thờ, những kẻ giàu có, những người sang trọng mong đợi như giây phút tưng bừng, hoan hỷ, khải hoàn chiến thắng của Giavê thì Amos tiên báo là ngày kinh hoàng. Ngày Thiên Chúa phán xét và báo oán, chính vì nếp sống của những kẻ cầm quyền: “Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đầy, dẫn đầu những kẻ bị lưu đầy. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn”.
Nên lưu ý những hình ảnh thi vị ngôn sứ dùng để mô tả tình trạng đối nghịch giữa người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn: Giường ngà đối với ổ rơm, thịt thà đối với bụng đói, đàn hát phè phỡn đối với lao động cực nhọc. Điều mà kẻ quyền thế coi như vững chãi thì vị ngôn sứ nói là khốn nạn trước mắt Đức Chúa Trời. Ông nhấn mạnh từng chữ với giọng điệu kinh tởm. Những con người sa đoạ này là những kẻ đầu tiên đi đày, kéo theo cả dân tộc lâm cảnh lầm than. Phải chăng lời tiên tri của ngôn sứ Amos cũng áp dụng cho nếp sống xa hoa của xã hội đương thời, nhất là cho những vị lãnh đạo quốc gia hay tôn giáo? Những cuộc truy hoan của họ chẳng kém thời Amos. Cho nên khủng bố, chiến tranh không phải là ngẫu nhiên. Nó là kết quả của áp bức kinh tế, chính trị. Những bóc lột bẩn thỉu và tàn nhẫn, những kế hoạch sai lầm dựa trên chủ thuyết của Satan chứ không phải của Chúa Giêsu! Cứ nhìn vào những quay cuồng vì lợi nhuận to lớn, các mánh khoé kinh tế, tự khắc nhận ra tình trạng sa đoạ của xã hội hôm nay, không khác mấy thời tiên tri Amos, có khi còn vượt xa hơn. Người ta hô hào thăng tiến xã hội, văn hoá, nhưng thực tế là thụt lùi luân lý.
Lấy ví dụ xã hội Hoa Kỳ, con số người nghèo hiện thời suýt xoát 50 triệu, tức 1/5 dân số. Tệ nạn xã hội không ngừng gia tăng: Cờ bạc, ma túy, kết hôn cùng giới, li dị, bất mãn, sa đoạ, phóng túng. Thêm vào đó những phương tiện truyền thông hàng ngày cổ võ các hình thức vui chơi quái đản: Bạo lực, dâm ô, ma quái, kinh dị, thù hận, trả đũa dã man. Ngược lại, không có lấy một phương tiện tuyên truyền đạo đức, yêu thương nếu có thì cũng rất yếu ớt trong các tổ chức tôn giáo. Làm sao mà chống lại lực lượng vũ bão của hoả ngục? Cho nên tiên tri Amos có lý khi tuyên sấm chống lại ảo tưởng “chúc lành” của Giavê, trong khi thực tế tai hoạ “khủng khiếp” đang đến gần.
Người giàu trong dụ ngôn hôm nay không có tên và ông cũng chẳng làm gì sai trái. Ông không vi phạm một giới răn nào của Thiên Chúa, tuy hàng ngày nhìn thấy Lazarô nghèo khổ lê la trước cửa. Vậy mà ông lại rơi vào danh sách những người bị Amos nguyền rủa: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn ở Sion. Suốt cuộc đời an hưởng sự giàu có của mình, ăn vận lụa là gấm vóc. Ngày ngày yến tiệc linh đình”. Lazarô đói khát ước ao những vụn bánh rơi tư bàn của nhà phú hộ để ăn cho đỡ đói. Phải chăng thánh Luca muốn ám chỉ đa phần nhân loại? Nên nhớ phúc âm tuần trước Chúa Giêsu tuyên bố chúng ta chẳng thể làm tôi hai chủ: Mammom (thần tài) và Thiên Chúa. Nghĩa là chúng ta phải dứt khoát lựa chọn, không có chuyện lưỡng lự về ưu tiên hoặc bất động trong thái độ. Nếu không sử dụng của cải một cách khôn ngoan theo tinh thần phúc âm, chúng ta sẽ rơi vào lời kết án của Amos.
Sau bài Tin mừng tuần trước, phụng vụ bỏ mấy câu (14,18) để tiếp sang phúc âm hôm nay. Câu 14 nói: “Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy thì chế nhạo Chúa Giêsu” cho nên Ngài kể dụ ngôn này để trả lời họ. Nó nhấn mạnh hơn đề tài chương 16: Nguy cơ của tiền bạc dưới nhiều hình thức. Thánh Luca xem ra rất triệt để trong cách đối sử với người nghèo khó. Chương 6 thuật lại Chúa chúc phúc cho họ và nguyền rủa những ai giàu có ích kỷ. Khi đọc phúc âm Luca chúng ta nên lưu tâm điểm này. Có lẽ thánh nhân là một thầy thuốc nên hiểu rõ những khốn khổ của người nghèo.
Người nghèo khổ sinh ra, lớn lên và xuống mồ không ai biết đến. Những người đẽo bia mộ thường khắc mấy dòng chữ: “Muôn đời hãy nhớ đến người thân yêu”. Nếu có tiền, quý vị có thể mua một tấm cho thân nhân quá cố. Nhưng với vô số người nghèo khổ thì chẳng có chi để ghi nhớ. Họ chết và bị lãng quên. Tuy nhiên với thánh Luca, ông đã nghĩ ra một cách để nhớ đến họ. Trong văn chương kinh thánh, ông đặt tên cho họ là Lazarô. Tưởng chừng như thánh nhân muốn nói: “Đây nhé, muôn đời người ta sẽ chẳng quên anh Lazarô”. Đồng thời thánh nhân khuyên nhủ chúng ta rằng, tiền của, giàu có, tiếng tăm chẳng qua là sự đời này, rồi sẽ có ngày chấm dứt, không tồn tại vĩnh viễn được đâu. Vậy tại sao thu tích chúng để rồi bị quên lãng đời đời? Chúng ta được mời gọi suy nghĩ kỹ lưỡng hơn về đề tài này, ngõ hầu lựa chọn cho thông minh và xây dựng điều vĩnh cửu. Qua dụ ngôn, một lần nữa Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta Ngài về phe với những người nghèo khổ và dễ bị tổn thương. Chính Ngài đã sinh ra trong một gia đình thấp hèn. Dâng mình trong đền thờ bằng của lễ của người bần cùng. Sống nghèo và chết cay đắng. Những ai theo Ngài lên Giêrusalem đều được dạy dỗ phải canh chừng của cải và nếp sống giàu sang.
Của cải tự nó không phải là điều xấu, nhưng lòng tham lam là điều phải tránh. Người phú hộ hôm nay không quan tâm đến nguy hiểm đó. Ông sống tự mãn, chẳng nghĩ đến ai, ngay cả Lazarô trước cửa nhà ông. Chi tiết của dụ ngôn Chúa kể làm chúng ta nhức nhối. Ai có thể không nhớ đến câu chuyện? Những con chó còn đối xử với Lazarô tốt hơn ông chủ nhà. Chúng liếm ghẻ chốc cho Lazarô, làm vơi nhẹ nỗi đau đớn, trong khi đồng loại không đoái hoài đến nhau! Đau xót biết chừng nào! Các thính giả của Chúa Giêsu hẳn lấy làm ngạc nhiên khi họ vẫn có não trạng giàu có là được Chúa thương, và ngược lại, nghèo đói là dấu chỉ bị trừng phạt bởi đời sống tội lỗi. Dụ ngôn hoàn toàn bác bỏ suy luận ấy. Thiên Chúa hằng lưu tâm đến người nghèo khổ, như Đức Mẹ đã nói lên trong kinh Magnificat: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có lại đuổi về tay trắng”. (1,53). Dụ ngôn đúng là truyện mỉa mai: Những người xây lăng dựng mộ cho mình, khi chết lại bị quên lãng. Còn kẻ vô danh tiểu tốt, khi khuất bóng lại được nhớ đến đích danh Lazarô. Họ có một chỗ xứng đáng trong vương quốc Thiên Chúa, nơi lòng ông Abraham.
Sự đần độn của nhà phú hộ còn được tỏ rõ do những yêu cầu của ông ta sau khi chết. Ông ta muốn tổ phụ Abraham sai Lazarô đem đến cho mình vài giọt nước mát. Thế ra Lazarô vẫn là đầy tớ ông ta! Cho nên ông ta lại sai Lazarô về nhà báo tin cho 5 anh em còn sống về tình trạng khốn đốn của mình! Lòng chai đá của ông già mắc dịch thật mãnh liệt, ngay cả trong hoàn cảnh khốn khổ. Ông chẳng thể hiểu được mình và Lazarô. Ông tiếp tục khinh bỉ người nghèo khó, không thèm nói chuyện trực tiếp với họ, vẫn coi họ là tôi tớ chạy việc vặt trong kiếp sống tương lai! Câu chuyện thật là thấm thía. Chưa hết, Chúa Giêsu còn làm cho chúng ta ngỡ ngàng khi chẳng đả động gì đến luân lý: Được thưởng vì đời sống đạo đức và bị phạt về hành vi tội lỗi. Tất cả câu chuyện chỉ là Lazarô nghèo khó và ông phú hộ ích kỷ sống trên nhung lụa, của cải, chẳng lưu tâm đến ai khác. Nhưng cuối cùng Thiên Chúa thấu suốt mọi sự và hoàn lại công bằng cho mỗi cuộc đời. Đây là điểm thần học quan trọng cần suy nghĩ nghiêm chỉnh.
Giống như bài đọc cựu ước, bài Tin mừng rất nhạy cảm về những đau khổ của kẻ nghèo hèn. Cả hai văn bản đều kêu gọi công lý cho những kẻ bị áp bức. Công lý thế nào? Nó được thực hiện ra sao ở đời này? Nếu như người giàu có còn chút quan tâm, thì là ông nhớ đến 5 anh em mình. Ông muốn họ biết được số phận đang chờ đợi họ, nếu cũng sống như ông ta. Abraham bảo ông: “Họ đã được cho biết mọi sự để sống ngay lành, chúng đã có Môsê và các tiên tri thì chúng hãy nghe lời các vị đó”. Nghĩa là lời dạy về thương yêu kẻ khó nghèo không phải là điều mới lạ. Truyền thống tôn giáo Do Thái đã dạy dỗ đầy đủ rồi, khỏi cần thêm thắt điều chi. Ngày nay chúng ta cũng đã được Chúa chỉ bảo những điều phải biết để lựa chọn mục tiêu chính đáng cho cuộc đời, không thể viện cớ ngu dốt để trốn tránh bổn phận.
Không ai có thể làm tôi hai chủ, chỉ có thể chọn một, thế gian hoặc Thiên Chúa. Hành động cho thế gian là tìm tiền bạc, của cải. Hành động cho Thiên Chúa là giúp đỡ những người thiếu ăn thiếu mặc. Thánh Luca nhắc lại nhiều lần quan điểm đó và Amos cảnh cáo dân Do thái về lòng tự mãn vì của cải. Chúng ta không thể sống phè phỡn kẻo sẽ gặp cảnh khủng khiếp sau này, như dụ ngôn miêu tả. Chúa Giêsu không lên án giàu có, nhưng là lòng tự mãn không quan tâm đến người khác. Có thể là tuy chúng ta không giàu có, nhưng vẫn còn khả năng vô cảm trước những quằn quại của đồng loại, Chúa không muốn như vậy, nhưng hãy quan tâm đến những nhu cầu thiết yếu của nhau. Lazarô sống ở ngưỡng cửa nhà phú hộ. Ngày nay, qua tivi, radio, internet, cả thế giới ở ngay trước ngõ chúng ta. Tuy không quán xuyến được hết mọi sự, nhưng điều đó không phải là lý do để chúng ta thoái thác sự giúp đỡ kẻ khó nghèo.
Kinh nghiệm cho hay, những người giàu ít có tinh thần liên đới, họ sống ích kỷ, khép kín. Trái lại, các gia đình nghèo khó thường có nhiều tình làng nghĩa xóm hơn. Tôi không có ý vơ đũa cả nắm. Nhưng người Mỹ chúng ta sống cao ngạo hơn người Phi Châu hoặc Á Châu. Họ có tinh thần cộng đồng nhiều hơn, biết chia sẻ của cải, văn hoá với đồng bào mình. Dầu tài sản chẳng có là bao nhưng họ sẵn sàng chăm sóc đến nhu cầu của tha nhân. Người Mỹ, từ tấm bé, đã được dạy cho biết sống cá nhân chủ nghĩa: xây dựng cuộc đời do chính bàn tay lao động của mình. Vì vậy, có câu thành ngữ rằng: “Những gì tôi kiếm được là do hai bàn tay này, hãy để người khác noi gương” (I have earned what I have, let others do the same).
Cho nên phúc âm hôm nay dạy mọi người phải liên đới với nhau sâu xa hơn. Kinh thánh không ngừng nhắc nhở tính cộng đồng nhân loại, dù rằng Thiên Chúa tuyên sấm cho một vài cá nhân, nhưng chính vì lợi ích của cả một dân tộc. Ngài ký kết giao ước không phải với cá nhân mà là với toàn thể tuyển dân Israel. Ông phú hộ và Lazarô là những thành viên của dân tộc đó. Có lẽ người giàu có quên mất chân lý này. Ông đã bẻ gẫy giao ước với Thiên Chúa. Nên ông phải chịu hậu quả đắng cay của việc ông làm. Chính nhà phú hộ, chứ không phải Thiên Chúa, đào hố ngăn cách giữa ông ta và Lazarô. Hố không từ đây sang đấy được. Thật là khủng khiếp.
Tóm lại, Thượng đế toàn năng, Đấng ban dụ ngôn hôm nay, ví tựa một hiền mẫu trong gia đình. Bà nói với con cái mình: “Này các con, tại sao những đứa sung túc lại có thể sống nhung lụa, bỏ quên anh chị em mình nghèo đói? Các con không biết rằng mình đều do một mẹ sinh ra? Hết thảy các con đều là ruột thịt của ta? Các con nên nhớ rằng những đứa ích kỷ chỉ sống cho mình trên những đống tiền, đống của chẳng thể tìm thấy hạnh phúc cho đến khi biết san sẻ cho những anh chị em nghèo đói khác. Lúc ấy gia đình không còn chia rẽ, sống hoà hợp thương yêu nhau, không chiến tranh, không thù hận. Các con sẽ là anh chị em với nhau như Ta đã tạo dựng nên các con”. Dụ ngôn thật sự đã mở lòng mở trí cho chúng ta nghe theo lời chân lý hằng sống. Tiếng nói của Bà Mẹ đầy quan tâm cho số phận nhân loại. Vì Bà thông tuệ mọi sự. Amen.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano - Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp)
Có nhiều thắc mắc liên quan đến dụ ngôn hôm nay; những thắc mắc chưa được trả lời. Cũng có TN 26-C155
Có nhiều thắc mắc liên quan đến dụ ngôn hôm nay; những thắc mắc chưa được trả lời. Cũng có những chi tiết bất thường khiến chúng ta phải vò đầu bứt tai. Chẳng hạn như: tài sản của người giàu có kia từ đâu mà có? Phải chăng ông ta được thừa kế hay đã vất vả làm lụng cực nhọc mới có được sau bao năm vất vả, làm ngày học đêm để có công việc tốt? Hay ông ta đã khôn ngoan đầu tư để bây giờ hưởng lợi?
Những điều này không thấy dụ ngôn nói tới. Dụ ngôn chỉ nói rằng ông ta “đã nhận phần phước” trong cuộc đời ông ta. Dụ ngôn cũng không nói rằng Thiên Chúa là nguồn gốc sự giàu có của ông ta; rằng Thiên Chúa đã ban cho ông giàu có. Một số người nghĩ rằng giàu có là ân huệ từ Thiên Chúa. (Chẳng lẽ người nghèo thìn không được chúc phúc?) Dụ ngôn cũng không khẳng định ông nhà giàu là xấu. Ông ta chỉ là một thương gia biết khôn khéo đầu tư tiền của của mình để trở nên giàu có trong khi những người khác thì thua lỗ; ông sở hữu nhà xưởng và trả lương rẻ mạt cho công nhân, còn ông ngày càng giàu có. Ông đã làm gì mà dẫn đến tình trạng đau khổ sau này của ông? Chẳng gì hết. Đơn giản chỉ vì ông đã phớt lờ người đàn ông nghèo khổ ở ngay trước cửa nhà mình. Đã bao lần ông ta ra ngoài để làm ăn buôn bán hay vui chơi giải trí và trở về nhà sau những thương vụ hay sau những buổi tiệc tùng linh đình nhưng đã làm ngơ một kẻ đáng thương và những con chó ngay trước cửa nhà ông? Ông nhà giàu chẳng làm gì xấu, ít là chúng ta không thấy Tin mừng nhắc đến điều đó, nhưng chỉ vì ông đã phớt lờ người nghèo khổ và vì thế mà ông đã không thể vượt qua được vực thẳm của đời sau.
Lại một vấn nạn nữa khiến ta khó hiểu. Tại sao Lazarô lại trở nên quá nghèo khổ như vậy? Phải chăng anh ta quá chây lười đến nỗi không thể tự mình vươn lên được? Hay anh ta sinh ra đã là một trong 95% những người nghèo khổ thời Chúa Giêsu? Hay anh ta bị tai nạn khi làm việc ngoài đồng nên giờ chẳng làm được việc gì để kiếm sống? Anh ta bị mù từ lúc sinh ra hay bị khuyết tật gì chăng? Hay anh ta bị bệnh tâm thần, hay còn gọi là “bị quỷ ám” và bị những người thân quen xua đuổi?
Cũng xin lưu ý rằng, câu chuyện cũng không nói Lazarô là một người đặc biệt tốt nên được ngồi vào lòng Abraham. Chúng ta không thể đọc thấy điều đó vì Đức Giêsu không hề kể cho chúng ta những đức tính của Lazarô. Có một người phụ nữ đưa cho tôi 5 đô la ở ngay của nhà thờ và nói: “Xin cha đưa tiền này cho người thực sự nghèo.” Thế là, bà ấy để mặc tôi làm thẩm phán quyết định xem ai xứng đáng nhận số tiền đó. Bà ấy muốn tôi phải phân biệt “những người nghèo bất xứng” và “những kẻ nghèo xứng đáng.” Giả như tôi đang ngoài đường, thực sự đói và lạnh, tôi nghĩ mình phải chôm chỉa cái gì đó để lấy tiền mua bánh mì cho tôi và cho gia đình của tôi. Phải chăng như thế thì bà ấy sẽ xem tôi như “người nghèo bất xứng”?
Dụ ngôn không cho biết Lazarô là người tốt hay xấu hay anh ta tuy “nghèo nhưng tốt” hoặc anh ta có tiền án tiền sự hay không. Lazarô chỉ là một người nghèo ngồi ở vệ cửa và bị lãng quên – một người nghèo vô hình. Anh ta chẳng có tấm áo choàng như của Herry Porter để mà tàng hình. Anh trở thành tàng hình đối với ông nhà giàu kia, người có nhiều việc cấp bách hơn để quan tâm. Lazarô chỉ là một phần trong cảnh thường ngày của ông nhà giàu kia. Có thể chúng ta cũng thấy và chẳng mấy chốc cũng chẳng để ý đến những người nghèo ở ngay bên cạnh chúng ta.
Câu chuyện còn cho chúng ta thấy đời sau của họ. Rất nhiều thay đổi đối với họ - một thay đổi lớn lao. Lazarô giờ đây rất thoải mái và an toàn, trong “lòng tổ phụ Abraham.” Đối với người Dothái, quý vị chẳng thể nào có được vị trí cao hơn thế. Ông nhà giàu giờ đây phải đau khổ. Nhưng có gì đó vẫn chưa thay đổi, nơi ông nhà giàu, ngay cả khi đang ở nơi khốn khổ ông vẫn muốn một đầy tớ hầu hạ mình. “Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót tôi. Xin sai Lazarô nhúng ngón tay vô nước, nhỏ trên lưỡi tôi cho mát, vì ở đây tôi bị lửa thiêu đốt khổ lắm.” Ông ta vẫn là ông nhà giàu cũ, thậm chí không thèm nói trực tiếp với Lazarô. Cũng có một đấng khác không thay đổi: Thiên Chúa chưa từng thay đổi.
Trong tất cả những dụ ngôn mà Đức Giêsu kể cho chúng ta: người đàn bà nhào bột; người nông dân gieo giống; ông chủ thuê thợ gặt, thì đây là dụ ngôn duy nhất mà nhân vật được đặt tên. Thật chẳng giống như thế giới của chúng ta; chúng ta biết tên của những người giàu có và nổi tiếng còn những người nghèo thì vô hình và vô danh. Thế nhưng, trong dụ ngôn này, người giàu có lại vô danh còn kẻ nghèo khó lại có một cái tên. Tên của anh ta là Lazarô – nghĩa là “người được Chúa giúp.” Vâng, Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta trong dụ ngôn rằng: Thiên Chúa không hề thay đổi. Thiên Chúa biết đến những người bị lãng quên. Chúa giữ những người không quan trọng như thể là quan trọng. Chúa sẽ an ủi những ai bị người đời bỏ rơi trong nghèo khổ. Như thấy trong dụ ngôn, Thiên Chúa biết tên của người nghèo và yêu thương họ. Cái chết của hai người này được mô tả thật khác nhau. Thiên thần đón Lazarô và đặt anh vào lòng Abraham; còn ông nhà giàu chỉ đơn giản “chết và được người ta đem chôn.” Đó là kết cục của đời ông ta.
Dụ ngôn có thể gây sốc, như đồng hồ báo thức đánh thức người ta dậy. Dụ ngôn hôm nay kể về ông nhà giàu và Lazarô ngụ ý thật quá rõ ràng, nó thức thỉnh chúng ta và cho chúng ta biết tấm lòng của Thiên Chúa ở nơi đâu. Dụ ngôn cho thấy rằng: giàu có và sung túc không phải là bằng chứng được Chúa chúc phúc. Cái mà chúng ta gọi là “đời sống tốt” và “ơn sủng” không hẳn chứng minh rằng chúng ta đã được Thiên Chúa đóng dấu chuẩn nhận. Hay nói cách khác, việc có nhiều của cải không thể chứng minh chúng ta đang sống trong ân huệ của Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn, Đức Giêsu nói rằng: “Hãy tỉnh dậy đi! Anh em vẫn còn thời gian. Để ý và hành động qua những gì mình thấy. Người nghèo ở ngay ngưỡng của nhà anh em, và đó là nơi dễ thấy, dễ nhìn và giúp đỡ những ai đang thiếu thốn, những người đang cần đến thời gian và sự quan tâm của anh em.” Đó có thể là người bạn đời đang giận dỗi mình, là cha mẹ đau ốm, là người hàng xóm có bà mẹ bị mắc chứng An-dây-mơ (Alzheimer) hay bị ung thư, là những trẻ em cần được giáo dục đức tin, những người được dòng Vinsơn Phaolô giúp đỡ, …
Trong thánh lễ này, chúng ta nài xin Chúa Giêsu xức dầu Thánh Thần của Người cho chúng ta một lần nữa. Chúng ta cầu xin cho mắt chúng ta mở ra để nhìn thấy những ai cần được giúp đỡ, có thể là chính người mà chúng ra đi qua mỗi ngày.
Những dạng thức thông tin mới, tivi, báo chí, hay Internet… mở rộng tầm nhìn của chúng ta. Nó mang người nghèo trên khắp thế giới đến ngay của nhà ta. Và vì thế mà chúng ta gom tiền để gửi cho Hội Cứu Tế Công Giáo giúp những nạn nhân bị lụt ở Pakistan, viết thư cho những nghị sĩ của chúng ta để yêu cầu giúp đỡ những người đang chịu hậu quả của dịch Aids ở Châu Phi, nhất là những trẻ em lâm cảnh mồ côi vì cơn dịch này, dành một ngày thứ Bảy để cùng với tổ chức Nhà Ở & Nhân Quyền đi xây dựng nhà cửa cho những bà mẹ độc thân và con cái của họ, … Phương tiện truyền thông mang hình ảnh của Lazarô đến ngay của nhà ta, ngay trong phòng khách của chúng ta. Điều này đúng với hầu hết chúng ta. Thế nhưng vấn đề ở đây là: chúng ta có nhìn thấy hay không? Nếu thấy, chúng ta đã làm gì hay chưa?
Khoảng 2 năm trước, Đức Bênêđictô 16 đã thăm nước Mỹ và nói về vấn nạn người nhập cư. Ngài nói, chính cách đối xử với người nhập cư sẽ quyết định tương lai của giáo hội Công giáo ở Châu Mỹ. Đức Giám mục cũng nói: một khi biên giới quốc gia được tôn trọng thì quyền của công nhân bản xứ hay nhập cư cũng phải được tôn trọng như vậy. Ngài cũng nhắc chúng ta phải thừa nhận rằng điều kiện có tuyệt vọng thế nào mới khiến người ta muốn đến đây. Quốc hội đã không thể đưa ra một cải cách mang tính toàn diện cho vấn đề di dân, vì thế mà vẫn chưa có giải thích hợp cho những người tìm kiếm cách vô vọng để vào nước Mỹ làm việc cách hợp pháp. Những chính sách hợp pháp cho vấn đề di dân sẽ giúp giảm luồng di dân bất hợp pháp.
Các Đức Giám mục kêu gọi tôn trọng phẩm giá con người và tính nguyên vẹn của gia đình. Không được tấn công, bắt giữ hay trục xuất họ, không được chia tách họ khỏi vợ/chồng và con cái họ. Gần đây, một phụ nữ bị đuổi khỏi nơi làm việc và bị trục xuất để lại cho hàng xóm một đứa con sáu tuổi và một đứa mới lên ba. Các Giám mục, lên tiếng thay cho giáo huấn của Giáo hội về việc tôn trọng sự sống, khẳng định rằng những chính sách nhập cư hầu như không tôn trọng sự sống và gia đình.
Chính sách này của nước nhà đi ngược lại với những gì Đức Thánh Cha khuyến khích chúng ta – đón nhận những người nhập cư như anh chị em của chúng ta. Có thể chúng ta không biết danh tánh họ, nhưng Thiên Chúa biết tên từng người trong số họ và đứng về phía kẻ khốn cùng. Ngài cũng muốn chúng ta làm như vậy. Dụ ngôn mời gọi chúng ta lưu tâm đến những ai đang ở ngay trước cửa nhà chúng ta, dù họ sống với chúng ta hay chỉ là hàng xóm láng giềng, dù họ là những anh chị em mà chúng ta chỉ gặp trên tivi hay qua màn hình laptop.
Trong thánh lễ này, chúng ta hãy cầu nguyện: “Xin xức dầu đôi tay và cặp mắt để chúng con có thể nhìn ra những người Chúa cần chúng con giúp họ.” Và rồi chúng ta hãy để mắt đến những Lazarô ngoài đời, những người Chúa gửi đến cho chúng ta giúp đỡ. Nơi họ, những kẻ đói, người trần truồng, đau yếu và tù đày, được tin mừng nhắc đến những chỗ khác, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu, và chắc chắn sẽ gặp Người trong Bí tích Thánh Thể.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP - Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP)
Chắc bạn sẽ vui khi một người nào muốn giải thích một điều mà không nói loanh quanh phải không? TN 26-C156
Chắc bạn sẽ vui khi một người nào muốn giải thích một điều mà không nói loanh quanh phải không? Khi người ta nói không rõ ràng hay nói quá nhiều lời, chúng ta thường muốn hỏi họ "các bạn muốn nói gì vậy?"
Trong các bài sách đọc hôm nay, không có nhủ̃ng lối nói loanh quanh đó. Chúng ta biết ngay điểm chính là gì. Rõ ràng Thiên Chúa thủỏng ngủỏ̀i nghèo, và chống lại nhủ̃ng ngủỏ̀i giàu làm hại kẻ khác, hay không quan tâm đến ngủỏ̀i nghèo. Tình thủỏng của Thiên Chúa nhủ thế đã hiễn hiện trong Cụ̉u và Tân Ủỏ́c. Chúng ta nghe thí dụ rõ ràng trong các bài sách đọc hôm nay.
Ngủỏ̀i Israel thủỏ̀ng nghĩ ngủỏ̀i nào có nhiều của cải là bằng chủ́ng Thiên Chúa đã yêu thủỏng họ. (Ngay cả bây giờ cũng có người nghĩ như thế). Vì dân Israel có liên hệ đặc biệt vỏ́i Thiên Chúa, nên ngủỏ̀i ta nghĩ Thiên Chúa ban nhiều ỏn lành cho họ. Lẽ cố nhiên là chính nhủ̃ng ngủỏ̀i giàu có đã có niềm tin và đủọ̉c vổ an trong nếp nghĩ nhủ vậy. Họ mong đọ̉i Thiên Chúa đến để bảo chủ́ng cho sụ̉ an toàn của họ. Nhủng, ngôn sủ́ Amos đã cay đắng lên tiếng để đánh thủ́c họ bước ra khỏi sụ̉ tự mãn đó. Thiên Chúa đã nhận thấy ngủỏ̀i giàu có đã tụ̉ bàu chủ̉a cho mình, và ông Amos diễn tả nhủ̃ng điều họ làm thật quá đáng. Ông ta không nói đến hoàn cảnh ngủòi nghèo. Nhủng ngủỏ̀i đọc sách Amos không cần phải so sánh để thấy điểm chính.
Ngủỏ̀i giàu có nằm trên "giủỏ̀ng ngà, thỏng thủọ̉t trên nhủ̃ng sập gụ" khác vỏ́i nhủ̃ng giủỏ̀ng đất và rỏm của ngủỏ̀i nghèo. Họ "ân nhủ̃ng chiên con và nhủ̃ng bê nhốt chuồng" trong khi ngủỏ̀i nghèo phải khổ cụ̉c để kiếm từng miếng bánh cho gia đình. Ngủỏ̀i giàu, có bao nhiêu thì giỏ̀ nhàn rỗi để nghe tiếng đàn hát, khác vỏ́i hoàn cảnh của ngủỏ̀i nghèo phải làm lụng cụ̉c khổ để sinh sống. Ngủòi giàu uống rủọ̉u hang tô và xức dầu thủọ̉ng hạng để ăn chơi; đó là những cảnh tương phản được mô tả trong sách Amos.
Trong khi chúng ta không nằm trên giủỏ̀ng ngà, chúng ta nghe lỏ̀i ngôn sủ́ Amos lên án về sụ̉ vô tủ của ngủỏ̀i giàu đối vỏ́i ngủỏ̀i nghèo. Nhủ̃ng ngủỏ̀i may mắn nhắm mắt làm ngỏ đối vỏ́i nhủ̃ng ngủỏ̀i không có gỉ cả. Khi ngôn sủ́ Amos xét xủ̉ gọn ghẻ rõ ràng, đó là điểm chính mà ông ta nhắm vào.
Vủ̀a rồi, nhủ̃ng điều giáo hội dạy dỗ nhắc chúng ta (mặc dù chúng ta không cần đủọ̉c nhắc nhỏ̉) là chúng ta có trách nhiệm lo lắng cho nhủ̃ng ngủỏ̀i bé mọn thấp kém trong chúng ta. Thí dụ nhủ dùng phung phí nhủ̃ng nguyên liệu của trái đất có thể làm hại cho ngủỏ̀i nghèo, nhất là ỏ̉ nhủ̃ng vùng nguyên vật liệu của các nủỏ́c tiền tiến đang khai thác các nguyên vật liệu của các nủỏ́c nghèo. Vậy chúng ta có phải là nhủ nhủ̃ng ngủỏ̀i giàu mằm giủỏ̀ng ngà, và ăn nhủ̃ng của hão hạng của trái đất hay không? Nhủ̃ng nủỏ́c giàu có giống nhủ nhủ̃ng ngủỏ̀i giàu hằng ngày không để ý đến ông Ladarô, và không đếm xĩa gì đến nhủ̃ng nhu cầu của Ladarô hay không? Đủ́c Thánh Cha và các đủ́c Giám Mục kêu gọi chúng ta nên bàn cãi và hành động về nhủ̃ng vấn đề liên hệ đến môi trủỏ̀ng. Nhủ: dùng nguyên liệu phung phí, trách niệm quản lý đất đai, ô nhiễm và khai thác sông và biển quá mủ́c v.v...
Dụ ngôn ông nhà giàu và anh Ladarô cũng "nói đến điểm chính". Giống nhủ ngôn sủ́ Amos, Chúa Giêsu bênh vụ̉c nhủ̃ng ngủỏ̀i yếu hèn, bị thủỏng tích hay bị bỏ quên. Nhủ̃ng ngủỏ̀i đó đủọ̉c nhắc nhỏ̉ đến rõ ràng trong dụ ngôn hôm nay. Mấy con chó còn để ý đến Ladarô hỏn là ông nhà giàu ăn mặc "toàn lụa và gấm vóc, và hằng ngày yến tiệc linh đình". Có phải ông nhà giàu giống nhủ nhủ̃ng kẻ an nhàn ỏ̉ Sion mà ngôn sủ́ Amos đã phán xét rằng: Những kẻ khốn nạn nằm trên giủỏ̀ng ngà và ăn nhủ̃ng chiên, củ̀u cùng bê nhốt chuồng, và uống rủọ̉u cả tô hay không?.
Phần đông trong cộng đoàn chúng ta không đủọ̉c tả là giàu sang và chắc không giống nhủ̃ng ngủỏ̀i theo ngôn sủ́ Amos được xem là khốn nạn, hay nhủ ông nhà giàu trong dụ ngôn hôm nay. Chúng ta nên để ý là trong câu chuyện, anh Ladarô là người có tên, nhủng ông nhà giàu lại không có tên. Đó là điều chủ́ng tỏ Chúa Giêsu để ý đến ai. Dụ ngôn cũng tiếp tục xử dụng những điểm chính trong phúc âm thánh Luca: của cải và bạc tiền có thể làm các môn đệ Chúa Giêsu xao lãng. Phúc âm thánh Luca diễn tả Thiên Chúa thủỏng yêu ngủỏ̀i yếu hèn, bắt đầu vỏ́i lỏ̀i của Đủ́c Nủ̃ Maria đang mang thai ca ngọ̉i Thiên Chúa trong bài Magnificat: vỏ́i kẻ đói Thiên Chúa ban cho của đầy dư, và ngủỏ̀i giàu có lại đuổi về tay trắng (Lc 1: 52-53).
Trong khi thánh Luca coi thường của cải, ông ta không khuyến khích nhủ̃ng ngủỏ̀i theo Chúa Giêsu nên bỏ lại tất cả. Nhủ hai cô Maria và Mát-ta có nhà để đón tiếp Chúa Giêsu trong nhủ̃ng năm Ngài thi hành sứ vụ. Hình nhủ thánh Luca muốn khuyên chúng ta nên thận trọng về của cải. Mỗi ngủỏ̀i trong chúng ta nên suy nghĩ chúng ta xủ̉ dụng của cải nhủ thế nào để phục vụ cho triều đại Thiên Chúa. Chúng ta đủọ̉c nhắc nhỏ̉ là khi chú trọng đến của cải, chúng ta sẽ bỏ bê những gì Kinh Thánh dạy, và có thể đưa đến chán nản và xa cách Thiên Chúa.
Dụ ngôn này ngắn, nhủng chủ́a đụ̉ng nhủ̃ng chi tiết dồi dào. Ông nhà giàu không để ý đến anh Ladarô. Khi tiếp tục vào đỏ̀i sau ông ta xin ông Abraham sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nủỏ́c nhỏ trên lủỏ̃i ông ta cho bỏ́t đau khổ. Hình nhủ ông nhà giàu vẫn còn nghĩ anh Ladarô là nhủ một ngủỏ̀i đầy tỏ́ lo cho nhu cầu ông ta. Câu chuyện không chú ý đến viếc diễn tả đỏ̀i sống ngày sau. Dù vậy câu chuyện tiếp tục tín ngủỏ̃ng Do thái là Thiên Chúa yêu thủỏng ngủỏ̀i nghèo khó, Ngài sẽ nâng họ lên, cho họ đủọ̉c hoàn lại nhủ̃ng điều họ đã mất mát.
Câu chuyện lại tiếp tục trong việc đối thoại giủ̃a ông Abraham và ông nhà giàu. (ông nhà giàu trủò́c kia có thể có địa vị quan trọng trên trần gian nhưng lại không có tên trong câu chuyện Chúa Giêsu nói). Việc đối thoại giủ̃a Ông Abraham và ông nhà giàu nhấn mạnh tầm quang trọng của Kinh Thánh Do thái được diễn tả bỏ̉i các ngôn sủ́ và Ông Môsê; như là cội rễ đủ́c tin. Chúa Giêsu sẽ sống lại tủ̀ kẻ chết, nhủng Kinh Thánh sẽ không bị thay thế nhủ là đối tượng của đủ́c tin. Thay vì các lỏ̀i giảng dạy của giáo hội tiên khỏ̉i sẽ nhấn mạnh việc Thiên Chúa đã thụ̉c hiện các lỏ̀i hủ́a đã đủọ̉c mặc khải trong đỏ̀i sống, sụ̉ chết và sụ̉ sống lại của Chúa Giêsu.
Trong cuộc sống, chúng thấy người ta thường trò truyện với nhau, có khi còn tranh luận nữa: ai TN 26-C157
Trong cuộc sống, chúng thấy người ta thường trò truyện với nhau, có khi còn tranh luận nữa: ai giàu, ai nghèo? Ai giàu vật chất nhưng có tinh thần nghèo, ai nghèo vật chất nhưng có tinh thần giàu? Đối với chúng ta, vấn đề không phải là phân biệt ai giàu ai nghèo, nhưng vấn đề quan trọng là: ai là người có phúc, ai là người bị lên án? Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: một người giàu, ăn sung mặc sướng ở đời này, nhưng lại phải khổ ở đời sau. Ngược lại, một người nghèo, đói khát ở đời này, nhưng lại được hạnh phúc ở đời sau. Như vậy, phải chăng giàu có là một tội và nghèo khổ là có phúc?
Trước hết, nói đến giàu nghèo là nói đến tiền của, và nói đến tiền của chúng ta có thể ghi nhận ba điều: Thứ nhất, tiền của cũng như danh vọng, khoái lạc, đối với lòng tham của con người, không bao giờ là đủ, lòng tham này vô đáy. Người ta có thể mơ ước tiền của suốt đêm, bàn tán về tiền của suốt ngày, lo tìm kiếm tiền của suốt tháng, vơ vét tiền của suốt năm… chẳng bao giờ thỏa mãn và chẳng biết bao nhiêu là đủ: ta có một triệu, lại muốn được hai triệu, có hai triệu, ta lại thèm ba triệu, có ba triệu, ta lại ước bốn triệu. Cuộc săn đuổi cứ tiếp tục leo thang, thỏa mãn, cho là đủ rồi, thật là hai tiếng xa vời. Thứ hai, thái độ cần tiền của là chuyện tự nhiên, không ai tránh được, vì ai cũng cần chúng. Và việc cố gắng làm cho có nhiều tiền của không phải là chuyện xấu, cũng như giàu có không phải là một tội, miễn là người ta không kiếm tiền và làm giàu cách bất chính. Thứ ba, tiền bạc, của cải vật chất là điều có thể mất, chúng ta mất chúng vì chúng bỏ chúng ta, như khi tiêu xài, mất mát, nhưng chúng ta cũng mất chúng, vì chúng ta bỏ chúng, lúc chúng ta chết chẳng hạn, chúng ta phải bỏ lại tất cả, chúng có thể hết, vì là vật chất, linh hồn không hết, vì linh hồn thiêng liêng.
Thế nên, tiền của không thể bảo đảm hạnh phúc đời sau cho chúng ta được, mà trái lại, như thực tế chúng ta thấy, chúng thường là nguyên nhân gây ra bao tội lỗi, tật xấu và làm mất hạnh phúc đời sau của chúng ta. Tuy nhiên, tiền bạc của cải, nếu được sử dụng đúng cách, hợp tình hợp lý, cũng có thể là phương tiện mua nước thiên đàng, như giúp đỡ việc công, làm việc bác ái, cứu giúp người nghèo khổ… đó là dùng tiền của để mua nuớc trời, đó là cách thu tích của cải để bảo đảm hạnh phúc đời đời.
Trong dụ ngôn của Tin Mừng, chúng ta thấy không đề cập tới một tội rõ rệt nào của ông nhà giàu, thế mà ông đã sa hỏa ngục, như vậy, nguyên việc giàu đã là một tội chăng? Không, ông bị phạt không phải vì ông giàu, nhưng vì ông đã sử dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói rách, nghèo khổ. Ngược lại, người hành khất La-da-rô nghèo khổ, nguyên tình trạng nghèo chưa phải là điều kiện để ông được thưởng, mà là ông có tinh thần, có tâm hồn nghèo khó, biết chấp nhận cảnh nghèo khổ, bệnh tật, tuân theo ý Chúa. Dĩ nhiên sự chấp nhận này không ngăn trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng để thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.
Như vậy, một điều nữa chúng ta cần ghi nhận là có sự tương quan giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh phúc vĩnh cửu: nếu ông nhà giàu biết đem tiền của chia sẻ cho ông La-da-rô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời. Chính vì thế có người đã nói rằng người Ki-tô hữu có ba loại người bạn là tiền bạc, bà con bạn hữu và việc lành phúc đức. Tiền bạc là người bạn chúng ta thương nhất, quý nhất, chiếm môt vị trí quan trọng trong đời chúng ta, thậm chí khi phải chọn lựa, có người đã không theo lẽ phải, nhưng đã để hấp lực của đồng tiền cuốn hút. Loại người bạn thứ hai cũng chiếm một vị trí quan trọng trong tim óc chúng ta là bà con ruột thịt và bạn hữu, trong đó phải kể đến người bạn cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm với chúng ta, người bạn mà Chúa đã bảo chúng ta với họ không còn là hai nhưng đã trở thành một.
Thân như thế, thương như thế, mà khi chúng ta chết, cả hai đều dừng bước trước cánh cửa vĩnh cửu. Trước tòa Thiên Chúa, tiền bạc như câm nín, chẳng một lời biện hộ cho chúng ta. Còn thân quyến bạn hữu, tốt lắm là theo chúng ta tới huyệt, đẹp lắm là ném cho chúng ta một nắm đất rồi ra về, quên lãng, việc chúng ta gặp gỡ Chúa khó dễ thế nào họ chẳng biết đến.
Còn người bạn thứ ba là việc lành phúc đức, chúng ta không yêu, không thương bằng hai người bạn kia, nhưng lại tín trung với chúng ta hơn cả. Khi sống ở trần gian, nhờ nó chúng ta được mọi người yêu thương quý mến, nhất là khi chúng ta cất bước đi về đời sau, nó là người bạn sát cánh chúng ta hơn cả, nó không dừng lại trước nấm mồ, nhưng theo chúng ta tới tận tòa Chúa, mạnh dạn biện hộ cho chúng ta và đưa chúng ta vào cõi phúc. Người bạn này thật chân tình đối với chúng ta, thế mà khi sống ở đời này, chúng ta chỉ đáp lại hờ hững.
Tóm lại, tiền bạc của cải rời bỏ chúng ta khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, thân thuộc bạn hữu còn nán lại lâu hơn đưa chúng ta tới phần mộ, chỉ có việc lành phúc đức mới đi theo chúng ta vào cõi đời đời. Xin Chúa cho chúng ta từ nay có thái độ gần gũi, gắn bó với người bạn thứ ba nhiều hơn.
Ít tiền ít của mà là người công chính, hơn nhiều vàng bạc mà là kẻ ác nhân, Vì cánh tay bọn ác TN 26-C158
“Ít tiền ít của mà là người công chính hơn nhiều vàng bạc mà là kẻ ác nhân Vì cánh tay bọn ác nhân sẽ bị bẻ gãy, còn người công chính được Chúa độ trì”
Tv 36, 16-17 đã đưa ra hai hình ảnh đối nghịch nhau: người nghèo sống công chính sẽ được Chúa độ trì, còn người giàu bất chính sẽ bị luận phạt.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, hôm nay một lần nữa Chúa lại dùng dụ ngôn để dạy chúng con về số phận của con người sau cái chết: người nghèo khó cơ cực ở đời này nhưng nếu sống công chính sẽ được hưởng hạnh phúc ở đời sau; còn người giàu có nhưng sống thiếu công bằng, bác ái sẽ phải cơ cực, khốn khổ đời đời trong hoả ngục mai sau. Qua đó, Chúa muốn nhắc chúng con rằng: số phận con người lành hay dữ sẽ được cố định trong giờ chết, và sẽ không còn chuyện ăn năn, sám hối sau khi chết nữa. Vì vậy, phải hoán cải ngay ở đời này để khỏi bị luận phạt trong đời sau. Và sự hoán cải này không phải chờ đợi ở phép lạ hay người chết trở về mách bảo mới tin, mới làm. Nhưng phải tin vào lời Chúa, để từ đó sống cuộc đời thánh thiện, công bằng, bác ái với tha nhân. Và những ai nghèo khổ, hãy biết rằng mình được Chúa chúc phúc, hãy vui sống và cậy trông vào Chúa, phó thác cuộc sống cho Người, nhìn nhận hoàn cảnh đen tối của đời mình dưới ánh sáng Tin Mừng, ắt sẽ được cứu độ.
Lạy Chúa, là con người ai chẳng muốn được hạnh phúc, chẳng muốn được an vui và sống trong sung túc, giàu sang. Chính con người cũng được dựng nên để sống hạnh phúc đấy thôi. Nhưng chỉ tiếc một điều là: con người chúng con thường chỉ nghĩ đến hạnh phúc chóng qua ở đời này mà quên đi rằng còn có hạnh phúc ở đời sau, và hạnh phúc ấy mới chính là hạnh phúc thật và trường tồn mãi mãi. Vì quên đi điều ấy nên chúng con thường chỉ mưu cầu hạnh phúc ở đời này, bám víu vào những thực tại trần thế, đi tìm sự giàu sang vật chất và thu vén mọi thứ về mình, sống chỉ biết đến mình mà quên đi, hay thậm chí chẳng bao giờ để ý đến những người anh em khác sống xung quanh mình, những người nghèo khổ, đói khát đang rất cần nhận được sự giúp đỡ, cảm thông. Đó là sự ích kỷ mà Chúa đã ám chỉ qua hình ảnh người phú hộ giàu có và đồng thời cảnh báo hậu quả tất yếu sẽ phải gánh chịu ở đời sau.
Lạy Chúa, trong con mắt của người đời, nghèo khó bao giờ cũng là nỗi bất hạnh. Nhưng có lần Chúa lại chúc phúc cho những người nghèo khó: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của anh em; phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng; phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười.” (Lc 6, 20-22)
Quả thật, hôm nay anh Ladarô đã nhận được lời chúc phúc của Chúa. Bởi vì khi công bố mối phúc cho người nghèo khó, đói khát, khóc lóc, bị sỉ vả thì hơn ai hết, chính Chúa cũng đã từng chấp nhận là một người nghèo khổ đến độ “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58), và chính Chúa cũng là người bị sỉ vả, coi thường như phường trộm cắp. Vâng Chúa ơi, con biết chắc rằng Chúa chịu nghèo khổ, đói khát, bị sỉ vả và coi thường như thế không phải vì Ngài bất lực, mà vì chính Ngài đã tự nguyện trở nên nghèo khó và chấp nhận bị ngược đãi. Sở dĩ như thế là vì một điều gì khác, đó chính là thánh ý Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha.” (Ga 12, 27-28)
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa muốn cho chúng con hiểu rằng, cái phúc của sự nghèo khổ, lầm than mà Chúa gánh chịu là ở chỗ đó. Giá trị ấy không hệ tại ở chính sự nghèo khổ, đói khát. Vì nếu thế, Chúa đã không phải thưởng công cho những ai biết chia sẻ miếng cơm cho người nghèo, thăm viếng kẻ lao tù hay bệnh tật (Mt 25, 31-46), và Hội Thánh cũng chẳng cần quan tâm đến việc bác ái làm chi. Nhưng phúc của cái nghèo ở đây chính là ở chỗ khi người ta biết nương tựa vào Chúa, lấy Chúa làm giá trị tuyệt đối, là cùng đích của đời mình.
Lạy Chúa, sự giàu có không phải là một cái tội, nhưng một khi nó làm cho con người chỉ nghĩ đến bản thân mình mà quên đi những người xung quanh thì đó lại là tội. Ông phú hộ giàu có sống xa hoa với những bộ quần áo sang trọng, hằng ngày yến tiệc linh đình, nhưng ông lại chưa một lần cho anh Ladarô nghèo đói một mẩu bánh vụn nào. Vì vậy, sau khi chết ông cũng chẳng nhận được một giọt nước nào từ anh Ladarô. Vực thẳm ngăn cách giữa ông và anh Ladarô sau khi chết chỉ là kéo dài cái cửa mà trước đây anh Ladarô đã nằm và cái bàn tiệc của ông. Đó là vực thẳm mà ông phú hộ đã không lấp bằng đi khi hai người con sống, vì ông ta đã không nghe lời mời gọi khẩn thiết của Chúa về việc sử dụng tiền bạc để làm cho người nghèo Ladarô trở thành bạn hữu của mình. Lời mời gọi này cũng không phải là điều gì quá mới mẻ mà ông ta không biết, vì nó đã được chứa đựng trong lời dạy của các ngôn sứ và trong Lề Luật. Vì vậy, không một phép lạ nào, dù cho kẻ chết có sống lại, có thể hoán cải được những kẻ đã từ chối đón nhận sứ điệp của Lề Luật và các ngôn sứ.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để chúng con nhận ra Chúa nơi tất cả những người chúng con gặp gỡ hằng ngày, nhất là nơi những người nghèo khổ, bệnh tật, nơi những người thiếu thốn tình yêu thương, để chúng con biết thông cảm, an ủi và sẻ chia với họ như Chúa đã nói: “Điều ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính Ta.” (Mt 25, 40)
Lạy Chúa, xin cũng giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của mọi kho tàng dưới đất, và xin cho chúng con biết dùng của cải trần gian mà mua lấy hạnh phúc Nước Trời (Lc 12, 33). Amen.
1 Ha-lê-lui-a! Ca tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi! 2 Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng CHÚA, sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời. 3 Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, nơi người phàm chẳng cứu nổi ai. 4 Họ tắt hơi là trở về cát bụi, dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan. 5 Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ và cậy trông CHÚA, Thiên Chúa họ thờ. 6 Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó. Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, 7 xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. CHÚA giải phóng những ai tù tội, 8 CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà. CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, CHÚA yêu chuộng những người công chính. 9 CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân. 10 CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.
Tôi sẽ ca tụng Chúa suốt cuộc đời…Đừng tin tưởng vào quyền thế chóng qua…con người mỏng giòn TN 26-C159
Tôi sẽ ca tụng Chúa suốt cuộc đời…Đừng tin tưởng vào quyền thế chóng qua…con người mỏng giòn…Phải nương tựa vào Thiên Chúa, Tạo Hóa, trung tín, cứu độ, từ tâm, bạn hữu của người bé mọn. Ngài hiển trị muôn đời!
Cùng Đọc Với Dân Ítraen
Đây là một Thánh Thi ca ngợi vương quyền Thiên Chúa. Từ Thánh vịnh 145 cho đến Thánh vịnh cuối cùng 150, ta có một loạt Thánh vịnh được gọi là Hallel cuối cùng, bởi vì mỗi một trong sáu Thánh vịnh này đều mở đầu và kết thúc bằng Alleluia. Cũng thế, sách Thánh vịnh kết thúc bằng lời chúc tụng. Hãy lưu ý từ Alleluia, trong tiếng Do Thái có nghĩa là Hãy chúc tụng Thiên Chúa.
Tác giả Thánh vịnh ca ngợi tình yêu Chúa với một giọng điệu hân hoan bằng cách lập lại chín lần cùng một cấu trúc văn phạm được gọi là ‘động tính từ ca tụng’.
-Đấng tạo thành trời đất … -Đấng giữ lòng trung tín … -Đấng xử công minh cho người bị áp bức… -Đấng ban lương thực cho kẻ đói ăn… -Đấng giải phóng những ai tù tội… -Đấng mở mắt cho kẻ mù loà… -Đấng cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên… -Đấng yêu chuộng những người công chính… -Đấng phù trợ những khách ngoại kiều… nâng đỡ cô nhi quả phụ.
Ta hình dung như hai ca đoàn đang đối đáp nhau. Có thể xem đây như một hình thức kinh cầu của những người đau khổ mà Thiên Chúa nâng đỡ: người bị áp bức, kẻ đói ăn, người tù tội, người mù lòa, người bị dìm xuống, khách ngoại kiều, cô nhi quả phụ…Mọi đau khổ trên đời này đều kéo lòng thương xót của Thiên Chúa xuống trên con người.
Cùng Đọc Với Đức Giêsu
Chẳng chút khó khăn nào để đặt Thánh vịnh này trên môi miệng của Đức Giêsu. Ta tưởng như đang nghe những lời tin mừng.
Đức Giêsu, thay vì cậy dựa vào những kẻ quyền thế trần gian, Ngài lại cậy trông vào Chúa Cha để đứng về phía những người nghèo hèn, từ hang đá cho đến thập giá. Ngài thực hiện nhiều phép lạ để hoàn tất lời kinh nguyện này: hóa bánh ra nhiều để nuôi những người đói, mở mắt kẻ mù, giải thoát tù nhân thoát khỏi tội lỗi…
Trong phòng tiệc thời thiên sai, cũng chính những kẻ nghèo, tàn tật, thấp hèn, mù lòa là những khách mời ưu tiên. Cũng một cách thức như trong Thánh vịnh này, Đức Giêsu đã tuyên bố những mối phúc: “Phúc cho những ai trông cậy vào Chúa…Phúc cho những ai nghe lời Thiên Chúa…” Và đối nghịch lại với những mối phúc này là lời chúc dữ: Ngài phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân…Vô phúc cho những kẻ giàu vì họ đã được no thỏa. (Lc 6,24). Đức Giêsu thường lập lại với Thánh vịnh này: cuộc sống vật chất dẫn đến hư không. Hãy nhớ hình ảnh người chủ điền giàu có muốn nới rộng kho lẫm. “Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, nơi người phàm chẳng cứu nổi ai. Họ tắt hơi là trở về cát bụi, dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan”.
Phụng Vụ đã chọn Thánh vịnh 145 và đoạn Tin Mừng theo thánh Mátcô (Mc 12,38-44) để đọc trong ngày Chúa nhật này, vì có liên quan đến hình ảnh bà góa nghèo mà Đức Giêsu muốn nêu lên…và cũng vì hình ảnh của các luật sĩ, những kẻ quyền thế của thời đại, nuốt trửng tài sản của các bà góa, trong khi Thiên Chúa nâng đỡ góa phụ và cô nhi.
Cùng Đọc Với Người Thời Nay
Alleluia! Ca tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi! Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng CHÚA, ta có biết thật ca tụng là gì không? Ta có biết tạ ơn Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm cho ta vì yêu không?
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế, nơi người phàm chẳng cứu nổi ai…Đúng vậy, làm sao lại cậy dựa vào một con người, xuất phát từ đất bụi, con của Ađam được dựng nên từ bụi đất. Cho dù có được trọng vọng, cao cả, thông minh, một ngày kia nó cũng sẽ trở về bụi đất. Chẳng có quá lời đâu…cũng chẳng bi quan đâu! Đó là sự thật! Duy mình Thiên Chúa mới có thể cứu thoát chúng ta. “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4,12)
Phúc thay người trông cậy Chúa…Lạy Chúa, xin ban cho con hạnh phúc đích thực. Xin cho con tin rằng chỉ có Chúa là hạnh phúc bền vững, không gì có thể làm nó hư mất đi và làm cho nó nhạt mờ được.
Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó… Thỉnh thoảng ta nên nhắm mắt lại và gợi lên trong trí cái vũ trụ vĩ đại được tạo dựng. Thật rất đẹp và rất hùng vĩ! Một đêm tối đẹp trời đầy sao, hãy nhìn các ngôi sao và nghĩ đến các giải thiên hà. Hãy nghĩ đến cả cuộc sống chen chúc, đến hằng tỉ hằng tỉ chủng loại đang sống trên mặt đất và sâu trong lòng đại dương!
Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời… Ngay sau khi gợi lên sức mạnh tạo thành, tác giả Thánh vịnh, không hề báo trước, một cách tự nhiên chuyển ngay sang chủ đề lòng trung tín và yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa vĩ đại của vũ trụ, ta nghĩ rằng Ngài rất siêu vượt, xa vời. Đó chính là điều các triết gia đã làm. Nhưng hãy nghe, Ngài còn ưu tiên quan tâm đến những kẻ bé mọn, những kẻ bất hạnh đau khổ. Ngài dành mọi phúc lành cho họ: xử công minh cho người bị áp bức…/ban lương thực cho kẻ đói ăn…/ giải phóng những ai tù tội…/mở mắt cho kẻ mù loà…/cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên…/yêu chuộng những người công chính…/phù trợ những khách ngoại kiều…/nâng đỡ cô nhi quả phụ. Còn những người kiêu căng, tự mãn sẽ nhận lời chúc dữ: Ngài không thèm quan tâm đến họ, và phá vỡ mưu đồ của họ… họ sẽ ra tro bụi bởi vì họ đã chối từ hạnh phúc vĩnh cửu dành cho họ.
Nếu Thiên Chúa đứng về bên những kẻ bất hạnh…vậy bạn, bạn phải làm gì? Bảo vệ, che chở, chữa lành, nâng dậy, nâng đỡ. Những công việc này Thiên Chúa giao cho con người. Vâng, chính con người tro bụi đáng thương ấy lại có được vinh dự bắt chước Thiên Chúa. Hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành. Và phía sau những từ ngữ của Thánh vịnh, là lời khuyến khích động viên mọi kitô hữu dấn thân cho sự phát triển, cho sự phục vụ con người, tập thể, xã hội. CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở… Xin cho nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất, trong các cộng đoàn nhân loại mà tôi đang là thành viên.
Noel Quesson, 50 Psaumes pour tous les jours, Tome I
“Trong lịch sử, chưa bao giờ nhân loại đạt được một sự bình đẳng dù ở bất cứ một mức độ tương đối nào, nhưng những gì đang tồn tại, thực sự gây nên những mối lo ngại lớn” (Theo nghiên cứu lịch sử kinh tế thế giới 2000 năm qua, The World Economy: History Statistics).
Mối lo ngại” trước tiên chính là khoảng cách ngày một xa giữa người nghèo và người giàu, giữa TN 26-C160
“Mối lo ngại” trước tiên chính là khoảng cách ngày một xa giữa người nghèo và người giàu, giữa nước giàu và nước nghèo. Đó là điều tồi tệ không mong gì cải thiện được.
Lướt qua số liệu tổng kết khoảng cách giữa các nước kém phát triển và các nước phát triển – giữa dân nghèo và dân giàu – càng lúc càng tăng cao, chúng ta mới thấy rõ đúng là “mối lo lớn” thật sự. Nếu năm 1820 khoảng cách là 3:1, sau 30 năm là 35:1, và đến năm 2002 đã là 75:1.
Khoảng cách giàu – nghèo tiếp tục gia tăng
Cuộc đấu tranh vì công bằng của nhân loại hẳn còn cả chặng đường dài: báo cáo mới của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD – Organization for Economic Cooperation and Development) cho thấy khoảng cách giàu – nghèo ở 30 nước giàu nhất vẫn tiếp tục tăng trong 20 năm qua, đặc biệt là ở Mỹ. Các tiến bộ về thương mại và kỹ thuật đã giúp kinh tế các nước thành viên OECD phát triển nhanh chóng, nhưng đời sống tầng lớp thấp không cải thiện là mấy.
Nghiên cứu trong suốt 20 năm của OECD cho thấy có đến 27/30 nước có tình trạng thu nhập người giàu thì tăng trong khi nhóm còn lại giậm chân tại chỗ. Mỹ là nước có tỉ lệ chênh lệch giàu nghèo cao nhất, chỉ sau Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, và khoảng cách này đã tăng nhanh kể từ năm 2000 tới nay. Pháp trong khi đó giảm được phần nào sự bất bình đẳng này khi công nhân nghèo đã được trả lương tốt hơn. Ở Mỹ, 10% người giàu nhất thu nhập trung bình 93.000 USD/năm (cao nhất trong OECD) trong khi 10% người nghèo nhất chỉ thu nhập 5.800 USD/năm, thấp hơn khoảng 20% so với mức trung bình của OECD. Nhóm 10% giàu nhất chiếm tới 71% tài sản của toàn bộ nước Mỹ. Thu nhập 10% giàu nhất ở Pháp là 54.000 USD/năm so với 9.000 USD/năm của 10% nghèo nhất. Con số tương ứng ở Nhật Bản là 60.000 USD và 6.000 USD.
Đằng sau sự văn minh của thế giới, vẫn là thiên tai, ô nhiễm, dịch bệnh, cái nghèo cùng cực và chết đói. Đằng sau sự hào nhoáng của các quốc gia đều là những mảng tối. Chiếc bánh kinh tế toàn cầu đã nở phồng lên theo tỷ lệ chưa từng thấy, nhưng đáng buồn là người giàu đã ăn hầu hết phần bánh này. Họ dùng cả quyền lực để bảo đảm phần béo bở nhất và chỉ nhường phần vụn thừa rơi rớt cho người người nghèo đói (góp nhặt từ Internet). Đó là câu chuyện Phú ông và Lagiarô thời đại.
KHOẢNG CÁCH TINH THẦN
Khoảng cách tinh thần: đó là sự “lạnh lùng” đáng sợ của một bộ phận đông đảo những người giàu có. Sự ấm áp đã làm cho họ không thể hiểu nổi thế nào là băng giá. Sự no đủ đã làm cho họ không thể hình dung được thế nào là đói khát. Sự hưởng thụ sung túc đã làm cho họ không thể tưởng tượng được thế nào là cùng khổ.
Ánh mắt của đa số những người giàu có luôn chỉ có một hướng nhìn về “thế giới thiên đàng vật chất” và họ chìm đắm trong mơ ước không ngừng vươn lên cao hơn nữa trong khoái lạc riêng tư với niềm tự hào, tham vọng, và cả lòng ganh tỵ đua chen.
Họ bỏ mặc – hay không còn nhận ra – một thế giới khác đang ở ngay bên cạnh họ. Thế giới của một Lagiarô cùng khổ và cực kỳ bất hạnh. Có khi không phải họ khinh miệt người cùng khổ, thật ra – và là điều đáng sợ – họ quên sự hiện diện của người cùng khổ đang cùng sống với họ trên hành tinh này.
Họ sống trong thế giới hiện thực đầy no thỏa và hóa thân thành thần thánh đầy hạnh phúc trong thế giới thiên đàng ảo – thế giới giàu có vật chất và dư đầy hưởng thụ – cho đến một ngày nào, khi tài khoản thời gian của họ đã hết. Đó là lúc họ mới nhìn thấy thế giới của Lagiarô, một thế giới thần thánh hiện thực mà Lagiarô đã vươn đến được từ thế giới cùng khổ với một đời bất hạnh luôn đói khát no ấm và tình yêu. Nhưng khát vọng ấy Lagiarô đã không tìm thấy được trong thế giới hữu hình mà Lagiarô đã trải qua.
Bây giờ, khi ông nhà giàu chết, ông mới bước vào một thế giới thật – đây mới là thế giới thật! – Ngỡ ngàng nhận ra đây không phải là Thiên Đàng sau những tháng ngày sống trong cõi thiên thai của “thiên đàng ảo” đã tan biến!
Bây giờ, họ – những con người của thế giới phú hộ – mới nhận thấy Lagiarô từ xa. Con người bần cùng, mà trước đây – và cũng là thế giới bần cùng mà trước đây – đã ở ngay bên cạnh họ, ngay trước mắt họ, chỉ cần bước một vài bước là đã thấy, chỉ cần cúi xuống một chút là đã chạm tới – nhưng họ đã không hề biết đến! “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh Lagiarô trong lòng tổ phụ”(Lc.16,23).
Trên đỉnh cao của sự sang trọng, giờ ở tận cùng của sự đọa đày, những con người như nhân vật phú ông mới ngộ ra được thế nào là đau khổ tận tâm cang. “Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh Lagiarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”(Lc. 16.19-31).
LẠC LỐI
Trong nơi đọa đày, phú ông mới biết mình đã lầm đường lạc lối.”Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lagiarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!’” (Lc. 16.27-28).
Có phải vì thiếu thông tin, thiếu sự hướng dẫn, thiếu giáo huấn, mà phú ông đây “sa vào chốn cực hình” không? – Chắc hẳn là không rồi.
Ngay từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để Giáo Huấn Tình Thương của Ngài trong lòng trí con người. Thiên Chúa không ngừng Giáo Huấn con người tiệm tiến theo thời gian. Cho đến khi Ngài chọn Dân Riêng của Ngài để ban tặng cho con người Đấng Cứu Thế. Nhưng Lịch Sử Cứu Độ cho thấy con người đã nhiều lần “để ngoài tai” lời răn dạy của Chúa. Và lịch sử con người cũng chứng minh con người luôn nuôi tham vọng riêng mình, sống ích kỷ chỉ vì bản thân, không biết chia sẻ và yêu thương đùm bọc lẫn nhau. “Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó’. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.’”(Lc.16,29-31).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có kể một câu chuyện:
Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, khi được quyền nhiếp chính chức vụ tể tướng, nét mặt có vẻ vui mừng. Trò của ngài là Trạng Do liền hỏi:
– Do này vẫn được nghe là những người quân tử, thấy tai họa đến cũng không sợ, thấy hạnh phúc tới cũng không vui mừng, thầy mới được có địa vị mà vui mừng như thế là cớ làm sao?
Khổng Tử đáp:
– Phải có câu nói ấy thực, nhưng há chẳng có câu nói rằng: “Người ta vui vì được đem địa vị cao quí của mình mà hạ xuống cùng với mọi người sao?
Giới Luật Yêu Thương đòi hỏi sự chia sẻ trong tình liên đới giữa người với người. Tội lỗi không chỉ là lánh xa những điều độc ác, mà còn phải làm những điều chân thiện. Dân gian cũng có câu: “làm lành lánh dữ”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46).
Câu chuyện phú hộ và Lagiarô vẫn còn tiếp diễn trong thế giới hôm nay. “Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.’”(Lc.16,31).
Còn hơn thế nữa, chính Đấng Cứu Thế đã đến với nhân loại. Giáo Huấn Tình Thương của Ngài đem đến cho con người sự an bình và dịu ngọt biết bao! Thế nhưng, vẫn còn đó “những người giàu có” lạnh lùng trước những “Lagiarô” đầy đau khổ và bất hạnh. Trong rất nhiều hoàn cảnh, Giới Luật Yêu Thương vẫn còn nằm bên lề cuộc sống.
Nhưng, dù thế nào đi nữa, người Kitô-hữu chúng ta vẫn luôn sống trong hy vọng. Ánh sáng Tin Mừng vẫn tiếp tục chiếu soi trong thế giới tối tăm này. “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga.1,5).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tình liên đới bằng con tim rộng mở, để biết chia sẻ với đồng loại nhân danh Tình Yêu Thiên Chúa. Amen.
Chúng con vừa được nghe một câu chuyện hết sức đặc biệt mà Chúa Giêsu đã kể cách đây hai TN 26-C161
Chúng con vừa được nghe một câu chuyện hết sức đặc biệt mà Chúa Giêsu đã kể cách đây hai ngàn năm. Cha đố chúng con biết khi kể câu chuyện đặc biệt này Chúa Giêsu muốn nói cho mọi người điều gì?
- Chúa muốn nói đến sự sống ở đời sau.
- Chúa muốn nòi đến sự sống sau khi chết.
- Chúa muốn nói đến cuộc sống của con người sống hôm nay và mai sau có liên hệ với nhau.
Chúng con giỏi quá.
Theo cha thì Chúa muốn nói với mọi người hai điều này:
Trước hết là đàng sau cuộc sống chúng ta đang sống hôm nay, có một cuộc sống khác. Đó là cuộc sống đời sau.
Thứ đến là giữa cuộc sống hôm nay và cuộc sống đời sau có một mối giây liên hệ mật thiết với nhau.
Bây giờ cha bắt đầu nói về hai vấn đề này.
1. Trước hết là đàng sau cuộc sống chúng ta đang sống hôm nay, có một cuộc sống khác. Đó là cuộc sống đời sau.
Cha hỏi chúng con: Chúng con có tin rằng có cuộc sống mai sau không?
Tin vào cuộc sống mai sau là một trong những điều phải tin trong kho tàng đức tin của chúng ta.
Thế nhưng đây không phải là niềm tin của mọi người. Có rất nhiều người không tin vào cuộc sống đời sau, không tin vào cuộc sống đàng sau cái chết. Họ bảo: chết là hết, chẳng còn gì. Khi đã xuôi tay nằm xuống là phải đem đi chôn. Thế là hết cuộc đời.
Phần chúng ta, chúng ta tin có cuộc sống mai sau, cuộc sống đời đời.
Nếu không có cuộc sống mai sau thì cuộc sống đời này thật vô nghĩa.
Cha mời chúng con nghe câu chuyện này. Đây là câu chuyện giả tưởng nhưng nó cũng đem lại những giá trị hết sức đặc biệt cho mọi người.
Câu chuyện như thế này: Một lần kia một ông bác sĩ phụ trách sản khoa đã nói chuyện với một bào thai còn trong lòng mẹ. Ông bác sĩ nói:
- Bào thai ơi, thời gian trong bụng mẹ chỉ là giai đoạn sửa soạn, cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên trần thế. Đó là một cuộc đời mà ngươi chưa biết và không thể tưởng tượng ra được không?
Nghe vậy, bào thai liền nói:
- Thôi ông đừng có nói chuyện mê tín dị đoan. Cuộc đời trong bụng mẹ tôi là cuộc đời duy nhất mà tôi biết được lúc này, ngoài ra không còn cuộc đời nào khác nữa. Một cuộc sống ở nơi nào khác chỉ là điều bịa đặt của những kẻ cuồng tín.
Nhưng, suy nghĩ một hồi, bào thai liền thắc mắc:
- À nhưng mà tôi sẽ có mắt ở trên mặt. Để làm chi nhỉ? Ở đây đâu có gì để nhìn? Tôi sẽ có chân, nhưng tôi không có đủ chỗ để duỗi chân ra, vậy có chân để làm gì đây? Và tại sao tôi lại phải có tay? Có tay để cứ khoanh mãi như thế này ư? Tay làm phiền tôi và mẹ tôi. Sự tăng trưởng của tôi trong lòng mẹ sẽ thật vô nghĩa, nếu như sau này không có một cuộc đời với ánh sáng, màu sắc và nhiều điều khác nữa để tôi nhìn ngắm. Không gian mà cuộc đời khác của tôi sẽ sống chắc là vĩ đại lắm nhỉ? Chắc là tôi phải đi thật nhiều nên tôi mới cần có đôi chân? Chắc là tôi phải làm việc nhiều và chiến đấu cam go lắm, nên tôi mới cần có đôi tay? Bác sĩ nói đúng đấy! Chắc chắn phải có một cuộc đời khác nữa trên trần thế ở bên ngoài bụng mẹ tôi.
Hội Thánh dạy chúng ta rằng cuộc đời trên trần gian này không khác gì bào thai đang sửa soạn cho một cuộc đời thực sự sẽ đến sau này trên Nước Trời. Cũng như mắt, chân và tay của bào thai sự khôn ngoan dành cho cuộc đời sắp đến. Sự phát triển của con người trong cuộc đời này chứng minh cho một cuộc đời mai sau.
2. Và đây là vấn đề thứ hai: Giữa cuộc sống hôm nay và cuộc sống đời sau có một mối giây liên hệ mật thiết với nhau.
Cha Walter Ciszet đã trải qua 23 năm trong ngục tù và các trại lao động bên Nga. Tình cờ ngài được phóng thích và trở về quê hương ở Mỹ. Cuốn sách của Cha: Ngài dẫn đưa tôi mô tả niềm tin sâu sắc vào cuộc sống vĩnh cửu rực cháy trong tâm hồn những người Nga bình dị. Bao nhiêu thập kỷ tuyên truyền chủ nghĩa vô thần bằng phương tiện truyền thông đại chúng, rồi bao nhiêu năm chế độ đó nắm chính quyền cũng không thể xóa được niềm tin trong tâm hồn họ.
Điều gì thuyết phục tôi rằng có đời sau? Điều gì cản trở tôi sống phù hợp với niềm tin của tôi?
Nếu hạt giống rơi vào đất đen có thể trở thành bông hồng đẹp đẽ thì tâm hồn con người sẽ trở thành cái gì trong cuộc hành trình đến với sự sáng (Gilbert K. Chesterton) (Trích "Viễn tượng 2000").
Nhà minh giáo lừng danh Hettinger một hôm đi dạo trên cánh đồng, đã gặp một đứa bé đi học, Ngài vừa đi vừa đặt nhiều câu hỏi để xem đứa bé có biềt gì về giáo lý hay không. Khi hỏi những người giàu có được vào nước trời không thì em bé trả lời:
- Được, nếu họ giúp đỡ những người nghèo.
Vị linh mục lại hỏi người nghèo có có được vào thì em bé trả lời:
- Được, nếu họ biết nhẫn nại chịu đựng những đau khổ và thánh giá của họ.
Hettinger thích nhắc lại những câu trả lời này của đứa bé và Ngài thêm rằng: “Những lời đó chứa đựng một triết lý, triết lý của thánh giá”. Không có thánh giá, tức là không có khốn cực và đau khổ, thì không có hạnh phúc thật ở đời này, và không có sự cứu rỗi ở đời sau.
Có một ông vua rất yêu chuộng sự khôn ngoan. Nhà vua cho triệu tập tất cả những nhà thông thái trong cả nước đến và nói:
- Ta biết rằng người khôn ngoan tìm kiếm sự thật và luyện tập nhân đức để được trường thọ và hạnh phúc. Nay Ta yêu cầu các ngươi hãy triệu tập và sưu tầm các sách khôn ngoan trong nước. Tất cả các sách dạy sống tốt lành, hữu ích và được các thần ưu đãi khi đã về cuối đời.
Vâng lệnh vua, các nhà thông thái đi khắp các nơi trong nước và ngoài nước để thu thập tài liệu. Sau thời gian tìm kiếm, họ đã dâng lên vua 100 cuốn sách chứa đựng những điều khôn ngoan, cần thiết và yêu thương. Nhà vua ngạc nhiên nhìn những quyển sách và nói:
- Nhiều quá, các ngươi hãy mau tóm tắt những điều quan trọng trong mỗi cuốn sách. Ta muốn học thật mau lẹ những điều khôn ngoan để đạt tời hạnh phúc thật.
Sau nhiều năm, những nhà thông thái trở lại triều đình đem mười quyển đã tóm tắt lại trong 100 quyển. Nhưng nhà vua vẫn chưa hài lòng và ra lệnh họ phải tóm gọn lại nữa các sách vì vua không có thì giờ đọc sách. Hơn nữa vua cũng già cũng gần đất xa trời. Ngày tháng trôi qua họ vẫn chưa thâu tóm lại trong mười quyển sách. Một hôm họ báo tin cho vua có một nhà thông thái cưỡi lạc đà từ Phương Đông tới xin gặp vua. Nhà thông thái tâu với vua:
- Muôn tâu chúa thượng, nếu chúa thượng muốn biết đâu là bí quyết sống hạnh phúc, làm hài lòng các thần ở đời này và đời sau, thì đây là bí quyết: “Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến hết mọi người”. Nhà thông thái vừa dứt lời thì tại cửa đền vua xuất hiện một thánh nhân Chúa cũng gởi đến từ Phương Đông. Thánh nhân cũng trình bày với vua một bí quyết đạt tới khôn ngoan và hạnh phúc, còn ngắn gọn hơn câu của nhà thông thái trước
- Tâu chúa thượng, nếu muốn được cứu thoát và sống hạnh phúc thì hãy yêu thương đồng loại, rồi chúa thượng sẽ được Thiên Chúa yêu mến.
Yêu người là gồm tóm mọi lề luật và mọi bí quyết khôn ngoan để được cứu thoát và sống đời đời. Ở đâu có một người, ở đó có Thiên Chúa. Ở đâu có đứa trẻ khóc trong bóng tối ở đó có Chúa. Ở đâu có người già bị bỏ rơi, có sự khao khát công lý chân chính, ở đó có Chúa.
Lạy Chúa là nguồn tình yêu và hạnh phúc và là sự sống đời con. Con tin Chúa, Chúa đã phục sinh khải hoàn, đã toàn thắng sự chết và mở cửa thiên đàng và hạnh phúc trường sinh cho toàn thể nhân loại. Xin hãy mở mắt tâm hồn con để nhận biết Chúa trong họ, yêu mến và phục vụ Chúa qua họ. Vì đó là cách con yêu mến Chúa.
Những ngày này, chỉ cần vài giây, Google sẽ cho ra hàng triệu kết quả với cụm từ vụ án VN Pharma TN 26-C162
Những ngày này, chỉ cần vài giây, Google sẽ cho ra hàng triệu kết quả với cụm từ vụ án VN Pharma, là vụ án gây chấn động và bức xúc trong dư luận về việc mua bán thuốc điều trị ung thử giả xảy ra tại Công ty cổ phần VN Pharma. Những người liên quan đến vụ án này không chỉ phạm pháp, mà hơn thế nữa họ còn mang trong mình căn bệnh vô cảm. Thực tế trong y học không có bệnh vô cảm. Đó là căn bệnh của cách hành xử, căn bệnh của lối sống khi người ta không biết quan tâm đến người khác. Sự vô cảm càng nặng nề hơn khi họ lợi dụng nỗi đau của kẻ khác để trục lợi cho bản thân mình, trong khi lẽ ra họ phải là những người xoa dịu nỗi đau cho người khác. Dư luận lên án và bức xúc là phải, vì vụ án xảy ra liên quan đến nghành y tế, là nghành chăm sóc sức khỏe cho người dân, nhưng nay lại lấy đi sức khỏe và mạng sống của họ. Ấy vậy mà trong quá trình xét xử, lại xuất hiện những hồ sơ mật. Báo Pháp Luật đưa tin: “Trong phiên xét xử ngày 24/09, đáng chú ý, trước khi chuyển sang phần xét hỏi, chủ tọa phiên tòa có lưu ý: Hồ sơ vụ án có một số tài liệu đóng dấu mật, tuyệt mật. Những người nào sử dụng tài liệu này phải chú ý, còn ai cố tình làm lộ bí mật sẽ bị xử lý theo quy định”. Vô cảm đến thế là cùng! Khi người ta phạm pháp mà còn cố tình dùng mọi cách để bao che.
Bài đọc I (Am 6, 1a.4-7): Thời của tiên tri Amos là thời vinh quang tột đỉnh của miền Bắc Israel. Dân chúng sống sa hoa hưởng thụ, bám víu vào của cải vật chất, thể hiện một sự thịnh vượng mà không có nền tảng đạo đức. Nhưng đến thời đất nước lâm nguy bởi kẻ thù là Assua, họ vẫn quen với lối sống đó. Chính vì vậy Amos được sai đến để khiển trách họ. Họ bị lên án là vì lo hưởng thụ, ăn uống, chè chén say sưa mà không quan tâm đến vận mạng của đất nước. Tiên tri nói rõ: “Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày…. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6, 7). Đức Chúa không chấp nhận lối sống vô cảm, tức là sống mà không biết nghĩ đến người khác, không biết nhìn ra xung quanh.
Như thêm bằng chứng tố cáo lối sống vô cảm, Tin Mừng (Lc 16, 19-31) thuật lại việc Đức Giêsu kể một dụ ngôn mang tên ông nhà giàu và người nghèo khó Lazarô. Người giàu có trong dụ ngôn này không có lỗi gì để đáng bị hình phạt hỏa ngục. Đức Giêsu không hề nói sự giàu có của ông là nhờ ăn hối lộ, bán thuốc tây giả, làm ăn bất chính, hay trộm cắp, cướp giật… Ngài cũng không nói ông vi phạm ngày Sabat hay lề luật khác như bất hiếu, giết người, tà dâm… Ngài chỉ nói: “Ông ta mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”. Như vậy hưởng thụ tài sản do mình làm ra cũng có tội sao? Hay ông ta có tội không giúp đỡ Lazarô?
Lazarô không hề mở miệng xin: “Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại!” Lazarô chỉ “nằm trước cổng, thèm ăn những miếng bánh vụn từ trên bàn ông nhà giàu rớt xuống”. Không nói thì ai biết. Không xin thì ai cho. Chết đói là phải! Nhưng ông nhà giàu vẫn phải sa hỏa ngục không phải vì ông có tội, không phải vì ông ích kỷ, nhưng vì ông vô cảm. Thấy người kế bên mình đau khổ mà không một chút xót thương. Tội của ông là vô tâm, vô tình dẫn đến hậu quả tệ hại cho người khác. Hoặc chỉ đơn giản ông không hay có người nghèo trước cổng nhà mình.
Lời Chúa soi dẫn như vậy để chúng ta đừng tưởng mình không làm gì sai trái, mình giữ đạo đàng hoàng là đương nhiên lên thiên đàng. Thưa đó chỉ là giữ đạo. Bước theo Đức Kitô là phải sống đạo. Sự sống động của đạo Công giáo như chính dòng máu chảy trong con người, nó phải được luân chuyển chứ không thể ở yên một chỗ. Nếu ngày nào máu không được lưu thông, con người sẽ chết ; hoặc nếu lưu thông quá chậm chạp, sự sống cũng rất mong manh.
Sống đạo không phải chỉ là việc mến Chúa, mà còn phải là yêu người, vì đó là “mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy”. Thường thì chúng ta chỉ dừng lại ở việc mến Chúa: đi lễ, tuân giữ giới răn của Chúa, lề luật của Hội thánh thế là xong; có vất vả, có nặng nề, nhưng nếu cố gắng cũng sẽ được. Còn yêu người thì đòi hỏi ta phải hy sinh, chấp nhận dấn thân, chịu mất mát; thường ta chưa làm, hoặc làm mà chưa được, hoặc được mà chưa đủ.
Thiên Chúa là Tình Yêu nên Ngài không thể làm ngơ trước nỗi đau của nhân loại. Ngài phải đánh đổi bằng việc để Ngôi Hai xuống thế làm người, chuộc tội, chịu chết cho nhân loại. Con người không biết kêu đến ai, nhưng Thiên Chúa thấy được nỗi đau của họ nên đã ra tay cứu giúp.
Dân tộc Việt Nam sẽ chẳng biết Chúa là ai, chẳng thể kêu xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con!” nếu không có các nhà thừa sai Châu Âu tình nguyện đi truyền giáo, chấp nhận mọi gian lao, khổ cực, kể cả hy sinh mạng sống. Họ không an phận để tìm sự an nhàn cho bản thân.
Ngược lại với những tâm hồn dạt dào tình yêu, “trái tim không ngủ yên” là những con người vô cảm, họ yêu nhưng yêu chính bản thân họ. Vô cảm chính là sự trơ lì cảm xúc, dửng dung, thờ ơ, “máu lạnh” với những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Họ đã chết từ bên trong tâm hồn.
Có thể dễ dàng nhận thấy đó là những người chẳng quan tâm gì đến việc chung của cộng đoàn, của Giáo xứ. Họ nghĩ rằng đó là việc của cha sở, của những người có trách nhiệm… Đúng vậy, trước hết nó là việc của những người có trách nhiệm, nhưng sự vô cảm, lối sống cầu an chính là nguyên nhân khiến người phú hộ phải rơi vào hỏa ngục. Sức sống của một Giáo xứ thể hiện qua tinh thần đoàn kết, qua việc mỗi người đều góp phần vào việc chung của Giáo xứ ; nếu không Giáo xứ đó đã chết từ bên trong vì lối sống vô cảm.
Lối sống vô cảm còn được nhìn thấy qua việc chúng ta sống quá giàu sang, sung túc, trong khi còn quá nhiều những người nghèo bên cạnh chúng ta. Đành rằng sự hưởng thụ của tôi chẳng làm hại ai, nhưng thử nghĩ một phần niềm vui của tôi nếu được san sẻ thì chắc chắn có nhiều người khác được nhờ.
Không khó nhận ra căn bệnh vô cảm trong cuộc sống khi càng ngày càng có nhiều người thờ ơ trước những đau khổ, trước những hoàn cảnh đáng thương của người khác, nhưng làm sao để chữa trị căn bệnh ung thư trầm kha này mới là vấn đề, nhất là người Công giáo luôn tự hào là đạo của yêu thương. Nếu không lo chữa trị thì căn bệnh này sẽ giết chết tâm hồn chúng ta khiến đời sống khô khan, cằn cỗi, không có sức sống.
Trước hết mỗi người phải kiên trì làm gương về sự phục vụ dù nhiều người muốn sống hưởng thụ. Cuộc đời vẫn tươi đẹp khi còn rất nhiều người âm thầm lo việc chung, thậm chí việc “bao đồng”. Cụ già 82 tuổi ở Đồng Tháp đã miệt mài 15 năm đi vá đường cho người dân đi. Ông già ngoài 70 tự nguyện đến nhà nào có cây kiểng trong xã để cắt tỉa.
Ngày nay chúng ta hay nói đến 2 chữ vô cảm. Vậy vô cảm là gì? Thưa, vô cảm chính là sự TN 26-C163
Ngày nay chúng ta hay nói đến 2 chữ vô cảm. Vậy vô cảm là gì? Thưa, vô cảm chính là sự dửng dưng, thờ ơ, “máu lạnh” với những cuộc sống xung quanh. Ra đường gặp cái đẹp không mảy may rung động; gặp cái tốt không ủng hộ; thấy cái xấu, cái ác không dám lên án, không dám chống lại…
Trong vụ thảm sát tại Đan Phượng- Hà nội đã cho chúng ta thấy rõ một xã hội vô cảm đến lạnh lùng.
Ngày 1/9, đối tượng Nguyễn Văn Đông đã cầm dao sang truy sát cả nhà em trai của mình. Đáng nói, sự việc xảy ra có nhiều người chứng kiến nhưng không ai dám xông vào can ngăn. Khi em trai Đông đã gục xuống, Đông vẫn tiếp tục hạ sát. Đông còn tiếp tục vung dao chém hết thẩy 5 người và 4 người đã chết tại chỗ! Tại sao cả một khu phố không hô hào nhau bảo vệ người làng của mình? Tại sao lại hèn nhát vậy? Nếu nói rằng hung thủ quá hung hãn, vậy thử hỏi nếu người bị hại là người thân của mình có vô cảm vậy hay không? Có lẽ, nếu đó là người thân của ta, thái độ của ta sẽ khác và sẽ không vô cảm như vậy.
Nhưng đáng tiếc, bệnh vô cảm này dường như đã trở thành một lối sống thiếu tình liên đới của người Việt Nam hôm nay.
+Đã nhiều lần chúng ta từng bắt gặp một người ăn xin, rồi liền quay mặt đi một cách lạnh lùng?
+ Đã nhiều lần chúng ta từng lướt qua một vụ tai nạn với ý nghĩ “Mình đang vội mà. Sẽ có người lo thôi!”
+ Đã nhiều lần chúng ta từng chứng kiến những vụ chồng đánh vợ, nữ sinh đánh nhau, vụ móc túi trên xe bus,…mà chỉ đứng nhìn? (thậm chí móc điện thoại ra quay để có bài đăng facebook cho tối nay!)
Có lẽ điều mà giáo dục hôm nay cần quan tâm đó là xây dựng một xã hội đồng cảm và chia sẻ. Một xã hội mà nơi đó mọi người biết yêu thương nhau, giúp đỡ và sẻ chia cùng nhau. Một xã hội mà nơi đó mọi người biết sống tử tế, vị tha và quan tâm tới nhau hơn.
Thời Chúa Giê-su, có lẽ cũng không thiếu những loại người vô cảm trước nỗi thống khổ của tha nhân. Họ vô cảm đến nhẫn tâm bước qua một phận người lây lấy trên đường từ Giê-ru-sa-lem tới Giê-ri-cô. Họ có “rất nhiều của cải” nhưng lại không dám “bán những gì (họ) có mà cho người nghèo”. Sự vô cảm đó còn len lỏi đến cả những môn đệ của Chúa khi họ xin Chúa giải tán đám đông để tự đi mua thức ăn.
Thầy Giê-su đã nhẹ nhàng nhắc nhở sự vô cảm nơi con người qua dụ ngôn: “ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó”. Ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó tuy “rất gần mà lại xa”! Họ rất gần nhau, gần đến nỗi chỉ cách “một cái cổng nhà”, thế nhưng lại rất xa, xa bởi chính “sự-vô-cảm” nơi ông nhà giầu.
Sự vô cảm đến độ hằng ngày ông vẫn ăn mặc lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình và để mặc cho anh Lazaro nghèo khó: “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà của ông” sống lây lất từng ngày.
Thế nhưng, cuối câu chuyện là một sự đảo ngược lạ thường. Ông nhà giàu lại là kẻ mong Lazaro “đừng-vô-cảm” trước sự đau khổ của ông ta ! Trước kia Lazaro “thèm những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống mà ăn cho no”… Thì hôm nay ông “thèm” được Lazaro: “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi ông cho mát, vì ở đây ông bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”
Như vậy, sự giầu có không là tội mà sự vô cảm mới chính là nguyên do dẫn ông nhà giầu chịu cảnh đau khổ ở đời sau. Ông đã bỏ rơi đồng loại trong khi ông có khả năng giúp đỡ họ. Ông đã phớt lờ những mảnh đời bất hạnh bên cạnh sự giầu có xa xỉ của ông. Hậu quả là ông cũng bị mọi người lương thiện nhân ái bỏ rơi ông trước cửa Nước Trời.
Thiên Chúa tạo dựng con người có một trái tim để yêu thương, để cảm nhận nỗi thống khổ của tha nhân mà chạnh lòng thương xót. Đừng vô cảm trước phận đời bất hạnh. Đừng bàng quan trước nỗi đau của anh em. Ngày phán xét Chúa sẽ không hỏi chúng ta giầu có hay nghèo đói. Chúa cũng không hỏi chúng ta chức tước địa vị gì, mà Chúa sẽ hỏi về tình yêu liên đới của chúng ta với tha nhân. Chúng ta có bác ái với tha nhân hay không? Chúng ta có quá vô cảm đến vô tâm với anh em không?
Nguyện xin Chúa Giê-su luôn chạnh lòng thương xót mọi phận người, xin giúp chúng con luôn biết sống chia sẻ với những anh em nghèo khó. Xin đừng để chúng con vô cảm mà bàng quan trước những phận người khổ đau. Amen
Bạn có cảm nhận gì, khi nhìn tấm hình tang thương xuất hiện trên báo chí, trên phương tiện truyền TN 26-C164
Bạn có cảm nhận gì, khi nhìn tấm hình tang thương xuất hiện trên báo chí, trên phương tiện truyền thông trong thời gian qua: một số người ngồi bên tấm chiếu lớn. Trên chiếu là những cái xác được khăn phủ lại. Đó là một vài người thân của họ mới bị giết chết. Nước mắt tuôn tràn, khuôn mặt não nề, lòng người nát tan trong câm nín!
Lý do là gì vậy? Vì tiền, vì việc cãi cọ tranh giành phần thừa kế đất đai và tài sản giữa anh chị em ruột với nhau. Vì bất cứ lý do nào đó một bên đã bất mãn và tức giận, đến nỗi ra tay tàn ác, qua nhà người thân ruột thịt, và giết chết người thân cùng dòng máu.
Ôi vòng xoáy của đồng tiền và cuộc vật lộn bất thành của phận người!
Nhìn tấm hình tang thương đó, là người trẻ bạn sẽ nói gì cho chính bạn?
Nhìn tấm hình tang thương đó, nếu bạn là một bậc cha mẹ trẻ có con đang lớn, bạn sẽ dạy con điều gì về tiền bạc, giá trị tiền bạc và cách sử dụng tiền bạc?
Là con người ai cũng biết tiền bạc luôn là con dao hai lưỡi. Một đàng, tiền bạc giúp con người sống dồi dào và phong phú; đàng khác tiền bạc có thể điều khiển con người và gây ra biết bao nhiêu đổ vỡ và khổ đau.
Trong ca dao tục ngữ và trong văn học, người ta nói về tiền bạc như là nền tảng giúp cho con người sống hạnh phúc và sung túc, nhưng cũng nêu lên khía cạnh tiêu cực của tiền bạc: “Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược không xong”. “Tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu”. Thật vậy, tiền bạc có sự hấp dẫn mạnh mẽ, thế lực tiềm ẩn nhưng rất nguy hiểm, nếu người ta trở nên nô lệ cho đồng tiền.
Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su đã khuyến cáo và kêu gọi thật mạnh mẽ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16,13). Chúa không cấm chúng ta làm ra tiền, Chúa cũng không cấm chúng ta để dành tiền của trong ngân hàng, mà Chúa nhắc nhớ Ki-tô hữu luôn chú ý không được trở nên nô lệ của tiền bạc, không để mình trở thành kẻ làm tôi của thần Mammon.
Tiền bạc và của cải là phương tiện chứ không là ông chủ. Đó là vị trí đúng đắn nhất của nó. Thật buồn cho Ki-tô hữu nào thay đổi vị trí đúng đắn của tiền bạc, nghĩa là đặt tiền bạc của cải vật chất thành trung tâm điểm của cuộc sống, thành ông chủ của chính họ.
Lời của Chúa nói như là một chân lý bất di bất dịch. Chúa cũng mời gọi Ki-tô hữu với sự tự do của mình có một quyết định đúng đắn và rõ rệt. Chọn lựa và làm tôi của Thiên Chúa, nghĩa là thuộc trọn vẹn về Thiên Chúa. Không phải rửa tội xong, người Ki-tô hữu tự động làm tôi Thiên Chúa cách trọn vẹn. Để được thuộc về Chúa cách trọn vẹn, người Ki-tô hữu cần phải trung tín với Thiên Chúa trên từng chặng đường Đức Tin, trong mỗi suy tư, trong mỗi lời nói, trong mỗi hành động và trong mỗi công việc nhỏ bé nhất. Triết gia người Đan Mạch Kierkegaard đã nói: “Ki-tô hữu luôn ở trên đường để trở nên Ki-tô hữu trọn vẹn và hoàn hảo”.
Như thế, khi đối diện với tiền bạc, người Ki-tô hữu cần chú tâm học biết trong suy nghĩ, nghĩa là không để tiền bạc “xuất hiện thường xuyên và làm chủ suy nghĩ của mình”. Nếu suốt ngày trong đầu chỉ có chữ “tiền” chi phối hoàn toàn cái đầu, thì buồn thay cho phận người đó!
Khi đối diện với tiền bạc, người Ki-tô hữu cũng cẩn trọng trong tâm hồn của mình, để tiền bạc không chiếm chỗ thượng phong, chỗ ưu tiên trong trái tim của mình, vì nếu không khéo, thì lòng tham sẽ nổi dậy và rồi từng bước tiền bạc sẽ trở nên một hấp lực lớn, đến nỗi lòng người có thể đui mù suy phục con ma tiền bạc và vật chất. Hơn nữa, người Ki-tô hữu cần ý thức tỉnh táo trước cám dỗ của tiền bạc, cũng như chỗ dựa bảo đảm và vững chắn đầy ảo tưởng hão huyền của tiền bạc hứa hẹn sẽ đưa lại.
Chúa Giê-su nói trong Tin Mừng: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12,15). Lòng tham thì vô đáy. Chúa Giê-su biết rõ tâm trạng và lòng người mềm yếu dễ đi theo khuynh hướng “tham lam”, “gom góp” và “tích trữ”. Tham lam là một trong bảy mối tội đầu. Có nhiều kiểu tham và trong đó nổi bật là kiểu tham lam tiền bạc vật chất. Đi đôi với tham lam là keo kiệt, hà tiện và bủn xỉn. Đó là cách sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân và không bao giờ muốn chia sẻ với người khác. Người tham lam luôn muốn xây dựng cho mình một kho tàng kếch sù, luôn muốn sống trong nhung lụa giàu sang dư giả và an toàn với “kho lẫm” đã được tích trữ.
“Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. Đây chính là lời cảnh báo rõ rệt của Chúa Giê-su. Sự bảo đảm cho cuộc sống ai cũng muốn. Nhưng đâu là chỗ để chúng ta có thể dựa vào, để chúng ta có thể tìm sự bảo đảm và an toàn? Kinh nghiệm cuộc đời của nhiều người dư giả mà đời thường gọi là “đại gia” đã cho chúng ta thấy rõ. Họ đâu tìm thấy được sự bảo đảm đích thật cho cuộc sống nơi vật chất và tiền bạc, và tiền bạc cũng chẳng thực sự đưa lại hạnh phúc và bình an trọn hảo cho họ.
Hơn nữa, cuộc đời đã đưa tin biết bao gia đình đại gia không thể giáo dục con cái, những đứa con được kêu là “thiếu gia”. Gia tài kếch sù dư giả kế bên, nhưng nhìn con cái là “thiếu gia” xì ke ma tuý, ăn chơi trác táng không chịu học hành, chẳng màng lo lắng sự nghiệp và bản thân. Một bức tranh thật tương phản trong xã hội: đời sống “đại gia” sung túc và dư giả, nhưng “thiếu gia” trong nhà thì hư đốn. Thử hỏi đó có là hạnh phúc thực cho những người phú hộ thời đại hay không? Coi chừng những người con được gọi là thiếu gia của những đại gia trở thành những kẻ thiếu gia đình.
Hơn nữa, giá trị của con người không nằm ở giá trị của những gì người ấy sở hữu, nhưng ở chỗ người ấy là ai và sống như thế nào. Con người không được đánh giá bằng những gì người ấy có trong tài khoản ngân hàng, nhưng bằng giá trị của trái tim, cuộc sống, các hành vi, các quan hệ với các người thân và với những người đồng loại của mình. Với người Ki-tô hữu, giá trị thật của con người, chính là biết mình được tạo dựng, biết mình là con cái của Thiên Chúa và ý thức tập sống đúng theo tinh thần Chúa dạy.
Thật vậy, ý nghĩa và giá trị cuộc sống không nằm trong việc người ta có nhiều tiền bạc của cải đến nỗi dư giả, mà nằm trong tinh thần sống tốt lành của người con cái tự do của Thiên Chúa, những người con sống theo ánh sáng của Tin Mừng.
Đi sâu hơn nữa, Chúa Giê-su còn đưa hình ảnh của một người phú hộ giàu có (đại gia) đã dựa vào tiền bạc, của cải vật chất để sống trong an toàn và nhàn hạ. Luca diễn tả về người này như sau: “Rồi ông ta tự bảo: Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12,18-19). Theo lẽ thường tình, thì đại gia này làm rất ok và mọi người thấy chắc là sẽ khen ông ta khôn ngoan, biết hưởng thụ ở hiện tại và biết lo xa cho tương lai.
Nhưng truyện đâu có kết thúc ở “cái đầu khôn ngoan” của con người giàu có. Dụ ngôn kể tiếp với lời của chính Chúa nói với “đại gia” tự cho mình là khôn ngoan: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế” (Lc 12,20-21). Trong dụ ngôn, chúng ta thấy tên của đại gia, của người phú hộ không được nhắc đến. Hay ông ta không có tên? Cha Piere Cardon nói rằng: Người giàu không có tên! Thực chất dụ ngôn nói về một người đã mất linh hồn và tên của mình. Trong Tân Ước những người giàu có xấu xa không có tên. Đó hầu như chỉ là biểu tượng; người giàu có gắn bó với của cải vật chất của mình đến nỗi chính mình trở thành một đồ vật; người ấy đã mất nhân cách của mình. Ôi buồn thay, đại gia không tên!
Nhưng dù đại gia không có tên, nhưng Thiên Chúa vẫn tìm đến được nơi ông ta sống và “đòi lại mạng” của ông ta, ngay trong đêm “đại gia” tưởng rằng an toàn thư thái hưởng thụ cuộc đời. Lời Thiên Chúa đưa ra một sứ điệp rất mạnh mẽ và mang tính cảnh báo. Lời Thiên Chúa phán ra ngay giữa các kế hoạch và chương trình của con người đặt ra cho bản thân. Phải chăng con người không có được sức mạnh cuối cùng của cuộc sống? Con người sẽ điên rồ, khi nghĩ rằng cuộc sống của mình được bảo đảm bởi tiền bạc và bởi những gì mình sở hữu?
Lời của Thiên Chúa là chân lý. Nhìn vào cuộc sống thực tế, có biết bao nhiêu người giàu sụ đã phải lìa đời, ngay trong những lúc họ đang đứng trên đỉnh cao của thành công danh vọng. Có những người cả đời vất vả làm ăn chỉ để kiếm tiền, mà quên đi mọi thứ quan trọng khác, và chỉ một đêm khuya thanh vắng, đã phải ra đi mà không để lại một lời trăn trối nào cả.
Ôi vòng xoáy của đồng tiền và cuộc vật lộn bất thành của phận người!
Trong Cựu Ước, Gióp đã diễn tả tâm tình của ông:
“Phải chăng tôi lấy vàng làm bảo đảm và nói với vàng ròng: ‘Ngươi là chốn an toàn của ta!’ Phải chăng tôi mừng vui vì có nhiều của cải, vì tài sản do tay tôi làm ra? Phải chăng tôi thấy ánh mặt trời rực rỡ và vầng trăng lộng lẫy huy hoàng mà lặng lẽ để cho lòng bị lôi cuốn và đưa tay lên miệng mà hôn? Nếu thế thì đó cũng là tội ác đáng trừng phạt, vì tôi đã dám chối bỏ Thiên Chúa, Đấng ngự chốn trời cao” (Sách Gióp 31,24-28).
Thật là ngốc nghếch và sai lầm và đó cũng là một mối hoạ cho đời người, khi chỉ biết cắm đầu kiếm cho thật nhiều tiền, mà không đưa Thiên Chúa vào trong chương trình sống của mình. Người giàu có quên rằng họ không thể mua được những giá trị đích thật như sự sống, tình yêu, tình bạn, gia đình bằng tiền bạc và của cải. Họ cũng không nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể can thiệp vào cuộc đời họ; Thiên Chúa có thể gõ cửa cuộc đời họ bất cứ lúc nào, dù họ có ở trong bất cứ “Hotel năm sao thật an toàn” nào đi nữa. Của cải vật chất tích trữ trong kho thật lớn kia, người giàu có đưa theo được không? Nằm trong nghĩa trang với một ngôi mộ trát vàng và mạ bạc có làm cho người chết được sung sướng không, hay đó chỉ là một kiểu “làm oai” của những người đang sống?
Ôi vòng xoáy của đồng tiền và cuộc vật lộn bất thành của phận người!
Thánh Vịnh gia cũng nhắc nhớ những người giàu có ham mê tiền bạc vật chất, với những lời rất thâm thuý về sự hư vô của cuộc đời. Dù giàu hay nghèo, thì đều giống nhau bởi “cái chết”. Nói khác đi, “cái chết” làm cho mọi người đều như nhau, đều giống nhau cả. Dù giàu hay nghèo, dù giỏi hay dốt, dù quyền lực hay hạng tầm thường, tất cả đều phải chết. Thật vậy, dù giàu có và tưởng rằng bám vào tiền bạc sẽ an toàn, thì những người mê thần tiền bạc vẫn phải rời bỏ “chốn” nhà lầu cao sang và chiếc xe hơi bóng loáng đời mới, để “dọn vào” ngôi nhà muôn thuở. Đó là ba tấc đất, vì ba tấc đất mới thật là nhà, nơi họ ở muôn đời muôn kiếp.
Chúng ta đọc lại lời Thánh Vịnh tràn đầy hương vị khôn ngoan sâu sắc, và cả hương vị cảnh báo thật thấm thía dưới đây dành cho những ai “thích tiền” và đui mù thờ “thần tiền bạc”: * “Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm bạc tiền. Nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình và trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa? * Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số? * Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết, kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong, bỏ lại tài sản mình cho người khác. * Tuy họ lấy tên mình mà đặt cho miền này xứ nọ, nhưng ba tấc đất mới thật là nhà, nơi họ ở muôn đời muôn kiếp. * Dù sống trong danh vọng, con người cũng không thể trường tồn; thật nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết” (Tv 49,7-13). *
Thật vậy, dù giàu cỡ mấy và sở hữu biết bao tài sản vật chất, thì cũng phải trở về với tay không. Thánh Phaolô viết trong Thư thứ nhất gửi cho Timôtê: “Cái gì chúng ta đem vào thế giới này? Chẳng có gì. Cái gì chúng ta đem ra khỏi thế giới này? Cũng chẳng có gì!” (1Tm 6,7). Như thế, khoảnh khắc được vào đời và khoảnh khắc phải lìa đời “thắm thiết ôm nhau” trong vòng tay của chữ KHÔNG. Chẳng có kho tàng nào của tiền bạc và vật chất có thể “đưa tang” và “đồng hành” với người có của, với đại gia của cuộc đời bước vào cõi chết cả. Vì thế, thật quan trọng và khẩn thiết, để cập nhật hoá và update lại giá trị cuộc sống và kho tàng đời người.
Chúa Giê-su nói: “Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6,21). Thật vậy, nếu kho tàng của đời người là “tiếng kêu không dứt của những đồng tiền cắc kêu to”, nếu kho tàng của đời người là những “tấm thẻ Vip Credit vàng đỏ đen lẫn lộn”, nếu kho tàng đời người là những hàng số càng dài càng tốt trong tài khoản ngân hàng, thì rồi đến một lúc nào đó mọi sự khác sẽ trở thành thứ yếu. Cha Mẹ ư, Vợ con hả? anh chị em ruột thịt sao? Bạn bè à? Tất cả tương quan với những người ruột thịt và cùng dòng máu, cũng như với những bạn bè tri kỷ đều được đưa vào bàn cân với nhãn hiệu rất kêu “MM – MORE MONEY – Thêm Tiền – TT”. Nếu sống theo kiểu “MM – TT” này, nghĩa là trở thành nô lệ của tiền bạc, thì có thể biết bao đau thương sẽ xảy ra, như trường hợp tấm hình với chiếc chiếu cùng cảnh tang thương đã được diễn tả lúc đầu.
Vì thế, có câu trong dòng đời:
“Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử, Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi”.
Ôi buồn thay cho phận người với 24 tiếng đồng hồ mỗi ngày chỉ xoanh quanh chữ tiền, đến nỗi chẳng còn tình nghĩa, chẳng còn nhân phẩm, chẳng còn lòng nhân hậu và xót thương.
Ôi vòng xoáy của đồng tiền và cuộc vật lộn bất thành của phận người!
Vì thế, khi đối diện với tiền bạc, Chúa Giê-su nhắc nhớ người Ki-tô hữu ý thức biết cách dùng tiền bạc vật chất cho đúng đắn, nghĩa là không chỉ không phí phạm tiền bạc, cũng như không keo kiệt bủn xỉn, mà còn cẩn trọng không để bản thân mình rơi vào cái túi không đáy là lòng tham vô biên giới, lòng tham không hồi kết. Hơn hết, người con cái của Chúa cần phải luôn có tâm hồn quảng đại, suy nghĩ thanh thoát tự do với tiền bạc của cải, cũng như sẵn sàng trong vui mừng, để dùng tiền bạc giúp cho người nghèo, người bất hạnh. “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6,19-20).
Tích trữ kho tàng trên trời là gì vậy? Câu truyện thi vị dưới đây cho chúng ta một bài học sâu sắc và giúp cho chúng ta trả lời cho câu hỏi trên:
“Truyện kể rằng người kia có 3 người bạn. Hai người trước là bạn rất thân, người thứ ba quen thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử, liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ.
Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được.
Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan, nhưng lại không dám vào.
Chỉ có người thứ ba tuy không quen thân với ông, nhưng vẫn tỏ ra trung thành và tốt bụng, vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc.
Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm.
Người bạn thứ hai là Gia Đình, Bà Con Bạn Hữu.
Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về.
Người bạn thứ ba là các Việc Lành Phúc Đức.
Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng”.
Qua câu truyện trên và qua lời nhắc nhớ của Chúa Giê-su, chúng ta thấy việc tích trữ kho tàng trên trời chính là các Việc Lành Phúc Đức, là các việc bác ái và thương xót, mà Chúa Ki-tô luôn mời gọi người Ki-tô hữu biết ý thức thực thi.
“Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12,21).
Nhưng làm giàu trước mặt Thiên Chúa là gì? Rất cụ thể. Đó là ra khỏi cái vòng tròn quỷ quyệt của tiền bạc và lấy lại thế đứng của mình, đó là người làm chủ tốt lành của tiền bạc, và cuối cùng dùng tiền bạc để giúp người nghèo, để bố thí cho người túng thiếu. Không lỗ đâu, đừng sợ. Lời Chúa Giê-su nói: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá” (Lc 12,33).
Thánh Phao-lô nhắc lại tâm tình của Chúa Giê-su, trong sự kiện thánh nhân nói với các kỳ mục thuộc giáo đoàn Ê-phê-sô, và được viết trong sách Tông Đồ Công Vụ: “Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu, bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,33-35).
Thánh Phaolô còn viết cho Timôthê: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm 6,17-18).
Sách Châm Ngôn cũng dạy: “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm” (Cn 19,17).
Làm giàu trước mặt Thiên Chúa cũng chính là đời sống kính sợ Thiên Chúa, chọn Chúa là chủ đời mình. Thật vậy, kính sợ Thiên Chúa chính là sự khôn ngoan nhất của đời người.
Cyril thành Alexandria nói rằng: “Trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa là để yêu thương các nhân đức thay vì sự giàu sang, cũng như làm giàu trước mặt Thiên Chúa là tin tưởng rằng Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, cả sự sống lẫn ơn cứu độ”.
Còn triết gia Kierkegaard, người Đan Mạch nói rằng: “Không chọn Chúa, bạn sẽ đánh mất tất cả”.
Cuối cùng, qua bức tranh tang thương với chiếc chiếu được diễn tả lúc đầu, và qua lời dạy bảo của Chúa Giê-su, chúng ta xin Chúa cho chúng học biết “vật lộn thành công với vòng xoáy của tiền bạc”, cụ thể qua việc chọn Thiên Chúa, chứ không chọn tiền bạc là kho tàng đời mình. Làm tôi Thiên Chúa, chứ không đui mù làm nô lệ cho tiền bạc.
Khi Thiên Chúa là kho tàng đời mình, khi Thiên Chúa là chủ đời mình, nghĩa là chúng ta thờ lạy Thiên Chúa trên hết, và hằng tuân giữ các huấn lệnh của Người. Đó là biết sống dựa trên tinh thần nền tảng là tình yêu và thương xót.
Để cuối đời, khi trở về với Chúa, các Việc Lành Phúc Đức và các hành động của lòng thương xót sẽ là “người bào chữa” tích cực và tuyệt vời nhất của chúng ta. Thật vậy, như các vị thánh hiền đã nói: “Thiên Chúa xét xử chúng ta dựa trên lòng thương xót của chúng ta dành cho nhau”.
Lạy Chúa, xin cho Lời Chúa là ánh sáng sưởi ấm và chiếu soi đường đời chúng con,
Xin cho mỗi người chúng con không đui mù chọn tiền bạc là kho tàng của đời mình,
Xin giúp chúng con luôn ý thức chọn Chúa, Đấng Tạo Dựng, Đấng yêu thương, là kho tàng lớn nhất và quan trọng nhất, là Người Chủ trên hết trong cuộc sống trên dương thế này của chúng con.
Và xin giúp chúng con khôn ngoan “bán tài sản của mình đi mà bố thí”. Như thế chúng con “sắm được những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời” do chính Chúa thương ban. Amen.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm C lưu ý đến sự giàu có và những tác hại TN 26-C165
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm C lưu ý đến sự giàu có và những tác hại của nó.
Am 6: 1, 4-7
Ngôn sứ A-mốt lên án những người giàu có chỉ lo yến tiệc linh đình và vui hưởng những lạc thú cho riêng mình; họ sẽ sớm biết số phận đau thương đang chờ đợi họ.
1Tm 6: 11-16
Trong đoạn trích thư gởi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô khuyên ông Ti-mô-thê hãy trung thành kiên vững trong niềm tin.
Lc 16: 19-31
Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Số phận của hai người hoàn toàn đảo ngược bên kia nấm mồ.
BÀI ĐỌC I (Am 6: 1, 4-7)
Chúng ta gặp lại ngôn sứ A-mốt, người chăn cừu xứ Giu-đê này. Vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ông đã nhận được sứ mạng đi đến vương quốc miền Bắc để lay động tiếng lương tâm và nhắc lại những yêu sách luân lý của Giao Ước.
Trong đoạn trích Chúa Nhật vừa qua, vị ngôn sứ lên án thói tham lam vô độ và những trò gian dối của những phú thương; trong đoạn trích của Chúa Nhật này, ông tố cáo thái độ dững dưng vô cảm của những bậc quyền cao chức trọng, những kẻ chỉ biết tận hưởng những lạc thú cho thỏa thích mà không lường trước số phận bi thảm đang chờ đợi họ.
1.Cuộc sống thanh bình thịnh vượng giả tạo:
Thành đô Sa-ma-ri nằm trên một ngọn đồi biệt lập có những cánh đồng canh tác, được bao quanh bởi những thung lũng, được bao bọc bên ngoài bởi những bức tường thành kiên cố với những pháo đài vững chắc. Thành đô Sa-ma-ri như một thành trì kiên cố có thể kháng cự bất kỳ những cuộc tấn công từ bên ngoài vào, và quả thật, thành đô này đã kháng cự suốt ba năm trước những cuộc tấn công của đạo quân Át-sua hùng mạnh (723-721 trước Công Nguyên). Hơn nữa, vào thời điểm ngôn sứ A-mốt công bố sứ điệp, cảnh thanh bình ngự trị, vì quyền lực đế quốc Át-sua đang suy yếu. Các tướng lãnh và các quan chức có thể vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị.
Vị ngôn sứ tố cáo sự an toàn phỉnh phờ này. Lý do mà vị ngôn sứ nêu ra thật đơn giản: cách sống gây công phẩn của những bậc quyền quý này sẽ dẫn họ đến sự trừng phạt không chút xót thương. 2.Những thú vui hênh hoang tự đắc:
Với tài mĩa mai châm biếm, ngôn sứ A-mốt mô tả rất hiện thực những yến tiệc linh đình phô bày thói xa hoa vô độ trong những dinh thự lầu đài nguy nga tráng lệ:
“Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác” (6: 4-5).
Những ngôn từ vị ngôn sứ sử dụng có một âm vang đặc biệt: đây là những từ ngữ được vay mượn ở phụng vụ của những bàn tiệc hy tế: chiên non, bê béo, rượu cả bầu, dầu thơm hảo hạng mà người ta dùng trong việc cúng tế. Phải chăng ngôn sứ A-mốt muốn mô tả những bàn tiệc thánh thiêng mà các bậc quyền quý đã lạm dụng? Điều này cũng có thể. Như vậy, ở nơi danh sách liệt kê những bất công mà ông tố cáo, vị ngôn sứ thêm vào những hành vi phạm thánh, thói đạo đức giả. Vả lại, trước đây ông đã nói nhân danh Đức Chúa:
“Lễ lạc của các ngươi, Ta chán ghét khinh thường; hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề thích thú. Các ngươi có dâng lên Ta của lễ toàn thiêu… những lễ vật của các ngươi, Ta không vui nhận, chiên bò béo tốt các ngươi đem hiến tế, Ta chẳng đoái hoài. Hãy dẹp bỏ tiếng đàn hát om sòm của các ngươi, Ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa. Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn” (5: 21-24).
3.Thảm họa không sao tránh khỏi:
Ngôn sứ A-mốt nhắc đi nhắc lại sứ điệp đe dọa của mình:
“Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (6: 7).
Trong cảnh thanh bình thịnh vượng này, sứ điệp của vị ngôn sứ xem ra thật điên rồ. Tuy nhiên, lời đe dọa này sẽ được ứng nghiệm. Quyền lực của đế quốc Át-sua chẳng bao lâu chỗi dậy. Thành đô Sa-ma-ri bị sụp đổ. Vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en, sẽ biến mất vĩnh viễn. Đoàn người Ga-li-lê và Sa-ma-ri bị dẫn đi lưu đày ở Ni-ni-vê, kinh đô của đế quốc Át-sua. Những tiếng kêu của người nghèo đã vang lên tới Chúa.
BÀI ĐỌC II (1Tm 6: 11-16)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi ông Ti-mô-thê. Trong đoạn trích tuần trước, thánh nhân chủ yếu ngỏ lời với cộng đoàn tín hữu Ê-phê-xô; trong đoạn trích mới này, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê một cách riêng tư nhiều hơn.
1.Ngôn từ:
Đoạn này thuộc phần cuối thư. Thánh Phao-lô khuyên, nhưng cũng truyền lệnh, với uy thế mục vụ và tuổi đời của thánh nhân, vì ông Ti-mô-thê vẫn còn trẻ, như thánh nhân viết trong thư này: “Chớ gì đừng coi ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch” (4: 12). Thánh nhân nói một cách hùng hồn với tư cách người Ki-tô hữu, nhưng thỉnh thoảng thánh nhân mượn những ngôn từ thao trường và nhuốm màu sắc lý tưởng Hy-lạp.
Về thể thao, thánh nhân một lần nữa sánh ví cuộc đời Ki-tô hữu với một cuộc chiến đấu vì đức tin cao đẹp, nhằm giành cho bằng được sự sống đời đời, như vận động viên thi đấu trong thao trường ra sức giành cho bằng được vòng nguyệt quế (x. 1Cr 9: 24; Pl 3: 14 và 2Tm 2: 4-5 và 4: 7). Thánh Phao-lô cũng nói với tư cách người Hy-lạp, hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh Chân, Thiện và Mỹ: “Anh hãy lao mình vào cuộc thi đấu cao đẹp… Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp…”. Thánh nhân cũng diễn tả Đức Ki-tô theo cùng một cách như thế: “Đấng đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô”.
Năng lực chiến đấu, ý thức về sự cao đẹp của chân lý Ki-tô giáo, những tâm tình như thế có thể giúp ông Ti-mô-thê trong công việc điều hành Giáo Đoàn của ông, vì ông phải nêu gương sáng.
2.Lời cam kết:
Ông Ti-mô-thê đã được đặt tay tấn phong; ông là “người của Chúa”; ông “đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng” (thánh nhân ám chỉ đến bí tích Truyền Chức của ông Ti-mô-thê), vì thế, cách sống của ông phải đi đôi với lời cam kết của ông: “Hãy cố gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa”.
Tiếp đó, thánh nhân nói bằng một giọng điệu nghiêm nghị hơn: trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Đức Giê-su Ki-tô, phải trung thành, phải bắt chước Đức Giê-su, Ngài đã khẳng định chân tính của mình trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô. Thánh Phao-lô biết rằng trong cộng đoàn Ê-phê-xô có những căng thẳng và vài biện luận rất gần với lạc giáo. Ông Ti-mô-thê phải là vị hướng đạo tinh thần không gì đáng trách. Người ta cảm thấy thánh nhân nghi ngờ những sai lạc đạo lý; vì thế, lời khuyên của thánh nhân mặc lấy một lệnh truyền: “Tôi truyền cho anh: hãy tuân giữ điều răn của Chúa”. Và để có tính thuyết phục hơn, thánh nhân gợi lên ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang, đó sẽ là giờ xử án.
3.Bài thánh thi:
Thánh nhân chấm dứt bằng lời chúc tụng vinh quang Thiên Chúa, một “vinh tụng ca”, xem ra xuất xứ từ Do-thái giáo. Những ngôn từ được mượn ở nơi những lời nguyện phổ biến trong các hội đường thuộc thế giới Hy-lạp. Người ta nhận ra những biểu thức của sách Đệ Nhị Luật như: “Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy, là Đấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ” (Đnl 10: 17) và các Thánh Vịnh như: “Hãy tạ ơn Chúa các chúa” (Tv 136: 3). Thánh nhân sáp nhập chúng vào trong một thị kiến ở đó Đức Giê-su ngự trị. Đức Giê-su này, Đấng đã làm chứng trước tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, thì chính Ngài, Chúa các chúa, sẽ bày tỏ vinh quang “đúng thời đúng buổi”.
TIN MỪNG (Lc 16: 19-31)
Chương 16 Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và kết thúc với dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Đức Giê-su tiếp tục giáo huấn các môn đệ về thái độ họ phải có đối với của cải trần thế. Ngài trở nên nghiêm khắc hơn khi kết án không một chút xót thương những người giàu có sử dụng của cải của mình đến mức chỉ biết đến mình mà không quan tâm đến những khốn khổ của anh em đồng loại. Trái lại, người nghèo, chết vì cảnh đời khốn khổ, nhưng được hưởng một số phận hạnh phúc bên kia nấm mồ, đây là lời ngợi khen về đức nghèo khổ.
1.Một bức tranh đảo ngược:
Hai cảnh đời được mô tả rất tương phản giữa người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ. Người giàu có “mặc toàn gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”; còn anh La-da-rô khốn khổ, mình đầy ghẻ chốc, nằm trước cổng nhà người giàu này, cứ chờ đợi những mẩu bánh thừa rơi xuống từ bàn tiệc của người giàu. Bức tranh lại càng thêm bi thảm hơn nữa khi kể: “Lại thêm bầy chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”. Như chúng ta biết, đối với người Do thái, con chó là một con vật ô uế.
“Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham”: Đây là kiểu nói Kinh Thánh để chỉ người công chính được chết lành và được đưa vào nơi an nghỉ cùng với các tổ tiên trong khi chờ đợi được sống lại. Không có bất kỳ đức hạnh nào của người nghèo được kể ra. “Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn”: Đây là kiểu nói bình dân để chỉ cái chết của những người chẳng có đức độ gì. Ngoài ra, hình ảnh Kinh Thánh được sử dụng ở đây là “lửa”, lửa phán xét mà các ngôn sứ và chính Gioan Tẩy Giả đã nhiều lần loan báo.
2.Tội của người giàu có:
Vậy thì tội của người giàu này là gi? Ông không hất hủi xua đuổi anh La-da-rô, cũng không buông lời mắng nhiếc thóa mạ anh. Tội của người giàu chính là thái độ thờ ơ lãnh đạm nhắm mắt làm ngơ trước những nỗi khốn khổ của người anh em đồng loại của mình. Vì thế, kẻ đã không bố thí cho người cùng khổ vài mẩu bánh thừa từ bàn rơi xuống, thì cũng sẽ không được ban cho một giọt nước nào trên lưỡi để làm dịu cơn khát trong chốn trầm luân. Điều này gợi nhớ câu nói của Đức Giê-su trong dụ ngôn “cuộc phán xét sau cùng”, trong đó Ngài đã đồng hóa mình với những người bất hạnh: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25: 42-43).
Ở nơi hoàn cảnh đảo ngược này, chúng ta gặp lại bức tranh bộ đôi tương phản khi thánh Lu-ca đã trình bày các Mối Phúc:
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng, vân vân”.
Trái lại:
“Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói, vân vân” (Lc 6: 20-26).
3.Sự tự do của con người:
Qua hai hình tượng: trên thiên đàng và dưới hỏa ngục, cuộc đối thoại giữa tổ phụ Áp-ra-ham và người giàu có, khai mở một trong những giáo huấn chính yếu của Tin Mừng. Trước lời van xin của người giàu có: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát…”, vị tổ phụ đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại; suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”.
Còn về việc ông cầu xin cho anh La-da-rô đến cảnh báo những anh em của ông hiện đang sống trên dương thế, thì không cần thiết. Thiên Chúa đã ban sẵn cho họ những phương tiện tất yếu cần cho ơn cứu độ rồi: “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Không cần thiết phải sai người chết sống lại về báo: “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà chúng còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Như vậy, chúng ta gặp lại thái độ của Đức Giê-su đối với những người Pha-ri-sêu thù nghịch: Ngài đã từ chối dấu lạ mà họ đòi hỏi. Lời của Ngài thì đủ cho họ rồi… Từ đó, hai bài học được rút ra: một đằng, lòng chai dạ đá của những người giàu có: “Họ chẳng chịu nghe đâu”; mặt khác, Thiên Chúa kính trọng sự tự do lương tâm của mỗi người.
Trong mấy Chúa nhật liên tiếp, Lời Chúa đều đề cập tới tiền bạc, sự giàu có và thói tục ăn chơi TN 26-C166
Trong mấy Chúa nhật liên tiếp, Lời Chúa đều đề cập tới tiền bạc, sự giàu có và thói tục ăn chơi phóng đãng. Hôm nay, một lần nữa, Lời Chúa lại tiếp tục nói với chúng ta về thái độ đối với của cải và sự quan tâm cần có đối với người nghèo, qua nghĩa cử chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ.
Từ khi hiện hữu, con người đã có nhu cầu canh tác đất đai, để kiếm sống cho bản thân và gia đình. Sở hữu vật chất là một đặc tính thuộc bản năng của con người. Những người giàu sang sống yên ổn tại Sion, tưởng chừng đó là những người may mắn, vì họ không phải long đong lo cơm áo gạo tiền. Tuy vậy, dưới cái nhìn của Ngôn sứ Amos, họ lại là những người bị chúc dữ. Bởi lẽ, họ suốt ngày ăn chơi phóng đãng mà vô cảm với vận mệnh của dân tộc mà vị Ngôn sứ gọi là “Nhà Giuse”. Đó là sản nghiệp của các bậc tổ tiên đã bao đời gây dựng. Vì thói ăn chơi ngông cuồng và thác loạn của những người giàu, gia sản ấy có nguy cơ sụp đổ và trở nên hoang tàn. Nên nhớ là Ngôn sứ Amos thi hành sứ vụ của mình ở thế kỷ thứ tám. Ông là một trong những ngôn sứ của người nghèo, vì giáo huấn của Chúa mà ông có trách nhiệm chuyển tải đều mang nội dung phê phán người giàu, bảo vệ người nghèo và bênh vực quyền lợi của những người cô thế cô thân.
Tại sao người giàu có bị căm ghét và lên án? Họ không bị lên án bởi vì họ giàu. Chúng ta thấy trong Tin Mừng, có một số người thuộc hoàng gia đi theo Chúa và rộng rãi giúp đỡ Người. Những người giàu bị lên án vì họ coi tiền bạc như đích điểm của cuộc đời, nhất là họ cậy vào tiền của mà vô cảm trước nỗi đau của người khác. Trong khi đó, nhiều khi tiền bạc họ có được là do bóc lột và bất công với người nghèo. Câu chuyện người phú hộ và ông Lagiarô là một điển hình. Con đường từ trong nhà ra ngoài ngõ chừng một hai trăm mét mà tưởng chừng như xa lắm, xa đến nỗi người phú hộ không bao giờ đến được. Lagiarô như một miếng giẻ rách bị vất bỏ và quên lãng. Trình thuật của Tin Mừng khéo léo đưa ra hai hình ảnh tương phản giữa hai nhân vật này: một bên gấm vóc lụa là, một bên đầy ghẻ lở mụn nhọt; một bên phè phỡn ăn chơi, bên kia đói khát đau khổ; một bên nhiều bạn đến chơi, bên kia chỉ có con chó làm bạn.
Tin Mừng cảnh tỉnh độc giả: Đừng chỉ nhìn những gì bề ngoài! Hãy coi chừng vì cuộc sống không chỉ có hôm nay mà còn có cả tương lai! Đừng tưởng có tiền bạc giàu có mà đã sung sướng! Nếu câu chuyện dụ ngôn được dựng thành kịch, thì vở kịch này sẽ gồm hai hồi mang nội dung hoàn toàn tương phản nhau. Anh phú hộ xưa giàu có phè phỡn ăn chơi, nay khốn khổ gian nan và bất hạnh. Lagiarô xưa bị quên lãng đói khát và tàn tạ, nay hạnh phúc trong lòng Abraham. Đối với người Do Thái, được ở trong lòng Tổ phụ Abraham là điều mơ ước và là hạnh phúc tuyệt vời nhất. Cuộc đối thoại giữa anh phú hộ với Abraham là bài học rút ra từ câu chuyện: Khi sống đừng kiêu ngạo và đừng lãng quên người khác. Gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy. Đừng cậy vào công phúc của người khác, nhưng hãy lo tích trữ của cải thiêng liêng bền vững cho mình.
Sống trong cuộc đời cần có tiền bạc và vật chất! ai cũng cảm nhận được điều này. Liệu bài học rút ra từ Lời Chúa có phải là một ảo tưởng? Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng nhận sự giúp đỡ của mọi người thiện chí quảng đại. Chúa cũng dạy các môn đệ: vào nhà nào, hãy ăn những thứ người ta dọn cho, vì thợ thì đáng được hưởng công. Như thế, Chúa không hoàn toàn khinh chê vật chất bằng bất cứ giá nào. Theo ngữ cảnh, Chúa nói dụ ngôn này trong chuỗi giáo huấn về cách sử dụng tiền bạc. Trước đó, Chúa khiển trách những người Pharisiêu ham tiền bạc: “Các ông là những người làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa” (Lc 16, 14-15). Như vậy, Chúa đã dùng hình ảnh anh phú hộ để phê phán những con người cụ thể, tức là những người Pharisiêu lúc bấy giờ.
Giáo Hội Công giáo mang danh là Giáo Hội của người nghèo, nhưng Giáo Hội cũng phải có của cải để điều hành Giáo Hội và giúp người nghèo. Người giàu vẫn có thể nên thánh, nếu họ biết sử dụng của cải như một người quản lý khôn ngoan trung tín. Mẫu mực của chúng ta là Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo vì chúng ta. Nhờ sự nghèo khó của Người mà chúng ta trở nên giàu sang trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, trong khi nỗ lực để có cuộc sống vật chất ổn định, chúng ta phải gắng nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và mến, sống nhẫn nại và hiền hoà. Đó chính là sự giàu sang trước mặt Thiên Chúa và tha nhân, một sự giàu sang bền vững và tồn tại mãi mãi.
Cổ nhân dạy: “Có đức thì mặc sức mà ăn”. Điều đó có nghĩa, khi người ta sống lương thiện và có đạo đức thì công việc của họ sẽ thành đạt và hiệu quả. Những gì họ làm ra sẽ vững bền và giúp họ tìm thấy hạnh phúc đích thực.
“Người giàu có mà không khôn ngoan, thì cũng như bù nhìn mặc áo gấm” (Sưu tầm).
“Nghèo không là xấu, nghèo mà không có chí mới là xấu; hèn không đáng ghét, hèn mà không có tài mới đáng ghét; già không nên than thở, già mà sống thừa mới đáng than thở; chết không nên bi ai, chết mà vô bổ mới đáng bi ai” (Sưu tầm).
Giầu nghèo, chức danh lớn, phận nhỏ hèn, tri thức, tầm thường, liệu mấy ai xem đó là trọng tâm TN 26-C167
Giầu nghèo, chức danh lớn, phận nhỏ hèn, tri thức, tầm thường, liệu mấy ai xem đó là trọng tâm của một kiếp người ; đúng hơn, bình an hạnh phúc vẫn luôn là điều mọi người mơ ước. Từ khái niệm đi đến thực tế có gì day dứt không, khi kẻ giầu sang phú quý được trọng vọng với mỹ danh: đại gia ; người nghèo khổ lại đầy mặc cảm tự ti trước sự cảnh giác của xã hội: đói ăn vụng, túng làm liều ! Khuynh hướng chung chung: kẻ giầu muốn rượu ngon, người đói ăn lại muốn no bụng. Làm sao giầu, nghèo, học thức, dân thường, vẫn sống hoà hợp, tình trạng phân chia giai cấp bị xoá bỏ, hy vọng đó có xa vời không, hay điều ấy chỉ xảy ra trong giấc mơ mà thôi ? Trách nhiệm phải canh tân bản thân và góp sức dựng xây quê hương đất nước xã hội là của ai ? Câu trả lời chắc chắn là nơi mỗi người đang thành tâm thiện chí, cùng hướng tới một phần thưởng ở phía trước.
Dụ ngôn ông phú hộ giầu, ông Ladarô nghèo, được Chúa Giêsu dẫn dắt đến một chân lý: thưởng phạt là có thật, giầu sang, nghèo hèn, điểm dừng ở đời này là sự chết. Lúc sống trên trần gian ông nhà giầu ăn sung mặc sướng, có lẽ ông phú hộ ấy chẳng còn cái cảm giác: sinh lão bệnh tử, một quy luật đang chờ ông. Lúc đói rách trên trần gian, người nghèo Ladarô cũng chỉ nghĩ, nếu được ăn chút bánh vụn từ bàn tiệc của vị đại gia thì hạnh phúc lắm ! Sau khi kết thúc cuộc sống trần thế, ông nhà giầu phải chịu cực hình, người nghèo Ladarô vinh dự ở trong lòng Tổ phụ Abraham. Trời quở báo: lên voi xuống chó ; hiểu theo suy luận nhà nông: gieo gì gặt nấy ; giáo lý tứ chung thì nói đến một hệ quả tất yếu: chết, phán xét, thiên đàng, hoả ngục. Dụ ngôn giầu nghèo, chết sống, thưởng phạt, sẽ còn lan truyền rộng rãi khắp nơi, cũng là dịp Đức Giêsu nhắc nhớ đến từng đối tượng, hãy chia sẻ vật chất, hãy sống tình yêu thương, đang khi bạn còn sống trên trần gian.
Nếu ông phú hộ biết trước giầu tiền lắm của có thể là nguy cơ phải nhận án phạt sau khi lìa đời, hẳn là ông tìm mọi cách để được sống mãi một kiếp người nghèo, hoặc ông sẽ chia sẻ hết số tài sản cho thiên hạ cách nhanh nhất. Cả lúc thưa chuyện với Tổ phụ Abraham mà còn kịp đổi giầu thành nghèo, ông phú hộ đã hoán đổi để được vinh dự sau khi ông qua đời. Nếu Ladarô biết trước diễm phúc của người nghèo là được ở cung lòng Abraham sau khi chết, chắc chắn ông cũng bao giờ thèm khát được ăn được uống, được đồng bàn với ai làm chi. Chính sự giầu sang, yến tiệc linh đình đã che tầm nhìn, ông nhà giầu không thấy người anh em đang ở cổng nhà mình, ông thiếu quan tâm bác ái, không đủ khôn ngoan sáng suốt trong việc sử dụng của cải, ông phú hộ đã tự làm cho mình nghèo hèn trước Thiên Chúa. Thực tế, chưa ai nghèo đói mà lại nói tôi sung sướng hạnh phúc, cũng không ai giầu mà lại bảo tôi đã dư tiền của rồi, than thân trách phận hoặc lòng tham vô đáy là thế.
Cha ông chúng ta nói: giầu tham việc, thất nghiệp tham ăn, Chúa Giêsu hôm nay không bình luận, không nhận xét việc giầu nghèo, Ngài có ý mời gọi hãy sống yêu thương, hãy chia sẻ, giúp nhau sống với những điều kiện ta đang có. Dù bạn là ai: giầu nghèo, vô duyên bất tài, thông thái lưu loát, thì trách nhiệm của ta vẫn phải làm cho cuộc sống không còn ngăn cách, khổ đau tan biến và hạnh phúc tràn đầy nơi cuộc sống. Giầu chưa phải là phần thưởng ở đời này, nghèo không phải là hình phạt ở cuộc sống hiện tại, ai cũng cần khôn ngoan sử dụng lợi thế, hoàn cảnh của mình để sống tốt: nghèo không hèn, giầu không ích kỷ ; tài không kiêu căng, bất tài không bi quan mặc cảm. Xã hội thời nào chẳng kêu gọi bình đẳng, vì nếu chỉ sống lý thuyết thì chưa đủ, hãy hành động để mọi người được học, người trẻ được giáo dục đến nơi đến chốn, hãy thực tế để giữa bàn tay và tấm lòng nhân ái được sẻ chia tới khắp cùng thế giới.
Mỗi người kitô hữu chúng ta hiện đang hướng về phần thưởng nào ? Giầu nghèo, khoẻ mạnh ốm đau, tài hèn, địa vị chức quyền hay hai lúa tầm thường ? Điều cần hơn, thiết tưởng chúng ta phải biết mình đang sử dụng ơn ban, đang sống với những khả năng thế nào ? Cơ hội để mỗi người đoạt giải, để ta tự tin nhận lãnh phần thưởng sau khi nhắm mắt lìa đời là có thật. Vấn đề thưởng phạt không phải do hên xui, nhưng hệ tại mỗi người hiểu, biết và sống ơn ban, sống nén bạc, đúng với tinh thần người môn đệ Đức Kitô. Một cuộc sống ý nghĩa là một cuộc sống được giãi bày tình người, tình Chúa, trong các tương quan ở đời này. Chúa Giêsu đến không thiết lập một vương quốc nghèo hay giầu, nhưng kêu gọi tình người luôn được sẻ chia, người người tìm thấy phần thưởng trong nghĩa cử nhân ái giữa cho và nhận, giữa biết và sống thật đằm thắm yêu thương. Amen.
Câu chuyện về người nghèo chẳng bao giờ kết thúc. Người nghèo ở đây không chỉ là đói ăn, TN 26-C168
Câu chuyện về người nghèo chẳng bao giờ kết thúc. Người nghèo ở đây không chỉ là đói ăn, thiếu mặc, không nhà… Nghèo hơn mọi thứ nghèo, không được luật pháp bảo vệ, chịu bóc lột, cưỡng bức.
Lazaro ghẻ chốc.
Hình ảnh một con người nghèo ghẻ chốc, không phải là một người vô danh. Anh ta có tên gọi Lazaro, là một con người bằng xương, bằng thịt, hiện diện trong xã hội.
Cái tên gọi đích danh, không phải để người khác ca tụng, nhưng lại là một cái tên đưa ra để chịu tội cho người khác ẩn danh. Người ta gọi tên anh như con dê tế thần. Anh ta chỉ có cái tên và chẳng có gì để mất hơn nữa. Cái tên của anh quan trọng trước pháp luật, để công lý không đấm vào không khí. Cái tên của anh, ai nghe cũng ngần ngại bởi được gọi lên mỗi ngày ở tù giam.
Người nghèo Lazaro ngồi trước hiên nhà giàu, chỉ rõ một phận số người nghèo không được pháp luật bảo vệ (hình tượng ngôi nhà). Bạo lực kềm chế họ trong sự nghèo khổ (con chó liếm ghẻ chốc). Nhất là phụ nữ, trẻ em, không ai bảo vệ họ khỏi những tay cưỡng hiếp, những tay buôn người, những băng đảng ma tuý…
Sự ghẻ chốc trên con người của Lazaro, nói lên một xã hội thối nát. Lazaro là những con người làm việc tối mày, tối mặt, không đủ ăn, không đủ mặc, sống trong những căn nhà trọ chật chội, hôi hám, thiếu nước, thiếu điện, trên người đầy ghẻ chốc.
Nhiều người thơm tho, lịch lãm, ngồi ăn uống linh đình trên những khốn khổ của Lazaro mà không thấy lương tâm hổ thẹn.
Những phương pháp giản đơn.
Cần có lòng trắc ẩn, không chỉ phân phát lúa gạo, thực phẩm, mà dành thời gian nghe những nỗi niềm của Lazaro. Trong dụ ngôn người phú hộ đã không một lời và cũng chẳng đưa mắt nhìn đến Lazaro đang ngồi trước cửa. Không có đối thoại nên không có cảm thông và cũng không có lòng trắc ẩn.
Lòng trắc ẩn cần được khởi đi từ công lý chung cho mọi người. Luật pháp không chỉ dành cho người giàu như người ta vẫn nói: “Đa kim ngân, phá luật lệ”. Luật pháp cần được thực thi công bằng và đứng về phía người nghèo để họ có thể thăng tiến. Phụ nữ và trẻ em, cần được bảo vệ khỏi những bạo lực, cưỡng hiếp, bóc lột. Theo nghiên cứu của Gary Haugen (TED2015).
Trợ giúp cho những người làm việc lam lũ, cật lực để những cố gắng của họ được gặt hái thành quả phong phú hơn. Như ngân hàng Grameen Bank trong dự án của tiến sỹ Yumus (TED GLOBAN 2010).
Làm được gì cho Lazaro, hãy bắt đầu từ hôm nay. “Phúc cho những bàn tay rộng mở ôm lấy người nghèo và giúp đỡ họ: đó là những bàn tay đem lại hy vọng. Phúc cho những bàn tay vượt qua được rào cản về văn hóa, tôn giáo và quốc tịch, và rót đổ dầu thơm của sự ủi an trên những vết thương của nhân loại. Phúc cho những bàn tay không đòi hỏi sự hoàn trả, những bàn tay không bao giờ nói “nếu” hoặc “nhưng” hoặc “có lẽ”: đó là những bàn tay chuyển phúc lành của Thiên Chúa xuống trên những anh chị em của họ.” (Sứ điệp ngày Người Nghèo lần thứ 1, Đức Thánh Cha Phanxico, 19 – 11 – 2017).
Trong cuộc sống, dù đi đâu, ở nơi nào, chúng ta đều nhìn thấy bên cạnh mình những người giàu TN 26-C169
Trong cuộc sống, dù đi đâu, ở nơi nào, chúng ta đều nhìn thấy bên cạnh mình những người giàu có và cả những người nghèo khổ. Sự giàu có và nghèo khổ diễn ra ở hiện tại và sẽ đem lại điều gì cho chúng ta ở đời sau?
Cuộc sống của người giàu diễn ra như thế nào? Trong Tin Mừng theo thánh sử Luca, ngài miêu tả về người giàu có ăn mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình (x.Lc 16.19). Nhìn vào cuộc sống thực tại, những người giàu sống trong tòa nhà cao cấp, có xe đưa đón, ăn mặc sang trọng, tay đeo những đồ trang sức long lanh và tay cầm chiếc điện thoại đa năng. Nhưng trong số những người giàu, có bao nhiều người biết nhìn đến người nghèo khổ? Còn người nghèo khổ, họ không những nghèo về vật chất mà còn nghèo về trí thức và phải mang trên mình căn bệnh hiểm nghèo. Anh Ladaro nghèo nàn, thân mình đầy mụn nhọt nằm trước cổng ông nhà giàu. Anh chỉ thèm được ăn những gì trên bàn của chủ rơi xuống mà ăn cho no. Bên cạnh anh cũng có lũ chó đang chờ đợi như anh vậy. Chốc chốc, chúng đến liếm ghẻ chốc trên thân mình anh. Một cái nghèo không còn gì để nghèo hơn nữa (x. Lc 16, 20-21). Khi chết, anh đã được thiên thần đưa vào lòng ông Apraham. Người giàu có cũng chết, người ta đem đi chôn. Như vậy, sau khi chết, họ đã phải đổi vị trí cho nhau: người giàu phải bị lửa thiêu đốt khổ cực, người nghèo được an ủi trên Nước Trời. Lúc này, không ai có thể giúp hay tỏ lòng thương xót ai được. Chỉ có cuộc sống trần gian, người ta mới có thể giúp nhau sống hạnh phúc ở đời này và kéo dài cho đến đời sau.
Ông nhà giàu xứng đáng chịu cực khổ như vậy vì ông đã sống trong tính kiêu căng qua việc ăn mặc lụa là, xa hoa và phung phí. Ông lâm vào con đường mê ăn uống là hằng ngày mở tiệc linh đình. Ông còn mang tội bất nhân, ích kỷ đã không thèm để ý giúp đỡ người nghèo trước cửa. Ông rơi vào cuộc sống của các mối họa (x. Lc 6, 24-26). Còn anh Ladaro, anh đã sống trọn mối phúc Nước Trời (x. Lc 6,20-23)). Anh vui vẻ đón nhận những sỉ nhục, sự nghèo hèn là lê lết ăn xin. Anh không than trách phận mình với trời cũng không chê trách ông nhà giàu keo kiệt, anh chỉ ước được ăn những gì trên bàn ông nhà giàu rơi xuống cho no. Như vậy, dù chúng ta giàu hay nghèo mà sống trong ích kỷ và bất nhân thì sẽ lãnh hình phạt xứng đáng. Nếu biết thực thi bác ái, chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc trên Nước Trời.
Lạy Chúa, xin chớ để con phải ăn mày cũng đừng để con giàu có. Xin chỉ ban cho con hằng ngày dùng đủ. Kẻo khi giàu, con bị mê hoặc mà bỏ anh em hoặc khi túng thiếu con làm những việc sai trái làm ô danh Chúa. Amen.
Mùa hè năm 2016, nhiều trang mạng đăng tải hình ảnh thương tâm của một bệnh nhân ở Sơn TN 26-C170
Mùa hè năm 2016, nhiều trang mạng đăng tải hình ảnh thương tâm của một bệnh nhân ở Sơn La chết, vì quá nghèo nên người nhà phải bó chiếu chở xe máy về quê. Hình ảnh đó khiến cộng đồng mạng xôn xao. Có ai đó đã tài khéo ghép tượng đài Hồ Chí Minh 1.400 tỷ ở tỉnh Sơn La với cảnh “người chết bó chiếu.” Bức ảnh này phản ảnh thực trạng bất công của xã hội Việt Nam hiện nay, một xã hội mà người ta có thể xây dựng “những tượng đài nghìn tỷ, nhưng sinh mạng con người thì như chiếc móng tay” (Cô giáo Trần Thị Lam).
1- Số phận nhà phú hộ và Ladarô
Bức ảnh trên cũng có gì đó tương tự với dụ ngôn về nhà phú hộ và anh Ladarô được Chúa Giêsu kể hôm nay. Hai nhân vật có cuộc sống hoàn toàn tương phản: nhà phú hộ thì một đời “lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình,” còn Ladarô thì một đời nghèo khó, mình đầy mụt nhọt, khố rách áo ôm, ăn mày trước cửa đại gia. Tuy nhiên, số phận của hai người bị đảo ngược sau cái chết: nhà phú hộ phải chịu kiếp trầm luân; còn Ladarô được vào lòng Ápbraham hưởng hạnh phúc đời đời. Dụ ngôn này được xếp vào loại “dụ ngôn nói về khủng hoảng đạo đức” trong xã hội. Trong đó, sự bất công, hố sâu phân cách giữa người giàu và người nghèo là quá lớn mà hậu quả người nghèo bao giờ cũng là những nạn nhân của xã hội. Thánh Luca muốn hướng tới một cuộc hoán cải bên trong để thay đổi cấu trúc xã hội nhằm mang lại sự bình đẳng cho con người. Chúng ta cần hiểu đúng ý nghĩa của dụ ngôn. Ở đây, Chúa Giêsu không có ý muốn nói rằng: tất cả mọi người giàu có đều bị kết án và đáng phạt trong hỏa ngục, còn tất cả những ai nghèo khó thì chắc chắn sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Chúa Giêsu cũng không lên án của cải và sự giàu có. Kitô giáo không cổ xúy cho sự bần cùng hóa con người và kết án những ai giàu có trong xã hội.
Trái lại, như chúng ta biết, của cải tự thân là ân sủng Chúa ban để giúp chúng ta sống đúng nhân phẩm của mình. Triết gia Công Giáo Blaise Pascal nói đến ba bậc của sự cao cả trong cuộc sống: bậc I thuộc giá trị vật chất và thể lý: của cải, sức khỏe, sắc đẹp tự thân nó có một giá trị không ai phủ nhận, ai cũng mong ước. Bậc II thuộc giá trị tài năng mà các nhà tư tưởng, các nghệ nhân, các thiên tài nắm giữ… tài năng họ khiến mọi người nể phục và ước ao. Nhưng đó chưa phải là bậc cao nhất. Bậc III thuộc giá trị tình yêu và ân sủng. Đây là bậc cao nhất, đẹp hay xấu, giàu hay nghèo không thêm không bớt gì nơi một vị thánh. Thánh thiện cao cả hơn tài năng và giàu có, khỏe mạnh.
Chúa Giêsu không lên án của cải vật chất và tài năng, nhưng Người tiếp nối truyền thống các tiên tri, lên án thái độ của những người chỉ biết hưởng thụ ích kỷ nhưng lại dửng dưng, vô cảm đối với người nghèo. Đó là một tội ác.
Trong bài đọc I, tiên tri Amốt lên án những người chỉ biết hưởng thụ, xa hoa mà không biết thương xót những người khốn khổ và tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho họ.
Trong dụ ngôn, người phú hộ bị trầm luân không phải vì một tội nào như tham nhũng, buôn lậu, hay bóc lột. Nhưng vì ông đã dửng dưng vô cảm đối với Ladarô nghèo khó. Như thế, dụ ngôn muốn gửi tới chúng ta thông điệp: Cuối cùng, Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta dựa trên những gì chúng ta thực thi cho người nghèo khó. Điều này được Tin Mừng thánh Mátthêu làm rõ trong tường thuật về ngày phán xét chung (Mt 25,35-45): “Những gì các ngươi làm cho những người bé mọn nhất, là các người làm cho chính Ta.”
Theo nghĩa này, thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Không chia sớt của cải cho người nghèo là ăn cắp của họ và lấy đi kế sinh nhai của họ. Của cải chúng ta giữ không phải là của riêng chúng ta, mà là của họ” (trích lại trong Evangelii Gaudium, số 57).
2- Người giàu và người nghèo hôm nay
Câu chuyện người phú hộ và anh Ladarô nghèo cho phép chúng ta liên tưởng đến bức tranh toàn cảnh thế giới hôm nay. Có lẽ hơn bao giờ hết, con người ngày nay có nhiều của cải vật chất, nhưng lại thiếu tình thương liên đới với nhau, của cải chỉ tập trung vào một số nước và một số người. Cơ chế kinh tế thị trường hôm nay càng tạo ra hố sâu ngăn cách ngày càng sâu giữa nước giàu và nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo, giữa nông thôn và thành thị. Chúng ta chứng kiến cảnh những ngôi nhà chọc trời bên cạnh những khu nhà ổ chuột và những người khố rách áo ôm, buôn thúng bán mẹt; cảnh những đại gia chi tiêu hàng chục triệu mua một chai rượu cho một bữa tiệc, trong khi đó có biết bao người ngày hai bữa ăn cũng không có; cảnh các quan chức có những cái bắt tay hàng tỷ bạc, trong khi có rất nhiều người đổ mồ hôi sôi nước mắt suốt ngày mà không đủ sống.
Nguyên nhân của sự bất công, bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo là do sự ích kỷ, vô cảm và tệ nạn tham nhũng. Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên tiếng về “thái độ vô cảm toàn cầu” này, đó là thái độ vô cảm vô can trước đau khổ và khó khăn của tha nhân. Giáo Hội chọn đứng về phía người nghèo để bênh vực và đồng hành với họ.
Sống trong một xã hội như thế, dụ ngôn hôm nay như lời thức tỉnh lương tâm ngái ngủ chúng ta trước thảm cảnh nghèo đói. Chúng ta được mời gọi cởi mở tâm hồn đối với những ai đau khổ, nghèo đói, bị thương tổn để giúp đỡ họ. Chúng ta hãy để cho dụ ngôn này đào luyện lương tâm mình để chúng ta có những cảm thức và nhạy bén với nỗi thống khổ của người nghèo giống Chúa Giêsu, cũng như biết đứng về phía họ để phục vụ theo đức ái Kitô giáo. Amen.
Tin Mừng của Đức Giêsu là những bài học sống động dạy bảo con người.Lời của Chúa là ngọn TN 26-C171
Tin Mừng của Đức Giêsu là những bài học sống động dạy bảo con người.Lời của Chúa là ngọn đèn soi, hướng dẫn con người, nuôi dưỡng loài người. Những dụ ngôn, những ví dụ Chúa Giêsu đưa ra nhằm sửa đổi, răn dạy con người, luôn có một sức mạnh lớn lao biến đổi con người. Những trang Tin Mừng của thánh Luca là những trang tuyệt đẹp, gây ấn tượng vô cùng khó quên cho con người, cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Hôm nay, thánh Luca trình bầy dụ ngôn:” Ông Phú hộ giầu và Lazarô nghèo khó” là hình ảnh sống động, rất thực tế để răn dạy mỗi người chúng ta.
Chúa Nhật tuần trước dụ ngôn nói về “ Người quản gia bất lương “giúp chúng ta hiểu rất rõ đoạn Tin Mừng của thánh Luca:” Ông nhà giầu và Lazarô nghèo khó “. Hình ảnh thật tương phản giữa nhà Phú hộ giầu và Lazarô nghèo khó nói lên sự bi đát, tương phản mà chúng ta thường gặp trong xã hội con người.Đây là câu chuyện sống động, rất hiện thực trong thế giới muôn thời.
Ông Phú hộ giầu sang phú quý, ngày ngày yến tiệc linh đình rất tương phản với anh Lazarô quần áo, lem nhem, rách rưới,mình đầy lở chốc Sự tương phản này nói lên sự bất công của con người, giữa người giầu và người nghèo. Người giầu của cải đầy dư, kho lẫm lúc nào cũng đầy lương thực dự trữ, còn người nghèo, anh Lazarô không có lấy mụn bánh để ăn cho đỡ đói chứ đừng nói tới ăn no, ăn đầy bụng. Hình ảnh này làm chúng ta liên tưởng đến dụ ngôn “ Người con hoang đàng “. Tin Mừng viết:” khi phung phí hết tiền của “, người con đi hoang mới tự nhủ:” ở nhà Cha của anh thì giầu có, lương thực đầy dư, con anh ta phải chết đói ở đây, muốn có chút lương thực cho heo ăn mà thốn cho đầy bụng cũng chẳng ai cho “. Hình ảnh sống động, câu chuyện thực là bài học để đời cho mọi người.
Ông Phú hộ và Lazarô nghèo khó là dụ ngôn thực, đầy nét nhân văn giúp chúng ta hiểu được những mảnh đời gian nan, đau khổ, vất vả ở một cáiđời. Ông Phú hộ giầu có cứ tưởng ông sẽ sống mãi mãi, sẽ hưởng thụ suốt đời này qua đời khác.ông tưởng thế gian là vĩnh cửu, trường tôn. Ông tưởng sự giầu có là vĩnh viễn.Ông không hiểu mọi sự là tạm bợ, mau qua giống như hoa phù dung sớm nở chiều tàn. Ông không biết “ Cuộc đời là hư vô, tất cả đều là hư vô”.
Đùng một cái ông Phú hộ giầu và anh Lazarô nghèo khổ cũng lăn ra chết. Ông Phú hộ phải trầm luân nơi hỏa ngục đời đời, ông kêu van, khóc lóc nhưng tất cả đều quá muộn màng.Tội của ông là tội vô tâm, ông đóng cửa lòng trước những người nghèo.Ông làm ngơ trước nỗi đau của người khác, trước nỗi khổ nhục của tha nhân, không biết chia sẻ cho tha nhân, cho người khác.Lazarô được ngồi trong lòng Abraham. Anh đã được Thiên Chúa thưởng công.
Vâng, Lazarô đã phải chịu nỗi cay đắng, đau khổ của cuộc đời.Anh đã chấp nhận đời sống với tất cả đức tin, với tất cả sự cậy trông phó thác của mình. Tin Mừng của thánh Luca viết thực mỉa mai:” …Lazarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no…”( Lc 16, 21). Thật mỉa mai, thật đau khổ. Nhưng Lazarô đã được các thiên thần đem vào lòng tổ phụ Abraham.
Câu chuyện, còn mỉa mai hơn, khi ông Phú hộ giàu nài nỉ để có người chết về báo cho 05 đứa em của ông đang sung sướng như ông ở trần gian, nhưng lời kêu cầu đó thất bại vì họ đã có Lời Chúa và lời giáo huấn của Giáo Hội.
Câu chuyện sống động, nhưng cũng rất mỉa mai đối với những ai cậy mình giàu có mà quên đi những người nghèo khó.Chúa không bao giờ bần cùng hóa con người, làm nghèo xã hội nhưng Chúa dạy con người, chúng ta phải biết xót thương, quảng đại, chia sẻ. Bo bo giữ của, chỉ biết làm giầu cho bản thân mả vô tâm, đóng kín lòng trước người nghèo, không quảng đại, chia sẻ mà tưởng cuộc đời này sẽ trường tồn mãi mãi để họ một mình hưởng thụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng quảng đại, cảm thông, chia sẻ để chúng con luôn biết sống khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn mà lại mang theo dầu. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tội của ông Phú hộ giàu là gì ? 2.Lazarô là người thế nào ? 3.Trên thế giới này tài nguyên có được phân bổ đồng đều không ? 4.Chúng ta phải có thái độ nào đối với những người nghèo ? 5.Làm ngơ với người nghèo có tội không ?
Nhà cao cửa rộng thênh thang, Một ông phú hộ, giầu sang tiệc tùng. Mặc toàn gấm vóc vải nhung, TN 26-C172
Nhà cao cửa rộng thênh thang, Một ông phú hộ, giầu sang tiệc tùng. Mặc toàn gấm vóc vải nhung, Ngày ngày yến tiệc, hưởng dùng thỏa thuê. Trước nhà hành khất bò lê, Mình đầy ghẻ chốc, ê chề tấm thân. La-za-rô sống thanh bần, Hằng ngày đói khổ, thân trần gớm ghê. Chó con liếm ghẻ cận kề, Mong tìm bánh vụn, kéo lê cuộc đời. Lang thang vất vưởng một thời, Kết cùng cuộc sống, một đời khổ đau. Thiên thần đón tiếp mai sau, Ông già phú hộ, trước sau cũng dời. Ra đi tay trắng không lời, Vào nơi khổ ải, lửa khơi bừng bừng. Cực hình quằn quại không ngừng, Thương thay số kiếp, vui mừng đã qua. Không màng thương giúp người ta, Sự lành đã hưởng, phôi pha tháng ngày.
Bài Phúc âm thánh Luca đặt chúng ta trước một cảnh thương tâm. Một người giầu có ăn mặc gấm vóc lụa là, yến tiệc linh đình và một người hành khất nghèo đói lả không nơi nương tựa. Hai người ở trong hai hoàn cảnh khác nhau. Sau khi mãn phần, phận số đời sau cũng khác nhau. Người nghèo nàn bệnh tật thì không do lỗi ở người giầu. Người phú hộ cũng không xử tệ, không xua đuổi và không làm hại chi người hành khất. Vấn đề là người phú hộ có mắt mà không nhìn thấu, ông đã không biết chia xẻ của ăn và tình thương với người khốn khổ. Đó chính là lỗi mà ông phải gánh chịu.
Sự chia xẻ cho người nghèo là hình thức bác ái tốt nhất. Bố thí thì chưa đủ, vì khi bố thí, chúng ta như thương hại họ và cho chút dư thừa. Trong cuộc sống chúng ta thường nói đến công bằng và bác ái. Công bằng là điều buộc chúng ta phải làm. Không giữ đức công bằng là có lỗi. Bác ái là điều không buộc, tùy lòng hảo tâm của chúng ta.
Truyện kể: Có một cô giáo dạy học bên trường sang gặp cha sở, cô kể một cách ngạc nhiên vì chuyện xảy ra trong lớp giáo lý. Khi dạy về công bằng và bác ái, cô cho các em thực tập qua câu hỏi: Người tín hữu có thể làm gì cho người hành khất, không nhà không cửa. Em thứ nhất trả lời: Chúng ta không phải làm gì cho người hành khất vì lỗi tại họ lười biếng. Bố em nói là tại lỗi của họ nên họ bị như thế. Em thứ hai nói: Mẹ em dặn, con phải sống xa những người sống bên lề đường, bởi vì họ hay bắt trẻ con và làm việc xấu. Em thứ ba tiếp lời: Bất cứ khi nào em đi với mẹ của em, mẹ luôn nhắc em nhìn sang phía khác và giả vờ như không nhìn thấy người ăn xin vệ đường. Không có một em nào trả lời một cách tích cực giúp đỡ người nghèo. Đó chính là ảnh hưởng của giáo dục gia đình.
Thường thì sự giầu có làm cho chúng ta xa dần với hoàn cảnh khổ của những người chung quanh. Khi chúng ta có tiền bạc thì chúng ta muốn tìm chỗ yên thân để hưởng thụ. Chúng ta không muốn bị người khác quấy rầy, nên xây tường cao và cổng kín. Đây cũng chính là tâm trạng chung của nhiều người. Chúng ta tìm nhiều lý do để khỏi phải giúp đỡ người khác.
Cho thì quý hơn nhận. Chúng ta cần cho khi chúng ta còn nhận. Một người giầu có cảm thấy buồn về lời dạy của Chúa về việc bố thí. Ông cầu nguyện để có thể chấp nhận sự dậy dỗ này. Càng cầu nguyện, ông càng buồn. Một hôm thiên thần đến an ủi, hỏi sao ông buồn thế? Ông trả lời: Tôi buồn vì lời dạy của Chúa về sự bố thí. Xem ra tôi phải bố thí suốt đời. Thiên thần nói: Không phải thế đâu. Ông chỉ cho khi Chúa còn cho ông. Nếu Chúa ngưng cho ông, ông sẽ không phải tiếp tục cho nữa.
Lạy Chúa, từng giây phút trong đời chúng con nhận lãnh hồng ân của Chúa. Xin cho chúng con biết tiếp tục chia xẻ ân huệ Chúa ban cho với anh chị em kém may mắn của chúng con.
Các bài đọc hôm nay tiếp tục nói về công bình xã hội. Chắc chắn đây là một đề tài nổi cộm của TN 26-C173
Các bài đọc hôm nay tiếp tục nói về công bình xã hội. Chắc chắn đây là một đề tài nổi cộm của mọi thời đại và đó cũng là lý do Lời Chúa lập đi lập lại điều này. Ngôn sứ A-mốt luôn là người mạnh dạn rao giảng sứ điệp về công bình xã hội, cho nên Phụng vụ Lời Chúa một lần nữa trích dẫn sứ điệp ấy, đặc biệt nhắm tới “bè lũ quân phè phưỡn” sẽ phải chịu sự phán xét chí công của Thiên Chúa. Cũng tiếp tục nói về vấn đề công bình xã hội, Chúa Giê-su dùng một dụ ngôn rất thực tế để trình bày hai lối sống tương phản giữa một ông nhà giàu và người nghèo khó La-da-rô. Kết cục câu chuyện là hậu quả bất hạnh đời đời dành cho kẻ sống ích kỷ hưởng thụ, trái nghịch với hạnh phúc vĩnh cửu dành cho kẻ “suốt đời chịu toàn những bất hạnh”. Để rút bài học sống đức công bình xã hội, Lời Chúa dùng đoạn thư thánh Phao-lô khuyên nhủ môn đệ Ti-mô-thê “hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, gắng sống nhẫn nại và hiền hòa”.
Trước hết chúng ta hãy nghe lời Thiên Chúa lên án những kẻ sống trái công bình xã hội. Đó là những kẻ nào? Là những kẻ cầm quyền và sống ích kỷ tại khắp Ít-ra-en, ở Giu-đê cũng như Sa-ma-ri. Họ sống không chút quan tâm đến người khác và đến vận mệnh đất nước. Hằng ngày họ nằm trên giường ấm nệm êm, mặc kệ người nghèo đói. Họ ăn uống ê hề trong khi người khác đói khát. Cho dù đất nước sắp rơi vào tay quân địch, họ vẫn vui chơi, rượu chè và tiêu xài hoang phí. Tình trạng xã hội bất công ấy đã bị ngôn sứ A-mốt mạnh dạn lên tiếng tố cáo. Từ Xi-on thuộc vương quốc Giu-đa, A-mốt được Thiên Chúa sai đi loan báo sứ điệp cho xứ lân cận là vương quốc Ít-ra-en phía Bắc. Ngài loan báo hình phạt của Thiên Chúa và việc Ít-ra-en sẽ bị lưu đày vì lối sống trái đạo đức và làm mất lòng Thiên Chúa. Các nhà lãnh đạo sẽ là những người “dẫn đầu những kẻ lưu đày” bị điệu đi làm tôi mọi cho đế quốc Ba-by-lon. Tuy nhiên cuối cùng A-mốt lại loan báo một tin vui: những kẻ khó nghèo luôn được Thiên Chúa phù hộ và ai tin tưởng vào Chúa sẽ không bao giờ phải tuyệt vọng.
Nếu ngôn sứ A-mốt đã trình bày sự tương phản giữa “những kẻ sống phè phưỡn” với những kẻ nghèo khó luôn tin cậy Thiên Chúa, thì trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su cũng nêu lên chính sự tương phản ấy khi Người kể dụ ngôn ông nhà giàu và anh hành khất La-da-rô. Câu chuyện Chúa kể chia ra làm ba cảnh. a) Cảnh thứ nhất là cảnh thực trên dương gian, xảy ra ngay nhà ông nhà giàu và là cảnh người giàu không có lòng nhân đối với người cùng khổ. Quả là một khung cảnh tương phản không thể chấp nhận được: ông nhà giàu thì “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”. Nhưng ở ngay trước mắt khi ông đi ra đi vào là một người nghèo khó mang tên La-da-rô, một cái tên áp dụng cho ai cũng được. Anh La-da-rô này thiếu thốn đủ điều, thèm được ăn những thứ trên bàn ăn của ông nhà giàu rớt xuống đất mà không được, mong có quần áo cũ để mặc cũng không ai cho. Bạn của La-da-rô chỉ là “mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc của anh ta”. Anh đã bị xếp vào loại súc vật rồi! Rồi cả hai người, ông nhà giàu lẫn La-da-rô đều chết. b) Cảnh thứ hai: ông nhà giàu ở âm phủ và anh La-da-rô ở trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham. Bây giờ, sau khi chết mọi sự đều đổi ngược. Ông nhà giàu thì rên rỉ xin tổ phụ Áp-ra-ham cứu giúp. Ngài chỉ từ tốn trả lời ông: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn bất hạnh”. Ý của tổ phụ muốn nhắc nhở ông ta là khi còn sống trên đời ông ta đã sống ích kỷ, dù nhận được bao ơn lành của Thiên Chúa mà không muốn chia sẻ với những kẻ thiếu thốn. Do đó, ông ta đã gieo nhân thì phải nhận quả, vì không ai có thể thay đổi được sự công bằng của Thiên Chúa cũng như không có lòng thương xót dành cho kẻ không biết thương xót người khác. c) Cảnh thứ ba: ông nhà giàu bắt đầu nghĩ đến người khác, nhưng cũng chỉ là “năm người anh em” của ông ta thôi! Ông muốn “nhờ” tổ phụ Áp-ra-ham sai người đến “cảnh cáo” họ, để họ khỏi phải chịu khốn khổ như ông. Kể ra ông ta cũng còn một chút “lo lắng” cho gia đình mình. Nhưng tổ phụ trả lời: Chúng đã có “Mô-sê và các Ngôn sứ” dạy dỗ cho chúng biết phải thực thi công bình xã hội rồi. Ông nhà giàu nài nỉ lần chót: Nếu có người chết trở về bảo cho họ biết thì họ sẽ sám hối và thay đổi lối sống. Tổ phụ cũng khẳng định lần chót: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà chúng còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Người chết sống lại được nhắc đến ở đây chính là Chúa Giê-su Ki-tô đấy. Ôi, không chịu nghe lời Chúa Giê-su thì họ (và chúng ta nữa) thực là hết thuốc chữa rồi! Cũng đành kéo nhau xuống hỏa ngục thôi!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Để sống sứ điệp Lời Chúa hôm nay, không gì tốt hơn là chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phao-lô nhắn nhủ môn đệ Ti-mô-thê trong bài đọc 2. Ngài dạy anh hãy gắng trở nên người công chính đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến. Đối với người công chính đạo đức, lòng tin mến đối với Chúa và lòng bác ái đối với tha nhân là cột trụ của đời sống thiêng liêng. Sống mà mến Chúa yêu người như thế chính là cách chúng ta xây dựng nền móng cho công bình xã hội vậy. Ti-mô-thê là một vị lãnh đạo trong Giáo Hội mà còn được nhắc nhở như vậy, huống chi chúng ta là đoàn chiên Chúa chăn dắt!
Chúa nhật tuần trước Lời Chúa dạy “Hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu, để sau này họ sẽ TN 26-C174
Chúa nhật tuần trước Lời Chúa dạy “Hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu, để sau này họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”. Hôm nay, Lời Chúa tiếp tục nói với chúng ta về việc sử dụng của cải, như là phương thế tốt đẹp, để sau này đạt tới ơn cứu độ.
Trong bài đọc I, tiên tri Amos nhân danh Thiên Chúa nặng lời chúc dữ: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu sang ở Sion. Các ngươi nằm trên giường ngà, ăn ngon, mặc đẹp, thế mà chẳng chạnh lòng thương những người khốn khổ. Rồi đây, những bữa tiệc các ngươi sẽ không còn nữa”(Am 6, 1. 4-6).
Thái độ sống dửng dưng những người giàu sang, bên cạnh những người nghèo khó mà tiên tri Amos nói trên, là hình ảnh tiên trưng dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay.
Trong dụ ngôn có hai người hai hoàn cảnh khác nhau. Nhà phú hộ trong trang phục lụa là gấm vóc; Còn Ladarô thì rách rưới tả tơi. Nhà phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, sang sỉn chiều say; Còn Ladarô đói khát ước ao một chút bánh vụn từ bàn ăn rơi xuống mà cũng không có.
Nhà phú hộ sống trong lâu đài sang trọng; còn Ladarô sống cảnh màn trời chiếu đất trước cổng của nhà phú hộ, ấy thế mà ông không nhìn thấy Ladarô mình đầy ghẻ chóc đang lê lết trước cổng nhà ông. Ladarô rên rỉ đau đớn vì bệnh tật, mà ông cũng chẳng hay. Ladarô chết dần chết mòn, mà nhà phú hộ không một chút lòng thương xót.
Nhưng rồi, Ladarô chết trong cảnh nghèo đói cô đơn; còn nhà phú hộ chết trong cảnh giàu sang ấm cúng. Thế nhưng, số phận đời sau hai người rất đổi khác nhau. Nhà phú hộ rơi xuống biển lửa cực hình; còn Ladarô được Chúa thưởng ngồi trong lòng tổ phụ Abraham.
Tác giả Tin mừng không nói nhà phú hộ xua đuổi Ladarô ra khỏi lâu đài của mình; cũng không nói ông đánh đập, chửi mắng Ladarô, mà đơn giản là ông không chạnh lòng thương xót Ladarô đói khổ. Chẳng bao giờ ông nghĩ mình được Chúa thương ban cho giầu có, suốt đời gặp những sự lành; còn Ladarô kia hoàn cảnh bất hạnh đáng thương, thế mà trái tim nhà phú hộ không chút cảm thương. Cho nên, nhà phú hộ không phải vì giàu có mà rơi xuống biển lửa, nhưng bị phạt vì tội thiếu sót, tội làm ngơ, tội không quan tâm đến người khác, không làm những gì lẽ ra phải làm.
Chính khi nhà phú hộ đóng cửa lòng mình lại, thì cửa thiên đàng cũng sẽ đóng lại với ông. Ladarô không phải vì nghèo khó mà được Chúa thưởng, nhưng nhờ ông biết chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và cậy trông vào tình thương xót của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Nhìn vào thế giới hôm nay, con người quá ư là văn minh tiến bộ vượt mức. Thế nhưng, dường như trái tim con người lại nhỏ bé hơn, lòng con người hẹp hòi ích kỷ hơn, do chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ, chỉ lo vun đắp cho mình hơn lo cho người khác. Chính vì thế, thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Đó là nền văn minh của sự chết “.
Mặc dầu thế giới văn minh như thế, nhưng vẫn còn ở nhiều nơi thiếu thốn lương thực. Đức Chúa Trời tạo dựng nên vũ trụ này, tài nguyên thiên nhiên Chúa ban dư đầy, thì không thể nào con người phải thiếu thốn. Ấy thế mà tại sao vẫn còn tình trạng đói khát như thế? Thưa, bởi vì con người thiếu tình thương xót với nhau.
Mỗi năm những nước giàu có đổ xuống biển biết bao nhiêu tấn lương thực, do thừa mứa, do hết hạn sử dụng, mà không viện trợ cho những đất nước nghèo. Rồi hơn 80% của cải được gởi trong ngân hàng, cất giữ trong két sắt, của những nhà tỉ phú, những ông đại gia…
Người ta bỏ ra bao nhiêu tiền của, để đầu tư vào những vũ khí tối tân, những thiết bị y tế, nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống con người, nhưng người ta lại ác tâm giết chết những thai nhi vô tội nằm trong dạ mẹ.
Người ta bỏ ra bao nhiêu thời giờ, bao nhiêu tiền của đi du lịch nước này, nước nọ chơi được; nhưng lại khó lòng dành ra một chút thời giờ bước sang nhà bên cạnh, để thăm bệnh nhân đang cần một lời kinh hay một lời an ủi trong giờ sau hết.
Có khi người ta không chết vì chén cơm manh áo, nhưng người ta lại đói tình người, đói sự quan tâm chia sẻ với nhau. Cho nên, thế giới ngày nay, con người rất những chén cơm yêu thương, những tấm áo tình người, những ly nước của lòng thương xót.
Dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay, chúng ta cần xét lại đời sống đạo của mình. Nếu anh chị em đọc kinh dự lễ hằng ngày mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân… thì e rằng chúng ta mắc tội thiếu sót, đây là một trong bốn tội mà trước mỗi thánh lễ, ai trong chúng ta đều đấm ngực xưng thú: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”.
Ngày giờ sau hết, Chúa không hỏi chúng ta đi một ngày bao nhiêu lễ, đọc mỗi ngày bao nhiêu kinh, hay đi hành hương mỗi năm bao nhiêu lần…. nhưng Ngài chỉ hỏi chúng ta một điều duy nhất đó là: con có yêu mến Ta không? Và thước đó lòng yêu mến Chúa được căn cứ vào đức bác ái đối với tha nhân mà thôi.
Ước gì, khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta được gặp thấy lòng thương xót và nghe những lời mời gọi của Chúa: ” Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp là sự sống đời đời đã dành sẵn cho các ngươi, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta bệnh tật các ngươi viếng thăm… hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”. Amen.
Câu chuyện của bài dụ ngôn Tin mừng lại tiếp tục chủ đề sử dụng của cải tài sản trong cuộc đời TN 26-C175
Câu chuyện của bài dụ ngôn Tin mừng lại tiếp tục chủ đề sử dụng của cải tài sản trong cuộc đời hiện tại. Có một sự thay đổi triệt để và chung cuộc ở cuộc đời sau cái chết. Người phú hộ giàu có sung sướng rồi sẽ phải đau khổ trầm luân sau cái chết, trái lại người nghèo khổ Lazarô rồi sẽ được hưởng hạnh phúc viên mãn mai này.
Truyền thống Kitô giáo, tiếp nối truyền thống Do thái giáo, đã có những hiểu biết rất mạch lạc và lý luận chặt chẽ về chủ đề sử dụng tiền của trong cuộc đời hiện tại. Trong cái nhìn đức tin, các tiên tri luôn có những cái nhìn sắc bén về thời đại mà các ngài đang sống. Trong khi mọi người bằng lòng với những sự giàu có hưởng thụ vật chất, nào là “nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên trường kỷ, xức dầu thơm hảo hạng…. và chẳng thương hại gì tới nổi băn khoăn của Giuse”, thì tiên tri Amos đã thoáng thấy ở chân trời những thảm họa của một cuộc tận diệt do đế quốc Assyria mà sức mạnh và sự trừng phạt của nó sẽ rất ghê gớm: “giờ đây họ phải đi lưu đày, và đi đầu những kẻ lưu đày…
Những yến tiệc của kẻ buông tuồng sẽ không còn nữa”. Nhưng giải thích cho cùng thì chính Thiên Chúa mới là Đấng chủ tể tối cao và người để cho đế quốc Assyria trừng phạt Dân của người. Vào thời tiên tri Amos, vương quốc phía Bắc được hưởng một thời kỳ phồn thịnh kinh tế kéo dài. Triều đại của nhà vua Giêrôbôam II kéo dài tới 40 năm, từ năm 783 tới 743, vương quốc mở rộng và càng lúc càng giàu có phồn thịnh với triều đại kéo dài cho thấy sự bình an thịnh vượng của vương quốc, lúc mà nhiều người giàu cảm thấy bình an và bằng lòng với những gì họ đang thụ hưởng. Trong hoàn cảnh như thế, với sứ điệp của tiên tri Amos, lần đầu tiên người ta thấy xuất hiện thành ngữ “ngày của Giavê”, ám chỉ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đối với dân của người vì những bất công xã hội mà những người giàu có trong xã hội chà đạp trên hạng người nghèo khổ. Giavê là Đấng chủ tể hoàn vũ và chủ tể mọi dân tộc sẽ trừng phạt nặng nề đối với Israel vì đời sống xa hoa và những thực hành mất công bằng của họ.
Câu chuyện dụ ngôn của bài Tin mừng là giải thích rất thẳng thắn của Chúa Giêsu đối với các môn đệ và mở rộng cả với những người biệt phái vốn quen với quan niệm thông thường trong xã hội do thái là sự giàu có đầy đủ ở đời này là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa và là dấu chỉ đời sống luân lý ngay thẳng. Chúa Giêsu cho thấy một cái nhìn sắc bén về một sự đảo lộn mọi hoàn cảnh trong dự định cứu độ của Thiên Chúa, và những sự giàu có bề ngoài không làm chứng điều gì như người ta vẫn nghĩ, nó chỉ có tính cách giai đoạn hạn hẹp của đời sống con người mau qua sánh với cuộc đời vĩnh cửu sau này. Lề luật và các tiên tri vốn là những bản lề quan trọng quyết định trong tư duy của người do thái, giờ đây phải được cập nhật bởi một sự đánh giá mới quyết định bởi Chúa Giêsu, vị tiên tri cao cả của Thiên Chúa có thẩm quyền giải thích lề luật và khai mạc triều đại mới mẽ của Nước Thiên Chúa. Lời rao giảng này mời gọi mọi người phải có một cung cách mới mẽ quyết định trong thái độ của mình đối với việc sử dụng của cải vật chất. Câu chuyện dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô nghèo khổ trình bày hình ảnh của một con người giàu có, được đánh giá cao đối với cái nhìn thông thường của người do thái, ăn mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình, lại trở nên rất lạc hậu so với thời cuộc mới mẽ mà Chúa Giêsu đang thiết lập. Trong khi ông vẫn bình an hưởng thụ mọi tiện nghi vật chất, vẫn an nhàn trong tư duy cố hữu của mình như sự giàu có nhiều của cải là sự chúc lành của Thiên Chúa, thì ngoài kia, mọi sự đang bắt đầu thay đổi nhanh chóng, sứ điệp những người nghèo khổ, bị khinh miệt sẽ là những người được thừa hưởng hạnh phúc Nước Thiên Chúa đang được công bố với vị tiên tri cao cả là Chúa Giêsu, Đấng đang thực hiện và hoàn tất những gì đã được Lề luật và các tiên tri loan báo.
Người phú hộ này là hình ảnh của một con người lạc hậu so với thời cuộc, sử dụng của cải một cách tưởng là thời thượng nhưng lại rất sai lầm: ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc toàn lụa là gấm vóc. Trong khi đó người nghèo Lazarô trong mô tả của câu chuyện dụ ngôn thì không thấy có nhân đức nào ngoài thân phận nghèo khổ bất hạnh bi đát. Câu chuyện như làm vọng lại sứ điệp đã được công bố về Hiến chương Nước Trời với những mối phúc dành cho những người nghèo khổ, đói khát, khóc lóc và những lời đe dọa đối với những người giàu có, no đủ, sung sướng. Một sự thay đổi đảo lộn sẽ diễn ra bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng sẽ trả lại sự công bằng ngay thẳng cho những người đã phải chịu những đau khổ thiếu thốn trong cuộc đời hiện tại. Thánh vịnh 145 trong bài đáp ca làm vang vọng sứ điệp cứu độ giải thoát của Thiên Chúa dành cho những người nghèo khổ: “Chúa là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.” Sứ điệp của bài dụ ngôn chỉ là khẳng định lại giá trị của nền luân lý tinh tuyền của sách Lề luật và các tiên tri mà không ai có thể cho phép mình bỏ qua hay không biết. Sách đệ nhị luật (15,7-11) đã viết: “Nếu ở nhà ngươi có người nghèo khó… ngươi không được cứng lòng và không được khép kín bàn tay không giúp đỡ người nghèo khó này. Ta truyền cho ngươi: ngươi phải mở rộng bàn tay cho người anh em nghèo khổ ở trong xứ sở của ngươi”. Câu chuyện mang nhiều nét được hình dung theo văn hóa do thái, như sau khi chết thì người phú hộ phải ở trong hỏa ngục đau khổ bị lửa thiêu đốt và Lazarô thì được hạnh phúc ở trong lòng tổ phụ Abraham. Điều được khẳng định mạnh mẽ qua câu chuyện là giờ đây số phận đã thay đổi quyết định, và dù người phú hộ có là con cháu Abraham đi nữa, thì quan hệ ruột thịt này cũng không thay đổi gì được tình thế đã được an bài và mỗi người phải chấp nhận định mệnh mà mình đã tự quyết định trong cuộc đời tại thế. Câu chuyện còn nêu lên một khẳng định nhắc nhở khác khi gợi ra lời cầu xin của người phú hộ, xin phép tổ phụ Abraham cho Lazarô trở về nhắc nhở năm người em còn sống vì ông nghĩ rằng nếu có người chết trở về nhắc nhở thì họ sẽ tin. Nhưng lời thỉnh cầu này cũng bị từ chối dứt khoát vì nếu những người này không nghe lời Lề luật và các tiên tri, họ cũng không bao giờ nghe lời người chết trở về nhắc nhở.
Lời khuyên của thánh Phaolô đối với Timôthêu trong bài đọc thứ hai cũng là lời nhắc nhở cho mọi người: hãy luôn giữ vững đức tin của mình trong mọi giao động của cuộc đời. Có lẽ vào lúc bấy giờ, Phaolô hình dung Chúa Giêsu sẽ trở lại trong một thời gian gần, vì thế điều quan trọng là phải sẵn sàng trong đời sống của người tín hữu, cố gắng thực hành những nhân đức nền tảng của người tín hữu là đức tin, đức ái, đức nhẫn nại và hiền lành; và đời sống đức tin của người tín hữu là một cuộc chiến đấu với chính nghĩa là đức tin để đạt được cuộc sống đời đời. Phaolô nhắc lại gương mẫu sống động là hình ảnh Chúa Giêsu đứng trước toà án Philatô. Người đã vững vàng trong cuộc chiến đấu của đức tin đến hơi thở cuối cùng và trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta, Người sẽ trở lại tràn đầy vinh quang mà chúng ta sẽ dự phần với người.
Mỗi người có một thân phận và số phận, không ai giống ai, có chăng chỉ là tương tự hoặc gần giống TN 26-C176
Mỗi người có một thân phận và số phận, không ai giống ai, có chăng chỉ là tương tự hoặc gần giống. Thật vậy, những người sinh đôi hoặc sinh ba cũng hoàn toàn khác nhau. Số phận cũng được gọi là số mệnh, số kiếp, hay vận mệnh.
Theo định nghĩa trong Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh: “Số phận là sự sống do Trời định của con người, không phải cứ miễn cưỡng là được.” Theo định nghĩa trong Từ Điển Tiếng Việt của NXB Khoa Học Xã Hội (1997): “Số phận là sự định đoạt cuộc đời của một người được hưởng hạnh phúc hay chịu đau khổ, sống lâu hay chết sớm, do một sức thiêng liêng nào đó.” Cách định nghĩa này đã gián tiếp công nhận vấn đề tâm linh, và không thể hiểu được. Vì thế, nhiều người tin vào bói toán, tử vi, tuổi này hên hoặc tuổi kia xui, ngày tốt hoặc giờ xấu. Nhảm nhí!
Theo Phật giáo, sự may rủi trong số phận không phải do thiên mệnh hay định mệnh mà thân phận mỗi con người là kết quả do quá trình của chúng ta hành động từ một đến nhiều đời. Rõ hơn, con người hiện hữu và tồn tại với các đặc tính khác nhau là kết quả của “cái nghiệp” được tạo tác bởi chính họ trong quá khứ và hiện tại. Thế nên họ mới có thuyết luân hồi. Tất nhiên không phù hợp với Kitô giáo, vì chúng ta tin vào sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Và chắc chắn KHÔNG có luân hồi.
Theo tầm nhìn khoa học, số phận là một khái niệm tổng hợp chuỗi các sự kiện trong một chu trình sống của thực thể. Trong đó, chuỗi các sự kiện là sinh ra, lớn lên (với thất tình: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục), tồn tại, đấu tranh, lành – dữ, mạnh – yếu, sướng – khổ, thịnh vượng – suy vong, rồi già nua và chết. Tùy theo đối tượng cụ thể mà có các sự kiện cụ thể. Thực tế là bao hàm tất cả mọi đối tượng đang tồn tại trong vũ trụ (người, vật, quốc gia, lãnh thổ, tổ chức, công ty,…) Nhìn theo góc độ toán học, số phận như một đồ thị hàm số, thế nên số phận của con người là một đồ thị hàm số không gian N chiều. Để đơn giản và dễ hiểu, có thể tập trung phân tích hệ quy chiếu tọa độ theo không gian ba chiều.
Sống với hiện tại là thực tại cần thiết, vì quá khứ không thể tìm lại, còn tương lai không thể biết. Cuộc sống có sầu khổ hoặc mệt mỏi thì cũng nên cười mỗi ngày mà sống, bởi vì có khóc cũng chẳng thể tốt hơn. Tiền nhân khuyên: “Thà đốt lên ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối.” Thật vậy, đừng mất quá nhiều thời gian để than trách hay phó mặc cho số phận. Số phận có thể là do chúng ta tạo nên và chúng ta có quyền quyết định cuốc sống của mình. Cầu nguyện có thể thay đổi số phận.
Trong cuộc sống, những ai thường xuyên tắm rửa thì bụi nào cũng sạch. Tinh thần cũng cần tẩy rửa, linh hồn còn cần hơn nữa. Chiến thắng kẻ địch một vạn lần cũng không bằng chiến thắng bản thân một lần. Chúng ta có thể mất những năm tháng tuổi thơ nhưng không bao giờ được để mất trái tim trẻ thơ trong con người mình. Người khác có thể lừa dối mình, nhưng nhất định mình vẫn chân thành đối xử tử tế với người khác. Đôi khi người ta cần giả ngốc, dù họ không thực sự ngốc, nhưng đừng bao giờ ra vẻ mình khôn.
Cuộc sống nhiêu khê. Hạnh phúc và đau khổ là vấn đề muôn thuở. Càng diệt khổ càng thêm khổ, càng trốn khổ càng tăng khổ. Làm sao đây? Chỉ còn cách đi xuyên qua đau khổ, vì chỉ có chết mới thực sự hết khổ. Kẻ khổ và người sướng, kẻ khóc và người cười, cài xui và cái hên, điều rủi và điều may,… cũng là vấn đề vô tận, giống như “phần cứng” của máy vi tính đã được “cài đặt” sẵn, không thể gỡ ra (uninstall), người ta muốn làm gì thì làm, cứ khởi động lại máy (restart) thì lại trở về trạng thái mặc định (default) – bởi vì tất cả đã được “đóng băng” (deep freeze) rồi. Người Việt cũng có cách “mặc định” riêng: “Người ăn không hết, kẻ lần không ra.” Cuộc đời mãi mãi là một ẩn số, không ai có thể giải trình được. Chỉ có Thiên Chúa mà thôi!
Trong xã hội đời thường, “tỷ lệ” hoặc “cấp độ” sướng – khổ được người ta dựa trên một “phần mềm” (software) như dạng mặc định: Tiền bạc. Nên người ta vẫn thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được.” Xem chừng tiền có sức mạnh vạn năng tưởng chừng như một thần linh, thảo nào người ta gọi đó là Thần Tài. “Vị thần” này được người ta tôn sùng rất đa dạng và tinh vi. Vì người ta tôn sùng “vị thần” này ở một dạng nào đó, thế nên bất kỳ mối quan hệ nào có “đụng chạm” đến tiền bạc thì dễ gặp rắc rối. Thậm chí “vị thần” này còn len lỏi cả vào tôn giáo nữa. Nói chung “thần tài” xuất hiện ở mọi phạm vi, bất kể đời hay đạo. Thật đáng sợ!
Tiền bạc như lưỡi gươm nhiều lưỡi, vừa bén vừa nhọn, có thể “cắt” mọi mối quan hệ – dù là máu mủ ruột rà. Louisa May Alcott nhận định: “Tiền bạc là gốc rễ của cái ác, và nó lại là một cái rễ hữu ích đến mức chúng ta không thể sống mà không có nó, cũng như chúng ta không thể sống mà không có khoai tây” (Money is the root of all evil, and yet it is such a useful root that we cannot get on without it any more than we can without potatoes.) Với người Tây phương là khoai tây, với người Việt là cơm gạo – như người ta thường dùng “dây chuyền” Cơm-Áo-Gạo-Tiền. Thật là rắc rối quá trời!
Như một quy ước bất thành văn, người ta coi tiền bạc là “thước đo” của cuộc sống, nó khiến người ta bận tâm không ngừng, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nó là điều rất khó. Samuel Johnson: “Tiền bạc và thời gian là những gánh nặng ghê gớm nhất của cuộc đời, những kẻ bất hạnh nhất là những người sở hữu chúng nhiều hơn mình có thể sử dụng” (Money and time are the heaviest burdens of life, the unhappiest of all mortals are those who have more of either than they know how to use.) Thật là thú vị với vế hai trong câu nói này!
Thời đại bùng nổ thông tin, báo in và báo mạng, đặc biệt là các trang xã hội như facebook, twitter, instagram, linkedin, pinterest,… chúng ta được biết rằng, lương bổng của mấy “ông lớn” mỗi tháng có tới vài trăm triệu VNĐ, trong khi công nhân làm chỉ vài triệu đồng. Vừa có quyền vừa có tiền, họ sống ung dung, trở thành đại gia “nhanh như chớp” mà không phải tốn giọt mồ hôi nào. Họ dư tiền nên chiều chuộng con cái. Con cái họ thoải mái hưởng “phúc ấm” nên cứ “vô tư” tiêu xài mỗi đêm khoảng một vài trăm triệu tại các quán bar. Đối với họ, đó chỉ là “chuyện nhỏ” thôi! Chính vì tiền bạc mà người ta đổ đốn, hư thân, mất nết. Và cũng chỉ vì tiền bạc mà người ta có thể phạm tội ác tày trời, khắp nơi đây đó vẫn thấy xảy ra những vụ án sát nhân nghiêm trọng liên quan ông Thần Tài. Thậm chí có những vụ giết người chỉ vì một số tiền không đáng kể.
Tiền không là Tiên hay Phật, mà chỉ là Vật, nhưng nó có ma lực. Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1 Tm 6:10) Người ham tiền bạc là người giả hình, ưa bề ngoài, trọng hình thức, khoái lễ nghi, mê bày vẽ,… bởi vì “người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc.” (Lc 16:14) Với mức độ nào đó, và dù là ai, chúng ta cũng đang có “nét” của dân Pharisêu, “máu” của nhóm biệt phái.
Thời nào cũng thế, xã hội nào cũng có những “tay ăn chơi,” thường gọi là “dân chơi,” Tây hóa là playboy. Người giàu dư tiền bạc mới dám ăn chơi (không cần ăn thật), người nghèo có muốn ăn chơi cũng chẳng có mà dám. Nói chung, giới nào cũng có “kiểu ăn chơi” đặc thù. Phung phí khi mua một món đồ chưa thực sự cần thiết, xài đồ xịn hoặc hàng hiệu để chứng tỏ mình có “đẳng cấp” hoặc để lòe thiên hạ, bịp người khác, đó cũng là một dạng “ăn chơi” vậy. Thời nay có đủ dạng và đủ mức. Nhỏ chơi ít, lớn chơi nhiều. Đủ kiểu liều! Ai không chơi bị coi là nhát, và còn bị họ ghét.
Theo “nhịp đời tăng tốc” của xã hội coi trọng hình thức, nặng vật chất (dạng duy vật), người giàu vẫn thường “xài sang”, sống thoải mái, không phải “đau đầu” tính toán chuyện “ăn bữa nay, lo bữa mai.” Vì sung sướng mà người ta dễ sa đà, rồi là đà sà theo quỷ ma. Ngày xưa, ngôn sứ A-mốt đã cảnh cáo: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Sion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari, họ là những nhà lãnh đạo của dân đứng đầu các dân khiến nhà Ítraen phải đến cầu cạnh.” (Am 6:1) Kệ. Ai khốn thì khốn, mình cứ chơi cho đời biết tay!
Ngôn sứ A-mốt có ý gì? Ông giải thích rạch ròi: “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đavít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ! Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6:4-7) Ôi chao, những từ ngữ chỉ trích rất thẳng thắn, gây đau điếng và nhức buốt quá!
Thế nhưng liệu chúng ta có “dính líu” chút nào giống “phong cách ăn chơi” của họ? Và liệu chúng ta có cho rằng đó là nói người khác chứ “không nói mình” hay chăng? Dù sao thì cũng thấy “đau cái điền” chứ chẳng chơi.
Chắc chắn rằng Thiên Chúa chí thiện và chí minh, ai sống sao thì Ngài xử vậy, không thiên vị bất cứ ai. Thánh Vịnh gia nói: “Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.” (Tv 146:7-8) Cái “nhưng” của Chúa mới đáng sợ, Ngài không đùa vui đâu! Tại sao vậy? Bởi vì “Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời.” (Tv 146:10)
Trong thư gởi cho Thánh Timôthê, Thánh Phaolô tha thiết khuyên nhủ: “Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng.” (1 Tm 6:11-12) Những lời khuyên như rót vào tai, nhưng không hề là “lời đường mật.” Thánh Phaolô không chỉ nói riêng với Thánh Timôthê xưa kia, mà vẫn thực sự nói với mỗi chúng ta – cả hôm nay và ngày mai.
Vừa là lời khuyên vừa là mệnh lệnh, Thánh Phaolô nói thêm: “Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Kitô Giêsu là Đấng đã làm chứng trước toà tổng trấn Phongxiô Philatô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, tôi truyền cho anh: Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện. Đấng sẽ cho Đức Kitô tỏ hiện vào đúng thời đúng buổi, là Chúa Tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các chúa.” (1 Tm 6:13-15) Qua đó, Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta khi làm bất cứ cái gì cũng phải NHÂN DANH ĐỨC KITÔ, làm chỉ vì Chúa mà thôi, chứ đừng ảo tưởng hoặc vì bất cứ động lực nào. Thật chí lý với lời xác định của Pythagore (triết gia và nhà toán học, người Hy Lạp, 580-495 trước công nguyên) từ xa xưa: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại.” To lớn và vĩ đại có ý nghĩa tương tự nhưng lại hoàn toàn khác nhau.
Quả thật, “chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Người danh dự và uy quyền đến muôn đời. Amen.” (1 Tm 6:16) Vật chất cũng có mối liên quan số phận. Đại văn hào Shakespeare nói: “Tiền bạc là thế lực hữu hình chống lại Thiên Chúa vô hình.”
Trình thuật Lc 16:19-31 là dụ ngôn điển hình về vấn đề giàu – nghèo, sướng – khổ. Đó là chuyện đời của nhà phú hộ và người nghèo Ladarô. Phú hộ là người giàu nứt đố đổ vách, Ladarô là người nghèo rớt mồng tơi.
Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người ta có câu “tứ đại phú hộ” để chỉ bốn người giàu nhất Saigon – kể cả miền Nam Kỳ Lục Tỉnh và Đông Dương thời đó. Để dễ nhớ, dân gian có câu “Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định.” Xin mở ngoặc: Ông Huyện Sỹ tên thật là Philipphê Lê Phát Đạt (1841-1900, được Pháp phong Huyện hàm nên được gọi là Huyện Sỹ.) Ông quê ở làng Bình Lập, tỉnh Tân An – nay là Thị xã Tân An, tỉnh Long An. Ông dành nhiều thời gian cho hoạt động phát triển nông nghiệp và truyền bá đạo Công giáo, tài trợ xây Nhà thờ Huyện Sỹ – Chợ Đũi – ngay trên phần đất của ông. Cháu ngoại của ông được gả cho vua Bảo Đại, mệnh danh là Nam Phương Hoàng Hậu – tức là cô Nguyễn Hữu Thị Lan, con bà Lê Thị Bính.
Ngoài ra, vị trí thứ tư còn được dành cho một số đại phú hộ khác – Tứ Trạch, Tứ Hỏa hoặc Tứ Bưởi. Ngày xưa, Công tử Bạc Liêu “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu”, ngày nay gọi là “đại gia”. Giới này thường chảnh lắm. Còn ông Huyện Sỹ, tuy giàu sụ nhưng ông khôn khéo xử lý đồng tiền theo hướng tốt lành và hữu hiệu. Giàu mà không kiêu căng, giàu mà đức độ.
Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu đề cập một ông nhà giàu mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn người nghèo khó tên Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn tiệc rớt xuống mà ăn cho no mà cũng chẳng được. Có bầy chó đến liếm ghẻ chốc trên cơ thể anh ta.
Cuối cùng, cả hai đều “trở về cát bụi” theo quy luật muôn thuở. Anh nhà nghèo được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham, ông nhà giàu phải vô âm phủ. Dưới đó, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Ông ta kêu xin: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Ông Ápraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.” Hoàn toàn công bằng, vì Thiên Chúa rất công bình và chính trực. Lẽ nào người nghèo khổ mãi chịu số phận hẩm hiu? Nếu vậy thì hóa ra Chúa bất công. Không, không bao giờ!
Cố năn nỉ ỉ ôi cho mình mà không được, ông nhà giàu chuyển hướng: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” Ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ thì chúng cứ nghe lời các vị đó.” Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.” Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.” Cuộc đối thoại thẳng thắn, minh bạch và thú vị. Đại gia vẫn “mánh” dữ nghen!
Ai cũng biết thế nào là kẻ cố chấp. Họ lì lợm, ngang tàng, chẳng muốn nghe ai, dở òm mà luôn cho mình là hay, nhận mình là đúng. Con người có máu tò mò lắm. Người ta thích những “sự lạ”, thấy gì lạ cũng tưởng hoặc cho là Phép Lạ. Nhưng có thấy Phép Lạ thật thì cũng chẳng ăn thua gì, bằng chứng là cách sống của họ không có gì thay đổi tích cực. Đó là những người có cái tên nghe “kêu” lắm: Nguyễn Y Vân (vẫn y nguyên) hoặc Vũ Như Cẩn (vẫn như cũ). Họ thích GIỮ ĐẠO chứ không ham SỐNG ĐẠO, đôi khi hóa mê tín hoặc cuồng tín, mà cuồng tín là phi tôn giáo. Cẩn tắc vô ưu. Tiền nhân nhắc nhở đúng thật!
Người ta có cách nói kiểu khôi hài nhưng thâm thúy: “Khi vui chẳng nhớ tới ai – Khi nóng cứ trái tai mà sờ.” Ui da! Cái “trái tai” cũng khổ vì bị người ta lợi dụng. Sự hối hận có thể đồng nghĩa với muộn màng, bởi vì nước tới chân thì không thể nhảy kịp – vì đâu phải là nước thủy triều lên từ từ, mà là sóng mạnh hoặc sóng thần.
Chính Chúa Giêsu đã từng nói thẳng: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có.” (Mt 26:11; Ga 12:8) Ngài “nhắc khéo” chúng ta về động thái bác ái đích thực: Mở cả tấm lòng, mở cả đôi tay, và mở cả “chiếc túi đựng thần tài” nữa. Thánh Phaolô nói: “Vui với người vui, khóc với người khóc.” (Rm 12:15) Đó là sống đạo qua việc thể hiện đức ái, là chia sẻ, cảm thông, hiệp thông,…
Và rồi Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta “bán tài sản và đem cho người nghèo,” (Mt 19:21) còn khi đãi tiệc thì “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quật, đui mù.” (Lc 14:13) Đó làm hành động cụ thể làm chứng về Thiên Chúa và để được nên công chính. Có khi nào Chúa Giêsu nói đùa cho vui chăng? Không bao giờ, Ngài không hề nói bóng gió, mà Ngài nói thật – và rất thật. Coi bộ “căng” lắm đấy!
Thật diễm phúc khi được làm người. Tuy nhiên, mọi người đều bình đẳng, và như nhau với hai bàn tay trắng khi bước vào trần gian, và khi rời thế gian cũng vẫn chỉ với hai bàn tay trắng. Đó là điều ai cũng PHẢI NHỚ. Nhớ không chỉ để nhớ như bài học thuộc lòng, mà nhớ để hành động sao cho đúng Thánh Luật của Thiên Chúa: Mến Chúa và Yêu Người – không loại trừ kẻ thù, và không thể yêu suông bằng lời nói.
Chuyện giàu – nghèo và sướng – khổ là chuyện muôn thuở. Được sướng mà không biết cách tận hưởng cũng hóa khổ, chịu cảnh khổ mà biết cách chấp nhận cũng hóa bình thường, có khi vẫn là sướng. Giàu gì và nghèo gì? Đó mới thực sự là vấn nạn của con người.
Lạy Thiên Chúa là Đấng quan phòng và tiền định, chúng con cảm tạ Ngài đã cho chúng con được làm người, xin giúp chúng con luôn biết sống yêu thương và trắc ẩn với lòng chân thành, xin biến đổi chúng con theo ý Ngài để chúng con nên khí cụ hữu hiệu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Cuộc sống hôm nay đầy tất bật. Ai cũng đổ xô đi lo công ăn việc làm. Công việc làm ăn có TN 26-C177
Cuộc sống hôm nay đầy tất bật. Ai cũng đổ xô đi lo công ăn việc làm. Công việc làm ăn có thể làm ta không còn thời gian để gặp gỡ nhau, ngay cả các thành viên trong gia đình. Điều ấy đã làm bao gia đình chia ly, tan vỡ. Giữa những bôn ba đó, những giây phút dừng lại bên nhau để lắng nghe Lời Chúa luôn là điều tuyệt đối cần thiết. Chúa Nhật tuần trước, Lời Chúa nhắc nhở về thái độ đúng trước tiền của: tiền chỉ là phương tiện chứ không là ông chủ của ta. Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy biết nhìn đến người khác, biết chia sẻ hoàn cảnh với những người khác, biết sống với những người đang sống quanh ta.
Trong bài Phúc âm Lc 16, 19-31, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn với hai hình ảnh đối lập giữa một người nghèo và một người giàu.
Ông phú hộ là một người giàu có. Mặc toàn những thứ lụa là gấm vóc. Ông quá dư thừa của cải, hằng ngày thư thái, chỉ việc hưởng thụ. Ông mở tiệc linh đình thường xuyên.
Ladarô là một người nghèo khổ. Thân thể anh đầy mụn nhọt, ghẻ lở. Anh chẳng có nhà cửa, phải vạ vật ở cửa nhà ông phú hộ. Anh chẳng có gì để ăn. Anh ngồi đó và chờ đợi những thứ trên bàn ăn của ông phú hộ rơi xuống đất để kiếm miếng. Và dường như anh cũng chẳng có bạn, chẳng được ai ngó ngàng tới, chỉ thấy mấy con chó thỉnh thoảng đến liếm ghẻ chốc trên anh.
Hình ảnh đối lập ấy cũng chẳng thiếu gì trong xã hội hôm nay.
Người ta có thể biện minh rằng ông phú hộ không lấy gì của anh Ladarô. Ông phú hộ cũng không làm thiệt hại gì Ladarô. Nhưng phải chăng ông phú hộ có quyền được tận hưởng những gì mình đang có mà không cần biết đến người khác? Phải chăng sự đầy đủ của cải vật chất như ông phú hộ là bảo đảm cho niềm hạnh phúc mà người ta đang ngày đêm kiếm tìm?
Nếu như cuộc sống chỉ là những gì khi ta sống; nếu như cái chết ập đến là chấm dứt tất cả, thì nhà phú hộ kia đã sống trọn vẹn một kiếp người. Ông không xâm phạm đến ai, ông đã tận hưởng cuộc sống bằng những gì mình có. Nhưng nếu thế thì cuộc đời này cũng còn đâu ý nghĩa. Cái chết ập đến, kẻ giàu người nghèo cũng bằng nhau; người lương thiện cũng bằng kẻ gian ác; người suốt đời miệt mài sống cho người khác cũng chẳng hơn gì người ích kỷ chỉ biết sống cho mình. Xã hội còn đâu là công bình với chân lý.
Cuộc sống không chỉ chấm dứt sau cái chết. Trái lại, chính cái chết mở ra cho con người một cuộc sống mới, một cuộc sống trường tồn vĩnh viễn. Ở cuối dụ ngôn, Chúa Giêsu cho đưa ra viễn cảnh của nhà phú hộ và Ladarô trong thế giới trường tồn sau cái chết. Từ viễn cảnh ấy ta mới thấy thái độ của nhà phú hộ thật thiếu sót.
Ông không làm hại Ladarô nhưng của cải trần gian đã làm ông mù quáng trước tha nhân. Con người không phải là cỏ cây mà có thể vô tình trước đồng loại. Con người quý giá là ở tấm lòng. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã phải thốt lên: “sống trong đời sống phải có một tấm lòng” là thế.
Cái tội của ông phú hộ là đã không có một tấm lòng đối với người khác. Ông chỉ biết mình, chỉ lo cho riêng mình. Ông không chút động lòng trước cảnh ngộ éo le của người khác. Ông vui vẻ yến tiệc linh đình ngay trước mặt một con người đau khổ đến tột cùng, một con người cũng là người như ông. Một con người đang phải oằn lên với đau đớn thể xác, đang khát khao được sống. Của cải, tiện nghi đã làm ông trở nên mù trước tha nhân. Ông có mắt mà không nhìn thấy nỗi đau của người khác.
Thái độ ấy của ông phú hộ hoàn toàn bị lên án trong ánh mắt hiền từ của Chúa Giêsu.
Thái độ mà ông lựa chọn ấy đã quyết định cho cuộc đời của ông trong cuộc sống vĩnh hằng. Con người có toàn quyền lựa chọn cho mình thái độ sống ở đời. Ông phú hộ đã lựa chọn lối sống ích kỷ, thờ ơ với người khác để rồi cuối cùng ông phải rằn vặt với chính mình ở đời sau.
Ai cũng ước ao mình được an vui ở đời này và hạnh phúc đời sau. Con đường của Chúa Giêsu là bảo đảm chắc chắn đưa ta đến bến bờ ta mong đợi. Con đường ấy là con đường của yêu thương, của phục vụ, sẵn sàng hy sinh tính mạng mình vì người khác.
Đứng trước những con người đau khổ, Chúa luôn chạnh lòng thương. Chúa tìm cách đến với người đau khổ. Chúa tìm cách giúp đỡ những người đau khổ. Và trên thập giá, Chúa đã gánh lấy tất cả để cứu con người đang khổ đau.
Đi vào con đường của Chúa là biết chạnh lòng trước nỗi đau của người khác, biết nhận ra những nhu cầu của người khác đang sống quanh ta, là biết chia sẻ cho người khác những gì mình đang có mà không đợi người khác đề nghị, là biết giang tay đón nhận người khác vào trong cuộc đời của mình, là biết khát khao được chung sống với mọi người.
Lậy Chúa Giêsu, giữa những bộn bề của công việc và tiện nghi của vật chất, xin Chúa uốn nắn tâm hồn con để con biết nắm lấy bàn tay của những người anh chị em đang sống quanh con, biết cho đi mà không tính toán, biết yêu thương người khác với trái tim sẻ chia đầy tình người trong tình Chúa.
Nếu đời này là cùng đích của con người, thì những cảnh nghèo khổ, đói rách, bệnh hoạn, tật nguyền TN 26-C178
Nếu đời này là cùng đích của con người, thì những cảnh nghèo khổ, đói rách, bệnh hoạn, tật nguyền, sầu khổ.. là những bất hạnh của con người. Nếu đời này là cứu cánh, thì người ta phải tận hưởng cho tới mức tối đa: người ta phải tìm ăn ngon mặc đẹp, người ta phải kiếm tìm những thú vui cho thoả mãn. Tuy nhiên đời này chỉ là tạm gửi. Trừ ra những người theo chủ nghĩa duy vật vô thần, còn đa số loài người đều tin có đời sau. Nếu không có đời sau, thì nhiều việc xẩy ra ở đời này là bất công, bởi vì nhiều người hiền đức, thánh thiện và công chính đã phải chịu kiếp sống nghèo đói, tù đày và phải mang bệnh tật đau đớn.
Vì thế mới có dụ ngôn vể người giàu và người nghèo trong Phúc âm hôm nay. Người giàu có trong Phúc âm chỉ dùng tiền của để thoả mãn tính ích kỷ: Ông mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình (Lc 16:19). Ông ta từ khước việc dùng tiền của để giúp đỡ người đói khổ. Ông ta bịt tai nhắm mắt trước cảnh lầm than quẫn bách của người khốn cùng. Ðiều lỗi lầm của người phú hộ trong Phúc âm là ông ta chỉ dùng tiền của để thoả mãn tính ích kỷ của mình. Người phú hộ bị kết án, không phải vì ông ta giàu có, nhưng vì ông ta ích kỷ. Tính ích kỉ đã làm ông ta mù quáng trước nỗi thống khổ của người nghèo đói. Lí do khiến ông ta bị phạt ở đời sau dưới âm phủ là vì thiếu quan tâm và thiếu lòng thương xót người nghèo đói. Có nhóm Việt kiều du lịch về thăm quê hương thấy có quán âm phủ ở cố đô Huế, tò mò vào thử. Một người trong nhóm thắc mắc: không biết dưới âm phủ có quán ăn không hả? Người kia thêm thắt: dưới đó mà có quán ăn thì cũng đỡ nhỉ.
Ngược lại với lối sống trưởng giả của người phú hộ là cảnh người đói rách tả tơi: Mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thức trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống (Lc 16:21). Cũng lạ là người nghèo đói trong dụ ngôn lại có tên, mà tên là Ladarô. Và danh xưng Ladarô có nghĩa là Thiên Chúa cứu giúp. Ðời sau ông Ladarô được chúc lành ở nơi an ủi, còn người phú hộ bị kết án trong âm phủ.
Ông Ladarô trong dụ ngôn này không phải là Ladarô, em của hai chị em bà Mác-ta và Maria tại làng Bêtania, được Chúa Giêsu cho sống lại ở đời này. Lí do là vì ông Ladarô làng Bêtania không phải là người nghèo. Gia đình ba chi em làng Bêtania được coi là khá giả và thường được dùng làm nhà trọ miễn phí cho Chúa và các tông đồ (Mt 21:17; Mc 11:11; Lc 10:38-42; 21:37; Ga 11:11,17; 12:1) mỗi khi Thầy trò về Giêrusalem. Cô Maria lại có thể cung ứng loại dầu cam tùng hảo hạng để xức chân Chúa khi Chúa đến dùng bữa tại Bêtania (Mt 26:6-7; Mc 14:3-9; Ga 12:3). Rồi hai chị em còn có khả năng cho lập mộ cho em là Ladarô trong hang với tảng đá lớn lấp mộ (Ga 11:38-39).
Giàu hay nghèo theo tinh thần Phúc âm là tuỳ thuộc vào thái độ của người ta đối với của cải vật chất. Do đó người giàu có về phương diện vật chất có thể được coi là nghèo khó về phương diện tinh thần, nếu họ làm giàu cách chính đáng, không để lòng dính bén vào của cải vật chất và biết giúp đỡ người nghèo đói: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó (Mt 5:3). Trái lại một người nghèo túng về phương diện vật chất, có thể được coi là giàu có về phương diện thiêng liêng, nếu họ luôn mơ ước làm giàu. Như vậy giàu không phải là tội. Và nghèo nếu chỉ vì nghèo cũng không phải là một nhân đức. Vậy giầu hay nghèo tự bản chất không phải là điều xấu. Tuy nhiên nếu người ta coi của cải đời này như cùng đích là người ta đi vào đường sai lầm. Con người được tạo dựng với những nhu cầu vật chất để sinh tồn và phát triển đời sống. Tuy nhiên người ta không được để cho của cải đời này làm cản trở mối liên hệ với Chúa.
Vậy thái độ ta phải có đối với của cải vật chất là tâm tình biết ơn Chúa, Ðấng ban phát mọi sự. Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa và cũng theo chủ thuyết công giáo xã hội (gl/GHCG # 2544-2547) thì của cải phải khơi dạy trong ta tâm tình tạ ơn Chúa và liên kết ta lại với tha nhân trong tinh thần liên đới trách nhiệm. Một cách tạ ơn cụ thể và thực tế nhất là việc giúp đỡ và chia sẻ với người lầm than, xấu số và bất hạnh. Của cải là để phục vụ con người, chứ không phải là con người phục vụ của cải. Vì thế người ta phải biết quản lí của cải một cách khôn ngoan, trong tinh thần trách nhiệm: không phung phí cũng không ích kỉ. Mỗi người tín hữu dù giầu hay nghèo, hay trung lưu, dù tu hay không tu cũng phải cố gắng sống tinh thần siêu thoát của Phúc âm trong việc sở hữu, quản lí và sử dụng của cải.
Nếu không, người ta có thể phải làm nô lệ cho của cải ở đời này và mang án phạt ở đời sau. Cũng lạ là người phú hộ bị kết án, nhận ra người nghèo đói có tên là Ladarô. Còn lạ nữa là trong âm phủ mà người phú hộ không hận ông Áp-ra-ham, lại còn gọi ông là cha (Lc 16:24) và Áp-ra-ham gọi người phú hộ là con (c. 25). Nghe cách xưng hô thân tình đó mà lòng cảm thấy thương tâm và xót xa cho cảnh cực hình mà người phú hộ phải chịu. Cách xưng hô cha con đó có thể có nghĩa là người phú hộ là con ông Áp-ra-ham. Ðiều đó còn có nghĩa là Áp-ra-ham là tổ phụ của người Do thái (Mt 3:9) và người Do thái thuộc dòng dõi Áp-ra-ham (Ga 8:33, 37, 56). Dầu sao đi nữa thì thuộc dòng dõi Áp-ra-ham không bảo đảm cho việc được chúc phúc. Nói cách khác tổ phụ Áp-ra-ham cũng không thể dùng thế giá của mình mà che chở cho người phú hộ được. Do đó Phúc âm mới cảnh giác nhóm người Pharisêu và nhóm Xa-đốc: Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Áp-ra-ham (Mt 3:9). Như vậy người ta cũng có thể suy ra rằng: giấy chứng chỉ rửa tội cũng không phải là thẻ thông hành để vào nước trời, nếu người ta không thực hành lời Chúa
Theo Phúc âm thánh Mát-thêu thì những người bị kết án vì đã không cho người đói, cơm ăn; không cho người khát, nước uống (Mt 25:41-42). Chúa Giêsu bảo không cho người đói khát cơm ăn nước uống là không cho chính Chúa ăn uống. Nói như vậy có nghĩa là người đói khát là hình ảnh của Thiên Chúa. Theo ngôn sứ Amốt thì đôi khi người ta còn bị kết án phạt ngay tại đời này vì tính tham lam, ích kỷ và hưởng thụ, nên họ bị lưu đầy vì không biết quan tâm đến số phận nhà Giuse sụp đổ (Am 6:7).
Hôm nay ta cùng suy niệm và cầu nguyện xin Chúa ban cho lương thực hằng ngày như Chúa Giêsu dạy trong Kinh Lạy Cha và xin Chúa giúp ta nhìn thấy hình ảnh của Người nơi những người nghèo túng, đói khổ, mồ côi, bệnh hoạn, tật nguyền, vô gia cư, vô nghề nghiệp, cô thân, cô thế.
Lời nguyện cầu của ông A-gua trong Cựu ước xin cho biết dùng của cải vật chất1:
Lạy Chúa, con chỉ xin Chúa hai điều: Xin đừng nỡ chối từ trước khi con nhắm mắt. Xin đẩy xa con lời dối trá và chuyện lọc lừa. Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng để con giầu có. Chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Chúa, mà nói: Chúa là ai vậy? Hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, mà làm ô danh Thiên Chúa của con. Amen. ___________________ Bản dịch của Nhóm Phiên dịch các Giờ Kinh Phụng vụ theo sách Châm ngôn (Cn 30:7-9).
Nhân loại đang sống trong một thế giới với các phương tiện hiện đại tân kỳ. Một trong số đó TN 26-C179
Nhân loại đang sống trong một thế giới với các phương tiện hiện đại tân kỳ. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rôbốt, người ta đang cố gắng tạo ra rôbốt thật giống người hơn để giúp con người trong các việc nặng nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều, trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chíp “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh.
Nhìn thấy cái xấu, cái ác không bất bình. Thấy Chân, Thiện, Mỹ mà không ngưỡng mộ. Gặp cảnh bi thương lại thờ ơ, không động lòng thương xót, không rung động tâm can. Giá trị đạo đức bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật và cá nhân chủ nghĩa, dẫn đến “bệnh vô cảm”. Bệnh này thể hiện ở chỗ, không động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác, cũng như không hề phẫn nộ trước những tệ nạn xã hội đang xảy ra. Con người hầu như trở nên vô tình trước cuộc sống của người khác. Vậy đó còn là con người không, hay chỉ là xác khô của một cỗ máy?
Lời Chúa hôm nay vang lên như tiếng chuông báo động về việc thực thi lòng thương xót: “Phúc cho những ai có lòng thương xót, thì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta gắn liền với lòng thương xót của chúng ta đối với người lân cận. Câu chuyện về người nhà giầu và anh Lagiarô là một bằng chứng.
Chi tiết “người phú hộ vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19) chứng tỏ đây là người không có nhân đức chừng mực ; nhưng không nói ông đã làm giầu cách bất lương, hoặc từ chối lời xin của Lagiarô, vì Lagiarô không có xin: ông dùng của cải ông có. Tương phản với “anh Lagiarô nghèo, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc” (Lc16,20), gợi lên những chỉ trích phê bình. Cảnh này nhắc lại lời quở trách nặng nề của Con Người trong ngày sau hết: “Ta đã đói và các ngươi không cho ăn, đã khát và các ngươi đã không cho uống, đã trần truồng và các ngươi đã không cho mặc” (Mt 25,42-43). Khi loại trừ Lagiarô, ông đã không để ý gì đến Chúa. Người phú hộ có điều kiện, ông chè chén, đó là việc làm của ông ; nhưng ông không động lòng trắc ẩn trước kẻ khó nghèo nằm ở cổng nhà mình là một điều không thể chấp nhận được.
Sự kiện bất ngờ ập đến là cả nhà phú hộ và anh Lagiarô nghèo cùng chết, cùng chịu xét xử. Đức Giêsu cho thấy, bản án thật nghiêm khắc: người nghèo vui mừng và đầy tràn hoan lạc, được đem vào lòng Abraham, vui mừng giữa triều thần thánh. Còn nhà phú hộ được đem chôn vào lòng đất (x. Lc 16,22). Mỗi người bằng bắt đầu cuộc sống của mình sau cái chết: người nghèo được tách khỏi thế gian này, anh có thể được cất nhắc lên trời ; người giầu khám phá ra sự hư không của một cuộc đời với những thú vui trần thế.
Thật đáng ngạc nhiên khi tình thế hoàn toàn bị đảo ngược sau khi chết, cuộc đối thoại giữa Abraham và nhà phú hộ khẳng định điều đó: nhà phú hộ đau khổ tột cùng, ông nài xin Lagiarô cho ông một chút nước để làm mát lưỡi. Thật không thể nào hiều nổi một ‘vực thẳm’ ngăn cách, khiến người ta không thể làm được một cử chỉ nào với lòng thương xót. ‘Vực thẳm không thể qua được này’ đề cập đến sự cần thiết phải hoán cải ngay lập tức. Lời Chúa hôm nay thêm một động lực giúp ta thực hành Lời Chúa tuần trước là: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16, 9).
Nhà phú hộ không bị kết án vì của cải của mình, ông bị kết án vì bênh vô cảm, không có khả năng cảm thương đồng loại là Lagiarô, đại diện cho tiếng kêu thầm lặng của người nghèo thuộc mọi thời đại và sự mâu thuẫn của một thế giới, trong đó các của cải và tài nguyên mênh mông nằm trong tay một ít người.
Đây là một bài học đắt giá cho mỗi người chúng ta. Vậy, hãy mở tâm hồn đối với những người đang sống trong tình trạng bấp bênh, đau khổ; những anh chị em bị tước đoạt phẩm giá. Hãy phá vỡ hàng rào của sự dửng dưng lãnh đạm là thái độ đang lan tràn, che đậy sự giả hình và ích kỷ.
Vui mừng thực thi những công việc bác ái về thể lý và tinh thần, “để thức tỉnh lương tâm ngái ngủ của chúng ta trước thảm trạng nghèo đói” và đừng quên rằng “vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái” (lời Thánh Gioan Thánh Giá).
Xin Chúa đánh động trái tim chúng ta, để chúng ta nhận ra những người nghèo khó, rách rưới, đang cần đến miếng cơm của thương xót, chiếc áo của lòng từ bi, che phủ những vết ghẻ chốc, vực dậy và gìn giữ phẩm giá cao quý của con người, và không từ chối giúp đỡ họ. Amen.
Trong đời có lời ca: “Nhà anh nhà em, cách hai đoạn đường dài. Tuy xa mà gần, tuy gần mà TN 26-C180
Trong đời có lời ca: “Nhà anh nhà em, cách hai đoạn đường dài. Tuy xa mà gần, tuy gần mà xa. Rồi còn xa mấy nữa, khi em đi lấy chồng.” Thì ra gần xa không phụ thuộc vào khoảng cách không gian, mà phụ thuộc vào khoảng cách tình yêu. Yêu hay ghét làm nên khoảng cách gần hay xa như lời ca dao: “Yêu nhau xa mấy cũng gần. Ghét nhau cách một bàn chân cũng lìa.”
Phúc Âm tuần này kể khoảng cách không gian giữa ông nhà giàu và Ladarô gần quá, chỉ vài bước chân từ nhà ra cổng, nhưng khoảng cách kinh tế giàu nghèo thì một trời một vực: người ăn chẳng hết, kẻ lần không ra. Người thì ngày ngày phè phỡn yến tiệc linh đình, người thì phờ phạc đói khát thèm chút đồ ăn thừa mà không được. Cảnh tượng phũ phàng đến đau lòng như thế vì ông nhà giàu không động lòng trắc ẩn. Tình ông băng giá, tim ông hóa đá làm cho tình xa. Tình băng giá khiến ông hóa thành người dửng dưng, vô cảm, mặc kệ nó, chỉ có mình. Ông bị “cận thị” nặng chỉ còn nhìn thấy bản thân mình chứ không nhìn thấy tha nhân; chỉ nhìn thấy đời này để hưởng thụ chứ không nhìn thấy đời sau để làm phúc cho đi.
Hậu quả là, chính lối sống thờ ơ vô cảm đã đẩy ông nhà giàu vào vực thẳm vô cùng là hỏa ngục. Tội của ông không phải là làm hại ai nhưng là không làm phúc. Ông rơi vào hỏa ngục không phải vì túi ông nhiều tiền, mà là vì tim ông không có tình thương. Không có tình thương thì không thích hợp với thiên đàng ngập tràn tình thương của Chúa.
Vì thế, rất cần cùng nhau hát lên lời ca: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” để chúng ta biết động lòng trắc ẩn, biết mở lòng quảng đại sẻ chia giúp đỡ trước những cảnh tượng đau lòng, nhờ vậy mà cả người cho lẫn người nhận đều cảm thấy vui lòng khi ở đời này và thỏa lòng mãn nguyện hưởng phúc thiên đàng vĩnh cửu đời sau. Amen.
Dụ ngôn Lazarô và người phú hộ có thể có một ý mà chúng ta không đồng ý, là tại sao Chúa không TN 26-C181
Dụ ngôn Lazarô và người phú hộ có thể có một ý mà chúng ta không đồng ý, là tại sao Chúa không cho người chết hiện về cảnh báo. Chúa Giêsu đặt vào miệng Abraham câu trả lời cho lời van xin của người giàu như sau: “Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!’ Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ Ông nhà giàu nói: ‘Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.’ Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”
Ta không đồng ý, là bởi vì người chết hiện về nói, là hiệu quả chứ! Mô-sê và các ngôn sứ thì xa xưa rồi, chắc họ nói cho ai chứ đâu phải cho mình, còn kẻ chết hiện về, đích thị là nói cho mình, mình tin ngay. Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ. Nay đã thấy quan tài, mà là quan tài sống, tức người chết trong quan tài hiện về nói, chắc phải đổ lệ thôi. Vì nó sờ tới gáy của mình.
Bằng chứng hiện nay, khi nghe tin thấy Đức Mẹ khóc chỗ này, nhỏ lệ chỗ kia, ta ùn ùn kéo tới, vì xem đó như sứ điệp đụng tới ta, sống trong những ngày này. Còn Mẹ hiện ra “năm xưa trên cây sồi” thì là năm xưa rồi, lại còn “làng Fatima xa xôi,” đâu có đụng gì, chạm gì tới gáy của ta đâu. Cho nên cũng là những lời kêu gọi hoán cải năm xưa 1917 của Mẹ Fatima, thì ta không nghe, nhưng nếu nó là giọt lệ hôm nay 2019, ta bị chạm ngay.
Cũng vậy, Mosê thì xưa rồi, ngôn sứ đã quá xa, ta quên hết, nhưng nếu kẻ chết, mới chết thôi hiện về, ta thấy gáy ta lạnh ngay, thay đổi lối sống tức thì. Thay được bao lâu không biết, nhưng chắc chắn là thay.
Nhưng tại sao Chúa không cho người chết hiện về cảnh cáo ? Chắc Ngài cũng có lý do mà ta thử tìm. Dĩ nhiên dụ ngôn người phú hộ và Lazarô không có ý dạy ta về điều này. Điểm chính vẫn là không được sống khép mình lại. Nhưng ta cứ thử tìm xem.
Giả như Chúa cho người chết hiện về. Dụ ngôn giảm nhẹ mức độ, bằng cách chỉ xin cho Lazarô hiện về, chứ nếu muốn hiệu quả, phải chính người phú hộ hiện về: với bộ quần áo rực lửa, thân hình đen đủi đớn đau, mặt phỏng độ chín, thì chắc phải hiệu quả hơn nhiều. Có lẽ người phú hộ đang mặc cả, nếu Chúa cho Lazarô về, ông sẽ nài thêm, “thôi để con về, con biết cách nói cho 5 anh em con hoán cải.” Nhưng xin cho Lazarô về đã không được, nên ông chẳng thể nài thêm.
1. Giả như Chúa cho người chết hiện về, và như chúng ta vừa phân tích, thế nào 5 anh em kia cũng sẽ sợ mà hoán cải. Chúng ta vừa nói chữ gì: “sợ.” Họ sợ hãi và hoán cải. Họ sợ vì họ thấy quan tài, nên phải đổ lệ, chứ nếu không phải Lazarô, và nhất là không phải anh ruột của mình hiện về, chắc chắn họ cũng chưa, cũng không hoán cải đâu, vì chưa lạnh gáy. Khi làm điều gì vì sợ, thì không còn tự do, và vì thế cũng mất giá trị.
Một cô gái yêu chàng trai kia vì sợ, tình yêu đó đâu có giá trị. Chúa chẳng muốn người ta yêu Chúa, chỉ vì sợ hãi. Chúa chẳng muốn người ta tin Chúa, chỉ vì sợ hãi.
Trong một buổi diễn thuyết về tin có Chúa, một cử toạ đứng lên mạnh mẽ tuyên bố: Bằng chứng rõ nhất ‘không có Chúa’ đó là không có một kẻ nào tuyên bố không có Chúa, hoặc tệ hơn nữa, chửi rủa Chúa, mà bị Chúa cho sét đánh chết cả.
Giả như ai nói: “Làm gì có Chúa,” là bị cứng lưỡi 5 phút (phạt cảnh cáo ! phạt vi cảnh !); còn ai cả gan chửi Chúa: Chúa đi chơi đâu rồi mà để tôi bị oan thế này ! Hoặc, Chúa gì mà ác quá vậy, thất thiên thất đức quá ! liền bị Thiên Lôi lôi ngã xuống đất… Thì làm sao ? Rất nhiều người tin vào Chúa, tin có Chúa. Nhưng tin vì sợ chứ không tin vì yêu. Chúa không muốn người ta tin Chúa, yêu Chúa, chỉ vì sợ, chỉ vì không còn con đường nào khác. Chúa đã lỡ dựng nên con người có tự do, thì Chúa cũng tôn trọng tự do của con người, kể cả tự do không tin Chúa, tự do đi vào hoả ngục.
Vậy là ta tạm tìm lý do, tại sao Chúa không cho kẻ chết hiện về cảnh cáo người sống, vì Chúa không muốn người ta hoán cải chỉ vì sợ hãi.
2. Tuy nhiên, cũng có thể nương theo lý luận của dụ ngôn, rằng kẻ chết có về, họ cũng chẳng sợ. Ta thử đưa một ví dụ:
Ai chẳng biết hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ. Hoặc mạnh hơn, ma tuý là kẻ giết người. Ấy vậy mà vẫn cứ lao vào. Nếu bạn mình chết vì hút thuốc, tử vì nàng tiên nâu, thì mình sợ, bỏ vài bữa, hay hơn nữa là bỏ nửa tháng, rồi lại lăn bừa vào lại ngay. Cho nên làm vì sợ, không vững bền ; và trên bình diện Đạo, làm vì sợ, yêu vì sợ chẳng có giá trị gì.
Dụ ngôn từ chối cho người chết trở về cảnh báo, bằng cách đưa ra câu trả lời: “Chúng đã có Mô-sê và các ngôn sứ, chúng cứ nghe lời các vị đó”. Vâng, người ta luôn luôn đòi một dấu chỉ khác thường. Ta hãy nghe Phúc Âm thuật: “Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để chúng tôi tin”… “Ông hãy gieo mình từ nóc đền thờ xuống đi.” “Ông hãy xuống khỏi thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa” Chúng tôi tin liền ! Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào những phép lạ và những lần hiện ra. Người giầu xin cho Ladarô hiện về. Thế nhưng, sự sống lại của Ladarô bằng xương bằng thịt, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania không những không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà con thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (x. Ga 11,45-53), và cả loại trừ Lazarô nữa ! (x. Ga 12, 10) Lazarô là người chết sống lại đó, có ai sợ đâu.
Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền, mà là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Chúa (lời Maisen và các ngôn sứ).
Có thể có người trong chúng ta cảm thấy khó chịu khi lời phú ông xin cho anh em được cảnh cáo lại bị từ chối. Nhưng sự thật hiển nhiên là nếu người ta đã nắm được chân lý của lời Thiên Chúa, và nếu ở ngay trước mắt họ có kẻ buồn rầu cần an ủi, có kẻ thiếu thốn cần trợ giúp, có kẻ đau khổ cần giúp đỡ, song họ không động lòng và không làm gì hết, thì không còn gì khác để thay đổi lòng họ. Cuộc đối thoại giữa người giàu đau khổ và cụ tổ Áp-ra-ham là nét nổi bật linh động để ghi sâu vào lòng thính giả giáo huấn Chúa dậy qua dụ ngôn: Hỏa ngục là thế giới của ghen ghét, không có chỗ nào cho cảm thương tha nhân ; trong hoả ngục chỉ có thù ghét ngự trị. Khi Áp-ra-ham nói với người giàu: “Giữa chúng tôi đây và các con có cả một vực thẳm lớn,” Cụ muốn nói sau khi chết và sống lại thì không còn ăn năn nào nữa. Những kẻ dữ sẽ không ăn năn và đi vào Nước Chúa ; người lành không phạm tội và không sa xuống hỏa ngục được, một vực thẳm lớn không thể vượt qua mà !
Chúng ta sẽ hiểu hơn với lời giải thích dụ ngôn Lazarô và phú hộ của thánh Gio-an Kim Khẩu qua lời van xin của thánh nhân: “Tôi xin anh em, quỳ xuống chân anh em mà nài xin, anh em hãy ăn năn, hãy sám hối mà trở về với Chúa, hãy sống tốt lành hơn, trong khi chúng ta còn hưởng được quãng thời gian vắn này, để chúng ta không phải than khóc cách vô ích như người giàu kia khi chúng ta chết, và khi mà những tiếng khóc than chẳng đem lại một an ủi nào. Vì ngay cả khi chúng ta có một người cha, người con, một người bạn hay bất cứ một nhân vật nào đi nữa có thế giá bên cạnh Chúa, không ai có thể giải cứu chúng ta khỏi những hành động của chúng ta, chính chúng ta kết án chúng ta.”
Có một danh ngôn khá hay: “Việc lành làm suốt đời không đủ, việc dữ làm giây lát đã dư.” Đó là cách hay nhất để chúng ta khỏi phải nài xin và nài xin vô ích cho ta hiện về cảnh báo anh em ta.
Trong dụ ngôn Phú hộ và Lazarô, Chúa Giêsu kể: Người nghèo Lazarô kết thúc cuộc đời được TN 26-C182
Trong dụ ngôn Phú hộ và Lazarô, Chúa Giêsu kể: Người nghèo Lazarô kết thúc cuộc đời được tổ phụ Abraham bồng ẵm về thiên đàng, còn ông phú hộ lại bị hành hình trong hỏa ngục.
Chắc chắn Chúa không có ý dạy rằng: Tất cả người giàu đều có tội, còn tất cả những người nghèo đều được cứu. Cũng không phải sự giàu làm cho người ta phải sa hỏa ngục, còn người nghèo đương nhiên vào thiên đàng. Đúng hơn, tất cả mọi người đều được mời gọi sống ơn gọi nên thánh theo mẫu gương thánh thiện của Chúa Kitô.
Người phú hộ sở dĩ phải chịu cực hình trong hỏa ngục, phải trầm luân muôn kiếp, không do ông giàu, không vì ông ăn uống thoải mái. Nhưng ông bị mất sự sống, mất ơn nghĩa với Chúa đời đời, vì ông không biết cho đi, không biết san sẻ. Ông làm ngơ trước người anh em của ông đang đau khổ. Ông không nhìn người nghèo ngay bên thềm nhà ông bằng cái nhìn yêu thương, quan tâm. Thậm chí, ông còn không mảy may một chút để ý gì đến người nghèo ấy, ngược lại còn yến tiệc linh đình, hết sức vô tâm, vô tình, vô nhân ngay bên cạnh sự nghèo khổ, đói rách của người anh em mình.
Như vậy, khi kể dụ ngôn người phú hộ và Lazarô nghèo khó, Chúa không nhằm đe dọa người giàu về sự giàu của họ, cũng không cho phép người nghèo ỷ lại vào tình thương của Chúa mà không lo cố gắng sống đời hoàn thiện.
Một mặt, Chúa thương người nghèo. Chúa chúc lành cho sự nghèo khó. Nhưng mặt khác, Chúa cũng chúc lành cho tất cả những ai có tinh thần nghèo khó. Vì tinh thần này mà dù nghèo hay giàu, con người phải vượt lên trên của cải, vượt lên trên thói tham lam, sự ham mê vật chất của mình mà sống bác ái, sống khiêm nhường, rèn giũa đời sống cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng….
Do đó, Điều quan trọng trong sứ điệp của Chúa hôm nay là: Chúa cảnh báo sự nguy hiểm trong việc sử dụng tiền của. Đừng tham lam, đừng sống ích kỷ, đừng xem vật chất là mục đích, nhưng hãy phó thác đời mình trong tay Chúa.
Hãy mở rộng bàn tay để sống bác ái. Chúng ta không giàu đến nỗi có thể cho mọi thứ. Chúng ta cũng không nghèo đến nỗi không có bất cứ cái gì để cho. Hãy thiết lập lòng bác ái nơi tâm hồn, để khi tâm hồn có đức bác ái, nhân đức này sẽ dạy ta biết phải cho gì, dù ta nghèo hay ta giàu.
Hãy cho bằng cả tấm lòng. Hãy giúp đỡ những anh chị em túng thiếu, bệnh tật, đau buồn, bị bỏ rơi, bị từ chối tình yêu, bị đói khát tình người, bị khinh thường, bị ngược đãi, bị tù đày, bị xã hội chê cười, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp mất danh dự và nhân phẩm…
Ta có thể cho anh chị em mình tiền của, nhà cửa, mọi thứ vật chất cần thiết. Nhưng đâu nhất thiết phải có tiền, có của, có vật chất mà thôi. Mọi người đều có thể cho nhau niềm cảm thông, lòng yêu mến, sự tha thứ, sự chia sới tinh thần, sự đồng cảm… Ta có thể cho cả trái tim, cho cả đôi tay, cho cả con người, thậm chí cả cuộc đời của mình.
Chúa đâu chỉ đong đo tình cảm của ta, lòng bác ái của ta qua vật chất. Người nhìn thấy lòng ta, Người thấu suốt tâm tư ta. Chúa đòi phải sống thật, phả bác ái thật, phải yêu thương thật.
Sẽ có một ngày từng người phải ra khỏi cuộc đời, phải trình diện trước tôn nhan và sự công thẳng của Chúa, rồi sau đó mới bước vào một thế giới mới. Giấy thông hành cho chuyến đi này không là tiền của, không là vật chất mà mình đã cố công cả một đời xây đắp, nhưng là tình yêu, lòng bác ái, là sự rộng lượng của bản thân.
Nhân suy niệm về hai hình ảnh tương phản trong Tin Mừng hôm nay: Người nghèo Lazarô được Chúa ân thưởng nơi lòng Tổ phụ Apraham và người phú hộ bị trầm luân đời đời, chúng ta hãy nghe lại lời phát biểu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân cuộc thăm viếng nước Mỹ ngày 2.10.1979, mà suy nghĩ về đời sống bác ái của ta:
“Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta, nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo Lazarô của thế kỷ XX vẫn còn đang đứng chờ ngoài cửa… Chúng ta hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình của mình”.
Hãy lắng nghe và sống giáo lý của Chúa, để mai ngày, dù giàu hay nghèo, khi đi qua khỏi chốn trần ai, ta được đưa vào lòng Tổ Phụ Abraham, như hình ảnh người ngèo Lazarô trong dụ ngôn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống quảng đại. Biết yêu thương như là bổn phận trên hết mọi bổn phận trong đời Kitô hữu của chúng con. Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, vì nhiều lần, chúng con đã làm ngơ trước những anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng con. Xin cho chúng con từ đây, biết quyết tâm thực hành đức bác ái một cách nghiêm túc như Chúa dạy. Amen.
Dụ ngôn nhà phú hộ không biết tên và người nghèo khó tên là Lazarô cho thấy cuộc sống hiện tại TN 26-C183
Dụ ngôn nhà phú hộ không biết tên và người nghèo khó tên là Lazarô cho thấy cuộc sống hiện tại ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống mai hậu. Trường hợp nhà phú hộ và người nghèo thì cuộc sống đời này, và đời sau hoàn toàn đổi ngược. Anh nghèo trở nên giầu có trong nước trời. Anh giầu tình Chúa mến thương. Được Chúa đón nhận vào nước trời. Còn người giầu lại trở nên khốn khó. Anh bị xua đuổi và anh sống trong đau khổ tột cùng vì cuộc sống của anh không phải chỉ thiếu tình thương Chúa, mà chính là hoàn toàn vắng bóng tình thương Chúa. Cuộc sống không tình thương là cuộc sống buồn nản, cô độc và tuyệt vọng. Muốn chết cũng không thể chết được. Dụ ngôn cho biết cuộc sống mai hậu không phải chỉ thay đổi cuộc sống hiện tại, mà còn thay đổi cả í nghĩa của giầu sang, nghèo hèn. Giầu và nghèo trong nước Chúa hoàn toàn khác với giầu nghèo theo nghĩa thông thường chúng ta hiểu. Giầu nghèo trong nước Chúa chính là giầu tình thương, lòng mến của Thiên Chúa. Điều này Thiên Chúa ban riêng cho từng cá nhân. Không cá nhân nào có thể san sẻ cho cá nhân khác, ngay cả cho người thân; cũng như không cá nhân nào có thể đánh cắp được ân sủng này, bởi có Chúa làm bảo chứng cho ân sủng của Ngài.
Giầu có trên trần gian có thể hiểu là đặc ân Chúa ban. Không phải vì đặc ân này mà cá nhân người đó bị án phạt sau khi qua đời, mà chính là cách cá nhân đó xử dụng đặc ân Chúa ban như thế nào? Cuộc sống trường sinh ảnh hưởng rất nhiều vào cách cá nhân người đó xử dụng đặc ân Chúa ban khi còn sống. Con người cần í thức là tất cả những gì ta hiện có đều đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban cho. Chúng ta chỉ là người quản lí của cải, tài năng Chúa đặt vào tay ta. Chúng ta không phải là chủ nhân của những gì chúng ta đang có. Chúng ta là người quản lí coi sóc của cải vật chất Chúa ban. Bởi là quản lí nên cần chia sẻ vật chất đó cho tha nhân. Nhận thức mình là người quản lí là điều tối quan trọng trong việc phân chia của cải Chúa trao ban cho ta cầm giữ. Sau khi qua đời người quản lí bị phán đoán, xét xử dựa trên việc thi hành đúng đắn trách nhiệm quản lí lúc còn tại thế. Là quản lí tốt lành sẽ được tình thương Chúa, là quản lí vô trách nhiệm sẽ bị tước hết tình thương Chúa và đó là cuộc sống của người giầu có trong dụ ngôn. Bài giảng trên núi (Mat 5) và ngày dụ ngôn Phán Xét (Mat 25,31-46) cho biết ai giúp đỡ, yêu thương tha nhân chính là đón tiếp, giúp đỡ Đức Kitô. Người quản lí khôn ngoan, làm tròn trách nhiệm là người biết dùng của cải, vật chất, chức tước Chúa ban để làm ơn, giáng phúc cho tha nhân. Đó là cách làm giầu trước mặt Chúa và điều này nằm trong tầm tay của mỗi cá nhân. Sau khi hoàn tất hành trình dương thế, Chúa đong đầy đời họ với tình thương Ngài.
Dụ ngôn đưa ra hai cách sống hoàn toàn trái ngược. Người giầu yến tiệc linh đình, mặc gấm vóc; anh nghèo đói khổ triền miên, khi ngủ bao tử rỗng, bạn của anh là chó hoang. Anh sống không xa, ngay ngoài cánh cổng nhà phú hộ. Cả hai đều chết. Người giầu chết, không rõ lí do. Người nghèo chết có thể vì đói, dơ bẩn gây nên bệnh tật. Cả hai đến trước mặt Chúa. Người nghèo khó được Chúa đón nhận, người giầu bị tổ phụ Abraham xua đuổi. Trong đau khổ, người giầu hai lần van xin và cả hai lần đều bị từ chối. Lần thứ nhất tổ phụ Abraham nói giữa anh và người nghèo có khoảng cách ngàn trùng. Khoảng cách này do chính anh tạo thành khi còn sống. Chỉ cách nhau một cánh cổng mà hai cuộc sống khác biệt. Lần thứ hai tổ phụ Abraham đáp nếu thân nhân anh không nghe lời tổ phụ và các vị vọng, tiên tri thì lời thường dân đâu đáng họ để tai.
Dụ ngôn xác định rõ mỗi cá nhân sẽ lãnh nhận phần thưởng đời sau tuỳ vào cách hành xử của người đó với tha nhân. Tốt lành với tha nhân sẽ nhận ân sủng, tình thương Chúa. Chối bỏ tha nhân, khinh thường tha nhân sẽ bị Chúa chối từ bởi đời họ thiếu kinh nghiệm ban phát tình thương. Lời Đức Kitô rao giảng hết sức rõ ràng. Đó là mến Chúa, yêu người. Mến Chúa, yêu người là sứ mạng của Chính Đức Kitô và cũng là sứ mạng của mỗi chúng ta. Tiên tri Isaiah 61,1-12 đã mặc khải rõ khi ngài nói: Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi, sai tôi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Sứ mạng trần gian của mỗi chúng ta là mang tin mừng cho tha nhân. Giầu có nơi trần gian không bảo đảm giầu có trong nước Chúa, trừ khi người đó biết phân phát, làm tròn trách nhiệm quản lí Chúa trao. Ai cũng biết khi chết ra đi hai bàn tay trắng, nhưng mấy ai đủ can đảm chia sẻ của cải cho tha nhân khi sức còn dư, lực còn thừa, tinh thần còn minh mẫn và trí còn thông suốt. Cơn cám dỗ dựa vào sức mạnh vật chất lớn nhất trong các cơn cám dỗ. Người có can đảm từ chối đó đáng lãnh phần thưởng gia nghiệp Chúa ban.
Không nhận được tình thương của người phú hộ, anh nghèo Lazaro sống cuộc sống âm thầm. Trong thầm lặng anh đặt trọn niềm tin vào Chúa, hy vọng ngày mai sẽ tươi sáng. Anh không nhận được hy vọng đời này, nhưng chết trong hy vọng. Thiên Chúa biến hy vọng đời này thành hiện thực đời sau. Đời anh tươi sáng, sống hạnh phúc. Câu tâm niệm của chúng ta tuần này là:
Đức Kitô trở nên nghèo khó cho chúng ta giầu có trong Ngài 2 Cor.8,9.
Bệnh vô cảm” được hiểu là một trạng thái tinh thần mà ở đó, con người không nảy sinh những cảm TN 26-C184
“Bệnh vô cảm” được hiểu là một trạng thái tinh thần mà ở đó, con người không nảy sinh những cảm xúc đối với những sự vật, sự việc diễn ra xung quanh mình, những nỗi buồn, nỗi đau, sự mất mát, thiệt thòi của đồng loại ”. Vô cảm còn là con đường trực tiếp dẫn đến những cái xấu, cái ác. Nó là một căn bệnh lâm sàng mà trong đó, não của người bệnh vẫn hoạt động nhưng trái tim lại hoàn toàn băng giá. Người ta đã vô cảm thì làm sao có thể thấu hiểu được nỗi đau, người ta chỉ nghĩ đến mình và lợi ích của riêng mình mà thôi. Những người sống vô cảm thường chỉ bo bo nghĩ đến lợi ích của riêng mình với tâm niệm “đèn nhà ai nhà nấy rạng”. Những kẻ sống vô cảm thậm chí còn lạnh lùng, nhẫn tâm gieo rắc nỗi đau cho người khác mà không mảy may động lòng trắc ẩn.
Hiện nay, cả nước Việt Nam vẫn đang sôi sục căn phẫn, trước thương vụ “thuốc ung thư giả vn pharma” của một số kẻ vô tâm, vô cảm, mất hết lương tri. Họ đang tâm làm giả giấy tờ, đút lót cho những kẻ có quyền để nhập thuốc giả, thông đồng với các bệnh viện để tuồn thuốc giả bán cho bệnh nhân ung thư với giá cắt cổ. Người mang căn bệnh ung thư, thật là vô cùng đau đớn, tiền ăn không có, đến miếng ăn cũng phải nhờ vào các nhà hảo tâm giúp đỡ, dốc hết tiền của để chữa bệnh. Thế mà họ phải bỏ tiền ra mua thuốc giả của những kẻ vô cảm, với hy vọng đẩy lùi căn bệnh nan y, hoặc được giảm bớt đau đớn.
Mới đây nhất là báo tintuc.vn, ngày 26/9/2019 đã đưa tin về “vụ ‘ăn’ hàng từ thiện: Tuồn hàng qua hai cổng bí mật” Vụ việc nhiều cán bộ, nhân viên đang công tác tại Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ tàn tật Hà Nội (địa chỉ tại xã Thụy An, huyện Ba Vì, TP Hà Nội) thường xuyên tuồn hàng từ thiện do các cá nhân, tổ chức trao tặng ra ngoài đang khiến dư luận xôn xao. https://tintuc.vn/vu-an-hang-tu-thien-tuon-hang-qua-hai-cong-bi-mat-post1197674. Những người nghèo khổ, tàn tật nằm co quắp, miệng thì ú ớ không nói nên lời, những người già cả không nơi nương tựa, họ là những người bần cùng nhất của xã hội, bần cùng của sự đau khổ, bần cùng của nỗi cô đơn. Thế mà những kẻ được gọi là cán bộ, nhân viên của “Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ tàn tật”, “mạng danh hội chữ thật đỏ”, đúng ra họ phải là những người có tâm nhất, biết yêu thương và đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh nhất, Thị họ lại chính là những kẻ vô tâm nhất, vô cảm nhất, vô nhân tính nhất, đã ăn bớt, ăn xén, ăn chặn, ăn cắp phần của những người cùng khổ để chỉ lo cho mình và gia đình mình.
Bài Tin Mừng hôm này Chúa Giêsu cũng chỉ ra cho chúng ta thấy sự vô cảm của con người đối với nhau. Qua dụ ngôn “ông nhà giàu và La-da-rô nghèo khó”. Chúa Giêsu đã mô tả một câu chuyện thật sinh động:“Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”. (Lc 16, 19-21)
Dụ ngôn nói về sự vô cảm của ông nhà giàu không nhìn thấy nỗi thống khổ cùng cực của La-da-rô. Người giàu thì sống sa hoa, từ hình thức ăn mặc, vui chơi giải trí, tiện nghi, họ sống tách biệt khỏi thế giới của người nghèo, họ vô cảm với nỗi thống khổ cùng cực của người khác: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19). Ông ta không quan tâm, cũng chẳng thèm để ý tới sự hiện diện của La-da-rô trước cửa nhà mình. Ông ta chỉ quan tâm xem hôm nay mình ăn thứ gì, mặc gì, ông ta đã hoàn toàn vô cảm.
“Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc 16, 20-21). La-da-rô bệnh tật, nghèo khó không có tiền để chữa trị, không có gì để ăn, nên phải đi ăn xin, mong chờ vào những của bố thí, anh đến trước cổng của ông nhà giàu, mong được ông ta bố thí chút gì đó ăn cho đỡ đói: “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” (Lc 16, 21), nhưng mà không được, thật là một tình trạng vô cùng bi đát. La-da-rô nằm đó nhưng ông nhà giàu đâu có quan tâm, chỉ có những con chó quan tâm đến tình trạng khốn khổ của anh mà thôi “Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta” (Lc 16,21b). Nói đến cách đối xử thì ông nhà giàu không bằng những con chó, mấy con chó nó biết quan tâm hơn, nó đến liếm chỗ ghẻ chốc giúp cho La-da-rô đỡ ngứa để yên ủi anh.
Sau khi chết thì tình thế đảo ngược “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16,22). La-da-rô thì được các thiên thần đón về nơi hạnh phúc vĩnh hằng cùng với tổ phụ Áp-ra-ham, các ngôn sứ và những người lành thánh khi sông ở thế gian biết yêu thương, quan tâm đến người đồng loại. Ngược lại, sau khi chết ông nhà giàu được người ta đem chôn. Hành động “người ta đem chôn” tác giả muốn nói người ta đem chôn vùi xuống tận đáy vực sâu cái con người vô cảm chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm đến người khác, chôn đi cái sự vô cảm, thờ ơ trước nỗi thống khổ của đồng loại.
Dưới âm phủ, ông ta phải chịu cực hình, nóng bức vì bị lửa thiêu đốt. Ông ta ngước mắt lên nhìn thấy La-da-rô trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham. Ông ta kêu xin với tổ phụ Áp-ra-ham, chỉ xin nhúng ngón tay vào nước để nhỏ xuống làm cho mát lưỡi thôi, nhưng đã bị từ chối. Áp-ra-ham trả lời: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi…. “Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,26). Vực thẳm này do chính ông đào xâu xuống, bức tường này chính tay ông dựng nên và làm cho nó kiên cố, để sống tách biệt khỏi thế giới của người nghèo. Lúc này ông phải chịu cảnh nghèo khổ cùng cực, mà không thể đến được với thế giới của người khác. Thế giới của những người biết yêu thương, quan tâm đến người đồng loại, đang được hưởng hạnh phúc thanh nhàn vui vẻ.
Nhiều người muốn biết ông nhà giàu đó phạm tội gì mà đến nỗi phải sa hỏa ngục, trong Kinh Thánh chỉ nói là “ông nhà giàu” thôi không thấy nói đến tội tham ô, hối lộ, không có thấy nói tội vơ vét, bóc lột dân nghèo, không nói đến tội buôn gian bán lận, không nói đến tội cho vay nặng lãi, cũng chẳng nói đến tội vay không trả… Kinh Thánh chỉ nói đến lối sống vô cảm, thờ ơ không biết quan tâm, đến người đồng loại nhất là những người nghèo khổ. Tội của ông nhà giàu là vô cảm với La-da-rô nằm trước cổng nhà ông.
Căn bệnh vô cảm đang hoành hành ở mọi thời và mọi nơi, làm cho con người thờ ơ lạnh nhạt với nhau, không quan tâm, không để ý, không nhìn thấy, không nghe thấy, không mảy may động lòng trắc ẩn trước tiếng kêu la rên siết, trước nỗi thống khổ của anh em đồng loại.
Hiến chế về Mục vụ “Gaudium et Spes” (số 69) đã lý giải về tiền của: “Của cải trần gian là để TN 26-C185
Hiến chế về Mục vụ “Gaudium et Spes” (số 69) đã lý giải về tiền của: “Của cải trần gian là để cho mọi người hưởng dụng. Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật trên trái đất thuộc quyền sử dụng của mọi người và mọi dân tộc. Chính vì thế, của cải được tạo dựng phải được phân phối cho tất cả mọi người một cách hợp lý theo luật công bằng là luật đi liền với bác ái. Dù chấp nhận bất cứ hình thức tư hữu nào đã được nhìn nhận bằng các định chế hợp pháp của các dân tộc, tuy nhiên tùy theo hoàn cảnh khác biệt và thay đổi, phải luôn luôn lưu ý đến mục đích chung hưởng của cải. Vì thế, khi sử dụng của cải, con người phải coi của cải vật chất mà mình làm chủ một cách chính đáng không chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó có thể sinh ích không những cho riêng mình mà còn cho cả người khác. Vả lại, mọi người đều có quyền có một phần của cải đầy đủ cho mình và cho gia đình mình.”
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVI/TN-C – Lc 16, 19-31) cũng đề cập tới vấn đề tiền của trong dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó”. Nhìn cảnh ông nhà giàu “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, ăn chơi phè phỡn, chẳng bao giờ thèm ngó đến anh La-da-rô “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”; thấy quả thật ngay từ thời xưa đã có cảnh “Giàu sơn lâm lắm kẻ tìm, khó giữa chợ ít người hỏi”, “trọng phú khinh bần” (trọng giàu khinh nghèo). Cho tới khi “lên xe hoa” về âm phủ, ông nhà giàu mới “bừng con mắt dậy” thấy anh nghèo kiết xác La-da-rô đang nằm trong lòng tổ phụ Ap-ra-ham.
Và chỉ đến lúc ấy, ông ta mới khẩn thiết kêu xin tổ phụ cứu vớt. Tổ phụ cũng chịu thua vì ông nhà giàu đã tự đưa mình vào án phạt đời đời ấy. Cuối cùng, ông ta nhớ đến những người thân cận còn ở trần thế và thưa với tổ phụ xin nhờ anh La-da-rô về cảnh báo họ đừng theo gương mù của ông ta. Thật thú vị khi được nghe lời tổ phụ Ap-ra-ham nói với ông nhà giàu: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Không còn câu nói nào đánh trúng tim đen những đại gia giàu sụ hơn được nữa. Quả thực “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Như vậy, phải chăng giàu là một cái tội? Và nếu giàu là có tội thì nghèo hẳn là có phúc? Tại sao lại thế?
Trước hết, nói về những người giàu có. Kể từ khi Nguyên Tổ phạm tội, bị tội lỗi thống trị, thì con người sống trên đời có đủ “tham sân si”, mà “tham” là đầu sỏ: “Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê” (Truyện Kiều); “tham vàng phụ nghĩa” (tục ngữ VN). Lòng tham vốn dĩ không đáy, có 1 thì lại muốn có 2, có 3 có 4 thì lại đòi có 5 có 10, không biết thế nào là cùng. Từ đó, nếu chỉ làm giàu bằng cách thật thà, chân chính mà không toại nguyện, sẽ đi đến chỗ làm giàu bằng mọi cách, bất chấp thủ đoạn, miễn sao “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Kiều) là đủ. Đã làm giàu bằng cách bất chính như thế, tất nhiên sẽ sử dụng tiền của không trung thực, chỉ lo sung sướng phè phỡn bản thân mà bất cần nghĩ đến ai khác. Với tấm lòng chỉ nghĩ đến bản thân, hà tiện đức ái như vậy, tất sẽ mắc tội thứ hai và thứ năm trong “bảy mối tội đầu” (“Thứ hai rộng rãi chớ hà tiện… Thứ năm kiêng bớt chớ mê ăn uống.”). Giàu như vậy, chắc chắn là có tội.
Còn nếu biết dùng những phương cách chân chính mà kiếm được nhiều tiền của, và khi sử dụng những tiền của ấy thì biết cách sử dụng, coi nó chỉ là phương tiện giúp ích cho đời sống, chớ không coi nó như một ông chủ, thì chắc chắn là không có tội. Không những thế, khi sử dụng những tiền của do tự mình làm ra mà không xa hoa phung phí, không phè phỡn phô trương, của cải dư thừa thì nhớ đến những anh em bất hạnh hơn mình, nghèo khổ hơn mình… mà chia sẻ từng miếng cơm manh áo, thì hẳn nhiên sẽ là người có phúc. Cụ thể là: phúc thứ nhất (“có lòng khó khăn”) và phúc thứ năm (“thương xót người”) trong “8 mối phúc”.
Ngay như tổ phụ Ap-ra-ham, hoặc ông Gia-cóp đều là những người giàu có. Tổ phụ Áp-ra-ham thì: “Ông Áp-ra-ham rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc” (St 13, 2). Con của ngài là I-xa-ac thì: “trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể” (St 26, 13). Còn ông Gia-cóp cũng làm giàu và “Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa”. (St 30, 43). Vậy mà các ngài đều được hưởng phúc vinh trên Thiên quốc, điều đó cho thấy giàu có không phải là có tội, mà trái lại, còn là mối phúc nữa.
Còn nghèo cỡ anh La-da-rô trong bài Tin Mừng, nghèo mà có được cái tâm hướng thiện, biết sống đức khó nghèo, đương nhiên là được hưởng phúc. Nhưng như thế vẫn không có nghĩa là tất cả những người nghèo đều có phúc. Bởi trò đời thường hay “bần cùng sinh đạo tặc” (nghèo quá hoá trộm cướp), rồi từ chỗ gian lận, lường thưng tráo đấu, đi đến chỗ cướp của giết người cũng chẳng còn bao xa. Ấy là chưa kể còn chán vạn người nghèo vật chất, mà còn nghèo đến độ keo kiệt bủn xỉn luôn cả về tinh thần, như anh chàng đầy tớ trong dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18, 23-36). Nợ nhà vua tới mười ngàn yến vàng, mà biết quỳ lạy xin khất, vẫn được nhà vua tha luôn món nợ kếch sù. Trong khi đó, đối với người bạn chỉ mắc nợ mình có 100 quan tiền, bạn đã sấp mình xuống xin khất, mà vẫn không tha, còn tống vào ngục tối cho đến khi trả hết nợ mới thôi. Thế đấy!
Hoá cho nên giàu cũng chưa hẳn là có tội, mà nghèo cũng chưa hẳn là có phúc. Ăn thua là ở chính cái tâm địa con người, giàu mà có thiện tâm thì vẫn được hưởng phúc, nghèo mà có ác tâm thì vẫn mắc tội như thường. Nói là nói vậy thôi, chớ còn kiếm được cái thiện tâm trong thế giới người giàu còn khó hơn cả mò kim đáy biển. Và cũng vì thế nên “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Cũng đã có những vấn nạn: Ngày nào cũng thấy đọc “xin Cha cho chúng con rầy hàng ngày dùng đủ” (“xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”); rồi khi đọc bài ca “Ngợi khen” lại thấy “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (kinh Magnificat – Lc 1, 53); vậy mà không hiểu sao người nghèo vẫn đầy rẫy, nghèo vẫn cứ nghèo, nghèo đến độ không có củ khoai, củ chuối để mà ăn. Trong khi đó, người giàu vẫn cứ giàu thêm lên, giàu nứt đố nổ vách. Sao lạ vậy?
Vấn nạn mới nghe qua cứ tưởng là hữu lý, nhưng xét cho cùng, thì sẽ thấy: Lương thực Chúa ban cũng giống như mưa trời rải đều khắp nơi. Muốn có nước mưa dùng, thì ít nhất cũng phải biết sắm cái chum, cái vại, đào cái ao, cái hồ, xây cái bể, cái máng, để chứa nước mưa. Hoặc giả, lười đến độ cứ “há miệng chờ sung rụng”, thì ít ra cũng phải bò, phải lết đến gốc cây sung rồi há miệng ra, chớ chẳng lẽ cứ nằm im một chỗ chờ sung bò đến tận miệng sao? Tất nhiên “Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho” (ca dao VN). Còn câu trích trong kinh Magnificat (-nt-), thì phải hiểu “của đầy dư” chính là của cải Nước Trời, và “đuổi về tay trắng” không có nghĩa là lột hết của cải trần thế của những người giàu, mà là giàu có ở trần thế sẽ gánh hậu quả “tay trắng” trên Thiên quốc. Vẫn còn đó cảnh “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, Chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì” (Ca dao tục ngữ Việt Nam).
Chung quy, người giàu mà biết thu tích của cải Nước Trời bằng cách “bán hết của cải mà chia cho người nghèo” (Mt 19, 21), người nghèo mà biết làm giàu bằng cách tu nhân tích đức, thì tất nhiên phần thưởng dành cho họ sẽ không phân biệt giàu nghèo nơi trần thế, mà là sự giàu có hạnh phúc nơi Thiên quốc. Nói cách khác, dù giàu hay nghèo về vật chất mà vẫn biết cách làm giàu về đường tinh thần (giàu thiện tâm, giàu lòng bác ái) thì chẳng lo chi không được hưởng sự sang giàu nơi Quê Trời vĩnh cửu. Cái hình ảnh đáng ghi nhớ nhất trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó” chính là hình ảnh anh nghèo kiết xác La-da-rô trong lòng Tổ phụ giàu có Ap-ra-ham nơi cõi phúc.
Ôi! Lạy Chúa! Nếu con được Chúa ban cho của cải nơi trần thế, thì xin Chúa cũng ban dũng khí và can đảm cho con sống theo gương Tổ phụ Ap-ra-ham, sống tinh thần nghèo khó là biết đem những của cải dư thừa phù du ấy gửi vào ngân hàng Nước Trời, đầu tư vào những công trình thiện ích mà Chúa đã làm và đã dạy con thực hiện. Còn nếu Chúa thử thách con trong hoàn cảnh nghèo khó, thì xin Chúa cũng ban Thần Khí cho con để con có đủ nghị lực và kiên tâm sống như anh La-da-rô trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ôi! “Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả; xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi, chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XXVI/TN-C).
Người công giáo không tin có quả báo, nhưng họ xác tín vào lời giáo huấn của Chúa: “Anh em TN 26-C186
Người công giáo không tin có quả báo, nhưng họ xác tín vào lời giáo huấn của Chúa: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Một người suốt đời cố gắng để gieo hạt nhân ái yêu thương sẽ gặt được sự bình an thân thiện. Người nhà giàu được nói đến trong Tin Mừng hôm nay được diễn tả như một người sung sướng đầy đủ về vật chất. Ông không có tội vì ông giàu có. Ông đáng trách vì ông thờ ơ với người nghèo đang sống xung quanh và vì ông tưởng rằng vật chất của cái là cùng đích, là cứu cánh của đời người. Xin được so sánh bài Tin Mừng hôm nay với hai hồi của một vở kịch. Hai nhân vật chính là người nhà giàu và anh Ladarô nghèo khổ. Hai nhân vật này thay đổi vị trí cho nhau trong hai hồi kịch này:
Hồi 1: Người nhà giàu đầy đủ mọi sự, xung quanh đầy của cải, mặc áo lụa là gấm vóc sang trọng. Anh Ladarô nghèo khó thiếu thốn, trên mình chỉ có ghẻ lở, chỉ mong có của ăn rơi rớt cũng chẳng ai cho.
Hồi 2: Ladarô được ở trong lòng ông Abraham là Tổ phụ của dân Do Thái, tức là được hạnh phúc vinh quang. Người nhà giàu phải chịu cực hình khốn khổ, chỉ mong có Ladarô nhúng ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi cho mát mà cũng chẳng được.
Tác giả còn ý nhị với chúng ta rằng người nhà giàu rất nhiều của cải, phè phỡn ăn chơi, ấy thế mà ông không có lấy một cái tên. Tên là điều đơn giản nhất và là điều ai cũng có khi bước vào đời. Tên của một người khẳng định người đó hiện hữu và có một vị trí nhất định trong cuộc đời này, đồng thời cũng để phân biệt với người xung quanh. Người nhà giàu có nhiều của cải, nhưng vì không có tên, nên dường như ông ta không hiện hữu. Tên tuổi của ông nhà giàu không được người xung quanh biết đến vì ông coi thường mọi người và chẳng tiếp xúc với ai. Tên tuổi của ông cũng không được lưu danh cho hậu thế, vì ông chẳng có gì đáng kể cho đời. Qua cách trình bày của mình, tác giả cũng muốn nêu vấn đề ở mức mâu thuẫn oái oăm: một ông tỷ phú trước đây giàu có thế, bây giờ phải đi xin người ăn mày. Thế mới rõ ở đời chẳng biết đâu mà lường, người giàu người nghèo bỗng chốc đổi vị trí cho nhau.
Dưới ngòi bút của Thánh Luca, quan niệm giàu nghèo rất đa dạng và phong phú, khác với quan niệm thông thường của chúng ta. Người có của cải đầy kho mà ích kỷ khư khư giữ lấy cho mình thì người đó là một người nghèo chứ không phải người giàu. Họ nghèo vì không có tấm lòng. Họ sống ích kỷ dửng dưng trước nỗi thống khổ của tha nhân. Đương nhiên, Chúa Giêsu không tôn vinh Ladarô vì ông ta nghèo. Chúa cũng không kêu gọi chúng ta tìm sống thân phận nghèo như ông ta. Nội dung giáo huấn của Chúa mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến người khác bằng sự chia sẻ cảm thông và giúp đỡ.
Thời nào cũng có những người như ông phú hộ được nêu trong Tin Mừng. Từ thời xa xưa, ngôn sứ A-mốt đã mạnh mẽ lên án những người giàu. Họ cậy vào của cải để “Ngả ngớn trên trường kỷ, ăn những con chiên non nhất bầy, những chiên béo nhất chuồng… nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ” (Bài I). Hậu quả là những người ích kỷ này phải đi lưu đày nơi đất khách quê người và trở thành nô lệ.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, vị thủ lãnh tối cao của Giáo Hội công giáo, kể từ khi đón nhận trọng trách ngai tòa Thánh Phêrô đã làm cho thế giới đặc biệt chú ý đến sự đơn sơ, bình dân và nhất là sự quan tâm đến người nghèo. Việc chọn tên vị thánh nghèo thành Átsidi cũng nói lên định hướng mục vụ của Ngài. Những lời tuyên bố của Đức Giáo Hoàng khi tưởng niệm các nạn nhân chết do vượt biên, hay khi đi thăm những khu nhà ổ chuột hoặc nhà tù, đã cho thấy Ngài là một vị Giáo Hoàng của người nghèo và muốn xây dựng Giáo Hội thành một Giáo Hội của người nghèo cách đích thực. Đức Giáo Hoàng nhận định: “Nhiều khi, việc quan tâm đến người nghèo chỉ dừng lại ở những ý tưởng thần học mà chưa được được chứng minh bằng hành động cụ thể” (Bài huấn từ dành cho linh mục Giáo phận Rô-ma ngày 16-9-2013). Nơi khác, Ngài đã nói: “Chính những thành kiến và những trái tim chai đá mới là sự nghèo nàn đích thực”.
Chọn lựa sống nghèo là cách chọn lựa của Chúa Giêsu và những ai muốn làm môn đệ của Người. Giữa những lo toan vật chất đời thường, xin đừng quên mỗi người cũng phải “làm giàu” bằng lòng tin và tình mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa, như lời Thánh Phao-lô khuyên môn sinh của mình. Bởi lẽ Chúa Giêsu là “Chúa Tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các chúa” mà đã trở nên nghèo vì chúng ta (Bài đọc II). Nhờ Người mà chúng ta trở nên giàu có vinh quang.
Người xưa thật khéo ví von: trời ơi, trời ở chẳng cân, người ăn không hết, kẻ lần không ra. Nhưng TN 26-C187
Người xưa thật khéo ví von: trời ơi, trời ở chẳng cân, người ăn không hết, kẻ lần không ra. Nhưng các ngài cũng tình tứ lạc quan đáng lưu tâm: nghèo tình nghèo nghĩa thì lo, nghèo tiền nghèo của chẳng lo làm gì. Giầu nghèo, tình làng nghĩa xóm, không phải là những cụm từ mới mẻ, song mỗi chúng ta cần ý thức và sống tương quan nghĩa tình ấy thế nào ? Có thể vì nhiều lý do, khiến người ta vô tình hiểu sai một cách đáng tiếc như câu thành ngữ: đèn nhà ai người ấy rạng.
Chỉ vì hẹp hòi ích kỷ, mà người ta làm ngơ giả điếc trước bổn phận phải chia sẻ, giúp đỡ anh chị em mình, phá hỏng truyền thống thương người như thể thương thân ! Cũng vì ngộ nhận giầu sang phú quý, trời cho ai người ấy hưởng, nên sự vô cảm, dửng dưng tạo nên hố sâu ngăn cách, phân chia giai cấp. Đồng ý rằng, tình quê hương, tình máu mủ ruột thịt, hay tình yêu tha nhân, rất gần gũi ấy, thấm sâu vào con tim khối óc từ khi chúng ta có trí khôn. Nếu như giầu nghèo, địa vị cao thấp, tạo nên giai cấp riêng, thì chúng cũng có chung mục đích là hướng tìm hạnh phúc, là hiệp thông phát triển đại gia đình nhân loại theo chiều hướng tốt. Nhưng chính từ kinh nghiệm, người xưa còn chỉ dạy rằng: lợi chớ hưởng một mình, mưu chớ cho người biết.
Chúa Giêsu hôm nay thức tỉnh chúng ta bằng một câu chuyện dụ ngôn rất xác thực: giầu nghèo, vui sướng hay sầu khổ triền miền, tất cả đều có chung một điểm dừng lúc nhắm mắt xuôi tay. Kết cục đời người sẽ phản ánh chân lý về chữ tình: giầu tình giầu nghĩa, mới là giầu, giầu tiền giầu của, cuối đường cũng như nhau. Giả thiết đặt ra, nếu ông phú hộ nghĩ trước hiện tại ông giầu và rồi sau này ông sẽ nghèo, sẽ phải khổ, liệu ông có lập một kế hoạch gì không ? Hoặc nếu như những ai đang nghèo khó cùng cực, chắc cũng không cần than thở, bon chen sự đời làm chi, miễn sao duy trì được tiêu chí: đói cho sạch, rách cho thơm.
Chúa Giêsu không kết án ông phú hộ vì giầu, nhưng lên án ông không sống chữ tình đối với người anh em Laradô, Ngài có trách là trách ông đã quên mất nghĩa vụ phải sống bác ái với tha nhân. Chúa Giêsu thương người nghèo khổ, Ngài cũng thương các luật sĩ biệt phái, cụ thể là khi đã được nghe qua dụ ngôn, ai cũng có cơ hội kiểm điểm sửa sai cách sống của mình trước lúc quá muộn. Với người đời, giầu nghèo, sung sướng hay bần cùng khổ đau, đúng là quan trọng lắm, nhưng đối với Thiên Chúa, biết sống chữ tình chữ nghĩa ở đời này mới đáng kể là khôn ngoan thật.
Đưa ra hình ảnh đối nghịch giữa người phú hộ giầu và Laradô nghèo, Chúa Giêsu không chủ trương khích lệ một vương quốc nghèo nàn đói rách. Ngài mong muốn khi đọc nghe dụ ngôn này, ta sớm biết sống tình liên đới yêu thương, hầu ai cũng được hạnh phúc và khen thưởng. Thực ra thì giầu nghèo ở trần gian này chưa thể nói là tội hay phúc, Laradô không phải vì nghèo đói mà được vào thiên đàng, ông phú hộ không phải vì giầu mà vào hỏa ngục. Laradô được hạnh phúc vì hoàn cảnh nghèo đói mà anh không gian tham, không mất niềm tin vào Thiên Chúa. Người phú hộ ngày ngày sống trong nhung lụa, yến tiệc linh đình, nên ông đã quên nghĩa cạn tình, đánh mất ơn cứu độ.
Đi vào cuộc sống thực tế, chúng ta cần tình, cần tiền, cần hạnh phúc, xa hơn nữa, ta còn cần có niềm vui bình an ở hiện tại và tương lai nữa. Giầu tiền của, giầu tình nghĩa yêu thương, người ta hằng nghĩ tới, đầu tư, tìm kiếm đã là một vấn đề, nhưng biết sống lợi thế đó, biết sử dụng nén bạc ta đang có lại còn khó hơn nũa. Nghèo hèn đau khổ, giầu sang phú quý, tại trần thế này, với mắt thường ta dễ dàng thấy. Thưởng phạt, được hạnh phúc, bị kỷ luật trầm luân ở đời sau, luôn xa lạ, mù mịt với trí tưởng tượng của con người chúng ta. Được giầu sang như người phú hộ, hay túng thiếu như Laradô, không phải là tình cờ hên xui, mà đó là cơ hội, ta sẽ cố gắng, sẽ đón nhận, tiêu cực phản đối, hay buông xuôi…. ?
Được sinh ra làm người, không ai bi quan đến độ phải than trách trời đất, oán hờn đấng bậc sinh thành, cơ hội, cách sống lạc quan, vẫn tùy thuộc tự do mỗi người. Tục ngữ có câu: nó lú có chú nó khôn hoặc ngựa chạy có bày, chim bay có bạn. Đại ý là trong cuộc sống này ông trời đã sắp xếp cho bất cứ đối tượng nào, họ cũng tìm thấy trong tình yêu một chỗ dựa. Hệ quả tình yêu là tâm hồn của ta được bình an, là lòng mến của ta được đặt vào trong công việc bổn phận hàng ngày. Là Kitô hữu, Chúa đang chờ đợi “tôi và bạn”, hãy thực hiện những gì còn lở dở giữa tình huynh đệ gia đình, lối xóm, là sống nén bạc mà mỗi chúng ta đang có. Amen.
Không ai lại không có mong muốn hoặc mơ ước, dù chỉ là những mơ ước bình thường. Vì không TN 26-C188
Không ai lại không có mong muốn hoặc mơ ước, dù chỉ là những mơ ước bình thường. Vì không có, vì thiếu hoặc vì ưa thích cái gì đó nên chúng ta mơ ước. Mơ ước cũng có thể xấu hoặc tốt. Cẩn tắc vô ưu!
Voltaire (1694-1778, tên thật là François-Marie Arouet, nhà thần luận kiêm triết gia người Pháp) xác định: “Chúng ta không thể mong ước điều mình không biết”. Câu nói đơn giản mà chí lý. Thật vậy, không ai lại mơ ước cái mà mình không hề biết nó thế nào. Rõ ràng điều ước đó là ngu xuẩn!
Mơ ước phải LỚN HƠN nỗi sợ hãi. Có vậy chúng ta mới dám làm những gì cần thiết để đạt được mơ ước – dĩ nhiên ở đây chỉ đề cập mơ ước tốt lành mà thôi.
Mơ ước và số phận có hệ với nhau theo chuỗi lô-gích: Có suy nghĩ mới có mơ ước, mơ ước nên cần nói ra, lời nói sẽ dẫn tới hành động, hành động sẽ tạo nên thói quen, thói quen sẽ hình thành tính cách, tính cách sẽ hóa thành số phận. Có thể “so sánh” số phận chính là định mệnh.
Sống sao chết vậy. Đó là một hệ lụy tất yếu. Sống xả láng, chơi bời trác táng, ăn uống thỏa cơn thèm, chắc chắn có ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe. Món này ngon, nhưng không phải ai cũng ăn được. Tâm linh cũng thế, cần kiêng cái này và phải cữ cái nọ!
Qua miệng ngôn sứ A-mốt, Thiên Chúa đã cảnh cáo: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Sion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari” (Am 6:1a). Thiên Chúa chúc dữ cho những người nhàn hạ như vậy, còn người ta nói: “Nhàn cư vi bất thiện”. Thế thì nhàn đâu có sướng, sướng đâu có thích, thích đâu có khỏe. Tại sao? Ăn ngon thì sinh bệnh, bị bệnh thì không khỏe, không khỏe thì bao nhiêu tiền cũng chẳng mua được. Thảo nào tiền nhân đã ví von chí lý: “Sức khỏe là vàng”. Loại vàng này còn quý hơn loại vàng ròng hoặc vàng “bốn số chín” đấy!
Phong cách của những người sống xả láng được Kinh Thánh mô tả thế này: “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ! Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6:4-7). Và hệ lụy tất yếu cũng đã xảy ra. Đối với cuộc đời của chúng ta cũng vậy, điều gì đến cũng PHẢI đến – đã đến, đang đến hoặc sẽ đến! What will be will be – Que sera sera!
Về phương diện xã hội, người ta thường phân chia thành ba giai cấp: thượng lưu, trung lưu, và hạ lưu. Tóm gọn và đơn giản hóa, chúng ta có thể chia làm hai giới: giàu và nghèo. Người ta chỉ thích người giàu, không ai thích người nghèo – vì sợ “hãm tài”. Nhưng Thiên Chúa lại trái ngược và đối lập với chúng ta.
Thiên Chúa như thế nào? Tác giả Thánh Vịnh cho biết rõ về phong cách của Ngài: “Thiên Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7-9).
Đôi khi người ta tự mâu thuẫn, họ biết rõ điều gì đó tốt lành và đáng mơ ước, thế nhưng người ta lại không làm. Chẳng hạn, ai cũng biết việc vận động thể lý là điều cần thiết để sống khỏe nhưng có mấy ai kiên trì áp dụng? Đến lúc đuối sức rồi mới mơ ước. Muộn rồi! Tài năng thiên phú cũng cần được trau dồi, phải khổ luyện không ngừng.
Cách sống tâm linh cũng tương tự, tức là cũng phải không ngừng vận động – tránh điều xấu, làm điều tốt. Nói với Timôthê, ông Phaolô khuyên nhủ thiết tha: “Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng. Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Kitô Giêsu là Đấng đã làm chứng trước toà tổng trấn Phongxiô Philatô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp” (1 Tm 6:11-13). Đó cũng là lời khuyên dành cho mỗi chúng ta.
Ông Phaolô truyền lệnh cho Timôthê, đồng thời cũng là lời giải thích và xác định: “Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện. Đấng sẽ cho Đức Kitô tỏ hiện vào đúng thời đúng buổi, là Chúa Tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các chúa. Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Người danh dự và uy quyền đến muôn đời” (1 Tm 6:14-16).
Thiên Chúa giàu có nhất nhưng tự nguyện trở nên nghèo khó nhất, nhờ đó mà chúng ta được giàu sang. Thiên Chúa dũng mãnh nhất nhưng tự nguyện trở nên yếu đuối nhất, nhờ đó mà chúng ta được vững mạnh. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối thì Ngài sẽ ban sức mạnh cho chúng ta, khiêm nhường nhận biết mình tội lỗi thì Thiên Chúa sẽ thứ tha, khiêm nhường nhận biết mình nghèo hèn thì Ngài sẽ làm cho chúng ta giàu sang.
Giàu không có tội, nhưng có thể là mối nguy. Nghèo chưa hẳn là phúc nếu không trong sạch, và nghèo vẫn có thể là mối nguy nếu trộm cướp vì viện cớ là mình nghèo. Thái quá hóa bất cập. Tác giả sách Châm Ngôn đã khôn ngoan cầu nguyện: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài. Nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con” (Cn 30:8-9).
Trình thuật Lc 16:19-31 nói về dụ ngôn “Ông Nhà Giàu và Anh Ladarô Nghèo Khó”. Dụ ngôn cho biết có một người giàu sang, mặc toàn đồ “hàng hiệu”, đi xe hơi xịn, ở biệt thự sang trọng, và ngày nào cũng tiệc tùng linh đình. Ngoài cổng biệt thự nhà ông có anh chàng Ladarô nghèo khó, mụn nhọt đầy mình, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông nhà giàu rớt xuống mà ăn cho no cũng không được. Vừa khổ vừa đói đã đành, đằng này lại có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc trên thân thể của anh ta. Nghèo tới tận cùng bảng số, nghèo đến nỗi cũng chẳng có mồng tơi mà rớt!
Sinh ký, tử quy. Thế rồi cả người nghèo và người giàu đều chết. Người nghèo được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham, còn người nhà giàu phải vào chốn khổ hình đời đời. Tội của ông không phải là giàu sang phú quý, mà là tội phung phí tiền bạc vào những lạc thú trần gian vô bổ, là tội không biết xót thương người nghèo. Sướng trước rồi thì bây giờ phải nhường cái phúc cho người khác. Đó là hệ lụy công bình mà thôi!
Đang khi chịu cực hình từ dưới âm phủ, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta xin tổ phụ Ápraham thương xót mà sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi để làm mát ông, vì ông bị lửa thiêu đốt khổ lắm. Khổ rồi mới biết sợ, nhưng sự hối hận đã quá muộn màng!
Ông Ápraham phân tích chi tiết: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được”. Hai cuộc đời có hai cách sống khác nhau, thế nên hệ quả cũng hoàn toàn khác nhau.
Cầu cứu cho mình không được, ông nhà giàu bèn cầu cứu cho thân nhân. Ông xin Tổ phụ Ápraham sai anh Ladarô đến nhà ông báo hung tin cho năm người anh em của ông mà chấn chỉnh cách sống, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình như ông. Nhưng ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Ông nhà giàu nói rằng họ sẽ không chịu nghe, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ thì họ sẽ ăn năn sám hối. Lắm chuyện, lắm lời, lắm lý lẽ quá!
Ông Ápraham xác định: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Đúng vậy, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, thấy quan tài rồi thì không kịp đổ lệ nữa. Có biết bao lời cảnh báo, nhưng người ta chỉ sợ khi mới nghe, vài ngày là quên ngay, rồi đâu vẫn vào đấy!
Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy Thiên Chúa đề cao lòng trắc ẩn, đề cao đức ái, vì đức ái là đức mến – một trong ba nhân đức đối thần (Tin – Cậy – Mến). Đức ái cao trọng hơn cả (1 Cr 13:13), vì đức mến tồn tại ở cả đời này và đời sau – đức tin và đức cậy không còn ở đời sau nữa.
Đức ái còn quan trọng bởi vì chúng ta “làm gì cho những người bé nhỏ là làm cho chính Thiên Chúa” (Mt 25:40). Mẹ Thánh Teresa Calcutta đã thực hiện như vậy. Mẹ nói về cách yêu thương: “Quan trọng không phải chúng ta cho đi bao nhiêu, mà là chúng ta dành bao nhiêu sự yêu thương để cho đi. Không phải tất cả chúng ta đều làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ nhoi với tình yêu vĩ đại”. Người Việt chúng ta cũng có cách nói tương tự: “Của cho không bằng cách cho”.
Hai con người nhưng có ba điều ước: [1] Ladarô mơ ước chút thực phẩm thừa mà không được, [2] người nhà giàu mơ ước những giọt nước để làm dịu cơn nóng bức mà không được, [3] người nhà giàu mơ ước có người chết về báo cho thân nhân nhưng cũng không được. Điều đáng lưu ý là mơ ước [2] và [3] của người nhà giàu, vì những điều ước của ông ta quá muộn màng rồi, không thể được nữa!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết mền yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, xin làm cho con trở nên ánh sáng của Ngài và khí cụ bình an của Ngài, xin biến ước muốn tốt lành của con thành hiện thực để vinh danh Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Dụ ngôn người giàu và anh nghèo Ladarô là một minh họa những gì Chúa nói về việc sử dụng TN 26-C189
Dụ ngôn người giàu và anh nghèo Ladarô là một minh họa những gì Chúa nói về việc sử dụng tiền của. “ Không ai làm tôi hai chủ…không ai có thể cùng một lúc làm tôi Thiên chúa và tiền của được”.
Dụ ngôn trình bày cho chúng ta hai khuôn mặt, hai hạng người, là những khuôn mặt chúng ta thấy hằng ngày trước mắt chúng ta, và cũng có thể là khuôn mặt của mỗi người chúng ta.
Dụ ngôn nầy quá quen thuộc đối với chúng ta, vì thế chúng ta không mấy chú ý. Những gì quen thuộc dễ bị lãng quên. Nhưng hôm nay, chúng ta hãy dừng lại một vài giây phút để xem Chúa muốn nói gì với chúng ta hôm nay qua dụ ngôn nầy.
Chúng ta làm tôi tiền của hay làm tôi Thiên Chúa ? Chúng ta có phải là đại gia chỉ lo hưởng thụ hay là người nghèo chỉ biết sống với cái cặn cái thừa của người giàu mà tâm hồn lại cao cả ?
Dụ ngôn nầy chính là bức tranh của xã hội chúng ta đang sống. Người giàu chỉ biết vun vít tiền bạc, hưởng thụ ích kỷ, không nghĩ đến những người anh em bất hạnh, nghèo khổ trước mắt mình. Thế giới hôm nay với những khám phá khoa học, đã khám phá ra tất cả những gì có thể phục vụ con người trong mọi lãnh vực, nhưng đồng thời cũng tìm ra đủ mọi thứ để hưởng lạc tối đa. Người giàu phung phí không tiếc tiền còn người nghèo lại đói rách lang thang, bươi những đống rác để kiếm sống.
Chúa Giêsu không nói người giàu có tội gì, chỉ nói ngắn gọn là khi chết, anh xuống hỏa ngục. Chúa cũng không nói anh Ladarô kia đã làm được gì để được ngồi vào lòng ông Abraham và được hạnh phúc. Chúa để mở ngỏ cho chúng ta suy nghĩ.
Người giàu chỉ biết lo cho bản thân mà không chú ý đến người anh em nghèo khổ. Anh không biết rằng những gì anh có đều là hồng ân của Chúa. Anh không biết chia xẻ với người anh em bần cùng của mình. Không phải giết người cướp của mới đáng tội. Chỉ cần chúng ta vô tâm trước sự khốn khổ của người anh em, thì cũng bị lên án rồi. Dụ ngôn nầy đã nói quá rõ về vấn đề đó.
Anh Ladarô nghèo kia đã làm gì để được hạnh phúc ? Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu nói đến một cái tên là Ladarô, có nghĩa là Thiên Chúa giúp. Và Chúa cũng không nói anh đã làm nên công trạng gì, chỉ nói rằng anh sống nhờ những gì cặn thừa của những người giàu. Thời bấy giờ người ta không xài khăn ăn mà dùng một miếng bánh mì để lau tay và lau miệng, xong rồi thì vất xuống đất. Anh nghèo lượm những miếng bánh vụn đó để ăn cho đỡ đói. Không ai để ý đến cảnh khổ của anh. Người ta vui cười, uống rượu, đùa cợt với nhau. Chỉ có mấy con chó trong nhà đến liếm giùm ghẻ chốc của anh nghèo thôi. Chúa Giêsu chú ý đến mấy con chó. Tại sao ? Có lẽ Chúa cũng hữu ý đưa ra một so sánh: lòng dạ của người giàu còn thua con chó.
Rồi mọi sự phải đến thời kết thúc. Anh Ladarô chết và được các thiên thần đem vào lòng ông Abraham và được hạnh phúc. Người giàu cũng chết và người ta đem chôn.
Bức tranh đổi hẳn màu sắc. Phần đầu mọi sự được diễn biến ở trần gian, phần cuối mọi sự đều thuộc về một thế giới khác. Anh Ladarô là người nghèo theo nghĩa Kinh Thánh là người nghèo của Thiên Chúa, là người đạo đức chỉ trông chờ vào lòng thương của Chúa thôi. Đức Mẹ và thánh Giuse cũng được xem là những người nghèo của Thiên Chúa theo nghĩa nầy. Anh nghèo chấp nhận thân phận của mình một cách thanh thản. Anh không lo tiền của, không hưởng thụ. Điều nầy cho chúng ta thấy, những khổ cực đời nầy có một giá trị vĩnh cửu. Thánh Phaolô cũng công nhận như thế: “ Những khổ cực đời nầy sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta !”
Người giàu chịu cực hình trong âm phủ, ngước mắt lên thấy Ladarô hạnh phúc trong lòng Abraham đã van xin: “ Lạy cha Abraham, xin sai Ladarô nhỏ cho con một giọt nước thôi…” Nhưng Abraham đã cho thấy, bây giờ không có liên lạc nào giữa đó với đây vì đã có một vực sâu không thể qua được và ở trần gian con đã hưởng mọi sự sung sướng rồi, còn Ladarô gặp toàn bất hạnh, hôm nay anh được hạnh phúc, đó là công bằng”.
Vực sâu mà Abraham nói đến là do chính chúng ta tạo ra bằng sự vô tâm ích kỷ, bằng nếp sống hưởng thụ xa hoa mà không biết yêu thương. Anh nhà giàu lại van xin Abraham cho Ladarô hiện về cảnh báo mấy anh em mình cũng giàu có xa hoa như mình. Nhưng Abraham khẳng định: “ Họ có Abraham và các tiên tri dạy rồi. Nếu họ không nghe lời Abraham và các tiên tri thì dù kẻ chết hiện về họ cũng không nghe đâu”. Một lời cảnh báo thật nghiêm ngặt cho mọi người chúng ta. Nếu chúng ta sống hưởng thụ, để cho đồng tiền làm mờ mắt và con tim chúng ta chai lì, thì không có gì có thể hoán cải chúng ta được.
Chúng ta có lời Chúa, có giáo huấn của Giáo Hội soi đường. Nếu chúng ta không nghe lời Chúa và Giáo Hội thì cái gì có thể lay chuyển được chúng ta ? Thánh Phaolô đã căn dặn đệ tử của ngài là ông Timôthê: “ Hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, nhẫn nại và hiền hòa”. Chúng ta được dựng nên để sống thánh thiện chứ không để làm nô lệ cho xác thịt. Hãy mặc lấy khí giới của sự sáng … Hãy sống tinh tuyền không chi đáng trách cho đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta xuất hiện”. Cuộc chiến của chúng ta chỉ chấm dứt khi chúng ta trở về với Chúa. Nhưng chúng ta không đơn độc. Chúa Giêsu vẫn ở với chúng ta, nâng đỡ chúng ta trong cuộc chiến gay go nầy. Lời Ngài ở trong tầm tay chúng ta, Thịt Máu Ngài vẫn là lương thực giúp chúng ta vững vàng bước tới. Còn gì an ủi cho bằng khi chúng ta được quyền ăn lấy Chúa, chiếm hữu lấy Ngài ngay từ đời nầy ! Nhờ đó, chúng ta cứ tin cậy dù con người xác thịt của chúng ta yếu đuối và dễ mệt mõi, dù thế gian vẫn là cám dỗ và xác thịt chúng ta nặng nề.
Lời Chúa và Mình Thánh Chúa vẫn là hai thứ lương thực không bao giờ thiếu, Hãy vững tin vì tình yêu của Chúa bền vững muôn năm.
Chúa nhật 09/9/2016 vừa qua tại Quảng trười Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tôn TN 26-C190
Chúa nhật 09/9/2016 vừa qua tại Quảng trười Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tôn phong Mẹ Teresa lên bậc hiển thánh. Có nhiều đoàn ngoại giao của các quốc gia, đặc biệt chính phủ Ấn Độ đã dẫn một phái đàon hùng hậu cao cấp nhất từ trước đến nay tham dự thánh lễ. Mẹ Teresa được cả thế giới kính trọng và biết đến như một con người cà một đời phục vụ cho người nghèo. Trong ngày Mẹ qua đời cách đây chín năm, cả thế giới vô cùng thương tiếc. Tổng thống Pháp lúc bấy giờ lên truyền hình nói với dân chúng rằng: Hôm nay bầu trời mất đi một phần ánh sáng, nhân loại mất đi một phần tình yêu thương vì Mẹ treresa đã qua đời. Để ghi nhớ công lao của mẹ, Chính phủ Ấn Độ đã tổ chức quốc tang cho mẹ như một nguyên thủ quốc gia. Qua việc tôn phong mẹ Teresa, Giáo hội muốn nói với thế giới rằng: mỗi người đều có khả năng yêu thương và chia sẻ tình yêu thương, đồng thời, mỗi người có thể nên thánh nhờ biết sống yêu thương như Mẹ Teresa Calcutta.
Một thực tế cho thấy, một phần của thế giới đang giàu có lên, thì phần còn lại đang ngày càng đói khổ hơn. Con người ngày nay đang sở hữu nhiều của cải vật chất hơn, nhưng tâm hồn và trái tim dường như ngày càng trở nên nghèo nàn hơn. Vì thế, con người ngày càng tỏ ra dửng dưng vô cảm với anh chị em đồng loại, nhắm mắt làm ngơ trước nỗi khốn cùng của đồng loại và còn đùa giỡn trên nỗi đau của anh chị em khác.
Tình trạng trên đã được Chúa Giêsu cảnh báo trong dụ ngôn người phú hộ và Lazarô. Câu chuyện kể lại hai hình ảnh tương phản: Người nhà giàu mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo tên là Lazarô mụn nhọt đầy mình, nằm trước cửa ông nhà giàu, thèm được những miếng dư thừa ăn cho đỡ đói, nhưng không ai cho, chỉ có những con chó đến liếm ghẻ chốc anh ta mà thôi. Thế nhưng sau khi Lazarô chết, được các thiên thần dẫn đưa vào lòng Apbraham, còn ông nhà giàu thì đem đi chôn, Lazarô được hạnh phúc, còn ông nhà giàu bị lửa thiêu đốt.
Tại sao ông nhà giàu lại bị kết án như thế? Ông không làm điều gì sai, sự giàu có của ông không phải là điều tội. Cũng vậy, cái nghèo của Lazarô không phải là điều phúc, anh chỉ là người trông chờ sự bố thí của người khác mà thôi. Tuy nhiên, điều đáng trách và trở thành cái tội cho người nhà giàu là ông đã cố tình không nhìn thấy người nghèo kia nằm ngay cửa nhà ông. Ngày ngày, ông ăn uống tiệc tùng, ăn mặc gấm vóc, việc này nó làm cho khoảng cách từ ông đến người nghèo dường như rất xa. Người ta thường nói, khoảng cách xa nhất không phải từ nơi này đến nơi nọ, nhưng là đôi mắt đến đôi tay bàn tay. Ông nhà giàu này đã vấp phải khoảng cách đó, chỉ từ trong nhà ra đến cổng, nhưng ông đã không thể bước tới bên người nghèo, cũng không nhìn thấy sự hiện diện và nhu cầu của họ. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, ông đã để mình rơi vào tình trạng dửng dưng vô cảm trước nỗi đau khổ của đồng loại.
Khi sống, ông nhà giàu không biết quan tâm, không chút chạnh thương, thì sau khi chết ông cũng không thể đón nhận được sự quan tâm bởi vì chính ông đã khoét sẵn một vực thẳm ngăn ông với người khác. Vực thẳm này ông đã tạo ra từ khi còn sống, khiến ông không bước đến với người khác, thì sau khi chết, vực thẳm này cũng khiến người khác không thể đến trợ giúp ông được. Trong chốn cực hình, ông nhà giàu trở thành kẻ van xin Apbraham: Xin sai Lazarô nhúng ngón tay và nước và làm mát lưỡi tôi, vì ở đây tôi bị lửa thiêu đốt khổ lắm. Nhưng ông đã bị từ chối: Con hãy nhớ rằng Lazarô đã một đời bất hạnh, nay anh ta được an ủi nơi đây, còn con phải chịu cực khổ.
Người nhà giàu xin điều thứ hai: Xin cho Lazarô đến nhà cha tôi để cảnh báo các anh em của tôi, kẻo họ cũng phải sa vào chốn này. Lời van xin này cũng bị từ chối: Chúng đã có Mose và các Ngôn Sứ, chúng cứ nghe các vị đó. Điều này cho thấy, mỗi người sẽ phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình và mỗi người chỉ có thể làm điều thiện điều tốt khi còn sống mà thôi. Ông nhà giàu, trong lúc hối hận, đã muốn xin một ân huệ cho những người thân, ông cũng bị tử chối. Người thân của ông còn sống sẽ phải chịu trách nhiệm về thái độ sống của chính họ. Họ đã được Mosê và các Ngôn sứ nhắc nhở, nếu họ mở lòng và vâng nghe theo nhưng lời nhắc bảo, họ sẽ tránh được cực hình, ngược lại, nếu từ chối họ cụng sẽ bị hình phạt như vậy.
Ngôn sứ Amos, trong bài đọc một, đã cảnh báo lối sống của những người giàu có, chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc mà không cậy dựa vào Thiên Chúa, cũng không biết nghĩ đến anh em: Khốn cho các ngươi là những kẻ sống yên ổn tại Sion… các ngươi nằm dài trên gường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, ăn những chiên non nhất bầy và những bê béo nhất chuồng, uống rượu cả bầu, xức dầu hảo hạng, nhưng không biết chạnh lòng trước cảnh nhà Giuse xụp đổ. Qua lời này, tiên tri Amos nhắc đến một lối sống ăn chơi hưởng thụ không khác gì các cuộc ăn chơi hương thụ đẳng cấp ngày nay. Những người này thể hiện sự sành điệu trong hưởng thụ thỏa mãn, trong khi đó, người đồng hương của họ là nhà Giuse đang bị xụp đổ. Những người này vui chơi trên nỗi đau của người đồng loại, nhắm mắt làm ngơ trước cảnh mất nước nhà tan của người đồng hương. Chính vì thái độ dửng dưng đó, mà tiên tri Amos đã tiên báo: Chính chúng sẽ bị đi lưu đầy và dẫn đầu những kẻ bị lưu đầy, thế là tan tác những quân phe phỡn.
Thánh Phaolô trong thư Timôthê đã khuyên nhủ chúng ta: Hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, gắng sống nhẫn nại và hiền hòa. Anh hãy chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời. Như thế, để không phải hối tiếc như người nhà giàu trong câu chuyên trên, đòi mỗi người phải cố gắng liên tục sống công chính đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến. Điều đó có nghĩa dù giàu hay nghèo, dù thành hay bại, trước hết, chúng ta vẫn phải giữ cho mình được công chính và đạo đức. Người công chính là người sống chu toàn lề luật của Thiên Chúa với lòng yêu mến; người đạo đức là người chuyên chăm thực hành các lời Chúa dạy. Kế đến, chúng ta không chỉ lo làm giàu của cải vất chất, nhưng phải làm giàu lòng tin lòng yêu mến. Vì ta không thể để mình trở thành người giàu của cải nhưng lại nghèo trong đức tin và nghèo tình yêu thương. Một khi để mình trở nên nghèo về tình yêu thương thì chúng ta cũng sẽ không thể đón nhận được tình yêu thương từ nới Thiên Chúa.
Ngày nay đang có nhiều người có thái độ dửng dưng vô cảm như ông nhà giàu trong dụ ngôn. Vụ xả thải của Fomosa là một ví dụ: Trong khi cá chết, biển chết, khiến cho hàng ngàn người dân Miền trung điêu đứng, nhưng những người có trách nhiệm vẫn tránh né sự thật, họ im lặng trước nỗi khổ của người dân. Một tai nạn giao thông xảy ra, người ta có thể đứng xem hàng giờ nhưng không ai ra tay giúp nạn nhân. Thay vì can ngăn, người ta cũng thản nhiên lấy điện thoai quay film trong khi hai em học sinh đánh nhau.
Sự dửng dưng vô cảm cũng đang diễn ra ơ nơi cộng đoàn, trong các xóm ngõ. Nhiều người sống dương như không quan tâm đến hàng xóm làng giềng và những người sống ngay bên cạnh nhà mình. Cũng đang có những người sống dư thừa phí phạm, những bữa nhậu, những chai rượu giá bạc triệu, bên cạnh đó họ lại khép lòng trước sự túng thiếu của người khác, làm ngơ trước cảnh đói nghèo của anh em. Sự dửng dưng cũng đang diễn ra trong gia đìnhkhi con cái bỏ rơi cha mẹ, vợ chồng không nói gì đến nhau.
Các bạn trẻ hôm nay có thể cùng ngồi chung một băng ghế, cùng chung một bàn caphe, nhưng mỗi người một thế giới riêng. Họ quan tâm đến không gian mạng, nghe heardphone, nhưng không hề quan tâm người bên cạnh mình họ đang cần gì, đang có vấn đề gì. Lối sống như thế là những hình thức khác của sự dửng dưng vô cảm không khác gì ông nhà giàu trong câu chuyện.
Xin Chúa cho chúng ta có một đôi mắt thật sáng để có thể nhìn thấy anh chị em đang cần đến sự giúp đỡ của ta. Xin cho chúng ta có một trái tim nhạy bén để biết chạnh thương và một đôi tay rộng mở để có thể đón nhận và sẽ chia với anh chị em đó. Amen.
Mặc dù chỉ có 4 câu, nhưng bài thơ “Có Khi Nào” của Nguyễn Minh Quốc đã được rất nhiều người TN 26-C191
Mặc dù chỉ có 4 câu, nhưng bài thơ “Có Khi Nào” của Nguyễn Minh Quốc đã được rất nhiều người thuộc. Đặc biệt hơn, đây là bài thơ được xếp vào nhóm 100 bài thơ hay nhất của thi ca Việt Nam đương đại. Xin được trích nguyên văn:
“Có khi nào trên đường đời tấp nập, Ta vô tình khẽ (đi) lướt qua nhau. Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất Một tâm hồn ta đã đợi từ lâu.”
Vâng, sự “vô tình đi lướt qua nhau” đã làm cho chúng ta mất đi những điều “đã đón đợi từ lâu”.
Đó cũng là điều mà phụng vụ lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: Am 6, 1a.4-7
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Amos mạnh mẽ lên án “những kẻ sống yên ổn, an nhiên tự tại” ; những kẻ chỉ biết “nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ” ; họ ăn uống say sưa, đàn ca hát xướng… Tại sao họ bị lên án? Thưa vì họ “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ”. Họ không quan tâm đến vận mệnh của đất nước đang lâm nguy.
Đáp Ca: Tv.145
Ngược hẳn với những kẻ giàu có ăn uống say sưa trước vận mệnh đen tối của đất nước, tác giả Thánh vịnh cho chúng ta thấy hình ảnh của Thiên Chúa biết quan tâm đến những kẻ đói khát, tù tội, mù lòa, khốn khó… nói chung là những nghèo của Thiên Chúa.
Tin mừng: Lc 16, 19-31
Nhớ lại dụ ngôn của Chúa Nhật tuần trước dạy cho môn đệ Đức Giêsu biết cách sử dụng tiền của, thì dụ ngôn hôm nay Đức Giêsu cho thấy hình ảnh cụ thể của những người sử dụng tiền của cách sai lầm.
Dụ ngôn này có 2 nhân vật, nhân vật thứ nhất “một ông nhà giàu kia” mà Luca không kể tên, có lẽ Luca muốn để cho mỗi người chúng ta đặt mình vào trong nhân vật đó; nhân vật thứ hai là “người nghèo khó tên là Ladarô”. Đây không phải là nhân vật có thực, nhưng chỉ là cái tên mang ý nghĩa biểu tượng, vì Ladarô nguyên ngữ là Êlêada, nghĩa là “Thiên Chúa phù trợ”.
Cả đoạn Tin Mừng hôm nay, không chỗ nào nói nhân vật thứ nhất làm ăn bất chính, cho vay nặng lãi, hay cướp bóc, ăn hối lộ… mà trở nên giàu có. Chỉ biết rằng ông ta giàu, và làm thế nào để giàu thì không biết. Cũng không chỗ nào nói anh Ladarô bị cướp, bị lường gạt, bị ức hiếp, làm ăn thất bại… chỉ biết rằng anh ta là “một người nghèo khó”.
Nhưng sự giàu có của ông nhà giàu có dính dáng gì đến sự nghèo khó của anh Ladarô đâu, vì không nghe một lời van xin nào của Ladarô. Phải chi xin mà không cho mới là tội. Nhưng chính việc để cho một người nghèo ở kế bên mình chết vì đói, vì khát, vì bệnh tật là thái độ đáng lên án của ông nhà giàu.
Nói cách khác, qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người sử dụng tiền bạc cho riêng mình, dù mình không làm gì sai trái; trong khi còn biết bao nhiêu người đang nghèo khổ sống chung quanh. Đức Giêsu lên án thái độ vô tình.
II. XIN ĐỪNG VÔ TÌNH
Thiên Chúa không vô tình
Qua dụ ngôn này Đức Giêsu muốn cho chúng ta biết sự thật chắc chắn rằng Thiên Chúa không vô tình.
Thời Cựu ước, Ngài đã chọn dân Do thái làm dân riêng, ban cho họ các thủ lãnh, các vua và các ngôn sứ để dẫn dắt họ đến vùng đất hứa.
Thời Tân ước, Ngài tiếp tục muốn cứu độ chúng ta dù chúng ta đã nhiều lần từ chối. Chẳng những quan tâm bằng ý hướng, mà còn bằng những hành động hết sức cụ thể. Đức Giêsu cho chúng ta thấy sự quan tâm đó bằng những việc rao giảng Tin Mừng, cứu chữa những người đau yếu, chữa lành những tâm hồn tan nát, và cao quý nhất chính là cái chết đem đến ơn cứu độ cho nhân loại chúng ta.
Cho đến hôm nay, Thiên Chúa vẫn không thờ ơ với vận mệnh của chúng ta. Ngài tiếp tục nuôi chúng ta bằng Lời hằng sống và Bánh cứu độ; Ngài chăm sóc chúng ta trong Giáo hội của Ngài; Ngài chữa lành và tăng sức cho chúng ta qua các bí tích…
Nói tóm lại Thiên Chúa không vô tình với chúng ta. Tất cả những gì Thiên Chúa đã, đang và sẽ thực hiện cho chúng ta đều là lòng thương xót của Ngài.
Xin đừng vô tình!
Biết được sự thật về Thiên Chúa như vậy, lời nhắn nhủ của Giáo hội hôm nay dành cho mỗi người chúng ta là xin đừng vô tình.
– Trước hết là đừng vô tình với vận mệnh của mình. Con người là loài phải chết. Ai cũng phải tuân theo quy luật “sinh, bệnh lão, tử”. Quan trọng nhất là có sinh thì phải có tử. Nhưng phải “tử” làm sao để cuộc đời chúng ta có ý nghĩa cho chính bản thân mình và cho người khác nữa.
Nước Mỹ vừa tưởng niệm 15 năm cuộc tấn công khủng bố đẫm máu nhất trong lịch sử. Trong danh sách gần 3.000 nạn nhân, có tên của Linh mục Mike Judge, tuyên úy của đội cứu hỏa Thành phố New York. Sáng ngày 11/9/2001, ngay khi những chiếc máy bay đâm vào tòa Tháp Đôi, Cha đã cùng những người lính cứu hỏa chạy vào tòa nhà đang cháy và sắp sụp đổ, để cứu các nạn nhân và ban “phép Xức Dầu Thánh và các nghi thức cuối cùng” cho những người Công Giáo đang hấp hối. Mặc dù cha không có nhiệm vụ tác chiến, nhưng cha đã đi vào chiến trận để cứu linh hồn của những người đang hấp hối. Trong lúc cha đang ban phép xức dầu cho một nạn nhân thì những viên đá đã đổ xuống, đập vào đầu của cha, khiến cha tử vong tại chỗ.
Thế nhưng có những người sống chẳng có ý nghĩa cho mình, mà còn trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội, cũng như nỗi lo cho Giáo hội. Họ đắm chìm trong những đam mê, và vì những đam mê đã dẫn đến những hậu quả khác. Có những người đam mê cờ bạc, rượu chè; những bạn trẻ vướng vào con đường hút sách; những em thiếu niên nghiện game… Họ sống mà nghĩ đến ngày chết của mình để lo sống cho ý nghĩa hơn.
Lời Chúa hôm nay là một lời mời gọi đặc biệt cho những người sống trong đam mê riêng tư, hãy kịp thời thức tỉnh để làm lại cuộc đời mình.
– Kế đến đừng vô tình trước nỗi đau của người khác. Tục ngữ có câu: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”. Con vật còn biết sống như vậy thì huống hồ chi con người. Đứng trước những nỗi đau do bệnh tật, do mất mát người thân, do những khốn cùng trong cuộc sống của anh chị em, chúng ta phải có trái tim của Đức Giêsu để biết “chạnh lòng thương”, đừng sống theo chủ nghĩa “Mackeno” (mặc kệ nó).
Những ngày qua nhiều người đã thương tiếc trước sự ra đi của chàng ca sĩ Công giáo tên là Giuse Nguyễn Minh Thuận. Điều đáng nói là có những người đã lợi dụng tang lễ để móc túi, để làm chuyện xấu. Ngoài ra còn có những người chen lấn, la hét để được nhìn, hoặc chụp ảnh với những nghệ sĩ nổi tiếng, tạo nên những hình ảnh hết sức phản cảm… Đó là sự vô tâm, vô tình trước nỗi đau của người khác. Họ chỉ sống cho họ mà không nhìn đến hoàn cảnh thực tế của cuộc sống.
Một người có trái tim nhạy cảm sẽ không bao giờ bỏ qua một hoàn cảnh đáng thương đang diễn ra trước mắt họ. Hơn thế nữa họ cũng không bao giờ cho phép mình hưởng thụ khi những người xung quanh còn nghèo khổ; nghỉ ngơi quá đáng khi còn nhiều người phải chân lắm tay bùn; tiệc tùng khi còn nhiều kẻ ăn xin…
Như vậy, tình yêu vẫn đang lên tiếng gọi mời để chúng ta biết đáp trả lại lời mời gọi của tình yêu. Tình yêu của Đức Giêsu chịu đóng đinh trên cây thập giá để chúng ta đừng hỡ hững với ơn cứu độ của chính mình. Tình yêu của Đức Giêsu đang hiện diện trong hình ảnh của những phận người thấp kém để chúng ta đừng hờ hững với tha nhân.
Lạy Trái Tim đầy thương xót của Đức Giêsu, xin đừng để con vô tâm với ơn cứu độ của chính mình,cũng như vô tình với hoàn cảnh của người khác. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa để biết rung lên những cung bậc yêu thương. Chính nhờ tình yêu thương đó sẽ giúp con biết hành động cụ thể để đón nhận ơn cứu độ của Chúa; đồng thời biết quan tâm đến những thống khổ của tha nhân để có thể chia sẻ trong khả năng của mình.
Giàu nghèo là chuyện từ khi nguyên tổ phạm tội trở thành câu chuyện xưa nay đi vào nội tình TN 26-C192
Giàu nghèo là chuyện từ khi nguyên tổ phạm tội trở thành câu chuyện xưa nay đi vào nội tình nhân loại. Giàu nghèo làm ra khoảng cách giữa người với người. Chẳng ai đo được khoảng cách giàu nghèo dài rộng hẹp sâu ra sao! Khoảng cách là di chứng âm ỉ gây hội chứng vào mối tương quan nhân loại. Giàu, con người thăng hoa sung túc, dáng vẻ bảnh bao. Nghèo, con người ủ dột, lầm than, vất vả. Cả hai tuy khác biệt, vẫn có nét tương đồng, không luôn yên hàn. Cả hai đều có cái để lo. Giàu lo gìn giữ, rắp tâm sinh lợi, đại phú, hưởng thụ. Nghèo tất bật chạy vạy nhặt nhạnh từng chút để sống, lo thiếu thốn, sống qua từng ngày.
Biết chắc một điều, khi con người được tác thành, hiện hữu vào thế giới vũ trụ, thì mọi sự đều đã sẵn. Sẵn cho cả hai mặt thể xác tinh thần: sung túc, đủ đầy, tinh thần sáng suốt. Chẳng có giàu nghèo gì thuở ấy. Chương đầu của sách Sáng Thế khẳng định rõ như thế. Bởi Tạo Hóa tác tạo con người giống hình ảnh Ngài. Mà Tạo Hóa là Chủ giàu có. Ngài không làm ra nghèo và thiếu thốn. Cụ thể là Ngài không dựng nên kẻ nghèo túng. Người giàu trong chân chất lương thiện là hình ảnh TC miễn giữ được tình thần nghèo khó là phúc.
CN 26 này qua ba bài đọc Lời Chúa vạch ra cho mỗi người hiểu đâu là nguyên nhân của sự giàu nghèo, và hệ lụy của nó làm ra thuận nghịch hay rào cản chận bước tiến của người về Nước Trời.
Bài đọc 1. Vẫn là Amos CN vừa qua. TC kết tội những ai mà Ngài gọi là ‘bè lũ quân phè phỡn’ (c.7b) Vì sao gọi là phè phỡn? Tội họ là những kẻ sống yên ổn tại Sion, sống an nhiên tự tại trên núi Samari, ăn nằm ngã ngớn trên giường ngà, trên trường kỷ, cứ chiên non nhất bầy, bê béo nhất chuồng bày tiệt, trầm ngâm sáng tác, nghêu ngao hát xướng, dùng dầu thơm hảo hạng mà chẳng biết đau lòng cảnh nhà Giuse sụp đổ. Nghĩa là những người có lối sống an thân tự tại mà không biết xót thương đến ai đó, dù gần kè bên cạnh, đang khốn khổ lầm than.
Bài đọc 2. Phaolô khuyên nhủ Timôthê hãy ra sức và chuyên chăm theo đuổi lề luật Chúa đã ban cũng như sống Lời Chúa dạy bảo thật đạo đức, công chính hoàn hảo, không chi đáng trách vào niềm tin, vào lối sống nhẫn nại, hiền hòa và thực thi lòng mến giành lấy sự sống đời đời ‘chờ đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta xuất hiện’ (c.11-14).
Bài đọc 3. ĐGS sau khi nói với các môn đệ về người quản gia bất lương CN 25 qua, Người quay lại nói với dân chúng đang theo Người tiến lên Giêrusalem. Lên Giê-rusalem là lời mời gọi thiết thực và là đường dẫn lên Trời mà Người là Thủ Lãnh dẫn dắt những ai bằng lòng dứt bỏ mọi thứ rào cản và bằng lòng vui lòng cùng vác thập giá mình như Người sẽ đã phải vác. Người đưa ra một bức tranh với hai hình ảnh cụ thể dành cho hai nhân sự, người vào được Nước Trời, người không vào được, trong câu chuyện giữa một người giàu có và kẻ nghèo Lagiarô.
Bức tranh mô tả hai đương sự có hai lối sống đối chọi sắc nét. Người giàu ăn mặc lụa là, bóng loáng trong long lanh sắc màu gấm vóc. Tiếc một điều người nghèo Lagiarô hằng ngày có mặt ngoài cổng mà trong mắt ông dường như không có, vì ông không chút quan tâm đoái nhìn. Lagiarô nghèo mình đầy ghẻ chóc lở loét, đau đớn, thiếu thốn, đói khát. Chỉ có mấy con chó cứ đến liếm như ban chút an ủi trong bản năng của một loài động vật có cảm năng. Cả hai khi sống dù có khoảng cách nhưng không bất tận, khi chết không có khoảng cách mà bình đẳng vì cả hai đều chết, và sau đó, là một hệ lụy khoét một khoảng cách sâu vô cùng vô tận, như Abraham trong câu chuyện đã cho biết: ‘ Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẩm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’ (c.26).
Cả hai khi còn sống ở một khoảng không gian thật gần nhau, kẻ ngoài cổng người trong nhà, không ai có hành vi hay lời lẽ phiền lụy nhau. Người giàu chẳng đuổi xua, không một cử chỉ hay lời miệt thị rẻ rúng kẻ nghèo, chỉ với cách sống thường nhật an thân tự tại sống như không có người nghèo Lagiarô bên cạnh. Còn với Lagiarô, chẳng có dấu gì gọi là niềm tin vào sự hạnh phúc dẫn đến tinh thần an vui trong cảnh nghèo khốn, có biết giữ kẽ cử chỉ trân trọng người giàu có hay không, không biết. Thế mà sau cái chết bình đẳng, Lagiarô được rước vào lòng tổ phụ Abraham, người giàu phải theo bước các thiên thần dẫn xuống cõi âm ty chịu cực hình.
Trong TM của mình, để làm sáng tỏ việc chịu cực hình của người giàu có, Luca có cả thảy ba đoạn viết về người giàu có, ở các chương 12, 16, 18. Chương 12, người giàu của cải ê hề, đâm ra nghỉ ngơi ăn chơi thỏa thích, được ĐGS cảnh báo ‘hãy lo làm giàu trước mặt TC’. Chương 19, người giàu đến xin ĐGS chỉ cách gì để có được ‘sự sống đời đời làm gia nghiệp’. Người dạy ông hãy giữ các điều răn mà ông đã biết. rồi còn phải ‘bán tất cả những gì ông có mà phân phát cho người nghèo và ông sẽ được kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi’. Và hôm nay, chương 16 câu chuyên người giàu và người nghèo Lagiarô. Từ đó ĐGS đưa ra một giáo huấn như đặt ngọn đèn đỏ tại các ngã giao thoa các con đường, báo nguy cho hết mọi người: ‘Những người có của thì khó vào Nước TC biết bao’ (c.18,24).
Lạy Thầy chí thánh, xin hãy giúp con lo làm giàu trước mặt TC phần con và phần các chiên mà Chúa đã trao cho con.
Qua các bài Kinh thánh hôm nay, Chúa muốn cảnh báo chúng ta về cuộc sống hiện tại để chúng TN 26-C193
Qua các bài Kinh thánh hôm nay, Chúa muốn cảnh báo chúng ta về cuộc sống hiện tại để chúng ta thay đổi trở lại với Chúa, có cuộc sống đạo đức, ngay thẳng, theo đuổi đức công chính, có lòng bác ái và quảng đại, để ngày Chúa Ki-Tô đến chúng ta được hưởng hạnh phúc thật đời sau như bài đọc 2 cho chúng ta biết.
Trong bài đọc 1, tiên tri A-mốt muốn cảnh báo đến hạng người khá giả, giàu có và thế lực mà tiên tri gọi họ là hạng người “phú quý ở Sion.” Sion còn có tên là Giê-ru-sa-lem. Hạng người phú quí ở Sion này đang sống trong giàu có và hưởng thụ. Họ dùng mọi cách để kiếm tiền và thật nhiều tiền, không màng tới đời sống của những người nghèo khổ là nạn nhân của phương cách kiếm tiền của họ. Họ coi thường luân lý, công bằng và lời Chúa dạy. Tệ hơn nữa, họ không chú ý đến những gì vừa đã xảy ra trước mắt, và số phận của họ cũng đang từ từ bị đe dọa. Tiên tri kêu gọi họ thay đổi trước biến cố miền Bắc đất nước đã bị quân Át-si-ri-a xâm lăng, tàn phá và bắt dân đi làm nô lệ.
Ông bà anh chị em thân mến. Thật tình tôi không nhớ một đoạn nào trong Tin mừng mà Chúa Giê-su lên án những người giàu có vì đơn giản là họ có nhiều tiền bạc của cải. Nhưng chúng ta thấy Chúa đã cảnh báo họ nhiều lần về những sự nguy hiểm mà tiền bạc và sự giàu có đưa đến. Chúa lên án những người để tiền bạc và giàu có biến thành tự mãn, kiêu căng và ích kỷ, cũng như mất đức tin và quên Chúa, là Đấng đã ban cho họ một cách phong phú, dư thừa, như người chủ phú hộ trong bài Tin mừng 2 Chúa nhật vừa qua. Người phú hộ này quá giàu có cho nên xây thêm nhiều kho để chứa lúa thóc, mà quên đi linh hồn và quên đi hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Hay Chúa Giê-su đã lên án người quản lý đã để cho tiền của trở thành bất trung và gian dối trong Tin mừng Chúa nhật tuần vừa qua. Hay Chúa lên án những người đã để cho tiền bạc, giàu có trở thành người ích kỷ, vô tâm và vô cảm như người phú hộ trong Tin mừng hôm nay.
Tôi nghĩ rằng câu truyện dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay đã gây sốc, gây bàng hoàng xửng sốt cho những người nghe. Theo quan niệm của người Do thái thời đó, những người giàu có là những người tốt lành được Chúa chúc phúc. Họ nghĩ rằng người nghèo khổ, người bị đau bệnh, bị tai nạn hay tàn tật là những người tội lỗi bị Chúa trừng phạt. Nhưng người phú hộ trong bài Tin mừng hôm nay không chắc chắn là người tốt lành hay đạo đức, và người nghèo khổ Lazarô cũng không chắc chắn là người tội lỗi, mà chỉ là người bất hạnh có cuộc sống không may mắn mà thôi. Bài Tin mừng còn muốn cho chúng ta biết những người nghèo khổ là những người cần được quan tâm và yêu mến, và sẽ được Chúa cứu giúp. Và ở đây chúng ta cũng nhận thấy ngay bầy chó hoang thường chỉ đi xâu xé, thế mà đối với Lazarô chúng dễ thương lạ lùng, đến liếm các ung nhọt cho ông. Và điều này càng nói lên ác tâm bất nhẫn của người phú hộ hơn nữa.
Ông bà anh chị em thân mến. Qua câu truyện dụ ngôn trên đây, Chúa muốn nhắc chúng ta điều quan trọng: nếu chúng ta có lòng mong ước dự phần vào hạnh phúc Nước Trời, chúng ta phải mến Chúa yêu người. Đây là chân lý và là hiến pháp của Nước Trời. Đức bác ái hay tình yêu mến mà Chúa Giê-su đề cập ở đây không phải phát xuất từ sự xúc động, hay những cảm nghiệm tốt, mà tuôn trào ra từ tấm lòng ao ước muốn phục vụ và muốn giúp đỡ người khác. Chúng ta có thể hỏi “Người phú hộ đã làm gì?” Chúng ta thấy Chúa Giê-su không cho chúng ta câu trả lời chính đáng, nhưng Chúa muốn chúng ta hỏi chính chúng ta: “Nếu tôi ở trong trường hợp người phú hộ này tôi làm gì?” “Thái độ của tôi ra sao và hành động như thế nào?” “Chúa có muốn tôi quan tâm, yêu thương và chia sẻ với những người nghèo khổ và bất hạnh mà tôi biết rõ đang cần sự giúp đỡ của tôi không?”
Bài Tin mừng cho chúng ta biết khi hai người chết, số phận của họ thay đổi. Một người ở trên và một người ở dưới. Kẻ ở dưới ngước mắt lên thấy hạnh phúc người ở trên. Thấy mình đang chịu những sự khốn khổ trong lửa, còn Lazarô thì đang vui mừng hạnh phúc nơi lòng của Abraham. Chúng ta thấy kẻ khốn khổ đã kêu lên xin cha Abraham nói với Lazarô nhỏ xuống cho một chút nước để đỡ khổ. Nhưng ông ta đã không hiểu, vì vậy Abraham đã phải cắt nghĩa: bây giờ sự đổi thay đã dứt khoát và hố sâu ngăn cách giữa hai thế giới hạnh phúc và khốn khổ không thể bắc cầu được nữa. Kẻ xưa khổ thì nay sướng và kẻ xưa sướng thì nay khổ. Chứ không như ngày xưa khi còn sống trên mặt đất kẻ sướng có thể đến với kẻ khổ mà chia sẻ hay giúp đỡ. Nhưng vì ông đã ích kỷ, vô tâm và vô cảm, không muốn làm việc ấy, nên giờ đây ông đừng hy vọng bắt được nhịp cầu hiệp thông.
Tin mừng dĩ nhiên có thể chấm dứt ở chỗ này và đã có nhiều bài học cho chúng ta, nhưng chúng ta thấy, Chúa Giê-su không dừng ở những điểm nêu trên, Chúa muốn chúng ta chú ý đến bài học rất quan trọng sau đây. Chúa muốn chúng ta thành tâm nhìn vào đời sống hôm nay trên trần thế này, để nhận ra thái độ cũng như cuộc sống của chúng ta có phù hợp với giáo huấn của Chúa dạy là mến Chúa yêu người hay không, và Người kêu gọi chúng ta thay đổi. Chúng ta thấy tiên tri Amos dùng hình phạt lưu đày để cảnh tỉnh và đe dọa những kẻ sống giàu sang mà ích kỷ, nhưng có điều ông chưa nghĩ đến cuộc sống đời sau và bình diện Nước Trời một cách rõ ràng và sâu sắc như bài Tin mừng cho chúng ta biết. Người Do thái xưa cứng lòng cho nên Chúa Giê-su đau đớn dùng miệng Abraham mà nói: “Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu.”
Chúng ta có một niềm xác tín vào Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa được chính Thiên Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ và dạy chúng ta yêu mến Chúa. Chúng ta có Lời Chúa là ánh đèn soi và hướng dẫn cuộc sống, để chúng ta tránh xa cuộc sống của những người giàu có nhưng làm nô lệ cho tiền bạc, vật chất, và có cuộc sống gian dối và ích kỷ, cũng như vô tâm và vô cảm với những người nghèo khổ và bất hạnh. Thay vào đó chúng ta hãy theo đuổi đời sống công chính, ngay thẳng và đạo đức. Và cho được như vậy thì phải sống ba nhân đức tin, cậy, mến, một cách thành tâm, và nhận biết những gì chúng ta có hôm nay là ơn lành Chúa ban, biết sử dụng một cách khôn ngoan, với tâm tình bác ái và quảng đại để chuẩn bị cho cuộc sống hạnh phúc đời sau.
Ngôn sứ Amốt sống thế kỷ thứ 8 trước Đức Kitô, ônglà ngôn sứ của đức công bằng, ông tố cáo TN 26-C194
Ngôn sứ Amốt sống thế kỷ thứ 8 trước Đức Kitô, ônglà ngôn sứ của đức công bằng, ông tố cáo bất công xã hội và tố giác tôn giáo bề ngoài, dẫn nhập vào phụng vụ hôm nay, nhà tiên tri cho thấy cảnh chướng tai gai mắt, sự bất công trong xã hội thời bấy giờ, hạng người giàu sang sống trong xa hoa tiệc tùng, bàn ăn đầy cao lương mỹ vị, họ không quan tâm gì đến bối cảnh xã hội đang sống: “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ … Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ!” (Bài đọc 1. Am 6,1a.4-7).
Cách sống sang chảnh làm người giàumù mắt không nhìn thấy điều then chốt của cuộc hiện sinh, và không nhìn thấy thảm hoạ sẽ rớt xuống trên đầu họ, đó là viễn ảnh lưu đày. Phụng vụ cảnh giác chúng ta về lối sống dửng dưng và vô tâm, nhắm mắt làm ngơ trước cảnh bần cùng của tha nhân, không quan tâm đến hoàn cảnh sống của người anh em láng giềnh cơ cực.
Nhận định của tiên tri Amốt chuẩn bị chúng ta hiểu rõ dụ ngôn ông nhà giàu trong Tin Mừng Luca, suốt ngày yến tiệc không quan tâm đến Ladarô nghèo khổ nằm ở cổng nhà ông: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho no” (Bài Tin Mừng. Lc 16,19-31). Một hố sâu cách biệt giữa hai hạng người trọc phú và cùng đinh. Người giàu và người nghèo mặc dầu sống cận kề nhau nhưng thuộc hai thế giới hoàn toàn khác biệt nhau. Điều làm chúng ta suy nghĩ, người nghèo mạt rệp lại có danh tánh là Ladarô, còn người đại phú thì không, cho hiểu thêm rằng dường như người nghèo tự họ có giá trị trước mặt Thiên Chúa và người phú hộ thì không.
Người giàu sống trong an toàn giả hiệu dựa cậy vào quyền thế và sức mạnh vật chất, không nhìn thấy, không quan tâm, không cảm thông cảnh khổ của người anh em trước cổng nhà. Sự cận kề về không gian và sự xa lạ tâm lý đặt sát cạnh nhau, được nhấn mạnh trong Tin Mừng hôm nay, ở nơi đó thiếu hẳn sự cảm thông, ở đó ngự trị một lối sống dửng dưng, một chủ nghĩa mắc-kê-nô (mặc kệ nó), khép kín và tự kỷ. Nhận xét nầy làm chúng ta nhớ đến cảnh phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu chương 25, mà tiêu chí phán quyết chung cuộc thưởng hay phạt căn cứ duy nhất vào việc làm từ thiện cho người nghèo, cho dù thí chủ không biết mình làm cho Thiên Chúa, thì vẫn được Thiên Chúa ghi công, hạng người nầy được gọi là Kitô hữu vô danh, tức làm theo ý Đức Kitô mà không biết rõ Đức Kitô là ai.
Như vậy từ thâm sâu có mối liên hệ nhân quả tự động giữa việc làm phúc đức hôm nay và phần thưởng mai sau, giữa sự dửng dưng hôm nay và sự từ khước ngày mai. Tin Mừng không nói ông phú hộ kia vi phạm công bằng hay bất công với ai, mà chỉ nói khi chết ông bị luận phạt trong hoả ngục. Vậy tội của ông ở chỗ nào ? Tội của ông nằm ở chỗ dửng dưng đối với người nghèo khổ nằm trước cửa nhà ông. Tội không quan tâm đến người nghèo chung quanh, không phân chia tài sản dư thừa cho người đói rách, trong khi ông sống trong giàu sang thừa mứa.
Như thế chúng ta thấy có sự liên đới trách nhiệm trong sử dụng của cải. Đây cũng là lý do mà ngày nay các nước giàu có trên thế giới được kêu gọi san sẻ tài nguyên cho các nước nghèo. Từ đó một hệ luận được rút ra: hôm nay đã không nhận ra anh em nơi cửa nhà mình thì ngày mai cũng không được Thiên Chúa nhìn nhận nơi cửa thiên đàng, cho dù có thoái thác là không biết, không thấy Chúa trong cuộc sống. “Hãy cố gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến” đó là lý tưởng “người của Thiên Chúa” mà thánh Phaolô khuyên nhủ đệ tử của mình là Timôthê (Bài Đọc 2. 1Tm 6,11-16).
Người nghèo khó là chínhĐức Kitô bị bỏ rơi. Cũng như hôm qua, hôm nay vẫn còn có những Ladarô nằm trước cửa nhà, trong thành phố của chúng ta. Và cũng như thời tiên tri Amốt, vẫn còn đó hạng người giàu có mà tâm hồn vẫn cửa đóng then cài, sống trong tiệc tùng và cô lập trong xa xỉ, không ngó ngàng gì đến đám dân đen lầm than.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết đánh giá đúng đắn vật chất, có tâm hồn quảng đại, biết cảm thông và biết chia sẻ cho anh em, nhất là trong những hoàn cảnh túng ngặt, “biết cho đi mà không tính toán hơn thiệt”. Amen
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay lưu ý đến sự giàu có và những tác hại của nó. TN 26-C195
Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay lưu ý đến sự giàu có và những tác hại của nó.
Amos 6:1,4-7
Ngôn sứ A-mốt lên án những người giàu có chỉ lo yến tiệc linh đình và vui hưởng những lạc thú cho riêng mình; họ sẽ sớm biết số phận đau thương đang chờ đợi họ.
1Tm 6: 11-16
Đoạn trích thư thứ nhất gởi cho ông Ti-mô-thê này xem ra không liên quan gì đến chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay. Trong đoạn trích này, thánh Phao-lô khuyên ông Ti-mô-thê hãy trung thành kiên vững trong niềm tin.
Lc 16: 19-31
Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Số phận của họ bên kia nấm mồ thì hoàn toàn đảo ngược.
BÀI ĐỌC I (Amos 6:1a, 4-7)
Chúng ta gặp lại ngôn sứ A-mốt, người chăn cừu Giu-đê này. Vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ông đã nhận được sứ mạng đi đến vương quốc miền Bắc để lay động tiếng lương tâm và nhắc lại những yêu sách luân lý của Giao Ước. Trong đoạn trích Chúa Nhật vừa qua, vị ngôn sứ lên án thói tham lam vô độ và những trò gian dối của những phú thương; trong đoạn trích của Chúa Nhật này, ông tố cáo tính vô tâm của những bậc quyền cao chức trọng, những kẻ chỉ biết tận hưởng những lạc thú cho thỏa thích mà không lường trước số phận bi thảm đang chờ đợi họ.
1. Cuộc sống thanh bình thịnh vượng giả tạo:
Thành đô Sa-ma-ri nằm trên một ngọn đồi biệt lập, vươn cao trên những thung lũng chung quanh, bên ngoài được bao bọc bởi những bức tường thành kiên cố với những pháo đài, bên trong là những cánh đồng canh tác. Thành đô Sa-ma-ri như một thành trì kiên cố có thể kháng cự bất kỳ những cuộc tấn công từ bên ngoài vào, và quả thật, thành đô này đã kháng cự suốt ba năm trước những cuộc tấn công của đạo quân Át-sua hùng mạnh (723-721 trước Công Nguyên). Hơn nữa, vào thời điểm ngôn sứ A-mốt công bố sứ điệp, cảnh thanh bình ngự trị, vì quyền lực Át-sua đang suy yếu. Các tướng lãnh và các quan chức có thể vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị.
Vị ngôn sứ tố cáo sự an toàn phỉnh phờ này. Lý do mà vị ngôn sứ nêu ra thật đơn giản: cách sống gây công phẩn của những bậc quyền quý này sẽ dẫn họ đến sự trừng phạt không chút xót thương.
2. Những thú vui hênh hoang tự đắc:
Với niềm hứng khởi và tài mĩa mai châm biếm, ngôn sứ A-mốt mô tả rất hiện thực những yến tiệc linh đình phô bày thói xa hoa vô độ trong những dinh thự lầu đài nguy nga tráng lệ: “Chúng nằm dài trên giường ngà, phè phỡn trên trường kỷ mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao, tưởng mình cũng giỏi đàn địch, như vua Đa-vít”. Những từ ngữ vị ngôn sứ sử dụng có một âm vang đặc biệt: đây là những từ ngữ được vay mượn ở phụng vụ của những bàn tiệc hy tế: chiên non, bê béo, rượu cả bầu, dầu thơm hảo hạng mà người ta dùng trong việc cúng tế. Phải chăng ngôn sứ A-mốt muốn mô tả những bàn tiệc thánh thiêng mà các bậc quyền quý đã lạm dụng? Điều này thì có thể. Như vậy, ở nơi danh sách liệt kê những bất công mà ông tố cáo, vị ngôn sứ thêm vào những hành vi phạm thánh, thói đạo đức giả. Vả lại, ông đã nói nhân danh Đức Chúa: “Lễ lạc của các ngươi, Ta chán ghét khinh thường; hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề thích thú. Các ngươi có dâng lên Ta của lễ toàn thiêu…những lễ vật của các ngươi, Ta không vui nhận, chiên bò béo tốt các ngươi đem hiến tế, Ta chẳng đoái hoài. Hãy dẹp bỏ tiếng đàn hát om sòm của các ngươi, Ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa. Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn” (5: 21-24).
3. Thảm họa không sao tránh khỏi:
“Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!”. Ngôn sứ A-mốt nhắc đi nhắc lại lời đe dọa này suốt sứ điệp của mình. Trong cảnh thanh bình thịnh vượng này, sứ điệp của vị ngôn sứ xem ra thật điên rồ. Tuy nhiên, lời đe dọa này sẽ được ứng nghiệm. Quyền lực của Át-sua chẳng bao lâu chỗi dậy. Thành đô Sa-ma-ri bị sụp đổ. Vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en, sẽ biến mất vĩnh viễn. Đoàn người Ga-li-lê và Sa-ma-ri bị dẫn đi lưu đày ở Ni-ni-vê, kinh đô của đế quốc Át-sua. Những tiếng kêu của người nghèo đã vang lên tới Chúa.
BÀI ĐỌC II (1Tm 6: 11-16)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi cho Ti-mô-thê. Trong đoạn trích tuần trước, thánh nhân chủ yếu ngỏ lời với cộng đoàn tín hữu Ê-phê-sô; trong đoạn trích mới này, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê một cách riêng tư nhiều hơn.
1. Ngôn từ:
Đoạn này thuộc phần cuối thư. Thánh nhân khuyên, nhưng cũng truyền lệnh, với uy thế mục vụ và tuổi đời của ngài, vì ông Ti-mô-thê vẫn còn trẻ, như thánh nhân viết trong thư này: “Chớ gì đừng coi ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch” (4: 12). Thánh nhân nói một cách hùng hồn với tư cách người Ki-tô hữu, nhưng thỉnh thoảng thánh nhân mượn những ngôn từ thể thao và nhuốm màu sắc lý tưởng Hy-lạp.
Về thể thao, thánh nhân một lần nữa sánh ví cuộc đời Ki-tô hữu với một cuộc chiến đấu vì đức tin cao đẹp, nhằm giành cho bằng được sự sống đời đời, như vận động viên thi đấu trong thao trường ra sức giành cho bằng được vòng nguyệt quế (x. 1Cr 9: 24; Pl 3: 14 và 2Tm 2: 4-5 và 4: 7).
Thánh Phao-lô cũng nói với tư cách người Hy-lạp, hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh Chân, Thiện và Mỹ: “Anh hãy lao mình vào cuộc thi đấu cao đẹp…Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp…”. Thánh nhân cũng diễn tả Đức Ki-tô theo cùng một cách như thế: “Đấng đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô”.
Năng lực chiến đấu, ý thức về sự cao đẹp của chân lý Ki-tô giáo, những tâm tình như thế có thể giúp Ti-mô-thê trong công việc điều hành Giáo Đoàn của ông, vì ông phải nêu gương sáng.
2. Lời cam kết:
Ông Ti-mô-thê đã được đặt tay tấn phong; ông là “người của Chúa”; ông “đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng” (thánh nhân ám chỉ hoặc đến bí tích Thánh Tẩy hay đến bí tích Truyền Chức của ông), vì thế, cách sống của ông phải đi đôi với lời cam kết của ông: “Hãy cố gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa”.
Tiếp đó, thánh nhân nói bằng một giọng điệu nghiêm nghị hơn: trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Đức Giê-su Ki-tô, phải trung thành, phải bắt chước Đức Giê-su, Ngài đã khẳng định chân tính của mình trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô. Thánh Phao-lô biết rằng trong cộng đoàn Ê-phê-sô có những căng thẳng và vài biện luận rất gần với lạc giáo. Ông Ti-mô-thê phải là vị hướng đạo tinh thần không gì đáng trách. Người ta cảm thấy thánh nhân nghi ngờ những sai lạc đạo lý. Vì thế, lời khuyên của thánh nhân mặc lấy một lệnh truyền: “Tôi truyền cho anh: hãy tuân giữ điều răn của Chúa”. Và để có tính thuyết phục hơn, thánh nhân gợi lên ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang, đó sẽ là giờ xử án.
3. Bài thánh thi:
Thánh nhân chấm dứt bằng lời chúc tụng vinh quang Thiên Chúa, một “vinh tụng ca”, xem ra bắt nguồn từ Do-thái giáo. Những ngôn từ được mượn ở nơi những lời nguyện phổ biến trong các hội đường thuộc thế giới Hy-lạp. Người ta nhận ra những biểu thức của sách Đệ Nhị Luật như: “Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy, là Đấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ” (Đnl 10: 17) và các Thánh Vịnh như: “Hãy tạ ơn Chúa các chúa” (Tv 136: 3). Thánh nhân sáp nhập chúng vào trong một thị kiến ở đó Đức Giê-su ngự trị. Đức Giê-su này, Đấng đã làm chứng trước tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, thì chính Ngài, Chúa các chúa, sẽ bày tỏ vinh quang “đúng thời đúng buổi”.
TIN MỪNG (Lc 16: 19-31)
Chương 16 Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và kết thúc với dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Đức Giê-su tiếp tục giáo huấn các môn đệ về thái độ họ phải có đối với sự giàu có. Ngài trở nên nghiêm khắc hơn khi kết án không một chút xót thương sự giàu có mà người ta sử dụng đến mức chỉ biết đến mình mà không quan tâm đến những nỗi khốn cùng của anh em đồng loại của mình. Trái lại, người nghèo, chết vì cảnh đời khốn khổ, nhưng được hưởng một số phận hạnh phúc bên kia nấm mồ, đây là lời ngợi khen về đức nghèo khổ.
Câu chuyện của Chúa Giê-su được gợi hứng từ một chuyện tích dân gian xuất xứ từ Ai-cập; văn chương kinh sư cũng biết đến chuyện tích này. Nhưng Chúa Giê-su triển khai chuyện tích này để rồi từ đó rút ra một bài học vượt quá những kết luận bình dân.
1. Một bức tranh tương phản:Hai cảnh đời được mô tả rất tương phản giữa người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ. Người giàu có thì “mặc toàn gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”; còn anh La-da-rô khốn khổ, mình đầy ghẻ chốc, nằm trước cổng nhà người giàu này, cứ chờ đợi những mẩu bánh thừa rơi xuống từ bàn tiệc của người giàu. Bức tranh lại càng thêm bi thảm hơn nữa khi kể: “Lại thêm bầy chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”. Như chúng ta biết, đối với người Do thái, con chó là một con vật ô uế.
“Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham”: Đây là kiểu nói Kinh Thánh để chỉ người công chính được chết lành và được đưa vào nơi an nghỉ cùng với các tổ tiên trong khi chờ đợi được sống lại. Không có bất kỳ đức hạnh nào của người nghèo được kể ra, khác với trường hợp trong chuyện tích Ai-cập: khi người nghèo đến thế giới của người chết, được thần Osiris cai quản, những hành động của anh được đặt trên bàn cân: những công đức của anh thì nhiều hơn những tác hại của anh, vì thế, anh được ngồi bên cạnh thần Osiris. Còn người giàu cũng chết, những tác hại của ông thì nhiều hơn những công đức của ông; vì thế, ông phải chịu cực hình.
“Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn”: Đây là kiểu nói bình dân để chỉ cái chết của những người chẳng có đức độ gì. Ngoài ra, hình ảnh Kinh Thánh được sử dụng ở đây là “lửa”, lửa phán xét mà các ngôn sứ và chính Gioan Tẩy Giả đã nhiều lần loan báo. Vậy thì tội của người giàu này là gi? Ông không hất hủi xua đuổi anh La-da-rô, cũng không buông lời mắng nhiếc thóa mạ anh. Tội của người giàu chính là thái độ thờ ơ lãnh đạm nhắm mắt làm ngơ trước những nỗi khổ của người anh em đồng loại của mình. Vì thế, kẻ đã không bố thí cho người cùng khổ vài mẩu bánh thừa từ bàn rơi xuống, thì cũng sẽ không được ban cho một giọt nước nào trên lưỡi để làm dịu cơn khát trong chốn trầm luân. Điều này gợi nhớ câu nói của Đức Giê-su trong dụ ngôn “cuộc phán xét sau cùng”, trong đó Ngài đã đồng hóa mình với những người bất hạnh: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Matthew 25:42-43).
Ở nơi hoàn cảnh đảo ngược này, chúng ta gặp lại cách thức mà thánh Lu-ca đã trình bày các Mối Phúc: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng, vân vân”. Trái lại, “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói, vân vân” (Lc 6: 20-26).
Chúa Giê-su bổ túc cho chuyện tích dân gian này cuộc đối thoại độc đáo giữa tổ phụ Áp-ra-ham và người giàu có. Qua hai hình tượng: trên thiên đàng và dưới hỏa ngục, cuộc đối thoại này khai mở một trong những giáo huấn chính yếu của Tin Mừng.
2. Sự tự do của con người:
Trước lời van xin của người giàu có: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát…”, Vị tổ phụ đều từ chối khi trả lời với ông: “Con ơi, hãy nhớ lại; suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”.
Còn về việc ông cầu xin cho anh La-da-rô đến cảnh báo những anh em của ông hiện đang sống trên dương thế, thì không cần thiết. Thiên Chúa đã ban sẵn cho họ những phương tiện tất yếu cần cho ơn cứu độ rồi: “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Không cần thiết phải sai người chết sống lại về báo: “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà chúng còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Như vậy, chúng ta gặp lại thái độ của Đức Giê-su đối với những người Pha-ri-sêu thù nghịch: Ngài đã từ chối dấu lạ mà họ đòi hỏi. Lời của Ngài thì đủ cho họ rồi…Từ đó, hai bài học được rút ra: một đằng, lòng chai dạ đá của những người giàu có (và tổng quát hơn, những người tội lỗi), “họ chẳng chịu nghe đâu”; mặt khác, Thiên Chúa kính trọng sự tự do lương tâm của mỗi người.
Phân hóa giàu - nghèo vẫn luôn là vấn nạn lớn của xã hội, khó có thể giải quyết tận căn. Đã có TN 26-C196
Phân hóa giàu - nghèo vẫn luôn là vấn nạn lớn của xã hội, khó có thể giải quyết tận căn. Đã có bao vĩ nhân, nhà cách mạng với những quan điểm, triết thuyết mới mẻ mong thu hẹp khoảng cách ấy, nhưng rốt cuộc ‘miêu lại hoàn mèo.’ Trong dụ ngôn La-da-rô và người phú hộ, Đức Giê-su đã soi sáng cho vấn đề xã hội muôn thuở này. Với các tín hữu, niềm tin vào sự sống đời sau giúp ta quảng đại chia sẻ, vui vẻ cho đi, thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng giữa người với người. Chỉ vì không đặt niềm tin vào Thiên Chúa, con người đã để cho lòng tham của cải thế gian chiếm mất lòng họ, “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình,” (c.19) đến độ không còn thấy ai khác ngoài bản thân. Niềm tin chính là đôi mắt thần giúp ta nhìn thấy tha nhân đang đau khổ, là chìa khóa hóa giải mọi khoảng cách giữa người với người.
Mời Bạn: “Chơi đi kẻo để xuân tàn, cái già xồng xộc nó liền theo sau,” câu ca dao bình dân phản ảnh quan niệm của con người mọi thời, người ta dễ cho phép mình hưởng thụ tối đa bất chấp sự khốn cùng của người khác. Lương tâm Ki-tô hữu chúng ta nghĩ gì về tình trạng này?
Sống Lời Chúa: Tôi tập nhìn thấy khuôn mặt Chúa Ki-tô nơi những người nghèo khổ, để luôn kính trọng, quí mến và sẵn sàng làm những gì có thể hầu giúp họ vượt khó.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa, con được no nê mà vẫn thiếu ăn, vì bên con còn có người đói lả. Con uống nước mà họng vẫn khô ran, vì bên con còn có người đang khát…” Xin Chúa giúp con khỏa lấp mọi nỗi khốn cùng nơi anh chị em con. Amen. (theo Myrtle Householder).
Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần TN 26-C197
Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau.
1. Khoảng cách đời này
Người phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Hai con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.
Thánh Luca với ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so sánh đầy ấn tượng: người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương, kẻ không ai thương, người không thương ai.
2. Khoảng cách đời sau
Cái chết đến làm đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới chân bàn ăn được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy bị đày xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt.”
3. Khoảng cách đời này và đời sau
Khoảng cách nơi cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh cực hình ở đời sau? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo hãy chấp nhận, hãy an phận? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng phúc thiên đàng?
Chắc chắn Thánh Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi và nghèo khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương 16 giáo huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.
Người phú hộ bị luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội phú hộ mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là “mackeno” (mặc kệ nó) trước sự cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.
Lazarô không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại cho họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.
Con người đi đến vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép kín lòng mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc sống vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương, lòng không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Chúa Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.
Lý tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động (GHAC số 34).
Vẫn còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ chia niềm vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.
Cuộc đời người Kitô hữu là “cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời TN 26-C198
TMĐP- Cuộc đời người Kitô hữu là “cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời“ (1 Tm 6,12). Trong cuộc thi đấu này, mỗi người sẽ phải chứng tỏ mình được kêu gọi để “yêu thương như Thiên Chúa đã yêu thương“ (x. Ga 13,34), và làm chứng Thiên Chúa là Tình Yêu bằng đời sống vì mọi người.
Các bài đọc phụng vụ của chúa nhật này đặt mỗi người chúng ta trước những bất hạnh vì thiếu thốn vật chất của anh chị em mình và quy trách chúng ta đã không lắng nghe lời Chúa và thực hiện giới răn yêu thương của Ngài.
Ngay từ thời Cựu Ước, các ngôn sứ đã lớn tiếng khiển trách: Khốn cho những kẻ sống an nhiên, tự tại, phè phỡn trước khốn khó của anh em, và tang thương của dân tộc. “Chúng nằm dài trên giường ngủ, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao …Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước nhà Giuse sụp đổ!” (Am 6,4-6), và xem ra không ai trong họ đã tin Đức Chúa sẽ trừng phạt những kẻ vô trách nhiệm trước khốn quẫn của anh em và nguy cơ của đất nước. Và việc gì phải đến đã đến, như sấm ngôn của Đức Chúa: “Giờ đây, chúng sẽ bị lưu đầy, dẫn đầu những kẻ bị lưu đầy. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6, 7).
Không nghe lời Chúa nhưng cố tình sống vô trách nhiệm trước bất hạnh của đồng loại qủa thực là “tội chung” của phần đông chúng ta như người phú hộ “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình kia” (Lc 16,19) được chính Đức Giêsu mô tả trong Tin Mừng Luca.
Ông nhà giàu đã vô trách nhiệm đối với người nghèo khó tên Ladarô khi vô cảm để mặc anh ta “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà, thèm những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta” (Lc 16, 20-21). Rồi cả hai đều chết, người nghèo khó được thiên thần đem vào lòng Ápraham. Còn ông nhà giàu xuống dưới âm phủ và chịu cực hình (x. Lc 16,22-23).
Thực vậy, Đức Giêsu không ngừng nhắc nhở các môn đệ của Ngài trách nhiệm tương thân tương ái đối với mọi người, vì là đòi hỏi hàng đầu Thiên Chúa muốn những ai thuộc về Ngài phải chu toàn, bởi không yêu thương, không thể là môn đệ Ngài; vô trách nhiệm trước hoàn cảnh thương tâm của người khác, không thể vào được Nước Trời, vì tiêu chuẩn phán xét công tội của mỗi người ở ngày chung thẩm chính là những việc bác ái đã thực hiện khi còn sống như Tin Mừng Matthêu đã mô tả (x. Mt 25,31-46).
Có điều đáng chú ý trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó”, đó là khi sống, ông nhà giàu đã không nghe những Lời Chúa dạy phải sống bác ái, phải quảng đại, biết chia sẻ, giúp đỡ những người kém may mắn hơn mình, để đến khi không còn tìm được ai cứu chữa, và lời kêu nài tổ phụ Ápraham: “Xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đố khổ lắm!” (Lc 16,24) bị từ chối, với lý do Thiên Đàng – Hỏa Ngục là một vực thẳm lớn không thể vượt qua, “đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,26), lúc đó ông nhà giầu mới buồn rầu nghĩ đến năm anh em của ông vẫn còn sống và xin cho ông hiện về gặp, vì nghĩ rằng: “nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối” (Lc 16,30), nhưng rất tiếc, tổ phụ Ápraham đã kết thúc cuộc đối thoại khi qủa quyết: “Môsê và các ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin” (Lc 16,31).
Thế mới biết: lắng nghe Lời Thiên Chúa và Tin vào Ngài là việc rất khó, và đòi phải có ơn Chúa rất nhiều, nên chỉ dựa vào sức riêng mình, chỉ tìm kiếm những phương thức và động lực từ phàm nhân, chúng ta không thể “trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến” cũng như “nhẫn nại và hiền hoà” (1 Tm 6, 11).
Vâng, cuộc đời người Kitô hữu là “cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời” (1 Tm 6,12). Trong cuộc thi đấu này, mỗi người sẽ phải chứng tỏ mình được kêu gọi để “yêu thương như Thiên Chúa đã yêu thương” (x. Ga 13,34), và làm chứng Thiên Chúa là Tình Yêu bằng đời sống vì mọi người.
Không phải phú hộ và La-da-rô sống trong những thế giớ khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài TN 26-C199
Không phải phú hộ và La-da-rô sống trong những thế giớ khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài tía; La-da-rô mặc áo quần rách rưới. Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày, La-da-rô không có gì đê ăn. Ông phú hộ mạnh khỏe; la-da-rô mình đầy mụn nhọt. . Ông phú hộ sống trong lâu đài; La-da-rô sống trên đường phố.
Thật vậy, nói rằng họ sống trong những thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ. Họ sống trong một thế giới trái ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn; La-da-rô sống trong một sa mạc, ông phú hộ sống trong một thiên đàn giữa trần gian; La-da-rô sống trong một địa ngục loài người. và dù thế giơi riêng của họ khác nhau như ngày và đêm, chúng lại ở cạnh nhau.
La-da-rô sống ở bên lề thế giới của ông phú hộ. Và vì anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ nên mỗi ngày anh nhì vào thiên đàng mà anh đã bị trục xuất. Dù anh ao ước được đi vào thế giới của ông, anh cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh sẽ sung sướng biết bao khi được làm đầy bụng bằng những mãnh vụn thức ăn từ bàn của ông phú hộ rơi xuống. nhưng anh không có được, không phài vì không thể làm được việc đó mà chỉ vì không ai muốn làm việc đó cho anh.
Dĩ nhiên, người ở vị trí tốt nhất để giúp đỡ anh La-da-rô là ông phú hộ. ông có thể dễ dàng bước vào thế giới cô độc và tuyệt vọng của La-da-rô để tiếp xúc với anh. Nhưng ông đã không làm. Ông khép kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm hồn ôn lại.
La-da-rô thuộc vào hàng người nghèo nhất. thế giới nhưng trong một ý nghĩa nào đó, ông phú hộ còn nghèo hơn. Thế nghĩa là thế nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta hiểu điều đó.
Một nhà doanh nghiệp ở San Antonio, Té-xa, đậu chiếc xe đới mới vào lề đường và đi làm một vài công việc, khi ông trờ lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoản mười một tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.
“Thưa ông, có phải chiếc xe này của ông”cậu bé hỏi.
“Phải”, ông ta đáp.
“Nó đép quá. Ông phải trả bao nhiêu tiền để mua nó?”
“Nói thật với chú bé là tôi không biết.”
“Ông muốn nói ông mua nó và không thể nhớ đã trả bao nhiêu?”
“Này chú bé, tôi không nói tôi mua nó. Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi”
“Ông muốn nói bạn ông cho ông và ông không mất một xu nào để mau?”
“Đúng thê”
“Tôi ước gì tôi…”
Nhà doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp
“Tôi ước gì tôi có một người bạn như thế”nhưng câu bé lại nói: “Tôi ước gì tôi có thể là một người bạn như thế.”
Và ông ta kết luận: “đây là mình trong bộ áo quần lòe loẹt với chùm chìa khóa và một chiếc xe đời mớ trong tay. Còn kia là một cậu bé áo quần rách rưới. tuy nhiên tâm hồn cậu bé cho nhiều yêu thương hơn mình. Và trong ý nghĩa đó cậu giàu sang hơn mình… tôi thật sự xúc động đến nỗi lấy xe chở cậu và người bạn của cậu bị chúng sốt tê liệt còn nhỏ làm tay co rút lại, cho cả hai đi một vòng với chiếc xe của tôi. Đó là những giờ hạnh phúc nhất của đời tôi”
Ông phú hộ phải chịu thứ nghèo nàn tệ hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. tâm hồn ông ta trống rỗng lòng thương xót và yêu thương.
Ông không muốn cho La-da-rô dù là những mãnh vụn thức ăn trên bàn của ông. cả những con chó hoang ngoài phố còn tử tế với La-da-rô hơn ông ta.
Người giàu có bị của cải làm tổn thương cũng như người nghèo bị cái nghèo của họ làm tổn thương. “cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu- sự thờ ơ khủng khiếp với người lân cận ngày càng phổ biến”(Mẹ Tê-rê-xa).
Khoản cách giữa ông phú họ và La-da-rô đang phát triền thành một vực thẳm khổng lồ. những đứa trẻ trong thế giới thứ ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một phóng viên hỏi một thiếu niên: “Cháu muốn làm gì với cuộc đời mình?”“cháu muốn sống để nhìn thấy tuổi hai mươi”cậu trả lời như thế.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm C lưu ý đến sự giàu có và những tác hại TN 26-C200
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm C lưu ý đến sự giàu có và những tác hại của nó. Am 6: 1, 4-7
Ngôn sứ A-mốt lên án những người giàu có chỉ lo yến tiệc linh đình và vui hưởng những lạc thú cho riêng mình; họ sẽ sớm biết số phận đau thương đang chờ đợi họ. 1Tm 6: 11-16
Trong đoạn trích thư gởi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô khuyên ông Ti-mô-thê hãy trung thành kiên vững trong niềm tin.
Lc 16: 19-31
Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Số phận của hai người hoàn toàn đảo ngược bên kia nấm mồ.
BÀI ĐỌC I (Am 6: 1, 4-7)
Chúng ta gặp lại ngôn sứ A-mốt, người chăn cừu xứ Giu-đê này. Vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ông đã nhận được sứ mạng đi đến vương quốc miền Bắc để lay động tiếng lương tâm và nhắc lại những yêu sách luân lý của Giao Ước.
Trong đoạn trích Chúa Nhật vừa qua, vị ngôn sứ lên án thói tham lam vô độ và những trò gian dối của những phú thương; trong đoạn trích của Chúa Nhật này, ông tố cáo thái độ dững dưng vô cảm của những bậc quyền cao chức trọng, những kẻ chỉ biết tận hưởng những lạc thú cho thỏa thích mà không lường trước số phận bi thảm đang chờ đợi họ.
1. Cuộc sống thanh bình thịnh vượng giả tạo:
Thành đô Sa-ma-ri nằm trên một ngọn đồi biệt lập có những cánh đồng canh tác, được bao quanh bởi những thung lũng, được bao bọc bên ngoài bởi những bức tường thành kiên cố với những pháo đài vững chắc. Thành đô Sa-ma-ri như một thành trì kiên cố có thể kháng cự bất kỳ những cuộc tấn công từ bên ngoài vào, và quả thật, thành đô này đã kháng cự suốt ba năm trước những cuộc tấn công của đạo quân Át-sua hùng mạnh (723-721 trước Công Nguyên). Hơn nữa, vào thời điểm ngôn sứ A-mốt công bố sứ điệp, cảnh thanh bình ngự trị, vì quyền lực đế quốc Át-sua đang suy yếu. Các tướng lãnh và các quan chức có thể vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị.
Vị ngôn sứ tố cáo sự an toàn phỉnh phờ này. Lý do mà vị ngôn sứ nêu ra thật đơn giản: cách sống gây công phẩn của những bậc quyền quý này sẽ dẫn họ đến sự trừng phạt không chút xót thương.
2. Những thú vui hênh hoang tự đắc:
Với tài mỉa mai châm biếm, ngôn sứ A-mốt mô tả rất hiện thực những yến tiệc linh đình phô bày thói xa hoa vô độ trong những dinh thự lầu đài nguy nga tráng lệ:
“Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác” (6: 4-5).
Những ngôn từ vị ngôn sứ sử dụng có một âm vang đặc biệt: đây là những từ ngữ được vay mượn ở phụng vụ của những bàn tiệc hy tế: chiên non, bê béo, rượu cả bầu, dầu thơm hảo hạng mà người ta dùng trong việc cúng tế. Phải chăng ngôn sứ A-mốt muốn mô tả những bàn tiệc thánh thiêng mà các bậc quyền quý đã lạm dụng? Điều này cũng có thể. Như vậy, ở nơi danh sách liệt kê những bất công mà ông tố cáo, vị ngôn sứ thêm vào những hành vi phạm thánh, thói đạo đức giả. Vả lại, trước đây ông đã nói nhân danh Đức Chúa:
“Lễ lạc của các ngươi, Ta chán ghét khinh thường; hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề thích thú. Các ngươi có dâng lên Ta của lễ toàn thiêu… những lễ vật của các ngươi, Ta không vui nhận, chiên bò béo tốt các ngươi đem hiến tế, Ta chẳng đoái hoài. Hãy dẹp bỏ tiếng đàn hát om sòm của các ngươi, Ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa. Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn” (5: 21-24).
3. Thảm họa không sao tránh khỏi:
Ngôn sứ A-mốt nhắc đi nhắc lại sứ điệp đe dọa của mình:
“Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (6: 7).
Trong cảnh thanh bình thịnh vượng này, sứ điệp của vị ngôn sứ xem ra thật điên rồ. Tuy nhiên, lời đe dọa này sẽ được ứng nghiệm. Quyền lực của đế quốc Át-sua chẳng bao lâu chỗi dậy. Thành đô Sa-ma-ri bị sụp đổ. Vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en, sẽ biến mất vĩnh viễn. Đoàn người Ga-li-lê và Sa-ma-ri bị dẫn đi lưu đày ở Ni-ni-vê, kinh đô của đế quốc Át-sua. Những tiếng kêu của người nghèo đã vang lên tới Chúa.
BÀI ĐỌC II (1Tm 6: 11-16)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi ông Ti-mô-thê. Trong đoạn trích tuần trước, thánh nhân chủ yếu ngỏ lời với cộng đoàn tín hữu Ê-phê-xô; trong đoạn trích mới này, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê một cách riêng tư nhiều hơn.
1. Ngôn từ:
Đoạn này thuộc phần cuối thư. Thánh Phao-lô khuyên, nhưng cũng truyền lệnh, với uy thế mục vụ và tuổi đời của thánh nhân, vì ông Ti-mô-thê vẫn còn trẻ, như thánh nhân viết trong thư này: “Chớ gì đừng coi ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch” (4: 12). Thánh nhân nói một cách hùng hồn với tư cách người Ki-tô hữu, nhưng thỉnh thoảng thánh nhân mượn những ngôn từ thao trường và nhuốm màu sắc lý tưởng Hy-lạp.
Về thể thao, thánh nhân một lần nữa sánh ví cuộc đời Ki-tô hữu với một cuộc chiến đấu vì đức tin cao đẹp, nhằm giành cho bằng được sự sống đời đời, như vận động viên thi đấu trong thao trường ra sức giành cho bằng được vòng nguyệt quế (x. 1Cr 9: 24; Pl 3: 14 và 2Tm 2: 4-5 và 4: 7). Thánh Phao-lô cũng nói với tư cách người Hy-lạp, hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh Chân, Thiện và Mỹ: “Anh hãy lao mình vào cuộc thi đấu cao đẹp… Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp…”. Thánh nhân cũng diễn tả Đức Ki-tô theo cùng một cách như thế: “Đấng đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô”.
Năng lực chiến đấu, ý thức về sự cao đẹp của chân lý Ki-tô giáo, những tâm tình như thế có thể giúp ông Ti-mô-thê trong công việc điều hành Giáo Đoàn của ông, vì ông phải nêu gương sáng.
2. Lời cam kết:
Ông Ti-mô-thê đã được đặt tay tấn phong; ông là “người của Chúa”; ông “đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng” (thánh nhân ám chỉ đến bí tích Truyền Chức của ông Ti-mô-thê), vì thế, cách sống của ông phải đi đôi với lời cam kết của ông: “Hãy cố gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa”.
Tiếp đó, thánh nhân nói bằng một giọng điệu nghiêm nghị hơn: trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Đức Giêsu Ki-tô, phải trung thành, phải bắt chước Đức Giêsu, Ngài đã khẳng định chân tính của mình trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô. Thánh Phao-lô biết rằng trong cộng đoàn Ê-phê-xô có những căng thẳng và vài biện luận rất gần với lạc giáo. Ông Ti-mô-thê phải là vị hướng đạo tinh thần không gì đáng trách. Người ta cảm thấy thánh nhân nghi ngờ những sai lạc đạo lý; vì thế, lời khuyên của thánh nhân mặc lấy một lệnh truyền: “Tôi truyền cho anh: hãy tuân giữ điều răn của Chúa”. Và để có tính thuyết phục hơn, thánh nhân gợi lên ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang, đó sẽ là giờ xử án.
3. Bài thánh thi:
Thánh nhân chấm dứt bằng lời chúc tụng vinh quang Thiên Chúa, một “vinh tụng ca”, xem ra xuất xứ từ Do-thái giáo. Những ngôn từ được mượn ở nơi những lời nguyện phổ biến trong các hội đường thuộc thế giới Hy-lạp. Người ta nhận ra những biểu thức của sách Đệ Nhị Luật như: “Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy, là Đấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ” (Đnl 10: 17) và các Thánh Vịnh như: “Hãy tạ ơn Chúa các chúa” (Tv 136: 3). Thánh nhân sáp nhập chúng vào trong một thị kiến ở đó Đức Giêsu ngự trị. Đức Giêsu này, Đấng đã làm chứng trước tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, thì chính Ngài, Chúa các chúa, sẽ bày tỏ vinh quang “đúng thời đúng buổi”.
TIN MỪNG (Lc 16: 19-31)
Chương 16 Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và kết thúc với dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn các môn đệ về thái độ họ phải có đối với của cải trần thế. Ngài trở nên nghiêm khắc hơn khi kết án không một chút xót thương những người giàu có sử dụng của cải của mình đến mức chỉ biết đến mình mà không quan tâm đến những khốn khổ của anh em đồng loại. Trái lại, người nghèo, chết vì cảnh đời khốn khổ, nhưng được hưởng một số phận hạnh phúc bên kia nấm mồ, đây là lời ngợi khen về đức nghèo khổ.
1. Một bức tranh đảo ngược:
Hai cảnh đời được mô tả rất tương phản giữa người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ. Người giàu có “mặc toàn gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”; còn anh La-da-rô khốn khổ, mình đầy ghẻ chốc, nằm trước cổng nhà người giàu này, cứ chờ đợi những mẩu bánh thừa rơi xuống từ bàn tiệc của người giàu. Bức tranh lại càng thêm bi thảm hơn nữa khi kể: “Lại thêm bầy chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”. Như chúng ta biết, đối với người Do thái, con chó là một con vật ô uế.
“Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham”: Đây là kiểu nói Kinh Thánh để chỉ người công chính được chết lành và được đưa vào nơi an nghỉ cùng với các tổ tiên trong khi chờ đợi được sống lại. Không có bất kỳ đức hạnh nào của người nghèo được kể ra. “Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn”: Đây là kiểu nói bình dân để chỉ cái chết của những người chẳng có đức độ gì. Ngoài ra, hình ảnh Kinh Thánh được sử dụng ở đây là “lửa”, lửa phán xét mà các ngôn sứ và chính Gioan Tẩy Giả đã nhiều lần loan báo.
2. Tội của người giàu có:
Vậy thì tội của người giàu này là gi? Ông không hất hủi xua đuổi anh La-da-rô, cũng không buông lời mắng nhiếc thóa mạ anh. Tội của người giàu chính là thái độ thờ ơ lãnh đạm nhắm mắt làm ngơ trước những nỗi khốn khổ của người anh em đồng loại của mình. Vì thế, kẻ đã không bố thí cho người cùng khổ vài mẩu bánh thừa từ bàn rơi xuống, thì cũng sẽ không được ban cho một giọt nước nào trên lưỡi để làm dịu cơn khát trong chốn trầm luân. Điều này gợi nhớ câu nói của Đức Giêsu trong dụ ngôn “cuộc phán xét sau cùng”, trong đó Ngài đã đồng hóa mình với những người bất hạnh: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25: 42-43).
Ở nơi hoàn cảnh đảo ngược này, chúng ta gặp lại bức tranh bộ đôi tương phản khi thánh Lu-ca đã trình bày các Mối Phúc:
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng, vân vân”.
Trái lại:
“Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói, vân vân” (Lc 6: 20-26).
3. Sự tự do của con người:
Qua hai hình tượng: trên thiên đàng và dưới hỏa ngục, cuộc đối thoại giữa tổ phụ Áp-ra-ham và người giàu có, khai mở một trong những giáo huấn chính yếu của Tin Mừng. Trước lời van xin của người giàu có: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát…”, vị tổ phụ đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại; suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”.
Còn về việc ông cầu xin cho anh La-da-rô đến cảnh báo những anh em của ông hiện đang sống trên dương thế, thì không cần thiết. Thiên Chúa đã ban sẵn cho họ những phương tiện tất yếu cần cho ơn cứu độ rồi: “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Không cần thiết phải sai người chết sống lại về báo: “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà chúng còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Như vậy, chúng ta gặp lại thái độ của Đức Giêsu đối với những người Pha-ri-sêu thù nghịch: Ngài đã từ chối dấu lạ mà họ đòi hỏi. Lời của Ngài thì đủ cho họ rồi… Từ đó, hai bài học được rút ra: một đằng, lòng chai dạ đá của những người giàu có: “Họ chẳng chịu nghe đâu”; mặt khác, Thiên Chúa kính trọng sự tự do lương tâm của mỗi người.